CUỘC ĐIỀU TRA MÀU ĐỎ (A STUDY IN SCARLET,1887)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

PHẦN I
HỒI ỨC CỦA BÁC SĨ JOHN H. WATSON1. Sherlock Holmes

Tôi lấy bằng bác sĩ ở Đại học London vào năm 1878 rồi chuyển đến Netley để theo khóa đào tạo chỉ định cho bác sĩ ngoại khoa trong quân đội. Học ở đây xong, tôi được chính thức điều về Trung đoàn 5 Bộ binh Northumberland làm quân y phó. Lúc đó trung đoàn này đóng ở Ấn Độ, và tôi chưa kịp trình diện thì cuộc chiến tranh Afghanistan lần hai đã nổ ra. Khi xuống tàu ở Bombay, tôi hay tin quân đoàn của mình đã vượt đèo đi trước và hiện đã tiến sâu vào lãnh thổ của quân địch. Tôi cùng với nhiều sĩ quan khác đồng cảnh ngộ liền đi theo và rồi cũng an toàn tới được Kandahar, nơi tôi tìm được trung đoàn của mình và lập tức bắt đầu nhiệm vụ mới.

Chiến dịch này mang lại công trạng và sự thăng tiến cho nhiều người, nhưng với tôi nó chẳng mang lại gì ngoài rủi ro và tai họa. Tôi phải rời lữ đoàn để gia nhập Trung đoàn Berkshire và tôi đã cùng họ tham gia trận chiến sống mái ở Maiwand. Ở trận này tôi bị một viên đạn hỏa mai bắn trúng vai, làm vỡ xương và sượt qua động mạch dưới đòn. Lẽ ra tôi đã sa vào tay quân Ghazi tàn bạo nếu không nhờ lòng tận tụy và can trường của Murray, phụ tá của tôi. Anh ta đã quẳng tôi lên lưng một con ngựa thồ rồi đưa tôi an toàn về đến phòng tuyến quân Anh.

Sức cùng lực kiệt vì đau đớn và vì những gian khổ kéo dài đã kinh qua, tôi được chuyển về bệnh viện hậu cứ ở Peshawar cùng với một đoàn thương binh đông đảo. Tại đây, khi tôi hồi phục dần và đã khá tới mức có thể đi lại quanh bệnh xá, thậm chí còn ra được tới hàng hiên sưởi nắng chút ít, thì lại bị quật ngã vì sốt thương hàn - tai ương của thuộc địa Ấn. Suốt mấy tháng, tôi sống trong tuyệt vọng, và cuối cùng khi đã bình tâm và bắt đầu dưỡng bệnh, thì tôi ốm yếu, hốc hác đến nỗi một hội đồng y khoa phải quyết định cho tôi về Anh quốc ngay, không được chậm trễ một ngày nào. Vì thế, tôi được gửi theo tàu chở quân Orontes, và một tháng sau tôi đã bước chân xuống cảng Portsmouth với sức khỏe suy sụp không thể cứu vãn, bù lại tôi được chính quyền mẫu quốc cho phép nghỉ luôn chín tháng để phục hồi.

Tôi chẳng có họ hàng thân thích gì ở Anh quốc cho nên tự do như gió trời - hay tự do trong giới hạn mà mức thu nhập mười một đồng shilling và sáu xu một ngày cho phép. Trong hoàn cảnh như thế, tôi đương nhiên phải đi tới London, cái hầm cầu vĩ đại mà mọi kẻ lười nhác và ăn không ngồi rồi khắp cả nước này đều bị hút vào không sao cưỡng lại được. Ở đây, tôi trọ một thời gian tại một khách sạn trên phố Strand, sống một cuộc sống thiếu tiện nghi, vô nghĩa, và vung tay tiêu xài số tiền mình có mà lẽ ra phải dè sẻn hơn nhiều. Tình trạng tài chính đã trở nên đáng ngại tới mức tôi sớm nhận ra rằng: Hoặc là tôi phải bỏ chốn đô thành này mà rút về sống đâu đó ở vùng quê, hoặc là phải thay đổi hoàn toàn lối sống của mình. Chọn cách thứ hai, tôi bắt đầu bằng cách quyết tâm sẽ rời khách sạn, và tá túc ở một chỗ nào đó bớt phô trương và đỡ tốn kém hơn.

Vào đúng cái ngày đi đến quyết định này, tôi đang đứng ở quán rượu Criterion thì có người vỗ nhẹ vào vai. Quay lại, tôi nhận ra anh chàng Stamford trẻ tuổi, người từng phụ mổ cho tôi ở trường Barts. Nhìn thấy một gương mặt quen ở giữa London rộng lớn xa lạ này quả là điều vui sướng đối với một kẻ cô đơn. Thời trước, Stamford với tôi chẳng thân thiết gì lắm, nhưng bây giờ tôi chào đón anh nhiệt tình, và đáp lại, anh ta hình như cũng vui mừng tái ngộ. Đang phấn chấn, tôi mời anh ta đến khu Holborn ăn trưa và cả hai đón một chiếc xe ngựa nhỏ cùng đi.

"Lâu nay anh làm gì, Watson?" Anh ta hỏi với vẻ ngạc nhiên không che giấu trong lúc cỗ xe lọc cọc đưa chúng tôi băng qua phố phường London đông đúc. "Trông anh gầy đét và đen thui."

Tôi kể sơ lược cho anh ta hay những chuyện mạo hiểm đi qua, và tới khi cỗ xe đưa chúng tôi đến nơi thì tôi cũng vừa kịp kể xong.

"Quỷ thần ơi!" Anh ta thốt lên với vẻ thương xót sau khi nghe những rủi ro của tôi. "Thế bây giờ anh tính sao?"

"Tìm chỗ trọ", tôi đáp. "Đang cố làm sao tìm được phòng ở tiện nghi mà giá cả phải chăng."

"Lạ thật", anh bạn tôi nhận xét, "hôm nay anh là người thứ hai nói với tôi y hệt những lời đó."

"Thế người thứ nhất là ai?" Tôi hỏi.

"Một anh chàng đang làm việc ở phòng thí nghiệm hóa học trên bệnh viện. Sáng nay anh ta cứ than thở vì không biết kiếm ai cùng chia đôi tiền để thuê mấy phòng tốt mới tìm được, chỗ đó thì lại vượt quá túi tiền của anh ta."

"Trời đất!" Tôi kêu to. "Nếu đúng là anh ta cần người ở chung và chia tiền trọ thì tôi quả thích hợp đây. Tôi lại thích có bạn cùng trọ hơn là ở một mình."

Ánh mắt anh chàng Stamford nhìn tôi có vẻ hơi khác lạ. Anh ta nói, "Anh chưa biết Sherlock Holmes đâu, chưa chắc anh đã muốn làm bạn lâu dài với anh ta."

"Thế anh ta có gì mà phải đề phòng chứ?"

"Ồ, tôi có nói anh phải đề phòng gì đâu. Anh ta có nhiều ý tưởng hơi kì quặc, một kẻ say mê nhiều lĩnh vực khoa học. Theo như tôi biết thì đó là một anh chàng khá đàng hoàng."

"Sinh viên y khoa chứ gì?" Tôi đoán.

"Không, tôi thật chẳng hiểu nổi anh ta muốn theo đuổi cái gì. Tôi tin là anh ta rất am tường môn giải phẫu, và là một nhà hóa học thượng thặng; nhưng theo những gì tôi biết được, anh ta không hề theo một lớp y khoa nào cho có hệ thống. Việc học của anh ta tuy rất lộn xộn và khác người nhưng anh ta lại tích lũy được nhiều kiến thức ngoài luồng đủ khiến nhiều giáo sư phải kinh ngạc."

"Thế anh không bao giờ hỏi xem anh ta đang theo đuổi cái gì sao?" Tôi hỏi.

"Không, anh ta không phải là kẻ dễ bộc lộ đâu, mặc dù khi nổi hứng lên thì cũng khá là cởi mở."

"Tôi thật tình muốn gặp", tôi nói. "Nếu tôi phải ở trọ chung với ai thì tôi thích một người tính khí siêng năng, trầm tĩnh. Tôi chưa được khỏe nên không chịu nổi sự ồn ào hay kích động quá mức. Cả hai thứ đó ở Afghanistan tôi đã phải chịu đựng đủ ngán ngẩm cho tới hết đời rồi. Làm sao tôi gặp được người bạn của anh đây?"

"Chắc chắn là anh ta đang ở phòng thí nghiệm", anh bạn tôi đáp. "Hoặc là anh ta tránh xa chỗ ấy suốt nhiều tuần liền, hoặc là làm việc ở đó từ sáng đến tối. Nếu anh thích, ăn trưa xong chúng ta sẽ đảo qua đó."

"Tất nhiên rồi", tôi đáp, và cuộc trò chuyện chuyển sang những đề tài khác.

Trên đường đến bệnh viện sau khi chúng tôi rời khỏi khu Holborn, Stamford cho tôi biết thêm vài chi tiết về người mà tôi đề nghị làm bạn cùng thuê trọ.

"Nếu anh không hòa hợp được với anh ta thì đừng có trách tôi đó", anh nói. "Tôi chẳng biết gì hơn ngoài cảm nhận qua đôi lần tiếp xúc trong phòng thí nghiệm."

"Nếu không hòa hợp thì đường ai nấy đi cũng dễ thôi mà", tôi đáp. "Stamford này", tôi nhìn chằm chằm vào anh bạn rồi nói tiếp, "hình như anh có lí do nào đó nên không muốn dính dáng vào chuyện này thì phải. Tính khí người này kinh khủng lắm hay là sao? Đừng có quanh co vòng vo nữa."

"Chuyện khó nói thì biết nói sao đây", anh vừa trả lời vừa cười. "Theo gu của tôi thì Holmes là người hơi quá khoa học, khoa học tới mức lạnh lùng. Tôi có thể tưởng tượng là anh ta dám lấy cả bạn mình ra để thí nghiệm một hợp chất alkaloid thực vật mới phát hiện, không phải vì ác ý đâu, anh biết đó, mà chỉ đơn thuần là vì muốn tìm hiểu chính xác những tác dụng phát sinh. Công bằng mà nói, tôi nghĩ anh ta cũng sẵn sàng lấy ngay bản thân ra mà thí nghiệm như thế. Anh ta hình như luôn say sưa với những kiến thức chính xác và rõ ràng."

"Thế là đúng chứ sao!"

"Phải, nhưng có thể đâm ra thái quá. Đến mức lấy gậy đánh đập mấy cái xác trong phòng mổ tử thi thì rõ ràng là kì dị."

"Đánh đập xác chết!"

"Đúng vậy, để xác minh xem sau khi chết, xác có thể bị bầm dập đến mức nào. Chính mắt tôi thấy anh ta làm thế."

"Thế mà anh nói anh ta không phải sinh viên y khoa?"

"Không phải. Có trời mới biết anh ta học để làm gì. Nhưng tới nơi rồi, cứ gặp anh ta rồi anh tự mình cảm nhận lấy." Trong lúc Stamford nói thì chúng tôi đã rẽ xuống một lối hẹp rồi đi qua một cửa phụ nhỏ dẫn vào một khu nhà của bệnh viện đồ sộ này. Đây là chốn quen thuộc nên tôi chẳng cần hướng dẫn khi cả hai bước lên cầu thang đá vắng vẻ và đi thẳng theo dãy hành lang hun hút chỉ có bức tường vôi trắng chạy dài và những cánh cửa xỉn màu. Gần phía cuối hành lang là một lối đi vòm thấp rẽ sang hướng khác, dẫn tới phòng thí nghiệm hóa học.

Đó là một gian phòng trần cao vút với vô số chai lọ, cái thì xếp ngay ngắn, cái thì bày bừa bãi. Đây đó là những chiếc bàn rộng, thấp, bên trên để lố nhố ống nghiệm, bình cổ cong, và những chiếc đèn Bunsen lập lòe ánh lửa xanh. Trong phòng chỉ có một sinh viên đang lom khom ở cái bàn đằng xa miệt mài làm việc. Nghe tiếng bước chân chúng tôi, anh ta đảo mắt một vòng rồi đứng bật dậy kêu to thích thú. "Tìm ra rồi! Tìm ra rồi!" Anh ta vừa hò hét với bạn tôi vừa chạy đến, trên tay cầm một ống nghiệm. "Tôi vừa tìm ra một loại thuốc thử chỉ kết tủa khi gặp huyết sắc tố." Nếu như anh ta có phát hiện ra mỏ vàng thì vẻ mặt cũng chỉ bộc lộ vui mừng đến thế là cùng.

"Đây là bác sĩ Watson, đây là Sherlock Holmes", Stamford giới thiệu hai chúng tôi.

"Bác sĩ khỏe không?" Anh ta vừa chào thân ái vừa bắt tay tôi với một lực mà tôi không hề muốn khen ngợi chút nào. "Anh vừa ở Afghanistan về, tôi biết."

"Làm sao anh biết chuyện đó hở trời?" Tôi sửng sốt.

"Đừng bận tâm", anh ta vừa nói vừa cười thích thú một mình. "Chuyện đáng nói lúc này chính là huyết sắc tố. Chắc chắn là anh thấy được tầm quan trọng của phát hiện vừa rồi chứ?"

"Đúng là đáng quan tâm, về mặt hóa học, chắc chắn rồi", tôi đáp, "nhưng thực tiễn thì..."

"Ồ, nào, đây là phát hiện pháp y thiết thực nhất trong nhiều năm qua đấy. Anh không thấy là nó sẽ cho ta một phép thử không thể sai để nhận biết vết máu à? Lại đằng này đi!" Anh ta hăm hở nắm lấy tay áo khoác của tôi, và kéo tôi lại chiếc bàn nãy giờ anh ta đang làm việc. "Ta phải có ít máu tươi", anh vừa nói vừa chích một cây kim dài vào ngón tay mình, rồi trút giọt máu vào một ống nhỏ dung dịch thí nghiệm. "Bây giờ, tôi cho lượng máu nhỏ này vào một lít nước. Anh thấy kết quả là hỗn hợp này trông giống như nước tinh khiết, tỉ lệ máu trong nước không thể vượt quá một phần triệu. Tuy nhiên, tôi tin chắc rằng chúng ta vẫn có thể thu được những phản ứng đặc trưng." Không ngừng lời, anh thảy vào bình chứa vài hạt tinh thể màu trắng, rồi cho thêm vào mấy giọt chất lỏng trong suốt. Ngay lập tức, hỗn hợp đổi sang màu đỏ xỉn đục rồi một chất bột nâu nâu lắng xuống đáy bình thủy tinh.

"Ha ha!" Anh vỗ tay cười to, trông sung sướng như một đứa trẻ có món đồ chơi mới. "Anh thấy thế nào?"

"Coi bộ đây là một phép thử rất nhạy", tôi nhận xét.

"Tuyệt vời! Tuyệt vời! Phép thử Guaiacum kiểu cũ rất thô vụng và không chắc chắn. Cách kiểm tra bằng kính hiển vi để tìm huyết cầu cũng thế. Kính hiển vi cũng vô dụng nếu máu đã khô trước đó vài tiếng đồng hồ. Đấy, cách này lại tỏ ra hữu hiệu cho dù vết máu cũ hay mới. Nếu như phép thử này được phát minh ra sớm hơn thì hàng trăm kẻ đang sống thong dong đã phải đền tội từ lâu."

"Thực vậy!" Tôi lẩm bẩm.

"Đó là điểm mấu chốt trong nhiều vụ án hình sự. Có khi một người bị tình nghi phạm tội nhiều tháng sau khi tội ác đã xảy ra. Người ta sẽ khám xét quần áo hay chăn nệm của y, và phát hiện ra những vết nâu nâu ở đó. Là máu, bùn, vết gỉ sét, vết trái cây, hay là cái gì? Đó là câu hỏi luôn khiến nhiều chuyên gia bối rối lâu nay, và tại sao thế? Bởi vì không có phép thử nào đáng tin cậy. Bây giờ ta đã có phép thử Sherlock Holmes, và sẽ không còn gì khó khăn nữa cả."

Đôi mắt anh ta sáng rực lên trong khi nói, rồi anh đặt một bàn tay lên ngực và cúi chào cứ như có một đám đông tán thưởng từ trong tưởng tượng vụt hiện ra.

"Xin chúc mừng anh", tôi nói, lòng ngạc nhiên không ít trước sự hăng hái của anh ta.

"Năm ngoái đã có vụ Von Bischoff ở Frankfurt. Nếu lúc đó mà có phép thử này thì nhất định hắn phải bị treo cổ rồi. Rồi còn vụ Mason ở Bradford, vụ Muller khét tiếng, vụ Lefevre ở Montpellier, và vụ Samson ở New Orleans. Tôi có thể kể ra cả chục vụ mà lẽ ra đã có thể định đoạt bằng cách này."

"Anh cứ như một cuốn lịch sống về hình sự vậy," Stamford bật cười nhận xét. "Anh có thể ra một tờ báo chuyên về lĩnh vực này đó. Hãy gọi nó là tờ Tin hình sự thời dĩ vãng."

"Nội dung có thể rất hấp dẫn đấy", Sherlock Holmes vừa nói vừa dán một mẩu băng dính nhỏ trên vết chích ở ngón tay. "Tôi phải cẩn thận", anh ta quay sang tôi, tươi cười nói tiếp, "vì tôi hay đụng vào chất độc lắm." Anh ta chìa bàn tay ra và tôi để ý thấy cả bàn tay đều lốm đốm những mẩu băng dính tương tự và bệch bạc vì các thứ axít mạnh.

"Chúng tôi đến đây có việc", Stamford ngồi xuống một chiếc ghế cao ba chân rồi lấy chân đẩy một chiếc ghế khác về phía tôi. "Anh bạn tôi đây muốn tìm chỗ nương thân, vì tôi nghe anh cứ than phiền là không tìm ra ai chia đôi tiền trọ, tôi nghĩ tốt nhất nên cho hai người gặp nhau."

Coi bộ Sherlock Holmes vui mừng với ý tưởng ở trọ chung với tôi. "Tôi có để mắt tới một căn hộ trên phố Baker", anh nói, "chỗ này hoàn toàn phù hợp với chúng ta. Hi vọng là anh không phiền lòng với mùi thuốc lá nặng đấy chứ?"

"Tôi cũng bập phà luôn đấy mà", tôi đáp.

"Thế thì hay. Tôi thường để hóa chất lung tung và thỉnh thoảng có làm thí nghiệm. Việc này có phiền anh không?"

"Hoàn toàn không."

"Để xem... tôi còn thiếu sót gì khác không. Có lúc tôi cũng khó ở và suốt mấy ngày liền không mở miệng. Khi tôi như thế thì anh đừng nghĩ tôi cau có, khó chịu. Cứ để mặc tôi rồi tôi sẽ bình thường lại thôi. Bây giờ anh có gì thú tội không? Tốt nhất là trước khi ở chung, hai người nên biết những thói hư tật xấu của nhau."

Tôi bật cười trước trò đối chất này. "Tôi có một chú bun đấy. Và tôi ghét ồn ào vì thần kinh tôi không vững. Tôi hay thức dậy vào những giờ giấc bất tiện và hết sức lười biếng. Tôi còn nhiều thói xấu khác nữa khi tôi mạnh khỏe, nhưng hiện thời thì bấy nhiêu là chủ yếu," tôi nói.

"Chơi vĩ cầm có được tính vào cái phạm trù ồn ào của anh không đấy?" Anh ta có vẻ lo lắng.

"Còn tùy vào người chơi", tôi đáp. "Vĩ cầm mà chơi hay thì thần thánh cũng phải mê, còn chơi dở thì..."

"Ồ, thế thì ổn cả", anh vừa kêu lên vừa bật cười vui vẻ. "Tôi nghĩ việc này coi như xong, tức là nếu như chỗ ở đó hợp ý anh."

"Vậy khi nào chúng ta đi xem nhà đây?"

"Gặp tôi ở đấy trưa ngày mai, rồi chúng ta sẽ cùng đi và dàn xếp mọi thứ", anh đáp.

"Được rồi, đúng trưa mai", tôi bắt tay cáo từ.

Sherlock Holmes ở lại cặm cụi với mớ hóa chất, còn hai chúng tôi cùng tản bộ về hướng khách sạn tôi ở.

"À này", tôi đột ngột dừng bước, quay sang hỏi Stamford, "làm sao anh ta biết tôi từ Afghanistan về hở trời?"

Anh bạn tôi nở một nụ cười bí ẩn. Anh nói, "Đó chính là điểm kì quặc của anh ta đấy. Rất nhiều người muốn biết anh ta làm cách nào mà tìm hiểu ra nhiều chuyện thế."

"Ồ! Bí ẩn nhỉ?" Tôi kêu lên, hai bàn tay xoa vào nhau. "Đúng là gây tò mò hết sức! Rất cảm ơn anh đã đưa tôi gặp anh ta. Đối tượng nghiên cứu thích đáng của loài người là chính con người, anh biết mà."

"Vậy thì anh cố mà nghiên cứu anh ta nhé", Stamford nói lúc chào tạm biệt tôi. "Nhưng anh sẽ thấy anh ta là một bài toán nan giải. Tôi dám đánh cuộc là anh ta biết về anh còn nhiều hơn anh biết về anh ta đấy. Tạm biệt."

  "Tạm biệt", tôi đáp lại rồi tiếp tục tản bộ về khách sạn, trong lòng đầy hiếu kì về người mới quen. 

2. Khoa học suy luận

 Hôm sau chúng tôi gặp nhau như đã hẹn, rồi cùng đi xem phòng ở số 221B phố Baker mà anh đã nhắc đến lần trước. Có hai phòng ngủ tiện nghi và một phòng khách rộng thoáng, có sẵn đồ đạc trông vui mắt và sáng sủa nhờ hai cửa sổ lớn. Căn hộ này thật đáng ao ước về mọi mặt và giá thuê hóa ra lại dễ chịu tới mức nếu chúng tôi chia đôi tiền thì quá hời. Thế là chúng tôi thuê luôn. Ngay chiều hôm đó, tôi chuyển đồ đạc từ khách sạn qua, và sáng hôm sau tới lượt Sherlock Holmes dọn đến với nhiều rương hòm lỉnh kỉnh. Chúng tôi mất một hai ngày bận rộn tháo dỡ và bày biện các vật dụng riêng sao cho thuận tiện nhất. Xong việc này, chúng tôi mới dần dần bắt đầu ổn định và thích ứng với môi trường mới.

Holmes chắc chắn không phải là người khó sống chung. Anh có tính trầm lặng và thói quen điều độ. Hiếm khi anh ngủ muộn sau 10 giờ đêm và lúc nào cũng dùng điểm tâm và ra khỏi nhà trước khi tôi thức giấc vào buổi sáng. Có lúc anh miệt mài cả ngày ở phòng thí nghiệm hóa học, có lúc ở phòng mổ tử thi, và đôi khi tản bộ rất xa, những chuyến đi này hình như đưa anh đến tận những khu vực bần cùng nhất của London. Một khi đã nổi hứng làm việc thì không có chuyện gì là quá sức anh; nhưng thỉnh thoảng bị một cơn ức chế và suốt mấy ngày anh cứ nằm dài trên trường kỉ trong phòng khách, từ sáng đến tối không nói không rằng mà cũng không cục cựa mảy may. Những lần như thế, tôi để ý thấy ánh mắt anh có vẻ mơ màng, lờ đờ tới mức tôi nghi ngờ là anh nghiện một loại ma túy nào đó, mặc dù sự điều độ và tươm tất trong toàn bộ cuộc sống của anh không cho phép tôi nghĩ như thế.

Mấy tuần lễ đã trôi qua, mối quan tâm và tò mò về con người lẫn mục đích sống của anh ngày càng sâu và lớn thêm trong lòng tôi. Ngay chính dáng dấp và diện mạo của anh đã khiến một người quan sát hờ hững nhất cũng phải chú ý rồi. Anh cao hơn sáu foot và gầy quá mức nên trông lại càng cao hơn. Đôi mắt anh luôn có cái nhìn sắc bén ngoại trừ những lúc đờ đẫn như tôi đã nói; sống mũi khoằm, thanh mảnh làm cho cả gương mặt toát ra vẻ lanh lợi và quả quyết. Cả cái cằm vuông vức, nhô ra trước cũng cho thấy rõ anh là một con người kiên định. Hai bàn tay lúc nào cũng dính dấu mực và vết bẩn hóa chất nhưng lại khéo léo lạ thường - như tôi thường có dịp chứng kiến khi quan sát anh thao tác với những dụng cụ khoa học mỏng manh.

Độc giả có thể cho tôi là kẻ nhiều chuyện hết thuốc chữa khi tôi thú nhận rằng con người này đã khuấy động lòng hiếu kì của tôi biết bao, và đã không ít lần tôi cố gắng phá vỡ sự kín đáo cố hữu của anh trong mọi việc liên quan đến bản thân anh. Nhưng trước khi đưa ra phán xét, xin hãy nhớ cho, cuộc sống của tôi có mục đích gì đâu và hầu như chẳng có gì khiến tôi chú tâm cả. Sức khỏe không cho phép tôi đánh liều đi ra đường, trừ phi thời tiết hết sức dễ chịu, và tôi chẳng hề có bạn bè nào ghé thăm để phá tan nhịp sống đơn điệu thường nhật. Trong hoàn cảnh này, tôi hăm hở đón nhận sự bí ẩn nho nhỏ bao trùm người trọ cùng tôi và dành phần lớn thời gian để cố làm sáng tỏ điều đó.

Anh không theo học ngành y. Trong một lần trả lời thắc mắc, chính anh đã xác nhận ý kiến của Stamford về điểm này. Anh không đọc sách theo đường hướng nào thích hợp với một bằng cấp khoa học, hay một ngưỡng cửa chính thống nào khác để bước vào thế giới học thuật. Thế nhưng nhiệt huyết anh dành cho một số ngành nghiên cứu lại rất đáng nể, và trong những lĩnh vực kì cục này thì hiểu biết của anh lại phong phú và cặn kẽ lạ thường, tới mức nhiều nhận xét của anh khiến tôi phải sửng sốt. Chắc chắn là không ai làm việc nỗ lực hay có được những thông tin chính xác đến thế mà lại không đặt ra một mục đích rõ ràng. Kiến thức của người đọc sách tùy hứng hiếm khi nào có được sự chính xác đáng kể. Chẳng ai bận tâm tới những vấn đề nhỏ nhặt trừ phi họ có lí do chính đáng để làm như thế.

Sự thiếu hiểu biết của anh cũng thật đáng nể như kiến thức của anh vậy. Về chính trị, triết học và văn chương đương thời, anh hầu như chẳng biết gì cả. Nghe tôi trích dẫn Thomas Carlyle, anh hỏi ngây thơ hết sức rằng người đó là ai và đã làm gì. Tuy vậy, nỗi ngạc nhiên của tôi chỉ lên tới đỉnh điểm khi tình cờ tôi phát hiện ra anh không hề biết thuyết Copernicus và cấu trúc Thái Dương hệ. Ở thế kỉ mười chín này mà có chuyện một con người văn minh lại không biết trái đất chuyển động quanh mặt trời, đối với tôi quả là dị thường không thể nào hiểu nổi.

"Trông anh ngạc nhiên kìa", anh vừa nói vừa cười trước vẻ mặt sửng sốt của tôi. "Bây giờ đã biết điều đó rồi thì tôi sẽ cố hết sức để quên nó luôn!"

"Quên luôn!"

"Vậy đó", anh giải thích, "tôi xem bộ óc con người ban đầu cũng giống như một cái gác xép trống nhỏ bé, và ta phải trang bị cho nó những thứ đồ đạc có chọn lọc. Một kẻ xuẩn ngốc sẽ chất đầy vào đủ thứ linh tinh mà hắn gặp đâu vơ đấy, cho nên những kiến thức có thể hữu ích cho hắn sẽ bị loại ra ngoài, hoặc cùng lắm thì lẫn lộn với nhiều thứ khác, cho nên khi hắn cần tới thì chẳng biết chúng nằm ở đâu. Trong khi một người thợ giỏi lại rất kĩ lưỡng với những gì anh ta cho vào cái gác xép bộ óc kia. Anh ta sẽ chỉ chọn toàn những dụng cụ có thể giúp ích cho công việc của mình, nhưng với những thứ này anh ta lại có một bộ sưu tập lớn và tất cả đều được sắp xếp theo trật tự hoàn hảo nhất. Đừng tưởng cái buồng nhỏ bé đó có những bức vách đàn hồi, muốn nhồi nhét bao nhiêu cũng được. Cứ tin như thế, sẽ đến lúc mỗi lần ta bổ sung thêm một kiến thức thì ta lại quên mất một điều đã biết. Cho nên, quan trọng nhất là đừng để những thông tin vô dụng tống khứ những thông tin hữu ích ra ngoài."

"Nhưng còn Thái Dương hệ!" Tôi phản bác.

"Thì nghĩa lí quái gì với tôi chứ?" Anh sốt ruột ngắt lời. "Anh nói chúng ta quay quanh mặt trời chứ gì? Nếu có quay quanh mặt trăng đi nữa thì cũng chẳng ảnh hưởng một chút nào đến tôi hay công việc của tôi."

Tôi đã định hỏi xem công việc của anh là gì nhưng với thái độ của anh như thế thì tôi thấy câu hỏi này sẽ không được hoan nghênh. Tuy vậy, tôi cứ ngẫm nghĩ về cuộc chuyện trò ngắn ngủi ấy và cố rút ra những suy luận riêng. Anh bảo là không muốn thu thập bất kì kiến thức nào không liên quan đến mục đích của mình. Như thế mọi kiến thức Holmes có được hẳn là rất hữu ích đối với anh. Tôi thầm liệt kê trong đầu đủ các lĩnh vực mà anh đã cho tôi thấy rằng anh hết sức am tường. Thậm chí tôi còn lấy bút chì ghi ra giấy. Tôi không thể không bật cười trước tờ giấy tôi vừa viết. Nó như thế này:

Sherlock Holmes - phạm vi trình độ

1. Kiến thức văn học - Không.

2. Kiến thức triết học - Không.

3. Kiến thức thiên văn học - Không.

4. Kiến thức chính trị - Yếu.

5. Kiến thức thực vật học - Không đều. Rất giỏi về các loại cà độc dược, thuốc phiện, và các loài có chất độc nói chung. Không biết gì về trồng trọt.

6. Kiến thức địa chất học - Thực tế, nhưng hạn hẹp. Chỉ nhìn qua là phân biệt được ngay các loại đất. Sau những chuyến tản bộ đã cho tôi xem những vết đất bẩn trên quần anh ta, và qua màu sắc cùng độ sệt của các vết này cho biết loại đất nào thuộc khu vực nào của London.

7. Kiến thức hóa học - Uyên thâm.

8. Kiến thức giải phẫu học - Chính xác, nhưng không hệ thống.

9. Kiến thức về chuyện giật gân - Mênh mông. Dường như biết đến từng chi tiết mọi chuyện kinh hoàng đã xảy ra trong thế kỉ này.

10. Chơi vĩ cầm rất hay.

11. Là một tay kiếm, quyền Anh và côn lão luyện.

12. Am hiểu thực tế về luật pháp Anh quốc.

Khi liệt kê danh mục này tới đây, tôi tuyệt vọng ném luôn vào lò sưởi. "Làm sao kết hợp các khả năng này lại, và tìm cho được nghề nào cần đến tất cả những yếu tố đó thì họa may mới biết anh chàng đang theo đuổi cái gì," tôi tự nhủ. "Tốt nhất nên từ bỏ ngay ý định này cho rồi."

Tôi thấy là ở trên tôi có nhắc đến tài chơi vĩ cầm của anh ta. Mặt này rất xuất sắc nhưng cũng quái lạ như mọi tài nghệ khác của anh. Chuyện anh ta chơi được nhiều bài, và nhiều bài khó, thì tôi biết rõ, vì anh đã từng chơi theo yêu cầu của tôi một số tấu khúc Mendelssohn cùng nhiều bài tôi thích. Tuy nhiên, nếu cứ để cho anh ta tùy ý thì hiếm khi anh đàn theo bài hay tạo ra bất cứ âm thanh nào có thể gọi là nhạc điệu. Cả buổi tối ngồi ngả lưng ra ghế bành, anh thường nhắm mắt và lơ đãng cọ chiếc vĩ vào cây đàn đặt trên đầu gối. Những hòa âm ấy có lúc ngân rền và sầu muộn, lúc khác lại dị thường và vui tươi. Rõ ràng những âm thanh đó phản ánh dòng suy nghĩ đang chi phối anh ta, nhưng tôi không thể nào biết chắc là thứ âm nhạc ấy đang hỗ trợ cho dòng suy tư hay việc kéo đàn chỉ đơn thuần là kết quả của sự ngẫu hứng hoặc ý muốn nhất thời. Lẽ ra tôi đã chống đối những màn độc tấu khó chịu kiểu đó nếu như anh ta không kết thúc bằng cách chơi liên tiếp một loạt bài mà tôi ưa thích như đền bù qua loa vì đã thường xuyên thử thách sự nhẫn nại của tôi.

Trong khoảng tuần lễ đầu tiên, chúng tôi không có khách nào đến nhà và tôi bắt đầu cho rằng anh bạn này cũng là một kẻ không có bạn bè giống như tôi. Nhưng liền sau đó tôi thấy anh có nhiều người quen biết, và họ thuộc những tầng lớp xã hội không thể đa dạng hơn. Có một gã mắt đen, mặt chuột, da vàng bủng, người thấp bé, mà tôi nghe giới thiệu là ông Lestrade, đã tới đây ba hay bốn lần chỉ trong một tuần. Một buổi sáng, có một cô gái ăn mặc thời thượng ghé đến và nán lại đâu chừng nửa giờ. Ngay chiều hôm đó lại xuất hiện một vị khách tóc hoa râm, vẻ tiều tụy, trông như một người Do Thái bán rong, nhưng tôi thấy người này hình như đang mất bình tĩnh lắm. Ông này vừa đi thì tới lượt một phụ nữ đứng tuổi phục sức tồi tàn. Vào dịp khác có một ông già quý phái tóc bạc đến gặp riêng anh bạn tôi; và có lần khách đến lại là một người phu khuân vác mặc đồng phục vải nhung của ngành hỏa xa. Cứ mỗi lần có một nhân vật khó xác định như thế xuất hiện, Sherlock Holmes lại xin sử dụng phòng khách và tôi thường lui về phòng ngủ của mình. Anh luôn xin lỗi vì khiến tôi phải chịu sự bất tiện này. "Tôi phải dùng phòng này làm nơi hành nghề", anh nói, "và những người này là thân chủ của tôi." Một lần nữa tôi lại có cơ hội hỏi thẳng anh ta, và một lần nữa phép tế nhị lại ngăn tôi ép buộc người khác phải thổ lộ với mình. Lúc đó tôi cứ cho là anh ta hẳn phải có lí do rõ rệt để không nhắc đến nghề nghiệp, nhưng chẳng bao lâu sau anh đã xua tan ý nghĩ đó khi chính anh chủ động đề cập đến chuyện này.

Hôm đó là ngày 4 tháng 3. Tôi có lí do chính đáng để ghi nhớ vì hôm đó tôi thức giấc sớm hơn lệ thường và thấy Sherlock Holmes vẫn chưa dùng điểm tâm xong. Bà chủ nhà đã quen với thói dậy muộn của tôi nên chưa dọn điểm tâm và pha cà phê cho tôi. Với lối hờn dỗi vô lí của loài người, tôi rung chuông và thông báo cộc lốc rằng tôi đã sẵn sàng. Rồi tôi cầm tờ tạp chí trên bàn lên và thử dùng nó giải khuây cho qua thời gian trong khi anh bạn tôi cứ lặng lẽ nhai miếng bánh mì nướng. Một bài báo có vết bút chì đánh dấu ngay đầu đề, và đương nhiên tôi đọc lướt qua bài báo đó. Với cái tít có phần tham vọng là Cuốn sách cuộc đời, bài báo cố chứng minh rằng một người tinh ý có thể biết được bao điều nếu chịu xem xét chính xác và có hệ thống mọi thứ anh ta bắt gặp. Tôi có cảm tưởng như bài báo này là một sự pha trộn đáng nể những ý tưởng thông minh lẫn ngớ ngẩn. Lập luận rất chặt chẽ và mạnh mẽ nhưng các suy diễn thì tôi thấy quá viển vông và cường điệu. Tác giả khẳng định là chỉ cần một nét mặt thoáng qua, một cơ bắp máy động hay một cái liếc mắt, cũng đủ để tìm hiểu được những ý nghĩ sâu kín của người ta. Theo tác giả này thì không thể nào lừa dối được một người đã thành thạo khả năng quan sát và phân tích. Kết luận của anh ta chắc như đinh đóng cột chẳng khác gì những tiên đề của Euclid. Với những ai không am hiểu thì những kết quả phán đoán của người này sẽ gây sửng sốt tới mức, nếu họ không biết được tiến trình suy luận của người đó, họ sẽ cho anh ta là phù thủy. Tác giả viết:

Từ một giọt nước, người giỏi suy luận có thể suy ra cả một đại dương hay một dòng thác mà không cần phải nhìn hay nghe tận nơi. Bởi toàn bộ cuộc sống là một chuỗi liên kết vĩ đại, chỉ cần thấy được một mắt xích là ta sẽ biết được bản chất của cả chuỗi. Như mọi nghệ thuật khác, Khoa học Suy luận và Phân tích là thứ chỉ có thể thu nạp được bằng cách học tập bền bỉ và kiên trì, mà cuộc đời thì quá ngắn ngủi để người phàm có thể đạt tới trình độ cao nhất. Trước khi chuyển sang những khía cạnh trí tuệ hay luân lí của vấn đề, vốn đặt ra những thách thức lớn nhất, người điều tra hãy bắt đầu bằng cách rèn giũa những vấn đề sơ đẳng hơn. Sao cho khi gặp một người khác, anh ta nhận biết được lai lịch, nghề nghiệp hay chuyên môn của kẻ đó chỉ bằng một cái liếc nhìn. Dù đó có vẻ là một cách luyện tập tầm thường, nhưng nó lại giúp khả năng quan sát thêm nhạy bén, dạy cho ta biết phải nhìn ở đâu và tìm kiếm cái gì. Móng tay, ống tay áo, đôi ghệt, hai đầu gối ống quần, những vết chai sần ở ngón cái và ngón trỏ, nét mặt, cổ tay áo... nghề nghiệp của một người phơi bày hiển hiện qua từng yếu tố này. Nếu tập hợp tất cả những chi tiết ấy lại mà điều tra viên giỏi vẫn không làm sáng tỏ được điều này thì quả là không thể tưởng tượng nổi.

"Bá láp không chịu được!" Tôi kêu to, đập mạnh tờ tạp chí xuống bàn. "Trong đời tôi chưa bao giờ đọc cái gì nhảm nhí như thế này!"

"Cái gì thế?" Sherlock Holmes hỏi.

"Ồ, bài báo này", tôi lấy cái thìa ăn trứng chỉ vào trang báo trong lúc ngồi vào bàn điểm tâm. "Tôi biết anh đọc rồi vì anh đã đánh dấu vào đó. Không phủ nhận là bài này viết sắc sảo. Nhưng mà đọc vẫn bực mình. Đây rõ ràng là lí thuyết của một kẻ rỗi hơi ngồi nhà ẩn mình trong thư phòng rồi bịa ra đủ thứ chuyện ngược đời tủn mủn vụn vặt như thế này. Đúng là phi thực tế. Tôi muốn tống gã này vào một toa hạng ba ở hệ thống đường sắt ngầm rồi yêu cầu gã đoán nghề nghiệp của hết thảy mọi người trong toa xem sao. Tôi dám cá một ngàn ăn một là hắn thua."

"Anh sẽ mất tiền mà thôi", Sherlock Holmes bình thản lên tiếng. "Còn bài báo đó là chính tôi viết đấy."

"Anh sao?"

"Đúng, tôi có năng khiếu cả về quan sát lẫn suy luận. Những lí thuyết mà tôi trình bày ở đây, những điều mà anh cho là hão huyền đó, thực ra lại cực kì thực tế, thực tế tới mức nhờ chúng mà tôi kiếm sống qua ngày".

"Bằng cách nào chứ?" Tôi buột miệng hỏi.

"À, tôi có nghề nghiệp riêng. Tôi tin mình là người duy nhất trên đời làm nghề này. Tôi là thám tử cố vấn, chắc anh chẳng hiểu là gì, ở London này chúng ta có rất nhiều thám tử nhà nước và thám tử tư. Khi những người này mắc phải sai lầm thì họ lại tìm đến tôi, và tôi cố gắng giúp họ điều tra đúng hướng. Họ trưng hết chứng cứ cho tôi xem, và nhờ kiến thức của tôi về lịch sử hình sự, tôi có thể đưa ra chỉ dẫn chung để nắn họ đúng hướng. Những hành vi phạm tội thường có mối dây tương đồng mạnh mẽ, và nếu như ta đã nắm trong lòng bàn tay mọi chi tiết của một ngàn vụ mà không làm sáng tỏ được vụ thứ một ngàn lẻ một thì đúng là kì quặc. Lestrade là một thanh tra nổi tiếng đấy. Gần đây ông ta lâm vào ngõ cụt với một vụ giả mạo, và chính vì thế mà ông ta đã tới đây."

"Thế còn mấy người kia?"

"Họ chủ yếu là do các hãng điều tra tư phái tới. Họ toàn là những người đang gặp rắc rối gì đó, và muốn được khai sáng chút ít. Tôi lắng nghe chuyện của họ, họ lắng nghe những ý kiến của tôi, rồi tôi bỏ túi tiền thù lao."

"Nhưng ý anh cho rằng", tôi nói, "không cần rời khỏi căn phòng này anh vẫn có thể gỡ rối một gút mắc nào đó mà những người kia phải bó tay, mặc dù chính họ đã biết rõ mọi chi tiết à?"

"Đúng thế. Tôi có khả năng trực giác kiểu như vậy. Cũng có khi xảy ra một vụ gì đó phức tạp hơn một chút. Khi đó tôi phải chạy tới chạy lui đích thân xem xét mọi thứ. Anh biết là tôi có nhiều kiến thức đặc biệt mà tôi vận dụng vào những chuyện khó khăn và làm cho nhiều việc trở nên thuận lợi vô cùng. Những quy tắc suy luận nêu ra trong bài báo mà anh khinh rẻ đó lại hết sức quý báu với tôi trong công việc thực tế. Với tôi, quan sát là bản năng thứ hai. Lúc gặp nhau lần đầu, anh đã tỏ ra ngạc nhiên khi nghe tôi nói là anh từ Afghanistan về đấy thôi."

"Nhất định là anh đã nghe ai nói rồi."

"Làm gì có chuyện đó. Tôi biết anh từ Afghanistan về. Do thói quen từ lâu, một chuỗi suy luận đã lướt qua tâm trí tôi nhanh tới mức tôi đi đến kết luận mà không để ý đến những bước trung gian. Tuy nhiên vẫn có những bước như thế. Chuỗi suy luận đó như sau: Đây là một quý ông thuộc ngành y nhưng có phong thái nhà binh. Vậy rõ ràng là bác sĩ quân y. Anh ta mới về từ vùng nhiệt đới, vì da mặt rám đen, và đó không phải là màu da tự nhiên vì da ở hai cổ tay lại trắng. Anh ta đã kinh qua gian khổ và bệnh tật, bởi gương mặt hốc hác đã nói rõ điều đó. Cánh tay trái của anh ta đã bị thương tích. Tư thế cánh tay ấy cứng nhắc và không tự nhiên. Vậy đâu là vùng nhiệt đới nơi một bác sĩ quân y Anh quốc phải gặp nhiều gian khổ và bị thương nơi cánh tay? Rõ ràng là Afghanistan rồi. Toàn bộ chuỗi suy luận ấy lướt qua không đầy một giây. Sau đó tôi nhận xét là anh ở Afghanistan về và anh đã sửng sốt."

"Anh giải thích thì nghe thật đơn giản", tôi vừa nói vừa cười. "Anh làm tôi nhớ tới nhân vật Dupin của Edgar Allan Poe. Tôi thật không ngờ những nhân vật như thế lại tồn tại bên ngoài trang sách."

Sherlock Holmes đứng dậy châm tẩu thuốc. "Chắc chắn anh cho là anh đang khen ngợi tôi khi so sánh tôi với Dupin," anh nhận xét. "Này, theo tôi thì Dupin là một tay rất xoàng xĩnh. Hắn hay làm cái trò chen ngang vào ý nghĩ của bạn bè bằng một lời bình luận đúng lúc sau cả mười lăm phút im lặng, trò ấy quá ư phô trương và nông cạn. Hắn có chút thiên tư phân tích đấy, hẳn rồi, nhưng hoàn toàn chẳng phải là một hiện tượng gì ghê gớm như Poe đã tưởng tượng ra cả."

"Thế anh đã đọc các tác phẩm của Gaboriau chưa?" Tôi hỏi. "Lecoq có đạt tới trình độ một thám tử như anh nghĩ không nào?"

Sherlock Holmes khịt mũi khinh thường. Anh đổi giọng giận dữ, "Lecoq là một tên vụng về thảm hại. Hắn chỉ có một thứ duy nhất đáng khen chính là sức lực của hắn. Đọc truyện Gaboriau tôi muốn bệnh luôn. Vấn đề là làm cách nào xác định được một tù nhân chưa biết. Tôi có thể giải quyết chuyện đó trong vòng hai mươi bốn giờ. Còn tay Lecoq kia mất khoảng sáu tháng mới xong. Thứ tác phẩm đó có thể làm giáo trình cho thám tử để dạy họ những điều nên tránh."

Tôi khá phẫn nộ khi thấy hai nhân vật mà mình hâm mộ lại bị khinh thường như thế. Tôi đi tới cửa sổ và đứng nhìn ra con đường nhộn nhịp bên ngoài. Tôi nghĩ thầm, "Gã này thông minh tới đâu chưa biết, nhưng chắc chắn là rất tự cao tự đại."

"Thời buổi này không có tội ác nào mà cũng chẳng có tội phạm nào cả", anh nói tiếp, giọng ta thán. "Trong nghề nghiệp của chúng tôi thì trí óc dùng để làm gì? Tôi biết rõ trí óc mình thừa sức làm cho tôi nổi tiếng. Từ trước đến nay chưa hề có một người nào vừa tìm tòi nhiều lại vừa có tài năng thiên bẩm như tôi, áp dụng vào việc phát hiện tội ác như tôi đã làm. Và kết quả là gì? Chẳng còn tội ác nào để điều tra, hay cùng lắm chỉ còn mấy hành vi thủ ác vụng về với động cơ rõ ràng tới mức ngay cả một viên chức ở Sở Cảnh sát London cũng có thể thấy rõ bản chất."

Tôi vẫn còn bực mình vì cái lối nói chuyện tự phụ của Sherlock Holmes. Tôi nghĩ tốt nhất nên đổi đề tài.

"Tôi thắc mắc không biết anh chàng kia đang tìm kiếm cái gì?" Tôi vừa hỏi vừa chỉ tay về phía một người lực lưỡng, ăn mặc đơn giản, đang chậm rãi tản bộ ven đường bên kia, mắt lo lắng nhìn từng số nhà. Anh ta cầm trong tay một phong bì xanh khổ lớn, và rõ ràng là một người đưa tin.

"Anh muốn nói tới anh chàng trung sĩ thủy quân lục chiến đã phục viên đấy à", Sherlock Holmes nói.

Tôi thầm nghĩ, "Đúng là đồ ba hoa khoác lác! Gã thừa biết là mình không thể kiểm chứng được những phỏng đoán của gã mà."

Ý nghĩ đó mới lóe lên trong tâm trí thì người chúng tôi quan sát nãy giờ đã tìm ra số nhà trên cánh cửa căn hộ của chúng tôi, và chạy thật nhanh băng qua đường. Chúng tôi nghe thấy một tiếng gõ cửa mạnh, một giọng nói trầm trầm ở dưới nhà, rồi tiếng bước chân nặng nề đi lên cầu thang.

"Gửi cho ông Sherlock Holmes", người ấy vừa nói vừa bước vào phòng và đưa phong thư cho anh bạn tôi.

Đây là cơ hội để đập tan thói tự phụ của Sherlock Holmes. Hẳn anh chẳng nghĩ đến chuyện này khi đưa ra lời nhận xét hú họa ban nãy.

"Này, chàng trai, tôi hỏi khí không phải", tôi nói với người đưa tin bằng giọng ôn tồn nhất, "anh làm nghề gì vậy?"

"Thưa, liên lạc viên", anh ta đáp gọn ghẽ. "Đồng phục đã đem đi sửa."

"Thế còn trước đây?" Tôi hỏi, kèm theo cái liếc mắt hơi thâm hiểm về phía anh bạn tôi. 

"Thưa, trung sĩ, thưa, khinh binh thủy quân lục chiến hoàng gia. Không hồi âm? Thưa, vâng."

Anh chàng đập hai gót chân vào nhau, đưa tay chào kiểu nhà binh, rồi biến mất.

3. Bí ẩn Lauriston Gardens

Thú thật là tôi giật bắn người trước cái bằng chứng mới mẻ này về tính thực tiễn trong các lí thuyết của Sherlock Holmes. Lòng kính nể của tôi dành cho tài phân tích của anh đã tăng lên bội phần. Tuy nhiên, tâm trí tôi vẫn còn gợn chút hồ nghi rằng toàn bộ chuyện này là một tình tiết đã được dàn cảnh để lòe tôi, mặc dù anh ta muốn lừa tôi nhằm mục đích quái quỷ gì thì tôi không tài nào hiểu được. Khi tôi nhìn sang thì anh đã đọc xong bức thư, và trong đôi mắt anh lại là biểu hiện xa vắng, đờ đẫn của một trí óc lơ đãng.

"Làm thế nào anh suy luận ra được hở trời?" Tôi hỏi.

"Suy luận chuyện gì?" Anh cáu kỉnh hỏi lại.

"Ồ, chuyện anh ta là trung sĩ thủy quân lục chiến giải ngũ đó."

"Tôi không có thời gian cho những chuyện vặt vãnh", anh trả lời giọng cộc cằn, rồi lại mỉm cười. "Xin lỗi vì đã thô lỗ. Anh cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi, nhưng có lẽ thế cũng tốt thôi. Hóa ra anh không nhận biết được người đó là trung sĩ thủy quân lục chiến sao?"

"Thực tình là không."

"Biết thì dễ, chứ giải thích tại sao tôi biết còn khó hơn. Nếu ai bắt anh chứng minh hai cộng hai là bốn, chắc anh sẽ có phần lúng túng, thế nhưng anh lại rất đinh ninh điều đó. Ngay từ khi anh chàng đó còn ở bên kia đường, tôi đã nhìn thấy trên mu bàn tay anh ta hình xăm một mỏ neo lớn màu xanh. Dấu hiệu đó có liên quan đến biển. Tuy nhiên, người này có dáng đi nhà binh, và có tóc mai dài hai bên đúng quy chuẩn. Ta suy ra được thủy quân lục chiến. Người này có chút gì đó ra vẻ quan trọng và có phong thái quyền uy nhất định. Chắc hẳn anh đã nhận thấy cách anh ta ngẩng cao đầu và vung cây gậy. Nhìn qua đã thấy đây là một người trung niên khả kính và vững vàng - tất cả những yếu tố đó khiến tôi tin rằng người này đã từng là một trung sĩ."

"Tuyệt vời!" Tôi buột miệng.

"Tầm thường thôi", Holmes nói vậy nhưng qua nét mặt của anh, tôi nghĩ anh hài lòng trước sự ngạc nhiên và thán phục rành rành của tôi. "Mới hồi nãy tôi nói là chẳng hề có tội phạm nào. Hình như tôi đã lầm... Anh nhìn này!" Anh thảy cho tôi bức thư mà người liên lạc đã mang đến.

"Ôi", tôi kêu to khi đảo mắt qua bức thư, "kinh khủng quá!"

"Coi bộ hơi khác thường đó", anh bình tĩnh nhận xét. "Phiền anh đọc to lên giúp tôi đi?"

Đây là bức thư tôi đọc cho anh nghe:

ÔNG SHERLOCK HOLMES QUÝ MẾN,

Đêm qua đã có chuyện dữ ở số 3 Lauriston Gardens, phía đường Brixton rẽ sang. Nhân viên của chúng tôi khi tuần tra đã thấy ánh đèn ở đó vào khoảng 2 giờ sáng, và vì đó là một căn nhà bỏ không nên hồ nghi có chuyện bất thường. Nhân viên thấy cửa chính mở ngỏ, và trong tiền phòng không hề có đồ đạc gì, đã phát hiện xác chết của một người quý phái, ăn mặc sang trọng, trong túi có những tấm thiếp mang tên Enoch J Drebber, Cleveland, Ohio, USA. Không hề có dấu hiệu trộm cướp mà cũng không hề có chứng cứ cho biết người này đã chết như thế nào. Có nhiều vết máu trong căn phòng nhưng không hề có vết thương trên thân thể người chết. Chúng tôi lúng túng không rõ làm sao ông ta lại vào căn nhà bỏ không này; thực tế thì toàn bộ vụ việc là một vấn đề nan giải. Nếu như ông có thể quá bộ đến căn nhà ấy vào bất cứ lúc nào trước 12 giờ trưa, ông sẽ gặp tôi ở đó. Tôi đã để mọi thứ như 'in statu quo' chờ đến khi được nghe ý kiến của ông. Nếu như ông không đến được, tôi sẽ cung cấp những chi tiết đầy đủ hơn, và sẽ hết sức cảm kích nếu như ông có thể giúp cho tôi ý kiến.

Kính thư,

TOBIAS GREGSON

"Gregson là người tài trí nhất ở Sở Cảnh sát London đấy", anh bạn tôi lên tiếng. "Trong một đám tệ hại thì ông ta và Lestrade ưu tú nhất. Cả hai đều nhanh nhẹn và năng động, nhưng theo lối cũ... cực kì cũ. Hai người này lại chẳng ai ưa ai. Họ cứ đố kị nhau như hai mĩ nhân của giới thượng lưu. Vụ này sẽ thú vị đấy nếu như cả hai cùng vào cuộc điều tra."

Tôi hết sức ngạc nhiên với cách nói đều đều bình thản của anh. Tôi kêu lên, "Nhất định là không được chậm trễ một phút nào. Tôi đi gọi xe cho anh nhé?"

"Tôi không chắc là có cần đi hay không. Tôi là con quỷ lười biếng hết thuốc chữa nhất trần đời xưa nay... ý tôi là khi tôi lên cơn lười, bởi vì nhiều lúc tôi cũng nhanh nhẹn lắm."

"Ồ, đây chính là cái cơ hội mà anh vẫn mong chờ đấy thôi."

"Anh bạn thân mến ơi, việc này thì quan trọng gì với tôi chứ. Giả sử là tôi làm sáng tỏ được toàn bộ vấn đề đi, anh có thể tin chắc rằng Gregson, Lestrade và cả đám kia sẽ hưởng hết mọi công lao. Tất cả chỉ vì tôi không có danh chính ngôn thuận."

"Nhưng ông ta đã xin anh giúp đỡ."

"Đúng, ông ta biết là tôi giỏi hơn và đã thừa nhận điều đó với tôi, nhưng ông ta thà cắn đứt lưỡi còn hơn thừa nhận điều đó với một kẻ thứ ba. Dù sao chúng ta cũng nên thử tới xem qua một cái. Tôi nghĩ tôi sẽ tự mình giải quyết. Nếu không được cái gì thì tôi cũng có thể cười nhạo họ. Đi nào!"

Anh hấp tấp mặc áo khoác, và lăng xăng tới lui với điệu bộ cho thấy một cơn hứng khởi mạnh mẽ đã thế chỗ cho trạng thái thờ ơ.

"Lấy mũ đi chứ", anh nói.

"Anh muốn tôi đi cùng ư?"

"Đúng vậy, nếu như anh không có việc gì hay ho hơn."

Một phút sau cả hai chúng tôi đã đón một chiếc xe ngựa nhỏ, phóng nước đại tới đường Brixton. Đó là một buổi sáng mây mù, u ám. Một màn sương nâu xám bao trùm các mái nhà, trông như hình ảnh phản chiếu của những con đường màu bùn bên dưới. Anh bạn tôi đang cao hứng tột độ và cứ nói thao thao về những cây vĩ cầm Cremona, về sự khác biệt giữa đàn Stradivarius và đàn Amati. Về phần mình, tôi im lặng bởi cái thời tiết ảm đạm và công việc bi thương mà chúng tôi can dự vào đã khiến tôi sa sút tinh thần.

"Coi bộ anh chẳng bận tâm gì mấy đến vấn đề đang cấp thiết." Cuối cùng tôi lên tiếng, cắt ngang bài giảng giải âm nhạc của Holmes.

"Đã có dữ kiện nào đâu", anh đáp. "Chưa có đủ hết chứng cứ mà đã đặt ra giả thuyết là một sai lầm nghiêm trọng đấy."

"Dữ kiện thì anh sẽ có ngay thôi", tôi vừa nói vừa chỉ tay. "Nếu như tôi không lầm thì đây là đường Brixton, còn kia là căn nhà đó."

"Chứ còn gì nữa. Dừng lại, bác xà ích ơi, dừng!" Chúng tôi còn cách căn nhà chừng trăm yard nhưng anh khăng khăng đòi xuống, và chúng tôi đi bộ hết đoạn đường còn lại.

Vẻ đe dọa và điềm dữ bao trùm nhà số 3 Lauriston Gardens. Đó là một trong bốn căn nhà nằm lùi xa đường cái một chút, hai căn có người ở còn hai căn bỏ trống. Hai căn bỏ trống hướng mặt ra đường với ba hàng cửa sổ sầu não, trống trơ và ảm đạm, ngoại trừ đây đó một tấm bảng "Cho Thuê" hiện ra như một vết ố trên những tấm kính xỉn đục. Mỗi căn nhà cách đường cái một khu vườn nhỏ điểm xuyết những bụi cây còi cọc nhô lên lộn xộn. Cắt ngang khu vườn là một đường đi hẹp, màu vàng ệch, rõ ràng là một hỗn hợp của đất sét và sỏi. Toàn bộ chốn này đầy những vũng nước đọng lại từ cơn mưa đổ xuống đêm qua. Khu vườn được bao bọc bằng một bức tường gạch cao ba foot, bên trên là hàng rào bằng những cọc gỗ. Đang dựa lưng vào bức tường là một anh cảnh binh vạm vỡ và bu quanh anh ta là một đám người rảnh công rỗi việc đang rướn cổ, căng mắt với hi vọng hão huyền là sẽ thấy được chuyện gì đó đang diễn ra bên trong.

Tôi cứ hình dung Sherlock Holmes sẽ lập tức ào vào căn nhà và bắt tay vào cuộc điều tra bí ẩn này ngay. Ý đồ của anh hoàn toàn không hề giống như tôi tưởng tượng. Anh cứ tha thẩn đi tới đi lui trên vỉa hè, ánh mắt xa xăm nhìn trời, nhìn đất, nhìn những căn nhà đối diện và nhìn dãy cọc gỗ hàng rào, với một vẻ phớt tỉnh mà trong tình huống như thế này tôi cho là làm bộ làm tịch. Hết nhìn ngó, anh lại từ từ đi tiếp dọc theo con đường nhỏ, hay nói đúng hơn là đi men theo rìa cỏ mọc bên lối đi, mắt cắm xuống đất. Có hai lần anh dừng bước, và một lần tôi thấy anh mỉm cười rồi nghe anh thốt lên một tiếng hài lòng. Trên mặt đất ướt nhão có nhiều dấu chân, nhưng vì cảnh sát đã qua lại giẫm nát chỗ này, tôi không thể nào biết anh bạn mình làm sao còn hi vọng tìm hiểu được gì ở đấy. Dù vậy, tôi đã có bằng chứng phi thường về những khả năng nhận biết nhanh nhạy của anh nên tôi tin chắc anh có thể thấy rất nhiều điều mà tôi không tài nào nhìn ra.

Ra đón chúng tôi ở cửa chính căn nhà là một người cao lớn, mặt trắng, tóc vàng, tay cầm cuốn sổ. Ông ta chạy ào tới và siết chặt bàn tay anh bạn tôi đầy cảm kích.

"Ông đến đây thật quý hóa quá", ông ta nói. "Tôi đã để nguyên mọi thứ không động vào."

"Trừ chỗ kia!" Anh bạn tôi vừa đáp lời vừa chỉ tay ra con đường nhỏ. "Một đàn trâu mà băng qua đây cũng không thể nào giẫm đạp bầy hầy hơn được. Nhưng chắc chắn là ông đã tự rút ra kết luận trước khi ông cho phép như thế, ông Gregson nhỉ?"

"Tôi có quá nhiều việc phải làm ở trong nhà", viên thanh tra nói chống chế. "Đồng sự của tôi, ông Lestrade, cũng ở đây. Tôi phải nhờ cậy ông ấy trông nom phía ngoài này."

Holmes liếc nhìn tôi và nhướng mày ra vẻ mỉa mai. Anh nói, "Đã có hai vị như ông đây và Lestrade ở hiện trường thì có còn gì cho kẻ thứ ba phát hiện nữa đâu."

Gregson xoa hai bàn tay vào nhau một cách tự mãn. "Tôi nghĩ chúng tôi đã làm hết những gì có thể làm. Dẫu sao đây cũng là một vụ lạ lùng, và tôi biết những vụ như thế này đúng với sở thích của ông."

"Ông tới đây không phải bằng xe ngựa đấy chứ?" Sherlock Holmes hỏi.

"Đúng đó, thưa ông."

"Lestrade cũng thế à?"

"Cũng vậy, thưa ông."

"Vậy thì chúng ta vào xem qua căn phòng đi." Với câu nói vu vơ ấy, anh sải bước đi vào nhà, theo sau là Gregson với nét mặt lộ rõ ngạc nhiên.

Một hành lang ngắn, sàn lát ván không trải thảm và đầy bụi bặm, dẫn vào nhà bếp và các phòng làm việc. Hai cánh cửa mở ra hai bên hành lang. Một cánh cửa rõ ràng đã đóng kín suốt nhiều tuần lễ. Cửa kia dẫn vào phòng ăn và đó chính là căn phòng đã xảy ra sự việc bí ẩn. Holmes bước vào, và tôi đi theo anh với cảm giác u uất trong lòng khi phải chứng kiến cảnh chết chóc.

Đó là một căn phòng lớn hình vuông, chẳng có đồ đạc gì nên trông càng rộng lớn hơn. Bốn bức tường trang trí bằng giấy dán tường lòe loẹt tầm thường nhưng nhiều chỗ đã hoen ố vì mốc meo. Rải rác nhiều chỗ, giấy dán tường đã bong ra và rũ thõng xuống, phơi trần lớp vữa vàng phía sau. Đối diện cánh cửa này là một lò sưởi kiểu cách phô trương, mặt bệ bên trên làm giả đá cẩm thạch trắng. Ở một góc bệ lò sưởi còn dính một cây nến sáp đỏ chỉ còn trơ phần gốc. Khung cửa sổ độc nhất bẩn thỉu tới mức ánh sáng rọi qua mờ đi và cứ chập chờn nhuộm xám mọi vật trong phòng. Cái sắc xám ấy lại càng thêm xỉn đục vì những lớp bụi dày phủ kín toàn bộ căn phòng.

Mọi chi tiết đó lúc sau tôi mới quan sát kĩ. Còn lúc này sự chú ý của tôi chỉ tập trung vào một hình thù bất động thảm thương nằm dài trên những tấm ván sàn, đôi mắt vô hồn trừng trừng nhìn lên trần nhà ố màu. Đó là một người đàn ông tuổi trạc bốn mươi ba hay bốn mươi bốn, tầm vóc trung bình, bờ vai rộng, mái tóc đen xoăn tít, để râu quai nón lởm chởm. Ông ta mặc áo choàng bằng vải len dày, áo gilet, quần màu sáng, cổ áo và hai cổ tay áo sạch bong. Nằm trên sàn nhà cạnh ông ta là chiếc mũ chóp cao được chải chuốt tươm tất. Hai bàn tay người này nắm chặt, hai cánh tay dang rộng, còn hai chân lại quắp vào nhau như thể đã chống chọi khổ sở với cái chết. Trên gương mặt cứng đờ in hằn nét kinh hoàng và một vẻ căm hờn mà tôi chưa từng thấy biểu lộ trên diện mạo con người. Nét mặt rúm ró kinh khủng và hiểm ác này, kết hợp với vầng trán thấp, cái mũi tẹt, và quai hàm chìa ra phía trước khiến cho người chết trông giống khỉ đến lạ lùng, và càng giống khỉ hơn nữa bởi cái tư thế quằn quại lạ thường. Đã từng thấy sự chết chóc dưới nhiều hình thức, nhưng chưa bao giờ tôi thấy cái chết nào lại khiến mình ghê sợ như trong căn phòng bẩn thỉu tối tăm hướng ra trục lộ chính của khu ngoại ô London này.

Lestrade, gầy còm và bé choắt như con chồn, đứng ở ngưỡng cửa từ hồi nào, cất tiếng chào hai chúng tôi.

"Vụ này sẽ gây xôn xao đó, quý vị", ông ta nói. "Nó kì lạ hơn bất cứ vụ nào tôi đã gặp, mà tôi thì đâu phải hạng gà mờ."

"Không có manh mối gì à?" Gregson hỏi.

"Chẳng có gì hết", Lestrade đáp.

Sherlock Holmes tiến lại gần xác chết rồi quỳ xuống kiểm tra chăm chú.

"Các ông có chắc là không có vết thương nào không?" Anh vừa hỏi vừa chỉ những vết máu vương vãi chung quanh.

"Chắc chắn!" Cả hai thanh tra đồng thanh lên tiếng.

"Như vậy hẳn nhiên máu này là của kẻ thứ hai, đoán chừng là kẻ sát nhân, nếu như đây đúng là vụ giết người. Vụ này khiến tôi nhớ lại tình huống liên quan đến cái chết của Van Jansen ở Utrecht vào năm 1834. ông còn nhớ vụ đó không, Gregson?"

"Không, thưa ông."

"Hãy đọc nhiều vào, nên đọc đi. Chẳng có điều gì mới ở dưới mặt trời. Mọi chuyện đã từng xảy ra trước kia rồi."

Trong lúc nói chuyện, những ngón tay lanh lẹ của anh di chuyển thoăn thoắt khắp mọi nơi, lúc đè mạnh, lúc mở khuy áo, lúc nắn bóp, trong khi đôi mắt anh lại hiện rõ chính cái vẻ xa xăm, đờ đẫn mà tôi từng đề cập đến. Cuộc khám xét được tiến hành mau lẹ tới mức không ai có thể đoán được nó tỉ mỉ đến mức nào. Cuối cùng, anh ngửi đôi môi của cái xác, rồi nhìn xuống đế đôi ghệt da bóng của người chết.

"Người này không hề bị dời chỗ đấy chứ?" Anh hỏi.

"Vẫn nguyên đấy, chúng tôi chỉ động vào để kiểm tra thôi."

"Giờ thì các ông đưa người này vào nhà xác được rồi", anh nói. "Chẳng còn gì cần tìm hiểu thêm nữa."

Gregson đã có sẵn cáng và bốn người khiêng cáng. Nghe ông gọi, họ đi vào căn phòng và kẻ xa lạ kia được nhấc lên đưa ra ngoài. Lúc họ đỡ người chết lên, một chiếc nhẫn rơi xuống kêu lanh canh rồi lăn tròn trên sàn nhà. Lestrade tóm lấy và đưa lên nhìn chòng chọc với ánh mắt hoang mang.

"Đã có một người đàn bà ở đây", ông ta kêu lên. "Đây là cái nhẫn cưới của phụ nữ."

Vừa nói ông ta chìa chiếc nhẫn trên lòng bàn tay ra. Tất cả chúng tôi bu quanh Lestrade nhìn chăm chú. Không thể hồ nghi gì nữa, chiếc nhẫn vàng trơn này đã từng tô điểm ngón tay của một cô dâu.

"Cái này làm vấn đề phức tạp thêm", Gregson nói. "Có trời chứng giám, không có nó thì mọi thứ đã đủ phức tạp lắm rồi."

"Ông chắc là nó không đơn giản hóa mọi chuyện đấy chứ?" Holmes nhận xét. "Cứ nhìn chằm chằm vào nó thì cũng chẳng biết được gì. Ông đã tìm thấy gì trong các túi áo túi quần người chết?"

"Chúng tôi còn giữ hết đây này", Gregson chỉ về phía một mớ đồ lộn xộn nằm trên mấy bậc thang dưới cùng. "Một đồng hồ vàng, số 97163, do nhà Barraud ở London sản xuất. Một dây đeo đồng hồ, rất nặng và bằng vàng ròng. Một nhẫn vàng có chạm huy hiệu hội Tam Điểm. Một ghim cài cà vạt bằng vàng, có hình đầu chó với hai con mắt bằng hồng ngọc. Một hộp danh thiếp bằng da Nga, với những tấm thiếp in tên Enoch J. Drebber ở Cleveland, tương ứng với mấy chữ tắt E.J.D thêu trên áo. Không có ví tiền nhưng có một số tiền lẻ tổng cộng là bảy bảng mười ba shilling. Một ấn bản bỏ túi cuốn Decameron của Boccaccio, trên trang lót có ghi tên Joseph Stangerson. Hai lá thư, một lá gửi cho E.J. Drebber và một lá cho Joseph Stangerson."

"Ở địa chỉ nào?"

"Sở Hối đoái Hoa Kì, phố Strand, người nhận sẽ đến lấy. Cả hai lá thư đều gửi từ hãng tàu thủy Guion và đều nói về lịch tàu rời cảng Liverpool. Rõ ràng là kẻ xấu số này đã định quay về New York."

"Ông đã điều tra gì về gã Stangerson này chưa?"

"Tôi đã làm ngay việc đó rồi", Gregson nói. "Tôi đã cho gửi bố cáo đến mọi nhật báo, và một người của tôi đã tới Sở Hối đoái Hoa Kì nhưng vẫn chưa về."

"Ông có gửi sang Cleveland không?"

"Sáng nay tôi gửi điện tín rồi."

"Thế ông viết các yêu cầu ra làm sao?"

"Chúng tôi chỉ kể rõ các tình huống, và nói sẽ rất cảm kích với bất kì thông tin nào có thể giúp ích chúng tôi."

"Thế ông không hỏi chi tiết về bất kì điểm nào mà ông thấy quan trọng sao?"

"Tôi có hỏi về Stangerson."

"Thế thôi à? Không hề có tình huống nào làm mấu chốt cho toàn bộ vụ này sao? Ông sẽ không gửi thêm điện tín ư?"

"Tôi đã nói hết những gì cần nói", Gregson nói, giọng ra chiều phật ý.

Sherlock Holmes nén cười rồi định nói gì đó thì Lestrade lại xuất hiện. Nãy giờ Lestrade vẫn ở trong tiền phòng, trong khi chúng tôi nói chuyện ở hành lang, bây giờ ông ta đi ra, hai bàn tay xoa vào nhau với điệu bộ dương dương tự đắc.

"Ông Gregson", ông ta nói, "tôi vừa phát hiện một chi tiết cực kì quan trọng, mà chắc sẽ bị bỏ sót nếu như không có tôi đây kiểm tra kĩ các bức tường."

Người đàn ông thấp bé này miệng nói mà ánh mắt cứ sáng rực lên; rõ ràng là ông ta đang cố kiềm chế sự đắc chí vì đã thắng được đồng nghiệp một điểm.

"Tới đây", ông ta vừa nói vừa lăng xăng quay lại căn phòng, không khí bên trong dường như sáng sủa hơn từ khi cái xác kia được chuyển đi. "Đấy, cứ đứng ở đó!"

Ông ta quẹt một que diêm vào chiếc ghệt rồi đưa ánh lửa lên sát bức tường. "Nhìn đây này!" Lestrade đắc thắng reo lên.

Lúc trước tôi đã nói là các tấm giấy dán tường đã bong tróc nhiều chỗ. Ở ngay góc phòng này, một miếng giấy lớn đã được lột ra, phơi ra một mảng vôi vữa màu vàng hình vuông. Vắt ngang qua khoảng trống này là những mẫu tự màu đỏ máu nguệch ngoạc thành một từ duy nhất: RACHE.

"Quý vị thấy sao?" Viên thanh tra thốt lên với giọng điệu của một ông bầu gánh xiếc đang quảng cáo chương trình. "Chi tiết này bị bỏ sót vì nó nằm trong góc tối nhất của căn phòng, và không người nào nghĩ đến chuyện nhìn ngó ở đây. Kẻ sát nhân đã viết bằng chính máu của y hay của ả. Hãy xem chỗ nhòe vì máu chảy giọt xuống tường đây này! Nó đã đập tan giả thuyết đây là vụ tự sát. Tại sao lại chọn cái góc đó mà viết? Tôi nói cho quý vị rõ. Hãy nhìn cây nến trên bệ lò sưởi kia. Nó được thắp sáng vào lúc đó, và nếu nến thắp sáng thì góc này chính là nơi sáng sủa nhất chứ không phải mảng tường tăm tối nhất."

"Giờ ông đã tìm thấy rồi, nó có ý nghĩa gì vậy?" Gregson hỏi với giọng khinh thường.

"Ý nghĩa? À, nó có nghĩa là người viết đã định viết chữ Rachel một cái tên của phụ nữ, nhưng đã bị gián đoạn trước khi y hay ả kịp viết xong. Hãy nhớ lời tôi đi, khi vụ này đã sáng tỏ, quý vị sẽ thấy có một phụ nữ tên Rachel dính líu vào đây. Ông cứ việc cười cho thỏa mãn đi, thưa ông Sherlock Holmes. Ông có thể rất nhanh trí và thông minh, nhưng xét về mọi mặt thì con chó săn già vẫn là cừ khôi nhất."

"Tôi thật lòng xin lỗi ông". Anh bạn tôi lên tiếng sau khi đã khiến con người thấp bé kia mếch lòng vì một tràng cười ầm ĩ. "Chắc chắn ông được ghi công là người đầu tiên trong chúng ta phát hiện ra điều này, và như ông nói, mọi dấu vết đều cho thấy những mẫu tự này được viết bởi một kẻ khác đã tham gia vào vụ án bí ẩn đêm qua. Tôi chưa có thời gian để kiểm tra căn phòng, nhưng xin phép ông bây giờ tôi sẽ kiểm tra."

Vừa nói anh vừa rút trong túi ra một cái thước dây và một chiếc kính lúp tròn cỡ lớn. Với hai dụng cụ này, anh thong thả đi khắp phòng mà không hề gây ra tiếng động nào, lúc thì dừng bước, lúc thì quỳ xuống, và có lần anh nằm dài úp mặt xuống sàn. Anh mê mải với công việc này tới mức dường như quên mất sự hiện diện của chúng tôi, bởi anh cứ liên tục lẩm bẩm một mình, cứ không ngừng thốt ra hết những tràng cảm thán, rên rỉ rồi huýt sáo và những tiếng kêu khẽ hàm ý khích lệ hay hi vọng. Quan sát anh, tôi không khỏi liên tưởng đến một con chó săn cáo thuần chủng được huấn luyện kĩ đang sục sạo trong lùm cây, rít ư ử đầy hăm hở, cho đến khi đánh hơi được con mồi lạc dấu. Suốt hai mươi phút hoặc hơn, anh cứ tiếp tục vừa săm soi vừa cẩn trọng đo đạc sao cho chính xác nhất khoảng cách giữa các điểm mốc, vốn hoàn toàn vô hình đối với tôi, và thỉnh thoảng lại đưa thước dây áp vào mấy bức tường với cùng một cung cách hoàn toàn khó hiểu đó. Ở một vị trí, anh rất cẩn thận gom một dúm bụi xám trên sàn rồi cho vào một phong bì cất đi. Anh dùng kính lúp kiểm tra chữ viết trên tường xem xét từng mẫu tự với sự chính xác chi li nhất. Kiểm tra xong, có vẻ như anh hài lòng, vì anh cất thước dây và kính lúp vào túi.

"Người ta thường nói rằng thiên tài là khả năng chịu khó vô biên", anh vừa nói vừa cười. "Đó là một định nghĩa tầm bậy, nhưng lại đúng với công việc điều tra."

Với nhiều hiếu kì và có phần khinh miệt, Gregson và Lestrade đã theo dõi ông bạn nghiệp dư thao diễn nãy giờ. Hiển nhiên họ không hiểu được cái điều mà tôi đã bắt đầu nhận biết, là mọi hành động nhỏ nhặt nhất của Sherlock Holmes đều hướng tới một mục tiêu thực tế và xác định nào đó.

"Ông thấy thế nào?" Cả hai cùng hỏi.

"Nếu tôi mạo muội giúp hai ông thì chẳng khác nào tôi cướp mất công trạng của các ông trong vụ này", anh bạn tôi nói. "Các ông đã làm giỏi quá rồi thì thật tội nghiệp cho kẻ nào muốn can thiệp vào." Trong giọng điệu anh là cả một biển trời châm biếm. "Nếu như các ông cho tôi biết diễn tiến điều tra của các ông", anh nói tiếp, "thì tôi sẽ rất vui được giúp sức nếu có thể. Còn lúc này tôi muốn nói chuyện với người cảnh binh đã phát hiện ra xác chết. Cho tôi xin tên và địa chỉ của người này được không?"

Lestrade liếc qua sổ tay rồi nói, "John Rance. Bây giờ anh ta hết phiên trực rồi. ông tới số 46, khu Audley, công viên Kennington, thì sẽ gặp anh ta."

Holmes ghi lại địa chỉ.

"Đi thôi, bác sĩ", anh nói, "chúng ta sẽ đi tìm người này." Rồi anh quay sang hai thanh tra nói tiếp, "Tôi cho các ông hay một điều có thể giúp ích cho vụ này. Án mạng đã xảy ra và kẻ sát nhân là đàn ông. Y cao hơn sáu foot, đang ở độ tuổi sung mãn nhất của cuộc đời, có hai bàn chân nhỏ so với chiều cao, đi đôi ghệt tồi tàn mũi vuông, và hút xì gà Trichinopoly. Y tới đây cùng với nạn nhân trên một chiếc xe ngựa bốn bánh, con ngựa kéo xe đóng ba móng sắt cũ và một móng mới ở chân trước bên phải. Rất có thể kẻ sát nhân có gương mặt đỏ ửng và những móng tay trên bàn tay phải của y rất dài. Đây chỉ là vài dấu hiệu nhưng chúng có thể giúp ích cho các ông."

Lestrade và Gregson nhìn nhau với nụ cười hoài nghi. Lestrade hỏi, "Nếu người này bị sát hại thì sát hại bằng cách nào chứ?"

"Độc dược", Sherlock Holmes nói cộc lốc rồi sải bước đi. Ra đến cửa, anh quay lại nói thêm. "Còn điều này nữa, Lestrade, Rache là tiếng Đức có nghĩa là Báo thù, cho nên ông đừng có mất công tìm kiếm cô Rachel nào đó làm chi."

Sau lời nhận xét đanh thép cuối cùng này, anh đi luôn, để lại sau lưng hai đối thủ há hốc mồm sửng sốt.

4. Những gì John Rance kể

Khi chúng tôi rời khỏi nhà số 3 Lauriston Gardens thì đã 1 giờ trưa. Sherlock Holmes đưa tôi đến phòng điện tín gần nhất và ở đó anh gửi đi một bức điện dài. Rồi anh gọi xe ngựa và bảo người xà ích đưa chúng tôi đến địa chỉ mà Lestrade đã cung cấp.

"Không có gì bằng nhân chứng trực tiếp", anh nhận xét. "Thực ra mà nói, tôi đã hoàn toàn kết luận được vụ này nhưng dẫu sao chúng ta cũng nên biết tất cả những gì cần phải biết."

"Anh khiến tôi kinh ngạc đó, Holmes", tôi nói. "Anh cứ làm bộ như biết chắc mọi chi tiết mà anh cung cấp chứ thật ra trong bụng anh đâu có chắc chắn vậy."

"Không có chỗ cho sai lầm đâu" anh đáp. "Điều đầu tiên tôi quan sát khi đến đó chính là một cỗ xe ngựa đã tạo ra hai vết bánh xe lún phía gần lề đường. Mà trước tối hôm qua thì cả tuần rồi làm gì có mưa, cho nên bánh xe nào mà để lại vết hằn sâu như thế chắc chắn phải đến đó trong đêm qua. Còn các dấu móng ngựa nữa; đường viền của một dấu lại sắc nét hơn ba dấu móng còn lại nhiều cho thấy rằng có một móng ngựa mới. Vì cỗ xe đến đó sau khi trận mưa đã bắt đầu, và không hề xuất hiện ở đó suốt buổi sáng, điều này thì tôi tin lời Gregson, do đó nó phải đến trong đêm và vì thế, nó chính là cỗ xe đưa hai người tới căn nhà đó."

"Nghe có vẻ đơn giản quá", tôi nói, "nhưng làm sao biết được chiều cao của người kia chứ?"

"À, chín trong mười trường hợp, ta có thể đoán biết chiều cao của một người dựa vào độ dài bước chân. Đó là một phép tính khá đơn giản, nhưng làm anh phát chán vì những con số thì có gì hay. Tôi thấy bước chân của kẻ này in trên lớp đất sét ngoài vườn và trên lớp bụi trong nhà. Rồi tôi có cách nữa để kiểm chứng các phép toán của tôi. Khi người ta viết lên tường thì theo bản năng ai cũng tự khắc viết ngang tầm mắt mình. Chữ viết ấy cách sàn nhà hơn sáu foot một chút. Trò trẻ con thôi mà."

"Thế còn tuổi tác của hắn ta?" Tôi hỏi.

"Nếu một người có thể bước đi với sải chân dài hơn bốn foot rưỡi không chút khó khăn nào, nhất định hắn ta không thể ở tuổi xế chiều. Đó cũng chính là chiều rộng của vũng nước trên lối đi trong vườn mà hắn ta rõ ràng đã bước qua. Người đi đôi ghệt da bóng thì đi vòng quanh mà tránh, còn kẻ mang đôi ghệt mũi vuông lại nhảy qua. Chẳng có gì bí ẩn cả. Tôi chỉ đơn thuần áp dụng vào thực tế một số nguyên tắc quan sát và suy luận mà tôi đã cổ xúy trong bài báo đó. Anh còn thắc mắc gì nữa không?"

"Móng tay và xì gà Trichinopoly", tôi gợi ý.

"Chữ trên tường được viết bằng ngón trỏ của một người đàn ông nhúng vào máu. Kính lúp cho phép tôi thấy rõ là lớp vữa trát đã bị sướt nhẹ khi chữ được viết lên, điều này không thể nào xảy ra nếu móng tay của người đó đã được cắt gọn. Tôi đã gom một ít tàn tro vương vãi trên sàn nhà. Tro này sậm màu và có dạng vảy mỏng; kiểu tàn tro như thế thì chỉ có xì gà Trichinopoly mà thôi. Tôi từng thực hiện một nghiên cứu chuyên sâu về các loại tàn tro xì gà; thực ra tôi đã viết một chuyên khảo về đề tài này. Tôi tự hào rằng tôi chỉ cần nhìn qua là nhận biết ngay tàn tro của bất kì nhãn hiệu xì gà hay thuốc lá nào. Chính nhờ những chi tiết như thế mà một thám tử lành nghề khác biệt với đám Gregson và Lestrade chứ."

"Thế còn gương mặt đỏ ửng?" Tôi hỏi.

"À, nhận xét đó liều lĩnh hơn, mặc dù tôi tin chắc là mình đúng, ở giai đoạn này thì đừng có hỏi tôi chuyện đó."

Tôi đưa tay xoa trán. "Đầu óc tôi đang quay cuồng đây này", tôi nói, "càng suy nghĩ càng thấy bí ẩn. Tại sao hai gã đó, nếu quả thật có hai người đàn ông, lại đi vào một căn nhà bỏ trống? Còn người xà ích đưa họ tới ra sao rồi? Làm sao người này có thể ép buộc người kia uống độc dược? Còn máu ở đâu ra? Mục tiêu của kẻ sát nhân là gì, bởi vì vụ này không liên quan gì đến cướp bóc cả? Còn cái nhẫn của phụ nữ làm sao lại ở đó? Đặc biệt là tại sao kẻ thứ hai lại viết ra cái từ RACHE bằng tiếng Đức trước khi tẩu thoát chứ? Thú thật là tôi không tài nào xâu kết hết các chi tiết này cho hợp lí được."

Anh bạn tôi mỉm cười đồng tình. "Anh đã đúc kết rất hay và súc tích những gút mắc của vấn đề. Còn khá nhiều điều vẫn chưa sáng tỏ, mặc dù tôi đã hoàn toàn xác định được các yếu tố chính. Còn với phát hiện của gã Lestrade tội nghiệp kia, đó chỉ là hỏa mù nhằm đánh lạc hướng cảnh sát, bằng cách ám chỉ các tổ chức bí mật và phe Xã hội. Vụ này không phải do người Đức nào làm đâu. Nếu anh để ý chữ 'A' đó được viết có phần giống kiểu viết của Đức. Đấy, nhưng người Đức chính cống lại luôn viết theo kiểu chữ La tinh, do đó ta có thể nói mà không sợ sai là chữ đó không phải do người Đức viết mà do một kẻ bắt chước vụng về đã làm quá lố. Tôi sẽ không nói nhiều hơn nữa về chuyện này đâu, bác sĩ. Anh biết mà, một ảo thuật gia giải thích hết bí quyết của mình thì đâu còn ai khen nữa chứ, và nếu tôi cho anh biết quá nhiều về phương pháp làm việc của tôi thì sẽ dẫn anh tới kết luận rằng rốt cuộc tôi cũng chỉ là một kẻ rất tầm thường."

"Tôi không hề nghĩ thế đâu", tôi đáp, "chưa ai có thể đưa ngành điều tra đạt gần tới tầm của một khoa học chính xác như anh."

Mặt anh bạn tôi hồng lên sung sướng trước lời khen này và cách bộc lộ sốt sắng của tôi. Tôi đã để ý là anh ta nhạy cảm với những lời tâng bốc về tài nghệ của mình chẳng kém mọi cô gái đều thích được ca tụng về nhan sắc.

"Để tôi cho anh biết thêm chuyện nữa", anh nói. "Ghệt da bóng và Ghệt mũi vuông cùng đến trên một cỗ xe ngựa, và họ cùng nhau đi bộ theo con đường nhỏ hết sức thân thiện, rất có thể là khoác tay nhau đi. Khi đã vào trong, họ đi tới đi lui khắp căn phòng đó; hay đúng hơn, Ghệt da bóng đứng một chỗ trong khi Ghệt mũi vuông đi tới đi lui. Tôi có thể thấy mọi chi tiết đó trong lớp bụi, và tôi có thể thấy là hắn ta càng đi thì càng thêm kích động. Điều này biểu lộ qua độ dài tăng dần của sải chân hắn ta. Suốt thời gian đó, hắn nói liên tục và chắc chắn là càng lúc càng nóng giận tới mức điên tiết. Rồi bi kịch xảy ra. Tôi đã kể anh nghe hết những gì hiện giờ chính tôi biết chắc, những gì còn lại chỉ là giả định và phỏng đoán. Tuy nhiên, chúng ta đang có một cơ sở thực tế thuận lợi để bắt đầu công việc. Chúng ta phải nhanh lên vì chiều nay tôi muốn đến buổi hòa nhạc của dàn giao hưởng Hallé nghe Norman Nerudatrình diễn."

Cuộc trò chuyện diễn ra trong lúc xe ngựa của chúng tôi luồn lách qua hết con phố bẩn thỉu này lại tới đường rẽ vòng vèo khác. Tới một trong những con đường bẩn thỉu và tồi tàn nhất, bác xà ích đột ngột dừng xe. "Khu Audley ở trong đó", bác ta vừa nói vừa chỉ vào một ngách hẹp trong dãy tường gạch xỉn màu. "Tôi chờ xe ở đây đến khi quý ông quay lại."

Khu Audley chẳng phải là nơi hấp dẫn. Con đường hẹp dẫn chúng tôi vào một sân trong lát đá phiến và bốn bề là những căn nhà dơ dáy. Chúng tôi lần bước len qua mấy đám trẻ con bẩn thỉu, chui qua mấy hàng dây phơi mớ quần áo bạc màu, cho đến khi tìm tới nhà số 46, trên cánh cửa có trang trí một miếng đồng nhỏ khắc tên Rance. Dò hỏi, chúng tôi biết viên cảnh binh này còn đang ngủ, và chúng tôi được đưa vào một phòng khách nhỏ phía trước chờ ông ta.

Ngay sau đó ông ta xuất hiện, vẻ mặt hơi bực mình vì bị phá rối giấc ngủ. Ông ta nói, "Tôi đã báo cáo hết trên Sở rồi."

Holmes lấy trong túi ra một đồng tiền nửa sovereign rồi ra vẻ trầm ngâm mân mê trên tay. "Chúng tôi nghĩ là nghe mọi việc trực tiếp từ ông thì hay hơn", anh nói.

"Tôi rất sẵn lòng kể lại với ông mọi điều tôi biết", viên cảnh binh trả lời, đôi mắt dán chặt vào cái vật tròn tròn bằng vàng nho nhỏ kia.

"Cứ tự nhiên kể hết đầu đuôi mọi việc cho chúng tôi nghe đi."

Rance ngồi xuống chiếc trường kỉ bọc da ngựa, và nhíu mày như thể quyết tâm không bỏ sót một chi tiết nào của câu chuyện.

"Tôi sẽ kể lại từ đầu", ông ta nói. "Phiên trực của tôi là từ 10 giờ đêm đến 6 giờ sáng. Lúc 11 giờ có đánh lộn ở quán rượu White Hart nhưng trừ chuyện đó ra thì mọi thứ đều yên ổn trong khu tôi đi tuần. Đến 1 giờ trời bắt đầu mưa, và tôi gặp anh Harry Murcher, người tuần tra khu Holland Grove, và bọn tôi đứng nói chuyện ở góc đường Henrietta. Rồi sau đó, đâu khoảng 2 giờ hoặc hơn một tí, tôi nghĩ hay là đi thử một vòng xem dọc đường Brixton có yên ổn không. Con đường đó dơ dáy và vắng phát khiếp được. Tôi đi hết con đường mà chẳng gặp ma nào cả, mặc dù có một hay hai xe ngựa phóng vèo qua. Tôi cứ thả bộ theo con đường, trong bụng nghĩ giờ này mà có xị rượu nóng thì quá đã, thì bất thình lình tôi thấy có ánh sáng sau cửa sổ của nhà đó. Tôi biết ở Lauriston Gardens có hai căn nhà không người ở do lão chủ mấy cái nhà đó chẳng chịu sửa sang cống rãnh gì cả, mặc dù người thuê trọ cuối cùng trong một căn nhà đã chết vì sốt thương hàn. Thấy ánh sáng ở cái cửa sổ đó tôi sửng sốt và nghi là có chuyện gì không bình thường rồi. Khi tôi tới cửa chính..."

"Ông đã dừng lại, rồi đi ngược trở ra cổng vườn", anh bạn tôi ngắt lời. "Sao ông lại làm thế?"

Rance nhảy bật dậy, nhìn Sherlock Holmes trừng trừng với vẻ kinh ngạc cực độ trên nét mặt. "Ồ, đúng vậy đó, thưa ông", ông ta nói, "mặc dù có trời mới biết làm sao ông biết rõ thế. Vậy đó, khi tôi tới cửa chính, bốn bề vắng lặng như tờ khiến tôi nghĩ chắc mình nên kiếm người đi cùng thì hơn. Chưa bước chân xuống mồ thì tôi đếch sợ thứ gì trên đời này, nhưng tôi nghĩ không chừng thằng cha đã chết vì thương hàn đang đi xem xét mấy cái cống đã làm hắn chết. Ý nghĩ đó khiến tôi chột dạ nên tôi quay ra cổng xem có thấy ánh đèn của anh Murcher không, nhưng chẳng hề thấy bóng dáng anh ta hay bất kì ai cả."

"Ngoài đường chẳng có ai sao?"

"Không có ma nào hết, thưa ông, cả chó cũng chẳng thấy. Rồi tôi trấn tĩnh và đi vòng lại rồi đẩy cửa mở ra. Bên trong hoàn toàn im ắng nên tôi đi vào căn phòng đó nơi vẫn đang có ánh sáng. Có một ngọn nến lập lờ trên bệ lò sưởi, một cây nến sáp đỏ, và qua ánh nến tôi thấy..."

"Vâng, tôi biết hết những gì ông đã thấy. Ông đi vòng quanh căn phòng nhiều lần, rồi ông quỳ xuống bên xác chết, rồi đi ra và thử mở cửa nhà bếp, và rồi..."

John Rance đứng phắt lên với nét mặt kinh hãi và ánh mắt ngờ vực. "Ông nấp ở đâu mà thấy hết cả những chuyện đó chứ?" ông ta kêu to. "Tôi e là ông biết nhiều hơn mức cần biết đấy."

Holmes cười ầm lên và thảy tấm danh thiếp của anh qua mặt bàn về phía viên cảnh binh. Anh nói, "Đừng có bắt tôi vì tội sát nhân đấy. Tôi cũng thuộc bầy chó săn chứ không phải chó sói đâu; ông Gregson hay ông Lestrade sẽ bảo đảm cho tôi. Tiếp đi chứ. Rồi sau đó ông làm gì?"

Rance lại ngồi vào chỗ cũ, mặc dù vẻ mặt hoang mang vẫn còn nguyên. "Tôi quay lại cổng vào và thổi tu huýt báo động. Nghe tiếng, Murcher và hai cảnh binh nữa liền tới hiện trường."

"Đường phố lúc đó vắng người chứ?"

"À, vắng tanh, nếu như chỉ tính những kẻ đàng hoàng thì chẳng có ma nào."

"Ý ông là sao?"

Nét mặt viên cảnh binh căng rộng thành một cái cười toe toét, ông ta nói, "Trên đời tôi gặp nhiều thằng say rồi nhưng chưa gặp ai say bét nhè như thằng cha đó. Khi đi ra, tôi thấy hắn đứng ở cổng, dựa lưng vào hàng rào, và hát rống hết cỡ bài gì đó, hình như là Columbine's New fangled Banner hay đại loại như thế. Hắn ta đứng hết nổi rồi, chỉ càng thêm vô dụng."

"Gã đó thuộc loại người như thế nào?" Sherlock Holmes hỏi.

John Rance tỏ ra hơi cáu kỉnh với câu hỏi lạc đề này. "Thuộc loại say quắc cần câu chứ thế nào", ông ta nói. "Nếu chúng tôi không bận vụ này thì đã lôi hắn về đồn cảnh sát rồi."

"Diện mạo hắn, quần áo hắn, ông có để ý không?" Holmes nôn nóng ngắt lời.

"Tôi nghĩ là tôi có để ý đấy, bởi vì tôi phải đỡ hắn lên, tôi với Murcher hai người hai bên xốc hắn ta dậy. Thằng cha đó cao lớn, mặt đỏ, nửa mặt dưới quấn kín trong..."

"Vậy được rồi", Holmes thốt lên. "Rồi hắn ra sao?"

"Bọn tôi có rảnh đâu mà để ý tới hắn ta chứ", viên cảnh binh nói, giọng trách cứ. "Tôi dám cá là hắn ta cũng mò được về nhà thôi."

"Hắn ăn mặc thế nào?"

"Mặc áo khoác màu nâu."

"Tay hắn có cầm roi da không?"

"Roi à, không có."

"Nhất định hắn ta đã bỏ cái roi lại", anh bạn tôi lẩm bẩm. "Sau đó ông có tình cờ nhìn thấy hay nghe thấy tiếng xe ngựa không?"

"Không."

"Đồng nửa sovereign này là của ông đó", anh bạn tôi vừa nói vừa đứng dậy và với lấy mũ. "Ông Rance, tôi e là ông sẽ chẳng bao giờ thăng tiến trong ngành này được đâu. Cái đầu của ông không chỉ để trang trí mà còn phải sử dụng nữa chứ. Lẽ ra đêm qua ông đã có thể lên lon hạ sĩ rồi. Cái gã mà ông đã giữ trong tay chính là kẻ nắm đầu mối của bí ẩn này, và chính là kẻ chúng tôi đang bỏ công tìm. Bây giờ mà tranh cãi cũng chẳng có ích gì, tôi chỉ nói cho ông biết vậy thôi. Đi nào, bác sĩ."

Chúng tôi cùng cất bước đi ra chỗ xe ngựa, bỏ mặc người cung cấp thông tin còn mải nghi hoặc và hiển nhiên là bực bội.

"Ngu ngốc không thể tả!" Holmes chua chát thốt lên trên chuyến xe quay về nhà trọ của chúng tôi. "Nghĩ mà coi, hắn có được cơ may không gì bằng, vậy mà không biết tận dụng."

"Tôi vẫn còn chưa hiểu. Quả thực là mô tả của ông ta ăn khớp với ý kiến của anh về kẻ thứ hai trong vụ bí ẩn này. Nhưng tại sao kẻ này đã rời khỏi căn nhà rồi mà còn quay lại làm gì? Đó đâu phải cung cách của bọn phạm tội."

"Cái nhẫn, anh bạn ơi, cái nhẫn; vì nó mà hắn ta quay lại đấy. Nếu không có cách nào khác bắt được hắn thì ta vẫn có thể dùng cái nhẫn làm mồi câu. Tôi sẽ bắt được tên này, bác sĩ ạ, cá với anh hai ăn một là tôi sẽ bắt được hắn. Tôi phải cảm ơn anh vì mọi chuyện. Không có anh thì tôi chắc đã không đi rồi, và thế là bỏ lỡ một cuộc điều tra hay ho nhất mà tôi từng gặp. Cuộc điều tra màu đỏ, phải không? Sao chúng ta không dùng ngôn ngữ nghệ thuật một chút nhỉ? Vụ án mạng này là một sợi chỉ màu đỏ tươi luồn trong cuộn chỉ không màu của cuộc sống, và trách nhiệm của chúng ta là phải tháo gỡ nó, cô lập nó, phơi bày nó ra tất tần tật. Bây giờ thì đi ăn trưa nào, rồi đi nghe Norman Neruda. Cách chạm dây và kéo vĩ của cô ta mới tuyệt vời làm sao! Cái đoản khúc đó của Chopin, cô ta chơi sao mà tuyệt diệu thế không biết. Tra la la lira lira lay..."

Ngả người trong xe ngựa, anh chàng chó săn tài tử này cứ hát líu lo như chim trong khi tôi mãi trầm tư về tính chất đa diện của tâm trí con người.

5. Mẩu tin của chúng tôi mang đến một vị khách

Những việc lao lực trong buổi sáng đã quá mức chịu đựng đối với sức khỏe yếu của tôi và đến buổi chiều thì tôi mệt nhoài. Sau khi Holmes đi nghe hòa nhạc, tôi nằm dài trên trường kỉ và cố làm sao ngủ được vài giờ. Một cố gắng vô ích. Tâm trí tôi quá kích động bởi mọi chuyện đã xảy ra và tràn ngập trong đầu tôi là những phỏng đoán và tưởng tượng kì lạ nhất. Cứ mỗi lần nhắm mắt, tôi lại thấy ngay trước mặt mình cái diện mạo như con khỉ đầu chó của kẻ bị sát hại. Gương mặt ấy đã gây cho tôi một ấn tượng hãi hùng tới mức tôi khó mà có cảm giác gì khác hơn là sự hàm ơn dành cho kẻ đã trừ khử chủ nhân diện mạo ấy khỏi cuộc đời này. Nếu hỏi nét mặt ai toát ra vẻ đồi bại một cách hiểm ác nhất thì chắc chắn đó là nét mặt của Enoch J. Drebber ở Cleveland. Thế nhưng tôi thừa nhận rằng công lí phải được thực thi và tính chất đồi bại của nạn nhân không phải là cái cớ để bỏ qua tội ác trong con mắt pháp luật.

Càng ngẫm nghĩ tôi thấy cái giả thuyết của anh bạn tôi lại càng lạ thường khi cho rằng kẻ này bị đầu độc. Tôi còn nhớ cảnh anh đã ngửi đôi môi xác chết ra sao và tôi tin chắc anh đã phát hiện điều gì đấy khiến ý tưởng đó nảy sinh. Tuy nhiên, nếu không phải độc dược, thì cái gì đã gây ra cái chết của kẻ này, bởi vì không có vết thương hay dấu vết siết cổ nào cả? Nhưng mặt khác, máu của ai mà lại chảy thành vũng trên sàn nhà? Không hề có dấu hiệu vật lộn nào, nạn nhân cũng chẳng có bất kì vũ khí gì để có thể gây thương tích cho địch thủ. Chừng nào tất cả những câu hỏi này chưa giải đáp được thì tôi thấy, cả Holmes lẫn chính tôi, chẳng thể ngủ yên. Phong thái tự tin trầm lặng của anh khiến tôi tin rằng anh đã có sẵn một giả thuyết có thể giải thích hết các dữ kiện, mặc dù tôi không thể đoán ra được giả thuyết ấy là gì vào ngay lúc này.

Holmes về nhà rất muộn, thực ra là quá muộn vì tôi biết chắc buổi hòa nhạc không thể giữ chân anh lâu đến thế. Bữa ăn tối đã dọn ra bàn trước khi anh xuất hiện.

"Thật tuyệt vời", anh vừa nói vừa ngồi vào bàn. "Anh còn nhớ Darwin nói gì về âm nhạc không? Ông ta cho rằng khả năng sáng tạo và thưởng thức âm nhạc đã tồn tại ở loài người từ lâu trước khi khả năng nói hình thành. Có lẽ đó là lí do chúng ta bị âm nhạc chi phối một cách tinh tế nhường ấy. Trong linh hồn chúng ta vẫn còn các kí ức mơ hồ về những thế kỉ mịt mù khi thế giới này còn non trẻ."

"Ý tưởng đó hơi bao quát đấy", tôi nhận xét.

"Khi muốn diễn giải Tự Nhiên thì ý tưởng của người ta cũng phải bao quát như Tự Nhiên mới được", anh đáp. "Có chuyện gì thế? Trông anh không được bình thường. Vụ án đường Brixton làm anh rối trí chứ gì?"

"Thú thật là đúng vậy đó", tôi nói. "Lẽ ra sau những gì đã trải qua ở Afghanistan, tôi phải chai lì hơn mới đúng. Tôi đã từng thấy đồng đội bị chém đứt lìa nhiều khúc ở Maiwand mà không mất tinh thần."

"Tôi hiểu. Cái bí ẩn bao trùm vụ án kích thích óc tưởng tượng; ở đâu không có tưởng tượng thì ở đó không có khiếp sợ. Anh đã đọc báo buổi chiều chưa?"

"Chưa."

"Báo tường thuật vụ này khá chi tiết, nhưng không đề cập đến chuyện khi đỡ xác chết lên thì có một chiếc nhẫn cưới của phụ nữ rơi xuống sàn. Thế lại hóa hay."

"Tại sao?"

"Xem mẩu tin này đi", anh trả lời. "Tôi đã cho gửi đến mọi tờ báo sáng nay ngay sau khi rời hiện trường."

Anh thảy tờ báo sang cho tôi và tôi liếc mắt qua chỗ mà anh nói tới. Đó là tin đầu tiên trong mục "Của rơi". Báo đăng: Nhặt được sáng nay một chiếc nhẫn cưới bằng vàng trơn ở đường Brixton đoạn giữa quán rượu White Hart và Holland Grove. Gặp bác sĩ Watson ở 221B phố Baker, từ 8 đến 9 giờ tối nay.

"Xin lỗi vì đã mượn tên anh", Holmes nói. "Nếu tôi dùng tên tôi thì mấy kẻ ngu độn kia sẽ nhận ra và sẽ muốn chõ mũi vào chuyện này".

"Được thôi", tôi đáp. "Nhưng giả dụ có người tới gặp thì tôi có cái nhẫn nào đâu."

"Ồ, có chứ", anh vừa nói vừa đưa cho tôi một cái nhẫn. "Cái này là ổn! Nó giống y hệt ấy chứ."

"Thế anh chờ đợi ai sẽ đáp lại thông báo này?"

"À, người mặc áo choàng nâu, anh bạn mặt đỏ đi ghệt mũi vuông của chúng ta đó. Nếu không đích thân đến thì hắn sẽ phái đồng lõa đến."

"Chẳng lẽ hắn không thấy việc này quá nguy hiểm sao?"

"Không hề. Nếu suy đoán của tôi về vụ này chính xác thì tôi có đủ lí do để tin như thế; hắn ta thà chấp nhận mọi rủi ro hơn là mất chiếc nhẫn đó. Tôi cho là hắn đã đánh rơi chiếc nhẫn khi lom khom trên cái xác của Drebber, và lúc đó hắn không để ý. Sau khi rời khỏi căn nhà hắn mới phát hiện là đã mất nên hấp tấp quay lại, nhưng rồi thấy người cảnh binh đã vào khám nhà, do hắn đã ngu ngốc để nến cháy sáng. Hắn phải giả bộ say rượu để xua tan những ngờ vực có thể nảy sinh vì hắn xuất hiện ngay cổng vào. Bây giờ anh thử đặt mình trong trường hợp của hắn xem. Suy đi nghĩ lại, hắn chắc phải nghĩ đến khả năng là mình đã đánh rơi chiếc nhẫn trên đường sau khi rời căn nhà đó. Vậy hắn sẽ làm gì nào? Hắn sẽ nôn nóng tìm đọc các tờ báo buổi chiều với hi vọng thấy ai đó đăng tin nhặt được. Đương nhiên, mắt hắn sẽ sáng rỡ lên khi đọc tin này. Hắn sẽ mừng khôn xiết. Cớ gì hắn phải sợ sa bẫy chứ? Trong suy nghĩ của hắn ta, không có lí do gì việc tìm thấy chiếc nhẫn lại có liên quan đến vụ giết người đó. Hắn sẽ đến. Trong vòng một giờ nữa anh sẽ gặp hắn."

"Rồi sau đó?" Tôi hỏi.

"Ồ, sau đó anh cứ để mặc tôi đối phó với hắn. Anh có vũ khí gì không?"

"Tôi còn khẩu súng lục từ thời ở quân đội và mấy viên đạn."

"Tốt nhất anh nên lau súng và nạp đạn vào. Hắn sẽ liều lĩnh lắm đấy, và mặc dù tôi sẽ làm cho hắn bất ngờ, anh nên sẵn sàng cho bất cứ chuyện gì xảy ra vẫn hơn."

Tôi vào phòng ngủ và làm theo lời khuyên của anh. Khi tôi quay lại với khẩu súng, bàn ăn đã được dọn sạch và Holmes đang chuyên tâm vào công việc ưa thích của anh là kéo cọt kẹt cây vĩ cầm.

"Vụ này ngày càng phức tạp", anh lên tiếng lúc tôi bước vào. "Tôi vừa có một hồi đáp cho bức điện tôi gửi sang Mỹ. Giả thuyết của tôi về vụ này quả là chính xác."

"Tức là sao?" Tôi háo hức hỏi.

"Cây vĩ cầm của tôi nên thay dây mới thì hơn", anh nói vu vơ. "Anh cất súng lục vào túi đi. Khi tên đó tới, cứ nói chuyện với hắn theo cung cách bình thường. Phần còn lại để tôi lo. Đừng có nhìn chằm chằm vào hắn làm hắn sợ."

"Bây giờ 8 giờ rồi", tôi vừa nói vừa nhìn đồng hồ.

"Đúng. Chắc vài phút nữa là hắn đến đây thôi. Mở hở cánh cửa ra. Vậy được rồi. Bây giờ cắm chìa khóa ở bên trong. Cảm ơn anh! Đây là cuốn sách xưa kì lạ tôi chọn được ở quầy sách hôm qua, Bàn về luật giữa các dân tộc xuất bản bằng tiếng La tinh ở Liege xứ Hà Lan năm 1642. Lúc pho sách màu nâu này in ra thì đầu vua Charles vẫn còn nguyên trên cổ."

"Nhà nào in thế?"

"Philippe de Croy, chẳng biết là ai. Trên trang đầu sách có dấu mực rất mờ viết là: Ex libris Gulielmi Whyte. Tôi tự hỏi ông William Whyte này là ai. Tôi đoán là một luật sư nào đó ở thế kỉ mười bảy. Chữ viết của người này có nét lắt léo của dân luật. Khách của ta đến rồi đây, chắc thế."

Anh vừa dứt lời thì một tiếng chuông reo lanh lảnh. Sherlock Holmes nhẹ nhàng đứng dậy và dời ghế của anh về phía cánh cửa. Chúng tôi nghe tiếng người hầu đi dọc theo hành lang rồi tiếng then cài lách cách khi cô ta mở cửa.

"Bác sĩ Watson ở đây phải không?" Giọng hỏi rõ ràng nhưng hơi khàn khàn. Chúng tôi không nghe được câu trả lời của cô hầu nhưng nghe tiếng cửa đóng lại và rồi tiếng ai đó bắt đầu đi lên cầu thang. Tiếng bước chân ngập ngừng và kéo lê. Một vẻ ngạc nhiên thoáng qua gương mặt của anh bạn tôi trong khi anh lắng nghe. Tiếng chân từ từ đi theo hành lang, rồi một tiếng gõ khe khẽ ở cửa.

"Mời vào", tôi cao giọng.

Nghe tôi gọi, thay vì người đàn ông bạo lực mà chúng tôi chờ đợi, một bà lão nhăn nheo khập khiễng bước vào căn phòng. Bà ta dường như lóa mắt vì nguồn sáng đột ngột và sau khi nhún gối cúi chào, bà cứ đứng nhìn chúng tôi, đôi mắt mờ cứ nhấp nháy và mấy ngón tay run rẩy, bồn chồn cứ lóng ngóng tìm gì đó trong túi. Tôi liếc nhìn anh bạn tôi và gương mặt anh cũng lộ rõ vẻ thất vọng tới mức tôi không thể làm gì khác hơn là cố giữ cho mình thái độ bình tĩnh.

Bà lão rút ra tờ báo buổi chiều rồi chỉ vào thông báo của chúng tôi. "Tôi tới đây vì cái này, thưa quý ông", bà vừa nói vừa nhún gối cúi chào lần nữa. "Cái nhẫn cưới bằng vàng ở đường Brixton. Nó là của đứa con gái Sally của tôi, nó lấy chồng tới nay đúng mười hai tháng rồi, còn chồng nó làm bồi trên tàu Union. Nếu thằng chồng nó về nhà mà không thấy con gái tôi đeo cái nhẫn đó thì thật tình tôi không biết nó sẽ nói gì. Thằng chồng nó lúc nào cũng cộc cằn, lúc có rượu vào lại càng cục súc. Chả giấu gì các ông, tối qua con gái tôi đi xem xiếc cùng với..."

"Có phải cái nhẫn của con gái bà đây không?" Tôi hỏi.

"Tạ ơn Chúa!" Bà già kêu lên. "Tối nay Sally hẳn phải mừng hết cỡ. Đúng cái nhẫn đó."

"Thế địa chỉ của bà ở đâu?" Miệng hỏi, tay tôi cầm cây bút chì lên.

"Số 13 phố Duncan, khu Houndsditch. Cách đây xa lắm ạ."

"Đường Brixton đâu có nằm giữa rạp xiếc nào với khu Houndsditch đâu", Sherlock Holmes đột ngột lên tiếng hỏi.

Bà già quay mặt lại và hướng đôi mắt nhỏ có vành mi đỏ chăm chăm về phía anh. Bà ta nói, "Quý ông đây hỏi địa chỉ của tôi mà. Còn Sally, nó trọ ở số 3 Mayheld Place, khu Peckham."

"Thế bà tên là...?"

"Tôi là Sawyer, còn con gái tôi là Dennis, nó theo họ chồng vì lấy thằng Tom Dennis. Thằng chồng nó cũng bảnh bao, tươm tất lắm, miễn là nó cứ ở trên tàu; thật chẳng có thằng bồi nào ở hãng tàu thủy ngon lành hơn nó. Nhưng một khi nó đặt chân lên bờ, với đám đàn bà và mấy quán rượu thì..."

"Cái nhẫn đây, bà Sawyer", làm theo dấu hiệu của anh bạn, tôi ngắt lời bà già. "Đúng là của con gái bà rồi, và tôi mừng là có thể trả lại cho chính chủ nhân của nó."

Với một tràng lẩm bẩm những lời chúc phúc và cảm ơn trịnh trọng, bà lão cất chiếc nhẫn vào túi rồi lê chân xuống cầu thang. Sherlock Holmes đứng phắt dậy ngay khi bà vừa đi khuất và phóng ngay về phòng của anh. Mấy giây sau anh quay lại, người quấn trong cái áo choàng dài và khăn quàng kín cổ. Anh nói hấp tấp, "Tôi sẽ đi theo bà ta. Nhất định bà này phải là đồng lõa, và sẽ dẫn tôi tới chỗ tên kia. Anh cứ thức chờ tôi."

Cánh cửa dưới sảnh chưa kịp đóng sầm sau lưng vị khách của chúng tôi thì Holmes đã xuống cầu thang. Nhìn qua cửa sổ, tôi có thể thấy bóng bà lão đang bước đi nặng nhọc bên kia đường trong khi kẻ săn đuổi bám theo sau cách bà ta một khoảng ngắn. Tôi nghĩ thầm, "Hoặc là toàn bộ giả thuyết này đều sai, hoặc là anh ấy sẽ được dẫn đến mấu chốt của bí ẩn." Chẳng cần anh phải bảo tôi thức khuya chờ, vì tôi biết mình làm sao ngủ được khi còn chưa rõ kết cục của chuyến mạo hiểm này ra sao.

Khi anh ra đi thì đã gần 9 giờ. Không thể biết anh sẽ đi lâu hay mau, tôi cứ ngồi ì đó vừa bập phà tẩu thuốc vừa đọc nhảy cóc cuốn Vie de Bohème của Henri Murger. Quá 10 giờ, tôi nghe tiếng chân của những người hầu gái khi họ lao xao đi ngủ. 11 giờ, bước chân trịnh trọng hơn của bà chủ nhà lướt ngang qua cửa phòng tôi, cũng đi về hướng giường ngủ. Mãi gần đến 12 giờ tôi mới nghe tiếng anh mở chốt cửa lách cách. Anh vừa vào phòng thì nhìn nét mặt là tôi biết ngay anh đã không thành công. Ở anh dường như có sự giao tranh giữa niềm thích thú và nỗi thất vọng, cuối cùng cảm giác thích thú đột nhiên chiến thắng và anh bật lên một tràng cười vui vẻ.

"Tôi sẽ không đời nào để cho bọn người bên Sở Cảnh sát biết chuyện này", anh vừa thốt lên vừa ngồi phịch xuống ghế. "Tôi đã chế giễu bọn họ quá nhiều rồi nên nếu biết chuyện họ sẽ lải nhải mãi không thôi. Tôi còn cười được vì tôi biết sau cùng thể nào tôi cũng trả đũa được."

"Mà chuyện gì thế chứ?" Tôi hỏi.

"À, tôi không ngại kể về thất bại của mình đâu. Mụ ấy đi được một đoạn ngắn thì bắt đầu cà nhắc và lộ rõ mọi dấu hiệu là bị đau chân. Liền sau đó, mụ ta dừng lại và vẫy một cỗ xe ngựa bốn bánh đang chạy ngang qua. Tôi cố xoay xở tới gần mụ hơn để nghe được địa chỉ nhưng thật ra tôi chẳng cần phải lo âu như thế, bởi mụ ta nói to đến ở bên kia đường cũng nghe. Mụ ta nói: 'Tới số 13 phố Duncan, khu Houndsditch'. Chuyện này coi bộ là thật đây, tôi nghĩ thầm, rồi khi thấy mụ đã vào trong xe yên ổn rồi tôi liền đu theo đằng sau cỗ xe. Đó là một tài khéo mà mọi thám tử đều phải thành thạo. Thế là xe cứ lọc cọc đưa chúng tôi đi và không hề dừng cương cho tới khi đến số nhà cần đến. Tôi nhảy xuống trước khi xe đến cửa nhà và tản bộ trên đường với vẻ thong dong. Tôi thấy xe ngựa dừng lại. Bác xà ích nhảy xuống mở cửa xe và đứng chờ. Nhưng chẳng có ma nào bước ra. Khi tôi tới chỗ bác ta thì bác đang mò mẫm loạn xạ trong cỗ xe trống rỗng và miệng tuôn ra rả đủ câu nguyền rủa hay ho nhất mà tôi từng nghe thấy. Không hề có dấu vết nào của người hành khách và tôi e là còn lâu bác ta mới lấy được tiền xe. Khi hỏi nhà số 13, chúng tôi mới biết nhà đó là của một ông thợ chuyên dán giấy dán tường khả kính tên là Keswick, và ở đó chẳng có ai nghe đến tên bà Sawyer hay cô Dennis bao giờ."

Tôi kêu lên kinh ngạc, "Chẳng lẽ ý anh là bà già hom hem, lụ khụ đó lại có thể ra khỏi cỗ xe trong khi xe đang chạy mà cả anh lẫn bác xà ích đều không hay biết sao?"

"Tiên sư mụ già!" Tiếng Sherlock Holmes gay gắt. "Bị lừa như thế thì chúng ta đây mới là những mụ già. Chắc hẳn kẻ đó phải là một thanh niên, lại thuộc loại nhanh nhẹn nữa, chưa kể đó là một kẻ đóng kịch vô song. Kiểu cách đó không thể nào bắt chước được. Nhất định hắn ta biết mình đã bị theo dõi và dùng kế này để lẩn trốn tôi. Rõ ràng kẻ mà chúng ta đang tìm kiếm không phải chỉ có một mình như tôi tưởng, mà còn có nhiều bạn bè sẵn sàng liều mình vì hắn. Này, bác sĩ, trông anh kiệt sức rồi kìa. Nghe lời tôi mà đi ngủ đi."

Hẳn nhiên là tôi đã mệt lử cho nên tôi nghe theo huấn thị của anh bạn. Tôi để Holmes ngồi lại trước lò sưởi cháy âm ỉ và rất lâu sau đó, mấy lần thức tỉnh trong đêm, tôi vẫn còn nghe tiếng vĩ cầm của anh trầm buồn than vãn. Tôi biết anh vẫn đang suy nghĩ miệt mài về vụ án kì lạ mà anh đã tự buộc mình phải giải quyết.

6. Tobias Gregson cho thấy ông ta làm được gì

Các nhật báo hôm sau đăng toàn là "Vụ bí ẩn Brixton", báo chí đặt tên như thế. Tờ nào cũng có bài tường thuật dài về sự việc, mấy tờ còn có thêm cả bài xã luận đi kèm. Có một số thông tin trên báo rất mới lạ đối với tôi. Tôi vẫn còn giữ trong sổ lưu trữ của mình nhiều bài cắt trong báo ra và những trích đoạn có liên quan đến vụ này. Sau đây là tóm lược vài mẩu:

Tờ Daily Telegraph bình luận: Rằng trong lịch sử tội ác hiếm khi có một bi kịch nào lại cho thấy những điểm lạ lùng hơn. Cái tên Đức của nạn nhân, không thấy có động cơ khác, và chữ viết độc địa trên tường, tất cả đều chỉ rõ đây là một hành động do nhóm tị nạn chính trị và cách mạng gây ra. Những người theo chủ nghĩa xã hội có nhiều chi nhánh ở Mỹ và người quá cố chắc chắn đã vi phạm những điều luật bất thành văn của họ và đã bị họ theo dõi. Sau khi hời hợt điểm qua tòa án bí mật Vehm bên Đức, độc dược thạch tín, các hội kín Carbonari bên Ý, vụ án nữ hầu tước Brinvilliers bên Pháp, học thuyết Darwin, các nguyên lý của Malthus, các vụ án mạng trên đường Ratcliff, bài báo kết thúc bằng việc chỉ trích chính phủ và cổ xúy việc giám sát chặt hơn người ngoại quốc ở Anh.

Tờ Standard nhận định: Những vụ vi phạm luật pháp trắng trợn kiểu này luôn xảy ra khi 'đảng Tự do' cầm quyền. Chúng nảy sinh từ tâm trạng bất ổn của quần chúng và sự suy yếu có tính hệ quả của cả chính phủ. Kẻ quá cố là một người Mỹ thượng lưu đã cư trú được mấy tuần lễ ở thủ đô. Ông ta trọ tại nhà của quý bà Charpentier ở khu Torquay Terrace, quận Camberwell. Cùng đi với ông ta trong những chuyến du hành là người thư kí riêng, ông Joseph Stangerson. Hai người đã cáo biệt bà chủ nhà hôm thứ ba, ngày 4 tháng này, và đến ga Euston với ý định không giấu giếm là đón chuyến tàu tốc hành đi Liverpool. Sau đó người ta đã nhìn thấy cả hai cùng có mặt ở sân ga. Không ai biết gì hơn về họ cho đến khi thi thể của ông Drebber, theo hồ sơ, được phát hiện trong một căn nhà không người trên đường Brixton, cách Euston nhiều dặm. Ông ta đến đó bằng cách nào, hay đã bị sát hại ra sao là những câu hỏi vẫn còn trong vòng bí ẩn. Không ai hay biết gì về tung tích của Stangerson. Bổn báo hoan hỉ được biết là cả hai ông Lestrade và Gregson của Sở Cảnh sát London đều tham gia điều tra và có thể tiên đoán một cách tự tin rằng hai sĩ quan danh tiếng này sẽ nhanh chóng làm sáng tỏ vấn đề.

Tờ Daily News lưu ý: Rằng tội ác này chắc chắn mang tính chính trị. Sự chuyên quyền và lòng căm ghét của chủ nghĩa tự do vốn gây xáo động ở các chính phủ Âu châu lục địa, đã xô đẩy đến bờ biển Anh quốc nhiều con người lẽ ra đã thành các công dân ưu tú nếu như họ không bị biến chất do nhớ lại những chuyện đã trải qua. Giữa những con người này có một quy tắc danh dự nghiêm ngặt, bất kì vi phạm nào sẽ bị trừng phạt bằng cái chết. Người ta sẽ nỗ lực bằng mọi cách để tìm cho ra viên thư kí Stangerson và xác định một số chi tiết về nhân thân của người quá cố. Khám phá ra địa chỉ của căn nhà mà người này đã ở trọ là một bước tiến quan trọng vừa đạt được - kết quả này đạt được hoàn toàn nhờ vào sự nhạy bén và năng lực của ông Gregson của Sở Cảnh sát London.

Sherlock Holmes và tôi cùng nhau đọc những ý kiến này trong bữa điểm tâm và chúng dường như đã khiến anh rất thích thú.

"Tôi đã nói với anh rồi mà, đằng nào thì Lestrade và Gregson cũng sẽ hưởng công hết."

"Còn tùy xem kết cục ra sao nữa chứ."

"Ôi, tội nghiệp anh, chẳng quan trọng chút nào hết. Nếu kẻ đó bị bắt thì đó là nhờ những nỗ lực của bọn họ; nếu kẻ đó tẩu thoát thì đó là bất chấp những nỗ lực của họ. Dù chuyện gì xảy ra họ cũng được ghi công cả. Họ có làm gì thì cũng có người ủng hộ. Un sot trouve toujours un plus sot qui l'admire."

"Có chuyện quái gì thế này?" Tôi thốt lên, vì đúng lúc đó dưới sảnh rồi trên cầu thang bỗng lộp cộp vang lên tiếng những bước chân, kèm theo những lời lẽ phẫn nộ thấy rõ của bà chủ nhà.

"Lực lượng thanh tra cảnh sát khu vực phố Baker đấy", anh bạn tôi nghiêm nghị nói và anh chưa dứt lời thì sáu đứa trẻ bụi đời rách rưới và bẩn thỉu nhất mà tôi từng thấy ùa vào phòng.

"Nghiêm!" Holmes hô to, giọng lanh lảnh và sáu đứa ôn con bẩn thỉu kia đứng thành hàng một như những pho tượng bất hảo. "Về sau tụi bay chỉ cần để mỗi thằng Wiggins lên báo cáo thôi, còn cả lũ phải chờ dưới đường. Mi tìm ra chưa, Wiggins?"

"Dạ chưa, thưa ông", một đứa trong bọn lên tiếng.

"Ta cũng không nghĩ là tụi bay tìm được. Nhưng phải tiếp tục tìm cho ra. Tiền công của tụi bay đây." Anh đưa cho mỗi đứa một đồng shilling. "Rồi, giờ thì biến đi và lần tới tụi bay quay lại đây thì phải báo cáo tốt hơn đấy."

Anh khoát tay và lũ trẻ chạy láo nháo xuống cầu thang như một đàn chuột và chỉ một thoáng sau chúng tôi đã nghe thấy tiếng chúng nó ầm ĩ dưới đường.

"Một đứa trong đám trẻ ăn mày đó còn làm được nhiều việc hơn cả tá cảnh sát đấy", Holmes nói. "Chỉ cần thấy một người có vẻ là người của chính quyền thì ai cũng miệng kín như bưng. Nhưng lũ trẻ này đi khắp nơi và nghe ngóng mọi chuyện. Chúng rất thông minh và nhanh trí nữa, chỉ thiếu tổ chức mà thôi."

"Anh huy động chúng nó vào vụ Brixton này đấy à?" Tôi hỏi.

"Đúng vậy, có một chuyện tôi muốn tìm hiểu chắc chắn. Chỉ là vấn đề thời gian thôi. A ha! Giờ thì chúng ta sẽ nghe vài tin tức vượt ngoài mong đợi! Gregson kia kìa, ông ta đang đi dưới đường với vẻ vui mừng lồ lộ trên mặt. Nhất định là đi tới chỗ chúng ta. Đó, ông ta dừng lại rồi. Quả không sai!"

Một hồi chuông gắt gỏng vang lên và mấy giây sau viên thanh tra tóc vàng đi lên cầu thang, nhảy ba bậc một, và lao vào phòng khách của chúng tôi.

"Bạn thân mến ơi", ông ta vừa hò hét vừa siết chặt bàn tay lãnh đạm của Holmes. "Chúc mừng tôi đi! Tôi đã làm mọi chuyện sáng tỏ như ban ngày."

Nét mặt biểu cảm của anh bạn tôi hình như thoáng vẻ lo lắng. "Ý ông nói là ông đã tìm ra đúng hướng?" Anh hỏi.

"Đúng hướng ư? A ha, thưa ông, chúng tôi đã bắt giam luôn hắn ta rồi!"

"Thế hắn ta là ai?"

"Arthur Charpentier, trung úy Hải quân Hoàng gia", Gregson cao giọng đầy tự đắc, hai bàn tay múp míp xoa vào nhau, ngực ưỡn ra trước.

Sherlock Holmes thở phào nhẹ nhõm rồi thoải mái nở một nụ cười: "Mời ông ngồi và hút thử loại xì gà này", anh nói. "Chúng tôi nôn nóng muốn biết làm sao ông giải quyết được, ông dùng chút rượu nhạt nhé?"

"Uống chút cũng không sao", viên thanh tra đáp. "Những nỗ lực khủng khiếp mà tôi phải chịu suốt một hai ngày vừa rồi đã vắt kiệt tôi, ông biết mà, nỗ lực thể chất chưa chắc đã làm căng thẳng bằng trí óc. Ông hiểu rõ điều ấy, ông Sherlock Holmes, vì chúng ta đều là người làm việc bằng trí óc."

"Ông làm tôi hãnh diện quá chừng", Holmes nghiêm trang nói. "Hãy cho chúng tôi biết làm sao ông đạt được kết quả hết sức phấn khởi này đi."

Viên thanh tra thả người vào ghế bành và thoải mái bập phà điếu xì gà. Rồi bất thình lình ông ta vỗ đùi một phát đầy khoái chí. Ông ta nói to, "Chuyện vui nhất là gã ngố Lestrade đó, gã cứ tự cho là gã giỏi, thế mà lại điều tra trật lất hết trơn. Gã cứ truy tìm tay thư kí Stangerson, người chẳng có liên quan gì đến tội ác, vô can chẳng khác gì em bé chưa lọt lòng mẹ. Tôi tin chắc là đến lúc này gã đã bắt được Stangerson rồi." Ý nghĩ đó khiến Gregson khoái trá tới mức cười ầm đến phát sặc.

"Thế làm sao ông tìm ra manh mối?"

"À, để tôi kể hết cho các ông nghe. Bác sĩ Watson này, tất nhiên chuyện này chỉ riêng chúng ta biết thôi nhé. Khó khăn đầu tiên chúng tôi phải vượt qua chính là tìm cho ra lai lịch của tay người Mỹ đó, nhiều người sẽ chờ cho đến khi bố cáo của họ được hồi đáp, hay cho đến khi có bên nào đó ra trình diện và tự giác cung cấp thông tin. Đó không phải cách làm việc của Tobias Gregson này. Các ông còn nhớ cái mũ nằm cạnh người chết không?"

"Nhớ chứ", Holmes nói. "Do nhà John Underwood ở số 129 đường Camberwell làm ra."

Gregson thộn mặt ra tiu nghỉu. "Thật không dè là ông để ý tới nó", ông ta nói. "Ông tới đó chưa?"

"Chưa."

"À!" Gregson thốt lên, giọng nhẹ nhõm hẳn. "Ông đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội nào, cho dù có vẻ là nhỏ nhặt."

"Với một bộ óc lớn lao thì chẳng có gì nhỏ bé cả", Holmes lên giọng dạy dỗ.

"Đấy, tôi đã đến nhà Underwood và hỏi ông ta xem có bán cái mũ nào cỡ đó, kiểu đó, cho ai không, ông ta xem lại sổ sách và tìm ra ngay, ông ta đã cho mang cái mũ đến giao cho ông Drebber nào đó ở nhà trọ của bà Charpentier, ở khu Torquay Terrace. Nhờ vậy tôi có được địa chỉ."

"Tài, tài lắm!" Sherlock Holmes lẩm bẩm.

"Sau đó tôi tới nhà bà Charpentier", viên thám tử kể tiếp. "Tôi thấy bà ta tái nhợt và khổ sở. Con gái bà cũng có mặt trong phòng, một cô gái đẹp khác thường, cô ta cứ ửng đỏ mặt và môi cứ run run khi tôi hỏi chuyện.

Tôi để ý thấy ngay. Tôi sinh nghi có gì dối trá ở đây. Ông biết cảm giác đó mà, ông Sherlock Holmes, khi ông đánh hơi ra chuyện thì tự nhiên có cảm giác hồi hộp liền. Tôi hỏi: 'Bà có nghe nói về cái chết bí ẩn của ông Enoch J. Drebber ở Cleveland, người thuê trọ nhà bà không?'

Bà mẹ gật đầu. Bà ta coi bộ nói không nổi lời nào. Cô con gái thì òa khóc. Tôi càng thấy rõ là những người này biết chuyện gì đó liên quan đến vụ việc. Tôi hỏi: 'Thế ông Drebber rời nhà bà để ra ga lúc mấy giờ?'

'Lúc 8 giờ,' bà ta nói mà cứ nuốt nước bọt liên tục để giữ bình tĩnh, 'ông Stangerson thư kí của ông ấy bảo là có hai chuyến tàu, một chuyến 9 giờ 15 và một chuyến 11 giờ. Ông ta sẽ đón chuyến đầu tiên.'

'Đó là lần chót bà nhìn thấy ông ta phải không?'

Khi tôi hỏi câu đó thì sắc mặt bà ta thay đổi dữ lắm. Mặt bà ta tái nhợt hẳn đi. Phải mất mấy giây bà ta mới 'Dạ' được một tiếng, mà cái tiếng 'Dạ' đó khi thốt ra cũng khản đặc khác thường. Im lặng một hồi lâu thì tới lượt cô con gái lên tiếng, giọng rõ ràng, bình tĩnh: 'Cứ nói dối mãi chẳng ích gì đâu, mẹ ơi. Ta cứ nói thật hết với quý ông này đi. Đúng là chúng tôi có gặp lại ông Drebber sau đó.'

'Cầu Chúa xá tội!' Bà Charpentier kêu to, hai tay vung lên trời rồi bà ta ngồi phịch xuống ghế. 'Mày giết anh mày rồi, con ơi.'

'Anh Arthur cũng sẽ muốn chúng ta nói sự thật mà thôi,' cô gái đáp lại, giọng kiên quyết.

'Tốt nhất là các người cứ kể hết cho tôi nghe luôn đi,' tôi nói. 'Cứ nửa tin nửa ngờ thì còn tệ hơn là không tin tưởng nhau. Hơn nữa, các người làm sao biết chúng tôi đã biết rõ chuyện này tới đâu chứ.'

'Mọi chuyện là do mày hết đó nghe, Alice!' Bà mẹ kêu lên rồi quay sang tôi. 'Thưa ông, tôi sẽ kể hết. Ông đừng tưởng chuyện tôi lo lắng vì con trai tôi là do tôi sợ nó có nhúng tay vào cái việc khủng khiếp này. Con tôi hoàn toàn vô tội. Nhưng tôi sợ là ông và những người khác lại cho rằng con trai tôi có thể gây hại. Không thể nào có chuyện đó. Tư cách của nó, nghề nghiệp của nó, lai lịch của nó, hoàn toàn không cho phép nó làm bậy được.'

'Tốt nhất là bà cứ khai báo hết mọi chuyện đi,' tôi nói. 'Theo lời khai này, nếu con trai bà vô tội thì anh ta sẽ không bị tổn hại gì đâu.'

'Này Alice, chắc là con nên ra ngoài cho người lớn nói chuyện,' bà mẹ nói và cô con gái rút lui. 'Đấy, thưa ông,' bà ta nói tiếp, 'thật sự là tôi không muốn nói hết với ông đâu nhưng do đứa con gái tội nghiệp của tôi đã bộc lộ rồi thì tôi không còn cách nào khác. Một khi đã quyết định nói, tôi sẽ cho ông biết không sót chi tiết nào.'

'Đó là cách xử sự khôn ngoan nhất đấy thưa bà,' tôi nói.

'Ông Drebber ở trọ nhà chúng tôi gần ba tuần, ông ta và viên thư kí Stangerson đang du hành Âu châu. Tôi có thấy trên mỗi rương hành lí của họ đều có dán nhãn Copenhagen, rõ ràng đó là điểm dừng chân sau chót của họ. Stangerson là người trầm lặng, kín đáo, nhưng ông chủ của anh ta, tôi xin lỗi, phải nói là hoàn toàn trái ngược, ông ta tính tình thì lỗ mãng còn cư xử thì hung tợn. Ngay đêm ông ta tới đây thì ông ta còn tồi tệ hơn vì đã say rượu, và thực tình là đến 12 giờ trưa hôm sau ông ta vẫn còn say chưa tỉnh. Cách xử sự của ông ta với mấy đứa hầu gái thật là buông tuồng và suồng sã thấy ghét. Tệ hại nhất là ông ta nhanh chóng giở cái thái độ đó với con gái tôi, con Alice, và đã nhiều lần nói chuyện với con gái tôi theo cái kiểu mà may sao con gái tôi ngây thơ quá nên không hiểu. Có một lần ông ta quả thực đã ôm ghì lấy con gái tôi trong vòng tay, một sự xúc phạm khiến cho viên thư kí của ông ta phải lên tiếng trách cứ cái hành vi phi quân tử đó.'

'Nhưng sao bà lại cam chịu mọi chuyện thế chứ?' Tôi hỏi. 'Tôi nghĩ nếu bà muốn thì bà có quyền tống khứ những người ở trọ đi.'

Câu hỏi thẳng thừng của tôi làm bà Charpentier đỏ mặt. 'Có Chúa chứng giám là ngay ngày đầu tiên ông ta đến ở thì tôi đã đòi đuổi đi rồi,' bà ta nói. 'Nhưng tiền cứ đâm vào mắt. Họ trả mỗi người một bảng Anh một ngày, vị chi mười bốn bảng một tuần, và mùa này lại ít khách trọ. Tôi thì góa chồng, con trai ở trong hải quân cũng làm tôi tốn nhiều tiền. Tôi không cam lòng mất số tiền đó. Tôi cố xoay xở cho khéo. Nhưng đến lần vừa rồi tôi hết chịu nổi, và vì chuyện đó tôi không cho ông ta trọ nữa. Đó là lí do ông ta phải đi.'

'Rồi sao?'

'Lòng tôi nhẹ nhõm hẳn khi thấy ông ta lên xe đi. Con trai tôi lúc đó cũng vừa nghỉ phép nhưng tôi không cho nó biết gì hết vì tính nó dữ lắm mà nó lại rất thương em gái. Họ đi rồi, tôi đóng cửa lại và thấy như tròng lòng trút được gánh nặng. Than ôi, không đầy một tiếng đồng hồ sau thì có tiếng chuông cửa, và tôi biết là ông Drebber đã quay lại. Ông ta hết sức nóng nảy, rõ ràng là càng kích động hơn vì đã say. Ông ta xô cửa vào phòng, nơi tôi đang ngồi với con gái, và ông ta cứ nói chẳng ra đầu ra đũa gì cả về chuyện nhỡ tàu. Rồi ông ta quay sang Alice, và ngay trước mặt tôi, đề nghị con gái tôi nên bỏ nhà trốn đi cùng ông ta. Ông ta nói: 'Em đã trưởng thành rồi, chẳng có luật lệ nào cấm cản em. Tiền thì tôi có đầy. Đừng có bận tâm đến mụ già này, đi theo tôi ngay đi. Em sẽ sống như bà hoàng.' Tội nghiệp con Alice sợ quá cứ rúm người tránh né, nhưng ông ta đã chộp lấy cổ tay nó và toan lôi nó ra cửa. Tôi thét lên và ngay lúc đó thằng Arthur con tôi đi vào. Những gì xảy ra sau đó thì tôi không rõ. Tôi nghe tiếng chửi thề và tiếng ẩu đả hỗn loạn. Tôi sợ quá đâu dám ngẩng đầu lên. Lúc nhìn lên tôi thấy thằng Arthur đứng ở ngưỡng cửa cười to, tay cầm cái gậy. Nó nói: 'Con nghĩ là cha nội đó sẽ không dám quấy phá nhà ta nữa đâu. Để con đi theo xem hắn ta làm gì cho hết thời gian.' Nói xong, nó đội mũ và đi ra phố. Sáng hôm sau chúng tôi biết tin cái chết bí ẩn của ông Drebber.'

Lời khai đó do chính miệng bà Charpentier nói ra giữa những tiếng thở dốc và những chỗ ngập ngừng. Có lúc bà ta nói nhỏ tới mức tôi hầu như không nghe được. Nhưng tôi đã ghi tốc kí hết những gì bà ta nói cho nên không thể nào sai sót gì được."

"Lí thú quá", Sherlock Holmes nói rồi ngáp dài. "Sau đó thì sao?"

"Khi bà Charpentier ngừng lời", viên thanh tra kể tiếp, "tôi thấy toàn bộ vụ này xoay quanh một điểm mấu chốt. Tôi nhìn chằm chằm vào bà ta với ánh mắt mà tôi luôn thấy hiệu quả đối với phụ nữ, tôi hỏi bà ta mấy giờ thì con trai bà quay về.

'Tôi không biết,' bà ta đáp.

'Không biết?'

'Không, nó có chìa khóa riêng và tự mở cửa vào.'

'Sau khi bà đã đi ngủ à?'

'Dạ.'

'Thế bà đi ngủ khi nào?'

'Khoảng 11 giờ.'

'Vậy là con trai bà bỏ đi ít nhất là hai tiếng?'

'Dạ.'

'Có thể là bốn hay năm tiếng?'

'Dạ.'

'Thế trong khoảng thời gian đó anh ta làm gì?'

'Tôi đâu có biết,' bà ta trả lời mà đôi môi cứ trắng nhợt ra. Tất nhiên sau đó chẳng còn gì để hỏi nữa. Tôi đã tìm ra trung úy Charpentier ở đâu, tôi gọi thêm hai sĩ quan nữa đi cùng tôi và bắt giữ hắn. Khi tôi vỗ vai hắn và khuyên hắn phải ngoan ngoãn đi theo chúng tôi, hắn trâng tráo đáp lại: 'Chắc mấy ông bắt tôi vì liên quan đến cái chết của tên vô lại Drebber chứ gì.' Chúng tôi đâu có nói gì với hắn về chuyện đó, cho nên việc hắn tự nói ra lại là điểm đáng nghi ngờ nhất."

"Nghi lắm", Holmes nói.

"Hắn ta vẫn còn mang theo cây gậy to mà theo lời bà mẹ là hắn đã mang bên người khi đi theo Drebber. Một cây gậy ngắn bằng gỗ sồi rất chắc."

"Như vậy ông đưa ra giả thuyết gì?"

"À, giả thuyết của tôi là hắn ta đã đi theo Drebber đến tận đường Brixton. Khi tới đó, giữa hai người lại nảy ra cãi vã, và trong khi xô xát Drebber lãnh một gậy, có lẽ là ngay giữa bụng, khiến hắn chết mà không để lại dấu vết gì. Đêm mưa ướt át nên chung quanh không có ai, thế là Charpentier kéo xác nạn nhân vào căn nhà bỏ không đó. Còn cây nến, và vũng máu, và chữ viết trên tường, và cái nhẫn, đó toàn là những mánh lới để đánh lạc hướng cảnh sát thôi."

"Quá hay!" Holmes nói với giọng khích lệ. "Quả thực ông đã xoay xở tốt quá, ông Gregson. Chúng tôi thật không biết khen ngợi ông sao cho xứng đây."

"Tôi tự hào mình đã giải quyết chuyện này khá nhanh gọn", viên thanh tra kiêu hãnh trả lời. "Gã thanh niên đó đã tự giác khai báo, hắn khai là sau khi đi theo Drebber được một lúc thì Drebber nhận ra hắn nên đón xe ngựa đi để trốn tránh. Trên đường về nhà, hắn gặp một bạn cùng tàu ngày trước, và đi tản bộ rất lâu với người này. Khi hỏi bạn cũ sống ở đâu thì hắn ta lại không thể đưa ra câu trả lời nào thỏa đáng. Tôi nghĩ toàn bộ vụ này ăn khớp với nhau lạ lùng. Chuyện làm tôi thích thú là nghĩ đến Lestrade, gã đánh hơi sai hướng rồi. Tôi e là chẳng được trò trống gì. Ôi trời, thiêng thật, mới nhắc đến đã ló mặt ra rồi!"

Quả đúng là Lestrade. Ông ta lên cầu thang trong lúc chúng tôi nói chuyện và giờ bước vào phòng. Tuy nhiên, vẻ ung dung tự mãn thường lộ rõ trong thái độ và cách phục sức của ông ta bây giờ đã đi đâu mất. Vẻ mặt Lestrade bối rối và bồn chồn trong khi áo quần lại xộc xệch lôi thôi. Rõ ràng là Lestrade đến đây với ý đồ nhờ Sherlock Holmes tư vấn, và khi thấy đồng nghiệp của mình cũng có mặt, ông ta đâm ra lúng túng và bực bội. Ông ta đứng ngay giữa phòng, tay lóng ngóng mân mê chiếc mũ mà không biết phải làm gì. "Đây là vụ lạ lùng nhất", cuối cùng ông thốt lên, "một vụ khó hiểu nhất."

"A, ông cũng thấy vậy à, ông Lestrade!" Gregson đắc thắng lên tiếng. "Tôi biết thế nào ông cũng kết luận như thế. Thế ông đã tìm ra viên thư kí, ông Joseph Stangerson chưa?"

"Viên thư kí Joseph Stangerson", giọng Lestrade nghiêm trọng, "đã bị giết chết ở khách sạn Halliday lúc 6 giờ sáng nay."

7. Ánh sáng trong bóng tối

Lestrade đã chào chúng tôi bằng một tin tức hết sức nghiêm trọng, hết sức bất ngờ khiến cả ba chúng tôi bàng hoàng sửng sốt. Gregson nhảy bật khỏi ghế làm đổ cả cốc rượu chưa uống hết. Tôi nín lặng trân trối nhìn Sherlock Holmes. Anh mím chặt môi và cau mày lại. "Stangerson nữa!" Anh lẩm bẩm. "Vụ này ngày càng phức tạp."

"Làm như chưa đủ phức tạp không bằng", Lestrade vừa càu nhàu vừa kéo một cái ghế. "Hình như tôi đã tình cờ chen vào một hội nghị khẩn cấp thì phải."

"Ông có chắc chắn... ông có chắc chắn về thông tin này không?" Gregson ấp úng.

"Thì tôi vừa từ chỗ Stangerson tới đây mà", Lestrade nói. "Tôi là người đầu tiên phát hiện sự việc vừa rồi."

"Chúng tôi đang nghe ý kiến của Gregson về vụ này", Holmes lên tiếng. "Phiền ông cho chúng tôi biết những gì ông đã chứng kiến và hành động?"

"Rất sẵn lòng", Lestrade đáp và ngồi xuống. "Không giấu gì các ông, tôi vốn cho rằng Stangerson liên quan đến cái chết của Drebber. Tình huống mới nhất này đã chứng tỏ là tôi hoàn toàn sai lầm. Cứ chăm chăm theo một giả thuyết, tôi đi điều tra xem chuyện gì xảy đến cho viên thư kí đó. Người ta đã thấy họ cùng đứng ở ga Euston khoảng 8 giờ rưỡi tối hôm đó. Đến 2 giờ sáng thì phát hiện ra Drebber ở đường Brixton. Vấn đề tôi phải đương đầu là làm sao biết được Stangerson đã làm gì từ 8 giờ rưỡi cho đến lúc xảy ra án mạng, và chuyện gì xảy đến với ông ta sau đó. Tôi đánh điện đến Liverpool, mô tả nhân dạng người này, và nhờ người ở đó theo dõi những chuyến tàu trở về Mỹ. Sau đó tôi bắt đầu ghé đến mọi khách sạn và nhà trọ ở những khu lân cận Euston. Các ông thấy đấy, tôi lập luận rằng nếu Drebber và người đồng hành đã mỗi người mỗi hướng thì đương nhiên Stangerson tìm chỗ trú ngụ qua đêm ở đâu gần đó, để sáng hôm sau lại lảng vảng ở nhà ga."

"Rất có khả năng họ đã bàn bạc trước về một điểm hẹn nào đó", Holmes nói.

"Quả đúng như thế. Tôi bỏ cả buổi tối hôm qua đi dò hỏi mãi mà chẳng có kết quả gì. Sáng nay tôi bắt đầu rất sớm và đến 8 giờ thì tôi tới khách sạn Halliday ở phố Little George. Nghe tôi hỏi có ông nào là Stangerson ở đây không thì người ta trả lời ngay là có.

Họ nói: 'Nhất định quý ông đây là người mà ông ấy đang trông đợi. Ông ấy đã chờ một quý ông nào đó cả hai ngày nay rồi.'

Tôi hỏi: 'Thế bây giờ ông ấy ở đâu?'

'Ông ấy còn đang ngủ trên lầu. Ông ấy đã dặn đánh thức lúc 9 giờ.'

Tôi nói: 'Để tôi lên lầu gặp ông ấy ngay!'

Tôi nghĩ rằng có thể sự xuất hiện đột ngột của tôi sẽ khiến Stangerson mất bình tĩnh và khinh suất nói ra nhiều chuyện. Thằng bồi khách sạn tình nguyện đưa tôi đi, phòng đó ở trên tầng ba và có một hành lang nhỏ dẫn tới. Thằng bồi chỉ cho tôi thấy cửa phòng và định quay xuống cầu thang thì tôi thấy một thứ làm tôi muốn phát nôn, bất kể hai mươi năm kinh nghiệm của tôi. Từ dưới cánh cửa một dòng máu đỏ tràn qua hành lang và đọng thành một vũng nhỏ dọc theo gờ tường bên kia. Tôi kêu lên khiến thằng bồi quay lại. Thấy vũng máu nó suýt ngất xỉu. Cánh cửa đã khóa bên trong, nhưng cả hai chúng tôi cùng đưa vai tống mạnh và cửa bật ra. Cửa sổ trong phòng mở toang, và bên cạnh cửa sổ, xác một người đàn ông còn mặc đồ ngủ nằm co lại. Ông ta chết ngắc, và chết từ lâu, vì tay chân đã lạnh cứng. Khi chúng tôi lật cái xác lại thì thằng bồi nhận ra ngay quý ông đã thuê phòng với cái tên Joseph Stangerson. Ông ta chết vì một cú đâm sâu phía bên trái, hẳn là đâm thấu tim. Và bây giờ mới tới phần lạ lùng nhất của chuyện này. Phía bên trên người bị giết ấy là cái gì, các ông thử đoán xem?"

Tôi thấy cả người sởn gai ốc và linh cảm một điều khủng khiếp sẽ đến, trước cả khi Sherlock Holmes đáp lời. Anh nói, "Chữ RACHE, với những mẫu tự viết bằng máu."

"Chính là thế", Lestrade thốt lên, giọng sợ hãi và tất cả chúng tôi đều im lặng hồi lâu.

Hành vi của kẻ sát nhân bí ẩn này vừa rất có hệ thống, vừa không thể hiểu nổi, khiến cho tội ác của hắn càng thêm phần rùng rợn. Thần kinh của tôi, vốn đã khá vững vàng trên chiến trường, giờ lại bủn rủn khi nghĩ đến chuyện này.

"Có người đã thấy thủ phạm", Lestrade kể tiếp. "Một thằng nhỏ bán sữa trên đường đi đến nhà máy lấy sữa đã tình cờ đi theo con đường nhỏ của dãy nhà đằng sau khách sạn. Nó để ý thấy một cái thang mọi khi vẫn nằm ở đó lại được dựng lên, tựa vào một cửa sổ mở toang trên tầng ba. Sau khi đi qua, thằng nhỏ ngoái lại và thấy một người đàn ông leo xuống thang. Hắn ta leo xuống bình thản và ngang nhiên tới mức thằng nhỏ tưởng đâu là thợ mộc đang làm việc ở khách sạn. Nó chẳng chú tâm gì mấy đến người đó, không hề nghĩ rằng giờ ấy mà đã làm việc thì quá sớm. Nó còn nhớ rõ người đó cao lớn, mặt đỏ ửng, và mặc áo khoác dài màu nâu. Thủ phạm hẳn phải nán lại trong căn phòng một lúc sau khi giết người, vì chúng tôi thấy nước trong bồn rửa mặt vấy máu, nơi hắn đã rửa tay, và nhiều dấu máu trên các lớp chăn trải giường nơi hắn đã cố tình lau sạch con dao."

Tôi liếc nhìn Holmes trong lúc nghe mô tả về kẻ sát nhân, giống y những gì anh đã nói với tôi. Tuy nhiên, nét mặt anh không hề có dấu hiệu gì là hoan hỉ hay hài lòng. Anh hỏi, "Trong phòng đó ông có tìm thấy cái gì có thể cung cấp manh mối về kẻ sát nhân không?"

"Chẳng có gì. Trong túi Stangerson có cái ví của Drebber nhưng điều này có vẻ bình thường thôi vì viên thư kí lo hết mọi chuyện thanh toán. Trong ví có hơn tám mươi bảng Anh nhưng không mất đồng nào. Cho dù động cơ của những tội ác lạ lùng này là gì đi nữa thì nhất định không phải là cướp bóc. Trong túi của người bị giết cũng không hề có giấy tờ hay ghi chép gì, ngoại trừ một bức điện tín gửi từ Cleveland đề ngày cách đây một tháng rồi, và chỉ có mấy chữ: J. H đang ở Âu châu. Bức điện này không hề có tên người gửi."

"Không còn gì khác sao?" Holmes hỏi.

"Chẳng có gì quan trọng cả. Cuốn tiểu thuyết mà Stangerson đọc cho dễ ngủ vẫn còn nằm trên giường, tẩu thuốc của ông ta vẫn còn trên cái ghế bên cạnh. Trên bàn có một cốc nước và trên bệ cửa sổ có một hộp thuốc nhỏ xíu, bên trong có hai viên thuốc."

Sherlock Holmes đứng bật dậy khỏi ghế, kêu lên mừng rỡ, "Mắt xích cuối cùng! Giả thuyết của tôi đã trọn vẹn!"

Hai viên thanh tra ngạc nhiên nhìn anh chằm chằm. Anh bạn tôi nói rất tự tin, "Bây giờ tôi đã có trong tay đủ hết những manh mối hợp thành cái mớ bòng bong này. Tất nhiên còn thiếu những chi tiết nhưng tôi đã xác định được hết các yếu tố chính, từ lúc Drebber chia tay viên thư kí Stangerson ở nhà ga cho tới khi phát hiện ra xác viên thư kí, cứ như là chính mắt mình đã chứng kiến. Rồi tôi sẽ cho các ông thấy những gì tôi biết. Thế ông có giữ mấy viên thuốc đó trong tay không?"

"Có đây", Lestrade vừa nói vừa chìa một hộp nhỏ màu trắng ra. "Tôi lấy cùng với cái ví và bức điện tín, tính mang về sở cảnh sát cất hết vào một chỗ an toàn. Chỉ tình cờ tôi mới lấy luôn mấy viên thuốc này, chứ phải nói là tôi chẳng thấy thứ đó quan trọng gì."

"Đưa chúng cho tôi", Holmes nói rồi quay sang tôi. "Này bác sĩ, đây có phải thuốc thường không?"

Chắc chắn là không. Đó là những viên tròn nhỏ, màu xám ngọc trai, và giơ lên ánh sáng thì gần như trong suốt. "Theo độ nhẹ và độ trong suốt này, tôi nghĩ là chúng tan trong nước", tôi nhận xét.

"Chính xác là thế", Holmes đáp lời. "Bây giờ phiền anh xuống nhà mang con chó tội nghiệp lên đây, bấy lâu nay nó đã quặt quẹo tới mức hôm qua bà chủ nhà đã muốn anh giúp nó thoát khỏi đau đớn."

Tôi xuống nhà ôm con chó trong tay rồi quay lên. Hơi thở nặng nhọc và ánh mắt đờ đẫn của con vật cho thấy nó chẳng còn sống được bao lâu nữa. Quả thực, cái mõm trắng phếch cho thấy rõ nó đã quá già so với tuổi thọ bình thường của loài khuyển. Tôi đặt con chó lên một chiếc đệm để trên thảm.

"Bây giờ tôi sẽ cắt viên thuốc này làm đôi", Holmes nói và rút dao nhíp ra rồi nói tới đâu làm tới đó. "Một nửa tôi sẽ bỏ lại vào hộp để dành về sau. Nửa kia tôi sẽ bỏ vào cái li này, trong li có sẵn một thìa nước. Các ông thấy là anh bạn bác sĩ của tôi nói đúng, thuốc này tan rất nhanh."

"Chuyện này có thể hay ho đấy", Lestrade nói với giọng tự ái của một kẻ nghi ngờ rằng mình đang bị nhạo báng, "nhưng tôi không thấy nó có liên quan gì đến cái chết của Joseph Stangerson."

"Kiên nhẫn nào, ông bạn ơi, kiên nhẫn! Cứ từ từ rồi ông sẽ thấy rằng nó hoàn toàn có liên quan. Bây giờ tôi cho thêm tí sữa để làm cho cái hỗn hợp này ngon lành và khi đưa cho con chó thì ta sẽ thấy nó chịu liếm sạch."

Vừa nói anh vừa đổ thứ trong li ra một cái đĩa rồi đặt đĩa trước con chó. Nó mau chóng liếm sạch. Thái độ của Sherlock Holmes nãy giờ đã thuyết phục chúng tôi nên tất cả đều ngồi im lặng chăm chú theo dõi con vật kia và chờ đợi một phản ứng bất ngờ nào đó. Tuy nhiên chẳng có gì xảy ra. Con chó tiếp tục nằm duỗi ra trên đệm, thở khò khè, nhưng rõ ràng là chuyện uống thuốc vừa rồi chẳng có tác dụng gì với nó cả. Holmes lấy đồng hồ ra xem và phút này tiếp nối phút kia mà không thấy kết quả gì, nét mặt anh lộ rõ vẻ chán nản và thất vọng hết sức. Hết mím môi, anh lại gõ mấy ngón tay lên bàn, và bộc lộ hết mọi dấu hiệu sốt ruột cực độ. Cảm xúc của anh căng thẳng tới mức tôi thật sự thấy thương hại cho anh, trong khi hai viên thanh tra cười chế giễu, hoàn toàn không thấy khó chịu gì với cái trở ngại mà anh gặp phải.

"Không thể nào là trùng hợp ngẫu nhiên được", cuối cùng anh thốt lên, nhảy phắt khỏi ghế và đi tới đi lui trong phòng như phát cuồng. "Nhất định không thể nào chỉ là chuyện trùng hợp. Chính những viên thuốc tôi đã nghi ngờ từ vụ Drebber bây giờ đã được tìm thấy sau cái chết của Stangerson. Thế mà chúng chẳng có tác dụng gì. Vậy là sao chứ? Chắc chắn là toàn bộ chuỗi suy luận của tôi không thể sai. Không thể nào! Vậy mà con chó khốn khổ này cứ trơ trơ. A, tôi biết rồi! Tôi biết rồi!" Hét lên một tiếng vui sướng, anh lao tới hộp thuốc, cắt viên thuốc còn lại làm đôi, hòa tan, thêm sữa, rồi lại đưa cho con chó. Con vật bất hạnh dường như còn chưa kịp nhúng lưỡi vào đó thì đã rùng mình co giật cả bốn chân rồi nằm chết cứng đờ như thể vừa bị sét đánh.

Sherlock Holmes hít một hơi dài và lau vầng trán đẫm mồ hôi. "Lẽ ra tôi phải vững tin hơn", anh nói. "Lẽ ra tới lúc này tôi phải biết là khi một dữ kiện có vẻ mâu thuẫn với cả chuỗi dài suy luận thì hẳn phải có thể giải thích theo cách khác. Hai viên thuốc trong hộp có một viên là độc dược giết người cực mạnh, còn viên kia hoàn toàn vô hại. Lẽ ra tôi phải biết từ trước khi nhìn thấy cái hộp mới đúng."

Câu nói sau cùng của anh khiến tôi sửng sốt tới mức tôi khó mà tin nổi là anh đang hoàn toàn tỉnh táo. Thế nhưng một con chó đã phải chết để chứng minh rằng các phỏng đoán của anh chính xác. Tôi thấy dường như màn sương mù che phủ tâm trí mình đang dần dần tan biến, và tôi bắt đầu lờ mờ nhận ra sự thật.

"Mọi chuyện này có vẻ kì lạ đối với các ông", Holmes nói tiếp, "bởi ngay từ đầu cuộc điều tra, các ông đã không thấu hiểu tầm quan trọng của manh mối đích thực duy nhất nằm ngay trước mắt. Rất may là tôi đã chộp được manh mối đó và mọi chuyện xảy ra về sau đều xác minh điều tôi giả định ngay từ đầu, và đúng như thế, mọi chuyện về sau chỉ là một chuỗi logic của giả định đó. Vì thế, nhiều điều khiến các ông lúng túng và làm cho sự việc thêm khó hiểu thì chúng lại khai sáng cho tôi và củng cố những kết luận của tôi. Thật sai lầm khi nhầm lẫn sự lạ thường với sự bí ẩn. Tội ác bình thường nhất nhiều khi lại chính là tội ác bí ẩn nhất bởi vì nó không có yếu tố gì mới mẻ hay đặc biệt để làm cơ sở suy luận. Vụ giết người này lẽ ra sẽ khó làm sáng tỏ hơn gấp bội phần nếu như xác của nạn nhân chỉ được phát hiện nằm trên đường lộ mà không hề có những yếu tố đi kèm gây xúc động thái quá, những yếu tố khiến nó khác thường. Những chi tiết lạ lùng này hoàn toàn không làm cho sự việc thêm khó hiểu mà thực ra lại có tác dụng ngược lại."

Gregson nãy giờ nghe bài diễn văn này với vẻ sốt ruột thấy rõ, tới lúc này thì ông ta không chịu nổi nữa. "Này, ông Sherlock Holmes", ông ta thốt lên, "ai trong chúng tôi cũng sẵn sàng thừa nhận ông là người thông minh và ông có phương pháp làm việc riêng. Nhưng chúng tôi lúc này cần những thứ khác hơn là chỉ toàn lí thuyết với rao giảng. Đây là chuyện tìm cho ra thủ phạm. Tôi đã điều tra theo hướng của mình và coi bộ tôi đã sai lầm. Anh chàng Charpentier kia không thể nào dính dáng vào vụ giết người thứ hai. Lestrade truy tìm mục tiêu của ông ta là Stangerson và hóa ra ông ta cũng sai lầm luôn. Còn ông thì cứ ra rả hết lời khuyên này đến lời khuyên khác, và tỏ ra hiểu biết nhiều hơn chúng tôi, nhưng đã tới lúc chúng tôi thấy là mình có quyền hỏi thẳng xem ông hiểu biết về vụ này đến đâu. Ông có biết được danh tính thủ phạm không nào?"

"Cũng phải nói là tôi thấy Gregson có lí đó, ông à", Lestrade lên tiếng. "Cả hai chúng tôi đều đã cố gắng và đều thất bại. Từ khi tôi bước vào căn phòng này thì đã hơn một lần ông nói là ông đã có đủ chứng cứ cần thiết. Nhất định là ông sẽ không giữ kín chứng cứ lâu hơn nữa đâu."

"Càng chậm trễ bắt tên sát nhân thì hắn càng có thời gian gây ra thêm những tội ác mới", tôi cũng góp lời.

Bị cả ba chúng tôi thúc ép như thế, Holmes tỏ ra có phần lưỡng lự. Anh tiếp tục đi tới đi lui khắp phòng, đầu cúi gằm, chân mày cau lại, như thói quen mỗi khi suy tư.

"Sẽ không có vụ giết người nào nữa đâu", cuối cùng anh đột ngột dừng lại và quay sang nhìn chúng tôi. "Quý vị có thể bỏ qua mối quan tâm đó đi. Quý vị hỏi tôi có biết tên kẻ ám sát đó không ư? Tôi biết. Nhưng việc biết danh tính hắn ta chỉ là chuyện nhỏ nhặt so với khả năng tóm cổ được hắn. Tôi nghĩ chuyện đó cũng sắp thôi. Tôi rất hi vọng sẽ bắt được hắn ta bằng những cách tôi đã chuẩn bị, song đây là việc cần phải xử lí thật khéo vì chúng ta đương đầu với một kẻ vừa xảo quyệt vừa liều lĩnh, một kẻ mà tôi đã có cơ hội xác minh là được hỗ trợ bởi một người nữa cũng khôn ngoan không kém. Chừng nào kẻ này còn chưa biết là người ta đã có manh mối thì còn có cơ hội bắt được hắn, nhưng chỉ cần hắn nghi ngờ một chút thôi thì hắn sẽ thay tên đổi họ và biến mất ngay giữa bốn triệu cư dân trong thành phố to lớn này. Không hề cố ý làm các ông tự ái nhưng phải nói là tôi thấy lực lượng cảnh sát không phải là đối thủ tương xứng với những kẻ này, và đó là lí do tôi đã không nhờ các ông giúp sức. Nếu thất bại, tất nhiên tôi sẽ lãnh hết trách nhiệm vì sự khinh suất này, nhưng tôi đã sẵn sàng gánh chịu rồi. Còn hiện tại, tôi chỉ hứa là ngay khi nào có thể thông báo với các ông mà không gây nguy hại cho những gì tôi đã sắp xếp, thì tôi sẽ nói."

Gregson và Lestrade có vẻ chẳng lấy gì làm thỏa mãn với cam kết này, hoặc với lời ám chỉ đầy khinh thường giới cảnh sát điều tra. Mặt Gregson đỏ bừng đến tận chân tóc còn ánh mắt Lestrade thì long lên, vừa uất ức vừa hiếu kì. Nhưng chưa ai kịp lên tiếng thì đã có tiếng gõ cửa và kẻ đại diện cho đám trẻ bụi đời, thằng nhóc Wiggins, đã chường cái bộ dạng khó ưa ra. "Xin mời ông", nó vừa nói vừa vuốt lọn tóc trước trán. "Cháu đã gọi sẵn xe ngựa chờ dưới nhà."

"Giỏi đó, nhóc con", Holmes ôn tồn nói. "Sao các ông không đưa kiểu mẫu này vào sử dụng ở Sở Cảnh sát London nhỉ?" Anh lấy trong ngăn kéo ra một đôi còng tay bằng thép và nói tiếp. "Thấy chưa, cái lò xo này hoạt động mới tuyệt vời chứ! Bóp một cái là siết chặt liền."

"Kiểu cũ xài cũng tốt chán", Lestrade lên tiếng, "chúng tôi chỉ cần tìm người cho tay vào còng thôi."

"Đúng lắm, đúng lắm", Holmes vừa nói vừa cười. "Bác xà ích mà khênh giúp tôi mấy cái rương thì hay quá. Wiggins, bảo bác ấy lên đây đi." Tôi ngạc nhiên thấy anh bạn mình nói năng cứ như sắp lên đường đi một chuyến xa vì anh đã không hề nói gì với tôi về chuyện này. Trong phòng có một vali quần áo nhỏ, anh lôi nó ra và bắt đầu ràng dây. Anh đang loay hoay làm thì người xà ích đi vào phòng.

"Giúp tôi một tay cài khóa lại với, bác xà ích ơi", vẫn quỳ bên chiếc vali, anh nói mà không quay đầu lại.

Với vẻ mặt ngang ngạnh và có phần cau có, người xà ích đi tới và đưa tay ra phụ giúp. Liền ngay đó là một tiếng cách khô đanh, tiếng kim khí lanh canh, và Sherlock Holmes đứng phắt lên.

"Thưa quý vị", anh nói to, mắt bừng sáng, "xin giới thiệu với quý vị ông Jefferson Hope, người đã sát hại Enoch Drebber và Joseph Stangerson." Mọi chuyện xảy ra chớp nhoáng, nhanh tới mức không kịp hiểu rõ. Tôi nhớ mồn một cái khoảnh khắc đó, nhớ vẻ mặt đắc thắng của Holmes và giọng nói sang sảng của anh, nhớ bộ mặt hung tợn đầy sửng sốt của người xà ích khi ông ta nhìn đôi còng bóng loáng hiện ra trên hai cườm tay như trò ảo thuật. Chúng tôi cứ đứng sững như tượng suốt một hay hai giây. Rồi với một tiếng gầm thịnh nộ không thành lời, tên bị bắt giữ ấy vùng thoát khỏi đôi tay đang ghì chặt của Holmes và lao mình qua cửa sổ. Gỗ và kính gãy vỡ khi bị xô vào nhưng ông ta chưa kịp thoát qua cửa sổ thì Gregson, Lestrade, và Holmes đã xông tới như đàn chó săn vồ mồi. Người xà ích bị lôi ngược trở lại vào phòng bèn chống trả quyết liệt, ông ta có sức giãy giụa cực mạnh như một kẻ đang lên cơn động kinh. Bộ mặt và hai bàn tay ông ta bị rạch nát khi tông vỡ kính nhưng máu tuôn giàn giụa chẳng hề làm suy giảm sức kháng cự. Mãi đến khi Lestrade luồn được bàn tay vào trong cổ áo của người xà ích và chẹt cổ ông ta thì chúng tôi mới buộc được người này nhận ra rằng có chống cự cũng vô ích; và mãi tới khi trói chặt được cả chân lẫn tay người xà ích, chúng tôi mới thấy an toàn. Xong xuôi chúng tôi đứng lên thở hổn hển như muốn đứt hơi.

"Chúng ta có sẵn xe ngựa của ông ta", Sherlock Holmes nói. "Lấy xe đó đưa ông ta đến Sở Cảnh sát là vừa. Và bây giờ, thưa quý vị", anh nói tiếp và nở nụ cười nhã nhặn, "chúng ta đã đi tới đoạn kết của vụ việc bí ẩn nho nhỏ này. Giờ thì quý vị có thể hỏi tôi bất kì câu hỏi nào mà không cần phải lo ngại là tôi sẽ từ chối trả lời."

PHẦN II
XỨ SỞ CÁC THÁNH HỮU8. Trên đại bình nguyên đất mặn

Nằm ở miền trung đại lục Bắc Mỹ bao la là một sa mạc khô cằn và hẻo lánh, suốt nhiều năm dài trở thành một chướng ngại cản trở bước tiến văn minh. Từ rặng núi Sierra Nevada cho tới Nebraska, từ sông Yellowstone phía bắc xuống Colorado phía nam, là cả một vùng quạnh hiu vắng lặng. Khắp khu vực đầy đe dọa này, thiên nhiên không phải lúc nào cũng giữ nguyên một trạng thái. Ở đây có cả những ngọn núi sừng sững đỉnh phủ tuyết lẫn những thung lũng mịt mù đìu hiu. Có những dòng sông chảy xiết lao mình qua những hẻm núi lởm chởm, và có những bình nguyên mênh mông mùa đông trắng tuyết còn mùa hè xám màu đất mặn. Thế nhưng tất cả đều có đặc điểm chung là cằn cỗi, khắc nghiệt và nghèo nàn.

Không có cư dân nào trên vùng đất tuyệt vọng này. Cũng có khi một toán dân da đỏ thuộc bộ lạc Pawnee hay Blackfeet đi ngang qua đây trên đường đến vùng săn bắt khác. Nhưng ngay cả những kẻ dày dạn nhất trong toán người can trường ấy cũng hoan hỉ khi thấy mình đặt chân trở về những đồng cỏ quen thuộc, bỏ lại sau lưng vùng bình nguyên kinh khủng đó. Sói đồng hoang lẩn khuất giữa những bụi rậm, chim ó phành phạch vỗ cánh trên không, và gấu xám vụng về lê bước qua những khe núi, cố sức kiếm tìm trong đá chút thức ăn nuôi sống. Đó là những cư dân hiếm hoi ở chốn hoang vu này.

Trong toàn bộ thế giới đó, không có cảnh tượng nào thê lương bằng triền núi phía bắc của rặng Sierra Blanco. Một bình nguyên bằng phẳng mênh mông trải dài xa tít tầm mắt, nằm phủ lấp dưới những lớp đất muối và được phân cắt bằng những lùm cây gai còi cọc lè tè. Nằm ở tận cùng chân trời là một dãy nhiều ngọn núi liên tiếp nhau, vươn cao những đỉnh nhọn lốm đốm tuyết. Ở vùng đất bao la này không hề có dấu hiệu của sự sống, hay bất cứ gì liên quan đến sự sống. Không có bóng chim nào trên bầu trời biếc xanh, không có chuyển động gì trên mặt đất xám xịt, tựu trung chỉ có sự im lặng tuyệt đối. Có nghe ngóng mấy cũng chẳng nhận ra một tiếng động nào khắp cõi hoang vu phi thường này, chẳng có gì ngoài sự im lặng - sự im lặng hoàn toàn ngột ngạt.

Ở trên vừa nói là chẳng có gì liên quan đến sự sống trên bình nguyên rộng lớn này. Điều đó cũng không đúng hẳn. Từ trên núi Sierra Blanco nhìn xuống, ta sẽ thấy xuyên qua hoang mạc này là một đường mòn chạy dài quanh co rồi mất hút nơi ngút ngàn xa. Con đường đã in hằn bao dấu bánh xe và bước chân phiêu lưu. Vương vãi đây đó là những vật thể màu trắng lấp lánh trong nắng và nổi bật trên màu xám xịt của những lớp đất muối. Hãy đến gần mà xem! Đó là xương cốt - cái thì lớn và thô, cái thì mỏng manh. Xương lớn là của những con bò kéo xe còn xương nhỏ là của người. Suốt năm trăm dặm, ta có thể lần theo lộ trình lữ hành rùng rợn này qua những tàn tích còn vương vãi của các sinh mạng đã gục ngã.

Vào ngày 4 tháng 5 năm 1847, một người lữ hành cô độc đứng nhìn xuống cảnh tượng đó. Dung mạo ông ta trông cứ như là quỷ thần của vùng này. Trông thật khó đoán được người này tuổi trạc bốn mươi hay là sáu mươi. Gương mặt gầy gò, phờ phạc, lớp da nâu sạm như da thuộc kéo căng trên bộ xương lồi lõm, mái tóc và bộ râu dài màu hung đều đã lốm đốm bạc cả, đôi mắt trũng sâu như lún vào hộp sọ nhưng lại sáng rực lạ thường, còn bàn tay đang ghì chặt khẩu súng trường lại gầy trơ xương. Mặc dù phải đứng tì cả thân người cho khẩu súng chống đỡ, thân hình và vóc dáng cao lớn của ông ta vẫn cho thấy một thể chất vốn dẻo dai đầy sinh lực. Tuy nhiên, gương mặt hốc hác và trang phục rộng lùng thùng trên thân hình khô đét lại phơi bày cái nguyên nhân làm ông ta mang tướng mạo tiều tụy, già nua như thế. Người này sắp chết - chết vì đói khát.

Ông ta đã khổ công tốn sức lần mò xuống khe núi và leo lên mỏm đá cao này với hi vọng hão huyền sẽ tìm thấy dấu hiệu nào đó của nước. Giờ đây trải dài trước mắt ông là một bình nguyên đất mặn không hề có bóng cây cối để cho thấy sự hiện diện của nước. Khắp quang cảnh bao la kia không lóe lên tia hi vọng nào. Ánh mắt ngỡ ngàng cuồng dại của ông nhìn khắp phương bắc, phương đông, phương tây và rồi nhận ra rằng đường lang bạt của ông đã kết thúc, và ngay tại đây, trên vách đá khô cằn này, ông sắp chết.

"Chết ở đây hay trên giường êm nệm ấm hai mươi năm nữa có khác gì nhau?" ông lẩm bẩm và tìm chỗ ngồi dưới bóng một tảng đá.

Trước khi ngồi, ông đặt xuống đít khẩu súng vô dụng cùng với một bọc lớn buộc trong chiếc khăn choàng màu xám mà ông đang đeo trên vai bên phải. Dường như cái bọc ấy có phần quá nặng so với sức lực của ông, bởi khi ông hạ cái bọc xuống thì nó rơi phịch ngay xuống đất. Ngay lập tức từ trong cái gói màu xám ấy phát ra một tiếng rên rỉ khe khẽ, rồi ló ra một gương mặt bé nhỏ sợ hãi với đôi mắt nâu sáng và hai nắm tay nhỏ nhắn gầy guộc lem luốc.

"Bác làm cháu đau!" Một giọng trẻ con lên tiếng trách móc.

"Bác lỡ tay mà", người đàn ông đáp lại, giọng hối lỗi. "Bác đâu có cố ý làm thế." Vừa nói ông ta vừa tháo chiếc khăn choàng xám và kéo ra khỏi bọc một bé gái xinh xắn chừng năm tuổi. Nhìn đôi giày điệu đàng và chiếc váy hồng thanh nhã có tấm vải yếm nhỏ của cô bé là biết rõ sự chăm sóc của người mẹ. Đứa bé xanh tái và mệt mỏi nhưng đôi tay, đôi chân còn khỏe mạnh cho thấy rõ cô bé ít phải chịu cực khổ như người bạn đồng hành.

"Giờ thì sao rồi?" Ông ta lo lắng hỏi vì cô bé vẫn còn vò mấy lọn tóc vàng sau gáy.

"Hôn vào đây cho hết đau đi nào", cô bé vừa nói hết sức nghiêm trang vừa chìa phần bị đau về phía ông. "Mẹ vẫn thường làm thế đấy. Mẹ đâu rồi bác?"

"Mẹ cháu đi rồi. Chắc là cháu sẽ sớm gặp mẹ thôi."

"Đi rồi à?" Cô bé thốt lên. "Ngộ ghê, đi mà không nói năng gì cả, mẹ vẫn luôn tạm biệt mỗi khi sang nhà dì uống trà, còn bây giờ thì mẹ đi cả ba ngày nay rồi. Ồ, ở đây sao khô cằn quá vậy bác? Không có nước, không có gì ăn ư?"

"Ừ, chẳng có gì hết, cháu à. Cháu phải chịu khó một tí rồi sẽ ổn cả thôi mà. Ngẩng đầu lên tựa vào bác như thế này đi, rồi cháu sẽ thấy dễ chịu hơn. Môi cháu khô ran thế này thì nói chuyện cũng khó lắm, nhưng bác nghĩ là nên nói thật với cháu thì hơn. Thế cháu có cái gì thế?"

"Mấy thứ dễ thương lắm! Đẹp lắm!" Bé gái hăng hái vừa thốt lên vừa chìa ra hai mảnh mika óng ánh. "Khi về tới nhà cháu sẽ cho anh Bob."

"Rồi cháu sẽ thấy ngay nhiều thứ còn dễ thương hơn", người đàn ông nói với giọng tự tin. "Cứ chờ thêm chút nữa. Rồi bác sẽ nói cháu biết... À, cháu còn nhớ lúc chúng ta rời khỏi con sông đó không?"

"À, nhớ."

"Đấy, lúc đó chúng ta tưởng là mình sẽ mau gặp một con sông khác thôi, cháu nhớ chứ. Nhưng rồi có chuyện trục trặc, do la bàn hay bản đồ hay cái gì đó, và chẳng thấy sông đâu. Nước hết sạch. Chỉ còn mấy giọt cho những đứa trẻ con như cháu và... và..."

"Và bác thì không tắm được", cô bé nghiêm nghị ngắt lời người bạn đường, mắt nhìn chăm chăm vào bộ dạng bẩn thỉu của người đàn ông.

"Không tắm, mà cũng không uống. Còn ông Bender, ông ấy là người đầu tiên chết, rồi tới anh da đỏ Pete, rồi tới lượt bà McGregor, rồi Johnny Hones, cháu à, rồi tới mẹ cháu."

"Vậy mẹ cháu cũng chết rồi sao?" Bé gái kêu lên rồi gục mặt vào tấm vải yếm khóc thổn thức.

"Ừ, chết hết chỉ còn bác với cháu. Sau đó bác nghĩ là đi theo hướng này thì có cơ may tìm được nước, nên bác địu cháu trên vai mang đi cùng. Dường như hoàn cảnh chúng ta cũng chẳng khá gì hơn. Cơ may cho chúng ta bây giờ hết sức nhỏ nhoi!"

"Ý bác là chúng ta cũng sắp chết luôn à?" Đứa trẻ cố nén tiếng nấc, vừa hỏi vừa ngước gương mặt đầm đìa nước mắt lên nhìn.

"Đúng là vậy đó cháu."

"Sao nãy giờ bác không nói chứ?" Cô bé bật cười vui sướng. "Bác làm cháu sợ quá. À, đúng rồi, chừng nào chết thì chúng ta lại gặp mẹ thôi!"

"Ừ, cháu sẽ gặp mẹ, cháu à."

"Cả bác nữa. Cháu sẽ kể mẹ nghe là bác tốt bụng vô cùng. Nhất định là mẹ sẽ đón chúng ta ở cửa Thiên Đàng với một bình nước thật to, và thật nhiều bánh kiều mạch nóng hổi, nướng cả hai mặt, giống như anh Bob và cháu thích ăn. Nhưng mà còn lâu nữa không bác?"

"Bác không biết... chắc không lâu lắm đâu."

Ánh mắt người đàn ông đăm đăm nhìn về chân trời phía bắc. Dưới vòm trời xanh xuất hiện ba chấm nhỏ càng lúc càng lớn dần và lao rất nhanh về phía họ. Mấy cái chấm ấy nhanh chóng hiện hình thành ba con chim lớn màu nâu, lượn vòng trên đầu hai kẻ lạc lối ấy, rồi đáp xuống mấy mỏm đá bên trên chỗ họ ngồi. Đó là lũ chim ó, loài kền kền của miền Tây, hiện thân của cái chết đã được báo trước.

"Ồ, gà kìa", bé gái hân hoan vừa kêu vừa chỉ về phía những hình hài báo điềm dữ kia, rồi vỗ tay để xua chúng bay đi. "À, có phải Chúa tạo ra xứ sở này không?"

"Tất nhiên rồi", người bạn đường của cô bé thoáng giật mình vì câu hỏi đột ngột này.

"Chúa đã tạo ra xứ sở tận Illinois, rồi Chúa tạo ra Missouri", bé gái nói tiếp. "Cháu nghĩ người khác chứ không phải Chúa tạo ra xứ sở này đâu. Ở đây đâu có đầy đủ mọi thứ. Còn thiếu nước và thiếu cây cối thế kia."

"Thế cháu nghĩ sao nếu bây giờ chúng ta cầu nguyện?" Người đàn ông rụt rè hỏi.

"Chưa tới buổi tối mà bác?" Cô bé thắc mắc.

"Không sao cả. Đâu cần phải cầu đúng giờ, Chúa không bắt buộc vậy đâu cháu. Cháu hãy đọc lại những lời cầu nguyện mà hồi chúng ta còn đi trên vùng thảo nguyên, đêm nào ở trên xe ngựa cháu cũng đọc đấy."

"Sao bác không tự đọc lấy đi?" Đứa trẻ hỏi với ánh mắt ngạc nhiên.

"Bác quên hết rồi", ông ta đáp. "Bác đã không cầu nguyện từ khi bác chỉ cao bằng nửa khẩu súng này. Nhưng bác nghĩ dù muộn còn hơn không. Cháu cứ đọc to lên, bác sẽ đứng cạnh bên và đọc theo."

"Thế thì bác phải quỳ xuống, cháu cũng quỳ nữa", cô bé vừa nói vừa trải chiếc khăn choàng ra trên mặt đất chuẩn bị. "Bác phải đưa hai bàn tay lên như thế này. Làm vậy bác sẽ thấy thoải mái đấy."

Nếu không phải lũ chim ó thì ai nhìn thấy cảnh này đều phải lấy làm lạ. Quỳ cạnh nhau trên tấm khăn choàng chật hẹp là hai người lạc lối, một đứa trẻ ngây ngô và một lãng tử bạt mạng, dạn dày. Gương mặt mũm mĩm của cô bé lẫn diện mạo xương xẩu, hốc hác của người đàn ông đều ngước lên cao hướng về bầu trời không mây, thành tâm cầu khẩn với loài sinh vật đáng sợ mà họ đang đối mặt, trong khi hai giọng nói - một trong trẻo, một trầm khàn - cùng nài xin được khoan dung và tha thứ. Cầu nguyện xong, họ lại quay về ngồi dưới bóng tảng đá cho đến khi đứa trẻ ngủ thiếp đi, nép mình vào lồng ngực rộng của người che chở. Người đàn ông trông chừng cho cô bé ngủ được một lúc nhưng rồi không kháng cự nổi sức mạnh của thiên nhiên. Suốt ba ngày ba đêm rồi ông ta đã không cho phép mình được nghỉ ngơi hay chợp mắt. Từ từ đôi mi rũ xuống trên hai con mắt mệt mỏi, và cái đầu cứ cúi thấp dần thấp dần xuống ngực, cho đến khi bộ râu hoa râm của ông lẫn vào những lọn tóc vàng của người bạn đường, và cả hai cùng ngủ một giấc say không mộng mị.

Nếu như kẻ lang thang này thức tỉnh được thêm chừng nửa giờ nữa thì một cảnh tượng lạ lùng sẽ hiện ra trước mắt ông. Từ xa tít tận cùng bình nguyên đất mặn này bốc lên một làn bụi nhỏ, lúc đầu rất mờ nhạt và khó phân biệt với màn sương mù xa xa, nhưng rồi dần dần dâng cao và lan rộng cho tới khi hình thành rõ nét một đám mây mù mịt. Đám mây ấy tiếp tục bành trướng kích thước đến lúc ta thấy rõ là phải có một đám sinh vật rất đông đang di chuyển thì mới có thể tạo ra màn bụi lớn như thế. Ở những vùng đất màu mỡ hơn, người quan sát có thể đi tới kết luận rằng đó là một đàn bò rừng thường ăn cỏ trên thảo nguyên đang đi đến gần. Điều đó hiển nhiên không thể xảy ra ở miền đất hoang vu khô cằn này. Khi cơn lốc bụi tiến gần hơn về hướng vách núi hiu quạnh, nơi hai kẻ bơ vơ kia đang ngủ thiếp trên đỉnh, những mui phủ vải bạt của đoàn xe ngựa và hình bóng những người cưỡi ngựa có vũ khí bắt đầu hiện ra trong màn bụi mù, và những bóng ma ấy hiện hình là một đoàn lữ hành vĩ đại đang trên đường đi tới miền Viễn Tây. Đoàn lữ hành ấy sao mà đông ghê gớm. Khi đầu đoàn đã đến chân rặng núi này thì đuôi đoàn vẫn chưa ló dạng khỏi chân trời. Kéo dài từ đầu này sang đầu kia bình nguyên bao la là một đoàn hỗn hợp nào xe ngựa xe kéo, nào người đi bộ, nào người trên yên. Rất nhiều phụ nữ oằn lưng gồng gánh loạng choạng đi theo, và lũ trẻ con đứa thì bước tập tễnh bên các cỗ xe đứa thì ngồi trong xe phủ bạt màu trắng ghé mắt nhìn ra. Rõ ràng đây không phải là đoàn di dân bình thường mà giống một bộ tộc digan nào đó, do hoàn cảnh bắt buộc đã phải ra đi kiếm tìm một quê hương mới. Khuấy động bầu trời quang đãng là những tiếng nói ồn ào, râm ran hỗn độn của đoàn người đông đảo, cùng với tiếng bánh xe cọt kẹt và tiếng ngựa hí vang. Ầm ĩ đến thế mà sự huyên náo ấy cũng không đánh thức được hai kẻ lữ hành mệt mỏi đang ngủ trên cao.

Đi đầu đạo quân này là hơn hai mươi người cưỡi ngựa mặt lạnh như tiền, khoác những trang phục đơn giản sậm màu, tay lăm lăm súng trường. Khi đến chân vách núi, họ dừng ngựa và xúm lại hội ý nhanh.

"Phía bên phải có nhiều giếng nước đấy, các huynh đệ à", lời một người đàn ông tóc hoa râm, râu cạo nhẵn, môi khô cứng.

"Đi sang bên phải rặng Sierra Blanco này, chúng ta sẽ tới sông Rio Grande", lời một người khác.

"Không phải sợ thiếu nước", người thứ ba nói to. "Người đã có thể lấy nước ra từ đá sẽ không bao giờ từ bỏ dân tộc mà Người đã chọn."

"Amen! Amen!" Cả nhóm đồng thanh phụ họa.

Họ định tiếp tục cuộc hành trình thì một người trong số trẻ tuổi nhất và tinh mắt nhất bỗng hô hoán và chỉ tay về phía vách đá lởm chởm trên đầu họ. Từ mỏm đá ấy lộ ra một mảnh nhỏ màu hồng đang máy động, nổi rõ mồn một trên nền đá xám đằng sau. Thấy thế, tất cả đồng loạt ghì cương và tháo súng khỏi vai trong khi một toán cưỡi ngựa khác phi nước đại đến chi viện cho toán đi tiên phong. Tất thảy họ lan truyền nơi cửa miệng, "Quân da đỏ".

"Ở đây làm sao có bọn mọi ấy được", tiếng của một người lớn tuổi có vẻ là người chỉ huy. "Chúng ta đã băng qua đất của bộ lạc Pawnee rồi, và từ đây cho tới khi vượt qua mấy ngọn núi lớn này thì không còn bộ lạc nào khác."

"Để tôi đi tới đó xem thử nhé, huynh Stangerson", một người trong bọn đề nghị.

"Tôi nữa! Tôi nữa!" Cả chục người khác cùng lên tiếng.

"Để ngựa dưới này, chúng tôi sẽ chờ các người ở đây", người lớn tuổi đáp. Trong chớp nhoáng, những người trẻ tuổi đã xuống ngựa, buộc cương, rồi leo lên vách đá dốc ngược dẫn tới thứ đã khiến họ tò mò. Họ đi tới rất nhanh không gây tiếng động, với sự tự tin và khéo léo của những tay trinh sát lành nghề. Những người đứng dưới bình nguyên nhìn lên có thể thấy toán trinh sát di chuyển thoăn thoắt từ tảng đá này sang tảng đá khác cho đến khi bóng họ hiện rõ trên nền trời. Chàng trai đã báo động đầu tiên giờ đang dẫn đầu. Đột ngột, những người theo sau thấy anh ta vung hai tay lên trời như thể ngạc nhiên quá sức, và khi lên tới chỗ anh này thì cả toán cũng sửng sốt tương tự trước cảnh tượng bày ra trước mắt họ.

Trên khoảnh đất nhỏ bằng phẳng ở đỉnh núi trọc này chỉ có độc một tảng đá khổng lồ, và tựa vào tảng đá này là một người đàn ông cao lớn, râu dài, nét mặt phong trần nhưng lại cực kì gầy ốm, vẻ mặt bình an và hơi thở đều đều của người này cho thấy ông ta đang ngủ say. Bên cạnh ông là một cô bé, hai cánh tay trắng tròn ôm vòng qua cần cổ gân guốc nâu sạm của người đàn ông, và mái tóc vàng của đứa trẻ tựa vào ngực áo nhung rộng thùng thình của ông ta. Đôi môi hồng của bé gái hơi hé mở, để lộ hàm răng đều đặn trắng tinh bên trong, và trên gương mặt trẻ thơ còn in một nụ cười tinh nghịch. Đôi chân trắng muốt nhỏ nhắn và tròn trĩnh của cô bé luồn trong đôi vớ trắng và đôi giày trang nhã có khóa cài sáng loáng, trông thật tương phản lạ lùng với hai ống chân dài gầy đét của người bạn đường. Trên rìa vách đá phía bên trên hai con người lạ lùng này là ba con chim ó đáng sợ; thấy có toán người mới đến chúng rít lên một tràng khàn khàn đầy thất vọng rồi bực bội vỗ cánh bay mất.

Tiếng rú rít của lũ chim kinh tởm khiến hai kẻ đang say ngủ tỉnh giấc, mở to mắt nhìn quanh hoang mang. Người đàn ông loạng choạng đứng dậy nhìn xuống phía bình nguyên vốn hoang vu khi giấc ngủ chế ngự ông, nhưng giờ lại có một đoàn người và súc vật đông khôn tả đi ngang qua. Mắt nhìn trân trối mà vẻ mặt lộ rõ hoài nghi, ông đưa bàn tay xương xẩu lên che ngang mày.

"Chắc mình mê sảng đấy thôi", ông lẩm bẩm. Đứa bé đứng cạnh bên, níu lấy vạt áo choàng của ông, không nói gì mà chỉ nhìn quanh với ánh mắt ngỡ ngàng của trẻ thơ.

Toán người giải cứu nhanh chóng chứng tỏ cho hai kẻ lạc loài kia biết rằng sự xuất hiện của họ không hề là ảo giác. Một người ôm lấy bé gái và nhấc bổng lên vai trong khi hai người khác vừa đỡ vừa dìu người bạn đường hốc hác của cô bé đi xuống chỗ đoàn xe đang dừng.

"Tôi là John Ferrier", kẻ lạc đường giải thích. "Tôi và cháu bé đó là hai người còn sót lại của một đoàn hai mươi mốt người. Những người kia đều chết vì đói khát từ khi còn ở dưới phía nam."

"Con bé đó là con ông à?" Ai đó hỏi.

"Kể từ bây giờ chắc là thế" người đàn ông nói to, giọng ngang ngạnh. "Nó là con tôi vì tôi đã cứu nó. Không ai được chia lìa nó với tôi. Từ ngày hôm nay, nó mang tên Lucy Ferrier. Nhưng các người là ai?" Ông ta hỏi tiếp, mắt tò mò nhìn những người lực lưỡng, phong trần đã giải cứu mình. "Các người đi đâu mà sao đông quá vậy?"

"Gần chục ngàn người đó", một thanh niên trong bọn lên tiếng. "Chúng tôi là những đứa con bị ngược đãi của Chúa, những người đã được thiên sứ Moronichọn lựa."

"Chưa hề nghe bao giờ", người lạc đường nói. "Coi bộ thiên thần này chọn lựa quá nhiều đấy."

"Đừng nhạo báng những điều thiêng liêng", một người khác nghiêm nghị lên tiếng. "Chúng tôi là những người tin vào các thánh thư khắc bằng chữ Ai Cập trên những tấm vàng mà thiên sứ đã trao cho đấng tiên tri Joseph Smith ở Palmyra. Chúng tôi xuất phát từ Nauvoo ở bang Illinois, nơi chúng tôi đã lập giáo đường. Chúng tôi phải đi tìm nơi trú ẩn, tránh xa những kẻ tàn bạo và vô thần, cho dù phải ở giữa sa mạc cũng cam lòng."

Cái tên Nauvoo rõ ràng đã khiến John Ferrier nhớ ra. "À, biết rồi", ông nói. "Các ông là những người theo đạo Mormon."

"Chúng tôi là giáo dân Mormon đây", những người kia đồng thanh đáp lại.

"Thế các ông đang đi đâu?"

"Chúng tôi không biết. Bàn tay của Chúa sẽ dẫn dắt chúng tôi qua hiện thân của Đấng Tiên Tri. Ông phải đến gặp Đấng Tiên Tri của chúng tôi. Ngài sẽ phán xử về chuyện cha con ông."

Lúc này họ đã xuống tới chân núi và đám người lữ hành đông đảo kia bu quanh họ - những phụ nữ mặt nhợt nhạt nhưng trông nhu mì, lũ trẻ con cười đùa ầm ĩ, và những người đàn ông ánh mắt nghiêm nghị, vẻ mặt lo âu. Nhiều người không kìm được những tiếng kêu ngạc nhiên và xót xa khi nhận ra đứa bé vừa được giải cứu và sự cùng cực của người đàn ông xa lạ kia. Nhưng toán giải cứu vẫn không dừng lại mà cứ đi tiếp, theo sau là một đám đông đảo những người Mormon, cho đến khi cả đoàn tới một cỗ xe nổi bật vì cả kích thước to lớn lẫn hình thức sang trọng và cầu kì. Ách vào cỗ xe này là sáu con ngựa trong khi các cỗ xe khác chỉ có hai, hay cùng lắm là bốn con thôi. Ngồi cạnh người xà ích là một người đàn ông tuổi không quá ba mươi nhưng cái đầu thật lớn và vẻ mặt cương nghị cho thấy rõ đây là thủ lĩnh. Người này đang đọc một cuốn sách gáy nâu nhưng khi đám đông kéo tới thì anh ta bỏ sách qua một bên, và chăm chú lắng nghe câu chuyện được kể lại. Sau đó anh ta quay sang hai kẻ lạc loài kia.

"Nếu ta cho ngươi đi cùng", anh ta nói bằng những lời lẽ trịnh trọng, "thì ngươi phải là tín đồ cùng chung tín ngưỡng. Trong đàn chiên của ta không thể có con chó sói nào cả. Thà để xương cốt của ngươi phơi trắng trong chốn hoang vu này còn hơn là ngươi lại hóa ra một đốm mục rữa mà về sau làm băng hoại hết trái quả lành. Ngươi có bằng lòng đi theo ta với điều kiện đó không?"

"Điều kiện gì thì tôi cũng theo", Ferrier nói với giọng nhấn mạnh tới mức những vị trưởng tế nghiêm trang cũng không khỏi bật cười. Chỉ riêng vị thủ lĩnh vẫn giữ vẻ mặt uy nghi, lạnh lùng.

"Đưa ông ta đi, huynh Stangerson", vị thủ lĩnh nói, "cho ông ta đồ ăn thức uống, và lo cho đứa trẻ nữa. Nhiệm vụ của thầy cũng là dạy cho ông ta tín điều linh thiêng của bổn đạo. Chúng ta đã chậm trễ quá rồi đó. Tiến lên! Đi nào, về miền Đất Hứa!"

"Đi nào, về miền Đất Hứa!" Đám đông Mormon cùng cất lời và câu nói ấy cứ rập rờn lan tỏa khắp đoàn lữ hành, từ miệng người này sang miệng người kia cho tới khi lịm dần thành một tiếng rầm rì mơ hồ ngoài xa tít. Tiếng roi quất ngựa đen đét, tiếng bánh xe kẽo kẹt vang lên và những cỗ xe to lớn bắt đầu dịch chuyển, rồi chẳng mấy chốc cả đoàn lữ hành lại rồng rắn lên đường. Huynh trưởng đã được ủy thác chăm lo cho hai kẻ lạc loài kia đưa họ về cỗ xe của ông ta, nơi một bữa ăn đã được bày sẵn.

"Hai người cứ ở đây", huynh trưởng nói. "Vài ngày nữa hai người sẽ khỏe lại thôi. Còn lúc này, hãy nhớ là hai người sẽ mãi mãi theo đạo của chúng tôi. Brigham Young đã nói rồi và ngài đã nói bằng lời của Joseph Smith, mà đó lại chính là lời Chúa."

9. Đóa hoa xứ Utah

Đây không phải là chỗ tưởng niệm những thử thách và gian khổ mà đoàn dân Mormon di cư đã kinh qua trước khi đến được nơi trú ẩn cuối cùng. Từ những bến bờ trên dòng Mississippi cho tới những dốc núi phía tây rặng Rocky, họ đã nỗ lực ra đi với lòng kiên trì vô song trong lịch sử. Ác nhân, ác thú, đói, khát, lao khổ, bệnh tật - mọi chướng ngại mà thiên nhiên có thể cản đường, hết thảy đều bị đánh bại bằng ý chí ngoan cường của dòng máu Anglo Saxon bền bỉ. Tuy vậy, cuộc hành trình dằng dặc và bao nỗi kinh hoàng chồng chất đã làm nản lòng cả những kẻ can trường nhất trong đoàn người. Không một người nào mà không phủ phục xuống đất thành tâm cầu nguyện khi họ nhìn thấy vùng châu thổ Utah bao la rợp nắng dưới chân mình, và nghe từ miệng người thủ lĩnh rằng đấy chính là miền Đất Hứa, và vùng đất trinh nguyên này sẽ thuộc về họ đời đời.

Young nhanh chóng chứng tỏ ông ta vừa là nhà điều hành tài ba vừa là một lãnh đạo cương quyết, ông ta cho vẽ địa đồ, phác thảo bản đồ của một thành phố tương lai. Tất cả trang trại chung quanh được phân lô và chia phần theo tỉ lệ tương xứng với địa vị của từng cá nhân. Thương nhân được sắp xếp theo ngành nghề còn thợ thủ công theo chuyên môn. Trong khu thị tứ, đường sá và khu phố mọc lên như có phép màu. Ở vùng nông thôn, mọi người đào mương rãnh, dựng bờ giậu, trồng trọt, phát quang, cho đến mùa hè kế tiếp thì cả vùng này vàng rực vụ mùa lúa mì đầu tiên. Mọi thứ đều phát đạt trong khu định cư lạ lùng này. Đặc biệt nhất, ngôi đại giáo đường họ xây dựng ngay giữa thành phố cứ ngày càng vươn cao thêm và to lớn hơn. Từ ánh hừng đông đầu tiên cho đến phút chạng vạng cuối cùng, tiếng búa cồm cộp với tiếng lưỡi cưa xoèn xoẹt không bao giờ im ắng ở công trình mà đoàn di dân xây lên để tôn vinh Chúa, người đã dẫn dắt họ an toàn qua bao nguy khó.

Hai kẻ lạc loài, John Ferrier và bé gái chung số phận, giờ trở thành con nuôi của ông, đã đi cùng đoàn người Mormon cho tới khi cuộc di cư vĩ đại kết thúc. Bé Lucy Ferrier được rong ruổi khá thoải mái trong cỗ xe của huynh trưởng Stangerson, nơi cô bé ở chung với ba người vợ cùng đứa con trai của người Mormon ấy, một thằng bé mười hai tuổi cứng đầu, tự phụ. Với tính dễ quên của trẻ thơ, khi đã bình tâm sau chấn động về cái chết của mẹ, cô bé chẳng mấy chốc đã trở thành con cưng của mấy phụ nữ, và thích ứng với ngôi nhà di động phủ vải bạt này. Trong lúc đó, Ferrier dần lấy lại sức sau những ngày gian khổ và chứng tỏ ông là một người dẫn đường đắc lực, một tay thợ săn không biết mệt mỏi. Ferrier giành được sự kính trọng của những người bạn đồng hành mới nhanh chóng tới mức, khi họ đã đi đến chặng cuối hành trình lang bạt này thì tất cả đều đồng lòng cho rằng ông phải được chia phần một vùng đất phì nhiêu và rộng lớn như bất kì người định cư nào - tất nhiên là không thể so với chính Young cùng bốn vị trưởng tế là Stangerson, Kemball, Johnston, và Drebber.

Trên trang trại được chia phần như vậy, John Ferrier tự làm cho mình một ngôi nhà gỗ bề thế và ngôi nhà trong những năm sau đó được tiếp tục xây dựng cho đến khi trở thành một dinh thự rộng rãi. Ông là người có óc thực tế, nhiệt tình trong cách cư xử và khéo léo với những việc tay chân. Nhờ thể chất sắt đá, ông có thể làm lụng từ sáng đến tối lo vun bón, cày bừa đất đai của mình. Trang trại và những gì thuộc quyền sở hữu của ông vì thế mà rất phát đạt. Sau ba năm, ông phong lưu hơn hẳn xóm giềng, sau sáu năm ông đã sung túc, tới chín năm thì ông giàu có và tới năm thứ mười hai thì cả Salt Lake City này thì chỉ có chừng dăm người là sánh được với ông. Từ vùng biển nội địa rộng lớn cho tới miền núi Wahsatch xa xăm, không có cái tên nào nổi tiếng hơn John Ferrier.

Chỉ có một điều và là điều duy nhất mà ông gây khó chịu cho những người đồng đạo. Không có lí lẽ hay khuyến dụ nào có thể thuyết phục ông tạo dựng một hậu cung theo lề thói của bằng hữu. Ông không bao giờ đưa ra lí do cho sự từ khước kiên trì này mà chỉ cương quyết và dứt khoát tuân theo quyết định của mình. Có người buộc tội ông là không sốt sắng theo đạo, kẻ khác lại cho đó là lòng tham của cải và không muốn gánh thêm chi phí. Cũng có người nói đến một mối tình xa xưa nào đó, đến một cô gái tóc vàng đã chết vì mong đợi mỏi mòn trên bờ biển Đại Tây Dương. Dù vì lí do gì, Ferrier vẫn sống hoàn toàn độc thân. Trong mọi khía cạnh khác, ông đều tuân theo tín ngưỡng của khu định cư mới và nổi danh là người phải đạo và chính trực.

Lucy Ferrier lớn lên trong ngôi nhà gỗ ấy và phụ giúp cha nuôi trong mọi công việc của ông. Với cô bé, khí rét của miền núi và mùi nhựa thơm của rừng thông đã thay thế vai trò bà vú và người mẹ. Năm tháng trôi qua, cô bé ngày càng cao lớn và khỏe mạnh, má hồng thắm hơn, và bước chân thêm uyển chuyển. Nhiều lữ khách trên con đường cái chạy ngang qua trang trại Ferrier thấy lòng hồi sinh những cảm tưởng đã quên lãng từ lâu khi họ ngắm bóng dáng thiếu nữ yểu điệu của cô gái đi thoăn thoắt qua những đồng lúa mì, hay bắt gặp cô cưỡi trên lưng con ngựa của cha và điều khiển với tất cả sự thoải mái và duyên dáng như một đứa con của miền Tây chính hiệu. Nụ cứ nở thành hoa như thế, và vào năm cha cô trở thành người giàu có nhất trong số những chủ trại ấy thì cô cũng trở thành một thiếu nữ xinh đẹp điển hình kiểu Mỹ không thua bất kì ai ở khắp miền sườn dốc nhìn ra Thái Bình Dương này.

Tuy nhiên, đâu phải cha là người đầu tiên biết được con gái mình đã nảy nở thành phụ nữ. Hiếm khi nào có chuyện đó. Sự đổi thay huyền bí đó xảy ra hết sức tinh vi và từ tốn nên không thể đo lường bằng ngày tháng. Bản thân thiếu nữ ấy lại càng không hề hay biết cho đến khi một giọng nói hay một cái nắm tay khiến trái tim cô run rẩy trong lồng ngực, và cô biết, với cảm xúc pha trộn lòng hãnh diện và lo sợ, rằng một sức sống mới mạnh mẽ hơn đã bừng tỉnh trong cô. Hiếm có ai hồi tưởng được cái ngày ấy và nhớ rõ chính sự việc nhỏ nhoi đã báo hiệu bình minh của một cuộc sống mới. Trong trường hợp Lucy Ferrier, bản thân sự việc ấy khá nghiêm trọng, chưa kể nó còn ảnh hưởng đến số phận tương lai của cô và nhiều người khác nữa.

Hôm đó là một sáng tháng 6, các giáo dân Thánh hữu Ngày sau đang bận rộn như những con ong; họ vốn đã chọn hình tổ ong làm biểu tượng. Trên những cánh đồng và khắp phố xá đều vang tiếng râm ran của những con người cần cù. Đi thành hàng dọc trên con đường cái bụi bặm là một đoàn dài những con la thồ nặng, tất cả đều hướng về miền Tây vì cơn sốt đi tìm vàng đã bùng phát ở California, và tuyến đường xuyên bang lại băng qua thành phố của những người Chúa chọn này. Gia nhập vào đó là những đàn cừu và bò thiến từ những vùng đồng cỏ xa xôi, cùng với hàng đoàn dân di cư mệt mỏi, cả người lẫn ngựa đều chán chường cuộc hành trình bất tận này như nhau. Với tài nghệ của một kị mã thành thạo, Lucy Ferrier phi nước đại len lỏi qua đám hỗn độn ấy, gương mặt xinh đẹp của cô đỏ bừng vì gắng sức và mái tóc dài màu hạt dẻ bay bồng bềnh sau lưng. Cha cô đã giao một việc trong thành phố, và như đã từng làm nhiều lần trước, cô phóng ngựa đi với tất cả sự mạnh dạn của tuổi trẻ, chỉ nghĩ tới phận sự và làm sao thực hiện cho tròn. Những kẻ lãng du lấm bụi đường trố mắt nhìn cô kinh ngạc, ngay cả những người da đỏ lãnh đạm, mặc cả bộ lông thú trên đường viễn du, cũng thả lỏng nét gan lì cố hữu của họ vì ngỡ ngàng trước nhan sắc của người thiếu nữ da trắng này.

Cô vừa tới vùng phụ cận thành phố thì thấy đường đã bị tắc vì một đàn bò đông đảo đang được sáu người chăn bò mặt mày man rợ từ vùng thảo nguyên lùa đi. Trong cơn nóng vội, cô đánh liều vượt qua chướng ngại bằng cách thúc ngựa chen qua một chỗ có vẻ trống trải. Nhưng cô chưa kịp băng qua thì lũ súc vật đã ùa vào và cô thấy mình bị bao vây hoàn toàn giữa đàn bò thiến sừng dài, mắt hung tợn, đang tràn đi như thác. Đã quen đương đầu với lũ gia súc, cô không hốt hoảng trước hoàn cảnh mà lại tận dụng mọi cơ hội để thúc ngựa đi tiếp với hi vọng sẽ chen qua khỏi đàn bò lũ lượt này. Rủi thay, không rõ vô tình hay có chủ đích, sừng của một con bò trong đàn húc mạnh vào sườn con ngựa của cô khiến nó phát cuồng. Con ngựa liền lồng lên, đứng trên hai chân sau rồi với một tiếng thở phì phì thịnh nộ, nó cứ nhảy dựng và quăng quật tới mức chỉ có người cưỡi giỏi lắm mới không bị hất văng khỏi yên. Cứ mỗi cú giãy giụa, con ngựa bị kích động lại va mạng sườn vào những chiếc sừng bò và mỗi cú chọc mạnh ấy lại khiến nó cuồng lên lần nữa. Điều duy nhất cô gái có thể xoay xở là giữ cho người bám chặt trên yên ngựa, nhưng chỉ cần trượt ngã một lần là chết nát thây dưới rừng móng của đàn súc vật đang hoảng sợ và khó kiểm soát này. Không quen với những tình huống nguy cấp đột ngột, cô gái bắt đầu thấy choáng váng và lơi lỏng bàn tay ghì cương. Ngạt thở vì màn mây bụi bốc lên và cơn thịnh nộ của đám súc vật đang chống chọi, lẽ ra cô đã buông xuôi trong tuyệt vọng thì một giọng nói ân cần dưới khuỷu tay cô đề nghị trợ giúp. Cùng lúc đó, một bàn tay nâu sạm tóm lấy sợi dây cương dưới hàm con ngựa khiếp đảm rồi dấn tới mở đường xuyên qua đàn bò đang lùa đi, và một loáng sau đã đưa cô ra ngoài.

"Hi vọng là cô không hề hấn gì chứ, thưa cô", người bảo vệ cô nói kính cẩn.

Cô ngước nhìn gương mặt ngăm đen, dữ dằn của anh ta và bật cười giòn tan.

"Tôi sợ khiếp đi được", cô gái ngây thơ nói. "Ai mà ngờ là con ngựa Poncho của tôi lại hoảng hồn khi gặp quá nhiều bò như thế chứ?"

"Tạ ơn Chúa là cô đã ngồi vững trên yên", người kia sốt sắng đáp. Đó là một chàng trai cao lớn, mặt mày trông hung hãn, cưỡi một con ngựa đốm lang dũng mãnh, người khoác bộ đồ thợ săn thô kệch, trên vai đeo một khẩu súng trường nòng dài. "Chắc cô là ái nữ của ông John Ferrier", anh ta nói tiếp. "Tôi đã thấy cô từ nhà ông ấy phi ngựa ra. Khi nào gặp ông ấy, cô hỏi xem ông có còn nhớ nhà Jefferson Hope ở St. Louis không. Nếu đúng là ông Ferrier đó thì cha tôi và ông ấy khá là thân thiết."

"Anh đến mà tự hỏi lấy không phải hay hơn sao?" Cô gái dè dặt nói. Chàng trai có vẻ hài lòng trước đề nghị này, đôi mắt đen của anh ta bừng sáng vì thích thú. Anh đáp, "Tôi sẽ đến. Chúng tôi đã ở trong vùng núi suốt hai tháng rồi, chưa thu xếp được và hiện giờ cũng không tiện thăm viếng, ông ấy nên miễn thứ cho hoàn cảnh của chúng tôi."

"Cha tôi còn phải cảm ơn anh nhiều đấy, và cả tôi cũng thế", cô gái đáp lời. "Ông ấy thương tôi kinh khủng. Nếu đàn bò ấy mà giày xéo lên tôi thì ông ấy sẽ không bao giờ chịu đựng nổi đâu."

"Tôi cũng vậy", người đồng hành với cô gái nói.

"Anh! Chà, tôi thấy chuyện này có quan trọng gì với anh đâu. Thậm chí anh còn chưa là bạn bè của cha con tôi cơ mà."

Gương mặt sạm đen của chàng thợ săn trẻ sầm hẳn xuống khi nghe lời nói đó, tới mức Lucy Ferrier phải cười ầm lên. "Này, tôi không cố ý nói thế đâu", cô nói, "tất nhiên bây giờ anh đã là bạn bè rồi. Nhất định anh phải đến thăm cha con tôi. Bây giờ tôi phải đi thôi kẻo cha tôi lại không tin tưởng giao việc cho tôi làm nữa. Tạm biệt!"

"Tạm biệt", chàng trai đáp, tay giơ cao chiếc mũ sombrero rộng vành rồi khom người hôn vào bàn tay nhỏ nhắn của cô gái. Lucy Ferrier giật cương cho con ngựa quay vòng lại, quất cho nó một roi và phóng như bay xuống con đường lớn trong màn bụi cuồn cuộn.

U sầu và lầm lì, chàng trai Jefferson Hope cưỡi ngựa đi tiếp cùng với những bạn đường. Nhóm của anh lâu nay đã sống trong vùng núi Nevada thăm dò mỏ bạc và họ đang quay lại Salt Lake City với hi vọng gom góp đủ tiền để khai thác mấy mạch mỏ mà họ đã phát hiện được. Anh hết mực say sưa với công việc này không kém bất kì người nào trong bọn họ, cho đến khi biến cố bất ngờ vừa qua đã thu hút suy nghĩ của anh sang hướng khác. Hình bóng của cô gái xinh đẹp kia, một thiếu nữ bộc trực và lành như những làn gió núi, đã khuấy động tận đáy trái tim hoang dã, dữ dội của anh. Khi cô gái đã khuất tầm mắt, anh nhận ra một cơn khủng hoảng đã xảy đến cho cuộc đời mình, và cả những trò đầu cơ mỏ bạc lẫn mọi chuyện khác đều không quan trọng bằng cái cảm xúc mới mẻ đang xâm chiếm cả tâm hồn anh. Tình yêu thương nảy sinh trong tim anh không phải là sự mê thích bất chợt, dễ đổi thay của một thiếu niên mà là tình cảm mãnh liệt, cuồng si của một người đàn ông có ý chí mạnh mẽ và tính khí ngang tàng. Anh vốn đã quen thành công với mọi chuyện anh quyết làm. Anh thề với lòng là sẽ không được thất bại trong chuyện này, nếu như nỗ lực và lòng kiên trì của con người có thể giúp anh toại nguyện.

Tối hôm đó anh ghé thăm John Ferrier và còn tới nhà nhiều lần nữa cho đến khi gương mặt anh trở thành quen thuộc ở trang viên ấy. Sống ru rú trong thung lũng này và miệt mài với công việc, John ít có dịp biết tin tức về thế giới bên ngoài suốt mười hai năm qua. Tất cả những chuyện đó Jefferson Hope đều có thể kể cho ông nghe, theo một cách gây thích thú cho cả Lucy lẫn cha cô. Anh từng là người tiên phong khai phá vùng California và có thể thuật lại nhiều câu chuyện lạ kì về những màn được tiền mất của vào cái thời thanh bình, tự do ấy. Anh cũng đã từng làm nghề dẫn đường, bẫy thú, nghề tìm mỏ và chăn bò. Bất kì nơi nào có chuyện phiêu lưu hào hứng, Jefferson Hope đều tìm tới dự phần. Anh nhanh chóng được ông chủ trại yêu mến, ông già thường hùng hồn khen ngợi những đức tính của anh. Những lần như thế, Lucy chỉ im lặng nhưng đôi má ửng hồng và đôi mắt vui sướng, rạng ngời kia cho thấy rành rành là trái tim non nớt của cô không còn là của riêng cô nữa. Người cha thật thà của cô có thể đã không nhận ra những dấu hiệu này, nhưng chắc chắn những biểu hiện ấy không phải là vô nghĩa đối với chàng trai đã chinh phục cảm tình của cô.

Hôm đó là một chiều mùa hè, khi anh phi nước đại xuống con đường và ghì cương ngựa dừng ngay cổng. Cô đang ở ngưỡng cửa và ra đón anh. Anh ném dây cương qua hàng rào rồi sải bước trên lối đi nhỏ vào nhà.

"Anh phải đi, Lucy à", anh vừa nói vừa đưa tay nắm lấy hai bàn tay cô và dịu dàng nhìn cô không dứt. "Anh không xin em đi cùng anh bây giờ đâu, nhưng khi anh quay lại lần sau thì em sẵn sàng theo anh chứ?"

"Vậy lần sau là bao giờ?" Cô hỏi, vừa bẽn lẽn vừa cười.

"Chừng hai tháng nữa là cùng. Lúc đó anh sẽ đến đón em nhé, em yêu. Không ai có thể ngăn trở chúng ta được."

"Thế còn cha thì sao?" Cô gái hỏi.

"Cha đã ưng thuận rồi, miễn là bọn anh phải làm cho mấy cái mỏ ấy hoạt động ổn thỏa. Anh không lo ngại gì chuyện đó."

"Ôi, vậy thì hẳn rồi, nếu anh và cha đã lo liệu cả thì còn gì để nói nữa đâu", cô thì thầm khi tựa má vào lồng ngực vạm vỡ của anh

"Tạ ơn Chúa!" Chàng trai thốt lên, giọng khàn đục, và cúi xuống hôn cô gái. "Vậy là đã quyết định rồi nhé. Anh càng nán lại lâu thì càng khó lòng ra đi. Họ đang chờ anh ở hẻm núi. Tạm biệt, em yêu của anh, tạm biệt, hai tháng nữa em sẽ gặp lại anh."

Vừa nói anh vừa đẩy nàng ra xa rồi lao lên lưng ngựa, phi nước đại phóng đi như điên dại, thậm chí không hề ngoái lại như thể lo sợ rằng chỉ cần một cái liếc nhìn về sau lưng thì quyết tâm của anh sẽ rơi rụng. Cô gái đứng ở cổng, dõi mắt nhìn theo cho đến khi anh khuất dạng. Rồi cô tản bộ vào nhà, cô gái hạnh phúc nhất ở khắp xứ Utah này.

10. John Ferrier trò chuyện với Đấng Tiên Tri

Ba tuần đã trôi qua từ khi Jefferson Hope và các bạn rời khỏi Salt Lake City. John Ferrier xót xa cả cõi lòng khi ông nghĩ đến chuyện chàng trai ấy sẽ quay lại và ông sắp mất đứa con nuôi. Thế nhưng gương mặt hạnh phúc rạng ngời của cô gái lại khiến ông thấy hài lòng với sự sắp xếp này hơn bất kì lí lẽ nào. Từ tận đáy lòng, John Ferrier luôn quả quyết rằng không gì có thể xui khiến ông gả con gái cho một người Mormon. Một cuộc hôn nhân như thế với ông hoàn toàn không phải là hôn nhân mà chỉ là một niềm tủi hổ ê chề. Dù ông có hiểu các giáo thuyết Mormon theo cách nào đi nữa, thì đây cũng là điều ông không chịu khoan nhượng. Tuy nhiên, ông không hé răng về vấn đề này, bởi vì thời ấy ở xứ sở của các Thánh hữu, việc bộc lộ một quan điểm không chính thống là điều nguy hiểm.

Đúng, nguy hiểm - nguy hiểm tới mức ngay cả những kẻ thánh thiện nhất cũng chỉ dám thầm thì những quan điểm tín ngưỡng trong sự hồi hộp, e rằng một lời đã lỡ thốt ra có thể bị hiểu sai và họ sẽ nhanh chóng chuốc lấy một hình phạt. Những nạn nhân ngày nào bị khủng bố bây giờ lại trở thành những kẻ khủng bố, và lại thuộc hạng khủng bố kinh khiếp nhất. Ngay cả Tòa án Dị giáo ở Seville, tòa án bí mật Vehm bên Đức, hay các hội kín của Ý đều không thể nào vận hành một bộ máy ghê gớm hơn bộ máy đang đe dọa khắp Utah này. Tính chất vô hình của bộ máy, cộng thêm sự bí mật gắn liền với nó, khiến cho tổ chức này ghê gớm gấp đôi. Xem ra tổ chức này biết hết mọi chuyện và có quyền lực vô hạn, thế nhưng chẳng ai nghe thấy hay nhìn thấy nó. Kẻ nào chống lại Giáo hội sẽ biến mất và không một ai hay biết người ấy đã đi đâu hoặc chuyện gì đã xảy đến với kẻ đó. Vợ con người ấy ở nhà mong chờ, nhưng sẽ không có chuyện người cha trở về kể lại ông ta đã xoay xở làm sao dưới bàn tay của những quan tòa bí mật. Một lời nói bất cẩn hay một hành vi khinh suất sẽ kéo theo sự thủ tiêu, vậy mà chẳng ai biết được đâu là bản chất của cái quyền lực kinh khủng đang lơ lửng trên đầu họ. Thảo nào ai nấy cũng hành xử trong run sợ, và ngay ở giữa chốn hoang vu này họ cũng chẳng dám thì thầm về những nỗi nghi ngại đang đè nặng trong lòng.

Ban đầu, cái quyền lực kinh khủng mà mơ hồ này chỉ áp dụng với những kẻ nào ngoan cố, sau khi đã theo tín ngưỡng Mormon lại muốn thay đổi hay bỏ đạo. Nhưng chẳng bao lâu sau, nó được thực thi ở một phạm vi rộng lớn hơn. Số phụ nữ trưởng thành đang thiếu hụt dần, và chế độ đa thê mà không có một nhân số phụ nữ để củng cố thì quả thật cũng chẳng tồn tại bền lâu. Người ta bắt đầu kháo nhau những tin đồn lạ lùng, nghe đâu có nhiều người dân di cư bị sát hại và nhiều lán trại bị bắn phá ở những khu vực mà trước giờ không hề thấy bóng dáng mọi da đỏ. Nhiều phụ nữ lạ mặt mới xuất hiện trong hậu cung của các trưởng tế - những người đàn bà mỏi mòn và sướt mướt, trên nét mặt còn in hằn dấu vết của một nỗi kinh hoàng khôn nguôi. Những kẻ lang thang muộn màng trên núi kể về những toán người có vũ khí, đeo mặt nạ, lén lút, đi không gây tiếng động, mà họ tình cờ gặp khi toán ấy di chuyển ngang qua. Những chuyện kể và tin đồn này ngày càng vững chắc và được chứng thực hết lần này đến lần khác cho tới khi hình thành một danh tính cụ thể. Cho tới giờ này, trong những nông trại lẻ loi ở miền Tây, cái tên của tổ chức Danite hay Phục Hận Thiên Thần báo điềm dữ đầy sát khí.

Càng hiểu biết đầy đủ hơn về tổ chức đã gây ra những hậu quả khủng khiếp như vậy, nỗi kinh hoàng nó đã gieo rắc trong tâm trí mọi người càng tăng thêm. Chẳng ai biết ai là người của cái hội đoàn tàn bạo này. Tên tuổi của những người tham gia các hành vi đẫm máu và bạo lực nhân danh tôn giáo được giữ kín kẽ. Chính người bạn mà ta thổ lộ những hoài nghi về Đấng Tiên Tri và sứ mệnh của ngài có thể là người ban đêm sẽ cầm súng cầm dao đến đòi ở ta một món chuộc tội khủng khiếp. Do đó ai ai cũng e dè xóm giềng của mình, và không người nào nói ra những gì chôn giấu trong lòng.

Một sáng đẹp trời, John Ferrier định đi ra đồng lúa mì thì nghe tiếng then cổng lách cách. Nhìn qua cửa sổ, ông thấy một người trung niên mập mạp, tóc màu hung đang theo lối đi dẫn tới nhà. Tim ông muốn nhảy khỏi lồng ngực bởi người đó không ai khác hơn là ngài Brigham Young. Đầy lo lắng vì ông biết một cuộc thăm viếng thế này chẳng báo trước điều gì tốt đẹp, Ferrier chạy ra cửa đón người lãnh đạo dân Mormon. Thế nhưng Brigham Young chỉ hờ hững đón nhận những lời chào hỏi, và với vẻ mặt lạnh lùng Young theo Ferrier vào phòng khách.

"Này huynh Ferrier", ông ta vừa nói vừa kéo ghế ngồi và nhìn người chủ trại với đôi mắt sắc sảo dưới hàng lông mi nhạt màu, "những tín đồ chân chính lâu nay đã là bằng hữu tốt đẹp với ông. Chúng tôi đã cứu vớt ông khi ông sắp chết đói trên sa mạc, chúng tôi chia sẻ thực phẩm cho ông, đưa ông an toàn tới Thung lũng Chúa chọn này, chia phần đất đai hậu hĩ cho ông, và cho phép ông làm giàu dưới sự bảo vệ của chúng tôi. Có phải thế không?"

"Đúng thế ạ", John Ferrier đáp.

"Để đổi lại tất cả những thứ đó, chúng tôi chỉ yêu cầu có một điều kiện. Đó là ông phải đi theo tín ngưỡng đích thực này, và tuân thủ mọi bề theo các đạo tục ông đã hứa sẽ làm theo, và nếu như lời đồn đãi khắp nơi đúng, thì đây chính là điều ông sao nhãng."

"Làm sao mà tôi sao nhãng được chứ?" Ferrier vừa vặn hỏi vừa vung tay phân bua. "Tôi quên đóng góp vào quỹ chung sao? Tôi không đi lễ ở giáo đường sao? Tôi không..."

"Các bà vợ của ông đâu?" Young vừa hỏi vừa nhìn quanh. "Hãy gọi các bà vào đây cho tôi chào họ đi."

"Thật tình là tôi chưa lập gia đình", Ferrier đáp. "Nhưng phụ nữ thì ít mà lại có nhiều người xứng đáng lấy vợ hơn là tôi. Tôi cũng đâu có cô đơn, có con gái tôi chăm lo cho tôi rồi."

"Chính con gái ông mới là chuyện tôi muốn nói", người lãnh đạo dân Mormon nói. "Con bé đã trở thành một bông hoa xứ Utah rồi, và trông nó đã vừa mắt đẹp lòng với nhiều người quyền cao chức trọng xứ này?"

John Ferrier than thầm trong bụng.

"Có nhiều chuyện về con bé mà tôi sẵn sàng không tin, nghe đồn là con bé đã được đính ước với một kẻ ngoại đạo nào đó. Nhất định đây là chuyện ngồi lê đôi mách của những cái mồm rỗi hơi. Điều mười ba trong giới luật của đấng Joseph Smith thánh linh là gì? Hãy để cho mọi trinh nữ của chính giáo kết hôn với những người đã được chọn lựa, bởi lấy một người dị giáo tức là phạm trọng tội. Nếu như thế thì không thể nào mà ông, người tuyên xưng thánh tín, lại cam chịu cho con gái mình vi phạm đức tin."

John Ferrier không nói không rằng mà chỉ bồn chồn mân mê cây roi quất ngựa.

"Toàn bộ đức tin của ông sẽ được thử thách chỉ với một điều này thôi, Tứ Trụ Thánh Hội đã quyết định như thế. Con bé còn nhỏ nên chúng tôi cũng không muốn gả nó cho những người lớn tuổi, và chúng tôi cũng không muốn tước bỏ quyền lựa chọn của nó. Các trưởng tế chúng tôi đã có nhiều vợ trẻ rồi, nhưng con cái chúng tôi cũng phải được đáp ứng. Stangerson có một con trai, Drebber cũng có một, và cả hai đều hoan hỉ chào đón con gái ông vào gia đình họ. Hãy để con bé lựa chọn giữa hai nhà này. Cả hai đều trẻ và giàu, và đều thuộc chính giáo cả. Ý ông thế nào đây?"

Ferrier vẫn im lặng một hồi, đôi mày cau lại. Cuối cùng ông lên tiếng, "Xin ngài cho chúng tôi thời gian. Con gái tôi còn nhỏ, nó còn chưa đến tuổi cập kê mà."

"Nó có một tháng để chọn lựa", Young vừa nói vừa đứng dậy. "Hết thời gian đó thì nó phải có câu trả lời."

Đi ra tới cửa thì Young quay lại, mặt đỏ bừng và quắc mắt nói như quát, "Này John Ferrier, thà ông và con bé bấy giờ nằm phơi xương trắng trên dãy Sierra Blanco còn hơn là các người đem lòng bất kính ra mà chống lại lệnh của Tứ Trụ."

Với một cái khoát tay đe dọa, ông ta quay lưng ra đi và Ferrier nghe tiếng bước chân nặng nề của Young lạo xạo trên lối đi rải đá cuội.

Ông vẫn ngồi yên một chỗ, hai khuỷu tay chống trên đầu gối, phân vân không biết phải mở lời ra sao với con gái về chuyện này thì một bàn tay mềm mại nắm lấy bàn tay ông. Ngẩng lên, ông đã thấy con gái đứng cạnh bên. Chỉ cần nhìn qua gương mặt hoảng sợ, tái nhợt của cô gái là ông biết con ông đã nghe hết những gì vừa trao đổi.

"Con không cố ý nghe lỏm", cô đáp lại ánh mắt dò hỏi của cha. "Ông ta nói oang oang khắp nhà đều nghe, ôi, cha ơi, làm sao đây cha?"

"Con đừng hoảng sợ", ông vừa nói vừa kéo cô lại gần và đưa bàn tay thô ráp, to lớn vuốt ve mái tóc màu hạt dẻ của con gái. "Rồi chúng ta sẽ thu xếp bằng cách này hay cách khác. Chắc là cảm tình con dành cho anh ta đâu có suy giảm phải không?"

Câu trả lời của cô gái chỉ là một tiếng nấc và một cái siết chặt tay cha. "Ừ, hẳn thế rồi. Con mà có hết cảm tình với nó thì ta cũng mặc kệ con. Thằng đó được đấy, nó lại là dân đạo Cơ Đốc, thế lại càng hơn cái đám ở đây bất kể những gì chúng nguyện cầu hay rao giảng. Ngày mai sẽ có một đoàn lên đường đi Nevada, ta sẽ tìm cách báo tin cho nó biết tình thế khó xử của cha con ta. Ta còn lạ gì anh chàng đó chứ, nó sẽ chạy bay về đây ngay, còn nhanh hơn cả điện tín nữa đấy."

Mắt hoen lệ mà Lucy vẫn không nén được cười trước lời ví von của cha. "Khi quay lại đây anh ấy sẽ chỉ cho cha con ta cách gì tốt nhất. Nhưng con chỉ lo sợ cho cha mà thôi, cha à. Ai cũng nghe đồn... nghe đồn nhiều chuyện ghê gớm về những kẻ chống đối Đấng Tiên Tri, họ luôn gặp chuyện kinh khủng."

"Nhưng chúng ta đâu có chống đối ông ấy", người cha đáp. "Khi nào cần đề phòng nguy hiểm thì hãy đề phòng. Chúng ta còn cả một tháng nữa mà, tới lúc đó chắc là chúng ta đã rời khỏi xứ Utah này rồi con."

"Rời khỏi Utah!"

"Đúng là vậy đó con."

"Thế còn trang trại này?"

"Chúng ta sẽ gom góp tiền càng nhiều càng tốt, còn bỏ hết mọi thứ khác. Nói thật với con đó, Lucy, đây không phải là lần đầu ta nghĩ tới chuyện này đâu. Ta không đời nào chịu khuất phục bất kì ai, không như lũ người kia cam chịu trước Đấng Tiên Tri đáng nguyền rủa của họ. Ta là một người Mỹ tự do từ lúc lọt lòng, và chưa bao giờ gặp chuyện như thế này cả. Chắc ta đã quá già để học những thứ mới. Nếu hắn ta tới lảng vảng quanh trang trại này thì không khéo hắn phải đối đầu với một phát đạn bay ngược chiều đó."

"Nhưng họ sẽ không cho chúng ta bỏ đi đâu", cô con gái phản đối.

"Cứ chờ đến khi Jefferson quay lại, rồi chúng ta sẽ thu xếp ngay. Còn trong lúc này thì đừng có buồn phiền nghe, con yêu, và đừng có khóc sưng mắt lên đó, kẻo hắn thấy thì hắn lại nhảy xổ tới cha đây. Không có gì phải sợ hãi cả, và không có gì nguy hiểm cả."

John Ferrier thốt ra những lời trấn an ấy bằng một giọng điệu rất tự tin, nhưng cô gái dù không để ý cũng thấy cha mình cài chặt cửa nẻo kĩ lưỡng khác thường vào ban đêm, và thấy cha cẩn thận lau chùi rồi nạp đạn cho khẩu súng săn gỉ sét treo trên vách phòng ngủ của ông.

11. Cuộc đào thoát sinh tử

Vào buổi sáng sau hôm hội kiến với Đấng Tiên Tri Mormon, John Ferrier đi vào Salt Lake City. Khi tìm được người quen sắp lên đường tới vùng núi Nevada, ông nhờ gửi thư riêng cho Jefferson Hope. Trong thư ông thuật lại với chàng trai về nguy cơ đang chực chờ đe dọa họ và bảo anh cần phải cấp bách quay lại. Xong việc này ông thấy tâm trí thoải mái hơn và nhẹ lòng trở về nhà.

Về tới trang trại, ông ngạc nhiên thấy mỗi trụ cổng lại buộc một con ngựa. Ông còn ngạc nhiên hơn nữa khi vào nhà lại thấy có hai gã thanh niên đang chiếm ngự phòng khách. Một gã có khuôn mặt dài nhợt nhạt đã ngả lưng ra chiếc ghế đu, hai chân gác lên lò sưởi. Gã kia là một thanh niên cổ to bạnh, mặt mày húp híp thô lỗ, đang đứng trước cửa sổ, hai tay cho vào túi, mồm huýt sáo một điệu nhạc thời thượng. Cả hai gật đầu chào Ferrier khi ông bước vào, và gã ngồi trên ghế đu bắt đầu câu chuyện. "Chắc là ông không biết chúng tôi", gã ta nói. "Đây là con trai của trưởng tế Drebber, còn tôi là Joseph Stangerson, người đã rong ruổi cùng ông trên sa mạc khi Thiên Chúa dang tay đón ông vào đàn chiên chân chính này."

"Như là Người sẽ dang tay đón nhận mọi dân tộc khi đến lúc Người chọn lựa", gã kia nói với giọng the thé. "Người sàng lọc chậm nhưng rất tinh, cực kì ít ỏi."

John Ferrier lạnh lùng cúi chào, ông đã biết những vị khách này là ai. Stangerson nói tiếp, "Thể theo lời khuyên của thân phụ, chúng tôi đến xin cưới ái nữ của ông vì trong cả hai chúng tôi, ai cũng đều có thể hợp ý ông và ý cô ấy. Do tôi chỉ có bốn vợ còn huynh Drebber đây có tới bảy, xem ra quyền đính ước của tôi có nhiều triển vọng hơn."

"Không được, không được đâu, huynh Stangerson", gã kia kêu to, "vấn đề không phải là chúng ta có bao nhiêu vợ mà là chúng ta có thể nuôi được mấy người. Cha tôi vừa mới cho tôi mấy nhà máy xay lúa của ông rồi, vậy tôi giàu có hơn anh."

"Nhưng tương lai tôi xán lạn hơn", Stangerson sôi nổi đáp trả. "Khi nào Thiên Chúa đón cha tôi đi thì tôi sẽ có xưởng thuộc da với nhà máy làm đồ da của ông ấy. Khi đó tôi lại là trưởng tế của anh, và có địa vị cao hơn anh trong Giáo hội."

"Quyền quyết định là của cô gái", Drebber vừa cãi lại vừa cười tự mãn với bóng mình trong gương. "Chúng ta cứ để mọi chuyện cho cô gái định đoạt."

Trong lúc hai gã đối đáp, John Ferrier đứng ở ngưỡng cửa giận sôi gan nhưng cố sức kiềm chế để khỏi quật cái roi ngựa vào lưng hai vị khách. Cuối cùng, ông vừa sải bước đi tới vừa lên tiếng, "Nghe đây, khi nào con gái tao gọi tụi bay thì hãy tới, từ giờ đến đó tao không muốn thấy mặt tụi bay nữa."

Hai gã thanh niên Mormon sửng sốt nhìn ông chằm chằm. Trong mắt họ, chuyện tranh đua xin cưới cô gái là vinh dự cao quý nhất dành cho cả hai cha con nhà này.

"Có hai cách để ra khỏi căn phòng này", Ferrier to tiếng, "một là ra bằng cửa chính, hai là ra bằng cửa sổ. Tụi bay muốn ra cách nào đây?"

Gương mặt nâu sạm của ông trông hết sức hung dữ và hai bàn tay gân guốc đầy đe dọa khiến hai vị khách đứng phắt lên hấp tấp rút lui. Ông già theo chúng ra tận cửa. "Khi nào tụi bay đã xác định được đứa nào cưới con tao thì nói tao biết", ông nói với giọng nhạo báng.

"Rồi ông sẽ phải lãnh hậu quả vì chuyện này!" Stangerson giận tái mặt kêu lên. "Ông đã chống lại Đấng Tiên Tri và Tứ Trụ Thánh Hội. Ông sẽ ăn năn suốt đời cho coi."

"Thiên Chúa sẽ nặng tay với ông", gã Drebber cũng la to. "Người sẽ hiển linh và trừng phạt ông."

"Vậy thì tao sẽ trừng phạt trước", Ferrier điên tiết quát và đã toan phóng lên lầu lấy khẩu súng nếu như Lucy không tóm lấy cánh tay ông ngăn cản. Ông chưa kịp giằng tay ra thì tiếng vó ngựa rầm rập đã cho thấy các vị khách đã cao chạy xa bay.

"Đồ lưu manh đạo đức giả!" Ông vừa la ầm ĩ vừa lau mồ hôi trên trán. "Ta thà thấy con nằm dưới mồ còn hơn thấy con làm vợ một trong hai thằng đó, con à."

"Con cũng thà chết còn hơn, cha à", cô gái hăng hái đáp lời, "nhưng rồi anh Jefferson sẽ chóng quay lại thôi."

"Ừ, không lâu nữa đâu. Càng sớm càng tốt bởi cha con ta không thể biết chúng nó sẽ làm gì kế tiếp đây."

Quả thực, đây chính là lúc ông già gan lì và cô con nuôi của ông cần sự hỗ trợ của ai đó có khả năng đưa ra lời khuyên và giúp sức. Trong toàn bộ lịch sử của khu định cư này, chưa hề có trường hợp nào bất phục tùng quyền uy của các trưởng tế rành rành như vậy. Nếu như các lỗi lầm nhỏ nhặt đã bị trừng trị hà khắc đến thế thì không biết số phận của kẻ chống đối tày trời này sẽ ra sao. Ferrier thừa biết tài sản và địa vị của ông cũng chẳng giúp ích được gì. Trước đây, nhiều người khác cũng danh giá và giàu có như ông đã mất tích và của cải của họ bị sung công quỹ Giáo hội. Là người can trường vậy mà ông cũng rùng mình trước những chuyện kinh hoàng mơ hồ, khó hiểu đang chực chờ. Bất kì mối nguy hiểm nào ông đều dám cắn răng đối đầu nhưng tình trạng chờ đợi này quả là đáng sợ. Tuy nhiên, ông cố giấu nỗi lo sợ trước mặt con gái, và giả vờ như xem thường mọi chuyện, mặc dù Lucy, với con mắt sắc sảo của lòng hiếu kính, đã thấy rõ là ông bất an.

Ông chờ đợi sẽ nhận được thông điệp hay khiển trách nào đó từ Young về hành động của mình, và ông không lầm, mặc dù lời nhắn đó xuất hiện dưới một hình thức nằm ngoài mọi trù tính. Khi thức dậy sáng hôm sau, ông ngạc nhiên nhìn thấy một mảnh giấy nhỏ vuông vắn ghim vào tấm chăn đắp ngay phía trên ngực ông. Trên mảnh giấy ghi một dòng chữ đậm không ngay hàng thẳng lối:

CÒN HAI MƯƠI CHÍN NGÀY NỮA ĐỂ MI HỐI CẢI,

VÀ SAU ĐÓ...

Cái dấu ba chấm ấy còn đáng sợ hơn bất kì lời đe dọa nào. Làm sao lời cảnh cáo này xuất hiện được ở phòng ông thì thật tình John Ferrier nghĩ mãi không ra, bởi các gia nhân ngủ ở gian ngoài, mọi cửa ra vào và cửa sổ đều đóng chặt. Ông vò nát mẩu giấy và không nói gì với con gái, nhưng sự việc này khiến ông ớn lạnh thấu tim. Hai mươi chín ngày nữa chính là lúc hết thời hạn một tháng mà Young đã hẹn. Sức mạnh hay lòng can trường nào có thể giúp chống lại một kẻ thù được trang bị những quyền năng bí ẩn như thế? Cái bàn tay đã ghim chiếc kim giữ chặt mảnh giấy ấy lẽ ra đã có thể đâm thấu tim ông mà ông không thể nào biết được ai hạ sát mình.

Buổi sáng kế tiếp ông còn run sợ hơn. Hai cha con vừa ngồi vào bàn điểm tâm thì Lucy ngạc nhiên kêu lên rồi chỉ tay lên trần. Viết nguệch ngoạc - hình như bằng một que củi cháy - ngay giữa trần nhà là con số 28. Với cô con gái thì dấu hiệu này không thể hiểu nổi và người cha thì không muốn giải thích. Đêm đó ông ôm súng thức canh chừng và đề phòng, ông không nghe thấy gì cả, thế nhưng sáng ra một số 27 to tướng lại được sơn ngay bên ngoài cửa phòng ông.

Ngày cứ nối tiếp ngày như thế, và cứ mỗi sáng ông lại thấy những kẻ thù vô hình tiếp tục đánh số, và ở một vị trí dễ nhìn thấy nào đó là số ngày còn lại của một tháng ân huệ dành cho ông. Có lúc những chữ số định mệnh ấy xuất hiện trên vách tường, có lúc trên sàn nhà, thỉnh thoảng lại được đề trên những tấm bìa nhỏ cắm trên cổng vườn hay trên hàng rào. Cảnh giác hết sức vậy mà John Ferrier vẫn không thể phát hiện được những lời cảnh cáo hằng ngày ấy phát xuất từ đâu. Cứ nhìn thấy chúng là ông lại thấy một nỗi kinh sợ gần như mê tín dị đoan, ông trở nên phờ phạc, bồn chồn, và đôi mắt nhuốm vẻ lo lắng của một kẻ bị săn lùng. Bây giờ ông chỉ còn mỗi một hi vọng duy nhất trong đời, đó là sự xuất hiện của chàng thợ săn từ Nevada.

Ngày thứ hai mươi đã chuyển qua mười lăm, rồi mười lăm còn mười, người đi xa vẫn bặt vô âm tín. Từng ngày một, những con số cứ nhỏ dần mà vẫn không thấy tăm hơi anh ta. Hễ có tiếng vó câu của tay kị mã nào lọc cọc trên đường, hay có tiếng xà ích quát tháo lũ ngựa thì ông già lại hối hả chạy ra cổng, lòng khấp khởi rằng rốt cuộc cứu tinh đã đến. Cuối cùng, khi ông thấy năm ngày chỉ còn bốn rồi lại chỉ còn ba thì ông thối chí và từ bỏ mọi hi vọng thoát thân. Thân cô thế cô, lại chẳng am tường vùng núi bao quanh khu định cư này, ông biết chắc là mình bất lực. Những con đường thường lui tới đều được canh gác chặt chẽ, và không một ai có thể đi qua mà không có lệnh của Thánh Hội. Xem ra ông có đi bốn phương tám hướng cũng không tránh khỏi mối hiểm họa đang lơ lửng trên đầu. Thế nhưng ông già vẫn kiên quyết, thà từ bỏ sinh mạng chứ không cam lòng để con gái mình sa vào hoàn cảnh mà ông cho là ô nhục.

Một buổi tối, ông ngồi một mình nghiền ngẫm trong lòng bao nỗi lo và tìm kiếm tuyệt vọng một lối thoát nào đó. Sáng hôm ấy trên vách nhà ông đã hiện ra con số 2và ngày hôm sau sẽ là ngày cuối cùng của hạn định. Chuyện gì sẽ xảy ra sau đó? Tràn ngập trí tưởng tượng của ông là bao hình ảnh kinh khủng mông lung. Rồi con gái ông, chuyện gì sẽ xảy đến cho nó sau khi ông đã lìa đời? Không có cách gì trốn thoát được cái mạng lưới vô hình đang siết chặt chung quanh họ sao? Ông gục đầu xuống bàn và thổn thức khi nghĩ tới sự bất lực của chính mình.

Cái gì thế? Trong tĩnh lặng ông nghe có tiếng sột soạt khe khẽ rất nhỏ, nhưng rõ mồn một trong đêm tĩnh mịch. Tiếng động phát ra từ cửa chính ngôi nhà. Ferrier rón rén đi vào sảnh và lắng nghe chăm chú. Im được một lúc thì những âm thanh khe khẽ quỷ quyệt đó lại tái diễn. Rõ ràng có ai đang gõ gõ rất nhẹ vào mấy ô cửa. Phải chăng đó là một kẻ ám sát lúc nửa đêm thừa hành những mệnh lệnh giết người của phiên tòa bí mật? Hay đó là tên mật phái nào đang đánh dấu ngày ân huệ cuối cùng? John Ferrier thấy thà chết ngay lập tức còn hơn là cứ căng thẳng thần kinh, khiếp đảm tâm can thế này. Lao vọt tới, ông rút then cài và mở toang cửa.

Bên ngoài hoàn toàn tĩnh lặng. Đêm trong trẻo và những vì sao sáng lấp lánh trên cao. Mảnh vườn nhỏ đầu nhà ngay trước mắt ông được bao bọc bằng cổng và hàng rào, nhưng cả trong vườn lẫn ngoài ngõ đều không một bóng người. Thở hắt một tiếng an lòng, Ferrier nhìn sang bên trái rồi bên phải, cho đến khi tình cờ nhìn xuống chân mình ông mới sửng sốt nhận ra một người đang nằm dài úp mặt xuống đất, tay chân dang rộng. Ông hoảng hồn trước cảnh tượng ấy tới mức phải tựa vào tường, tay đưa lên chặn ngang cuống họng mình để bóp nghẹt một tiếng la chực vọt ra. Ban đầu ông nghĩ rằng thân hình sóng soài ấy là một kẻ bị thương hay hấp hối, nhưng rồi nhìn kĩ ông thấy hình thù đó uốn éo trên mặt đất và trườn vào sảnh nhanh và êm như một con rắn. Khi đã vào trong nhà, người đó đứng phắt dậy, đóng cửa, trước mắt ông chủ trại sửng sốt hiện ra gương mặt dữ dội và cương quyết của Jefferson Hope.

"Lạy Chúa!" John Ferrier thảng thốt. "Con làm ta sợ hết vía! Sao lại đi vào nhà kiểu đó chứ!"

"Cho con ăn đi", người kia lên tiếng, giọng khàn đục. "Con không có thời gian ăn uống gì suốt hai ngày qua." Anh sà vào mở bành mì và thịt nguội lạnh còn lại trên bàn sau bữa ăn tối của chủ nhà. Khi đã nguôi ngoai cơn đói, anh mới nói tiếp. "Lucy có chịu đựng được không?"

"Được. Nó đâu biết nguy cơ này", người cha đáp.

"Vậy thì tốt. Nhà này đã bị canh gác bốn bề. Thành ra con phải lẻn bò vào như vậy. Chúng nó có thể rất tinh ranh nhưng chưa đủ để bắt nổi thợ săn xứ Washoe này đâu."

Khi nhận ra mình đã có một đồng minh tận tụy thì John Ferrier trở thành con người khác, ông chộp lấy bàn tay gân guốc của chàng trai và siết chặt rất chân thành.

"Ta thật tự hào vì con", ông nói. "Không có mấy người dám cùng chịu nguy khó với cha con ta đâu."

"Bác nói đúng đấy", chàng thợ săn đáp. "Con kính trọng bác, nhưng nếu trong chuyện này chỉ có mình bác thôi thì con sẽ suy nghĩ hai lần trước khi đâm đầu vào tổ ong bầu hung hiểm như thế. Chính vì Lucy con mới về đây, và nếu chúng nó muốn đụng tới cô ấy thì phải lấy mạng một người nhà họ Hope ở Utah trước đã."

"Chúng ta phải làm gì đây?"

"Mai là ngày cuối cùng rồi, nếu không hành động ngay đêm nay thì chết chắc. Con có một con lừa với hai con ngựa đang chờ ở khe núi Eagle. Bác hiện có bao nhiêu tiền?"

"Hai ngàn đôla tiền vàng và năm ngàn tiền giấy."

"Vậy cũng đủ. Con sẽ góp thêm vào khoảng chừng đó. Chúng ta phải băng núi, cố tới được thành phố Carson. Bác nên đánh thức Lucy dậy đi. Cũng may là gia nhân không ngủ ở trong nhà."

Trong lúc Ferrier rời phòng thu xếp cho con gái chuẩn bị lên đường, Jefferson Hope gom hết mọi thức ăn có thể tìm được vào một gói nhỏ rồi đổ đầy nước vào một bình gốm, vì theo kinh nghiệm của anh thì rất ít giếng nước ở vùng này và chúng cách nhau rất xa. Anh vừa thu xếp xong thì ông già đã quay lại cùng cô con gái, nai nịt sẵn sàng để lên đường. Hai kẻ đang yêu chào đón nhau thắm thiết nhưng chóng vánh bởi từng phút từng giây bây giờ đều quý báu và còn nhiều việc phải làm.

"Chúng ta phải lên đường ngay", Jefferson Hope thì thầm bằng giọng cương quyết như một người đã nhận biết rõ tính nghiêm trọng của hiểm họa và dốc lòng đối phó. "Cổng trước và sau đều bị canh gác rồi, nhưng nếu cẩn thận thì chúng ta có thể tẩu thoát qua đường cửa sổ bên hông nhà và băng qua cánh đồng. Khi ra tới đường chúng ta chỉ còn hai dặm nữa là tới khe núi nơi ngựa đang chờ. Tới hừng sáng thì chúng đã đi được nửa đường xuyên núi."

"Nếu ta bị chặn lại thì sao?" Ferrier hỏi.

Hope vỗ vào báng súng ngắn thò ra phía trước áo choàng. "Nếu chúng nó đông quá thì ta cũng hạ được vài ba mạng rồi mới chết", anh nói với một nụ cười đầy sát khí.

Mọi đèn đóm trong nhà đều tắt hết, và từ khung cửa sổ tối đen Ferrier ghé mắt nhìn ra những cánh đồng đã từng thuộc về ông và bây giờ ông sắp từ bỏ chúng vĩnh viễn. Tuy nhiên, ông đã chuẩn bị tinh thần cho sự hi sinh này, ý muốn bảo vệ danh dự và hạnh phúc cho con gái đã lấn át mọi luyến tiếc về chuyện tiêu tan sản nghiệp. Mọi thứ đều có vẻ yên vui, cây lá xào xạc và ruộng lúa trải dài êm ả, khó mà nhận ra ám chướng sát nhân đang lẩn khuất quanh đây. Thế nhưng gương mặt trắng bệch, nghiêm nghị của chàng thợ săn cho biết những gì anh thấy trên đường đến ngôi nhà đủ để khẳng định nguy cơ ấy.

Ferrier mang túi tiền vàng và giấy bạc, Jefferson Hope giữ phần lương thực và nước, còn Lucy xách một bọc nhỏ chứa vài món tư trang giá trị của cô. Thận trọng và chậm rãi, họ mở cửa sổ và chờ đến khi một đám mây đen che lấp bớt bầu trời đêm, rồi từng người một leo qua khung cửa mở ra khoảnh vườn con. Hồi hộp, họ khom người dò bước băng qua vườn và nấp vào hàng giậu rồi cứ men theo đó mà đi tới khi gặp một chỗ trống thông ra những cánh đồng ngô. Họ vừa tới khoảng trống này thì chàng trai đã tóm lấy hai người đồng hành lôi họ vào bóng tối rồi cả ba nằm im lo sợ.

May mà sự tôi rèn trên đồng cỏ đã cho Jefferson Hope đôi tai thính nhạy như loài linh miêu. Anh và hai cha con Ferrier vừa nằm mọp xuống thì tiếng rúc ai oán của một con cú núi đã vang lên chỉ cách họ vài yard, và lập tức được hồi đáp bằng một tiếng rúc khác cách đó một quãng ngắn. Cùng lúc đó một bóng người lờ mờ hiện ra ngay khoảng trống mà họ định đi qua. Bóng đen lại rúc lên một ám hiệu thê lương, và nghe hiệu, một người thứ hai liền từ trong bóng tối hiện ra.

"Ngày mai lúc nửa đêm", tiếng kẻ đầu tiên, có vẻ là người có thẩm quyền. "Khi nghe ba tiếng cú kêu."

"Rõ", người kia đáp. "Có báo với huynh Drebber không?"

"Báo đi, và huynh ấy sẽ báo những người khác. Chín còn bảy!"

"Bảy còn năm!" Người kia đáp rồi hai bóng đen nhẹ nhàng ra đi theo hai hướng khác nhau.

Hai câu đối đáp sau cùng của họ rõ ràng là một mật hiệu và khẩu lệnh thông hành. Ngay khi tiếng bước chân đã lặng tắt phía xa, Jefferson Hope nhảy phắt dậy và giúp hai người đồng hành đi qua khoảng trống. Anh dẫn đường băng qua mấy cánh đồng và chạy hết tốc lực, vừa chạy vừa dìu vừa bế Lucy khi cô gái muốn kiệt sức.

"Mau lên! Mau lên!" Thỉnh thoảng anh hổn hển thúc giục. "Chúng ta đang qua tuyến canh phòng đó. Chạy nhanh thì thoát. Mau lên!"

Khi ra được tới đường cái họ đi nhanh hơn. Chỉ có một lần họ gặp người lạ nhưng nhờ cố lẻn được vào ruộng lúa nên tránh bị nhận dạng. Tới gần thành phố, tay thợ săn chạy rẽ vào một đường mòn chật hẹp, gồ ghề dẫn ra vùng núi. Hai ngọn núi lởm chởm, đen đúa sừng sững vươn lên trong bóng tối và hẻm núi trước mặt họ chính là khe núi Eagle nơi ngựa đang chờ sẵn. Với bản năng không thể sai lầm, Jefferson Hope chọn lối đi giữa các tảng đá lớn và men theo một kênh lạch đã cạn khô cho tới khi đến một góc khuất có đá che chắn, ở đây những con vật trung thành đã được buộc cương. Cô gái được bế lên lưng lừa, già Ferrier leo lên một con ngựa cùng với túi tiền trong khi Jefferson Hope dẫn đầu trên một con ngựa khác đi theo con đường mòn dốc ngược cheo leo.

Đó là một lộ trình bàng hoàng với bất kì ai không quen đối mặt với những trạng thái hoang dã nhất của tự nhiên. Một bên là vách núi khổng lồ vươn chót vót hàng trăm thước hơn, đen ngòm, lạnh lùng, và đe dọa, trên bề mặt lởm chởm nhô cao những cột đá ngất ngưởng trông như xương sườn của một con quái thú hóa thạch. Một bên là cõi hỗn mang của đá mòn và sỏi vụn chặn đứng mọi bước tiến. Ở giữa là một đường mòn bất định, nhiều chỗ hẹp tới mức cả ba phải đi thành hàng một, và lởm chởm tới mức chỉ có những tay kị mã lành nghề mới đủ sức băng qua. Nhưng bất chấp mọi nguy nan, trái tim của những kẻ đào tẩu càng lúc càng lâng lâng vì cứ mỗi bước chân thì khoảng cách giữa họ và cái ách chuyên quyền kinh khủng mà họ đang trốn chạy kia càng xa thêm.

Tuy nhiên, họ liền có ngay bằng chứng là mình vẫn còn nằm trong vòng sinh sát của các Thánh hữu. Họ vừa đến đoạn đèo hoang vu và hẻo lánh nhất thì cô gái giật mình kêu lên và chỉ tay lên cao. Trên một tảng đá nhìn xuống con đường này, in mồn một trên nền trời là bóng đen của một tên tuần canh cô độc. Hắn nhìn thấy họ ngay khi họ nhận ra hắn và tiếng hô như quân lệnh: "Ai đi đó?" của hắn rung rền trong hẻm núi tĩnh mịch.

"Lữ khách đi tới Nevada", Jefferson Hope đáp, bàn tay nắm lấy khẩu súng trường mang bên yên ngựa.

Họ có thể thấy tên tuần canh cô độc kia rê ngón tay lên khẩu súng của hắn, và cúi xuống nhìn họ chăm chú như thể không hài lòng với câu trả lời

"Ai cho phép?" Hắn ta hỏi

"Tứ Trụ Thánh Hội", Ferrier đáp. Kinh nghiệm đạo giáo Mormon đã cho ông biết đó là thẩm quyền cao nhất mà ông có thể viện dẫn.

"Chín còn bảy!" Tên tuần canh hô to.

"Bảy còn năm!" Jefferson Hope đáp lại ngay theo khẩu lệnh mà anh nhớ được lúc nghe ở trong vườn nhà.

"Cho qua! Thiên Chúa đi cùng các người!" Tiếng nói trên cao vang lên.

Vượt qua trạm canh gác này là con đường mở rộng dần và những con ngựa đã có thể chuyển sang phi nước kiệu. Ngoái nhìn lại, họ còn thấy tên tuần canh cô độc kia tì người trên khẩu súng. Họ biết mình đã vượt qua trạm gác xa nhất của những người được Chúa chọn, tự do đang ở phía trước.

12. Phục Hận Thiên Thần

Suốt đêm họ băng núi vượt qua bao khe đá hiểm trở và đường mòn gập ghềnh bất định. Hơn một lần họ đã đi lạc nhưng sự am tường của Hope về địa hình miền núi này lại giúp họ tìm đúng hướng. Khi trời hừng sáng, một khung cảnh vừa tuyệt mĩ vừa hoang dã trải dài trước mắt. Bao quanh họ bốn bề là những ngọn núi hùng vĩ đỉnh phủ tuyết, ngọn này kế tiếp ngọn khác cho đến mút tầm mắt. Những sườn đá hai bên núi dốc đứng tới mức những hàng thông dường như đang treo lơ lửng trên đầu họ và chỉ cần một ngọn gió là chúng sẽ ào ào lao tuột xuống phía ba người. Nỗi sợ đó không hẳn là ảo giác đâu, bởi thung lũng cằn cỗi này phủ dày đặc cây cối và đá tảng đã rơi đổ theo cách tương tự. Ngay khi họ đi qua, một tảng đá lớn rơi ầm xuống với một tràng va đập rào rào vang dội khắp các khe núi im lìm khiến những con ngựa kiệt sức của họ giật mình lồng lên phi nước đại.

Lúc mặt trời từ từ dâng cao trên chân trời phía đông, đỉnh tuyết của các ngọn núi khổng lồ lần lượt bừng sáng như những lồng đèn lễ hội, cho đến khi tất cả đều hồng rực lên. Cảnh tượng lộng lẫy đó làm nức lòng ba kẻ đào tẩu và tiếp thêm sinh lực cho họ. Đến một dòng nước từ trong khe núi tuôn trào ra, họ tạm thời nghỉ chân và cho lũ ngựa uống nước trong khi họ ăn vội bữa điểm tâm hối hả. Lucy và cha cô muốn nghỉ ngơi lâu hơn nhưng Jefferson Hope nhất định không nhượng bộ.

"Tới lúc này thì chúng chắc chắn đang theo dấu truy tìm", anh nói. "Tất cả tùy thuộc vào tốc độ của chúng ta. Khi đã tới Carson an toàn, chúng ta tha hồ nghỉ ngơi đến hết đời."

Suốt cả ngày hôm đó họ vượt qua những hẻm núi đầy gian truân, và đến chiều họ ước tính đã cách xa kẻ thù được hơn ba mươi dặm. Đến tối, họ tìm chỗ trú ở chân một vách đá cheo leo nơi đá tảng sẽ che chắn cho họ tránh bớt những luồng gió lạnh, và ở cạnh nhau cho ấm, họ tận hưởng được vài giờ ngủ yên. Tuy nhiên, trời chưa hừng đông là họ đã thức dậy tiếp tục lên đường. Họ không nhìn thấy dấu hiệu nào của những kẻ truy đuổi và Jefferson Hope bắt đầu tin rằng họ đã đi khá xa tầm với của cái tổ chức kinh khủng khiến họ phải cam chịu oán cừu. Anh không thể biết rằng cái quyền lực sắt đá ấy có thể vươn xa đến đâu hay chừng nào nó sẽ thít chặt lấy họ và nghiền nát.

Đến khoảng giữa ngày thứ hai của cuộc đào tẩu thì nguồn lương thực dự trữ ít ỏi của họ bắt đầu cạn. Nhưng chàng thợ săn không mấy lo lắng chuyện này vì vùng núi có nhiều thú rừng và trước đây anh đã nhiều lần phải nhờ cậy đến khẩu súng trường để kiếm thức ăn. Chọn một góc khuất trú chân, anh chất mấy cành cây khô và nhóm một đống lửa cho những người bạn đường có thể sưởi ấm bởi lúc này họ đang ở trên độ cao gần năm ngàn foot so với mặt biển và khí trời rét buốt căm căm. Buộc ngựa xong và chào từ biệt Lucy, anh khoác súng lên vai rồi lên đường tìm kiếm những gì cơ may có thể mang tới. Ngoái lại, anh thấy ông già và cô gái lom khom bên đống lửa cháy rực trong khi ba con ngựa, lừa đứng bất động phía sau. Rồi những tảng đá chắn đường che khuất họ khỏi tầm mắt.

Anh lội bộ chừng mấy dặm, qua hết hẻm núi này đến hẻm núi khác mà không săn được gì, mặc dù những dấu vết còn lưu lại trên vỏ cây và nhiều biểu hiện khác đã khiến anh phán đoán là có nhiều gấu ở quanh đây. Cuối cùng, sau hai hay ba giờ tìm kiếm bất thành, anh đã tính đến chuyện quay về trong tuyệt vọng thì ngước mắt nhìn lên anh phát hiện một cảnh tượng khiến lòng mừng khấp khởi. Trên rìa một mỏm núi chìa ra, phía trên đầu anh chừng ba hay bốn trăm foot là một con thú trông giống cừu nhưng lại có cặp sừng vĩ đại. Con cừu núi sừng lớn này có lẽ đang canh gác bảo vệ cho một đàn cừu nào đó mà Hope không nhìn thấy, nhưng may thay nó đang đi theo hướng ngược lại và không nhận ra người thợ săn này. Nằm sấp người xuống, anh tì khẩu súng trên một tảng đá, nhắm thật kĩ trước khi bóp cò. Con thú giật bắn lên không, loạng choạng một chút bên rìa vách núi rồi đâm sầm xuống thung lũng phía dưới.

Con thú quá lớn không thể khiêng đi nên người thợ săn đành cắt một tảng thịt hông và một phần mạn sườn. Vác chiến lợi phẩm này trên vai, anh hấp tấp quay về vì màn đêm đang buông xuống. Nhưng vừa lên đường là anh nhận ra ngay nỗi gian nan đang chờ chực. Trong lúc hăm hở, anh đã lang thang quá xa những hẻm núi quen thuộc của mình và bây giờ không dễ gì tìm lại con đường cũ. Cái thung lũng bao quanh anh bị phân cắt chằng chịt thành nhiều hẻm núi, trông giống hệt nhau nên không thể nào phân biệt tách bạch. Anh đi theo một hẻm núi chừng hơn một dặm thì gặp một con suối lớn trong núi mà anh chắc chắn chưa bao giờ nhìn thấy. Tin là mình đã lầm đường, anh thử theo hướng khác nhưng kết cục vẫn như trước. Đêm đang xuống nhanh, và cuối cùng khi anh nhận ra mình đang ở trong một khe đá quen thuộc thì trời đã gần tối đen. Ngay cả lúc này cũng khó mà tìm cho đúng hướng đi bởi trăng chưa mọc và những vách núi cao hai bên càng làm bốn bề tăm tối cùng cực. Vác nặng oằn vai, kiệt quệ vì lao lực, anh lảo đảo đi tiếp, lòng tự khích lệ mình với ý nghĩ rằng cứ mỗi bước chân anh lại gần Lucy thêm một chút, và số thịt cừu anh đang mang trên vai sẽ bảo đảm cho họ no đủ suốt chặng hành trình còn lại.

Lúc này anh đã tới ngay miệng hẻm núi nơi anh đã từ biệt cha con Ferrier. Thậm chí trong bóng tối anh cũng có thể nhận ra đường nét của những vách đá bao quanh. Anh nghĩ chắc họ phải chờ đợi lo lắng lắm vì anh đã vắng mặt gần năm giờ rồi. Lòng hoan hỉ, anh đưa tay lên miệng hú một tiếng lớn vang dội cả khe núi để báo hiệu anh sắp tới. Anh dừng bước và lắng nghe hồi đáp. Không có tiếng trả lời nào. Chỉ có tiếng hú của anh dội vang qua những hẻm núi tĩnh mịch thê lương và đưa đến tai anh vô vàn hồi vọng. Anh hú lên lần nữa, thậm chí to hơn trước, và cũng như trước không một tiếng thì thầm nào vẳng ra từ phía những người bạn mà anh đã từ biệt chưa bao lâu. Một nỗi sợ hãi không tên mơ hồ xâm chiếm anh, và anh lao như điên loạn về phía trước, vứt bỏ luôn cả số thực phẩm quý báu trong cơn lo lắng.

Khi rẽ qua góc núi ấy anh thấy rõ toàn bộ vị trí nơi anh đã nhóm lửa. Một mớ củi tàn vẫn còn âm ỉ cháy ở đó, nhưng rõ ràng đã không được châm thêm lửa từ khi anh ra đi. Ngự trị bốn bề vẫn là sự im lặng chết chóc ấy. Nỗi lo sợ đã hoàn toàn biến thành điều xác tín, anh lao tới. Không có một sinh vật nào gần kề đống lửa tàn: Ngựa, lừa, ông già, cô gái. Tất cả đều biến mất. Rõ ràng là một tai họa kinh khủng bất ngờ đã xảy ra khi anh vắng mặt - một tai họa giáng xuống không chừa một ai nhưng không hề để lại dấu vết nào.

Bàng hoàng sửng sốt trước tai họa này, Jefferson Hope thấy đầu óc quay cuồng, anh phải tì người lên khẩu súng trường cho khỏi té ngã. Tuy nhiên, với bản chất là một người hành động, anh nhanh chóng vượt qua sự bất lực nhất thời của mình. Tóm lấy một thanh củi cháy dở trong đống lửa âm ỉ, anh thổi cho cháy bùng lên và bắt đầu kiểm tra chỗ đóng trại nhỏ bé này. Mặt đất bị giẫm nát bởi dấu móng ngựa cho thấy một đám đông kị mã đã đuổi kịp những người đào tẩu, và hướng di chuyển của dấu ngựa chứng tỏ toán người này sau đó đã quay lại Salt Lake City. Chúng có mang theo hai người bạn đồng hành của anh không? Jefferson Hope gần như đã tự thuyết phục mình tin là thế thì ánh mắt anh tình cờ nhìn thấy một vật khiến mọi thần kinh trong cơ thể đều chộn rộn. Kế bên chỗ cắm trại là một đống đất đỏ thâm thấp, chắc chắn là trước đó không hề tồn tại. Không thể nào lầm lẫn được, đó là một nấm mồ mới đắp. Khi chàng thợ săn đến gần, anh nhận ra một chiếc cọc đã được cắm trên gò đất, ngay vết chẻ đôi trên đầu cọc có cắm một mảnh giấy. Những dòng chữ ghi trên giấy vắn tắt nhưng cụ thể:

JOHN FERRIER,

NGUYÊN CƯ DÂN SALT LAKE CITY

Tạ thế ngày 4 tháng 8 năm 1860

Ông già cường tráng ấy, người mà anh vừa mới từ biệt chưa bao lâu, giờ đã lìa trần và đây chính là mộ chí của ông. Jefferson Hope cuống cuồng nhìn quanh tìm kiếm nấm mồ thứ hai nhưng không hề thấy dấu vết nào. Lucy đã bị những kẻ truy đuổi khủng khiếp kia bắt về để quy phục định mệnh nguyên thủy của cô, trở thành một hầu thiếp trong hậu cung của con trai huynh trưởng nào đó. Khi chàng trai đã biết chắc số phận của cô gái và sự bất lực của mình thì chính anh cũng muốn nằm chung với ông già trong chỗ yên nghỉ câm lặng cuối cùng này. Nhưng một lần nữa, ý thức chủ động của anh lại giũ bỏ hết những ý nghĩ đớn hèn nảy sinh từ tuyệt vọng. Nếu như anh không còn gì để mất thì ít nhất anh có thể dành cả đời mình để rửa hận. Ngoài lòng nhẫn nại và kiên trì, Jefferson Hope còn sở hữu sức mạnh của lòng căm thù khôn nguôi, có lẽ anh đã học được từ những người da đỏ anh từng sống chung.

Đứng bên đống lửa tan hoang, anh nhận ra rằng điều duy nhất giúp anh nguôi ngoai nỗi đau này là chính tay anh phải bắt kẻ thù trả hết, trả sạch oán cừu. Anh quyết dốc hết dũng khí và sinh lực cho mục đích này. Mặt tái nhợt đầy sát khí, anh đi ngược lại chỗ đã vứt bỏ thực phẩm rồi quay về khơi bừng đống lửa tàn, nấu chín thành thức ăn đủ cho vài ngày đường. Anh gói hết thức ăn vào một bọc, và dù kiệt quệ đến thế, anh vẫn buộc mình phải vượt núi ngược về đường cũ theo dấu lũ âm binh Phục Hận Thiên Thần.

Suốt năm ngày ròng rã anh lê bước mỏi mòn qua các hẻm núi mà trước kia anh đã cưỡi ngựa qua. Đêm xuống anh nằm vật giữa các tảng đá, tranh thủ ngủ vài giờ cho lại sức nhưng ngày chưa kịp rạng thì anh đã lên đường từ lâu. Đến ngày thứ sáu, anh tới hẻm núi Eagle, nơi bắt đầu cuộc đào tẩu bất hạnh của anh và cha con Ferrier. Từ đây anh có thể nhìn xuống xứ sở của các Thánh hữu. Cạn kiệt sức lực, anh tì người lên khẩu súng trường và vung bàn tay gân guốc một cách hung bạo về phía thành phố im lìm trải rộng dưới chân anh. Trong lúc quan sát, anh nhận thấy ở một số đường phố chính có treo cờ xí, và những dấu hiệu hội hè khác. Anh vẫn còn đang phán đoán xem những dấu hiệu đó có ý nghĩa gì thì nghe tiếng vó câu lọc cọc rồi thấy một người cưỡi ngựa đi về hướng mình. Khi kẻ đó đến gần, anh nhận ra đó là một giáo dân Mormon tên là Cowper, người mà anh đã đôi ba lần giúp đỡ công việc. Anh đến bắt chuyện khi Cowper đi tới, mục đích là tìm hiểu xem số phận Lucy Ferrier giờ ra sao.

"Tôi là Jefferson Hope đây", anh nói. "Ông nhớ tôi chứ?"

Người Mormon kia nhìn anh với vẻ kinh ngạc không che giấu - thực tình khó mà nhận ra kẻ lang thang rách rưới lôi thôi, mặt mày trắng nhợt như thây ma, đôi mắt hung tợn dữ dằn này lại chính là chàng thợ săn lịch lãm dạo nào. Nhưng rốt cuộc, sau khi đã nhận ra người quen thì nỗi kinh ngạc của Cowper lại biến thành kinh hãi.

"Anh đúng là điên mới mò về đây", ông ta thốt lên. "Người ta mà thấy tôi trò chuyện với anh cũng đủ mất mạng tôi rồi. Tứ Trụ Thánh Hội đã có lệnh trừ khử anh vì tội giúp nhà Ferrier chạy trốn đó."

"Tôi không sợ họ hay lệnh của họ", Hope khẩn khoản nói. "Nhất định là ông phải biết chút ít chuyện này, ông Cowper. Tôi xin ông hãy vì những gì ông yêu mến mà trả lời giúp tôi đôi điều. Chúng ta lâu nay vẫn luôn là bằng hữu. Hãy vì Chúa mà trả lời tôi đi."

"Mà chuyện gì mới được?" Người Mormon kia bồn chồn hỏi. "Nói mau đi. Ở đây tai vách mạch rừng."

"Cô Lucy Ferrier giờ ra sao rồi?"

"Hôm qua cô ta đã thành hôn cùng con trai nhà Drebber... Đứng vững nào, anh bạn, đứng cho vững, anh không còn chút sinh lực nào!"

"Đừng bận tâm", Hope nói không ra hơi. Mặt anh trắng bệch đến tận môi và người anh cứ trượt xuống tảng đá mà anh đang tựa lưng. "Thành hôn, ông nói sao?"

"Đám cưới hôm qua, vì thế mà có mấy lá cờ cắm trên Thiên Hôn Đường. Có cãi cọ qua lại giữa hai cậu nhà Drebber và nhà Stangerson về chuyên ai được quyền lấy cô gái. Cả hai đều có mặt trong toán người truy đuổi cha con Ferrier và chính Stangerson đã bắn chết ông già, chuyện này có vẻ như cho cậu ta quyền ưu tiên hơn; nhưng khi tranh cãi trước Thánh hội thì phe cánh nhà Drebber đông hơn nên Đấng Tiên Tri gả cô gái cho con nhà Drebber. Nhưng chẳng ai giữ được cô gái lâu đâu, vì hôm qua tôi đã thấy cái chết hiển hiện trên gương mặt cô ta. Cô ta trông như một hồn ma chứ chẳng phải một phụ nữ... Ủa, anh lại đi à?"

"Ừ, tôi đi đây", Jefferson Hope nói, anh đã gượng đứng lên. Gương mặt anh cứ như được đẽo ra từ một khối cẩm thạch, nét mặt lạnh lùng chai đá trong khi đôi mắt đằng đằng sát khí.

"Thế anh đi đâu?"

"Đừng bận tâm." Anh đáp, rồi quàng súng lên vai, bước nhanh xuống khe núi và đi sâu vào vùng thâm sơn cùng cốc nơi thú dữ thường lai vãng. Không có con thú nào tàn bạo và nguy hiểm bằng anh.

Người Mormon kia tiên đoán quả không sai mảy may. Dù là do cái chết kinh hoàng của người cha hay là do tác động của cuộc hôn nhân cưỡng bức đáng ghét này, nàng Lucy tội nghiệp không bao giờ chịu đựng được nữa mà cứ héo hon rồi chết trong vòng một tháng. Người chồng say sưa bí tỉ của cô, kẻ lấy cô chủ yếu chỉ vì tài sản của ông John Ferrier, không bày tỏ chút tiếc thương nào trước mất mát này; nhưng những bà vợ khác của hắn than khóc cho cô gái, và theo tập tục Mormon họ thức trắng đêm bên xác cô trước ngày mai táng. Họ đang túm tụm quanh cỗ quan tài khi trời chưa rạng sáng thì trước sự kinh ngạc và sợ hãi khôn tả, cánh cửa bật mở toang, và một người đàn ông dày dạn phong sương, mặt mày man rợ, áo quần tả tơi, sải bước vào phòng. Không buồn nhìn hay nói một lời với đám phụ nữ đang co rúm, anh ta đi thẳng tới cái hình thù câm nín màu trắng đã từng chứa đựng linh hồn trinh bạch của Lucy Ferrier. Nghiêng người trên quan tài, anh kề đôi môi vào vầng trán lạnh của cô gái, và rồi chộp lấy bàn tay cô, tháo chiếc nhẫn cưới trên ngón tay người chết ra. "Không được chôn cô ấy cùng chiếc nhẫn này!" Anh gầm lên đầy hung tợn và chưa ai kịp báo động thì anh đã nhảy vọt xuống thang lẩn mất dạng. Sự việc quá nhanh và quá lạ lùng tới mức chính những người thức canh cũng khó mà tin được hay thuyết phục kẻ khác cùng tin, nếu như không có sự thật rành rành là chiếc nhẫn vàng, cho biết cô đã từng là cô dâu, đã biến mất.

Suốt mấy tháng trời, Jefferson Hope cứ nấn ná trong vùng núi, sống một đời hoang dã lạ thường, trong lòng nung nấu khát vọng báo thù mãnh liệt vẫn không ngừng ám ảnh. Trong thành phố người ta đồn đãi nhiều về chuyện bắt gặp một bóng người huyền bí rình mò quanh ngoại ô, và lảng vảng ở những hẻm núi quạnh hiu. Có lần một viên đạn bay vèo qua cửa sổ nhà Stangerson và cắm bẹp gí trên tường chỉ cách hắn ta trong gang tấc. Một lần khác, khi Drebber vừa đi ngang dưới một vách núi thì một tảng đá khổng lồ rơi ầm xuống, và tên này chỉ thoát chết nhờ kịp thời lao mình nằm sấp mặt xuống. Hai gã Mormon chẳng bao lâu đã phát hiện ra người chủ mưu những lần mưu toan lấy mạng đó và nhiều lần đưa các toán thám sát vào vùng núi với hi vọng bắt hay giết được cừu địch mà chẳng bao giờ thành công. Sau đó họ buộc phải đề phòng bằng cách không bao giờ ra ngoài một mình hay sau khi trời tối, và cho người canh gác quanh nhà. Được một thời gian, họ bắt đầu lơi lỏng các biện pháp này vì không hề thấy hay nghe gì về địch thủ của mình nữa, và hi vọng thời gian sẽ làm nguôi ngoai lòng hận thù của anh ta.

Hận thù không nguôi ngoai mà thậm chí còn tăng theo thời gian. Tâm trí của người thợ săn kia quyết không suy suyển, và ham muốn báo thù tột bực đã chiếm hữu anh hoàn toàn tới mức không còn chỗ cho cảm xúc nào khác. Tuy nhiên, trên hết, anh vẫn là người có óc thực tế. Anh nhanh chóng nhận ra rằng ngay cả thể chất sắt đá của mình cũng không thể kham nổi sự căng thẳng thường trực mà anh bắt nó phải chịu. Cảnh thiếu ăn thiếu mặc đang bào mòn sức lực của anh. Nếu anh chết như một con chó giữa vùng núi này thì cuộc báo thù của anh sẽ ra sao? Và nếu anh cứ cố chấp thì chắc chắn cái chết sẽ gọi anh trước. Anh thấy mình phải chơi theo luật của kẻ thù, cho nên anh miễn cưỡng trở lại vùng mỏ Nevada, ở đó phục hồi sức khỏe và gom góp đủ tiền để đeo đuổi mục tiêu mà không phải lo thiếu thốn.

Ý định của anh là vắng mặt cùng lắm chỉ một năm thôi nhưng bao nhiêu tình thế không lường trước đã giữ Hope ở vùng mỏ tới gần năm năm. Thế nhưng hết thời gian đó, kí ức về những mất mát của mình và lòng khao khát báo thù vẫn mãnh liệt như cái đêm không thể quên khi anh đứng bên nấm mồ John Ferrier. Hóa trang và lấy một cái tên giả, anh trở về Salt Lake City, bất kể mạng sống của mình ra sao, miễn anh giành được cái mà anh quen gọi là công lí. Về đến nơi thì tin dữ đang chờ anh. Vài tháng trước đó đã có chuyện li khai giữa những người được Chúa chọn, một số thành viên trẻ của Giáo hội này đã nổi loạn chống lại uy quyền của các huynh trưởng và kết quả là một số kẻ bất mãn đã bỏ đạo, rời khỏi Utah và trở thành dân dị giáo. Trong số này có Drebber và Stangerson, và chẳng ai biết họ đi đâu. Người ta đồn rằng Drebber đã xoay xở chuyển được phần lớn tài sản thành tiền và ra đi như một kẻ giàu có, trong khi người đồng hành với hắn, Stangerson, lại khá bần cùng. Nhưng tuyệt nhiên không có manh mối gì về nơi ở của hai người này.

Cho dù hận thù cách mấy thì nhiều người hẳn phải từ bỏ ý định rửa hờn khi gặp phải những khó khăn như vậy, nhưng Jefferson Hope lại không nao núng một phút giây nào. Với vốn liếng nhỏ đủ sống sẵn có, được bổ khuyết bằng những công ăn việc làm ngẫu nhiên, anh đi từ thành phố này sang thành phố khác trên khắp nước Mỹ truy lùng kẻ thù. Năm nối tiếp năm, mái tóc đen đã thành hoa râm mà Hope vẫn cứ lang thang, một con chó săn mang hình người, cả tâm trí chỉ nhắm vào một mục tiêu duy nhất mà ông cống hiến cả cuộc đời. Lòng kiên trì của ông rốt cuộc cũng được đền đáp. Chỉ nhìn thoáng qua một gương mặt trong khung cửa sổ, cũng đủ cho ông biết thành phố Cleveland ở Ohio đang chứa chấp những kẻ mà ông đang săn đuổi, ông quay về nhà trọ tồi tàn của mình với một kế hoạch báo thù sắp đặt sẵn. Nhưng cũng tình cờ là Drebber, đứng trong cửa sổ nhìn ra, cũng nhận ra kẻ lang thang ngoài đường kia và thấy được ánh mắt hừng hực ý định giết người của đối phương. Cùng với Stangerson giờ trở thành thư kí riêng của hắn, Drebber hấp tấp tìm gặp viên thẩm phán trị an và trình báo là họ đang gặp mối nguy liên quan đến tính mạng vì lòng ghen tuông và thù ghét của một kình địch cũ. Chiều hôm đó Jefferson Hope bị tống giam và do không tìm được người bảo lãnh, phải ngồi tù tới mấy tuần lễ. Rốt cuộc khi được trả tự do, Hope chỉ thấy nhà của Drebber bỏ trống, hắn ta và tên thư kí đã sang Âu châu.

Một lần nữa, người báo thù bị ngăn chặn, và một lần nữa lòng căm hận tích tụ thúc giục ông tiếp tục truy lùng. Thế nhưng tiền bạc lại thiếu hụt và ông phải mất một thời gian làm lụng trở lại, tiết kiệm từng đồng cho cuộc hành trình sắp đến. Cuối cùng, khi đã đủ tiền để sinh sống, ông sang Âu châu rồi vừa theo dấu kẻ thù từ thành phố này sang thành phố khác, vừa kiếm tiền trang trải bằng mọi công việc tay chân, nhưng chẳng bao giờ đuổi kịp hai kẻ đào tẩu kia. Khi ông tới St. Petersburg thì họ đã lên đường sang Paris và khi ông theo tới nơi thì được biết họ vừa khởi hành đi Copenhagen. Đến thủ đô Đan Mạch, một lần nữa ông lại chậm mất vài ngày, bởi họ đã tiếp tục hành trình sang London, nơi sau cùng ông cũng truy tìm được hai kẻ cựu thù.

Về những gì xảy ra ở đây, tốt nhất là chúng tôi trích dẫn lời tường trình của chính người thợ săn già đó. Tường trình này được ghi lại đầy đủ trong nhật kí của bác sĩ Watson mà chúng tôi đã sử dụng từ trước.

13. Đăng tiếp hồi kí của bác sĩ John Watson

Cuộc chống cự dữ dội của phạm nhân này hình như không hàm chứa ác cảm nào dành cho chúng tôi, bởi vì khi thấy mình bất lực, ông ta mỉm cười một cách nhã nhặn và bày tỏ hi vọng là đã không gây thương tích cho ai trong cuộc ẩu đả.

"Chắc là anh sẽ đưa tôi đến đồn cảnh sát", ông ta nói với Sherlock Holmes. "Xe ngựa của tôi có sẵn dưới nhà đó. Nếu anh đừng trói chân tôi thì tôi sẽ tự đi xuống. Tôi bây giờ nặng nề khó khiêng lắm chứ không nhẹ cân như ngày xưa đâu."

Gregson và Lestrade nhìn nhau như thể đây là một lời đề nghị trơ tráo, nhưng Holmes lập tức tin lời phạm nhân và tháo bỏ chiếc khăn tắm mà chúng tôi đã dùng để buộc hai cổ chân người này. Ông ta đứng dậy và co duỗi chân cẳng cứ như muốn tự bảo đảm rằng không còn gì trói buộc nữa. Tôi còn nhớ khi quan sát ông ta, tôi đã nghĩ thầm trong bụng rằng hiếm khi gặp được ai có vóc dáng lực lưỡng hơn người này, và gương mặt sạm nắng ngăm đen ấy toát ra vẻ quả quyết và một nghị lực cũng khủng khiếp như sức mạnh thể chất vậy.

"Nếu chức vụ cảnh sát trưởng còn trống thì tôi nghĩ là phải dành cho anh đấy", ông ta vừa nói vừa nhìn anh bạn cùng trọ với tôi bằng ánh mắt thán phục không che giấu. "Cái cách anh lần theo dấu vết của tôi quả là cẩn trọng."

"Các ông đi cùng tôi thì tốt hơn", Holmes nói với hai viên thanh tra.

"Tôi có thể đánh xe chở các ông", Lestrade nói

"Tốt quá! Vậy Gregson ngồi trong xe với tôi. Cả anh nữa, bác sĩ, anh đã quan tâm đến vụ này thì cũng nên đi theo chúng tôi luôn."

Tôi hứng thú tán thành, rồi tất cả cùng đi xuống. Phạm nhân của chúng tôi không hề có ý chạy trốn mà lại bình thản bước vào cỗ xe vốn là của y, rồi chúng tôi cùng lên theo. Lestrade trèo lên ngồi trên ghế xà ích bên ngoài, vung roi quất ngựa, và trong chớp nhoáng đã đưa chúng tôi đến đích. Chúng tôi được đưa vào một phòng nhỏ, ở đó một viên sĩ quan cảnh sát ghi vào sổ danh tính của cả phạm nhân lẫn những người mà y bị buộc tội đã sát hại. Viên chức này là một gã mặt trắng lãnh đạm, cứ thi hành bổn phận một cách máy móc và ngu độn.

"Phạm nhân sẽ phải hầu tòa nội trong tuần này", gã ta nói. "Còn trong lúc này, ông Jefferson Hope, ông có muốn nói điều gì không? Tôi phải cảnh báo trước là mọi lời ông nói sẽ được ghi lại và có thể dùng làm chứng cứ chống lại ông."

"Tôi có nhiều chuyện muốn nói lắm", phạm nhân của chúng tôi từ tốn đáp. "Tôi muốn kể hết mọi chuyện với quý ông."

"Để đến khi xét xử hãy nói không phải tốt hơn sao ông?" Viên thanh tra hỏi.

"Có thể tôi sẽ không bao giờ ra tòa", Jefferson Hope nói. "Quý ông không cần phải sửng sốt vậy. Tôi không có ý định tự sát đâu. Ông là bác sĩ phải không?" Ông ta hướng đôi mắt đen hung tợn về phía tôi khi hỏi câu sau cùng.

"Đúng thế!" Tôi đáp.

"Vậy thì xin ông đặt tay lên đây", Hope vừa nói vừa cười, đưa hai cổ tay bị còng chỉ về phía lồng ngực của ông ta.

Tôi làm theo và lập tức nhận ra một nhịp đập chấn động lạ thường bên trong. Lồng ngực ông ta dường như đang rung chuyển chẳng khác gì một tòa nhà ọp ẹp rung lên khi có một cỗ máy mạnh nào đó đang chạy. Trong căn phòng yên lặng này tôi có thể nghe được một âm thanh rì rầm mơ hồ phát ra cũng ngay từ đó.

"Ôi", tôi kêu lên, "ông bị chứng phình động mạch chủ!"

"Người ta bảo thế đó", ông ta điềm tĩnh nói. "Tuần trước tôi đã đi bác sĩ và ông ấy bảo tôi rằng chỉ vài ngày nữa thôi là nó vỡ. Chứng này mỗi năm mỗi tồi tệ hơn. Tôi bị như thế là do những ngày đói rách trong vùng núi Salt Lake. Tôi đã làm xong công việc của mình rồi và tôi không màng đến chuyện ra đi lúc nào nữa, nhưng tôi muốn để lại một lời giải thích về chuyện này sau khi chết. Tôi không muốn mọi người nhớ đến tôi như là nhớ một tên giết người tầm thường."

Viên sĩ quan và hai thanh tra hấp tấp bàn luận nhanh về việc có nên cho phép ông ta kể lại câu chuyện không. Viên sĩ quan hỏi tôi, "Thưa bác sĩ, theo ông thì có nguy hiểm cấp bách gì không?"

"Hẳn là có rồi", tôi đáp.

"Trong trường hợp này thì rõ ràng bổn phận của chúng tôi, vì lợi ích công lí, là phải ghi lời khai của ông ấy", viên sĩ quan nói rồi quay sang Hope. "Ông được tự do giải trình nhưng tôi báo trước một lần nữa là những gì ông nói ra đều được ghi lại."

"Xin cho phép tôi ngồi xuống", phạm nhân vừa nói vừa làm. "Chứng phình mạch khiến tôi mau mệt, và cuộc ẩu đả nửa giờ trước đây hẳn là chẳng giúp bệnh khá hơn. Tôi sắp chết tới nơi rồi nên tôi không đời nào nói dối các ông. Mọi lời tôi nói ra hoàn toàn là sự thật, còn các ông sử dụng lời tôi nói như thế nào không còn quan trọng đối với tôi nữa."

Dứt câu nói, Jefferson Hope ngả lưng ra ghế và bắt đầu phần tường thuật lạ thường tiếp theo đây. Ông ta nói một cách bình tĩnh và đâu vào đấy, cứ như những biến cố mà ông kể lại là chuyện bình thường. Tôi cam đoan câu chuyện ghi lại là chính xác vì tôi đã xem được sổ tay của Lestrade, trong đó từng lời của phạm nhân đều được ghi chép lại đúng như đã nói. Ông ta kể:

"Nguyên do tôi căm ghét những kẻ đó không phải là chuyện quan trọng đối với các ông, chỉ cần biết là chúng có tội với cái chết của hai người, người cha và cô con gái, và do đó chúng phải trả giá bằng chính mạng sống của chúng. Sau một khoảng thời gian trôi qua kể từ khi chúng gây tội ác, tôi không có cách gì buộc tội chúng ở bất kì tòa án nào. Tuy nhiên tôi biết chúng có tội và tôi nhất định mình sẽ vừa là thẩm phán, vừa là bồi thẩm và kiêm luôn đao phủ. Các ông cũng sẽ làm thế nếu như các ông ở vào vị trí của tôi, nếu như các ông còn đáng gọi là trang nam tử. Cô gái mà tôi nói ở trên hai mươi năm trước đã sắp thành hôn với tôi. Cô ấy bị ép phải lấy chính tên Drebber đó, và vì thế mà cô tan nát cõi lòng. Tôi đã lấy cái nhẫn cưới từ ngón tay cô khi cô đã chết và tôi thề rằng đôi mắt hấp hối của thằng Drebber phải nhìn thấy đúng cái nhẫn đó, và những ý nghĩ cuối cùng của hắn là phải nghĩ đến cái tội ác khiến hắn bị trừng phạt. Tôi giữ cái nhẫn ấy bên người, theo đuổi hắn ta và tên thư kí của hắn qua hai lục địa cho đến khi tóm được chúng. Chúng tưởng là sẽ làm cho tôi kiệt sức, nhưng chúng đâu có làm nổi. Nếu ngày mai tôi chết, có thể lắm chứ, thì tôi sẽ chết mà biết công việc của tôi trên cõi đời này đã được làm xong và thực thi rất tốt. Chúng đã bỏ mạng dưới bàn tay tôi. Chẳng còn gì để tôi hi vọng hay mong muốn nữa cả.

Chúng nó giàu, còn tôi nghèo, cho nên tôi theo đuổi chúng đâu có dễ. Khi tới London thì tôi đã gần cạn túi và phải bấu víu vào một việc gì đó kiếm sống. Đánh xe và cưỡi ngựa là chuyện tự nhiên đối với tôi giống như là đi đứng vậy cho nên tôi tới một hãng xe ngựa xin việc và được nhận vào làm ngay. Mỗi tuần tôi nạp cho ông chủ một số tiền nhất định, còn dôi ra bao nhiêu tôi giữ lại cho mình. Hiếm khi được nhiều tiền dôi ra nhưng tôi cũng đắp đổi qua ngày được. Việc khó khăn nhất là phải thông thạo đường sá vì tôi thấy trong mọi thứ mê cung mà người ta từng thiết kế ra, cái thành phố này là lộn xộn nhất. Dù vậy, tôi mang theo bản đồ và một khi xác định được những khách sạn và nhà ga chính thì tôi xoay xở khá tốt.

Phải mất một thời gian tôi mới biết được hai tên nhà giàu kia sống ở đâu; tôi cứ dò hỏi, dò hỏi cho tới khi rốt cuộc tôi cũng bắt gặp chúng. Chúng sống ở một nhà trọ quận Camberwell, mãi phía bên kia sông. Tìm ra chúng rồi thì tôi biết chúng nằm trong quyền sinh sát của tôi. Tôi đã để râu nên không đời nào chúng nhận dạng được tôi. Tôi cứ bám theo chúng và chờ cơ hội. Tôi quyết lần này không để cho chúng trốn thoát được nữa. Nói vậy chứ suýt nữa là chúng trốn mất. Chúng có đi đâu khắp London này tôi đều bám theo bén gót. Có khi tôi đánh xe ngựa đi theo, có khi tôi đi bộ, nhưng theo dõi bằng xe ngựa là tốt nhất vì như thế chúng khó mà lẩn tránh được tôi. Chỉ có sáng sớm hay tối khuya tôi mới đánh xe kiếm tiền cho nên tôi bắt đầu trễ hạn nộp tiền cho ông chủ. Nhưng tôi mặc kệ, miễn sao tôi tóm được chúng nó.

Nhưng chúng rất ranh ma. Chắc hẳn chúng cũng đã nghĩ đến chuyện có thể bị theo dõi, bởi vì chúng không bao giờ ra ngoài một mình, và cũng không đi đâu sau khi trời tối. Suốt hai tuần ngày nào tôi cũng đánh xe theo sau chúng mà không một lần nào thấy chúng tách rời nhau. Thằng Drebber một ngày đã say bét nhè hết nửa ngày, nhưng thằng Stangerson không lúc nào lơ đễnh. Tôi cứ theo chúng hết sáng lại chiều nhưng không sao tìm ra cơ hội; nhưng tôi không nản lòng đâu, vì linh tính cho tôi biết giờ phút quyết định đã gần kề. Tôi chỉ sợ mỗi một điều là cái động mạch trong ngực tôi có thể vỡ ra hơi sớm một chút khiến công việc bất thành.

Cuối cùng, một buổi chiều, khi tôi đang đánh xe qua lại trên con đường mà người ta gọi là khu Torquay Terrace, nơi chúng ở trọ, thì tôi thấy một xe ngựa tới dừng ngay cửa nhà. Liền sau đó hành lí được mang ra rồi một chặp sau Drebber và Stangerson cùng lên xe đi. Tôi quất ngựa chạy nhanh hơn để giữ chúng trong tầm quan sát, trong lòng bồn chồn vì tôi lo chúng đổi chỗ cư ngụ. Tới ga Euston chúng xuống xe, tôi giao cho một thằng nhỏ giữ xe ngựa rồi đi theo chúng vào sân ga. Tôi nghe chúng hỏi thăm chuyến tàu đi Liverpool, nghe người trực ga trả lời là có một chuyến vừa mới đi và phải mấy giờ nữa mới có chuyến khác. Stangerson dường như bực bội vì chuyện này nhưng Drebber coi bộ lại hài lòng. Trong cảnh ồn ào, tôi tới gần sát chúng nó, gần tới mức nghe được từng lời qua lại giữa hai tên đó. Drebber bảo hắn có một việc riêng lặt vặt gì đó cần làm và nếu Stangerson chịu chờ đợi thì hắn sẽ sớm quay lại cùng đi. Tên kia phản đối và nhắc nhở Drebber là cả hai đã nhất quyết không tách rời. Drebber đáp lại rằng đây là chuyện tế nhị nên hắn phải đi một mình. Tôi không nghe được Stangerson nói gì sau đó nhưng nghe Drebber chửi thề toáng lên, nhắc nhở tên kia rằng thân phận hắn chỉ là người hầu ăn lương và không được cả gan ra lệnh cho Drebber. Nghe thế tên thư kí không buồn cãi lại nữa và chỉ thỏa thuận là nếu Drebber bỏ lỡ chuyến tàu sau thì đến khách sạn Halliday mà tìm. Drebber trả lời là sẽ quay lại sân ga trước mười một giờ rồi đi ra khỏi nhà ga.

Rốt cuộc, giây phút mà tôi chờ đợi suốt bấy lâu đã đến. Kẻ thù giờ nằm trong quyền sinh sát của tôi. Chúng có thể bảo vệ lẫn nhau khi đi chung, chứ tách rời ra thì sống chết là do tôi. Tuy nhiên, tôi không ra tay vội vàng mà không cân nhắc. Kế hoạch của tôi đã hoạch định rồi. Muốn trả thù cho thỏa mãn thì kẻ phạm tội phải có thời gian biết rõ ai đã tấn công hắn và tại sao hắn phải chịu sự trừng phạt này. Tôi đã sắp đặt để buộc kẻ mưu hại phải hiểu rằng tội lỗi ngày xưa đã đeo đuổi hắn. Tình cờ là mấy ngày trước đó, một quý ông có hẹn đi xem qua mấy căn nhà ở đường Brixton và đánh rơi chìa khóa của một nhà trong xe tôi. Đến buổi chiều thì chủ nhân báo mất và chìa khóa được trả lại, nhưng trước đó tôi đã lấy khuôn và cho đánh một chìa khóa y hệt. Nhờ vậy tôi có thể tới được ít nhất một địa điểm trong thành phố rộng lớn này mà tin rằng không bị điều gì ngăn trở. Làm sao đưa Drebber đến căn nhà đó lại là bài toán khó mà bây giờ tôi phải giải.

Hắn ta đi bộ dọc theo đường cái rồi đi vào một hay hai quán rượu, ở quán cuối cùng hắn nấn ná trong đó khoảng nửa tiếng. Khi đi ra hắn đã lảo đảo và rõ ràng là say khướt. Phía trước tôi là một cỗ xe ngựa nhỏ và hắn ta gọi xe này. Suốt đoạn đường, tôi đánh xe theo sát tới mức mũi của con ngựa xe tôi chỉ cách lưng người xà ích xe trước có một yard. Chúng tôi cứ lọc cọc băng qua cầu Waterloo và đi hàng dặm đường cho đến khi tôi kinh ngạc nhận ra xe đã quay lai khu Torquay Terrace ngay nơi hắn đã thuê trọ. Tôi không tài nào hiểu nổi hắn ta quay lại đây làm gì, nhưng tôi cứ đi tiếp và dừng xe cách nhà đó chừng trăm yard. Hắn đi vào nhà còn xe ngựa thì đi luôn... Xin ông cho tôi cốc nước. Tôi nói khô cả họng rồi."

Tôi đưa cho Jefferson Hope cốc nước và ông ta uống cạn.

"Dễ chịu rồi đó", ông ta nói. "Chà, tôi chờ đâu chừng mười lăm phút hoặc hơn thì thình lình có tiếng ồn ào giống như trong nhà có người vật lộn. Ngay sau đó cửa chính mở toang và hai người xuất hiện, một người là Drebber, người kia là một thanh niên tôi chưa gặp bao giờ. Anh chàng này nắm cổ áo Drebber và khi tới đầu bậc tam cấp thì anh ta xô Drebber xuống rồi đạp cho một phát văng ra tận giữa đường. 'Đồ đê tiện', anh ta vừa quát tháo vừa vung cây gậy về phía Drebber, 'tao sẽ cho mày một bài học cho chừa cái tật xúc phạm con gái nhà lành!' Anh chàng này nóng giận đến mức tôi cứ tưởng anh ta sẽ vung gậy mà nện Drebber, nhưng thằng vô lại ở dưới đường đã loạng choạng bỏ chạy bán sống bán chết. Hắn chạy thật nhanh đến góc phố rồi thấy xe ngựa của tôi, hắn gọi xe và nhảy tót vào trong. Hắn nói: 'Cho tôi đến khách sạn Halliday.' Khi hắn đã vào trong xe tôi rồi thì lòng tôi mừng rỡ, chẳng còn lo sợ là vào phút cuối cùng này động mạch của tôi có thể sinh chuyện. Tôi cứ từ từ đánh xe đi, trong đầu cân nhắc những gì đáng làm nhất. Tôi có thể đưa hắn ta đi thẳng ra vùng quê và tìm một con đường vắng vẻ nào đó cho hắn hội kiến tôi lần cuối. Tôi gần như đã quyết định như thế thì hắn đã giải quyết vấn đề giúp tôi. Hắn lại lên cơn thèm rượu và ra lệnh cho tôi dừng xe ngoài một quán rượu sang trọng. Hắn vào trong nhưng bảo tôi cứ chờ bên ngoài. Hắn ở đó cho đến giờ đóng cửa, và khi đi ra hắn đã say không còn biết trời trăng gì nữa; tôi biết con mồi giờ đã nằm gọn trong bàn tay mình.

Đừng có nghĩ là tôi định giết hắn ta một cách lạnh lùng thản nhiên. Nếu tôi làm thế thì đó chỉ là công lí cứng nhắc; tôi không chịu như thế. Từ lâu tôi đã quyết định là sẽ cho hắn một cơ may sống sót nếu như hắn muốn tận dụng điều đó. Trong rất nhiều công ăn việc làm tôi đã thử qua ở Hoa Kì trong suốt cuộc đời lang thang của mình, tôi đã từng làm lao công quét dọn phòng thí nghiệm ở Đại học York. Một ngày nọ có một giáo sư giảng giải về các loại độc dược, và ông ấy cho sinh viên xem một thứ hóa chất mà ông gọi là "alkaloid", được ông trích ra từ loại chất độc nào đó thường tẩm vào mũi tên của thổ dân Nam Mỹ; và thứ này cực độc, chỉ cần một lượng chút xíu thôi cũng đủ gây chết tức thì. Tôi phát hiện ra chai chứa chất pha chế này và khi mọi người ra về hết tôi lén lấy một ít độc chất đó. Tôi cũng là người khá giỏi chuyện bào chế nên tôi chế biến chất alkaloid đó thành những viên nhỏ, hòa tan trong nước, và mỗi viên tôi cho vào một chiếc hộp, bỏ chung với một viên giống hệt nhưng không có độc chất. Khi đó tôi đã quyết định rằng khi nào tôi có cơ hội thì sẽ cho kẻ kia chọn lấy một viên trong hộp, còn tôi sẽ nuốt viên còn lại. Chết như thế là chết chắc, chết tươi, và chẳng hề ồn ào như là ăn một phát đạn bắn xuyên chiếc khăn tay bịt nòng súng để hãm thanh. Từ ngày hôm ấy, tôi luôn mang mấy hộp thuốc viên đó trong người, và giờ đã đến lúc tôi đem ra sử dụng.

Lúc đó đã quá 12 giờ, gần 1 giờ rồi, và trời đêm thì vần vũ, hoang vắng, mưa gió đùng đùng. Ngoài trời u ám nhưng trong lòng tôi lại sung sướng, sướng tới mức tôi có thể hét toáng lên chỉ vì đắc chí. Nếu như quý vị có ai đã từng mỏi mòn trông mong hay ao ước điều gì suốt hai mươi năm ròng rã và sau đó bất ngờ thấy điều đó nằm trong tầm tay mình thì quý vị sẽ hiểu được cảm xúc của tôi. Tôi châm một điếu xì gà rồi bập phà cho trấn tĩnh, nhưng hai bàn tay tôi thì run lẩy bẩy còn hai thái dương cứ phập phồng vì phấn khích. Trong lúc đánh xe, tôi có thể nhìn thấy trong bóng tối già John Ferrier và nàng Lucy nhìn tôi, mỉm cười với tôi, rõ ràng như là tôi nhìn thấy các ông trong phòng này. Suốt đường đi, hai cha con cứ ở trước mặt tôi, mỗi người đu một bên hông ngựa, cho đến khi tôi dừng xe trước căn nhà ở đường Brixton.

Không thấy một bóng người hay một âm thanh nào ngoại trừ tiếng mưa rơi rả rích. Nhìn qua cửa xe, tôi thấy tên Drebber đã nằm rúm thành một đống say mèm ngủ tự hồi nào. Tôi nắm cánh tay hắn lay dậy. Tôi nói: 'Tới lúc rời xe rồi!' Hắn nói: 'Ra ngay đây, bác xà ích.'

Tôi đoán hắn tưởng xe đã tới cái khách sạn mà hắn nói tên, nên hắn bước ra mà không nói gì nữa, rồi đi theo tôi vào trong khu vườn. Tôi phải đi kèm bên cạnh để giữ cho hắn khỏi vấp ngã bởi vì hắn vẫn đi không vững, đầu nặng hơn chân. Khi tới cửa chính, tôi mở khóa và dẫn hắn vào phòng ngoài. Tôi thề danh dự với các ông là từ vườn vào nhà, người cha và cô con gái luôn đi trước mặt chúng tôi.

'Tối đen như hũ nút,' hắn ta vừa nói vừa bước thình thịch quanh phòng. 'Sẽ có ánh sáng ngay thôi,' tôi nói và đánh diêm châm lửa vào một cây nến tôi đã mang theo. 'Nghe đây, Enoch Drebber,' tôi quay lại nói tiếp, đưa ngọn nến lên soi mặt mình, 'mày biết tao là ai không?'

Hắn ta nhìn tôi với đôi mắt đờ đẫn của người say một hồi lâu, và rồi tôi nhìn thấy một nỗi kinh hoàng vụt hiện trong đôi mắt đó và cả gương mặt co giật, rõ ràng hắn đã nhận ra tôi. Hắn lảo đảo lùi lại, mặt mày tím tái, và tôi thấy mồ hôi rịn ra trên mày hắn trong khi hai hàm răng hắn đập vào nhau lập cập. Thấy cảnh tượng đó, tôi tựa lưng vào cửa phòng và bật cười, cười rõ to và rõ lâu. Tôi luôn biết rằng cảm giác báo thù sẽ rất tuyệt vời, nhưng không hề hi vọng là cả linh hồn tôi được mãn nguyện trọn vẹn đến thế này.

'Đồ chó!' Tôi lớn tiếng. 'Tao đã săn lùng mày từ Salt Lake City tới St. Petersburg mà mày luôn thoát được. Bây giờ, rốt cuộc mày cũng hết chạy rông, bởi vì hoặc là mày, hoặc là tao, sẽ không bao giờ nhìn thấy mặt trời mọc ngày mai nữa.' Nghe tôi nói hắn càng né xa hơn và qua nét mặt hắn, tôi đoán hắn cho là tôi đã phát điên. Lúc đó quả là tôi điên thực. Mạch máu trên hai thái dương của tôi cứ đập đùng đùng như búa tạ, và tôi nghĩ là tôi lẽ ra đã lên cơn điên hay gì đó nếu như máu không tuôn ra đằng mũi để giải tỏa bớt.

'Bây giờ mày nghĩ gì đến Lucy Ferrier hả?' Tôi vừa quát vừa khóa cửa rồi lắc chìa khóa trước mặt hắn. 'Sự trừng phạt có chậm trễ đó, nhưng rốt cuộc nó cũng đuổi kịp mày.'

Tôi thấy đôi môi hèn nhát của hắn run rẩy khi nghe tôi nói. Hắn sẵn sàng van xin tha mạng nhưng hắn biết thừa điều đó là vô ích. Hắn lắp bắp: 'Ông sẽ giết tôi ư?'

'Làm gì có chuyện giết người,' tôi đáp. 'Ai thèm giết một con chó dại chứ? Thế mày thương xót gì người yêu tội nghiệp của tao khi mày lôi cô ấy khỏi người cha đã bị sát hại và mang về cái hậu cung ô nhục, đáng nguyền rủa của mày?'

'Đâu phải tôi giết cha cô ấy', hắn kêu lên.

'Nhưng chính mày làm cô ấy tan nát cõi lòng,' tôi thét lên, chìa hộp thuốc ra trước mặt hắn. 'Hãy để Chúa trên cao phán xét tao và mày. Chọn một viên rồi nuốt đi. Một viên sống, một viên chết đó. Mày chọn xong tao sẽ lấy viên còn lại. Để xem trên đời này có còn công lí không, hay là tất cả đều bị điều khiển theo luật may rủi.'

Hắn rúm người lại tránh né, mồm tru tréo vừa than khóc vừa cầu nguyện xin tha thứ, nhưng tôi rút dao gí vào cổ họng hắn cho đến khi hắn phải chịu tuân phục. Sau đó tôi nuốt viên thuốc kia rồi hai chúng tôi đứng đối diện nhau im lặng chừng một phút hơn, chờ xem ai sống ai chết. Làm sao mà tôi quên được vẻ mặt chợt thay đổi của hắn khi những đợt nhói đau đầu tiên báo hiệu rằng độc dược đã ngấm vào cơ thể hắn kia chứ? Tôi cười ầm lên khi thấy những biểu hiện đó và tôi chìa chiếc nhẫn cưới của Lucy ngay trước mắt hắn. Chỉ một thoáng thôi vì loại alkaloid này phát tác rất nhanh. Một cơn co thắt đau đớn đã bóp méo cả bộ mặt hắn; hắn vung hai bàn tay ra phía trước, loạng choạng, kêu ằng ặc lên một tiếng, rồi ngã ầm xuống sàn nhà. Tôi lấy chân lật người hắn lại và đặt tay lên ngực hắn. Không còn nhịp tim. Hắn chết ngắc!

Máu từ mũi tôi nãy giờ tuôn ra giàn giụa mà tôi không hề để ý. Tôi không biết điều gì đã xui khiến tôi lấy máu đó viết trên tường. Có lẽ là một ý tưởng ranh mãnh nào đó để đánh lạc hướng cảnh sát chăng, bởi tôi vui sướng và đắc chí quá. Tôi nhớ ra chuyện ở New York, người ta tìm thấy xác một người Đức với chữ RACHE viết bên trên xác chết, và lúc đó các nhật báo bàn tán là vụ này do các hội kín gây ra. Tôi nghĩ chuyện đã đánh đố dân New York ắt cũng đánh đố dân London, thế là tôi nhúng ngón tay vào máu của mình và viết cái chữ đó vào một chỗ thuận tiện trên vách tường. Sau đó tôi đi ra chỗ xe ngựa và không thấy ai chung quanh, và đêm vẫn còn mưa gió lắm. Tôi đánh xe được một đoạn thì sờ trong túi, nơi tôi cất chiếc nhẫn của Lucy, thì thấy chiếc nhẫn đâu mất rồi. Tôi như bị sét đánh ngang tai vì đó là kỉ vật duy nhất của cô ấy mà tôi có được. Nghĩ là mình có lẽ đã đánh rơi khi lúi húi trên xác Drebber, tôi đánh xe quay lại và để xe ở một đường phụ, tôi mạnh dạn đi tới căn nhà đó; tôi sẵn sàng liều mọi chuyện chứ không chịu mất chiếc nhẫn. Tới nơi, tôi chạm trán ngay một viên cảnh binh đang đi ra, và chỉ có cách giả vờ say bét nhè tôi mới xua tan được nghi ngờ của ông ta.

Enoch Drebber đã kết thúc cuộc đời như thế. Vậy những gì tôi phải làm là cũng phải bắt Stangerson chết để trả món nợ cho già John Ferrier. Tôi biết tên này đang ở khách sạn Halliday, và tôi lảng vảng cả ngày ở đó nhưng hắn chẳng hề ló mặt ra. Tôi đoán là hắn nghi ngờ gì đó khi không thấy Drebber xuất hiện. Hắn ranh ma lắm, thằng Stangerson đó, và lúc nào cũng đề phòng. Nếu hắn tưởng cứ ở lì trong phòng là tránh được tôi thì hắn đã lầm to. Tôi liền tìm ra đâu là cửa sổ phòng ngủ của hắn và sáng sớm hôm sau, tôi lợi dụng mấy cái thang nằm sẵn trên con đường nhỏ sau khách sạn đó và bắc thang trèo lên phòng hắn lúc trời chưa hừng đông. Tôi đánh thức hắn dậy báo cho biết rằng giờ đã điểm và hắn phải đền tội cho cái sinh mạng mà hắn đã tước đoạt từ ngày xa xưa. Tôi kể cho hắn nghe cái chết của Drebber và cũng cho hắn chọn lựa những viên thuốc giống như thế. Thay vì chộp lấy cơ may sống sót mà tôi đã cho hắn, tên này nhảy bật ra khỏi giường nhào đến bóp cổ tôi. Để tự vệ, tôi phải đâm vào tim hắn. Đằng nào hắn cũng phải chết, bởi Thượng Đế thể nào cũng khiến cho bàn tay tội lỗi của hắn chọn đúng thứ độc dược.

Tôi còn chút chuyện nữa muốn nói, và thà nói luôn vì tôi sắp kiệt sức rồi. Tôi tiếp tục đánh xe được đâu chừng một ngày nữa, định là cứ làm tiếp công việc này cho đến khi dành dụm đủ tiền quay về Hoa Kì. Tôi đang đứng trong sân nhà thì có một thằng bé rách rưới tới hỏi ở đây có người xà ích nào tên Jefferson Hope không, rồi bảo có một quý ông ở số 221B phố Baker cần gọi xe ngựa. Tôi vòng xe lại, không hề nghi ngờ chuyện gì nguy hiểm, chưa kịp gì hết thì quý ông đây đã siết còng vào tay tôi, màn còng tay nhanh gọn nhất mà tôi từng thấy trong đời. Đó là toàn bộ câu chuyện của tôi đó, thưa quý vị. Các ông có thể cho tôi là kẻ sát nhân, nhưng tôi lại cho rằng tôi cũng là người thi hành công lí như các ông vậy."

Tường thuật của Jefferson Hope thật li kì và phong thái của ông ta cũng đầy ấn tượng tới mức chúng tôi ai cũng ngồi yên nghe mê mải. Ngay cả những thanh tra chuyện nghiệp, những người vốn dửng dưng trước mọi tiểu tiết của tội ác, cũng tỏ ra quan tâm sâu sắc đến câu chuyện của người này. Khi ông ta nói xong, chúng tôi còn ngồi yên hồi lâu trong căn phòng tĩnh lặng, chỉ có tiếng bút chì của Lestrade sột soạt khi viên thanh tra này kết thúc những dòng tốc kí cuối cùng ghi lại lời khai. Rốt cuộc, Sherlock Holmes là người lên tiếng, "Chỉ còn một điểm mà tôi muốn được biết thêm. Ai là người đồng lõa với ông đến lấy cái nhẫn mà tôi đã đăng thông báo?"

Phạm nhân nháy mắt với anh bạn tôi một cách hài hước. "Tôi có thể kể hết những bí mật của tôi", ông ta nói, "nhưng tôi không thể gây rắc rối cho người khác. Tôi đã đọc thông báo của anh và tôi nghĩ đây có thể là gài bẫy mà cũng có thể đúng là chiếc nhẫn tôi cần. Bạn tôi đã tình nguyện tới gặp. Chắc anh cũng thấy là anh ta xử trí rất khéo."

"Không hề hồ nghi điều đó", Holmes vui vẻ đáp.

"Này, thưa quý vị", viên sĩ quan long trọng lên tiếng, "các thủ tục luật pháp phải được tuân thủ. Vào ngày thứ năm, phạm nhân này sẽ phải ra hầu tòa sơ thẩm, và yêu cầu quý vị tham dự. Từ giờ đến đó, tôi sẽ chịu trách nhiệm về người này."

Gã vừa nói vừa rung chuông. Mấy người giám ngục vào đưa Jefferson Hope đi, trong lúc anh bạn tôi và tôi rời đồn cảnh sát và đón xe ngựa trở về phố Baker.

14. Chung cuộc

Tất cả chúng tôi đều đã được báo trước là phải có mặt ở tòa vào thứ năm, nhưng đến thứ năm thì không có cơ hội nào cho chúng tôi ra tòa làm chứng. Một quan tòa cao hơn đã đảm trách vấn đề này và Jefferson Hope đã được triệu tới một pháp đình nơi công lí khắt khe sẽ được ban phát. Ngay đêm sau khi bị bắt giữ, động mạch của ông ta đã bục vỡ và sáng hôm sau người ta thấy ông nằm sõng soài trên sàn nhà giam, trên môi là một nụ cười bình yên như thể trong những giây phút hấp hối ông đã có thể hồi tưởng lại một cuộc đời hữu ích và công việc đã làm tròn.

"Gregson và Lestrade sẽ sướng điên với cái chết này", Holmes nhận xét khi chúng tôi tán gẫu về chuyện này vào tối hôm sau. "Bố cáo hoành tráng của họ bây giờ sẽ đăng đâu đây."

"Tôi thấy họ có liên quan gì đến chuyện bắt được Hope đâu", tôi đáp.

"Chuyện anh làm gì trên đời này chẳng hề quan trọng", anh bạn tôi chua chát nói, "quan trọng ở chỗ anh có thể làm cho người ta tin là anh đã làm được chuyện gì. Không hề chi", anh nói tiếp, giọng đã vui vẻ hơn sau một lúc tạm ngừng. "Tôi không muốn bỏ lỡ vụ điều tra này với bất cứ giá nào. Trong hồi ức của tôi không có vụ nào hay hơn vụ này đâu. Đơn giản vậy chứ lại có nhiều điểm đáng học hỏi nhất."

"Đơn giản!" Tôi thốt lên.

"Chứ còn gì nữa, không thể mô tả cách nào khác hơn", Sherlock Holmes vừa nói vừa cười trước sự ngạc nhiên của tôi. "Bằng chứng của sự đơn giản từ trong bản chất của vụ này là tôi không cần ai giúp sức, chỉ bằng vài suy luận rất thông thường tôi cũng bắt được tội phạm trong vòng ba ngày."

"Điều đó thì đúng", tôi nói.

"Tôi đã giải thích với anh rằng, cái gì lạ lùng thì thường là chỉ dẫn chứ không phải trở ngại. Để giải một bài toán loại này, điều quan trọng nhất là khả năng suy luận ngược. Đó là một tài vặt hữu dụng mà lại rất dễ, nhưng người ta không rèn luyện nhiều. Trong công việc hằng ngày, cách suy luận xuôi đắc dụng hơn nên người ta thường bỏ bê cách suy luận ngược. Cứ năm mươi người suy luận theo kiểu tổng hợp thì chỉ có một người suy luận theo kiểu phân tích mà thôi."

"Thú thật là tôi chưa hiểu rõ ý anh", tôi nói.

"Tôi cũng không nghĩ là anh hiểu đâu. Để xem tôi có thể nói rõ hơn không. Hầu hết mọi người, nếu anh mô tả với họ một chuỗi sự kiện, họ sẽ cho anh biết kết quả sẽ là gì. Họ có thể xâu kết các sự kiện đó trong tâm trí và từ đó suy ra chuyện gì sẽ xảy ra. Tuy nhiên, ít có ai sau khi anh cho họ biết kết quả, lại có thể suy từ trong ý thức sâu kín của chính họ ra được các bước dẫn tới kết quả đó. Khả năng này là điều tôi muốn nói khi bàn về chuyện suy luận ngược, hay suy luận phân tích."

"Tôi hiểu rồi", tôi nói.

"Đấy, vụ này là trường hợp anh được biết kết quả và tự tìm ra mọi thứ khác. Bây giờ để tôi thử trình bày cho anh thấy các bước khác nhau trong cách suy luận của tôi. Từ đầu nhé. Anh biết rồi đó, tôi đi đến căn nhà đó bằng cách đi bộ, đầu óc hoàn toàn không bị ấn tượng nào chi phối. Tất nhiên tôi bắt đầu bằng cách xem xét đường đi, và ở đây, như tôi đã giải thích với anh rồi, tôi thấy rõ các dấu vết của một chiếc xe ngựa, tôi dò hỏi và biết chắc cái xe này phải đến đây trong đêm. Tôi tự biết đó là xe ngựa chở khách chứ không phải xe riêng qua khoảng cách hẹp giữa các bánh xe. Kiểu xe ngựa bốn bánh chở khách bình thường của London hẹp hơn nhiều so với kiểu xe nhà.

Đó là điều đầu tiên thu thập được. Rồi tôi tản bộ từ từ theo lối đi nhỏ trong vườn, tình cờ con đường này có pha đất sét, rất dễ in dấu chân. Chắc chắn đối với anh nó chỉ là một lối đi bùn sình bị giẫm nát nhưng với con mắt nhà nghề của tôi thì mọi dấu vết trên mặt đường đều có ý nghĩa. Không có ngành khoa học điều tra nào hết sức quan trọng nhưng lại ít được chú ý bằng kĩ thuật dò tìm dấu chân. May sao tôi lại luôn hết sức coi trọng chuyện này và nhờ rèn luyện nhiều nên nó trở thành bản năng thứ hai của tôi. Tôi thấy những dấu chân nặng nề của toán cảnh binh, nhưng thấy cả dấu chân của hai người đã băng qua khu vườn này đầu tiên. Rất dễ biết là hai kẻ này đã đến đây trước những người khác bởi vì ở nhiều chỗ, dấu chân của họ đã bị những dấu chân khác giẫm chồng lên trên xóa sạch. Nhờ vậy tôi xác định được mắt xích thứ hai là những vị khách trong đêm có hai người, một người rất cao vì tôi đã đo chiều dài sải chân của y, còn người kia ăn mặc thời thượng, phán đoán theo dấu hằn nhỏ nhắn và thanh nhã do đôi ghệt của người này còn in lại.

Khi vào trong nhà thì suy luận vừa rồi đã được chứng thực. Người mang ghệt sang trọng của tôi nằm ngay trước mặt. Vậy thì người cao lớn kia đã gây án mạng, nếu như đúng là có án mạng. Trên xác chết không hề có vết thương nào nhưng vẻ kinh động còn in trên gương mặt y khiến tôi tin chắc là y đã thấy trước số phận sẽ xảy đến với mình. Những người chết vì bệnh tim, hay bất kì nguyên nhân tự nhiên nào, không bao giờ có cơ hội bộc lộ vẻ kinh động trên nét mặt. Khi ngửi đôi môi xác chết, tôi phát hiện ra một mùi hơi chua chua và tôi đi tới kết luận là y bị ép buộc phải uống độc dược. Một lần nữa, tôi lí giải chuyện ép buộc này căn cứ theo vẻ mặt căm hờn và kinh hãi của y. Bằng phương pháp loại suy, tôi đã đi đến kết quả này, vì không có một giả thuyết nào khác có thể phù hợp với các dữ kiện. Đừng có nghĩ đó là một ý tưởng chưa từng có nhé. Chuyện ép buộc uống độc dược hoàn toàn không phải mới mẻ gì trong lịch sử tội phạm cả. Bất kì chuyên gia độc dược nào cũng có thể nghĩ ngay đến những trường hợp như vụ Dolsky ở Odessa và vụ Leturier ở Montpellier.

Và bây giờ câu hỏi lớn nhất nảy sinh là lí do tại sao. Cướp bóc không phải mục đích của vụ án mạng này vì không hề có gì mất mát. Vậy là chuyện chính trị hay vì một người phụ nữ? Đó là câu hỏi mà tôi phải trả lời. Tôi nghiêng theo giả thuyết sau hơn giả thuyết trước. Những kẻ sát nhân vì chính trị chỉ toàn là muốn làm xong việc cho nhanh rồi biến mất. Vụ án mạng này thì trái lại, được thực hiện một cách có chủ tâm và thủ phạm để lại dấu vết khắp phòng, cho thấy y đã ở trong phòng suốt khoảng thời gian đó. Nhất định đây không phải chuyện chính trị mà là chuyện tư thù mới cần tới một cách trả thù có hệ thống như thế. Khi phát hiện ra những chữ viết trên tường tôi lại càng thấy quan điểm của mình có lí. Chữ viết đó chỉ là hỏa mù, chuyện quá hiển nhiên. Tuy nhiên đến khi tìm thấy chiếc nhẫn thì vấn đề mới được xác định. Rõ ràng kẻ sát nhân đã dùng cái nhẫn để nhắc cho nạn nhân của y nhớ tới một phụ nữ nào đó đã chết hay vắng mặt. Tới lúc đó tôi hỏi Gregson xem khi ông ta đánh điện sang Cleveland có hỏi điều gì đặc biệt về quá khứ của ông Drebber không. Anh còn nhớ đó, câu trả lời của ông ta là không.

Sau đó tôi bắt đầu xem xét kĩ lưỡng căn phòng, và qua đó chứng thực quan điểm của tôi về chiều cao của kẻ sát nhân và cho tôi thêm nhiều chi tiết bổ sung như xì gà Trichinopoly và độ dài móng tay của y. Vì không hề có dấu hiệu giằng co ẩu đả, tôi đi đến kết luận rằng máu chảy trên sàn nhà chính là máu mũi của kẻ giết người tràn ra trong cơn kích động. Tôi có thể thấy dấu máu trùng với dấu chân của y. Hiếm có người nào, trừ phi khí huyết phương cương, lại thình lình phun máu mũi như thế khi quá xúc động, nên tôi đánh bạo đưa ra ý kiến rằng tội phạm có thể là người mặt mày hồng hào và thân thể tráng kiện. Các sự kiện đã chứng tỏ là tôi phán đoán chính xác.

Khi rời khỏi căn nhà đó, tôi tiến hành làm cái việc mà Gregson đã bỏ sót. Tôi đánh điện cho cảnh sát trưởng ở Cleveland, giới hạn những câu hỏi của tôi trong các tình huống liên quan đến chuyện hôn nhân của Enoch Drebber. Câu trả lời có tính quyết định. Họ cho tôi biết Drebber đã xin pháp luật bảo vệ y trước một tình địch cũ tên là Jefferson Hope, và chính người tên Hope đó đang ở Âu châu. Lúc đó tôi biết tôi đã tìm manh mối của vụ bí ẩn này trong tay rồi, những gì còn lại chỉ là tóm cổ tên sát nhân.

Trong đầu tôi đã quả quyết rằng người cùng đi với Drebber vào căn nhà đó cũng chính là người đã đánh xe ngựa. Những dấu vết trên đường cho tôi thấy con ngựa đó đã đi tha thẩn, chuyện này không thể nào xảy ra nếu như trên xe có người điều khiển. Vậy người xà ích ở đâu mới được chứ, nếu như hắn ta không ở trong căn nhà kia? Lại nữa, thật là phi lí nếu như cho rằng một kẻ tỉnh trí lại có thể cố tình gây tội ác khi có kẻ thứ ba chứng kiến, một người chắc chắn sẽ đi tố cáo thủ phạm. Cuối cùng, giả sử một người muốn bám theo người khác khắp London thì còn cách nào hay hơn là trở thành người xà ích chở khách. Bao nhiêu điều suy xét đó đưa tôi đến một kết luận không thể nào khác là phải tìm Jefferson Hope trong giới xà ích của thành phố này. Nếu như y là một người trong giới xà ích thì không có lí do gì mà cho rằng y đã bỏ việc. Trái lại, theo quan điểm của y, mọi thay đổi đột ngột chỉ càng gây thêm chú ý. Jefferson Hope phải tiếp tục làm công việc đánh xe, có lẽ ít nhất là một thời gian nữa. Cũng không có lí do gì mà Jefferson Hope hoạt động dưới một cái tên giả. Tại sao phải thay tên đổi họ ở một xứ sở mà chẳng ai biết gốc tích của mình chứ? Do đó tôi tập hợp đám trẻ thám tử bụi đời của tôi, rồi sai chúng tuần tự đến mọi hãng xe ngựa chở khách ở London dò hỏi cho đến khi săn lùng ra kẻ mà tôi cần tìm. Bọn trẻ đã làm việc giỏi như thế nào và tôi tận dụng điều đó mau lẹ ra sao là chuyện mới đây thôi, làm sao anh quên được. Cái chết của Stangerson là một biến cố hoàn toàn không mong đợi, nhưng dù sao cũng không thể nào ngăn chặn được. Như anh đã rõ, qua biến cố đó tôi mới có được mấy viên thuốc mà từ trước tôi đã ngờ ngợ đoán biết sự tồn tại của chúng. Anh thấy đó, toàn bộ vụ việc là một chuỗi sự kiện hợp lí không hề đứt đoạn hay sai sót."

"Thật tuyệt vời!" Tôi thốt lên. "Công lao của anh phải được mọi người công nhận. Anh nên công bố một tường trình về vụ này. Nếu anh không làm thì để tôi làm cho."

"Anh thích thì cứ việc, bác sĩ ơi", anh đáp. "Xem đây này!" Anh vừa nói tiếp vừa đưa cho tôi một tờ báo. "Đọc chỗ này đi!"

Đó là tờ Echo ngày hôm nay, và chỗ anh chỉ cho tôi xem là một đoạn nói về vụ án đang bàn. Tờ báo đăng:

Công chúng vừa lỡ mất một cơ hội biết chuyện gay cấn vì cái chết đột ngột của người tên Hope, người bị tình nghi đã giết hại ông Enoch Drebber và ông Joseph Stangerson. Giờ đây nhiều chi tiết của vụ án này có lẽ sẽ không bao giờ sáng tỏ, mặc dù theo nguồn tin của chúng tôi từ giới chức trách, tội ác này là kết quả của một mối cừu hận tình ái đã tồn tại từ lâu và có dính dáng đến tình yêu và đạo Mormon. Có vẻ như cả hai nạn nhân, khi còn trai trẻ, đều thuộc Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau, và Hope, phạm nhân đã qua đời, cũng từ Salt Lake City đến. Nếu vụ án này không còn hiệu lực nữa thì ít ra nó cũng minh chứng một cách ấn tượng nhất năng lực của lực lượng thanh tra cảnh sát nước ta, và sẽ là một bài học dành cho tất cả ngoại kiều rằng nếu họ khôn ngoan thì nên giải quyết hận thù ở quê nhà chứ đừng mang đến đất Anh. Điều bí mật được hé lộ là thành tích của vụ bắt giữ tài tình này hoàn toàn thuộc về các viên chức Sở Cảnh sát London danh tiếng, ngài Lestrade và ngài Gregson. Được biết phạm nhân đã bị bắt trong nhà của một người tên Sherlock Holmes, một thám tử nghiệp dư nhưng cũng bộc lộ năng lực nhất định trong lĩnh vực điều tra, và với những người dìu dắt như thế, ông ta có thể hi vọng sẽ dần dà đạt được phần nào tài nghệ của những bậc thầy kia. Mọi người trông chờ một hình thức khen thưởng sẽ được dành cho hai vị sĩ quan để công nhận xứng đáng những cống hiến của họ.

"Ngay từ đầu tôi đã chẳng bảo anh rồi còn gì?" Sherlock Holmes thốt lên và bật cười. "Toàn bộ Cuộc điều tra màu đỏ của chúng ta sẽ đưa đến kết quả là bọn họ được khen thưởng!"

"Không sao đâu", tôi đáp, "tôi đã ghi hết các dữ kiện vào nhật kí của tôi rồi, và công chúng sẽ biết chuyện. Còn tạm thời anh cứ tự bằng lòng vì biết mình đã thành công đi, giống như người La Mã hà tiện này... Populus me sibilat, at mihi plaudo, Ipse domi simul ac nummos contemplar in arca."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro