CHIẾC MŨ MIỆN DÁT ĐÁ BERYL(The Beryl Coronet 1892)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

"Holmes này", tôi nói vào một buổi sáng khi đứng bên khung cửa sổ rồi nhìn xuống đường, "có một người điên đang đi bên lề đường. Thật là buồn khi thấy gia đình ông ta để mặc người bệnh lang thang một mình như thế."

Bạn tôi uể oải rời khỏi chiếc ghế bành và đứng nhìn qua vai tôi, hai tay thọc vào túi áo choàng ngủ. Hôm đó là một buổi sáng tháng 2 sáng sủa và khô lạnh, lớp tuyết rơi xuống từ hôm trước vẫn còn đọng lại trên mặt đất, lấp lánh dưới ánh mặt trời mùa đông. Dọc theo chính giữa phố Baker, tuyết đã bị xe cộ xới lên thành một dải vụn xốp màu nâu, nhưng tuyết ở hai bên đường thì hãy còn trắng tinh như vừa rơi xuống. Vỉa hè màu xám đã được quét dọn sạch sẽ và cào bớt tuyết nhưng hãy còn khá trơn trượt và nguy hiểm nên vắng khách bộ hành qua lại hơn mọi ngày. Thật vậy, từ hướng nhà ga Metropolitan đến đây chẳng có một ai ngoại trừ người đàn ông đơn độc có hành vi kì quái khiến tôi phải chú ý đó. Ông ta khoảng năm mươi tuổi, cao to, bệ vệ, mặt to, đậm nét và dáng vẻ uy nghi, ông ta mặc một bộ y phục tối màu nhưng có kiểu dáng sang trọng, gồm một chiếc áo măng tô màu đen, cái mũ mới tinh, đôi ghệt màu nâu gọn gàng và chiếc quần màu xám ngọc trai cắt rất khéo. Thế nhưng hành vi của ông ta lại tương phản đến nực cười với vẻ ngoài đường hoàng ấy vì ông ta đang chạy rất nhanh, đôi lúc lại hơi tập tễnh như kiểu của một người rất mệt vì không quen bắt đôi chân làm việc. Vừa chạy ông ta vừa vung vẫy hai tay, lúc lắc cái đầu và khuôn mặt thì nhăn nhó trông vô cùng kì dị.

"Không biết ông ta gặp phải chuyện quái quỷ gì vậy nhỉ?" Tôi hỏi, "ông ta cứ nhìn lên từng số nhà."

"Tôi tin chắc ông ta sẽ đến đây", Holmes nói và xoa hai tay vào nhau.

"Đến đây ư?"

"Phải, tôi nghĩ là ông ta đang đến đây để hỏi ý kiến chuyên môn của tôi. Tôi nhận ra những biểu hiện này, Ha! Tôi đã nói với anh rồi mà, thấy chưa?" Trong lúc anh nói, người đàn ông đang thở hổn hển nọ đã lao nhanh đến cửa nhà chúng tôi và kéo mạnh dây chuông cho đến khi tiếng chuông vang rền khắp nhà.

Chỉ vài giây sau, ông ta đã bước vào căn phòng chúng tôi đang ngồi, vẫn còn thở hổn hển và tay chân hãy còn vung vẩy nhưng ánh mắt đau khổ và tuyệt vọng của ông ta làm cho nụ cười trên môi chúng tôi trong phút chốc đã chuyển thành nỗi lo sợ và thương hại. Mất một lúc lâu ông ta vẫn chưa thốt ra lời mà chỉ lắc lư người và vò đầu bứt tóc như một người đã bị đẩy đến giới hạn tột cùng của lí trí. Thế rồi, đột nhiên ông ta nhảy chồm lên, đập đầu vào tường mạnh đến nỗi cả hai chúng tôi phải lao tới và kéo ông ta ra giữa phòng. Sherlock Holmes ấn ông ta vào chiếc ghế bành rồi ngồi xuống bên cạnh, vỗ nhẹ lên tay và trò chuyện với ông ta bằng giọng trấn an êm dịu mà anh sử dụng rất khéo léo.

"Ông đến đây gặp tôi để kể câu chuyện của ông, có phải không?" Anh hỏi. "Ông đã mệt mỏi vì phải chạy vội vàng rồi. Xin ông hãy đợi một lúc để hồi phục lại rồi sau đó tôi sẽ rất vui khi được xem xét vấn đề mà ông muốn trình bày dù là chuyện nhỏ nhặt nhất."

Người đàn ông ngồi xuống chừng một phút, ngực phập phồng, cố gắng kiềm chế cảm xúc, rồi ông ta đưa chiếc khăn tay lên lau trán, mím môi lại và quay mặt về phía chúng tôi.

"Chắc hẳn các ông cho rằng tôi bị điên?" Ông ta nói.

"Tôi thấy rằng ông đang gặp một rắc rối lớn", Holmes đáp.

"Chỉ có Chúa mới biết tôi đang gặp phải một tai họa đủ làm tiêu tan lí trí, nó xảy đến thình lình và đáng sợ làm sao, Nỗi ô nhục trước bàn dân thiên hạ thì đã có lần tôi suýt phải chịu dù tên tuổi của tôi xưa nay chưa hề vấy một vết nhơ. Nỗi đau buồn riêng tư âu cũng là vận số không ai tránh khỏi; thế nhưng cả hai đồng thời ập đến một cách đáng sợ thế này thì tôi đến suy sụp thần kinh mất. Vả chăng, nào phải chỉ có mình tôi, nhân vật cao quý nhất trên lãnh thổ này cũng có thể phải gánh chịu trừ phi tôi tìm ra được cách nào đó để khắc phục sự việc kinh hoàng này."

"Xin ông hãy bình tĩnh, thưa ông", Holmes nói, "và thuật lại rõ ràng cho tôi biết ông là ai và chuyện gì đã xảy đến với ông."

"Tên tôi", ông khách trả lời, "hẳn các ông đã từng nghe đến. Tôi là Alexander Holder, thuộc Nhà băng Holder & Stevenson ở phố Threadneedle."

Quả thật cái tên này rất quen thuộc đối với chúng tôi vì đó là tên của cổ đông góp vốn nhiều nhất trong nhà băng cổ phần tư nhân lớn hạng nhì ở khu City của London. Vậy chuyện gì đã xảy ra khiến cho một trong những công dân nổi tiếng nhất của London phải lâm vào hoàn cảnh đáng thương thế này? Cả hai chúng tôi đều hết sức tò mò chờ đợi cho đến khi ông khách gắng lấy lại tinh thần để kể lại câu chuyện của mình.

"Tôi thấy thời gian thật quý giá biết bao", ông ta nói, "vì thế tôi vội vã đến đây sau khi được ông thanh tra cảnh sát gợi ý rằng tôi nên cầu viện sự trợ giúp của ông. Tôi đến phố Baker bằng tuyến đường sắt ngầm và hổi hả chạy bộ từ đó đến đây vì với lớp tuyết dày như thế này thì xe ngựa đi rất chậm. Đó là nguyên nhân tôi bị hụt hơi vì tôi vốn ít vận động. Giờ thì tôi đã cảm thấy khỏe hơn, và tôi sẽ cố hết sức để trình bày sự việc với các ông thật ngắn gọn mà vẫn rõ ràng.

Hẳn các ông cũng biết rất rõ là việc kinh doanh nhà băng thành công không chỉ phụ thuộc vào năng lực tìm kiếm những khoản đầu tư có lợi cho ngân quỹ của mình mà còn phải trông vào việc tăng cường các mối quan hệ và số lượng khách gửi tiền. Một trong những hình thức đầu tư sinh lợi nhất của chúng tôi là cho vay nếu có vật thế chấp đáng tin cậy. Trong những năm qua, chúng tôi đã thực hiện rất nhiều vụ làm ăn theo hướng này, và có nhiều gia đình quý tộc đã được chúng tôi ứng cho những số tiền lớn với vật thế chấp là các bức họa nổi tiếng, sách hoặc bát đĩa quý. Sáng hôm qua, khi tôi đang ngồi trong văn phòng tại nhà băng thì một viên thư kí đem vào cho tôi một tấm danh thiếp. Khi nhìn qua tên tuổi ghi trên danh thiếp, tôi giật nẩy người vì đó không phải ai khác mà chính là... nhưng thôi, có lẽ ngay cả với ông tôi cũng chỉ nên nói rằng, đó là một cái tên lừng danh khắp nơi, một trong những cái tên cao sang nhất, quý phái nhất, đẹp đẽ nhất ở nước Anh. Khi người đó bước vào, tôi bị choáng ngợp trước niềm vinh dự này và đã định bày tỏ thành lời nhưng ngài đã đi thẳng vào công việc với thái độ mong chóng xúc tiến một công việc khó chịu cho xong.

'Ông Holder này', ngài nói, 'ta được biết là nhà băng của ông vẫn có lệ ứng tiền.'

'Đúng vậy miễn là vật thế chấp đáng tin cậy.' Tôi đáp.

'Ta đang rất cần tiền,' ngài nói, 'ta cần năm mươi ngàn bảng ngay. Tất nhiên là ta có thể vay bạn bè một món tiền vặt vãnh lớn hơn con số vừa nói gấp mười lần, nhưng ta muốn giải quyết chuyện này dưới hình thức một vụ giao dịch và tự mình thực hiện hơn. Ở vào địa vị của ta thì hẳn là ông dễ dàng hiểu được việc mang ơn người khác là chẳng khôn ngoan chút nào.'

'Liệu tôi có thể hỏi là ngài cần đến món tiền ấy trong bao lâu không?' Tôi hỏi.

'Thứ hai tới ta sẽ được trả một món tiền lớn và khi đó chắc chắn ta sẽ hoàn lại món tiền ông đã ứng ra cùng với số tiền lãi mà ông coi là hợp lí. Nhưng điều cốt yếu nhất đối với ta là món tiền đó phải có ngay.'

'Tôi rất sẵn lòng ứng món tiền đó từ túi riêng của mình mà không cần thương lượng gì nữa cả,' tôi đáp, 'chỉ hiềm một nỗi tôi lại không có đủ. Mặt khác, nếu tôi làm việc này với danh nghĩa của nhà băng, vậy nên để công bằng với cộng sự của mình, tôi buộc lòng phải yêu cầu rằng, cho dù là với trường hợp của ngài đi nữa thì chúng tôi vẫn phải thông qua mọi thủ tục đảm bảo.'

'Ta cũng muốn như thế,' ngài nói và đưa ra một chiếc hộp lớn bằng da dê thuộc màu đen mà ngài vẫn đặt bên cạnh ghế của mình. 'Hẳn là ông đã nghe nói về chiếc mũ miện dát đá beryl?'

'Một trong những món quốc bảo quý giá nhất,' tôi đáp.

'Chính xác.' Ngài mở hộp ra và kìa, trên lớp nhung mềm màu da là báu vật lộng lẫy mà ngài vừa nói đến. 'Có ba mươi chín hạt beryl cỡ lớn', ngài nói, Và giá trị của riêng chiếc mũ miện bằng vàng chưa dát đá đã là không tính xuể rồi. Dù có định giá thấp nhất đi nữa thì chiếc mũ miện này cũng đáng giá gấp đôi số tiền mà ta hỏi vay. Ta sẵn sàng để lại nó cho ông làm vật thế chấp.'

Tôi cầm chiếc hộp quý giá trong tay và bối rối hết ngắm nó lại nhìn sang vị khách danh giá của mình.

'Ông nghi ngờ về giá trị của nó chăng?' Ngài hỏi.

'Tôi không hề nghĩ thế. Tôi chỉ tự hỏi rằng...'

'Ông nghi ngờ về tính hợp thức của việc để nó lại ở đây chứ gì? Ông có thể yên tâm. Ta sẽ không bao giờ nghĩ đến việc làm thế nếu như không tuyệt đối chắc chắn rằng mình có thể lấy lại nó trong bốn ngày. Đó hoàn toàn chỉ là vấn đề thủ tục. Vật thế chấp này đã đủ chưa?'

'Quá dư, thưa ngài.'

'Ông Holder này, ông hãy hiểu rằng ta đã đưa cho ông một bằng chứng có sức nặng về lòng tin cậy ta dành cho ông, dựa trên tất cả những điều ta đã được nghe kể về ông. Ta tin tưởng rằng ông không chỉ giữ kín và kiềm chế bàn tán về chuyện này mà hơn hết còn bảo quản chiếc mũ miện bằng mọi biện pháp có thể vì không cần cảnh báo chắc ông cũng biết một vụ tai tiếng đáng sợ sẽ bùng phát nếu như có bất kì tổn hại nào xảy đến với nó. Một vết trầy xước nhỏ cũng nghiêm trọng gần bằng việc đánh mất cả chiếc mũ miện, vì trên thế gian không có viên beryl nào có thể sánh bằng và thay thế được chúng. Tuy vậy, ta gửi lại cho ông với sự tin tưởng tối đa và đến sáng thứ hai thì đích thân ta sẽ đến để nhận lại nó.'

Nhận thấy vị khách có vẻ sốt ruột muốn về, tôi không nói gì thêm nữa mà gọi người thủ quỹ vào, ra lệnh cho anh ta viết phiếu chi năm mươi ngàn bảng. Thế nhưng, khi chỉ còn lại một mình với chiếc hộp quý giá nằm ngay trước mặt, tôi không thể nghĩ được chuyện gì khác ngoài nỗi lo sợ về cái trách nhiệm hết sức nặng nề mà nó đã choàng lên vai tôi. Không còn nghi ngờ gì nữa, vì nó là một tài sản quốc gia nên nếu có chuyện xui xẻo xảy ra với nó thì sẽ nổ ra tai tiếng kinh khủng biết chừng nào. Tôi cảm thấy hối hận vì đã nhận lĩnh trách nhiệm. Thế nhưng đã quá muộn để đổi ý, vì thế tôi cất kĩ nó vào trong két sắt riêng của mình rồi quay trở lại với công việc. Khi chiều xuống, tôi cảm thấy nếu để lại một vật quý giá như thế ở văn phòng thì thật khinh suất. Trước đây đã từng xảy ra những vụ phá két sắt của nhà băng, vậy thì két sắt của tôi có thể chịu chung số phận lắm chứ? Nếu điều đó xảy ra, tôi sẽ lâm vào một tình thế thật khủng khiếp! Vì thế, tôi quyết định là trong những ngày tới tôi sẽ luôn kè kè đem theo chiếc hộp để nó không bao giờ ở ngoài tầm tay tôi. Với ý định đó, tôi gọi một cỗ xe ngựa và đi về nhà ở Streatham, đem theo món báu vật bên mình. Tôi chỉ có thể thở phào nhẹ nhõm sau khi đã đem nó lên lầu và khóa kĩ trong ngăn kéo tủ commốt ở phòng thay đồ của mình.

Và giờ thì tôi sẽ nói vài lời về gia đình tôi, thưa ông Holmes, vì tôi muốn ông hiểu tình hình một cách thấu đáo. Người giữ ngựa và thằng bé giúp việc ngủ ở bên ngoài tòa nhà, vậy nên có thể không cần phải nhắc tới. Ngoài ra tôi còn có ba cô hầu gái đã phục vụ trong nhà nhiều năm và hoàn toàn đáng tin cậy. Một cô khác, Lucy Parr, tuy mới làm việc được vài tháng nhưng bản tính tốt và luôn khiến tôi rất hài lòng. Cô ta vô cùng xinh đẹp và lôi cuốn nhiều kẻ si mê thỉnh thoảng đến lảng vảng quanh nhà. Đó là điểm hạn chế duy nhất của cô ta, nhưng chúng tôi vẫn tin rằng đó là một cô gái tốt đẹp trên mọi phương diện. Thế là xong phần các gia nhân. Còn gia đình tôi thì chẳng có mấy người nên tôi sẽ không phải kể lể dài dòng. Tôi đã góa vợ và chỉ có một đứa con trai tên Arthur. Nó là nỗi thất vọng của tôi, ông Holmes ạ - một nỗi thất vọng khiến tôi vô cùng phiền não. Mà chính tôi mới là kẻ dáng trách. Ai cũng bảo rằng tôi đã quá nuông chiều nó. Và đúng thế thật. Khi người vợ yêu quý của tôi qua đời, tôi cảm thấy con trai mình là đối tượng duy nhất để tôi dồn hết tình thương yêu. Tôi không sao chịu dựng nổi khi thấy nụ cười héo úa đi trên khuôn mặt nó, dù chỉ trong khoảnh khắc. Chưa bao giờ tôi từ chối ý muốn nào của nó. Có lẽ nếu như tôi nghiêm khắc hơn thì sẽ tốt hơn cho cả hai cha con, nhưng tôi vẫn muốn dành những thứ tốt nhất cho nó! Tất nhiên là tôi có ý định để nó kế nghiệp tôi, nhưng nó lại không có thiên hướng kinh doanh. Nó là đứa ngông cuồng, bướng bỉnh và nói thật lòng với ông, tôi không thể tin tưởng nó trong việc quản lí những món tiền lớn. Hồi còn trẻ, nó tham gia vào một câu lạc bộ quý tộc và nhờ vào phong cách thanh lịch mà nó nhanh chóng trở thành bạn thân của những kẻ lắm tiền và ăn chơi xa xỉ. Nó nhiễm thói chơi những ván bạc thật lớn và vung tiền ở trường đua ngựa cho đến khi hết lần này đến lần khác phải tìm đến tôi và van nài tôi ứng trước tiền tiêu vặt để nó thanh toán những món nợ danh dự. Đã mấy lần nó cố gắng tách khỏi đám bạn nguy hiểm ấy nhưng rồi lần nào cũng bị kéo trở lại dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của huân tước George Burnwell, bạn nó. Và thú thực, tôi không hề ngạc nhiên khi một người như huân tước George Burnwell có thể gây ảnh hưởng lên con trai tôi, vì nó thường xuyên đưa anh ta về nhà và chính tôi cũng thấy khó mà cưỡng lại sự lôi cuốn toát ra từ phong thái của chàng trai này. Anh ta lớn tuổi hơn Arthur, hết sức trải đời, đã từng đi khắp nơi, trông thấy mọi thứ, nói chuyện cuốn hút và lại rất đẹp mã. Tuy nhiên, những khi chàng trai đó không có mặt, khi không còn bị ảnh hưởng bởi sức hấp dẫn của anh ta và bình tâm nghĩ lại về những lời nói cay độc và ánh nhìn mà tôi bắt gặp trong mắt của anh ta, tôi tin chắc rằng đó là một người không thể nào tin tưởng được. Con bé Mary xinh xắn cũng nghĩ như tôi, nó có thế mạnh của phụ nữ là khả năng hiểu thấu tâm can người khác.

Con bé chính là thành viên cuối cùng mà tôi cần mô tả cho các ông biết. Nó là cháu gái tôi, nhưng tôi đã nhận nuôi nó và luôn xem nó như con gái của mình từ khi em trai tôi mất cách đây năm năm và để lại nó một mình trên đời. Nó là một tia nắng trong gia đình tôi - tử tế, đằm thắm, xinh đẹp, có tài chăm nom nhà cửa và phụ trách tay hòm chìa khóa, lại còn dịu dàng, hòa nhã và hiền lành hết sức. Nó là cánh tay phải của tôi. Nếu không có nó thì tôi cũng chẳng biết mình có thể làm được gì. Trước giờ chỉ có mỗi một điều là nó làm trái với ý nguyện của tôi. Con trai tôi đã hai lần hỏi cưới nó vì thằng bé yêu nó hết lòng, nhưng lần nào con bé cũng từ chối. Tôi nghĩ là nếu có ai đó có thể kéo con trai tôi trở lại con đường sáng thì người đó chính là Mary, và có thể cuộc hôn nhân này sẽ làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của con tôi; nhưng giờ thì, than ôi! Quá trễ, đã quá trễ rồi!

Thế đấy, ông Holmes ạ, giờ thì ông đã biết hết về những người sống trong nhà tôi, và tôi sẽ kể tiếp cho ông nghe câu chuyện khốn khổ của mình. Tối hôm đó, khi chúng tôi đang dùng cà phê trong phòng khách sau bữa tối, tôi kể cho Arthur và Mary nghe về sự việc xảy ra trong ngày, về báu vật quý giá hiện đang nằm dưới mái nhà của chúng tôi, chỉ không nói gì về tên tuổi của vị khách. Lucy Parr sau khi bưng cà phê vào phòng đã ra ngoài, tôi chắc chắn thế, nhưng lại không thể nhớ rõ là cửa đã đóng chưa. Mary và Arthur rất quan tâm đến câu chuyện và mong muốn được nhìn ngắm chiếc mũ miện nổi tiếng này, nhưng tôi nghĩ rằng đừng đụng chạm đến nó thì tốt hơn.

'Cha cất nó ở đâu?' Arthur hỏi.

'Trong ngăn kéo tủ commốt của cha.'

'Thế thì cầu Chúa cho ngôi nhà này không bị trộm tối nay.' Nó nói.

'Ngăn kéo đã được khóa kĩ,' tôi đáp.

'Cái ngăn kéo ấy thì chìa nào chẳng mở được. Hồi nhỏ, con đã từng mở nó bằng chìa khóa của cái tủ trong nhà kho đấy!'

Nó vẫn thường ăn nói bừa bãi như thế nên tôi không quan tâm lắm. Tuy nhiên, tối hôm đó, nó bước theo tôi vào phòng riêng của tôi với vẻ mặt rất nghiêm trọng.

'Cha', nó nói, hai mắt nhìn xuống đất, 'cha có thể cho con hai trăm bảng được không?'

'Không, cha không cho!' Tôi gay gắt đáp. 'Cha đã quá rộng rãi với con trong chuyện tiền bạc rồi.'

'Đúng là cha đã rất tử tế,' nó nói tiếp, 'nhưng con phải có số tiền đó, nếu không, con không thể nào vác mặt đến câu lạc bộ nữa.'

'Thế thì tốt quá!' Tôi hét lên.

'Vâng, nhưng cha không thể để con ra khỏi câu lạc bộ vì thất tín,' nó nói tiếp. 'Con không thể chịu nổi sự ô nhục. Con phải có bằng được số tiền đó, nếu cha không cho thì con phải dùng đến cách khác.'

Tôi giận điên lên vì đó là lần thứ ba nó xin tiền trong tháng này rồi. 'Mày đừng hòng xin được một xu nào nữa!' Tôi hét lên. Nghe thế, nó cúi đầu và bước ra khỏi phòng mà không nói tiếng nào.

Khi nó đã đi khỏi, tôi mở khóa ngăn kéo tủ commốt ra để chắc chắn là báu vật vẫn an toàn rồi lại khóa lại. Sau đó, tôi bắt đầu đi vòng quanh nhà để kiểm tra tình hình an ninh - tôi vẫn thường giao phó cho Mary nhiệm vụ này nhưng đêm đó tôi nghĩ rằng tự mình làm thì tốt hơn. Khi tôi bước xuống cầu thang thì nhìn thấy Mary đang đứng cạnh cửa sổ ngách của gian sảnh, nó đóng cánh cửa lại và cài chốt khi tôi đến gần.

'Thưa bác, xin bác cho cháu biết', nó nói, trông có vẻ hơi bồn chồn, tôi nghĩ thế, 'bác có cho phép cô hầu Lucy ra ngoài tối nay không?'

'Chắc chắn là không.'

'Chị ta vừa mới đi vào bằng lối cửa sau. Cháu biết chắc là chị ta chỉ đi đến chỗ cánh cửa bên hông nhà để gặp ai đó, nhưng cháu nghĩ rằng việc đó không được an toàn và cần phải chấm dứt.'

'Sáng mai con phải nói chuyện đó với cô ta, hoặc là ta sẽ nói, nếu con muốn. Con chắc chắn là tất cả cửa nẻo đều đã được cài chặt rồi chứ?'

'Chắc chắn ạ, thưa bác.'

'Được rồi, chúc con ngủ ngon'. Tôi hôn con bé và đi lên phòng ngủ rồi nhanh chóng thiếp đi.

Thưa ông Holmes, tôi đang gắng hết sức để thuật lại cho ông nghe mọi chuyện có thể có liên quan đến vụ việc này, nhưng xin ông cứ hỏi nếu có chi tiết nào tôi kể chưa được rõ ràng."

"Ngược lại, cách trình bày của ông rất dễ hiểu."

"Bây giờ, tôi sẽ kể đến một phần trong câu chuyện mà tôi mong sao nó cũng được rõ ràng, dễ hiểu. Tôi vốn không phải là người ngủ say và sự lo âu trong tâm trí càng làm tôi dễ tỉnh giấc hơn bình thường. Vào khoảng 2 giờ sáng, tôi bị đánh thức bởi một tiếng động trong nhà. Nó im bặt trước khi tôi hoàn toàn tỉnh táo nhưng có cảm giác như một cánh cửa sổ nào đó đã được đóng lại thật nhẹ nhàng. Tôi nằm yên, chăm chú lắng nghe. Thình lình, trong nỗi kinh hoàng, tôi nghe thấy rõ ràng tiếng bước chân di chuyển thật khẽ trong căn phòng kế bên. Tôi nhảy ra khỏi giường, tim đập thình thịch vì sợ hãi và liếc nhanh vào góc cánh cửa phòng thay đồ.

'Arthur!' Tôi hét lên. 'Thằng bất lương! Đồ trộm cắp! Sao mày dám đụng đến cái mũ miện hả?'

Ngọn đèn khí đốt vẫn sáng ở mức vừa phải như lúc trước tôi đã chỉnh, và thằng con khốn nạn của tôi, trên người chỉ mặc áo sơmi và cái quần dài, đang đứng bên ngọn đèn, tay cầm chiếc mũ miện. Có vẻ như nó đang dùng hết sức để vặn mạnh hoặc bẻ cong món đồ. Nghe tiếng hét của tôi, nó buông rơi vật đó và tái mét đi như xác chết. Tôi chộp lấy cái mũ miện và xem xét. Một góc của phần khung bằng vàng cùng với ba hạt đá beryl trên đó đã biến mất.

'Thằng đê tiện!' Tôi quát to, không còn kiềm chế được nữa vì quá tức giận. 'Mày đã phá hủy nó! Mày làm ô danh tao suốt đời! Mày để mấy viên đá quý vừa đánh cắp ở đâu?'

'Ăn cắp ư?' Nó hét lên.

'Phải, thằng ăn cắp! Tôi gầm lên, nắm vai nó và lắc mạnh.

'Chẳng có gì biến mất cả. Không thể mất thứ gì được', nó nói.

'Ở đây thiếu mất ba viên đá. Và mày biết chúng đang ở đâu. Hay là mày muốn tao chửi rằng mày vừa là thằng nói láo vừa là quân ăn cắp? Không lẽ tao còn chưa nhìn thấy mày đang tìm cách bẻ thêm một miếng nữa hay sao?'

'Cha chửi con như thế là đủ rồi đấy', nó nói. 'Con sẽ không đứng đây chịu trận nữa đâu. Con cũng sẽ không nói thêm lời nào về chuyện này nữa vì cha đã nhục mạ con. Sáng mai con sẽ rời khỏi căn nhà này và sẽ tự lo lấy cuộc đời.'

'Mày sẽ được cảnh sát áp tải ra khỏi nhà này!' Tôi hét lên, gần như điên dại vì đau khổ và căm phẫn. 'Tao sẽ để họ điều tra vụ này đến cùng.'

'Thế thì cha sẽ chẳng lấy được thông tin gì từ phía con', nó nói với vẻ giận dữ mà tôi chưa từng thấy ở con trai mình. 'Nếu cha quyết định gọi cảnh sát thì cứ để họ tự đi mà tìm.'

Đến lúc này thì cả nhà đã thức dậy vì tiếng quát tháo trong cơn giận dữ của tôi. Mary là người đầu tiên chạy vào phòng tôi, vừa trông thấy chiếc mũ miện cùng với vẻ mặt của Arthur là nó đã hiểu hết toàn bộ sự việc, nó kêu lên một tiếng rồi ngã quỵ xuống sàn nhà, bất tỉnh. Tôi sai một người hầu đi báo cảnh sát và giao cho họ điều tra ngay lập tức. Khi ông thanh tra và một viên cảnh sát bước vào nhà thì Arthur vẫn còn đứng đó với bộ mặt rầu rĩ và hai tay khoanh trước ngực, hỏi tôi rằng tôi có định cáo buộc nó về tội ăn cắp hay không. Tôi trả lời là vấn đề này không còn là chuyện riêng tư nữa mà đã trở thành một vấn đề chung vì cái mũ miện bị phá hủy là tài sản quốc gia. Tôi quyết định sẽ để pháp luật xử lí mọi việc.

'Ít ra thì', nó nói, 'cha cũng đừng kêu họ bắt giam con ngay bây giờ. Nếu con được rời khỏi nhà trong vòng năm phút thì cả cha và con đều có lợi.'

'Để mày trốn đi hoặc đem giấu những thứ mà mày vừa đánh cắp chứ gì', tôi trả lời. Và rồi, chợt nhận ra tình huống khủng khiếp mà mình đã bị đẩy vào, tôi van nài nó hãy nhớ lại rằng không chỉ mỗi uy tín của tôi mà cả danh dự của một người có vị thế cao hơn tôi gấp nhiều lần cũng đang bị đe dọa; và rằng ngài đã cảnh báo về khả năng xảy ra một vụ tai tiếng làm chấn động cả quốc gia. Nó có thể đẩy lui được những tai họa này nếu chịu cho tôi biết nó đã làm gì với ba viên đá quý bị mất.

'Con nên đối mặt với vấn đề,' tôi nói. 'Con đã bị bắt quả tang và việc thú tội không thể làm cho tội lỗi của con nặng hơn. Nếu con sửa sai bằng cách nói cho chúng ta biết những viên đá beryl hiện đang ở đâu thì mọi lỗi lầm của con đều sẽ được tha thứ và xóa bỏ.'

'Cha hãy dành sự tha thứ ấy cho những kẻ cần đến nó', nó trả lời và quay lưng lại với tôi với nụ cười chế nhạo. Tôi thấy rằng con trai mình đã trở nên quá chai sạn và không một lời nào của tôi có thể tác động đến nó. Chỉ còn một cách duy nhất. Tôi gọi viên thanh tra vào và giao nó cho nhà chức trách. Một cuộc lục soát được tiến hành ngay lập tức, không chỉ trên người nó mà cả trong phòng của nó cùng với mọi nơi trong nhà có thể giấu những viên đá quý; nhưng chẳng thấy tăm hơi chúng đâu cả, mà thằng con đáng ghét của tôi cũng không hề mở miệng trước mọi lời thuyết phục hay đe dọa của chúng tôi. Nó đã bị giam vào xà lim lúc sáng nay, còn về phần tôi, sau khi làm xong mọi thủ tục theo yêu cầu của cảnh sát là tôi vội vã chạy đến gặp ông ngay để cầu xin ông đem tài năng của mình ra để làm sáng tỏ vấn đề. Cảnh sát cũng thẳng thắn thú nhận là vào lúc này họ chẳng thể làm được gì. Ông đòi thù lao bao nhiêu cũng được. Tôi đã treo giải thưởng là một ngàn bảng. Chúa ơi, con phải làm gì đây? Chỉ sau một đêm, con đã mất đi danh dự, những viên đá quý và cả con trai mình. Ôi, con nên làm gì đây?"

Ông ta đưa hai tay lên ôm đầu và lắc lư thân hình, miệng lẩm bẩm với chính mình như một đứa trẻ đang đau khổ đến mức không nói nên lời.

Sherlock Holmes ngồi yên mất vài phút, đôi mày nhíu lại và hai mắt đăm đăm nhìn vào ngọn lửa.

"Ông có nhiều khách khứa không?" Anh hỏi.

"Không, ngoài người cộng sự cùng với gia đình ông ta và một người bạn của Arthur là huân tước George Burnwell gần đây có ghé qua vài lần thì không có ai khác, tôi nghĩ vậy."

"Gia đình ông có hay ra ngoài chơi không?"

"Arthur thì có. Mary và tôi chỉ ở nhà. Cả hai chúng tôi đều không quan tâm lắm đến việc đó."

"Một cô gái trẻ mà như thế thì lạ thật!"

"Nó vốn trầm tính. Vả chăng, nó cũng không còn nhỏ. Đã hai mươi bốn tuổi rồi."

"Vụ việc này, theo như lời ông kể, có vẻ cũng là một cú sốc đối với cô ta."

"Rất kinh khủng! Nó còn bị sốc hơn cả tôi."

"Cả ông và cô ấy đều tin rằng con trai ông có tội?"

"Chúng tôi còn nghi ngờ gì được nữa khi chính mắt tôi nhìn thấy nó cầm chiếc mũ miện trong tay?"

"Tôi khó có thể coi đó là bằng chứng quyết định. Có phải phần còn lại của chiếc mũ miện cũng bị tổn hại không?"

"Vâng, nó bị vẹo đi."

"Ông có cho rằng, có thể lúc đó anh ta đang cố gắng uốn cho nó thẳng lại không?"

"Cầu Chúa phù hộ cho ông! Ông đang cố gắng tìm cách biện minh cho nó và cho cả tôi nữa. Nhưng đó là một nhiệm vụ quá khó khăn. Nó làm gì ở đó chứ? Nếu mục đích của nó là trong sáng thì tại sao nó lại không nói ra?"

"Đúng thế. Còn nếu như đó là hành vi tội lỗi thì tại sao anh ta không bịa ra một lời nói dối? Theo tôi thì sự im lặng của anh ta có vẻ lập lờ. Trong vụ này có vài điểm kì lạ đây. Còn về tiếng động đã đánh thức ông dậy thì cảnh sát nghĩ sao?"

"Họ cho rằng tiếng động đó có thể là do Arthur gây ra khi đóng cửa buồng ngủ của nó."

"Kỳ lạ thật đấy! Đời nào lại có người đã rắp tâm thực hiện một trọng tội mà lại đóng sầm cửa để đánh thức cả nhà. Thế rồi, họ nói gì về việc ba viên đá quý bị mất?"

"Họ vẫn còn đang kiểm tra ván lát sàn và sục sạo các đồ vật với hi vọng sẽ tìm ra chúng."

"Họ có nghĩ đến việc tìm kiếm bên ngoài ngôi nhà không?"

"Có, họ làm việc rất tích cực. Toàn bộ khu vườn đã được khám xét rất tỉ mỉ."

"Thế này, thưa ông", Holmes nói, "lẽ nào ông không thấy rằng vấn đề này còn có ẩn tình sâu xa hơn rất nhiều so với những gì ông và cảnh sát nghĩ lúc đầu? Đối với các ông thì đây là một vụ đơn giản; với tôi thì lại có vẻ hết sức phức tạp. Ta hãy xem xét lại những chi tiết có liên quan đến giả thuyết của ông. Ông cho rằng con trai mình đã ra khỏi giường và vô cùng liều lĩnh đi vào phòng thay đồ của ông, mở ngăn kéo tủ commốt, lấy chiếc mũ miện ra, dùng sức bẻ gãy một mẩu, đi tới một chỗ khác để giấu ba trong số ba mươi chín viên đá quý khéo léo đến nỗi không ai có thể tìm thấy, rồi quay trở lại chỗ ba mươi sáu viên còn lại để rồi đặt mình vào tình thế rất dễ bị phát hiện. Giờ thì tôi hỏi ông, đó có phải là một giả thuyết vững chắc hay không?"

"Nhưng còn có giả thuyết nào khác nữa?" Ông chủ nhà băng kêu lên với một cử chỉ biểu lộ sự tuyệt vọng. "Nếu động cơ của nó hoàn toàn trong sáng thì tại sao nó không giải thích rõ?"

"Nhiệm vụ của chúng ta là tìm cho ra câu trả lời", Holmes đáp, "vì thế, thưa ông Holder, chúng ta sẽ cùng đi đến Streatham và bỏ ra một giờ để xem xét các chi tiết kĩ hơn chút nữa."

Bạn tôi khăng khăng yêu cầu tôi phải đi cùng, và tôi hưởng ứng nhiệt tình vì câu chuyện vừa được nghe đã khuấy động sâu sắc trí tò mò và sự đồng cảm trong tôi. Thú thực, tôi cũng nhận thấy tội lỗi của anh con trai ông chủ nhà băng là hết sức hiển nhiên giống như người cha tội nghiệp của anh ta nghĩ, nhưng vì tin tưởng vào sự xét đoán của Holmes nên tôi thấy chắc phải có cơ sở vững chắc để hi vọng chừng nào anh hãy còn chưa bằng lòng với lời giải thích đã được công nhận. Suốt quãng đường đi đến vùng ngoại ô phía nam, anh hầu như không nói một lời nào mà chỉ ngồi tì cằm lên ngực, chiếc mũ kéo xuống ngang mắt và chìm đắm trong dòng suy tưởng sâu xa. Có vẻ như thân chủ của chúng tôi đã thấy nhẹ nhõm hơn trước tia hi vọng nhỏ nhoi vừa được nhen lên, thậm chí ông ta còn trò chuyện lan man với tôi về việc làm ăn của mình. Một đoạn đường xe lửa không dài và một cuốc đi bộ còn ngắn hơn thế đã đưa chúng tôi đến Fairbank, dinh thự giản dị của nhà tài phiệt.

Fairbank là một tòa nhà vuông vắn khá đồ sộ xây bằng đá trắng, nằm hơi lùi lại một chút so với con đường. Một đoạn đường uốn lượn đủ rộng cho hai cỗ xe ngựa đi song song và một bãi cỏ phủ đầy tuyết chạy dài đến trước hai cánh cổng lớn bằng sắt chắn ngang lối vào. Ở phía bên phải là một cánh cửa nhỏ bằng gỗ dẫn vào một lối đi hẹp nằm giữa hai hàng giậu được xén tỉa gọn gàng, nối từ đường cái đến cửa nhà bếp và tạo thành lối đi dành cho người giao hàng. Còn bên tay trái là con đường mòn dẫn đến dãy chuồng ngựa, nó không thuộc về khu đất mà là lối đi chung của các nhà lân cận dù ít khi được dùng đến. Holmes để mặc chúng tôi đứng ở cửa và chậm rãi bước vòng quanh ngôi nhà, băng qua hết mặt tiền, đi dọc theo lối đi của người giao hàng và vòng qua khu vườn đằng sau để đi đến con đường mòn dẫn vào chuồng ngựa. Anh xem xét lâu đến nỗi ông Holder và tôi đành đi vào trong phòng ăn và ngồi bên lò sưởi đợi anh trở lại. Chúng tôi đang ngồi yên ở đó thì cửa mở và một cô gái trẻ bước vào. Cô ta cao hơn hẳn mức trung bình, vóc người mảnh dẻ, mái tóc và đôi mắt sẫm màu được tôn lên bởi làn da tái nhợt. Tôi chưa bao giờ thấy người phụ nữ nào có khuôn mặt xanh xao đến thế. Đôi môi của cô ta cũng không có chút huyết sắc nhưng cặp mắt thì đỏ hoe vì khóc nhiều. Khi cô ta nhẹ nhàng bước vào phòng, vẻ mặt của cô ta gây ấn tượng mạnh mẽ với tôi vì nó bộc lộ một nỗi đau buồn còn lớn hơn cả nỗi đau buồn của ông chủ nhà băng lúc sáng nay và ấn tượng đó lại càng sâu sắc hơn bởi rõ ràng đây là một người phụ nữ có cá tính mạnh với khả năng tự kiềm chế rất tốt. Chẳng đếm xỉa đến sự hiện diện của tôi, cô ta đi thẳng đến chỗ bác mình và vuốt ve mái đầu bằng một cử chỉ dịu dàng nữ tính.

"Bác đã yêu cầu họ thả anh Arthur chưa, thưa bác?"

"Chưa đâu, con gái, vấn đề cần phải được điều tra kĩ lưỡng."

"Nhưng cháu chắc chắn anh ấy vô tội. Bác cũng hiểu rõ trực giác của phụ nữ mà. Cháu biết anh ấy không làm điều gì sai quấy và bác sẽ hối tiếc vì đã hành động khắt khe đến thế."

"Thế thì tại sao nó lại im lặng nếu quả thực vô tội?"

"Nào ai biết được. Có lẽ anh ấy giận vì bác đã nghi ngờ anh ấy chăng?"

"Làm sao mà ta không nghi ngờ nó cho được khi chính mắt ta trông thấy nó cầm chiếc mũ miện trong tay?"

"Ồ, nhưng anh ấy chỉ cầm nó lên để ngắm nghía thôi. Ôi, xin bác hãy tin lời cháu rằng anh ấy vô tội. Hãy bỏ qua chuyện này và đừng nói gì nữa. Thật đáng sợ khi nghĩ đến việc anh Arthur thân yêu của chúng ta đang ở trong tù!"

"Ta sẽ không bao giờ bỏ qua cho đến khi tìm được mấy viên đã quý, không bao giờ đâu, Mary! Tình cảm của con dành cho Arthur đã làm con không nhận ra những hậu quả đáng sợ sẽ đến với ta. Chẳng những không bưng bít vụ này mà ta còn mời về đây một nhà thám tử từ London để tìm hiểu vấn đề sâu hơn."

"Quý ông này chăng?" Cô ta hỏi và quay mặt về phía tôi.

"Không phải, ông đây là bạn của ông ta. Ông ấy muốn chúng ta để ông ấy xem xét một mình. Giờ thì ông ấy đang vòng theo lối đi đến chuồng ngựa."

"Lối đi vào chuồng ngựa ư?" Cô ta nhướng đôi mày đen thẫm lên. "Ông ta hi vọng tìm được gì ở đó chứ? À, đây, cháu cho rằng đây chính là ông thám tử ấy. Thưa ông, tôi mong rằng ông sẽ thành công trong việc chứng minh điều mà tôi chắc chắn là sự thật, đó là anh họ Arthur của tôi không hề dính dáng đến vụ mất trộm này!"

"Tôi hoàn toàn đồng ý với cô và tôi hi vọng rằng, cùng với cô, chúng tôi sẽ chứng minh được điều đó", Holmes quay lại và đi đến tấm thảm chùi chân để giũ sạch tuyết khỏi đôi giày. "Tôi tin rằng mình đang được hân hạnh nói chuyện cùng cô Mary Holder. Cô có thể cho phép tôi được hỏi vài câu chứ?"

"Xin ông cứ hỏi, nếu điều đó có thể giúp ông làm sáng tỏ sự việc kinh khủng này!"

"Đêm qua cô không hề nghe thấy gì cả, đúng không?"

"Vâng, mãi đến khi bác tôi đây bắt đầu to tiếng, tôi mới nghe được và đi xuống nhà."

"Tối hôm qua cô đã đóng các cửa sổ và cửa ra vào. Cô có cài chặt tất cả các cửa sổ không?"

"Có."

"Đến sáng nay thì chúng hãy còn cài then đầy đủ chứ?"

"Vâng."

"Trong nhà có một cô hầu có tình nhân phải không? Tôi nghe đêm qua cô đã lưu ý cho bác mình biết rằng cô ấy đã ra ngoài để gặp anh ta?"

"Vâng, và chị ta chính là người đã đợi trong phòng khách, và có thể đã nghe thấy bác tôi nói chuyện về cái mũ miện."

"Tôi hiểu. Cô suy ra rằng có lẽ chị ta đã ra ngoài để kể cho tình nhân nghe và rồi cả hai sắp đặt kế hoạch đánh cắp chiếc mũ miện."

"Nhưng những giả thuyết mơ hồ đó thì có ích gì", ông chủ nhà băng sốt ruột kêu lên, "khi tôi đã nói với ông rằng chính mắt tôi trông thấy Arthur cầm cái mũ miện trong tay?"

"Xin hãy đợi một lát, thưa ông Holder. Chúng ta sẽ quay lại chi tiết đó sau. Về cô người hầu đó, thưa cô Holder. Cô trông thấy cô ấy trở vào nhà qua lối cửa bếp, có đúng không?"

"Vâng, khi tôi đến xem cánh cửa ra vào đã được cài chốt vào ban đêm hay chưa thì trông thấy chị ta lẻn vào. Trong bóng tối, tôi cũng nhìn thấy tình nhân của chị ta."

"Cô có biết anh ta không?"

"Ồ, có chứ! Anh ta là người bán rau quả hay tới giao hàng cho chúng tôi. Tên anh ta là Francis Prosper."

"Có phải là", Holmes hỏi tiếp, "anh ta đứng ở bên trái cánh cửa, tức là hơi xa một chút về phía lối đi chứ không phải là ở gần cánh cửa bếp?"

"Vâng, đúng thế."

"Và người đó có một cái chân gỗ?"

Một nét gì đó giống như nỗi sợ hãi thoáng qua trong đôi mắt đen biểu cảm của cô gái. "Ông cứ như thầy phù thủy vậy", cô ta nói. "Làm thế nào mà ông biết được?" Cô ta mỉm cười, nhưng không hề có nụ cười đáp lại trên khuôn mặt gầy gò, sốt sắng của Holmes.

"Tôi muốn lên lầu", anh nói. "Tôi cũng sẽ phải kiểm tra phía bên ngoài của ngôi nhà một lần nữa. Có lẽ tôi nên xem xét những cánh cửa sổ ở tầng dưới trước đã."

Anh nhanh chóng đi một lượt qua các cửa sổ, chỉ dừng lại ở cánh cửa lớn trông xuống lối đi dẫn đến chuồng ngựa. Anh mở nó ra và khám xét kĩ lưỡng bệ cửa với chiếc kính lúp có độ phóng đại cao. Cuối cùng anh nói, "Giờ thì chúng ta lên lầu."

Phòng thay quần áo của ông chủ nhà băng là một căn phòng nhỏ, trần thiết kế rất đơn giản, trải thảm màu xám, có một chiếc tủ commốt lớn và một tấm gương dài. Holmes bước đến bên chiếc tủ commốt trước tiên và chăm chú nhìn vào ổ khóa.

"Chiếc chìa khóa nào đã được dùng để mở nó?" Anh hỏi.

"Là cái chìa mà con trai tôi đã nói đến - chìa khóa của cái tủ để trong phòng chứa đồ tập tàng."

"Hiện ông có nó ở đây không?"

"Nó đang nằm trên mặt bàn kia."

Sherlock Holmes nhặt nó lên và mở ngăn kéo tủ commốt ra.

"Ổ khóa không phát ra tiếng động nào", anh nói. "Thảo nào nó không đánh thức ông dậy. Tôi đoán là cái hộp này đựng chiếc mũ miện. Chúng ta phải xem thử." Anh mở hộp ra và cầm lấy chiếc vương miện để lên mặt bàn. Đó là một mẫu vật lộng lẫy của nghệ thuật kim hoàn và ba mươi sáu viên đá là những viên châu ngọc đẹp nhất mà tôi từng được thấy, ở một bên của chiếc mũ miện có một đường gờ bị nứt gãy, đó chính là góc dát ba viên đá đã bị bẻ đi.

"Thưa ông Holder", Holmes nói, "đây là góc tương ứng với mảnh mũ miện đã xui xẻo bị đánh cắp. Tôi có thể nhờ ông bẻ thử được không?"

Ông chủ nhà băng sợ hãi lùi lại. "Nằm mơ tôi cũng không dám thử", ông ta nói.

"Thế thì tôi sẽ thử." Holmes đột nhiên dồn hết sức để bẻ nó, nhưng vật đó không hề hấn gì. "Tôi cảm thấy nó chỉ hơi cong đi", anh nói, "tuy ngón tay tôi cực khỏe nhưng cũng phải mất rất nhiều thời gian họa may mới bẻ nổi nó. Người bình thường không thể nào làm gãy nó được. Giờ thì ông nghĩ điều gì sẽ xảy ra khi tôi bẻ nó, thưa ông Holder? Nó sẽ phát ra tiếng động to như một phát súng nổ. Ông nghĩ tiếng nổ ấy phát ra chỉ cách giường ông có vài yard mà ông không nghe thấy gì sao?"

"Tôi không biết phải nghĩ gì nữa. Mọi thứ đều mơ hồ quá."

"Nhưng có lẽ nó sẽ rõ ràng hơn nếu ta tiếp tục. Cô nghĩ sao, thưa cô Mary Holder?"

"Tôi thú nhận là tôi cũng bổi rối như bác mình."

"Con trai ông không đi giày dép gì lúc ông nhìn thấy anh ta phải không?"

"Trên người nó chỉ có cái quần dài và chiếc áo sơmi, ngoài ra chẳng có thứ gì khác."

"Cảm ơn ông. Chắc chắn là chúng ta đã được ban một vận may lạ thường trong suốt cuộc điều tra này, và nếu như ta không giải quyết nổi vấn đề thì đó hoàn toàn là lỗi của chúng ta. Nếu ông cho phép, thưa ông Holder, bây giờ tôi sẽ tiếp tục điều tra ở bên ngoài."

Theo yêu cầu của Sherlock Holmes, anh đi ra ngoài một mình vì anh giải thích rằng bất kì dấu chân không cần thiết nào cũng sẽ làm cho công việc của anh thêm khó khăn. Sau khoảng một giờ làm việc, cuối cùng anh cũng quay vào với đôi chân phủ đầy tuyết nặng trịch và vẻ mặt bí hiểm như thường thấy.

"Thưa ông Holder, tôi nghĩ rằng mình đã thấy tất cả những điều cần thiết", anh nói, "bây giờ tôi quay về là tốt nhất."

"Nhưng còn mấy viên đá quý thì sao hả ông Holmes? Chúng đang ở đâu?"

"Tôi chưa thể nói được."

Ông chủ nhà băng vò đầu bứt tai. "Thế là tôi chẳng bao giờ còn nhìn thấy chúng nữa!" Ông ta bật khóc. "Còn con trai tôi thì sao? Ông đã làm cho tôi hi vọng mà?"

"Ý kiến của tôi về cậu ta vẫn không thay đổi."

"Thế thì, vì Chúa, sự việc đen tối đã xảy ra trong nhà tôi đêm hôm qua là sao?"

"Nếu ông có thể đến nhà tôi ở phố Baker vào khoảng từ 9 đến 10 giờ sáng mai thì tôi sẽ rất sẵn lòng làm tất cả những gì có thể để sự việc trở nên rõ ràng hơn. Tôi nhớ rằng ông đã cho tôi carte blanche để điều tra việc này giúp ông, miễn là tôi thu hồi được mấy viên đá quý và ông không đặt ra giới hạn nào về thù lao của tôi."

"Tôi sẽ trao cho ông cả một gia tài để đổi lấy chúng."

"Rất tốt. Từ giờ đến lúc đó tôi sẽ tiếp tục xem xét sự việc. Tạm biệt, cũng có thể tôi sẽ quay lại đây trước khi trời tối."

***

Tôi có thể thấy rõ là hiện giờ bạn tôi đã xác định được hướng giải quyết cho vụ này, dù rằng có cố gắng đến mấy tôi vẫn chưa thể hình dung nổi những kết luận của anh. Trên đường trở về nhà, đã đôi lần tôi cố tình thăm dò ý kiến của anh nhưng anh luôn đánh trống lảng, cho đến khi tôi đành thất vọng bỏ cuộc. Khi chúng tôi về đến nhà thì vẫn chưa đến 3 giờ. Anh vội vã chạy lên phòng mình và chỉ vài phút sau lại bước xuống, ăn mặc như một gã ma cà bông. Với cổ áo dựng đứng, chiếc áo choàng ngoài bằng vải sần đã mòn bóng, chiếc cà vạt màu đỏ và đôi giày ống cũ kĩ, trông anh đúng là hình mẫu tiêu biểu của hạng người đó.

"Tôi nghĩ ăn mặc thế này là được", anh nói khi ngắm nghía mình trong chiếc gương treo bên trên lò sưởi. "Tôi chỉ ước sao có anh đi cùng, Watson ạ, nhưng lại sợ rằng như thế không ổn. Có thể tôi đã lần ra dấu vết, cũng có thể tôi đã bị đánh lạc hướng, nhưng tôi sẽ sớm biết được mình đúng hay sai. Tôi hi vọng sẽ có thể quay về sau vài giờ." Anh cắt một lát thịt bò từ tảng thịt to đặt trên tủ, kẹp nó vào giữa hai khoanh bánh mì và nhét bữa ăn đơn giản đó vào túi rồi bắt đầu chuyến thám hiểm.

Khi tôi vừa xong bữa trà chiều thì anh trở về, rõ ràng là rất phấn khởi, tay vung vẩy một chiếc giày cao cổ đã cũ có mặt bên co giãn. Anh quẳng nó vào góc phòng và tự rót cho mình một tách trà.

"Tôi chỉ ghé qua nhà một chút khi đi ngang qua", anh nói. "Tôi lại đi tiếp ngay đây."

"Anh đi đâu?"

"Ôi, ở mãi bên kia khu West End. Có thể còn lâu tôi mới về. Đừng đợi tôi nếu tôi về muộn."

"Công việc trôi chảy chứ?"

"Ồ, cũng tàm tạm. Không có gì đáng kêu ca. Kể từ lúc chia tay anh tôi có đến Streatham nhưng không vào nhà ông Holder. Vụ án nho nhỏ này rất hấp dẫn và tôi nhất định sẽ không bỏ qua. Tuy nhiên, tôi không thể ngồi đây tán chuyện mãi được mà phải cởi bộ đồ tệ hại này ra để trở lại với con người đàng hoàng của tôi."

Tuy ngoài miệng chỉ nói bóng gió như thế nhưng qua thái độ của anh, tôi có thể đoán được là anh có đầy đủ lí do để hài lòng. Đôi mắt anh sáng lấp lánh và thậm chí trên hai gò má tai tái còn hiện lên chút khí sắc. Anh vội vã lên lầu và chỉ vài phút sau tôi đã nghe tiếng cánh cửa tiền sảnh đóng sập lại, cho biết anh đã lại ra ngoài để tiếp tục cuộc săn lùng mà anh đang rất tâm đắc.

Tôi đợi đến nửa đêm mà vẫn chưa thấy anh trở về nên đành quay về phòng mình. Việc anh đi biền biệt suốt nhiều ngày đêm khi bám theo một dấu vết vốn là chuyện hết sức bình thường, do đó tôi cũng chẳng ngạc nhiên nếu anh về muộn. Không biết là mấy giờ anh mới về nhưng sáng hôm sau, khi tôi xuống nhà để dùng bữa điểm tâm thì anh đã có mặt ở đó, một tay cầm tách cà phê còn tay kia cầm tờ báo, trông rất tươi tỉnh và gọn gàng.

"Xin lỗi vì đã bắt đầu bữa sáng mà không đợi anh, Watson", anh nói, "nhưng anh hãy nhớ rằng ta có một cái hẹn khá sớm với thân chủ của ta vào sáng nay."

"Sao, đã hơn 9 giờ rồi," tôi đáp.

"Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu ông ta đã đến. Tôi nghe như có tiếng chuông reo."

Quả thật, đó là ông bạn tài phiệt của chúng tôi. Tôi bàng hoàng vì sự thay đổi rõ rệt ở ông ta, vì khuôn mặt vốn to rộng và nặng nề của ông ta giờ đây đã héo hon và co rúm lại, còn mái tóc thì có vẻ bạc hẳn đi. ông ta bước vào phòng với vẻ mệt mỏi và bơ phờ, trông còn thương tâm hơn cả trạng thái quá khích sáng hôm qua, và nặng nề buông người xuống chiếc ghế bành mà tôi đẩy ra cho ông ta.

"Không biết tôi đã làm gì để mà giờ đây bị thử thách nặng nề đến thế!" Ông ta nói. "Mới hai ngày trước tôi hãy còn là một người hạnh phúc và thành đạt, vô lo vô nghĩ. Vậy mà bây giờ tôi lại bị bỏ rơi trong tuổi già cô độc và nhục nhã. Họa vô đơn chí. Cháu gái tôi, con bé Mary, nó đã bỏ tôi mà đi."

"Bỏ rơi ông?"

"Phải. Sáng nay giường ngủ của nó phẳng phiu như chưa hề có ai nằm lên, trong phòng trống trơn và trên mặt bàn ở hành lang có một bức thư viết cho tôi. Tối hôm qua tôi có nói với nó, do đau buồn chứ không hề giận dữ, rằng nếu nó chịu cưới con trai tôi thì mọi chuyện hẳn là đã ổn thỏa với thằng bé. Có lẽ tôi đã thiếu suy nghĩ khi nói thế. Nó có nhắc đến lời nói đó trong lá thư này:

GỬI BÁC YÊU DẤU NHẤT ĐỜI CỦA CHÁU!

Cháu cảm thấy mình đã đem rắc rối đến cho bác và nếu cháu hành động khác đi thì hẳn là nỗi bất hạnh đáng sợ đó đã chẳng bao giờ xảy ra. Vài ý nghĩ đó cứ luẩn quẩn trong đầu thì cháu sẽ không thể nào còn cảm thấy hạnh phúc dưới mái nhà của bác, và cháu thấy rằng mình phải ra đi mãi mãi. Bác đừng lo lắng về tương lai của cháu vì nó đã được lo liệu đầy đủ, và nhất là đừng đi tìm cháu vì sẽ phí công vô ích và chẳng đem lại điều gì tốt đẹp cho cháu. Cho dù sống hay chết, cháu vẫn mãi là đứa cháu thương yêu của bác.

MARY.

"Nó muốn nói gì qua lá thư này hả ông Holmes? Ông có nghĩ rằng nó ám chỉ đến việc tự tử không?"

"Không, không phải đâu. Có lẽ đây là giải pháp tốt nhất. Ông Holder ạ, tôi tin rằng những rắc rối của ông sắp chấm dứt rồi."

"Hả! Ông nói thế là sao? Ông đã nghe được điều gì đó chăng, ông Holmes? Ông đã biết được chuyện gì? Những viên đá quý đang ở đâu?"

"Ông có cho rằng một ngàn bảng mỗi viên là một cái giá quá đắt cho chúng không?"

"Tôi sẽ trả đến mười ngàn."

"Không cần cao đến thế đâu. Ba ngàn bảng là đủ rồi. Và một món tiền thưởng nho nhỏ nữa, tôi nghĩ thế. Ông có đem theo sổ chi phiếu chứ? Bút đây. Tốt hơn là ghi lên thành bốn ngàn bảng."

Với bộ mặt sững sờ, ông chủ nhà băng viết tờ chi phiếu theo yêu cầu. Holmes bước lại bàn làm việc của anh, lấy ra một mảnh vàng nhỏ hình tam giác có dát ba viên đá quý và thảy lên mặt bàn.

Thân Chủ của chúng tôi reo lên vui sướng chộp lấy nó. "Ông đã lấy lại được!" Ông ta hổn hển. "Tôi thoát nạn rồi! Tôi thoát nạn rồi!"

Phản ứng vui mừng của ông ta cũng mãnh liệt như nỗi buồn trước đó, và ông ta ôm những viên đá quý vừa tìm được vào trước ngực.

"Ông còn mắc nợ một món nữa đấy, ông Holder", Holmes nói với vẻ khá nghiêm nghị.

"Mắc nợ sao!" Ông ta cầm bút lên. "Hãy cho tôi biết số tiền là bao nhiêu và tôi sẽ trả ngay."

"Không, ông không nợ tôi. Ông còn thiếu một lời xin lỗi thật chân thành với chàng trai cao thượng đó, chính là con trai của ông. Tôi mà có con trai thì tôi sẽ rất tự hào nếu nó cư xử được như anh ta trong vụ này?"

"Vậy Arthur không phải là người đã đánh cắp mấy viên đá quý?"

"Hôm qua tôi đã nói với ông rồi và hôm nay tôi sẽ nhắc lại rằng không phải anh ta."

"Ông chắc chứ? Thế thì chúng ta mau đi gặp nó ngay để báo cho nó biết rằng sự thật đã được phơi bày?"

"Anh ta đã biết rồi. Khi đã làm sáng tỏ vụ này, tôi có nói chuyện với anh ta và khi thấy anh ta sẽ không chịu thuật lại sự việc, tôi đã kể câu chuyện cho anh ta nghe, anh ta bèn thừa nhận là tôi nói đúng và bổ sung thêm vài chi tiết mà tôi vẫn chưa hiểu rõ. Thế nhưng, tin tức ông đem lại sáng nay có thể sẽ làm cho anh ta chịu mở miệng."

"Lạy Chúa, xin hãy nói cho tôi biết về bí ẩn phi thường đó!"

"Tôi sẽ nói ngay và sẽ chỉ cho ông thấy những bước mà qua đó tôi đã tìm ra sự thật. Và trước tiên, xin được nói ra điều mà đối với tôi là khó nói nhất và đối với ông là khó nghe nhất: Huân tước George Burnwell đã thông đồng với cháu gái của ông, cô Mary. Họ đã cùng nhau bỏ trốn."

"Con bé Mary của tôi? Không thể nào!"

"Thật đáng tiếc là điều này không những có thể xảy ra mà là đích thực đã xảy ra. Cả ông lẫn con trai ông đều không biết được bản chất thực sự của kẻ mà các ông đã cho phép bước vào gia đình mình. Hắn là một trong những kẻ nham hiểm nhất nước Anh - một con bạc đã phá sản, một gã côn đồ liều mạng, một con người không có trái tim hoặc lương tâm. Cháu gái của ông không hay biết gì về con người đó. Khi hắn thề thốt với cô ta, như đã từng nói với cả trăm cô gái khác trước đó, cô ta đã tự mãn tưởng rằng chỉ có mình mới làm cho trái tim hắn rung động. Có quỷ sứ mới biết được hắn đã nói những gì, nhưng ít ra thì cô ta đã trở thành công cụ trong tay hắn và còn nhiễm thói gặp gỡ hắn gần như mỗi đêm."

"Không, không thể và sẽ chẳng bao giờ tôi tin chuyện đó!" Ông chủ nhà băng kêu to, mặt tái đi.

"Vậy thì tôi sẽ kể cho ông nghe chuyện đã xảy ra trong nhà ông đêm hôm trước. Khi nghĩ rằng ông đã trở về phòng, cháu gái của ông bèn lẻn xuống cầu thang và nói chuyện với tình nhân qua cánh cửa sổ hướng ra lối đi dẫn đến chuồng ngựa. Những dấu chân của hắn đã in sâu xuống tuyết trong suốt thời gian dài hắn đứng ở đó. Cô ta đã kể cho hắn nghe về chiếc mũ miện. Nghe tin này, lòng tham xấu xa của hắn nổi lên và hắn bắt cô ta phải làm theo ý hắn. Tôi chắc chắn rằng cô bé rất thương yêu ông nhưng có những người đàn bà luôn bị tình yêu trai gái lấn át tất cả những tình cảm khác, và tôi nghĩ rằng Mary thuộc loại phụ nữ ấy. Vừa mới nghe xong những lời dặn của hắn thì cô ta trông thấy ông bước xuống cầu thang, thế là cô ta lập tức đóng vội cánh cửa sổ lại và kể cho ông nghe về sự dan díu của một cô hầu với người tình mang chân gỗ của chị ta, và điều này thì hoàn toàn đúng.

Arthur, con trai ông, đã trở về giường mình sau cuộc nói chuyện với ông, nhưng anh ta trằn trọc không ngủ được vì lo lắng về những món nợ ở câu lạc bộ. Đến nửa đêm, anh ta nghe có tiếng bước chân đi thật nhẹ ngang qua cửa phòng mình, vì thế anh ta nhổm dậy và vô cùng ngạc nhiên khi trông thấy cô em họ đang lén lút đi dọc theo hành lang rồi biến mất vào phòng thay đồ của ông. Kinh ngạc đến sững sờ, chàng trai mặc vội quần áo và nấp trong bóng tối, chờ xem sự việc kì lạ này sẽ đi đến đâu. Chỉ một lúc sau, cô gái lại từ trong phòng bước ra và dưới ánh sáng của ngọn đèn ở hành lang, con trai ông nhìn thấy cô ta cầm trong tay chiếc mũ miện quý giá. Khi cô ta đi xuống cầu thang, anh ta liền hớt hải chạy theo và ẩn mình vào sau tấm rèm ở gần cửa phòng ông, từ chỗ đó anh ta có thể trông thấy những gì xảy ra ở hành lang của tầng dưới. Anh ta thấy cô gái rón rén mở cửa sổ và đưa chiếc mũ miện cho ai đó trong bóng tối, rồi đóng cửa sổ lại và vội vã trở về phòng. Trên đường quay lại, cô ta đi sát qua chỗ chàng trai đang nấp sau tấm rèm. Khi cô ta còn ở đó thì chàng trai không thể làm gì vì sợ phơi bày ra sự thật xấu xa của người thiếu nữ anh ta đang yêu. Nhưng vào giây phút cô ta đi khuất thì anh ta chợt nhận thức được tai họa này đối với ông nghiêm trọng biết bao và việc cứu vãn tình hình quan trọng biết chừng nào. Anh ta mặc nguyên bộ đồ phong phanh và chạy chân trần xuống cầu thang, mở cánh cửa sổ rồi phóng ra ngoài nền đất tuyết và chạy xuống con đường mòn, ở đó anh ta có thể trông thấy một bóng đen dưới ánh trăng. Huân tước George Burnwell gắng sức bỏ chạy nhưng Arthur đã tóm được hắn và một cuộc vật lộn đã diễn ra giữa hai người, con trai ông giật mạnh một bên của chiếc mũ miện còn đối thủ của anh ta thì nắm chặt phía bên kia. Trong trận ẩu đả, con trai ông đã giáng một cú trúng huân tước George và cào vào mắt hắn. Bỗng một tiếng 'rắc' vang lên, con trai ông nhận thấy chiếc mũ miện đã nằm trong tay mình bèn hổi hả trở về, đóng cửa sổ lại, chạy lên phòng ông và khi anh ta vừa mới nhận ra là chiếc mũ miện đã bị bẻ cong trong cuộc giằng co và đang cố gắng uốn cho nó thẳng lại thì ông bước vào."

"Có thể nào lại là thế?" Ông chủ nhà băng hổn hển.

"Thế rồi ông làm cho anh ta nổi giận khi chửi mắng anh ta bằng những lời lẽ tồi tệ vào đúng lúc anh ta nghĩ mình xứng đáng được nhận những lời cảm ơn nồng nhiệt nhất. Anh ta không thể nào giải thích thực chất của vấn đề vì sợ phản bội lại con người mà rõ ràng là không xứng đáng với sự quên mình của anh ta. Nhưng vì hào hiệp, anh ta đã giữ kín bí mật của cô gái."

"Vậy ra đó là lí do con bé gào lên và ngất xỉu khi trông thấy chiếc mũ miện", ông Holder kêu to. "Ôi, Chúa ơi! Tôi thật là một lão ngốc mù quáng! Con trai tôi còn cầu xin tôi cho nó ra ngoài năm phút thôi nữa chứ! Thằng bé đáng quý muốn tìm xem mảnh bị mất có còn nằm ở chỗ chúng đã đánh nhau hay không. Tôi đã đánh giá sai nó một cách tàn nhẫn làm sao!"

"Khi đến nhà ông", Holmes nói tiếp, "tôi lập tức đi vòng quanh nhà để quan sát xem có còn vết tích nào trên tuyết có thể giúp ích cho mình hay không. Tôi biết rằng tuyết không rơi thêm từ đêm hôm trước và sương giá sẽ giữ lại nguyên vẹn mọi dấu vết. Tôi lần theo lối đi của người giao hàng nhưng nhận thấy các dấu vết đã bị giẫm đạp lên và không còn phân biệt được nữa. Tuy vậy, ngay phía trước, ở bên ngoài cánh cửa bếp, có một phụ nữ đã đứng trò chuyện với một người đàn ông, những vết tròn ở một bên chân cho biết anh ta có một chân bằng gỗ. Thậm chí tôi còn có thể nhận ra rằng cuộc nói chuyện của họ đã bị gián đoạn vì người phụ nữ đã vội vàng chạy về phía cửa, điều đó được thể hiện rõ qua việc ngón chân cái của cô ta in sâu xuống còn những dấu vết của gót chân thì nông hơn, trong khi đó anh chàng chân gỗ đứng đợi một lúc rồi bỏ đi. Lúc đó tôi nghĩ rằng hai người này có thể là cô hầu và người yêu của cô ta mà ông đã nói với tôi và cuộc điều tra cũng cho thấy là đúng như vậy. Tôi đi vòng quanh khu vườn song không nhìn thấy gì ngoài những dấu vết rải rác mà tôi cho là dấu chân của cảnh sát; nhưng khi tôi bước vào con đường mòn dẫn đến chuồng ngựa thì có một câu chuyện dài và phức tạp được viết trên tuyết ngay trước mắt tôi. Có hai hàng dấu chân của một người đàn ông đi giày và hai hàng dấu chân khác mà tôi vui mừng nhận ra là thuộc về một người đàn ông đi chân trần. Từ lời kể của ông, tôi lập tức tin chắc rằng người thứ hai chính là con trai ông. Người thứ nhất đi bộ theo cả hai chiều còn người thứ hai thì chạy vội vã và vì dấu chân của anh ta in lên những dấu giày lõm xuống, rõ ràng là anh ta đã chạy theo người kia. Tôi lần theo những dấu chân này và thấy chúng dẫn đến cánh cửa sổ nhìn ra con đường mòn, là nơi mà kẻ đi giày đã đạp tuyết lún xuống trong khi chờ đợi. Rồi tôi bước đến đầu kia của con đường mòn, cách đó gần một trăm yard. Tại đây, tôi nhìn thấy kẻ mang giày đã quay mặt lại và tuyết bị giẫm nát như thể đã xảy ra một cuộc vật lộn và cuối cùng thì có vài giọt máu rơi trên tuyết cho tôi thấy là mình đã không lầm. Sau đó, kẻ đi giày đã chạy xuôi theo con đường mòn và một vết máu nhỏ khác cho biết hắn đã bị thương. Khi hắn đi đến chỗ tiếp giáp với đường cái thì tôi nhận thấy vỉa hè đã được quét sạch, vậy là dấu vết kết thúc ở đó. Tuy nhiên, khi trở vào nhà, như ông còn nhớ, tôi đã dùng kính lúp xem xét kĩ bệ cửa và khung cửa sổ nhìn ra con đường mòn và lập tức biết rằng có ai đó đã đi qua lối này. Tôi có thể nhận ra hình dáng của lòng bàn chân nơi bàn chân ướt đã đặt lên khi bước vào. Khi đó tôi bắt đầu hình dung sự việc đã xảy ra như sau: Một người đàn ông đứng đợi bên ngoài cửa sổ; ai đó đem vật trang sức bằng đá quý đến; hành động đó bị con trai ông trông thấy; anh ta đuổi theo kẻ trộm; đánh nhau với hắn; người nào cũng giằng mạnh chiếc mũ miện, sức lực của cả hai người cộng lại khiến cho nó gãy lìa mà nếu chỉ một mình thì không ai có thể làm được. Con trai ông mang chiến lợi phẩm quay trở vào nhà nhưng đã để lại một mảnh trong tay của đối thủ. Đến đây thì tôi đã hiểu rõ. Vấn đề đặt ra bây giờ là, kẻ đó là ai và ai đã đem chiếc mũ miện đến cho hắn?

Tôi có một phương châm là: Sau khi loại trừ được những gì không thể thì điều gì còn lại, dù có khó xảy ra đến đâu, ắt phải là đáp án chân thực. Tôi biết ông không phải là người đã đem nó xuống nhà, vậy thì chỉ còn lại cháu gái của ông và mấy người hầu. Nhưng nếu đó là những cô hầu thì tại sao con trai ông lại chấp nhận bị kết tội thay? Không có lí do nào cả. Tuy vậy, vì anh ta yêu người em họ của mình nên đó chính là cái cớ tuyệt vời để giải thích cho việc anh ta giữ kín bí mật của cô ta - nhất là khi bí mật đó là một điều ô nhục. Khi tôi nhớ lại là ông đã nhìn thấy cô ta đứng bên cửa sổ, và cô ta đã ngất xỉu khi trông thấy chiếc mũ miện xuất hiện trở lại thì điều phỏng đoán của tôi đã trở nên chắc chắn. Và kẻ đồng lõa của cô ta có thể là ai? Đương nhiên đó phải là một người tình vì còn ai khác có thể có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn tình thương yêu và lòng biết ơn của cô ta đối với ông kia chứ? Tôi biết rằng ông ít khi ra khỏi nhà và quan hệ bạn bè cũng rất hạn chế. Nhưng trong số đó có huân tước George Burnwell. Trước đây, tôi đã từng nghe nói hắn là một gã có nhiều tai tiếng đối với phụ nữ. Kẻ đi giày và giữ những viên đá bị mất chính là hắn. Cho dù biết rằng mình đã bị Arthur phát hiện, hắn vẫn hi vọng sẽ được an toàn vì chàng trai sẽ không thể tiết lộ một lời nào vì sợ làm tổn hại đến gia đình.

Trong hoàn cảnh đó, hẳn óc xét đoán của quý vị cũng sẽ nghĩ ra được biện pháp kế tiếp mà tôi sử dụng. Tôi đến nhà của huân tước George Burnwell trong bộ dạng của một kẻ lang thang, tìm cách làm quen với người đầy tớ của hắn và được biết là ông chủ của anh ta có bị thương ở đầu vào đêm trước, và cuối cùng với một món tiền là sáu shilling, tôi mua lại một đôi giày đã hỏng của chủ anh ta để kiểm tra lại cho chắc chắn. Tôi mang đôi giày đó đến Streatham để ướm thử và thấy rằng chúng vừa khít với những dấu chân."

"Tôi có trông thấy một tên du đãng ăn mặc lôi thôi lếch thếch trên đường mòn tối qua", ông Holder nói.

"Chính xác. Kẻ đó là tôi. Nhận thấy mình đã tìm ra tên trộm, tôi trở về nhà và thay quần áo. Đã đến lúc tôi phải thử diễn phần tế nhị của vở kịch vì tôi thấy rằng không nên khởi tố để tránh xảy ra tai tiếng và tôi cũng biết một kẻ bất lương rất tinh ranh như hắn cũng sẽ đoán được chúng ta đều bị vấn đề này trói buộc. Tôi đến gặp hắn. Tất nhiên là lúc đầu hắn phủ nhận tất cả. Nhưng khi tôi kể cho hắn nghe từng chi tiết đã xảy ra, hắn bèn thử hăm dọa và lấy vũ khí phòng thân treo trên tường xuống. Tuy nhiên, tôi vốn biết rõ đối thủ của mình nên đã gí súng vào đầu hắn trước khi hắn kịp ra đòn. Thế là hắn trở nên biết điều hơn. Tôi bảo hắn rằng chúng ta sẽ trả cho hắn một khoản tiền để lấy lại những viên đá quý mà hắn đang giữ, một ngàn bảng cho mỗi viên. Nghe vậy, mặt hắn liền lộ ra những dấu hiệu tiếc nuối. 'Sao, mẹ kiếp!' Hắn nói, 'tôi đã bán chúng với giá sáu trăm cho cả ba viên!' Tôi nhanh chóng xoay xở để có được địa chỉ của kẻ tàng trữ đồ trộm cắp đang giữ chúng bằng cách hứa sẽ không đưa hắn ra tòa. Rời khỏi nhà hắn, tôi chạy thẳng đến nhà người mua và sau một hồi lâu cò kè mặc cả, tôi đã có trong tay ba viên đá quý với giá một ngàn bảng mỗi viên. Rồi tôi ghé thăm con trai ông, báo cho anh ta biết là mọi việc đã ổn, cuối cùng là lên giường đi ngủ vào khoảng 2 giờ sáng sau một ngày làm việc mà tôi có thể nói là cực nhọc."

"Và là ngày giải cứu Anh quốc khỏi một vụ tai tiếng trầm trọng", ông chủ nhà băng nói thế rồi đứng lên. "Thưa ông, tôi không thể tìm ra lời nào xứng đáng để cảm ơn ông, nhưng ông sẽ thấy rằng tôi không phải là kẻ vô ơn sau những gì ông đã làm cho tôi. Quả thật là tài năng của ông đã vượt quá tất cả những gì tôi được nghe kể. Giờ thì tôi phải chạy ngay đi gặp đứa con trai thân yêu để xin lỗi nó về sai lầm mà tôi đã phạm phải. Còn về những gì ông nói cho tôi biết về con bé Mary, nó làm tôi đau thấu tim gan. Phải chăng ngay cả tài năng của ông cũng không thể cho tôi biết nó đang ở đâu?"

"Tôi nghĩ chúng ta có thể đoán chắc rằng", Holmes đáp, "huân tước George Burnwell ở đâu thì cô ta ở đó. Và còn một điều chắc chắn nữa, cho dù cô ta đã phạm những tội lỗi gì, thì cô ta cũng sẽ sớm chịu sự trừng phạt còn hơn cả thích đáng."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro