DẤU BỘ TỨ (THE SIGN OF THE FOUR, 1890)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1. Khoa học suy luận

Sherlock Holmes lấy cái lọ của mình ở góc bệ lò sưởi rồi mở chiếc hộp bọc da tinh xảo lấy ống tiêm. Những ngón tay dài, trắng bệch, bồn chồn của anh điều chỉnh mũi kim nhỏ và xắn ống tay áo bên trái lên. Anh trầm tư một thoáng, không rời mắt khỏi cườm tay và cẳng tay gân guốc chi chít toàn đốm và sẹo của vô số dấu chích. Cuối cùng anh đâm mũi kim nhọn vào thật sâu, ấn mạnh cái piston bé tí, rồi ngả lưng buông thõng người trong chiếc ghế bành bọc nhung, phả ra một hơi thở dài thỏa mãn.

Mỗi ngày ba lần, suốt nhiều tháng liền tôi đã chứng kiến màn diễn đó, nhưng việc thấy thường xuyên vẫn không làm cho tôi chấp nhận được. Trái lại, càng ngày tôi càng bực mình hơn trước cảnh tượng ấy, và đêm đêm lương tâm tôi cứ dằn vặt với ý nghĩ rằng mình đã không đủ dũng khí để phản kháng. Bao lần tôi thề là sẽ nói cho rốt ráo chuyện này nhưng rồi trong dáng vẻ lạnh lùng, thờ ơ của anh bạn tôi có gì đó khiến người khác tuyệt không muốn tự tiện dây vào dù chỉ một mảy may. Tài năng, phong thái quyền uy, và những gì tôi đã biết về nhiều phẩm chất phi thường của anh, tất cả đã khiến tôi rụt rè, ngần ngại không dám can ngăn.

Thế nhưng chiều hôm đó, không biết là do loại rượu Beaune tôi đã uống khi ăn trưa hay do bị chọc giận thêm vì cái kiểu cách khoan thai quá mức của anh, tôi đột nhiên cảm thấy mình không thể chịu đựng được hơn nữa.

"Hôm nay là thứ gì đây?" Tôi hỏi, "Morphine hay cocaine?"

Anh uể oải ngước mắt lên khỏi pho sách cổ bìa da màu đen mà anh vừa mở ra đọc.

"Cocaine", anh nói, "nồng độ 7%. Anh có muốn thử không?"

"Không thử", tôi đáp, giọng cộc cằn. "Sức khỏe của tôi vẫn chưa hồi phục sau chiến dịch Afghanistan. Tôi không muốn bắt cơ thể mình phải gánh chịu thêm bất kì áp lực nào khác."

Anh mỉm cười trước sự gay gắt của tôi. "Có lẽ anh đúng đấy, Watson", anh nói. "Tôi nghĩ là tác động của nó đối với thể chất là không tốt. Tuy vậy tôi thấy nó kích thích và làm cho tâm trí sáng suốt tột bậc tới mức tác dụng phụ kia không còn quan trọng gì mấy"

"Nhưng nghĩ lại đi!" Tôi nói nghiêm túc. "Tổn hại lắm! Nó có thể làm đầu óc hưng phấn, như anh nói; nhưng đó là một hoạt động không lành mạnh và chỉ tổ khiến anh chuốc bệnh vào thân, nó làm tăng sự biến đổi mô và cuối cùng có thể để lại sự suy yếu vĩnh viễn. Anh cũng biết đấy, anh mà mất trí thì đúng là tai họa. Cái trò này chắc chắn là không đáng một xu. Tại sao chỉ vì một thú vui nhất thời mà anh lại liều đánh mất bao tài năng thiên phú của mình chứ? Hãy nhớ tôi nói với anh không chỉ với tư cách một người bạn, mà còn là bác sĩ nói với một người mà anh ta ít nhiều phải chịu trách nhiệm vì thể trạng."

Có vẻ như anh không bực mình. Trái lại, anh chụm các đầu ngón tay vào nhau và tì khuỷu lên hai tay vịn của ghế bành, giống như một người đang hứng thú trò chuyện.

"Đầu óc tôi không chịu được sự ù lì", anh nói. "Hãy cho tôi những vấn đề nan giải, hãy cho tôi việc làm, cho tôi thứ tài liệu viết bằng mật mã khó hiểu nhất hay nhiệm vụ phân tích phức tạp nhất, là tôi lập tức trở về phong độ đích thực của mình. Lúc đó tôi không cần tới những thứ kích thích giả tạo nữa. Nhưng tôi căm ghét trạng thái tồn tại đều đều tẻ nhạt. Tôi thèm khát sự thăng hoa trí tuệ. Đó là lí do tôi chọn cái nghề đặc biệt này; hay nói đúng hơn, tôi đã tự tạo ra nó, vì trên toàn thế giới cũng chỉ có mình tôi làm nghề ấy."

"Thám tử không chính thức độc nhất ư?" Tôi nhướng mày nói.

"Thám tử cố vấn không chính thức độc nhất", anh đáp. "Tôi chính là tòa phúc thẩm cuối cùng và cao nhất trong nghề điều tra. Khi đám Gregson hay Lestrade, Athelney Jones bó tay chào thua - cũng phải nói là chuyện ấy xảy ra hoài - thì họ lại mang vụ án đến hỏi ý tôi. Tôi nghiên cứu các dữ kiện như một chuyên gia và đưa ra ý kiến của một chuyên gia. Tôi làm những vụ như thế chẳng hề vì danh lợi, nên tôi không xuất hiện trên một tờ báo nào. Bản thân công việc, niềm vui thú tìm ra một lĩnh vực để sử dụng những tài năng đặc biệt của mình, chính là sự tưởng thưởng cao nhất dành cho tôi. Nhưng mà chính anh cũng đã biết phần nào về phương pháp làm việc của tôi qua vụ Jefferson Hope rồi đó."

"Thực tình là vậy", tôi đổi giọng thân thiện. "Trong đời chưa có chuyện gì khiến cho tôi kinh ngạc nhường ấy. Thậm chí tôi còn viết lại chuyện đó thành một cuốn sách nhỏ với nhan đề có phần bay bướm là 'Cuộc điều tra màu đỏ'."

Anh lắc đầu buồn bã. "Tôi có đọc qua rồi", anh nói. "Thật tình tôi không thể tán dương anh vì cuốn sách đó. Việc điều tra là, hay lẽ ra phải là, một môn khoa học chính xác, và phải được phản ánh với cùng một cung cách thản nhiên và vô cảm như thế. Anh lại muốn nó nhuốm màu sắc chủ nghĩa lãng mạn, hiệu ứng tạo ra chẳng khác gì khi anh nhào nặn một chuyện tình hay chuyện bỏ nhà theo trai thành tiên đề thứ năm của Euclid."

"Nhưng bản thân chuyện đó li kì mà", tôi cãi lại. "Tôi đâu thể bịa đặt các tình tiết thực."

"Một số tình tiết thực lẽ ra nên loại bỏ, hoặc chí ít thì khi đề cập tới cũng phải để ý sao cho có cảm giác tương xứng. Điểm duy nhất đáng nói trong vụ đó là quá trình suy luận mang tính phân tích cặn kẽ từ nguyên nhân đến kết quả mà nhờ đó tôi đã phá án thành công."

Tôi phiền lòng khi bị chỉ trích vì một công trình tôi viết chỉ để làm vui lòng anh. Cũng phải thú thật là tôi bực mình vì cái thói độc tôn dường như cứ đòi hỏi câu nào trong cuốn sách của tôi cũng phải viết về những việc làm của riêng mình anh. Đã hơn một lần trong những năm tháng sống cùng anh ở phố Baker này, tôi nhìn ra tính phù phiếm vặt vãnh đó ẩn giấu dưới phong thái trầm tĩnh và mô phạm của anh bạn tôi. Dù vậy, tôi chẳng hề đáp trả mà chỉ ngồi chăm sóc cái chân bị thương. Trước đây tôi đã bị một viên đạn Jezail bắn vào chân và tuy không cản trở việc đi lại nhưng mỗi khi chuyển mùa nó lại gây đau nhức khó chịu.

"Phạm vi hành nghề của tôi gần đây lại mở rộng sang Âu châu lục địa", Holmes nói tiếp sau một hồi im lặng nhồi thuốc vào cái tẩu cũ làm bằng rễ thạch nam. "Tuần rồi một người cần tôi tư vấn là ông Francois Le Villard, chắc anh biết ông ta là người mới nổi trong ngành điều tra ở Pháp, ông ta có đầy đủ trực giác nhạy bén của người Celt nhưng lại thiếu kiến thức ở nhiều lĩnh vực cần thiết để nâng tầm chuyên môn. Vụ này liên quan đến một di chúc và có nhiều điểm thú vị. Tôi gợi ý cho ông ta hai vụ tương tự, một ở Riga năm 1857 và một ở St. Louis năm 1871, nhờ đó mà ông ta đã tìm ra lời giải đúng đắn. Đây là lá thư cảm ơn tôi nhận được sáng nay".

Anh vừa nói vừa thảy lá thư sang chỗ tôi, một tờ giấy thuộc loại giấy viết thư của ngoại quốc, đã nhàu nhĩ. Tôi xem qua và thấy nội dung đầy rẫy lời ca tụng, với những từ: Magnifiques, coup de maitres và tours de force., tất cả đều biểu lộ lòng ngưỡng mộ sâu sắc của người Pháp kia.

"Ông này viết cứ như trò nói với thầy", tôi nói.

"Ồ, ông ta đánh giá quá cao sự trợ giúp của tôi", Sherlock Holmes dửng dưng nói. "Bản thân ông ta cũng có nhiều tài đáng kể. Trong ba phẩm chất cần thiết của một điều tra viên lí tưởng thì ông ta có được hai rồi. Đó là khả năng quan sát và khả năng suy luận, ông ta chỉ thiếu kiến thức thôi và món đó thì có thể tích lũy theo thời gian. Hiện nay ông ta đang dịch những tác phẩm nho nhỏ của tôi sang tiếng Pháp đấy."

"Tác phẩm của anh?"

"Ồ, anh không biết à?" Anh vừa nói vừa cười. "Đúng vậy, tôi là thủ phạm đã viết ra một vài công trình khảo cứu. Toàn là những đề tài nặng nề về kĩ thuật. Chẳng hạn đây là bài 'Phân biệt tàn tro của các loại thuốc lá, trong đó tôi liệt kê một trăm bốn mươi dạng xì gà, thuốc lá và thuốc hút tẩu, kèm theo minh họa màu sự khác nhau giữa các loại tàn thuốc. Đây là một chi tiết liên tục xuất hiện trong các vụ án hình sự, và có khi lại là một manh mối cực kì quan trọng. Chẳng hạn, nếu như anh có thể tuyên bố dứt khoát là một vụ án mạng nào đó do một người hút xì gà lunkah của Ấn Độ gây ra thì hiển nhiên phạm vi truy tìm của anh sẽ thu hẹp lại. Dưới con mắt nhà nghề, tro màu đen của xì gà Trichinopoly và tàn xốp màu trắng của thuốc lá Birds Eye khác nhau rành rành như cải bắp khác khoai tây vậy."

"Anh đúng là có kì tài về tiểu tiết", tôi bình luận.

"Tôi đánh giá cao tầm quan trọng của chúng. Còn đây là khảo cứu của tôi về kĩ thuật điều tra dấu chân, với một số ý kiến về việc sử dụng vữa thạch cao để đổ khuôn lưu dấu vết. Còn nữa, cái này là một công trình nho nhỏ bàn tỉ mỉ về ảnh hưởng của nghề nghiệp đối với hình dạng bàn tay, có hình in thạch bản đủ kiểu bàn tay của thợ lợp ngói, thủy thủ, thợ làm nút bấc, thợ sắp chữ, thợ dệt đến thợ mài kim cương. Đây là vấn đề có lợi ích to lớn trong thực tiễn công việc điều tra khoa học, nhất là trong những trường hợp xác chết vô thừa nhận hay khi khám phá lai lịch tội phạm. Nhưng tôi sẽ làm anh phát chán vì thú vui của tôi mất."

"Không hề chán", tôi hăng hai đáp lời. "Đây lại là một trong những điều tôi thấy hấp dẫn nhất, đặc biệt là vì tôi đã có dịp quan sát anh áp dụng vào thực tế. Nhưng anh vừa nói đến quan sát và suy luận. Rõ ràng hai từ này ít nhiều bao hàm lẫn nhau."

"Ồ, không hẳn đâu", anh giảng giải trong lúc ngả lưng thoải mái vào ghế bành và phả ra những làn khói lam mù mịt từ tẩu thuốc. "Ví dụ nhé, khả năng quan sát cho tôi biết sáng nay anh đã tới bưu điện ở phố Wigmore, nhưng khả năng suy luận lại cho tôi biết khi ở đó anh đã gửi một bức điện tín."

"Đúng rồi!" Tôi thốt lên. "Cả hai đều đúng! Nhưng thú thật là tôi không hiểu làm sao anh kết luận được như thế. Tôi ra bưu điện là do ý muốn bất thần, và tôi cũng không hề nói chuyện này với ai cả."

"Bản thân việc này đơn giản thôi", anh vừa nói vừa cười khúc khích trước sự ngạc nhiên của tôi, "đơn giản một cách phi lí, tới mức có giải thích cũng bằng thừa; thế nhưng nó lại rất phù hợp để phân định các giới hạn của quan sát và suy luận. Quan sát cho tôi biết anh có một mảng đất màu đỏ dính trên mũi giày. Ngay đối diện bưu điện ở phố Wigmore, người ta vừa đào vỉa hè lên và bới đất vương vãi cho nên nếu anh muốn vào bưu điện, anh không thể không giẫm lên đám bùn đất này. Loại đất ở đó lại có màu đo đỏ đặc biệt, theo như tôi biết thì không nơi nào khác trong vùng đó có loại đất như vậy. Quan sát đến thế là hết. Còn lại toàn là suy luận."

"Vậy làm sao anh suy ra tôi gửi điện tín chứ?"

"À, tất nhiên tôi biết là trước đó anh đâu có viết lá thư nào, bởi cả buổi sáng tôi ngồi trước mặt anh mà. Tôi cũng thấy trên bàn giấy trống trải của anh đã có một tệp tem thư và cả một xấp dày bưu thiếp. Vậy anh ra bưu điện làm gì nếu không phải gửi điện tín? Loại trừ mọi khả năng khác thì khả năng còn lại phải là sự thực."

"Trong trường hợp này thì chắc chắn là thế rồi", tôi đáp sau một lúc suy nghĩ. "Nhưng như anh nói đấy, đây là chuyện hết sức đơn giản. Nếu tôi muốn kiểm tra các lí thuyết của anh bằng một thử thách khó hơn thì anh có cho là bất nhã không?"

"Ngược lại", anh trả lời, "như vậy tôi sẽ khỏi tiêm thêm một liều cocaine thứ hai. Tôi sẽ rất vui nếu như anh có thể đưa ra bất kì vấn đề nào cho tôi xem xét."

"Tôi từng nghe anh nói là bất kì vật dụng hằng ngày nào của một người cũng khó tránh khỏi lưu lại dấu vết cá nhân mà dựa vào đó một người quan sát thành thạo có thể nhận biết những điểm cá biệt ấy. Đây này, tôi có một chiếc đồng hồ quả quýt mới thuộc sở hữu của tôi. Xin anh vui lòng cho biết ý kiến về cá tính hay thói quen của chủ nhân trước được không?"

Tôi đưa cho anh chiếc đồng hồ mà trong lòng khấp khởi mừng thầm, bởi câu hỏi này, theo tôi nghĩ, là không thể giải đáp và tôi muốn dùng một bài học để đáp trả cái giọng điệu có phần võ đoán mà thỉnh thoảng anh để lộ ra. Anh giữ chiếc đồng hồ thăng bằng trên bàn tay, nhìn chăm chú vào mặt số, mở nắp đáy ra xem máy móc bên trong, lúc đầu bằng mắt thường rồi sau đó soi qua một thấu kính lồi có độ khuếch đại lớn. Sau cùng anh đóng nắp, trả lại đồng hồ cho tôi và tôi không sao nén được nụ cười trước bộ dạng ỉu xìu của anh.

"Hầu như chẳng có chi tiết gì", anh nhận xét. "Chiếc đồng hồ này mới được lau chùi gần đây nên tôi không tìm được những chi tiết nhiều ngụ ý nhất."

"Anh nói đúng!" Tôi đáp. "Nó đã được lau chùi trước khi gửi cho tôi." Trong thâm tâm tôi buộc tội bạn mình đã đưa ra một lí do hết sức không thỏa đáng và kém thuyết phục để bào chữa cho thất bại của anh. Anh mong đợi tìm thấy gì ở một chiếc đồng hồ chưa lau chùi chứ?

"Tuy không thỏa mãn nhưng việc xem xét của tôi không phải là không có kết quả", anh lên tiếng, ánh mắt mơ màng, đờ đẫn hướng lên trần nhà. "Nếu sai thì anh sửa nhé, tôi đoán chiếc đồng hồ này là của anh trai anh, anh ấy lại thừa hưởng nó từ cụ thân sinh ra anh."

"Anh đoán được từ chữ tắt H. W khắc ở lưng đồng hồ chứ gì?"

"Đúng vậy. Chữ W gợi đến họ của anh. Năm sản xuất khắc trên đồng hồ là gần năm mươi năm trước, và những chữ tắt đó cũng cũ kĩ như chiếc đồng hồ, cho nên nó được làm cho người của thế hệ trước. Những đồ tư trang như vậy thường trao cho con trai cả kế thừa, và anh này rất có thể mang tên trùng với tên cha. Nếu tôi nhớ không lầm thì cụ thân sinh ra anh đã mất nhiều năm rồi. Do đó, chiếc đồng hồ này thuộc về người anh cả của anh."

"Đến đây thì đúng", tôi nói. "Còn gì nữa không?"

"Anh này quen thói bừa bãi... rất bừa bãi và cẩu thả. Anh ta từng có tiền đồ do đời trước để lại nhưng đi phung phí cơ hội, sống một thời gian trong cảnh bần hàn, xen kẽ với đôi lúc sung túc ngắn ngủi, và sau cùng, vì nghiện rượu mà chết. Đó là tất cả những gì tôi có thể suy ra được."

Tôi nhảy bật khỏi ghế và nóng nảy đi khập khiễng quanh phòng, lòng tràn trề cay đắng. "Holmes, anh thật quá tệ!" Tôi nói. "Tôi thật không ngờ anh lại hèn hạ tới mức này. Anh đã dò la về người anh bất hạnh của tôi, rồi bây giờ anh lại vờ vĩnh làm như là suy đoán ra được một cách thần kì lắm. Anh đừng mong tôi tin là anh đọc được mọi thứ từ chiếc đồng hồ cũ của anh ấy! Làm thế không hay ho đâu, và nói thẳng ra luôn, chẳng khác gì trò bịp bợm."

"Bác sĩ thân mến ơi", anh nói ân cần, "tôi thật có lỗi với anh quá. Xem chuyện này như một vấn đề trừu tượng, tôi đã quên mất là đối với anh nó có thể rất riêng tư và đau đớn. Thế nhưng xin cam đoan với anh là trước khi anh đưa chiếc đồng hồ ra, tôi thậm chí còn không hề biết là anh có một người anh nữa kia."

"Thế thì tài tình làm sao khi anh biết được những chuyện này! Chính xác đến từng chi tiết."

"Ồ, may mắn thôi. Tôi chỉ có thể nói dựa trên xác suất. Tôi không ngờ là lại chính xác đến thế."

"Nhưng không phải là đoán mò đấy chứ?"

"Không, không, tôi không hề đoán mò. Đó là một thói quen rất xấu, phá hoại khả năng suy luận. Anh thấy lạ lùng chỉ vì anh không đi theo chuỗi tư duy của tôi hoặc không quan sát được những chi tiết nhỏ vốn là cơ sở cho những kết luận lớn. Chẳng hạn, đầu tiên tôi nói rằng anh trai anh là người cẩu thả. Khi quan sát mặt đáy chiếc đồng hồ, anh sẽ thấy không chỉ có hai vết hằn lõm mà nó còn bị trầy xước khắp nơi vì thói quen bỏ đồng hồ cùng với các vật cứng khác, như tiền xu hay chìa khóa, vào chung một túi. Từ đó là chuyện vặt khi suy ra rằng, người nào không biết giữ gìn một chiếc đồng hồ trị giá năm mươi guinea như thế thì hẳn phải là kẻ cẩu thả. Và ta không cần phải vắt óc mới suy ra được người thừa hưởng một vật có giá trị như thế hẳn cũng phải có điều kiện tốt ở nhiều phương diện khác."

Tôi gật đầu cho thấy mình vẫn theo kịp lập luận của anh.

"Khi nhận đồng hồ, các chủ hiệu cầm đồ ở Anh quốc có thông lệ là dùng một đầu kim nhọn vạch số phiếu cầm đồ vào mặt trong nắp. Vạch như thế tiện hơn là dán nhãn và không sợ gặp rủi ro là số hiệu sẽ bị mất hay xê dịch. Nhìn qua thấu kính, tôi thấy rõ mặt trong nắp này có ít nhất bốn số như thế. Suy ra anh trai anh thường xuyên túng quẫn. Suy luận tiếp theo, anh ấy cũng có lúc phất lên, nếu không thì làm sao anh ấy chuộc lại vật thế chấp này được. Cuối cùng, tôi muốn anh nhìn tấm lắc phía trong, chỗ có lỗ tra chìa khóa lên dây cót đấy. Hãy nhìn hàng ngàn vết trầy trụa quanh cái lỗ đó, những dấu vết cho thấy chìa khóa bị trượt ra ngoài. Có ai tỉnh táo mà lại làm trầy xước được như thế chăng? Nhưng đồng hồ của người nghiện rượu bao giờ cũng có những vết xước này. Anh ấy lên dây cót đồng hồ vào buổi tối và bàn tay run rẩy của anh ấy đã lưu lại những dấu vết như vậy. Chuyện này có gì bí ẩn đâu?"

"Rõ như ban ngày", tôi đáp. "Tôi rất tiếc đã bất công với anh. Lẽ ra tôi phải tin tưởng vào tài năng phi thường của anh mới đúng. Cho phép tôi hỏi dạo này anh có tản bộ ra ngoài điều tra gì không?"

"Không hề. Cho nên mới dùng cocaine. Tôi không thể sống mà không động não được. Sống để làm gì cơ chứ? Lại cửa sổ này mà xem. Thế giới có bao giờ lại ảm đạm, buồn nản, vô vị như thế này không? Hãy xem màn sương vàng vọt đang quay vần dưới phố và là đà trên những ngôi nhà xỉn màu kia đi. Còn gì trần tục và buồn tẻ cùng cực hơn không? Bác sĩ à, tài năng có ích gì khi ta không có đất để thi thố chứ? Tội phạm tầm thường, cuộc sống cũng tầm thường, và chẳng hề có gì khác ngoại trừ những thú tầm thường đang vận hành trên cõi đời này."

Tôi vừa mở miệng định đáp lại tràng đả kích thì một tiếng gõ cửa bỗng vang lên rồi bà chủ nhà đi vào, tay cầm chiếc khay bằng đồng, bên trên có một tấm danh thiếp.

"Một quý cô muốn gặp ông đấy, thưa ông", bà nói với anh bạn của tôi. "Cô Mary Morstan", anh đọc tấm thiếp, "Hừm! Tôi không hề biết đến cái tên này. Mời quý cô ấy lên đây đi, bà Hudson. Đừng đi, bác sĩ. Tôi muốn anh ở lại."

2. Tường trình vụ việc

Cô Morstan vào phòng, bước chân tự tin và phong thái điềm tĩnh. Đó là một tiểu thư tóc vàng, vóc người nhỏ nhắn thanh tú, đôi tay mang găng dài và có lối ăn mặc tinh tế hết mực. Tuy vậy, trang phục của cô vẫn toát ra một vẻ bình dị cho thấy điều kiện tài chính có hạn. Chiếc váy vải len màu xám u buồn, không nếp không viền, còn chiếc khăn xếp nhỏ trên đầu cũng mang màu sắc ảm đạm như thế, chỉ tươi sáng lên được một chút nhờ chiếc lông trắng giắt một bên. Gương mặt cô không cân đối về đường nét và da dẻ cũng không đẹp, nhưng lộ vẻ dịu dàng đáng yêu, đôi mắt to xanh biếc đầy cảm thông và thánh thiện khác thường. Với kinh nghiệm về phụ nữ trải rộng trên nhiều quốc gia và ba lục địa khác nhau, tôi chưa hề thấy một dung nhan nào lại hứa hẹn một bản tính nhạy cảm và tinh tế rõ rệt nhường ấy. Tôi không thể không để ý thấy khi cô đón chiếc ghế mà Sherlock Holmes đưa ra mời ngồi, đôi môi cô mấp máy, bàn tay run run, và cô bộc lộ mọi dấu hiệu của một tâm trạng lo âu cực độ.

"Thưa ông Holmes", cô nói, "tôi đến tìm ông vì ông đã từng giúp bà chủ của tôi, bà Cecil Forrester, giải quyết một chuyện rắc rối nhỏ trong gia đình. Bà ấy đã rất cảm kích trước tài năng và lòng tốt của ông."

"Bà Cecil Forrester?" Anh nhắc lại với vẻ trầm ngâm. "Tôi nghĩ là tôi đã từng giúp bà ấy chút việc. Nhưng theo như tôi nhớ, vụ việc của bà ấy rất đơn giản."

"Bà ấy không nghĩ thế đâu ạ. Nhưng ít ra ông không thể nói như vậy về vụ việc của tôi. Tôi không sao tưởng tượng nổi lại có chuyện gì kì lạ hơn, khó hiểu hơn cái tình huống mà tôi gặp phải."

Holmes xoa hai bàn tay vào nhau, đôi mắt sáng bừng. Ngồi trên ghế, anh chồm người tới trước với vẻ tập trung lạ thường trên gương mặt góc cạnh, sắc sảo. "Cô trình bày cảnh ngộ đi." Anh nói với giọng hoạt bát nhà nghề.

Tôi thấy vai trò của mình đâm ra thừa thãi. "Chắc là tôi phải xin phép hai người", tôi vừa nói vừa nhổm người khỏi ghế.

Thật ngạc nhiên, cô gái trẻ đưa bàn tay đeo găng lên ngăn tôi lại. Cô nói, "Nếu người bạn của ông vui lòng ngồi lại, ông ấy sẽ giúp ích cho tôi không sao kể xiết."

Tôi đành ngồi lại xuống ghế.

"Nói vắn tắt, sự việc là thế này ạ", cô ta nói tiếp. "Cha tôi là sĩ quan trong một trung đoàn thường trú ở Ấn Độ, và ông đã gửi tôi về nước khi tôi còn bé xíu. Mẹ tôi mất sớm và tôi không có họ hàng nào ở Anh quốc. Tuy vậy, tôi được gửi vào một trường nội trú có điều kiện tiện nghi ở Edinburgh và tôi cứ ở đó đến năm mười bảy tuổi. Vào năm 1878, cha tôi lúc đó là đại úy và được nghỉ phép mười hai tháng nên trở về nước. Từ London ông đánh điện cho tôi báo tin đã đến nơi an toàn, và dặn dò tôi phải đến gặp ngay theo địa chỉ của ông là khách sạn Langham. Tôi còn nhớ, bức điện của ông đầy ắp ân cần và yêu thương. Khi tới London, tôi đón xe về Langham và được báo là đại úy Morstan đang ngụ ở đó nhưng đã ra ngoài từ đêm hôm trước vẫn chưa quay về. Tôi chờ ở đó suốt cả ngày mà không hề nghe tin gì của cha. Tối hôm đó, theo lời khuyên của ông giám đốc khách sạn, tôi báo cảnh sát, và sáng hôm sau chúng tôi đăng tin trên tất cả các báo. Mọi dò hỏi của chúng tôi đều không có kết quả, và từ ngày đó người ta không bao giờ còn nghe một tin tức gì về người cha bất hạnh của tôi nữa. Cha tôi về nước lòng tràn trề hi vọng, muốn tìm chút bình an, chút thư nhàn, thế mà..." Cô đưa tay lên cổ vì một tiếng nấc nghẹn cắt ngang câu nói.

"Thời gian?" Holmes vừa hỏi vừa mở sổ tay.

"Cha tôi mất tích ngày 3 tháng 12 năm 1878, gần mười năm rồi."

"Còn hành lí?"

"Để lại khách sạn. Trong đó chẳng có gì có thể gợi ra manh mối: Ít quần áo, mấy cuốn sách, và rất nhiều đồ sưu tập kì lạ từ quần đảo Andaman. Cha tôi là một trong những sĩ quan đảm trách việc canh giữ tù nhân ở đó."

"Ông ấy có bạn bè nào ở thủ đô không?"

"Chúng tôi chỉ biết có mỗi một người thôi, thiếu tá Sholto cùng trung đoàn với cha tôi, Trung đoàn 34 Bộ binh Bombay. Ngài thiếu tá đã về hưu trước đó một thời gian và sống ở khu Thượng Norwood. Tất nhiên chúng tôi có liên lạc với ông ấy nhưng ông ấy còn không biết là chiến hữu của mình đi về tới Anh quốc."

"Một vụ lạ thường", Holmes nhận xét.

"Tôi vẫn chưa kể ông nghe phần lạ thường nhất đâu. Chừng sáu năm trước, chính xác là ngày 4 tháng 5 năm 1882, một tin nhắn đăng trên tờ Times rao tìm địa chỉ của cô Mary Morstan và nói rằng hãy vì lợi ích bản thân mà hồi đáp. Không có danh tính hay địa chỉ nào đăng kèm cả. Lúc đó tôi vừa mới về sống cùng gia đình bà Cecil Forrester làm công việc gia sư. Theo lời khuyên của bà ấy, tôi cho đăng địa chỉ của tôi. Ngay trong ngày hôm đó bưu điện mang đến một chiếc hộp bằng giấy bồi gửi cho tôi, và tôi thấy bên trong là một viên ngọc trai rực rỡ rất lớn. Không hề có thư từ gì kèm theo. Kể từ đó, hàng năm cứ đúng vào ngày tháng đó lại xuất hiện một chiếc hộp tương tự, đựng một viên ngọc trai tương tự, mà không hề có manh mối gì về người gửi. Một chuyên gia đã xác nhận là các viên ngọc trai này thuộc loại hiếm và có giá trị đáng kể. Quý ông có thể tự mình xem để thấy chúng rất đẹp." Vừa nói cô vừa mở một chiếc hộp dẹt ra và cho chúng tôi xem sáu viên ngọc trai tuyệt mĩ nhất mà tôi từng thấy trước giờ.

"Lời kể của cô hết sức kì thú", Sherlock Holmes nói. "Còn chuyện gì khác xảy đến với cô không?"

"Có ạ, mới hôm nay chứ đâu. Chính vì thế tôi mới đến gặp ông. Sáng nay tôi nhận được bức thư này, có lẽ ông sẽ muốn đích thân đọc lấy."

"Cảm ơn cô", Holmes nói. "Xin cho tôi xem phong bì luôn. Dấu bưu điện London, khu Tây Nam. Ngày gửi 7 tháng 7. Hừm! Có dấu ngón cái của một người đàn ông trên góc phong bì, có lẽ là người phát thư. Loại giấy hảo hạng. Phong bì loại sáu xu một tệp. Một người cầu kì trong việc dùng văn phòng phẩm. Không đề địa chỉ người gửi. Hãy đứng ở cột thứ ba từ trái sang bên ngoài hí viện Lyceum vào lúc 7 giờ tối nay. Nếu cô ngờ vực, hãy đi cùng hai người bạn. Cô là một người bị hại và có quyền đòi công bằng. Đừng đi với cảnh sát. Nếu không, tất cả đều vô ích. Người bạn vô danh của cô. Chà, quả thực chuyện này là một bí ẩn nho nhỏ rất hay ho đây. Thế cô định làm gì, cô Morstan?"

"Đó chính là điều tôi muốn hỏi ông."

"Vậy thì chúng ta nhất định phải đi rồi. Cô và tôi và... ờ, đúng rồi, bác sĩ Watson đây chứ ai nữa. Người viết thư cho cô nói là hai người bạn. Anh ấy và tôi đã từng hợp tác trước đây."

"Nhưng ông ấy có chịu đi không?" Cô hỏi với giọng điệu và nét mặt có phần van nài.

"Tôi sẽ lấy làm hân hạnh nếu như có thể giúp ích được gì", tôi sốt sắng nói.

"Hai ông thật tử tế", cô đáp. "Tôi sống khép kín và không hề có bằng hữu nào để nhờ cậy cả. Tôi quay lại đây lúc 6 giờ được chứ?"

"Cô đừng đến muộn hơn đó", Holmes nói. "Tuy nhiên, còn một điểm nữa. Kiểu chữ viết tay này có giống chữ viết trên địa chỉ của hộp đựng ngọc không?"

"Tôi có mang theo hết đây này", cô vừa đáp vừa đưa ra sáu mảnh giấy.

"Cô đúng là một thân chủ mẫu mực. Cô có trực giác chính xác đấy. Bây giờ, chúng ta hãy xem nào." Anh trải các mảnh giấy ra bàn, đảo mắt thật nhanh từ mảnh này sang mảnh khác rồi nhận xét ngay. "Trừ bức thư ra thì đều là kiểu chữ viết cố tình ngụy tạo. Hãy xem nét bắt đầu đột ngột của chữ ε kiểu Hi Lạp rành rành này, và xem nét xoắn của chữ s cuối cùng này. Không nghi ngờ gì nữa, tất cả đều do một người viết. Tôi thật không muốn gợi ra những hi vọng hão huyền đâu, cô Morstan, nhưng chữ viết này và chữ viết của cha cô có điểm nào giống nhau không?"

"Chẳng hề giống nhau một chút nào."

"Tôi cũng đoán cô sẽ nói thế. Vậy thì chúng tôi sẽ đợi cô lúc 6 giờ. Xin cho phép tôi giữ mấy mảnh giấy nhé. Từ giờ tới đó tôi có thể kiểm tra chuyện này. Giờ chỉ mới 3 giờ rưỡi. Au revoir!"

"Au revoir!," vị khách của chúng tôi đáp lại, rồi lần lượt đưa mắt nhìn từng người chúng tôi với ánh mắt chân thành, rạng rỡ, cô cất lại hộp ngọc vào ngực áo và hối hả ra đi. Đứng ở cửa sổ, tôi dõi theo bước chân thoăn thoắt của cô dưới phố cho đến khi chiếc khăn xếp và cái lông vũ trắng chỉ còn là một chấm nhỏ trong đám đông u ám.

"Một phụ nữ duyên dáng quá chừng!" Tôi quay lại thốt lên với anh bạn. Anh đã đốt tẩu thuốc nữa và đang ngả lưng ra ghế, mí mắt cụp xuống. "Vậy sao?" Anh uể oải nói. "Tôi không để ý."

"Anh đúng là một cỗ máy, một cái máy chỉ biết tính toán!" Tôi cao giọng. "Trong anh nhiều khi có cái gì đó rất ư là phi nhân."

Anh cười nhẹ nhàng rồi nói, "Một trong những điều quan trọng hàng đầu là đừng để khả năng phán đoán của anh bị thiên lệch theo những đặc tính cá nhân. Một thân chủ đối với tôi chỉ là một đơn vị, một nhân tố trong bài toán. Các yếu tố cảm xúc đối nghịch với việc suy luận minh bạch. Tôi cam đoan với anh là người phụ nữ quyến rũ nhất tôi từng biết đã bị treo cổ vì đầu độc chết ba đứa con nhỏ để lấy tiền bảo hiểm, và người đàn ông khó ưa nhất mà tôi biết lại là một nhà từ thiện đã bỏ ra gần hai trăm năm mươi nghìn bảng Anh đem cho dân nghèo London đấy!"

"Thế nhưng trong trường hợp này thì..."

"Tôi không bao giờ đặt ra ngoại lệ. Ngoại lệ sẽ phủ định quy tắc. Có bao giờ anh thử nghiên cứu cá tính qua chữ viết tay chưa? Chữ viết tháu của người này khiến anh nghĩ gì nào?"

"Đều và dễ đọc", tôi trả lời. "Một người có thói quen quy củ và cá tính có phần mạnh mẽ."

Holmes lắc đầu. "Hãy nhìn những chữ cao mà xem", anh nói. "Chúng hầu như không nhô lên khỏi hàng chữ thấp. Viết chữ d mà cứ như chữ a, còn chữ l thì y hệt chữ e. Những người có cá tính luôn luôn viết những chữ cao khác biệt rõ rệt, cho dù họ có viết tháu đến đâu đi nữa. Những chữ k của người này có sự do dự còn chữ viết hoa cho thấy niềm tự trọng. Bây giờ tôi ra ngoài đây. Tôi cần phải đi tham khảo vài nơi. Để tôi giới thiệu anh cuốn sách này, một trong những cuốn xuất sắc nhất xưa nay Nỗi thống khổ của con người của Winwood Reade. Một giờ nữa tôi sẽ quay về."

Tôi ngồi bên cửa sổ với pho sách trong tay nhưng tâm trí lại không đặt vào những lí luận táo bạo của tác giả. Đầu óc tôi cứ suy nghĩ miên man về người khách vừa rồi - nghĩ về những nụ cười, về giọng nói trầm trầm êm ái, về tấm màn bí mật lạ thường bao phủ cuộc đời cô. Nếu cô ấy mười bảy tuổi vào lúc cha cô mất tích thì bây giờ cô đã hai mươi bảy tuổi - cái tuổi ngọt ngào khi độ thanh xuân đã mất đi tính e ấp và kinh nghiệm đã cho thêm phần chín chắn. Tôi cứ ngồi đó mơ màng cho đến lúc trong đầu nảy sinh những ý nghĩ nguy hiểm, tới mức tôi phải hấp tấp chạy tới bàn làm việc và điên cuồng cắm đầu vào chuyên luận bệnh lí học mới nhất. Tôi là gì cơ chứ, một bác sĩ quân y với cẳng chân yếu và một tài khoản nhà băng còn yếu kém hơn, vậy mà còn dám nghĩ tới những chuyện như thế sao? Cô ấy chỉ là một đơn vị, một nhân tố - chỉ có thế. Nếu tương lai tăm tối thì hẳn là tôi nên đương đầu như một trang nam tử hơn là toan tính thắp sáng nó chỉ bằng những ảo ảnh tưởng tượng.

3. Đi tìm lời giải

Mãi đến 4 giờ rưỡi Holmes mới quay về. Trông anh hớn hở, hăng hái và tinh thần hết sức phấn chấn - một trạng thái thường xen kẽ với những cơn chán nản u ám nhất của anh.

"Chuyện này chẳng có bí ẩn gì ghê gớm", anh vừa nói vừa cầm tách trà tôi rót cho anh. "Các dữ kiện hóa ra chỉ khớp với một cách giải thích duy nhất"

"Sao? Anh đã làm sáng tỏ được rồi à?"

"À, nói như vậy là quá đáng. Tôi vừa phát hiện được một dữ kiện có ý nghĩa, chỉ thế thôi. Nhưng mà rất ý nghĩa. Còn phải bổ sung thêm nhiều chi tiết nữa. Khi tham khảo hồ sơ lưu trữ nhật báo Times, tôi mới phát hiện ra thiếu tá Sholto, ở khu Thượng Norwood, trước ở Trung đoàn 34 Bộ binh Bombay, đã qua đời vào ngày 28 tháng 4 năm 1882."

"Có lẽ tôi quá đần độn đấy, Holmes. Nhưng tôi chẳng thấy chuyện này có ý nghĩa gì."

"Không à? Anh làm tôi ngạc nhiên đó. Vậy thì hãy nhìn vấn đề theo cách này. Đại úy Morstan biến mất. Người duy nhất ở London ông ta có thể đã viếng thăm chính là thiếu tá Sholto. Thiếu tá Sholto lại phủ nhận không biết ông đại úy đã về London. Bốn năm sau Sholto chết. Chỉ trong vòng một tuần sau khi ông thiếu tá qua đời, cô con gái của Morstan đã nhận được một món quà quý giá, và cứ đều đặn như thế hết năm này qua năm khác, và bây giờ đỉnh điểm lại là một lá thư bảo cô ta là người bị hại. Ngoài chuyện mất tích của cha cô thì còn chuyện phương hại nào nữa? Và tại sao những món quà ấy xuất hiện ngay sau cái chết của Sholto, trừ phi người thừa kế của Sholto biết chuyện bí mật gì đó và có ý muốn bù đắp? Anh còn giả thuyết nào khác đáp ứng được các dữ kiện này không?"

"Nhưng quả là một sự bù đắp lạ lùng! Và cách bù đắp cũng lạ lùng chẳng kém! Mà tại sao người đó sáu năm trước không viết thư đi để tới giờ mới viết? Chưa hết, lá thư còn nói đến chuyện đem lại công bằng cho cô gái. Công bằng gì cơ chứ? Việc cha cô ấy còn sống là điều không thể. Trong trường hợp cô ấy thì chẳng hề có chuyện bất công nào khác."

"Còn nhiều chuyện nan giải, chắc chắn là nhiều nan giải", Sherlock Holmes trầm ngâm nói. "Nhưng chuyến đi tối nay của chúng ta sẽ làm sáng tỏ hết. Kìa, có chiếc xe ngựa bốn bánh tới kia, cô Morstan ngồi trong xe. Anh sẵn sàng chưa? Vậy thì ta xuống đi, vì đã hơi quá giờ rồi đó."

Tôi cầm mũ và cây gậy chống to nhất của mình, nhưng tôi để ý thấy Holmes lấy trong ngăn kéo của anh ra khẩu súng lục và luồn vào trong túi. Rõ ràng anh cho rằng công việc đêm nay của chúng tôi có thể là việc nghiêm trọng.

Cô Morstan trùm kín người trong chiếc áo choàng màu sậm, và gương mặt biểu cảm của cô tỏ ra bình tĩnh, nhưng hơi tái nhợt. Nếu không cảm thấy lo lắng ít nhiều về cuộc mạo hiểm kì lạ mà chúng tôi đang dấn thân thì cô ấy không phải là phụ nữ, tuy vậy cô tự kiềm chế rất giỏi và sẵn sàng trả lời mấy thắc mắc mà Sherlock Holmes đặt ra thêm.

"Thiếu tá Sholto là một người bạn rất đặc biệt của cha tôi", cô nói. "Cha tôi khi viết thư cứ nhắc đến ngài thiếu tá. Ông ấy và cha tôi đều chỉ huy binh sĩ ở quần đảo Andaman nên họ thường tụ họp với nhau lắm. Tiện thể nói ông nghe, tại bàn của cha tôi có một tờ giấy kì lạ mà chẳng ai hiểu gì hết. Tôi không thấy nó có gì hệ trọng cả nhưng tôi nghĩ biết đâu ông muốn xem cho nên tôi mang theo đây. Đây này."

Holmes cẩn thận mở tờ giấy ra và đặt trên đầu gối vuốt cho phẳng. Sau đó anh xem xét mọi chi tiết rất kĩ lưỡng qua kính lúp. "Đây là loại giấy bản xứ của Ấn Độ", anh nhận xét "Có một thời gian tờ giấy này được ghim trên một tấm bảng. Sơ đồ trên đó hình như là bản vẽ một phần tòa nhà lớn có rất nhiều hành lang, lối đi và những đường thông nhau. Ở một chỗ, có một chữ thập nhỏ đánh dấu bằng mực đỏ và bên trên ghi '3.37 từ trái sang' bằng nét bút chì đã phai mờ. Ở góc bên tay trái là những kí hiệu kì lạ trông giống bốn chữ thập thẳng hàng với các nét gạch ngang dính vào nhau. Bên cạnh, ghi bằng những chữ viết rất thô kệch cẩu thả, là câu 'Dấu bộ tứ - Jonathan Small, Mahomet Singh, Abdullah Khan, Dost Akbar.' Thú thật là tôi không hiểu nó có liên quan như thế nào đến chuyện này. Nhưng đây rõ ràng là một tài liệu quan trọng. Nó được cất giữ cẩn thận trong một cái ví, bởi vì cả hai mặt giấy đều sạch sẽ như nhau."

"Đúng là chúng tôi tìm ra nó ở trong ví của cha tôi."

"Vậy thì cô phải giữ gìn cho kĩ, cô Morstan, biết đâu nó có thể có ích cho chúng ta. Tôi đâm ra nghi ngờ là chuyện này có thể trở nên sâu xa và tinh vi hơn lúc đầu tôi tưởng nhiều. Tôi phải xem xét lại các nhận định của mình."

Anh ngả người trong xe; nhìn đôi mày chau và ánh mắt mông lung kia, tôi biết anh đang tập trung suy nghĩ. Cô Morstan và tôi hạ giọng tán gẫu về chuyến đi hiện thời và những khả năng có thể xảy ra, còn anh bạn của tôi cứ giữ vẻ kín đáo khó hiểu cho đến cuối hành trình.

Hôm ấy là một tối tháng 9, chưa đến 7 giờ mà trời đã ảm đạm thê lương, và màn sương mù cùng mưa bụi dày đặc bao trùm thành phố to lớn này. Những đám mây màu bùn buồn bã giăng mắc trên phố xá mịt mờ. Dọc theo phố Strand, đèn đường chỉ còn là những đốm khuếch tán tù mù hắt xuống vỉa hè nhầy nhụa những quầng sáng chập chờn leo lét. Ánh vàng rực từ các cửa sổ hàng quán rọi vào bầu không khí mù mịt hơi nước và hắt một quầng sáng đùng đục, bất định ra đường phố đông người. Trong tâm trí tôi, cái dòng chảy bất tận của những mặt người chuyển dịch băng qua các ô cửa sáng chật hẹp kia - những gương mặt buồn, vui, phờ phạc và thích thú - sao có vẻ gì đó ma quái đáng sợ. Như mọi con người, họ hết dịch chuyển từ vùng tối sang vùng sáng rồi lại quay về vùng tối một lần nữa. Tôi vốn không bị hút vào những ấn tượng bên ngoài nhưng cái buổi tối u ám, nặng nề này cộng với sự việc lạ thường mà chúng tôi can dự vào, đã khiến tôi đâm ra lo ngại và chán chường. Qua thái độ của của cô Morstan, tôi thấy được cô cũng đang có cùng tâm trạng khó tả như tôi. Chỉ có mình Holmes mới có thể vượt lên trên những tác động tầm thường này. Anh giữ cuốn sổ tay mở rộng trên đầu gối, chốc chốc lại viết vội vào đó mấy con số và những dòng ghi nhớ dưới ánh sáng của chiếc đèn bỏ túi.

Ở hí viện Lyceum, lối vào hai bên hông đã đông nghẹt. Phía trước là một dòng xe ngựa hai bánh và bốn bánh không ngớt lóc cóc chạy tới, tuôn ra đấy những người là người, đàn ông phô ngực áo trắng và đàn bà choàng khăn, đeo kim cương. Chúng tôi chưa tới cột thứ ba là điểm hẹn của mình thì một người đàn ông da ngăm, vóc người thấp bé, dáng nhanh nhẹn, mặc đồ của phường xà ích đã xáp đến gần.

"Quý vị là nhóm đi cùng cô Morstan phải không?" Anh ta hỏi.

"Tôi là Morstan đây, còn hai quý ông đây là bạn tôi", cô gái đáp.

Anh ta hướng đôi mắt đầy nghi ngờ và thấu suốt về phía chúng tôi và hỏi với thái độ có phần ngang ngạnh, "Xin cô thứ lỗi, thưa cô, nhưng tôi muốn cô phải bảo đảm với tôi là hai người đồng hành với cô không có ai là cảnh sát."

"Xin bảo đảm với ông", cô gái đáp.

Anh ta rút còi huýt lên một tiếng, nghe tiếng còi một thằng nhóc bụi đời từ bên kia đường dẫn một cỗ xe ngựa bốn bánh sang và mở cửa. Người vừa bắt chuyện leo lên ghế xà ích trong khi chúng tôi vào ngồi trong xe, Chúng tôi chưa kịp yên vị thì người xà ích đã quất ngựa và cỗ xe lao điên cuồng qua những đường phố mù sương.

Tình huống này đúng là kì cục. Chúng tôi đang đi tới một địa điểm vô danh với một mục đích không biết trước. Thế nhưng lời mời này hoặc là một vố lừa hoàn hảo - giả thuyết này khó có thể hiểu được - hoặc là chúng tôi có lí do để nghi rằng nhiều chuyện quan trọng có thể đang phụ thuộc vào chuyến đi này. Thái độ của cô Morstan vẫn cương quyết và bình tĩnh như trước. Tôi cố khích lệ và làm cho cô khuây khỏa bằng cách kể lại chuyện phiêu lưu của tôi ở Afghanistan, nhưng phải nói thật, chính tôi đây cũng bồn chồn về tình hình của cả nhóm và tò mò về cái đích sắp đến nên chẳng để tâm mấy vào những câu chuyện. Sau này cô bảo là tôi đã kể lại một chuyện hấp dẫn về một con hổ con đã thò đầu vào lều của tôi giữa đêm khuya và tôi vớ lấy khẩu súng hai nòng bắn nó như thế nào, nhưng tôi lại lúng túng nói ngược thành... bắn con hổ vào khẩu súng! Lúc đầu tôi còn nhận biết được phương hướng trên đường đi, nhưng với tốc độ và sương mù như thế này cùng hiểu biết hạn hẹp của tôi về London, chẳng mấy chốc tôi không định hướng được nữa và không biết gì hơn ngoài việc chuyến đi này có vẻ như sẽ rất xa. Tuy nhiên, Sherlock Holmes lại không hề hoang mang và anh cứ lẩm bẩm từng địa danh trong lúc cỗ xe lao qua các khu phố và luồn lách qua những con đường vắng ngoằn ngoèo.

"Phố Rochester Row đây", anh nói. "Bây giờ là quảng trường Vincent. Bây giờ chúng ta đi ra đường Cầu Vauxhall. Hình như chúng ta đang đi về phía Surrey. Đúng rồi, tôi nghĩ vậy. Chúng ta đang ở trên cầu rồi. Hai người có thể thấy dòng sông lờ mờ ngoài kia."

Quả thực chúng tôi thoáng thấy một đoạn sông Thames có những ngọn đèn soi sáng mặt nước lững lờ, mênh mông; nhưng cỗ xe cứ lao đi, và liền sau đó bị cuốn hút vào mê cung phố xá bên kia sông.

"Đường Wordsworth", anh bạn tôi nói. "Đường Priory. Ngõ Lark Hall. Quảng trường Stockwell. Phố Robert. Ngõ Coldharbour. Cuộc truy tìm lời giải coi bộ sẽ không đưa ta đến những khu vực sang trọng mấy."

Đúng là chúng tôi đã tới một khu vực trông gớm guốc và đáng ngờ. Những dãy dài nhà gạch ảm đạm chỉ dễ chịu lên được một chút nhờ ánh sáng chói gắt và vẻ rực rỡ phô trương của những tửu điếm ở góc đường. Rồi tới mấy dãy nhà biệt lập hai tầng, nhà nào cũng có một vườn nhỏ phía trước, và rồi đập vào mắt lại là những dãy nhà gạch bất tận khác - những xúc tu quái vật mà thành phố khổng lồ này quăng về vùng nông thôn. Cuối cùng, xe dừng lại ở căn nhà thứ ba của một khu nhà liền kề mới. Mọi căn nhà khác đều không có người ở, và nơi chúng tôi ghé đến cũng tăm tối như những căn lân cận, ngoại trừ một nguồn sáng le lói độc nhất trong cửa sổ nhà bếp. Tuy nhiên, ngay khi chúng tôi gõ cửa thì cửa chính lập tức mở ra, người mở cửa là một gia nhân Ấn Độ đội khăn xếp màu vàng, mặc trang phục rộng lùng thùng, và quấn một dải khăn vàng ở thắt lưng. Hình ảnh con người Đông phương này đứng trước ngưỡng cửa một căn nhà ngoại ô hạng ba có cái vẻ gì đó kì quặc.

"Sahib đang chờ quý vị", ông ta nói, và ngay lúc đó một giọng lanh lảnh cũng cất lên từ phòng nào đó bên trong.

"Đưa họ vào gặp tôi, khitmutgar", tiếng nói hối thúc. "Đưa họ gặp tôi ngay."

4. Câu chuyện của người hói đầu

Chúng tôi theo người Ấn Độ ấy đi qua một hành lang nhớp nhúa, tối tăm và nội thất tồi tàn, tới một cánh cửa phía bên phải thì ông ta mở cửa ra. Một luồng sáng vàng chói ùa ra bao phủ chúng tôi, và đứng ngay giữa ánh lóa đó là một người đàn ông thấp bé có vầng trán cao, mớ tóc rễ tre đỏ hung trên đầu và một mảng da bóng loáng không tóc ngay chính giữa trông như một mỏm núi nhô cao trên rừng linh sam. Người này đứng mà hai bàn tay cứ vặn vẹo vào nhau và nét mặt không ngừng co giật - lúc mỉm cười, lúc cau có, nhưng không lúc nào ngừng nghỉ. Tự nhiên đã ban cho y đôi môi trề ra và hàm răng vàng khè, khấp khểnh quá lộ liễu khiến y cứ liên tục đưa bàn tay phất qua phần dưới khuôn mặt, cố che giấu nhưng vô ích. Bất kể cái đầu hói chướng mắt, trông người này có vẻ còn trẻ. Thực tế thì ông ta mới qua tuổi ba mươi.

"Hân hạnh, thưa cô Morstan", ông ta cứ lặp đi lặp lại bằng một giọng khe khẽ, the thé. "Hân hạnh, thưa quý ông. Xin mời bước vào biệt phòng của tôi. Một nơi nhỏ bé nhưng trang hoàng theo đúng sở thích riêng. Một ốc đảo nghệ thuật giữa sa mạc buồn thảm phía nam London."

Chúng tôi hết thảy đều sửng sốt trước hình thức của gian phòng ông ta mời chúng tôi vào. Trong căn nhà xoàng xĩnh này, gian phòng trông lạc điệu như một viên kim cương nước một giữa một mớ đồng thau. Những tấm mành và thảm thêu lộng lẫy và hào nhoáng nhất trang trí các bức tường, đôi chỗ được vén lên để lộ một bức tranh đóng khung sang trọng hay một chiếc bình Đông phương. Tấm thảm trải sàn hai màu đen và hổ phách, êm và dày tới mức bàn chân ngập lún thoải mái cứ như giẫm lên một thảm rêu. Hai bộ da hổ to tướng trải chéo góc trên thảm cùng với một bình thuốc tẩu hookah đồ sộ đặt trên một tấm đệm trong góc nhà càng làm tăng thêm ấn tượng Đông phương xa hoa. Ngay chính giữa phòng là một chiếc đèn hình chim bồ câu bằng bạc treo trên một sợi dây bằng vàng mảnh tới mức hầu như không nhìn thấy được. Vừa tỏa sáng, chiếc đèn vừa phả khắp không gian một hương thơm phảng phất.

"Tôi là Thaddeus Sholto", người thấp bé kia nói, mặt vẫn co giật và tươi cười. "Cô tất nhiên là cô Morstan rồi. Còn quý ông đây..."

"Đây là ông Sherlock Holmes, còn đây là bác sĩ Watson."

"Bác sĩ ư?" Ông ta kêu to, phấn khích hẳn lên. "Ông có mang ống nghe đấy không? Cho phép tôi hỏi... chắc ông không phiền chứ? Tôi hết sức nghi ngờ về cái van tim của mình, xin ông bỏ quá cho. Tôi có thể tin cậy cái động mạch chủ nhưng nếu ông có ý kiến về cái van hai lá thì thật quý hóa quá."

Theo yêu cầu, tôi nghe tim nhưng không thấy điều gì khác thường ngoại trừ việc người này đang trong trạng thái lo sợ quá mức, bởi ông ta cứ run cầm cập từ đầu đến chân.

"Tim xem ra bình thường mà", tôi nói. "Không có nguyên cớ gì mà ông phải lo lắng cả."

"Xin thứ lỗi cho nỗi lo của tôi nhé, cô Morstan", ông ta thốt lên, giọng hòa nhã. "Tôi cứ đau ốm miết và từ lâu tôi đã nghi ngờ về cái van tim đó. Thì thật mừng khi biết rằng nghi ngờ của tôi là không xác đáng. Thưa cô Morstan, giá như cha cô không bị lên cơn đau tim thì bây giờ lẽ ra ông ấy vẫn còn sống đó."

Tôi nổi nóng với lời đề cập quá sức thản nhiên và nhẫn tâm về một chuyện tế nhị như thế, tới mức tôi chỉ muốn đấm vào mặt ông ta. Cô Morstan ngồi xuống, mặt mày tái nhợt.

"Trong thâm tâm tôi biết cha mình đã chết", cô nói.

"Tôi có thể cho cô biết hết mọi chuyện", ông ta nói, "và hơn nữa, tôi có thể đòi lại công bằng cho cô, mà tôi cũng muốn thế, mặc kệ anh Bartholomew nói gì thì nói. Tôi cũng mừng có những người bạn của cô ở đây, không chỉ tháp tùng cô mà còn là nhân chứng cho những gì tôi sắp nói và làm. Ba chúng ta ở đây có thể đương đầu với anh Bartholomew. Nhưng không được có bất kì người ngoài cuộc nào, không có cảnh sát hay viên chức. Giữa chúng ta có thể dàn xếp ổn thỏa mọi việc, không cần ai phải can thiệp. Không có gì khiến anh Bartholomew tức giận cho bằng chuyện bị thiên hạ biết đến."

Ông ta ngồi xuống chiếc trường kỉ thấp và hướng đôi mắt xanh nhợt nhạt về phía chúng tôi, hấp háy với vẻ dò hỏi.

"Về phần tôi," Holmes lên tiếng, "bất cứ điều gì ông muốn nói ra đều được giữ kín."

Tôi gật đầu biểu lộ đồng tình.

"Thế thì tốt! Thế thì tốt!" Ông ta nói "Xin phép mời cô một cốc vang Chianti nhé, cô Morstan? Hay là rượu Tokay? Tôi chỉ có hai loại đó. Tôi khui một chai nhé? Không à? Ồ, vậy thì tôi chắc là cô không phản đối việc hút thuốc, không khó chịu với mùi thơm dịu của thuốc lá Đông phương. Tôi hơi căng thẳng và tôi thấy bình thuốc hookah của tôi là thứ an thần vô giá."

Ông ta gí tim nến vào cái nỏ thuốc lớn, và khói thuốc sủi bọt ùng ục vui tai khi rít qua bình nước hoa hồng. Cả ba chúng tôi ngồi thành hình bán nguyệt, đầu vươn ra trước, cằm kê trên hai bàn tay, trong khi kẻ nhỏ con kì lạ kia, với vầng trán cao sáng bóng, ngồi chính giữa bứt rứt bập phà tẩu thuốc.

"Khi tôi quyết định hẹn gặp cô lần đầu tiên", ông ta nói, "lẽ ra tôi phải cho cô biết địa chỉ của tôi, nhưng tôi lo là cô có thể bất chấp yêu cầu của tôi và đưa những người khó chịu theo cùng. Cho nên tôi mạn phép thu xếp cuộc hẹn sao cho người của tôi là Williams có thể gặp cô trước. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào sự thận trọng của anh ta và anh ta đã được lệnh là nếu thấy không thỏa đáng thì không xúc tiến chuyện này nữa. Xin cô thứ lỗi cho những biện pháp phòng xa này, nhưng tôi là người sống có phần kín đáo, và thậm chí có thể nói tôi là người có học thức, tinh tế; và với tôi thì không có gì mất thẩm mĩ cho bằng một gã cảnh sát. Bản tính tôi là luôn xa lánh mọi hình thức duy vật chủ nghĩa sống sượng. Tôi hiếm khi tiếp xúc với đám đông lỗ mãng. Như cô thấy đó, tôi sống trong một môi trường ít nhiều có phần tao nhã bao quanh. Tôi có thể tự xem mình là một nhà bảo trợ nghệ thuật. Đó là nhược điểm của tôi. Bức phong cảnh này là tranh Corot chính hiệu đó, và tuy một người mộ điệu có thể hồ nghi về bức Salvator Rosa kia nhưng nhất định họ sẽ không chút thắc mắc về bức Bouguereau ở đây. Tôi thiên về trường phái hiện đại Pháp."

"Xin thứ lỗi, thưa ông Sholto", cô Morstan lên tiếng, "nhưng tôi đến đây theo yêu cầu của ông để biết đôi điều ông muốn kể lại. Giờ đã muộn rồi và tôi mong là cuộc hội kiến này càng ngắn gọn càng tốt."

"Chí ít cũng phải mất thêm một khoảng thời gian", ông ta đáp, "vì chúng ta chắc chắn còn phải tới Norwood gặp anh Bartholomew nữa. Tất cả chúng ta sẽ cùng đi và thử xem chúng ta có thuyết phục được anh Bartholomew chăng. Anh ấy rất tức giận vì tôi đã làm theo cách mà tôi thấy chính đáng. Đêm qua tôi đã to tiếng với anh ấy. Quý vị không thể tưởng tượng nổi khi tức giận thì anh ấy ghê gớm như thế nào đâu."

"Nếu phải đi tới Norwood thì có lẽ chúng ta nên khởi hành ngay thì hơn", tôi đánh bạo đề nghị.

Ông Thaddeus Sholto cười ầm đến đỏ mặt tía tai. "Thế không được đâu", ông ta cao giọng. "Tôi không biết anh ấy sẽ nói gì nếu như tôi đưa quý vị đến bất thình lình như vậy. Không, tôi phải chuẩn bị bằng cách cho quý vị thấy tất cả chúng ta có liên quan lẫn nhau ra sao. Trước hết, tôi phải nói là chính tôi cũng không hiểu nhiều điểm trong câu chuyện này. Tôi chỉ có thể trình bày với quý vị những sự việc mà chính tôi biết thôi. Như quý vị đã đoán biết, cha tôi là thiếu tá John Sholto, từng ở trong quân đội Ấn Độ. Ông ấy về hưu khoảng mười một năm trước, và sống ở biệt trang Pondicherry vùng Thượng Norwood. Cha tôi đã phất lên ở Ấn Độ và mang về đây một số tiền đáng kể, một bộ sưu tập nhiều vật lạ quý giá, và một toán gia nhân bản xứ. Với những lợi thế đó, cha tôi mua cho mình một ngôi nhà và sống hết sức xa hoa. Ông chỉ có hai người con là người anh sinh đôi Bartholomew và tôi.

Tôi còn nhớ rõ cơn chấn động nảy sinh từ vụ đại úy Morstan mất tích. Chúng tôi đọc các tường trình trên báo chí và biết người đó là bạn của cha tôi, chúng tôi vô tư bàn tán về vụ này ngay trước mặt cha. Cha tôi cũng tham gia những cuộc phỏng đoán của chúng tôi vì chuyện gì có thể đã xảy ra. Không một lúc nào chúng tôi hồ nghi rằng cha mình giấu kín trong lòng toàn bộ bí mật, là chỉ có mỗi mình ông biết rõ số phận của Arthur Morstan. Thế nhưng chúng tôi biết chắc là một bí mật nào đó, một nguy cơ có thực, đang đe dọa cha mình, ông rất sợ đi ra ngoài một mình, và ông luôn luôn sử dụng hai võ sĩ quyền Anh làm người gác cổng ở biệt trang Pondicherry. Một trong hai võ sĩ chính là Williams, người đánh xe cho quý vị tối nay. Anh ta từng là vô địch quyền Anh hạng nhẹ toàn quốc. Cha chúng tôi không bao giờ cho biết ông lo sợ điều gì, nhưng đặc biệt ông rất ác cảm đối với người nào có chân gỗ. Có một lần ông đã lấy súng lục bắn vào một người có chân gỗ nhưng hóa ra đó lại là một thương nhân vô hại đang đi huy động đơn đặt hàng. Chúng tôi phải chi một khoản tiền lớn để bưng bít vụ này. Anh tôi và tôi thường nghĩ đó chỉ là một thói hoang tưởng của cha mình nhưng nhiều chuyện xảy ra đã khiến chúng tôi thay đổi ý kiến.

Khoảng đầu năm 1882 cha tôi nhận được một lá thư gửi từ Ấn Độ khiến ông hết sức kinh hãi. Ông suýt ngất xỉu ngay bàn điểm tâm khi mở thư ra đọc và từ hôm đó ông ngã bệnh luôn cho tới khi chết. Trong thư viết gì chúng tôi chẳng bao giờ được biết nhưng khi cha tôi cầm thư trong tay thì tôi có thể nhìn thấy đó là một bức thư ngắn viết bằng nét chữ nguệch ngoạc. Cha tôi đã đau ốm nhiều năm vì chứng phù lá lách nhưng kể từ đó sức khỏe của ông suy sụp rất nhanh, và cho đến cuối tháng 4 chúng tôi được báo là cha tôi đã hết mọi hi vọng, và ông muốn gặp chúng tôi lần cuối.

Khi chúng tôi bước vào phòng cha thì ông đang ngồi giữa mớ gối đỡ và thở nặng nhọc. Ông khẩn khoản bảo chúng tôi khóa trái cửa lại và đứng hai bên giường của ông. Rồi nắm chặt tay chúng tôi, ông thuật lại một câu chuyện chấn động, bằng giọng nói đứt quãng vì cảm xúc lẫn đau đớn. Tôi sẽ cố thuật lại cho quý vị nghe bằng chính lời lẽ của cha tôi. Ông nói: 'Ta chỉ có một chuyện canh cánh trong lòng vào giây phút sau cùng này. Đó là cách ta đối xử với đứa con gái mồ côi tội nghiệp của Morstan. Lòng tham đáng nguyền rủa vốn là tội lỗi ám ảnh suốt đời ta đã khiến ta chiếm đoạt phần kho báu của con bé; ít nhất một nửa kho báu ấy lẽ ra phải thuộc về nó. Ấy thế mà chính bản thân ta lại chẳng hề sử dụng đến phần của cải ấy, cái thói tham lam đúng là mù quáng và ngu xuẩn biết bao. Chỉ riêng cảm giác được sở hữu nó thôi đã khiến ta không đành lòng chia sẻ với ai khác. Hãy nhìn chuỗi ngọc trai nặng trĩu ở đằng sau chai thuốc kí ninh kia. Thậm chí ta cũng không cam tâm rời xa nó được, mặc dù ta đã lấy nó ra với ý đồ sẽ gửi cho con bé. Con trai của ta, hai con sẽ phải chia cho con bé ấy một phần thỏa đáng của kho báu Agra. Nhưng chừng nào ta chưa chết thì khoan gửi cho nó cái gì cả, ngay cả chuỗi hạt kia. Xét cho cùng thì nhiều kẻ bệnh tật nặng như thế này cũng bình phục được mà.'

'Ta sẽ cho các con biết Morstan đã chết như thế nào.' Cha tôi kể tiếp. 'Morstan đã bị đau tim suốt nhiều năm nhưng giấu không cho ai hay. Chỉ mình ta biết mà thôi. Lúc còn ở Ấn Độ, ông ấy và ta, qua hàng loạt sự việc lạ thường, đã sở hữu được một kho báu lớn. Ta đã mang hết về Anh quốc, và vào cái đêm Morstan về tới nơi thì ông ấy đi thẳng tới đây để đòi lại phần của mình, ông ấy đi bộ từ nhà ga đến và được gia nhân trung thành Lal Chowdar của ta đưa vào; Lal Chowdar giờ đã chết rồi. Morstan và ta bất đồng ý kiến về chuyện chia phần kho báu và hai bên bắt đầu lời qua tiếng lại nóng nảy. Trong cơn tức giận bột phát, Morstan nhảy bật khỏi ghế rồi đột ngột ép chặt bàn tay vào bên hông, mặt bỗng tím tái, rồi ông ấy ngã ngửa ra sau, va đầu vào góc rương châu báu. Khi ta khom người xuống xem xét thì kinh hãi thay, ta thấy ông ấy đã chết.

Suốt một hồi lâu ta cứ ngồi bần thần, không biết phải làm gì. Động lực đầu tiên của ta tất nhiên là định hô hoán cầu cứu, nhưng ta không thể không nhận thấy rằng mọi sự đều quy cho ta tội giết ông ấy. Cái chết của Morstan trong lúc cãi vã, vết cắt sâu trên đầu ông ấy, đều rành rành chống lại ta. Thêm nữa, không thể có một cuộc điều tra chính thức nào mà lại không khơi ra vài chi tiết về chuyện kho báu, chuyện mà ta hết lòng muốn giữ bí mật. Morstan đã bảo ta là không một người nào biết ông ấy đi đâu. Có lẽ bây giờ lại càng không cần thiết cho bất kì ai biết chuyện. Ta vẫn còn đang nghĩ ngợi thì ngước nhìn lên, ta thấy tên gia nhân Lal Chowdar đứng ngay ngưỡng cửa. Nó kín đáo vào phòng và chốt cánh cửa lại sau lưng. Nó nói: 'Đừng sợ, thưa sahib. Không ai biết là ngài đã giết ông ấy đâu. Hãy giấu nhẹm xác ông ấy đi thì ai mà biết được?' Ta nói: 'Ta không giết ông ấy'. Lal Chowdar lắc đầu và mỉm cười bảo: 'Con nghe hai người cãi nhau, và con nghe tiếng cú đánh. Nhưng con kín miệng lắm. Mọi người trong nhà đã ngủ hết rồi. Ngài và con hãy cùng nhau đưa ông ấy đi.' Thế là đủ cho ta quyết định. Ngay cả gia nhân của ta mà còn không tin ta vô tội thì làm sao ta còn hi vọng điều gì tốt đẹp khi ra hầu tòa trước mười hai gã lái buôn ngu ngốc ngồi ở ghế bồi thẩm đoàn chứ? Lal Chowdar và ta tống khứ cái xác chết trong đêm đó, và chỉ vài ngày sau các nhật báo London đã đăng toàn chuyện mất tích bí ẩn của đại úy Morstan. Qua những gì ta kể, hai con sẽ thấy là ta không có lỗi gì trong chuyện này. Ta chỉ có lỗi là đã giấu nhẹm không chỉ xác chết mà còn cả kho báu này, và ta đã chiếm giữ cả phần chia của Morstan lẫn phần của ta. Cho nên ta muốn hai con phải bồi hoàn. Hãy ghé tai vào miệng ta. Kho báu được cất giấu ở...!'

Đúng lúc đó sắc mặt cha tôi biến đổi đầy kinh hãi, hai mắt trợn trừng dại hẳn đi, mồm há hốc, và ông hét lên bằng một giọng mà tôi không thể nào quên: 'Đuổi hắn đi! Hãy vì Chúa mà đuổi hắn đi!' Cả hai anh em tôi quay lại nhìn chăm chăm vào khung cửa sổ phía sau lưng nơi ánh mắt cha tôi đang dán chặt. Từ trong bóng tối một khuôn mặt đang nhìn về phía chúng tôi. Chúng tôi thấy rõ cái mũi trắng bệch ngay nơi nó tì sát vào ô kính. Đó là một bộ mặt râu tóc bờm xờm với đôi mắt man dại tàn bạo và bộc lộ dã tâm tột cùng. Anh tôi và tôi lao tới cửa sổ nhưng kẻ đó đã biến mất. Khi chúng tôi quay lại, đầu cha tôi đã gục xuống và mạch đã ngừng đập.

Đêm ấy chúng tôi lục soát khu vườn nhưng không thấy dấu vết gì của kẻ đột nhập, ngoại trừ một dấu chân duy nhất trong bồn hoa ngay dưới khung cửa sổ. Nếu không có dấu vết đó thì chúng tôi đã cho rằng trí tưởng tượng của mình đã vẽ ra cái bản mặt hung tợn, man rợ kia. Tuy nhiên, liền sau đó chúng tôi lại có thêm bằng chứng khác và đáng chú ý hơn về chuyện có nhiều kẻ bí mật đang ngấm ngầm hoạt động quanh chúng tôi. Sáng ra chúng tôi thấy cửa phòng cha mở toang, tủ kệ và rương hòm bị lục tung, trên ngực cha ghim một mảnh giấy ghi dòng chữ 'Dấu bộ tứ'viết nguệch ngoạc. Chúng tôi không hề biết mấy chữ đó có ý nghĩa gì, cũng như ai là kẻ thăm viếng bí mật đó. Trong khả năng phán đoán của chúng tôi, thực tế không có tài sản nào của cha bị đánh cắp dù mọi thứ đều bị đảo lộn. Tất nhiên hai anh em tôi cho rằng cái biến cố kì quặc này có liên quan đến nỗi sợ đã ám ảnh cha suốt cuộc đời, nhưng tất cả đối với anh em tôi vẫn hoàn toàn là một bí ẩn."

Người thấp bé kia ngừng lời để châm lại tẩu thuốc hookah rồi trầm ngâm bập phà một lúc. Cả ba chúng tôi nãy giờ ngồi chăm chú lắng nghe câu chuyện dị thường của ông ta. Nghe tới đoạn tường thuật vắn tắt về cái chết của cha mình, cô Morstan mặt tái nhợt như xác chết và có lúc tôi e là cô sẽ ngất đi. Tuy nhiên cô trấn tĩnh lại khi uống cốc nước tôi đã lặng lẽ rót cho cô từ chiếc bình pha lê Venice trên cái bàn con. Sherlock Holmes ngả lưng ra ghế, vẻ mặt lơ đãng và hai mi mắt khép hờ trên đôi mắt lim dim. Nhìn anh, tôi không thể không nhớ lại rằng đúng vào ngày hôm ấy anh đã chua chát ta thán về sự tầm thường của cuộc sống ra sao, ít nhất đây cũng là một vấn đề sẽ buộc anh phải vắt óc đến kiệt cùng. Còn ông Thaddeus Sholto nhìn từng người trong bọn chúng tôi với vẻ kiêu hãnh thấy rõ trước tác động mà câu chuyện của ông đã tạo ra, và tiếp tục nói xen kẽ giữa những hơi thuốc phả ra từ cái tẩu to quá khổ.

"Như quý vị có thể hình dung", ông ta nói, "anh em tôi hết sức phấn khích về kho báu mà cha tôi đã nhắc đến. Suốt nhiều tuần rồi nhiều tháng trời, chúng tôi đào bới khắp vườn không chừa chỗ nào nhưng chẳng phát hiện ra manh mối gì. Thật tức điên khi nghĩ rằng cha mình chưa kịp thốt ra chỗ cất giấu ấy thì đã chết. Chúng tôi có thể đoán chừng kho báu ấy lớn đến mức nào qua chuỗi hạt mà cha đã lấy ra. Còn với chuỗi hạt thì anh Bartholomew và tôi đã có bàn luận sơ qua. Những viên ngọc này rõ ràng có giá trị lớn và anh tôi không muốn từ bỏ bởi vì, nói thật tình, anh tôi có phần nhiễm cái tật xấu của cha. Anh tôi còn e rằng nếu chúng tôi từ bỏ chuỗi hạt này thì có thể gây ra nhiều đồn đãi và cuối cùng khiến chúng tôi rắc rối. Tôi chỉ làm được mỗi một chuyện là thuyết phục anh mình cho tôi tìm địa chỉ cô Morstan và cứ cách một khoảng thời gian nhất định lại gửi cho cô từng viên ngọc rời, như thế ít ra cô ấy cũng không bao giờ cảm thấy nghèo túng."

"Thực là tử tế", cô bạn đồng hành của chúng tôi sốt sắng nói. "Ông thật tốt quá."

"Chúng tôi là người nhận ủy quyền của cô", người thấp bé kia khoát tay tỏ vẻ phản đối. "Đó là quan điểm của tôi mặc dù anh Bartholomew có thể không hoàn toàn cùng suy nghĩ đó. Bản thân chúng tôi đã có thừa tiền rồi. Tôi đâu có khao khát gì nữa. Ngoài ra, đối xử với một quý cô theo kiểu cách đáng khinh như thế thì đúng là thiếu thẩm mĩ. Le mauvais goût mène au crime. Người Pháp có cách diễn đạt điều này rất tuyệt. Sự khác biệt quan điểm của anh em tôi trong chuyện này đi xa tới mức tôi nghĩ tốt nhất là phải tìm chỗ ở riêng. Thế là tôi rời khỏi biệt trang Pondicherry, đưa ông lão Khitmutgar và Williams đi cùng. Thế nhưng hôm qua tôi hay tin một chuyện cực kì quan trọng: Tìm được kho báu rồi. Tôi lập tức liên lạc với cô Morstan và chuyện còn lại chỉ là chúng ta đi tới Norwood đòi phần chia. Đêm qua tôi đã nói rõ quan điểm của mình với anh Bartholomew rồi, cho nên chúng ta sẽ là những vị khách nếu không được hoan nghênh thì cũng được chờ đợi."

Ông Thaddeus Sholto ngừng lời và ngồi xoay trở trên chiếc trường kỉ sang trọng. Ba chúng tôi vẫn im lặng ngẫm nghĩ về đường hướng mới mà sự việc bí hiểm này đưa đẩy tới. Holmes là người đầu tiên đứng lên.

"Ông đã xử sự rất hay, thưa ông, hay từ đầu đến cuối", anh nói. "Hi vọng chúng tôi có thể đền đáp đôi chút cho ông bằng cách làm sáng tỏ những gì ông còn chưa am tường. Nhưng như cô Morstan đã nói, lúc này đã muộn rồi và chúng ta tốt nhất nên tiến hành việc này ngay không chần chờ nữa."

Người bạn mới quen của chúng tôi rất khoan thai cuộn tròn cái ống của bình thuốc tẩu hookah lại, rồi lấy từ sau bức mành một chiếc áo bành tô dài cài khuy bằng dây tua với cổ áo và cổ tay viền lông cừu. Ông ta cài chặt từng khuy một bất kể không khí cực kì ngột ngạt của đêm ấy và hoàn tất việc phục sức bằng cách đội lên đầu một chiếc mũ da thỏ có hai miếng phủ lòng thòng che tai. Thế là không có phần cơ thể nào của ông ta ở ngoài cả ngoại trừ bộ mặt tiều tụy luôn biến sắc. "Thể trạng của tôi hơi yếu", ông ta vừa nói vừa dẫn đường đi qua hành lang. "Tôi lúc nào cũng phải lo lắng về bệnh tật."

Xe ngựa đang chờ sẵn bên ngoài và chương trình của chúng tôi rõ ràng đã được bố trí từ trước bởi người xà ích khởi hành ngay lập tức với tốc độ rất nhanh. Thaddeus Sholto nói không ngừng, giọng át cả tiếng bánh xe khua vang trên đường.

"Bartholomew là người thông minh", ông ta nói. "Quý vị nghĩ anh tôi tìm ra kho báu bằng cách nào? Anh ấy đi tới kết luận là nó phải ở đâu đó trong nhà; thế là anh ấy tính toán từng khối vuông trong ngôi nhà, đo lường mọi nơi, không bỏ sót một li một tí nào mà không soi xét. Nhờ đo đạc đủ thứ, anh tôi biết được chiều cao của cả tòa nhà là bảy mươi tư foot, nhưng cộng gộp hết lại chiều cao của từng căn phòng, tính toán cả khoảng giữa mà anh tôi đã khoan để xác định, thì tổng cộng chiều cao cũng không ngoài bảy mươi foot được. Vậy là có bốn foot không thể giải thích. Khoảng cách này chỉ có thể ở trên nóc nhà. Thế là anh tôi đục thủng một lỗ xuyên qua lớp vữa và ván trần của căn phòng cao nhất, và quả không sai, anh tôi tìm ra một gác xép nhỏ nữa ở bên trên, lâu nay được bít kín mà không ai hay biết. Ngay chính giữa gác xép này là một chiếc rương đặt trên hai xà ngang. Anh tôi hạ chiếc rương xuống qua lỗ thủng trần nhà và đó chính là kho báu. Anh ấy tính toán trị giá của số châu báu đó là không dưới nửa triệu bảng Anh."

Nghe tới số tiền khổng lồ đó, chúng tôi trố mắt nhìn nhau. Nếu như chúng tôi có thể bảo vệ được quyền lợi cho cô Morstan thì cô ấy sẽ từ một gia sư nghèo túng biến thành một người thừa kế giàu có nhất Anh quốc. Rõ ràng đây là cơ hội để một người bạn trung thành tỏ ra hoan hỉ trước một tin tức như thế, song tôi phải xấu hổ mà nói rằng tính ích kỉ đã chế ngự cả tâm hồn và lòng tôi trĩu nặng như chì. Tôi lắp bắp mấy lời chúc mừng ngập ngừng rồi chán nản ngồi cúi gằm mặt xuống, không buồn nghe những lời lải nhải của người bạn mới quen nữa. Ông ta rõ ràng là một kẻ bị bệnh tưởng kinh niên, và tôi cứ lơ mơ nghe ông ta xổ ra liên tu bất tận đủ loại triệu chứng, nài nỉ hỏi han về thành phần và tác dụng của vô vàn thứ thuốc lang băm, ông ta còn mang theo một vài thứ thuốc đó trong chiếc hộp da bỏ trong túi. Tôi chắc chắn rằng ông ta có lẽ không nhớ được một câu trả lời nào của tôi vào đêm hôm đó. Còn Holmes tuyên bố rằng anh đã nghe lỏm được tôi cảnh báo Thaddeus Sholto về mối nguy hiểm vô cùng nếu uống nhiều hơn hai giọt dầu thầu dầu, nhưng lại khuyên uống mã tiền liều cao hơn để giúp giảm đau. Dù sao đi nữa tôi thấy dễ chịu hẳn khi cỗ xe dừng phắt lại và người xà ích nhảy xuống mở cửa.

"Thưa cô Morstan, đây là biệt trang Pondicherry", ông Thaddeus Sholto vừa nói vừa đưa tay đón cô xuống xe.

5. Thảm kịch ở biệt trang Pondicherry

Khi chúng tôi tới chặng cuối của cuộc phiêu lưu trong đêm thì đã gần 11 giờ. Chúng tôi đã bỏ lại sương mù ẩm ướt của đô thành sau lưng và màn đêm lúc này khá quang đãng. Một làn gió ấm thổi từ hướng tây, những tầng mây nặng trĩu chầm chậm dịch chuyển ngang trời và thỉnh thoảng nửa vầng trăng ghé mặt qua những kẽ mây. Màn đêm quang đãng nên tầm nhìn cũng được một quãng xa nhưng Thaddeus Sholto vẫn tháo chiếc đèn bên hông xe ngựa xuống để soi cho chúng tôi rõ đường đi hơn.

Biệt trang Pondicherry đứng tách biệt giữa khu đất bao quanh là tường đá rất cao, bên trên có gắn mảnh thủy tinh. Chỉ có một cánh cửa nhỏ hẹp nẹp đai sắt là lối vào độc nhất. Người dẫn đường của chúng tôi gõ cộc cộc lên cánh cửa nghe lạ tai như kiểu gõ của bưu tá.

"Ai đó?" Một giọng nói cộc cằn từ bên trong vang lên.

"Tôi đây, McMurdo. Tới giờ thì anh hẳn phải nhận ra cách gõ cửa của tôi chứ."

Có tiếng lẩm bẩm rồi tiếng chìa khóa lách cách khua vang. Cánh cửa nặng nề xoay vào phía trong và một người thâm thấp, ngực nở nang, đứng chặn ngay khoảng trống hé ra, ánh đèn vàng soi sáng bộ mặt vẩu và đôi mắt hấp háy ngờ vực.

"Cậu đấy ư, cậu Thaddeus? Nhưng mấy người kia là ai? Tôi không có lệnh nào của cậu chủ liên quan tới họ cả."

"Không có à, McMurdo? Anh làm tôi ngạc nhiên đó! Tối qua tôi đã bảo với anh tôi là tôi sẽ đưa mấy người bạn đến."

"Cả ngày hôm nay cậu chủ không hề ra khỏi phòng, cậu Thaddeus à, và tôi không nghe dặn dò gì. Cậu biết rất rõ là tôi phải tuân theo các quy định. Tôi để cậu vào được nhưng bạn của cậu phải đứng lại đây thôi."

Đây là một trở ngại bất ngờ. Thaddeus Sholto nhìn quanh với vẻ bất lực và bối rối. Ông nói, "Anh thật tệ quá, McMurdo! Chỉ cần tôi bảo đảm cho họ là được rồi. Còn quý cô đây nữa. Đâu thể để cho cô ấy chờ ngoài đường lộ vào giờ này được."

"Rất tiếc, thưa cậu Thaddeus", người gác cổng không lay chuyển mảy may. "Mấy người đó có thể là bạn cậu nhưng lại không phải là bạn của cậu chủ. Cậu ấy trả lương tôi hậu hĩnh để tôi làm phận sự và việc của tôi thì tôi phải làm. Tôi không biết ai trong mấy người bạn của cậu hết."

"Ồ, anh có biết đấy chứ, McMurdo", Sherlock Holmes lên tiếng, giọng thân thiện. "Tôi không nghĩ là anh lại có thể quên tôi được. Anh không nhớ gã tay mơ đã đấu với anh ba hiệp liền ở nhà Alison vào cái đêm thượng đài lạc quyên của anh cách đây bốn năm sao?"

"Sherlock Holmes đấy sao!" Gã võ sĩ kia gầm lên. "Chúa ơi! Sao tôi lại không nhận ra anh chứ? Thay vì cứ im lìm đứng đó, nếu anh bước lên và đấm một cú vào dưới hàm tôi thì tôi biết là anh ngay khỏi cần thắc mắc. Chà, anh đúng là đã bỏ phí tài năng, tiếc cho anh! Nếu hồi đó mà anh gia nhập giới chuyên nghiệp thì có lẽ đã tiến xa rồi."

"Thấy chưa, Watson", Holmes vừa nói vừa cười, "nếu mọi chuyện khác thất bại thì tôi vẫn còn một nghề rất ư là hợp với mình. Tôi chắc anh bạn đây bây giờ sẽ không để cho chúng ta đứng ngoài trời lạnh đâu."

"Mời vào, thưa cậu, mời vào, cả cậu và bạn cậu", người gác cửa đáp lời. "Hết sức xin lỗi cậu, cậu Thaddeus, nhưng lệnh rất nghiêm ngặt. Phải biết chắc bạn bè của cậu tôi mới cho vào được."

Bên trong, một lối đi rải sỏi ngoằn ngoèo qua những khu vườn tiêu điều dẫn tới một khối nhà đồ sộ, vuông vức và buồn tẻ; toàn bộ chìm trong bóng tối ngoại trừ nơi ánh trăng rọi chiếu vào một góc nhà và thắp sáng một ô cửa sổ gác xép. Kích thước rộng lớn của tòa nhà cùng với vẻ âm u và sự im lặng chét chóc của nó làm ớn lạnh tâm can. Ngay cả Thaddeus Sholto cũng có vẻ bất an và chiếc đèn cứ run rẩy, chao đảo trong tay ông ta.

"Sao kì lạ quá", ông nói. "Phải có nhầm lẫn gì đây. Rõ ràng tôi đã bảo Bartholomew là chúng ta sẽ đến đây, thế mà cửa sổ phòng anh ấy lại chẳng có đèn đóm gì cả. Tôi không biết sao lại thế này."

"Ông ấy lúc nào cũng canh gác cơ ngơi như thế à?" Holmes hỏi.

"Đúng vậy, anh ấy làm theo lệ của cha tôi. Anh ấy là con cưng mà, ông biết rồi đó, và lắm lúc tôi cho rằng cha có thể đã nói cho anh tôi nhiều điều mà tôi không biết. Cửa sổ trên cao, chỗ ánh trăng chiếu vào chính là phòng của Bartholomew đó. Phòng khá sáng sủa nhưng bên trong không hề thắp đèn, tôi nghĩ vậy."

"Không sai", Holmes nói. "Nhưng tôi thấy có ánh sáng ở ô cửa sổ nhỏ bên cạnh cửa chính."

"À, đó là phòng quản gia. Bà lão Bernstone ngủ ở đó. Bà ta có thể cho chúng ta biết rõ mọi chuyện. Nhưng có lẽ quý vị cảm phiền chờ ở đây một vài phút nhé, vì nếu tất cả chúng ta cùng vào một lượt mà bà ta không hề biết trước thì bà sẽ phát hoảng lên đó. Suỵt! Cái gì thế?"

Ông ta run rẩy giơ cao đèn, cho đến khi những quầng sáng lập lòe, chập chờn tứ phía bao quanh chúng tôi. Cô Morstan nắm chặt cổ tay tôi và cả bọn chúng tôi đứng im, tim đập dồn, căng tai nghe ngóng. Từ ngôi nhà đen đúa to lớn kia vẳng ra những âm thanh buồn bã và ai oán nhất phá vỡ màn đêm tĩnh mịch - tiếng khóc rên the thé, nấc nghẹn của một người đàn bà đang khiếp đảm.

"Đó là tiếng bà Bernstone", Thaddeus Sholto nói. "Trong nhà chỉ có mỗi bà ấy là phụ nữ. Chờ ở đây. Tôi sẽ quay lại ngay." Ông hấp tấp chạy tới cánh cửa và gõ theo cách đặc biệt của mình. Chúng tôi nhận ra bóng một bà già cao gầy ra đón và mừng cuống quýt khi thấy mặt ông ta.

"Ôi, cậu Thaddeus, thưa cậu, có cậu đến tôi mừng quá! Có cậu đến tôi mừng quá, cậu Thaddeus ơi!" Bà già cứ lặp đi lặp lại những lời hân hoan ấy cho đến khi cánh cửa khép lại và tiếng nói của bà bị bóp nghẹn thành một âm thanh đều đều rồi tắt lịm dần.

Người dẫn đường đã để lại đèn cho chúng tôi. Holmes từ từ giơ đèn lên soi một vòng rồi chăm chú quan sát ngôi nhà và những đống rác vĩ đại chất ngổn ngang khắp vườn tược. Cô Morstan và tôi đứng bên nhau, bàn tay cô nằm trong bàn tay tôi. Tình yêu là một xúc cảm huyền ảo thần kì xiết bao, vì trước hôm đó, chúng tôi vốn chưa hề gặp mặt nhau, chưa hề trao gửi một lời hay thậm chí một cái nhìn cảm mến, ấy vậy mà trong giờ khắc tai biến này những bàn tay lại bất giác kiếm tìm nhau. Tôi cứ lấy làm lạ về điều ấy cho tới tận bây giờ, nhưng vào lúc đó dường như việc tự nhiên nhất là tôi cứ bộc lộ như thế, và như cô sau này vẫn thường nói với tôi, bản năng cũng thôi thúc cô nương tựa vào tôi để được chở che và an ủi. Như hai đứa trẻ, chúng tôi cứ đứng nắm tay nhau như thế và thấy lòng bình an bất chấp mọi thứ đen tối bao quanh.

"Quả là một chỗ kì lạ!" Cô vừa nói vừa nhìn quanh.

"Trông cứ như tất cả chuột chũi của Anh quốc đã được thả rông ở đây. Tôi từng thấy một cảnh tương tự ở một sườn đồi gần Ballarat nơi những người đi tìm vàng đã đào bới."

"Thì cùng mục đích mà", Holmes nói. "Đây là dấu vết của những kẻ đi tìm kho báu. Hai người phải nhớ là họ đã tìm kiếm suốt sáu năm nay. Thảo nào mà vườn tược trông cứ như hầm mỏ thế này."

Ngay lúc đó, cửa chính căn nhà bật mở toang và Thaddeus Sholto chạy ra, hai bàn tay vung về phía trước, đôi mắt đầy kinh hoàng. "Bartholomew gặp chuyện chẳng lành rồi!" Ông ta kêu to. "Tôi sợ quá! Thần kinh tôi không chịu nổi!" Quả thực ông ta đã khóc muốn sưng mắt vì sợ, bộ mặt yếu đuối rúm ró nhô ra từ cái cổ áo lông cừu vĩ đại kia lồ lộ vẻ cầu khẩn bất lực của một đứa bé kinh hãi.

"Vào nhà đi", Holmes nói với giọng dứt khoát, kiên quyết.

"Vâng, ngay cho!" Thaddeus Sholto nài xin. "Tôi thực sự không biết phải làm gì nữa."

Tất cả chúng tôi theo ông ta vào phòng của bà quản gia ở bên tay trái của hành lang chính. Bà già đang quýnh quáng đi tới đi lui với vẻ mặt sợ hãi vì những ngón tay vặn xoắn run rẩy, nhưng sự xuất hiện của cô Morstan dường như có tác dụng khiến bà bình tâm hơn.

"Chúa ban phước cho gương mặt dịu dàng, bình hòa của cô!" Bà thốt lên, kèm một tiếng nức nở hoảng hốt. "Gặp cô tôi nhẹ cả người. Ôi, khổ thân tôi cả ngày hôm nay!"

Cô bạn của chúng tôi vỗ về bàn tay gầy guộc, lam lũ của bà và thì thầm mấy lời an ủi ân cần của phụ nữ khiến hai gò má tái nhợt cắt không còn giọt máu của bà hồng hào trở lại.

"Cậu chủ cứ tự giam mình trong phòng và không chịu trả lời tôi", bà giải thích. "Tôi đã chờ suốt ngày để nghe cậu chủ gọi vì cậu thường thích ở một mình, nhưng một giờ trước tôi sợ có chuyện gì chẳng lành nên tôi tới nhìn qua lỗ khóa. Cậu phải lên trên đó đi, cậu Thaddeus, cậu phải lên mà xem tận mắt đi. Tôi đã từng biết cậu Bartholomew Sholto vui buồn ra sao suốt mười năm nay nhưng tôi chưa hề thấy cậu chủ lại có vẻ mặt như thế bao giờ."

Sherlock Holmes đón lấy ngọn đèn và đi trước dẫn đường vì Thaddeus Sholto đã phát hoảng tới mức người run cầm cập, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập không ngừng. Khi lên cầu thang, tôi phải luồn tay xốc nách người thấp bé kia vì hai đầu gối ông ta run lẩy bẩy muốn ngã quỵ. Có hai lần trong khi đi lên, Holmes móc chiếc kính lúp trong túi ra vẻ cẩn thận xem xét những dấu vết mà đối với tôi chẳng khác gì những vết bụi không hình thù trên tấm thảm xơ dừa trải cầu thang. Anh cứ bước thong thả từng bậc một, tay soi đèn, ánh mắt sắc sảo quan sát hai bên. Cô Morstan ở lại với bà quản gia hốt hoảng.

Cầu thang thứ ba kết thúc ở một lối đi thẳng khá dài, phía bên phải là tấm thảm tranh lớn của Ấn Độ còn bên trái là ba cánh cửa. Holmes đi theo đường ấy cũng với cung cách từ tốn và cẩn thận ban nãy, trong khi chúng tôi bám sát gót anh, bóng đen của chúng tôi đổ dài xuống hành lang sau lưng. Cánh cửa thứ ba là nơi chúng tôi cần đến. Holmes gõ cửa mà không thấy ai trả lời, rồi anh xoay tay nắm thử đẩy mạnh. Nhưng cửa đã khóa trái ở bên trong. Khi tì sát ngọn đèn vào ổ chúng tôi thấy cửa được khóa bởi một cái chốt rất to và chắc. Tuy nhiên, chìa đã được vặn sang một bên và lỗ khóa không hoàn toàn bị bịt kín. Sherlock Holmes khom người ghé mắt qua lỗ khóa rồi đứng bật dậy ngay lập tức, hít mạnh một hơi.

"Trong này có gì đó khủng khiếp lắm, Watson", anh nói, vẻ xúc động hơn hẳn những lần tôi đã từng thấy anh bộc lộ. "Theo anh thì sao?"

Tôi khom xuống lỗ khóa rồi kinh hoàng thoái lui. Ánh trăng đang chiếu vào căn phòng đó, và bên trong ngập tràn một ánh sáng lờ mờ, ma mị. Nhìn thẳng về phía tôi là một bộ mặt trông như lơ lửng vì toàn bộ phía dưới đều chìm trong bóng tối - bộ mặt của chính ông bạn Thaddeus. Cũng vầng trán cao bóng loáng ấy, cũng mớ tóc hung đỏ bờm xờm ấy, cũng sắc mặt tái nhợt ấy. Thế nhưng nét mặt lại cứng đơ thành một diệu cười kinh dị, một bộ dạng cười nhe răng bất động và phi tự nhiên mà trong căn phòng tĩnh mịch dưới ánh trăng này nó khiến thần kinh rúng động hơn bất kì vẻ mặt cau có hay méo xệch nào. Gương mặt ấy giống hệt anh bạn thấp bé của chúng tôi tới mức tôi phải ngoảnh nhìn lại để chắc chắn là ông ta thực sự đang ở cùng chúng tôi. Sau đó tôi mới nhớ lại ông ta đã từng cho chúng tôi biết là mình có một người anh song sinh.

"Kinh khủng quá!" Tôi bảo Holmes. "Phải làm gì đây?"

"Phải phá cửa vào trong", anh đáp và xô người vào cánh cửa, vận hết sức lực dồn về phía ổ khóa. Cánh cửa rên rỉ, kèn kẹt, nhưng không nhượng bộ. Cả hai chúng tôi cùng xô người tới một lần nữa và lần này cánh cửa đột ngột bật ra, và chúng tôi thấy mình đang ở bên trong căn phòng của Bartholomew Sholto.

Có vẻ như phòng này đã được trang bị để làm một phòng thí nghiệm hóa học. Hai hàng chai lọ có nút đậy bằng thủy tinh xếp dài trên bức tường đối diện cánh cửa, và trên cái bàn bừa bộn đủ thứ đèn Bunsen, ống nghiệm và bình cổ cong. Ở các góc phòng là những bình lớn có vỏ bọc đặt trong các giỏ đan bằng cây liễu gai. Một bình có lẽ đã rò rỉ hay bị vỡ bởi vì một chất lỏng màu thâm đen đã từ đó chảy ra thành vũng nhỏ, và bầu không khí nồng một mùi hăng hăng đặc biệt giống như mùi hắc ín. Ở một phía gian phòng là chiếc thang dựng giữa đống thạch cao và gỗ lát trần vung vãi, bên trên là một lỗ hổng đục thủng trần nhà đủ rộng cho một người chui qua. Dưới chân thang vứt bừa một cuộn dây thừng dài.

Cạnh cái bàn là một ghế bành bằng gỗ, chủ nhân của ngôi nhà ngồi bất động trên ghế, đầu gục sang vai trái và trên mặt là nụ cười ma quái bí hiểm đó. Người ông ta lạnh cứng và rõ ràng đã chết từ nhiều giờ trước. Tôi thấy hình như không chỉ nét mặt mà cả tay chân của ông ta đều vặn vẹo, co quắp hết sức dị thường. Trên mặt bàn, cạnh bàn tay người chết là một đồ vật kì lạ - một cái chày vồ nhẵn bóng màu nâu, ở đầu là viên đá giống như đầu búa, được buộc vào bằng dây bện thô sơ. Bên cạnh là mảnh giấy được xé từ tờ giấy viết thư, ghi nguệch ngoạc mấy chữ. Holmes nhìn qua rồi đưa mảnh giấy cho tôi. "Anh xem đi", anh nói và nhướng mày đầy ý nghĩa.

Dưới ánh sáng ngọn đèn xách tay, tôi đọc và rùng mình kinh hãi - "Dấu bộ tứ"."Nhân danh Chúa, chuyện này có nghĩa gì chứ?" Tôi hỏi.

"Có nghĩa là án mạng đấy", anh vừa nói vừa khom người bên xác chết. "À, đúng như tôi nghĩ. Nhìn này!" Anh chỉ cho tôi thấy một vật giống như một cái gai dài, thâm đen, cắm vào da ngay phía trên tai.

"Trông như cái gai", tôi nói

"Đúng vậy. Anh có thể nhổ nó ra. Nhưng cẩn thận đấy, vì gai đã tẩm độc."

Tôi đưa ngón cái và ngón trỏ nhón lấy cái gai. Nó rút khỏi lớp da dễ dàng tới mức hầu như không để lại dấu vết gì. Chỉ có một đốm máu nhỏ xíu cho thấy nơi đã bị đâm.

"Chuyện này lại càng bí ẩn không thể hiểu nổi đối với tôi", tôi nói. "Mọi thứ càng thêm mù mịt thay vì sáng tỏ thêm."

"Ngược lại", anh đáp, "sự việc càng lúc càng rõ ràng. Tôi chỉ cần vài mắt xích còn thiếu nữa là xâu kết được toàn bộ sự việc."

Chúng tôi cơ hồ quên mất sự hiện diện của người bạn đồng hành kể từ lúc chúng tôi đi vào căn phòng này. Thaddeus vẫn còn đứng ở ngưỡng cửa, hoàn toàn kinh hãi, hai bàn tay vặn vẹo vào nhau và ông ta cứ rên rỉ một mình. Nhưng bất thình lình, ông ta bật ra một tiếng hét lanh lảnh đầy tức tối.

"Mất kho báu rồi!" Ông la lên. "Chúng nó cướp kho báu của anh tôi rồi! Đó là cái lỗ mà chúng tôi đã hạ cái rương xuống. Tôi đã giúp anh tôi làm mà! Tôi là người cuối cùng gặp anh tôi! Tôi đã để anh tôi ở lại đây đêm qua, và tôi còn nghe anh ấy khóa cửa khi tôi đi xuống cầu thang."

"Lúc đó là mấy giờ?"

"10 giờ. Bây giờ anh tôi chết rồi, cảnh sát sẽ tới đây, và tôi sẽ bị tình nghi nhúng tay vào vụ này. Ôi, đúng thế, tôi biết chắc mà. Nhưng quý vị không nghĩ vậy phải không? Nhất định là các ông không nghi là tôi làm đấy chứ? Nếu tôi làm thì sao tôi lại có thể đưa các ông đến đây? Ôi chao! Ôi chao! Tôi sắp phát điên tới nơi rồi!" Thaddeus cứ co giật hai cánh tay và giậm chân thình thịch trong một cơn mê loạn như động kinh.

"Ông không việc gì phải sợ hãi, ông Sholto", Holmes lên tiếng và ân cần đặt tay lên vai ông ta. "Hãy nghe lời tôi, đánh xe xuống đồn báo cảnh sát đi. Hãy đề nghị giúp đỡ họ bằng mọi cách. Chúng tôi sẽ chờ ở đây cho đến khi ông quay lại."

Người thấp bé kia làm theo trong trạng thái gần như u mê, và trong bóng tối chúng tôi nghe tiếng ông trượt chân suýt ngã dưới cầu thang.

6. Sherlock Holmes diễn giảng

"Này, Watson", Holmes vừa nói vừa xoa bàn tay vào nhau, "chúng ta được nửa giờ tự do đấy. Hãy tận dụng đi. Như tôi đã nói với anh, vụ này đối với tôi hầu như đã đầy đủ dữ kiện, nhưng chúng ta không được sai lầm vì quá tự tin. Bây giờ vụ này đã có vẻ đơn giản nhưng có thể còn ẩn chứa điều gì đó sâu xa hơn."

"Đơn giản?" Tôi thốt lên.

"Đúng", anh nói với giọng điệu của một vị giáo sư lãnh đạm đang giảng bài trước lớp học. "Anh cứ ngồi ở góc phòng đó nhé, để dấu chân của anh khỏi làm phức tạp vấn đề. Bây giờ làm việc! Trước hết, chúng đến bằng cách nào và chúng đi bằng cách nào? Cửa ra vào từ đêm qua đã không hề mở ra. Còn cửa sổ thì sao?" Anh cầm đèn đi tới cửa sổ, miệng lẩm bẩm nêu ra những kết quả quan sát nhưng anh nói với chính mình hơn là nói với tôi. "Cửa sổ cài chốt phía trong. Khung cửa chắc chắn. Cạnh cửa không có bản lề. Ta thử mở ra xem, gần đấy không có ống nước nào. Mái nhà xa ngoài tầm với. Tuy vậy có kẻ đã leo qua cửa sổ. Đêm qua trời mưa nhỏ. Đây này, trên bệ cửa sổ còn dính đất của một dấu chân. Còn đây là một dấu bùn đất hình tròn, rồi trên sàn nhà đây này, rồi cạnh cái bàn cũng có nữa. Nhìn đi, Watson! Quả là một chứng cứ rất tuyệt."

Tôi nhìn những dấu bùn đất hình tròn rõ nét. "Đây đâu phải dấu chân." Tôi nói.

"Dấu ấy có giá trị đối với chúng ta hơn là dấu chân nhiều lắm. Đấy là dấu của một cái chân gỗ. Anh xem đây, trên bệ cửa này là dấu giày, một chiếc ghệt lớn đóng gót kim loại to bản, và bên cạnh là dấu tròn của cái chân gỗ."

"Chính là người có chân gỗ."

"Đúng thế. Nhưng còn một kẻ khác nữa, một kẻ tòng phạm rất lành nghề và đắc dụng. Anh có thể leo trên bức tường đó được không, bác sĩ?"

Tôi nhìn qua cánh cửa sổ mở. Vầng trăng vẫn soi sáng ngôi nhà theo hướng cũ. Chúng tôi đang đứng cách mặt đất sáu mươi foot và từ chỗ tôi đứng tôi không nhìn thấy một chỗ nào có thể bám chân hay một khe hở nào trên bức tường gạch này.

"Chắc chắn không thể nào leo được", tôi đáp.

"Nếu không có trợ giúp thì đúng là thế. Nhưng giả sử anh có một người bạn ở trên này thả xuống cho anh sợi dây thừng to chắc mà tôi thấy trong góc phòng, buộc chặt một đầu dây vào cái móc lớn ở trên tường này. Đấy, tôi nghĩ nếu anh là người nhanh nhẹn thì anh vẫn có thể leo lên được, dù có chân gỗ hay chân gì đi nữa. Tất nhiên anh cũng phải ra đi theo cách đó, và đồng minh của anh sẽ kéo dây lên, tháo khỏi móc, đóng cửa sổ, chốt lại bên trong, rồi tẩu thoát theo ngả hắn ta đã đi vào lúc đầu. Có một chi tiết tuy nhỏ nhưng cũng cần lưu ý", anh vừa nói tiếp vừa mân mê sợi dây thừng, "đó là người bạn chân gỗ của chúng ta cho dù giỏi leo trèo nhưng lại không phải là thủy thủ chuyên nghiệp. Hai bàn tay hắn ta không hề chai sần. Kính lúp của tôi cho thấy nhiều dấu máu, nhất là về phía cuối sợi dây, từ đó tôi kết luận là hắn ta đã tuột xuống nhanh đến độ tróc cả một mảng da bàn tay."

"Tất cả đều hợp lí", tôi nói, "nhưng có một điều lại càng khó hiểu hơn bao giờ hết. Tên đồng lõa bí ẩn này thì sao? Làm sao hắn vào phòng này được chứ?"

"Đúng, tên đồng lõa!" Holmes lập lại với vẻ trầm ngâm. "Tên này có nhiều chi tiết thú vị. Chính hắn đã khiến vụ này vượt xa trình độ tầm thường. Tôi cho rằng hắn đã tạo ra bước tiến lớn trong biên niên sử tội phạm ở nước ta, mặc dù có thể liên tưởng đến nhiều vụ tương tự ở Ấn Độ, và nếu như tôi nhớ không lầm, thì cả từ Senegambia nữa."

"Thế thì hắn vào bằng ngả nào chứ?" Tôi lặp lại. "Cửa phòng khóa, cửa sổ không thể trèo lên. Không lẽ chui qua ống khói ư?"

"Vì lò sưởi quá nhỏ", anh đáp. "Tôi đã cân nhắc khả năng đó rồi."

"Vậy thì bằng cách nào?" Tôi vẫn khăng khăng.

"Anh không chịu áp dụng những quy tắc của tôi", anh lắc đầu nói. "Tôi thường bảo anh là khi đã loại trừ hết những điều bất khả, thì điều gì còn lại, cho dù phi lí tới đâu, nhất định phải là sự thật! Chúng ta biết là kẻ này không đi qua cửa chính, cửa sổ hay ống khói. Chúng ta cũng biết là hắn không thể nào ẩn nấp trong phòng này, bởi không có chỗ nào khả dĩ ẩn nấp được. Nếu vậy thì hắn từ đâu đến?"

"Hắn đi qua cái lỗ thủng trên mái nhà?" Tôi kêu lên.

"Đương nhiên là thế. Hắn ta hẳn phải theo ngả đó. Nếu anh vui lòng cầm cái đèn giúp tôi, chúng ta sẽ mở rộng phạm vi điều tra sang căn phòng bên trên, căn phòng bí mật nơi cất giấu kho báu."

Anh trèo lên thang rồi mỗi tay bám lấy một xà nhà, anh đu người lên căn gác xép áp mái. Sau đó, anh nằm sấp xuống đưa tay đón lấy ngọn đèn và cầm đèn cho tôi trèo lên theo.

Căn phòng này dài chừng mười foot, còn chiều kia khoảng sáu foot. Sàn phòng chính là những xà nhà ở giữa lát ván trần, trét thạch cao, cho nên khi đi ta phải bước từ xà này sang xà kia. Mái dựng thành chóp nhọn và rõ ràng là mặt trong mái nhà. Không hề có đồ đạc gì cả và bụi bặm tích tụ theo tháng năm đóng dày trên mặt sàn.

"Đây này, anh thấy chưa", Sherlock Holmes vừa nói vừa đặt tay vào một vách nghiêng. "Đây là cửa sập thông ra mái nhà. Tôi có thể đẩy cửa ra, và kia chính là mái nhà nghiêng theo một góc thoải. Vậy thì đây chính là ngả mà tên Số Một đi vào. Hãy xem thử chúng ta có tìm được dấu vết cá biệt nào khác của hắn không."

Anh đặt đèn xuống sàn và lần thứ hai trong đêm hôm đó tôi nhìn thấy vẻ ngạc nhiên, sửng sốt hiện trên nét mặt anh. Về phần mình, khi dõi theo cái nhìn của anh, tôi phát ớn lạnh dù mặc quần áo ấm. Trên sàn đầy dấu vết một bàn chân trần - rõ ràng, sắc nét, hình dạng hoàn hảo, nhưng kích thước chưa tới phân nửa dấu chân của một người bình thường.

"Holmes", tôi thì thào, "một đứa nhỏ đã làm chuyện kinh khủng này."

Anh đã trấn tĩnh lại trong chớp nhoáng. Anh nói, "Tôi đã sửng sốt mất một lúc nhưng chuyện này cũng tự nhiên thôi. Tôi đã không nhớ hết các chi tiết, nếu không thì tôi đã tiên liệu được rồi. Ở đây chẳng còn gì để tìm hiểu nữa. Chúng ta leo xuống đi."

"Thế thì giả thuyết của anh về những dấu chân đó là thế nào?" Tôi hăm hở hỏi khi cả hai đã trở lại căn phòng phía dưới.

"Anh Watson thân mến ơi, thử tự mình phân tích một chút xem", anh nói, vẻ hơi mất kiên nhẫn. "Anh biết phương pháp của tôi mà. Cứ áp dụng đi, nó sẽ dẫn đường cho anh khi đối chiếu các kết quả."

"Tôi không nghĩ ra được kết luận nào có thể khớp với mọi dữ kiện", tôi đáp.

"Rồi anh sẽ thấy rõ ngay thôi", anh nói với vẻ hờ hững. "Chắc là không còn gì quan trọng ở đây nữa, nhưng để tôi xem lại."

Anh móc kính lúp và thước dây ra, rồi bò trên đầu gối lăng xăng khắp phòng, lúc đo đạc, lúc đối chiếu, xem xét, cái mũi dài và thanh mảnh của anh chỉ cách mặt ván sàn chừng vài inch, còn đôi mắt nhỏ sáng rực và hốc mắt sâu như mắt của loài chim. Những động tác của anh hết sức mau lẹ, khẽ khàng và bí ẩn chẳng khác gì một con chó săn lão luyện đang đánh hơi, khiến tôi không khỏi nghĩ rằng anh hẳn sẽ là một tên tội phạm khủng khiếp biết nhường nào nếu như dồn hết sức lực và trí tuệ để chống lại chứ không phải để bảo vệ luật pháp. Trong lúc lùng sục khắp nơi, anh cứ nói lẩm bẩm một mình, và cuối cùng anh bật ra một tiếng kêu to đắc chí.

"Đúng là chúng ta gặp may rồi", anh nói. "Bây giờ chúng ta không còn nhiều khó khăn nữa. Số Một đã xui xẻo giẫm chân vào vũng dầu creosote này. Anh có thể thấy đường nét cạnh bàn chân nhỏ nhắn của hắn ta ở đây, kế bên vũng hôi nồng này. Bình chứa bị nứt. Thấy chưa, chất lỏng bên trong đã chảy ra."

"Thế thì sao?" Tôi hỏi.

"Ồ, chúng ta đã tóm được hắn, thế thôi", anh nói. "Tôi biết chắc một con chó sẽ đánh hơi ra cái mùi đó đến tận cùng thế giới. Nếu một đàn chó có thể bám theo con mồi bị săn đuổi khắp cả vùng rộng lớn, thì một con chó săn được huấn luyện đặc biệt có thể dò theo cái mùi hăng nồng như thế này được bao xa? Nghe có vẻ như một phép tính theo quy tắc tam suất. Đáp số sẽ cho ta biết. A ha! Các đại diện chính thức của pháp luật đến rồi kìa."

Tiếng bước chân nặng nề và tiếng người nói huyên náo từ bên dưới vẳng lên và tiếng cửa chính đóng sầm một cái inh tai. Holmes bảo tôi, "Trước khi họ lên đây, anh hãy đặt tay lên cánh tay của kẻ xấu số này, rồi đặt ở đây trên chân ông ta nữa. Anh cảm thấy gì nào?"

"Các cơ bắp cứng ngắc như tấm phản", tôi đáp.

"Đúng thế! Các cơ bắp ở trong tình trạng co rút cực độ, vượt xa trạng thái rigor mortis thông thường. Cộng với nét mặt biến dạng méo mó, với hai má căng cơ thành kiểu cười mà các y văn cổ gọi là trạng thái risus sardonicus. Vậy thì anh nghĩ ra kết luận gì nào?"

"Một chất độc rất mạnh có nguồn gốc thực vật", tôi nói, "một chất nào đó giống như mã tiền có khả năng làm co cơ."

"Đó chính là ý tưởng nảy ra trong đầu ngay khi tôi nhìn thấy các cơ căng cứng trên khuôn mặt này. Khi bước vào phòng, tôi liền tìm hiểu xem độc chất đã xâm nhập cơ thể bằng phương tiện gì. Như anh đã thấy, tôi phát hiện ra một cái gai được đâm hay bắn vào da đầu hết sức nhẹ nhàng. Anh để ý xem, nếu người này ngồi thẳng trên ghế thì chỗ bị bắn gai vào sẽ hướng về phía lỗ thủng trên trần nhà. Bây giờ hãy kiểm tra cái gai."

Tôi thận trọng nhón cái gai lên và đưa ra dưới ánh đèn. Chiếc gai dài, bén, và thâm đen, phía gần đầu nhọn có vẻ bóng loáng như thể một chất keo gì đó đã được phết lên đó và để cho khô. Đầu gai còn lại đã được gọt tròn bằng dao.

"Có phải loại cây gai nào đó của Anh quốc không?"

"Không phải, chắc chắn là không. Với tất cả dữ kiện này anh đã có thể rút ra một số kết luận chính xác. Nhưng quân chính quy đã đến kìa, vậy thì lực lượng hỗ trợ có thể rút quân được rồi."

Trong lúc anh nói, những bước chân đang đi tới vang động khắp hành lang, rồi một người đàn ông đẫy đà, to béo mặc bộ đồ màu xám sấn bước thình thịch vào phòng. Đó là một người mặt đỏ hồng, trông sung mãn và dư thừa quá mức, đôi mắt ti hí hấp háy với ánh nhìn sắc sảo lọt thỏm giữa hai túi thịt căng phồng húp híp. Theo sát ông ta là một viên thanh tra khác mặc cảnh phục và Thaddeus Sholto, người vẫn còn run lẩy bẩy.

"Công việc đây rồi!" Ông ta thốt lên bằng một giọng khàn khàn, nghèn nghẹn. "Công việc quan trọng đây rồi! Nhưng mấy người này là ai? Ối chà, căn nhà này coi bộ đông nghẹt như hang thỏ!"

"Chắc là ông phải nhớ tôi chứ, ông Athelney Jones", Holmes khẽ lên tiếng.

"Ồ, tất nhiên là nhớ", ông ta nói khò khè. "Đây là ông Sherlock Holmes, lí thuyết gia. Nhớ rõ nữa kìa! Tôi không hề quên ông đã thuyết giảng cho cả bọn chúng tôi nghe về những nguyên nhân, suy luận và hệ quả trong vụ hộp đựng nữ trang Bishopgate. Quả đúng là ông đã giúp chúng tôi điều tra đúng hướng, nhưng bây giờ chắc ông phải thừa nhận rằng lần đó ông gặp vận may hơn là phán đoán tốt."

"Vụ đó suy luận rất đơn giản mà."

"Ồ, thôi nào, bỏ qua! Chẳng có gì phải xấu hổ khi thừa nhận cả. Nhưng chuyện gì thế này? Chuyện dữ! Chuyện dữ! Toàn là dữ liệu thực tế đấy, không có chỗ cho giả thuyết đâu. May mà tôi tình cờ đến Norwood vì một vụ khác! Khi tin báo đến nơi thì tôi đang ở đồn cảnh sát. Theo ông thì người này vì sao chết?"

"Ồ, vụ này chưa cần tôi đưa ra giả thuyết", Holmes lạnh lùng nói.

"Không, không. Dù sao chúng tôi cũng không phủ nhận là có lúc ông đoán trúng phóc. Ôi trời! Cửa phòng đã khóa, tôi hiểu rồi. Số châu báu trị giá nửa triệu biến mất. Còn cửa sổ thì sao?"

"Khóa chặt, nhưng có dấu chân trên bệ cửa."

"Đó, đó, nếu cửa khóa chặt thì dấu chân chẳng có liên quan gì đến chuyện này. Ai mà không biết chứ. Người này có thể đã chết trong cơn đau tim, nhưng rồi châu báu biến mất. A! Tôi có giả thuyết đây. Nhiều khi tôi cũng tỏa sáng đấy chứ... Hãy bước ra ngoài đi, anh hạ sĩ. Và ông nữa, ông Sholto. Bạn của ông có thể ở lại... ông nghĩ sao, ông Holmes? Theo lời khai của chính Sholto thì đêm qua hắn ta đã ở đây với anh hắn. Anh hắn đau tim chết, thế là Sholto ôm kho báu bỏ đi. Ông thấy sao?"

"Thế là người chết này rất ý tứ đứng dậy và khóa cửa phòng từ bên trong."

"Hừm! Có sai lầm ở đây. Ta hãy thử áp dụng óc phán đoán thực tế xem nào. Tên Thaddeus Sholto này đã ở cùng anh hắn, đã có cãi cọ, chúng ta đã biết quá rõ. Người anh chết còn châu báu thì mất. Chúng ta cũng đã biết quá rõ. Không một ai nhìn thấy người anh kể từ lúc Thaddeus ra đi. Giường ngủ của người anh không có ai nằm. Thaddeus rõ ràng ở trong tâm trạng hết sức bất an. Diện mạo của hắn thì... ừ, chẳng ai ưa nhìn. Ông thấy là tôi đang dệt tấm lưới bao quanh Thaddeus. Màn lưới bắt đầu trùm lên hắn."

"Ông vẫn chưa có đủ các dữ kiện mà", Holmes nói. "Dằm gỗ này đã cắm vào da đầu của người chết ở chỗ ông thấy dấu vết đó, tôi có đủ lí do để tin rằng dằm gỗ tẩm độc. Còn tấm thiếp này, ông thấy có ghi chữ đó, nằm trên bàn, và bên cạnh là một đồ vật kì lạ có đầu bằng đá. Làm sao khớp được tất cả vào giả thuyết của ông?"

"Xác đáng trong mọi phương diện", viên thanh tra mập béo nói với vẻ khoa trương. "Nhà này đầy những vật lạ ở Ấn Độ. Thaddeus đã bày chúng ra, và nếu dằm gỗ này tẩm độc thì Thaddeus có khả năng đã sử dụng nó với ý đồ sát nhân như bất kì ai. tấm thiếp này chỉ là trò bịp, một thứ hỏa mù, rất có thể như thế. Câu hỏi duy nhất là hắn đi ra bằng cách nào? À, tất nhiên rồi, có cái lỗ trên mái nhà."

Với sự nhanh nhẹn tuyệt vời nếu xét đến tấm thân kềnh càng của ông ta, viên thanh tra nhảy vọt lên chiếc thang, nhét người chui vào căn gác xép, và liền sau đó chúng tôi nghe tiếng nói hớn hở của ông ta tuyên bố đã phát hiện ra cánh cửa sập.

"Gã cũng tìm được cái gì đó", Holmes vừa nói vừa nhún vai. "Thỉnh thoảng gã cũng biết suy luận đấy! Il n'y a pas des sots si incommodes que ceux qui ont de l'esprit!"

"Thấy chưa!" Athelney Jones lại xuất hiện và vừa nói vừa trèo xuống thang. "Dẫu sao thực tế vẫn hay hơn giả thuyết. Quan điểm của tôi về vụ này đã được xác thực. Có một cửa sập thông ra mái nhà và đã mở hé."

"Chính tôi mở ra đó."

"Ồ, vậy à! Hóa ra ông đã thấy rồi sao?" Ông ta có vẻ hơi thất vọng khi biết chuyện này. "Chà, cho dù ai thấy đi nữa thì nó cũng cho biết ngài quý tộc của chúng ta đã tẩu thoát bằng cách nào. Thanh tra đâu?"

"Có tôi, thưa ông", tiếng nói từ hành lang vọng vào.

"Yêu cầu ông Sholto bước vào đây... Này ông Sholto, bổn phận của tôi là thông báo với ông rằng bất cứ điều gì ông nói ra có thể được dùng làm chứng cứ buộc tội ông. Nhân danh nữ hoàng, tôi bắt giữ ông vì có dính líu đến cái chết của anh ông."

"Đấy, biết mà! Tôi đã bảo các ông rồi!" Kẻ thấp bé tội nghiệp kia kêu lên, hai bàn tay vung ra, mắt hết nhìn từ Holmes lại chuyển sang nhìn tôi.

"Đừng có lo chuyện này, ông Sholto", Holmes nói. "Tôi nghĩ là tôi có thể can thiệp để minh oan cho ông."

"Đừng hứa hẹn quá nhiều, ngài Lí Thuyết Gia ơi, đừng hứa hẹn quá nhiều!" Viên thanh tra ngắt lời. "Ông sẽ thấy vụ này khó khăn hơn ông tưởng đấy."

"Ông Jones, không những tôi sẽ minh oan cho ông ấy mà tôi còn tặng ông một món quà miễn phí là tên và nhân dạng của một trong hai kẻ đã có mặt trong phòng này đêm hôm qua. Tôi có đủ lí do để tin rằng tên hắn là Jonathan Small. Hắn là một kẻ ít học, nhỏ con, nhanh nhẹn, chân phải bị cụt và mang một chân gỗ mà mặt trong đã mòn vẹt. Chiếc ghệt trái của hắn đế đã tồi tàn, mũi vuông, gót bọc sắt. Mấy dấu hiệu này có thể có ích cho ông đấy, cộng thêm dữ kiện là một mảng da lớn trong lòng bàn tay hắn đã bị tróc mất. Còn kẻ thứ hai..."

"Á à! Còn người khác nữa ư?" Athelney Jones hỏi với giọng giễu cợt nhưng, như tôi thấy rõ, ông ta vẫn bị phong cách tỉ mỉ chính xác của Holmes gây ấn tượng.

"Là một kẻ khá quái dị", Sherlock Holmes vừa nói vừa quay gót. "Hi vọng là chẳng bao lâu nữa tôi có thể giới thiệu cả hai người này với ông... Watson này, nói riêng với anh một chút."

Anh kéo tôi ra đầu cầu thang rồi nói, "Sự cố bất ngờ này đã khiến chúng ta quên mất mục tiêu ban đầu của chuyến đi."

"Tôi cũng đang nghĩ như vậy đó", tôi đáp. "Cứ để cô Morstan ở lại trong ngôi nhà tai họa này là không nên."

"Đúng. Anh phải đưa cô ấy về nhà. Cô ấy ở nhà bà Cecil Forrester, khu Hạ Camberwell, nên cũng không xa lắm. Tôi sẽ đợi anh ở đây cho đến khi anh đón xe quay trở lại. Hay là anh cũng quá mệt rồi?"

"Hoàn toàn không. Tôi e là tôi không thể nào ngơi nghỉ chừng nào chưa hiểu rõ hơn sự việc kì quái này. Tôi đã chứng kiến nhiều chuyện ghê gớm trong đời nhưng nói thật với anh, hàng loạt chuyện kinh ngạc lạ lùng liên tiếp xảy ra đêm nay đã khiến tôi hết sức căng thẳng. Tuy vậy, đã theo anh đến tận bây giờ rồi thì tôi vẫn muốn biết tường tận sự việc."

"Sự có mặt của anh giúp ích cho tôi nhiều lắm đấy", anh đáp. "Chúng ta sẽ độc lập giải quyết vụ này và để cho gã ngốc Jones hả hê với bất kì phát hiện ảo tưởng nào mà gã muốn dựng ra. Khi anh đã đưa cô Morstan về nhà, tôi muốn anh đi tiếp tới số 3 ngõ Pinchin, mé gần bờ sông phía Lambeth. Nhà thứ ba bên tay phải là của một người chuyên làm thú nhồi rơm tên là Sherman. Anh sẽ thấy ở cửa sổ có một con chồn đang ôm một con thỏ con. Gõ cửa gọi già Sherman dậy và bảo ông ấy tôi nhắn là tôi cần Toby gấp. Rồi anh đưa Toby lên xe ngựa đi cùng."

"Một con chó à?"

"Đúng, một con chó lai kì lạ có khả năng đánh hơi hết sức tuyệt vời. Tôi thà nhờ con Toby giúp sức còn hơn trông cậy vào toàn bộ lực lượng thanh tra cảnh sát London."

"Vậy thì tôi sẽ đưa nó đến", tôi nói. "Đã 1 giờ rồi. Chắc phải trước 3 giờ tôi mới quay lại được, nếu như tìm được con ngựa khỏe."

"Về phần mình", Holmes nói, "để tôi xem có thể biết được gì thêm từ bà Bernstone và người gia nhân Ấn Độ không, ông Thaddeus bảo tôi là người này ngủ ở căn gác xép áp mái kế bên. Sau đó tôi sẽ học hỏi các phương pháp của ngài Jones vĩ đại và lắng nghe những lời châm biếm không mấy tế nhị của hắn ta. Wir sind gewohnt dass die Menschen verhöhnen was sie nicht verstehen, Goethe lúc nào cũng thật súc tích."

7. Truy lùng dấu vết

Cảnh sát đã đến đây bằng xe ngựa và tôi hộ tống cô Morstan lên cỗ xe ấy đưa về nhà. Với cung cách thiên thần của nữ giới, cô đã chịu đựng chuyện kinh khủng này với thái độ điềm tĩnh trong chừng mực có ai đó yếu đuối hơn để cô giúp đỡ, và tôi đã thấy cô tươi tỉnh, bình thản khi ở bên cạnh bà quản gia khiếp đảm kia. Tuy nhiên, khi vào trong xe cô lại hóa ra yếu mềm và òa khóc nức nở - cuộc phiêu lưu đêm nay đã khiến cô khổ sở biết bao. Sau này cô bảo tôi rằng trong chuyến đi ấy cô cứ tưởng tôi là kẻ lạnh lùng và thờ ơ. Cô nào biết nỗi giày vò trong lòng tôi, hay nỗ lực tự kiềm chế đã ràng buộc tôi. Bao cảm thông và thương mến tôi đã dành hết cho cô, thậm chí ngay cả bàn tay tôi nắm lấy tay cô khi ở trong khu vườn ấy cũng dạt dào xúc động. Tôi cảm thấy bao nhiêu năm tháng sống theo lệ thường cũng không giúp tôi hiểu được bản tính vừa can trường vừa dịu dàng của cô cho bằng chỉ một ngày đầy kinh nghiệm lạ lùng này. Thế nhưng có hai điều khóa chặt những lời yêu thương trên môi tôi. Cô yếu đuối và bất lực, còn tinh thần lại căng thẳng bất an. Bắt cô phải đón nhận tình cảm của tôi vào thời điểm như thế quả là chẳng có ích gì. Tệ hơn nữa, cô lại giàu có. Nếu việc điều tra của Holmes thành công thì cô sẽ là người thừa kế cả một gia tài. Có công bằng chăng, có xứng đáng chăng, khi một bác sĩ quân y đang hưởng lương phụ cấp lại lợi dụng một sự thân tình do ngẫu nhiên đưa tới? Không khéo cô ấy lại xem tôi chẳng khác gì một kẻ đào mỏ ti tiện ấy chứ? Tôi không thể đánh liều để cho ý nghĩ đó nảy sinh trong tâm tư cô. Cái kho báu Agra này đã chắn giữa hai chúng tôi như một chướng ngại vật không thể vượt qua.

Lúc chúng tôi đến nhà bà Cecil Forrester thì đã gần 2 giờ sáng. Đám gia nhân đã đi ngủ từ lâu nhưng bà Forrester quá quan tâm đến bức thư kì lạ gửi cho cô Morstan tới mức bà cứ ngồi thức mong ngóng cô về. Đích thân bà ra mở cửa, một phụ nữ trung niên duyên dáng, và tôi hoan hỉ khi thấy cánh tay bà ôm vòng qua eo cô gái trìu mến xiết bao và tiếng bà chào đón cô cũng tràn trề tình mẫu tử. Rõ ràng cô gái không phải là người lệ thuộc vì đồng lương mà là một người bạn được quý trọng. Cô giới thiệu tôi và bà Forrester sốt sắng mời tôi vào nhà để thuật lại chuyến phiêu lưu vừa qua. Dù vậy, tôi phải nói rõ mục đích quan trọng của mình và thành thực hứa với bà là sẽ đến và tường thuật mọi tiến triển sắp tới của vụ này. Khi xe đã chạy, ngoái nhìn lại tôi vẫn thấy hai bóng người ấy đứng trên bậc thềm, hai phụ nữ duyên dáng đang ôm lấy nhau; thấy cánh cửa mở lưng chừng, ánh đèn tiền sảnh soi sáng qua lớp kính màu; thấy chiếc phong vũ biểu và những thanh sắt bóng loáng chặn thảm cầu thang. Thật dễ chịu khi nhìn thấy dù chỉ thoáng qua cảnh một gia đình Anh quốc bình yên ngay giữa lúc vụ án đen tối, man rợ này đang cuốn hút chúng tôi.

Và càng nghĩ tới những gì đã xảy ra, tôi thấy mọi chuyện càng đen tối và man rợ thêm. Tôi điểm lại toàn bộ trình tự dị thường của các sự kiện trong lúc cỗ xe lọc cọc lăn bánh trên đường phố tĩnh lặng dưới ánh đèn khí đốt. Ít ra vấn đề ban đầu bây giờ đã rõ ràng. Cái chết của đại úy Morstan, việc gửi những viên ngọc, mẩu tin nhắn, bức thư, tất cả những sự kiện ấy đều đã sáng tỏ. Thế nhưng chúng chỉ đưa chúng tôi đến một bí ẩn càng sâu thẳm và bi đát hơn nhiều. Kho báu từ Ấn Độ, bức họa đồ khó hiểu tìm thấy trong hành lí của ông Morstan, cảnh tượng lạ lùng lúc thiếu tá Sholto qua đời, kho báu vừa được phát hiện thì lập tức người phát hiện lại bị sát hại, những chi tiết vô cùng kì quặc kèm theo tội ác, những dấu chân, vũ khí khác thường, dòng chữ trên mẩu giấy tương ứng với những lời ghi trên tấm bản đồ của đại úy Morstan - quả thực đây là một mê cung mà người nào không có tư chất thiên phú phi thường như anh bạn trọ cùng nhà với tôi hẳn sẽ phải tuyệt vọng vì không thể nào tìm ra manh mối.

Ngõ Pinchin là một dãy nhà gạch hai tầng tồi tàn nằm tại khu vực dân nghèo ở quận Lambeth. Tôi phải gõ cửa nhà số 3 một hồi lâu mới gây được chú ý. Cuối cùng thì sau tấm rèm cũng có ánh nến lóe sáng và từ ô cửa sổ tầng trên, một gương mặt nhìn ra. "Cút đi, quân bét rượu kia", gương mặt ấy lên tiếng. "Nếu mày làm ồn một lần nữa là tao mở chuồng cho bốn mươi ba con chó vồ lấy mày đó."

"Chỉ cần ông thả ra một con thôi, tôi đến chính vì chuyện đó đấy", tôi nói.

"Cút đi!" Giọng nói ấy quát to. "Thề có Chúa, tao có sẵn cây chổi lau nhà ngay đây, mày không cuốn xéo thì tao ném xuống đầu mày đó."

"Nhưng tôi cần một con chó", tôi kêu lên.

"Đừng có cãi với tao!" Ông Sherman quát tháo. "Tránh xa ngay, nếu không tao đếm đến ba là mày lãnh đủ cái chổi lau nhà."

"Ông Sherlock Holmes..." Tôi mới bắt đầu nói, nhưng cái tên ấy có tác động hết sức màu nhiệm vì cánh cửa sổ lập tức đóng sập xuống và chỉ trong một phút cửa chính đã được tháo chốt và mở toang, ông Sherman là một ông già gầy còm, cao lêu nghêu với hai bờ vai xuôi, cần cổ gân guốc, và đeo mắt kính ánh xanh.

"Bạn của ông Sherlock Holmes luôn được đón tiếp", ông già nói. "Vào đi, thưa ông. Tránh xa con chồn lửng này kẻo nó cắn đó. À, đồ hư, đồ hư, bộ mày muốn cắn quý ông này à?" Ông nói với con triết trắng đang thò cái đầu hung dữ và đôi mắt đỏ giữa những chấn song chuồng thú. "Mặc kệ nó, ông ạ, đây chỉ là một con rắn thủy tinh. Nó không có răng nanh nào cả nên tôi thả rông nó trong phòng này để nó diệt bớt sâu bọ đó mà. Ông đừng phiền là lúc đầu tôi có hơi cộc cằn với ông nhé, vì tôi cứ toàn bị tụi nhỏ chọc ghẹo, và có nhiều đứa cứ hay vào đường này gõ cửa phá giấc ngủ của tôi. Mà ông Sherlock Holmes cần gì vậy, thưa ông?"

"Anh ấy cần một con chó của ông."

"A! Vậy chắc là con Toby."

"Đúng rồi, tên con chó là Toby."

"Toby ở chuồng số 7 phía bên trái đó." Ông từ từ cầm cây nến đi tới giữa gia đình thú vật lạ lùng được ông gom về chung một nhà. Trong ánh sáng chập chờn, lờ mờ ấy tôi mơ hồ nhận ra nhiều đôi mắt lấp loáng đang nhìn ngó chúng tôi từ mọi ngóc ngách. Ngay cả những xà nhà trên đầu chúng tôi cũng sắp hàng dài đầy những loài chim bệ vệ nào đó, chúng uể oải chuyển trọng tâm thân hình từ chân này sang chân kia khi bị tiếng nói của chúng tôi quấy rối giấc điệp.

Hóa ra Toby là một con chó xấu xí, lông dài, tai cụp, lai giữa hai giống chó săn Tây Ban Nha và Ireland, màu lông vừa nâu vừa trắng, và có dáng đi lạch bạch trông rất vụng về. Sau một lúc ngần ngừ, nó đón nhận viên đường mà nhà tự nhiên học cao niên kia đưa cho tôi, và sau khi xác lập tính đồng minh bằng cách đó, nó theo tôi ra xe ngựa mà không hề gây khó khăn gì. Chuông đồng hồ trên tháp Big Ben vừa gióng ba tiếng thì tôi thấy mình một lần nữa đã trở lại biệt trang Pondicherry. Tôi hay tin chàng cựu võ sĩ McMurdo đã bị bắt giữ như một kẻ tòng phạm, và cả anh ta lẫn ông Sholto đều đã bị giải về đồn cảnh sát. Hai cảnh binh đang canh gác cái cổng hẹp nhưng họ để tôi cùng con chó đi qua khi tôi nêu tên viên thám tử.

Holmes đang đứng ở ngưỡng cửa, hai tay cho vào túi, miệng ngậm tẩu thuốc.

"À, anh mang nó tới rồi!" Anh nói. "Nào, chó ngoan! Athelney Jones đi rồi. Sau khi anh đi thì gã phô trương năng lực quá chừng. Không những bắt giữ Thaddeus mà hắn còn bắt luôn cả anh gác cổng, bà quản gia và người hầu Ấn Độ. Chỗ này hoàn toàn thuộc về chúng ta, chỉ có một hạ sĩ ở trên lầu thôi. Để con chó ở đây, lên lầu đi."

Chúng tôi buộc Toby vào cái bàn dưới sảnh rồi lại lên cầu thang. Căn phòng vẫn y nguyên như lúc chúng tôi ra ngoài, ngoại trừ một tấm chăn bây giờ đã được phủ lên nhân vật chính. Viên hạ sĩ cảnh sát mặt mày bơ phờ đang tựa lưng vào góc tường.

"Cho tôi mượn cái đèn xách tay đi, hạ sĩ ơi", anh bạn tôi nói. "Bây giờ anh buộc cái đèn này quanh cổ tôi đi, cho nó thòng ra phía trước nhé. Cảm ơn anh. Giờ tôi phải tháo hết giày vớ đã... Anh xuống thì mang theo giùm tôi với, Watson. Tôi sẽ phải leo trèo chút ít. Và nhúng cái khăn tay của tôi vào vũng dầu creosote kia. Thế được rồi. Bây giờ anh với tôi lên trên gác xép một lúc."

Chúng tôi chui qua lỗ hổng và trèo lên. Holmes lại bật đèn soi vào những dấu chân trên lớp bụi.

"Tôi mong là anh đặc biệt chú ý đến các dấu chân này", anh nói. "Anh có thấy gì đáng lưu ý không?"

"Đây là dấu chân của một đứa trẻ", tôi nói, "hay của một phụ nữ rất nhỏ bé."

"Nhưng ngoài kích thước ra thì còn gì nữa không?"

"Trông cũng giống các dấu chân khác thôi mà."

"Hoàn toàn không. Xem này! Đây là dấu của bàn chân phải trên lớp bụi. Bây giờ tôi lấy bàn chân không của tôi in một dấu bên cạnh. Đâu là điểm khác biệt chính yếu nào?"

"Các ngón chân của anh chụm lại. Còn dấu chân kia lại có các ngón tẽ ra rất rõ."

"Đúng thế. Đó là vấn đề. Hãy ghi nhớ. Bây giờ, phiền anh bước về phía cánh cửa sập kia và ngửi cạnh cửa nhé. Tôi sẽ ở đây vì tôi đang cầm cái khăn tay này."

Tôi làm theo chỉ dẫn của anh, và lập tức nhận ra mùi hăng nồng của dầu creosote.

"Đó là nơi kẻ đó đặt chân để trèo ra. Nếu anh ngửi thấy được dấu vết của hắn thì tôi nghĩ chẳng có khó khăn gì đối với con Toby. Bây giờ anh xuống nhà, thả con chó ra, và đi tìm kẻ đu dây kia đi."

Lúc tôi ra ngoài vườn thì Sherlock Holmes đã ở trên mái nhà rồi, và tôi có thể nhìn thấy anh đang bò rất chậm dọc theo gờ nóc nhà như một con bọ phát sáng khổng lồ. Anh khuất dạng sau cụm ống khói nhưng rồi lại xuất hiện và biến mất một lần nữa ở phía bên kia. Khi tôi đi vòng qua bên ấy thì thấy anh đã ngồi trên một góc mái nhà nhô ra.

"Anh đấy hả, Watson?" Anh lên tiếng.

"Ừ!"

"Đúng là chỗ này. Cái gì đen đen ở dưới đó vậy?"

"Một thùng tônô chứa nước."

"Có nắp đậy không?"

"Có."

"Có dấu vết của cái thang nào không?"

"Không."

"Tên này thật ghê gớm! Chỗ này té gãy cổ như chơi. Tôi phải mò xuống đúng ngay chỗ hắn ta trèo lên mới được. Cái ống nước này coi bộ chắc chắn. Leo đại xuống vậy!"

Có tiếng chuyển động loạt xoạt và chiếc đèn bắt đầu từ từ hạ thấp độ cao theo bức tường, rồi phóc một cái, anh đã đứng trên thùng tônô, và từ đó nhảy xuống đất.

"Theo dấu tên này cũng dễ", anh vừa nói vừa xỏ lại giày vớ vào chân. "Các tấm ngói lợp đã long ra suốt dọc lối thoát của hắn, và trong lúc hấp tấp hắn đã đánh rơi vật này. Nói như bác sĩ các anh, nó đã xác minh các chẩn đoán của tôi."

Anh giơ lên cho tôi xem một chiếc túi nhỏ dệt bằng cói nhuộm màu, chung quanh có đính vài hạt trang trí rẻ tiền. Hình dạng và kích thước chiếc túi này ngang cỡ một hộp đựng thuốc lá. Bên trong là chừng nửa tá mũi nhọn bằng gỗ đen, một đầu sắc bén một đầu vót tròn giống như cái gai đã bắn vào Bartholomew Sholto.

"Thứ này kinh khủng lắm đó", anh nói. "Cẩn thận đừng để chích vào người anh đấy. Tóm được cái túi này tôi thật mừng vì rất có thể đây là toàn bộ số mũi gai độc của hắn. Vậy thì bớt đi mối lo là anh và tôi sẽ sớm nhận một phát bắn vào người. Tôi thà đương đầu với đạn còn hơn. Anh có đủ sức để lội bộ sáu dặm không, Watson?"

"Chắc chắn là đủ", tôi đáp.

"Chân anh chịu nổi không?"

"Nổi chứ."

"Đây này, chó già! Toby ngoan nào! Ngửi đi, Toby, ngửi đi!" Anh gí chiếc khăn tay tẩm dầu creosote vào dưới mũi con chó trong lúc con vật đứng giạng hết bốn cẳng chân đầy lông mịn, đầu vẹo sang một bên hết sức khôi hài, trông cứ như một tay sành điệu đang khịt mũi ngửi một hương rượu xưa danh tiếng. Sau đó Holmes quẳng chiếc khăn ra xa, buộc một đoạn dây thừng chắc chắn vào vòng cổ của con chó lai, rồi dắt nó đến ngay chân thùng nước. Con vật lập tức bật ra một tràng sủa ăng ẳng rồi gí mũi sát đất, chổng đuôi lên trời, nó nhanh nhảu phóng theo dấu vết ấy, kéo căng hết dây buộc và khiến chúng tôi phải ráng chạy nhanh hết cỡ.

Trời phía đông đang dần hửng sáng, bây giờ chúng tôi đã có thể nhìn được một quãng xa trong ánh sáng âm u, lạnh lẽo. Ngôi nhà vuông vức, đồ sộ với những ô cửa sổ đen trống trơn, những bức tường cao trần trụi, sừng sững u sầu và hoang vắng sau lưng tôi. Chúng tôi băng qua khu đất, len lỏi qua những hầm hố, hào rãnh rạch nát đất đai. Với những đống đất bừa bộn và bụi cây còi cọc, toàn bộ chốn này có vẻ gì đó đầy tai ương và đe dọa, rất phù hợp với tấn thảm kịch đen tối đang bao trùm nơi này.

Tới chỗ bức tường bao, Toby vừa chạy men theo tường vừa hăm hở kêu ư ử dưới bóng tối và cuối cùng dừng lại ở một góc có cây sồi non che chắn. Chỗ hai bức tường giao nhau, nhiều viên gạch đã bị bươi ra và phần dưới của những hốc lõm còn lại đã mòn nhẵn như thể chúng thường xuyên được dùng làm thang leo. Holmes trèo lên, đón lấy con chó từ tay tôi rồi thả nó qua phía bên kia. "Có dấu vết của tên chân gỗ đây này", anh nói khi tôi trèo lên ngồi bên cạnh. "Anh nhìn vết máu mờ mờ dây trên lớp vữa trắng đây này. Thật may là từ hôm qua đến giờ không có mưa to! Mùi dầu creosote kia vẫn sẽ còn vương trên đường bất kể chúng đã đi trước ta hai mươi tám giờ."

Thú thật là bản thân tôi hoài nghi điều đó khi nghĩ tới biết bao xe cộ đã chạy qua cung đường London này trong khoảng thời gian đó. Tuy nhiên, mối lo ngại của tôi nhanh chóng nguôi đi. Toby không hề do dự hay đột ngột chuyển hướng mà cứ lắc lư lao tới theo kiểu đi nghiêng ngả kì cục của nó. Rõ ràng là mùi hăng nồng của dầu creosote trội hơn mọi mùi khác. Holmes nói, "Anh đừng tưởng tôi phó thác hết thành bại của vụ này cho một cơ may duy nhất là những tên này đã giẫm chân vào vũng hóa chất đó. Bây giờ tôi đã có nhiều thông tin có thể giúp tôi dò ra chúng theo nhiều cách khác nhau rồi. Nhưng đây là cách dễ dàng nhất và vì vận may đã mang nó cho chúng ta, nên nếu tôi lờ đi thì quả đáng trách. Tuy vậy, cách đó lại khiến cho vụ này không còn là một vấn đề trí tuệ hay ho như lúc đầu đã hứa hẹn. Nếu không có cái manh mối quá rõ ràng này thì việc phá án mới gọi là có tí chút công lao."

"Công lao thì hẳn rồi, Holmes", tôi nói. "Bảo đảm với anh là tôi kinh ngạc với cách thức thu thập kết quả của anh trong vụ này đấy, thậm chí còn kinh ngạc hơn cả vụ giết người của Jefferson Hope. Vụ này đối với tôi dường như càng lúc càng bí ẩn và không thể giải thích được. Chẳng hạn, làm sao anh có thể mô tả một cách tự tin như vậy về tên chân gỗ kia?"

"Chà, chuyện vặt thôi, anh bạn thân mến ơi. Tôi không muốn làm bộ làm tịch đâu. Mọi thứ rành rành ra đó cả. Hai sĩ quan chỉ huy đội lính canh giữ tù nhân đã biết được bí mật quan trọng về một kho báu được chôn giấu. Một người Anh tên là Jonathan Small đã vẽ cho họ một sơ đồ. Chắc anh còn nhớ là chúng ta đã thấy cái tên đó trên bản họa đồ thuộc sở hữu của đại úy Morstan. Người Anh đó đã kí tên nhân danh chính mình và các đồng bọn bằng dấu hiệu mà hắn ta gọi bằng cái tên khá kêu là 'Dấu bộ tứ'. Nhờ bản họa đồ này, hai viên sĩ quan, hoặc là một trong hai người này, đã lấy được kho báu và mang về Anh quốc, nhưng chúng ta có thể giả định rằng họ không thực hiện những điều kiện đã hứa hẹn khi nhận bản họa đồ. Đấy, thế thì tại sao gã Jonathan Small kia không tự mình đi lấy kho báu chứ? Câu trả lời rất hiển nhiên. Họa đồ ấy được vẽ ra vào thời gian Morstan sống cận kề với đám tù nhân. Jonathan Small không thể đi lấy kho báu bởi vì hắn và đồng bọn chính là những tù nhân và không thể thoát thân."

"Nhưng đó chỉ là suy đoán thôi", tôi nói

"Hơn thế. Đó là giả thuyết duy nhất đáp ứng hết các dữ kiện. Chúng ta hãy xem nó phù hợp với những diễn biến về sau ra sao. Thiếu tá Sholto sống yên ổn được vài năm, sung sướng sở hữu kho báu. Rồi ông ta nhận được một lá thư từ Ấn Độ khiến ông ta thất kinh hồn vía. Vậy là sao?"

"Lá thư cho biết những kẻ mà ông ta từng gây thiệt hại giờ đã được trả tự do."

"Hoặc đã trốn thoát. Khả năng này cao hơn nhiều, bởi vì ông ta chắc chắn phải biết thời hạn án tù của họ. Như vậy nếu họ được thả thì ông ta không thể nào ngạc nhiên. Thế sau đó ông ta làm gì? Tự bảo vệ mình trước một người có chân gỗ - một người da trắng, anh nhớ cho - vì ông ta đã nhìn lầm một thương nhân da trắng thành ra người kia, và thực tế đã rút súng lục ra bắn. Đấy, trong bản họa đồ chỉ có tên một người da trắng. Các tên còn lại đều là tên của người Hindu hay người Hồi. Không có người da trắng nào khác. Vì thế chúng ta có thể tuyên bố quả quyết rằng người chân gỗ kia với tên Jonathan Small chỉ là một. Anh thấy lập luận này có sai chỗ nào không?"

"Không, rất rõ ràng và súc tích."

"Thế đấy, bây giờ ta hãy tự đặt mình vào vị trí Jonathan Small. Ta hãy nhìn sự việc theo quan điểm của hắn. Hắn đến Anh quốc với hai ý đồ: Lấy lại những gì hắn xem là quyền lợi của hắn và trả thù kẻ đã khiến hắn chịu thiệt hại. Hắn tìm ra chỗ ở của Sholto, và rất có khả năng là hắn đã thiết lập được quan hệ với ai đó ở trong nhà này. Nhà có ông quản gia Lal Rao mà chúng ta chưa gặp. Theo bà Bernstone thì khó có thể coi ông ta là người tốt. Tuy nhiên, Small không thể tìm ra được chỗ giấu kho báu vì chẳng ai biết cả, ngoại trừ ông thiếu tá và một gia nhân trung thành đã chết. Bất ngờ Small hay tin ông thiếu tá đang hấp hối. Trong cơn điên cuồng vì sợ kho báu sẽ mất luôn theo người chết, hắn ta liều mạng vượt qua mọi canh phòng, tìm đường đến tận cửa sổ phòng của người hấp hối kia, và bị ngăn chặn không vào được chỉ vì hai người con trai đang có mặt ở đó. Thế nhưng, cuồng điên vì lòng căm hận đối với người chết, đêm ấy hắn vào trong phòng, lục lọi giấy tờ riêng tư của người kia với hi vọng phát hiện được một bản ghi nhớ nào đó có liên quan đến kho báu, và cuối cùng hắn để lại một lời nhắc nhở về cuộc viếng thăm của hắn qua mấy chữ vắn tắt ghi trên tấm thiếp. Chắc chắn hắn ta đã dự tính trước là nếu sát hại ông thiếu tá thì hắn sẽ lưu lại một dấu ấn nào đó trên xác chết như một dấu hiệu cho biết đó không phải là vụ giết người thông thường mà là một hành động có tính chất như thực thi công lí trên quan điểm của cả nhóm bốn tên đồng bọn. Những ý tưởng kì quái, ngông cuồng như thế khá phổ biến trong lịch sử tội ác và thường gợi mở nhiều dấu hiệu giá trị về kẻ phạm tội. Anh hiểu hết mọi chuyện này chứ?"

"Rất rõ ràng."

"Vậy thì bây giờ Jonathan Small có thể làm gì đây? Hắn chỉ có thể tiếp tục bí mật theo dõi những nỗ lực tìm kiếm kho báu. Có khả năng hắn nhiều lần rời khỏi Anh quốc rồi quay lại sau một khoảng thời gian, rồi xảy ra chuyện phát hiện căn gác xép, và hắn được báo tin ngay lập tức. Một lần nữa, chúng ta lại thấy sự hiện diện của một kẻ đồng lõa nào đó trong nhà này. Với cái chân gỗ, Jonathan không có cách gì lên được căn phòng cao chót vót của Bartholomew Sholto. Thế nhưng đi cùng hắn ta là một tên đồng bọn khá quái dị, kẻ này giúp hắn giải quyết khó khăn đó, nhưng lại giẫm một bàn chân trần của y vào vũng dầu creosote, vì thế mới cần tới con Toby, và một sĩ quan ăn lương phụ cấp bị tổn thương gân gót chân phải lết bộ sáu dặm đường."

"Nhưng không phải Jonathan mà chính kẻ đồng lõa đã gây ra tội ác."

"Đúng thế. Và khiến Jonathan tức giận không ít, xét theo cách hắn nện bước đi quanh khi đã vào trong phòng. Hắn ta đâu có thù oán gì với Bartholomew Sholto, và lẽ ra chỉ muốn trói và nhét giẻ vào miệng người này mà thôi. Hắn nào có muốn cho cổ vào thòng lọng đâu. Nhưng không thể cứu vãn được nữa, bản năng man rợ của kẻ đồng lõa kia đã bột phát và chất độc phát huy tác dụng. Thế là Jonathan Small để lại dấu hiệu, hạ hòm châu báu xuống đất, và chấp nhận ra sao thì ra. Đó là chuỗi sự kiện trong khả năng giải mã của tôi. Còn về nhân dạng của hắn ta, tất nhiên hắn phải ở tuổi trung niên và da dẻ phải sạm đen sau khi lĩnh án ở một nơi nóng như hỏa lò là quần đảo Andaman. Chiều cao dễ dàng tính toán được nếu căn cứ theo độ dài của bước chân, và chúng ta biết là hắn có râu mà. Râu tóc bờm xờm chính là đặc điểm khiến Thaddeus Sholto có ấn tượng mạnh khi nhìn thấy hắn ở cửa sổ. Tôi không biết có còn chi tiết nào nữa không."

"Tên đồng bọn?"

"Ái chà, chuyện đó chẳng có gì bí ẩn ghê gớm cả. Không lâu nữa anh sẽ biết rõ hết thôi mà. Khí trời ban mai mới dễ chịu làm sao! Hãy xem đám mây lẻ loi kia cứ bồng bềnh như một chiếc lông màu hồng của một con hồng hạc khổng lồ. Bây giờ vầng dương đỏ rực đã vươn mình khỏi làn mây mù xa xa của London. Mặt trời soi sáng cho biết bao người nhưng tôi dám cá rằng không có ai đeo đuổi một mục đích lạ lùng như anh và tôi. So với sức mạnh nguyên sơ vĩ đại của tự nhiên, chúng ta thấy mình mới nhỏ bé làm sao với những tham vọng và nỗ lực vặt vãnh này! Anh có rành về Jean Paul không?"

"Cũng kha khá. Tôi đã tìm đọc thêm nhà văn này từ bản dịch của Carlyle."

"Vậy cũng giống như lần theo con suối, tìm ngược lại hồ nước cội nguồn. Ông ta có một nhận định lạ lùng nhưng sâu sắc. Ông ta bảo minh chứng hàng đầu cho sự vĩ đại của con người nằm trong cách họ cảm nhận về sự nhỏ bé của chính mình. Anh thấy đó, ông ta cho rằng bản thân năng lực đối chiếu và nhận thức chính là bằng chứng cho phẩm chất cao quý. Đọc Richter có nhiều điều đáng suy ngẫm lắm. Anh không mang súng lục theo phải không?"

"Tôi có cái gậy đây."

"Nhiều khả năng phải cần tới những thứ như thế nếu chúng ta tìm tới tận hang ổ bọn chúng. Tôi để tên Jonathan cho anh lo liệu, còn tên kia nếu làm càn thì tôi sẽ hạ hắn luôn." Vừa nói anh vừa rút khẩu súng lục ra, nạp hai viên đạn vào ổ quay, rồi cất trở lại vào túi áo khoác bên phải.

Nãy giờ theo sự dẫn dắt của con Toby, chúng tôi đã băng qua những trang viên nằm rải rác hai bên các con lộ ngoại ô dẫn tới đô thành. Nhưng giờ đây chúng tôi đã sắp tới những khu phố nhà cửa san sát, nơi đám công nhân và phu bến tàu đã thức giấc còn đám đàn bà nhếch nhác đang mở cửa quét thềm. Ở góc phố đầu quảng trường, các tửu quán đã bắt đầu kinh doanh, và những gã tướng tá bặm trợn vừa đi ra vừa lấy ống tay áo chùi bộ râu sau khi làm mấy li rượu đầu ngày. Mấy con chó lạ tha thẩn tới gần, ngạc nhiên nhìn ngó khi chúng tôi đi qua, nhưng con Toby vô song không hề nhìn ngang liếc dọc mà cứ lon ton thẳng tiến, mũi gí sát đất và chốc chốc lại kêu ư ử đầy háo hức như muốn cho biết là dấu vết vẫn rõ mồn một.

Chúng tôi băng qua Streatham, Brixton, Cambemell, và bây giờ thấy mình ở ngõ Kennington sau khi đã chuyển hướng qua các đường phụ dẫn tới phía đông khu Oval, những kẻ mà chúng tôi truy tìm hình như đã đi theo một đường chữ chi kì quặc, có thể là với ý đồ tránh bị theo dõi. Chúng không bao giờ đi theo đường chính nếu có một đường phụ song song cho chúng rẽ vào. Ở cuối ngõ Kennington, chúng đã men theo bên trái qua phố Bond và phố Miles. Tới chỗ phố Miles rẽ sang Knight's Place, con Toby không tiến tới nữa mà bắt đầu chạy tới chạy lui, một tai vểnh lên, một tai cụp xuống, đích thị là biểu hiện sự do dự của loài chó, rồi nó lắc lư chạy quanh nhiều vòng, thỉnh thoảng lại ngước lên nhìn chúng tôi như thể muốn được cảm thông cho sự bối rối của nó.

"Con chó này mắc cái chứng quái quỷ gì thế?" Holmes càu nhàu. "Nhất định là bọn chúng không thể nào đón xe ngựa hay đu khinh khí cầu biến mất."

"Có thể là bọn chúng đã đứng ở đây một lúc", tôi gợi ý.

"A! Ổn rồi. Nó lại đi tiếp", anh bạn tôi thốt lên với giọng nhẹ nhõm.

Quả đúng như thế, bởi vì sau khi khịt mũi ngửi vòng quanh một lần nữa, nó đột ngột quyết định và phóng tới với sức lực và quyết tâm mạnh mẽ chưa từng thấy. Cái mùi ấy hẳn là nồng hơn trước, vì con chó không còn gí mũi xuống đất nữa mà giật mạnh dây buộc và cố chạy hết tốc lực. Nhìn ánh mắt đầy hi vọng của Holmes, tôi có thể biết anh đang nghĩ rằng cuộc hành trình của chúng tôi đã gần kết thúc.

Bây giờ chúng tôi chạy xuống quận Nine Elms cho đến khi tới xưởng cưa lớn của Công ty Broderick & Nelson, ngay chỗ qua khỏi lữ quán Đại Bàng Trắng. Tới đây con chó mừng cuống quýt rẽ qua cổng phụ vào trong khuôn viên nơi các thợ cưa đang làm việc. Toby chạy băng băng qua mớ mùn cưa và dăm bào, vào một đường hẻm, vòng qua một hành lang giữa hai hàng gỗ xẻ chất đống, và cuối cùng sủa lên một tiếng đắc thắng, nó nhảy phóc lên một thùng tônô lớn dựng trên một chiếc xe đẩy tay mà ai đó đã đưa đến. Lưỡi thè dài, mắt hấp háy, Toby đứng trên thùng, hết nhìn tôi lại quay sang Holmes chờ một lời khen. Các thanh ván thùng tônô và hai bánh xe đẩy dính đầy một chất lỏng đen đúa và cả bầu không khí nồng nặc mùi dầu creosote.

Sherlock Holmes và tôi nhìn nhau trân trối, rồi cùng bật ra một tràng cười không sao nén nổi.

8. Đội quân bụi đời phố Baker

"Giờ thì sao?" Tôi hỏi. "Toby không còn phát huy được sự chuẩn xác như mọi khi nữa rồi."

"Nó hành động theo trí khôn của nó thôi", Holmes vừa nói vừa nhấc con chó trên thùng tônô xuống và dắt nó ra khỏi xưởng cưa. "Anh thử nghĩ xem, một ngày có biết bao thùng dầu creosote được vận chuyển đi khắp London, bảo sao dấu vết của chúng ta không bị chồng chéo lên chứ. Người ta bây giờ dùng dầu creosote nhiều lắm, nhất là để bảo quản gỗ. Không phải lỗi tại con Toby tội nghiệp."

"Chắc là chúng ta phải dò lại theo dấu vết chính."

"Đúng vậy. Và may là ta không còn phải đi xa nữa. Rõ ràng điều khiến con chó do dự ở góc quảng trường Knight's Place chính là có hai dấu vết đi theo hai hướng ngược chiều nhau. Chúng ta đã chọn sai hướng. Giờ chỉ cần đi theo hướng kia."

Đi theo hướng kia thì chẳng có gì khó. Khi đưa Toby tới chỗ nó đã phạm sai lầm, con chó đánh hơi tìm kiếm trong một vòng tròn lớn rồi cuối cùng phóng đi theo đường khác. Tôi nhắc nhở, "Bây giờ coi chừng nó lại đưa chúng ta đến nơi phát xuất của cái thùng tônô hồi nãy đấy."

"Tôi đã nghĩ tới chuyện đó rồi, nhưng để ý là nó chỉ đi trên vỉa hè, trong khi thùng tônô kia được đẩy đi trên đường cái. Không đâu, bây giờ chúng ta theo đúng dấu vết rồi."

Con chó đi xuôi theo hướng bờ sông, chạy băng qua Belmont Place và phố Prince. Đến cuối phố Broad nó đâm thẳng ra bờ nước, chỗ có một cầu tàu nhỏ bằng gỗ. Toby dẫn chúng tôi ra ngay tận mép cầu tàu rồi đứng đó, vừa rên ư ử vừa nhìn ra dòng nước mịt mờ.

"Không may rồi", Holmes nói. "Bọn chúng đã lên thuyền ở đây!"

Vài chiếc xuồng và thuyền nhỏ đậu rải rác trên mặt nước sông và bên mép cầu tàu. Chúng tôi đưa Toby vòng qua từng con thuyền, nhưng dù tận tình đánh hơi không sót một chiếc, nó vẫn không tìm ra dấu vết nào. Gần bến đỗ thô sơ đó là một ngôi nhà gạch nhỏ, với tấm biển gỗ máng bên ngoài ô cửa sổ thứ hai in bằng chữ lớn trên tấm biển là tên "Mordecai Smith" và phía dưới đề: Cho thuê tàu thuyền theo giờ hoặc theo ngày. Câu thứ hai đề trên cửa chính cho chúng tôi biết một chiếc tàu thủy hơi nước đã có khách thuê - thông báo này được xác thực bằng một đống than cốc trên cầu tàu. Sherlock Holmes từ từ nhìn quanh và nét mặt lộ rõ vẻ lo ngại.

"Tệ thật đấy", anh nói. "Mấy tên này ranh ma hơn tôi tưởng. Có vẻ như chúng đã lấp hết dấu vết. Tôi e là đã có một mưu mô sắp đặt sẵn từ trước ở đây."

Anh đang đi tới cửa chính ngôi nhà thì cửa bật mở và một chú nhóc tóc xoăn chừng sáu tuổi chạy ào ra, theo sau là một phụ nữ phốp pháp, mặt đỏ bừng, tay cầm một miếng bọt biển.

"Quay về tắm nào, Jack", bà quát tháo. "Về ngay, thằng ranh con, cha mày về mà thấy mày như thế thì biết tay ông ấy!"

"Này nhóc!" Holmes thốt lên có ý đồ. "Thằng bé này sao mà hai má hồng hào thế! Này, Jack, cháu thích được ai cho cái gì không nào?"

Chú bé ngẫm nghĩ một lúc rồi nói, "Cháu thích có một đồng shilling."

"Chỉ thích thế thôi sao?"

"Được hai shilling thì thích hơn", chú nhóc tài lanh này trả lời sau một lúc suy nghĩ.

"Đây, cho cháu đó! Chụp lấy!... Thằng nhỏ thật dễ thương đó, bà Smith!"

"Chúa phù hộ ông, thưa ông, nó thế đấy, cứ xấc xược vậy đó. Tôi thiếu điều hết chịu nổi nó, nhất là khi ông nhà tôi vắng nhà mấy ngày liền."

"Ông nhà đang đi xa à?" Holmes nói, giọng ra vẻ thất vọng. "Tiếc thật, tôi đang cần nói chuyện với ông Smith đây."

"Ông ấy đi từ sáng hôm qua rồi, thưa ông, và nói thật là tôi bắt đầu thấy lo cho ông nhà tôi. Nhưng nếu là chuyện thuyền bè thì tôi cũng có thể hầu ông được, thưa ông."

"Tôi muốn thuê chiếc tàu thủy hơi nước của ông nhà."

"Ôi, rủi quá, thưa ông, chính cái tàu đó là chiếc ông nhà tôi lấy đi mất. Tôi thiệt không hiểu nổi, vì tôi biết nó chỉ có đủ than để chạy tới Woolwich rồi quay về thôi. Nếu đi xa bằng chiếc sà lan thì thôi không nói làm chi, vì nhiều lần ông ấy có việc đi tới tận Gravesend, và nếu ở đó có nhiều công chuyện thì có thể nấn ná ở lại. Nhưng tàu thủy hơi nước mà không có than thì có ích gì chứ?"

"Biết đâu ông ấy có thể mua ít than ở bến nào đó miệt dưới."

"Có thể mua, thưa ông, nhưng đó không phải kiểu của ông ấy, nhiều lần tôi đã nghe ông ấy la lối về giá tiền họ tính cho mấy bao than lẻ. Hơn nữa, tôi không ưa cái tên chân gỗ kia, mặt mày xấu xí, nói năng thì kì cục. Hắn ta muốn gì mà cứ tới đây luẩn quẩn miết vậy chứ?"

"Một người có chân gỗ à?" Holmes thốt lên với vẻ ngạc nhiên chiếu lệ. "Dạ đúng, thưa ông, một thằng cha mặt như khỉ, da ngăm, tới tìm ông chồng tôi nhiều lần rồi. Chính hắn ta lôi ông nhà tôi dậy tối hôm trước, chưa hết đâu, ông nhà tôi biết trước hắn ta sẽ đến nên đã cho máy hơi nước trong thuyền chạy sẵn. Nói thiệt tình với ông đó, thưa ông, chuyện này khiến tôi cứ bồn chồn sao sao ấy."

"Này, bà Smith ơi", Holmes vừa nói vừa nhún vai, "bà cứ lo chuyện không đâu. Làm sao bà biết được người đến gọi trong đêm là tên chân gỗ được chứ? Tôi không hiểu sao bà có thể dám chắc như thế."

"Giọng nói hắn ta, thưa ông. Tôi biết giọng nói đó, nó khàn khàn khó nghe. Hắn ta gõ vào trục tời, đâu khoảng 3 giờ sáng. Hắn nói: 'Chường mặt ra đi bồ, tới phiên canh rồi', ông nhà tôi đánh thức thằng Jim, thằng cả nhà tôi đó, rồi họ đi, chẳng nói với tôi một tiếng nào. Tôi còn nghe tiếng cái chân gỗ lọc cọc trên đường đá mà."

"Thế tên chân gỗ này tới đấy một mình à?"

"Tôi chịu, thưa ông. Nhưng chắc chắn là tôi không nghe tiếng ai khác."

"Thật tiếc, bà Smith, vì tôi cần một chiếc tàu thủy hơi nước và tôi nghe người ta nói tốt về... Để xem, tôi quên mất con thuyền tên gì rồi?"

"Aurora, thưa ông."

"À! Có phải con tàu thủy cũ màu xanh lá cây có một sọc vàng, thân tàu rất rộng không đấy?"

"Không phải đâu. Thuyền nhà tôi cũng thuôn mảnh nhỏ nhắn như mọi tàu thủy khác trên sông này. Nó mới sơn lại, màu đen có hai sọc đỏ."

"Cảm ơn bà. Mong là bà sẽ sớm hay tin ông Smith. Tôi sẽ đi xuống miệt dưới, và nếu tôi gặp thuyền nào giống chiếc Aurora thì tôi sẽ báo cho ông ấy biết là bà đang lo lắng, ống khói màu đen, phải không bà?"

"Không phải, thưa ông. Màu đen với một đường kẻ trắng."

"A, hẳn thế rồi. Hai bên hông thuyền mới màu đen. Chào bà Smith nhé... Watson này, có một người chèo thuyền chở khách ở đây này. Chúng ta sẽ đón thuyền qua bên kia sông."

"Điều cốt yếu với những người như thế", Holmes nói khi chúng tôi đã ngồi trong mớ dây lèo của thuyền, "là đừng bao giờ để họ nghĩ rằng thông tin của họ có thể quan trọng ít nhiều đối với anh. Nếu anh để họ biết thì họ sẽ lập tức câm như hến. Nếu anh lắng nghe họ với vẻ miễn cưỡng thì rất có khả năng anh sẽ có được điều mình muốn."

"Chiều hướng có vẻ khá rõ ràng rồi", tôi nói.

"Như vậy anh sẽ làm gì nào?"

"Tôi sẽ thuê một chiếc tàu thủy và đi xuôi dòng sông theo dấu chiếc Aurora."

"Anh bạn thân mến ơi, đó là một việc quá tốn công. Con thuyền ấy có thể cập vào bất kì cầu tàu nào ở hai bên bờ sông từ đây đến Greenwich. Phía dưới cây cầu kia là một mê cung toàn là những bến đậu kéo dài nhiều dặm. Ghé cho hết các bến đó thì phải mất bao nhiêu ngày mới xong, nếu như anh làm việc đó một mình."

"Vậy thì huy động cảnh sát."

"Không. Có khả năng tôi sẽ gọi Athelney Jones vào phút chót. Gã không phải là người tồi, và tôi không muốn làm chuyện gì có thể phương hại cho gã về mặt nghề nghiệp. Nhưng bây giờ chúng ta đã đeo đuổi tới đây rồi thì tôi thích tự mình giải quyết hết."

"Vậy chúng ta có thể đăng báo hỏi tin tức từ các chủ bến tàu được không?"

"Càng tệ hại hơn! Bọn kia sẽ biết ngay chúng đang bị truy đuổi sát gót và chúng có thể rời khỏi xứ này. Tình hình thế này cũng đủ cho chúng ra đi rồi, nhưng chừng nào chúng còn tin là chắc chắn an toàn thì chúng sẽ không vội vàng. Sự tích cực của Jones sẽ có ích cho chúng ta trong chuyện này, vì quan điểm của hắn về vụ này nhất định là tương mọi thứ lên nhật trình và những kẻ đào tẩu kia sẽ tưởng rằng ai cũng đều đuổi theo dấu vết giả mạo."

"Vậy chúng ta phải làm gì?" Tôi hỏi khi thuyền cập bến gần nhà tù Millbank.

"Đón chiếc xe ngựa này, về nhà, ăn điểm tâm chút ít, rồi ngủ chừng một tiếng. Theo chương trình rất có thể đêm nay chúng ta lại lội bộ đó... Dừng ở bưu điện nào đi, bác xà ích ơi! Chúng ta sẽ giữ con Toby, vì có thể sẽ cần tới nó đấy."

Chúng tôi dừng lại ở phố Great Peter và Holmes gửi đi một bức điện tín. Lúc tiếp tục hành trình, anh hỏi tôi, "Theo anh thì tôi gửi cho ai?"

"Chắc chắn là tôi không biết."

"Anh còn nhớ biệt đội thám tử phố Baker mà tôi đã huy động trong vụ Jefferson Hope không?"

"Ra thế", tôi bật cười.

"Lũ nhóc có thể đóng vai trò vô giá trong vụ này. Nếu chúng thất bại, tôi còn các phương án khác, nhưng tôi muốn thử dùng chúng trước. Bức điện đó tôi gửi cho Wiggins, chú nhóc phụ tá lem luốc của tôi, và tôi cho rằng chúng ta chưa ăn xong bữa sáng thì nó đã kéo đồng bọn đến rồi."

Bây giờ đã 8 rưỡi và tôi nhận ra tác động rõ rệt sau một đêm không ngừng kích động. Tôi mệt đừ, đi hết nổi, đầu óc mụ mị và thể xác kiệt quệ. Tôi không có động lực là niềm hăng say nghề nghiệp như anh bạn của mình, mà tôi cũng không xem sự việc này là một vấn đề trí óc hoàn toàn trừu tượng. Về cái chết của Bartholomew Sholto, tôi chẳng nghe chuyện gì tốt đẹp về con người đó và cũng chẳng thấy ác cảm ghê gớm gì đối với những kẻ sát nhân kia. Tuy nhiên, kho báu lại là chuyện khác. Nó, hay một phần của nó, chính đáng thuộc về cô Morstan. Chừng nào còn cơ may để lấy lại kho báu thì tôi sẵn sàng hiến cả đời mình cho mỗi một mục đích ấy. Đúng là nếu tôi tìm được thì có lẽ nó sẽ đẩy cô vượt ngoài tầm với của tôi mãi mãi. Nhưng tình yêu của tôi sẽ lại tầm thường và ích kỉ nếu bị chi phối bởi những ý nghĩ như thế. Nếu như Holmes có thể ráng sức tìm cho ra những tên tội phạm thì tôi còn có lí do mạnh mẽ hơn gấp chục lần, buộc tôi kiếm tìm kho báu đó.

Về đến phố Baker tắm rửa và thay bộ áo quần mới đã giúp tôi tươi tỉnh lên một cách kì diệu. Khi tôi ra phòng khách thì thấy bữa điểm tâm đã được bày sẵn và Holmes đang rót cà phê.

"Đây này", anh vừa nói vừa cười, tay chỉ vào tờ báo đang mở, "Gã Jones đầy năng lực và đám phóng viên có mặt khắp nơi đã dàn xếp với nhau. Nhưng anh biết thừa vụ này rồi. Tốt nhất nên ăn món giăm bông với trứng trước đã."

Tôi đón lấy tờ báo từ tay anh và đọc mẩu tin ngắn có dòng tít "Bí ẩn ở Thượng Norwood". Tờ Standard viết:

Vào hồi 12 giờ đêm qua, người ta phát hiện ông Bartholomew Sholto, ngụ tại biệt trang Pondicherry, Thượng Norwood, đã chết trong phòng riêng, và hoàn cảnh xảy ra sự việc này cho thấy dấu hiệu của một hành vi phạm pháp. Theo thông tin đã biết, trên thi thể ông Sholto không có dấu hiệu bị hành hung, song một bộ sưu tập đá quý Ấn Độ rất giá trị mà người chết được thừa hưởng từ cha đã bị lấy đi. Ông Sherlock Holmes và bác sĩ Watson là những người đầu tiên phát hiện vụ việc này khi đến tòa biệt trang cùng ông Thaddeus Sholto, em trai của người quá cố. Điều cực kì may mắn là ông Athelney Jones, một thanh tra danh tiếng thuộc lực lượng cảnh sát điều tra, lại tình cờ có mặt ở đồn cảnh sát Norwood và đã đến hiện trường chỉ trong vòng nửa giờ sau khi nhận được tin cấp báo. Ông lập tức dốc hết tài trí và kinh nghiệm vào việc điều tra phát hiện tội phạm, kết quả đáng mừng là em trai nạn nhân, Thaddeus Sholto, đã bị bắt giữ cùng bà quản gia Bernstone, một người hầu Ấn Độ tên là Lal Rao, và người gác cổng McMurdo. Rõ ràng kẻ trộm, dù là một hay nhiều tên, chắc chắn là người thông thuộc ngồi nhà này, bởi lẽ dựa trên sự am tường về chuyên môn và năng lực quan sát tinh vi, ông Jones đã chứng minh một cách thuyết phục rằng thủ phạm chắc chắn không thể vào nhà bằng cửa chính hay cửa sổ, mà đã đột nhập từ mái nhà qua một cửa sập dẫn vào một căn phòng ăn thông với phòng đã phát hiện tử thi. Dữ kiện này đã được chứng minh hết sức rõ ràng, từ đó đưa đến kết luận rằng đây không đơn thuần chỉ là một vụ trộm ngẫu nhiên. Hành động quyết liệt và mau lẹ của lực lượng thi hành pháp luật đã chứng tỏ lợi ích lớn lao mà một bộ óc năng nổ và quyết đoán có thể đem lại trong những tình huống như thế này. Thiết nghĩ sự kiện này đã góp phần củng cố thêm quan điểm cho rằng lực lượng cảnh sát điều tra của chúng ta cần được phân quyền nhiều hơn nữa để họ có thể tiếp cận những vụ án thuộc phận sự điều tra của mình một cách sát sao và hiệu quả hơn.

"Hoành tráng nhỉ?" Holmes nói mà miệng cười toe toét, tay vẫn cầm cốc cà phê. "Anh nghĩ gì về chuyện này?"

"Tôi nghĩ may mà chúng ta không bị bắt giữ vì tội ác này."

"Tôi cũng nghĩ vậy. Bây giờ tôi không dám đảm bảo chúng ta được an toàn đâu nếu như gã bỗng lên cơn tích cực một lần nữa."

Đúng lúc đó chúng tôi nghe tiếng chuông cửa ầm ĩ, rồi có tiếng bà Hudson, bà chủ nhà của chúng tôi, cao giọng la lối một tràng vừa mắng nhiếc vừa khiếp đảm.

"Trời đất", tôi vừa nói vừa dợm đứng dậy. "Holmes này, tôi cho là họ truy bắt chúng ta thật rồi."

"Không đâu, không đến nỗi tệ thế đâu. Đó là lực lượng phi chính quy, đội quân bụi đời phố Baker."

Anh nói chưa dứt lời thì đã có tiếng chân trần chạy rầm rập trên cầu thang, tiếng huyên thuyên của nhiều giọng nói lảnh lót, rồi một tá nhóc con bụi đời rách rưới, bẩn thỉu ùa vào. Tuy đi vào lộn xộn như thế, chúng cũng thể hiện đôi chút kỉ cương, vì cả bọn lập tức đứng thành hàng lối và nhìn chúng tôi với vẻ mặt chờ đợi. Một đứa trong bọn, cao và lớn tuổi hơn cả, đứng đằng trước với điệu bộ bề trên trông rất buồn cười so với thân hình nhỏ con rách rưới bất hảo của nó.

"Đã nhận được điện tín, thưa ông", thằng nhóc nói, "và kéo cả bọn tới luôn. Mất ba shilling với sáu xu tiền xe."

"Tiền đây", Holmes vừa nói vừa đưa mấy đồng bạc ra. "Về sau chúng nó sẽ báo cáo với mi nhé, Wiggins, rồi mi báo lại cho ta. Ta không thể để tụi bay xông vào nhà này như thế được. Nhưng tất cả bọn bay ở đây cùng nghe chỉ dẫn cũng tốt. Ta muốn tìm cho ra nơi nào có chiếc tàu thủy hơi nước tên là Aurora, chủ thuyền là Mordecai Smith, thuyền màu đen có hai sọc đỏ, ống khói đen có một đường kẻ trắng. Nó ở đâu đó phía miệt dưới con sông này. Ta muốn một đứa có mặt ở bến thuyền nhà Mordecai Smith, đối diện Millbank, xem thử con thuyền đó đã quay về chưa. Tụi bay phải tự chia nhau ra, tìm cho kĩ cả hai bên bờ sông. Có tin gì thì báo ngay cho ta. Tất cả rõ chưa?"

"Rõ, thưa thủ lĩnh", Wiggins đáp.

"Mức tiền công như cũ, và một đồng guinea thưởng cho đứa nào tìm thấy con thuyền đó. Đây ta ứng trước một ngày tiền công. Rồi, giải tán!" Anh đưa cho mỗi đứa một shilling và cả bọn lao nhao chạy xuống cầu thang, rồi chỉ một thoáng sau tôi đã thấy chúng tràn ra đường.

"Nếu con tàu đó còn nổi trên mặt nước thì chúng nó sẽ tìm ra", Holmes nói khi anh rời khỏi bàn, châm một tẩu thuốc. "Chúng có thể đi mọi nơi, thấy mọi thứ, nghe lỏm mọi chuyện. Tôi hi vọng trước buổi tối sẽ hay tin chúng đã tìm ra con tàu. Còn trong lúc này, chúng ta không thể làm gì hơn là chờ kết quả. Chúng ta không thể lần theo dấu vết đã gián đoạn cho đến khi nào tìm ra hoặc là chiếc Aurora hoặc là ông Mordecai Smith."

"Con Toby có thể ăn mấy đồ thừa này, tôi chắc vậy. Anh có đi ngủ không, Holmes?"

"Không, tôi không mệt. Tạng người tôi lạ kì thế đấy. Tôi không bao giờ thấy mệt vì công việc, nhưng lại hoàn toàn kiệt quệ khi ăn không ngồi rồi. Tôi sẽ hút thuốc và suy nghĩ về công việc dị thường mà cô thân chủ xinh đẹp kia đã đưa đến cho chúng ta. Còn nhiệm vụ nào dễ dàng hơn nhiệm vụ của chúng ta. Những người có chân gỗ đã là hiếm gặp, nhưng tên còn lại, tôi phải nói là có một không hai."

"Lại là tên đó!"

"Tôi không hề muốn giấu bí mật về tên này với anh. Nhưng anh phải tự xây dựng giả thuyết của mình đi. Này nhé, hãy xem xét các dữ kiện. Những dấu chân bé nhỏ, các ngón chân chưa bao giờ bị gò bó trong ghệt, bàn chân trần, cái chùy bằng gỗ đầu đá, sự nhanh nhẹn cực độ, những mũi tên nhỏ tẩm độc. Tất cả những yếu tố đó khiến anh suy ra điều gì nào?"

"Thổ dân!" Tôi kêu lên. "Có lẽ là một trong những tên Ấn Độ đồng bọn với Jonathan Small."

"Không phải", anh nói. "Lúc đầu nhìn thấy dấu hiệu những thứ vũ khí lạ lùng, tôi cũng suy nghĩ theo hướng đó, nhưng đặc điểm khác thường của các dấu chân đã khiến tôi phải xem lại quan điểm của mình. Một số cư dân ở vùng bán đảo Ấn Độ có vóc người nhỏ bé nhưng không một ai có thể để lại những dấu vết như thế được. Người Hindu chính cống có bàn chân dài và hẹp. Người Hồi giáo có ngón chân cái tẽ hẳn ra so với các ngón khác do họ đi dép xỏ ngón. Những mũi tên nhỏ kia nữa, chỉ có thể bắn bằng một cách. Chúng được phóng từ một ống xì đồng. Đấy, vậy thì chúng ta phải tìm tên thổ dân này ở đâu?"

"Mỹ", tôi đánh bạo nói.

Anh với tay lên kệ lấy xuống một pho sách dày cộp. "Đây là tập đầu tiên của một bộ từ điển địa lí đang được phát hành. Có thể xem đây là nguồn tư liệu tin cậy mới nhất. Trong này viết gì nào? Quần đảo Andaman, nằm cách Sumatra 340 dặm về phía bắc, trong vịnh Bengal. Hừm, hừm! Sao mà đủ thứ? Khí hậu ẩm ướt, vành đai san hô, cá mập, thủ phủ Port Blair, trại tù, đảo Rutland, cây dương... A, đây rồi! Thổ dân quần đảo Andaman có đặc điểm là chủng tộc nhỏ bé nhất thế giới, mặc dù một số nhà nhân chủng học lại quy đặc điểm này cho người Bushmen ở Phi châu, người da đỏ đào đất ở Mỹ châu, và các bộ tộc ở Tierra del Fuego. Chiều cao trung bình dưới bốn foot, mặc dù nhiều người trưởng thành phát triển đầy đủ còn thấp bé hơn thế nhiều. Bản tính hung bạo, lầm lì và bất phục tùng, tuy nhiên họ cũng có khả năng xây dựng những mối thân tình tận tụy nhất một khi họ đã có được sự tin cậy. Lưu ý điều đó, Watson. Bây giờ nghe chỗ này nhé! Nhân hình tự nhiên trông dễ sợ: Đầu to, dị dạng, đôi mắt nhỏ và dữ tợn, diện mạo rúm ró. Bàn chân và bàn tay của họ lại đặc biệt nhỏ nhắn. Họ hung bạo và ngoan cố tới mức mọi nỗ lực của viên chức Anh quốc đều không thể thu phục được họ ở bất kì mức độ nào. Họ luôn là nỗi kinh hoàng của những thủy thủ bị đắm tàu; họ dùng những chày vồ đầu đá đập vỡ sọ những thủy thủ sống sót, hay bắn chết những người này bằng tên tẩm độc. Những cuộc thảm sát này luôn kết thúc bằng một bữa tiệc thịt người. Thật là những người dễ thương, thân thiện, Watson! Nếu như kẻ này mà được tự tung tự tác thì sự việc sẽ có những diễn biến thậm chí còn rùng rợn hơn. Tuy vậy, tôi vẫn cho rằng nếu có thể thì chính Jonathan Small đã cố gắng tránh huy động tới tên mọi này bằng mọi giá."

"Nhưng làm sao hắn ta lại có một đồng bọn đặc biệt đến thế chứ?"

"À, chuyện này nằm ngoài khả năng hiểu biết của tôi. Nhưng vì chúng ta đã xác định rằng Small từ Andaman tới nên không có gì ngạc nhiên khi tên thổ dân quần đảo ấy đi cùng với hắn. Nhất định rồi có lúc chúng ta sẽ biết rõ mọi chuyện thôi. Này, Watson, trông anh không còn chút hơi sức nào kia. Cứ nằm trên trường kỉ đi, để xem tôi ru anh ngủ được không?"

Anh lấy cây vĩ cầm trong góc phòng ra, và trong lúc tôi nằm duỗi thẳng người, anh bắt đầu chơi một giai điệu du dương, mơ màng, chậm rãi - chắc chắn là tác phẩm của anh vì anh có tài ứng tác xuất sắc. Tâm trí tôi lờ mờ ghi nhận vóc dáng gầy gò của Holmes, nét mặt say sưa, và chuyển động lên xuống của cây vĩ. Sau đó tôi dường như trôi êm đềm giữa một biển âm thanh dịu dàng cho đến khi thấy mình cập vào bến mơ, và gương mặt yêu kiều của nàng Mary Morstan đang cúi nhìn tôi.

9. Mắt xích gián đoạn

Mãi đến xế trưa tôi mới thức giấc, trong người khỏe khoắn và sảng khoái. Sherlock Holmes vẫn ngồi đúng ngay chỗ cũ, chỉ khác là anh đã bỏ cây vĩ cầm sang một bên và đang chăm chú vào một cuốn sách. Lúc tôi cựa quậy, anh nhìn sang và tôi thấy vẻ mặt anh u ám và lo lắng.

"Anh ngủ ngon lắm", Holmes nói. "Tôi cứ lo anh sẽ mất giấc vì chúng tôi nói chuyện."

"Tôi chẳng nghe gì cả", tôi đáp. "Vậy anh có tin gì mới à?"

"Rất tiếc là không. Phải thú nhận là tôi ngạc nhiên và thất vọng. Tôi dự kiến là đến lúc này phải có tin tức chính xác rồi. Wiggins đã lên đây báo cáo. Nó nói không thấy tăm hơi chiếc tàu thủy. Đó là một trở ngại trớ trêu, vì từng giờ trôi qua đều quan trọng."

"Tôi có giúp được gì không? Giờ tôi đã hoàn toàn khỏe khoắn, và sẵn sàng ra ngoài một đêm nữa."

"Không, chúng ta không thể làm gì cả. Chỉ có thể chờ đợi. Nếu chúng ta đi mà điện tín đến khi không ai ở nhà thì lại càng thêm trễ. Anh muốn làm gì thì làm nhưng tôi phải túc trực ở đây."

"Vậy thì tôi sẽ chạy sang khu Camberwell ghé nhà bà Cecil Forrester. Hôm qua bà ấy đã mời tôi."

"Thăm bà Cecil Forrester à?" Holmes hỏi, trong mắt ánh lên một nụ cười.

"À, tất nhiên là cả cô Morstan nữa. Họ nôn nóng muốn biết những gì đã xảy ra."

"Nếu là tôi thì tôi sẽ không cho họ biết quá nhiều", Holmes nói. "Không bao giờ có thể tin cậy hoàn toàn vào phụ nữ, kể cả những người khá khẩm nhất."

Tôi không buồn tranh cãi về nhận định cay nghiệt ấy. Tôi nói, "Tôi sẽ quay về trong một hay hai giờ nữa."

"Không sao! Chúc may mắn! À mà này, nếu có sang bên kia sông thì anh mang trả con Toby luôn thể, vì bây giờ tôi nghĩ là không cần dùng nó nữa đâu."

Tôi đưa con chó lai đi theo và để nó lại, với nửa đồng sovereign ở chỗ nhà tự nhiên học cao niên ngõ Pinchin. Đến Camberwell, tôi thấy cô Morstan dù mệt mỏi đôi chút sau những biến cố đêm trước nhưng vẫn háo hức nghe chuyện. Bà Forrester nữa, cũng đầy hiếu kì. Tôi kể họ nghe mọi chuyện chúng tôi đã làm, nhưng giấu nhẹm những chi tiết kinh khủng hơn của thảm kịch này. Vì thế, tuy tôi có nhắc đến cái chết của ông Sholto, tôi chẳng hề nói gì đến đặc điểm thi thể và cách thức gây án. Tuy đã lược bỏ như thế, câu chuyện vẫn đủ khiến họ giật mình thảng thốt.

"Đúng là như tiểu thuyết!" Bà Forrester kêu lên. "Thay vì một bá tước hung ác hay một con rồng tàn bạo theo lối cổ thì ở đây là một cô nương bị hại, nửa triệu bảng trong kho báu, một tên mọi đen ăn thịt người, và một tên côn đồ chân gỗ."

"Và hai chàng hào hiệp đến giải cứu", cô Morstan nói thêm với một cái nhìn rạng rỡ dành cho tôi.

"Ồ, Mary, gia tài của cô tùy thuộc vào kết quả của cuộc tìm kiếm này. Tôi tưởng cô phải phấn khích hơn nhiều chứ. Cứ tưởng tượng xem! Trở nên giàu có, cả thế giới đặt dưới chân mình, thì sẽ như thế nào nhỉ?"

Tôi thầm hoan hỉ trong lòng khi để ý thấy cô không tỏ vẻ gì mừng vui trước viễn cảnh ấy. Trái lại, vầng trán kiêu hãnh của cô chỉ khẽ lắc một cái, cứ như đó chỉ là một chuyện vặt cô chẳng mấy chú ý. "Chính ông Thaddeus Sholto mới khiến tôi quan tâm", cô nói. "Mọi chuyện đều chưa có kết quả nhưng tôi nghĩ rằng ông ấy từ đầu đến cuối đều xử sự rất tử tế và đáng kính trọng. Trách nhiệm của chúng ta là phải làm cho ông ấy khỏi bị hàm oan vì sự buộc tội khủng khiếp vô căn cứ đó."

***

Mãi đến xế chiều tôi mới rời khu Camberwell và lúc về đến nhà thì trời đã tối. Cuốn sách và tẩu thuốc của anh bạn tôi nằm cạnh ghế ngồi của anh, nhưng anh đã biến mất. Tôi nhìn quanh mong thấy một lời nhắn nào đó nhưng chẳng có gì cả.

"Chắc là Sherlock Holmes đã đi ra ngoài rồi", tôi nói với bà Hudson khi bà lên phòng hạ các mành cửa xuống.

"Không đâu. Ông ấy vào trong phòng riêng rồi, ông à." Rồi bà hạ giọng xuống thành một lời thì thầm xúc động. "Tôi lo ông ấy không được khỏe."

"Sao thế, bà Hudson?"

"Ôi, ông ấy kì cục lắm, thưa ông. Sau khi ông đi thì ông Holmes cứ đi tới đi lui, mãi cho đến lúc tôi phát mệt vì tiếng chân của ông ấy. Sau đó tôi nghe ông ấy cứ lẩm bẩm một mình, và hễ có chuông reo thì lại ra đầu cầu thang hỏi: 'Cái gì thế, bà Hudson?' Bây giờ ông ấy đã vào trong phòng đóng sầm cửa lại rồi nhưng tôi vẫn nghe tiếng ông ấy bước tới lui y như trước. Tôi mong là ông Holmes không đau bệnh gì, ông à. Lúc nãy tôi có đánh liều bảo ông ấy mấy câu về chuyện uống thuốc an thần, ông ấy quay sang tôi nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống khiến tôi cũng thất kinh hồn vía luôn."

"Tôi nghĩ bà không việc gì phải lo lắng cả, bà Hudson ơi", tôi đáp. "Tôi đã từng thấy anh ấy như thế rồi. Anh ấy có vài chuyện nhỏ cần phải suy nghĩ cho nên đâm ra bồn chồn ấy mà."

Tôi cố trấn an bà chủ nhà đáng kính, nhưng bản thân tôi cũng đâm lo khi suốt đêm dài thỉnh thoảng tôi vẫn nghe tiếng bước chân đều đều của Holmes và biết tinh thần hăng say của anh đang nóng nảy vì sự đình trệ ngoài ý muốn này. Đến giờ điểm tâm trông anh hốc hác và tiều tụy, hai má ửng hai đốm đỏ như bị sốt.

"Anh đang hủy hoại sức khỏe của mình đấy, anh bạn", tôi nói. "Tôi nghe anh cứ đi lại quanh phòng cả đêm."

"Không, tôi không ngủ được", anh đáp. "Cái vấn đề quỷ quái này cứ ám ảnh tôi. Thật không chịu nổi khi bị ách tắc chỉ vì một chướng ngại vặt vãnh này, khi mọi thứ khác đều đã khắc phục được. Tôi biết bọn chúng, con tàu, mọi thứ, thế mà vẫn không có tin tức gì. Tôi đã huy động các lực lượng trung gian khác, sử dụng hết mọi phương cách có trong tay. Hai bên bờ sông đã được lùng sục hết, nhưng chẳng có tin tức, mà bà Smith cũng không hay tin gì của ông chồng. Chẳng mấy mà tôi sẽ phải đi đến kết luận rằng bọn chúng đã đánh đắm con tàu. Nhưng có nhiều lập luận phản bác lại giả thuyết này."

"Hay là bà Smith đã đánh lạc hướng chúng ta."

"Không đâu, tôi nghĩ có thể bỏ qua chuyện đó. Tôi đã cho điều tra và đúng là có một chiếc tàu thủy đúng như mô tả."

"Hay là thuyền đã đi ngược dòng sông?"

"Tôi cũng đã cân nhắc tới khả năng đó, và đã có một nhóm tìm kiếm lùng sục đến tận Richmond. Nếu hôm nay không có tin tức gì khác thì ngày mai chính tôi sẽ lên đường, và sẽ đi tìm người chứ không tìm tàu nữa. Nhưng nhất định, nhất định là chúng ta sẽ phải có tin gì đó."

Thế nhưng chẳng có gì cả. Không một lời nào từ thằng nhóc Wiggins hay từ các nguồn khác. Hết thảy các tờ báo đều có bài đăng tin về tấn thảm kịch ở Norwood. Tất cả đều tỏ thái độ công kích đối với ông Thaddeus Sholto bất hạnh. Tuy vậy, không có bài báo nào cho thấy chi tiết gì mới mẻ, ngoại trừ chuyện một cuộc điều tra chính thức sẽ được tiến hành vào hôm sau. Tôi đi bộ sang khu Camberwell vào buổi chiều để thuật lại những thất bại của chúng tôi cho hai phụ nữ kia biết, và khi quay về tôi thấy Holmes chán chường và bực bội. Anh chẳng buồn trả lời những câu hỏi của tôi, loay hoay cả buổi tối với một phân tích hóa học khó hiểu bằng cách đun nóng nhiều bình cổ cong và chưng cất hóa chất thành hơi, cuối cùng bốc ra thứ mùi khiến tôi chỉ muốn chạy ra khỏi nhà. Nửa đêm về sáng tôi còn nghe tiếng ống nghiệm của Holmes kêu lanh canh cho biết anh vẫn còn bận bịu với cái thí nghiệm nặng mùi ấy.

Đến sáng sớm tôi giật mình tỉnh giấc và ngạc nhiên thấy anh đứng bên giường tôi, người khoác bộ đồ thủy thủ đơn sơ với một chiếc áo khoác và một khăn choàng đỏ vải thô quấn quanh cổ. "Tôi đi xuôi xuống phía cuối sông đây, Watson", anh nói. "Tôi đã suy nghĩ mãi trong đầu và thấy chỉ còn mỗi một cách giải quyết. Với mọi khả năng có thể xảy ra thì cũng đáng thử xem sao."

"Chắc là tôi phải đi cùng anh chứ?" Tôi hỏi.

"Không, anh sẽ có ích hơn nếu như ở lại đây làm đại diện cho tôi. Tôi chẳng muốn đi vì theo dự tính rất có thể trong ngày hôm nay sẽ có tin nhắn tới, mặc dù thằng Wiggins tối qua đã nản lòng rồi. Tôi cần anh mở ra đọc hết các thư báo và điện tín, và hành động theo phán đoán của anh nếu như có tin tức gì. Tôi có thể nhờ cậy anh chứ?"

"Hẳn thế rồi."

"Tôi e là anh sẽ không thể gửi điện cho tôi được vì chính tôi cũng không biết được mình sẽ ở đâu. Nhưng nếu may mắn thì tôi sẽ không đi quá lâu. Trước khi về tôi phải có thông tin gì đó mới được."

Cho đến giờ điểm tâm tôi vẫn không hay tin gì từ anh. Tuy nhiên, mở tờ báo Standard ra, tôi lại thấy có một diễn biến mới về vụ này. Tờ báo viết:

Liên quan tới thảm kịch ở Thượng Norwood, chúng tôi có lí do để tin rằng sự việc hứa hẹn sẽ còn phức tạp và bí hiểm hơn giả định ban đầu. Chứng cứ mới đã cho thấy rằng ông Thaddeus Sholto khó có thể liên can đến vụ này theo bất kì phương thức nào. Ông và bà quản gia Bernstone đã được trả tự do chiều hôm qua. Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng cảnh sát đã có manh mối về những thủ phạm thực sự và ông Athelney Jones thuộc Sở Cảnh sát London đang tiếp tục điều tra bằng tất cả tài trí và sự năng nổ. Bất kì lúc nào cũng có thể có những vụ bắt giữ khác.

Tôi nghĩ như vậy cũng là thỏa đáng. Dẫu sao ông bạn Sholto cũng được an toàn rồi. Không biết manh mối mới ở đây là gì mặc dù có vẻ như đó là kiểu nói rập khuôn mỗi khi cảnh sát phạm phải sai lầm ngớ ngẩn. Tôi thảy tờ báo xuống bàn, nhưng ngay lúc đó mắt tôi bắt gặp mẩu thông báo ở mục nhắn tin. Nó như thế này:

Tìm người. Tìm ông Mordecai Smith, phu thuyền, cùng con trai Jim, rời bến Smith's Wharf vào khoảng 3 giờ sáng trên chiếc tàu thủy hơi nước Aurora, màu đen hai sọc đỏ, ống khói đen kẻ trắng. Thưởng năm bảng Anh cho bất kì ai báo tin cho bà Smith ở bến Smith's Wharf, hay ở 221B phố Baker, về tung tích của ông Mordecai Smith và chiếc tàu Aurora nói trên.

Rõ ràng đây là việc làm của Holmes. Địa chỉ phố Baker đủ chứng minh điều đó. Tôi thấy quả là ý tưởng tài tình, bởi vì cho dù bọn đào tẩu kia có đọc thì cũng chỉ thấy đó là nỗi lo lắng tự nhiên của một bà vợ vì chồng vắng nhà.

Một ngày thật dài. Mỗi lần có tiếng gõ cửa hay tiếng chân nện mạnh băng qua dưới đường, tôi lại hình dung hoặc là Holmes trở về hoặc là có người hồi đáp tin nhắn của anh, tôi cố đọc sách nhưng đầu óc cứ nghĩ lan man về cuộc kiếm tìm kì lạ của chúng tôi và hai kẻ ác ôn côn đồ mà chúng tôi đang truy lùng. Tôi tự hỏi lẽ nào trong suy luận của anh bạn tôi lại có một sai lầm cơ bản nào đó. Biết đâu anh lại đang gánh chịu hậu quả do sự ngộ nhận nào đó? Không lẽ bộ óc suy đoán nhạy bén của anh lại xây dựng giả thuyết điên rồ này trên những tiền đề sai lầm ư? Tôi chưa bao giờ thấy anh ấy sai lầm, thế nhưng ngay cả nhà suy luận sắc sảo bậc nhất cũng có khi bị đánh lừa. Tôi nghĩ anh có khả năng phạm sai sót vì quá tinh vi trong lí luận của mình - anh thích chọn cách lí giải kì quái và lắt léo tuy đã có sẵn một cách khác dễ hiểu hơn và bình thường hơn. Nhưng mặt khác, chính tôi đã thấy chứng cứ và tôi đã biết nhiều lí lẽ trong cách suy luận của anh. Khi tôi nhớ lại một chuỗi dài những tình huống lạ lùng - nhiều lúc bản thân chúng có vẻ vụn vặt - nhưng tất cả đều theo cùng một hướng, tôi không thể không thấy rằng ngay cả nếu cách lí giải của Holmes không chính xác thì chân lí sau cùng nhất định cũng không kém phần kì quái và khó tin.

Đến 3 giờ chiều thì có một hồi chuông cửa inh ỏi, một giọng nói uy quyền ở dưới sảnh, và ngạc nhiên thay, chính ông Athelney Jones chứ không ai khác xuất hiện ngay trước mặt tôi. Tuy nhiên, ông ta khác hẳn kẻ trịch thượng, lỗ mãng đã rao giảng về óc suy xét và tiếp quản vụ ở Thượng Norwood hết sức tự tin. Vẻ mặt của ông đầy chán chường còn thái độ lại nhún nhường và thậm chí có vẻ hối lỗi nữa.

"Xin chào ông, xin chào", ông ta nói. "Tôi được biết là ông Sherlock Holmes đi vắng rồi phải không?"

"Vâng, và tôi không biết chắc khi nào anh ấy quay về. Nhưng có lẽ ông cũng muốn chờ gặp. Mời ông ngồi vào ghế kia và hút thử loại xì gà này nhé."

"Cảm ơn ông, tôi chờ bao lâu cũng được", ông ta vừa nói vừa lau mặt bằng chiếc khăn tay to bản sặc sỡ.

"Dùng chút rượu mạnh pha soda nhé?"

"À, cho tôi nửa li. Mùa này trời nóng bức quá, mà tôi thì gặp đủ thứ chuyện lo lắng và trở ngại, ông có biết giả thuyết của tôi về vụ Norwood không?"

"Tôi nhớ là ông có nêu ra rồi."

"À, tôi buộc phải xem xét lại giả thuyết đó. Tôi đã tung lưới siết chặt quanh ông Sholto, thưa ông, thì đùng một cái ông ta lọt qua lỗ thủng ngay giữa lưới, ông ta đưa ra được chứng cứ ngoại phạm mà không ai có thể bác bỏ. Từ lúc rời phòng của người anh, ông ta luôn luôn ở tròng tầm mắt một ai đó. Cho nên ông ta không thể là kẻ trèo lên mái nhà và chui qua cửa sập được. Đây là một vụ rất khó hiểu và uy tín nghề nghiệp của tôi đang lâm nguy. Tôi rất vui nếu được hỗ trợ tí chút."

"Ai trong chúng ta cũng có lúc cần được giúp đỡ mà", tôi nói,

"Ông bạn Sherlock Holmes của ông là một người tuyệt vời, thưa ông", ông ta nói bằng giọng khàn khàn ra vẻ bí mật. "Ông ấy là người bất bại. Tôi từng biết con người trẻ tuổi đó đã tham gia rất nhiều vụ nhưng tôi chưa hề thấy có vụ nào mà ông ấy lại không làm sáng tỏ được, ông ấy có những phương pháp trái quy tắc và có lẽ là hơi nhanh nhảu khi lao theo những giả thuyết, nhưng nói chung, tôi nghĩ ông ấy lẽ ra đã trở thành một sĩ quan đầy triển vọng, và tôi dám nói như thế. Sáng nay tôi nhận được điện tín của ông Holmes, theo đó tôi biết là ông ấy đã có manh mối gì đó về vụ Sholto. Bức điện đây này."

Ông ta lấy bức điện trong túi ra đưa cho tôi. Điện gửi từ Poplar lúc 12 giờ. Bức điện ghi: Tới phố Baker ngay. Nếu tôi chưa về, hãy đợi tôi. Tôi đang bám theo dấu vết của vụ Sholto. Ông có thể đi cùng chúng tôi đêm nay nếu như ông muốn tham gia vào đoạn kết.

"Coi bộ khả quan. Rõ ràng là anh ấy đã tìm lại được dấu vết đã mất", tôi nói.

"À, hóa ra ông ấy cũng có lúc phạm sai lầm", Jones thốt lên với vẻ hài lòng lộ rõ. "Ngay cả những người tài giỏi nhất của chúng tôi cũng có lúc bị nhầm lẫn. Tất nhiên đây có thể là một báo động giả, nhưng trách nhiệm của tôi trong vai trò người thực thi pháp luật lại không cho phép bỏ lỡ một cơ hội nào. Nhưng có ai ở cửa thì phải. Có lẽ ông ấy về."

Có tiếng bước chân nặng nề đang lên cầu thang kèm theo tiếng thở khò khè, dồn dập giống một người đang gắng sức tới mức hụt hơi. Một hai lần người đó dừng lại như thể việc leo cầu thang là quá sức, nhưng rồi cuối cùng cũng lần mò được tới cửa phòng chúng tôi và đi vào. Diện mạo của ông ta tương ứng với những âm thanh đã nghe thấy. Đó là một người đàn ông đứng tuổi, mặc đồ theo kiểu dân đi biển với chiếc áo khoác thủy thủ cài khuy tận cằm. Lưng ông ta còng, hai đầu gối run rẩy, và hơi thở cứ như đau đớn vì hen suyễn. Khi ông ta tì người lên cây gậy to bằng gỗ sồi, hai bờ vai nhô cao gắng sức hít đầy hơi vào hai buồng phổi. Một chiếc khăn quàng cổ màu mè che kín phần dưới khuôn mặt ông ta và tôi chỉ nhìn thấy một đôi mắt đen sắc sảo nằm khuất dưới đôi mày rậm bạc trắng và mớ tóc mai dài hoa râm hai bên má. Tất cả hợp lại khiến tôi nghĩ rằng ông ta là một thuyền trưởng tàu buôn đã lâm vào cảnh già yếu bần cùng.

"Có việc gì thế ông?" Tôi hỏi.

Ông già chậm chạp đảo mắt nhìn quanh theo kiểu người già. "Có ông Sherlock Holmes ở đây không?" Ông ta nói.

"Không ạ, nhưng tôi đại diện cho anh ấy. Ông có thể nói với tôi bất kì tin tức nào cần nhắn với anh ấy."

"Tôi chỉ nói với chính ông ta thôi", ông già đáp.

"Nhưng tôi đã bảo là tôi đại diện cho anh ấy. Có phải về chuyện chiếc tàu của Mordecai Smith không?"

"Đúng vậy. Tôi biết rõ nó ở đâu. Và tôi biết những kẻ ông ta đang truy tìm ở đâu. Và tôi biết kho báu ở đâu. Tôi biết tuốt."

"À, vậy thì ông phải chờ anh ấy về."

"Không được, không được, tôi không mất toi cả ngày để chiều lòng ai đâu. Nếu ông Holmes không có ở đây thì ông Holmes phải tự đi mà tìm lấy. Tôi mặc kệ các người là ai và tôi nhất định không nói gì hết."

Ông già lê bước ra cửa nhưng Athelney Jones đã phóng tới chặn đường.

"Khoan đã, ông bạn", Jones nói. "Ông có tin tức quan trọng, ông không được bỏ đi. Chúng tôi sẽ giữ ông lại, dù ông thích hay không, cho đến khi người bạn của chúng ta trở về."

Ông già dợm chạy ra cửa nhưng thấy Athelney Jones đã đưa cái lưng to lớn của mình chận ngang cánh cửa, đành chấp nhận là có kháng cự cũng vô ích. Ông ta vừa nện cây gậy xuống sàn nhà vừa la lối, "Cư xử kiểu gì thế này! Tôi đến đây gặp một quý ông, thế mà hai kẻ tôi chưa từng thấy trong đời lại bắt giữ tôi, cư xử với tôi thế đấy!"

"Không ai làm gì ông đâu", tôi nói. "Chúng tôi sẽ bồi hoàn cho việc làm tốn thời giờ của ông. Ngồi ở trường kỉ kia đi, ông sẽ không phải chờ đợi lâu đâu."

Ông già đi sang bên đó, mặt mày sưng sỉa, và ngồi xuống, tay chống cằm. Jones và tôi tiếp tục nói chuyện và hút xì gà. Nhưng bất thình lình, giọng Holmes vang lên chen vào giữa cuộc trò chuyện. "Tôi nghĩ là các ông có thể mời tôi xì gà nữa."

Jones và tôi giật bắn người trên ghế. Chính Holmes đang ngồi sát bên với vẻ thích thú lặng thầm.

"Holmes!" Tôi kêu lên. "Anh đây rồi! Nhưng ông già đâu?"

"Ông già đây này", anh vừa nói vừa chìa ra một đống tóc trắng, "ông ta đây, bộ tóc giả, tóc mai, lông mày, đủ thứ. Tôi nghĩ là mình cải trang khá tốt, nhưng hoàn toàn không mong qua được thử thách này."

"Ái chà, đồ đểu!" Jones kêu lên, hết sức hoan hỉ. "Ông đúng là một kịch sĩ thuộc loại hiếm có, ông ho đúng hệt kiểu trại tế bần, và hai cái cẳng run rẩy kia đáng lĩnh trợ cấp mười bảng Anh một tuần. Nhưng tôi nghĩ là tôi nhận ra ánh mắt của ông. Ông không qua mặt được chúng tôi dễ dàng vậy đâu. Thật đấy!"

"Tôi đã làm việc cả ngày trong cái lốt ấy", anh vừa nói vừa châm điếu xì gà. "Ông biết mà, bây giờ rất nhiều tên trong tầng lớp tội phạm đã biết tới tôi, nhất là từ khi anh bạn tôi đây bắt đầu cho đăng tải vài vụ án của tôi. Cho nên tôi chỉ có thể xung trận với một vỏ ngụy trang đơn giản như thế. Ông có nhận điện tín của tôi chứ?"

"Có, vì thế tôi mới tới đây."

"Vụ của ông tiến triển thế nào rồi?"

"Mọi việc chẳng đi tới đâu. Tôi phải trả tự do cho hai trong số những người bị bắt giam, và không có bằng chứng nào chống lại hai người còn lại."

"Không sao. Chúng tôi sẽ cho ông hai người khác thế chỗ. Nhưng ông phải làm theo ý tôi. Ông được hưởng hết mọi công lao, nhưng ông phải hành động theo đường hướng tôi vạch ra. Đồng ý không nào?"

"Hoàn toàn đồng ý, nếu ông giúp tôi tóm được chúng."

"Tốt, vậy thì trước hết tôi sẽ cần một chiếc tàu cao tốc của cảnh sát, một tàu thủy hơi nước, sẵn sàng ở bến Westminster lúc 7 giờ."

"Chuyện đó dễ thu xếp thôi. Lúc nào cũng có một chiếc ở quanh đó, nhưng tôi có thể băng qua đường gọi điện thoại cho chắc chắn."

"Thế thì tôi sẽ cần hai người tin cẩn, đề phòng có kháng cự."

"Sẽ có hai hoặc ba người dưới tàu. Còn gì nữa?"

"Khi tóm được bọn chúng, chúng ta sẽ lấy được kho báu. Tôi nghĩ rằng anh bạn tôi sẽ lấy làm hân hạnh được mang cái rương đến chỗ quý cô là người có quyền sở hữu chính đáng phần nửa tài sản đó. Hãy để cô ấy là người đầu tiên mở nó ra... Thế nào, Watson?"

"Quả là vinh dự lớn lao cho tôi."

"Phương thức đó hơi trái quy tắc đấy", Jones vừa nói vừa lắc đầu. "Dù vậy, toàn bộ chuyện này đều không theo quy tắc nào cả, và tôi chắc là chúng ta cứ làm lơ như không có đi. Nhưng sau đó kho báu ấy phải được giao lại cho cơ quan có thẩm quyền cho đến khi kết thúc việc điều tra chính thức."

"Hẳn rồi. Chuyện này dễ thu xếp thôi. Một điểm nữa. Tôi rất muốn nghe vài chi tiết về vụ này từ chính miệng Jonathan Small. Ông biết là tôi thích làm rõ chi tiết các vụ án của mình. Nếu tôi muốn thẩm vấn không chính thức hắn ta, ở đây trong căn hộ của tôi hay ở đâu đó, miễn là hắn ta được canh giữ bảo đảm, thì ông không phản đối chứ?"

"Chà, ông làm chủ tình huống mà. Tới giờ tôi vẫn chưa có chứng cứ gì về sự tồn tại của tên Jonathan Small này. Nhưng nếu ông bắt được hắn thì làm sao tôi có thể khước từ cho ông thẩm vấn hắn được chứ."

"Vậy thì rõ ràng hết rồi phải không?"

"Rõ hết. Không còn gì nữa sao?"

"Chỉ còn một chuyện là tôi nhất định mời ông ăn tối cùng chúng tôi. Thức ăn sẽ sẵn sàng trong nửa giờ nữa. Tôi có hàu và một cặp gà gô, cùng ít loại rượu vang trắng để lựa chọn... Watson này, anh chưa biết giá trị của tôi trong vai trò quản gia đâu đấy nhé."

10. Kết liễu tên thổ dân

Bữa ăn của chúng tôi rất vui vẻ. Holmes có thể nói chuyện cực kì cuốn hút khi anh muốn và tối hôm đó anh quả thực có hứng. Có vẻ như anh đang trong trạng thái hưng phấn tinh thần. Tôi chưa bao giờ thấy anh thông thái đến thế. Anh nói liên tục hàng loạt đề tài - nào kịch thần bí, nào đồ gốm Trung Hoa cổ, nào vĩ cầm Stradivarius, nào Phật giáo xứ Tích Lan, và cả những chiến hạm của tương lai - như thể anh đã nghiên cứu chuyên sâu tất cả. Sự hóm hỉnh tươi vui của anh thật khác hẳn vẻ trầm uất u ám của mấy ngày trước. Athelney Jones hóa ra cũng là người dễ hòa đồng vào những lúc thoải mái và ông ta dùng bữa tối với phong thái của một người lịch lãm. Riêng tôi lại thấy phấn chấn với ý nghĩ rằng công việc của chúng tôi đã gần đến đích, và tôi cũng lây theo sự vui vẻ của Holmes. Suốt bữa ăn không ai nhắc tới nguyên do đã đưa đẩy chúng tôi lại với nhau.

Khi bàn ăn đã dọn sạch, Holmes liếc nhìn đồng hồ và rót đầy ba li rượu Porto.

"Cạn li", anh nói, "chúc cho cuộc viễn chinh nho nhỏ của chúng ta thành công tốt đẹp. Bây giờ đã đến lúc lên đường. Anh có súng phải không, Watson?"

"Tôi còn cất trong bàn giấy khẩu súng lục từ thời còn tại ngũ."

"Vậy tốt nhất anh nên mang theo đi. Có sẵn vẫn hơn. Tôi thấy xe ngựa đang chờ ngoài cửa. Tôi đã dặn xe đến từ 6 giờ rưỡi."

Lúc chúng tôi đến bến Westminster thì đã quá 7 giờ một chút và thấy chiếc tàu thủy của mình đã chờ sẵn. Holmes nhìn chiếc tàu với vẻ xét nét.

"Có dấu hiệu gì cho biết đó là tàu của cảnh sát không?"

"Có, đèn xanh bên hông tàu."

"Vậy thì tháo nó ra đi."

Làm xong thay đổi nhỏ, chúng tôi lên tàu và dây thừng được tháo. Jones, Holmes và tôi ngồi ở đằng đuôi. Có một người điều khiển bánh lái, một thợ máy, và hai thanh tra cảnh sát lực lưỡng ở đằng mũi.

"Đi đâu?" Jones hỏi.

"Theo hướng Tháp. Bảo họ dừng đối diện công xưởng Jacobson."

Chiếc tàu của chúng tôi đúng là chạy rất nhanh. Chúng tôi lao vọt qua những hàng dài sà lan nặng nề cứ như thể chúng đứng yên một chỗ. Holmes mỉm cười hài lòng khi chúng tôi vượt qua một chiếc tàu hơi nước đường sông và bỏ nó lại sau lưng.

"Chúng ta có thể đuổi kịp bất cứ thứ gì trên sông này", anh nói.

"Chưa chắc. Nhưng không có nhiều chiếc chạy nhanh hơn tàu này đâu."

"Chúng ta sẽ phải đuổi kịp chiếc Aurora, và nó nổi tiếng là một con tàu thần tốc. Tôi sẽ kể anh nghe sự tình, Watson. Anh còn nhớ tôi đã bực bội ra sao khi bị cản trở bởi một chuyện vụn vặt như thế không?"

"Nhớ!"

"Đấy, tôi để cho đầu óc nghỉ ngơi hoàn toàn bằng cách lao vào làm một phân tích hóa học. Một trong những chính khách lừng lẫy nhất của chúng ta đã nói rằng cách nghỉ ngơi tốt nhất là thay đổi công việc. Đúng là thế. Khi đã hòa tan thành công chất hydrocarbon mà tôi đang xử lí, tôi quay lại vấn đề nhà Sholto, và ngẫm nghĩ lại toàn bộ sự việc một lần nữa. Bọn nhóc của tôi đã đi xuôi ngược cả dòng sông mà không có kết quả gì. Chiếc tàu ấy không có ở bến cảng hay cầu tàu nào, mà cũng không thấy quay về. Nhưng không thể nào người ta lại đánh đắm nó để che giấu tung tích, mặc dù điều này vẫn luôn là một giả thuyết có thể xảy ra nếu như mọi giả thuyết khác đều thất bại. Tôi biết đầu óc tay Small này cũng có chút xảo quyệt ở tầm thấp đấy nhưng tôi không nghĩ là hắn ta có thể có những mánh khóe tinh vi như thế. Đó thường là sản phẩm của kẻ có học thức cao. Sau đó tôi ngẫm nghĩ về chuyện hắn chắc chắn đã ở London một thời gian, vì chúng ta có bằng chứng là hắn liên tục canh chừng biệt trang Pondicherry; nếu như vậy hắn không thể nào ra đi ngay lập tức mà không cần thu xếp, chuẩn bị trước, dù chỉ là một ngày. Dù sao đi nữa đây cũng là khả năng có xác suất cao nhất."

"Coi bộ lập luận này không vững chắc", tôi nói. "Rất có thể hắn ta đã sắp xếp mọi việc từ trước khi hắn bắt đầu cuộc viễn du này."

"Không, tôi không nghĩ thế. Khi cần thiết, sào huyệt của hắn sẽ là nơi ẩn náu hết sức quý giá, cho nên hắn không thể nào từ bỏ nó chừng nào còn chưa chắc chắn là không cần tới nữa. Nhưng tôi cũng nảy ra một ý tưởng thứ hai. Jonathan Small chắc hẳn phải nhận thấy rằng, cho dù hắn có thể trùm kín đầu tên bạn đồng hành thì diện mạo quái dị ấy cũng sẽ gây ra nhiều đồn đãi và có khả năng sẽ bị liên hệ đến thảm kịch ở Norwood. Hắn ta đủ khôn ngoan để thấy điều đó. Chúng đã xuất phát từ sào huyệt giữa đêm hôm và chắc chắn hắn muốn quay lại trước khi trời sáng rõ. Đấy, theo bà Smith thì chúng lên tàu khi đã quá 3 giờ. Chậm một giờ nữa thì trời đã hừng sáng và lắm người qua lại. Do đó tôi lập luận rằng bọn chúng sẽ không đi đâu xa lắm. Chúng trả cho ông Smith nhiều tiền để câm miệng, giữ lại chiếc tàu thủy của ông ta cho chuyến tẩu thoát cuối cùng, và hấp tấp về nơi trú ngụ của chúng cùng với rương châu báu. Vài đêm sau đó, khi chúng đã có thời gian xem báo chí bàn tán gì và xem thử có ai nghi ngờ gì không, chúng mới tranh thủ ban đêm lần mò tới một chiếc tàu lớn nào đó ở Gravesend hay ở miệt dưới, nơi chắc chắn chúng đã thu xếp sẵn một chuyến đi sang Mỹ châu hay sang các thuộc địa."

"Nhưng còn chiếc tàu thủy? Chúng đâu có thể đưa nó về nơi trú ẩn được."

"Hẳn thế rồi. Tôi lập luận rằng chiếc tàu ấy nhất định phải ở đâu đó gần đấy, cho dù nó có tàng hình đi nữa. Rồi tôi đặt mình vào địa vị của Small, và xem xét vấn đề theo khả năng của hắn. Hắn có thể nghĩ rằng, việc trả tàu về hay giữ lại ở một bến nào đó chỉ làm cho việc truy đuổi thêm dễ dàng nếu cảnh sát tình cờ lần được dấu vết hắn. Như vậy làm sao hắn có thể vừa giấu chiếc tàu mà vừa có ngay khi cần? Tôi đã tự hỏi mình phải làm gì nếu ở trong hoàn cảnh của hắn. Tôi chỉ có thể nghĩ ra một cách duy nhất. Tôi có thể cho chiếc tàu cập vào một xưởng sửa chữa hay đóng tàu nào đó, với yêu cầu điều chỉnh lặt vặt. Như vậy chiếc tàu có thể được đưa vào xưởng, và được giấu kín rất hữu hiệu, đồng thời tôi chỉ cần báo trước vài giờ là có thể có được ngay chiếc tàu."

"Nghe khá là đơn giản."

"Chính những điều rất đơn giản như thế lại cực kì dễ bị bỏ sót. Dù sao tôi cũng quyết định hành động theo ý tưởng đó. Tôi cải trang ngay thành lão thủy thủ vô hại và đi dò la khắp các xưởng tàu dọc dòng sông. Tôi chẳng tìm được tin tức gì suốt mười lăm xưởng nhưng đến cái thứ mười sáu, công xưởng Jacobson, thì tôi được biết một người chân gỗ đã giao chiếc Aurora cho xưởng này cách đây hai ngày, với yêu cầu điều chỉnh lặt vặt chỗ bánh lái, ông cai xưởng nói: 'Bánh lái đó có gì trục trặc đâu. Chiếc tàu kia kìa, có mấy sọc đỏ đấy.' Ngay lúc đó chính Mordecai Smith, tay chủ tàu mất tích mò tới, ông ta đã say khướt. Tất nhiên trước giờ tôi có biết Smith là ai đâu, nhưng ông ta cứ rống oang oang tên mình và tên chiếc tàu. Ông ta nói: 'Tôi cần nó tối nay lúc 8 giờ, 8 giờ đúng đó, ông nhớ cho, vì tôi còn hai quý ông không muốn mất công chờ đợi.' Rõ ràng là chúng đã trả công cho ông ta hậu hĩnh, vì ông ta có rất nhiều tiền, và quăng ra nhiều đồng shilling cho đám thợ. Tôi đi theo Smith một quãng nhưng rồi ông ta sà vào một quán bia nên tôi quay lại xưởng tàu, và trên đường đi tình cờ gặp được một đứa trong đám nhóc con của tôi. Tôi bố trí nó đứng canh chừng chiếc tàu thủy. Nó phải đứng ngay bờ nước và vẫy khăn tay báo hiệu cho chúng ta khi bọn chúng khởi hành. Chúng ta sẽ án binh bất động chờ ngoài sông, nếu không tóm được cả người lẫn kho báu thì mới lạ đấy!"

"Ông đã vạch kế hoạch đâu vào đấy cả, cho dù bọn chúng có đúng là thủ phạm hay không", Jones nói. "Nhưng nếu chuyện này thuộc thẩm quyền của tôi thì tôi đã cho cả đội cảnh sát phục sẵn ở xưởng tàu Jacobson và tóm cổ khi chúng mò tới đó."

"Điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. Tên Small này ranh ma lắm đấy. Hắn sẽ cho một tên do thám đi trước, và nếu có chuyện gì khiến hắn nghi ngờ thì hắn sẽ nằm im cả tuần nữa."

"Nhưng anh có thể bám theo Mordecai Smith và nhờ đó tìm tới nơi trú ẩn của bọn chúng", tôi nói.

"Trong trường hợp này tôi sẽ phí phạm mất cả ngày của mình. Và tôi dám cá một trăm ăn một là Smith không hề biết bọn chúng đang ở đâu. Chừng nào còn có rượu uống và tiền công hậu hĩnh thì cớ gì mà ông ta thắc mắc chứ? Chúng sẽ nhắn tin bảo ông ta những gì cần làm. Không, tôi đã suy tính hết mọi đường hướng có thể xảy ra, và đây là cách tốt nhất."

Trong lúc cuộc trò chuyện tiếp diễn, chúng tôi vượt qua hàng loạt cây cầu bắc ngang sông Thames. Lúc chúng tôi băng ngang thành phố, những tia nắng cuối cùng đang nhuộm vàng cây thánh giá trên đỉnh tháp giáo đường St. Paul. Lúc đến tháp London thì trời đã chạng vạng.

"Xưởng tàu Jacobson kia kìa", Holmes vừa nói vừa chỉ về đám cột buồm tua tủa bên phía Surrey. "Hãy chạy từ từ qua lại chỗ này, trong tầm che chắn của dãy sà lan chở hàng kia."

Anh lấy ra một chiếc ống nhòm chuyên quan sát ban đêm và nhìn chằm chằm một hồi về phía bờ sông. Anh nói, "Tôi thấy người canh gác của tôi rồi, nhưng chưa thấy dấu hiệu của chiếc khăn tay."

"Giả sử chúng ta đi xuôi dòng một đoạn ngắn nữa rồi mai phục bọn chúng thì sao?" Jones hăm hở lên tiếng. Đến lúc này tất cả chúng tôi đều háo hức, ngay cả mấy viên cảnh sát và người phụ máy vốn chẳng hề biết rõ chuyện gì sắp xảy ra.

"Chúng ta không có quyền coi bất cứ chuyện gì là đương nhiên cả", Holmes nói. "Chín mươi phần trăm chúng sẽ đi xuôi dòng, nhưng không thể đoán chắc. Từ điểm này chúng ta có thể thấy được cổng vào xưởng tàu trong khi chúng không thể nhìn thấy ta. Đêm nay trời trong và nhiều ánh sáng. Chúng ta phải ở yên đây thôi. Hãy xem người ta kéo đi cả đám đằng xa dưới ánh đèn khí đốt kia kìa."

"Họ từ xưởng tàu tan tầm ra về."

"Những kẻ lôi thôi lếch thếch, nhưng tôi cho là bất cứ ai cũng ẩn chứa một tia sáng nhỏ nhoi bất diệt nào đó. Nhìn họ thì anh không nghĩ thế đâu. Không có một xác suất tiên nghiệm nào trong chuyện này cả. Con người là một điều bí ẩn lạ lùng!"

"Có người lại nói con người là một linh hồn được che giấu bên trong một con thú", tôi gợi ý.

"Winwood Reade rất giỏi về đề tài này", Holmes nói. "Ông ấy nhận định rằng, dù mỗi cá nhân là một câu đố không có lời giải, nhưng nhìn tổng thể thì con người lại trở thành đại lượng xác định về toán học. Chẳng hạn, anh chẳng bao giờ có thể biết trước bất kì ai sẽ làm chuyện gì, nhưng anh có thể nói chính xác một số người bình quân sẽ toan tính điều gì. Cá thể biến thiên nhưng tỉ lệ thì bất biến. Chuyên gia thống kê nói thế. Nhưng hình như có dấu hiệu khăn tay kìa? Rõ ràng có cái gì trăng trắng vung vẩy ở xa xa."

"Phải rồi, chính thằng nhóc của anh đó", tôi kêu lên. "Tôi thấy nó rõ lắm."

"Và kia là chiếc Aurora" Holmes kêu lên, "nó phóng nhanh như quỷ sứ! Chạy hết tốc lực đi, anh thợ máy. Đuổi theo chiếc tàu có cái đèn vàng đó. Nói có Chúa, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho chính mình nếu như chiếc tàu đó chạy nhanh hơn chúng ta!"

Chiếc Aurora đã chạy qua cổng xưởng tàu mà không ai hay biết và đã lướt đi đằng sau hai hay ba chiếc tàu nhỏ cho nên khi chúng tôi nhìn thấy thì nó đã phóng ngon trớn rồi. Lúc này nó đang lao như bay xuôi dòng nước, phía gần bờ, với tốc độ kinh hồn. Jones lo ngại nhìn chiếc tàu rồi lắc đầu.

"Nó chạy nhanh quá", ông ta nói. "Tôi không chắc chúng ta đuổi kịp."

"Chúng ta phải đuổi kịp!" Holmes nghiến răng thốt lên. "Chất đầy than vào đi anh thợ máy. Cho máy chạy hết mức đi! Phải bắt được chúng dù có cháy con tàu này!"

Chúng tôi đã ở khá gần chiếc Aurora. Các lò hơi gầm lên và các động cơ mạnh mẽ rú rít như một trái tim kim khí khổng lồ. Mũi tàu nhọn hoắt xé nước, rẽ sóng thành hai làn cuồn cuộn hai bên mạn. Theo từng nhịp của động cơ, con tàu của chúng tôi nhún nhảy, rung lắc như một sinh vật. Một ngọn đèn vàng to tướng ở đầu tàu hắt ra phía trước một luồng sáng dài, lập lòe tỏa rộng. Ngay trước mặt, một đốm mờ đen đúa trên mặt nước cho biết vị trí của chiếc Aurora, và đám bọt trắng cuộn xoáy đằng sau đuôi cho biết tốc độ con tàu này đang lao tới. Chúng tôi chạy vụt qua biết bao sà lan, tàu khách, thương thuyền, hết vào trong lại ra ngoài, hết chạy sau chiếc này lại vòng qua chiếc khác. Từ trong bóng tối vẳng ra nhiều tiếng người réo gọi chúng tôi nhưng Aurora vẫn cứ phóng ào ào và chúng tôi vẫn bám sát theo đường đi của nó.

"Thêm than vào, các bạn, thêm than vào!" Holmes vừa la vừa nhìn vào buồng máy trong khi ánh lửa nóng rực từ bên dưới táp vào gương mặt hăng hái của anh. "Cho hơi nước xả hết cỡ đi."

"Tôi nghĩ chúng ta đã gần hơn một chút", Jones nói, mắt dán vào chiếc Aurora.

"Tôi chắc chắn là thế", tôi nói. "Chỉ vài phút nữa là chúng ta đuổi kịp nó."

Thế nhưng ngay lúc đó, xui khiến sao lại có một chiếc tàu kéo một dãy ba sà lan chen ngang giữa chúng tôi và chiếc Aurora. Phải bẻ ngoặt bánh lái tối đa mới tránh được va chạm, và khi chúng tôi có thể chạy vòng qua đoàn tàu kéo này để theo đường cũ thì Aurora đã bỏ xa chừng hai trăm yard. Tuy vậy nó vẫn còn trong tầm mắt và ánh hoàng hôn nhập nhoạng âm u đang chuyển dần sang một đêm trời quang sao sáng. Mấy nồi hơi trên tàu đã sôi sục muốn nổ tung và lớp vỏ mỏng manh của chúng phập phồng, cọt kẹt theo động cơ mãnh liệt đang đẩy chúng tôi vọt tới. Chúng tôi băng ngang khu cảng Pool, phóng qua bến tàu West India, xuôi theo đoạn kênh dài Deptford, rồi lại lao ngược lên sau khi đã vòng qua cù lao Dogs. Cái đốm mờ đục trước mặt giờ đã dần hiện rõ nét thành chiếc Aurora kiêu kì.

Jones hướng ngọn đèn pha về phía con tàu đó để chúng tôi có thể nhìn thấy rõ những bóng người trên boong. Một tên ngồi ở đuôi tàu, đang lom khom với vật gì màu đen giữa hai đầu gối hắn. Bên cạnh hắn ta là một đống sậm màu trông như một con chó giống Newfoundland. Một thằng nhóc đang giữ tay đòn bánh lái trong lúc một bóng người hiện rõ trong ánh lửa đỏ của lò hơi; tôi có thể đoán là ông Smith, áo tuột khỏi lưng, đang xúc than hì hục. Thoạt tiên họ không chắc là chúng tôi đang đuổi theo nhưng bây giờ, khi thấy chúng tôi bám theo mọi khúc quanh ngã rẽ thì họ không còn hồ nghi gì nữa.

Ở Greenwich chúng tôi cách chiếc Aurora chừng ba trăm sải. Đến Blackwall chúng tôi còn cách chưa đến hai trăm rưỡi sải. Tôi đã săn đuổi nhiều con mồi ở nhiều xứ sở trong suốt binh nghiệp thăng trầm của mình, nhưng chưa bao giờ trò cút bắt lại kích thích tôi dữ dội như cuộc săn người điên cuồng vùn vụt trên sông Thames này. Chúng tôi rút ngắn khoảng cách từng chút một. Trong đêm tĩnh mịch, chúng tôi nghe được cả tiếng máy tàu hồng hộc, lạch cạch trên chiếc Aurora. Người ngồi ở đuôi tàu vẫn lom khom trên boong, và hai cánh tay hắn hoạt động như thể đang bận rộn việc gì đó, trong khi chốc chốc hắn lại đưa mắt đo lường khoảng cách giữa hai chiếc tàu. Chúng tôi càng lúc càng gần hơn, gần hơn.

Jones quát to ra lệnh cho chiếc Aurora dừng lại. Cả hai đều đang phóng như bay với tốc độ kinh hoàng, và chỉ còn cách nhau một khoảng bằng độ dài của bốn chiếc tàu nối đuôi nhau. Đây là một khúc sông trống trải, một bên là khu đất bằng Barking còn một bên là khu đầm lầy Plumstead. Nghe tiếng quát tháo, người ở đuôi tàu Aurora đứng phắt dậy, vừa vung hai nắm tay siết chặt về hướng chúng tôi vừa nguyền rủa một hồi bằng giọng the thé, khàn khàn. Gã đó có tầm vóc cao lớn, lực lưỡng, và khi hắn đứng giạng chân để giữ thăng bằng tôi nhận ra chân phải của hắn từ phần bắp đùi trở xuống chỉ là một khúc gỗ.

Nghe tiếng la hét tức tối the thé kia, cái đống lù lù nằm trên boong bỗng nhúc nhích. Nó vươn thẳng lên và hiện hình thành một người da đen nhỏ bé - người nhỏ bé nhất mà tôi từng thấy - với một cái đầu dị dạng và một mớ tóc bù xù, rối bời. Holmes đã rút khẩu súng lục của mình ra, tôi cũng rút súng ngay khi thấy kẻ man rợ kì dị này. Hắn trùm kín người bằng một tấm chăn hay một chiếc áo choàng gì đó, chỉ lộ xa khuôn mặt, song bộ mặt ấy đủ khiến người ta mất ngủ cả đêm. Chưa bao giờ tôi lại thấy nét mặt nào hằn sâu sự hung bạo và thú tính nhường ấy. Đôi mắt nhỏ tí kia hừng hực một thứ ánh sáng âm u còn đôi môi dày vén lên để lộ hàm răng đang nhe ra và rú rít với chúng tôi một tràng thịnh nộ như tiếng thú vật.

"Nó giơ tay lên là bắn liền", Holmes khẽ nói.

Lúc này chúng tôi chỉ còn cách chiếc Aurora bằng độ dài một con thuyền, và hầu như sắp chạm tới con mồi. Tôi bây giờ đã thấy rõ hai tên đó khi chúng đứng lên, người da trắng đứng giạng chân chửi rống và tên quỷ lùn có bộ mặt gớm guốc và bộ răng vàng khè chắc đang nghiến chặt ra vẻ hăm dọa dưới ánh đèn của chúng tôi. Cũng may mà chúng tôi nhìn rõ hắn. Trong lúc chúng tôi còn đứng nhìn, hắn đã rút phắt ra từ dưới tấm áo choàng một khúc gỗ tròn, ngắn, trông như cây thước kẻ, và đưa lên môi. Holmes và tôi nổ súng cùng một lúc. Hắn quay ngược một vòng, hai cánh tay vung lên trời, khạc ra một tiếng nấc nghẹn, hắn ngã sang một bên rồi rơi xuống sông. Tôi thoáng nhìn thấy đôi mắt hiểm ác, đầy đe dọa của hắn giữa dòng nước cuộn xoáy. Ngay khi đó, tên chân gỗ lao người lên tay đòn bánh lái bẻ ngoặt cho chiếc Aurora phóng thẳng vào bờ phía nam trong lúc chúng tôi lao vọt qua đuôi tàu của hắn, chỉ cách chừng vài foot. Chúng tôi lập tức quay vòng tàu lại đuổi theo nhưng chiếc Aurora đã tiến gần bờ. Khúc sông đó hoang vắng, ánh trăng mờ chiếu trên một dải đầm lầy rộng lớn toàn những vũng nước tù đọng và thảm thực vật đang thối rữa. Uỵch một cái, chiếc tàu thủy đã lao lên bờ đất sình, mũi chĩa lên trời còn đuôi nằm ngang mặt nước. Kẻ đào tẩu nhảy phắt xuống nhưng cái chân gỗ của hắn lập tức cắm ngập xuống lớp đất nhão. Hắn vùng vẫy, chống chọi vô ích. Hắn không thể dịch chuyển tới lui dù chỉ một bước. Thịnh nộ vì bất lực, hắn rống lên và đạp loạn xạ chân còn lại xuống mặt bùn nhưng những nỗ lực ấy chỉ khiến cái chân gỗ cắm sâu thêm vào bờ sông sình lầy. Khi chiếc tàu cảnh sát cập vào kế bên thì hắn đã bị lún trong sình lầy tới mức phải thảy một đầu dây thừng qua vai hắn chúng tôi mới có thể lôi hắn lên và kéo hắn như kéo một con cá dữ về phía mình. Hai cha con nhà Smith mặt mày sưng sỉa ngồi trên chiếc tàu thủy của họ nhưng rồi cũng ngoan ngoãn nghe lệnh đi lên boong tàu chúng tôi.

Chiếc tàu cảnh sát kéo dây lôi chiếc Aurora ra khỏi bờ sình và buộc chặt phía sau đuôi. Trên boong Aurora là một cái rương sắt chắc chắn do thợ thủ công người Ấn chế tác. Không nghi ngờ gì nữa, đây chính là cái rương chứa đựng kho báu mang vận gở của nhà Sholto. Không thấy chìa khóa đâu, nhưng cái rương khá nặng nên chúng tôi cẩn thận chuyển nó sang cabin nhỏ trên tàu cảnh sát. Lúc tàu nổ máy chầm chậm đi ngược dòng trở lại, chúng tôi soi đèn pha về mọi hướng nhưng không thấy dấu vết nào của tên thổ dân. Ở đâu đó trong lớp bùn đen dưới đáy sông Thames là xương cốt của du khách kì dị đã đến xứ này.

"Nhìn đi", Holmes vừa nói vừa chỉ vào tấm cửa gỗ buồng tàu. "Suýt chút nữa là chúng ta bắn không kịp." Đúng như thế. Vì tấm gỗ ngay phía sau chỗ chúng tôi đứng lúc nãy có găm một mũi tên chết người mà chúng tôi đã biết quá rõ. Mũi tên ấy hẳn đã bay vèo qua giữa Holmes và tôi ngay lúc cả hai nổ súng. Holmes nhìn mũi tên mỉm cười rồi nhún vai theo kiểu ung dung của anh, nhưng thú thật tôi ớn lạnh khi nghĩ tới cái chết kinh hoàng đã cận kề chúng tôi đêm đó.

11. Kho báu Agra

Kẻ bị bắt giữ ngồi trong cabin đối diện với chiếc rương sắt mà hắn đã làm hết sức và chờ đợi quá lâu mới lấy được. Hắn có làn da sạm nắng, ánh mắt khinh bạc, trên gương mặt nâu sẫm hằn chi chít nếp nhăn cho thấy cả một đời cơ cực dãi dầu. Cái cằm để râu dài chìa ra trước làm nổi bật cá tính của một kẻ không dễ dàng từ bỏ mục đích. Hắn ta hẳn phải trạc tuổi năm mươi bởi mái tóc xoăn đen đã lốm đốm bạc. Khi thư thái, gương mặt ấy không đến nỗi khó ưa, mặc dù cặp mày rậm và cái cằm khiêu khích kia tạo cho hắn một biểu hiện đáng sợ khi nổi cơn thịnh nộ - như tôi đã vừa chứng kiến. Bây giờ hắn ta ngồi đó, hai tay bị còng đặt lên đùi, đầu cúi gằm xuống ngực trong khi đôi mắt sắc sảo hấp háy nhìn chiếc rương vốn là nguyên nhân của những điều tai ác hắn đã gây ra. Tôi thấy nét mặt kiềm chế, cứng rắn ấy dường như lộ vẻ buồn rầu hơn là tức giận. Có một lần hắn ngước nhìn tôi với ánh mắt có phần hóm hỉnh.

"Chào, ông Jonathan Small," Holmes lên tiếng, tay châm điếu xì gà, "tôi tiếc là kết cục lại như thế này."

"Tôi cũng tiếc, thưa ông", ông ta trả lời thành thật. "Tôi không nghĩ là mình có thể xoay chuyển tình thế. Xin thề danh dự với ông là tôi không hề ra tay sát hại cậu Sholto. Chính tên Tonga quỷ sứ loắt choắt kia đã bắn mũi tên đáng nguyền rủa ấy vào cậu ta. Tôi không can dự vào chuyện đó, thưa ông. Tôi cũng đau lòng chẳng khác gì người thân thuộc của mình bị giết. Tôi đã lấy đầu dây thừng quất thằng quỷ đó, nhưng chuyện đã rồi và tôi không thể làm cho cậu Sholto sống lại được."

"Mời ông điếu xì gà", Holmes nói, "và tốt nhất ông nên làm một ngụm rượu trong chai này đi, vì ông ướt sũng rồi. Làm sao ông có thể mong đợi một tên nhỏ bé và yếu ớt như tên da đen kia chế ngự được ông Sholto và giữ chặt Sholto trong khi ông đu dây trèo lên chứ?"

"Coi bộ ông biết rõ ràng như là đã có mặt ở đó vậy, thưa ông. Sự thật là tôi đã hi vọng căn phòng ấy không có ai. Tôi biết khá rõ lề thói trong nhà ấy, và đó là giờ cậu Sholto thường xuống nhà dùng bữa tối. Tôi sẽ không giấu gì hết. Cách bào chữa tốt nhất mà tôi có thể làm chỉ là nói lên sự thật. Đấy, nếu như đó là lão già thiếu tá thì tôi đã sung sướng nhảy xổ tới. Tôi sẽ đâm lão ta mà chẳng hề bận tâm, chẳng khác gì hút điếu xì gà này. Nhưng trời xui đất khiến tôi lại bị bắt vì cậu cả nhà Sholto, người mà tôi không hề có hiềm khích gì hết."

"Bây giờ ông thuộc trách nhiệm của ông Athelney Jones, người của Sở Cảnh sát London. Ông ấy sẽ đưa ông về nhà tôi và tôi sẽ yêu cầu ông kể thành thật hết sự việc này. Ông phải khai hết vì tôi hi vọng như thế là có ích cho ông. Tôi nghĩ tôi có thể chứng minh rằng chất độc tác dụng quá nhanh đến nỗi nạn nhân đã chết trước khi ông vào tới căn phòng đó."

"Đúng vậy đó, thưa ông. Trong đời tôi chưa bao giờ phát hoảng như thế khi tôi thấy cậu ấy đầu ngoẹo sang một bên, ngoác miệng nhìn tôi khi tôi trèo qua cửa sổ phòng. Tôi thật bất bình, thưa ông. Suýt nữa tôi đã giết chết thằng Tonga nếu như nó không chạy trốn. Vì thế nó mới bỏ lại cái chùy của nó, với mấy mũi tên, theo như nó kể lại, tôi dám chắc là mấy thứ đó đã giúp ông lần theo dấu bọn tôi; mặc dù làm sao mà ông theo được thì tôi chịu thua, không biết. Tôi không hề thấy ác cảm gì với ông vì chuyện truy đuổi. Nhưng nghĩ cũng lạ thật", hắn nói tiếp với một nụ cười cay đắng, "tôi đây, kẻ có quyền chính đáng hưởng số tiền nửa triệu bảng, lại mất nửa cuộc đời xây đê chắn sóng ở Andaman, và có lẽ phải mất nửa cuộc đời còn lại đào cống rãnh ở Dartmoor. Cái ngày đầu tiên tôi để mắt tới tay lái buôn Achmet và phải dính dáng vào cái kho báu Agra, thứ chẳng đem lại gì ngoại trừ tai ương cho kẻ nào sở hữu nó, thật là tai họa. Với Achmet nó lấy đi mạng sống, với thiếu tá Sholto nó mang tới sợ hãi và tội lỗi, còn với tôi nghĩa là đày đọa chung thân."

Đúng lúc đó Athelney Jones thò bản mặt to bè và đôi vai cục mịch vào trong cabin chật hẹp. Ông ta thốt lên, "Đúng là một bữa tiệc gia đình. Chắc tôi cũng phải uống một hớp rượu đó, Holmes. Chà chà, tôi nghĩ là tất cả chúng ta có thể chúc mừng nhau. Tiếc là không bắt sống được tên kia, nhưng không còn cách nào khác. Này Holmes, anh phải công nhận rằng suýt chút nữa là hỏng. Tôi cố hết sức cũng chỉ đuổi chiếc tàu kia được thế thôi."

"Mọi chuyện kết thúc tốt đẹp là hay rồi", Holmes nói. "Nhưng thực sự tôi không ngờ chiếc Aurora chạy nhanh đến thế."

"Smith nói đó là chiếc tàu thủy nhanh nhất trên sông này, và bảo nếu có thêm một thợ máy giúp hắn thì chúng ta không thể nào đuổi kịp đâu. Hắn ta thề là không hay biết gì về vụ Norwood."

"Ông ta không biết đâu", tù nhân của chúng tôi kêu lên, "không biết gì hết. Tôi chọn tàu của ông ta vì nghe nói chiếc đó chạy thần tốc. Chúng tôi không hề nói gì với ông ta mà chỉ trả công hậu hĩnh và ông ta sẽ được bộn tiền nếu chúng tôi tới được tàu Esmeralda neo ở Gravesend, chờ lên đường sang Brazil."

"À, nếu hắn ta không làm gì sai trái thì chúng tôi sẽ lo liệu để hắn không phải gánh chịu thiệt hại gì. Chúng tôi bắt người thì nhanh chứ xử tội họ thì chậm lắm." Thật thú vị khi nhận ra ngài Jones tự phụ đã bắt đầu lên mặt dương oai về vụ bắt bớ này. Nhìn nụ cười ruồi thoáng qua trên nét mặt Sherlock Holmes, tôi biết anh cũng đã để ý đến câu nói ấy.

"Chúng ta sắp đến cầu Vauxhall rồi, bác sĩ Watson", Jones nói, "và sẽ cho ông lên bờ cùng với cái rương. Tôi khỏi cần phải nói là chính tôi đây sẽ phải chịu trách nhiệm rất nặng nề về chuyện này. Làm thế là trái nguyên tắc nhưng tất nhiên, đã thỏa thuận thì phải làm. Tuy vậy, vì bổn phận, tôi phải cho một thanh tra viên đi cùng ông, vì ông đang giữ một tang chứng hết sức giá trị. Chắc ông phải bắt xe ngựa chứ?"

"Vâng, tôi sẽ gọi xe."

"Tiếc là không có chìa khóa nào để chúng tôi có thể kiểm kê trước, ông sẽ phải cạy nắp ra thôi. Chia khóa ở đâu, ông bạn?"

"Dưới đáy sông", Small nói cộc lốc.

"Hừm! Ông gây rắc rối không cần thiết như vậy cũng chẳng ích gì.

Với các ông chúng tôi cũng có quá nhiều việc rồi. Mà này, bác sĩ ơi, tôi không nhắc thì ông cũng phải cẩn thận đấy. Hãy mang theo cái rương về phố Baker. Chúng tôi sẽ ở đó chờ, trên đường đến đồn cảnh sát."

Họ cho tôi lên bờ ở Vauxhall cùng với cái rương sắt nặng nề và một viên thanh tra vui tính, chất phác tháp tùng. Sau mười lăm phút xe đưa chúng tôi đến nhà bà Cecil Forrester. Cô hầu gái có vẻ ngạc nhiên khi thấy có khách tới muộn. Cô cho biết bà Forrester tối nay đã ra ngoài và có thể đến khuya mới về, tuy nhiên vẫn có cô Morstan ở trong phòng khách. Thế là tôi đi thẳng vào phòng khách, tay ôm chiếc rương, để mặc viên thanh tra theo kèm ngồi chờ trong xe ngựa.

Cô Morstan mặc một bộ đồ vải trắng trong mờ điểm xuyết chút màu đỏ tươi ở cổ áo và eo đang ngồi bên cánh cửa sổ mở. Cô ngả người trên ghế mây dưới ánh sáng dịu của chiếc đèn chụp, ánh sáng mơn man trên gương mặt dịu dàng, đoan trang, và nhuộm những lọn tóc xoăn dày trong ánh bạc lấp loáng mơ hồ. Một cánh tay và bàn tay trắng muốt buông thõng bên thành ghế và dáng ngồi của cô toát lên một nỗi buồn da diết. Nhưng nghe tiếng chân tôi, cô đứng bật dậy, hai má ửng hồng trong một cảm xúc vừa ngạc nhiên vừa hân hoan.

"Tôi có nghe tiếng xe ngựa dừng bánh", cô gái nói. "Tôi cứ tưởng là bà Forrester về nhà sớm nhưng thật không ngờ lại là ông. Ông mang tin tức gì đến cho tôi ư?"

"Tôi mang một thứ còn hay hơn cả tin tức", tôi đặt chiếc rương xuống bàn và nói năng sôi nổi, vui tươi, mặc dù trong lòng nặng trĩu. "Tôi mang cho cô một thứ xứng đáng hơn mọi tin tức trên đời. Tôi mang cho cô một gia sản."

Cô nhìn chiếc rương sắt rồi hỏi thản nhiên, "Vậy kho báu đó sao?"

"Đúng, đó là kho báu Agra. Phân nửa số đó thuộc về cô còn phân nửa thuộc về Thaddeus Sholto. Mỗi người sẽ được hơn hai trăm nghìn bảng Anh. Nghĩ coi! Ở Anh quốc này chẳng có mấy quý cô giàu có hơn đâu. Huy hoàng quá còn gì?"

Chắc hẳn tôi đã quá cường điệu vẻ vui sướng của mình, và cô đã nhận ra giọng giả dối trong những lời chúc mừng của tôi, bởi vì cô hơi nhướng mày rồi nhìn tôi đầy tò mò.

"Tôi mà có được là nhờ ông cả", cô nói.

"Không đâu, không đâu", tôi đáp, "không phải tôi mà là anh bạn Sherlock Holmes. Vụ này thì đến tài phân tích của anh ấy còn gặp khó khăn huống chi là tôi. Thực tế là suýt nữa chúng tôi đã thua cuộc vào phút chót."

"Xin ngồi xuống kể chuyện tôi nghe đi, bác sĩ Watson", cô nói.

Tôi tường thuật vắn tắt những gì đã diễn ra từ khi tôi gặp cô lần trước - phương cách điều tra mới của Holmes, việc tìm ra chiếc tàu Aurora, sự xuất hiện của Athelney Jones, chuyến viễn du chiều nay và cuộc rượt đuổi điên cuồng trên sông Thames. Cô lắng nghe, đôi môi hé mở và ánh mắt long lanh khi tôi kể lại những cuộc phiêu lưu ấy. Khi nghe tới đoạn mũi tên độc đã bắn hụt chúng tôi trong gang tấc, mặt cô tái nhợt và tôi lo là cô sẽ ngất mất.

"Không sao đâu", cô lên tiếng khi tôi hấp tấp rót cho cô ít nước. "Tôi đã khỏe lại rồi. Thật kinh hoàng khi biết tôi đã đưa những người bạn của mình vào một hoàn cảnh nguy nan như thế."

"Mọi chuyện đã qua rồi", tôi nói. "Không sao cả. Tôi sẽ không kể cô nghe một chi tiết nào u ám hơn nữa đâu. Hãy chuyển sang chuyện khác tươi sáng hơn. Kho báu đấy. Còn gì tươi sáng hơn chứ? Tôi được phép mang nó đến đây, nghĩ rằng cô sẽ thích là người đầu tiên nhìn thấy nó."

"Tôi thật thích thú không gì bằng", cô nói, thế nhưng giọng lại chẳng có chút gì là háo hức. Rõ ràng cô thấy rằng nếu tỏ ra dửng dưng trước một phần thưởng mà phải tốn quá nhiều công sức mới lấy được thì hóa ra mình là kẻ vô ơn.

"Chiếc rương đẹp quá!" Cô vừa nói vừa cúi nhìn. "Chắc đây là đồ thủ công Ấn Độ?"

"Đúng, đó là đồ kim khí xứ Benares."

"Nặng quá chừng!" Cô kêu lên khi cố nhấc thử chiếc rương. "Chỉ riêng cái rương không thôi đã có giá trị rồi. Còn chìa khóa đâu?"

"Small đã ném xuống sông Thames rồi", tôi đáp. "Tôi phải mượn thanh cời lửa của bà Forrester mà mở ra thôi."

Ở mặt trước rương là một bản lề rộng và dày, chế tác thành hình một ông Phật đang ngồi. Tôi thọc một đầu thanh cời lửa vào dưới cái bản lề này và nạy ngược ra ngoài. Cái bản lề bật tung kêu cạch một tiếng. Với những ngón tay run rẩy, tôi lật nắp rương ra sau. Cả hai chúng tôi đứng trố mắt kinh ngạc: Cái rương rỗng! Thảo nào rương nặng thế. Cái hòm sắt này cả sáu mặt đều dày gần một inch. Nó to lớn, chắc chắn và được chế tạo công phu như một cái rương chuyên chứa những đồ có giá trị lớn, nhưng bên trong không hề có một mảnh vụn kim hoàn hay châu báu nào. Nó hoàn toàn trống không.

"Kho báu mất rồi", cô Morstan điềm tĩnh lên tiếng. Khi lắng nghe những lời ấy và nhận ra hàm ý của chúng, lòng tôi như được xua tan một bóng tối mênh mông. Cho đến tận bây giờ, khi số châu báu ấy cuối cùng đã mất đi, tôi mới nhận ra cái kho báu Agra này đã đè nặng tâm hồn tôi đến dường nào. Chắc chắn như thế là ích kỉ, là không trung nghĩa, là sai trái, nhưng tôi không thể nhận ra điều gì khác hơn là cái chướng ngại bằng tài sản chắn giữa hai chúng tôi đã biến mất.

"Tạ ơn Chúa!" Tôi thốt lên một lời tự đáy lòng.

Cô nhìn tôi với một nụ cười thắc mắc thoáng nhanh. "Sao ông lại nói thế?" Cô hỏi.

"Bởi vì em giờ lại trong tầm với của tôi", tôi vừa nói vừa nắm lấy bàn tay Morstan. Cô không rút tay về. "Bởi vì tôi yêu em, Mary, yêu chân thành như một người đàn ông có thể yêu thương một phụ nữ. Chính vì cái kho báu này, của cải này, mà tôi không dám mở lời. Bây giờ khi chúng đã mất hết thì tôi có thể nói là tôi yêu em biết bao. Chính vì thế tôi mới nói: Tạ ơn Chúa!"

"Vậy thì em cũng nói: Tạ ơn Chúa!" Cô thì thầm khi tôi kéo cô lại gần mình.

Dẫu có ai mất mát tài sản, tôi biết đêm ấy tôi đã có được một kho báu.

12. Câu chuyện kì lạ của Jonathan Small

Viên thanh tra ở trong xe ngựa quả là người rất nhẫn nại, bởi vì anh ta phải chờ mỏi mòn tôi mới quay lại. Mặt anh sa sẩm khi tôi cho xem chiếc rương trống trơn.

"Mất toi tiền thưởng rồi!" Anh ủ rũ nói. "Không có tiền thì trả bằng gì. Nếu có kho báu thì công việc đêm nay của tôi và Sam Brown đáng thưởng công mỗi đứa mười bảng."

"Ông Thaddeus Sholto là người giàu có", tôi nói. "Ông ấy sẽ lo liệu để anh được thưởng công, dù có kho báu hay không."

Viên thanh tra vẫn lắc đầu chán nản. "Công việc tệ hại", anh ta lặp lại, "và ông Athelney Jones cũng sẽ nghĩ như vậy?"

Dự đoán của anh này hóa ra chính xác vì khi tôi tới phố Baker và cho Jones xem cái rương rỗng không, viên thanh tra hầu như không lộ cảm xúc gì. Holmes, tù nhân, và ông ta chỉ vừa mới tới đó vì họ đã đổi kế hoạch, ghé một đồn cảnh sát nào đó trên đường đi để báo cáo. Anh bạn tôi ngồi ườn trong chiếc ghế bành với vẻ bơ phờ thường lệ, trong lúc Small ngồi dửng dưng phía đối diện với cái chân gỗ vắt ngang chân lành. Khi tôi cho xem cái rương rỗng, y ngả lưng ra ghế cười ầm lên.

"Đây là trò của ông chứ gì, Small!" Athelney Jones kêu lên giận dữ.

"Đúng, tôi đã cất ở chỗ mà các người sẽ không bao giờ chạm tay tới được", Small nói to, giọng hớn hở. "Đó là kho báu của tôi, và nếu tôi không có được số của cải đó thì tôi sẽ phải tính thật kĩ sao cho không một ai lấy được. Nói cho mấy ông biết, không một con người nào có quyền gì với nó, ngoại trừ ba người ở trại tù Andaman và tôi đây. Giờ tôi biết chắc là mình không thể sử dụng nó được, và họ cũng thế. Tôi đã hành động hoàn toàn vì họ cũng như vì chính mình. Chúng tôi lúc nào cũng là Dấu bộ tứ. À, tôi biết chắc họ cũng sẽ bảo tôi làm đúng như điều tôi đã làm, và thà quẳng kho báu đó xuống sông Thames chứ không để lại cho thân quyến nhà Sholto hay Morstan. Những người đó không có quyền hưởng lợi vì những gì chúng tôi đã làm đối với Achmet. Các ông cứ tìm đi, kho báu nằm chung một chỗ với chìa khóa, chung một chỗ với thằng oắt Tonga. Khi tôi thấy tàu của các ông thể nào cũng đuổi kịp, tôi đã cho số của cải ấy vào nơi an toàn rồi. Chuyến đi của các ông chẳng được một đồng rupee nào đâu."

"Ông định lừa gạt chúng tôi đấy à, Small", giọng Athelney Jones lạnh lùng. "Nếu ông muốn ném kho báu ấy xuống sông Thames thì ném cả cái rương đi không dễ hơn sao?"

"Tôi dễ ném thì các người cũng dễ tìm lại", hắn ta đáp lại với cái liếc mắt tinh ranh. "Ai đủ khôn ngoan để săn lùng ra tôi thì cũng đủ khôn ngoan để lấy cái hòm sắt từ dưới đáy sông lên. Khi số của cải ấy đã vương vãi suốt cả năm dặm đường rồi thì khó tìm hơn nhiều. Nhưng tôi thật sự đau lòng khi phải làm thế. Tôi đã phát khùng lên khi các ông đuổi theo. Nhưng có tiếc than mấy cũng vô nghĩa. Đời tôi lắm thăng trầm và tôi đã biết cách không kêu ca vì những chuyện đã rồi."

"Chuyện rất nghiêm trọng đấy, Small", viên thanh tra nói. "Nếu ông hỗ trợ công lí thay vì cản trở như thế thì ông đã có cơ hội được khoan hồng khi xét xử rồi."

"Công lí!" Tên cựu tù nhân gắt lên. "Công lí hay ho nhỉ! Tài sản đó là của ai chứ, nếu như không thuộc về chúng tôi? Công lí ở đâu nếu tôi phải nhường số của cải đó cho những kẻ chẳng hề mất gì vì nó chứ? Hãy xem tôi đã trả giá như thế nào! Hai mươi năm dài trong cái đầm lầy bị sốt rét hoành hành đó, suốt ngày lao lực dưới những rặng đước, suốt đêm bị gông cùm trong những nhà tù bẩn thỉu, bị muỗi đốt, bị hành hạ vì những cơn sốt run người, bị bọn cảnh binh da đen khốn kiếp ngược đãi cho thỏa sở thích hành hạ người da trắng. Tôi đã trả giá cho kho báu Agra như thế đó, còn ông thì nói đến công lí bởi vì tôi không thể chấp nhận rằng mình đã phải trả giá như thế chỉ để cho kẻ khác hưởng! Tôi thà bị treo cổ cả chục lần, hay lãnh một mũi tên của thằng Tonga vào người, còn hơn phải sống trong ngục tù và biết rằng kẻ khác đang sống thoải mái trong một lâu đài nào đó bằng tài sản lẽ ra phải thuộc về tôi."

Small đã vứt bỏ cái mặt nạ dửng dưng và mọi cảm xúc bùng phát theo một cơn lốc ngôn từ dữ tợn, trong khi ánh mắt bừng bừng và hai chiếc còng cứ va loảng xoảng vào nhau theo chuyển động sôi nổi của hai bàn tay. Chứng kiến cơn thịnh nộ và kích động của hắn, tôi có thể hiểu được nỗi kinh hoàng lạ lùng và không phải là vô căn cứ đã xâm chiếm thiếu tá Sholto khi lần đầu tiên hay tin người tù này đang truy tìm mình.

"Ông quên là chúng tôi đâu hề biết mấy chuyện đó", Holmes nhẹ nhàng nói. "Chúng tôi chưa nghe câu chuyện của ông, và làm sao chúng tôi biết được là công lí ngay từ đầu có đứng về phía ông hay không."

"À, thưa ông, nãy giờ ông nói chuyện rất đàng hoàng với tôi, mặc dù tôi biết mình phải cho tay vào hai cái vòng này là nhờ ơn ông. Quả thực là tôi không hề oán hận gì ông cả. Đây toàn chuyện thẳng thắn và thực tình. Nếu ông muốn biết chuyện của tôi thì tôi chẳng giấu làm chi. Những gì tôi nói với ông là sự thật tuyệt đối, không sai một lời. Cảm ơn ông, nhờ ông để cái li cạnh tôi đi, nếu khô cổ họng thì tôi uống.

Tôi đây là dân Worcestershire, tôi sinh ra gần Pershore. Tôi dám nói là ông sẽ thấy cả đống người nhà họ Small hiện nay đang sống ở đó nếu ông chịu khó để ý. Tôi thường nghĩ đến chuyện về đó đi tìm một vòng, nhưng sự thực là tôi chẳng có uy tín mấy đối với dòng họ, chắc gì người ta vui mừng khi gặp lại tôi. Họ toàn là dân đứng đắn, chăm đi nhà thờ; toàn điền chủ nhỏ, ở nhà quê ai cũng biết và tôn trọng, trong khi tôi lại có chút máu giang hồ. Nhưng rốt cuộc, khi đâu chừng mười tám tuổi thì tôi không gây khó xử cho họ nữa vì tôi dính vô chuyện rắc rối về một cô gái, và chỉ có thể thoát nạn bằng cách đi lính và gia nhập Trung đoàn 3 Bộ binh lúc đó chuẩn bị sang Ấn Độ. Nhưng trời có cho tôi làm lính được bao lâu đâu. Tôi vừa mới học xong cách đi duyệt binh, mới biết cầm súng hỏa mai, thì tôi lại ngu ngốc mà xuống sông Hằng bơi lội. May cho tôi là anh John Holder, trung sĩ đại đội, ngay lúc đó cũng ở dưới sông, và anh ta là một trong những người bơi tài nhất trong binh chủng. Đúng ngay lúc tôi bơi tới giữa sông thì một con cá sấu táp lìa chân phải của tôi ngay trên đầu gối, ngọt xớt như bác sĩ cưa chân vậy. Hoảng kinh và mất máu, tôi ngất luôn, và lẽ ra chết chìm rồi nếu anh Holder không giữ chặt tôi và lội vào bờ. Tôi nằm nhà thương mất năm tháng vì chuyện này và sau cùng, khi tôi có thể cà nhắc đi ra với cái cẳng gỗ buộc vào cái chân cụt thì tôi thấy mình đã bị cho giải ngũ vì tàn phế và không phù hợp với bất kì công việc tại ngũ nào.

Như ông có thể hình dung, lúc đó tôi khá xui xẻo vì chưa tới hai mươi tuổi mà đã thành một thằng què vô dụng. Tuy vậy, cái xui của tôi hóa ra lại là một may mắn trá hình. Có một người tên là Abelwhite lập đồn điền trồng chàm, ông ta cần một đốc công trông coi bọn culi và bắt chúng làm việc. Tình cờ ông ta lại là bạn ông đại tá của chúng tôi, mà ông đại tá lại quan tâm tới tôi từ vụ tai nạn. Nói luôn cho gọn, ông đại tá hết lòng tiến cử tôi cho công việc đó, và do công việc chủ yếu chỉ ngồi trên lưng ngựa nên chân cẳng tôi không thành vấn đề lớn, tôi vẫn còn có thể kẹp chặt yên ngựa giữa hai chân. Việc tôi phải làm là cưỡi ngựa đi khắp đồn điền, để mắt đến đám lao công và báo cáo đứa nào lười biếng. Tiền lương cũng khá, tôi có chỗ ăn ở thoải mái, và nói chung tôi đã bằng lòng sống hết phần đời còn lại ở đồn điền chàm này. Ông Abelwhite là người tử tế, và ông thường ghé qua cái nhà xập xệ của tôi làm một tẩu thuốc, bởi vì người da trắng ở bên đó luôn cảm thấy thân tình với nhau chứ không như ở quê nhà bên này.

Ối chao, tôi đâu được may mắn lâu. Đùng một cái, khắp nơi bạo loạn chống lại chúng tôi. Mới tháng trước Ấn Độ còn bình yên, lặng lẽ, nhìn bề ngoài chẳng khác gì Surrey hay Kent bên này, thì ngay tháng sau đã có hai trăm nghìn tên quỷ đen xồ ra và cả nước thành địa ngục cùng khắp. Tất nhiên các ông biết hết chuyện đó mà, thưa quý ông, có thể còn biết nhiều hơn tôi nữa vì hạng như tôi đâu có đọc sách. Tôi chỉ biết những gì chính mắt mình thấy. Đồn điền của chúng tôi ở một nơi gọi là Muttra, gần giáp ranh mấy tỉnh ở tây bắc. Đêm đêm cả bầu trời sáng rực vì những ngôi nhà gỗ bị đốt cháy, và ngày ngày những toán người Âu châu dắt díu vợ con băng qua điền trang của chúng tôi trên đường tới Agra, nơi có quân đội trú đóng gần nhất, ông Abelwhite là người gan lì, ông ta tin rằng chuyện này bị thổi phồng quá sự thật và rồi sẽ qua đi đột ngột như lúc nó bùng phát, ông cứ ngồi trên hàng hiên nhà mình, uống rượu whisky, hút xì gà, trong khi cả xứ sở chung quanh bốc lửa. Tất nhiên là bọn tôi phải ở cùng ông, tôi và Dawson; anh này cùng với cô vợ thường lo chuyện sổ sách và quản lí.

Đấy, rồi một ngày đẹp trời tai họa ập tới. Lúc đó tôi đi làm ở một đồn điền xa và đang từ từ cưỡi ngựa về nhà vào buổi chiều thì mắt tôi nhìn thấy đám gì đó lộn xộn túm tụm dưới chân một hẻm núi dốc đứng. Tôi phi ngựa xuống xem thử và ớn lạnh thấu tim khi nhận ra cô vợ của Dawson, thi thể bị băm vằm và đã bị lũ chó rừng lẫn chó nhà ăn mất nửa xác. Đi lên một chút phía đường cái là chính Dawson đang nằm sấp, chết ngắc, trong tay còn cầm khẩu súng lục đã hết đạn và phía trước anh ta là xác bốn tên lính Ấn phiến loạn nằm vắt lên nhau. Tôi ghì cương ngựa không biết phải làm sao thì ngay lúc đó tôi thấy khói bốc lên dày đặc từ căn nhà gỗ của Abelwhite và lửa bắt đầu bùng lên mái. Thấy thế tôi hiểu ngay là nếu tôi can thiệp vào chuyện này thì chẳng thể giúp được gì cho ông chủ mà chỉ hủy hoại sinh mạng mình. Từ chỗ tôi đứng, tôi nhìn thấy hàng trăm tên quỷ sứ da đen, trên người còn khoác áo đỏ, đang nhảy nhót, hú hét quanh ngôi nhà phừng cháy. Có mấy tên chỉ về phía tôi rồi vài viên đạn bay sượt ngang đầu tôi, thế là tôi chạy băng qua đồng lúa bỏ trốn và đến khuya hôm đó thì đã an toàn trong thành phố Agra.

Thế nhưng hóa ra ở đó cũng chẳng yên. Toàn bộ xứ sở này hỗn loạn như một đàn ong vỡ tổ. Ở chỗ nào người Anh có thể tập hợp thành nhóm nhỏ thì họ cố thủ trong phạm vi súng đạn của họ kiểm soát được. Ở mọi chỗ khác, họ trở thành những kẻ trốn chạy tuyệt vọng. Đó là cuộc chiến của hàng triệu người chống lại hàng trăm người, và cái phần tàn nhẫn nhất của chuyện này là những kẻ mà người Anh chúng ta đang chống cự - bằng bộ binh, kị binh lẫn pháo binh - lại chính là những người lính do ta tuyển mộ, những kẻ đã được ta dạy dỗ và huấn luyện, sử dụng vũ khí của ta và thổi những hiệu kèn của ta. Ở Agra có Trung đoàn 3 Bộ binh Bengal, một số lính người Sikh, hai đơn vị kị binh và một khẩu đội pháo. Một lực lượng tình nguyện gồm viên chức và thương nhân đã được thành lập, và tôi gia nhập đội quân này, dù cẳng gỗ cũng mặc. Chúng tôi đã ra ngoài đương đầu với quân phiến loạn ở Shahgunge vào đầu tháng 7, và chống trả chúng được một thời gian nhưng rồi cạn hết đạn dược và rút lui trở lại vào trong thành phố.

Từ khắp nơi chúng tôi chỉ nghe được toàn tin xấu, cũng chẳng có gì lạ, bởi vì nếu các ông xem bản đồ thì sẽ thấy chúng tôi nằm ngay tâm điểm của bạo loạn. Lucknow cách chỗ chúng tôi hơn trăm dặm về phía đông, còn Cawnpore ở phía nam cũng cách xa chừng đó. Bốn phương tám hướng đều chỉ toàn chuyện tra khảo, giết hại và lăng nhục.

Thành phố Agra là một nơi rộng lớn, đầy những kẻ cuồng tín và đủ loại người thờ cúng ma quỷ hung tợn. Nhóm người ít ỏi chúng tôi lạc lối giữa những con đường hẹp quanh co. Do đó, người chỉ huy của chúng tôi chuyển sang bên kia sông và quyết định đóng ở pháo đài cổ Agra. Tôi không biết có ai trong số quý ông đã từng đọc hay nghe gì về cổ thành đó chưa. Đó là một chỗ kì quặc, chỗ kì quặc nhất tôi từng ở, mặc dù tôi đã ở nhiều chỗ lạ lùng rồi. Đầu tiên là nó rộng mênh mông. Bên trong hẳn phải rộng tới nhiều mẫu. Có một khu mới xây sau này có nhiều chỗ trống, nơi chứa hết bọn lính đồn trú chúng tôi, đàn bà, trẻ con, hàng hóa, và đủ thứ khác. Nhưng khu này chẳng nghĩa lí gì so với phần từ xưa còn lại, nơi chẳng ai lui tới, và bỏ mặc cho lũ bọ cạp, rắn rết. Khu đó đầy những đại sảnh bỏ hoang, những lối quanh co, và những hành lang dài hun hút, chạy ngoằn ngoèo, nên vào đó rất dễ bị lạc. Vì thế ít có ai tới khu ấy, mặc dù thỉnh thoảng cũng có một nhóm cầm đuốc đi thám hiểm cho biết.

Con sông chạy dọc theo mặt trước pháo đài cổ và bảo vệ hướng đó, nhưng hai bên và phía sau có rất nhiều cửa nên phải canh gác, tất nhiên là phải canh gác cả khu vực ngày xưa lẫn khu vực mà đám binh lính chúng tôi chiếm ngụ. Thiếu hụt quân số, chúng tôi đâu có đủ người để bố trí ở mọi chốt canh và lo đạn dược. Do đó, với vô số cổng vào thì làm sao bố trí cho đủ mỗi cổng một đội canh gác được. Chúng tôi chỉ có thể tổ chức một trạm gác trung tâm ở ngay giữa thành, giao cho một người da trắng và hai hay ba dân bản xứ phụ trách một cổng vào. Tôi được phân công trực một số giờ trong đêm ở một cửa nhỏ biệt lập nhìn ra hướng thành tây nam. Có hai tên lính người Sikh dưới quyền chỉ huy của tôi và tôi được lệnh nếu có gì bất ổn thì cứ bắn súng hỏa mai là có thể trông cậy vào sự chi viện từ trạm gác ở trung tâm. Thế nhưng, trạm này lại cách xa tới hai trăm sải và khoảng cách giữa hai nơi bị chia cắt thành một mê cung hành lang và ngõ ngách. Tôi không dám chắc là họ có thể đến kịp thời để hành động hữu hiệu trong trường hợp có đột kích thật sự.

Chà, tôi cũng hãnh diện khi được cho chút quyền chỉ huy chứ, bởi vì tôi là một thằng tân binh non nớt, lại chân cẳng như thế. Suốt hai đêm, tôi canh gác với hai tên lính Ấn xứ Punjab. Đó là Mahomet Singh và Abdullah Khan, hai đứa cao lớn, dữ dằn, đều là chiến binh kì cựu đã từng cầm súng chống lại phe ta ở trận Chillianwallah. Tụi nó nói tiếng Anh khá tốt nhưng tôi chẳng nghe được gì mấy. Chúng thích đứng riêng với nhau và nói ra rả cả đêm bằng thứ tiếng Sikh lạ lùng. Còn tôi thường đứng phía ngoài cổng vào, nhìn xuống dòng sông rộng uốn lượn và ánh sáng nhấp nháy của thành phố to lớn kia. Tiếng trống cái thì thùng, tiếng trống con lạch xạch, tiếng la hét của bọn phiến quân say sưa vì thuốc phiện và chiến thắng đủ nhắc cho chúng tôi nhớ suốt đêm về những người láng giềng nguy hiểm bên kia sông. Cứ hai giờ một lần, viên sĩ quan trực đêm thường đi một vòng quanh các điểm gác để bảo đảm mọi chuyện đều tốt đẹp.

Đêm gác thứ ba của tôi tối đen và nhớp nháp vì một cơn mưa đâm rát mặt. Đứng gác ở cổng hết giờ này sang giờ khác trong thời tiết thế này đúng là một công việc buồn nản, nhiều lần tôi cố bắt chuyện với hai tên lính người Sikh nhưng chẳng thành công. Đến 2 giờ sáng thì đổi phiên canh và nỗi chán chường trong đêm tạm thời gác lại. Thấy không thể trò chuyện với hai đồng bọn, tôi lấy tẩu thuốc ra, bỏ súng hỏa mai xuống để đánh diêm. Lập tức hai tên Sikh nhảy xổ vào tôi. Một tên giật phắt khẩu súng của tôi rồi gí súng vào đầu tôi trong lúc tên kia kề một con dao to bản ngay cổ tôi và nghiến răng thề rằng tôi mà cục cựa là hắn thọc luôn vào cuống họng. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là mấy tên này cùng phe với bọn phiến quân và vậy là bắt đầu có đột kích rồi. Nếu lối vào này rơi vào tay bọn lính Ấn nổi loạn thì cổ thành chắc chắn thất thủ, và đám đàn bà với con nít sẽ bị đối xử như những người ở bên Cawnpore. Chắc các quý ông nghĩ rằng tôi chỉ bịa chuyện để tự bào chữa, nhưng thề danh dự với các ông rằng dù biết dao nhọn kề ngay cổ nhưng tôi vẫn mở miệng định thét to lên, cho dù là tiếng thét cuối cùng thì cũng có thể báo động cho nhóm gác chính. Cái tên đang giữ chặt tôi dường như biết tôi nghĩ gì, vì ngay khi tôi vận sức chuẩn bị thì hắn thì thào: 'Đừng làm ầm. Thành này vẫn an toàn. Phía bên này sông không có bọn chó phiến quân đâu.' Giọng điệu hắn thành thật và tôi biết mình lên tiếng là chết liền. Tôi thấy sự thật đó trong đôi mắt nâu của tên kia. Thế là tôi im lặng chờ xem chúng muốn gì ở tôi.

Abdullah Khan, tên cao to hơn và hung tợn hơn trong hai tên, nói: 'Hãy nghe tôi, thưa sahib, hoặc là ông phải về phe chúng tôi bây giờ hoặc là ông sẽ im lặng mãi mãi. Điều này hết sức quan trọng nên chúng tôi không do dự đâu. Hoặc là ông thề với thánh giá của người Thiên Chúa phải hết lòng hết dạ đi theo chúng tôi, hoặc là đêm nay xác của ông sẽ bị ném xuống mương và chúng tôi sẽ qua sông nhập bọn với số anh em trong đội quân phiến loạn. Không có con đường khác. Chọn cái nào, sống hay chết? Chúng tôi chỉ có thể cho ông ba phút để quyết định, vì thời gian gấp rút lắm, và mọi việc phải xong trước khi đổi phiên gác.'

Tôi nói: 'Làm sao tao quyết định được? Tao đâu có biết tụi bay cần gì ở tao. Nhưng tao có thể nói ngay là nếu điều đó gây nguy hiểm cho thành Agra thì tao không can dự vào, như vậy tụi bay cứ việc cắt cổ tao đi cho xong.'

'Điều này không nguy hại gì cho thành Agra cả,' hắn nói. 'Chúng tôi chỉ muốn ông làm đúng điều mà những đồng hương của ông đã mưu cầu ở đất nước này. Chúng tôi muốn ông giàu có. Nếu đêm nay ông trở thành người của chúng tôi thì chúng tôi thề trên lưỡi dao này bằng lời thề thiêng liêng của người Sikh rằng ông sẽ được chia đồng đều số của cải đó. Một phần tư kho báu sẽ thuộc về ông. Không có gì công bằng hơn thế.'

Tôi hỏi: 'Nhưng kho báu gì vậy? Tao cũng muốn giàu có như tụi bay nếu tụi bay cho tao biết làm cách nào.'

Hắn nói: 'Vậy thì ông phải thề trên xương cốt của cha ông, trên tiết hạnh của mẹ ông, trên thánh giá của tôn giáo ông, là từ nay về sau không làm gì hay nói gì chống lại chúng tôi.'

'Tao sẽ thề, miễn là thành Agra không lâm nguy,' tôi đáp.

'Như vậy bạn tôi đây và tôi cũng sẽ thề là sẽ chia kho báu đồng đều làm bốn phần và ông sẽ được một phần.'

'Có ba người thôi mà,' tôi nói.

'Không, Dost Akbar phải có phần của anh ta. Chúng tôi sẽ cho ông biết chuyện khi chờ họ tới. Mahomet Singh, anh canh ở cổng và báo hiệu khi họ tới. Chuyện như thế này, thưa sahib, tôi kể ông nghe vì tôi biết người Âu châu các ông coi trọng lời thề và vì chúng tôi tin cậy ông. Nếu ông mà là một tên Hindu xảo trá thì cho dù ông có đem hết thần thánh trong những miếu đền giả dối của chúng ra mà thề, máu ông cũng thấm đẫm vào lưỡi dao này và xác ông cũng nằm dưới đáy nước kia mà thôi. Nhưng người Sikh hiểu người Anh và người Anh hiểu người Sikh. Vậy thì hãy nghe tôi kể đây:

Ở miền bắc, có một tiểu vương rất giàu dù đất đai không nhiều, ông ta được thừa kế nhiều của cải từ người cha, và còn giàu thêm lên nhờ dành dụm vì ông này có tính nhỏ mọn, thích tích trữ vàng bạc hơn là tiêu xài. Khi loạn lạc bùng nổ, ông ta đánh bạn với cả hổ lẫn sư tử, cả lính Ấn lẫn người Anh cai trị. Thế nhưng sau đó, dường như ông ta thấy rằng thời của người da trắng đã sắp hết vì đi tới đâu cũng chỉ nghe toàn chuyện người da trắng bị giết chết và lật đổ. Nhưng là người kĩ tính, ông ta đã vạch ra một kế hoạch là dù thời cuộc thế nào, ít nhất ông ta cũng còn giữ được phân nửa tài sản. Đó là số vàng bạc do chính ông ta cất giấu trong những căn hầm ở dinh thự của mình, còn những món ngọc ngà, châu báu quý giá nhất được ông ta cất trong một hòm sắt và giao cho một gia nhân thân tín. Người này dưới lốt một thương nhân sẽ mang nó đến thành Agra này và giấu kín ở đó chờ đến ngày đất nước bình yên. Như thế, nếu bên phiến loạn thắng thì ông ta vẫn sẽ có tiền bạc, còn nếu bên người Anh dẹp được loạn thì số châu báu của ông cũng được bảo toàn. Khi phân chia của dành dụm như vậy xong, ông ta đi theo ủng hộ bọn lính Ấn phiến loạn, bởi vì chúng rất mạnh ở khu vực lãnh địa của ông ta. Xin nhớ cho, thưa sahib, làm như thế thì tài sản của ông ta vẫn thuộc quyền của những ai trung thành.

Thương nhân giả dạng này lấy tên giả là Achmet, hiện đang ở trong thành phố Agra và muốn tìm cách vào trong cổ thành. Đi cùng với hắn là Dost Akbar, anh nuôi của tôi, người biết chuyện bí mật này. Dost Akbar đã hứa đêm nay đưa Achmet đến một ngõ vào kín đáo bên hông thành, và đã chọn chỗ này cho mục đích đó. Chốc nữa anh ấy sẽ đến và sẽ thấy tôi với Mahomet Singh chờ sẵn. Nơi này vắng vẻ và chẳng ai biết chuyện anh ấy đến. Thế giới sẽ không còn nghe đến tên thương nhân Achmet nữa, còn kho báu lớn của vị tiểu vương kia sẽ được chia đều cho chúng ta. Ông thấy thế nào, thưa sahib?'

Ở Worcestershire sinh mạng con người có vẻ là điều cao cả và thiêng liêng, nhưng ở đây khi bốn bề toàn là máu lửa và người ta đi đâu cũng gặp chết chóc thì mọi chuyện khác hẳn. Tên lái buôn Achmet kia có sống hay chết cũng chẳng nghĩa lí gì với tôi nhưng câu chuyện về kho báu ấy khiến tôi ham muốn, và tôi nghĩ tới chuyện mình sẽ làm gì với số tiền đó khi quay lại quê xưa, tới chuyện bà con sẽ trố mắt khi họ thấy cái thằng bần cùng này trở về với tiền vàng đầy trong túi. Vậy là lòng tôi đã quyết. Nhưng Abdullah Khan nghĩ là tôi lưỡng lự nên càng hối thúc hơn. Hắn nói: 'Nghĩ kĩ đi, thưa sahib, nếu tên này bị sĩ quan chỉ huy bắt thì hắn cũng sẽ bị bắn hay treo cổ mà thôi, chính phủ sẽ lấy châu báu, thế thì chẳng ai được thêm một đồng rupee nào hết. Đấy, vì chúng ta sẽ hạ sát hắn, tại sao không làm nốt phần còn lại luôn? Thà rằng số của cải ấy thuộc về chúng ta còn hơn là nằm trong ngân khố của chính quyền. Của cải đó thừa sức mang cho chúng ta vinh hoa phú quý. Sẽ không ai biết chuyện này, vì ở đây chỉ có chúng ta mà thôi. Còn cơ hội nào tốt hơn nữa đâu? Nói đi nào, thưa sahib, ông theo chúng tôi hay là chúng tôi phải xem ông như kẻ thù?'

'Tao một lòng theo tụi bay,' tôi nói.

'Vậy thì tốt,' hắn đáp lời rồi trả lại khẩu súng cho tôi. 'Ông thấy là chúng tôi tin cậy ông, bởi vì lời của ông, cũng như lời của chúng tôi, đã nói ra thì không thay đổi. Giờ chỉ còn chờ anh tôi và tên thương gia kia tới.'

'Thế anh mày có biết những chuyện tụi bay định làm không?'

'Đây là kế hoạch của anh tôi. Anh ấy đã vạch ra hết. Chúng ta sẽ ra cổng và canh chừng cùng với Mahomet Singh.'

Mưa vẫn rơi đều vì thời điểm đó đã là đầu mùa mưa. Những đám mây đen nặng trĩu trôi ngang trời, và tầm mắt không thể nhìn xa. Một cái hào sâu nằm ngay trước cổng nơi chúng tôi đứng nhưng dưới hào nhiều chỗ nước đã gần cạn kiệt và dễ dàng băng qua. Tôi có cảm giác thật lạ lùng khi thấy mình đứng đây cùng hai tên Punjab hung tợn chờ đợi một người sắp đi vào cõi chết.

Đột nhiên tôi nhìn thấy ánh sáng của một ngọn đèn che bóng ở phía bên kia hào nước. Ánh đèn biến mất sau những gò đất rồi lại hiện ra, từ từ hướng về phía chúng tôi. Tôi kêu lên: 'Họ tới kìa!'

'Ông phải hô đứng lại, thưa sahib, như thông lệ vậy,' Abdullah nói khẽ. 'Đừng làm hắn sợ hãi. Cho hắn vào gặp chúng tôi, và chúng tôi sẽ lo việc còn lại trong lúc ông đứng canh ở đây. Cầm sẵn đèn và nhớ tháo chụp đèn ra để chúng tôi biết chắc là đúng người đó.'

Ánh đèn ấy cứ lập lòe di chuyển, lúc thì ngừng lúc thì đi tiếp, cho đến khi tôi nhìn ra hai bóng người ở bờ hào bên kia. Tôi để cho họ trượt xuống bờ dốc, lội qua vũng bùn, và trèo lên được nửa đường dẫn tới cổng vào, tôi mới lên tiếng chặn lại với giọng cố kiềm chế: 'Ai đi đó?'

'Bạn bè cả,' có tiếng đáp lại. Tôi tháo chụp đèn ra và hắt một luồng sáng về phía họ. Đầu tiên là một gã người Sikh cao to lừng lững, có bộ râu đen dài gần tới thắt lưng. Ngoài ở gánh xiếc ra, tôi chưa bao giờ thấy ai cao lớn như thế. Tên kia là một lão mập tròn, thấp bé, đầu đội khăn vàng, tay ôm một gói gì đó bọc kín trong chiếc khăn choàng. Lão ta dường như đang run lẩy bẩy vì sợ, hai bàn tay giật giật như lên cơn sốt rét, đầu hết quay sang trái lại quay sang phải với đôi mắt nhỏ lóe sáng, trông cứ như một con chuột đang đánh bạo chui ra khỏi hang. Nghĩ tới chuyện phải giết lão, tôi phát rùng mình, nhưng nghĩ tới kho báu thì lòng tôi lại sắt đá. Thấy gương mặt người da trắng của tôi, lão ta kêu ríu rít mừng rỡ rồi chạy đến.

'Xin được bảo vệ, thưa sahib', lão nói hổn hển, 'xin ngài bảo vệ lái buôn Achmet khốn khổ này. Tôi đã đi xuyên qua vùng Rajputana với hi vọng được nương thân ở thành Agra này. Tôi đã bị cướp bóc, đánh đập và ngược đãi chỉ vì tôi là bạn của những người Anh cai trị. Quả là phúc lành đêm nay khi tôi và chút của cải nghèo nàn của mình lại được an toàn một lần nữa.'

Tôi hỏi: 'Ông mang gì trong bọc đó?'

Lão ta đáp: 'Một cái rương sắt, chỉ chứa mấy món lặt vặt của gia đình, chúng chẳng có giá trị gì với người ngoài nhưng tôi lại tiếc không muốn mất. Nhưng tôi không phải là kẻ ăn xin đâu, thưa sahib, tôi sẽ đền đáp cho ngài và cho cả ngài thống sứ nữa nếu như ông ta cho tôi được nương nhờ ở đây.'

Cuộc trò chuyện mà kéo dài thêm thì tôi không còn tin tưởng vào bản thân nữa. Càng nhìn cái gương mặt mập béo, sợ hãi của Achmet thì dường như chúng tôi càng khó lòng mà nhẫn tâm giết lão. Tốt nhất là kết thúc cho xong.

'Đưa ông này tới trạm gác chính,' tôi nói. Lúc cả bọn đi về phía cổng vào âm u, hai tên lính người Sikh kè kè hai bên ông ta, còn tên khổng lồ kia đi phía sau. Bị cái chết bao vây như thế chắc trên đời chẳng có ai. Tôi vẫn ở lại cổng với ngọn đèn trên tay.

Tôi nghe tiếng bước chân nặng nề thận trọng của họ vang vang trong những ngõ ngách vắng vẻ. Đột nhiên tiếng chân im bặt, rồi tôi nghe thấy tiếng nói, tiếng ẩu đả và nhiều cú đấm đá. Một thoáng sau, tôi thất kinh nghe tiếng bước chân lại ào ào hướng về chỗ mình đứng với tiếng thở hổn hển của một người đang chạy. Tôi quay ngọn đèn sang phía hành lang dài đâm thẳng ra ngoài cổ thành, thấy lão mập kia chạy như bay, mặt vấy máu, và bám sát gót lão như một con hổ đang xông tới vồ mồi là tên người Sikh to lớn râu đen, tay lăm lăm một lưỡi dao sáng lóe. Tôi chưa hề thấy ai chạy nhanh như lão lái buôn nhỏ bé đó. Achmet đang bỏ xa tên người Sikh, và tôi thấy nếu lão mà chạy vụt qua tôi và ra tới đồng trống thì lão sẽ thoát thân. Tôi thấy thương hại cho Achmet nhưng một lần nữa ý nghĩ về kho báu kia lại khiến tôi thêm chai đá. Tôi quẳng khẩu súng ngay giữa hai chân Achmet khi lão phóng ngang qua và lão lộn hai vòng như một con thỏ trúng đạn. Trước khi lão lái buôn kịp gượng đứng dậy, tên râu đen kia đã nhảy xổ tới đâm hai nhát vào mạng sườn lão. Achmet không hề kêu một tiếng hay nhúc nhích gì cả mà chỉ nằm yên ngay nơi đã ngã xuống. Tôi nghĩ thầm chắc lão đã té gãy cổ chết tươi.

Vậy đấy, thưa quý ông, thế là tôi đã giữ lời hứa. Tôi kể các ông nghe mọi việc đúng như đã xảy ra, cho dù những chuyện đó có lợi cho tôi hay không."

Small ngừng lời và chìa đôi tay bị còng ra đón li whisky pha loãng mà Holmes đã pha cho. Về phần tôi, phải thú thật là bây giờ tôi xem Small là hạng người đáng sợ nhất trên đời, không chỉ vì cái việc nhẫn tâm mà hắn can dự vào mà chính vì cách kể chuyện thản nhiên, bất cần của hắn. Dù cho hắn nhận bất cứ hình phạt nào, tôi cũng chẳng thấy chút thương hại nào đối với con người này. Sherlock Holmes và Jones ngồi hai tay để trên đầu gối, hết sức chú tâm vào câu chuyện nhưng trên mặt họ lộ rõ một biểu hiện ghê tởm giống như cảm nhận của tôi. Có lẽ Small đáng bị như thế, bởi vì giọng điệu và thái độ của hắn có phần thách thức khi tiếp tục kể.

"Mọi chuyện chẳng hay ho gì, hẳn rồi", hắn lên tiếng. "Tôi muốn biết có bao nhiêu người ở vào hoàn cảnh của tôi lại có thể từ chối phần chia của cải này và trả giá bằng mũi dao kề cổ. Hơn nữa, một khi lão ta đã vào trong thành rồi thì hoặc là mạng tôi, hoặc là mạng lão mà thôi. Nếu lão thoát, toàn bộ sự việc được đưa ra ánh sáng, tôi sẽ bị đưa ra tòa án binh và bắn bỏ như không, vì vào thời điểm như thế chẳng ai buồn khoan dung cả."

"Cứ kể tiếp đi", Holmes nói cộc lốc.

"Đấy, ba người chúng tôi - Abdullah, Akbar và tôi - khiêng xác lão vào trong. Lão nhỏ bé như thế chứ nặng cân lắm. Mahomet Singh ở lại canh cổng. Chúng tôi đưa lão tới chỗ mấy tên Sikh kia đã dọn sẵn. Chỗ đó xa khuất, nơi mấy hành lang ngoằn ngoèo dẫn tới một đại sảnh bỏ hoang, mấy bức tường gạch ở đó đã đổ nát hết. Sàn đất có một chỗ đã lún xuống, tạo thành một cái huyệt tự nhiên, thế là chúng tôi đặt Achmet xuống đó rồi lấp gạch vụn lên. Làm xong cả bọn quay lại với kho báu.

Kho báu vẫn ở chỗ lão đã đánh rơi khi bị tấn công lần đầu. Chính là cái rương đang nằm trên bàn các ông đó. Trên nắp rương có một cái quai xách, chìa khóa được buộc vào quai bằng một dải lụa. Chúng tôi mở ra, và ánh đèn soi rọi vào một đống ngọc ngà châu báu giống như tôi đã đọc và tưởng tượng lúc còn nhỏ ở Pershore. Nhìn muốn lóa mắt. Sau khi đã nhìn ngắm chán chê, chúng tôi lấy hết ra lập một bảng liệt kê. Có một trăm bốn mươi ba viên kim cương nước một, bao gồm một viên tôi tin được mệnh danh là 'Đại Mogul' và nghe đâu nó là viên kim cương lớn thứ hai thế giới. Có chín mươi bảy viên ngọc lục bảo hảo hạng, một trăm bảy mươi viên hồng ngọc nhưng trong số này có những viên rất nhỏ. Có bốn mươi viên ngọc hồng lựu, hai trăm mười viên ngọc bích, sáu mươi mốt viên mã não, cùng rất nhiều ngọc thạch, ngọc mắt mèo, ngọc lam và nhiều loại khác mà lúc đó tôi không biết tên, mặc dù về sau tôi đã am hiểu các loại đá quý hơn. Ngoài ra còn có gần ba trăm viên ngọc trai hảo hạng, trong số này có mười hai viên được nạm vào một chiếc mũ miện bằng vàng. Nhân tiện nói luôn là những món cuối cùng này đã bị lấy đi mất và không còn trong đó khi tôi giành lại được cái rương.

Sau khi đã đếm kho báu, chúng tôi cho lại hết vào trong rương và mang ra ngoài cổng cho Mahomet Singh xem. Rồi chúng tôi trang nghiêm lập lại lời thề trung thành với nhau và trung thành với bí mật này. Chúng tôi đồng lòng giấu kín số của cải đó ở một nơi an toàn cho đến khi xứ sở này bình yên trở lại, rồi sau đó sẽ chia đều cho tất cả. Chia của ngay lúc đó chẳng ích lợi gì vì nếu người ta thấy chúng tôi có những thứ châu báu giá trị như thế thì sẽ chỉ sinh nghi, và trong cổ thành này hay bất kì đâu chúng tôi chẳng có chỗ nào kín đáo riêng tư để giấu cả. Thế là chúng tôi lại mang cái rương vào ngay đại sảnh đã chôn xác chết, đào một cái hốc dưới bức tường còn vững chãi nhất rồi chôn kho báu trong đó. Chúng tôi cẩn thận ghi dấu vị trí và ngày hôm sau tôi vẽ bốn bức họa đồ, mỗi người giữ một bức, và bên dưới bức nào cũng ghi Dấu bộ tứ, bởi chúng tôi đã thề rằng một người sẽ luôn hành động vì cả bốn người, để không ai được mưu lợi riêng. Đó là lời thề tôi có thể đặt tay lên ngực mà tuyên bố rằng tôi chưa bao giờ phá bỏ.

Chà, có kể cho quý ông nghe về kết cục của cuộc Bạo loạn Ấn Độ đó cũng chẳng ích gì. Sau khi Wilson chiếm Delhi và ngài Colin giải vây Lucknow, hậu cứ của phe phiến loạn bị đánh tan tác. Quân tiếp viện liên tục đổ vào và Nana Sahib lánh mặt khỏi biên thùy. Một đạo quân cơ động dưới trướng đại tá Greathed tiến tới Agra và dẹp tan phiến quân ở đây. Hòa bình có vẻ sắp tái lập trên xứ sở này và bốn chúng tôi bắt đầu hi vọng là sắp có thể an toàn lên đường với phần chia số của cải cướp được. Nhưng chẳng mấy chốc, hi vọng của chúng tôi tan tành, cả bọn bị bắt giam vì tội sát hại Achmet.

Đầu đuôi thế này. Khi tiểu vương kia phó thác số châu báu của mình cho Achmet, ông ta làm thế vì biết lão mập là người tin cẩn. Nhưng ở Đông phương người ta đa nghi lắm, cho nên tiểu vương kia sẽ làm gì nếu không chọn một gia nhân thứ hai thậm chí còn tin cẩn hơn, rồi phái người này đi do thám người kia? Tên thứ hai được lệnh không bao giờ rời mắt khỏi Achmet và hắn ta bám theo lão mập như cái bóng. Hắn đã đi theo Achmet đêm đó và đã thấy lão mập đi vào cổng. Tất nhiên hắn nghĩ là lão mập đã vào nương náu trong cổ thành nên ngày hôm sau cũng xin vào, song chẳng tìm ra dấu vết nào của Achmet. Thấy lạ lùng quá nên hắn thưa chuyện này với một trung sĩ thám báo, người này lại nói với sĩ quan chỉ huy. Một cuộc tìm kiếm nhanh chóng được tổ chức và người ta tìm ra cái xác. Thế là ngay vào lúc chúng tôi tưởng mọi chuyện đã an toàn thì cả bốn bị bắt hết và đưa ra xét xử về tội sát nhân; ba đứa chúng tôi bị bắt vì đã canh cổng đó đêm hôm ấy, còn tên thứ tư vì người ta biết hắn đã đi cùng với người bị giết. Trong phiên xử, không ai nói lời nào về số châu báu bởi vì tiểu vương đó đã bị truất phế và phải bỏ chạy khỏi Ấn Độ nên chẳng ai quan tâm đến ông ta nữa. Nhưng vụ án mạng đựợc xét xử tới nơi và rành rành là cả bốn tên chúng tôi đều dính líu. Ba tên người Sikh lãnh án khổ sai chung thân còn tôi bị kết án tử hình, nhưng sau đó tôi được giảm tội và lĩnh án như ba tên kia. Sau đó chúng tôi sa vào một cảnh ngộ mới kì quặc lắm thay. Cả bốn tên đều bị xiềng chân, không biết bao giờ mới có cơ may thoát được ra ngoài như trước, trong khi mỗi đứa chúng tôi đều nắm giữ một bí mật có thể khiến đứa nào cũng được giàu sang nếu như biết lợi dụng. Thật không còn gì đau khổ hơn cho chúng tôi khi phải chịu đựng những cú đấm đá của mọi tên sai nha hạ cấp, phải ăn cơm khô uống nước lã, trong khi cơ đồ huy hoàng kia đã sẵn sàng ở bên ngoài, chỉ chờ chúng tôi nắm lấy. Điều đó hẳn đã khiến tôi phát điên, nhưng tôi lúc nào cùng là một thằng khá lì lợm nên cứ cam chịu chờ thời.

Cuối cùng coi bộ thời cơ cũng đến với mình. Tôi được chuyển từ Agra sang Madras, rồi từ đó sang đảo Blair trong quần đảo Andaman. Ở xứ thuộc địa này có rất ít tù nhân da trắng, và nhờ tôi đã có hạnh kiểm tốt ngay từ đầu nên chẳng bao lâu sau tôi thấy mình được hưởng đặc ân. Tôi được cấp cho một túp lều riêng ở Hope Town, một chỗ ở nhỏ xíu trên dốc núi Harriet, và gần như người ta để mặc tôi. Đó là một nơi buồn thảm, bị bệnh sốt rét hoành hành, và bên ngoài ranh giới khu trại nhỏ của chúng tôi đầy bọn thổ dân ăn thịt người, những kẻ sẵn sàng thổi một mũi tên độc giết chúng tôi nếu có dịp. Chúng tôi bận túi bụi, suốt ngày đào đất, vét mương, trồng khoai từ, và cả chục công việc khác, mặc dù buổi tối vẫn được một chút thời gian riêng tư. Ngoài những công việc đó, tôi học cách pha chế thuốc men cho ông bác sĩ quân y và học lõm bõm chuyên môn của ông ta. Lúc nào tôi cũng chờ chực cơ hội trốn thoát, nhưng đảo cách xa mọi bến bờ hàng trăm dặm và vùng biển này rất lặng gió. Trốn thoát được là chuyện vô cùng khó khăn. Ông Somerton, bác sĩ quân y, là một thanh niên nhanh nhẹn, thích ganh đua, và các sĩ quan trẻ khác thường tụ tập ở nhà ông đánh bài vào buổi tối. Phòng khám, nơi tôi thường pha chế thuốc, nằm cạnh phòng khách của ông và có một cửa sổ nhỏ nhìn thông sang. Thường những lúc thấy cô đơn, tôi hay bật đèn trong phòng khám và đứng đó nghe họ trò chuyện, xem họ chơi bài. Tôi cũng thích cầm lá bài và xem người khác chơi cũng thích thú chẳng kém gì chính mình đánh vậy. Người chơi thường là các sĩ quan chỉ huy đám binh lính bản xứ là thiếu tá Sholto, đại úy Morstan và trung úy Bromley Brown, và chính ông bác sĩ. Thêm hai hay ba tay viên chức bên trại tù nữa, đó là những tên lão luyện, lắm mánh khóe luôn chơi theo kiểu láu cá chắc ăn. Họ họp thành một nhóm bù khú thân tình.

Chà, chẳng bao lâu tôi nhận ra ngay một điều là đám quân nhân luôn thua còn đám dân sự luôn thắng. Ồ, tôi không nói là có trò gian lận gì ở đây, nhưng sự thực là thế. Mấy thằng cha bên trại tù kể từ khi họ có mặt ở Andaman chẳng làm việc gì khác ngoài đánh bài, và họ biết tường tận cách chơi của nhau, trong khi mấy người kia chỉ chơi cho qua thời giờ và thảy mấy quân bài một cách hú họa. Đêm đêm, hễ mấy quân nhân đứng dậy là họ lại nghèo thêm một chút, và càng nghèo họ lại càng máu chơi. Thiếu tá Sholto là người thua nặng nhất. Lúc đầu ông ta còn đặt cược bằng giấy bạc với tiền vàng, nhưng rồi chẳng mấy chốc lại cược những số tiền lớn bằng giấy nợ viết tay. Có lúc ông ta thắng được vài ván, chỉ đủ để phấn chấn, nhưng rồi vận đen lại khiến ông ta thua đậm hơn trước. Suốt cả ngày ông ta cứ đi tha thẩn, cáu kỉnh bực tức, và bắt đầu sa vào rượu chè quá độ.

Một đêm nọ, ông ta thậm chí còn thua đau hơn bình thường. Tôi đang ở trong lều của mình thì ông ta và đại úy Morstan loạng choạng đi ngang qua trên đường về doanh trại. Họ là bạn chí cốt, hai người chẳng bao giờ rời nhau, ông thiếu tá đang nổi khùng vì chuyện thua bạc. Ông ta nói khi đi ngang qua túp lều của tôi: 'Thua sạch bách, Morstan ơi. Tôi phải thanh toán hết giấy nợ. Tiêu đời tôi rồi.' Người kia vừa đáp lại vừa vỗ vai bạn mình: 'Nói bá láp, ông bạn. Tôi cũng đen đủi chứ, nhưng...' Tôi chỉ nghe được chừng đó nhưng cũng đủ để tôi phải suy nghĩ. Vài ngày sau đó khi thiếu tá Sholto đang tản bộ trên bãi biển, tôi nhân cơ hội nói chuyện với ông ta.

'Mong ông cho tôi lời khuyên, thưa ngài thiếu tá,' tôi nói.

'À, Small hả, chuyện gì?' Ông lấy điếu xì gà trên môi ra.

'Thưa ngài, tôi muốn hỏi xem ai là người thích hợp để giao nộp một kho báu đang chôn giấu. Tôi biết chỗ đang giấu nửa triệu bảng Anh, và bản thân tôi không thể sử dụng được, tôi nghĩ có lẽ cách tốt nhất tôi có thể làm là giao nó cho nhà chức trách thích hợp, và biết đâu nhờ đó mà họ giảm bớt án tù cho tôi.'

'Nửa triệu bảng à, Small?' Ông ta sửng sốt, nhìn tôi chằm chằm xem thử tôi có nói thật không.

'Đúng vậy, thưa ngài, bằng ngọc ngà châu báu. Nó nằm sẵn đó cho bất kì ai. Và điều lạ lùng trong chuyện này là chủ nhân đích thực của nó đã bị đặt ngoài vòng pháp luật và không còn quyền sở hữu cho nên ai tới trước thì làm chủ.'

'Nộp cho chính phủ, Small,' ông ta lắp bắp, '... cho chính phủ.' Nhưng vị thiếu tá này lại nói ngắc ngứ và tôi thầm biết là mình đã nắm được tẩy của ông ta.

Tôi nói khẽ: 'Vậy theo ngài tôi nên bẩm báo cho quan toàn quyền à?'

'Ồ, ồ, đừng có làm gì hấp tấp, kẻo ân hận đấy. Kể ta nghe đầu đuôi đi, Small. Cho ta biết sự thật.'

Tôi kể lại toàn bộ câu chuyện, thay đổi đôi chút để ông ta không xác định được các nơi chốn. Khi tôi kể xong, ông ta đứng bất động suy nghĩ dữ lắm. Nhìn đôi môi run run kia tôi biết trong lòng vị thiếu tá đang giằng xé. Mãi một hồi ông ta mới nói: 'Chuyện này hệ trọng đấy, Small. Anh không được hé răng với bất kì ai nghe chưa, rồi ta sẽ sớm gặp lại anh.'

Hai đêm sau, ông ta cùng người bạn đại úy Morstan cầm đèn tới túp lều của tôi ngay giữa khuya, ông thiếu tá nói: 'Ta muốn chính miệng anh kể lại cho đại úy Morstan nghe chuyện đó, Small.'

Tôi lặp lại giống như đã kể lần trước.

'Có vẻ là thật, phải không?' Ông ta nói với ông đại úy. 'Có đáng để tiến hành không?'

Đại úy Morstan gật đầu.

'Nghe đây, Small, viên thiếu tá nói. 'Ông bạn này với tôi đã bàn bạc qua rồi, và cả hai đã đi đến kết luận là bí mật của anh nói cho cùng hoàn toàn chẳng phải chuyện của chính quyền mà là chuyện riêng của anh, dù tất nhiên anh có quyền quyết định theo cách nào anh thấy tốt nhất. Đó, vấn đề là anh muốn giá nào? Chúng tôi có thể chấp nhận gánh vác chuyện này, hay chí ít cũng tìm cách lo liệu, nếu thấy giá đó thỏa đáng.' Ông ta cố ra giọng bình thản, bất cần, nhưng ánh mắt lại sáng rực niềm hưng phấn và ham hố.

Tôi cố tỏ ra điềm tĩnh nhưng trong lòng cũng háo hức như ông ta. Tôi đáp: 'Ồ, thưa các ngài, về chuyện đó thì một người trong hoàn cảnh như tôi chỉ có thể có một điều kiện duy nhất. Tôi muốn các ngài giúp tôi được tự do, và giúp ba người bạn của tôi cũng vậy. Sau đó chúng tôi sẽ cùng các ngài chung hưởng, các ngài sẽ được một phần năm số của cải đó để tự phân chia với nhau.'

'Hừm!' Morstan thốt lên. 'Một phần năm! Nghe chẳng hấp dẫn mấy!'

'Như vậy mỗi người cũng được tới năm chục ngàn bảng Anh,' tôi nói.

'Nhưng làm sao bọn ta giúp các anh tự do được? Anh biết thừa là anh yêu cầu một chuyện bất khả thi.'

'Hoàn toàn không,' tôi đáp. 'Tôi đã tính toán cặn kẽ đến từng chi tiết rồi. Cản trở duy nhất khiến chúng tôi chưa tẩu thoát được là không có thuyền phù hợp cho chuyến đi, và không có lương thực dự trữ đủ dùng một thời gian dài. Ở Calcutta hay Madras có rất nhiều thuyền buồm cỡ nhỏ phù hợp với mục đích của chúng tôi. Các ngài mang về đây một chiếc. Chúng tôi sẽ xoay xở lên thuyền vào ban đêm và nếu các ngài thả chúng tôi xuống bất kì chỗ nào ven biển Ấn Độ thì coi như đã hoàn thành giao kèo.'

'Giá như chỉ có một người thôi,' Morstan nói.

'Cả bốn hoặc không ai hết,' tôi đáp. 'Chúng tôi đã thề rồi. Cả bốn chúng tôi mỗi người phải luôn hành động vì tất cả.'

'Thấy chưa, Morstan,' Sholto lên tiếng. 'Small là người trọng lời hứa. Đã vì bạn bè thì anh ta không hề nao núng đâu. Tôi nghĩ chúng ta phải tin anh ta thôi.'

'Đây là chuyện sai trái,' Morstan nói. 'Nhưng như anh nói đó, số tiền này sẽ rửa tội cho chúng ta ngon lành.'

'Này, Small,' vị thiếu tá quay sang tôi, 'chắc là bọn ta phải đáp ứng đòi hỏi của anh vậy. Tất nhiên, trước hết bọn ta phải thử xem câu chuyện của anh thật đến đâu. Nói xem cái rương ấy giấu ở đâu đi, ta sẽ xin nghỉ phép và theo tàu tiếp tế hằng tháng quay lại Ấn Độ để tìm hiểu vụ này.'

'Đâu có nhanh vậy,' tôi đáp. Sholto càng nóng máu thì tôi càng lạnh lùng. 'Tôi phải được ba người bạn của tôi ưng thuận cái đã. Tôi đã nói với ngài là cả bốn chúng tôi hoặc không ai hết.'

'Vớ vẩn!' Sholto ngắt lời. 'Ba thằng da đen kia thì liên quan gì với thỏa thuận của chúng ta.'

'Da đen da đỏ gì cũng thế,' tôi nói. 'Họ với tôi là một và tất cả chúng tôi cùng đi với nhau.'

Thế đấy, việc này kết thúc ở cuộc gặp sau với sự có mặt đầy đủ của Mahomet Singh, Abdullah Khan và Dost Akbar. Chúng tôi đã bàn bạc lại và cuối cùng đi đến thỏa thuận. Chúng tôi sẽ giao cho cả hai sĩ quan đó các bức họa đồ của khu vực cổ thành Agra và đánh dấu chỗ chôn kho báu trong bức tường. Thiếu tá Sholto sẽ đi Ấn Độ để kiểm chứng câu chuyện của chúng tôi. Nếu tìm thấy cái rương, ông ta phải để yên đó, rồi phái một chiếc thuyền buồm đầy đủ lương thực cho một chuyến hành trình chờ sẵn ngoài đảo Rutland. Chúng tôi sẽ tìm đường tới đó, còn Sholto quay lại nhiệm sở. Lúc đó đại úy Morstan sẽ xin nghỉ phép và gặp chúng tôi ở Agra, và ở đấy cả bọn sẽ phân chia của cải dứt khoát, ông đại úy sẽ nhận luôn phần mình lẫn phần của ông thiếu tá. Tất cả đều được chúng tôi cam kết bằng những lời thề thiêng liêng nhất mà trí óc có thể nghĩ ra hay miệng lưỡi có thể thốt lên. Tôi thức trắng suốt đêm với giấy mực và đến sáng tôi đã có hai họa đồ sẵn sàng, đều kí bằng Dấu bộ tứ, tức là Abdullah, Akbar, Mahomet và tôi đây.

Chà, thưa quý ông, tôi làm các ông phát mệt vì câu chuyện lê thê này, và tôi biết ông Jones đây rất nóng lòng muốn tống tôi vào khám cho yên tâm. Tôi sẽ cố nói ngắn gọn hết sức. Thằng côn đồ Sholto đi về Ấn Độ nhưng không bao giờ quay lại. Không lâu sau đó, đại úy Morstan cho tôi xem tên hắn trong danh sách hành khách trên một con tàu bưu chính. Chú bác gì đó của hắn qua đời để lại cho hắn gia tài và hắn đã giải ngũ, thế mà hắn lại hèn hạ xử sự với cả năm chúng tôi như thế đấy. Morstan liền đi tới Agra và đúng như chúng tôi dự đoán, thấy kho báu đó đã biến mất thật rồi. Tên vô lại kia đã ăn cắp hết mà không hề thực hiện một điều kiện nào đã cam kết khi chúng tôi trao bí mật cho hắn. Từ ngày đó, tôi sống chỉ để trả thù. Ngày cũng như đêm tôi nung nấu nghĩ cách trả thù. Trả thù đã trở thành niềm say sưa mãnh liệt chế ngự tôi. Tôi bất chấp luật pháp, bất chấp giá treo cổ. Trốn thoát, lùng cho ra Sholto, bóp cổ hắn cho chết, tôi chỉ có mỗi một ý nghĩ đó. Ngay cả kho báu Agra kia cũng dần trở nên ít quan trọng hơn trong tâm trí tôi so với chuyện giết Sholto trả thù.

Chà, trong đời này tôi đã quyết tâm làm nhiều chuyện và không có chuyện nào mà không thành. Nhưng phải mất nhiều năm tháng mỏi mòn thì thời cơ mới đến. Tôi đã nói với các ông là tôi có học chút ít nghề thuốc. Một ngày nọ khi bác sĩ Somerton nằm bẹp vì sốt, có một tù nhân bắt được một tên thổ dân Andaman nhỏ xíu ở trong rừng. Nó bệnh gần chết và đã tìm nơi vắng vẻ để chết. Tôi đem nó về nuôi, dù nó hiểm độc như con rắn vậy, và sau mấy tháng tôi đã làm cho nó khỏe lại và có thể đi đứng. Sau đó nó đâm ra quyến luyến tôi và không muốn quay về rừng nữa mà chỉ lảng vảng quanh túp lều của tôi. Tôi học được chút ít ngôn ngữ của nó và càng khiến nó quý mến tôi hơn. Thằng Tonga, đó là tên nó, là tay chèo giỏi và có riêng một con thuyền to, rộng rãi. Khi tôi thấy nó tận tụy và sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì vì tôi thì tôi nhận ra cơ hội trốn thoát của mình. Tôi nói chuyện đó với nó. Vào một đêm thuận lợi nó sẽ đưa thuyền tới một bến cũ chẳng hề có lính canh, và sẽ đón tôi ở đó. Tôi ra lệnh cho nó chuẩn bị sẵn nhiều bầu nước và thật nhiều quả dừa, khoai từ, và khoai lang. Thằng nhỏ Tonga đó thật là trung thành và đáng tin cậy. Chẳng ai trên đời này có được người tâm phúc hơn. Vào cái đêm đã xác định, nó đưa thuyền đến bến đó. Nhưng ngẫu nhiên sao, ở đó lại có một tên cai tù, thằng Pathan đê tiện vốn không bao giờ bỏ lỡ cơ hội nào để nhục mạ và hành hạ tôi. Tôi lâu nay vẫn luôn thề trả thù thì bây giờ đã tới lúc. Thật chẳng khác gì số phận đã run rủi cho hắn gặp tôi để tôi trả món nợ này trước khi rời đảo. Hắn đứng trên bờ, quay lưng lại tôi, vai khoác súng cạcbin. Tôi nhìn quanh tìm hòn đá để đập vỡ sọ hắn ra nhưng chẳng thấy. Rồi một ý nghĩ kì cục nảy ra trong đầu và cho tôi biết có thể tìm vũ khí ở đâu. Tôi ngồi trong bóng tối và tháo cái cẳng gỗ ra. Nhảy phóc ba bước dài, tôi ào tới chỗ thằng Pathan. Hắn đưa súng cạcbin lên vai nhưng tôi giáng cho hắn một cú hết sức bình sinh, đập móp luôn nguyên phần sọ phía trước. Các ông có thể nhìn thấy chỗ gỗ nứt nơi tôi quật cái cẳng này vào đầu hắn. Cả hai đều té xuống vì tôi không giữ được thăng bằng, nhưng khi đứng lên tôi thấy hắn vẫn nằm ngay đơ. Tôi lần mò xuống con thuyền và một giờ sau chúng tôi đã ở ngoài biển xa. Tonga đã mang theo hết mọi tài sản trên đời của nó, cả vũ khí lẫn thần linh. Trong số đồ đạc của nó có một cây giáo dài bằng tre, mấy tấm chiếu bằng xơ dừa Andaman mà tôi dùng làm buồm. Suốt mười ngày chúng tôi cứ lênh đênh, phó thác cho may rủi, và đến ngày thứ mười một chúng tôi đón được một chiếc tàu buôn trên đường từ Singapore đến Jeddah chở toàn dân Mã Lai hành hương. Đó là một đám người kì cục và tôi với thằng Tonga liền xoay xở tìm chỗ ổn định ở chung với họ. Họ có một tính rất tốt là họ mặc kệ anh và không thắc mắc gì.

Ối chà, nếu tôi kể hết với các ông những chuyện phiêu lưu mà thằng bạn nhỏ kia và tôi đã trải qua thì các ông sẽ chẳng cảm ơn tôi đâu, tôi sẽ giữ các ông ở đây cho đến khi mặt trời sáng rực mất thôi. Chúng tôi cứ trôi dạt đó đây khắp thế giới, lúc nào cũng có chuyện ngăn trở không cho tôi quay về London. Tuy vậy, tôi không hề lãng quên mục đích của mình một chút nào. Đêm nào tôi cũng nằm mơ thấy Sholto. Cả trăm lần tôi đã giết hắn trong mơ. Rồi sau cùng, đâu khoảng ba hay bốn năm trước, chúng tôi cũng tới được Anh quốc. Tôi dễ dàng tìm ra nơi sinh sống của Sholto, và bắt tay vào tìm hiểu xem hắn đã bán hết kho báu ấy chưa hay vẫn còn giữ. Tôi kết thân với ai có thể giúp đỡ mình, tôi không nói tên người nào đâu vì tôi không muốn gây khó dễ cho ai hết, và rồi biết được Sholto vẫn còn giữ số châu báu đó. Sau đó tôi cố đến gần hắn bằng nhiều cách nhưng hắn rất quỷ quyệt, ngoài hai người con trai và tên Khitmutgar lúc nào hắn ta cũng có hai võ sĩ túc trực bảo vệ.

Nhưng rồi một ngày kia, tôi hay tin hắn ta đang hấp hối. Tôi hấp tấp đến khu vườn đó ngay, phát khùng lên vì không ngờ hắn lại thoát khỏi tay tôi như thế. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy hắn đang nằm trên giường với hai người con trai ở hai bên. Tôi đã mò đến tận nơi và đánh liều với cả ba người đó, nhưng đúng ngay lúc tôi nhìn Sholto thì mồm hắn há hốc ra, và tôi biết hắn đã đi đời. Dù vậy, đêm đó tôi vẫn lẻn vào phòng hắn lục lọi giấy tờ xem hắn có để lại ghi chép gì về nơi cất giấu châu báu không. Thế nhưng không có lấy một chữ nào; thế là tôi bỏ đi, cay đắng và tức tối không sao kể xiết. Trước khi rời chỗ đó, tôi sực nghĩ là nếu như tôi còn có dịp gặp lại mấy người bạn Sikh kia thì họ cũng thỏa mãn khi biết rằng tôi đã để lại ít dấu vết tỏ lòng căm thù của cả bọn. Thế là tôi ghi nguệch ngoạc chữ 'Dấu bộ tứ', giống như trên tấm họa đồ, và ghim lên ngực áo Sholto. Thật không thể chịu nổi nếu hắn ta đi xuống mồ mà không mang theo một kỉ vật của những kẻ đã bị hắn cướp và lừa gạt.

Vào lúc đó chúng tôi kiếm sống bằng cách trình diễn thằng Tonga tội nghiệp như một tên mọi đen ăn thịt người ở các hội chợ và các nơi tương tự. Nó phải ăn thịt sống và nhảy nhót điệu múa chiến thắng kiểu thổ dân để chúng tôi kiếm được số tiền xu đầy một cái nón sau mỗi ngày làm việc. Tôi vẫn biết mọi tin tức từ biệt trang Pondicherry, và suốt mấy năm chẳng có tin gì ngoại trừ chuyện người ở đó vẫn đang truy tìm kho báu. Rồi cuối cùng cũng biết cái tin mà chúng tôi đã chờ đợi quá lâu. Đã tìm ra kho báu. Nó nằm trên nóc nhà, trong phòng thí nghiệm hóa chất của cậu Bartholomew Sholto. Tôi liền tới ngay và xem qua chỗ đó, nhưng không biết làm cách nào leo lên đó được với cái cẳng gỗ này. Tuy nhiên, tôi biết có một cửa sập trên mái và cũng biết giờ giấc ăn tối của cậu Bartholomew Sholto. Tôi thấy có lẽ chuyện này sẽ dễ dàng nếu tôi nhờ Tonga giúp sức. Tôi đưa nó tới đó với một sợi dây thừng dài quấn quanh bụng nó. Nó leo trèo giỏi như mèo và trong chớp nhoáng đã chui qua mái nhà, nhưng rủi sao cậu cả Sholto vẫn còn trong phòng, và phải mất mạng. Tonga nghĩ nó đã làm một chuyện rất hay ho khi giết cậu Sholto, bởi vì khi tôi đu dây thừng lên thì thấy nó đang đi khệnh khạng quanh phòng ra vẻ hãnh diện lắm. Nó mới sửng sốt làm sao khi tôi lấy đầu dây thừng quất nó, vừa đánh vừa nguyền rủa cái thằng tiểu yêu khát máu đó. Tôi lấy cái rương châu báu, thòng dây hạ xuống, rồi tôi cũng tuột xuống theo, sau khi để lại thiệp Dấu bộ tứ trên bàn để cho biết kho báu cuối cùng đã quay lại với người có quyền sở hữu chính đáng nhất. Sau đó Tonga kéo dây lên, đóng cửa sổ, rồi thoát ra theo ngả nó đã chui vào.

Tôi không biết còn gì để kể với các ông nữa không. Tôi có nghe một người lái đò nói về tốc độ của chiếc tàu thủy Aurora nhà ông Smith, nên tôi nghĩ chiếc tàu đó có thể thuận tiện cho việc tẩu thoát của mình. Tôi thuê ông Smith và hứa sẽ cho một số tiền lớn nếu ông ta đưa chúng tôi an toàn đến chiếc tàu khách. Chắc chắn ông ta biết là có chuyện ám muội gì ở đây nhưng ông ta không can dự vào những bí mật của chúng tôi. Toàn bộ đều là sự thực, và tôi kể hết ra, thưa quý ông, không phải là để cho các ông thích thú đâu, vì các ông chẳng làm điều gì tốt đẹp cho tôi cả, mà là vì tôi nghĩ rằng cách tốt nhất để bào chữa cho mình là không giấu giếm gì, cứ để cho cả thế giới này biết thiếu tá Sholto đã đối xử tệ bạc với tôi như thế nào, và tôi vô tội ra sao trong chuyện con trai ông ta chết."

"Một câu chuyện rất lạ thường", Sherlock Holmes nói. "Một kết thúc phù hợp với một vụ án cực kì lí thú. Phần sau câu chuyện của ông chẳng có gì mới mẻ đối với tôi cả, trừ việc ông tự mang dây thừng theo. Tôi không biết điều đó. Nhân tiện cũng phải nói là tôi cứ tưởng Tonga đã mất hết các mũi tên, thế mà hắn lại xoay xở thổi được một mũi tên nữa về phía chúng tôi khi còn ở trên tàu."

"Nó đã mất hết, thưa ông, chỉ trừ một mũi tên còn nằm trong ống xì đồng của nó vào lúc đó."

"À, ra thế!" Holmes nói. "Tôi đã không nghĩ ra điều đó."

"Còn điều gì ông muốn hỏi nữa không?" Người tù kia niềm nở hỏi.

"Tôi nghĩ là không, cảm ơn ông", anh bạn tôi đáp.

"Này, Holmes", Athelney Jones lên tiếng, "ông đúng là người muốn gì được nấy, và chúng tôi đều biết ông rất sành sỏi về tội ác, nhưng nhiệm vụ là nhiệm vụ, và tôi đã đi xa tới mức làm theo những gì ông và bạn ông yêu cầu. Tôi sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi người kể chuyện của chúng ta đã an toàn sau song sắt. Xe ngựa vẫn còn chờ, và dưới nhà còn có hai thanh tra cảnh sát. Tôi hết sức cảm ơn hai ông đã trợ giúp. Tất nhiên khi xét xử hai ông cũng phải có mặt. Tạm biệt nhé."

"Xin tạm biệt cả hai ông", Jonathan Small nói.

"Ông đi trước đi, Small", ông Jones cẩn trọng lên tiếng khi hai người rời phòng. "Tôi phải hết sức cẩn thận để ông đừng có tháo chân gỗ ra quật vào tôi, giống như những gì ông đã làm với quý ông kia ở quần đảo Andaman."

"Chà, tuồng kịch nhỏ của chúng ta đã tới hồi kết", tôi lên tiếng sau một lúc cả hai ngồi im lặng hút thuốc. "Tôi e rằng đây có thể là cuộc điều tra cuối cùng mà tôi có cơ hội nghiên cứu các phương pháp của anh đó. Cô Morstan đã ban cho tôi vinh dự được làm người chồng tương lai của cô ấy."

Anh bật ra một tiếng rên cực kì buồn nản rồi nói, "Đúng cái điều tôi đã lo sợ. Thực tình tôi không muốn chúc mừng anh đâu."

Hơi tự ái, tôi hỏi lại, "Thế anh có lí do gì để không hài lòng với lựa chọn của tôi chứ?"

"Hoàn toàn không. Tôi nghĩ cô ấy là một trong những quý cô duyên dáng nhất tôi từng gặp, và có lẽ là người đắc lực nhất trong chính công việc chúng ta làm lâu nay. Rõ ràng cô ấy là người có thiên tư; cứ xem trong mớ giấy tờ đủ thứ của ông đại úy, cô ấy lại gìn giữ bức họa đồ Agra thì biết ngay. Nhưng tình yêu là chuyện cảm xúc, và bất cứ thứ gì có tính chất cảm xúc đều đối nghịch với lí trí lạnh lùng, chính xác mà tôi coi trọng hơn mọi thứ. Tôi đây sẽ không bao giờ lấy vợ, để khỏi có thiên kiến trong óc suy xét của mình."

Tôi vừa nói vừa cười, "Tôi tin là óc suy xét của tôi sẽ vượt qua thử thách đó. Nhưng trông anh buồn chán kìa."

"Vâng, tôi lại bị ức chế rồi. Tôi sẽ ủ rũ như miếng giẻ rách suốt cả tuần lễ cho mà xem."

"Lạ thật đó", tôi nói, "anh có những giai đoạn mà nếu ở người khác tôi sẽ gọi là sự biếng nhác xen những đợt làm việc hết mình và tràn trề sinh lực."

"Đúng", anh đáp, "trong tôi tồn tại những bản tính của một kẻ lười nhác nhất hạng lẫn một kẻ khoái hoạt vô biên. Tôi thường nghĩ đến mấy dòng thơ này của Goethe: Schade dass die Natur nur einen Mensch aus Dir schuf. Denn zum wurdigen Mann war und zum Schelmen der Stoff. À này, liên quan đến vụ Norwood, như tôi đã ước đoán, anh đã thấy là bọn họ có một tên đồng lõa ở trong nhà đó, không ai khác hơn là tên quản gia Lal Rao. Cho nên thực tế Jones đã có vinh dự trọn vẹn là bắt được một con cá trong mẻ lưới lớn của ông ta."

"Sự phân chia này coi bộ không công bằng", tôi nói. "Trong vụ này anh đã làm hết mọi việc. Nhờ chuyện này mà tôi lấy được vợ, Jones được ghi công, thế còn lại gì cho anh nào?"

"Phần của tôi thì vẫn còn chai cocaine đó." Sherlock Holmes nói và vươn bàn tay dài trắng xanh với lấy chai thuốc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro