GÃ CHỦ THẦU VÙNG NORWOOD(The Norwood Builder, 1903)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

"Theo quan điểm của một chuyên gia về tội phạm", Sherlock Holmes nói, "từ khi giáo sư Moriarty qua đời, London đã trở thành một thành phố vô cùng tẻ nhạt."

"Tôi không nghĩ sẽ có nhiều công dân lương thiện đồng tình với anh", tôi trả lời.

"Phải, phải, tôi không được ích kỉ", anh cười và đẩy ghế lùi xa bàn điểm tâm. "Chắc chắn cả cộng đồng sẽ được lợi và chẳng có ai bị thiệt thòi, ngoại trừ tay chuyên gia đáng thương đang thất nghiệp này. Gã Moriarty đó mà còn hoành hành thì báo sáng còn hứa hẹn vô vàn những khả năng. Watson ạ, thường thì chỉ cần một dấu vết nhỏ nhặt nhất, một dấu hiệu mờ nhạt nhất cũng đủ để tôi biết được bộ óc hết sức ma mãnh đang ở đó, giống như những máy động nhẹ nhất ngoài rìa mạng nhện cũng nhắc ta nhớ đến con nhện độc đang rình rập ở chính giữa. Trộm cắp vặt, hành hung bừa bãi, lăng nhục vô cớ - đối với người đã nắm được đầu mối thì tất thảy đều có thể kết thành một chính thể liên kết chặt chẽ. Đối với một người nghiên cứu giới tội phạm thượng lưu một cách khoa học thì không thủ đô nào ở Âu châu đem lại những thuận lợi mà London thời Moriaty có được. Còn giờ thì..." Anh nhún vai, hóm hỉnh chế nhạo tình trạng do chính mình góp công lớn tạo ra.

Thời điểm tôi kể đây là khi Holmes trở về được vài tháng, còn tôi, theo yêu cầu của anh, đã bán phòng mạch rồi về thuê chung nhà với anh tại phố Baker. Một bác sĩ trẻ tên Verner đã mua lại phòng mạch nhỏ của tôi ở phố Kensington, và lạ một điều là anh ta chẳng ngần ngại trả giá cao nhất mà tôi dám đòi - mãi mấy năm sau sự việc này mới sáng tỏ, khi tôi phát hiện ra Verner là bà con xa của Holmes và chính bạn tôi mới là người bỏ tiền.

Mấy tháng chúng tôi làm việc cùng nhau đó thật ra không quá bình lặng như anh nói, vì khi xem qua mấy ghi chép, tôi thấy giai đoạn này có cả vụ cựu tổng thống Murillo và vụ kinh hoàng trên tàu hơi nước Friesland của Hà Lan suýt làm cả hai chúng tôi trả giá bằng tính mạng. Tuy nhiên, với bản tính lạnh lùng và kiêu hãnh, anh chúa ghét mọi sự tán thưởng của đám đông, vì vậy anh đã dùng những lời lẽ nghiêm khắc nhất để buộc tôi không được nói thêm một lời nào nữa về bản thân anh, các phương pháp điều tra hay những thành tựu của anh - sự cấm đoán này, như tôi đã giải thích, mãi tới bây giờ mới được hủy bỏ.

Sau lời phàn nàn hóm hỉnh, Sherlock Holmes ngả người vào lưng ghế, thong thả trải tờ báo sáng ra, bỗng một tiếng chuông cửa inh tai cất lên làm chúng tôi giật mình chú ý, liền sau đó là tiếng thùm thụp khô khốc như thể có ai đó đang đấm liên hồi lên cửa ngoài. Cửa mở, có thứ gì đó xộc vào hành lang, tiếp đến là tiếng bước chân thoăn thoắt gõ lộp cộp trên cầu thang, rồi loáng một cái, một chàng trai hớt hơ hớt hải, hổn hà hổn hển xông thẳng vào phòng, đôi mắt trợn tròn, gương mặt tái nhợt, áo quần xốc xếch. Anh ta hết nhìn tôi rồi lại nhìn Holmes, rồi khi thấy chúng tôi ngây người nhìn lại với vẻ thắc mắc, anh ta mới nhận ra là cần có đôi lời cáo lỗi vì đã tự tiện xông vào như vậy.

"Tôi xin lỗi, ông Holmes", anh ta kêu lên. "Ông đừng trách tôi. Tôi sắp phát điên rồi. Thưa ông Holmes, tôi là John Hector McFarlane bất hạnh đây!"

Anh ta thông báo như thể chỉ riêng cái tên đó đã giải thích được lí do anh ta đến đây cũng như cung cách của anh ta, nhưng nhìn vẻ mặt thản nhiên của bạn tôi, tôi biết anh cũng không xem nặng chuyện đó giống tôi.

"Hút một điếu đã, anh McFarlane", anh nói, đẩy hộp thuốc qua. "Với các triệu chứng của anh, tôi tin chắc bác sĩ Watson bạn tôi đây sẽ kê cho anh một liều an thần. Mấy ngày nay trời nóng quá! Nào, nếu anh đã cảm thấy bình tĩnh hơn thì tôi xin mời anh ngồi xuống chiếc ghế kia rồi thật từ từ và điềm tĩnh cho chúng tôi biết anh là ai và anh cần gì. Anh xưng tên như thể tôi phải nhận ra anh vậy nhưng tôi cam đoan với anh, ngoài những chi tiết rõ rành rành như anh còn độc thân, là luật sư, thành viên hội Tam Điểm và mắc bệnh hen ra thì tôi không biết gì về anh cả."

Vì đã quen với các phương pháp của bạn tôi nên tôi dễ dàng theo kịp các suy luận của anh và tự quan sát thấy bộ quần áo luộm thuộm, xấp giấy tờ pháp lí, chiếc đồng hồ quả quýt và hơi thở là những căn cứ suy luận của anh. Song thân chủ của chúng tôi lại sững sờ.

"Phải, tất cả đều đúng, thưa ông Holmes, ngoài ra, lúc này tôi còn là kẻ bất hạnh nhất thành London. Trời ơi, xin đừng bỏ rơi tôi, ông Holmes! Nếu tôi chưa kể xong câu chuyện mà họ đã đến bắt tôi thì xin hãy bảo họ thong thả để tôi kể hết cho ông nghe toàn bộ sự thật. Tôi có thể vui vẻ vào nhà lao nếu biết rằng ở ngoài này ông đang giúp tôi."

"Bắt anh ư!" Holmes nói. "Chuyện này quả là hết sức đáng mừ... hết sức đáng lưu tâm. Anh nghĩ mình bị bắt vì tội gì?"

"Tội sát hại ông Jonas Oldacre, vùng Hạ Norwood."

Gương mặt biểu cảm của bạn tôi lộ vẻ cảm thông tuy tôi e là có xen lẫn sự hài lòng.

"Trời ơi", anh nói, "lúc ăn sáng vừa rồi tôi còn nói với ông bạn bác sĩ Watson rằng mấy vụ án li kì, rùng rợn trên báo đã lặn đâu mất rồi."

Người khách chìa bàn tay run run, cầm tờ Daily Telegraph vẫn còn trải trên đầu gối Holmes lên.

"Thưa ông, nếu ông đã xem tờ báo này rồi thì ông sẽ thấy ngay mục đích tôi đến tìm ông sáng nay là gì. Tôi tưởng như cả thiên hạ đang xì xầm bàn tán về tên tuổi và sự không may của mình." Anh ta lật tờ báo tới trang giữa. "Đây rồi, nếu ông cho phép, tôi xin đọc cho ông nghe. Xin hãy lắng nghe, ông Holmes. Bài báo này có cái tít là: Bí ẩn tại vùng Hạ Norwood. Một chủ thầu có tiếng bị mất tích. Nghi án giết người và phóng hỏa. Một manh mối giúp tìm ra thủ phạm. Họ đang lần theo manh mối đó, ông Holmes, và tôi biết là thể nào nó cũng dẫn đến chỗ tôi. Tôi bị theo dõi từ ga Cầu London và tôi tin chắc rằng họ chỉ chờ có trát là sẽ bắt tôi. Chuyện đó sẽ làm mẹ tôi đau lòng lắm... Bà sẽ đau lòng lắm!" Anh ta vặn vẹo hai bàn tay vẻ cực kì lo sợ rồi cứ ngồi lắc lư trên ghế.

Tôi chăm chú nhìn người bị cáo buộc là thủ phạm của tội ác tàn bạo này. Anh ta có mái tóc hoe và điển trai tuy có vẻ bi quan, phờ phạc, đôi mắt xanh thảng thốt, mặt mày nhẵn nhụi, khuôn miệng lộ nét yếu đuối, nhạy cảm. Anh ta trạc hai mươi bảy, mang y phục và phong thái của một quý ông. Nơi túi áo khoác mỏng mặc mùa hè ló ra một ít giấy tờ có chứng thực càng bộc lộ rõ nghề nghiệp của anh ta.

"Ta phải tận dụng khoảng thời gian ít ỏi", Holmes nói. "Watson này, anh vui lòng cầm lấy tờ báo rồi đọc cho tôi nghe mẩu tin mà chúng ta đang nói đến, được không?"

Bên dưới những cái tít hùng hồn mà thân chủ của chúng tôi vừa trích dẫn, tôi đọc bài tường thuật đầy hàm ý sau:

Khuya hôm qua, hoặc rạng sáng nay, tại vùng Hạ Norwood đã xảy ra một biến cố có khả năng là một vụ gây án vô cùng nghiêm trọng, ông Jonas Oldacre là một cư dân nổi tiếng trong vùng ngoại ô này, ông hành nghề thầu xây dựng đã nhiều năm. Ông năm mươi hai tuổi, còn độc thân, trú tại biệt thự Thung Sâu tại Sydenham, cuối con đường cùng tên. Ông có tiếng là lập dị, kín tiếng và xa lánh mọi người. Vài năm nay, ông gần như bỏ nghề, nghe đâu ông đã tích lũy được một khối tài sản đáng kể. Tuy vậy, sau nhà ông vẫn còn một xưởng cưa nhỏ, và vào hồi đêm qua, khoảng 12 giờ, có tin báo là một đống gỗ ở đây bốc cháy. Xe cứu hỏa đã nhanh chóng có mặt tại hiện trường nhưng gỗ khô cháy rần rật nên không thể nào dập tắt đám cháy cho đến khi đống gỗ bị thiêu rụi. Tính đến thời điểm đó, sự việc có vẻ là một rủi ro bình thường nhưng các dấu hiệu mới lại cho thấy đây là một tội ác nghiêm trọng. Người ta ngạc nhiên vì không thấy ông chủ xưởng cưa có mặt tại hiện trường đám cháy, cuộc điều tra sau đó cho thấy ông ta không còn ở trong nhà. Kết quả khám xét phòng ông ta cho thấy giường vẫn chưa có người nằm, một két sắt để mở, một số giấy tờ quan trọng vương vãi khắp phòng và cuối cùng trong phòng có những dấu hiệu của một cuộc giằng co dữ dội, mấy vết máu lờ mờ và một cây ba tong bằng gỗ sồi dính vài vết máu trên cán. Được biết, đêm qua ông Jonas Oldacre đã tiếp một vị khách đến vào lúc khuya khoắt tại phòng ngủ, và cây gậy tìm thấy được xác định là của người này, tên là John Hector McFarlane, đồng sở hữu văn phòng luật Graham & McFarlane, tại 426 cao ốc Gresham, trung tâm London. Cảnh sát tin rằng họ nắm trong tay chứng cứ vạch rõ động cơ phạm tội rất có sức thuyết phục, và tiếp theo chắc chắn sẽ còn những diễn biến hết sức li kì.

Tin giờ chót - khi báo sắp lên khuôn thì nghe nói ông John Hector McFarlane bị bắt vì tội sát hại ông Jonas Oldacre. Ít ra là trát bắt giữ chắc chắn đã được ban ra. Cuộc điều tra tại Norwood đã tiến triển theo chiều hướng đáng ngại. Ngoài các dấu hiệu cho thấy có một cuộc giằng co trong căn phòng của người chủ thầu xấu số, đến nay cảnh sát còn phát hiện thêm là cửa kính sau phòng ngủ (ở tầng một) của nạn nhân để mở, có những dấu vết cho thấy một vật cồng kềnh đã bị kéo lê tới chỗ đống gỗ, và sau hết, người ta khẳng định đã tìm thấy phần thi thể bị cháy thành than trong đống tro củi sau đám cháy. Cảnh sát nhận định rằng đây là một tội ác hết sức dã man, nạn nhân bị nện đến chết trong phòng ngủ của mình, giấy tờ bị lục lọi và cuỗm đi, còn xác ông ta bị kéo lê đến chỗ đống gỗ rồi bị đốt để phi tang. Việc chỉ đạo điều tra tội phạm được giao cho thanh tra Lestrade dày dạn kinh nghiệm, thuộc Sở Cảnh sát London. Hiện ông đang lần theo các manh mối bằng năng lực và sự sắc sảo vốn có.

Sherlock Holmes nhắm mắt và chụm các đầu ngón tay lại, lắng nghe bài báo lạ thường này.

"Rõ ràng là vụ này có vài điểm đáng chú ý", anh nói với vẻ thong dong. "Anh McFarlane này, trước hết, cho phép tôi được hỏi làm thế nào mà anh vẫn còn được tự do, bởi xem ra đã có đủ bằng chứng để bắt anh?"

"Tôi sống cùng cha mẹ tại tòa nhà Torrington ở Blackheath, thưa ông Holmes; nhưng đêm qua, vì phải làm việc khuya với ông Jonas Oldacre nên tôi trọ lại một khách sạn ở Norwood, rồi từ đó đi thẳng đến chỗ làm. Mãi đến khi lên tàu, đọc được bài báo ông vừa nghe thì tôi mới biết chuyện này. Tôi thấy ngay là mình đã rơi vào tình thế vô cùng nguy hiểm nên vội vàng đến cậy nhờ ông. Nếu tôi có mặt ở văn phòng trong khu City hoặc ở nhà thì chắc chắn giờ này đã bị bắt rồi. Có một ông đi theo tôi từ ga Cầu London, và tôi không nghi ngờ gì... Trời ơi, chuyện gì vậy?"

Tiếng chuông lanh lảnh vang lên, liền sau đó là tiếng chân chạy thình thịch trên cầu thang. Lát sau thì ông bạn cũ Lestrade của chúng tôi xuất hiện ở cửa. Qua vai ông ta, tôi thoáng thấy một, hai cảnh sát đứng bên ngoài.

"Ông John Hector McFarlane phải không?" Lestrade hỏi.

Vị thân chủ đen đủi của chúng tôi đứng lên, mặt mày tái mét.

"Tôi bắt ông vì tội cố ý sát hại ông Jonas Oldacre ở vùng Hạ Norwood."

McFarlane quay sang chúng tôi biểu lộ một cử chỉ tuyệt vọng, anh ta ngồi phịch xuống ghế như bị ấn xuống.

"Chờ chút, Lestrade", Holmes nói. "Với ông thì độ nửa giờ cũng chẳng nhằm nhò gì nhưng anh đây sắp sửa thuật lại cho chúng tôi một chuyện rất thú vị có thể giúp chúng ta làm sáng tỏ vụ án."

"Tôi thấy làm sáng tỏ vụ án chẳng có gì khó khăn", Lestrade nói chắc nịch.

"Nhưng dù sao thì, nếu ông cho phép, tôi rất hứng thú được nghe câu chuyện của anh ta."

"Thôi được, ông Holmes, tôi khó lòng từ chối ông điều gì, vì ngày trước ông đã đôi lần giúp ích cho lực lượng cảnh sát nên Sở Cảnh sát London chúng tôi còn nợ ông một lần đáp lễ", Lestrade nói. "Đồng thời tôi phải ở lại với phạm nhân, và buộc lòng báo trước cho ông ta biết rằng bất cứ điều gì ông ta nói đều có thể được xem là lời khai bất lợi cho ông ta."

"Tôi nào dám mong gì hơn", thân chủ của chúng tôi nói. "Tôi chỉ mong ông lắng nghe và nhận ra đâu là sự thật."

Lestrade nhìn đồng hồ đeo tay và nói, "Tôi sẽ cho ông nửa giờ."

"Trước hết tôi cần phải thanh minh," McFarlane nói, "rằng tôi chẳng biết gì về ông Jonas Oldacre. Tôi có biết tên ông ta vì nhiều năm trước cha mẹ tôi quen ông ta, nhưng họ đã dần xa cách. Vì vậy mà tôi rất đỗi ngạc nhiên khi ông ta bước vào văn phòng của tôi ở khu City vào khoảng 3 giờ chiều qua. Nhưng tôi còn sửng sốt hơn khi ông ta cho biết mục đích viếng thăm. Trong tay ông ta có vài tờ giấy được xé ra từ một cuốn sổ tay, trên đó đầy chữ viết nguệch ngoạc.

'Chúng đây.' Rồi ông ta đặt mấy tờ giấy lên bàn tôi. 'Đây là chúc thư của tôi', ông ta nói. 'Anh McFarlane, tôi muốn anh hợp thức hóa nó. Tôi sẽ ngồi đây chờ anh làm.'

Tôi bắt tay vào chép lại, và các ông có thể hình dung tôi kinh ngạc thế nào khi thấy rằng, trừ một ít giữ lại, ông ta để lại toàn bộ tài sản cho tôi. Ông ta là một người loắt choắt, kì lạ, hàng mi bạc trắng, và khi ngước lên nhìn ông ta, tôi thấy đôi mắt màu xám tinh anh của ông ta nhìn tôi chằm chặp vẻ khoái trá. Tôi hầu như không thể tin nổi vào mình khi đọc các điều khoản trong chúc thư, nhưng ông ta giải thích nào là ông ta độc thân, hầu như chẳng còn bà con thân thích nào trên đời, nào là thời trẻ ông ta có quen biết cha mẹ tôi, và luôn nghe nói tôi là một thanh niên rất đáng khen, nên an tâm rằng tiền của mình sẽ nằm trong bàn tay xứng đáng. Tất nhiên, tôi chỉ còn biết ấp úng cảm ơn. Tờ chúc thư đã soạn xong, được thư kí của tôi kí làm chứng theo đúng thể thức. Nó nằm trên liên xanh đây, còn mấy tờ này, như tôi vừa giải thích, là bản nháp. Rồi ông Jonas Oldacre cho tôi biết là có một số tài liệu - hợp đồng xây dựng, bằng khoán, văn tự thế chấp, chứng thư, vân vân - mà tôi cần xem và tìm hiểu. Ông ta nói đến khi nào chuyện này xong xuôi thì ông ta mới yên trí được, nên cố nài tôi mang tờ chúc thư đến nhà ông ta tại Norwood vào tối hôm đó để thu xếp công việc. 'Con trai ạ, nhớ là không được nói tiếng nào với cha mẹ về việc này cho đến khi tất cả đã xong xuôi. Chúng ta sẽ giữ kín để cho họ một bất ngờ nho nhỏ.' Ông ta rất dứt khoát về điểm này và bắt tôi hứa chắc chuyện đó.

Ông Holmes, ông có thể hình dung là tôi không muốn từ chối bất kì điều gì ông ta đòi hỏi. Ông ta là người gia ơn cho tôi, nên tôi chỉ mong có thể thực hiện những nguyện vọng của ông ta từng li từng tí. Vì vậy tôi đánh điện về nhà, báo rằng tôi có việc quan trọng, không biết khi nào mới xong, ông Oldacre nói muốn tôi ăn tối với ông ta lúc 9 giờ, vì có lẽ ông ta không thể về sớm hơn. Tuy vậy, tìm nhà ông ta hơi khó nên gần 9 rưỡi tôi mới tới nơi. Tôi thấy ông ta..."

"Khoan đã!" Holmes nói. "Ai ra mở cửa?"

"Một bà đứng tuổi, tôi cho là quản gia của ông ta."

"Tôi đoán chừng bà ta là người báo tên anh cho cảnh sát?"

"Đúng vậy", McFarlane nói.

"Xin hãy kể tiếp!"

McFarlane lau vầng trán lấm tấm mồ hôi rồi tiếp tục thuật lại.

"Bà này dẫn tôi vào một phòng khách đã bày sẵn một bữa tối đạm bạc. Sau đó, ông Jonas Oldacre dẫn tôi vào phòng ngủ, trong đó có một cái két sắt nặng, ông ta mở két, lấy ra cả mớ tài liệu rồi chúng tôi cùng nhau xem xét kĩ lưỡng. Khi chúng tôi xem xong thì đã 11, 12 giờ. Ông ta nói chúng tôi không nên làm phiền bà quản gia. Ông ta dẫn tôi ra ngoài qua cửa kính sau vẫn để ngỏ nãy giờ."

"Có buông rèm không?" Holmes hỏi.

"Tôi không dám chắc, nhưng tôi tin rằng nó chỉ buông hờ. Phải rồi, tôi nhớ ông ta đã kéo nó lên để mở toang cửa. Tôi không thấy cây gậy của mình đâu, ông ta bèn nói: 'Không sao, con trai ạ, hi vọng từ giờ ta sẽ còn gặp con nhiều, vậy nên ta sẽ giữ cây gậy cho đến khi con quay lại lấy.' Tôi từ biệt ông ta ở đó, cái két sắt vẫn để mở, còn giấy tờ thì đã xếp thành từng gói trên bàn. Lúc ấy khuya quá, tôi không thể về Blackheath nên đành qua đêm tại Anerley Arms, rồi tôi không biết gì nữa cho đến sáng nay mới đọc thấy báo đưa tin về vụ việc khủng khiếp này."

"Ông còn muốn hỏi thêm gì không, ông Holmes?" Lestrade nói, ông ta đã nhướng mày đồi lần trong lúc lắng nghe những lời giải thích lạ lùng này.

"Đợi đến khi tôi tới Blackheath đã."

"Đến Norwood chứ", Lestrade nói.

"À, phải, tôi định nói vậy đấy", Holmes nói, mỉm cười bí hiểm.

Qua bao kinh nghiệm, Lestrade - tay không chịu thừa nhận tất cả - đã hiểu rằng bộ óc sắc bén đó có thể nhìn thấu thứ mà ông ta không tài nào hiểu nổi. Tôi thấy ông ta nhìn bạn tôi với vẻ thắc mắc.

"Tôi nghĩ tôi có điều này cần nói với ông, ông Sherlock Holmes", ông ta nói. "Nào, ông McFarlane hai cảnh sát của tôi đang đứng ở cửa và một xe bốn bánh đang chờ."

Chàng trai khốn khổ đứng lên, liếc nhìn chúng tôi lần cuối vẻ khẩn cầu rồi rời khỏi phòng. Mấy viên cảnh sát dẫn giải anh ta ra xe, còn Lestrade thì vẫn nán lại.

Holmes nhặt mấy tờ nháp của bản chúc thư lên xem, vẻ mặt hết sức chăm chú.

"Tài liệu đó có mấy điểm đáng chú ý, phải không Lestrade?" Anh vừa nói vừa đẩy mấy tờ giấy qua.

Viên thanh tra nhìn mấy tờ giấy, vẻ lúng túng.

"Tôi đọc được dăm dòng đầu, mấy dòng ở giữa trang thứ hai và vài dòng cuối. Mấy dòng đó thì rõ như in", anh ta nói, "nhưng những chỗ còn lại thì viết tháu lắm, có ba chỗ tôi không đọc được gì cả."

"Ông hiểu sao về điều đó?" Holmes nói.

"Ờ, thế ông thì sao?"

"Bức chúc thư này được viết trên tàu hỏa. Chữ viết rõ ràng tương ứng với lúc đến ga, chỗ viết nguệch ngoạc tương ứng với lúc tàu chạy, còn chỗ viết hết sức lộn xộn tương ứng với những lúc đi qua chỗ bẻ ghi. Một chuyên gia có phương pháp sẽ tuyên bố ngay rằng tờ chúc thư này được thảo trên một tuyến tàu ngoại ô, vì ngoài vùng phụ cận của một thành phố lớn ra, chẳng nơi nào có một loạt điểm bẻ ghi liên tiếp như vậy. Giả sử ông ta bận thảo chúc thư trong suốt hành trình, vậy thì đó là một con tàu tốc hành, chỉ dừng một lần suốt chặng đường từ Norwood đến Cầu London."

Lestrade bật cười. "Ông mà lôi mớ giả thuyết ra thì tôi chịu rồi, ông Holmes ạ", ông ta nói. "Điều này thì có liên quan gì đến vụ án?"

"À, nó chứng thực lời khai của anh chàng kia ở chỗ bản chúc thư được Jonas Oldacre thảo ra trên đường đi ngày hôm qua. Một tài liệu quan trọng như vậy mà lại được soạn một cách ẩu tả đến thế, chẳng lạ sao? Thế nghĩa là ông ta không nghĩ nó quan trọng lắm. Nếu một người soạn chúc thư mà không định bụng để cho nó có hiệu lực thì có thể làm như vậy?"

"Chà, cùng lúc đó ông ta cũng đã tự tạo ra án tử cho mình", Lestrade nói.

"Ồ, ông nghĩ thế ư?"

"Ông không nghĩ vậy sao?"

"À, chuyện đó thì có thể lắm chứ, nhưng tôi thấy vụ án vẫn chưa rõ ràng."

"Chưa rõ sao? Chà, nó mà còn chưa rõ thì cái gì mới rõ đây? Có một anh chàng bỗng dưng biết rằng, nếu một ông già nọ chết đi thì hắn sẽ được thừa kế một gia tài. Hắn phải làm gì? Hắn chẳng hé môi với ai mà lấy cớ tới gặp thân chủ của mình vào tối hôm đó. Hắn chờ cho đến khi người duy nhất còn lại trong nhà đi ngủ rồi giết ông ta trong căn phòng vắng vẻ, sau đó thiêu cái xác trong đống gỗ và bỏ về một khách sạn gần đó. Mấy vết máu trong phòng và trên cây gậy đều rất mờ nhạt. Có lẽ hắn tưởng tội ác của mình không vấy máu, và hi vọng nếu cái xác cháy rụi thì sẽ che giấu được mọi vết tích về cách thức gây án - bởi những dấu vết ấy hẳn sẽ vạch mặt hắn vì lí do này khác. Tất cả những điều này còn chưa rõ rành rành hay sao?"

"Ông bạn Lestrade ơi, vì nó rõ rành rành quá nên mới làm tôi phải chú ý đấy", Holmes nói. "Ông có nhiều phẩm chất tuyệt vời nhưng lại chẳng chịu tưởng tượng gì cả. Nếu đặt mình vào địa vị của chàng trai này thì ông có chọn ngay cái đêm sau khi lập chúc thư để gây án không? Ông không thấy việc tạo một mối liên hệ chặt chẽ như vậy giữa hai sự việc là quá nguy hiểm sao? Còn nữa, ông có chọn một dịp mà người ta biết ông có mặt trong căn nhà ấy, đặc biệt là khi có một người hầu mở cửa cho ông vào không? Và cuối cùng, ông có cất công giấu cái xác nhưng lại bỏ lại cây gậy - một vật chứng cho thấy ông là thủ phạm? Hãy thừa nhận đi, Lestrade, tất cả những điều này rất khó xảy ra."

"Ông Holmes này, về phần cây gậy thì ông cũng như tôi đều quá rõ là tội phạm thường luống cuống nên phạm sai lầm mà người điềm tĩnh sẽ tránh. Rất có thể hắn sợ phải quay lại phòng. Cho tôi một giả thuyết khác khớp với các tình tiết đi!"

"Tôi có thể dễ dàng cho ông tận năm, sáu giả thuyết," Holmes nói. "Chẳng hạn, có một giả thuyết rất khả dĩ và thậm chí có thể xảy ra. Tôi biếu không ông đây! Ông lão đang bày ra mấy tài liệu có giá trị. Một gã ất ơ đi ngang qua, nhìn thấy chúng qua cửa kính có rèm buông hờ. Anh chàng luật sư đi ra. Gã ất ơ bước vào. Hắn ta chộp lấy cây gậy mà hắn nhìn thấy, giết Oldacre rồi bỏ đi sau khi đã thiêu cái xác."

"Sao gã ất ơ lại phải thiêu cái xác?"

"Vậy sao McFarlane phải thiêu nó?"

"Để che giấu một chứng cứ nào đó."

"Có lẽ gã ất ơ muốn giấu giếm rằng không có án mạng nào cả."

"Thế sao gã ất ơ lại chẳng lấy thứ gì?"

"Vì đó là những giấy tờ mà hắn không thể chuyển nhượng."

Lestrade lắc đầu, dù thái độ của ông ta dường như không còn quả quyết như trước nữa. "Thôi được, ông Sherlock Holmes, ông cứ việc tìm kiếm gã ất ơ đó, trong lúc ông tìm hắn, chúng tôi sẽ giữ người vừa bắt. Tương lai sẽ cho thấy giả thuyết nào là đúng. Chỉ cần ông lưu ý điểm này, ông Holmes: Theo những gì chúng tôi biết, chẳng có giấy tờ nào bị lấy đi, và trên đời này chỉ có gã phạm nhân kia là không có lí do gì để lấy chúng, vì hắn ta là người thừa kế hợp pháp nên bất luận thế nào cũng sẽ được hưởng."

Bạn tôi có vẻ bất ngờ vì lời nhận xét này.

"Tôi không phủ nhận rằng về một số mặt thì chứng cứ ủng hộ rất manh mẽ cho giả thuyết của ông", anh nói. "Tôi chỉ muốn đưa ra quan điểm là còn có những giả thuyết khả dĩ khác. Như ông nói, tương lai sẽ phán xử. Chào ông! Tôi dám chắc rằng nội trong ngày hôm nay tôi sẽ ghé qua Norwood xem các ông xoay xở ra sao."

Khi viên thanh tra đi rồi, bạn tôi đứng lên, chuẩn bị cho công việc trong ngày với vẻ lanh lợi của người có một nhiệm vụ xứng hợp đang chờ.

"Watson này", anh vừa nói vừa hối hả mặc áo khoác, "như tôi đã nói, bước đi đầu tiên của tôi là tới Blackheath."

"Sao không phải là Norwood?"

"Bởi vì trong vụ này ta có một sự việc đáng chú ý đi liền sau một sự việc đáng chú ý khác. Cảnh sát đang phạm sai lầm khi chỉ tập trung chú ý vào sự việc thứ hai, vì nó tình cờ có tính chất hình sự. Nhưng tôi lại thấy rõ phương cách tiếp cận vụ án hợp lí là phải cố làm sáng tỏ sự việc ban đầu trước đã - tờ chúc thư kì lạ được lập ra rất thình lình và dành cho một người thừa kế không thể nào ngờ được. Điều đó có thể làm cho sự việc tiếp theo trở nên đơn giản hơn. Không, bạn thân ơi, tôi nghĩ là anh không giúp gì được cho tôi đâu. Cũng chẳng có gì nguy hiểm, nếu không tôi nào dám mong ra khỏi nhà mà không có anh đi cùng. Tôi hi vọng đến chiều tối gặp lại anh, tôi có thể thông báo rằng mình đã làm được điều gì đó cho chàng trai bất hạnh đã nhờ cậy tôi bênh vực."

***

Khi bạn tôi về thì trời đã tối, và chỉ thoáng nhìn bộ mặt phờ phạc, lo âu của anh, tôi biết những kì vọng của anh lúc sắp lên đường vẫn chưa thực hiện được. Anh ngồi cả giờ bên chiếc vĩ cầm, cố xoa dịu tinh thần đang xáo động. Cuối cùng anh ném cây đàn xuống rồi bắt đầu thuật lại cặn kẽ những rủi ro của mình.

"Sai cả rồi, Watson à... Mọi chuyện sai thật rồi. Trước mặt Lestrade, tôi cứ làm mặt tỉnh bơ, nhưng trong thâm tâm, tôi tin là lần này ông ta đang đi đúng đường còn chúng ta đã sai hướng. Trực giác của tôi đi một đằng còn mọi bằng chứng lại theo một nẻo, và tôi sợ rằng bồi thẩm đoàn của Anh quốc chưa đủ thông minh để ưu ái các giả thuyết của tôi hơn các bằng chứng của Lestrade."

"Anh có đến Blackheath không?"

"Có, Watson à, tôi đến đấy rồi, và chẳng mấy chốc đã biết được rằng gã Oldacre quá cố là một kẻ khá đê tiện. Người cha đang đi tìm con trai. Bà mẹ thì ở nhà - đó là một người phụ nữ bé nhỏ, mắt xanh, da dẻ mịn màng, đang rối bời vì sợ hãi và phẫn nộ. Tất nhiên, bà ta sẽ chẳng chịu thừa nhận khả năng anh ta có tội. Nhưng bà ta cũng chẳng tỏ vẻ ngạc nhiên hay thương tiếc cho số phận của Oldacre. Trái lại, khi nhắc đến hắn, bà ta gay gắt đến độ vô tình củng cố đáng kể cho giả định của cảnh sát, vì lẽ tất nhiên, anh con trai mà nghe bà ta nói về Oldacre như thế thì sẽ có khuynh hướng căm thù và dùng vũ lực với ông ta.

'Hắn ta giống một con đười ươi hung ác và xảo quyệt hơn là một con người', bà ta nói, 'Hắn vẫn luôn như vậy từ thời trai trẻ.'

'Hồi ấy bà có quen ông ta?' Tôi hỏi.

'Phải, tôi biết hắn rất rõ. Thực ra, hắn từng theo đuổi tôi. Nhờ trời, tôi đã sáng suốt mà từ chối hắn và lấy một người tử tế hơn, dù nghèo hơn. Tôi đã đính ước với hắn, ông Holmes ạ, thì nghe được câu chuyện kinh hoàng là hắn đã thả mèo vào chuồng chim. Tôi quá ghê sợ sự độc ác tàn nhẫn của hắn nên không còn muốn dính dáng gì đến hắn'. Bà ta lục lọi trong chiếc tủ thấp rồi chìa ra tấm hình chụp một người phụ nữ bị dao rạch chằng chịt. 'Hình tôi đấy', bà ta nói. 'Hắn gởi tấm hình bị rạch nát cho tôi kèm theo lời nguyền rủa vào buổi sáng tôi làm lễ cưới.'

'Vâng', tôi nói, 'nhưng ít ra bây giờ ông ta đã tha thứ cho bà, vì ông ta đã để lại toàn bộ gia sản cho con trai bà.'

'Cả tôi và con trai tôi đều không cần bất cứ thứ gì từ Jonas Oldacre, kể cả lúc hắn còn sống hay đã chết', bà ta khẳng khái thốt lên. 'Chúa ở trên trời, ông Holmes ạ, ngài đã trừng phạt con người độc ác ấy và ngài cũng sẽ chứng minh rằng bàn tay con trai tôi không vấy máu của hắn.'

Đấy, tôi đã thử lần theo vài ba manh mối nhưng chẳng tìm được gì củng cố cho giả thuyết của ta, có những điểm còn bác lại nó nữa. Cuối cùng tôi đành chịu thua và bỏ đi Norwood. Biệt thự Thung Sâu là một biệt thự lớn, hiện đại, tường ốp gạch nổi bật, nằm sâu trong khuôn viên, đằng trước là một bãi cỏ trồng nguyệt quế. Xưởng cưa - hiện trường của vụ cháy thì nằm ở bên phải và cách đường đi một quãng. Tôi có phác qua sơ đồ trong cuốn sổ tay đây. Cửa bên trái này chính là cửa phòng Oldacre. Đứng ở ngoài đường ta có thể nhìn được vào bên trong, anh thấy đấy. Đó gần như là chút an ủi duy nhất của tôi trong ngày hôm nay. Lestrade không có ở đấy nhưng tay cảnh sát chỉ huy dưới quyền anh ta đã tiếp tôi chu đáo. Bọn họ vừa tìm được cả một kho báu. Họ đã cào bới kĩ đám tro tàn của đống gỗ cháy suốt buổi sáng, ngoài những phần thi thể đã bị cháy thành than ra thì còn tìm được mấy miếng kim loại hình tròn không còn màu sắc gì. Tôi đã xem xét cẩn thận và tin chắc đó là khuy quần dài. Tôi thậm chí còn phát hiện ra một cái có tên Hyams, thợ may của Oldacre. Tôi bèn sục sạo kĩ lưỡng khắp bãi cỏ để tìm dấu vết, nhưng trời nắng hạn đã làm cho mặt đất rắn lại như sắt. Tôi chẳng nhìn thấy gì ngoại trừ vết tích của một cái xác hay đống gì đó bị kéo lê qua bờ giậu thủy lạp thấp nằm thẳng hàng với đống gỗ. Lẽ đương nhiên, tất cả những thứ ấy đều khớp với giả thuyết của cảnh sát.

Tôi trườn khắp bãi cỏ trong khi nắng tháng 8 thiêu đốt trên lưng, nhưng một giờ sau, khi đứng lên, tôi vẫn không biết được gì hơn. Thế rồi, sau thảm bại này, tôi vào phòng ngủ và xem xét ở đó. Mấy vệt máu mờ lắm, chỉ là những vết nhòe không màu sắc, nhưng rõ ràng vẫn còn mới. Cây gậy đã bị lấy đi, nhưng những dấu vết trên đó cũng rất mờ. Chuyện cây gậy thuộc về thân chủ của chúng ta thì quá rõ rồi. Anh ta đã thừa nhận điều đó. Có thể nhìn ra dấu chân của cả hai trên thảm, nhưng không thấy dấu chân của người thứ ba. Lại một bàn thắng cho bên kia. Họ cứ đều đều ghi điểm còn ta thì bế tắc.

Tôi chỉ tìm thấy một tia hi vọng nhỏ nhoi, vậy mà rốt cuộc cũng chẳng đi tới đâu. Tôi kiểm tra kĩ những thứ ở trong két sắt, hầu hết trong số đó đã được lấy ra và để trên bàn. Giấy tờ được bỏ vào từng phong bì niêm phong, một hai cái đã được cảnh sát mở ra. Theo tôi nhận định, giá trị của chúng không lớn, sổ sao kê tài khoản còn cho thấy ông Oldacre không dư dả lắm. Nhưng tôi cảm thấy hình như chỗ giấy tờ đó chưa đủ. Nghe nói còn có một số chứng thư nào đó - có giá trị hơn không chừng - nhưng tôi không tìm thấy. Dĩ nhiên, nếu ta chứng minh được rõ ràng điều này thì lí lẽ của Lestrade sẽ bác lại giả thuyết của ông ta, vì ai lại đi đánh cắp một thứ mà chẳng bao lâu nữa mình sẽ được thừa hưởng chứ?

Cuối cùng, sau khi mở hết chỗ phong bì đựng giấy tờ mà vẫn không đánh hơi được gì, tôi thử vận may với bà quản gia. Bà ta tên là Lexington - một người nhỏ thó, da ngăm, ít nói và có cặp mắt láo liên đầy khả nghi, tôi tin chắc rằng nếu muốn thì bà ta đã cho chúng ta biết được đôi điều. Nhưng miệng bà ta kín như bưng. Đúng là bà ta có mở cửa cho anh chàng McFarlane vào lúc 9 giờ rưỡi. Bà ta nói ước gì bàn tay mình quắt queo đi trước khi làm vậy. Bà ta đi ngủ lúc 10 giờ rưỡi. Phòng của bà ta nằm ở đầu kia căn nhà nên bà ta không nghe thấy chuyện gì xảy ra. Bà ta chỉ biết chắc một điều là anh McFarlane đã để lại mũ và cây gậy ở tiền sảnh. Bà ta tỉnh dậy vì nghe thấy tiếng báo cháy, ông chủ kính mến, đáng thương của bà ta chắc chắn đã bị sát hại. Ông ta có kẻ thù nào không? Ôi, ai mà chẳng có kẻ thù, nhưng ông Oldacre rất ít giao du, và chỉ gặp gỡ người khác vì chuyện làm ăn. Nhìn thấy mấy cái nút, bà ta khẳng định chắc nịch chúng chính là khuy quần áo của bộ đồ ông ta mặc tối qua. Đống củi khô róm, vì cả tháng rồi không có lấy một giọt mưa. Nó cháy như bùi nhùi nên khi bà ta đến nơi thì chẳng còn thấy gì ngoài lửa. Bà ta và tất cả lính cứu hỏa đều ngửi thấy mùi da thịt khét lẹt tỏa ra từ trong đám cháy. Bà ta không biết gì về đống giấy tờ cũng như những việc riêng của ông Oldacre.

Đấy, Watson thân mến ơi, tôi đã thuật lại cho anh nghe thất bại của tôi rồi đấy. Thế nhưng... thế nhưng...", anh siết chặt hai bàn tay gầy vì một niềm tin chắc nịch đột ngột bùng lên, "tôi biết là sai cả rồi! Tôi cảm thấy chắc chắn như vậy. Vẫn còn điều gì đó chưa hé lộ mà mụ quản gia biết. Trong mắt mụ có cái vẻ ngông nghênh, thách thức vốn chỉ có ở những người biết rõ về một hành vi sai trái nào đó. Tuy nhiên, có nói thêm về chuyện đó cũng chẳng ích gì, Watson ạ; nhưng nếu ta không gặp may thì tôi e rằng vụ Mất tích ở Norwood sẽ không có mặt trong bản ghi chép thành tích của ta mà tôi đã thấy trước là sớm muộn gì đám công chúng kiên nhẫn cũng phải chịu đựng."

"Chắc hẳn", tôi nói, "vẻ ngoài của anh chàng này có thể gây cảm tình với bất cứ bồi thẩm đoàn nào chứ?"

"Lập luận đó nguy hiểm đấy, Watson thân mến. Anh nhớ gã sát nhân Bert Stevens ghê gớm muốn ta gỡ tội cho hắn hồi năm 1887 không? Đã bao giờ có chàng trai nào thanh lịch, ngoan đạo hơn chưa?"

"Đúng vậy."

"Nếu ta không lập được một giả thuyết khác, anh chàng này sẽ thua. Anh khó lòng tìm được sơ hở nào trong vụ án mà anh ta đang bị kết tội, và mọi điều tra tiếp theo đều chỉ củng cố thêm tội trạng của anh ta mà thôi. Mà này, đám giấy tờ đó có một điểm nhỏ kì lạ mà ta có thể dùng làm xuất phát điểm cho một cuộc điều tra. Khi xem xét cuốn sổ sao kê tài khoản, tôi thấy tình trạng số dư thấp chủ yếu là do những tờ chi phiếu có giá trị lớn cho ông Cornelius trong suốt năm ngoái. Thú thật là tôi rất hứng thú muốn biết ông Cornelius này là ai mà một chủ thầu về hưu lại có những giao dịch lớn với ông ta như vậy. Không lẽ ông ta có nhúng tay vào vụ này? Cornelius có thể là một nhà môi giới, nhưng ta chưa tìm thấy chứng thư nào tương ứng với các khoản thanh toán lớn này. Vì không có dấu vết nào khác nên giờ đây tôi sẽ phải chuyển hướng điều tra về phía nhà băng của quý ông đã đổi mấy chi phiếu này thành tiền mặt. Nhưng anh bạn ơi, tôi e rằng vụ án sẽ khép lại nhục nhã khi Lestrade treo cổ thân chủ của ta, điều đó đương nhiên là một đại thắng cho Sở Cảnh sát London."

Tôi không biết đêm đó Sherlock Holmes có ngủ được chút nào không, nhưng khi xuống nhà ăn điểm tâm, tôi thấy anh xanh xao, căng thẳng, đôi mắt vốn đã sáng càng sáng ngời hơn vì những quầng thâm bao quanh. Mặt thảm quanh ghế anh ngồi vương vãi đầu mẩu thuốc lá và mấy tờ báo sáng cũ. Một bức điện tín để mở trên bàn.

"Anh nghĩ sao về cái này, Watson?" Anh hỏi, ném nó qua.

Bức điện từ Norwood, có nội dung như sau:

Đã có chứng cứ mới quan trọng. Tội trạng của McFarlane được xác minh rõ ràng. Khuyên ông từ bỏ vụ án.

LESTRADE

"Nghe có vẻ nghiêm trọng đấy", tôi nói

"Tiếng gáy huênh hoang chiến thắng của Lestrade ấy mà", Holmes đáp, mỉm cười chua chát. "Thế nhưng có lẽ vẫn còn quá sớm để từ bỏ vụ này. Suy cho cùng, chứng cứ mới quan trọng là một con dao hai lưỡi, nó có thể chém về một hướng rất khác so với Lestrade hình dung. Dùng điểm tâm đi, Watson, rồi ta sẽ cùng ra ngoài để xem ta có thể làm được gì. Tôi cảm thấy hôm nay tôi sẽ cần anh bầu bạn và ủng hộ tinh thần."

Anh bạn tôi không dùng điểm tâm, vì anh có thói quen kì quặc là vào những lúc căng thẳng, anh không cho phép mình ăn uống. Tôi biết anh từng lạm dụng thể lực rắn rỏi của bản thân cho đến khi ngất xỉu vì đói lả. "Vào lúc này, tôi không thể dành năng lượng và tinh thần cho việc tiêu hóa được", anh thường trả lời như vậy khi tôi quở trách anh trên phương diện y khoa. Vì vậy, tôi không ngạc nhiên khi sáng nay anh bỏ bữa rồi cùng tôi lên đường tới Norwood. Một đám đông hiếu kì về vụ án mạng vẫn còn xúm xít quanh biệt thự Thung Sâu, nó đúng là một tòa biệt thự ở vùng ngoại ô như tôi đã hình dung. Lestrade đứng bên trong cổng đón chúng tôi, mặt ửng hồng vì chiến thắng, dáng vẻ hết sức đắc thắng.

"Sao, ông Holmes, ông chứng minh được là chúng tôi sai chưa? Ông đã tìm ra gã ất ơ của ông chưa?" Ông ta kêu lên.

"Tôi chưa có kết luận nào cả", bạn đồng hành của tôi trả lời.

"Còn chúng tôi thì có kết luận từ hôm qua rồi, và giờ thì nó đã được xác thực là đúng, vì vậy ông phải công nhận là lần này chúng tôi đã vượt ông một bước, ông Holmes."

"Nhìn bộ dạng ông như thể đã có chuyện gì đó bất thường xảy ra vậy", Holmes nói.

Lestrade cười khanh khách. "Ông cũng không thích bị thua như bất kì ai trong chúng tôi", ông ta nói. "Người ta đâu thể mong mọi sự lúc nào cũng theo ý mình, phải thế không bác sĩ Watson? Vui lòng bước lối này, quý vị, tôi nghĩ mình có thể một lần dứt khoát thuyết phục các vị tin rằng chính John McFarlane đã phạm tội ác này."

Ông ta dẫn chúng tôi đi hết hành lang rồi bước vào một tiền sảnh âm u.

"Đây là nơi anh chàng McFarlane đã ra lấy mũ sau khi gây án", ông ta nói. "Nào, nhìn đây". Ông ta bất thần quẹt diêm rồi đưa lên soi một vết máu trên bức tường quét vôi trắng. Khi ông ta đưa que diêm lại gần hơn, tôi thấy đó không chỉ là một vết máu. Đó là dấu ngón tay cái in rõ nét.

"Dùng kính lúp mà xem đi, ông Holmes."

"Vâng, tôi đang làm vậy đây."

"Ông biết rằng không có hai dấu vân tay nào giống nhau chứ?"

"Tôi có nghe điều gì đó đại loại như vậy."

"À, vậy thì xin ông vui lòng đối chiếu dấu tay đó với mẫu sáp in dấu ngón tay cái trên bàn tay phải của anh chàng McFarlane này, được lấy hồi sáng nay theo lệnh của tôi."

Khi ông ta đưa mẫu sáp lại gần vết máu, chẳng cần kính lúp cũng nhận thấy hai dấu tay này chắc chắn được in ra từ một ngón tay cái. Hiển nhiên là thân chủ đen đủi của chúng tôi thua rồi.

"Vậy là xong", Lestrade nói

"Phải, vậy là xong", tôi buột miệng phụ họa.

"Vậy là xong", Holmes nói

Nghe giọng điệu anh có gì đó khác thường nên tôi quay lại nhìn. Biểu cảm trên mặt anh đã thay đổi đến không ngờ. Anh phải nhăn mặt lại vì che giấu nỗi mừng rỡ ngấm ngầm. Hai mắt anh sáng long lanh. Tôi thấy dường như anh đang cố hết sức để không bật cười ngặt nghẻo.

"Trời ơi! Trời ơi!" Cuối cùng anh nói. "Ai mà ngờ được chứ? Vẻ ngoài đúng là dễ đánh lừa thật! Nhìn anh ta rõ là tử tế! Đó là một bài học cho chúng ta, đừng nên tin vào phán đoán của mình, đúng không Lestrade?"

"Phải, một số người trong chúng ta có cái thói tự phụ quá thể, ông Holmes à", Lestrade nói.

Sự xấc xược của gã này thực khiến người khác tức điên, nhưng chúng tôi không thể hậm hực được.

"Quả là may vì khi lấy mũ trên mắc anh chàng này lại ấn ngón tay cái lên tường! Ngẫm ra thì hành động đó cũng tự nhiên thôi." Bề ngoài Holmes rất thản nhiên nhưng khi nói, cả người anh cứ máy động vì phải kiềm chế sự phấn chấn. "Mà này, Lestrade, phát hiện đáng chú ý này là của ai vậy?"

"Bà quản gia Lexington, bà ta đã chỉ cho viên cảnh sát trực đêm."

"Lúc ấy anh cảnh sát trực đêm đó đang ở đâu?"

"Anh ta đang trực trong căn phòng ngủ xảy ra án mạng, để canh không cho ai động đến thứ gì."

"Nhưng tại sao hôm qua cảnh sát lại không thấy dấu này?"

"À, chúng tôi không có lí do gì đặc biệt để khám xét tiền sảnh kĩ càng như thế. Vả lại, chỗ này không dễ thấy cho lắm, ông thấy đấy."

"Phải, phải, tất nhiên là không dễ thấy, ông có chắc dấu tay này đã có ở đấy từ hôm qua?"

Lestrade nhìn Holmes như thể nghĩ anh sắp mất trí. Thú thật là chính tôi cũng ngạc nhiên vì kiểu cách bông đùa và lời nhận xét khá vu vơ của anh.

"Tôi không biết có phải ông cho rằng giữa đêm hôm McFarlane trốn khỏi nhà lao để củng cố bằng chứng bất lợi cho mình không", Lestrade nói. "Tôi thách bất cứ chuyên gia nào trên đời này chứng minh được đó không phải là dấu ngón tay cái của anh ta đấy!"

"Đương nhiên đó là dấu ngón tay cái của anh ta rồi."

"Đấy, vậy là đủ rồi", Lestrade nói. "Tôi là người thực tế, ông Holmes, nên hễ có chứng cứ là tôi đi đến kết luận. Nếu ông muốn nói thêm điều gì thì hãy tới tìm tôi ở phòng khách, tôi sẽ ngồi viết báo cáo ở đấy."

Holmes đã điềm đạm trở lại, song dường như tôi vẫn thấy đôi nét khoái trá lóe lên trên mặt anh.

"Trời ơi, diễn biến này đáng buồn quá, phải không Watson?" Anh nói. "Vậy nhưng trong đó lại có vài điểm kì lạ mang lại chút hi vọng cho thân chủ của ta."

"Tôi rất mừng khi nghe vậy", tôi nói thật lòng. "Tôi cứ sợ là anh ta đã tiêu tùng rồi."

"Tôi không dám nói xa đến thế, Watson thân mến. Thực ra, trong bằng chứng mà ông bạn của chúng ta cho là quan trọng lại có một kẽ hở nghiêm trọng."

"Thật sao, Holmes! Là gì vậy?"

"Chỉ là, tôi biết dấu tay đó không hề có trên tường lúc tôi xem xét tiền sảnh ngày hôm qua. Nào, Watson, ta đi dạo một vòng trong nắng đi!" Đầu óc rối bời nhưng trái tim đã lại nhen nhóm một tia hi vọng ấm áp, tôi theo bạn đi dạo quanh vườn. Holmes lần lượt đi tới từng mặt nhà và xem xét cực kì chăm chú. Rồi anh bước vào trong và đi khắp tòa nhà, từ tầng hầm lên gác mái. Đa số các phòng đều trống trơn nhưng Holmes vẫn kiểm tra thật tỉ mỉ. Cuối cùng, ở hành lang tầng trên cùng, chạy dọc bên ngoài ba phòng ngủ bỏ không, anh lại trở nên hồ hởi.

"Quả thực vụ này có một số điểm rất lạ đời, Watson ạ", anh nói. "Tôi nghĩ đã đến lúc tiết lộ cho ông bạn Lestrade biết rồi. Ông ta đã cười cợt chúng ta, và ta có thể đáp lại y như thế nếu suy luận của tôi về chuyện này là đúng. Phải, phải, tôi nghĩ tôi đã biết cách tiếp cận nó rồi."

Viên thanh tra của Sở Cảnh sát London vẫn đang ngồi viết trong phòng khách thì bị Holmes cắt ngang.

"Tôi đoán là ông đang viết tường trình về vụ này", anh nói.

"Đúng vậy."

"Ông không thấy làm vậy là hơi sớm sao? Tôi không thể không nghĩ rằng bằng chứng của ông vẫn chưa đầy đủ."

Lestrade biết rõ bạn tôi đến mức không thể phớt lờ lời anh. Ông ta đặt bút xuống rồi nhìn anh với vẻ tò mò.

"Ý ông là sao, ông Holmes?"

"Có một nhân chứng quan trọng mà ông chưa gặp."

"Ông có thể đưa hắn tới đây được không?"

"Tôi nghĩ là được."

"Vậy thì làm đi!"

"Tôi sẽ cố hết sức. Ông có mấy cảnh sát?"

"Có ba người đang ở ngay đây."

"Tuyệt!" Holmes nói. "Cho phép tôi hỏi họ có to cao, tráng kiện và có chất giọng sang sảng không?"

"Tôi tin chắc là vậy, dù tôi chưa hiểu giọng họ thì có liên quan gì."

"Tôi có thể giúp ông hiểu được điều đó và đôi điều khác nữa không chừng", Holmes nói. "Vui lòng triệu tập cấp dưới của ông, rồi tôi sẽ thử."

Năm phút sau, ba viên cảnh sát đã tập hợp trong tiền sảnh.

"Các anh sẽ thấy có khá nhiều rơm trong gian nhà phụ", Holmes nói. "Tôi muốn nhờ các anh mang vào hai bó. Tôi nghĩ nó sẽ rất có ích trong việc đưa ra nhân chứng mà tôi cần... Cảm ơn các anh nhiều lắm. Watson này, tôi tin chắc trong túi anh có ít diêm. Nào, Lestrade, mời tất cả theo tôi lên cầu thang trên cùng."

Như tôi đã nói, ở đó có một hành lang rộng, dọc theo đó là ba phòng ngủ bỏ trống. Sherlock Holmes sắp chúng tôi đứng thành hàng ở một đầu hành lang, mấy tay cảnh sát toét miệng cười còn Lestrade thì nhìn bạn tôi chòng chọc, nỗi kinh ngạc, đợi chờ và nhạo báng cứ luân phiên thoáng hiện trên mặt ông ta. Holmes đứng trước mặt chúng tôi với dáng vẻ của một tay ảo thuật gia đang diễn trò.

"Ông vui lòng cử một người đi lấy giúp tôi hai xô nước được không? Hãy trải rơm lên sàn ở chỗ này, tránh hai bên tường ra. Giờ thì tôi nghĩ ta đã sẵn sàng rồi."

Mặt Lestrade đỏ gay, giận dữ. "Tôi không biết có phải ông đang bày trò với chúng tôi không, ông Sherlock Holmes", ông ta nói. "Nếu ông biết gì thì cứ nói ra là được, cần gì mấy trò ngớ ngẩn này!"

"Lestrade ơi, tôi cam đoan rằng tôi có lí do cực là chính đáng cho mọi việc mình làm. Có lẽ ông còn nhớ rằng vài giờ trước ông có châm chọc tôi chút đỉnh, lúc mọi bằng chứng đều ủng hộ giả thuyết của ông, thế nên bây giờ ông đừng hậm hực với tôi vì một chút bày vẽ kiểu cọ. Watson này, cảm phiền anh mở cánh cửa sổ đó rồi châm diêm vào mé ngoài của đụn rơm, được không?"

Tôi làm theo, và rồi, nhờ làn gió lùa, một luồng khói xám cuộn lên dọc theo hành lang, đụn rơm khô lách tách bén lửa.

"Giờ ta phải xem có tìm được nhân chứng này cho ông không, Lestrade. Cho phép tôi yêu cầu mọi người cùng hô: 'Cháy!' nhé? Nào, bắt đầu, một, hai, ba..."

"Cháy! Cháy! Cháy!" Tất cả chúng tôi cùng la lên.

"Cảm ơn. Tôi muốn phiền các anh lần nữa."

"Cháy! Cháy! Cháy!"

"Một lần nữa thôi, quý vị, và đồng thanh nhé!"

"Cháy! Cháy! Cháy!" Tiếng kêu ắt hẳn đã vang vọng khắp Norwood.

Tiếng hô chưa dứt hẳn thì một chuyện lạ lùng xảy ra. Nơi tưởng chừng là một bức tường nguyên vẹn ở cuối hành lang bất thần mở ra một cánh cửa, một người đàn ông nhỏ thó, khô đét từ trong đó lao ra ngoài, như con thỏ vọt khỏi hang.

"Tuyệt diệu!" Holmes điềm nhiên nói. "Watson, hắt xô nước vào đống rơm đi. Thế được rồi! Lestrade, cho phép tôi giới thiệu với ông nhân chứng vắng mặt quan trọng, ông Jonas Oldacre."

Tay thanh tra ngây người nhìn sững kẻ mới xuất hiện. Người kia còn đang hấp háy mắt trước ánh sáng chói lòa ở hành lang, rồi liếc nhìn chúng tôi và ngọn lửa chỉ còn âm ỉ. Đó là một bộ mặt gớm ghiếc, xảo trá, hằn học, hiểm ác, cặp mắt xám nhạt gian giảo, hàng mi bạc trắng.

"Vậy là sao?" Cuối cùng Lestrade nói. "Bấy lâu nay ông làm gì vậy hả?"

Oldacre cười ngượng nghịu lo lắng, co rúm trước bộ mặt đỏ phừng đầy phẫn nộ của tay thanh tra đang tức giận.

"Tôi nào có làm hại ai."

"Không hại ai sao? Ông đã cố tình khiến một người vô tội bị treo cổ. Nếu không nhờ có quý ông đây, không khéo ông đã thành công."

Lão già xấu xa bật khóc thút thít

"Thưa ông, tôi chắc chắn đây chỉ là một trò đùa thôi."

"Ồ! Trò đùa hả? Tôi cam đoan là ông sẽ không cười được đâu. Giải hắn xuống và giữ hắn trong phòng khách cho đến khi tôi tới. Ông Holmes", ông ta nói tiếp khi họ đã đi, "tôi không thể nói điều này trước mặt thuộc cấp, nhưng trước mặt bác sĩ Watson đây, tôi không ngại nói rằng đây là điều tài ba nhất ông từng làm, dù tôi vẫn chưa hiểu sao ông lại làm được như vậy. Ông đã cứu mạng một người vô tội và ngăn chặn được một vụ tai tiếng nghiêm trọng sẽ hủy hoại thanh danh của tôi trong lực lượng."

Holmes mỉm cười, vỗ vai Lestrade.

"Thay vì bị hủy hoại, ông sẽ thấy tiếng tăm của mình nổi như cồn. Chỉ cần sửa lại đôi chút trong bản báo cáo ông đang viết, họ sẽ hiểu được thanh tra Lestrade là người khó qua mặt đến mức nào."

"Thế ông không muốn tên mình xuất hiện sao?"

"Hoàn toàn không. Công việc đã là phần thưởng rồi. Có lẽ một ngày nào đó tôi cũng sẽ được vẻ vang khi tôi cho phép sử gia đầy nhiệt huyết của mình bày giấy mực ra lần nữa, phải không Watson? Thôi, giờ ta sẽ xem bấy lâu nay con chuột này chui lủi ở đâu."

Một tấm vách ngăn bằng thạch cao chắn ngang hành lang ngăn ra một khoảng rộng chừng sáu foot hành lang, trên đó có một cánh cửa được ngụy trang khéo léo. Bên trong được chiếu sáng nhờ mấy khe hở dưới mái đua. Trong phòng có vài ba đồ đạc cùng lương thực dự trữ và ít sách vở, giấy tờ.

"Làm thầu xây dựng cũng có cái lợi đấy chứ", Holmes nói khi chúng tôi bước ra. "Hắn tự bố trí được một nơi ẩn náu nho nhỏ mà không cần đồng bọn nào cả - tất nhiên là không kể mụ quản gia quý báu của hắn mà tôi phải mau chóng giao vào tay ông, Lestrade ạ."

"Tôi sẽ nghe theo lời khuyên của ông. Nhưng làm sao mà ông biết chỗ này vậy, ông Holmes?"

"Tôi đã suy luận rằng gã này đang ẩn nấp trong nhà. Khi tôi đi đi lại lại trên hành lang này và thấy nó ngắn hơn hành lang tương ứng bên dưới sáu foot thì gần như đã rõ hắn đang ở đâu. Tôi nghĩ hắn chẳng có gan mà nằm im khi nghe báo cháy. Tất nhiên là ta có thể vào mà tóm hắn, nhưng tôi thấy làm cho hắn tự lộ mặt thì thú vị hơn. Vả chăng, tôi phải chơi khăm ông chút đỉnh, Lestrade, vì lời chế giễu lúc sáng."

"Ái chà, thưa ông, chắc chắn ông đã trả đũa được tôi chuyện đó rồi. Nhưng làm sao mà ông biết hắn ta ở trong nhà cơ chứ?"

"Nhờ dấu ngón tay cái đấy, Lestrade. Ông đã nói vụ này thế là xong, và đúng là vậy, nhưng theo một nghĩa khác hẳn. Tôi biết hôm trước nó không hề có ở đấy. Tôi luôn hết sức chú ý đến các chi tiết, ắt ông cũng đã nhận thấy, nên tôi đã xem xét kĩ tiền sảnh và chắc chắn rằng trên tường không có gì. Do đó, dấu tay này đã được in lên hồi đêm."

"Nhưng bằng cách nào?"

"Đơn giản lắm. Khi niêm phong mấy gói tài liệu, Jonas Oldacre đã bảo McFarlane gắn chặt một dấu niêm phong bằng cách ấn ngón tay cái lên lớp sáp mềm. Chuyện đó được thực hiện nhanh chóng và tự nhiên đến mức tôi dám chắc chính chàng trai cũng không nhớ. Rất có thể nó cứ diễn ra vậy thôi, nên chính Oldacre cũng không chỉ định sẽ dùng nó làm gì. Nằm trong chỗ trốn của mình mà nghiền ngẫm vụ án, hắn chợt nhận ra mình có thể dùng dấu tay đó để tạo một bằng chứng kết tội hoàn toàn bất lợi cho McFarlane. Việc đơn giản nhất đời đối với hắn là lấy dấu in sáp từ dấu niêm phong, thấm nó vào chỗ máu mà hắn dùng kim chích ra, rồi đêm đến ấn dấu tay lên tường, hoặc là tự tay làm hoặc là nhờ mụ quản gia. Nếu ông lục soát trong mớ tài liệu hắn mang theo vào chỗ trú ẩn, tôi đánh cuộc là ông sẽ thấy miếng sáp có dấu ngón tay cái in trên đó."

"Tuyệt vời!" Lestrade nói. "Tuyệt vời! Theo lời ông nói, mọi sự đã rõ như ban ngày. Nhưng mục đích của sự lừa dối thâm độc này là gì, ông Holmes?"

Nhìn thái độ hống hách của tay thanh tra bỗng nhiên biến thành thái độ của đứa học trò đang hỏi thầy giáo, tôi cảm thấy thú vị vô cùng.

"À, tôi nghĩ chuyện đó không khó giải thích lắm. Quý ông đang chờ chúng ta ở dưới nhà là một kẻ rất hằn học, ranh ma và thâm hiểm, ông có biết hắn ta từng bị mẹ của McFarlane cự tuyệt chứ? Rõ là không biết rồi! Tôi đã khuyên ông đi Blackheath trước rồi mới đến Norwood mà. Chà, nỗi đau này, như hắn nghĩ, đã giày vò trong đầu óc xấu xa, mưu mô của hắn, và cả đời hắn ước ao trả thù, nhưng chưa một lần có dịp. Trong một, hai năm qua, chuyện làm ăn của hắn - tôi chắc là đầu cơ chui - không được thuận lợi, và hắn nhận ra mình đang lâm vào tình cảnh gay go. Hắn quyết định lừa đảo các chủ nợ. Vì mục đích này, hắn trả những tấm chi phiếu lớn cho một ông Cornelius nào đó, tôi đoán kẻ này cũng chính là hắn. Tôi vẫn chưa lần theo mấy tấm chi phiếu đó, nhưng tôi tin chắc chúng được gửi vào nhà băng dưới cái tên giả ấy tại một thị trấn nào đó mà Oldacre thỉnh thoảng sống cuộc đời hai mặt. Hắn đã tính thay tên đổi họ hẳn, rút khoản tiền này và biến mất, làm lại cuộc đời ở một nơi khác."

"Vâng, chuyện đó thì khá chắc chắn rồi."

"Hắn chợt nhận ra là nếu biến mất, hắn có thể cắt đuôi mọi chủ nợ, đồng thời có thể thừa sức trả thù người yêu dấu xưa một phen tan nát, nếu như hắn tạo được ấn tượng là mình bị đứa con duy nhất của bà ta sát hại. Đó là một kiệt tác của sự đê hèn, và hắn đã thực hiện như một nghệ sĩ bậc thầy. Ý đồ làm chúc thư đem lại một động cơ phạm tội rõ ràng, cuộc viếng thăm bí mật mà cha mẹ anh ta không biết, việc giữ lại cây gậy, những vết máu, xác động vật và mấy cái khuy trong đống gỗ, tất thảy đều đáng khâm phục. Đó là một tấm lưới mà vài giờ trước tôi còn thấy dường như không thể thoát ra. Nhưng hắn lại không được trời phú cho phẩm chất quan trọng nhất của người nghệ sĩ, đó là khả năng biết được điểm dừng. Hắn muốn hoàn thiện thứ đã toàn bích - siết dây thừng quanh cổ nạn nhân xấu số chặt hơn nữa, vì vậy mà làm hỏng bét cả. Ta xuống nhà thôi, Lestrade. Tôi có dăm ba câu muốn hỏi hắn."

Kẻ hiểm ác đang ngồi trong phòng khách nhà hắn, hai cảnh sát đứng hai bên.

"Chỉ là một trò đùa thôi mà, thưa ông, một trò chơi khăm, không hơn", hắn cứ lải nhải. "Tôi cam đoan với ông, thưa ông, là tôi chỉ trốn để xem nếu mình biến mất thì sẽ có ảnh hưởng thế nào, và tôi tin chắc ông sẽ không bất công đến độ cho rằng tôi sẽ để cậu McFarlane tội nghiệp gặp chuyện gì xấu."

"Chuyện đó hãy để bồi thẩm đoàn phân xử", Lestrade nói. "Dù sao thì chúng tôi cũng sẽ cáo buộc ông tội mưu sát, nếu không khép được ông vào tội cố sát."

"Có lẽ ông cũng sẽ thấy các chủ nợ sung công tài khoản nhà băng của ông Cornelius", Holmes nói

Gã đàn ông nhỏ thó giật mình, hướng cặp mắt hiểm ác về phía bạn tôi.

"Tôi phải cảm ơn ông nhiều lắm", hắn nói. "Có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ trả món nợ này."

Holmes mỉm cười vẻ khoan dung.

"Tôi cho rằng trong dăm ba năm tới ông sẽ không còn thời gian rảnh rỗi đâu", anh nói. "Mà này, ngoài cái quần dài cũ ra ông còn bỏ gì vào đống củi vậy? Một con chó chết, mấy con thỏ hay thứ gì thế? Ông không chịu nói ư? Trời ơi, ông xấu bụng quá! Thôi được, thôi được, tôi dám chắc cả máu và tro đều là của mấy con thỏ. Watson này, nếu anh định chép lại chuyện này thì cứ tùy ý viết là thỏ nhé!"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro