II. 1921 - 1928

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ranfơ

3.8

     - Jilênbôun là ở đâu nhỉ? - Xtiua hỏi.

     Họ lôi ra một tập bản đồ địa lý cũ. Tuy gia đình luôn luôn túng thiếu, nhưng ở bếp phía sau bàn ăn có mấy giá sách. Mấy thằng bé chúi mũi vào những tờ giấy đã ố vàng với thời gian và cuối cùng đã tìm thấy Niu Xaođơ Wênx. Đã quen với những khoảng cách nhỏ ở Niu Zilơn, họ không nghĩ tới việc đối chiếu với tỷ lệ ghi ở góc phía dưới bên trái tấm bản đồ. Tất nhiên họ quyết đoán rằng Niu Xaođơ Wênx không to hơn đảo Bắc của Niu Zilơn. Ở góc bên trái phía trên tấm bản đồ đã tìm thấy cả Jilênbôun - có lẽ nó cách Xitnây không xa hơn khoảng Uônganui và Ôklenđơ, tuy những vòng tròn và những chấm - cách thành phố - ít gặp hơn nhiều so với bản đồ Đảo Bắc.

     - Tấm bản đồ này cũ lắm rồi. - Petđi nói. - Úc giống như Mỹ, nso không phát triển từ từ, mà nhảy vọt. Bây giờ ở đấy chắc hẳn có nhiều thành phố hơn.

      Đi tàu thủy sẽ phải lấy vé hạng tư, nhưng chẳng sao, vẻn vẹn có ba ngày thôi mà. Đâu phải đằng đẵng hàng tuần như khi  từ Anh sang bán cầu kia. Chỉ có thể mang theo áo quần, bát đĩa, chăn nệm, đồ dùng làm bếp và thứ của báu này - sách; giường tủ thì phải bán, không thì không đủ tiền để chuyên chở số đồ vật ít ỏi bày biện phòng khách của Fiôna - chiếc đàn clavêxin của chị, thảm, ghế.

     - Tôi không để cho mình từ bỏ những thứ đó đâu. - Petđi tuyên bố dứt khoát với vợ.

     - Nhưng khoản phí tổn ấy có vừa túi chúng ta không?

     - Khỏi lo. Còn về các đồ đạc khác thì Meri viết rằng họ sẽ chuẩn bị cho chúng ta ngôi nhà của người quản cừu trước kia, ở đấy có tất cả những gì chúng ta có thể cần đến. Tôi lấy làm mừng rằng chúng ta không phải sống chung dưới một mái nhà với bà ta.

     - Tôi cũng thế, - Fia nói.

     Petđi đi Uônganui và lấy vé ngăn buồng tám chỗ hạng tư trên tàu "Uekhainơ"; kì lạ, con tàu cùng tên với thành phố gần họ nhất. Tàu khởi hành vào cuối tháng tám, và ngay từ đầu tháng mọi người đã bắt đầu hiểu rằng thực đang xảy ra một biến cố trọng đại. Cần phải bán chó, bán ngựa, cỗ xe hai bánh, chất bàn ghế giường tủ lên xe tải của ông già Engux Măc Uectơ và đem đi bán ở Uônganui, còn một số đồ vật thuộc số hồi môn của Fiôna thì đóng gói cùng với bát đĩa, chăn nệm, sách và đồ dùng làm bếp.

     Frenk bắt gặp mẹ ở cạnh cỗ đàn clavêxin cổ xinh đẹp - mẹ vuốt ve lớp gỗ màu hồng nhạt có đường vân mảnh và trầm ngâm nhìn những vệt thếp vàng để lại bụi phấn trên ngón tay.

     - Cây đàn clavêxin này xưa nay vẫn là của mẹ ư, hả mẹ? - Frenk hỏi.

     - Ừ. Người ta không thể lấy được đồ riêng của mẹ khi mẹ đi lấy chồng. Cây đàn clavêxin này, những tấm thảm Batư, chiếc đi văng và những chiếc ghế theo kiểu thời Lu-i mười lăm, cái bàn viết nhỏ thời Nhiếp chính. Không nhiều nhặn gì, nhưng tất cả những cái đó, theo luật định, là của mẹ.

     Cặp mắt xám buồn rầu của chị lướt qua bên Frenk, nhìn lên tường, nhìn bức chân dung sơn dầu - thời gian đã làm cho màu sắc hơi nhạt đi, nhưng vẫn còn có thể nhận rõ một người phụ nữ tóc vàng óng ánh mặc bộ y phục lộng lẫy bằng hàng ren màu hồng nhạt hết sức mềm mại - chiếc váy phồng và vô số đường viên.

     Frenk quay lại và cũng nhìn bức chân dung.

     - Người nào đấy, hả mẹ? - Frenk hỏi với vẻ tò mò. - Con vẫn muốn hỏi mẹ từ lâu rồi.

     - Một phu nhân quyền quí.

     - Chắc là có họ hàng với mẹ. Hao hao giống mẹ.

     - Mẹ và bà ấy là chỗ họ hàng ư? - Fia ngừng ngắm bức chân dung và nhìn con trai với vẻ giễu cợt. - Chẳng lẽ nom mẹ mà mường tượng được là mẹ có thể có người họ hàng như thế ư?

     - Vâng.

     - Nghĩ lại đi, đầu óc con rối loạn đấy.

     - Mẹ nên kể cho con rõ mọi chuyện đúng thực là thế nào đi, mẹ ạ.

     Fia thở dài, đóng nắp đàn clavêxin, phủi bụi phấn vàng ở ngón tay.

     - Chẳng có gì mà kể, chẳng có gì hết. Hãy giúp mẹ chuyển những đồ vật này  ra giữa phòng, rồi ba sẽ đóng gói.

     Việc di chuyển quả là một khổ hình thực sự. Ngay từ trước khi tàu "Uekhainơ" rời khỏi cảng Wenlinhtơn, cả nhà đã say sóng biển và cơn say sóng chỉ hoàn toàn buông thả họ khi tàu đã bỏ lại đằng sau một ngàn hai trăm hải lý biển mùa đông bão tố. Petđi đưa các con trai lên boong và giữ chúng ở đấy, trong gió quất dữ dội và chốc chốc bọt sóng lại táp lên, chỉ khi có một người nào tốt bụng nhận trông nom giúp những đứa con trai khốn khổ mệt phờ vì nôn mửa, anh mới xuống khoang buồng tàu thăm vợ, con gái và đứa hài nhi. Frenk cũng khao khát một hớp không khí tươi mát, nhưng cậu vẫn ở lại với mẹ và Mecghi. Ngăn buồng tàu ngột ngạt nồng nặc mùi dầu hỏa, nó ở dưới đường mớn nước, gần mũi và chòng chành rất dữ.

     Sau mấy giờ đi biển đầu tiên, Frenk và Mecghi đinh ninh là mẹ sắp chết. Bác sĩ, do người nhân viên phục vụ đầy lo lắng mới từ khoang hạng nhất xuống, rầu rĩ lắc đầu:

     - Còn may là chuyến đi không dài. - Ông nói và bảo cô y tá đem sữa đến cho đứa hài nhi.

     Giữa những cơn say sóng biển, Frenk và Mecghi đã khéo tìm cách cho Hen bú sữa bằng chai (tuy nó cưỡng lại, không chịu ngậm đầu vú). Fiôna không nôn nữa, chị nằm như chết, và người nhà không thể làm cho chị tỉnh lại. Xtiua giúp Frenk đặt mẹ lên giường trên, ở đó dễ thở hơn, và Frenk áp chặt chiếc khăn tay vào miệng vì chính cậu cũng hơi rộn rực muốn lộn mửa, cậu ngồi ghé xuống mép giường  và vén đám tóc vàng óng ánh trên trán mẹ. Dù yếu mệt thế nào đi nữa, cậu vẫn ở vị trí của mình hàng giờ: lần nào Frenk cũng bắt gặp trong ngăn buồng tàu và vẫn cảnh tưởng ấy: cậu ngồi cạnh mẹ và vuốt tóc mẹ, còn Mecghi, miệng nhét chiếc khăn tay, co quắp ở giường dưới, cạnh Hen.



Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro