NHỮNG HÌNH NHÂN NHẢY MÚA(The Dancing Men, 1903)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Holmes ngồi im lìm đã vài giờ rồi, tấm lưng dài, gầy guộc khom xuống bên lọ hóa chất mà anh đang dùng để chế một thứ sản phẩm nặng mùi khác thường. Đầu anh cúi gằm xuống ngực, nhìn từ chỗ tôi, trông anh như một con chim lêu đêu, kì lạ có bộ lông xám xỉn và cái mào đen.

"Watson này", anh bỗng nói, "vậy là anh không định đầu tư vào chứng khoán ở Nam Phi à?"

Tôi giật mình kinh ngạc. Dù đã quen với những khả năng kì lạ của Holmes nhưng việc anh bất ngờ xâm nhập vào những ý nghĩ sâu kín nhất này khiến tôi cảm thấy cực kì khó hiểu.

"Làm sao anh biết chuyện đó?" Tôi hỏi.

Anh xoay người trên chiếc ghế cao, tay cầm lọ ống nghiệm bốc hơi và đôi mắt sâu ánh lên vẻ thích thú.

"Này, Watson, thú thật là anh hết sức bất ngờ đi", anh nói.

"Phải."

"Phải bắt anh kí giấy xác nhận mới được."

"Sao vậy?"

"Vì chỉ năm phút sau anh sẽ nói chuyện đó đơn giản đến khó tin."

"Tôi chắc chắn sẽ không nói vậy đâu."

"Anh thấy đấy, Watson thân mến", anh dựng ống nghiệm lên giá rồi bắt đầu thuyết giáo với phong thái của một giáo sư giảng bài, "thiết lập một chuỗi suy luận cũng không hẳn là khó, mỗi suy luận đều dựa vào cái trước đó và bản thân nó thì đơn giản. Sau đó, ta chỉ cần gạt phăng mọi suy luận ở giữa rồi trình bày cho cử tọa khởi điểm và kết luận là có thể khiến họ phải sửng sốt, dù ấn tượng ấy có thể chỉ là giả tạo. Thế thì, bằng cách quan sát kẽ giữa ngón trỏ và ngón cái trên bàn tay trái của anh, sẽ không khó để xác quyết rằng là anh không định đầu tư khoản vốn ít ỏi vào mấy mỏ vàng."

"Tôi chẳng thấy có mối liên hệ nào cả."

"Rất có thể là không, nhưng tôi có thể chỉ ngay cho anh thấy một mối liên hệ mật thiết. Đây là những mắt xích còn thiếu trong một xâu chuỗi rất đơn giản: 1. Tối qua khi anh từ câu lạc bộ về thì giữa ngón trỏ và ngón cái trên bàn tay trái của anh có dính phấn. 2. Khi chơi bi-a, anh bôi phấn vào đó để giữ vững cây cơ. 3. Anh không bao giờ chơi bi-a trừ phi với Thurston. 4. Bốn tuần trước, anh kể với tôi là Thurston định mua một bất động sản nào đó ở Nam Phi, trong vòng một tháng nữa sẽ hết hạn, và anh muốn hùn vốn với anh ta. 5. Cuốn sổ chi phiếu của anh để trong ngăn kéo của tôi, nhưng anh chưa nói tôi đưa chìa khóa. 6. Anh không dự định đầu tư tiền theo cách này."

"Đơn giản đến khó tin!" Tôi thốt lên.

"Ờ!" Anh nói, hơi dỗi. "Khi giải thích cho anh rồi thì vấn đề nào cũng thành trò con nít cả. Còn đây là một vấn đề chưa giải thích. Để xem anh có hiểu ra không, anh bạn Watson." Anh thảy một tờ giấy lên bàn rồi lại quay về với phép phân tích hóa học.

Tôi nhìn sững những kí hiệu vô nghĩa trên tờ giấy.

"Sao vậy Holmes, đây là hình vẽ của trẻ con mà", tôi kêu lên.

"Ồ, ra là anh nghĩ vậy!"

"Nó còn có thể là gì nữa?"

"Đó là điều ông Hilton Cubitt tại trang viên Ridling Thorpe ở Norfolk rất nóng lòng muốn biết. Câu đố hóc búa nho nhỏ này đến trước theo chuyến thư sớm nhất, còn ông ta sẽ đi tàu đến sau. Có tiếng chuông cửa kìa, Watson. Nếu đó là ông ta thì tôi không ngạc nhiên lắm đâu."

Có tiếng bước chân nặng nề trên cầu thang, lát sau, một quý ông cao lớn, hồng hào, mặt nhẵn nhụi bước vào, cặp mắt trong trẻo và hai má đỏ au của ông cho tôi biết ông sống ở một nơi cách xa màn sương mù phố Baker. Khi bước vào, dường như ông mang theo một làn không khí khỏe khoắn, tươi mát, sảng khoái của vùng duyên hải phía đông. Bắt tay với từng người chúng tôi xong, ông định ngồi xuống thì mắt dừng lại ở tờ giấy có những kí hiệu kì lạ mà tôi vừa xem rồi để xuống bàn.

"Sao, ông Holmes, ông hiểu thứ này thế nào?" Ông ta kêu lên. "Người ta nói ông thích những vụ bí ẩn lạ lùng, và tôi nghĩ ông chẳng thể tìm thấy thứ gì lạ lùng hơn vậy đâu. Tôi gửi tờ giấy đi trước để ông có thời gian tìm hiểu trước khi tôi tới."

"Rõ ràng là một tác phẩm khá kì lạ", Holmes nói. "Thoạt nhìn thì nó có vẻ là một trò đùa tinh nghịch của trẻ con. Nó gồm một số hình người nhỏ xỉu vô nghĩa nhảy múa trên trang giấy. Sao ông lại xem trọng một vật quái gở như vậy?"

"Tôi thì không, ông Holmes ạ. Nhưng vợ tôi thì có. Nó làm cô ấy sợ muốn chết. Cô ấy không nói gì, nhưng tôi đọc thấy trong mắt cô ấy nỗi hoảng hốt. Vì vậy mà tôi muốn tìm hiểu ngọn nguồn chuyện này."

Holmes giơ tờ giấy lên cho ánh nắng soi trọn lên đó. Đó là một trang giấy xé ra từ cuốn sổ tay. Các kí hiệu được vẽ bằng bút chì, theo kiểu thế này:

Holmes xem xét một lát, đoạn cẩn thận gấp nó lại, kẹp vào sổ tay.

"Vụ này hứa hẹn sẽ hết sức lạ thường và thú vị đây", anh nói. "Ông Hilton Cubitt này, trong thư ông đã cho tôi biết đôi ba chi tiết, nhưng tôi sẽ rất biết ơn nếu ông vui lòng kể lại đầu đuôi cho bác sĩ Watson bạn tôi nghe."

"Tôi không giỏi kể chuyện lắm", vị khách của chúng tôi nói, hai bàn tay to khỏe bồn chồn hết nắm chặt rồi lại buông ra. "Xin các ông cứ hỏi bất cứ điều gì tôi nói chưa được rõ. Tôi sẽ bắt đầu từ đám cưới của tôi năm ngoái, nhưng trước hết tôi muốn nói rằng, dù tôi không phải người giàu có gì nhưng dòng họ tôi sống ở Ridling Thorpe cũng năm thế kỉ nay rồi, và ở hạt Norfolk không có gia đình nào danh giá hơn. Năm ngoái, tôi lên London để dự lễ đại xá và ở một nhà trọ tại quảng trường Russell, vì mục sư trong giáo phận chúng tôi là Parker cũng đang lưu lại đó. Ở đó có một cô gái người Mỹ tên là Patrick, Elsie Patrick. Run rủi thế nào chúng tôi lại thành bạn bè, tháng trọ chưa hết thì tôi đã yêu cô ấy say đắm như bao người đàn ông có thể yêu. Chúng tôi lặng lẽ làm lễ cưới tại phòng hộ tịch rồi quay về Norfolk trong tư cách một đôi mới cưới, ông Holmes, ông có thể nghĩ thật điên rồ khi một người đàn ông thuộc một dòng họ lâu đời, tử tế lại cưới vợ kiểu này, mà chẳng hay biết gì về quá khứ hay gia thế của cô ta; nhưng nếu ông gặp và hiểu cô ấy thì ông sẽ thông cảm được.

Elsie rất thắng thắn về điều đó. Tôi dám nói rằng hồi đó cô ấy sẵn lòng đồng ý cho tôi cơ hội dừng mối quan hệ nếu muốn. 'Trong đời em đã có vài mối quan hệ rất khó chịu', cô ấy nói. 'Em ước gì mình quên được hết. Em ước gì không bao giờ phải nhắc đến quá khứ, vì nó làm em đau lòng lắm. Hilton, nếu anh cưới em, nghĩa là anh cưới một người đàn bà không có gì phải hổ thẹn về bản thân; nhưng anh sẽ phải tin lời em nói, và đừng bắt em nói gì về tất cả những chuyện xảy ra trước khi em thuộc về anh. Nếu những điều kiện này quá khó thì hãy quay về Norfolk, cứ bỏ em lại lẻ loi như khi anh gặp em.' Mãi đến hôm trước ngày cưới, cô ấy mới nói với tôi những lời này. Tôi nói rằng tôi bằng lòng chấp nhận điều kiện của cô ấy, và cho đến nay tôi vẫn giữ lời.

Vâng, vợ chồng tôi sống với nhau đến nay đã được một năm, chúng tôi rất hạnh phúc. Nhưng độ một tháng trước, cuối tháng 6, tôi bắt đầu thấy những dấu hiệu bất an. Một ngày nọ, vợ tôi nhận được một lá thư từ Mỹ. Tôi thấy con tem Mỹ. Cô ấy bỗng trắng bệch ra, đọc thư rồi ném vào lò sưởi. Sau đó, cô ấy không nhắc nhở gì đến chuyện đó nên tôi cũng không hỏi han gì, vì đã hứa là làm; nhưng từ lúc ấy, vợ tôi không biết lấy một giờ bình yên. Trên mặt cô ấy lúc nào cũng có vẻ sợ sệt - hình như cô ấy đang chờ đợi và biết trước điều gì. Cô ấy nên tin tưởng tôi mới phải. Cô ấy sẽ thấy rằng tôi là người bạn tốt nhất. Nhưng chừng nào cô ấy còn chưa nói ra thì tôi không thể nói năng gì. Xin ông nhớ kĩ cho, ông Holmes, cô ấy là người chân thật, và dù trong quãng đời quá khứ có rắc rối gì đi nữa thì cũng không phải là lỗi của cô ấy. Tôi chỉ là một điền chủ bình dị xứ Norfolk, nhưng ở Anh quốc này, không người đàn ông nào xem trọng danh dự gia đình hơn tôi. Cô ấy biết rõ điều đó, và cô ấy biết rõ điều đó trước khi cưới tôi. Không bao giờ cô ấy lại đi bôi nhọ nó - tôi tin chắc như vậy.

Giờ thì tôi sẽ nói đến chỗ lạ lùng trong câu chuyện. Khoảng một tuần trước - là thứ ba tuần rồi - tôi bắt gặp nơi bậu cửa sổ hình vẽ một số hình nhân nhảy múa thật vô nghĩa, như trên tờ giấy này. Nó được vẽ bằng phấn. Tôi tưởng thằng bé làm việc trong chuồng ngựa vẽ nhưng thằng nhỏ thề là không biết gì về chuyện đó. Dẫu sao thì mấy hình người ấy đã xuất hiện trong đêm. Tôi cho xóa đi rồi sau đó mới kể cho vợ nghe. Tôi ngạc nhiên khi thấy cô ấy xem nặng chuyện đó và nài nỉ tôi nếu còn xuất hiện hình nào thì cho cô ấy xem. Cả tuần không thấy có hình nào, thế rồi sáng hôm qua, tôi bắt gặp tờ giấy này trên chiếc đồng hồ mặt trời trong vườn. Tôi đưa cho Elsie xem, cô ấy liền ngất xỉu. Từ đó vợ tôi trông cứ như người mộng du, nửa tỉnh nửa mê, và nỗi hoảng sợ luôn lẩn khuất trong đôi mắt. Tới lúc đó, tôi liền viết thư và gửi tờ giấy này cho ông, ông Holmes, Tôi không thể báo cảnh sát chuyện như vậy được, vì họ sẽ cười tôi mất, nhưng ông sẽ bảo cho tôi biết nên làm gì. Tôi không giàu có gì nhưng nếu có mối nguy nào đe dọa vợ mình, tôi sẽ chi đến đồng xu cuối cùng để che chở cô ấy."

Đó là một người cao thượng, sinh ra ở một vùng đất có lịch sử lâu đời của Anh quốc - bình dị, ngay thẳng và nhã nhặn, đôi mắt to xanh, chân thành và gương mặt rộng, đứng đắn. Nét mặt ông ngời lên tình yêu và sự tin tưởng dành cho vợ. Holmes đã lắng nghe câu chuyện vô cùng chăm chú, lúc này anh ngồi trầm ngâm một lúc.

"Ông Cubitt này", cuối cùng anh nói, "ông không nghĩ rằng cách hay nhất là hỏi thẳng vợ ông và yêu cầu bà ấy chia sẽ bí mật với ông sao?"

Hilton Cubitt lắc cái đầu đồ sộ. "Đã hứa là phải giữ lời, ông Holmes. Nếu Elsie muốn cho tôi biết thì cô ấy đã nói rồi. Bằng không, tôi không có quyền ép cô ấy thổ lộ. Nhưng tôi có lí do chính đáng để làm theo cách của mình, và tôi sẽ làm."

"Vậy thì tôi sẽ hết lòng giúp ông. Trước hết, ông có nghe ai nói là thấy có người lạ trong vùng không?"

"Không."

"Tôi đoán chừng nơi đó rất bình lặng. Gương mặt mới nào xuất hiện cũng sẽ gây bàn tán?"

"Quanh đó thì đúng là vậy. Nhưng cách chỗ chúng tôi không xa lắm có dăm quán rượu nhỏ. Mấy chủ trại còn nhận khách trọ."

"Rõ ràng mấy kí hiệu bằng hình vẽ này có ý nghĩa. Nếu như nó chỉ đơn thuần là một hình ngẫu nhiên thì có lẽ chúng tôi không thể nào giải được. Trái lại, nếu nó có hệ thống, tôi tin chắc rằng chúng tôi sẽ tìm ra ngọn nguồn của nó. Nhưng mẫu này ngắn quá, tôi chẳng thể làm gì, còn mấy chi tiết ông đem đến cho tôi thì mơ hồ quá, chúng tôi không có cơ sở để điều tra. Tôi xin khuyên ông về Norfolk, tiếp tục canh chừng cẩn mật, và cứ chép lại y nguyên những hình nhân nhảy múa nếu chúng còn xuất hiện. Hết sức đáng tiếc là ta không có bản sao mấy hình nhân vẽ bằng phấn trên bậu cửa sổ. Ông cũng nên kín đáo dò la xem trong vùng có người lạ nào không. Thu thập được chứng cứ mới nào thì lại đến gặp tôi. Tôi chỉ có thể khuyên ông như vậy thôi, ông Hilton Cubitt. Nếu như có diễn biến mới cấp bách nào, tôi sẽ luôn sẵn lòng xuống Norfolk để gặp ông."

***

Sau cuộc gặp gỡ Sherlock Holmes đăm chiêu vô cùng, rồi trong mấy ngày sau đó, đôi lần tôi thấy anh lấy tờ giấy trong sổ tay ra, nhìn chăm chăm hồi lâu vào mấy hình người kì lạ vẽ trên ấy. Tuy vậy, anh không nhắc gì đến vụ này, mãi đến một buổi chiều khoảng hai tuần sau. Tôi định ra ngoài thì anh gọi lại.

"Anh nên ở nhà, Watson."

"Sao vậy?"

"Vì sáng nay tôi nhận được điện tín của Hilton Cubitt, anh còn nhớ Hilton Cubitt vụ hình nhân nhảy múa chứ? Theo dự kiến, ông ta sẽ tới phố Liverpool lúc 1 giờ 20 phút và có thể có mặt ở đây bất cứ lúc nào. Theo như bức điện thì tôi phỏng đoán là đã có vài tình tiết mới quan trọng."

Chúng tôi không phải đợi lâu, vì vị điền chủ vùng Norfolk đi thẳng từ nhà ga đến đây bằng xe ngựa chạy hết tốc lực. Nom ông ta lo âu, bạc nhược, mắt mệt mỏi và trán hằn sâu.

"Vụ này làm tôi bực rồi đây, ông Holmes", ông ta nói khi ngồi phịch xuống ghế bành, vẻ mệt mỏi. "Cái cảm giác xung quanh có những người không rõ tên tuổi, không rõ mặt mũi đang âm mưu gì đó nhằm vào ta đã đủ tồi tệ rồi; đằng này lại còn biết chuyện đó đang giết dần giết mòn vợ ta thì quả là vượt quá sức chịu đựng. Vì nó mà vợ tôi cứ héo hon, gầy mòn đi - tiều tụy dần ngay trước mắt tôi."

"Bà nhà đã nói gì chưa?"

"Chưa, ông Holmes, cô ấy chưa nói gì. Có những lúc người vợ tội nghiệp của tôi toan nói, vậy mà cô ấy vẫn không thể dứt khoát. Tôi đã cố giúp, nhưng tôi dám chắc mình vụng về nên làm cô ấy sợ không dám nói nữa. Cô ấy nhắc đến dòng họ lâu đời của tôi, thanh danh của chúng tôi trong hạt và niềm tự hào của chúng tôi về danh dự không chút tì vết của mình, rồi tôi luôn cảm thấy câu chuyện sắp đi tới ý chính, nhưng không hiểu sao khi chúng tôi gần chạm tới thì nó cứ xoay sang hướng khác."

"Nhưng tự ông đã biết được điều gì đó chăng?"

"Nhiều lắm, ông Holmes. Tôi có thêm mấy hình người nhảy múa cho ông xem xét đây, và, quan trọng hơn, tôi đã nhìn thấy gã đó."

"Sao, kẻ đã vẽ mấy hình ấy?"

"Phải, tôi thấy hắn đang vẽ. Nhưng tôi sẽ kể ông nghe lần lượt mọi chuyện. Vào buổi sáng sau hôm tôi đến gặp ông, cái tôi nhìn thấy đầu tiên là một loạt hình nhân nhảy múa nữa. Hình vẽ bằng phấn trên cánh cửa gỗ đen của nhà kho, cạnh bãi cỏ mà có thể trông thấy rõ từ mấy cửa sổ mặt tiền. Tôi đã sao chép lại y hệt, nó đây." Ông ta mở một tờ giấy rồi đặt lên bàn. Đây là bản sao các kí hiệu:

"Tuyệt!" Holmes nói. "Tuyệt lắm! Xin cứ kể tiếp."

"Chép lại xong thì tôi xóa sạch mấy kí hiệu ấy, nhưng hai hôm sau lại xuất hiện một hàng kí hiệu mới. Tôi có mang theo bản sao đây."

Holmes xoa xoa hai bàn tay và tủm tỉm cười thích thú.

"Dữ liệu của ta đang nhiều lên nhanh chóng", anh nói.

"Ba ngày sau, có một lời nhắn viết nguệch ngoạc trên giấy được chặn dưới một hòn cuội trên chiếc đồng hồ mặt trời. Nó đây. Ông thấy đấy, các kí hiệu hệt như cái vừa rồi. Sau đó tôi quyết tâm rình, vậy là tôi lấy khẩu súng lục và thức đợi trong thư phòng có tầm nhìn ra bãi cỏ và khu vườn. Khoảng 2 giờ sáng, tôi đang ngồi bên cửa sổ, bốn bề tối mịt chỉ trừ ánh trăng bên ngoài thì nghe có tiếng chân sau lưng, và rồi vợ tôi mặc áo choàng xuất hiện. Cô ấy van nài tôi đi ngủ. Tôi nói thật với cô ấy là muốn thấy kẻ bày trò kì quặc như vậy với chúng tôi là ai. Vợ tôi đáp đó chỉ là một trò chơi khăm điên rồ và tôi không nên để ý làm gì.

'Nếu quả thực nó làm anh khó chịu, Hilton, vợ chồng mình có thể đi du ngoạn, vậy là tránh được cái phiền toái này.'

'Sao, phải bỏ nhà mà chạy vì một kẻ chơi khăm ư?' Tôi nói. 'Ơ kìa, ta sẽ làm cho cả hạt cười vào mặt mất.'

'Thôi được, vậy thì đi ngủ đi', vợ tôi nói, 'sáng mai ta sẽ bàn chuyện đó.'

Vợ tôi đang nói thì tôi bỗng thấy mặt cô ấy tái nhợt đi dưới ánh trăng, rồi cô ấy nắm chặt vai tôi. Có thứ gì đó đang động đậy gần nhà kho. Tôi nhìn thấy một bóng đen rón rén đi vòng qua góc rẽ rồi ngồi xổm trước cửa. Khi tôi chộp lấy súng xông ra thì vợ tôi vung hai tay ghì tôi lại chặt vô cùng. Tôi gắng hất cô ấy ra nhưng vợ tôi cố sống cố chết giữ rịt tôi. Cuối cùng tôi cũng giằng ra được, nhưng đến khi mở cửa và tới nhà kho thì kẻ đó đã đi mất. Tuy vậy, hắn để lại dấu vết cho thấy sự hiện diện của mình, vì trên cửa lại có những hình người nhảy múa sắp xếp hệt như hai lần trước, thế là tôi chép lại trên tờ giấy kia. Không thấy tung tích gã này đâu nữa, dù tôi đã chạy khắp cùng điền trang. Vậy nhưng điều đáng kinh ngạc là chắc chắn hắn ta vẫn ở đấy suốt, vì sáng ra khi tôi xem xét kĩ cánh cửa lần nữa thì thấy hắn đã vẽ vội thêm vài hình bên dưới dòng tôi đã nhìn thấy?"

"Ông có chuỗi hình vẽ mới ấy không?"

"Có, nó ngắn lắm, nhưng tôi cũng chép lại. Đây!"

Ông ta đưa ra một tờ nữa. Hình mới như sau:

"Cho tôi biết", Holmes nói, nhìn ánh mắt anh thì tôi biết rằng anh rất háo hức, "cái này chỉ thêm vào hình ban đầu hay có vẻ tách rời hẳn?"

"Nó ở trên một tấm ván khác."

"Tuyệt! Đối với mục đích của ta thì cái này quan trọng hơn cả. Nó làm tôi khấp khởi hi vọng. Nào, ông Hilton Cubitt, xin cứ kể tiếp câu chuyện hết sức thú vị của mình."

"Tôi đã kể hết rồi, ông Holmes, trừ chuyện tối hôm ấy tôi giận vợ vì giữ tôi lại khi đáng ra tôi đã tóm được thằng khốn lén lút ấy. Vợ tôi nói sợ tôi gặp chuyện chẳng lành. Tôi đã thoáng nghĩ biết đâu thực ra cô ấy sợ hắn gặp chuyện chẳng lành, vì tôi không thể không nghi ngờ rằng cô ấy biết kẻ này là ai và hắn muốn nói gì qua những kí hiệu kì lạ đó. Nhưng ông Holmes ạ, trong giọng điệu và ánh mắt của vợ tôi có gì đó khiến ta không thể hồ nghi, nên tôi tin chắc rằng quả thực cô ấy đã nghĩ đến sự an nguy của tôi. Đầu đuôi cơ sự là vậy, còn giờ tôi muốn xin ông lời khuyên nên làm gì. Tôi thì thiên về cách cho chừng năm, sáu gã trai ở điền trang nấp trong bụi rậm, rồi khi gã này mò đến lần nữa thì tẩn cho hắn một trận để từ đây chúng tôi được yên."

"Tôi e vụ này kì bí đến độ không thể dùng những biện pháp đơn giản như vậy," Holmes nói. "Ông lưu lại London được bao lâu?"

"Hôm nay tôi phải về. Tôi sẽ không để vợ ở một mình cả đêm vì bất cứ lí do gì đâu. Cô ấy lo lắm và đã nài nỉ tôi phải quay về."

"Tôi dám chắc là ông làm đúng. Nhưng nếu ông lưu lại được thì một, hai hôm nữa tôi có thể về cùng ông. Từ giờ đến lúc đó, ông hãy để mấy tờ này lại cho tôi, tôi nghĩ rất có thể tôi sẽ sớm đến nhà ông và làm sáng tỏ vụ của ông đôi chút."

Sherlock Holmes giữ cung cách chuyên nghiệp điềm đạm cho đến khi vị khách cáo từ, dù tôi dễ dàng thấy là anh cực kì háo hức, vì tôi đã biết anh quá rõ. Tấm lưng to bè của Hilton Cubitt vừa khuất sau cửa thì bạn tôi đã hấp tấp tới bên bàn, trải hết mấy trang giấy có hình người nhảy múa ra trước mặt rồi bắt đầu những tính toán chi tiết phức tạp. Tôi quan sát anh viết kín những hình người và chữ cái ra hết trang này đến trang kia suốt hai giờ đồng hồ, mải mê đến độ rõ ràng đã quên mất là có tôi ở đó. Khi thì anh huýt sáo và reo vui vì công việc có tiến triển, lúc lại bị xị và ngồi nhăn trán rất lâu với ánh mắt mông lung. Cuối cùng anh bật dậy, thốt lên một tiếng hài lòng rồi đi tới đi lui trong phòng, xoa xoa hai tay vào nhau. Đoạn anh viết một bức điện dài trên tờ mẫu điện tín.

"Nếu tôi nhận được câu trả lời như mong đợi cho vụ này, anh sẽ có một vụ rất thú vị để thêm vào bộ sưu tập đấy Watson", anh nói. "Tôi tính rằng ngày mai ta có thể xuống Norfolk, mang cho ông bạn của ta vài tin xác thực về bí mật khiến ông ta lo lắng."

Thú thật là tôi hết sức tò mò, nhưng tôi biết Holmes thích tiết lộ đúng lúc và đúng cách, thế nên tôi đành chờ cho đến khi anh thấy thích hợp để tiết lộ với tôi. Nhưng không có điện hồi âm ngay, hai ngày tiếp đó trôi qua đầy sốt ruột và Holmes cứ dỏng tai lên nghe mỗi lần có tiếng chuông. Đến chiều ngày thứ hai thì có một bức thư của Hilton Cubitt. Mọi thứ ở chỗ ông yên ắng, trừ chuyện sáng hôm đó xuất hiện một câu dài trên bệ đồng hồ mặt trời, ông gửi kèm bản sao trong thư, được phỏng lại như sau:

Holmes khom người bên hình vẻ kì quặc này ít phút rồi bỗng bật dậy, thốt lên ngạc nhiên và kinh hoàng. Mặt anh phờ phạc đi vì lo lắng.

"Ta để vụ này đi khá xa rồi", anh nói. "Tối nay có tàu nào đến Bắc Walsham không?"

Tôi lật tờ lịch trình lên. Chuyến cuối vừa đi xong.

"Vậy thì mai ta sẽ ăn điểm tâm sớm rồi đón ngay chuyến đầu tiên của buổi sáng", Holmes nói. "Ta cần có mặt ở đó gấp. À! Bức điện tín ta chờ đây rồi. Chờ chút, bà Hudson; có thể có hồi âm. Không, nó đúng như tôi nghĩ. Lời nhắn này càng khiến ta không được bỏ phí giờ nào mà phải cho Hilton Cubitt biết ngay vụ này đã đi tới đâu, vì người điền chủ Norfolk bình dị của chúng ta đang vướng vào một cái lưới kì quặc và hiểm nguy."

***

Quả thực là vậy, và khi kể đến phần kết bi đát của câu chuyện mà ban đầu tôi đã tưởng là trò trẻ con và kì quặc này, lòng tôi lại một lần nữa tràn ngập cảm giác bất an và khiếp đảm. Giá mà tôi có một kết cục nào đó sáng sủa hơn để kể cho độc giả, nhưng đây là chuyện có thực và tôi phải trung thành với diễn biến lạ lùng của sự việc cho đến biến cố đen tối đã khiến dư luận trên khắp nước Anh nhắc đến mấy chữ Trang viên Ridling Thorpe suốt nhiều ngày.

Chúng tôi vừa mới đặt chân tới Bắc Walsham và nhắc tên nơi mình muốn đến thì viên trưởng ga đã tất tả chạy lại. "Tôi chắc hai ông là thám tử ở London xuống?" Ông ta nói.

Một vẻ khó chịu thoảng qua mặt Holmes. "Điều gì khiến ông nghĩ vậy?"

"Vì thanh tra Martin ở Norwich vừa mới đi qua đây xong. Nhưng cũng có thể các ông là bác sĩ phẫu thuật. Bà ấy chưa chết - ít ra theo tin tức mới nhất là thế. Có thể các ông còn kịp cứu bà ấy - mặc dù bà ấy cũng sẽ bị treo cổ thôi."

Mặt Holmes tối sầm lại vì lo.

"Chúng tôi định đến trang viên Ridling Thorpe", anh nói, "nhưng chúng tôi chưa nghe gì về chuyện xảy ra ở đó."

"Chuyện khủng khiếp lắm", tay trưởng ga nói. "Họ bị bắn, cả ông Hilton Cubitt lẫn bà vợ. Bà ta bắn chồng rồi tự bắn mình - mấy người hầu nói vậy. Ông ấy chết còn tính mạng bà ta thì như chỉ mành treo chuông. Trời hỡi, một trong những gia đình lâu đời nhất ở hạt Norfolk, lại còn là một trong những gia đình danh giá nhất nữa chứ!"

Chẳng nói chằng rằng, Holmes tất tả lên một cỗ xe ngựa, suốt chuyến đi dài bảy dặm anh không một lần hé môi. Hiếm khi tôi thấy anh chán nản cùng cực như vậy. Suốt chuyến tàu từ thành phố anh đã nhấp nhổm không yên, tôi nhận thấy khi lật xem các báo sáng, anh đã chăm chú lo âu; nhưng lúc này những gì anh lo sợ nhất bỗng thành sự thật thì anh đâm bần thần, u uất. Anh ngồi dựa lưng vào ghế, chìm trong suy đoán ủ ê. Thế mà xung quanh có rất nhiều thứ đáng quan tâm, vì chúng tôi đang băng qua một vùng đồng quê độc đáo không kém bất kì vùng nào của nước Anh, dăm túp nhà nhỏ lác đác đại diện cho dân số ngày nay, trong khi đó ở bốn bề, những nhà thờ đồ sộ có tháp vuông vức mọc lên giữa quang cảnh bằng phẳng, xanh rì nổi lên quá khứ vẻ vang và phồn thịnh của vương quốc Đông Anglia cổ xưa. Sau một hồi, dải nước biển Bắc ánh biếc đã hiện ra trên rìa đất duyên hải Norfolk xanh tươi. Tay xà ích trỏ roi ngựa về phía hai cột chống bằng gạch và gỗ lâu đời vươn lên từ một cụm rừng. "Kia là trang viên Ridling Thorpe", anh ta nói.

Khi chúng tôi tới cửa trước có mái hiên thì tôi đế ý thấy ở phía trước, bên cạnh sân cỏ quần vợt, là nhà kho âm u và chiếc đồng hồ mặt trời có bệ đỡ có dính dáng đến công việc của chúng tôi. Một người đàn ông nhỏ nhắn, bảnh bao, cung cách nhanh nhẹn, lanh lợi và có ria mép vuốt sáp vừa bước xuống từ trên một chiếc xe ngựa hai bánh cao. Anh ta tự giới thiệu mình là thanh tra Martin, thuộc Sở Cảnh sát Norfolk, và anh ta có vẻ khá sửng sốt khi nghe danh bạn tôi.

"Ủa, ông Holmes, vụ án mới xảy ra lúc 3 giờ sáng nay thôi. Làm sao ở London ông hay tin mà tới nơi cùng lúc với tôi được?"

"Tôi đã dự liệu việc này rồi. Tôi đến những mong ngăn chặn nó."

"Vậy hẳn ông đã có chứng cứ quan trọng mà chúng tôi không biết, vì người ta nói họ là một cặp vợ chồng rất hòa thuận."

"Tôi chỉ có chứng cứ là mấy hình nhân nhảy múa thôi", Holmes nói. "Tôi sẽ giải thích chuyện đó với anh sau. Vì đã không kịp ngăn chặn thảm kịch này, tôi thiết tha đem những gì mình biết nhằm bảo đảm công lí được thực thi. Anh sẽ để tôi cộng tác với anh trong cuộc điều tra, hay anh thích tôi hành động riêng rẽ hơn?"

"Tôi rất hãnh diện vì ta hành động cùng nhau, thưa ông Holmes", viên thanh tra sốt sắng trả lời.

"Nếu vậy, tôi mong được nghe lời khai và xem xét nơi này ngay, không trì hoãn một giây nào nữa."

Thanh tra Martin đã sáng suốt để bạn tôi làm việc theo cách riêng, và cam lòng cẩn thận ghi chép kết quả. Vị bác sĩ trong vùng, một người đàn ông lớn tuổi, tóc bạc, vừa từ phòng của bà Hilton Cubitt xuống, và thông báo rằng bà ấy bị thương nghiêm trọng nhưng có lẽ không dẫn đến tử vong. Viên đạn đã sượt qua thùy trán, và có lẽ chốc nữa bà ấy mới tỉnh lại. Về câu hỏi bà ấy bị bắn hay tự bắn mình thì ông ta không dám liều bày tỏ ý kiến dứt khoát. Chắc chắn viên đạn đã bắn ra từ một khoảng cách rất gần. Trong phòng chỉ tìm thấy một khẩu súng ngắn, ổ đạn trống hái viên, ông Hilton Cubitt bị bắn xuyên tim. Cho rằng ông bắn vợ rồi tự bắn mình hoặc cô vợ là người bắn đều được, vì khẩu súng lục nằm trên sàn cách đều hai người.

"Đã đưa ông ấy đi chưa?" Holmes hỏi.

"Ngoài người đàn bà ra chúng tôi chưa xê dịch thứ gì cả. Chúng tôi không thể để bà ấy nằm trên sàn khi đang bị thương."

"Ông ở đây bao lâu rồi, thưa bác sĩ?"

"Từ 4 giờ."

"Còn ai khác nữa không?"

"Có, ngài cảnh sát đây."

"Và các ông chưa động vào thứ gì?"

"Chưa."

"Các ông đã hành động rất cẩn trọng. Ai cho mời các ông?"

"Cô hầu, Saunders."

"Có phải cô ta là người báo động?"

"Cô ta và bà King, đầu bếp."

"Giờ họ đâu?"

"Tôi chắc là ở trong bếp."

"Vậy thì tôi nghĩ ta nên nghe họ trình bày ngay."

Gian đại sảnh cũ kĩ, lát gỗ sồi, có cửa sổ cao đã biến thành phòng thẩm vấn. Holmes ngồi trên chiếc ghế lớn kiểu cổ, đôi mắt cương quyết sáng long lanh trên gương mặt phờ phạc. Tôi đọc thấy trong mắt anh quyết tâm dồn hết sinh lực cho cuộc điều tra này để trả thù cho vị thân chủ mà anh không kịp cứu mạng. Nhóm người lạ lùng có mặt ở cuộc thẩm vấn còn bao gồm thanh tra Martin mảnh khảnh, ông bác sĩ làng có mái tóc hoa râm, tôi và một viên cảnh sát làng lù đù.

Hai người đàn bà thuật lại câu chuyện khá rõ ràng. Họ đang ngủ thì bị một tiếng nổ đánh thức, liền theo đó là tiếng nổ thứ hai. Họ ngủ ở hai phòng kế nhau nên bà King cuống cuồng chạy sang phòng Saunders. Cả hai chạy xuống cầu thang. Cửa thư phòng mở và một ngọn nến đang cháy trên bàn. Ông chủ họ nằm sấp ngay giữa phòng, ông đã chết hẳn. Vợ ông thì ngã gục gần cửa sổ, đầu tựa vào tường. Bà bị thương nặng, máu loang đỏ một bên mặt. Bà thở khó nhọc nhưng không thể nói gì. Hành lang, cũng như căn phòng, đầy khói và mùi thuốc súng. Cửa sổ đóng chắc và cài chặt bên trong. Cả hai người đều chắc chắn về điểm này. Họ lập tức cho mời bác sĩ và cảnh sát. Thế rồi, được người giữ ngựa và thằng bé phụ việc giúp một tay, họ đưa bà chủ bị thương vào phòng. Trước đó cả bà và chồng đều đã lên giường rồi. Bà mặc váy ngủ - ông thì mặc áo choàng bên ngoài quần áo ngủ. Trong thư phòng không mất gì. Theo như họ biết, giữa hai vợ chồng chưa hề có lời qua tiếng lại. Họ vẫn luôn cho rằng ông bà chủ là một cặp rất hòa thuận.

Đây là những điểm chính trong lời khai của mấy người hầu. Khi trả lời thanh tra Martin, họ chắc chắn rằng tất cả cửa nẻo đều đã cài chặt bên trong, và không ai có thể thoát khỏi nhà. Khi trả lời Holmes thì cả hai đều nhớ đã ngửi thấy mùi thuốc súng từ lúc chạy ra khỏi phòng ở tầng trên cùng. "Tôi khuyên anh nên lưu ý kĩ chi tiết đó", Holmes nói với đồng nghiệp. "Còn giờ thì tôi nghĩ ta đã có thể tiến hành khám xét tỉ mỉ căn phòng."

Thư phòng chỉ là một gian phòng nhỏ, tủ sách xếp dọc cả ba vách, còn bàn viết xoay mặt về phía một cửa sổ không có gì đặc biệt nhìn ra vườn. Đầu tiên, chúng tôi chú ý đến xác của người điền chủ xấu số, thân hình đồ sộ của ông nằm sõng soài giữa phòng. Chiếc áo choàng xốc xếch cho thấy ông đang ngủ thì vội vàng thức dậy. Viên đạn bắn vào ông từ đằng trước và găm lại trong người sau khi xuyên qua tim. Chắc chắn ông đã chết tức thì và không đau đớn. Trên áo choàng hay trên tay ông đều không có vết thuốc súng. Theo vị bác sĩ làng thì trên mặt người đàn bà có vương thuốc súng, nhưng trên tay thì không.

"Việc không có dấu vết của thuốc súng trên tay chẳng nói lên được gì, mặc dù nếu có thì nó có thể giải thích tất cả", Holmes nói. "Người ta có thể bắn nhiều phát mà không để lại dấu vết nào, trừ phi thuốc súng từ một viên đạn lỗi tình cờ lại phụt ra sau. Tôi xin có ý kiến là giờ có thể đưa xác ông Cubitt đi được rồi. Bác sĩ này, tôi nghĩ chắc ông chưa lấy viên đạn đã gây thương tích cho người vợ ra?"

"Phải phẫu thuật hẳn hoi mới lấy ra được, Nhưng trong khẩu súng lục vẫn còn bốn viên đạn. Hai viên đã bắn và có hai vết thương, như vậy chúng ta đã biết cả hai viên đạn ở đâu ra."

"Có vẻ là vậy", Holmes nói. "Vậy ắt ông cũng biết viên đạn rõ ràng đã bắn trúng gờ cửa sổ ở đâu ra?" Anh thình lình xoay người lại, ngón tay dài, mảnh chỉ vào một cái lỗ xuyên qua phần khung kính dưới của cửa sổ trượt, cách mép dưới một inch.

"Trời!" Viên thanh tra thốt lên. "Làm sao mà ông nhìn ra vậy?"

"Vì tôi đã cố ý tìm nó mà."

"Tuyệt vời thật!" Ông bác sĩ đồng quê nói "Chắc hẳn ông nói đúng rồi, thưa ông. Vậy là đã có phát súng thứ ba bắn ra, vì vậy ắt phải có người thứ ba. Nhưng đó có thể là ai và hắn ta đã tẩu thoát bằng cách nào?"

"Đó là vấn đề mà ta sắp giải đáp", Sherlock Holmes nói. "Thanh tra Martin này, anh có nhớ lúc mấy người hầu nói rằng khi ra khỏi phòng thì họ liền ngửi thấy mùi thuốc súng rồi tôi nhận xét đó là một điểm cực kì quan trọng không?"

"Vâng, thưa ông, nhưng thú thực là tôi chưa hiểu ý ông lắm."

"Điều đó cho thấy lúc súng nổ thì cả cửa sổ lẫn cửa lớn trong phòng đều mở. Nếu không, khói thuốc súng không thể nào tản đi khắp nhà nhanh như vậy. Trong phòng phải có gió lùa. Tuy nhiên, cả cửa lớn và cửa sổ đều chỉ mở trong khoảng thời gian rất ngắn."

"Làm sao ông chứng minh được?"

"Vì ngọn nến chưa chảy."

"Tuyệt diệu!" Thanh tra kêu lên. "Tuyệt diệu!"

"Vì cảm thấy chắc chắn rằng lúc thảm kịch xảy ra thì cửa sổ mở nên tôi nghĩ hẳn phải có người thứ ba trong vụ này, đứng bên ngoài khe hở này mà bắn vào. Phát súng nhằm vào kẻ này có thể sẽ trúng khung kính trượt. Tôi đã để ý tìm, và quả nhiên, vết đạn ở kia!"

"Nhưng làm sao mà cửa sổ lại đóng và cài chặt?"

"Phản ứng tự nhiên đầu tiên của người đàn bà sẽ là đóng rồi gài cửa sổ lại. Nhưng mà... Ồ, ồ! Cái gì đây?"

Đó là một cái túi xách tay của phụ nữ để trên bàn làm việc - một cái túi xách nhỏ gọn bằng da cá sấu và bạc. Holmes mở túi xách rồi đổ hết các thứ bên trong ra. Chỉ có hai mươi tờ năm mươi bảng của Nhà băng Anh quốc, buộc bằng sợi dây thun - không còn gì khác.

"Phải bảo quản thứ này, vì nó sẽ được nhắc đến trong phiên tòa", Holmes nói và đưa cái túi xách cùng các thứ bên trong cho viên thanh tra. "Giờ ta cần làm sáng tỏ đôi chút về viên đạn thứ ba này, theo như dấu vết trên gỗ thì rõ ràng nó được bắn ra từ trong phòng. Tôi muốn gặp lại bà King đầu bếp... Bà King này, bà đã nói rằng bà thức giấc vì một tiếng nổ lớn. Khi nói vậy, phải chăng ý bà là bà cảm thấy dường như tiếng nổ thứ nhất lớn hơn tiếng thứ hai?"

"Chà, thưa ông, tôi đang ngủ thì nó làm tôi thức giấc nên khó mà phán đoán. Nhưng quả là nó có vẻ lớn lắm."

"Bà có nghĩ rằng có thể có hai phát súng gần như cùng lúc?"

"Ôi, tôi không biết được đâu, thưa ông."

"Tôi thì tin chắc là vậy. Thanh tra Martin này, tôi nghĩ rằng giờ ta đã bàn hết mọi điều mà căn phòng này cho chúng ta biết rồi. Nếu anh vui lòng đi quanh với tôi, ta sẽ xem khu vườn có cung cấp chứng cứ mới nào không."

Một luống hoa trải dài đến tận cửa sổ thư phòng, khi tới gần thì ai nấy trong chúng tôi đều thốt lên. Hoa bị giẫm bẹp xuống, còn nền đất mềm in đầy dấu chân. Đó là bàn chân to của đàn ông, có ngón nhọn và dài lạ lùng. Holmes lùng sục khắp đám cỏ và lá cây như con chó săn mồi đuổi theo một con chim bị thương. Thế rồi, thốt lên một tiếng hài lòng, anh cúi xuống nhặt một vật nho nhỏ bằng đồng thau có dạng hình trụ.

"Tôi đã nghĩ vậy mà", anh nói, "khẩu súng lục có thoi đẩy, và đây là vỏ đạn thứ ba. Thanh tra Martin này, tôi thực tình nghĩ vụ án của ta gần như đã xong xuôi rồi."

Gương mặt tay thanh tra vùng quê lộ vẻ kinh ngạc vô cùng vì tiến triển nhanh chóng và tài tình trong cuộc điều tra của Holmes. Thoạt đầu anh ta còn tỏ chút thái độ khẳng định vị trí của mình, nhưng lúc này thì anh ta đã hoàn toàn thán phục và sẵn sàng theo sau mà không hỏi han gì bất kể Holmes dẫn đi đâu.

"Ông nghi ai?" Anh ta hỏi.

"Tôi sẽ tìm hiểu chuyện đó sau. Trong vụ án này có mấy điểm tôi chưa thể giải thích cho anh. Đã đến nước này rồi, tốt nhất là tôi cứ tiếp tục đường lối riêng của mình rồi làm sáng tỏ toàn bộ vấn đề một lần cho xong."

"Ông muốn sao cũng được, thưa ông Holmes, miễn sao chúng tôi tóm được thủ phạm."

"Tôi không mong tạo bí ẩn đâu, nhưng lúc đang hành động thì khó mà giải thích dài dòng, phức tạp. Tôi đã có trong tay những sợi dây liên kết của vụ này. Cho dù bà vợ không bao giờ tỉnh lại đi nữa thì ta vẫn tái hiện được các sự kiện đêm qua và bảo đảm công lí được thực thi. Trước hết, tôi muốn biết trong vùng lân cận có quán trọ nào tên là 'Elrige' không?"

Mấy người hầu hỏi nhau, nhưng chưa ai từng nghe nói đến một nơi như vậy. Cậu bé làm việc trong chuồng ngựa đã làm sáng tỏ vấn đề khi nhớ lại rằng có một chủ trại tên như thế sống cách đây mấy dặm, về hướng Đông Ruston.

"Nông trại đó có hẻo lánh không?"

"Hẻo lánh lắm, thưa ông."

"Có lẽ họ chưa nghe tin về chuyện xảy ra hồi đêm?"

"Có lẽ chưa, thưa ông."

Holmes nghĩ ngợi một lát rồi một nụ cười khó hiểu thoảng qua trên mặt anh.

"Thắng yên ngựa đi, chú bé", anh nói. "Tôi muốn cậu cầm một lá thư đến nông trại Elrige."

Anh lấy trong túi áo một loạt tờ giấy khác nhau có những hình người nhảy múa. Để mấy tờ giấy trước mặt, anh làm việc bên bàn một lát. Cuối cùng, anh đưa một mẩu thư cho cậu bé, dặn dò đưa tận tay người có tên trên thư, và nhất là không được trả lời bất cứ câu hỏi nào mà người đó có thể đặt ra cho cậu ta. Tôi thấy phần địa chỉ bên ngoài tờ thư được viết bằng những chữ lộn xộn, không đều, rất khác chữ viết rõ ràng mọi khi của Holmes Thư gửi cho ông Abe Slaney, nông trại Elrige, Đông Ruston, Norfolk.

"Thanh tra này", Holmes nói, "tôi nghĩ anh nên đánh điện yêu cầu một người hộ tống, vì nếu các tính toán của tôi là chính xác, có thể anh sẽ phải áp giải một tù nhân đặc biệt nguy hiểm đến nhà tù của hạt đấy. Cậu bé đưa thư này chắc chắn có thể chuyển bức điện giúp anh. Watson ơi, nếu có chuyến tàu chiều lên thành phố, tôi nghĩ ta nên đón nó thôi, vì tôi còn phải làm nốt một phân tích hóa học khá quan trọng, mà cuộc điều tra này thì đang nhanh chóng khép lại."

Khi cậu bé đã mang lá thư đi, Sherlock Holmes quay sang căn dặn mấy người hầu. Nếu có vị khách nào đến hỏi bà Hilton Cubitt thì không được cung cấp thông tin nào về tình trạng của bà, mà lập tức dẫn hắn vào phòng khách. Anh cực kì nghiêm túc nhấn mạnh với họ những điểm này. Cuối cùng, anh đi trước vào phòng khách, nhận xét rằng chúng tôi còn làm gì hơn được nữa, và phải cố giết thời gian đợi đến khi có diễn biến mới. Ông bác sĩ đã cáo từ để đi thăm bệnh, nên chỉ còn lại viên thanh tra và tôi.

"Tôi có thể giải khuây cho các anh trong một giờ một cách thú vị và hữu ích", Holmes nói, kéo ghế lại gần bàn rồi trải ra trước mặt những tờ giấy khác nhau vẽ những hình người nhảy múa khôi hài. "Về phần anh, Watson, tôi sẽ chuộc lỗi vì mãi vẫn chưa đáp ứng bản tính hiếu kì của anh. Còn anh, thanh tra này, vụ này có thể xem như một nghiên cứu chuyên môn hấp dẫn đấy. Trước tiên, tôi phải cho anh biết rằng những tình tiết thú vị đều gắn liền với những lần ông Hilton Cubitt đến hỏi ý kiến tôi ở phố Baker trước đây." Đoạn anh tóm tắt ngắn gọn các sự việc đã được ghi lại. "Những tác phẩm lạ đời trước mặt tôi đây có thể khiến người ta cười nếu chúng không báo hiệu một thảm kịch khủng khiếp như vậy. Tôi khá quen thuộc các dạng mật mã, bản thân tôi cũng là tác giả của một chuyên khảo nho nhỏ về đề tài này, trong đó tôi đã phân tích một trăm sáu mươi loại mật mã khác nhau; nhưng thú thật là tôi hoàn toàn không biết gì về cái này. Dường như mục đích của những người sáng chế ra hệ thống này là nhằm che đậy để người ngoài không nhận ra những kí hiệu này truyền đạt một thông điệp, và tưởng rằng đó chỉ là những hình vẽ ngẫu nhiên của trẻ con.

Đến lúc này tôi vẫn còn gặp khó khăn đáng kể, nhưng một ý nghĩ tài tình đã giúp tôi có được vài chữ cái khác. Tôi chợt nghĩ rằng nếu những lời kêu gọi này, như tôi ngờ trước, là từ ai đó từng thân thiết với người đàn bà này thời trẻ, thì một kết hợp gồm hai chữ E với ba chữ cái xen giữa rất có thể đại diện cho tên 'ELSIE'. Khi xem xét thì tôi thấy rằng một kết hợp như vậy tạo nên phần kết của thông điệp lặp lại ba lần. Nó chắc hẳn là lời kêu gọi nào đó với 'Elsie'. Bằng cách này, tôi đã có được L, SI. Nhưng lời kêu gọi có thể là gì đây? Từ đứng trước chữ 'Elsie' chỉ có bốn chữ cái, và kết thúc bằng chữ E. Từ đó phải là 'COME'. Tôi đã thử tất cả các từ khác có bốn chữ cái kết thúc bằng E nhưng không tìm được chữ nào khớp với trường hợp này. Vậy là giờ tôi có C, OM, và đã có thể quay lại giải quyết lời nhắn đầu tiên, tách thành từng từ và đặt dấu chấm cho mỗi kí hiệu vẫn còn chưa rõ. Làm vậy thì có kết quả như sau: .M .ERE..E SL.NE.

Giờ thì chữ cái đầu chỉ có thể là A, phát hiện này vô cùng hữu ích, vì trong câu ngắn này nó xuất hiện không dưới ba lần, và chữ còn lại trong từ thứ hai rõ ràng là H. Giờ thì ta có: AM HERE A.E SLANE. Hay, sau khi điền những chỗ trống rõ ràng trong tên gọi: AM HERE ABE SLANEY.

Giờ thì tôi đã có nhiều chữ cái để có thể rất tự tin đi tiếp sang lời nhắn thứ hai, có kết quả thế này: A. ELRI.ES.

Đến đây, tôi thấy chỉ có thể gán TG cho những chữ cái còn thiếu thì mới có nghĩa, và giả sử rằng đây là tên một ngôi nhà hay quán trọ nào đó mà người viết đang trú ngụ."

Thanh tra Martin và tôi lắng nghe cực kì chăm chú lời giải thích rõ ràng và đầy đủ của bạn tôi về cách anh suy ra kết quả để từ đó vượt qua mọi trở ngại.

"Rồi sau đó ông làm gì, thưa ông?" Thanh tra hỏi.

"Tôi có đủ cơ sở để cho rằng gã Abe Slaney này là người Mỹ, vì Abe là một dạng tên rút gọn của Mỹ, và vì một lá thư từ Mỹ chính là khởi điểm của mọi rắc rối. Tôi cũng có nguyên do để nghĩ rằng có một bí mật xấu xa nào đó trong vụ này. Những lời bóng gió của người đàn bà về quá khứ của mình và chuyện cô ta không chịu thổ lộ cho chồng, cả hai đều chỉ về hướng đó. Do vậy, tôi đánh diện cho Wilson Hargreave bạn tôi ở Cục Cảnh sát New York, người đã nhiều lần tận dụng hiểu biết của tôi về tội phạm ở London. Tôi hỏi anh ta có biết cái tên Abe Slaney không. Đây là hồi âm của anh ta: Kẻ lừa đảo nguy hiểm nhất Chicago. Đúng vào buổi chiều tôi nhận được phúc đáp của anh ta thì Hilton Cubitt gửi cho tôi thông điệp sau cùng của Slaney. Dùng những chữ cái đã biết để sắp xếp thì nó có dạng thế này: ELSIE .RE.ARE TO MEET THY GO.

Thêm hai chữ P và một chữ D vào cho trọn lời nhắn, tôi thấy rõ rằng tên lưu manh đang đi từ thuyết phục đến hăm dọa, và nhờ hiểu biết về bọn lừa đảo ở Chicago, tôi thấy trước là ắt hẳn sẽ sớm biến lời nói thành hành động. Tôi cùng bạn và cũng là đồng nghiệp, bác sĩ Watson, tức tốc đi Norfolk, nhưng rủi thay, chỉ kịp hay tin rằng điều tồi tệ nhất đã xảy ra."

"Thật hân hạnh được cộng tác với ông trong việc phá án", thanh tra nói, vẻ nồng nhiệt. "Song, mong ông thứ lỗi cho nếu như tôi nói thẳng. Ông chỉ phải chịu trách nhiệm với chính mình, còn tôi thì phải chịu trách nhiệm với cấp trên. Nếu Abe Slaney đang ở tại nông trại của Elrige đúng là hung thủ, và nếu hắn trốn thoát khi tôi đang ngồi đây, chắc chắn tôi sẽ gặp rắc rối trầm trọng."

"Anh không phải băn khoăn. Hắn sẽ không cố trốn thoát đâu."

"Làm sao ông biết?"

"Bỏ trốn sẽ là thú tội."

"Vậy ta đi bắt hắn đi!"

"Tôi nghĩ hắn sẽ có mặt ở đây ngay thôi."

"Nhưng sao hắn lại phải đến?"

"Vì tôi đã viết thư mời hắn."

"Nhưng chuyện này khó tin quá, ông Holmes! Sao ông mời mà hắn lại đến? Chẳng phải một yêu cầu như vậy sẽ làm hắn sinh nghi và bỏ trốn sao?"

"Tôi nghĩ mình biết phải bịa lá thư thế nào mà", Sherlock Holmes nói "Thực ra, nếu tôi không lầm thì người này vừa đi qua cổng nhà rồi kìa."

Một người đàn ông đang sải bước trên lối đi dẫn tới cửa chính. Hắn là một gã cao ráo, đẹp trai, ngăm đen, mặc bộ đồ vải flannel màu xám, đội mũ lá, râu quai nón đen lởm chởm, cái mũi khoằm to, hung hăng, vừa đi vừa vung gậy. Hắn nghênh ngang trên lối đi cứ như đây là nhà hắn, và rồi chúng tôi nghe tiếng hắn rung chuông ầm ĩ thật tự tin.

"Quý vị", Holmes nói khẽ, "tôi nghĩ ta nên vào vị trí đằng sau cửa. Khi tiếp xúc với một gã thế này thì mọi biện pháp phòng ngừa đều cần thiết. Anh sẽ cần đến còng tay, thanh tra, phần nói chuyện thì cứ để tôi."

Chúng tôi im lặng chờ một phút, một trong những phút ta không bao giờ quên được. Thế rồi cửa mở và người đàn ông bước vào. Trong nháy mắt, Holmes nện súng lục vào đầu hắn còn Martin tra còng vào cổ tay hắn. Tất cả được thực hiện chớp nhoáng và thuần thục đến mức hắn còn chưa kịp nhận biết mình bị tấn công thì đã bị không chế. Hai mắt đen sáng rực trừng trừng nhìn chúng tôi hết người này đến người khác. Rồi hắn phá lên cười chua chát

"Thôi được, các ông, lần này các ông thắng thế rồi. Xem ra tôi đụng phải đối thủ cứng cựa rồi. Nhưng tôi đến đây theo lá thư của bà Hilton Cubitt. Đừng nói với tôi là cô ấy có nhúng tay vào vụ này? Đừng nói với tôi là cô ấy tiếp tay giăng bẫy tôi?"

"Bà Hilton Cubitt bị thương nặng và đang cận kề cái chết."

Người này rú lên một tiếng kêu đau đớn khản đặc vang vọng khắp nhà.

"Mấy ông điên rồi!" Hắn ta kêu lên dữ dằn. "Hắn ta mới là người bị thương, không phải cô ấy. Ai nỡ gây hại cho Elsie bé bỏng chứ? Có thể tôi đã đe dọa cô ấy, Chúa tha tội cho tôi, nhưng tôi không đời nào động đến một sợi tóc trên mái đầu xinh xắn của cô ấy. Rút lại lời đi, mấy ông! Nói rằng cô ấy không bị thương đi!"

"Bà ấy bị thương nặng bên người chồng đã chết."

Hắn "hực" một tiếng trong cổ họng rồi ngồi phịch xuống chiếc ghế dài, vùi mặt vào hai bàn tay bị còng. Hắn im lìm cả năm phút. Rồi hắn lại ngẩng lên và nói với vẻ điềm tĩnh lạnh lùng vì tuyệt vọng.

"Chẳng giấu gì các ông", hắn nói. "Tôi mà có bắn người bắn tôi thì đó cũng không phải là giết người. Nhưng nếu các ông nghĩ tôi có thể hại người đàn bà đó thì các ông không biết gì về tôi cũng như cô ấy. Để tôi cho mấy ông biết, trên đời này không có người đàn ông nào yêu một người đàn bà như tôi yêu cô ấy. Tôi có quyền đối với cô ấy. Nhiều năm trước cô ấy đã hứa hôn với tôi. Gã người Anh này là ai mà lại xen vào giữa chúng tôi? Tôi cho các ông biết là tôi có quyền với cô ấy trước, và tôi chỉ đòi quyền của mình mà thôi."

"Khi biết được ông là người thế nào, cô ấy đã chạy trốn khỏi ảnh hưởng của ông", Holmes nói nghiêm khắc. "Cô ấy trốn khỏi nước Mỹ để lánh mặt ông, và cô ấy đã cưới một quý ông danh giá ở Anh. Ông bám theo sát gót rồi theo dõi và bắt cô ấy chịu khổ sở nhằm xui cô ấy bỏ người chồng mình yêu thương, kính trọng mà trốn đi với ông là người cô ấy sợ hãi, căm ghét. Cuối cùng ông gây nên cái chết của một người cao thượng và đẩy vợ ông ấy đến chỗ tự sát. Đó là thành tích của ông trong vụ này, ông Abe Slaney, và ông sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về điều đó."

"Elsie mà chết thì tôi cóc cần biết chuyện gì sẽ xảy ra với tôi", gã người Mỹ nói. Hắn xòe tay ra nhìn một mẩu thư vò trong lòng bàn tay. "Nhìn đây, thưa ông", hắn kêu lên, mắt thấp thoáng ánh ngờ vực, "ông không cố tình dọa tôi đấy chứ, đúng không? Cô ấy mà bị thương nặng như ông nói, vậy thì ai viết mẩu thư này đây?" Hắn ném tờ thư qua bàn.

"Tôi viết, để đưa ông tới đây."

"Ông viết? Trên đời này ngoài Hội ra không ai biết bí mật hình nhân nhảy múa cả. Làm sao ông viết được?"

"Cái mà người này sáng chế ra được thì người khác cũng khám phá được", Holmes nói. "Sẽ có xe ngựa giải ông đến Norwich, ông Slaney. Nhưng từ đây đến đó ông sẽ có thời gian mà chuộc lại đôi chút tổn hại ông đã gây ra. Ông có biết chính bà Hilton Cubitt bị tình nghi đã giết chồng, mà nếu không nhờ tôi có mặt ở đây và ngẫu nhiên nắm được một số tình tiết thì bà ấy đã bị kết tội rồi? Chí ít ông cũng nợ bà ấy một điều là cho cả thiên hạ thấy rõ rằng bà ấy tuyệt nhiên không có tội tình gì, dù là trực tiếp hay gián tiếp, dẫn đến cái kết cục bi thảm của người chồng."

"Tôi chẳng đòi hỏi gì hơn nữa", người Mỹ nói. "Tôi nghĩ chính sự thật tuyệt đối, không che giấu là lời biện hộ tốt nhất cho tôi."

"Tôi có phận sự cảnh cáo ông rằng nó sẽ được dùng để gây bất lợi cho ông", thanh tra lớn tiếng phát biểu trên tinh thần công bình cao thượng của hình luật Anh quốc.

Slaney nhún vai.

"Để tôi liều xem sao", hắn nói. "Trước hết, tôi muốn các ông hiểu rằng tôi quen người đàn bà này từ khi cô ấy còn nhỏ. Bảy đứa chúng tôi thuộc một băng ở Chicago, và bố của Elsie là trùm của hội. Ông già Patrick ấy là một người thông minh. Chính ông là người sáng chế ra kiểu mật thư đó, nó sẽ bị tưởng lầm là hình trẻ con vẽ nguệch ngoạc trừ phi tình cờ ta có bí quyết để đọc ra. Vâng, Elsie biết được đôi chút đường đi nước bước của chúng tôi; nhưng cô ấy không chịu nổi việc làm ăn đó, lại có chút tiền lương thiện riêng, vậy là cô ấy trốn chúng tôi mà bỏ đi London. Cô ấy đã đính ước với tôi, và tôi tin cô ấy đã cưới tôi nếu như tôi làm một nghề khác; nhưng cô ấy không đời nào chấp nhận bất cứ thứ gì gian trá. Đến khi cô ấy cưới gã người Anh này, tôi mới biết cô ấy đang ở đâu. Tôi viết thư cho cô ấy nhưng không được hồi âm. Sau đó tôi sang đây, và vì thư từ chẳng ích gì, tôi để lại mấy lời nhắn ở nơi cô ấy đọc được.

Vâng, tôi ở đây được một tháng nay rồi. Tôi sống trong trang trại đó, ở một căn phòng ngầm, và đêm đêm có thể ra vào mà không ai hay biết. Tôi đã cố hết sức thuyết phục Elsie bỏ đi. Tôi biết cô ấy đã đọc mấy lời nhắn, vì có lần cô ấy viết trả lời bên dưới. Thế rồi tôi cả giận mất khôn, bắt đầu dọa dẫm cô ấy. Cô ấy bèn gửi cho tôi một lá thư, van xin tôi đi đi, và nói rằng mình sẽ đau lòng nếu có bất kì tai tiếng nào xảy đến với chồng. Cô ấy nói 3 giờ sáng sẽ xuống khi chồng đã ngủ, rồi nói chuyện với tôi qua cửa sổ phía cuối, nếu như sau đó tôi bỏ đi và để cô ấy được yên. Cô ấy xuống và cầm theo tiền, cố mua chuộc tôi. Chuyện này làm tôi nổi điên nên tôi túm tay cố kéo cô ấy qua cửa sổ. Đúng lúc đó thì gã chồng cầm khẩu súng lục chạy vội tới. Elsie đã sụp xuống sàn nên chúng tôi mặt đối mặt. Tôi bị theo sát gót nên giơ súng lên cho hắn sợ mà thả tôi đi. Hắn ta nổ súng vào tôi nhưng trượt. Tôi bóp cò gần như cùng lúc, và thế là hắn gục xuống. Tôi bỏ trốn qua vườn, và khi đi thì nghe tiếng cửa sổ đóng lại đằng sau. Thề có Chúa đó là sự thật, thưa các ông, từng lời từng chữ, và tôi không nghe được gì nữa cho đến khi thằng bé nọ cưỡi ngựa tới, cầm theo tờ thư đã khiến tôi bước vào đây, như một kẻ huênh hoang, và nộp mình vào tay các ông."

Trong khi gã người Mỹ nói thì một cỗ xe ngựa đã chạy đến. Hai cảnh sát mặc đồng phục ngồi trong. Thanh tra Martin đứng lên, chạm vào vai phạm nhân.

"Đến lúc ta phải đi rồi."

"Cho tôi gặp cô ấy đã, có được không?"

"Không, cô ấy chưa tỉnh. Ông Sherlock Holmes, tôi chỉ mong khi nào có vụ quan trọng nữa thì sẽ được dịp may sát cánh với ông."

Chúng tôi đứng bên cửa sổ nhìn cỗ xe rời đi. Khi quay lại, mắt tôi chợt bắt gặp mẩu giấy vo tròn mà gã phạm nhân đã ném trên bàn. Đó là tờ thư Holmes dùng để nhử hắn.

"Xem thử anh đọc ra không, Watson", anh nói, mỉm cười.

Nó không có chữ mà chỉ là hàng người nhảy múa ngắn gọn thế này:

"Nếu anh dùng mật mã tôi vừa giải thích", Holmes nói, "anh sẽ thấy rằng nó chỉ có nghĩa là 'Đến đây ngay'. Tôi tin chắc đó là lời mời mà hắn không thể từ chối, vì hắn không bao giờ ngờ được có ai khác ngoài người đàn bà đó có thể viết ra lời nhắn này. Watson thân mến này, vậy là rốt cuộc ta đã dùng những hình người nhảy múa vào việc tốt tuy trước giờ chúng vẫn thường là sứ giả của cái ác, tôi nghĩ mình đã làm tròn lời hứa cho anh thứ gì đó lạ thường để chép vào sổ tay. Chuyến tàu của ta khởi hành lúc 3 giờ 40 nên tôi nghĩ ta sẽ quay về phố Baker kịp ăn tối."

Đôi chữ vắn tắt cho lời bạt: Gã người Mỹ, Abe Slaney, bị kết án tử tại tòa đại hình mùa đông tại Norwich; nhưng hình phạt của hắn được đổi thành khổ sai vì có xem xét các tình tiết giảm nhẹ, và do chắc chắn Hilton Cubitt là người nổ súng trước. Về phần bà Hilton Cubitt thì tôi nghe nói đã bình phục hẳn, và vẫn ở vậy để dành trọn đời chăm lo cho người nghèo và trông coi điền sản của chồng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro