HỘI TÓC ĐỎ(The Red Headed League, 1891)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Vào một ngày mùa thu năm ngoái, tôi đến gặp Holmes theo yêu cầu của anh và thấy anh đang say sưa trò chuyện với một người đàn ông lớn tuổi, đậm người, có bộ mặt hồng hào và mái tóc đỏ như lửa. Tôi xin lỗi về sự đường đột của mình và sắp bước ra thì bất ngờ Holmes kéo tôi lại và đóng cánh cửa sau lưng tôi. "Anh đến thật đúng lúc, Watson thân mến", anh nói với vẻ chân thành.

"Tôi ngại là anh đang bận."

"Đúng vậy, tôi đang rất bận là khác."

"Vậy tôi có thể đợi ở phòng kế bên."

"Không cần đâu. Thưa ông Wilson, người này là cộng sự và cũng là trợ thủ của tôi trong nhiều vụ án thành công nhất, và tôi tin anh ta cũng sẽ rất hữu ích trong vụ việc của ông."

Người đàn ông hơi nhổm người dậy khỏi chiếc ghế, khẽ cúi đầu chào với vẻ dò hỏi thoáng xuất hiện qua cái liếc từ đôi mắt ti hí giữa những bọng mỡ.

"Mời anh ngồi", Holmes nói đoạn buông người trở lại chiếc ghế bành của mình và chụm các đầu ngón tay vào nhau, một thói quen cố hữu mỗi khi anh đang suy xét điều gì. "Watson thân mến, tôi biết anh và tôi có chung niềm ham thích tất cả những gì kì quái, những gì trái ngược với các quy tắc và thói quen buồn tẻ của cuộc sống hằng ngày. Sự hứng thú ấy tỏ rõ qua lòng nhiệt tình đã thúc đẩy anh ghi chép lại và phần nào thêm mắm dặm muối cho câu chuyện về những cuộc phiêu lưu nho nhỏ của tôi; mong anh lượng thứ cho những điều tôi vừa nói."

"Đối với tôi thì những vụ án của anh quả thật hấp dẫn", tôi nhận xét.

"Anh còn nhớ không, ngay trước khi chúng ta xem xét vụ việc cực kì đơn giản mà cô Mary Sutherland kể lại, tôi đã lưu ý rằng muốn gặp những hiện tượng lạ lùng và những sự kết hợp bất thường thì chúng ta phải tìm trong đời thực vốn luôn chứa đựng nhiều hành động mạo hiểm vượt xa cả trí tưởng tượng."

"Một nhận định mà tôi có quyền nghi ngờ."

"Anh có quyền nghi ngờ, nhưng dù sao thì anh cũng phải đồng ý với quan điểm của tôi, vì nếu không thì tôi sẽ cho anh thấy lần lượt từng bằng chứng một cho đến khi nào lí lẽ của anh bị chúng đè bẹp và phải thừa nhận rằng tôi đúng, ông Jabez Wilson đây đã có lòng tốt ghé thăm tôi sáng nay và kể một câu chuyện có vẻ là kì quặc nhất mà tôi từng được nghe. Anh đã từng nghe tôi nói rằng những sự việc lạ lùng và độc đáo nhất lại thường không dính đến những vụ án hình sự lớn mà là những vụ nhỏ đến nỗi đôi khi ta ngờ như còn chưa cấu thành tội phạm. Theo những gì tôi đã nghe thì thật khó nói vụ này có phải là một vụ án hình sự hay không, nhưng diễn biến các sự việc thì chắc chắn là thuộc loại lạ thường nhất mà tôi đã được nghe. Thưa ông Wilson, có lẽ xin ông vui lòng kể lại câu chuyện của mình. Tôi yêu cầu như thế không phải chỉ vì bạn tôi, bác sĩ Watson chưa được nghe câu chuyện từ đầu mà còn vì bản chất ki lạ của nó khiến cho tôi nóng lòng muốn được nghe ông kể lại từng chi tiết. Theo thói quen, khi tôi nghe kể về một số dấu hiệu nhỏ nhặt trong diễn biến sự việc, tôi có thể tự phán đoán qua hàng ngàn vụ tương tự trong trí nhớ. Theo những gì tôi biết tới giờ, tôi buộc phải thú nhận rằng các sự kiện của vụ này là độc nhất vô nhị."

Vị thân chủ béo tốt ưỡn ngực với vẻ hơi tự hào và rút từ túi áo choàng một tờ báo lem luốc và nhàu nhĩ. Trong lúc ông ta nhìn liếc xuống cột rao vặt, đầu chúi về phía trước và trải tờ báo trên đầu gối, tôi chăm chú nhìn và cố nhận định các đặc điểm toát ra từ cách ăn mặc hoặc ngoại hình của ông ta theo cách của Holmes.

Tuy nhiên, tôi cũng không thu được gì nhiều cho lắm qua quan sát của mình. Vị khách của chúng tôi có đủ mọi đặc điểm của một ông chủ cửa tiệm bình thường ở Anh quốc: béo phì, phô trương và chậm chạp, ông ta mặc quần màu xám sọc carô đen trắng rộng lùng thùng, một cái áo choàng dài tới gối màu đen không sạch sẽ gì mấy, không cài khuy ở phía trước, áo gilet màu xám xịt với sợi dây đeo đồng hồ kiểu Albert bằng đồng thau nặng trịch có xâu một mảnh kim loại đục lỗ hình vuông như một vật trang trí. Một cái mũ chóp cao đã sờn và một áo khoác ngoài màu nâu bạc phếch với cái cổ nhung nhăn nheo nằm vắt trên chiếc ghế bên cạnh. Nhìn chung, theo cách nhìn của tôi, dường như chẳng có gì đáng chú ý ở con người đó ngoại trừ mái tóc đỏ rực của ông ta cùng vẻ mặt hết sức thất vọng và bất mãn.

Đôi mắt lanh lợi của Holmes bắt gặp sự chăm chú của tôi, anh lắc đầu cười khi nhìn thấy ánh mắt dò hỏi của tôi. "Ngoài những bằng chứng rõ ràng là ông ta đã từng lao động chân tay một thời gian, có dùng thuốc lá bột, là thành viên của hội Tam Điểm, từng sống ở Trung Hoa và gần đây có viết lách khá nhiều, thì tôi không còn suy luận thêm được gì nữa."

Ông Jabez Wilson giật nẩy mình trên ghế, ngón tay trỏ vẫn đặt trên tờ báo nhưng hai mắt thì nhìn Holmes.

"Lạy Chúa tôi, bằng cách nào mà ông biết được tất cả những chuyện ấy hả ông Holmes?" Ông ta hỏi. "Chẳng hạn như, làm thế nào mà ông biết được tôi đã từng lao động chân tay? Một sự thật không thể chối cãi, công việc đầu tiên của tôi là thợ đóng tàu."

"Hai bàn tay của ông, thưa ông. Bàn tay phải của ông hơi lớn hơn bàn tay trái. Ông đã từng làm việc nhiều bằng bàn tay phải do vậy các cơ của bàn tay phải phát triển nhiều hơn."

"Được, thế còn chuyện hút thuốc lá bột, và chuyện hội Tam Điểm nữa?"

"Tôi không có ý xúc phạm đến trí thông minh của ông khi tiết lộ cách suy luận của mình, đặc biệt là vì bất kể những quy định nghiêm ngặt của hội, ông vẫn đeo ghim cài cà vạt mang biểu tượng compa và thước góc."

"À, dĩ nhiên rồi, tôi quên đi mất. Nhưng còn chuyện viết lách?"

"Tôi còn biết suy ra điều gì khác từ cổ tay áo bên phải bóng loáng khoảng năm inch còn bên tay trái thì có một mảng mòn nhẵn gần phía khuỷu tay chỗ ông tì lên bàn?"

"Hay thật, còn chuyện sống ở Trung Hoa?"

"Hình xăm con cá ngay phía trên cổ tay phải chỉ có thể xăm tại Trung Hoa. Tôi đã tiến hành một nghiên cứu nhỏ về các hình xăm và thậm chí còn đóng góp một bài viết về đề tài này nữa. Bí quyết xăm màu hồng nhạt cho các vảy cá này là đặc trưng của Trung Hoa. Thêm vào đó, khi tôi nhìn thấy một đồng xu Trung Hoa treo ở dây đeo đồng hồ của ông thì vấn đề lại càng đơn giản hơn."

Ông Jabez Wilson cười rũ rượi. "Ôi chao!" Ông ta nói. "Lúc đầu tôi cứ tưởng là ông tài giỏi lắm, nhưng giờ thì tôi thấy rằng cũng chẳng có gì đặc biệt."

"Watson này, tôi bắt đầu cho rằng", Holmes nói, "tôi đã mắc sai lầm khi giải thích. Omne ignotum pro magnifico. Anh biết đấy, và danh tiếng khiêm tốn của tôi sẽ bị sụp đổ hoàn toàn nếu tôi quá thật thà. Ông đã tìm ra mẩu rao vặt chưa, ông Wilson?"

"Vâng, tôi đã tìm thấy nó", ông ta trả lời, ngón tay to mập hồng hào đặt ở phân nửa cột báo. "Nó đây. Đây là nguồn cơn của mọi câu chuyện. Xin ông tự đọc đi."

Tôi đón lấy tờ báo từ ông ta và đọc mẩu rao vặt:

GỬI HỘI TÓC ĐỎ

Theo chúc thư của ông Ezekiah Hopkins, hạt Lebanon, Pennsylvania, Hoa Kì, hiện còn trống một vị trí dành cho thành viên của hội với mức lương là 4 bảng Anh mỗi tuần, và chỉ yêu cầu làm một vài việc vặt cho có. Mọi nam giới tóc đỏ có thể chất và tinh thần khỏe mạnh, trên hai mươi mốt tuổi đều đủ điều kiện ứng tuyển. Đề nghị các ứng viên đích thân đến dự tuyển vào thứ hai, lúc 11 giờ, gặp ông Duncan Ross tại các văn phòng của hội, số 7 hẻm Pope's Court, phố Fleet.

"Chuyện kì quái này có ý gì cơ chứ?" Tôi buột miệng kêu lên sau khi đã đọc hai lần cái thông báo lạ đời này.

Holmes cười tủm tỉm và ngọ nguậy người trong ghế, như thường lệ mỗi khi phấn chấn. "Hơi khác thường, có phải không?" Anh nói. "Và giờ thì, thưa ông Wilson, xin ông hãy nói lại từ đầu và kể cho chúng tôi biết tất cả về ông, gia đình ông và về tác động của mẩu rao vặt này đối với tài sản của ông. Trước hết anh hãy ghi lại tên của tờ báo và ngày phát hành, bác sĩ ạ."

"Đó là tờ Morning Chronicle ra ngày 27 tháng 4 năm 1890. Chỉ mới hai tháng trước."

"Rất tốt. Nào, xin mời ông Wilson?"

"Đấy, như tôi vừa kể cho ông nghe, ông Sherlock Holmes", ông Jabez Wilson nói trong khi lau trán. "Tôi có một hiệu cầm đồ nhỏ ở quảng trường Coburg, gần khu City. Việc làm ăn chẳng to tát gì cho lắm và mấy năm nay nó chỉ giúp tôi vừa đủ sống. Trước đây tôi còn có thể thuê hai người phụ tá nhưng giờ chỉ còn có một; và tôi cũng không có đủ công việc để có tiền trả lương cho anh ta nhưng anh ta lại sẵn sàng chỉ nhận phân nửa lương để học nghề."

"Anh chàng trẻ tuổi nhiệt tình ấy tên gì?" Sherlock Holmes hỏi.

"Tên anh ta là Vincent Spaulding, và anh ta không còn trẻ cho lắm. Cũng khó mà xác định được tuổi của anh ta. Đó quả là một người phụ tá rất tháo vát, ông Holmes ạ, tôi biết khả năng của anh ta còn hơn thế và anh ta có thể kiếm được gấp đôi số tiền mà tôi có thể trả. Nhưng xét cho cùng thì nếu anh ta đã hài lòng thì tại sao tôi lại phải nhồi cái ý nghĩ ấy vào đầu anh ta chứ?"

"Đúng vậy, cần gì phải thế? Có vẻ như ông là người vô cùng may mắn khi có được một employé chấp nhận mức lương dưới giá thị trường. Khó mà tìm được nhân công như vậy vào thời buổi này. Theo tôi thấy thì người phụ tá của ông không đặc biệt bằng mẩu rao vặt."

"Ồ, anh ta cũng có khiếm khuyết đấy", ông Wilson nói. "Chẳng có ai say mê nhiếp ảnh như anh ta. Lẽ ra nên trau dồi trí tuệ thì anh ta lại cứ bấm máy ảnh tanh tách rồi chui xuống hầm như một con thỏ lẩn vào hang để rửa ảnh. Đó là khuyết điểm lớn nhất của anh ta, nhưng nhìn chung thì anh ta là một nhân viên tốt. Không có thói tật nào cả."

"Tôi đoán là anh ta hẳn vẫn còn làm việc với ông?"

"Vâng, đúng vậy. Anh ta và một cô bé mười bốn tuổi làm công việc nấu nướng và dọn dẹp nhà cửa - chỉ có bấy nhiêu người trong nhà vì tôi góa vợ và gia đình cũng không còn ai khác. Chúng tôi sống rất bình lặng, thưa ông, cả ba người; chúng tôi không làm gì ngoài việc giữ một mái nhà che nắng mưa và đủ tiền để thanh toán các khoản chi tiêu. Việc đầu tiên làm xáo trộn cuộc sống của chúng tôi là mẩu rao vặt đó. Cũng vào đúng ngày này cách đây tám tuần, Spaulding đi vào văn phòng, tay cầm chính tờ báo này và nói: 'Ông Wilson này, tôi ước giá mà Chúa tạo ra tôi là một người tóc đỏ.'

'Tại sao?' Tôi hỏi.

'Còn sao nữa', anh ta đáp, 'đây là một chỗ trống ở hội Tóc Đỏ. Nó đáng giá một gia tài nho nhỏ đối với bất cứ ai được chọn và tôi cho là không có bao nhiêu người tóc đỏ để ngồi vào vị trí đó, vì thế nên mấy người được ủy quyền thực hiện chúc thư đang bí không biết làm gì với số tiền. Giá mà tóc tôi đổi màu được thì cái cũi xinh xắn đó sẽ dành để tôi bước vào.'

'Sao, chuyện gì thế?' Tôi hỏi. Như ông thấy, thưa ông Holmes, tôi là một người chỉ quen ru rú ở nhà và vì công việc của tôi cứ tự nó tìm đến chứ tôi không phải ra ngoài để tìm kiếm, có khi suốt mấy tuần liền tôi chẳng hề bước chân ra khỏi cửa. Vì vậy nên tôi không biết rõ lắm những gì đang xảy ra ở bên ngoài và tôi rất vui mỗi khi được thông báo tin tức mới.

'Đã bao giờ ông nghe nói về hội Tóc Đỏ chưa?' Anh ta hỏi, mắt mở to.

'Chưa hề.'

'Sao lại thế, tôi ngạc nhiên đấy, vì ông đủ tư cách để nộp đơn vào một trong những chỗ làm đó.'

'Lương trả cho những công việc đó là bao nhiêu?' Tôi hỏi.

'Ồ, chỉ hai trăm bảng một năm thôi, nhưng công việc thì nhẹ nhàng và lại không ảnh hưởng nhiều đến những việc làm khác của mình.'

Thế đấy, các ông có thể dễ dàng hiểu được là tôi đã vểnh tai lên khi nghe kể về điều đó, vì mấy năm gần đây công việc của tôi không được tốt cho lắm, và thêm được hai trăm bảng thì tốt biết chừng nào.

'Anh hãy kể hết cho tôi nghe về công việc đó đi', tôi nói.

'Thế này', anh ta nói lúc đưa cho tôi tờ rao vặt, 'ông có thể thấy rõ là Hội đang tuyển nhân viên và có cả địa chỉ liên lạc để hỏi thông tin cụ thể. Theo như tôi biết thì hội này được sáng lập bởi một triệu phú người Mỹ, ông Ezekiah Hopkins, một người có tính tình rất lập dị. Bản thân ông ta cũng có tóc đỏ và ông ta có cảm tình với tất cả những người tóc đỏ; vì thế trước khi chết, ông ta đã để lại khối gia sản khổng lồ cho những người được ủy quyền với chỉ thị là sử dụng tiền lời vào việc tạo ra các việc làm nhàn nhã cho những người tóc đỏ. Theo những gì tôi nghe được thì đó là một món tiền lương hậu hĩnh mà ông không phải làm việc nhiều.'

'Nhưng', tôi nói, 'sẽ có đến hàng triệu người tóc đỏ muốn nộp đơn.'

'Không nhiều như ông nghĩ đâu', anh ta trả lời. 'Ông sẽ thấy thật ra thì công việc này dành riêng cho những người sống ở London và chỉ những người trưởng thành thôi, ông người Mỹ đấy vốn khởi nghiệp ở London khi còn trẻ và muốn thực hiện một nghĩa cử tốt đẹp cho thành phố thân quen này. Thêm nữa, tôi còn nghe nói là những người có tóc màu đỏ nhạt, đỏ sậm, hay bất cứ màu đỏ nào khác cũng không được xét mà phải là màu đỏ sáng, thật sự rực rỡ như màu lửa kia. Giờ thì, nếu ông muốn nộp đơn, ông Wilson ạ, ông chỉ cần đến đó; nhưng chắc là cũng không đáng để ông phải đi chỉ vì vài trăm bảng đâu nhỉ.'

Đấy, đúng như các ông thấy, màu tóc của tôi quả là sáng và đỏ rực, vì thế nếu quả thật có một cuộc thi như thế thì tôi cũng có cơ may như bất cứ ai khác. Vincent Spaulding dường như có vẻ hiểu rõ về vấn đề này nên tôi nghĩ có thể là anh ta sẽ giúp đỡ được cho mình, thế là tôi bảo anh ta đóng cửa tiệm ngày hôm đó và đi ngay với tôi. Anh ta cũng muốn nghỉ một ngày, thế là chúng tôi ngừng công việc lại và đi đến địa chỉ được ghi trong mẩu rao vặt.

Tôi chẳng bao giờ mong muốn nhìn lại quang cảnh đó nữa, ông Holmes ạ. Từ khắp các phương bắc, nam, đông và tây, người nào có sắc đỏ trên mái tóc đều lặn lội lên thành phố do tác động của mẩu rao vặt. Phố Fleet chật cứng những người tóc đỏ và hẻm Pope's Court thì giống như một chiếc xe đẩy chở cam của người bán hoa quả. Tôi không hề nghĩ rằng trong cả nước lại có nhiều người tóc đỏ như số người đã tập trung tại đây chỉ vì mẩu rao vặt kia. Tóc của họ có đủ sắc độ - vàng rơm, vàng chanh, cam, đỏ ngói, đỏ lông chó xù Ireland, đỏ bầm, đỏ đất sét; thế nhưng, đúng như lời của Spaulding, quả là không có nhiều người thực sự có được màu đỏ lửa chói lọi. Khi trông thấy số lượng người đông đảo đang đứng đợi, tôi đã thất vọng muốn bỏ cuộc, nhưng Spaulding không chịu. Tôi không thể tưởng nổi anh ta làm thế nào mà xô đẩy, kéo và chen lấn cho đến khi lôi được tôi qua đám đông, đến được các bậc thềm dẫn vào văn phòng. Trên cầu thang đã có hai hàng người, một số thì đi lên với niềm hi vọng, còn một số khác thì chán nản quay trở ra; nhưng chúng tôi vẫn lấy hết sức chen vào và chẳng mấy chốc đã có mặt trong văn phòng."

"Kinh nghiệm của ông thật là thú vị", Holmes nhận xét khi thân chủ của anh dừng lời và hít một nhúm thuốc lá bột to tướng để nhớ lại. "Xin hãy tiếp tục câu chuyện rất hấp dẫn của ông."

"Trong văn phòng không có gì ngoại trừ hai chiếc ghế gỗ và một cái bàn bằng gỗ thông, ngồi phía sau bàn là một người đàn ông thấp lùn với mái tóc thậm chí còn đỏ hơn cả màu tóc của tôi. Ông ta nói vài lời với từng ứng cử viên khi bước lại gần họ, và luôn cố bới ra vài nhược điểm để đánh trượt. Xét cho cùng thì được ngồi vào vị trí này cũng chẳng dễ dàng gì. Tuy nhiên, khi đến lượt chúng tôi thì cái ông nhỏ con lại có vẻ thích tôi hơn tất cả các ứng cử viên khác, và ông ta đóng cửa lại khi chúng tôi bước vào để có thể nói chuyện riêng.

'Đây là ông Jabez Wilson', người phụ tá của tôi giới thiệu, 'và ông ta muốn dự tuyển vào vị trí còn trống của hội.'

'Và ông ta thật là thích hợp với vị trí ấy', người đó trả lời. 'Ông ta đáp ứng được mọi yêu cầu. Tôi không tài nào nhớ được là mình từng nhìn thấy một mái tóc nào hoàn hảo đến thế.' Ông ta lùi ra sau một bước, nghiêng đầu sang một bên và nhìn chăm chăm vào tóc tôi cho đến khi tôi phát ngượng. Rồi đột nhiên ông ta lao tới, siết chặt tay tôi và nồng nhiệt chúc mừng tôi đã trúng tuyển.

'Nếu mà còn phân vân chưa quyết thì quả thật là không công bằng', ông ta nói. 'Tuy nhiên, chắc là ông sẽ thông cảm nếu tôi tiến hành một biện pháp đề phòng'. Vừa nói xong ông ta đã túm lấy tóc tôi bằng cả hai tay và giật mạnh cho đến khi tôi phải kêu lên vì đau. 'Ông đã ứa nước mắt', ông ta nhận xét khi buông tôi ra. 'Tôi đã thấy mọi thứ đều là thật nhưng chúng tôi phải cẩn thận vì từng bị lừa hai lần, một lần là tóc giả và lần kia thì là tóc nhuộm. Tôi có thể kể ông nghe hàng đống chuyện về sáp phủ dây giày mà sau khi nghe xong ông sẽ thấy chán ngán bản tính của con người'. Ông ta bước lại gần cửa sổ, thò đầu ra và lấy hết sức hét to để thông báo là đã tìm được ứng viên thích hợp cho công việc. Tiếng phàn nàn thất vọng vang lên từ bên dưới và đám đông lũ lượt bỏ đi theo đủ mọi hướng cho đến khi chẳng còn nhìn thấy người tóc đỏ nào khác ngoại trừ tôi và ông quản lí.

'Tên tôi là', ông ta nói, 'Duncan Ross và tôi là một trong những người được hưởng tiền trợ cấp từ quỹ do nhà hảo tâm của chúng ta để lại. Ông đã kết hôn rồi chứ, thưa ông Wilson? Ông có gia đình chứ?'

Tôi trả lời là tôi không có.

Mặt ông ta sầm xuống ngay tức thì.

'Than ôi!' Ông ta nói với vẻ nghiêm trọng, 'đây là một vấn đề rất quan trọng! Tôi rất tiếc khi nghe ông nói thế. Tiền quỹ tất nhiên là để dành cho việc truyền bá, mở rộng và duy trì hội Tóc Đỏ. Thật vô cùng đáng tiếc là ông lại sống độc thân.'

Nghe đến đó, mặt tôi nghệt ra, ông Holmes ạ, vì tôi nghĩ rằng rốt cuộc thì mình lại vuột mất công việc này; nhưng sau khi suy nghĩ lại trong vài phút, ông ta lại nói là việc này cũng ổn thỏa.

'Nếu là một trường hợp khác', ông ta nói, 'thì chắc chắn chúng tôi phải từ chối, nhưng chúng tôi phải chiếu cố đến một người có mái tóc quá đặc biệt như ông. Khi nào thì ông có thể bắt đầu công việc mới?'

'Vâng, cũng có đôi chút khó xử vì tôi đã có một công việc kinh doanh', tôi đáp.

'Ồ, ông không phải lo về việc ấy đâu, ông Wilson ạ!' Vincent Spaulding xen vào. 'Tôi có thể coi sóc cửa tiệm cho ông.'

'Giờ giấc làm việc ra sao nhỉ?' Tôi hỏi.

'Từ 10 giờ sáng đến 2 giờ chiều.'

Vì công việc ở tiệm cầm đồ chủ yếu là vào buổi chiều, ông Holmes ạ, đặc biệt là vào chiều thứ năm và thứ sáu, ngay trước ngày lĩnh lương; vậy là nó rất thuận tiện cho tôi kiếm thêm một chút vào buổi sáng. Bên cạnh đó, tôi biết rằng người phụ tá của mình có năng lực và anh ta sẽ xử lí ổn thỏa nếu có vấn đề gì xảy ra.

'Giờ đó rất phù hợp với tôi', tôi nói. 'Thế tiền lương thì sao?'

'Là 4 bảng mỗi tuần.'

'Còn công việc?'

'Công việc hầu như chẳng phải làm gì.'

'Ý ông là thế nào khi nói rằng chẳng phải làm gì?'

'Thế này, ông luôn phải có mặt trong văn phòng, hay ít ra là trong tòa nhà này. Nếu ông bỏ đi thì sẽ bị mất việc vĩnh viễn. Di chúc đã ghi rất rõ về điểm này. Nếu ông rời ra khỏi văn phòng thì xem như đã không tuân thủ các điều kiện.'

'Chỉ có bốn giờ mỗi ngày thôi, tôi sẽ không nghĩ đến chuyện bỏ ra ngoài đâu', tôi nói.

'Không chấp nhận bất cứ lí do nào', ông Duncan Ross nói, 'cả ốm đau lẫn bận rộn công việc hay vì bất cứ việc gì khác, ông phải có mặt ở văn phòng hoặc là mất việc.'

'Còn công việc thì sao?'

'Là chép lại cuốn Encyclopaedia Britannica. Tập đầu tiên của bộ bách khoa đó nằm trong tủ, ông phải tự lo mực, bút và giấy thấm nhưng chúng tôi sẽ cung cấp cho ông cái bàn này và ghế. Liệu ngày mai ông đã sẵn sàng làm việc được chưa?'

'Chắc chắn là được', tôi đáp.

'Thế thì xin tạm biệt, ông Jabez Wilson, và một lần nữa xin chúc mừng ông đã may mắn có được vị trí quan trọng này.' Ông ta cúi đầu chào tiễn tôi ra khỏi văn phòng và tôi về nhà cùng với người phụ tá, không biết nên nói gì hay làm gì, tôi hết sức vui mừng với vận may của chính mình.

Thế rồi, suốt cả ngày hôm đó tôi cứ suy nghĩ mãi về chuyện này, đến tối thì tôi lại xuống tinh thần; tôi đã tự thuyết phục mình là toàn bộ vụ việc này chắc hẳn phải là một trò chơi khăm hay lừa gạt, dù mục đích của nó có thể là gì đi nữa thì tôi vẫn chưa hình dung ra. Có vẻ như khó mà tin được là có ai đó đã lập ra một di chúc như thế, hoặc khó có thể tin nổi họ sẽ trả một số tiền như vậy cho một công việc đơn giản là chép lại cuốn Encyclopaedia Britannica. Vincent Spaulding làm đủ mọi trò để giúp tôi vui lên, nhưng đến khi đi ngủ thì tôi đã thuyết phục mình nên rút ra khỏi vụ này. Tuy nhiên, đến sáng thì tôi lại quyết định dù sao cũng nên nhìn qua để xem sự thể ra sao, thế là tôi mua một bình mực một xu, một cây bút lông ngỗng và bảy xấp giấy viết, sau đó tôi đi đến hẻm Pope's Court.

Và, tôi rất đỗi ngạc nhiên và vui sướng khi nhận thấy mọi thứ đều rất thật. Cái bàn đã được dọn sẵn cho tôi và ông Duncan Ross đã có mặt ở đó để xem tôi đã chuẩn bị đầy đủ để làm việc hay chưa, ông ta nhìn tôi bắt đầu với mẫu tự A, rồi sau đó bỏ đi, nhưng thỉnh thoảng lại ghé qua để xem mọi việc có ổn hay không. Đến 2 giờ chiều thì ông ta chào tạm biệt, khen ngợi tôi về khối lượng công việc tôi đã làm, rồi khóa cửa văn phòng sau lưng tôi.

Công việc cứ tiếp tục ngày qua ngày, ông Holmes ạ. Đến ngày thứ bảy thì người quản lí bước vào và đặt xuống bàn bốn đồng sovereign tiền công tuần đó của tôi. Tuần kế tiếp cũng xảy ra như thế, và cả tuần tiếp theo nữa. Sáng sáng tôi có mặt lúc 10 giờ và chiều chiều lại ra về lúc 2 giờ. Dần dần ông Duncan Ross chỉ còn ghé đến một lần vào buổi sáng và rồi sau một thời gian thì ông ta cũng không còn đến nữa. Tuy thế, tất nhiên là tôi không bao giờ dám rời khỏi phòng một giây phút nào vì tôi không biết lúc nào ông ta có thể ghé qua, và vì công việc quả là rất tốt và rất phù hợp với tôi nên tôi không dám liều để mất nó.

Tám tuần trôi qua như thế và tôi đã chép được những từ Abbots rồi Archery, Armour, Architecture và Attica, tôi đã hi vọng là với sự chuyên tâm thì chẳng mấy chốc mà tôi có thể bước sang những từ của mẫu tự B. Tôi cũng đã chi ra một món tiền để mua giấy và những gì tôi chép đã xếp gần đầy một ngăn kéo. Thế rồi, toàn bộ công việc bất ngờ kết thúc."

"Kết thúc?"

"Phải, thưa ông. Mới sáng nay thôi. Tôi đến chỗ làm như mọi lần lúc 10 giờ sáng, thế nhưng cửa đóng và khóa kín, giữa cánh cửa có một miếng bìa cứng nhỏ được đóng bằng đinh mũ. Nó đây, ông có thể tự đọc."

Ông ta đưa ra một miếng bìa cứng màu trắng kích thước cỡ một tờ giấy viết thư. Nội dung ghi như sau:

Hội Tóc Đỏ đã giải tán

Ngày 9 tháng 10 năm 1890

Sherlock Holmes và tôi xem xét mẩu thông báo ngắn ngủn đó và nhìn bộ mặt buồn thảm phía sau tờ giấy, cho đến khi khía cạnh hài hước của vấn đề nổi lên che khuất tất cả các lí do khác khiến cho cả hai chúng tôi cùng cười phá lên.

"Tôi không thấy bất cứ điều gì buồn cười trong chuyện này cả," vị khách của chúng tôi nói to, mặt mũi đỏ bừng lên đến tận mái tóc đỏ như lửa của ông ta. "Nếu các ông không làm được chuyện gì hay ho hơn là cười nhạo tôi, thì tôi sẽ đi nhờ người khác."

"Không, không", Holmes kêu lên và đẩy ông ta ngồi trở lại chiếc ghế mà ông ta vừa từ đó nhổm nửa người lên. "Thật tình tôi không đời nào muốn bỏ qua vụ việc của ông. Nó bất thường một cách đặc biệt lí thú. Thế nhưng, nếu ông vui lòng bỏ qua, có điều gì đó hơi buồn cười trong đó. Xin vui lòng kể lại những gì ông đã làm khi nhìn thấy tấm bìa gắn trên cửa?"

"Tôi rất bối rối, ông ạ. Tôi không biết mình phải làm gì. Sau đó tôi ghé vào các văn phòng xung quanh đó nhưng có vẻ như không ai hay biết gì chuyện này. Cuối cùng, tôi đến gặp ông chủ nhà, một kế toán sống ở tầng một và hỏi xem ông ta có thể cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra với hội Tóc Đỏ. Ông ta bảo là chưa bao giờ nghe nói về một cái hội nào như thế. Rồi tôi hỏi ông ta có biết ông Duncan Ross không, ông ta nói rằng ông ta chưa nghe cái tên đó bao giờ.

'Thế này', tôi nói, 'cái ông ở nhà số 4 ấy mà.'

'Sao, cái người tóc đỏ phải không?'

'Vâng.'

'Ồ', ông ấy nói, 'tên ông ta là William Morris. Đó là một luật sư sử dụng tạm căn phòng của tôi cho đến khi văn phòng mới của ông ta sẵn sàng để sử dụng. Ông ta vừa mới dời đi hôm qua.'

'Tôi có thể tìm gặp ông ta ở đâu?'

'À, tại văn phòng mới của ông ta. Ông ta có cho tôi địa chỉ. Phải, số 17 phố King Edward, gần thánh đường St. Paul.'

Thế là tôi đến đó, ông Holmes ạ, nhưng khi tôi đến địa chỉ đó thì hóa ra đó là một nhà máy sản xuất xương bánh chè nhân tạo, và cũng không ai trong đó từng nghe đến cái tên ông William Morris hay ông Duncan Ross."

"Sau đó thì ông làm gì?" Holmes hỏi.

"Tôi trở về nhà ở quảng trường Saxe Coburg và hỏi ý kiến của người phụ tá. Thế nhưng anh ta cũng không có cách nào giúp tôi được. Anh ta chỉ bảo rằng nếu tôi chịu khó đợi thì có lẽ sẽ nhận được thư qua đường bưu điện. Nhưng cách đó cũng không hay cho lắm, thưa ông Holmes. Tôi không muốn ngồi yên chịu mất một chỗ làm tốt như thế, vì thế mà khi tôi nghe nói là ông sẵn lòng đưa lời khuyên cho những người tội nghiệp đang cần đến nó, tôi liền đến gặp ông."

"Ông làm thế là rất khôn ngoan", Holmes nói. "Trường hợp của ông rất là khác thường, và tôi sẽ lấy làm vui sướng được nghiên cứu nó. Từ những gì ông đã kể, tôi nghĩ hậu quả của nó có thể còn nghiêm trọng hơn vẻ bề ngoài khi ta mới nhìn qua."

"Khá là nghiêm trọng đấy!" Ông Jabez Wilson nói. "Chứ sao, tôi đã mất đi bốn bảng mỗi tuần."

"Về phần ông", Holmes nhận xét, "tôi thấy ông không có điều gì đáng phàn nàn về cái hội lạ thường này. Ngược lại, theo như tôi hiểu, ông đã kiếm thêm hơn ba mươi bảng, đó là chưa kể đến chút kiến thức mà ông đã thu nhận được về từng đề mục nằm trong mẫu tự A. Họ chẳng lấy đi thứ gì của ông cả."

"Không đâu, thưa ông. Nhưng tôi muốn biết về họ, họ là ai, và mục đích của họ là gì trong vụ chơi khăm tôi - nếu đó quả thật là một trò chơi khăm. Vụ này cũng khá tốn kém đối với họ vì họ đã chi ra những ba mươi hai bảng."

"Chúng tôi sẽ cố gắng làm sáng tỏ những điểm này cho ông. Và, trước tiên xin hỏi một vài câu, thưa ông Wilson. Người phụ tá của ông chính là người đầu tiên làm cho ông chú ý đến mẩu rao vặt - anh ta đã ở với ông được bao lâu?"

"Đến lúc đó là khoảng một tháng."

"Anh ta đã đến chỗ ông như thế nào?"

"Theo mục cần người."

"Có phải anh ta là ứng viên duy nhất không?"

"Không phải, có khoảng hơn chục người."

"Vậy tại sao ông lại chọn anh ta?"

"Vì anh ta khéo léo và hài lòng với tiền công rẻ."

"Thực tế là chỉ phân nửa mức lương?"

"Đúng vậy."

"Trông anh ta ra sao, cái anh chàng Vincent Spaulding ấy?"

"Thấp người, to khỏe, rất nhanh nhẹn, không có râu dù anh ta không dưới ba mươi. Có một vệt trắng trên trán do axít."

Holmes ngồi nhổm dậy trên ghế với vẻ phấn khích thấy rõ. "Tôi cũng nghĩ như vậy", anh nói tiếp. "Có bao giờ ông để ý thấy tai anh ta có lỗ để đeo khuyên tai không?"

"Có, thưa ông. Anh ta bảo tôi là một người Digan đã xỏ lỗ tai cho anh ta lúc còn nhỏ."

"Hừm!" Holmes nói rồi chìm lắng trong suy tư. "Anh ta hãy còn ở chỗ ông chứ?"

"Ồ, vâng, thưa ông. Lúc tôi đi anh ta vẫn ở nhà."

"Và công việc của ông vẫn được trông nom chu đáo trong khi ông vắng mặt chứ?"

"Không có gì đáng phàn nàn, thưa ông. Vào buổi sáng bao giờ cũng ít việc."

"Thế là đủ, ông Wilson. Tôi sẽ rất sung sướng báo cho ông biết kết quả vụ này trong một hoặc hai ngày nữa. Hôm nay là thứ bảy và tôi hi vọng đến thứ hai chúng ta có thể đưa ra kết luận."

"Này, Watson", Holmes nói khi người khách đã ra về, "anh hiểu gì về chuyện này?"

"Tôi chẳng hiểu gì cả", tôi thành thật trả lời. "Vụ này hết sức bí ẩn."

"Theo lệ thường", Holmes nói, "sự việc càng kì dị thì lại càng ít bí ẩn. Chính những vụ án bình thường, không có nét gì đặc biệt mới thật sự là khó hiểu, giống như một khuôn mặt tầm thường thì càng khó nhận diện. Nhưng tôi phải tiến hành thật nhanh vụ này."

"Vậy, anh định làm gì?" Tôi hỏi.

"Hút thuốc", anh trả lời. "Đây là một vấn đề cần tới ba tẩu thuốc, và xin anh đừng nói gì với tôi trong năm mươi phút." Anh ngồi thu lu trên ghế, hai đầu gối gầy guộc nhô lên đến tận cái mũi diều hâu, mắt nhắm nghiền, cái tẩu bằng đất sét đen thò ra phía trước trông giống như cái mỏ của một loài chim kì lạ. Tôi ngỡ là anh đã ngủ thiếp đi và đến lượt mình, tôi cũng đang gà gật thì đột nhiên anh nhảy vọt ra khỏi ghế, vẻ như đã đi đến quyết định và đặt cái tẩu thuốc lên mặt lò sưởi. "Sarasate sẽ trình diễn ở nhà hát St. James chiều nay", anh bảo. "Anh nghĩ sao hả Watson? Liệu các bệnh nhân có thể để anh yên vài giờ chứ?"

"Hôm nay tôi không phải làm gì cả. Công việc của tôi chẳng khi nào chiếm nhiều thời gian."

"Thế thì đội mũ vào và đi thôi. Ta sẽ ra khu City trước và ăn trưa trên đường đi. Tôi thấy tờ chương trình thông báo là sẽ có nhiều tiết mục âm nhạc Đức vốn hợp với sở thích của tôi hơn là nhạc Ý hay Pháp. Loại nhạc này mang tính nội tâm và tôi đang muốn xem xét nội tâm đây. Lên đường thôi!"

Chúng tôi đi xe điện ngầm đến tận Aldersgate; rồi đi bộ một quãng ngắn đến quảng trường Saxe Coburg nơi xảy ra câu chuyện kì lạ mà chúng tôi đã được nghe kể lúc sáng nay. Đó là một khu vực nhỏ hẹp, tồi tàn có vẻ đã sa sút nhiều với bốn dãy nhà gạch hai tầng xám xịt trông ra một đám đất nhỏ có hàng rào, trong đó có một bãi cỏ dại um tùm và vài lùm nguyệt quế tàn úa đang chống chọi với bầu không khí khô và sặc sụa khói. Ba quả bóng mạ vàng và một tấm biển màu nâu với hàng chữ Jabez Wilson màu trắng gắn lên một căn nhà nằm ở góc đường cho biết đây là nơi mà vị thân chủ tóc đỏ của chúng tôi điều hành công việc. Sherlock Holmes dừng lại trước nhà, nghiêng đầu sang một bên quan sát kĩ càng bằng đôi mắt sáng quắc nheo lại. Rồi anh chậm rãi bước lên đầu phố và đi trở xuống góc đường trong khi vẫn chăm chú nhìn vào những ngôi nhà. Cuối cùng thì anh quay trở lại cửa tiệm cầm đồ và sau khi dùng gậy gõ mạnh lên vỉa hè hai hoặc ba lần thì anh đi tới gõ cửa. Lập tức một chàng trai trẻ mặt mũi sáng sủa, râu cạo nhẵn ra mở cửa, anh ta mời Holmes bước vào.

"Cảm ơn", Holmes nói, "nhưng tôi chỉ muốn hỏi đường từ đây đến Strand."

"Rẽ phải ở ngã tư thứ ba, đến ngã tư thứ tư thì quẹo trái", người phụ tá nhanh chóng trả lời, rồi đóng cửa lại.

"Một gã tinh khôn đây", Holmes nhận xét khi chúng tôi bước đi. "Theo đánh giá của tôi, hắn là người tinh ranh đứng vào hàng thứ tư ở London, còn về sự liều lĩnh thì tôi dám chắc là hắn phải đứng vào hàng thứ ba. Tôi có biết đôi chút về con người này."

"Rõ là thế", tôi nói, "người phụ tá của ông Wilson đóng một vai trò quan trọng trong bí ẩn của hội Tóc Đỏ. Tôi dám chắc là việc hỏi đường chỉ là cái cớ để anh nhìn mặt gã."

"Không phải nhìn mặt hắn ta."

"Thế thì cái gì?"

"Hai đầu gối quần của hắn."

"Và anh đã nhìn thấy gì?"

"Điều mà tôi mong đợi."

"Thế tại sao anh lại gõ lên lề đường?"

"Bác sĩ thân mến, giờ là lúc quan sát chứ không phải để nói chuyện. Chúng ta đang là những điệp viên trong lòng địch. Chúng ta đã biết đôi điều về quảng trường Saxe Coburg. Giờ hãy tìm hiểu có những gì phía sau nó."

Con đường mà chúng tôi đến sau khi rẽ ngoặt lại ở góc khu quảng trường Saxe Coburg vắng lặng lại bày ra một sự tương phản to lớn như là mặt trước và sau của một bức tranh. Đó là một trong những nhánh giao thông chính nối khu City với khu vực phía bắc và phía tây. Lòng đường kín đặc bởi một dòng chuyển động khổng lồ đang chảy theo hai chiều vào và ra, còn lối đi bộ thì đen nghịt những đám khách bộ hành đang vội vã bước. Khó mà hình dung được con đường có những cửa hiệu đẹp đẽ và những tòa văn phòng uy nghi nơi chúng tôi đang nhìn thấy lại là mặt sau của cái quảng trưởng ảm đạm mà chúng tôi vừa mới rời khỏi.

"Để tôi xem nào", Holmes nói khi đứng ở góc đường và nhìn dọc suốt con đường. "Tôi muốn ghi nhớ thứ tự những ngôi nhà ở đây. Hiểu biết chính xác về London là một thú vui của tôi. Đây là tiệm thuốc lá Mortimer, rồi sạp báo nhỏ, kế tiếp là chi nhánh Coburg của Nhà băng City & Suburban, một tiệm ăn chay và nhà kho của Công ty McFarlane. Chỗ đó dẫn chúng ta đến thẳng một khu nhà khác. Và giờ thì, bác sĩ ạ, chúng ta đã hoàn thành công việc, đến lúc vui vẻ một chút. Một miếng bánh sandwich và một cốc cà phê, rồi sau đó đi đến xứ sở vĩ cầm, nơi mọi thứ đều ngọt ngào, thanh tao và hài hòa, ở đó sẽ chẳng có ông khách tóc đỏ nào đến quấy rầy chúng ta với những câu đố hóc búa của họ."

Bạn tôi là một người say mê âm nhạc, anh không chỉ chơi nhạc cụ rất giỏi mà còn có tài soạn nhạc không tầm thường. Suốt buổi chiều hôm đó anh ngồi ở hàng ghế gần sân khấu, chìm đắm trong niềm hạnh phúc trọn vẹn nhất, khẽ vẫy những ngón tay thon dài theo nhịp điệu, với khuôn mặt hơi mỉm cười và đôi mắt mơ màng khác một trời một vực với Holmes - kẻ đánh hơi tội phạm, Holmes là một chuyên gia hình sự bền bỉ, thông minh sắc sảo, luôn sẵn sàng ra tay. Trong tính cách khác thường của anh, bản chất hai mặt luân phiên bộc lộ, và tôi thường nghi tính chính xác cực độ cùng với sự sắc sảo tinh khôn của anh chính là phản ứng ngược của tâm trạng thi vị và thích suy tư đôi khi chiếm ưu thế trong con người anh. Những pha đảo chiều đưa anh đi từ trạng thái thiếu sinh khí sang mức tràn trề năng lượng, và tôi biết rất rõ, con người anh đáng gờm nhất là vào những thời điểm sau khi đã uể oải ngồi lì trên ghế bành giữa những khúc ngẫu hứng và những ấn bản chữ đen suốt nhiều ngày. Thế rồi, khao khát săn đuổi đột nhiên bừng lên trong anh và năng lực suy luận khác thường của anh tăng vọt lên thành trực giác, đến nỗi những ai vốn không quen với các phương thức của anh sẽ ngờ vực nhìn anh như một con người có hiểu biết phi phàm. Trong buổi chiều đó khi tôi nhìn anh đang tận hưởng âm nhạc trong nhà hát St. James, tôi cảm thấy những kẻ mà anh đã quyết tâm săn lùng sắp xui tận mạng rồi.

"Chắc là anh muốn quay về nhà phải không, bác sĩ?" Anh nhận xét, khi chúng tôi bước ra.

"Vâng, tôi cũng muốn về rồi."

"Còn tôi thì lại có một số công việc cần làm, mất chừng vài giờ. Vụ quảng trường Coburg rất nghiêm trọng."

"Sao lại nghiêm trọng?"

"Có kẻ đang suy tính một tội ác tầm cỡ. Tôi có lí do để tin tưởng là chúng ta sẽ có mặt kịp thời để ngăn chặn nó. Nhưng vì đêm nay là thứ bảy nên sự việc trở nên rắc rối hơn. Tôi sẽ cần đến sự hỗ trợ của anh vào đêm nay."

"Lúc mấy giờ?"

"Khoảng 10 giờ là được."

"Tôi sẽ có mặt ở phố Baker lúc 10 giờ."

"Rất tốt. Tôi nói này, bác sĩ, có thể có đôi chút nguy hiểm đấy, vì thế hãy nhớ thủ sẵn khẩu súng lục của anh trong túi." Anh vẫy tay, quay gót đi và trong chớp mắt đã biến mất giữa đám đông.

Tôi vẫn tin rằng mình không đến nỗi đần độn hơn những người khác, thế nhưng ý thức về sự ngu ngốc của mình cứ đè nặng lên tôi mỗi lần tiếp xúc với Sherlock Holmes. Tôi cũng nghe thấy những gì anh nghe, nhìn thấy những gì anh trông thấy, thế mà từ những gì anh nói ra thì hiển nhiên là anh đã thấy rõ không chỉ những gì đã xảy ra mà còn biết được điều gì sắp sửa xảy đến, trong khi đối với tôi thì toàn bộ sự việc hãy còn rối rắm và phi lí. Trên đường trở về nhà ở Kensington, tôi suy nghĩ mãi về toàn bộ sự việc, từ câu chuyện kì lạ về người tóc đỏ làm công việc sao chép bộ Encyclopaedia cho đến cuộc ghé thăm khu quảng trường Saxe Coburg và những lời cảnh báo mà anh đã nói khi giao nhiệm vụ cho tôi. Chuyến đi ban đêm này là gì, và tại sao tôi lại phải mang vũ khí? Chúng tôi sắp sửa đi đâu và sẽ làm gì? Tôi được Holmes gợi ý là gã phụ tá mặt mày nhẵn nhụi của ông chủ cửa hiệu cầm đồ là một kẻ ghê gớm - một kẻ có vai trò quan trọng trong trò chơi nguy hiểm này. Tôi cố gắng làm sáng tỏ vấn đề, nhưng đành phải bỏ cuộc trong tuyệt vọng và gạt nó sang một bên cho đến tận khi đêm tối sẽ đem lại một lời giải đáp.

Vào lúc 10 giờ kém 15 phút, tôi ra khỏi nhà, băng qua công viên, ngang qua phố Oxford rồi đến phố Baker. Hai cỗ xe ngựa hai bánh đã đậu sẵn ở cửa và tôi nghe thấy nhiều tiếng nói vọng ra từ trên nhà khi bước vào hành lang. Bước chân vào phòng, tôi trông thấy Holmes đang trò chuyện sôi nổi với hai người đàn ông, tôi nhận ra một trong hai người đó là viên cảnh sát Athelney Jones còn người kia thì cao gầy, bộ mặt buồn bã đội cái mũ bóng loáng và khoác áo choàng nặng trĩu oai vệ.

"Chà! Mọi người đã đến đông đủ rồi", Holmes vừa nói vừa mở cúc chiếc áo khoác dạ ngắn rồi lấy chiếc roi ngựa từ trên giá xuống. "Watson này, chắc anh đã biết ông Jones ở Sở Cảnh sát London chứ? Xin phép giới thiệu với anh ông Merryweather, người sẽ đồng hành cùng chúng ta trong cuộc mạo hiểm đêm nay."

"Ông thấy đấy, bác sĩ, chúng ta lại đi săn theo cặp." Jones nói với vẻ tự đắc. "Ông bạn của chúng ta đây là một người tuyệt vời để bắt đầu cuộc săn. Tất cả những gì ông ta cần là một con chó già để giúp ông ta phát hiện con mồi."

"Tôi hi vọng chúng ta không phải chỉ kiếm được có một con ngỗng trời vào cuối cuộc săn", ông Merryweather rầu rĩ nhận xét.

"Ông có thể đặt hết lòng tin vào ông Holmes đây, thưa ông", viên cảnh sát trịch thượng nói. "Ông ấy có riêng vài phương pháp nho nhỏ, mà, nếu như ông ấy không chấp nhất, thì tôi xin nói rằng những phương thức đó hơi quá lí thuyết và lập dị, tuy nhiên, ông ấy có tố chất của một thám tử. Cũng không quá lời nếu nói rằng trong một vài lần, ví dụ như vụ sát hại cậu cả nhà Sholto và kho báu Agra thì ông ấy gần như chính xác hơn lực lượng cảnh sát."

"Ồ, ông Jones ạ, nếu ông đã nói thế thì ổn thôi", người đàn ông lạ mặt nói xuôi theo. "Tuy vậy, tôi phải thú nhận là tôi đã thấy nhớ bộ bài. Hôm nay là tối thứ bảy đầu tiên trong suốt hai mươi bảy năm qua mà tôi không được chơi ván nào."

"Tôi cho là ông sẽ nhận ra", Sherlock Holmes nói, "là tối nay ông sẽ đặt một mức cược cao nhất mà từ trước đến giờ ông chưa bao giờ đặt, và ván bài tối nay sẽ hứng thú hơn nhiều. Vì phần ông, thưa ông Merryweather, món cược sẽ là ba mươi ngàn bảng; còn với ông Jones, đó là kẻ mà ông vẫn hằng mong ước sẽ tóm được"

"John Clay, tên giết người, trộm cắp, kẻ lưu hành tiền giả và giả mạo giấy tờ. Tuy hắn hãy còn trẻ, ông Merryweather ạ, nhưng đã là trùm trong nghề rồi, và tôi vẫn thích được tra còng vào tay hắn hơn bất kì tên tội phạm nào khác ở London. Hắn là một tay xuất chúng, cái gã trẻ John Clay ấy. Ông nội hắn là công tước, bản thân hắn thì đã từng học ở Eton và Oxford. Bộ óc của hắn cũng khéo léo như mấy ngón tay của hắn vậy, và dù cho chúng tôi đã từng phát hiện dấu vết của hắn ở khắp nơi nhưng vẫn chưa bao giờ biết được hắn đang ở đâu. Hắn vừa đào cửa khoét vách ở Scotland tuần trước thì tuần sau đã lại vận động quyên góp tiền để xây một trại mồ côi ở Cornwall. Tôi đã bám theo dấu vết của hắn suốt nhiều năm vậy mà vẫn chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy hắn."

"Tôi hi vọng là sẽ được hân hạnh giới thiệu hắn với ông tối nay. Tôi cũng từng gặp một, hai sự vụ nho nhỏ liên quan đến gã John Clay này và tôi đồng ý với ông rằng hắn quả là một cao thủ trong nghề. Bây giờ đã quá 10 giờ rồi, đã đến lúc chúng ta nên khởi hành. Nếu hai ông đi trên chiếc xe đầu tiên thì Watson và tôi sẽ đi theo trong chiếc xe còn lại."

Sherlock Holmes không nói chuyện nhiều trong suốt chuyến đi, anh nằm ngả ra phía sau xe, miệng ngân nga những giai điệu đã nghe được lúc ban chiều. Xe ngựa đi qua một mê cung dài bất tận những con đường được thắp sáng bằng đèn khí đốt cho đến khi đi vào phố Farrington.

"Chúng ta sắp đến nơi rồi." Bạn tôi nói. "Ông Merryweather là một giám đốc nhà băng, ông ta có lợi ích riêng dính dáng đến vụ này. Tôi nghĩ cũng nên có Jones đi cùng chúng ta. Hắn không phải người xấu tuy rằng về mặt chuyên môn thì đó là một tay khờ toàn diện. Hắn có một ưu điểm: gan dạ như một con chó bun và dai như đỉa một khi đã bám được vào đối tượng. Chúng ta đến nơi rồi, họ đang đợi ta."

Chúng tôi ngừng xe ở đúng con phố đông đúc mà sáng nay chúng tôi đã đến. Những cỗ xe rời đi và với sự hướng dẫn của ông Merryweather, chúng tôi đi xuống một lối đi hẹp, qua một cửa phụ ông ta mở ra cho chúng tôi. Bên trong có một hành lang nhỏ, phía cuối là một cánh cửa sắt đồ sộ. Cánh cửa này được mở ra và chạy xuống dưới là một dãy bậc thang ngoằn ngoèo bằng đá, tận cùng là một cánh cổng to lớn khác. Ông Merryweather dừng lại để thắp một ngọn đèn rồi dẫn chúng tôi đi xuống một lối đi tối om, mùi đất ẩm nồng nặc, rồi cánh cửa thứ ba mở ra dẫn vào một khoang hầm khổng lồ chất đầy những thùng gỗ đóng thưa và hòm lớn.

"Chỗ ông không đến nỗi dễ đột nhập từ phía bên trên", Holmes nhận xét khi anh giơ cao ngọn đèn và chăm chú nhìn khắp xung quanh.

"Ngay cả bên dưới cũng thế", ông Merryweather đáp trong khi gõ chiếc gậy lên những phiến đá lót nền hầm. "Ối, trời đất ơi, nghe như có vẻ rỗng bên dưới!" Ông ta nhận xét, hai mắt ngước lên kinh ngạc.

"Tôi buộc phải yêu cầu ông nói khẽ thôi!" Holmes nghiêm giọng nói. "Tất cả thành quả trong chuyến đi này của chúng ta có nguy cơ bị đổ sông đổ biển hết nếu ông nói to như vậy. Xin phép yêu cầu ông vui lòng ngồi lên một trong những cái thùng này, và đừng xen vào, được chứ?" Ông Merryweather nghiêm nghị ngồi tạm xuống một cái thùng gỗ thưa, với vẻ mặt vô cùng bất mãn, trong khi Holmes quỳ xuống nền hầm, dùng đèn và kính lúp khám xét kĩ lưỡng những vết nứt giữa các phiến đá. Chỉ vài giây anh đã mãn nguyện vì anh đứng phắt dậy và nhét cái kính lúp vào túi.

"Chúng ta còn ít nhất một giờ nữa", anh nhận xét. "Bọn chúng khó mà hành động được trước khi ông chủ hiệu cầm đồ tốt bụng ngủ yên trên giường. Khi đó chúng sẽ không bỏ lỡ phút nào, vì chúng tiến hành càng sớm thì sẽ càng có nhiều thời gian để bỏ trốn. Bác sĩ này, tôi chắc là anh đã đoán ra, hiện giờ chúng ta đang ở trong hầm chi nhánh của một trong những nhà băng lớn của London tại khu City, ông Merryweather đây là chủ tịch hội đồng quản trị, và ông ta sẽ giải thích cho anh hiểu vì sao mà lúc này bọn tội phạm táo tợn nhất London lại rất quan tâm đến căn hầm này."

"Đây là nơi dự trữ vàng được vay từ Pháp của chúng tôi", ông chủ tịch thì thầm. "Chúng tôi đã nhận được một số lời cảnh báo về mưu toan nhằm vào chỗ vàng này."

"Vàng vay từ Pháp của các ông?"

"Vàng. Vài tháng trước chúng tôi có cơ hội tăng cường nguồn dự phòng cho nhà băng do đó chúng tôi đã mượn thêm hai mươi ngàn đồng napoléon từ Nhà băng Pháp quốc. Người ta đã biết chúng tôi chưa có dịp mở những thùng tiền này ra, và chúng hãy còn nằm trong hầm. Trong cái thùng mà tôi đang ngồi lên có chứa hai ngàn đồng napoléon được gói trong những lá thép mỏng. Lúc này kho dự trữ vàng thỏi của chúng tôi trữ một lượng vàng nhiều hơn lượng bình thường tại một nhà băng chi nhánh rất nhiều và hội đồng quản trị rất lo âu về vấn đề này."

"Nỗi lo đó rất có cơ sở", Holmes nhận xét. "Và giờ thì đã đến lúc phải chuẩn bị cho kế hoạch nho nhỏ của chúng ta. Tôi tin chắc chỉ trong vòng một giờ nữa là có biến. Từ giờ đến lúc đó, thưa ông Merryweather, chúng ta phải che kín ngọn đèn này lại."

"Và ngồi trong bóng tối?"

"Tôi e là phải thế thôi. Tôi vốn đem theo một bộ bài trong túi, và tôi đã nghĩ rằng, vì chúng ta có đủ một partie carrée, nên ông vẫn có thể chơi một ván. Nhưng xét thấy sự chuẩn bị của đối thủ cũng đã gần xong nên chúng ta không thể liều lĩnh để đèn sáng. Trước tiên, chúng ta phải chọn vị trí cho mỗi người. Bọn tội phạm này rất táo tợn và cho dù chúng ta sẽ chiếm trên cơ, chúng vẫn có thể gây tổn hại cho chúng ta nếu ta không cẩn thận. Tôi sẽ đứng ở phía sau cái thùng này, và các ông hãy nấp vào sau những hòm kia. Khi nào tôi chiếu đèn vào bọn chúng, hãy nhanh chóng xáp lại. Nếu bọn chúng nổ súng, Watson, đừng do dự gì mà hãy bắn gục chúng."

Tôi đặt khẩu súng đã lên cò trên cái thùng gỗ mà tôi nấp phía sau. Holmes gạt tấm che ra trước ngọn đèn và bóng tối như mực trùm kín chúng tôi - tôi chưa từng ở trong cảnh tối tăm tuyệt đối như thế bao giờ. Mùi kim loại bị đốt nóng hãy còn vương vất như trấn an chúng tôi rằng ánh sáng hãy còn đây và sẵn sàng bừng lên trong phút chốc. Với các dây thần kinh ngóng đợi đang căng dần đến cực độ, tôi thấy bóng tối ảm đạm và bầu không khí lạnh lẽo ướt át của căn hầm có gì đó u ám và đáng nản.

"Bọn chúng chỉ có một lối thoát duy nhất", Holmes thì thầm. "Đó là lui lại qua căn nhà ở quảng trường Saxe Coburg. Tôi hi vọng là ông đã thực hiện điều mà tôi yêu cầu chứ, ông Jones?"

"Tôi đã phân công một viên thanh tra và hai cảnh sát đợi ở cửa trước."

"Thế là chúng ta đã bít hết mọi khe hở. Và giờ thì chúng ta phải giữ yên lặng và chờ đợi."

Thời gian trôi mới chậm chạp làm sao! Sau này tôi so sánh lại những ghi chép thì thấy khoảng thời gian đó chỉ mới có một giờ mười lăm phút, vậy mà tôi cứ ngỡ là đêm đã qua và trời sắp sửa rạng sáng ở phía bên trên. Hai chân tôi mỏi nhừ và cứng đờ vì không dám đổi tư thế; tuy vậy các dây thần kinh của tôi vẫn căng thẳng đến mức cao nhất, và thính giác thì nhạy bén đến nỗi không những tôi có thể nghe được tiếng thở nhẹ nhàng của những người bạn đồng hành, mà còn phân biệt được tiếng hô hấp sâu và nặng nề hơn của ông Jones to kềnh càng cùng với tiếng thở dài và mỏng của ông chủ tịch nhà băng. Từ vị trí của mình, tôi có thể nhìn qua nắp thùng về phía nền hầm. Đột nhiên, mắt tôi nhìn thấy một tia sáng.

Lúc đầu đó chỉ là một đốm sáng nhợt nhạt ló ra trên nền đá. Dần dần nó kéo dài ra đến khi trở thành một vệt màu vàng, và rồi bất thình lình, không hề có một dấu hiệu hay tiếng động nào báo trước, một vết cắt mở ra và xuất hiện một bàn tay trắng trẻo, gần giống như tay phụ nữ, đang sờ soạng ở chính giữa vùng sáng hẹp. Trong khoảng một phút hay hơn, bàn tay đó chậm rãi cử động, thò ra khỏi sàn nhà. Rồi nó chợt rút về cũng đột ngột như khi xuất hiện, tất cả tối sầm trở lại, chỉ trừ đốm sáng nhợt nhạt đơn độc đánh dấu một khe hở giữa những viên đá. Tuy vậy, bàn tay chỉ biến mất trong thoáng chốc. Một tiếng động mạnh và sắc vang lên, một trong những tảng đá trắng to rộng bị lật sang bên để lộ ra một lỗ hình vuông, qua đó hắt lên ánh sáng của một ngọn đèn. Qua mép hố, một khuôn mặt sáng sủa và trẻ trung như một thiếu niên nhô lên, khuôn mặt đó quan sát chung quanh với cái nhìn sắc bén, rồi gã bám một bàn tay vào mép hố và tự nâng mình lên. Bắt đầu là hai vai và hông đến khi đặt được một đầu gối lên mép hố. Chỉ một khoảnh khắc hắn đã đứng lên bên miệng hố và kéo theo sau một đồng bọn, cũng mảnh mai và nhỏ nhắn giống như hắn, mặt nhợt nhạt và đầu tóc bù xù đỏ rực.

"Ổn rồi", hắn thì thầm. "Mày có đem theo đục và mấy cái bao chứ?... Thôi rồi! Nhảy đi, Archie, nhảy đi và tao sẽ xoay xở ở đây."

Sherlock Holmes nhảy vọt ra và nắm lấy cổ áo của gã vừa mới trồi lên. Tên kia thì đâm bổ xuống hố, tôi nghe tiếng vải bị xé rách khi Jones chộp lấy vạt áo của hắn. Ánh sáng làm lóe lên nòng của một khẩu súng nhưng roi ngựa của Holmes đã vụt xuống cổ tay hắn, khẩu súng rơi xuống, kêu leng keng trên nền đá.

"Vô ích thôi, John Clay", Holmes ôn tồn nói. "Mi chẳng còn cơ may nào nữa."

"Tôi cũng thấy vậy", gã kia vô cùng bình tĩnh đáp trả. "Tôi cho rằng bạn của tôi đã thoát rồi, cho dù ông đã chộp được vạt áo sau của hắn."

"Còn có ba người đang đứng đợi hắn ở cửa", Holmes nói.

"Ồ, thế à! Có vẻ các ông đã làm việc đâu ra đấy. Tôi phải chúc mừng ông mới được."

"Ta cũng phải có lời khen ngợi mi", Holmes đáp. "Cái ý tưởng tóc đỏ của mi rất là mới mẻ và hiệu quả đấy."

"Mi cũng sẽ sớm gặp lại thằng bạn đó thôi", Jones nói. "Hắn nhanh hơn ta về tài trèo xuống hố. Đưa hai tay ra để ta đeo còng cho."

"Tôi xin ông đừng có chạm bàn tay dơ bẩn của ông vào người tôi", gã tù nhân của chúng tôi nói khi chiếc còng kêu lanh canh trên cổ tay hắn. "Có thể ông không biết là tôi xuất thân hoàng tộc. Ngoài ra, khi nói chuyện với tôi, xin các ông hãy luôn luôn dùng các từ 'thưa ngài''xin vui lòng'."

"Được thôi", Jones nói, mắt chăm chú nhìn hắn với một nụ cười khẩy. "Vâng, thưa ngài, xin vui lòng bước lên cầu thang, nơi mà chúng tôi có thể kiếm một cỗ xe để đưa ngài về đồn cảnh sát, có được không?"

"Tốt hơn rồi đấy", John Clay long trọng đáp. Hắn nghiêng mình chào một vòng cả ba chúng tôi rồi lặng lẽ bước đi dưới sự canh giữ của viên thám tử.

"Ông Holmes ạ", ông Merryweather nói khi chúng tôi đi theo họ ra khỏi căn hầm, "tôi không biết nhà băng có thể cảm ơn ông hoặc đền đáp ông như thế nào. Không còn nghi ngờ gì nữa, ông đã phát hiện ra và đánh bại triệt để một trong những âm mưu cướp nhà băng liều lĩnh nhất mà tôi từng gặp."

"Chính tôi cũng có một vài món nợ nho nhỏ phải thanh toán với tên John Clay", Holmes nói. "Tôi đã chi tiêu một món tiền cho vụ này, hi vọng là nhà băng sẽ hoàn lại, nhưng ngoài việc đó ra thì tôi cũng đã được trả công dư dả khi thu được một kinh nghiệm độc đáo trên nhiều phương diện, và được nghe câu chuyện rất đặc biệt về hội Tóc Đỏ."

***

"Anh thấy đấy, Watson", anh giải thích vào buổi sáng sớm khi chúng tôi ngồi nhâm nhi whisky pha soda trong ngôi nhà ở phố Baker, "ngay từ đầu đã có thể thấy rõ mục tiêu duy nhất của mẩu rao vặt kì quái, và công việc chép lại cuốn Encyclopaedia chính là kéo ông chủ cửa hiệu cầm đồ không được thông minh cho lắm ra khỏi nhà vài giờ mỗi ngày. Quả thật cách này khá là lạ lùng thế nhưng cũng khó mà đưa ra một biện pháp tốt hơn. Rõ ràng cách thức này là do đầu óc mưu trí của Clay nghĩ ra dựa vào màu tóc đỏ của tên đồng phạm của hắn. Món tiền bốn bảng mỗi tuần hẳn là một miếng mồi rất hấp dẫn với ông chủ hiệu cầm đồ và nó có đáng là bao đối với chúng, những kẻ đang lao vào canh bạc để thắng hàng ngàn? Chúng cho đăng quảng cáo, rồi một gã lừa đảo mở một văn phòng tạm, tên xỏ lá khác thì xúi giục ông chủ hiệu nộp đơn ứng tuyển, cả hai phối hợp với nhau để làm sao cho ông ta vắng mặt các buổi sáng trong tuần. Ngay từ lúc nghe kể rằng gã phụ tá chỉ nhận có nửa lương thì tôi đã thấy rõ rằng hắn phải có một động cơ mạnh mẽ để chiếm được vị trí đó."

"Nhưng làm thế nào mà anh đoán ra động cơ đó là gì?"

"Nếu như có phụ nữ ở trong nhà thì tôi đã ngờ rằng đó chỉ đơn thuần là chuyện dan díu tầm thường. Tuy nhiên, trường hợp này không phải thế. Cửa hiệu của ông ta cũng nhỏ và trong nhà lại không có thứ gì đáng giá để giải thích cho sự chuẩn bị kĩ lưỡng đến thế. Vậy thì động cơ đó là gì? Tôi nghĩ đến sự ưa thích nhiếp ảnh của tay phụ tá, và cái mánh lới biến mất vào trong hầm của hắn. Cái hầm! Đó là đầu mối của mớ rối rắm này. Thế rồi tôi tiến hành điều tra về gã phụ tá bí ẩn này và phát hiện ra là mình phải đối phó với một trong những tên tội phạm máu lạnh và liều lĩnh nhất London. Hắn đang làm chuyện gì đó tại căn hầm - một chuyện cần đến nhiều giờ mỗi ngày trong nhiều tháng liên tục. Lại thêm một câu hỏi nữa, đó là việc gì? Tôi không thể nghĩ ra được điều gì ngoại trừ việc hắn đang đào một đường hầm đến một tòa nhà khác.

Tôi suy ra đến đó khi chúng ta đến xem hiện trường. Tôi khiến anh ngạc nhiên khi dùng gậy gõ lên lề đường. Tôi phải xác định xem căn hầm trổ ra phía trước hay phía sau căn nhà. Nó không trổ ra trước. Thế rồi tôi bấm chuông, đúng như tôi hi vọng, gã phụ tá ra mở cửa. Trước đó, chúng tôi đã đụng độ nhau mấy lần, nhưng cả hai đều chưa từng nhìn tận mặt nhau. Tôi hầu như không nhìn vào mặt hắn. Cái tôi cần quan sát chính là hai đầu gối của hắn. Chắc là anh trông thấy tận mắt đầu gối quần của hắn xơ mòn, nhăn nhúm và lấm bẩn như thế nào. Điều đó chứng minh công việc đào bới kéo dài hàng giờ. Điểm duy nhất còn lại là chúng đào như thế để làm gì. Tôi bước vòng qua góc đường và nhìn thấy chi nhánh Nhà băng City & Suburban giáp với căn nhà của ông bạn chúng ta, và cảm thấy là mình đã tìm được lời giải. Khi anh trở về nhà sau buổi hòa nhạc, tôi yêu cầu Sở Cảnh sát London hỗ trợ và mời ông chủ tịch hội đồng quản trị của nhà băng, và kết quả là như anh đã thấy."

"Làm thế nào mà anh biết được là chúng sẽ tiến hành mưu toan của mình vào tối nay?" Tôi hỏi.

"Ồ, khi chúng đóng cửa văn phòng hội thì đó là dấu hiệu cho biết chúng không còn quan tâm đến sự hiện diện của ông Jabez Wilson nữa - nói cách khác là chúng đã hoàn tất việc đào hầm. Nhưng điều chủ yếu là chúng phải sử dụng nó ngay, vì có thể sẽ bị phát hiện hoặc là những thỏi vàng sẽ được dời đi. Thứ bảy thì thích hợp hơn những ngày khác vì chúng sẽ có được hai ngày để tẩu tán. Với tất cả những lí do trên, tôi tin chắc rằng bọn chúng sẽ đến vào tối nay."

"Anh suy luận mới tuyệt làm sao", tôi kêu lên với sự ngưỡng mộ chân thành. "Đó quả là một chuỗi mắt xích thật dài, thế mà từng mắt xích đều khớp với nhau vừa khít."

"Chuyện này giúp tôi thoát khỏi sự nhàm chán", anh vừa trả lời vừa ngáp. "Chao ôi! Tôi lại đã cảm thấy sự tẻ nhạt đang kéo đến quanh mình. Cuộc đời của tôi đã dốc hết vào một chuỗi dài nỗ lực nhằm thoát ra khỏi sự tồn tại tầm thường. Những vụ nho nhỏ này giúp tôi làm được điều đó."

"Và anh là một người làm phúc cho nhân loại", tôi nói.

Anh nhún vai. "Ừ, có lẽ xét cho cùng thì việc đó cũng có chút giá trị", rồi nhận xét: L'homme c'est rien - l'oeuvre c'est tout, như Gustave Flaubert đã viết cho George Sand."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro