TRANG TRẠI SỒI ĐỎ(The Copper Beeches, 1892)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

"Đối với người yêu nghệ thuật và vị nghệ thuật", Sherlock Holmes nói và quẳng trang quảng cáo của tờ Daily Telegraph sang một bên, "thì niềm vui thích mãnh liệt nhất nhiều khi lại xuất phát từ những hình thức thể hiện khiêm nhường và nhỏ mọn nhất. Watson này, tôi rất vui khi thấy cho đến nay anh đã hiểu thấu được chân lí này trong những bài tường thuật ngắn về các vụ án của chúng ta mà anh đã tử tế ghi chép lại, và đôi khi còn tô điểm thêm, anh không chú trọng quá nhiều vào causer célèbres và những vụ án giật gân tôi đã tham gia, mà lại chú ý nhiều đến những vụ tuy không mấy quan trọng nhưng lại tạo ra nhiều cơ hội cho những khả năng suy diễn và tổng hợp logic vốn là sở trường của tôi."

"Ấy thế mà", tôi mỉm cười nói, "tôi vẫn không được miễn cho cái tội giật gân những ghi chép của mình."

"Có lẽ anh đã lầm", anh vừa nói vừa gắp một viên than cháy dở đỏ rực để châm cái tẩu thuốc dài bằng gỗ anh đào mà anh quen dùng thay cho cái tẩu gốm mỗi khi có hứng tranh luận, "Có lẽ là anh đã lầm khi cố tình lồng màu sắc và sự sinh động vào lời kể trong khi lẽ ra chỉ nên thuật lại quá trình suy luận thuần túy từ nguyên nhân đến kết quả, vốn là nét đáng quan tâm duy nhất của vụ việc."

"Về việc đó thì có vẻ như tôi đã dành cho anh sự phản ánh xứng đáng đấy chứ", tôi trả lời, giọng nói có chút lạnh lùng, vì tôi cảm thấy khó chịu bởi tính tự cao tự đại mà đã hơn một lần tôi nhận ra là nhân tố mạnh mẽ trong tính cách kì lạ của bạn tôi.

"Không phải thế, đó không phải là sự ích kỉ hay kiêu ngạo", theo thói quen, anh nói như trả lời suy nghĩ trong đầu tôi chứ không phải với những lời tôi nói ra. "Nếu tôi yêu cầu sự đánh giá xứng đáng cho nghệ thuật phá án của mình thì cũng vì đó là một thứ không của riêng ai, một thứ nằm ngoài bản thân tôi. Tội phạm thì đầy rẫy. Logic lại hiếm hoi. Do đó anh nên nhấn mạnh vào logic hơn là tội phạm. Cái đáng ra nên là một loạt bài giảng thì anh lại hạ thấp xuống thành truyện kể."

Hôm đó là một buổi sáng đầu xuân lạnh lẽo, sau khi dùng xong bữa điểm tâm, chúng tôi ngồi mỗi người một bên ngọn lửa đang reo lách tách trong căn phòng cũ ở phố Baker. Một màn sương dày đặc đang lơ lửng giữa những dãy nhà xám xịt và mấy cánh cửa sổ nhà đối diện hiện ra lờ mờ qua những tán lá vàng nặng nề như những vệt nhòe u tối không rõ hình dáng. Ngọn đèn khí đốt trong nhà chúng tôi đã được thắp sáng và chiếu lên tấm khăn trải bàn trắng cùng mấy chiếc đĩa sứ và dao nĩa kim loại vì bàn ăn vẫn chưa được dọn đi. Sherlock Holmes ngồi yên lặng suốt cả buổi sáng, cứ đắm chìm mãi vào những cột rao vặt của nhiều số báo liên tiếp cho đến khi có vẻ không muốn tìm kiếm nữa, anh mới ngẩng lên với một tâm trạng không mấy vui vẻ để phê bình tôi về những thiếu sót trong các bài viết của tôi.

"Tuy nhiên", anh nhận xét sau một lúc tạm ngừng để ngồi hút tẩu thuốc dài và nhìn chăm chú vào ngọn lửa, "tôi khó có thể chỉ trích anh thích gây giật gân, vì trong số những vụ mà anh đã có lòng tốt để mắt tới, còn một tỉ lệ khá lớn các bài viết không đề cập tới tội phạm theo nghĩa pháp lí. Vụ tôi giúp nhà vua xứ Bohemia, sự kiện lạ lùng xảy ra với cô Mary Sutherland, sự việc rắc rối có liên quan tới gã đàn ông méo miệng và câu chuyện bất ngờ của nhà quý tộc độc thân, tất cả những vụ này đều nằm ngoài phạm vi của luật pháp. Nhưng để tránh gây giật gân, tôi e rằng có thể anh đã quá chú ý đến những vụ việc nhỏ nhặt."

"Có thể đoạn kết đúng là thế", tôi đáp, "nhưng tôi luôn trung thành với những phương pháp mới lạ và hấp dẫn."

"Chao ôi, anh bạn thân mến ơi, công chúng, cái đám công chúng đông đảo mù mờ, chẳng thể nào nhận ra một người thợ dệt dựa vào cái răng của anh ta hay một người thợ sắp chữ bằng ngón tay cái bên trái, họ có quan tâm gì đến những sắc thái vi tế của việc phân tích và suy luận chứ! Nhưng, quả thật, nếu anh quan tâm đến những vụ nhỏ nhặt thì tôi không thể trách cứ anh được vì thời của những vụ án lớn đã qua rồi. Con người, hay ít nhất là bọn tội phạm, đã đánh mất hết sự táo bạo và tính độc đáo. Còn văn phòng thám tử khiêm tốn của tôi có vẻ đã bị biến thành một trung tâm chuyên tìm lại những cây bút chì thất lạc và tư vấn cho những cô nữ sinh trường nội trú. Tôi tin rằng rốt cục thì mình đã rơi đến đáy rồi. Tôi nghĩ là bức thư tôi nhận được sáng nay đã cho tôi điểm 0. Anh hãy đọc đi!" Anh ném cho tôi một bức thư bị vò nát.

Bức thư được gửi đến từ khách sạn Montague Place vào tối hôm qua với nội dung như sau:

THƯA ÔNG HOLMES

Tôi rất nóng lòng muốn hỏi xin ý kiến của ông về việc tôi có nên nhận công việc gia sư dạy trẻ mà người ta đề nghị với tôi hay không. Tôi sẽ đến gặp ông vào lúc 10 giờ 30 sáng mai nếu ông không phiền.

Chân thành,

VIOLET HUNTER

"Anh có biết cô gái trẻ này không?" Tôi hỏi.

"Không."

"Giờ đã 10 giờ 30 rồi."

"Phải, và tôi tin chắc rằng cô ta đang bấm chuông đó."

"Biết đâu câu chuyện lại lí thú hơn anh tưởng. Anh còn nhớ vụ Viên thạch lựu xanh chứ? Lúc đầu nó có vẻ chỉ đơn thuần là một chuyện vặt, vậy mà lại trở thành một cuộc điều tra nghiêm túc. Biết đâu vụ này cũng thế."

"Ừ, ta hãy hi vọng thế. Nhưng những mối nghi ngờ của ta sẽ nhanh chóng được giải quyết thôi, bởi vì, nếu như tôi không lầm thì đây chính là cô gái ta đang nói đến."

Anh vừa dứt lời thì cánh của mở ra và một cô gái trẻ bước vào. Cô ta ăn mặc giản dị nhưng gọn gàng, khuôn mặt lanh lợi, sáng sủa, lấm tấm tàn nhang như trứng chim choi choi, và có phong thái nhanh nhẹn của một người phụ nữ luôn phải tự xoay xở trong cuộc sống.

"Tôi hi vọng ông sẽ thứ lỗi cho sự quấy rầy này", cô ta nói khi bạn tôi đứng lên chào, "nhưng có một sự việc rất lạ lùng đã xảy ra với tôi mà tôi lại chẳng có cha mẹ hay người thân nào để có thể hỏi ý kiến, vậy nên tôi mới nghĩ có lẽ ông sẽ vui lòng chỉ bảo cho tôi biết mình nên làm gì."

"Xin mời cô ngồi, cô Hunter. Tôi sẽ rất vui nếu giúp được cô."

Tôi có thể thấy rằng Holmes có ấn tượng tốt với phong thái và ngôn từ của vị thân chủ mới. Anh quan sát cô ta bằng con mắt tinh tế của mình rồi điềm tĩnh lắng nghe câu chuyện của cô ta, mi mắt cụp xuống và các đầu ngón tay chụm vào nhau.

"Tôi làm gia sư dạy trẻ đã được năm năm", cô ta kể, "trong gia đình đại tá Spence Munro, nhưng hai tháng trước, ông đại tá được bổ nhiệm đến Halifax, Nova Scotia và đưa mấy đứa trẻ cùng đi Mỹ, thế là tôi thất nghiệp. Tôi mới đăng báo tìm việc và cũng hồi đáp những mẩu tin tìm người nhưng đều thất bại. Cuối cùng thì món tiền khiêm tốn mà tôi dành dụm được bắt đầu cạn dần và tôi hoang mang không biết mình nên làm gì.

Ở khu West End có một công ty nổi tiếng chuyên môi giới việc làm cho các nữ gia sư tên là Westaway's, và tôi thường đến đó mỗi tuần một lần để xem có công việc nào phù hợp với mình không. Westaway là tên của người sáng lập công ty nhưng thực ra người điều hành nó lại là cô Stoper. Cô ta ngồi trong văn phòng nhỏ còn những người phụ nữ đến tìm việc thì ngồi đợi ở một phòng chờ rồi lần lượt vào, còn cô ta sẽ tra cứu các cuốn sổ xem có việc gì thích hợp với họ hay không. Khi đến đó vào tuần vừa rồi, tôi được dẫn vào văn phòng nhỏ như thường lệ, nhưng tôi thấy không chỉ có mình cô Stoper ngồi ở đó. Một người đàn ông to béo có khuôn mặt tươi cười và cái cằm nhiều ngấn chảy xệ xuống tận cổ đang ngồi cạnh cô ta với cặp kính trên mũi, chăm chú nhìn những người phụ nữ bước vào. Khi đến lượt tôi thì ông ta nhảy chồm lên và quay phắt sang cô Stoper. 'Được rồi', ông ta nói, 'tôi không còn đòi hỏi gì hơn nữa. Tuyệt vời! Xuất sắc!' Ông ta có vẻ rất hăng hái và xoa hai bàn tay vào nhau với điệu bộ rất vui vẻ. Diện mạo của ông ta trông khá dễ chịu nên cũng tạo được thiện cảm cho người đối diện.

'Cô đang tìm việc phải không, thưa cô?' Ông ta hỏi.

'Vâng, thưa ông.'

'Cô làm gia sư chứ?'

'Vâng.'

'Cô muốn mức lương bao nhiêu?'

'Tôi được trả bốn bảng mỗi tháng ở chỗ làm cũ là nhà đại tá Spence Munro.'

'Ôi, chậc chậc! Đồng lương rẻ mạt... rẻ mạt quá!' Ông ta kêu lên và vung hai bàn tay mập mạp lên trời như đang giận dữ. 'Làm sao mà người ta có thể trả một mức lương nhỏ mọn đến thế cho một quý cô hấp dẫn và giỏi giang như cô chứ?'

'Về mặt giỏi giang, thưa ông, có lẽ là kém hơn so với ông nghĩ', tôi nói. 'Tôi chỉ biết một chút tiếng Pháp, một chút tiếng Đức, âm nhạc và vẽ..!

'Ôi dào', ông ta lại tặc lưỡi và kêu lên. 'Tất cả những chuyện đó chỉ là vặt vãnh. Vấn đề là, cô có phong cách và cử chỉ của một quý cô hay không? Tất cả chỉ tóm gọn lại có bấy nhiêu thôi. Nếu không thì cô không thích hợp để dạy dỗ một đứa trẻ mà ngày nào đó có thể sẽ giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử nước nhà. Nhưng nếu có thì tại sao người ta có thể yêu cầu cô hạ mình nhận một số tiền dưới ba con số? Thưa cô, làm việc cho tôi thì mức lương khởi điểm của cô sẽ là một trăm bảng mỗi năm.'

Thưa ông Holmes, chắc ông có thể hình dung ra rằng đối với người nghèo túng như tôi, thì lời đề nghị ấy có vẻ tốt đến không tin nổi. Tuy nhiên, có lẽ ông ta nhận thấy vẻ hoài nghi trên mặt tôi nên đã mở ví tiền và lấy ra một tờ giấy bạc.

'Tôi còn có thói quen,' ông ta nói và cười vui vẻ đến mức hai mắt chỉ còn là hai đường kẻ nhỏ lấp lánh giữa những nếp nhăn trên khuôn mặt, 'luôn ứng trước cho các cô gái trẻ phân nửa tiền lương, như thế họ có thể trang trải vài món chi phí nhỏ về việc đi lại và mua ít quần áo mới.' Có vẻ như tôi chưa bao giờ được gặp một người thú vị và tâm lí như ông ta. Vì tôi đang mắc nợ mấy người giao hàng nên món tiền ứng trước này đến thật đúng lúc, tuy nhiên vụ giao dịch này vẫn còn có điều gì đó bất thường cho nên tôi muốn tìm hiểu thêm đôi chút trước khi đồng ý, 'Cho phép tôi hỏi là gia đình ông sống ở đâu, thưa ông?' Tôi hỏi.

'Ở Hampshire. Một vùng thôn dã rất đẹp. Trang trại Sồi Đỏ, cách Winchester năm dặm. Đó là vùng nông thôn tuyệt vời nhất, cô gái thân mến ạ, và là trang viên cổ kính đáng yêu nhất.'

'Thế còn phận sự của tôi, thưa ông? Tôi muốn được biết cụ thể.'

'Một đứa bé - một đứa bé xinh xắn, dễ thương mới lên sáu. Ôi, giá mà cô trông thấy cách thằng bé đập chết mấy con gián bằng một chiếc dép! Chát! Chát! Chát! Ba con tiêu đời trong nháy mắt!' Ông ta dựa lưng vào ghế và cười phá lên khiến cho đôi mắt híp lại.

Tôi hơi giật mình trước thú tiêu khiển của cậu bé, nhưng tiếng cười của ông bố khiến tôi nghĩ rằng có lẽ ông ta đang nói đùa.

'Vậy, phận sự duy nhất của tôi là,' tôi hỏi, 'chăm sóc cho mỗi đứa bé thôi?'

'Không, không phải thế, không phải chỉ mỗi việc đó thôi đâu, tiểu thư thân mến', ông ta kêu to. 'Tôi chắc chắn cô cũng đoán được rằng bổn phận của cô là tuân theo bất kì mệnh lệnh vặt vãnh nào mà vợ tôi đưa ra, miễn sao những yêu cầu đó phải đúng mực. Hẳn cô cũng thấy đâu có gì khó khăn, đúng không?'

'Tôi rất mong là mình có thể làm tốt.'

'Hẳn rồi. Ví dụ như vấn đề trang phục. Chúng tôi là những người khá lập dị, cô biết đấy, lập dị nhưng tốt bụng. Nếu chúng tôi yêu cầu cô mặc một bộ y phục nào đó do chúng tôi đưa ra, cô sẽ không phản đối ý thích nhỏ nhặt đó chứ hả?'

'Không', tôi đáp và khá kinh ngạc trước những lời nói của ông ta.

'Hoặc là ngồi ở chỗ này hay chỗ kia, cô không phiền chứ?'

'Ồ, không đâu.'

'Hay là bắt cô cắt tóc ngắn trước khi đến chỗ chúng tôi?'

Tôi không thể tin vào tai mình. Như ông thấy đấy, thưa ông Holmes, tóc của tôi khá dày và có màu hạt dẻ khá lạ. Nhiều người khen là tôi có mái tóc đẹp. Tôi không hề có ý định tự dưng cắt phăng nó đi.

'Tôi e rằng không được', tôi nói. Ông ta đang hăm hở nhìn tôi qua đôi mắt ti hí và tôi có thể nhận thấy mặt ông ta sẩm xuống khi nghe tôi nói vậy.

'Tôi e rằng điều này khá quan trọng,' ông ta nói. 'Đó là một sở thích nho nhỏ của vợ tôi, mà những sở thích của phụ nữ thì cô cũng biết rồi đấy, ta buộc phải nghe theo thôi. Vậy là, cô không chịu cắt tóc phải không?'

'Không, thưa ông, thật tình thì tôi không thể.' Tôi kiên quyết trả lời.

'À, tốt thôi. Vậy là xong. Thật đáng tiếc vì về những mặt khác thì cô đáp ứng rất tốt. Trong trường hợp này thì tốt hơn là tôi nên gặp thêm vài cô gái khác vậy, thưa cô Stoper.'

Nãy giờ cô quản lí vẫn ngồi yên và chăm chú xem mớ giấy tờ của mình mà không nói với chúng tôi một lời nào, nhưng lúc này thì cô ta liếc nhìn tôi với vẻ khó chịu hiện rõ trên mặt khiến tôi không thể không nghi ngờ rằng lời từ chối của tôi đã làm cho cô ta bị mất đi một món tiền hoa hồng hậu hĩ.

'Cô vẫn muốn lưu tên mình trong sổ chứ?' Cô ta hỏi.

'Xin cô cứ để lại, thưa cô Stoper.'

'Thật sao? Có vẻ cũng vô ích thôi vì cô đã từ chối một lời đề nghị tuyệt vời như thế,' cô ta lạnh lùng đáp. 'Cô khó có thể mong đợi rằng chúng tôi sẽ nỗ lực tìm kiếm cho cô một cơ hội tốt khác. Chào cô, cô Hunter.' Cô ta gõ vào một cái chuông ở trên bàn và cậu bé phục vụ dẫn tôi ra.

Thế đấy, thưa ông Holmes, khi tôi trở về căn phòng trọ của mình, trông thấy chỗ thức ăn ít ỏi trong tủ và hai, ba tờ hóa đơn nằm trên bàn, tôi bắt đầu tự hỏi có phải mình đã làm một việc rất ngu xuẩn hay không. Xét cho cùng, dù những người đó có vài sở thích kì lạ và muốn người khác tuân theo một số đòi hỏi khác thường nhất đi chăng nữa, ít ra họ cũng sẵn sàng trả tiền cho tính lập dị của mình, ở Anh quốc này chẳng có mấy cô gia sư nhận được một trăm bảng mỗi năm. Vả lại, mái tóc có giúp được gì cho tôi đâu? Nhiều người trông còn đẹp hơn khi cắt tóc ngắn và có lẽ tôi cũng sẽ giống như họ. Sang đến ngày hôm sau, tôi nghĩ rằng mình đã làm một điều dại dột và ngày hôm sau nữa thì tôi lại càng chắc chắn về điều đó. Đến lúc tôi hầu như đã dẹp bỏ lòng kiêu hãnh để quay lại công ty môi giới và hỏi xem công việc đó còn trống hay không thì nhận được lá thư do chính ông kia gửi đến. Tôi có đem nó theo đây và sẽ đọc cho ông nghe:

Trang trại Sồi Đỏ, gần Winchester

THƯA CÔ HUNTER!

Cô Stoper đã rất tốt bụng cho tôi địa chỉ của cô và tôi viết thư này từ trang trại để hỏi xem cô đã xem xét lại quyết định của mình hay chưa, vợ tôi rất muốn cô đến đây vì qua lời mô tả của tôi, bà ấy rất thích cô. Chúng tôi sẵn sàng trả ba mươi bảng mỗi quý, tức là một trăm hai mươi bảng mỗi năm để bù đắp cho vài điều bất tiện nho nhỏ mà những ý thích kì quặc của chúng tôi có thể gây ra cho cô. Dù sao thì chúng cũng không quá đáng lắm. Vợ tôi đặc biệt ưa thích màu xanh cobalt và muốn cô mặc áo màu ấy ở trong nhà vào buổi sáng. Tuy nhiên, cô không cần phải mua vì chúng tôi có một cái áo của cô con gái thân yêu tên Alice (hiện đang ở Philadelphia) mà tôi nghĩ sẽ rất vừa với cô. Còn về việc ngồi ở chỗ này hay chỗ nọ và tươi cười theo yêu cầu thì sẽ không gây phiền toái cho cô đâu. Về mái tóc của cô, quả là rất tiếc, đặc biệt là trong buổi nói chuyện ngắn ngủi của chúng ta, tôi buộc phải công nhận rằng tóc cô rất đẹp, nhưng tôi e rằng tôi phải giữ nguyên đề nghị này, hi vọng việc nâng mức lương có thể đền bù cho cô về sự thiệt hại này. Phận sự của cô có liên quan đến đứa bé thì rất nhẹ nhàng. Cô hãy đến và tôi sẽ đón cô ở Winchester bằng xe ngựa. Hãy báo cho tôi biết cô đi chuyến tàu nào.

Kính thư,

JEPHRO RUCASTLE

"Đó là bức thư mà tôi mới nhận được, thưa ông Holmes, và tôi định nhận lời. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng trước khi đưa ra quyết định cuối cùng thì tôi nên nhờ ông xem xét toàn bộ vấn đề."

"Thế này, cô Hunter, nếu cô đã quyết định thì vấn đề đã xong", Holmes đáp và mỉm cười.

"Nhưng ông không khuyên tôi từ chối sao?"

"Tôi thừa nhận rằng đó không phải là công việc mà tôi muốn cô em gái của mình nhận làm."

"Điều đó có nghĩa là gì, thưa ông Holmes?"

"À, tôi không có dữ kiện nào nên không thể nói gì. Có lẽ bản thân cô đã có ý kiến riêng rồi?"

"Vâng, có vẻ như tôi chỉ có một đáp án khả dĩ duy nhất. Trông ông Rucastle cũng có vẻ tử tế và tốt bụng. Lẽ nào vợ ông ta bị điên và ông ta muốn giữ kín chuyện này vì sợ rằng bà ta có thể bị đưa vào nhà thương điên và ông ta chiều theo mọi ý thích của bà ta để tránh cho bà ta lên cơn chăng?"

"Đó có thể là một đáp án - xét tình hình thực tế thì nó là đáp án có vẻ khả dĩ nhất. Nhưng dù sao thì đó cũng không phải là một gia đình dễ chịu đối với một cô gái trẻ."

"Nhưng còn vấn đề tiền nong, thưa ông Holmes!"

"Phải, tất nhiên là mức lương khá cao - quá cao là khác. Chính điều đó làm tôi thấy nghi ngại. Tại sao họ lại trả cho cô đến một trăm hai mươi bảng mỗi năm trong khi họ vẫn có thể chọn được những người khác với mức lương chỉ bốn mươi bảng? Chắc chắn phải có một lí do quan trọng ẩn sau chuyện đó."

"Tôi nghĩ rằng nếu tôi kể cho ông nghe về tình huống này, ông sẽ hiểu được nếu ngày sau tôi cần đến sự giúp đỡ của ông. Tôi sẽ vững lòng hơn rất nhiều nếu có ông đứng sau hỗ trợ."

"Ồ, cô cứ yên tâm. Tôi cam đoan với cô rằng vấn đề của cô có thể sẽ là việc lí thú nhất mà tôi được biết trong mấy tháng gần đây. Một số chi tiết có vẻ rất lạ kì. Nếu cô có gì nghi ngờ hoặc gặp nguy hiểm..."

"Nguy hiểm! Ông thấy trước được mối nguy hiểm nào chăng?"

Holmes nghiêm túc lắc đầu. "Nếu ta có thể đoán ra được thì nó chẳng còn là nguy hiểm nữa", anh nói. "Nhưng bất cứ lúc nào, dù ngày hay đêm, chỉ cần một bức điện tín của cô là tôi sẽ đến giúp cô ngay."

"Thế là đủ rồi." Cô gái nhanh nhẹn đứng dậy và mọi lo lắng đã biến mất khỏi gương mặt cô. "Giờ thì tôi sẽ đi xuống Hampshire với tâm trạng khá là nhẹ nhõm. Tôi sẽ viết thư cho ông Rucastle ngay lập tức, hi sinh mái tóc tội nghiệp ngay tối nay và khởi hành đi Winchester vào ngày mai." Sau khi nói vài lời cảm ơn với Holmes, cô ta chào từ biệt cả hai chúng tôi rồi hối hả bước đi.

"Ít ra thì", tôi lên tiếng khi nghe tiếng bước chân nhanh nhẹn và vững chắc của cô gái đi xuống cầu thang, "cô ta có vẻ là một thiếu nữ rất biết cách tự chăm lo cho mình."

"Và cô ta cần phải như thế," Holmes nói với vẻ nghiêm trọng. "Nếu tôi không lầm thì chúng ta sẽ sớm nhận được tin của cô ta."

***

Chẳng bao lâu sau, lời dự báo của bạn tôi đã thành hiện thực. Hai tuần lễ trôi qua, đầu óc tôi thường nghĩ đến cô gái nọ và băn khoăn không biết người phụ nữ đơn độc ấy đã lạc bước vào ngõ ngách lạ lùng nào giữa muôn vạn ngả đời. Một mức lương cao bất thường, những điều kiện lạ lùng, công việc nhẹ nhàng, tất cả đều cho thấy một điều gì đó không bình thường, liệu đó chỉ là một sở thích kì quặc hay là một âm mưu, gã đàn ông đó là một người nhân đức hay một kẻ bất lương, tôi không đủ năng lực để xác định điều đó. Còn về phía Holmes, tôi nhận thấy anh thường ngồi đến nửa giờ liền, đôi mày nhíu lại và vẻ mặt lơ đãng, nhưng nếu tôi đề cập đến vấn đề này thì anh sẽ huơ tay xua đi ngay. "Dữ kiện! Dữ kiện! Dữ kiện!" Anh nóng nảy kêu lên. "Không có bột sao gột nên hồ." Thế nhưng cuối cùng anh luôn lẩm bẩm rằng anh sẽ chẳng bao giờ để cho em gái mình nhận một công việc như thế.

Cuối cùng thì một đêm nọ chúng tôi cũng nhận được bức điện vào lúc tôi vừa định đi ngủ còn Holmes thì đang thực hiện một trong những nghiên cứu hóa học kéo dài cả đêm mà anh thường ham mê đến mức vào buổi tối khi đi ngủ tôi thấy anh đang cắm cúi với cái bình cổ cong và ống nghiệm thế nào thì đến sáng, khi tôi bước xuống nhà để dùng điểm tâm cũng vẫn thấy anh đang ở tư thế đó. Anh mở cái phong bì màu vàng, liếc sơ qua nội dung bức điện rồi thảy nó sang cho tôi.

"Anh tra giờ tàu chạy trong cuốn Bradshaw nhé", nói rồi anh quay lại với công trình hóa học của mình.

Lời nhắn chỉ ngắn gọn vài chữ và rất khẩn thiết:

Vui lòng có mặt ở khách sạn Black Swan tại Winchester lúc trưa mai. Xin hãy đến! Tôi không biết phải xoay xở ra sao. HUNTER

"Anh đi cùng tôi chứ?" Holmes ngước lên hỏi.

"Tôi rất muốn đi."

"Vậy thì anh tra giờ tàu chạy đi."

"Có một chuyến lúc 9 giờ 30", tôi đáp sau khi nhìn lướt qua cuốn Bradshaw. "Sẽ đến Winchester lúc 11 giờ 30."

"Rất tốt. Vậy có lẽ tôi nên gác lại việc phân tích chất acetone, vì sáng mai chúng ta cần có phong độ tốt nhất."

Khoảng 11 giờ sáng hôm sau, chúng tôi đã gần đến cố đô của Anh quốc. Suốt dọc đường, Holmes cứ cắm cúi vào mấy tờ báo buổi sáng, nhưng khi chúng tôi đi vào địa phận Hampshire thì anh quẳng chúng xuống và bắt đầu ngắm cảnh. Hôm đó là một ngày xuân tuyệt đẹp, bầu trời xanh lơ điểm xuyết vài đám mây nhỏ trắng xốp đang lờ lững trôi từ tây sang đông. Mặt trời tỏa nắng rực rỡ, không khí mát lạnh như làm tăng thêm sinh lực cho mỗi người. Trên khắp vùng quê, trải dài đến những ngọn đồi uốn lượn quanh thị trấn Aldershot, những mái ngói nhỏ xinh màu đỏ và xám của các trang viên ló ra từ giữa những rặng cây đang khoác màu xanh của lá mới.

"Cảnh vật thật là tươi mát và xinh đẹp, phải không nào?" Tôi thốt lên với tất cả sự hăng hái của một người vừa mới thoát khỏi màn sương mù dày đặc của phố Baker.

Nhưng Holmes chỉ lắc đầu với vẻ nghiêm trọng. "Anh có biết không, Watson", anh nói, "những người có thiên hướng như tôi mắc phải một lời nguyền khiến mỗi khi nhìn thấy một vật gì tôi cũng phải liên hệ đến vụ án đang đeo đuổi. Anh nhìn ngắm những ngôi nhà nằm rải rác kia và xúc động vì vẻ đẹp của chúng. Còn ý nghĩ duy nhất hiện ra trong đầu tôi khi nhìn thấy chúng là cảm giác về sự biệt lập và khả năng thủ phạm thoát khỏi lưới pháp luật nếu một tội ác xảy ra ở đó."

"Trời ơi!" Tôi kêu lên. "Ai lại đi liên tưởng giữa tội phạm với những trang viên cổ kính đáng yêu này?"

"Mỗi khi trông thấy chúng là một nỗi khiếp sợ lại chiếm trọn tâm hồn tôi. Watson này, dựa trên kinh nghiệm riêng của mình, tôi tin rằng những con hẻm nghèo hèn và gớm ghiếc nhất ở London cũng không chứa nhiều tội lỗi bằng vùng quê tươi đẹp này."

"Anh làm tôi đâm sợ đấy."

"Nhưng nguyên nhân lại rất rõ ràng. Ở thành thị, áp lực của dư luận có thể làm được điều mà pháp luật không kham nổi. Không có con hẻm nào tôi tệ đến mức tiếng khóc thét của một đứa bé bị ngược đãi hay tiếng đấm huỳnh huỵch của một gã say rượu lại không làm nảy sinh sự thương cảm và phẫn nộ ở những người hàng xóm, vả lại, cỗ máy tư pháp nằm ngay sát bên nên chỉ cần một tiếng than phiền cũng có thể làm cho nó hoạt động và giữa tên tội phạm với chiếc ghế bị cáo chỉ cách nhau có một bước chân. Nhưng anh hãy nhìn những ngôi nhà lẻ loi này đi, mỗi căn nằm trong một khuôn viên, ở đó hầu hết là những kẻ ngu dốt, nghèo khó chẳng biết gì mấy về pháp luật. Hãy nghĩ đến những trò xấu xa, độc ác, sự đồi bại bị che giấu hết năm này sang năm khác ở những nơi như thế mà chẳng ai hay biết. Nếu cô gái cầu cứu chúng ta đến sống ở Winchester thì tôi chẳng bao giờ phải lo lắng cho cô ta. Chính vùng thôn dã nằm cách đó đến năm dặm mới ẩn tàng nguy hiểm. Tuy vậy, chắc chắn là bản thân cô ta vẫn chưa bị đe dọa."

"Đúng vậy. Nếu cô ta có thể đến Winchester để gặp chúng ta thì cô ta cũng có thể bỏ trốn."

"Hẳn rồi. Cô ta hãy còn tự do."

"Vậy vấn đề có thể là gi? Anh có lí giải được không?"

"Tôi đã nghĩ ra đến bảy cách lí giải khác nhau, mỗi cách đều phù hợp với những dữ kiện mà ta có được cho đến giờ. Nhưng để xác định được cách lí giải nào trong số đó là đúng thì ta chỉ có thể dựa vào những thông tin mới đang chờ đợi chúng ta. Ngọn tháp nhà thờ kia rồi và chúng ta sắp biết được cô Hunter định kể điều gì."

Black Swan là một khách sạn nhỏ có tiếng nằm trên đại lộ, cách nhà ga không xa lắm và chúng tôi thấy cô gái trẻ đang đợi chúng tôi ở đó. Cô ta thuê một phòng khách và bữa trưa đã được dọn sẵn chờ đợi chúng tôi ở trên bàn.

"Tôi rất mừng khi thấy các ông đến", cô ta vồn vã nói. "Cả hai ông đều thật tử tế, quả thực là tôi không biết mình nên làm gì. Lời khuyên của các ông sẽ rất quý giá đối với tôi."

"Xin hãy kể cho chúng tôi nghe chuyện gì đã xảy ra với cô."

"Tôi sẽ kể ngay và kể thật nhanh vì tôi đã hứa với ông Rucastle là sẽ quay về trước 3 giờ. Ông ta đã cho phép tôi lên thị trấn sáng nay dù chẳng biết rõ tôi đi để làm gì."

"Cô hãy kể cho chúng tôi đầu đuôi mọi chuyện." Holmes duỗi đôi chân dài gầy gò về phía lò sưởi và bình tĩnh lắng nghe.

"Trước hết, tôi có thể nói rằng nhìn chung thì tôi không hề bị ông bà Rucastle đối xử tệ bạc. Sự thực là thế. Nhưng tôi không thể nào hiểu họ và không yên tâm lắm về họ."

"Cô không hiểu những gì?"

"Những nguyên nhân dẫn đến hành động của họ. Nhưng từ từ rồi ông sẽ được nghe hết. Khi tôi đến, ông Rucastle đón tôi ở đây và đánh cỗ xe ngựa hai bánh đưa tôi về trang trại Sồi Đỏ. Đúng như ông ta nói, đó quả là một vùng rất tuyệt vời, nhưng căn nhà thì không đẹp vì đó là một khối nhà lớn hình vuông, quét vôi trắng nhưng tất cả các bức tường đều loang lổ và đầy vết bẩn do ẩm ướt và thời tiết xấu. Xung quanh nhà là đất đai vườn tược, rừng cây chiếm hết ba phía, phía còn lại là một cánh đồng đổ xuống đại lộ đi Southampton, con đường này vòng lại cách cổng trước khoảng một trăm yard. Mảnh đất phía trước thuộc về ngôi nhà nhưng những cánh rừng xung quanh lại là một phần khu săn bắn của huân tước Southerton. Do có một đám sồi mọc lên ngay trước cổng nên trang trại này được gọi tên như thế. Ông chủ đánh xe đưa tôi đi ngang qua những nơi đó, ông ta vẫn tử tế như trước và đến tối hôm đó thì tôi được ông ta giới thiệu với bà vợ và đứa con nhỏ. Sự phỏng đoán mà chúng ta đã nghĩ là có vẻ hợp lí lúc còn ở phòng khách nhà ông tại phố Baker thật chẳng đúng chút nào, ông Holmes ạ. Bà Rucastle không hề điên. Theo tôi nhận xét thì bà ta là một phụ nữ trầm lặng, xanh xao, trẻ hơn ông chồng rất nhiều, chưa quá ba mươi, tôi nghĩ thế, trong khi ông ta phải ngoài bốn mươi lăm. Từ cách họ nói chuyện với nhau, tôi suy ra rằng họ đã cưới nhau được chừng bảy năm, trước đó ông ta đã góa vợ và người con duy nhất của ông ta với bà vợ đầu tiên chính là cô con gái đang ở Philadelphia. Ông Rucastle nói riêng với tôi lí do cô ta rời đi là vì một mối ác cảm vô cớ với bà mẹ kế. Vì cô ta chắc đã ngoài hai mươi nên tôi có thể dễ dàng hình dung ra cuộc sống không thoải mái của cô ta với người vợ trẻ của ông bố.

Theo tôi nhận xét thì bà Rucastle có vẻ là một người nhạt nhẽo từ ngoại hình đến tính cách. Bà ta gây ấn tượng không tốt cũng chẳng xấu với tôi. Chỉ là một con người bình thường. Có thể dễ dàng nhận thấy là bà ta hết lòng tận tụy với chồng và đứa con trai nhỏ. Đôi mắt màu xám nhạt của bà ta hết nhìn chồng lại nhìn con, ghi nhận từng nhu cầu nhỏ nhặt và đáp ứng ngay nếu có thể. Ông ta cũng đối tốt với bà ta một cách chất phác và ồn ào, nhìn chung thì họ là một cặp hạnh phúc. Thế mà người phụ nữ ấy lại có một nỗi buồn bí mật. Bà ta thường đắm chìm trong suy tư với vẻ buồn rầu hiện rõ trên mặt. Đã hơn một lần tôi bắt gặp bà ta đang khóc. Đôi khi tôi nghĩ là do bà ta phiền lòng vì tính khí của đứa trẻ vì tôi chưa bao giờ gặp đứa bé nào hư hỏng và xấu tính như nó. Vóc dáng nó nhỏ hơn những đứa trẻ cùng tuổi nhưng cái đầu lại quá to, hoàn toàn không cân đối với cơ thể. Hình như nó chỉ có hai trạng thái luân phiên là những thú ham mê tàn ác và những cơn hờn dỗi buồn rầu vô cớ. Hành hạ bất cứ sinh vật nào yếu hơn có vẻ là thú tiêu khiển duy nhất của nó và nó bộc lộ tài năng khá xuất sắc trong việc lập kế hoạch bắt chuột, bẫy chim và tóm lũ côn trùng. Nhưng tôi không nên nói về thằng bé này, ông Holmes ạ, vì thật ra nó cũng không dính dáng nhiều đến câu chuyện của tôi."

"Tôi sẵn lòng nghe mọi chi tiết", bạn tôi nhận xét, "cho dù cô cảm thấy chúng có liên quan đến cô hay không."

"Tôi sẽ cố không để sót chi tiết nào quan trọng. Điều duy nhất mà tôi không thích trong ngôi nhà này, cũng là điều khiến tôi phải chú ý ngay lập tức, chính là diện mạo và cách cự xử của những người đầy tớ. Chỉ có hai người thôi, đó là một cặp vợ chồng, ông chồng, tên Toller là một người lỗ mãng, cộc cằn với mái tóc hoa râm và để râu quai nón, lúc nào cũng sặc mùi rượu. Từ khi tôi đến đó, ông ta đã hai lần say bí tỉ, vậy mà ông Rucastle có vẻ chẳng hề để tâm. Bà vợ rất cao và khỏe mạnh với bộ mặt đanh đá và cũng im ỉm như bà Rucastle nhưng kém thân thiện hơn rất nhiều. Họ đúng là một cặp vợ chồng khó chịu, nhưng may là hầu hết thời gian tôi đều ở trong phòng trẻ và phòng riêng của tôi, vốn nằm cạnh nhau trong một góc của tòa nhà.

Trong hai ngày đầu tiên ở trang trại Sồi Đỏ, cuộc sống của tôi rất bình lặng; đến ngày thứ ba thì bà Rucastle bước xuống nhà ngay sau bữa điểm tâm và thì thầm gì đó với ông chồng.

'Ồ, phải rồi', ông ta kêu lên và quay sang phía tôi, 'cô Hunter này, chúng tôi rất cảm ơn cô vì cô đã chiều theo ý chúng tôi mà cắt tóc ngắn. Tôi cam đoan với cô là kiểu tóc mới này không hề làm giảm đi vẻ đẹp của cô. Giờ thì chúng tôi muốn xem chiếc áo màu xanh cobalt hợp với cô đến mức nào. Cô sẽ thấy nó được đặt trên chiếc giường trong phòng ngủ của cô và chúng tôi sẽ rất vui nếu cô sẵn lòng mặc nó.'

Cái áo mà người ta sắp sẵn cho tôi có sắc xanh rất kì. Nó được may bằng một loại vải giống như vải len thượng hạng nhưng có những dấu vết rất rõ là đã có người từng mặc qua. Nó vừa khít như được cắt đo riêng cho tôi vậy. Cả hai vợ chồng ông bà Rucastle đều tỏ ra thích thú khi thấy tôi mặc chiếc áo đó và biểu hiện của họ có vẻ hơi quá lỗ. Họ đang đợi tôi trong phòng khách, đó là một căn phòng rất rộng, trải dọc toàn bộ mặt tiền của tòa nhà với ba cửa sổ dài đến sát sàn nhà. Một chiếc ghế đã được đặt sẵn gần ô cửa sổ ở giữa, lưng ghế hướng ra bên ngoài. Họ yêu cầu tôi ngồi lên chiếc ghế đó rồi ông Rucastle bước qua bước lại phía bên kia phòng, bắt đầu kể cho tôi nghe một loạt truyện cười khôi hài nhất mà tôi chưa bao giờ nghe. Các ông không tưởng tượng được trông ông ta ngộ đến mức nào đâu, và tôi cứ ôm bụng cười rũ. Thế nhưng rõ ràng là bà Rucastle chẳng biết hài hước là gì, bà ta chẳng hề hé một nụ cười mà chỉ ngồi yên, hai bàn tay đặt trong lòng và mặt lộ vẻ buồn bã, lo âu. Sau khoảng một tiếng, đột nhiên ông Rucastle bảo đã đến giờ làm việc và tôi có thể thay chiếc áo ra để đến gặp thằng bé Edward ở phòng trẻ.

Hai ngày sau, cảnh đó lại tái diễn cũng trong tình huống giống hệt như thế. Một lần nữa, tôi lại thay áo, lại ngôi bên cửa sổ và ôm bụng cười rũ rượi khi nghe cả một kho chuyện hài hước mà ông chủ tôi kể với phong cách độc đáo không sao bắt chước được. Sau đó, ông ta trao cho tôi một quyển truyện có bìa màu vàng và dời cái ghế của tôi sang bên cạnh một chút để trang giấy không bị sấp bóng của chính tôi, rồi yêu cầu tôi đọc to lên cho ông ta nghe. Tôi đọc được độ mười phút, bắt đầu vào giữa chương thì đột nhiên ông ta ngắt lời tôi, bảo tôi ngừng lại và thay áo.

Thưa ông Holmes, ông có thể hình dung ra tôi tò mò biết bao về ý nghĩa của màn trình diễn lạ lùng này. Tôi để ý thấy họ lúc nào cũng rất thận trọng để tôi ngồi quay lưng lại cửa sổ, thế là toàn bộ tâm trí tôi bị giày vò bởi mong muốn nhìn xem chuyện gì xảy ra ở đằng sau. Lúc đầu thì chuyện này có vẻ bất khả thi, nhưng rồi tôi nhanh chóng nghĩ ra một cách. Cái gương cầm tay của tôi bị vỡ, thế là tôi giấu một mảnh gương vào trong chiếc khăn tay. Trong lần nghe kể chuyện hài tiếp theo, giữa lúc đang cười, tôi đưa khăn tay lên chùi mắt và với một chút khéo léo, tôi có thể nhìn thấy tất cả những gì ở đằng sau. Tôi thú nhận là mình rất thất vọng. Chẳng có gì cả, ít ra đó cũng là ấn tượng ban đầu của tôi. Tuy nhiên, đến lần thứ nhì thì tôi thấy có một người đàn ông đang đứng trên đường Southampton, đó là một người đàn ông nhỏ con, có râu, mặc một bộ quần áo màu xám, có vẻ như đang nhìn về phía tôi. Con đường ấy là một con lộ chính và thường có rất nhiều người qua lại. Thế nhưng, người đàn ông này lại đứng tựa người vào những rào chắn viền quanh khu đất của trang viên và trông lên với vẻ tha thiết. Tôi hạ thấp chiếc khăn tay xuống và liếc nhìn bà Rucastle thì thấy bà ta đang dán mắt vào tôi với vẻ dò xét. Bà ta không nói gì nhưng tôi tin rằng bà ta đã đoán được là tôi có một mảnh gương trong tay và đã nhìn thấy những gì ở sau lưng. Bà ta đứng dậy ngay lập tức.

'Anh Jephro', bà ta nói, 'ở dưới đường có một gã láo xược đang nhìn chòng chọc vào cô Hunter.'

'Không phải là bạn của cô chứ, cô Hunter?' Ông ta hỏi.

'Không, tôi chẳng quen biết ai ở đây cả.'

'Trời ơi! Thật xấc láo! Xin cô hãy quay lại và ra dấu đuổi hắn đi.'

'Ta cứ giả vờ như không quan tâm đến thì hay hơn.'

'Không, không được, làm thế thì chúng ta sẽ khiến cho hắn cứ quanh quẩn ở đây mãi. Xin cô vui lòng quay lại và xua tay đuổi hắn như thế này...' Tôi làm theo và bà Rucastle kéo rèm xuống ngay lập tức. Chuyện đó xảy ra cách đây một tuần và từ đó đến giờ tôi không còn ngồi sát cửa sổ, không mặc chiếc áo xanh đó và cũng không trông thấy người đàn ông ở trên đường nữa."

"Xin cô cứ kể tiếp", Holmes giục. "Câu chuyện cô kể có vẻ rất thú vị."

"Tôi e là ông sẽ thấy nó khá rời rạc và có vẻ như những sự việc tôi kể không liên quan gì đến nhau. Vào ngày đầu tiên tôi đến trang trại Sồi Đỏ, ông Rucastle dẫn tôi đến một gian nhà phụ gần cửa nhà bếp. Khi chúng tôi đến gần, tôi nghe có tiếng rổn rảng của một sợi xích và tiếng một con thú to lớn đang đi đi lại lại.

'Cô hãy nhìn vào đây!' Ông Rucastle nói và chỉ cho tôi một khe hở giữa hai tấm ván. 'Trông nó có đẹp không nào?'

Tôi nhìn vào và trông thấy một cặp mắt sáng rực và một hình thù lờ mờ nằm cuộn tròn trong bóng tối.

'Đừng sợ!' Ông chủ của tôi bảo và cười phá lên khi thấy tôi giật nẩy người. 'Đó chỉ là Carlo, con chó tai cụp của tôi. Dù tôi gọi nó là của tôi nhưng thật ra thì lão Toller, người trông ngựa của tôi mới là người duy nhất có thể tiếp xúc với nó. Chúng tôi cho nó ăn một bữa mỗi ngày và không cho ăn nhiều quá, vì thế lúc nào nó cũng rất hung hăng. Lão Toller thả nó ra ngoài mỗi đêm và nếu có kẻ lang thang nào đó xâm nhập vào nhà thì chỉ có Chúa mới che chở được cho hắn nếu hắn giáp mặt với những chiếc răng nanh của con chó. vì Chúa, cô chớ có bao giờ đặt chân ra khỏi cửa vào ban đêm vì bất cứ lí do gì, vì mạng sống của cô rất đáng giá đấy.'

Lời cảnh báo ấy không phải là đe dọa suông vì hai đêm sau, khoảng 2 giờ sáng, tôi tình cờ nhìn ra ngoài cửa sổ phòng mình. Đó là một đêm trăng tuyệt đẹp, bãi cỏ phía trước nhà như được rải bạc khắp nơi và sáng gần như ban ngày. Tôi đang đứng đó, say sưa ngắm nhìn vẻ đẹp thanh bình của cảnh vật thì trông thấy gì đó đang di chuyển dưới bóng của đám cây sồi. Khi nó đi vào vùng được ánh trăng chiếu rọi thì tôi nhận ra nó. Đó là một con chó khổng lồ, to như một con bê với bộ lông màu vàng nâu, hàm dưới má xệ, mõm đen và những chiếc xương to lớn lồi ra. Nó đang chậm rãi bước ngang qua bãi cỏ và biến mất vào bóng tối ở phía bên kia vườn. Con vật canh nhà khủng khiếp này làm cho tim tôi lạnh buốt, nếu mà có kẻ trộm nào xuất hiện vào giờ này thì chắc cũng không làm tôi sợ hãi đến thế.

Và giờ thì tôi có một chuyện rất lạ kì để kể cho ông nghe. Như ông đã biết, tôi đã cắt tóc ở London và xếp mớ tóc đó thành một lọn lớn ở đáy rương. Một tối nọ, khi thằng bé đã ngủ, tôi bắt đầu tiêu khiển bằng cách xem xét các đồ vật trong phòng và sắp xếp lại mấy món đồ ít ỏi của mình. Trong phòng có một cái tủ ngăn kéo cũ, hai ngăn trên hãy còn trống và để mở, ngăn dưới thì bị khóa chặt. Tôi đã xếp mớ quần áo vào hai ngăn trên và vì hãy còn khá nhiều thứ để xếp vào tủ nên dĩ nhiên là tôi bực bội vì không dùng được cái ngăn kéo thứ ba. Tôi cho rằng có lẽ người ta quên không mở khóa ra nên mới lấy xâu chìa khóa của mình ra để thử. Ngay chiếc chìa đầu tiên đã vừa khít với ổ khóa và tôi kéo ngăn tủ ra. Trong đó chỉ có duy nhất một thứ, nhưng tôi chắc chắn ông không thể nào đoán được: Chính là lọn tóc của tôi. Tôi nhặt nó lên và xem xét. Cũng cùng một màu tóc đặc biệt và dày dặn như thế. Nhưng rồi sự việc quá vô lí khiến cho tôi phải suy nghĩ lại. Làm sao mà tóc của tôi lại được cất kín trong cái ngăn kéo này? Hai bàn tay run rẩy, tôi mở cái rương của mình, dốc hết đồ và lấy lọn tóc từ đáy rương ra. Tôi đặt hai lọn tóc bên cạnh nhau và tôi cam đoan với ông rằng trông chúng giống hệt nhau. Thế chẳng phải là điều lạ thường sao? Tôi cứ suy nghĩ mãi mà vẫn không thể đoán ra được chuyện này là sao. Tôi cất lọn tóc 'lạ' vào ngăn kéo và không hề nói tiếng nào với gia đình Rucastle vì cảm thấy mình đã sai khi mở cái ngăn kéo mà họ đã khóa.

Tôi có bản tính hay quan sát, có lẽ ông cũng đã nhận thấy, thưa ông Holmes, và chẳng mấy chốc đầu óc tôi đã nhớ kĩ cách bố trí của toàn bộ ngôi nhà. Tuy nhiên, một bên của tòa nhà có vẻ như chẳng có ai ở. Đối diện với cánh cửa dẫn vào chỗ ở của ông bà Toller là một cánh cửa mở sang bên đó nhưng lúc nào nó cũng bị khóa trái. Thế nhưng, một ngày kia, khi đi lên cầu thang, tôi trông thấy ông Rucastle bước ra từ cánh cửa đó, tay còn cầm chùm chìa khóa và vẻ mặt ông ta trông khác hẳn với con người tròn trịa, vui tính mà tôi đã quen. Hai gò má ông ta đỏ bừng, đôi lông mày nhíu lại vẻ giận dữ và những mạch máu nổi lên ở hai bên thái dương, ông ta khóa cửa lại và vội vàng đi ngang qua tôi mà không nói tiếng nào, cũng chẳng thèm ghé mắt nhìn sang. Điều này làm cho sự tò mò trong tôi trỗi dậy, vì thế khi đi dạo trong vườn với thằng bé, tôi đi vòng đến bên hông nhà để từ đó có thể nhìn thấy các cửa sổ của cánh đó. Có bốn cửa sổ thẳng hàng nhau, trong đó có ba ô cửa trông có vẻ bẩn thỉu, còn ô cửa thứ tư thì được gắn thêm cửa chớp. Rõ ràng là chúng đều bị bỏ hoang. Khi tôi đang đi lang thang quanh đó, thỉnh thoảng ngước nhìn lên mấy ô cửa sổ thì ông Rucastỉe đi về phía tôi với vẻ dễ chịu, vui tính như trước.

'À!' Ông ta nói, 'cô đừng nghĩ là tôi thô lỗ nếu tôi đi ngang qua cô mà không nói tiếng nào nhé, cô gái thân mến. Tôi mải lo lắng việc làm ăn mà.'

Tôi trấn an ông ta rằng việc đó không làm tôi bận lòng. 'Nhân tiện', tôi nói, 'có vẻ như ông có cả một dãy phòng để trống ở trên kia và một trong các phòng đó còn được lắp cửa chớp.'

Ông ta tỏ vẻ ngạc nhiên và tôi thấy hình như ông ta còn hơi giật mình vì lời nhận xét ấy. 'Nhiếp ảnh là một trong những sở thích của tôi', ông ta đáp. 'Tôi đã lập một phòng tối ở đó. Nhưng, trời ơi! Chúng tôi gặp được một cô gái có đôi mắt đến là sắc sảo! Có ai nói vậy với cô chưa? Có ai đã từng nói vậy không?' Ông ta nói bằng giọng vui đùa nhưng khi nhìn tôi thì trong mắt ông ta chẳng có vẻ gì là đùa cợt. Tôi nhận thấy trong đó chỉ có sự nghi ngờ và khó chịu.

Đấy, thưa ông Holmes, từ lúc biết được rằng ở dãy phòng nọ có điều gì đó mà tôi không được phép tìm hiểu, tôi rất nóng lòng muốn đến đó xem xét. Cảm giác ấy không hoàn toàn là sự tò mò, dù rằng cũng có đôi chút. Nó giống với cảm giác về bổn phận hơn - tôi có cảm tưởng là sẽ làm được điều gì đó tốt đẹp nếu tôi đột nhập được vào chỗ đó. Người ta hay nói về bản năng của phụ nữ, có lẽ bản năng đó đã đem lại cho tôi cảm giác này. Dù sao đi nữa, nó vẫn còn đó và tôi kiên trì tìm kiếm cơ hội để vượt qua cánh cửa cấm ấy. Mãi đến ngày hôm qua tôi mới có cơ hội. Phải nói với ông rằng, ngoài ông Rucastle ra thì cả hai vợ chồng ông bà Toller cũng có việc để làm trong dãy phòng bỏ hoang và đã có lần tôi nhìn thấy ông ta cầm một cái túi to bằng vải lanh màu đen từ bên trong cửa bước ra. Gần đây ông ta uống rượu nhiều lắm và tối hôm qua thì say khướt, khi tôi lên lầu thì chìa khóa hãy còn cắm ở cửa. Rõ ràng là ông ta đã quên rút ra. Cả hai vợ chồng ông bà Rucastle đều đang ở dưới nhà cùng với đứa bé, thế là tôi có một cơ hội tuyệt vời. Tôi nhẹ nhàng xoay chìa, mở cửa ra và lẻn vào. Trước mặt tôi là một lối đi hẹp, không có giấy dán tường mà cũng chẳng trải thảm, nó ngoặt sang bên phải ở cuối hành lang. Khi rẽ ở góc ấy thì tôi thấy có ba cánh cửa liên tiếp, cánh cửa thứ nhất và thứ ba để mở. Mỗi cánh cửa dẫn vào một căn phòng trống đầy bụi bặm và âm u, một phòng có hai cửa sổ còn phòng kia thì chỉ có một, tất cả đều bám bụi dày nên ánh sáng lờ mờ của ban đêm chỉ có thể xuyên qua một cách yếu ớt. Cánh cửa ở giữa thì đóng kín và mặt ngoài còn được chắn thêm một thanh sắt to bản lấy ra từ một cái giường sắt, một đầu thanh sắt khoá chặt vào một cái vòng trên tường, còn đầu kia thì được buộc bằng một sợi thừng to chắc. Cánh cửa cũng được khóa kín và không thấy chìa khóa ở đó. Rõ ràng là cánh cửa được rào chắn cẩn thận này tương ứng với ô cửa sổ được che chắn thêm cửa chớp ở mặt ngoài, tuy vậy, nhờ vào chút ánh sáng lờ mờ hắt ra từ bên dưới, tôi có thể thấy rằng trong phòng không hoàn toàn tối đen. Chắc chắn là có một giếng trời để cho ánh sáng lọt vào từ bên trên. Khi tôi đang đứng trên hành lang, chăm chú nhìn vào cánh cửa hắc ám đó và tự hỏi nó đang che giấu bí mật gì thì chợt nghe thấy tiếng bước chân bên trong phòng và trông thấy một cái bóng đang lướt qua lướt lại chỗ cái khe hẹp hắt ra chút ánh sáng lờ mờ bên dưới cánh cửa. Khi trông thấy cảnh tượng đó, một nỗi sợ kinh hồn không sao giải thích nổi bùng lên trong tôi, ông Holmes ạ. Thần kinh căng thẳng quá mức khiến tôi đột nhiên mất hết tinh thần, tôi quay phắt lại rồi bỏ chạy - cắm đầu cắm cổ như có một bàn tay khủng khiếp đang chực tóm lấy vạt váy tôi từ phía sau. Tôi lao như bay dọc theo hành lang, băng qua cánh cửa và đâm thẳng vào vòng tay của ông Rucastle đang đợi sẵn ở bên ngoài.

'Nào', ông ta mỉm cười nói, 'ra là cô. Trông thấy cánh cửa mở tôi biết ngay là cô.'

'Ôi, tôi sợ quá!' Tôi hổn hển nói.

'Cô gái thân mến! Cô gái đáng yêu!' Ông không thể hình dung được thái độ của ông ta âu yếm và dịu dàng đến mức nào đâu. 'Vậy điều gì đã làm cô sợ, hả cô gái?' Nhưng giọng nói của ông ta có phần ngọt ngào thái quá, ông ta đã cường điệu quá. Tôi tỉnh táo cảnh giác với ông ta.

'Tôi thật dại dột khi đi vào khu vực trống trong nay,' tôi đáp. 'Cảnh vật ở đó thật vắng vẻ và kì quái trong ánh sáng lờ mờ khiến tôi sợ quá và chạy trở ra ngay. Ôi, bên trong tĩnh lặng đến rợn người!'

'Chỉ có thế thôi sao?' Ông ta hỏi và nhìn tôi với cặp mắt sắc bén.

'Sao, ông còn muốn gì nữa?' Tôi hỏi lại.

'Theo cô nghĩ thì tại sao tôi lại khóa cánh cửa này?'

'Tôi chẳng biết lí do là gì.'

'Đó là để ngăn những ai không có phận sự đi vào đó. Cô hiểu rồi chứ?' Ông ta vẫn tươi cười với thái độ nhã nhặn nhất.

'Nếu mà tôi biết trước..!'

'Thôi, giờ thì cô đã hiểu. Nếu cô còn đặt chân qua ngưỡng cửa này một lần nữa...' trong nháy mắt, nụ cười của ông ta sắt lại như đang nhe răng thịnh nộ và ông ta trừng mắt nhìn tôi với bộ mặt như quỷ dữ, 'tôi sẽ ném cô cho con chó nhai xương.'

Tôi kinh hoàng đến nỗi không biết lúc ấy mình đã làm gì. Chắc tôi đã vội vã đi qua ông ta để về phòng. Tôi không nhớ gì cả cho đến khi thấy mình đang nằm trên giường run lẩy bẩy. Thế rồi tôi nghĩ đến ông, ông Holmes ạ. Tôi không thể tiếp tục sống ở đó nếu không được ông chỉ bảo. Tôi kinh hãi căn nhà đó, ông chủ, bà chủ, các gia nhân, thậm chí cả đứa bé. Tất cả bọn họ đều thật khủng khiếp. Nếu tôi có thể đưa ông đến đấy thì mọi chuyện sẽ ổn thỏa. Tất nhiên là tôi có thể bỏ trốn khỏi đó nhưng tính tò mò của tôi cũng mãnh liệt không thua gì sự sợ hãi. Tôi đã nhanh chóng quyết định sẽ đánh điện cho ông. Tôi đội mũ và mặc áo khoác rồi đi đến bưu điện cách nhà độ một dặm và khi trở về thì cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm hơn rất nhiều. Một nỗi ngờ vực đáng sợ hiện lên trong đầu tôi khi tôi bước đến gần cửa vì lo rằng con chó có thể đã được thả ra, nhưng rồi tôi nhớ ra là tối đó ông Toller đã uống rượu say bí tỉ và trong nhà chỉ có mỗi ông ta là điều khiển được nó và dám thả nó ra. Tôi lẻn vào nhà an toàn và suốt đêm cứ nằm thao thức trên giường, không sao ngủ được vì vui mừng với ý nghĩ sắp được gặp ông. Tôi chẳng gặp chút khó khăn nào khi xin phép đi Winchester lúc sáng nay nhưng tôi phải trở về nhà trước 3 giờ vì ông bà Rucastle sắp sửa đi thăm ai đó và sẽ vắng nhà suốt buổi tối cho nên tôi phải trông nom thằng bé. Giờ thì tôi đã kể hết vụ mạo hiểm của mình rồi, thưa ông Holmes, và tôi sẽ rất vui mừng nếu ông cho tôi biết toàn bộ câu chuyện có ý nghĩa gì và điều quan trọng nhất là tôi nên làm gì."

Cả Holmes và tôi đều bị cuốn theo câu chuyện kì lạ của cô Hunter. Lúc này thì bạn tôi đã đứng dậy và sải bước qua lại trong phòng, hai tay nhét vào túi quần và trên mặt hiện rõ vẻ cực kì nghiêm trọng.

"Ông Toller hãy còn say chứ?" Anh hỏi.

"Vâng. Tôi nghe thấy bà vợ ông ta nói với bà Rucastle là bà ta chẳng thể làm được gì với ông ta."

"Thế thì tốt. Và tối nay ông bà Rucastle sẽ đi vắng phải không?"

"Vâng."

"Trong nhà có tầng hầm với ổ khóa chắc chắn chứ?"

"Vâng, có hầm rượu."

"Tôi nhận thấy rằng xuyên suốt sự việc này cô đã hành động rất can đảm và sáng suốt, cô Hunter ạ. Cô có nghĩ rằng mình có thể lập thêm một kì công nữa không? Tôi sẽ không yêu cầu cô làm thế nếu tôi không nghĩ cô là một người phụ nữ xuất chúng."

"Tôi sẽ cố. Đó là việc gì vậy?"

"Tôi và bạn tôi sẽ đến trang trại Sồi Đỏ lúc 7 giờ. Vào giờ đó thì ông bà Rucastle sẽ vắng nhà và hi vọng là ông Toller hãy còn say mèm. Chỉ còn bà Toller là có thể báo động. Nếu như cô có thể viện cớ gì đó để dụ được bà ta vào hầm rượu rồi khóa cửa hầm nhốt bà ta lại thì công việc sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều."

"Tôi sẽ lo việc đó."

"Tuyệt lắm! Đến lúc đó ta sẽ xem xét thấu đáo vấn đề. Tất nhiên là chỉ có một lời giải thích hợp lí. Cô được đưa đến đó để đóng giả làm ai đó còn bản thân người đó thì đang bị nhốt bên trong căn phòng nọ. Rõ ràng là thế. Còn về việc người bị giam cầm đó là ai thì tôi đoán chắc chính là cô con gái mà họ nói là đã đi Mỹ, cô Alice Rucastle, nếu tôi nhớ không lầm. Cô được chọn chắc chắn là vì rất giống cô ta về chiều cao, vóc dáng và màu tóc. Mái tóc của cô ta đã bị cắt ngắn, rất có thể là do trải qua một cơn bệnh, vì thế tất nhiên là cô cũng buộc phải hi sinh mái tóc. Do một lần tò mò, cô đã trông thấy lọn tóc của cô ta. Người đàn ông đứng bên đường chắc chắn là một người bạn của cô gái đó - có thể là chồng sắp cưới của cô ta - và không còn nghi ngờ gì nữa, vì trông cô rất giống cô gái đó khi mặc chiếc áo của cô ta và mỗi khi anh ta nhìn cô thì đều thấy cô cười, sau đó lại thấy cử chỉ xua đuổi của cô nên anh ta tin rằng cô Rucastle đang hoàn toàn hạnh phúc và không còn yêu anh ta nữa. Con chó được thả ra mỗi tối để ngăn chàng trai gắng sức liên lạc với cô ta. Mọi chuyện đã khá rõ ràng. Điểm nghiêm trọng nhất trong vụ này chính là tính khí của đứa bé."

"Chuyện đó thì có gì quan trọng?" Tôi thốt lên.

"Watson thân mến, với tư cách là một bác sĩ, hẳn anh cũng biết có thể dựa vào tính cách của cha mẹ để lí giải những khuynh hướng của một đứa trẻ. Anh không thấy rằng điều ngược lại cũng rất hợp lí sao? Tôi thường hiểu thấu tính cách của các cặp cha mẹ trước hết bằng cách quan sát con cái của họ. Tính khí của thằng bé này độc ác bất thường, đơn thuần chỉ để thỏa mãn sự độc ác, và cho dù nó kế thừa đặc tính này từ người cha xởi lởi, như tôi nghi ngờ, hay từ người mẹ, thì điều đó đều báo trước một tình cảnh thê thảm cho cô gái tội nghiệp đang nằm trong tay họ."

"Tôi dám chắc là ông đã nghĩ đúng, thưa ông Holmes", vị thân chủ của chúng tôi kêu lên. "Tôi có thể hồi tưởng lại cả ngàn chi tiết khiến tôi tin chắc rằng ông đã đoán đúng. Ồ, ta nên đi cứu cô gái tội nghiệp đó ngay, đừng chần chừ nữa!"

"Chúng ta phải thận trọng vì ta đang đối phó với một con người hết sức xảo quyệt. Từ giờ cho đến 7 giờ thì ta không thể làm gì được. Đến đúng thời điểm đó, chúng tôi sẽ đến trang viên gặp cô và chẳng mấy chốc ta sẽ giải quyết được vấn đề."

***

Y hẹn, chúng tôi đến trang trại Sồi Đỏ vừa đúng 7 giờ sau khi để hành lí ở một quán rượu ven đường. Dưới bóng hoàng hôn, đám cây sồi với tán lá sẫm màu sáng loáng như được làm bằng kim loại đánh bóng, đủ giúp chúng tôi nhận ra căn nhà kể cả nếu không có cô Hunter tươi cười đứng đợi ở ngưỡng cửa.

"Cô đã thu xếp xong rồi chứ?" Holmes hỏi.

Một tiếng 'thịch' lớn vang lên từ đâu đó ở tầng dưới. "Đó là bà Toller đang ở trong hầm rượu", cô đáp. "Chồng bà ta đang nằm ngáy trên tấm thảm trong bếp. Đây là xâu chìa khóa của ông ta, chúng được đánh lại từ chùm chìa khóa của ông Rucastle."

"Quả thật là cô đã chuẩn bị rất tốt!" Holmes hăng hái kêu lên. "Nào, cô hãy dẫn đường và chúng ta sẽ nhanh chóng được chứng kiến sự kết thúc của câu chuyện xấu xa này."

Chúng tôi đi lên lầu, mở cánh cửa ra, đi theo hành lang đến trước cánh cửa được rào chắn mà cô Hunter đã mô tả. Holmes cắt sợi dây và kéo thanh sắt ra. Rồi anh thử tra vài chiếc chìa khác nhau vào ổ khóa nhưng không chiếc nào vừa. Bên trong không có tiếng động nào và sự yên lặng làm cho mặt Holmes sẩm xuống.

"Mong rằng chúng ta không đến quá trễ", anh nói. "Tôi nghĩ thế này, cô Hunter, cô không nên theo chúng tôi vào thì tốt hơn. Nào, Watson, kê vai vào đây và chúng ta sẽ xem có mở được lối vào hay không."

Cánh cửa đã cũ và ọp ẹp nên mở ra ngay trước sự hợp lực của hai chúng tôi. Chúng tôi cùng hối hả bước vào phòng. Bên trong trống rỗng. Ngoài một chiếc giường hẹp và cứng, một cái bàn nhỏ và một giỏ đầy quần áo ra thì không có đồ đạc nào khác. Giếng trời trên mái mở toang và người bị giam cầm ở đây đã biến mất.

"Thủ phạm đã đến đây", Holmes nói, "hắn đã đoán ra ý định của cô Hunter và đem nạn nhân của mình đi mất rồi."

"Nhưng bằng cách nào?"

"Qua giếng trời. Chúng ta sẽ thấy ngay hắn đã xoay xở ra sao." Anh đu người lên mái nhà. "A, phải rồi", anh kêu lên, "ở đây có một cái thang dài kê sát vào mái hiên. Hắn đã đưa người đi bằng cách đó."

"Không thể nào", cô Hunter nói, "lúc ông bà Rucastle đi thì cái thang không nằm ở đó."

"Hắn đã quay trở lại và dựng nó vào đó. Tôi đã nói với cô rằng hắn là một kẻ rất thông minh và nguy hiểm mà. Tôi sẽ chẳng hề ngạc nhiên nếu những bước chân mà tôi nghe thấy đang đi lên cầu thang chính là của hắn. Watson này, tôi nghĩ anh cũng nên sẵn sàng rút súng ra đi."

Anh vừa dứt lời thì một người đàn ông xuất hiện ở cửa phòng, trông ông ta rất béo mập và vạm vỡ, tay cầm một cây gậy to nặng. Cô Hunter rú lên và nép sát người vào bức tường khi vừa trông thấy ông ta, nhưng Sherlock Holmes đã nhảy ra, đối mặt. "Này, tên gian ác!" Anh kêu lên. "Con gái lão đâu rồi?"

Người đàn ông to béo đưa mắt nhìn quanh rồi ngước lên nhìn cánh cửa giếng trời đang mở tung.

"Chính ta mới có quyền hỏi các người câu đó", ông ta hét lên, "bọn ăn cắp! Quân gián điệp, đồ trộm cướp! Ta đã bắt được bọn bay, đúng không? Bọn bay đã nằm trong tay ta. Ta sẽ cho bọn bay biết mùi!" Ông ta quay lại và chạy hết tốc lực xuống cầu thang.

"Ông ta đi thả chó ra đấy!" Cô Hunter kêu lên.

"Tôi có súng đây", tôi nói.

"Đóng cửa trước lại thì tốt hơn", Holmes kêu to và tất cả chúng tôi cùng chạy xuống cầu thang. Khi chúng tôi vừa chạy đến tiền sảnh thì đã nghe tiếng chó sủa rồi tiếp đó là một tiếng kêu đau đớn rất đáng sợ làm cho ai nghe thấy cũng rợn người. Một ông già mặt đỏ gay và hai chân run lẩy bẩy sửng sốt bước ra từ một cánh cửa hông.

"Trời ơi!" Ông ta kêu lên. "Ai đó đã thả con chó ra. Nó chưa được ăn gì suốt hai ngày nay. Nhanh lên, mau, không thì trễ mất!"

Holmes và tôi chạy ào ra, vòng qua hông nhà với ông lão Toller gấp rút theo sau. Chúng tôi trông thấy con vật to xác bị bỏ đói đang vục cái mõm đen ngòm vào cổ họng ông Rucastle trong khi ông này quằn quại và la hét trên mặt đất. Tôi chạy lên và bắn vỡ sọ nó, con vật ngã lăn ra mà mấy chiếc răng nanh trắng ớn bén ngót hãy còn bập vào ngấn mỡ ở cổ ông ta. Phải khó khăn lắm chúng tôi mới tách được người và thú ra rồi đưa ông ta vào nhà trong tình trạng bị thương trầm trọng. Chúng tôi để ông ta nằm lên chiếc trường kỉ trong phòng khách và phái ông lão Toller lúc này đã tỉnh táo đi báo tin cho bà chủ, trong lúc đó tôi dốc hết sức mình để làm cho ông ta bớt đau đớn. Khi tất cả chúng tôi đang xúm xít quanh ông ta thì cánh cửa bật mở và một người phụ nữ cao gầy, vẻ mặt hốc hác bước vào phòng.

"Bà Toller!" Cô Hunter kêu lên.

"Phải, thưa cô. Ông Rucastle đã thả tôi ra khi ông ấy quay trở lại trước khi đi lên tìm các người. À, cô gái, thật tiếc là cô đã không cho tôi biết cô định làm gì, vì nếu biết thì tôi sẽ cho cô hay là các người đã phí công vô ích."

"Ha!" Holmes thốt lên và chăm chú nhìn bà ta. "Rõ ràng là bà Toller biết rõ câu chuyện này hơn bất cứ ai."

"Phải, thưa ông, tôi biết và sẵn sàng kể lại những gì mình nắm được."

"Thế thì, xin mời bà ngồi và hãy thuật lại cho chúng tôi nghe vì tôi phải thú nhận là hãy còn vài điểm mà tôi vẫn còn mù mờ."

"Tôi sẽ nói cho ông rõ ngay thôi", bà ta nói, "lẽ ra tôi đã thuật lại sớm hơn nếu có thể thoát ra khỏi hầm rượu. Nếu chuyện này bị đưa ra tòa án vi cảnh thì các ông hãy nhớ hộ là tôi đứng về phía các ông và tôi cũng là bạn của cô Alice. Cô Alice chẳng bao giờ được sung sướng trong căn nhà này kể từ khi cha cô ấy cưới vợ mới. Cô ấy bị coi thường và không được bày tỏ ý kiến về bất cứ chuyện gì, nhưng đến khi cô ấy gặp ông Fowler ở nhà một người bạn thì tình hình mới thực sự tệ hại. Theo như tôi được biết thì cô Alice có quyền sở hữu theo di chúc nhưng cô ấy quá cam chịu và nhẫn nại, vì thế cô ấy chẳng bao giờ nói gì về quyền lợi của mình mà để mặc cho ông Rucastle nắm hết trong tay. Ông ta biết rằng con gái mình sẽ để yên nhưng một khi cô ấy có chồng thì người này sẽ đòi lại tất cả những quyền lợi hợp pháp, vì thế ông ta nghĩ rằng đã đến lúc phải ngăn chặn chuyện đó. Ông ta muốn cô ấy kí tên vào một văn tự để cho dù cô ấy có lấy chồng hay không thì ông ta vẫn có thể sử dụng tiền của con gái mình. Khi cô ấy từ chối không chịu kí thì ông ta đày đọa cô ấy cho đến khi cô ấy bị bệnh viêm não đến mức thập tử nhất sinh suốt sáu tuần liền. Cuối cùng thì cô ấy cũng bình phục, gầy yếu như một cái bóng và phải cắt đi mái tóc đẹp đẽ; nhưng chuyện ấy không hề lay chuyển tình cảm của chàng trai trẻ và anh ta vẫn gắn bó với cô ấy bằng cả tấm lòng."

"À", Holmes kêu lên, "tôi nghĩ rằng những gì bà vừa tử tế kể cho chúng tôi nghe đã khiến cho vấn đề trở nên hết sức rõ ràng và tôi có thể suy ra phần còn lại. Tôi đoán là sau đó ông Rucastle nhốt cô ta vào căn phòng này, đúng không?"

"Vâng, thưa ông."

"Và đưa cô Hunter từ London xuống đây để tống khứ anh chàng Fowler dai dẳng đến khó chịu kia đi."

"Đúng thế, thưa ông."

"Nhưng anh Fowler vốn là người kiên trì, đúng như phẩm chất của một thủy thủ lão luyện, nên đã bám riết căn nhà và tìm cách gặp bà, rồi bằng những lí lẽ rắn rỏi hoặc mềm mỏng, anh ta đã thuyết phục được bà thấy rằng quyền lợi của bà cũng gắn liền với quyền lợi của anh ta."

"Ông Fowler là một quý ông ăn nói rất tử tế và hào phóng", bà Toller bình thản đáp.

"Và bằng cách đó, anh ta đã sắp xếp sao cho chồng bà say mèm và một cái thang được kê sẵn đúng lúc ông chủ đi vắng."

"Ông đã nắm được câu chuyện đúng như nó diễn ra, thưa ông."

"Chúng tôi còn nợ bà một lời xin lỗi, bà Toller," Holmes nói, "vì bà đã làm sáng tỏ mọi vấn đề vốn nan giải với chúng tôi. À bác sĩ và cả bà Rucastle đã đến rồi đây, thế thì Watson này, tốt nhất là ta nên hộ tống cô Hunter trở về Winchester thôi vì tôi đoán chắc chúng ta không cần trình diện trước tòa đâu."

Và thế là bí ẩn về ngôi nhà hung hiểm với rặng sồi trước cửa đã được làm sáng tỏ. Ông Rucastle được cứu mạng nhưng lâm vào tình trạng tàn phế đến hết đời, may nhờ sự chăm sóc của người vợ tận tụy nên mới sống được. Họ vẫn sống cùng với những gia nhân cũ, có lẽ vì những người này đã biết khá nhiều về quá khứ của ông Rucastle nên ông ta khó mà đuổi họ đi. Anh Fowler và cô Rucastle đã cưới nhau ở Southampton ngay sau ngày họ đến nơi bằng một giấy phép đặc biệt, giờ thì anh ta đã được bổ nhiệm một chức vụ tại đảo Mauritius. Còn về cô Violet Hunter, tôi khá là thất vọng vì anh bạn Holmes của mình chẳng buồn quan tâm đến cô khi cô không còn là trung tâm của một trong những vụ án của anh nữa, và hiện cô đang là hiệu trưởng một trường tư ở Walsall, tôi tin rằng cô sẽ gặt hái được nhiều thành công ở đó.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro