VỤ TAI TIẾNG XỨ BOHEMIA(A Scandal in Bohemia, 1891)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

I.

Đối với Sherlock Holmes, cô ta luôn là Người phụ nữ ấy. Tôi hiếm khi thấy anh nhắc đến cô ta bằng bất kì tên gọi nào khác. Trong mắt anh, cô ta nổi bật và làm lu mờ tất cả những người phụ nữ khác. Không phải anh có bất kì cảm xúc nào na ná tình yêu đối với Irene Adler. Mọi cảm xúc, nhất là tình yêu, đều bị bộ óc lạnh lùng, chính xác và cân bằng đến đáng ngưỡng mộ của anh căm ghét. Theo đánh giá của tôi, anh là cỗ máy quan sát và lập luận hoàn hảo nhất từ trước đến nay, nhưng lại không hợp với vai trò một người yêu. Anh chưa bao giờ nói về những xúc cảm ủy mị mà không kèm theo lời chế giễu và nụ cười khinh mạn. Đối với người quan sát, cảm xúc là công cụ hỗ trợ đắc lực, giúp vén tấm màn che giấu động cơ và hành động của con người. Nhưng với nhà suy luận sành sỏi thì việc để cho những yếu tố này thâm nhập vào tâm trí bén nhạy và cân chỉnh tinh vi của anh ta chỉ tổ gây sao nhãng và gieo mối hoài nghi lên toàn bộ kết quả tư duy. Một hạt sạn trong một thiết bị rất nhạy hay một vết nứt trên thấu kính hiển vi cũng không gây nhiễu loạn ghê gớm bằng một cảm xúc mãnh liệt nảy sinh ở một người có bản tính như anh. Nhưng với anh chỉ có một người phụ nữ, đó là người phụ nữ mang nhũ danh Irene Adler, trong kí ức mơ hồ, lãng đãng.

Dạo gần đây tôi ít gặp Holmes. Từ khi tôi lấy vợ, chúng tôi sống mỗi người một ngả. Niềm hạnh phúc riêng tư trọn vẹn và những mối bận tâm đến việc nhà nảy sinh quanh người đàn ông lần đầu làm trụ cột gia đình đã chiếm trọn sự quan tâm của tôi. Còn Holmes, với tâm hồn phóng khoáng, căm ghét mọi hình thái giao tiếp, vẫn trọ ở căn nhà chúng tôi thuê trên đường Baker, vùi đầu vào đống sách cũ và hết tuần này sang tuần khác say trong cocaine hoặc trong ham muốn được sử dụng khả năng suy luận sắc sảo của mình. Anh vẫn bị cuốn vào việc nghiên cứu tội phạm, vẫn dồn trí óc nhạy bén cùng tài quan sát tinh tường để lần theo dấu vết và làm sáng tỏ những bí ẩn mà cảnh sát đã cúi đầu chào thua. Thỉnh thoảng tôi lại loáng thoáng nghe được một vài tin về anh: Tới Odessa phá vụ án tay sát nhân Trepoff, làm sáng tỏ tấn bi kịch của anh em nhà Atkinson ở Trincomalee và cuối cùng là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ do hoàng gia Hà Lan giao phó. Nhưng ngoài ra, tôi chẳng biết gì thêm về người bạn và cộng sự cũ của mình.

Tối ngày 20 tháng 3 năm 1888, trên đường thăm bệnh về nhà (dạo này tôi chuyển sang làm bác sĩ tư), tôi đi ngang qua phố Baker. Khi bước ngang qua cánh cửa quen thuộc gắn liền với thời gian tôi theo Holmes đi phá án và với những tình tiết đáng sợ của vụ Cuộc điều tra màu đỏ, tôi đột nhiên khao khát được gặp lại Holmes, được biết anh đang sử dụng năng lực phi thường của mình như thế nào. Phòng của anh vẫn sáng đèn và khi ngước nhìn lên, tôi thấy cái bóng cao gầy của anh bước qua lại hai lần in trên rèm cửa. Anh đang sải những bước nhanh nhẹn, hăm hở, đầu cúi gằm và tay chắp sau lưng. Đối với một người hiểu rõ tâm tính và thói quen của anh như tôi, tư thế và dáng vẻ của anh cho biết anh đang làm việc. Anh đã tỉnh lại sau những cơn mê do tác động của ma túy và giờ đang bừng bừng nhiệt huyết vì một vụ án mới. Tôi bấm chuông và được dẫn vào căn phòng mà trước kia mình sở hữu một phần.

Thái độ của anh có vẻ không nồng nhiệt lắm. Anh vẫn thường tỏ ra như vậy, nhưng tôi nghĩ anh vui khi thấy tôi. Không nói lấy một lời nhưng với ánh mắt ân cần, anh vẫy tay ra chiều bảo tôi ngồi xuống ghế, ném cho tôi hộp xì gà và chỉ vào một két rượu mạnh và bình tạo soda nằm ở góc phòng. Đoạn, anh ra đứng trước lò sưởi và ngắm nghía tôi theo cách quan sát đánh giá kì quặc của mình.

"Hôn nhân có lợi cho anh đấy", anh nhận xét. "Watson này, tôi cho là anh đã tăng gần bảy pound rưỡi so với lần gặp mặt trước."

"Chỉ bảy pound thôi!" Tôi đáp.

"Ồ, đáng ra tôi nên nghĩ kĩ hơn. Anh phải tăng nhiều hơn thế, Watson ạ. Và tôi nhận thấy anh đã hành nghề trở lại. Anh không hề cho tôi biết anh có ý định đó đấy nhé."

"Sao anh biết?"

"Tôi nhìn thấy, tôi suy luận. Nếu không sao tôi biết gần đây anh bị ướt như chuột lột và anh có một cô giúp việc vụng về cẩu thả nhất thiên hạ?"

"Holmes thân mến", tôi nói. "Thật không tin nổi. Nếu anh sống cách đây vài thế kỉ, chắc chắn anh sẽ bị đưa lên giàn hỏa thiêu thôi. Quả đúng là hôm thứ năm vừa rồi, tôi đi dạo ở miền quê và về nhà trong bộ dạng nhếch nhác vô cùng, nhưng vì tôi đã thay quần áo nên tôi không tài nào tưởng tượng ra làm sao anh đoán được. Còn về Mary Jane, cô ta quả là quá cẩu thả, và vợ tôi đã cho cô ta nghỉ việc. Nhưng sao anh đoán ra?"

Anh cười tủm tỉm và xoa hai bàn tay dài vào nhau. "Rất dễ dàng", anh nói, "đôi mắt bảo tôi rằng tại phần da má trong của chiếc giày bên trái của anh, ngay chỗ ánh lửa chiếu vào, có sáu vết xước gần như song song. Rõ ràng chúng là do ai đó bất cẩn khi chà bùn khô quanh mép gót giày gây ra. Như thế chứng tỏ anh vừa gặp thời tiết xấu vừa có một cô hầu gái chăm rạch giày chủ nhất London. Còn về chuyện hành nghề của anh thì, nếu một quý ông bước vào nhà tôi sực nức mùi iốt, có một chấm bạc nitrat trên ngón trỏ bàn tay phải và một chỗ phình ở bên phải cái mũ chóp cao - đó là nơi anh ta giấu ống nghe - thì tôi hẳn phải tối dạ lắm mới không biết anh ta là đồ đệ của Hippocrates."

Tôi không thể nhịn cười trước cách Holmes giảng giải. "Khi tôi nghe các suy luận của anh", tôi nhận xét, "tôi luôn thấy sự việc quá ư đơn giản, ngay đến tôi cũng suy đoán được. Nhưng hễ anh đưa ra ví dụ mới, tôi lại mù tịt tới khi được nghe anh giảng giải. Tuy vậy, tôi vẫn cho là mắt tôi tốt chẳng kém gì mắt anh."

"Quả vậy", anh đốt một điếu thuốc và buông mình ngồi xuống ghế. "Anh nhìn thấy, nhưng anh không quan sát. Đó là hai vấn đề hoàn toàn khác biệt. Ví dụ nhé, anh thường trông thấy những bậc thang dẫn từ tiền sảnh lên căn phòng này chứ?"

"Thường xuyên."

"Đến mức nào?"

"À, có đến hàng trăm lần."

"Thế có bao nhiêu bậc?"

"Bao nhiêu à? Tôi không biết!"

"Đó! Anh nhìn thấy nhưng anh không quan sát. Ý của tôi là vậy đấy. Về phần tôi, tôi biết có mười bảy bậc thang, bởi tôi vừa nhìn vừa quan sát. Nhân tiện, vì anh quan tâm đến những vấn đề nho nhỏ này và thường ghi chép một hai lần phá án lặt vặt của tôi nên có lẽ anh sẽ quan tâm đến cái này." Anh ném cho tôi một tờ giấy màu hồng dày dặn để mở sẵn trên bàn từ trước. "Nó vừa được đưa tới", anh nói. "Hãy đọc to lên."

Mảnh giấy không đề ngày, và cũng chẳng có cả chữ kí hay địa chỉ:

Sẽ đến gặp ông tối nay, vào lúc 8 giờ kém 15 phút. Một quý ông mong được ông tư vấn về một vấn đề vô cùng quan trọng. Lần gần đây nhất ông phục vụ cho một trong các hoàng gia Âu châu cho thấy ông là người đáng tin cậy để phó thác những vấn đề trọng đại khôn kể xiết. Thành tích này của ông chúng tôi đã từ khắp nơi nghe thấy. Vậy, hãy ở trong phòng của ông vào giờ đã hẹn, và đừng phật ý nếu vị khách của ông đeo mặt nạ.

"Lá thư quả là bí hiểm", tôi nhận xét. "Theo anh, nó có ý nghĩa gì?"

"Tôi chưa có dữ kiện. Đưa ra giả thuyết trước khi có dữ kiện là một lỗi vô cùng tai hại, khiến ta vô tình bóp méo sự việc cho phù hợp với giả thuyết, thay vì ngược lại. Nhưng anh có suy đoán gì về bản thân tờ giấy này không?"

Tôi cẩn thận xem xét nét chữ rồi đến tờ giấy. "Có thể đoán người đàn ông viết lá thư này khá sung túc", tôi cố bắt chước cách suy luận của bạn mình. "Loại giấy này ít ra cũng phải nửa crown một xấp. Nó dày và cứng khác thường."

"Khác thường... quả vậy", Holmes nói. "Hoàn toàn không phải là loại giấy sản xuất ở nước Anh. Anh thử giơ ra trước ánh sáng mà xem."

Tôi làm theo và nhìn thấy một chữ E hoa cùng một chữ g thường, một chữ P và một chữ G hoa với một chữ t in chìm trong giấy.

"Anh suy ra điều gì nào?" Holmes hỏi.

"Chắc chắn đây là tên của nhà sản xuất, hay đúng hơn là chữ viết tắt tên ông ta."

"Sai bét. Chữ G đi cùng chữ t là viết tắt của Gesellschaft - công ty trong tiếng Đức, giống như Co. ở nước mình. Còn chữ P tất nhiên là viết tắt của Papier. Bây giờ đến Eg. Ta hãy tra trong Từ điển địa lí Âu châu." Anh lấy từ trên kệ xuống một pho sách nặng trịch có bìa màu nâu. "Eglow, Eglonitz... à đây rồi, Egria. Đó là một vùng nói tiếng Đức ở xứ Bohemia. cách Carlsbad không xa. Nổi tiếng vì Wallenstein đã tạ thế tại đó, và nhờ có nhiều nhà máy sản xuất giấy và thủy tinh. Ha ha, anh bạn, anh có thấy gì không?" Mắt anh sáng lấp lánh và anh đắc thắng nhả một làn khói thuốc.

"Vậy đây là loại giấy được sản xuất tại Bohemia", tôi nói.

"Chính xác. Và người viết thư là người Đức. Anh để ý thấy cấu trúc kì lạ của câu: 'Thành tích này của ông chúng tôi đã từ khắp nơi nghe thấy' này chứ? Người Pháp hay người Nga sẽ không viết thế. Chỉ có người Đức mới dùng động từ ở cuối câu. Vậy chúng ta chỉ còn phải tìm hiểu xem cái ông người Đức sử dụng loại giấy xuất xứ Bohemia và thích đeo mặt nạ này muốn gì. Và nếu như tôi không lầm thì ông ta đã tới giải đáp mọi nghi vấn của chúng ta rồi."

Như để minh chứng cho lời anh, tiếng vó ngựa lọc cọc, tiếng bánh xe nghiến trên đường, tiếng chuông lanh canh lần lượt vang lên. Holmes huýt sáo.

"Xe song mã, nếu xét theo tiếng động", anh nói. "Đúng thế", anh nhìn ra ngoài cửa sổ rồi nói tiếp. "Một cỗ xe xinh xắn và một đôi ngựa đẹp. Phải tới một trăm năm mươi guinea mỗi con. Nếu không gặp trở ngại nào thì vụ này sẽ kiếm được khá tiền đây, Watson thân mến ạ."

"Holmes, tôi nghĩ mình nên về."

"Trái lại là khác. Bác sĩ cứ ngồi yên đó đã. Không có sự hỗ trợ của anh, tôi sẽ chẳng làm được gì. Và vụ này có vẻ thú vị đấy. Bỏ qua tiếc lắm."

"Nhưng còn ông khách của anh..."

"Đừng để ý đến ông ta. Có thể tôi, và có lẽ cả ông ta đều cần sự trợ giúp của anh. Ông ta đến rồi. Bác sĩ hãy ngồi vào cái ghế đó và tập trung nhé."

Có tiếng bước chân chậm rãi và nặng nề vang lên trên cầu thang và trong hành lang rồi ngừng lại ngay ngoài cửa phòng. Sau đó chúng tôi nghe thấy một tiếng gõ cửa mạnh mẽ và uy quyền.

"Mời vào!" Holmes nói.

Người đàn ông bước vào dễ chừng cao không dưới sáu foot sáu, lồng ngực và tay chân lực lưỡng như Hercules, ông ta mặc trang phục diêm dúa đáng bị xem là kém thẩm mĩ ở Anh. Những dải viền lông ở hai tay áo và vạt trước của chiếc áo bành tô cài chéo, còn cái áo choàng không tay màu xanh thẫm khoác trên vai ông ta được viền lụa màu đỏ cam, cài lại tại cổ bằng ghim cài áo đính một viên ngọc beryl sáng chói. Đôi ghệt cao đến nửa bắp vế, viền lông thú màu nâu đắt tiền càng tăng thêm ấn tượng về sự hào nhoáng toát lên từ tổng thể ngoại hình của ông ta. Ông ta cầm cái mũ rộng vành trên tay và đeo chiếc mặt nạ đen che đến quá xương gò má. Có vẻ nó mới được chỉnh lại vì bàn tay ông ta hãy còn giơ lên khi bước vào phòng. Nửa dưới khuôn mặt khoe ra những đường nét mạnh mẽ, với đôi môi dày và cái cằm dài thẳng, cho thấy ông ta là người cương nghị tới mức hơi bướng bỉnh.

"Ông nhận được thư của tôi rồi chứ?" Ông ta hỏi bằng giọng nói trầm khàn, thô ráp và đặc khẩu âm Đức. "Tôi đã báo trước sẽ ghé đến." Ông ta lần lượt nhìn hai chúng tôi và có vẻ không biết đối tượng nói chuyện của mình là ai.

"Mời ông ngồi", Holmes nói. "Bác sĩ Watson đây là bạn và cũng là cộng sự của tôi. Anh ấy đôi khi cũng giúp đỡ tôi khá đắc lực trong một số vụ. Và tôi đang vinh hạnh được hầu chuyện ai đây?"

"Ông cứ gọi tôi là bá tước von Kramm, quý tộc xứ Bohemia. Tôi hiểu rằng, vị này, bạn ông là một người đáng trọng, người tôi có thể tin cậy để nói ra một vấn đề cực kì trọng đại. Nếu không đúng như thế thì tôi muốn nói chuyện với một mình ông thôi."

Tôi nhổm dậy định đi ra nhưng Holmes đã nắm lấy cổ tay tôi và đẩy tôi trở lại ghế. "Nói chuyện với cả hai, hoặc là không", anh nói. "Ông có thể nói trước mặt người này bất cứ điều gì ông muốn nói với tôi."

Ông bá tước nhún đôi vai rộng. "Vậy trước hết", ông ta nói, "tôi buộc phải yêu cầu cả hai ông tuyệt đối giữ bí mật trong hai năm; sau thời gian đó, vấn đề sẽ không còn quan trọng. Còn hiện tại, nếu tôi nói nó có thể ảnh hưởng tới lịch sử của toàn Âu châu cũng không ngoa."

"Tôi hứa", Holmes nói.

"Tôi cũng vậy."

"Xin cho tôi được mạn phép đeo chiếc mặt nạ này", vị khách kì lạ của chúng tôi tiếp tục. "Ông chủ uy nghi của tôi muốn kẻ tôi đòi là tôi đây phải giữ kín danh tính, và tôi cũng xin phép được thú thật, cái tước hiệu tôi vừa xưng ban nãy không hẳn là của tôi."

"Tôi biết mà", Holmes đáp tỉnh bơ.

"Tình huống vô cùng tế nhị, và tôi cần hết sức cẩn trọng để tránh biến vụ việc thành một vụ tai tiếng lớn đe dọa tới một trong các hoàng gia Âu châu. Nói trắng ra, vấn đề này có liên quan đến dòng họ Ormstein vĩ đại, những vị vua kế thừa xứ Bohemia."

"Tôi cũng biết điều này rồi", Holmes nói nhỏ rồi buông mình ngồi xuống ghế và nhắm mắt lại.

Vị khách của chúng tôi lộ vẻ kinh ngạc, vội liếc nhìn người có dáng điệu uể oải mà hẳn ông ta đã nghe nói là nhà suy luận sắc sảo nhất và là thám tử năng động nhất Âu châu.

Holmes chậm rãi mở mắt và cau có nhìn thẳng vào ông khách cao lớn. "Bệ hạ phải hạ cố nói rõ vấn đề ra", anh nói, "có vậy thì tôi mới nêu ý kiến được."

Người đàn ông bật khỏi ghế và sải bước đi lại trong phòng với vẻ bối rối không kiểm soát nổi. Rồi, ông ta buồn bực giật chiếc mặt nạ và ném mạnh xuống sàn nhà.

"Ông nói đúng", ông ta hét lên. "Ta là vua kia mà. Sao ta phải giấu thân phận chứ?"

"Đúng vậy, sao bệ hạ phải giấu chứ?" Holmes khẽ giọng. "Không cần bệ hạ nói, tôi cũng đoán được mình đang hầu chuyện ngài Wilhelm Gottsreich Sigisihond von Ormstein, đại công tước xứ Cassel Felstein và là vua kế vị xứ Bohemia."

"Nhưng ông phải thông cảm cho", vị khách kì lạ của chúng tôi nói khi ngồi lại vào ghế và đặt tay lên trán, "ta không quen tự mình xử lí những việc thế này. Và vì vấn đề quá tế nhị nên ta không dám để ai thay ta ra mặt. Như vậy, ta sẽ giao an nguy của mình vào tay kẻ khác mất. Ta đã âm thầm đi từ Prague đến đây để nhờ ông tư vấn."

"Vậy xin bệ hạ hãy nêu vấn đề", Holmes nói và lại nhắm mắt.

"Sự việc chỉ đơn giản thế này! Khoảng năm năm trước, trong một chuyến viếng thăm Warsaw dài ngày, ta đã quen một gái bao hạng sang tên là Irene Adler. Hẳn cái tên này không xa lạ gì với ông."

"Bác sĩ làm ơn tìm tên cô ta trong quyển danh mục", Holmes khẽ nói mà vẫn không buồn mở mắt. Từ nhiều năm nay, anh đã gây dựng một hệ thống ghi chép về người và việc, vì thế khó có sự việc hay nhân vật nào mà anh không thể cung cấp ngay tư liệu. Trong trường hợp này, tôi tìm thấy tiểu sử của cô ta nằm giữa phần tiểu sử của một học giả Do Thái và một vị sĩ quan tham mưu đã soạn một chuyên khảo về các loại cá biển sâu.

"Đưa tôi xem nào", Holmes nói. "Hừm! Sinh ở New Jersey vào năm 1858. Giọng nữ trầm... hừm! Từng biểu diễn ở La Scala... hừm!... nữ ca sĩ chính của nhà hát opera Hoàng gia Warsaw... phải! Đã giã từ sân khấu... ha! Sống tại London... thế đấy! Thưa bệ hạ, theo như tôi hiểu thì ngài từng có thời yêu đương với cô gái này, từng viết cho cô ta những lá thư thề non hẹn biển, và giờ bệ hạ muốn lấy lại chúng."

"Chính xác. Nhưng làm sao...?"

"Hai người có bí mật kết hôn không?"

"Không."

"Không có giấy tờ pháp lí hay giấy chứng nhận nào chứ?"

"Không."

"Thế thì tôi không hiểu nổi, thưa bệ hạ. Nếu cô gái muốn dùng những lá thư đó để tống tiền hoặc cho những mục đích nào khác, làm sao cô ta có thể chứng minh tính xác thực của chúng?"

"Có chữ viết của ta."

"Chẳng sao! Giả mạo được."

"Loại giấy viết thư của riêng ta."

"Đánh cắp được."

"Con dấu của riêng ta."

"Bắt chước được."

"Tấm hình của ta."

"Mua được."

"Nhưng đó là hình ta chụp chung với cô ta."

"Ôi trời! Tệ rồi đây! Bệ hạ hớ hênh quá!"

"Lúc đó ta quá cuồng si."

"Bệ hạ làm hại mình trầm trọng rồi."

"Lúc đó ta mới là thái tử. Hãy còn trẻ. Giờ ta đã ba mươi rồi!"

"Phải lấy lại tấm hình đó."

"Đã thử nhưng thất bại."

"Vậy bệ hạ hãy bỏ tiền ra chuộc lại."

"Cô ta sẽ không bán."

"Vậy thì trộm."

"Đã thử năm lần rồi. Hai lần ta thuê bọn trộm lục lọi nhà cô ta. Một lần nhân lúc cô ta đi du lịch, ta cho người thó hành lí của cô ta. Hai lần cô ta bị tấn công bất ngờ. Nhưng đều chẳng thu được gì."

"Đều không thấy tăm hơi tấm hình đâu?"

"Hoàn toàn không."

Holmes cười phá lên. "Đây chỉ là một vấn đề nho nhỏ thôi mà", anh nói.

"Nhưng lại là một vấn đề rất nghiêm trọng với ta", vị vua đáp lại vẻ trách móc.

"Quả vậy. Và cô ta định làm gì với tấm hình đó?"

"Hại ta."

"Nhưng bằng cách nào?"

"Ta sắp kết hôn."

"Tôi có nghe nói!"

"Ta sắp kết hôn cùng Clotilde Lothman von Saxe Meningen, con gái thứ hai của hoàng đế Scandinavia. Có lẽ ông đã biết về các phép tắc nghiêm ngặt của gia đình nàng. Bản thân nàng cũng rất nhạy cảm. Chỉ cần một chút nghi ngờ về tư cách đạo đức của ta cũng đủ đặt dấu chấm hết cho hôn sự này."

"Thế còn Irene Adler?"

"Đe dọa sẽ gửi tấm hình cho họ, và ta chắc chắn cô ta sẽ thực hiện, ông không biết cô ta, nhưng đó là một con người sắt đá. Cô ta có khuôn mặt của tuyệt sắc giai nhân nhưng lại sở hữu trí tuệ của trang nam nhi kiên định nhất. Cô ta luôn nói là làm. Vậy nên ta đừng hòng kết hôn với người khác, nếu không cô ta sẽ không từ thủ đoạn để ngăn cản."

"Bệ hạ chắc là cô ta vẫn chưa gửi tấm hình chứ?"

"Ta đoán chắc."

"Tại sao?"

"Vì cô ta đã nói sẽ gửi nó vào ngày tuyên bố hứa hôn. Đó là thứ hai tuần tới."

"Ồ, vậy chúng ta còn ba ngày", Holmes vừa nói vừa ngáp. "Thật là may mắn vì lúc này tôi còn phải xem xét một vài vấn đề quan trọng nữa. Hẳn bệ hạ vẫn lưu lại London chứ?"

"Chắc chắn rồi. Ta ở khách sạn Langham, dưới tên bá tước von Kramm."

"Thế tôi sẽ nhắn bệ hạ vài chữ để ngài biết tiến trình công việc ra sao."

"Làm vậy đi. Ta sẽ nóng ruột lắm đấy."

"Vậy còn thù lao?"

"Ông sẽ được một Carte blanche."

"Chắc chắn chứ?"

"Đảm bảo với ông, ta sẵn sàng mất một tỉnh lị của vương quốc để có tấm hình đó."

"Còn chi phí trước mắt?"

Nhà vua lấy từ dưới vạt áo choàng không tay ra một cái túi nặng làm bằng da sơn dương rồi đặt lên bàn.

"Ở đây có ba trăm bảng tiền vàng và bảy trăm bảng tiền giấy", ông ta nói.

Holmes viết vội biên nhận lên một tờ giấy trong cuốn sổ tay rồi trao cho ông ta.

"Còn địa chỉ của cô nàng?" Anh hỏi.

"Biệt thự Briony, đại lộ Serpentine, St. John's Wood."

Holmes ghi lại địa chỉ. "Xin hỏi một câu nữa", anh nói. "Tấm hình cỡ 10x16 phải không?"

"Đúng vậy."

"Được rồi, xin chúc bệ hạ ngủ ngon và tôi sẽ sớm có tin tốt lành cho ngài."

"Chúc ngủ ngon, Watson", anh nói thêm khi cỗ xe hoàng gia lăn bánh xuống phố. "Nếu 3 giờ chiều mai anh chịu khó ghé lại đây, tôi sẽ chuyện gẫu với anh về vấn đề nho nhỏ này."

II.

Đúng 3 giờ chiều, tôi có mặt ở phố Baker nhưng Holmes chưa về. Bà chủ nhà báo cho tôi hay sáng nay anh đã ra khỏi nhà vào lúc 8 giờ hơn. Tuy vậy, tôi vẫn ngồi đợi cạnh lò sưởi cho dù có lâu mấy đi nữa. Vụ điều tra này thu hút sự quan tâm của tôi, vì mặc dù nó không có yếu tố ghê rợn và lạ lùng như hai vụ án tôi từng ghi chép, nhưng tính chất của sự việc và địa vị cao quý của thân chủ lại tạo ra nét đặc sắc riêng. Hơn nữa, có gì đó trong cách nắm bắt tình huống tài tình và cách lập luận sôi nổi sắc bén của anh khiến tôi thích học hỏi cung cách làm việc, cũng như theo dõi các phương thức giúp anh giải quyết nhanh chóng và tinh tế những vụ bí ẩn hóc búa nhất. Vì tôi quá quen với những thành công chắc chắn của anh nên cái ý nghĩ rằng anh có thể thất bại đã không còn nảy sinh trọng đầu tôi nữa.

Gần 4 giờ, cửa mở ra và một gã trông ngựa bộ dạng say xỉn, mặt đỏ lựng, tóc tai bù rối, để râu quai nón và ăn mặc lôi thôi lếch thếch bước vào. Dù đã quen với khả năng hóa trang tài tình của bạn mình, tôi vẫn phải nhìn đến ba lượt mới dám chắc người kia chính là anh. Gật đầu chào tôi xong, anh biến vào phòng ngủ, rồi chỉ năm phút sau lại từ đó bước ra, chỉnh tề với bộ quần áo bằng vải tuýt. Tay nhét vào túi áo, anh duỗi dài chân trước ngọn lửa và cười sảng khoái trong vài phút.

"Ôi trời!" Anh kêu lên, cố nín rồi lại phá lên cười đến khi ngã vật ra ghế như không còn hơi sức.

"Có chuyện gì thế?"

"Khá là buồn cười. Tôi dám chắc là anh không bao giờ đoán được sáng nay tôi đã làm gì, hoặc kết cục ra sao đâu."

"Tôi không tưởng tượng được. Tôi cho rằng anh đã quan sát các thói quen và có lẽ là xem xét căn nhà của cô Irene Adler."

"Đúng thế, nhưng tiến trình có hơi khác thường. Tôi kể cho anh nghe đây. Sáng nay, khoảng 8 giờ hơn một chút, tôi ra khỏi nhà trong bộ dạng của một gã trông ngựa bị mất việc, bởi tôi biết cánh trông ngựa đoàn kết và đồng cảm với nhau lắm. Chỉ cần nhập bọn với họ là anh sẽ biết mọi điều cần thiết. Tôi nhanh chóng tìm ra biệt thự Briony. Đó là một căn biệt thự hai tầng nhỏ xinh có vườn sau, nhưng mặt tiền xây ra đến sát đường. Cửa chính dùng khóa Chubb. Phòng khách rộng rãi nằm bên phải trông khá sang trọng, các cửa sổ dài gần sát đất dùng loại chốt kiểu Anh ngớ ngẩn mà đến trẻ con cũng mở được, ở phía sau không có gì đáng chú ý, ngoại trừ cửa sổ ở hành lang mà anh có thể với tới từ nóc nhà để xe ngựa. Tôi đi vòng quanh và xem xét kĩ lưỡng từng góc độ, nhưng không ghi nhận được điều gì khác đáng quan tâm.

Sau đó, tôi lang thang xuôi xuống phố và tìm thấy, đúng như tôi dự tính, một trại ngựa trong con hẻm kề sát tường bao của khu vườn. Tôi giúp mấy anh chàng trong đó chải lông cho bầy ngựa và được trả hai xu, một li rượu pha đến phân nửa nước, hai mồi thuốc lá sợi to cùng rất nhiều thông tin tôi muốn biết về cô Adler. Đó là chưa kể đến đống tin tức về mấy người hàng xóm sống quanh đó mà tôi chẳng chút quan tâm, nhưng buộc phải nghe."

"Vậy Irene Adler là người thế nào?" Tôi hỏi.

"Ồ, cô ta hút hết hồn vía của tất cả cánh đàn ông trong vùng. Mấy chàng trông ngựa ở Serpentine khen ngợi cô ta là người phụ nữ kiều diễm nhất đời. Cô ta sống khép kín, hát tại những buổi hòa nhạc, mỗi ngày đều ngồi xe ra ngoài lúc 5 giờ và trở về ăn tối lúc 7 giờ. Ít khi ra ngoài vào những giờ khác, trừ khi đi hát. Chỉ có một vị khách nam nhưng đến rất thường xuyên. Anh ta có nước da ngăm, đẹp trai và ăn mặc thời thượng. Ngày nào cũng đến ít nhất một lần, nhưng thường là hai lần. Anh ta là Godfrey Norton, luật sư bên Thánh Điện. Anh thấy lợi thế của một anh chàng được cánh trông ngựa coi là bạn thân tình rồi chứ? Họ đi đánh xe đưa anh ta từ trại ngựa Serpentine đi phải tới hàng chục lần và biết mọi điều về anh ta. Khi đã nghe đủ, tôi bắt đầu tha thẩn gần biệt thự Briony thêm lần nữa và cân nhắc kế hoạch hành động.

Cái anh chàng Godfrey Norton này rõ ràng là có vai trò quan trọng trong vụ này. Anh ta là luật sư, điều này khá đáng ngại. Mối quan hệ của họ và mục đích của những lần tới thăm liên tục là gì? Cô ta là thân chủ, là bạn hay là người yêu của anh ta? Nếu là thân chủ, có lẽ cô ta giao tấm hình cho anh ta giữ. Nếu là bạn hoặc người yêu thì khả năng này ít xảy ra. Vấn đề này quyết định bước tiếp tôi có nên tiếp tục theo dõi biệt thự Briony hay chuyển sang tìm hiểu văn phòng làm việc ở khu Thánh Điện của anh chàng luật sư này. Tôi e là đang làm anh chán ngấy với mấy chi tiết nhỏ nhặt này, nhưng tôi cần cho anh thấy những rắc rối nho nhỏ của tôi để anh hiểu rõ tình hình."

"Tôi đang chăm chú lắng nghe đây", tôi trả lời.

"Tôi còn đang cân nhắc vấn đề thì một chiếc xe ngựa dừng lại ở biệt thự Briony và một quý ông nhảy xuống xe. Anh ta cực kì đẹp trai, da ngăm, mũi khoằm và để ria mép - đúng là người mà tôi đã nghe nói. Anh ta có vẻ rất vội, sau khi lớn tiếng bảo người xà ích đợi thì chạy vụt qua người hầu gái đang mở cửa với vẻ tự nhiên như ở nhà mình.

Anh ta ở trong nhà độ nửa giờ, và qua các cửa sổ phòng khách, tôi có thể thoáng thấy anh ta đi tới đi lui, nói liến thoắng và vung tay. Còn về cô ta, tôi chẳng thấy gì cả. Một lúc sau, anh ta ra ngoài, trông còn vội hơn trước. Khi bước lên xe, anh ta móc chiếc đồng hồ vàng trong túi ra và chăm chú xem giờ. 'Phóng hết tốc lực đi,' anh ta kêu to, 'trước tiên hãy đến Gross & Hankey ở phố Regent, rồi sau đó tới nhà thờ St. Monica ở đường Edgeware. Thưởng nửa guinea nếu anh đến đó trong vòng hai mươi phút!'

Họ phóng ào đi, và khi tôi còn đang băn khoăn xem mình có nên đi theo họ không thì một chiếc xe ngựa bốn bánh mui gập xinh xắn phóng tới. Người xà ích mặc cái áo khoác mới cài cúc phân nửa, cà vạt thì vắt lên cổ, còn bộ yên ngựa cũng chưa đóng xong. Cỗ xe chưa kịp dừng thì cô Irene Adler đã chạy vụt ra từ cửa trước và chui vào xe. Chỉ kịp nhìn thoáng qua nhưng tôi cũng nhận thấy cô ta rất khả ái với khuôn mặt có thể khiến cánh đàn ông nguyện chết.

'John, đến nhà thờ St. Monica,' cô ta kêu to. 'Và tôi sẽ thưởng nửa sovereign nếu anh đến nơi trong hai mươi phút.'

Đấy là một cơ hội không thể để lỡ, Watson ạ. Khi tôi còn đang phân vân không biết nên chạy theo hay bám vào sau xe thì một cỗ xe khác chạy qua. Người xà ích cứ nhìn đi nhìn lại ông khách ăn mặc xoàng xĩnh này, nhưng tôi đã nhảy lên xe trước khi anh ta kịp phản đối. 'Nhà thờ St. Monica,' tôi nói, 'và sẽ thưởng cho anh nửa sovereign nếu anh kịp đến đó trong hai mươi phút.' Lúc đó là 12 giờ kém 20 và tôi cũng đoán được chuyện gì sắp đến.

Người xà ích đánh xe như bay. Tôi không nghĩ là mình từng đi nhanh như thế, nhưng hai chiếc xe kia vẫn đến trước. Khi tôi đến nơi, hai chiếc xe ngựa cùng mấy con ngựa đang thở phì phì đã ở trước cửa. Tôi trả tiền cho người xà ích và vội vào nhà thờ. Bên trong chẳng có bóng ai ngoại trừ hai người kia và một tu sĩ mặc áo tế hình như đang trách móc họ. Cả ba đều đang đứng trước bàn thờ. Tôi đi thơ thẩn theo lối giữa các hàng ghế nguyện hệt như bất cứ gã nhàn rỗi nào tình cờ bước vào nhà thờ. Tôi ngạc nhiên khi đột nhiên cả ba người kia đều quay lại nhìn mình. Sau đó Godfrey Norton ba chân bốn cẳng chạy tới.

'Tạ ơn Chúa,' anh ta kêu lên. 'Có anh là được. Lại đây! Lại đây!'

'Chuyện gì thế?' Tôi hỏi.

'Lại đây nhanh nào anh bạn, chỉ còn có ba phút nữa thôi, kẻo không hợp pháp.'

Tôi gần như bị kéo thẳng đến bàn thờ, và trước khi kịp nhận ra mình đang ở đâu, tôi đã lẩm bẩm nhắc lại những câu trả lời được người ta rỉ tai và xác nhận những chuyện mà tôi chẳng biết gì, nói chung là để hợp nhất Irene Adler chưa chồng với Godfrey Norton chưa vợ. Việc kết thúc chóng vánh và rồi anh chàng cảm ơn tôi từ phía này, cô nàng cảm ơn tôi từ bên kia, còn vị tu sĩ tươi cười với tôi phía trước. Đó là tình thế lố bịch nhất đời tôi và khiến tôi suýt phá lên cười. Có vẻ hôn lễ của họ có gì đó chưa đúng phép và vị tu sĩ không chịu làm lễ cưới mà không có người làm chứng. Và may nhờ có tôi xuất hiện mà chú rể không phải bổ nhào ra đường để tìm phù rể. Cô dâu biếu tôi một đồng sovereign và tôi định treo nó vào dây đeo đồng hồ để kỉ niệm dịp đặc biệt này."

"Đây quả là một bước ngoặt bất ngờ", tôi nói, "rồi sao nữa?"

"Tôi thấy rằng các kế hoạch của mình bị đe dọa nghiêm trọng. Có vẻ như là cả đôi sẽ ra đi ngay lập tức và tôi buộc phải nghĩ ra các biện pháp nhanh chóng và triệt để. Tuy vậy, họ lại chia tay nhau tại cửa nhà thờ, anh ta đi xe về khu Thánh Điện còn cô ta quay về nhà. Lúc chia tay, cô ta nói, 'Em sẽ ngồi xe ra công viên lúc 5 giờ như mọi khi'. Tôi không nghe được thêm gì nữa. Họ đi theo hai hướng và tôi cũng làm việc của mình."

"Là gì?"

"Vài miếng bít tết nguội và một cốc bia", anh trả lời và nhấn chuông. "Cả ngày nay tôi bận đến chẳng kịp ăn uống và tối nay sẽ còn bận hơn. Nhân tiện tôi muốn nhờ bác sĩ một tay."

"Tôi rất sẵn lòng."

"Anh không ngại làm việc phi pháp chứ?"

"Hoàn toàn không."

"Kể cả khi có thể bị bắt?"

"Nếu vì một mục đích tốt."

"Ồ, mục đích rất cao quý ấy chứ!"

"Vậy anh cứ nói đi!"

"Tôi biết chắc có thể tin cậy anh mà."

"Nhưng anh sẽ cần gì ở tôi?"

"Đợi bà Turner đem thức ăn vào rồi tôi sẽ giải thích rõ cho anh nghe. Giờ thì...", anh vừa nói vừa thèm thuồng nhìn món ăn đơn giản do bà chủ nhà vừa bưng lên, "tôi đành phải vừa ăn vừa bàn luận vì chẳng còn mấy thời gian. Đã gần đến 5 giờ rồi. Chúng ta phải có mặt ở hiện trường trong hai tiếng nữa. Cô Irene, hay đúng hơn là bà Irene, sẽ ngồi xe về nhà lúc 7 giờ. Chúng ta phải có mặt tại biệt thự Briony để gặp cô ta."

"Rồi sao nữa?"

"Sau đó là việc của tôi. Tôi đã sắp xếp đâu vào đấy rồi. Nhưng có điều này tôi nhất định phải nhắc anh. Anh không được can thiệp, dù có xảy ra chuyện gì đi nữa. Anh hiểu chứ?"

"Vậy tôi giữ vai trò trung lập?"

"Không làm bất cứ điều gì. Có thể sẽ có một vụ ẩu đả nho nhỏ. Đừng can dự vào. Nó sẽ kết thúc khi tôi được đưa vào trong nhà. Bốn hay năm phút sau, cửa sổ phòng khách sẽ mở. Anh phải đứng gần đó."

"Được."

"Anh phải quan sát tôi, vì tôi sẽ ở vị trí anh có thể nhìn thấy."

"Đồng ý?"

"Khi tôi giơ tay lên, anh sẽ ném vật mà tôi giao vào phòng và hô có cháy. Anh hiểu ý tôi chứ?"

"Hoàn toàn rõ."

"Vật này chẳng ghê gớm lắm", anh nói và lấy một cái ống dài trông như điếu xì gà từ trong túi ra. "Đây là thỏi pháo khói mà cánh thợ sửa ống nước thường dùng. Anh thảy thỏi pháo vào phòng. Khi anh hô hoán báo cháy, một số người khác sẽ hùa theo. Tới lúc đó, anh có thể bước đến cuối đường và mười phút sau tôi sẽ ra đấy gặp anh. Tôi hi vọng là mình trình bày rõ ràng rồi chứ?"

"Tôi sẽ không can thiệp vào việc gì, chỉ lại gần cửa sổ để quan sát anh và đợi khi có dấu hiệu thì ném vật này, sau đó kêu cháy rồi đứng đợi anh ở góc đường."

"Chính xác."

"Vậy anh có thể tin tưởng hoàn toàn vào tôi."

"Tuyệt quá. Có lẽ đã đến lúc tôi phải chuẩn bị nhập Rôle mới rồi." Anh biến mất vào phòng ngủ và trở lại sau vài phút trong vai một mục sư Thanh giáo chất phác, với cái mũ đen rộng vành, quần ống rộng lùng thùng, chiếc cà vạt trắng, nụ cười dễ mến và ánh nhìn độ lượng mà chỉ diễn viên John Hare mới sánh bằng. Holmes không đơn thuần chỉ thay quần áo. Cách thể hiện, cử chỉ và chính tâm hồn của anh dường như đều biến đổi theo từng vai diễn. Quả là sân khấu mất đi một diễn viên giỏi, khoa học mất một nhà tư duy tài ba khi anh trở thành chuyên gia về tội phạm.

Chúng tôi rời phố Baker lúc 6 giờ 15 và đến đại lộ Serpentine sớm mười phút. Trời nhá nhem tối, phố vừa mới lên đèn khi chúng tôi thơ thẩn đi lại trước biệt thự Briony để chờ chủ nhân của ngôi nhà trở về. Nó giống hệt như tôi đã hình dung qua lời mô tả ngắn gọn của Holmes, nhưng nằm ở vị trí kém kín đáo hơn tôi nghĩ. So với một con phố nhỏ nằm trong khu vực yên tĩnh, nó lại cực kì nhộn nhịp. Dăm gã đàn ông ăn mặc xoàng xĩnh túm tụm hút thuốc và cười đùa tại một góc phố, một ông thợ mài kéo ngồi cạnh xe đồ nghề, hai anh vệ binh đang tán tỉnh một cô giữ trẻ, cùng vài anh chàng bảnh bao vừa ngậm điếu thuốc vừa đi đi lại lại.

"Anh thấy đấy", Holmes nhận xét khi chúng tôi bước qua lại trước ngôi nhà, "đám cưới đã đơn giản hóa vấn đề. Giờ tấm hình trở thành con dao hai lưỡi. Nhiều khả năng là cô ta không muốn ông Godfrey Norton trông thấy tấm hình, cũng như thân chủ của chúng ta không thích nó lọt vào mắt nàng công chúa kia vậy. Vấn đề hiện giờ là, chúng ta sẽ tìm thấy tấm hình đó ở đâu."

"Đúng vậy, ở đâu nhỉ?"

"Cô ta khó có thể mang một tấm hình cỡ 10x16 theo người. Nó quá lớn nên không thể giấu trong váy áo của phụ nữ. Cô ta cũng biết nhà vua có thể chặn đường và soát người cô ta. Họ đã hai lần làm vậy rồi. Do đó, chúng ta có thể nhận định rằng cô ta không mang nó bên mình."

"Vậy ở đâu?"

"Ở chỗ ông chủ nhà băng hoặc luật sư của cô ta. Nhưng tôi không thiên về bất cứ khả năng nào. Bản chất của phụ nữ là hay giấu giếm và họ thích giữ bí mật cho riêng mình. Vì lí gì mà cô ta phải gửi gắm nó vào tay kẻ khác chứ? Cô ta có thể tin tưởng bản thân, nhưng không thể tin vào kẻ khác, nhất là những kẻ có thể sẽ giao nộp tấm hình khi phải chịu sức ép nào đó. Hơn nữa, hãy nhớ rằng cô ta định sẽ dùng đến tấm hình trong vài ngày tới. Nó phải ở nơi cô ta có thể chạm tới. Nó nhất định ở ngay trong nhà cô ta."

"Nhưng trộm đã viếng nhà cô ta hai lần rồi."

"Ôi dào! Chúng không biết cách tìm."

"Vậy anh định tìm thế nào?"

"Tôi không tìm."

"Vậy thì...?"

"Cô ta sẽ chỉ cho tôi."

"Nhưng cô ta sẽ từ chối?"

"Không đâu. Nhưng kìa, tôi nghe thấy tiếng bánh xe rồi. Đó là cỗ xe của cô ta. Nhớ chú ý thực hiện chính xác theo lời dặn của tôi nhé."

Khi anh nói thì ánh đèn bên hông của một chiếc xe ngựa cũng xuất hiện ở khúc quanh của đại lộ. Một cỗ xe bốn bánh mui xếp xinh xắn, thanh nhã lọc cọc chạy tới trước cửa biệt thự Briony. Khi chiếc xe dừng lại, một trong những kẻ đang tha thẩn trong góc phố chạy nhào đến mở cửa, hi vọng kiếm được một đồng, nhưng hắn bị gã lang thang khác đang ào lại với cùng ý định, thúc cùi chỏ đến bắn văng ra. Thế là một vụ cãi cọ dữ dội nổ ra và càng thêm căng thẳng khi hai anh vệ binh xúm vào bênh vực cho một gã, còn ông thợ mài kéo hỗ trợ phe bên kia cũng nhiệt tình không kém. Một cú đấm tung ra, và chỉ trong chốc lát, người phụ nữ vừa bước xuống xe đã bị vây giữa đám đàn ông mặt mũi đỏ gay đang say sưa dùng nắm đấm và gậy gộc để giáng những đòn man rợ vào nhau. Holmes xông vào giữa đám đông để bảo vệ cô; nhưng vừa tới gần, anh đã kêu lên một tiếng và ngã gục xuống, máu chảy túa xuống mặt. Khi ấy, mấy gã vệ binh vội quay gót bỏ chạy về một hướng, đám lang thang chuồn theo hướng khác, còn nhóm người ăn mặc sạch sẽ hơn vốn chỉ đứng quan sát cuộc ẩu đả bèn xúm tới giúp người phụ nữ và chăm sóc kẻ bị thương.

Cô Irene Adler, như tôi vẫn gọi, vội bước lên các bậc cấp, nhưng dừng lại ở bậc trên cùng. Đèn hành lang hắt tới, rọi chiếu gương mặt xinh đẹp đang quay lại nhìn cảnh tượng trên đường phố.

"Quý ông tội nghiệp đó bị thương có nặng không?" Cô hỏi.

"Ông ta chết rồi", vài người kêu thất thanh.

"Không, không đúng, ông ta còn sống!" Một giọng khác hét lớn. "Nhưng ông ta sẽ chết trước khi đến bệnh viện mất!"

"Ông ta thật dũng cảm", một người phụ nữ nói. "Nếu không có ông ta tới cứu, có lẽ bọn chúng đã cướp được ví tiền và đồng hồ của quý bà kia rồi. Bọn chúng là một băng cướp rất táo tợn. À, ông ta thở lại rồi!"

"Không thể để ông ta nằm ngoài đường được. Chúng tôi có thể đưa ông ta vào nhà bà chứ?"

"Tất nhiên rồi. Hãy đưa ông ta vào phòng khách. Ở đó có một cái trường kỉ. Mời đi lối này!"

Anh được khiêng vào biệt thự Briony một cách nhẹ nhàng và cẩn thận rồi đặt nằm trong phòng khách, còn tôi quan sát diễn biến từ vị trí bên cửa sổ. Đèn đã rạng nhưng vì rèm chưa được kéo lên nên tôi chỉ lờ mờ thấy bóng dáng Holmes nằm trên trường kỉ. Tôi không biết anh có hối hận vì màn kịch anh đang diễn không, nhưng về phần tôi, lúc nhìn người phụ nữ xinh đẹp bị chúng tôi lừa gạt ân cần chăm sóc kẻ bị thương, tôi chưa bao giờ thấy xấu hổ tới vậy. Tuy nhiên, nếu tôi rút khỏi vai trò được anh tin tưởng giao phó, tôi sẽ là kẻ phản bội đáng khinh nhất đời. Tôi gắng cầm lòng và rút thỏi pháo khói từ bên dưới tấm áo bành tô của mình. Tôi nghĩ xét cho cùng, bọn tôi không hề hãm hại cô ta. Chúng tôi chỉ ngăn cô ta làm hại người khác.

Holmes đã ngồi dậy trên trường kỉ và tôi thấy anh đang làm bộ bị ngộp. Một cô hầu gái vội chạy đi mở cửa sổ. Ngay lúc đó, tôi thấy anh giơ bàn tay lên cao và theo hiệu lệnh, tôi ném thỏi pháo khói vào phòng rồi la lớn: "Cháy! Cháy!" Chẳng mấy chốc, tiếng hô hoán đã lan từ miệng tôi sang toàn bộ đám đông đứng xem, từ nhóm người ăn mặc lịch sự đến những kẻ áo quần lôi thôi, từ mấy chàng trông ngựa tới tới dăm cô hầu gái. Tất cả đồng thanh la inh ỏi: "Cháy! Cháy!"

Đám khói dày đặc mù mịt khắp phòng và tuôn ra ngoài qua cửa sổ để mở. Tôi thoáng thấy những bóng người vội vàng chạy tới và một giây sau, tiếng Holmes từ bên trong vang lên trấn an mọi người rằng đó chỉ là báo động nhầm. Len qua đám đông đang hò hét, tôi ra góc đường và mười phút sau, Holmes khoác tay tôi và chúng tôi cùng thoát ra khỏi cảnh huyên náo. Anh yên lặng rảo bước trong vài phút, cho đến khi chúng tôi quẹo xuống một con phố yên tĩnh dẫn tới đường Edgeware.

"Bác sĩ làm rất tốt", anh nhận xét. "Mọi chuyện không thể nào tốt hơn. Tất cả đều ổn thỏa cả."

"Anh lấy được tấm hình rồi sao?"

"Tôi biết nó ở đâu."

"Vậy anh làm thế nào để tìm ra chỗ đó?"

"Như tôi đã nói, chính cô ta chỉ cho tôi."

"Tôi vẫn chưa hiểu."

"Tôi không định giữ kín bí mật", anh vừa nói vừa cười. "Vấn đề vô cùng đơn giản. Tất nhiên là anh cũng nhận thấy mọi người trên phố đều là người của tôi. Họ được trả tiền cho buổi tối nay."

"Tôi cũng đoán vậy."

"Thế rồi, khi vụ ẩu đả diễn ra, tôi đã có sẵn một ít thuốc đỏ trong lòng bàn tay. Tôi lao tới, ngã xuống, đập tay lên mặt và dựng nên một cảnh thảm thương. Một mánh cũ ấy mà."

"Chuyện đó tôi cũng đoán được."

"Rồi họ khiêng tôi vào. Cô ta buộc phải để tôi nằm trong nhà. Cô ta đâu còn cách nào khác chứ? Và họ đưa tôi vào phòng khách, chính là căn phòng tôi nghi ngờ. Tấm hình chỉ có thể nằm ở phòng ngủ hoặc phòng khách, và tôi phải xác định vị trí. Họ đặt tôi xuống trường kỉ, tôi ra hiệu bị ngộp, họ buộc phải mở cửa sổ, và thế là anh có cơ hội hành động."

"Việc đó giúp được gì cho anh?"

"Nhiều ấy chứ. Khi một người phụ nữ tưởng nhà bị cháy, bản năng tức thời sẽ bảo cô ta chạy tới nơi có thứ giá trị nhất với cô ta. Đó là một sự thôi thúc không cưỡng lại nổi và tôi đã hơn một lần lợi dụng điều này trong vụ Tai tiếng Darlington, và cả vụ Lâu đài Arnsworth nữa. Bà có chồng sẽ chạy tới ôm đứa con nhỏ, cô chưa chồng sẽ tìm đến hộp đựng nữ trang. Còn tôi thì thấy rõ cô nàng của chúng ta không để trong nhà vật gì quý hơn thứ chúng ta đang tìm kiếm. Cô ta sẽ chạy vội đến cứu nó. Vụ báo động cháy được thực hiện rất tốt. Khói và tiếng hô hoán đủ lớn để làm cho thần kinh thép cũng phải lung lay. Cô ta phản ứng rất tuyệt. Tấm hình được cất ở hốc tường nằm sau một tấm panô trượt ngay trên dây chuông bên phải. Chỉ trong chớp mắt, cô ta đã chạy đến đó và tôi thoáng thấy tấm hình khi cô ta kéo nó ra được nửa. Khi tôi kêu lên rằng đó chỉ là báo động nhầm, cô ta đặt nó trở lại, liếc qua thỏi pháo rồi chạy vội ra khỏi phòng. Kể từ đó, tôi không còn nhìn thấy cô ta nữa. Tôi ngồi dậy, và kiếm cớ chuồn ra khỏi nhà. Tôi còn đang tính xem có nên tìm cách chiếm ngay tấm hình không thì người xà ích đã bước vào và vì ông ta theo dõi tôi sít sao quá nên có vẻ chờ đợi sẽ an toàn hơn. Hấp tấp một chút là xôi hỏng bỏng không mất."

"Giờ thì sao?" Tôi hỏi.

"Cuộc truy tìm của chúng ta đã gần hoàn tất. Ngày mai tôi sẽ gặp nhà vua. Nếu muốn, anh có thể đi cùng chúng tôi. Chúng ta sẽ được đưa vào phòng khách để đợi cô chủ nhà, và có khả năng là khi cô ta xuất hiện, cả chúng ta lẫn tấm hình đều biến mất rồi. Có lẽ đức vua sẽ thỏa lòng nếu được tự tay lấy lại nó."

"Vậy anh định gặp nhà vua lúc mấy giờ?"

"8 giờ sáng mai. Cô ta hãy còn ngủ, như vậy chúng ta sẽ dễ hành động hơn. Ngoài ra, chúng ta phải làm nhanh vì biết đâu hôn lễ kia có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời lẫn thói quen của cô ta. Tôi phải gửi điện cho nhà vua ngay thôi."

Chúng tôi về đến phố Baker và dừng lại ở cửa. Khi anh đang lục túi tìm chìa khóa, bỗng có ai đó đi ngang qua và nói: "Chào ông Sherlock Holmes." Lúc đó có vài người đang đứng trên vỉa hè, nhưng hình như nói lời chào đến từ một chàng trai mảnh dẻ mặc áo bành tô vừa rảo bước qua.

"Tôi từng nghe thấy giọng này rồi", Holmes chăm chăm nhìn con đường được chiếu sáng lờ mờ. "Không hiểu gã quái nào thế nhỉ?"

III.

Đêm đó tôi ngủ lại ở phố Baker và sáng hôm sau, khi chúng tôi đang dùng bánh mì với cà phê thì nhà vua xứ Bohemia chạy ào vào phòng. "Ông lấy lại tấm hình thật rồi sao?" Ông ta chộp lấy hai vai Sherlock Holmes, vừa háo hức nhìn anh vừa hét lớn.

"Chưa đâu."

"Nhưng ông đã có vài tia hi vọng?"

"Tôi có hi vọng."

"Vậy đi thôi. Ta đang nóng lòng muốn chết đây."

"Chúng ta phải có một cỗ xe đã."

"Không cần, chiếc xe độc mã của ta đang đợi."

"Vấn đề đơn giản hơn rồi đấy."

Chúng tôi đi xuống và một lần nữa trở lại biệt thự Briony.

"Cô Irene Adler thành hôn rồi", Holmes thông báo.

"Thành hôn ư! Khi nào?"

"Mới hôm qua."

"Nhưng với ai?"

"Một luật sự người Anh tên là Norton."

"Nhưng cô ta đâu thể nào yêu hắn."

"Tôi lại hi vọng là có."

"Tại sao?"

"Vì nó sẽ tránh cho bệ hạ mọi rầy rà sau này. Nếu một người phụ nữ yêu chồng, cô ta sẽ không còn yêu bệ hạ nữa. Nếu cô ta không yêu bệ hạ, vậy cô ta sẽ chẳng còn lí do gì để tiếp tục can thiệp vào hôn sự của ngài."

"Đúng. Nhưng mà... Giá mà ta có thể kết hôn cùng cô ta. Cô ta mà là hoàng hậu thì phải biết!" Ông ta im lặng ủ rũ cho tới khi chúng tôi dừng lại tại đại lộ Serpentine.

Cửa biệt thự Briony để mở và một phụ nữ lớn tuổi đứng tại bậc cấp. Bà ta mỉa mai nhìn khi chúng tôi bước ra khỏi cỗ xe độc mã.

"Ông là Sherlock Holmes?" Bà ta hỏi.

"Vâng chính tôi", người bạn đồng hành của tôi trả lời. Anh chăm chú nhìn bà ta với vẻ dò hỏi, hay đúng hơn là sửng sốt.

"Phải rồi! Cô chủ của tôi đã dặn lại rằng ông chắc chắn sẽ đến. Sáng nay, cô chủ đã cùng chồng mình lên chuyến tàu lúc 5 giờ 15 đi từ ga Charing Cross sang Âu châu lục địa."

"Sao!" Sherlock Holmes loạng choạng lùi lại mấy bước, mặt mũi tái nhợt vì thất vọng pha lẫn ngạc nhiên. "Ý bà là cô ta đã rời nước Anh?"

"Và không bao giờ trở lại."

"Thế còn đống giấy tờ thì sao?" Nhà vua khàn giọng hỏi. "Ta sẽ không bao giờ có lại chúng nữa."

"Chúng ta sẽ xem." Holmes chen qua bà kia và chạy vụt vào phòng khách, nhà vua và tôi theo sát gót. Đồ đạc tung tóe khắp nơi, kệ bị dỡ xuống và ngăn kéo thì mở tung như thể cô chủ nhà đã vội lục lọi trước khi bỏ đi. Holmes lao nhanh về phía sợi dây chuông, kéo mạnh cánh panô trượt nhỏ, thọc tay vào trong rồi lấy ra một tấm hình cùng một phong bì thư. Trong tấm hình là cô Irene Adler mặc váy dạ hội, còn phong thư đề: "Gửi ngài Sherlock Holmes". Anh bạn tôi mở phong bì và cả ba chúng tôi cùng đọc lá thư. Nó được viết lúc nửa đêm hôm qua với nội dung như sau:

ÔNG SHERLOCK HOLMES THÂN MẾN!

Ông hành động rất khéo léo, ông đã lừa được tôi. Tôi không hề nghi ngờ gì trước khi xảy ra vụ báo động cháy. Nhưng sau đó, lúc tôi phát hiện ra mình đã tự để lộ chân tướng, tôi bắt đầu suy ngẫm. Tôi được nghe cảnh báo về ông từ nhiều tháng trước. Người ta nói rằng nếu nhà vua thuê một thám tử thì người đó hẳn là ông. Và tôi cũng có địa chỉ của ông. Vậy mà ông vẫn khiến tôi phải để lộ ra điều ông muốn biết. Thế nhưng tôi vẫn khó lòng mà nghĩ xấu về ông mục sư già tử tế và dễ mến ngay cả khi đã bắt đầu nghi ngờ. Nhưng ông biết đấy, tôi được tôi luyện trong nghề diễn. Giả trai không phải việc xa lạ với tôi. Tôi vẫn thường dùng cách này để được sống thoải mái. Tôi đã nhờ John, người xà ích, canh chừng ông khi tôi lên lầu, mặc bộ quần áo dạo phố như tôi vẫn gọi, rồi chạy xuống vừa kịp lúc ông vừa đi khỏi. Thế rồi, tôi đi theo đến tận cửa nhà ông và nhờ đó biết chắc rằng mình chính là đối tượng theo dõi của thám tử Sherlock Holmes trứ danh. Sau đó, tôi đã hơi bất cẩn khi lên tiếng chào ông rồi tới khu Thánh Điện gặp chồng mình.

Cả hai chúng tôi đều cho rằng một khi bị đối thủ ghê gớm như ông theo đuổi, tốt nhất chúng tôi nên ra đi, vì thế khi quay lại vào sáng mai, ông sẽ không còn thấy tôi nữa. Về phần tấm hình, thân chủ của ông có thể yên tâm. Tôi đang yêu và được yêu bởi một người tốt hơn ông ta. Nhà vua có thể làm điều gì ông ta muốn và cái người bị ông ta đối xử vô cùng bất công này sẽ không hề ngăn trở. Tôi giữ tấm hình chỉ để bảo vệ mình, và để có một món vũ khí tự vệ trước bất kì biện pháp nào mà ông ta có thể thi hành trong tương lai. Tôi để lại một tấm hình ông ta có thể muốn giữ.

Xin chân thành chào ông,

IRENE NORTON, nhũ danh ADLER

"Thật là một phụ nữ tuyệt vời! Ôi, thật là phi thường!" Nhà vua xứ Bohemia kêu lên khi cả ba chúng tôi đọc xong bức thư. "Ta chẳng đã nói với ông là cô ta rất lanh lợi và cương quyết sao? Chẳng phải cô ta được sinh ra để làm một hoàng hậu tuyệt vời sao? Thật đáng tiếc khi cô ta không cùng đẳng cấp với ta."

"Theo những gì tôi quan sát từ người phụ nữ này, có vẻ như cô ta ở một đẳng cấp rất khác bệ hạ thật", Holmes lạnh nhạt đáp. "Tôi rất tiếc vì không thể kết thúc nhiệm vụ thành công hơn."

"Ngược lại đấy, quý ông thân mến ạ", nhà vua kêu to, "không gì có thể thành công hơn. Ta biết lời nói của cô ta chắc như đinh đóng cột. Giờ đây, tấm hình đã an toàn như thể nó đã bị thiêu."

"Tôi rất mừng khi nghe bệ hạ nói thế."

"Ta mang ơn ông hết sức. Xin vui lòng cho biết ta có thể đền ơn ông bằng cách nào. Chiếc nhẫn này nhé?" Ông ta tháo chiếc nhẫn hình con rắn làm bằng ngọc lục bảo ra rồi đặt vào lòng bàn tay.

"Bệ hạ có một thứ mà tôi đánh giá cao hơn", Holmes nói.

"Mời ông cứ nói."

"Tấm hình này đây!"

Nhà vua kinh ngạc nhìn chằm chằm vào Holmes. "Tấm hình của Irene Adler sao?" Ông ta kêu lên. "Dĩ nhiên rồi, nếu ông thích."

"Xin cảm ơn bệ hạ. Vì chẳng còn gì để làm trong vụ này, tôi xin trân trọng kính chúc bệ hạ một buổi sáng tốt lành." Anh cúi chào rồi quay lưng đi, không buồn để ý đến bàn tay nhà vua đang chìa ra, và lên đường về nhà cùng tôi.

Và đây là câu chuyện về vụ tai tiếng vô cùng nghiêm trọng, đe dọa sẽ ảnh hưởng đến vương quốc Bohemia và kế hoạch tuyệt vời nhất của Holmes bị tài trí của một phụ nữ đánh bại. Trước đây, anh thường chế nhạo trí thông minh của phái nữ, nhưng dạo gần đây tôi không còn nghe anh nói thế nữa. Và mỗi khi nói tới Irene Adler, hoặc đề cập tới tấm hình của cô, anh luôn dùng danh hiệu đầy kính trọng: Người phụ nữ ấy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro