NHÀ QUÝ TỘC ĐỘC THÂN(The Noble Bachelor, 1892)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đám cưới của huân tước St. Simon và cái kết lạ lùng của nó, từ lâu đã không còn là đề tài gây hứng thú cho giới quý tộc mà chú rể giao du. Những vụ tai tiếng mới mẻ đã làm cho nó bị lu mờ và những chi tiết thú vị hơn trong các vụ này đã thu hút hết những lời đồn đại khiến người ta không còn bận tâm về tấn kịch từ bốn năm trước nữa. Tuy vậy, tôi có lí do để tin tưởng rằng những chi tiết chính thức chưa bao giờ được tiết lộ với công chúng và vì anh bạn Sherlock Holmes của tôi có đóng góp đáng kể trong việc làm sáng tỏ vụ này, nên tôi cảm thấy hồi kí về anh sẽ chẳng thể nào đầy đủ nếu thiếu đi vài nét phác họa về sự kiện đặc biệt này.

Câu chuyện xảy ra trước đám cưới của tôi vài tuần, trong những ngày tôi còn ở chung với Holmes tại căn nhà trên phố Baker. Hôm ấy, anh trở về nhà sau chuyến đi dạo buổi chiều thì nhìn thấy một lá thư đang đợi mình trên bàn. Suốt cả ngày dài, tôi chỉ ngồi ở nhà vì trời đột ngột đổ mưa kèm theo những cơn gió thu thổi rất mạnh và vết thương do đạn súng hỏa mai mà tôi mang về như kỉ vật của cuộc chiến ở Afghanistan lại gây nhức nhối âm ỉ. Ngồi trên chiếc ghế bành, hai chân vắt lên một chiếc ghế khác, tôi vùi mình giữa một đống báo, mãi đến khi đã bão hòa với những tin tức trong ngày tôi mới quăng hết chúng đi và nằm bơ phờ, mắt nhìn vào hình vầng trăng khuyết to tướng và những chữ cái lồng vào nhau trên phong bì nằm ở bàn, uể oải tự hỏi không biết nhà quý tộc viết thư cho bạn mình là ai.

"Đây là một bức thư rất kiểu cách", tôi nhận xét khi anh bước vào phòng. "Những lá thư đưa đến cho anh lúc sáng, nếu tôi nhớ không lầm, là của một người bán cá và một nhân viên thuế quan."

"Phải, hẳn nhiên là thư từ của tôi có sự đa dạng rất thú vị", anh mỉm cười trả lời, "và thường thường những lá thư nào càng có vẻ khiêm nhường thì lại càng lí thú. Bức thư này trông giống như một cái thư mời xã giao không mong đợi, đòi hỏi người ta hoặc là phải chịu đựng sự chán chường khi đi dự, hoặc là phải nói dối để chối từ."

Anh bóc dấu niêm phong và liếc sơ qua nội dung.

"Ồ, xem này, rốt cuộc nó có vẻ khá lí thú đây."

"Không phải thư mời xã giao à?"

"Không, hoàn toàn là công việc."

"Và từ một thân chủ có dòng dõi quý tộc?"

"Một trong những người có địa vị cao nhất ở nước Anh."

"Anh bạn thân mến, xin chúc mừng anh."

"Nói thật lòng nhé, Watson, tôi cam đoan là tôi không quan tâm đến địa vị của khách hàng bằng sự thú vị trong vụ của ông ta. Tuy vậy, có thể vụ điều tra mới này cũng không thiếu đặc tính đó. Gần đây anh chăm đọc báo lắm, phải không nào?"

"Có vẻ thế', tôi buồn rầu đáp và chỉ tay vào một chồng báo dày cộp nằm trong góc phòng. "Tôi chẳng còn việc gì khác để làm."

"May nhỉ, vì như thế anh có thể cập nhật tin tức cho tôi. Tôi chẳng xem mục gì khác ngoài các tin tức về tội phạm và mục tin nhắn. Chuyên mục ấy luôn cung cấp cho ta nhiều tư liệu. Nhưng nếu anh theo dõi sát sao các sự kiện gần đây, hẳn là anh đã đọc tin về huân tước St. Simon và đám cưới của ông ta rồi chứ?"

"Ồ, tôi đã đọc rồi, với sự quan tâm sâu sắc nhất."

"Thế thì tốt. Lá thư tôi đang cầm đây là do huân tước St. Simon gửi đến. Tôi sẽ đọc cho anh nghe và đổi lại, anh phải xem lại chồng báo đó và kể cho tôi biết những gì có liên quan đến vấn đề này. Đây, ông ta viết thế này:

Ông Sherlock Holmes thân mến!

Huân tước Backwater cho tôi biết rằng tôi có thể hoàn toàn tin cậy vào tài xét đoán và sự kín đáo của ông. Vì vậy, tôi quyết định sẽ đến gặp và tham khảo ý kiến của ông về sự kiện vô cùng đau lòng vừa xảy ra có liên quan đến hôn lễ của tôi. Ông Lestrade của Sở Cảnh sát London đã bắt tay vào việc này, nhưng ông ta quả quyết với tôi rằng sẽ không phản đối nếu ông hợp tác và còn cho rằng sự phối hợp này có thể hỗ trợ phần nào cho công cuộc điều tra.

Tôi sẽ đến chỗ ông lúc 4 giờ chiều nay và nếu ông đã có cuộc hẹn nào khác vào thời điểm đó thì tôi hi vọng là ông sẽ hoãn nó lại vì vấn đề này vô cùng quan trọng.

Chân thành,

ST. SIMON

"Thư gửi từ lâu đài Grosvenor được viết bằng bút lông ngỗng và nhà quý tộc đã không may bị dính một đốm mực ở mặt ngoài của ngón út bên tay phải", Holmes nhận xét khi gấp bức thư lại.

"Ông ta hẹn 4 giờ. Giờ đã là 3 giờ rồi. Ông ta sẽ đến sau một giờ nữa."

"Vậy thì tôi vẫn còn thời gian để hiểu rõ vấn đề với sự hỗ trợ của anh. Phiền anh mở hộ tôi mấy tờ báo này và sắp xếp các mẩu tin theo thứ tự thời gian, trong lúc đó tôi sẽ xem qua vài thông tin về vị thân chủ của chúng ta." Anh lấy một cuốn bìa đỏ từ giá sách tham khảo bên cạnh mặt lò sưởi. "Phần nói về ông ta đây rồi", anh nói, rồi ngồi xuống và mở tài liệu, đặt lên đầu gối. "Huân tước Robert Walsingham de Vere St. Simon, thứ nam của quận công Balmoral. Hừm! Huy hiệu: Nền màu thiên thanh, có hình ba chiếc chông sắt bốn cạnh nằm trên một dải băng đen. Sinh năm 1846. Ông ta đã bốn mươi mốt tuổi, độ tuổi chín chắn để thành hôn, cựu thứ trưởng về các vấn đề tại thuộc địa. Ngài quận công, cha của ông ta đã có thời là bộ trưởng bộ Ngoại giao. Họ thừa hưởng dòng máu Plantagenet trực hệ và dòng máu Tudorvề bên ngoại. Ha! Chả có thông tin gì quan trọng trong cả mớ này. Watson này, tôi nghĩ là phải quay sang anh để xem có tìm được dữ liệu nào tốt hơn không."

"Tìm thứ anh cần chẳng mấy khó khăn", tôi đáp, "vì các dữ kiện đều khá mới mẻ và vấn đề này gây ấn tượng đặc biệt với tôi. Tuy vậy, tôi ngại nói với anh về chuyện đó vì tôi biết lúc ấy anh đang vướng bận một cuộc điều tra và anh không thích bị xen ngang bởi những vụ việc khác."

"Ồ, ý anh muốn nói đến vụ chiếc xe chở đồ ở quảng trường Grosvenor chứ gì? Vụ đó đã được làm sáng tỏ rồi - mà thật ra nó đã khá rõ ràng ngay từ đầu. Anh hãy đưa tôi xem những gì mà anh đã chọn ra từ đống báo đi nào."

"Đây là mẩu tin đầu tiên mà tôi tìm thấy. Nó nằm trong mục tin riêng của tờ MorningPost và ngày đăng thì như anh thấy đấy, từ vài tuần trước: Một cuộc hôn nhân đã được sắp xếp, và nếu như lời đồn đại là đúng thì hôn lễ sẽ sớm diễn ra giữa huân tước Robert St. Simon, thứ nam của quận công Balmoral và cô Hatty Doran, ái nữ duy nhất của ngài Aloysius Doran ở San Francisco, California, Mỹ. Thế thôi."

"Ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề," Holmes nhận xét trong khi duỗi đôi chân dài, gầy guộc về phía lò sưởi.

"Một tờ báo đưa tin về xã hội thượng lưu cũng ra trong tuần đó có một đoạn nói rõ hơn về việc này. À, nó đây rồi: Chẳng bao lâu nữa, chúng ta sẽ cần có biện pháp bảo vệ thị trường cưới hỏi vì nguyên tắc tự do thương mại hiện nay có vẻ như đang gây bất lợi nặng nề cho các sản phẩm nội địa của chúng ta. Vai trò tề gia trong các dòng dõi quý tộc vương quốc Anh cứ lần lượt về tay những cô em họ xinh đẹp của chúng ta ở bên kia bờ Đại Tây Dương. Mới tuần rồi, lại thêm một cái tên quan trọng được bổ sung vào danh sách các chiến lợi phẩm bị những kẻ xâm lược duyên dáng này chiếm mất. Huân tước St. Simon, người đã kháng cự những mũi tên của thần ái tình trong hơn hai mươi năm qua, hiện đã tuyên bố dứt khoát về cuộc hôn nhân sắp tới với cô Hatty Doran, nàng ái nữ rất quyến rũ của một triệu phú ở California. Cô Doran có vóc dáng yêu kiều và khuôn mặt đầy ấn tượng từng thu hút rất nhiều sự chú ý tại lễ hội ở Westbury House, vốn là con một và theo những nguồn tin gần đây thì của hồi môn của cô sẽ lên đến hơn sáu chữ số với nhiều triển vọng hấp dẫn trong tương lai. Có một điều tế nhị mà ai cũng biết là trong vòng vài năm gần đây, quận công Balmoral đã buộc phải bán tranh của mình và huân tước St. Simon không có tài sản riêng nào ngoại trừ một dinh cơ nhỏ ở Birchmoor, vậy nên rõ ràng người nữ thừa kế đến từ California không phải là người duy nhất được lợi trong cuộc kết giao mà nhờ đó cô tiểu thư Cộng hòa dễ dàng trở thành một phu nhân quý tộc Anh."

"Còn gì nữa không?" Holmes vừa hỏi vừa ngáp.

"Ồ, còn nhiều chứ! Tiếp theo còn có một bài viết trên tờ Morning Post nói rằng hôn lễ sẽ cực kì kín đáo và được tổ chức tại nhà thờ St. George, quảng trường Hanover, chỉ có độ năm, sáu bạn hữu thân tình được mời, và sau đó tất cả sẽ trở về dự tiệc tại căn nhà đầy đủ tiện nghi ở Lancaster Gate mà ông Aloysius Doran mới mua. Hai ngày sau - tức là thứ tư vừa rồi - có một mẩu thông cáo ngắn gọn cho biết đám cưới đã diễn ra và họ sẽ trải qua tuần trăng mật tại điền trang của huân tước Backwater, gần Petersheld. Đó là tất cả các thông cáo được đăng trước khi cô dâu biến mất!"

"Trước khi sao cơ?" Holmes giật mình hỏi lại.

"Cô dâu biến mất."

"Cô ta biến mất lúc nào?"

"Tại bữa tiệc cưới."

"Thế à? Chuyện này đúng là lí thú hơn ta tưởng, phải nói là khá kịch tính ấy chứ."

"Phải, tôi có cảm giác nó không được bình thường cho lắm."

"Người ta thường bỏ trốn trước lễ cưới và đôi khi là trong tuần trăng mật; nhưng tôi chưa bao giờ gặp trường hợp nào xảy ra nhanh như thế. Xin anh hãy cho tôi biết thêm chi tiết."

"Tôi báo trước cho anh biết là thông tin còn sơ sài lắm."

"Biết đâu ta có thể cải thiện chút gì."

"Các chi tiết đó được công bố trong một bài báo duy nhất trên một tờ báo ra vào sáng qua, tôi sẽ đọc cho anh nghe. Dòng tít của nó là:

Sự cố lạ thường trong một đám cưới thượng lưu.

Gia đình huân tước Robert St. Simon đã rơi vào tình cảnh vô cùng sửng sốt trước những sự cố lạ lùng và buồn phiền có liên quan đến hôn lễ của huân tước. Như đã được thông báo ngắn gọn trên báo chí ngày hôm qua, hôn lễ đã được cử hành vào buổi sáng hôm trước; nhưng đến bây giờ mới có thể khẳng định những lời đồn lạ lùng về sự kiện này là thực. Bất chấp những nỗ lực của các bạn hữu nhằm bưng bít sự cố đến thời điểm này, vụ việc trên đã thu hút quá nhiêu sự chú ý của công chúng nên dẫu có giả bộ phớt lờ câu chuyện mà dư luận đang bàn tán xôn xao e cũng là vô ích.

Nghi lễ đã được cử hành rất kín đáo tại nhà thờ St. George, quảng trường Hanover. Những người có mặt bao gồm thân phụ của tân nương - ông Aloysius Doran, quận công phu nhân Balmoral, huân tước Backwater, huân tước Eustace và tiểu thư Clara St. Simon (em trai và em gái của tân lang) cùng với tiểu thư Alicia Whittington, ngoài ra không còn ai khác.

Sau đó, toàn bộ tân khách đến nhà ông Aloysius Doran ở Lancaster Gate, tại đây tiệc cưới đã được dọn sẵn. Dường như một người phụ nữ hiện vẫn chưa rõ tên đã gây rắc rối bằng cách cố tình xông vào nhà sau bữa tiệc cưới và tuyên bố rằng cô ta có quyền đòi hỏi đối với huân tước St. Simon. Sau một hồi đôi co dữ dội và dai dẳng, viên quản gia cùng với người phục vụ mới tống được cô ta đi. May mà cô dâu đã vào nhà trước khi xảy ra sự gián đoạn không vui ấy, cô ngồi vào bàn dùng bữa với các thực khách rồi cho biết là mình đột nhiên cảm thấy khó ở và trở về phòng riêng. Việc cô vắng mặt quá lâu khiến mọi người bắt đầu bàn tán, cha cô bèn lên phòng tìm thì được người hầu gái cho biết là cô chỉ vào phòng trong chốc lát để lấy áo choàng và mũ rồi tất tả đi xuống hành lang. Một người hầu quả quyết là anh ta có nhìn thấy một người phụ nữ rời khỏi nhà trong y phục giống như thế nhưng lúc ấy anh ta lại không nghĩ đó là cô chủ vì cho rằng cô đang ngồi ăn cùng với mọi người. Khi biết chắc rằng con gái mình đã biến mất, ông Aloysius Doran cùng với chú rể lập tức báo cảnh sát, những cuộc điều tra hiện đang được tiến hành ráo riết có thể sẽ nhanh chóng làm sáng tỏ vụ việc hết sức kì lạ này. Tuy nhiên, mãi đến khuya hôm qua vẫn chưa tìm thấy manh mối nào cho biết người phụ nữ bị mất tích hiện đang ở đâu. Có tin đồn rằng trong vụ này chắc có âm mưu thâm độc gì đây, và nghe nói cảnh sát đã bắt giữ người đàn bà gây náo loạn lúc đầu vì tin rằng do ghen tuông hoặc một nguyên cớ nào khác mà cô ta có thể có liên quan đến vụ mất tích bí ẩn của cô dâu.

"Tất cả chỉ có thế thôi ư?"

"Chỉ có thêm một mẩu tin ngắn đăng trên một tờ báo buổi sáng khác, nhưng nó cũng gợi lên vài điều."

"Điều đó là..."

"Là cô Flora Millar, người phụ nữ gây rắc rối, hiện đang bị bắt giam. Hình như trước kia cô ta là một danseuse ở Allegro và đã quen biết với chú rể được vài năm. Ngoài ra không có gì cụ thể hơn, vậy là anh đã nắm được toàn bộ những gì báo chí đã công bố về vụ này."

"Và đây có vẻ là một vụ cực kì lí thú. Không đời nào tôi bỏ qua đâu. Nhưng có tiếng chuông reo rồi kìa, Watson, đồng hồ chỉ đã hơn 4 giờ, tôi tin chắc đó chính là vị khách thượng lưu của chúng ta. Đừng nghĩ đến chuyện rời đi nhé, Watson, vì tôi rất muốn có một người chứng kiến, ít ra là để có thể kiểm tra xem mình nhớ có đúng không."

"Huân tước Robert St. Simon", cậu bé giúp việc của chúng tôi thông báo khi mở toang cánh cửa. Một quý ông bước vào với khuôn mặt trí thức, ưa nhìn, sống mũi cao, da hơi xanh xao, khóe miệng có nét gì đó giống như là bực bội và đôi mắt mở to điềm tĩnh của một người có số sung sướng đã quen với việc ra lệnh và được người khác tuân theo, ông ta có tác phong nhanh nhẹn, tuy thế dáng vẻ bên ngoài lại có vẻ không phù hợp với độ tuổi vì ông ta hơi khom người về đằng trước và đầu gối hơi cong khi bước đi. Cả mái tóc nữa, khi ông ta nhấc chiếc mũ vành cong ra, có thể thấy tóc ông ta đã lốm đốm hoa râm và mỏng đi ở đỉnh đầu. Còn về y phục, cách ăn mặc của ông ta chỉn chu đến mức gần như quá chưng diện với áo cổ cao, măng tô đen, gilet trắng, găng tay vàng, giày da bóng và ghệt sáng màu. Ông ta chậm rãi bước vào phòng, quay đầu từ trái sang phải và bàn tay phải thì đung đưa sợi dây đeo kính gọng vàng.

"Xin chào ngài, huân tước St. Simon", Holmes cất tiếng trong khi đứng lên và cúi chào. "Mời ngài ngồi vào chiếc ghế mây này. Đây là người bạn và cũng là cộng sự của tôi, bác sĩ Watson. Mời ngài xích lại gần lò sưởi một chút và chúng ta sẽ cùng bàn luận về vấn đề này."

"Đó là vấn đề phiền muộn nhất đối với tôi, chắc là ông có thể dễ dàng hình dung ra, ông Holmes ạ. Tôi đau nhói đến tận tâm can. Tôi hiểu rằng ông đã xử lí nhiều vụ tế nhị tương tự, thưa ông, nhưng chắc là không thuộc cùng giai tầng xã hội."

"Phải, lần này có thấp hơn trước."

"Xin lỗi, tôi chưa nghe rõ?"

"Thân chủ trước của tôi là một vị vua."

"Ồ, thật vậy sao? Tôi không tưởng tượng được. Vị vua nào thế?"

"Nhà vua xứ Scandinavia."

"Sao? Hoàng hậu mất tích à?"

"Chắc ngài cũng hiểu rằng", Holmes khéo léo nói, "tôi luôn giữ kín vấn đề riêng tư của các thân chủ khác, cũng như tôi hứa sẽ giữ kín chuyện của ngài."

"Tất nhiên rồi! Rất đúng! Rất tốt! Xin ông bỏ qua cho câu hỏi đó. Còn về chuyện của tôi, tôi sẵn sàng cung cấp mọi thông tin có thể giúp ông hiểu tường tận vấn đề."

"Cảm ơn ngài. Tôi đã biết tất cả tin tức trên báo chí, không cần thêm nữa. Tôi cho rằng bài báo này đã tường thuật đúng sự thực về việc cô dâu mất tích."

Huân tước St. Simon liếc sơ qua. "Vâng, cho đến giờ thì sự việc xảy ra đúng như thế."

"Nhưng trước khi có thể đưa ra ý kiến thì tôi cần thêm khá nhiều chi tiết bổ sung. Tôi nghĩ rằng cách trực tiếp nhất để có thể xác lập các dữ kiện là đặt ra vài câu hỏi với ngài."

"Xin ông cứ hỏi."

"Ngài gặp cô Hatty Doran khi nào?"

"Ở San Francisco, một năm trước."

"Trong chuyến du lịch của ngài đến nước Mỹ?"

"Vâng."

"Lúc ấy ngài đã đính hôn với cô ấy chưa?"

"Chưa."

"Nhưng hẳn là giữa hai người đã thiết lập mối quan hệ bạn bè?"

"Tôi vui khi có nàng bên cạnh, và nàng cũng biết điều đó."

"Cha của cô ấy rất giàu, có phải không?"

"Người ta đồn rằng ông ấy giàu nhất vùng sườn dốc Thái Bình Dương"

"Ông ta làm giàu bằng cách nào?"

"Khai mỏ. Vài năm trước ông ấy còn chưa có gì cả. Rồi ông ấy đào được vàng, dùng vàng đó để đầu tư và giàu lên rất nhanh."

"Vậy ngài có ấn tượng thế nào về tính cách của tiểu thư, vợ mới cưới của ngài?"

Nhà quý tộc đung đưa cặp kính mắt nhanh hơn và nhìn thẳng vào ngọn lửa. "Ông Holmes này, ông thấy đấy", ông ta nói, "vợ tôi đã hai mươi tuổi trước khi cha nàng trở nên giàu có. Suốt thời gian đó, nàng tự do chạy nhảy quanh các trại mỏ và lang thang trong rừng núi, vì thế mà nàng học từ thiên nhiên nhiều hơn là từ các giáo viên. Con người của nàng là kiểu mà ở Anh chúng ta gọi là một cô gái hiếu động, với tính cách mạnh mẽ, hoang dã và tự do, không hề bị phép tắc lễ nghi trói buộc. Có thể nói nàng là một ngọn núi lửa mãnh liệt. Nàng luôn quyết định một cách lẹ làng và đã quyết là làm mà chẳng kiêng sợ gì. Mặt khác, tôi hẳn đã không trao tặng cho nàng cái thanh danh của dòng họ mà tôi có vinh dự được mang", ông ta hắng giọng một cách trịnh trọng, "nếu tôi không nhận thấy bản chất cao quý của nàng. Tôi tin rằng nàng có thể sẵn sàng hi sinh thân mình vì nghĩa và ghét bỏ bất cứ điều gì đáng hổ thẹn."

"Ngài có bức ảnh nào của cô ấy không?"

"Tôi có mang theo bên mình đây," ông ta mở một mặt dây chuyền có lồng ảnh và cho chúng tôi xem khuôn mặt chính diện của một người phụ nữ rất duyên dáng. Đó không phải là ảnh chụp mà là một bức tiểu họa màu ngà và người họa sĩ đã làm nổi bật trọn vẹn vẻ đẹp của mái tóc huyền bóng mượt, đôi mắt to đen và khóe miệng cực kì tinh tế. Holmes chăm chú ngắm nhìn với vẻ nghiêm túc. Rồi anh đóng mặt dây chuyền lại và trao trả cho huân tước St. Simon.

"Thế rồi cô gái ấy đến London và hai người nối lại mối quan hệ?"

"Phải, cha nàng đưa nàng đến London vào mùa xã giao vừa rồi. Tôi có gặp nàng vài lần, rồi cầu hôn và giờ thì đã cưới nàng."

"Hẳn là cô ấy đã đem lại một món hồi môn đáng kể?"

"Một món hồi môn kha khá. Cũng không nhiều hơn mức bình thường trong gia tộc tôi."

"Và tất nhiên là món hồi môn đó vẫn thuộc về ngài, vì hôn sự được xem như fait accompli."

"Tôi thật sự chưa hỏi han gì về vấn đề này!"

"Đương nhiên rồi. Ngài có gặp cô Doran vào hôm trước đám cưới không?"

"Có."

"Lúc đó cô ấy vui vẻ chứ?"

"Không thể nào vui vẻ hơn thế. Nàng nói luôn miệng về những việc chúng tôi sẽ làm trong cuộc sống sau này."

"Quả vậy! Thật là thú vị. Thế còn buổi sáng hôm đám cưới thì sao?"

"Nàng hết sức tươi tắn, ít ra thì cũng đến khi xong lễ."

"Và sau đó ngài có để ý thấy sự thay đổi nào ở cô ấy không?"

"À, nói thật thì lúc đó là lần đầu tiên tôi đã nhận thấy những dấu hiệu cho thấy tính khí hơi dễ nổi nóng của nàng. Tuy vậy, sự việc ấy quá nhỏ nhặt và có thể cũng chẳng liên quan gì tới chuyện này?"

"Nhưng dù sao thì ngài cũng nên thuật lại cho chúng tôi nghe."

"Ồ, chỉ là chuyện trẻ con thôi. Nàng đánh rơi bó hoa khi chúng tôi đi về phía phòng áo lễ. Lúc đó nàng đang đi ngang qua băng ghế dài ở hàng đầu và nó rơi vào băng ghế đó. Nàng dừng lại một chút, nhưng rồi quý ông ngồi ở hàng ghế đó đã trao bó hoa lại cho nàng và trông nó không hề có vẻ bị giập nát. Tuy nhiên, khi tôi nói với nàng chuyện ấy thì nàng lại đáp lời tôi cộc lốc; và lúc ngồi trong xe để về nhà thì nàng có vẻ căng thẳng đến vô lí về chuyện vặt vãnh ấy?"

"Thế à? Ngài nói rằng có một người đàn ông ngồi ở băng ghế dài. Vậy là người ngoài cũng có mặt ở đó?"

"Ồ, vâng. Không thể đuổi họ ra khi nhà thờ đã mở cửa."

"Người đàn ông đó không phải là bạn của vợ ngài chứ?"

"Không, không phải. Tôi gọi anh ta là quý ông chỉ vì lịch sự thôi chứ trông anh ta có vẻ là thường dân thôi. Tôi không để ý đến vẻ ngoài của anh ta lắm. Nhưng tôi nghĩ chúng ta đang đi xa vấn đề rồi."

"Vậy là huân tước phu nhân St. Simon trở về từ lễ cưới trong trạng thái kém vui hơn lúc đi. Khi bước vào nhà cha mình thì cô ấy làm gì?"

"Tôi nhìn thấy nàng nói chuyện với cô hầu."

"Người đó là ai?"

"Tên của cô ta là Alice. Cũng là người Mỹ và đến từ California cùng với vợ tôi."

"Cô ta có phải là một người hầu thân tín không?"

"Còn hơn thế nữa. Tôi cho rằng vợ tôi đã để cho cô ta suồng sã với nàng quá mức. Nhưng tất nhiên là ở Mỹ người ta có cách nhìn nhận khác về những chuyện như vậy."

"Vợ ngài nói chuyện với Alice trong bao lâu?"

"Ồ, chỉ vài phút thôi. Lúc ấy tôi còn đang bận tâm đến việc khác."

"Ngài không nghe thấy họ nói chuyện gì à?"

"Phu nhân St. Simon nói gì đó về việc 'chiếm đất'. Nàng đã quen sử dụng tiếng lóng như thế. Tôi không hiểu ý nàng là gì."

"Đôi khi tiếng lóng ở Mỹ rất giàu biểu cảm. Sau khi nói chuyện xong với cô hầu thì vợ ngài làm gì?"

"Nàng bước vào phòng tiệc."

"Khoác tay ngài chứ?"

"Không, đi một mình. Nàng rất độc lập trong những việc nhỏ nhặt như thế. Thế rồi, sau khi chúng tôi ngồi vào bàn độ mười phút thì nàng vội vã đứng dậy, thì thầm vài câu xin lỗi rồi rời khỏi phòng. Sau đó, nàng không bao giờ quay lại nữa."

"Nhưng theo như tôi hiểu thì cô hầu Alice khai rằng vợ ngài đã đi lên phòng, khoác một chiếc áo choàng dài ra ngoài để che bộ váy cô dâu, đội mũ rồi đi ra ngoài."

"Đúng thế. Sau đó người ta trông thấy nàng bước vào công viên Hyde cùng với Flora Millar, người phụ nữ hiện đang bị giam giữ và cũng là người đã gây náo loạn ở nhà ông Doran sáng hôm đó."

"À, vâng. Tôi muốn biết một số chi tiết về người phụ nữ trẻ này và mối quan hệ giữa ngài với cô ta."

Huân tước St. Simon nhún vai và nhướng mày. "Chúng tôi có mối quan hệ thân thiết trong vài năm - có thể nói là rất thân mật. Cô ta thường đến Allegro. Tôi đối xử với cô ta cũng không tệ và cô ta chẳng có lý do gì để than phiền về tôi, nhưng ông Holmes ạ, như ông biết đấy, phụ nữ là thế. Flora là một cô nàng xinh xẻo, dễ thương nhưng cực kì nóng nảy và cứ bám dính lấy tôi. Cô ta đã viết cho tôi những bức thư khủng khiếp khi nghe tin tôi sắp lấy vợ và, nói thật với ông, lí do tôi muốn tổ chức hôn lễ kín đáo là vì tôi sợ có thể xảy ra một vụ gây rối trong nhà thờ. Cô ta đã đến nhà ông Doran ngay sau khi chúng tôi quay về và gắng sức xông vào, thốt ra những lời lẽ thóa mạ hết sức nặng nề với vợ tôi, thậm chí còn đe dọa nàng, nhưng tôi đã đoán trước được khả năng xảy ra những chuyện như thế nên đã bố trí hai viên cảnh sát mặc thường phục đứng sẵn ở đó, họ đã nhanh chóng tống khứ được cô ta đi. Cô ta đã yên lặng khi thấy rằng có làm ầm ĩ cũng chẳng được gì."

"Vợ ngài có nghe thấy chuyện này không?"

"Không, ơn Chúa, nàng không hay biết gì."

"Sau đó thì người ta nhìn thấy cô ấy đi cùng với chính người phụ nữ đó?"

"Phải. Đó là điều mà ông Lestrade ở Sở Cảnh sát London xem là rất nghiêm trọng. Người ta nghĩ rằng Flora đã dụ dỗ vợ tôi ra ngoài và giăng một cái bẫy khủng khiếp để hại nàng."

"Vâng, đó là một giả thuyết khả dĩ."

"Ông cũng nghĩ vậy à?"

"Tôi không nói chắc chắn là thế. Nhưng bản thân ngài không cho là vậy sao?"

"Tôi không nghĩ Flora có thể làm đau dù chỉ một con ruồi."

"Nhưng sự ghen tuông có thể làm biến đổi tính nết người ta đến lạ lùng. Xin ngài cho biết ý kiến của cá nhân ngài về việc đã xảy ra."

"Hừm, thật ra tôi đến đây nhằm tìm kiếm một giả thuyết chứ không định đề xuất ý kiến của mình. Tôi đã cung cấp cho ông mọi dữ kiện. Tuy nhiên, vì ông đã hỏi, tôi xin trả lời rằng tôi chợt nghĩ có thể sự kích động khi ý thức được mình đã vượt qua một khoảng cách vô cùng lớn về địa vị xã hội đã khiến vợ tôi có chút rối loạn tinh thần."

"Tóm lại, cô ấy đột nhiên trở nên loạn trí?"

"À, thật ra thì, khi tôi suy nghĩ về việc vợ tôi quay lưng lại - không phải với tôi mà là với một cơ hội rất tốt mà biết bao người ao ước, tôi khó lòng tìm ra lời giải thích khác."

"Vâng, tất nhiên đó cũng là một giả thuyết có thể chấp nhận được", Holmes mỉm cười nói. "Và giờ thì, thưa huân tước St. Simon, tôi cho rằng mình đã tiếp nhận gần như đầy đủ dữ liệu. Xin phép được hỏi ngài là khi ngồi ở bàn tiệc, ngài có thể nhìn ra ngoài cửa sổ không?"

"Chúng tôi có thể nhìn thấy phía bên kia đường và công viên."

"Được rồi. Tôi nghĩ mình không nên giữ chân ngài lâu hơn nữa. Tôi sẽ liên lạc với ngài sau."

"Mong ông có thể giải quyết được vấn đề này", vị khách của chúng tôi vừa nói vừa đứng lên.

"Tôi đã giải quyết xong."

"Sao? Ông nói gì?"

"Tôi nói là mình đã giải quyết được vấn đề."

"Thế thì vợ tôi đang ở đâu?"

"Đó là chi tiết mà tôi sẽ nhanh chóng cho ông biết."

Huân tước St. Siinon lắc đầu. "Tôi e rằng việc đó cần đến những trí óc khôn ngoan hơn ông hoặc tôi", ông ta nhận xét rồi cúi chào theo kiểu cổ lỗ và trịnh trọng.

"Thật vinh dự cho cái đầu của tôi khi được huân tước đặt ngang hàng với cái đầu của ông ta", Sherlock Holmes cười nói. "Tôi nghĩ là mình phải tự thưởng một cốc whisky pha soda và một điếu xì gà sau toàn bộ cuộc chất vấn này. Tôi đã rút ra kết luận cho vụ này trước cả khi vị thân chủ của chúng ta bước vào phòng."

"Ôi trời!"

"Tôi đã từng ghi chép một số trường hợp tương tự, dù như tôi đã nhận xét từ trước, không có vụ nào xảy ra nhanh đến thế. Toàn bộ cuộc chất vấn của tôi chỉ nhằm mục đích biến những điều phỏng đoán thành kết luận chắc chắn. Chứng cứ gián tiếp thỉnh thoảng rất có sức thuyết phục, giống như khi anh thấy cá hồi trong sữa, trích lời của Thoreau."

"Nhưng anh cũng chỉ nghe được những gì tôi nghe được thôi mà."

"Thế nhưng, anh lại không biết đến những vụ tương tự đã từng xảy ra, chính chúng đã giúp tôi rất nhiều. Có một ví dụ tương tự ở Aberdeen vài năm trước và một vụ rất giống như thế xảy ra ở Munich một năm sau cuộc chiến Pháp - Phổ. Đây là một trong những trường hợp như thế! Nhưng kìa, suỵt, Lestrade đến rồi! Xin chào ông Lestrade! Ông sẽ thấy một cốc vại to trên mặt tủ và mấy điếu xì gà trong hộp."

Viên thám tử nhà nước mặc một cái áo vareuse và đeo cà vạt khiến cho ông ta trông giống hệt một viên thủy thủ, và trong tay ông ta là một cái túi vải đen. Sau lời chào ngắn gọn, ông ta ngồi xuống và châm điếu xì gà được mời.

"Có chuyện gì thế?" Holmes hỏi với một tia lấp lánh trong mắt. "Trông ông có vẻ bất mãn."

"Đúng là tôi đang bất mãn. Đó là vì cái đám cưới quái quỷ của ngài St. Simon. Tôi không thể hiểu được tí gì về vụ này."

"Thật ư? Ông làm tôi ngạc nhiên đấy!"

"Đã có ai từng nghe về một vụ phức tạp như thế chưa? Mọi manh mối xem ra đều đã tuột khỏi tay tôi. Tôi đã lăn lộn vì nó suốt cả ngày."

"Và có vẻ như vụ án làm cho ông bị ướt sũng rồi kìa", Holmes nói và đặt tay lên ống tay áo của ông ta.

"Phải, tôi đã mò vét ở hồ Serpentine."

"Để làm gì cơ chứ?"

"Tìm kiếm thi thể của huân tước phu nhân St. Simon."

Sherlock Holmes tựa người vào ghế và cười ngặt nghẽo. "Thế ông đã mò tìm ở đài phun nước trên quảng trường Trafalgar chưa?" Anh hỏi.

"Tại sao? Ông muốn nói gì?"

"Vì khả năng ông tìm được xác của cô ấy ở đó cũng ngang bằng với khả năng ông tìm được xác của cô ấy ở hồ Serpentine đấy."

Lestrade ném cho bạn tôi một cái nhìn tức tối. "Tôi cho rằng ông đã biết tất cả về chuyện này?" Ông ta gầm gừ.

"Đúng thế, tôi vừa được nghe các dữ kiện nhưng tôi đã biết mình cần phải làm gì."

"Ồ, vậy sao? Thế ông cho rằng hồ Serpentine chẳng dính dáng gì đến vụ này à?"

"Tôi cho rằng không."

"Vậy thì xin ông vui lòng giải thích tại sao chúng tôi lại tìm thấy những thứ này ở đó?" Ông ta vừa nói vừa mở cái túi và dốc ngược xuống sàn nhà một chiếc váy cưới bằng lụa vân, một đôi giày xatanh trắng, một vòng hoa đội đầu cùng với mạng che mặt cô dâu, tất cả đều đã bị ố màu và ướt đẫm. "Đấy", ông ta nói và đặt một chiếc nhẫn cưới còn mới nguyên lên đống quần áo. "Đây là một công việc hóc búa dành cho ông đấy, thưa ngài Holmes thông thái."

"Ồ, đúng vậy!" Bạn tôi nói và nhả những vòng khói xanh lơ vào không khí. "Ông đã mò được chúng ở hồ Serpentine à?"

"Không. Một người gác công viên đã nhìn thấy chúng nổi lềnh bềnh ở mép hồ. Chúng đã được xác nhận là y phục của cô ta và theo tôi, nếu quần áo được tìm thấy ở đó thì hẳn là thi thể cũng ở gần đấy thôi."

"Dựa vào cái lập luận tài ba ấy thì hẳn là xác của mọi người đều được tìm thấy không xa tủ quần áo của họ. Xin ông vui lòng cho biết là ông hi vọng sẽ thu được điều gì từ những thứ này?"

"Tìm ra bằng cớ chứng tỏ là cô Flora Millar có liên quan đến vụ mất tích."

"Tôi e rằng ông sẽ khó mà tìm được."

"Ông cho là thế thật ư?" Lestrade kêu lên với thái độ gay gắt. "Ông Holmes này, tôi e rằng ông không được thực tế cho lắm với cái mớ suy diễn và kết luận của ông. Chỉ trong chừng ấy phút mà ông đã phạm đến hai sai lầm ngớ ngẩn. Chiếc váy này thực sự có liên quan đến cô Flora Millar."

"Như thế nào?"

"Trên váy có một cái túi. Trong túi có một cái hộp nhỏ đựng danh thiếp. Bên trong cái hộp đó là một mảnh giấy. Và đây chính là mảnh giấy đó." Ông ta đập mạnh mảnh giấy lên mặt bàn. "Ông hãy nghe này: 'Cô sẽ gặp tôi khi mọi việc đã sẵn sàng. Đến ngay. F.H.M.' Ngay từ đầu, tôi đã đặt ra giả thuyết là phu nhân St. Simon đã bị Flora Millar dụ dỗ ra ngoài, và cô ta cùng với những kẻ đồng lõa, chắc chắn thế, phải chịu trách nhiệm về sự mất tích của cô dâu. Đây này, mảnh giấy được kí tắt bằng những chữ cái đầu trong tên của Flora Millar, chắc chắn nó đã được kín đáo nhét vào tay cô dâu ở cửa và nhử cô ta đi tới chỗ bọn kia."

"Rất giỏi, ông Lestrade ạ", Holmes nói và cười phá lên. "Quả thật là ông rất tài giỏi. Đưa tôi xem mảnh giấy nào." Anh cầm nó lên với vẻ thờ nhưng chỉ trong phút chốc đã tập trung hoàn toàn vào mảnh giấy và thốt lên một tiếng kêu nho nhỏ tỏ ý hài lòng. "Mảnh giấy này thật sự rất quan trọng", anh nói.

"Ha! Ông đã thấy rồi chứ?"

"Vô cùng quan trọng. Tôi nhiệt liệt chúc mừng ông."

Lestrade nhổm dậy với vẻ đắc ý và cúi đầu nhìn. "Sao", ông ta hét lên, "ông đọc nhầm mặt rồi!"

"Ngược lại, mặt này mới đúng đấy."

"Mặt đúng ư? Ông có điên không? Mấy lời nhắn được ghi bằng bút chì ở mặt kia cơ mà."

"Còn mặt này có vẻ là một mảnh hóa đơn của khách sạn, chính điều đó mới khiến tôi quan tâm đặc biệt."

"Chẳng có gì trong đó cả. Tôi đã xem rồi", Lestrade nói. "Tháng 10, ngày 4, tiền phòng tám shilling, ăn sáng hai shilling sáu xu, cocktail một shilling, ăn trưa hai shilling sáu xu, li rượu sherry tám xu - tôi chẳng thấy có gì quan trọng cả."

"Trông thì không có gì. Ấy vậy mà nó lại tối quan trọng. Còn về lời nhắn, nó cũng quan trọng, ít ra là những chữ viết tắt, vì thế mà tôi chúc mừng ông thêm một lần nữa."

"Tôi đã mất khá nhiều thì giờ rồi", Lestrade đứng lên và nói. "Tôi tin vào sự lao động vất vả chứ không tin vào việc ngồi bên lò sưởi để thêu dệt những giả thuyết hay ho. Chào nhé, ông Holmes, và chúng ta sẽ thấy ai tìm ra lời giải trước tiên." Ông ta thu dọn mớ quần áo, nhét vào trong túi và đi ra cửa.

"Gợi ý cho ông này, Lestrade", Holmes kéo dài giọng trước khi đối thủ của anh đi mất. "Tôi sẽ nói cho ông biết lời giải thực sự của vụ này. Phu nhân St. Simon là một nhân vật tưởng tượng. Bây giờ và cả trước đây không hề có một người nào như thế."

Lestrade buồn bã nhìn bạn tôi. Rồi ông ta quay sang tôi, gõ lên trán ba cái, lắc đầu một cách khoa trương rồi vội vã bước đi.

Ông ta vừa mới khép cánh cửa lại thì Holmes đã đứng dậy và mặc áo khoác. "Ông ta có nói đôi điều về chuyện làm việc ngoài hiện trường", anh nhận xét, "vì thế, Watson ạ, tôi nghĩ rằng tôi phải để anh ngồi lại với đống báo một lúc."

Sherlock Holmes bỏ đi lúc 5 giờ hơn, nhưng tôi không phải ngồi một mình lâu vì trong vòng một giờ đã có người của tiệm bánh kẹo mang đến một cái hộp dẹt rất to. Với sự giúp đỡ của một chàng trai trẻ đi cùng, ông ta mở cái hộp ra và chẳng mấy chốc, trước sự ngạc nhiên cực độ của tôi, một bữa ăn nhẹ gồm những món nguội tuyệt ngon bắt đầu được bày ra trên chiếc bàn gỗ gụ trong căn nhà thuê khiêm tốn của chúng tôi. Bữa ăn gồm có một đôi chim dẽ, một con chim trĩ, một cái bánh nướng nhân patê gan ngỗng và mấy chai rượu lâu năm sóng sánh. Sau khi bày biện xong những món ăn xa xỉ đó, hai vị khách biến mất giống như vị thần đèn trong truyện Ngàn lẻ một đêm mà không giải thích một tiếng nào trừ lời thông báo rằng những món này đã được thanh toán và có người yêu cầu đem đến địa chỉ này.

Gần 9 giờ tối, Sherlock Holmes hối hả bước vào phòng. Nét mặt anh có vẻ nghiêm trọng nhưng tia sáng trong mắt anh khiến tôi nghĩ rằng anh hài lòng với những kết luận của mình.

"À, họ đã dọn xong bữa ăn nhẹ rồi", anh vừa nói vừa xoa hai tay vào nhau.

"Có vẻ như anh đang đợi khách Họ đã đem đến thức ăn cho năm người."

"Phải, tôi cho rằng sẽ có vài người khách ghé qua", anh đáp. "Tôi lấy làm lạ là huân tước St. Simon vẫn chưa đến. A! Tôi nghĩ mình đã nghe thấy tiếng bước chân của ông ta trên cầu thang."

Quả thật là vị khách lúc chiều đang vội vàng bước vào, tay vung vẩy chiếc kính mắt mạnh hơn bao giờ hết và trên khuôn mặt quý phái hiện rõ vẻ lo lắng.

"Vậy là ngài đã nhận được lời nhắn của tôi?" Holmes hỏi.

"Vâng, và tôi phải thú nhận là nội dung của nó làm tôi sửng sốt đến cực độ. Ông có đủ căn cứ vững chắc để nói vậy chứ?"

"Những bằng chứng đanh thép nhất."

Huân tước St. Simon ngồi xuống một chiếc ghế và đưa tay lên trán. "Ngài quận công sẽ nói gì đây", ông ta lẩm bẩm, "khi ngài biết được trong dòng họ có người phải chịu một nỗi nhục nhã đến thế?"

"Đây chỉ là một tai nạn thuần túy. Tôi không thể chấp nhận việc ai đó cho rằng đây là một sự ô nhục."

"À, vì ông nhìn nhận những điều này trên một lập trường khác."

"Tôi không thấy ai đáng trách cả. Tôi cũng thấy người phụ nữ đó khó mà có cách hành động nào khác cho dù cách hành động vội vã của cô ấy rõ ràng là rất đáng tiếc. Vì không có mẹ nên cô ấy không có ai khuyên bảo trong cơn khủng hoảng."

"Đó là một sự xúc phạm, thưa ông, một sự xúc phạm công khai", huân tước St. Simon vừa nói vừa gõ gõ mấy ngón tay trên mặt bàn.

"Mong ngài xem xét đến hoàn cảnh của cô gái đáng thương đó, cô ấy đã bị đặt vào một tình thế chưa từng xảy ra."

"Tôi sẽ chẳng xem xét gì cả. Quả thật là tôi đang rất giận, tôi đã bị lợi dụng một cách đáng hổ thẹn."

"Tôi cho là có tiếng chuông reo", Holmes nói. "Đúng vậy, có tiếng bước chân ở đầu cầu thang. E rằng tôi không thể thuyết phục được ngài nhìn nhận vấn đề một cách khoan dung, thưa huân tước St. Simon, vì vậy tôi đã mời một người biện hộ đến đây, may ra người đó sẽ thành công hơn tôi." Anh mở cửa ra và dẫn một người phụ nữ cùng một người đàn ông vào. "Thưa huân tước", anh nói, "xin phép được giới thiệu với ngài đây là ông bà Francis Hay Moulton. Tôi tin rằng ngài đã từng gặp người phụ nữ này."

Khi nhìn thấy những vị khách mới đến, thân chủ của chúng tôi nhảy bật dậy khỏi ghế và đứng thẳng đơ ra, hai mắt nhìn xuống đất và bàn tay thọc vào ngực áo măng tô, hiện thân của lòng tự trọng bị xúc phạm. Người phụ nữ bước nhanh lên trước một bước và đưa tay ra cho nhà quý tộc nhưng ông ta vẫn từ chối ngước mắt lên nhìn. Có lẽ ông ta làm vậy cũng để khỏi bị lung lay vì vẻ mặt van nài của cô thật khó mà cưỡng lại.

"Hẳn anh đang giận lắm, Robert", cô ấy nói. "Vâng, em nghĩ anh giận là hoàn toàn có lí."

"Xin đừng đưa ra bất cứ lời biện hộ nào với tôi", huân tước St. Simon cay đắng nói.

"Vâng, em biết là mình đã cư xử rất tồi tệ với anh và lẽ ra em nên nói với anh trước khi bỏ đi; nhưng lúc đó em bối rối quá và từ khi gặp lại anh Frank đây là em không còn biết nên làm gì hay nói gì nữa. Không biết nhờ sức mạnh nào mà em mới không ngã quỵ và ngất đi ngay trước bàn thờ."

"Thưa bà Moulton, có lẽ tôi và bạn tôi nên lánh đi trong khi bà giải thích vấn đề chăng?"

"Nếu tôi được phát biểu", người đàn ông lạ mặt lên tiếng, "chúng tôi đã giữ bí mật chuyện này khá lâu rồi. Về phần tôi, tôi muốn cả Âu châu và châu Mỹ cùng nghe thực chất của vấn đề." Ông ta là một người nhỏ con nhưng dẻo dai, có nước da rám nắng, râu cạo nhẵn, gương mặt thông minh và cử chỉ lanh lợi.

"Thế thì tôi sẽ kể câu chuyện của chúng tôi ngay bây giờ", người phụ nữ nói. "Anh Frank đây và tôi gặp nhau vào năm 1884 ở trại McQuire gần dãy núi Rock, nơi cha tôi đang khai thác trên vùng đất đã được cấp phép. Chúng tôi đã đính hôn với nhau; nhưng một ngày kia, cha tôi dò trúng một vỉa quặng chứa rất nhiều vàng và phất lên trong khi anh Frank đáng thương lại gặp phải một mỏ đã bị khai thác cạn kiệt và chẳng được gì. Cha tôi càng giàu lên thì anh càng nghèo đi; cuối cùng, cha tôi muốn hủy hôn ước của chúng tôi nên đã đưa tôi đến 'Frisco. Tuy nhiên, Frank không chịu bỏ cuộc, vì thế anh theo tôi đến đó và tìm đến tôi mà không để cho cha tôi hay biết. Nếu ông mà biết được thì sẽ nổi giận nên chúng tôi đành lén lút gặp gỡ nhau. Frank bảo rằng anh sẽ ra đi để tạo dựng cơ nghiệp và chỉ quay về để hỏi cưới tôi khi nào anh giàu bằng cha tôi. Thế là tôi hứa sẽ đợi anh trọn đời và thề với lòng mình rằng sẽ chẳng lấy ai khác một khi anh còn sống. 'Tại sao chúng ta không cưới nhau ngay bây giờ?' Anh hỏi. 'Như vậy thì anh sẽ yên tâm về em và anh chỉ tuyên bố là chồng của em khi nào anh trở về.' Vậy là chúng tôi bàn tính về hôn sự và anh đã dàn xếp rất tỉ mỉ với một ông mục sư đã chuẩn bị sẵn sàng cử tọa hôn lễ cho chúng tôi, rồi chúng tôi làm lễ cưới tại đó; sau đó anh Frank ra đi tìm vận may, còn tôi thì trở về với cha mình.

Lần kế tiếp tôi nghe được tin của Frank là khi anh đang ở Montana, rồi sau đó anh đến thăm dò quặng ở Arizona, rồi tôi lại được nghe tin của anh từ New Mexico. Sau đó có một bài báo dài nói về việc trại của những người thợ mỏ đã bị những người da đỏ Apache tấn công, trong danh sách những người bị giết hại có tên của Frank. Tôi ngất lịm đi rồi ngã bệnh hàng tháng trời sau đó. Cha tôi cho rằng tôi bị suy nhược nên đưa tôi đến gặp phân nửa số bác sĩ tại 'Frisco để khám bệnh. Hơn một năm sau đó, tôi không nhận được tin tức gì của Frank nên tôi đoán chắc là anh ấy đã thực sự qua đời. Thế rồi huân tước St. Simon đến 'Frisco và chúng tôi đi London, rồi một đám cưới được sắp xếp, cha tôi rất vui mừng, nhưng tôi lúc nào cũng cảm thấy không một người đàn ông nào trên trái đất này có thể chiếm được địa vị trong trái tim tôi vốn đã được dành cho anh Frank tội nghiệp. Dù vậy, nếu tôi lấy huân tước St. Simon thì tất nhiên là nhờ ông ấy mà tôi sẽ làm tròn bổn phận của mình. Chúng ta không thể ra lệnh cho con tim nhưng ta có thể điều khiển hành động của mình. Tôi đến trước bàn thờ cùng ông ấy với ý định sẽ cố gắng trở thành người vợ tốt cho dù không có tình yêu. Nhưng các ông có thể hình dung được là tôi cảm thấy như thế nào khi vừa bước đến chỗ những tay vịn trước bàn thờ thì tôi liếc mắt ra sau và trông thấy anh Frank đang đứng nhìn tôi từ hàng ghế dài đầu tiên. Thoạt tiên, tôi tưởng đó là hồn ma của anh ấy; nhưng khi tôi nhìn lại thì thấy anh ấy vẫn còn đứng đó với ánh mắt dò hỏi, như thể muốn biết tôi vui mừng hay hổ thẹn khi trông thấy anh ấy. Tôi ngạc nhiên là mình đã không ngã quỵ vì tôi biết rằng mọi thứ xung quanh đang quay cuồng và những lời nói của vị linh mục nghe như tiếng ong vo ve trong tai tôi. Tôi không biết mình nên làm gì. Tôi có nên dùng buổi lễ và gây ra một cảnh náo loạn trong nhà thờ hay không? Tôi liếc nhìn anh ấy một lần nữa và có vẻ như anh ấy biết được tôi đang nghĩ gì vì anh ấy giơ ngón tay lên miệng để bảo tôi hãy im lặng. Rồi tôi nhìn thấy anh ấy ghi vội vàng lên một mảnh giấy, thế là tôi biết anh ấy đang viết cho tôi một bức thư ngắn. Trên đường ra khỏi nhà thờ, khi đi ngang qua hàng ghế của anh ấy, tôi giả vờ đánh rơi bó hoa xuống bên cạnh anh ấy và anh ấy dúi mẩu giấy vào tay tôi lúc trao lại bó hoa. Bức thư chỉ có một dòng dặn tôi đến gặp anh ấy khi nào anh ấy báo hiệu cho tôi biết. Tất nhiên là tôi chẳng hề nghi ngờ rằng bổn phận hàng đầu của tôi là phải nghe lời anh ấy và tôi quyết định sẽ thực hiện bất cứ điều gì anh ấy yêu cầu.

Khi quay trở về nhà, tôi kể lại cho người hầu của tôi nghe, cô ấy cũng biết Frank hồi còn ở California và luôn là một người bạn của anh. Tôi yêu cầu cô ấy đừng nói gì cả mà chỉ thu xếp vài thứ và chuẩn bị sẵn chiếc áo choàng dài cho tôi. Tôi nghĩ rằng lẽ ra mình nên nói chuyện với huân tước St. Simon nhưng điều đó vô cùng khó khăn khi có mặt mẹ của ông ấy và tất cả những nhà quý tộc khác. Tôi đành quyết định bỏ trốn trước rồi sẽ giải thích sau. Tôi mới ngồi vào bàn chưa đến mười phút thì đã thấy Frank ở bên ngoài cửa sổ, phía bên kia đường. Anh vẫy tay ra hiệu cho tôi rồi bắt đầu đi vào trong công viên. Tôi lẻn ra ngoài, khoác vội chiếc áo choàng rồi đi theo anh ấy. Có một người phụ nữ bước đến nói với tôi đôi điều gì đó về huân tước St. Simon - qua vài chi tiết ít ỏi lọt vào tai tôi thì hình như ông ấy cũng có một bí mật nho nhỏ của riêng mình trước khi làm đám cưới - nhưng tôi tìm cách thoát khỏi cô ta và chỉ ít lâu sau đã bắt kịp Frank. Chúng tôi cùng nhau lên một cỗ xe ngựa và đi đến căn nhà trọ mà anh ấy thuê ở quảng trường Gordon, và đó mới thật sự là đám cưới của tôi sau ngần ấy năm chờ đợi. Frank đã bị những người da đỏ Apache bắt giữ nhưng anh ấy đã trốn thoát và đến 'Frisco; sau khi được biết là tôi cho rằng anh ấy đã chết và đã đi Anh, anh ấy lần theo tôi đến đây và cuối cùng cũng tìm được tôi vào đúng buổi sáng ngày cử hành hôn lễ thứ nhì của tôi."

"Tôi đọc thấy tin đó trên một tờ báo", anh chàng người Mỹ giải thích. "Mẩu tin đó cho biết tên của cô dâu và nhà thờ nhưng không cho biết là cô ấy sống ở đâu."

"Thế rồi chúng tôi bàn bạc với nhau xem nên làm gì, Frank muốn công khai tất cả, nhưng tôi lại quá xấu hổ về mọi chuyện nên cảm thấy là mình nên biến mất và không bao giờ gặp lại họ nữa - có lẽ chỉ nên gửi một dòng thư cho cha tôi để báo cho ông biết là tôi hãy còn sống. Tôi thấy thật kinh khủng khi nghĩ đến tất cả những người danh giá ngồi quanh bàn tiệc đang chờ tôi quay lại. Do đó, anh Frank bảo tôi bỏ bộ váy cưới của tôi và những thứ khác cuộn thành một bó, rồi anh ném chúng ở một nơi nào đó để không ai có thể tìm thấy chúng, nhằm giúp tôi không bị phát hiện. Đáng lí ra chúng tôi sẽ đi Paris vào ngày mai, chỉ có điều quý ông tốt bụng này, ông Holmes, đã ghé đến chỗ chúng tôi vào tối nay, dù tôi không tài nào nghĩ ra bằng cách nào mà ông ấy tìm được chúng tôi và ông ấy đã chỉ ra rất rõ ràng và tử tế rằng tôi đã sai và anh Frank đã suy nghĩ đúng, chúng tôi sẽ tự đưa mình vào rắc rối nếu cứ mãi lén lút như thế. Rồi ông ấy tạo cho chúng tôi một cơ hội để nói chuyện riêng với huân tước St. Simon và chúng tôi đi thẳng đến nhà ông ấy ngay lập tức. Anh Robert, giờ thì anh đã nghe hết rồi, em rất tiếc vì đã làm anh đau khổ, em hi vọng anh không đánh giá em là quá tồi tệ."

Huân tước St. Simon vẫn giữ nguyên thái độ cứng rắn nhưng đã lắng nghe toàn bộ câu chuyện dài với đôi mày nhíu lại và hai môi mím chặt. "Xin thứ lỗi", ông ta nói, "nhưng tôi không có thói quen bàn bạc những chuyện riêng tư nhất của mình một cách công khai thế này."

"Vậy là anh không tha thứ cho em sao? Anh không muốn bắt tay trước khi em ra đi ư?"

"Ồ, dĩ nhiên là có chứ, nếu như điều đó làm em vui lòng." Ông ta chìa tay ra và lạnh lùng nắm lấy bàn tay cô.

"Tôi hi vọng rằng", Holmes đề nghị, "ngài sẽ cùng chúng tôi dùng một bữa ăn thân mật."

"Tôi e rằng ông đã yêu cầu quá nhiều", nhà quý tộc đáp. "Tôi có thể buộc lòng chấp nhận những diễn biến mới nhưng khó mà vui vẻ chúc tụng họ được. Nếu quý vị cho phép, tôi xin chúc tất cả một buổi tối tốt đẹp." Ông ta nghiêng người chào tất cả chúng tôi một vòng rồi hiên ngang bước ra khỏi phòng.

"Vậy thì tôi hi vọng ít nhất các vị cũng ban cho tôi vinh dự được ngồi cùng các vị", Sherlock Holmes nói. "Tôi luôn rất vui khi được gặp một người Mỹ, ông Moulton ạ, vì tôi là người tin tưởng rằng sự dại dột của một vị quân chủ và sai lầm của một thủ tướng từ ngày xửa ngày xưa sẽ không ngăn trở con cháu chúng ta một ngày kia sẽ trở thành công dân của một quốc gia rộng khắp thế giới dưới ngọn cờ có một phần tư là quốc kì Anh với những ngôi sao và đường vạch của lá cờ Mỹ?

***

"Vụ này thật hấp dẫn", Holmes nhận xét khi các vị khách đã ra về, "vì nó chỉ ra rất rõ ràng rằng một sự việc lúc đầu có vẻ không thể giải thích được hóa ra lại đơn giản đến không ngờ. Không có gì tự nhiên bằng chuỗi các sự kiện được người phụ nữ đó kể lại và cũng không có gì kì lạ hơn khi kết quả được xem xét dưới góc nhìn của người khác, chẳng hạn như của ông Lestrade ở Sở Cảnh sát London."

"Anh không hề bị chệch đường phải không?"

"Ngay từ đầu, có hai dữ kiện rất rõ ràng đối với tôi, thứ nhất là người phụ nữ đã tự nguyện tiến hành hôn lễ, thứ hai là cô ấy hối hận về việc đó chỉ trong vòng vài phút sau khi trở về nhà. Hiển nhiên là một việc gì đó xảy ra vào buổi sáng hôm đó đã làm cho cô ấy thay đổi suy nghĩ, điều đó là gì? Cô ấy không thể nào nói chuyện với bất cứ ai lúc ở bên ngoài vì đang ở cạnh chú rể. Vậy thì cô ấy đã nhìn thấy một người nào đó chăng? Nếu đúng là thế thì hẳn phải là một người từ nước Mỹ, vì cô ấy mới đến Anh một thời gian ngắn nên khó có người nào gây được ảnh hưởng sâu sắc với cô ấy đến mức khiến cho cô ấy thay đổi kế hoạch hoàn toàn khi mới chỉ trông thấy người ấy. Anh thấy đấy, sau một quá trình loại trừ, ta đã có được giả thuyết là cô ấy có thể đã nhìn thấy một người Mỹ. Người Mỹ đó là ai và vì sao anh ta lại có ảnh hưởng đến thế với cô ấy? Có thể đó là một người tình; cũng có thể là một người chồng. Tôi được biết là cô ấy đã từng sống ở những vùng hoang sơ trong những điều kiện lạ thường. Đến đây thì tôi đã nắm được tình hình trước khi nghe huân tước St. Simon kể chuyện. Khi ông ta thuật lại cho chúng ta nghe về một người đàn ông ở hàng ghế dài, sự thay đổi thái độ của cô dâu, cách nhận thư lộ liễu là giả vờ đánh rơi bó hoa, việc cô dâu nhờ vả cô hầu thân tín và lời ám chỉ đầy ý nghĩa về sự chiếm đất- theo cách nói của thợ mỏ thì từ đó có nghĩa là cướp đoạt quyền sở hữu của một người chủ trước - thế là toàn bộ tình huống trở nên hoàn toàn rõ ràng. Cô ấy đã bỏ đi cùng với một người đàn ông và người đó là người tình hoặc chồng cũ - có nhiều khả năng là trường hợp thứ nhì."

"Rồi làm sao mà anh tìm ra họ?"

"Việc đó có vẻ khó khăn, nhưng ông bạn Lestrade đã nắm được trong tay một thông tin vô cùng quý giá mà chính bản thân ông ta cũng không biết. Tất nhiên là những chữ viết tắt cũng rất quan trọng, nhưng điều có giá trị hơn thế là ta đã biết được trong vòng một tuần qua, người đàn ông đó đã thanh toán hóa đơn tại một trong những khách sạn đắt tiền nhất London."

"Bằng cách nào mà anh suy ra được là khách sạn đó đắt tiền?"

"Thông qua giá tiền. Tám shilling cho một giường ngủ và tám xu cho một li rượu sherry cho thấy đây là một trong những khách sạn sang trọng nhất. Ở London không có mấy khách sạn tính giá tiền đắt như thế. Khi tìm đến khách sạn thứ hai trong số đó nằm ở đại lộ Northumberland, tôi xem trong sổ thì thấy ông Francis H. Moulton, một quý ông người Mỹ, chỉ mới rời khỏi khách sạn vào ngày hôm trước và khi xem qua những mục ghi chép về ông ta thì tôi chợt thấy đúng những thứ mình đã nhìn thấy trong bản sao của tờ hóa đơn. Những thư từ của ông ta được gửi về số 226 quảng trường Gordon, thế là tôi đi đến đó và may mắn gặp được đôi uyên ương ở nhà. Tôi đánh bạo đưa ra cho họ vài lời khuyên kiểu cha chú và chỉ cho họ thấy điều hay lẽ phải trên mọi phương diện, đó là họ nên tiết lộ hoàn cảnh của mình trước công chúng và đặc biệt là với huân tước St. Simon. Tôi đã mời cả hai đến đây để gặp ông ta, và như anh thấy đấy, ông ta đã đến đúng hẹn."

"Nhưng kết quả không được tốt cho lắm", tôi nhận xét. "Cách cư xử của ông ta chẳng mấy độ lượng."

"À, Watson thân mến", Holmes cười nói, "có lẽ anh cũng khó mà độ lượng được nếu như sau bao công sức vất vả tán tỉnh và lo chuẩn bị đám cưới, anh chợt nhận ra là mình đã bị nẫng mất vợ và cả một gia tài trong nháy mắt. Tôi nghĩ rằng ta nên đánh giá huân tước St. Simon một cách khoan dung và hãy cảm ơn số phận vì chúng ta khó có thể lâm vào cảnh ngộ ấy. Kéo cái ghế của anh lại gần đây và đưa cho tôi cây vĩ cầm nào, vấn đề duy nhất còn lại mà ta phải giải quyết là làm sao cho chóng qua những buổi tối mùa thu lạnh lẽo này."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro