BỆNH NHÂN NỘI TRÚ(The Resident Patient, 1893)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Khi lướt qua loạt hồi ức có phần rời rạc mà qua đó tôi đã cố gắng minh họa một vài nét trí tuệ khác thường của anh bạn Sherlock Holmes, tôi thấy khó lòng chọn được những vụ án thỏa mãn mục đích của mình về mọi mặt. Vì trong một số vụ, tuy Holmes thể hiện xuất sắc kĩ năng suy luận, phân tích và chứng tỏ được giá trị những phương pháp điều tra khác thường của mình, song những tình tiết trong đó lại quá sơ sài hoặc chẳng có gì li kì khiến tôi cảm thấy không thỏa đáng khi trình bày cho công chúng. Còn trong những vụ việc khác, khi các sự kiện rất đáng chú ý và gây ấn tượng mạnh, thì vai trò phá án của anh lại không rõ ràng như tôi - người viết tiểu sử của anh mong muốn. Vụ án nho nhỏ được tôi ghi lại dưới tên gọi "Cuộc điều tra màu đỏ" và một vụ liên quan tới chuyện Con tàu Gloria Scott biến mất là những ví dụ minh họa cho tình trạng lưỡng nan mà người chép sử luôn có nguy cơ sa vào. Chẳng hạn, trong câu chuyện mà tôi sắp viết ra đây, có lẽ vai trò của bạn tôi không được nổi bật cho lắm, tuy nhiên chuỗi tình huống trong vụ này lại cực kì hấp dẫn khiến tôi không thể bỏ qua trong loạt ghi chép.

Tôi không còn nhớ chính xác ngày tháng vì những ghi chép về vụ này của tôi phần nào đã bị thất lạc, nhưng chắc là vào độ cuối năm đầu tôi và Holmes thuê chung nhà ở phố Baker. Đó là một ngày tháng 10 mưa gió, và cả hai chúng tôi giam mình trong phòng cả ngày, tôi thì do sợ sức khỏe chẳng chống nổi những cơn gió lạnh mùa thu, còn Holmes thì chìm đắm trong những nghiên cứu hóa học rắc rối mà anh luôn say sưa trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, cho đến chiều tối, khi cái ống nghiệm bị vỡ buộc anh phải kết thúc công việc sớm hơn dự định, anh bật dậy khỏi ghế và kêu lên chán nản, vầng trán sầm lại.

"Cả ngày công cốc, Watson ạ", anh nói và sải bước ra cửa sổ. "A! Sao mọc rồi còn gió đã lặng. Ta dạo một vòng London chứ?"

Tôi cũng đang chán vì cứ phải ngồi mãi trong căn phòng khách nhỏ hẹp nên vui vẻ đồng ý. Suốt ba giờ liền chúng tôi cùng nhau tản bộ đó đây ngắm nhìn cuộc sống muôn màu không ngừng biến đổi, lúc trầm lúc thăng trên con phố Fleet và phố Strand. Cách nói chuyện đặc trưng luôn chứa đầy các chi tiết và khả năng suy luận tinh tế của Holmes khiến tôi thích thú và bị cuốn vào. Đến 10 giờ thì chúng tôi quay lại phố Baker. Một cỗ xe ngựa đang đợi trước cửa nhà.

"Hừm! Xe của một thầy thuốc, một bác sĩ đa khoa, tôi nhận thấy thế," Holmes nói. "Cũng chưa hành nghề được bao lâu nhưng đã khá phát đạt. Ông ta đến để nhờ chúng ta tư vấn đây, tôi đoán thế! May là chúng ta về kịp!"

Tôi đã nắm khá rõ các phương pháp của Holmes để có thể theo được suy luận của anh và biết rằng chính chức năng và tình trạng của rất nhiều thú y cụ nằm trong cái giỏ liễu gai treo dưới ngọn đèn bên trong cỗ xe đã cung cấp cho anh những dữ kiện để đưa ra nhận xét mau lẹ ấy. Ánh sáng rọi xuống từ cửa sổ căn hộ của chúng tôi phía bên trên cho thấy quả là vị khách đến muộn này đang mong đợi chúng tôi. Trong lòng tò mò muốn biết vì lí do gì mà một đồng nghiệp lại đến gặp chúng tôi vào thời điểm đặc biệt thế này, tôi đi theo Holmes vào phòng làm việc.

Một người đàn ông mặt thuôn dài, hơi xanh xao, râu màu hung đỏ nhổm dậy khỏi chiếc ghế bên cạnh lò sưởi khi chúng tôi bước vào. Tuổi của anh ta chỉ độ ba mươi ba hay ba mươi tư nhưng vẻ hốc hác và sắc mặt yếu ớt cho thấy cuộc sống đã bào mòn sức khỏe và tước đi tuổi thanh xuân của anh ta. Cử chỉ của anh ta lo lắng và rụt rè như một người nhạy cảm và bàn tay thon nhỏ trắng mịn mà anh ta chống lên mặt lò sưởi khi đứng dậy giống bàn tay của một nghệ sĩ hơn là bác sĩ. Anh ta mặc một bộ y phục đơn giản và sẫm màu - một chiếc áo choàng dài màu đen, quần màu tối và chỉ có cà vạt là có chút màu sắc.

"Chào bác sĩ," Holmes vui vẻ nói. "Tôi rất mừng là ông chỉ phải đợi có vài phút."

"Hẳn là ông đã nói chuyện với người xà ích của tôi?"

"Không phải thế, chính cây nến trên bàn đã tiết lộ điều ấy. Mời ông ngồi xuống và cho biết tôi có thể làm được gì cho ông."

"Tôi là bác sĩ Percy Trevelyan", vị khách tự giới thiệu, "tôi sống ở số 403 phố Brook."

"Ông có phải là tác giả của một chuyên khảo về các tổn thương thần kinh không rõ rệt?" Tôi lên tiếng hỏi.

Hai gò má nhợt nhạt của anh ta hồng lên khi thấy công trình của mình được biết tới.

"Hiếm khi nghe nói đến công trình ấy nên tôi cứ nghĩ nó bị quên bẵng rồi", anh ta nói. "Nhà xuất bản cho tôi biết số lượng sách bán được vô cùng ít ỏi. Tôi đoán rằng ông cũng làm nghề y?"

"Bác sĩ ngoại khoa quân y đã phục viên."

"Thú vui cả đời tôi là nghiên cứu các bệnh thần kinh. Tôi mong nó thành chuyên ngành của mình, nhưng đương nhiên ta phải chấp nhận những gì trong tầm tay trước đã. Song, nói chuyện này thì lạc đề mất, thưa ông Holmes, mà tôi thì biết rằng thời gian đối với ông thật là quý báu. Sự tình là gần đây một chuỗi sự kiện rất lạ lùng đã xảy ra trong căn nhà tôi đang sống ở phố Brook và đến tối nay thì mọi chuyện lên đến đỉnh điểm khiến tôi cảm thấy mình không thể đợi thêm giờ phút nào nữa nếu chưa được ông tư vấn và giúp đỡ."

Sherlock Holmes ngồi xuống và châm tẩu thuốc, "ông cứ tự nhiên", anh nói. "Xin hãy kể thật chi tiết những việc đã làm ông lo lắng."

"Chuyện có phần nhỏ nhặt", bác sĩ Trevelyan nói, "thật tình thì tôi cảm thấy hơi xấu hổ khi đề cập đến chúng. Nhưng sự việc quả thật không sao giải thích được và gần đây nó đã chuyển biến rất phức tạp, tôi sẽ trình bày hết cho ông nghe để ông xét đoán xem đâu là quan trọng đâu thì không.

Đầu tiên, tôi phải kể đôi điều về thời sinh viên của mình. Tôi học ở trường Đại học London, ông biết đấy, chắc ông sẽ không nghĩ là tôi tán dương mình quá mức nếu tôi nói rằng trong thời gian học đại học các giáo sư vẫn đánh giá tôi là một sinh viên rất có triển vọng. Sau khi tốt nghiệp tôi tiếp tục chuyên tâm nghiên cứu, giữ một vị trí nhỏ ở Bệnh viện Đại học King và tôi đã may mắn gây được sự chú ý khi nghiên cứu bệnh lí về chứng bắt thế và cuối cùng cũng giành được giải thưởng và huy chương Bruce Pinkerton với chuyên khảo về những tổn thương thần kinh mà bạn ông vừa nhắc đến. Sẽ chẳng phải quá lời, khi tôi nói rằng nhìn chung vào thời điểm đó một sự nghiệp xuất chúng đang hiện ra phía trước.

Nhưng có một trở ngại lớn là tôi cần vốn. Chắc các ông cũng thừa hiểu rằng một bác sĩ chuyên khoa muốn vươn lên thì buộc phải bắt đầu từ một trong mười hai con phố ở khu quảng trường Cavendish, mà tiền thuê ở những chỗ này đều cao ngất ngưởng lại còn thêm chi phí trang thiết bị. Bên cạnh món kinh phí ban đầu này, anh ta còn phải chuẩn bị đủ tiền để duy trì trong vài năm và phải thuê một cỗ xe với một con ngựa coi được mắt nữa. Những việc đó lại nằm ngoài khả năng của tôi và tôi chỉ có thể hi vọng là bằng cách dè sẻn suốt mười năm tôi sẽ dành dụm đủ tiền để mở phòng mạch riêng. Thế nhưng, đột nhiên một việc tình cờ đã mở ra triển vọng mới cho tôi. Đó là một quý ông không quen biết mang tên Blessington đã đến gặp tôi. Ông ta đến phòng tôi vào một buổi sáng và đi ngay vào việc.

'Có phải ông là Percy Trevelyan với một sự nghiệp nổi bật và gần đây đã đoạt được một giải thưởng lớn?' Ông ta hỏi.

Tôi gật đầu.

'Hãy thẳng thắn trả lời tôi,' ông ta nói tiếp, 'vì điều đó có lợi cho ông. Ông có đủ tài năng để trở nên một người thành đạt, ông cư xử có khéo léo không?'

Tôi không thể nhịn cười trước sự đường đột của câu hỏi.

'Tôi tin rằng cũng phần nào', tôi đáp.

'Có thói xấu nào không? Không bị lôi kéo vào những cuộc rượu chè chứ?'

'Đúng thế, thưa ông!' Tôi kêu to.

'Rất tốt! Thế thì tốt! Nhưng tôi buộc phải hỏi thế. Với tất cả những phẩm chất đó vì sao ông vẫn chưa mở phòng khám để hành nghề?'

Tôi nhún vai.

'Ấy đấy!' ông ta nói gấp. 'Chuyện quá xưa. Chất xám có thừa nhưng bóp tiền thì rỗng, đúng không? Ông nghĩ sao nếu tôi giúp ông bắt đầu sự nghiệp ở phố Brook?'

Tôi ngạc nhiên nhìn chằm chằm ông ta.

'Ồ, đó là vì bản thân tôi chứ không phải vì ông', ông ta kêu lên. 'Tôi sẽ hoàn toàn thẳng thắn với ông và nếu chuyện làm ăn này hợp ý ông thì nó cũng rất hợp ý tôi. Tôi có vài ngàn bảng muốn đầu tư, ông thấy đấy, và tôi nghĩ rằng mình nên đặt chúng vào ông.'

'Nhưng tại sao?' Tôi hổn hển hỏi.

'Thì đó cũng là một khoản đầu tư mà lại còn an toàn hơn nhiều cách đầu tư khác.'

'Vậy tôi phải làm gì?'

'Để tôi nói ông nghe. Tôi sẽ mướn nhà, trang bị đồ đạc, thuê người hầu và điều hành mọi việc. Ông chỉ việc ngồi vào chiếc ghế ở phòng khám. Tôi sẽ cấp cho ông một khoản tiền tiêu vặt và tất cả những nhu cầu khác. Rồi ông nộp lại cho tôi ba phần tư số tiền ông kiếm được và giữ lại cho mình một phần tư.'

Đề nghị khác thường mà người đàn ông tên Blessington đã đặt ra với tôi là thế đấy, thưa ông Holmes. Tôi sẽ không dài dòng miêu tả về việc chúng tôi đã mặc cả và thương lượng với nhau như thế nào. Rốt cuộc tôi chuyển đến phòng khám mới vào ngày Lễ Truyền Tin và bắt đầu hành nghề với những điều kiện trang bị chính xác như lời đề nghị của ông ta. Bản thân ông ta cũng dọn đến sống cùng với tôi dưới danh nghĩa là một bệnh nhân nội trú. Có vẻ ông ta bị yếu tim và cần được bác sĩ theo dõi thường xuyên, ông ta cho sửa lại hai căn phòng đẹp nhất thành phòng khách và phòng ngủ cho bản thân. Ông ta là một người có những thói quen kì quặc, không giao du và hiếm khi ra khỏi nhà. Ông ta không sinh hoạt theo quy củ gì cả nhưng có một điều ông ta tuân thủ rất đều đặn. Mỗi tối cứ đúng giờ là ông ta lại đi vào phòng khám, xem xét sổ sách và cứ mỗi đồng guinea tôi kiếm được thì ông ta để lại năm shilling và ba xu rồi cất số còn lại cho vào một cái hòm chắc chắn trong phòng mình. Tôi có thể tự tin nói rằng ông ta sẽ chẳng bao giờ phải hối tiếc về khoản đầu tư của mình. Ngay từ đầu công việc đã thành công. Một vài trường hợp bệnh tiến triển thuận lợi cộng thêm danh tiếng của tôi trong bệnh viện đã khiến tôi nhanh chóng trở nên nổi tiếng và trong vòng vài năm gần đây tôi đã làm cho ông ta trở nên giàu có.

Thưa ông Holmes, nãy giờ tôi đã dài dòng về lí lịch của mình và mối quan hệ của tôi với ông Blessington. Giờ thì tôi chỉ cần kể nốt việc đã khiến cho tôi đến đây gặp ông đêm nay. Cách đây vài tuần, ông Blessington xuống gặp tôi và tôi thấy ông ta có vẻ rất bồn chồn, ông ta nói về một vụ trộm nào đó đã xảy ra ở khu West End và theo như tôi còn nhớ thì ông ta tỏ ra bấn loạn thái quá về việc đó, ông ta nói rằng nội trong ngày phải gắn then cài chắc chắn hơn vào các cửa sổ và cửa ra vào. Suốt tuần ông ta cứ ở trong tình trạng lo lắng kì lạ, cứ liên tục nhòm ra ngoài cửa sổ và ngưng hẳn những chuyến đi dạo ngắn vẫn thường diễn ra trước bữa tối. Thái độ của ông ta khiến tôi phải chú ý và nhận ra rằng ông ta đang khiếp đảm về một điều gì đó hoặc một người nào đó nhưng khi tôi hỏi thăm thì ông ta lại gắt gỏng nên tôi cũng đành thôi. Dần dần, thời gian trôi qua, nỗi sợ đó dường như đã tan biến và khi ông ta trở lại với những thói quen trước thì một sự kiện mới xảy ra lại khiến cho ông ta lâm vào tình trạng tiều tụy khốn khổ hiện giờ.

Chuyện xảy ra như thế này. Hai ngày trước tôi có nhận được một bức thư mà tôi sẽ đọc cho ông nghe ngay sau đây. Bức thư không ghi địa chỉ mà cũng không có ngày gửi. Nội dung thư như sau:

Một quý tộc Nga hiện đang sống ở Anh sẽ rất hân hạnh nếu được bác sĩ Percy Trevelyan nhận lời chăm sóc. Đã vài năm nay ông ta thường bị chứng bắt thế hành hạ mà bác sĩ Trevelyan là một chuyên gia nổi tiếng, ông ta muốn được khám bệnh vào lúc 6 giờ 15 phút chiều mai nếu bác sĩ có thể thu xếp để có mặt ở nhà vào thời gian đó.

Bức thư này khiến tôi rất quan tâm vì khó khăn chủ yếu trong việc nghiên cứu chứng bắt thế là bệnh này rất hiếm. Thế nên ông có thể tin rằng vào đúng giờ hẹn tôi đã có mặt tại phòng khám khi cậu bé giúp việc đưa vào một bệnh nhân. Ông ta đã già, gầy gò, khiêm cung và bình thường - chẳng hề giống chút nào với một quý tộc Nga như ta vẫn nghĩ. Tôi lại ngạc nhiên nhiều hơn khi thấy người đi cùng với ông ta. Đó là một chàng trai trẻ cao ráo, rất đẹp trai, mặt ngăm đen dữ tợn và có cơ bắp vạm vỡ như Hercules. Anh ta dìu ông già khi họ bước vào và đỡ ông ta ngồi xuống ghế một cách dịu dàng đến bất ngờ so với diện mạo như thế.

'Xin ông thứ lỗi cho sự xuất hiện của tôi, thưa bác sĩ,' anh ta nói với tôi bằng một thứ tiếng Anh có hơi đớt một chút. 'Đây là cha tôi và sức khỏe của ông là điều quan trọng hàng đầu đối với tôi.'

Tôi cảm động vì sự hiếu thảo của anh ta. 'Có thể là ông cũng muốn ngồi đây trong khi tôi khám bệnh cho ông cụ?' Tôi hỏi.

'Không được đâu', anh ta kêu to, kèm theo một cử chỉ tỏ vẻ sợ hãi. 'Tôi không thể nào tả hết nỗi đau đớn khi phải chứng kiến cha mình bị cơn bệnh khủng khiếp như thế hành hạ, chắc tôi không sống nổi. Thần kinh của tôi hết sức nhạy cảm. Nếu bác sĩ cho phép thì tôi sẽ ngồi ngoài phòng đợi trong khi ông khám cho cha tôi.'

Nghe anh ta nói thế tất nhiên là tôi đồng ý và chàng trai bước ra ngoài. Sau đó, bệnh nhân và tôi bắt đầu thảo luận về bệnh tình của ông ta và tôi ghi chép lại thật kĩ lưỡng. Ông ta không được minh mẫn cho lắm và những câu trả lời thường rất mơ hồ khó hiểu khiến tôi nghĩ rằng ông ta không đủ vốn từ tiếng Anh. Thế rồi trong khi tôi đang mải viết thì đột nhiên ông ta ngừng trả lời hẳn và khi quay lại phía ông ta thì tôi hốt hoảng khi thấy ông ta ngồi thẳng đơ trên ghế, hai mắt trợn trừng đờ đẫn hướng về phía tôi và khuôn mặt thì cứng đơ. Ông ta lại rơi vào tình trạng mất kiểm soát do căn bệnh kì quặc của mình.

Như tôi vừa mới kể, cảm giác đầu tiên của tôi là thương cảm và kinh hoàng. Ý nghĩ kế tiếp của tôi lại là sự thỏa mãn về nghề nghiệp, tôi e là thế. Tôi ghi lại mạch và thân nhiệt của bệnh nhân, kiểm tra tình trạng co cứng của cơ rồi khám phản xạ của ông ta. Không có gì quá bất thường và điều này phù hợp với những kinh nghiệm tôi đã thu thập được từ trước. Trong những trường hợp tương tự thì tôi đạt được kết quả tốt đẹp khi cho hít nitrite amyl và có vẻ như hiện giờ tôi đang có một cơ hội tuyệt vời để kiểm tra lại công hiệu của chất này. Chai thuốc nằm trong phòng pha chế ở tầng dưới, do đó tôi để bệnh nhân ngồi yên trong ghế và chạy xuống lầu để lấy thuốc. Tôi mất chút thời gian để tìm nó, khoảng năm phút và quay lên. Ông hãy hình dung xem tôi ngạc nhiên đến mức nào khi thấy căn phòng trống trơn và người bệnh đã đi mất. Tất nhiên, hành động đầu tiên của tôi là chạy vào phòng đợi. Người con trai cũng không còn ở đó. Cánh cửa hành lang đã khép lại nhưng vẫn chưa đóng kín. Cậu giúp việc đưa bệnh nhân vào là một thiếu niên mới được nhận vào làm và chẳng lấy gì làm nhanh nhẹn. Nhiệm vụ của cậu ta là đợi ở tầng dưới và khi nghe tôi rung chuông trong phòng khám thì chạy lên để đưa bệnh nhân ra. Cậu ta chẳng nghe thấy gì và sự việc vẫn hoàn toàn bí ẩn. Một lát sau thì ông Blessington về sau cuộc đi dạo nhưng tôi không hề kể lại sự tình cho ông ta nghe, vì nói thật với ông, dạo gần đây tôi đã gắng hạn chế nói chuyện với ông ta càng ít càng tốt.

Thế đấy, tôi cứ ngỡ rằng mình sẽ chẳng bao giờ gặp lại bệnh nhân người Nga đó cùng với con trai của ông ta, vì thế ông có thể hiểu được là tôi ngạc nhiên biết chừng nào khi cũng vào giờ đó tối hôm nay, cả hai cùng bước vào phòng khám như lần trước.

'Tôi thấy rằng mình còn nợ một lời xin lỗi vì tối qua đã bỏ đi vội vã, thưa bác sĩ,' bệnh nhân của tôi lên tiếng.

'Tôi công nhận là đã rất ngạc nhiên về chuyện đó', tôi đáp.

'Vâng, sự tình là như thế này,' ông ta nói, 'khi tỉnh lại khỏi cơn bệnh thì đầu óc tôi lúc nào cũng mờ mịt chẳng còn nhớ chuyện gì đã xảy ra trước đó. Trong lúc bác sĩ vắng mặt thì tôi tỉnh dậy và thấy mình đang ở trong một căn phòng lạ, thế là tôi tìm đường đi xuống phố khi hãy còn chưa tỉnh táo.'

'Còn về phần tôi', người con trai nói, 'khi nhìn thấy cha tôi bước vào qua cánh cửa phòng đợi, đương nhiên tôi nghĩ rằng ông đã được khám xong. Chỉ đến khi về đến nhà tôi mới nhận ra tình huống là như thế nào.'

'Thôi được', tôi vừa nói vừa cười, 'chuyện cũng không có gì nghiêm trọng trừ việc hai người làm tôi bối rối kinh khủng, bây giờ anh ra phòng đợi còn tôi thì sẽ vui lòng tiếp tục cuộc chẩn đoán đã bất ngờ bị kết thúc hôm qua.'

Tôi bàn luận với ông lão về các triệu chứng bệnh của ông ta trong khoảng nửa tiếng, rồi sau khi đã ghi đơn thuốc xong, tôi nhìn ông ta vịn tay con trai mình bước ra.

Tôi đã kể ông nghe rằng ông Blessington vẫn thường chọn giờ đó để đi dạo. Sau khi cha con bệnh nhân nọ vừa mới đi được một lúc thì ông ta bước vào và đi lên cầu thang. Gần như liền ngay sau đó tôi đã nghe tiếng chân ông ta chạy xuống và xông vào phòng khám bệnh của tôi như một người đang điên lên vì sợ hãi.

'Ai đã vào phòng tôi?' Ông ta gào lên.

'Không ai cả,' tôi đáp.

'Nói láo!' Ông ta hét lên. 'Lên mà xem!'

Tôi không để tâm đến lời lẽ thô lỗ của ông ta vì có vẻ như hồn vía ông ta đã bay mất phân nửa vì sợ hãi. Khi tôi cùng bước lên lầu, ông ta chỉ cho tôi thấy mấy dấu chân in trên tấm thảm sáng màu.

'Ông không định nói rằng đây là dấu chân của tôi đấy chứ?' Ông ta kêu ầm lên.

Rõ ràng là những dấu chân này lớn hơn chân của ông ta và quả thật là chúng chỉ vừa mới xuất hiện. Hẳn là ông còn nhớ rằng chiều nay trời đổ mưa to và chỉ có các bệnh nhân của tôi đến nhà. Vậy thì chắc chắn rằng vì một lí do nào đó chưa rõ mà người đàn ông ngồi trong phòng đợi, trong khi tôi đang bận rộn vời người kia, đã lên phòng của người bệnh nội trú của tôi. Không có vật gì bị hắn chạm đến hay lấy đi nhưng những dấu chân còn hiển hiện đó chứng tỏ rằng việc đột nhập là một thực tế không thể chối cãi. Có vẻ như vấn đề này làm cho ông Blessington lo lắng nhiều hơn mức tôi nghĩ dù rằng tất nhiên một sự kiện như thế khiến cho bất cứ ai cũng cảm thấy bất an. Thậm chí ông ta còn ngồi than khóc trên ghế và tôi không thể khiến ông ta nói rõ ràng mọi chuyện. Chính ông ta đề nghị tôi nên đến gặp ông và tất nhiên tôi cũng thấy điều ấy là hợp lí vì sự việc đó rõ ràng là rất kì lạ cho dù có vẻ như ông ta đã quá quan trọng hóa nó lên. Nếu ông vui lòng đi xe cùng tôi đến đó thì ít nhất ông cũng có thể làm cho ông ta bớt lo lắng dù tôi không hi vọng gì mấy là ông có thể giải thích được sự kiện khác thường này."

Sherlock Holmes chăm chú lắng nghe câu chuyện dài dòng này, chứng tỏ anh hết sức quan tâm. Mặt anh vẫn bình thản nhưng mí mắt sụp xuống và làn khói cuộn lên từ cái tẩu thì dày đặc hơn mỗi khi nghe thấy tình tiết quan trọng trong câu chuyện của bác sĩ. Khi vị khách của chúng tôi đã kể xong, Holmes đứng bật dậy mà không nói tiếng nào, đưa cho tôi cái mũ và nhặt lấy mũ của mình từ mặt bàn rồi đi theo bác sĩ Trevelyan ra cửa. Chỉ trong vòng mười lăm phút chúng tôi đã được thả xuống trước cửa nhà của vị bác sĩ ở phố Brook, một trong những căn nhà đơn điệu, mang màu sắc ảm đạm đặc trưng của các phòng mạch khu West End. Một cậu nhóc giúp việc ra đón vào và ngay lập tức chúng tôi đi lên cầu thang rộng trải thảm rất dày. Nhưng một việc đột ngột xảy ra khiến chúng tôi phải đứng sững lại. Ánh đèn ở phía trên đầu cầu thang thình lình tắt phụt và từ trong bóng tối vọng ra một giọng nói run rẩy.

"Ta có súng đấy", giọng nói đó hét lên. "Ta thề là sẽ nổ súng ngay nếu các người bước thêm nữa."

"Thật sự là ông hơi quá rồi đấy, ông Blessington", bác sĩ Trevelyan kêu to.

"Ồ, hóa ra là ông à, bác sĩ," giọng nói kia đáp lại với tiếng thở ra nhẹ nhõm. "Nhưng còn những người kia, có chắc là ông biết rõ về họ không?"

Chúng tôi cảm thấy mình bị dò xét khá lâu từ trong bóng tối.

"Được rồi, mọi chuyện đều ổn", cuối cùng thì giọng nói đó lại cất lên. "Các ông có thể đi lên và tôi xin lỗi nếu như sự đề phòng của tôi có làm các ông khó chịu."

Trong khi nói ông ta thắp lại ngọn đèn khí đốt và chúng tôi nhìn thấy trước mặt mình là một người đàn ông trông kì lạ mà vẻ ngoài cũng như giọng nói đều tỏ ra bất an. Ông ta rất mập nhưng rõ ràng từng có lúc mập hơn vì lớp da mặt đã thõng xuống như chiếc túi dài, giống mặt một con chó săn mặt xệ. Nước da của ông ta trông như của người bị bệnh và mái tóc thưa thớt màu đỏ hung trông như cũng dựng đứng theo cảm xúc căng thẳng của chủ nhân, ông ta cầm trong tay một khẩu súng lục nhưng đã nhét nó vào túi khi chúng tôi bước lên.

"Xin chào ông Holmes", ông ta nói "Tôi rất biết ơn vì ông đã cất công đến đây. Thật là chẳng có ai cần đến những lời khuyên của ông bằng tôi. Tôi đoán rằng bác sĩ Trevelyan đã kể cho ông nghe về vụ đột nhập không thể chấp nhận được vừa xảy ra."

"Đúng thế", Holmes đáp. "Hai kẻ đó là ai vậy, ông Blessington, và vì sao họ lại muốn hại ông?"

"À, à", ông bệnh nhân nội trú trả lời với vẻ lo lắng, "tất nhiên khó mà nói gì. Ông khó có thể hi vọng tôi nói được gì, ông Holmes ạ."

"Có phải ông muốn nói là ông không hề quen biết họ?"

"Xin mời ông vào đây. Vui lòng vào trong này?"

Ông ta dẫn chúng tôi vào phòng ngủ của mình, đó là một căn phòng rộng đầy đủ đồ đạc, và rất tiện nghi. "Ông xem đấy", ông ta vừa nói vừa chỉ vào một cái hòm to màu đen nằm ở phía cuối giường. "Tôi chẳng giàu có gì lắm, thưa ông Holmes và cả đời chỉ đầu tư vào mỗi một việc mà bác sĩ Trevelyan đã kể ông nghe rồi. Nhưng tôi không tin bọn chủ nhà băng, chẳng tin một tay nào cả, ông Holmes ạ. Giữa chúng ta với nhau, tôi nói thật là chỉ có chút ít vốn liếng nằm cả trong cái hòm này, vì thế ông có thể hiểu được tôi lo thế nào khi có kẻ lạ xông vào nhà."

Holmes nhìn ông Blessington với vẻ nghi hoặc và lắc đầu. "Tôi không thể tư vấn được cho ông nếu ông cứ tìm cách che giấu", anh nói.

"Nhưng tôi đã nói hết với ông."

Holmes quay gót bước đi với vẻ bất bình. "Chúc ông ngon giấc, bác sĩ Trevelyan", anh nói.

"Vậy ông không giúp gì cho tôi sao?" Ông Blessington kêu lên bằng giọng nói đứt quãng.

"Lời khuyên của tôi dành cho ông là hãy nói ra sự thật, thưa ông."

Một phút sau chúng tôi đã xuống phố và đi về nhà. Chúng tôi băng qua phố Oxford và đến khi đã xuôi quá nửa phố Harley tôi mới nghe bạn mình mở lời.

"Xin lỗi vì đã đưa anh vào một vụ việc ngớ ngẩn thế này, Watson ạ", cuối cùng anh cũng lên tiếng. "Dù sao thì ẩn đằng sau nó cũng là một vụ thú vị."

"Tôi chẳng hiểu gì cả", tôi thú nhận.

"Thế này, rõ ràng là có hai tên - có thể là nhiều hơn, nhưng ít nhất thì cũng phải là hai - vì một lí do nào đó mà chúng nhất quyết tìm đến ông Blessington. Tôi tin chắc rằng trong cả hai lần thì chính tên còn trẻ đã đột nhập vào phòng của Blessington trong khi đồng bọn của hắn, bằng thủ đoạn khéo léo, giữ chân ông bác sĩ."

"Vậy còn chứng bắt thế?"

"Chỉ là giả bộ thôi, Watson ạ, dù tôi khó mà nói như thế với vị chuyên gia của chúng ta. Nhưng đó là một chứng bệnh rất dễ bắt chước. Bản thân tôi cũng đã từng làm rồi."

"Thế rồi sao?"

"Ngẫu nhiên mà trong cả hai lần Blessington đều không có nhà. Lí do mà bọn chúng chọn thời điểm bất thường ấy đến khám bệnh rõ ràng là để đảm bảo không có bệnh nhân nào khác trong phòng đợi. Ngẫu nhiên thế nào nó lại trùng với giờ đi dạo của Blessington, điều cho thấy bọn chúng không nắm rõ lắm những thói quen hằng ngày của ông ta. Tất nhiên nếu chỉ nhằm đánh cắp vật gì đó thì ít nhất chúng đã đảo lộn căn phòng để tìm kiếm. Ngoài ra, tôi có thể đọc được trong mắt Blessington rằng ông ta lo sợ cho tính mạng của mình. Làm sao mà tin nổi một người đã gây oán cừu với hai kẻ thù hằn như thế lại không biết gì về điều đó. Vì vậy, tôi tin chắc rằng ông ta biết rõ những tên này, và vì những lí do riêng mà ông ta giấu biệt đi. Có thể là đến mai ông ta sẽ chịu nói nhiều hơn."

"Liệu còn có khả năng nào khác", tôi gợi ý, "cho dù rất khó xảy ra, đương nhiên, nhưng vẫn có thể hình dung được? Biết đâu toàn bộ câu chuyện về bệnh nhân người Nga bị chứng bắt thế và con trai ông ta chỉ là một câu chuyện bịa đặt do bác sĩ Trevelyan dựng lên, vì lí do nào đó, để đột nhập vào phòng của Blessington?"

Trong ánh sáng ngọn đèn tôi nhìn thấy một nụ cười thích thú nở trên mặt Holmes trước gợi ý thông minh của tôi.

"Bạn thân mến", anh nói, "đó cũng là một trong những lời giải mà ban đầu tôi có nghĩ đến, nhưng ngay sau đó tôi có thể xác thực câu chuyện của bác sĩ. Tên còn trẻ đã để lại dấu giày trên tấm thảm ở cầu thang rất rõ ràng khiến tôi chẳng cần phải yêu cầu được xem những dấu chân của hắn ở trong phòng. Nếu tôi nói cho anh nghe rằng giày của hắn có mũi vuông chứ không nhọn như mũi giày của ông Blessington và dài hơn giày của bác sĩ đến khoảng một inch thì anh sẽ nhận ra ngay dấu vết đó là của hắn mà chẳng nghi ngờ gì. Nhưng giờ thì ta hãy đi ngủ vì tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu đến sáng mai mà ta vẫn chưa nghe thấy tin tức gì mới mẻ hơn từ phố Brook."

***

Lời tiên đoán của Sherlock Holmes đã nhanh chóng trở thành sự thực một cách bi thảm. Lúc 7 giờ 30 sáng hôm sau, trong những tia sáng lờ mờ của một ngày mới, tôi đã thấy anh mặc áo choàng ngủ đứng bên cạnh giường tôi.

"Có một cỗ xe đang đợi chúng ta đấy, Watson", anh bảo.

"Có chuyện gì vậy?"

"Về việc ở phố Brook."

"Có tin gì mới chăng?"

"Bi đát nhưng chưa rõ ràng cho lắm", anh đáp và kéo tấm rèm cửa lên. "Xem này, đây là một mảnh giấy được xé từ một quyển sổ có hàng chữ được viết nguệch ngoạc bằng bút chì: Vì Chúa, xin hãy đến ngay - P.T. Khi viết những chữ này thì anh bạn bác sĩ của chúng ta đang ở vào hoàn cảnh khó khăn đây. Đi nào, bạn thân mến, vì đây là một lời kêu gọi khẩn thiết."

Trong khoảng mười lăm phút chúng tôi đã trở lại nhà của bác sĩ. Anh ta chạy ra đón chúng tôi với vẻ mặt kinh hoàng.

"Ôi, sự việc thật đáng sợ!" Anh ta kêu lên, tay ôm lấy đầu.

"Có chuyện gì vậy?"

"Blessington đã tự tử!"

Holmes huýt gió một tiếng.

"Vâng, ông ta đã treo cổ đêm qua."

Chúng tôi bước vào nhà và người thầy thuốc đi trước dẫn chúng tôi vào một căn phòng, chắc chính là phòng đợi của anh ta.

"Tôi cũng không biết là mình đang làm gì", anh ta kêu to. "Cảnh sát đang ở trên lầu. Cảnh tượng ấy làm tôi kinh hoàng cực độ."

"Ông phát hiện ra chuyện đó vào lúc nào?"

"Thường thì sáng sớm nào ông ta cũng yêu cầu đem một tách trà vào phòng. Khi cô hầu bước vào, lúc khoảng 7 giờ, thì con người bất hạnh đó đã treo mình ở giữa phòng. Ông ta đã cột sợi dây vào cái móc vẫn thường dùng để treo ngọn đèn nặng trịch, rồi đứng lên cái hòm hôm qua đã chỉ cho chúng ta mà nhảy xuống."

Holmes đứng lặng một lúc và suy nghĩ kĩ càng. "Nếu ông cho phép", sau đó anh lên tiếng, "tôi muốn lên lầu và xem xét hiện trường."

Cả hai chúng tôi cùng đi lên, và bác sĩ theo sau. Khi bước qua cánh cửa phòng ngủ, một cảnh tượng đáng sợ đập vào mắt chúng tôi. Tôi đã nói về lớp da thịt bèo nhèo của Blessington. Nhưng khi bị treo lủng lẳng trên cái móc thì ấn tượng đó còn rõ nét và mạnh mẽ hơn đến nỗi trông ông ta chẳng còn chút nào hình dáng con người. Cái cổ bị kéo dài ra giống như một cái cổ gà bị nhổ sạch lông khiến cho phần còn lại của ông ta trông lại càng phì ra và quái dị hơn. Ông ta chỉ mặc trên người có một chiếc áo ngủ dài để lộ hai mắt cá chân sưng vù và hai bàn chân xấu xí thò ra bên dưới. Đứng bên là một viên thanh tra cảnh sát dáng vẻ sắc sảo đang ghi chép vào một cuốn sổ.

"A, ông Holmes", anh ta reo lên khi nhìn thấy bạn tôi bước vào, "tôi rất mừng khi gặp ông."

"Xin chào, Lanner", Holmes đáp lại, "tôi thấy ông không xem tôi là kẻ làm phiền, ông có biết diễn biến những việc xảy ra trước vụ này không?"

"Có, tôi đã nghe."

"Thế quan điểm của ông thế nào?"

"Theo như những gì tôi có thể thấy thì người đàn ông này vì quá sợ hãi mà quẫn trí. Ông xem đây, cái giường này đã có người nằm ngủ. Dấu vết thân thể ông ta hằn lên nệm hãy còn khá rõ. Lúc đó là khoảng 5 giờ sáng, ông biết đấy, những vụ tự sát rất thường xảy ra vào giờ này. Đó cũng là thời điểm ông ta tự treo cổ. Dường như đây là việc làm chủ tâm."

"Xét theo các cơ đã cứng thì tôi lại cho rằng ông ta đã chết vào lúc 3 giờ", tôi nói.

"Ông có thấy điều gì bất thường trong phòng không?" Holmes hỏi.

"Tôi tìm thấy một cái tua vít và vài con ốc vít nằm trên cái giá để chậu rửa tay. Và có vẻ như ông ta đã hút thuốc liên tục trong đêm. Đây là bốn đầu mẩu xì gà mà tôi đã nhặt được ở chỗ lò sưởi."

"Hừm!" Holmes hỏi, "ông có tìm thấy cái đót hút xì gà của ông ấy không?"

"Không, tôi chẳng thấy nó đâu cả."

"Thế còn hộp đựng xì gà?"

"Có, nó nằm trong túi áo choàng của ông ta."

Holmes mở hộp ra và ngửi điếu xì gà duy nhất nằm trong hộp.

"Ồ, đây là xì gà Havana còn những mẩu xì gà kia thì lại là một loại đặc biệt do người Hà Lan nhập từ các thuộc địa Đông Ấn của họ. Chúng thường được bọc rơm, ông biết đấy và ngắn hơn các loại xì gà khác". Anh nhặt bốn mẩu xì gà lên và xem xét chúng bằng chiếc kính lúp bỏ túi. "Hai trong số bốn mẩu xì gà này được hút bằng cùng một đót còn hai mẩu kia thì hút trực tiếp", anh nhận xét. "Có hai mẩu được cắt bằng một con dao không được sắc cho lắm còn hai mẩu kia thì được cắn rời bằng một hàm răng rất sắc bén. Đây không phải là một vụ tự sát, ông Lanner ạ. Nó là một vụ giết người máu lạnh và được trù bị rất kĩ càng."

"Không thể nào!" Viên thanh tra kêu lên.

"Tại sao không?"

"Sao lại có kẻ giết người bằng cách rất vụng về là treo cổ ông ta lên?"

"Đó là điều mà chúng ta cần phải xác định."

"Bọn chúng đột nhập vào bằng cách nào?"

"Qua lối cửa trước."

"Sáng nay thì cửa hãy còn gài then."

"Thế thì nó đã được cài lại sau đó."

"Làm sao ông biết được?"

"Tôi đã nhìn thấy những dấu vết của chúng. Xin thứ lỗi một lúc và tôi sẽ cho ông thêm thông tin về điều này."

Anh đi về phía cánh cửa và xoay ổ khóa kiểm tra cẩn thận bằng phương pháp rất riêng. Sau đó anh rút chìa khóa đang cắm trong ổ và cũng quan sát nó. Cái giường, tấm thảm, mấy chiếc ghế, mặt lò sưởi, tử thi và sợi dây cũng lần lượt được anh xem xét cho đến khi cảm thấy hài lòng, và với sự giúp đỡ của tôi, viên thanh tra cắt rời sợi dây treo thi thể nạn nhân xuống và cẩn trọng phủ một tấm khăn trải giường lên xác chết. "Thế còn sợi dây này?" Anh hỏi.

"Nó được cắt ra từ đây", bác sĩ Trevelyan trả lời và kéo ra từ bên dưới giường một cuộn dây to. "Ông ta bị ám ảnh về hỏa hoạn và lúc nào cũng giữ cuộn dây này ở bên cạnh để có thể thoát ra bằng lối cửa sổ nếu cầu thang bị cháy."

"Hẳn là nó đã giúp cho bọn chúng đỡ vất vả", Holmes trầm ngâm nói. "Phải, các sự việc thật sự rất rõ ràng và tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu đến trưa nay mà vẫn chưa thể cho ông biết lí do của những chuyện này. Tôi sẽ cầm tấm hình của Blessington đang ở trên lò sưởi kia vì có thể là nó sẽ giúp được tôi trong việc điều tra."

"Nhưng ông vẫn chưa cho chúng tôi biết gì cả!" Bác sĩ kêu lên.

"Ồ, chẳng còn nghi ngờ gì nữa về chuỗi sự kiện này", Holmes nói. "Có ba tên trong vụ này: Tên trẻ, tên già và kẻ thứ ba mà tôi vẫn chưa có manh mối nào về nhân dạng của hắn. Về hai tên đầu thì tôi không cần phải nói đó chính là những kẻ đã giả dạng làm nhà quý tộc Nga và con trai hắn, vì thế ta có thể dễ dàng mô tả chúng đầy đủ. Chúng đã được đưa vào bởi một đồng bọn ở ngay trong nhà. Này ông thanh tra, nếu tôi có thể đưa ra cho ông một lời khuyên thì ông nên bắt ngay cậu giúp việc, đó là kẻ mà theo tôi biết thì chỉ vừa mới vào làm việc cho ông gần đây thôi, phải không bác sĩ."

"Tên quỷ sứ đó mất tăm rồi", bác sĩ Trevelyan trả lời, "cô hầu và người làm bếp vừa đi tìm nó."

Holmes nhún vai. "Hắn giữ một vai trò không quan trọng cho lắm trong tấn thảm kịch này", anh nói. "Ba tên đã rón rén lên cầu thang, tên già nhất đi trước, gã thanh niên đi kế tiếp và tên chưa xác định được thì theo sau cùng."

"Ôi trời, Holmes!" Tôi thốt lên.

"Ồ, về chuyện các dấu chân chồng lên nhau thì không còn phải nghi ngờ. Tôi có lợi thế là đã biết được một số thứ từ tối qua. Sau đó chúng đi lên phòng của Blessington, chúng thấy cửa phòng đã bị khóa. Tuy nhiên, chúng đã mở khóa bằng một sợi thép. Thậm chí chẳng cần đến kính lúp các ông cũng nhìn thấy được điều đó dựa vào những vết xước ở phần này là nơi bị ấn vào. Khi đã vào phòng thì việc đầu tiên chúng làm chắc chắn là phải bịt miệng Blessington lại. Có thể là ông ta đang ngủ hoặc là đã đờ người ra vì sợ nên không thể kêu cứu. Vả lại những bức tường này rất dày nên có thể hiểu được là nếu ông ta có kịp tri hô đi nữa thì cũng chẳng ai nghe thấy.

Tôi thấy rõ ràng là sau khi đã trói chặt ông ta, chúng họp bàn với nhau. Cũng có thể đây là một dạng phiên tòa xét xử. Nó hẳn phải kéo dài mất một lúc vì những điếu xì gà này đã được hút trong thời gian đó. Tên già ngồi ở cái ghế liễu gai kia, nơi hắn hút xì gà bằng đót. Gã thanh niên ngồi ở phía đằng kia, nơi hắn dụi tàn vào chiếc tủ con. Tên thứ ba thì đi tới đi lui. Còn Blessington thì tôi nghĩ rằng đã ngồi trên giường nhưng cũng không chắc cho lắm về chi tiết này. Thế rồi, sự việc kết thúc khi chúng đem Blessington ra và treo lên. Việc này đã được chuẩn bị từ trước rất kĩ vì tôi tin rằng chúng đã đem theo mấy thanh gỗ hay giá ròng rọc gì đó để làm giá treo cổ. Theo như tôi hiểu thì cái tua vít và những con ốc vít kia là để cố định cái giá đó lên. Thế nhưng khi nhìn thấy cái móc đương nhiên là chúng không cần phải nhọc công nữa. Sau khi đã xong việc thì chúng chuồn đi và tên đồng bọn đã gài cửa lại."

Tất cả chúng tôi cùng hết sức chăm chú lắng nghe bản tóm tắt những việc xảy ra trong đêm mà Holmes đã suy ra từ những dấu vết bé nhỏ và mơ hồ đến nỗi thậm chí khi anh đã nói ra, chúng tôi vẫn chẳng theo được suy luận của anh. Vừa nghe xong thì viên thanh tra hối hả chạy đi để tiến hành điều tra về kẻ đóng vai người giúp việc, trong khi Holmes và tôi trở về phố Baker để dùng bữa điểm tâm.

"Tôi sẽ trở về lúc 3 giờ chiều", anh nói khi chúng tôi đã ăn xong. "Cả viên thanh tra và bác sĩ cũng gặp tôi ở đây vào giờ đó và hi vọng là đến khi đó thì tôi cũng đã làm sáng tỏ được trọn vẹn vấn đề."

Các vị khách đều đến đúng hẹn nhưng mãi đến 4 giờ kém 15 phút thì bạn tôi mới xuất hiện. Tuy vậy, nhìn vẻ mặt của anh lúc bước vào, tôi có thể biết ngay là mọi chuyện đều tiến triển tốt đẹp.

"Có tin gì mới không, ông thanh tra?"

"Chúng tôi đã bắt được thằng giúp việc, thưa ông."

"Xuất sắc, còn tôi thì đã tóm được hai gã kia."

"Bắt được chúng rồi à!" Cả ba chúng tôi cùng reo lên.

"Ít ra thì cũng xác định được danh tính của chúng. Đúng như tôi dự đoán, kẻ tự xưng là Blessington và những tên sát hại hắn đều nổi tiếng tại các sở cảnh sát. Tên của những gã đó là Biddle, Hayward và Moffat."

"Băng cướp Nhà băng Worthingdon", viên thanh tra kêu lên.

"Đúng thế," Holmes đáp.

"Vậy thì Blessington chắc chắn phải là Sutton."

"Chính xác", Holmes nói.

"Trời, chuyện đã rõ như ban ngày", viên thanh tra nói.

Nhưng Trevelyan và tôi bối rối nhìn nhau.

"Chắc chắn là các ông còn nhớ vụ tấn công nổi tiếng vào Nhà băng Worthingdon", Holmes giải thích. "Có năm kẻ tham gia vào vụ đó - bốn tên này và một gã thứ năm tên là Cartwright. Tobin, người bảo vệ bị chúng sát hại và bọn cướp thoát đi với bảy ngàn bảng. Chuyện xảy ra vào năm 1875. Cả năm tên đều bị bắt nhưng không đủ bằng chứng để kết tội. Gã Blessington hay Sutton này, kẻ xấu xa nhất trong đám, quay lưng với đồng bọn và làm chỉ điểm cho cảnh sát. Dựa vào lời khai của hắn mà Cartwright bị treo cổ và ba tên kia đều lĩnh án mười lăm năm. Chúng được ra tù trước hạn vài năm và quyết định, như các ông thấy, săn lùng kẻ phản bội để rửa hận cho cái chết của đồng bọn. Đã hai lần chúng cố tiếp cận hắn nhưng đều thất bại; và đến lần thứ ba thì đã thực hiện được, như các ông thấy. Có còn điều gì cần phải giải thích thêm không, bác sĩ Trevelyan?"

"Tôi nghĩ rằng ông đã làm cho mọi việc trở nên cực kì rõ ràng", viên bác sĩ trả lời. "Không còn nghi ngờ gì nữa, hôm mà hắn ta lo lắng sợ hãi chính là ngày đã đọc thấy tin đồng bọn được phóng thích đăng trên báo."

"Đúng thế. Câu chuyện hắn kể về một vụ trộm chỉ là cái cớ."

"Nhưng tại sao hắn lại không thể kể cho ông nghe mọi chuyện?"

"Chuyện là thế này, thưa ông, vì biết đồng bọn cũ sẽ trả thù, hắn cố gắng che giấu lí lịch của mình với tất cả mọi người càng lâu càng tốt. Bí mật của hắn cũng đáng xấu hổ và hắn không thể tự nói ra. Thế nhưng, cho dù có xấu xa đến mấy thì hắn vẫn sống dưới sự bảo vệ của pháp luật Anh quốc và thưa ông thanh tra, tôi tin chắc ông cũng thấy rằng: Cho dù tấm khiên đã không bảo vệ được mạng sống cho hắn nhưng lưỡi gươm công lí vẫn còn đó để trả thù."

Đó là câu chuyện lạ lùng liên quan đến bệnh nhân nội trú và vị bác sĩ ở phố Brook. Kể từ đêm đó cảnh sát không tìm thấy tung tích ba tên sát nhân đâu cả và Sở Cảnh sát London đã đoán rằng bọn chúng nằm trong số những hành khách của con tàu hơi nước xấu số Norah Creina đã bị chìm cách đây vài năm cùng toàn bộ thủy thủ đoàn ở ven bờ biển Bồ Đào Nha cách cảng Oporto vài hải lí về phía bắc. Vụ xử tên người hầu không thành vì thiếu chứng cớ và vụ Bí ẩn phố Brook, như được mệnh danh, cho đến nay vẫn chưa bao giờ được đăng tải đầy đủ trên bất cứ tờ báo nào.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro