NGƯỜI THÔNG DỊCH TIẾNG HI LẠP(The Greek Interpreter, 1893)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trong suốt thời gian dài quen thân với Sherlock Holmes tôi chưa bao giờ nghe anh đề cập đến anh em họ hàng và gần như không chút nào về thời niên thiếu. Sự kín tiếng này khiến tôi càng có cảm giác anh có phần nào đó vô cảm, đến nỗi đôi khi tôi xem anh như một hiện tượng biệt lập, chỉ có khối óc mà không có con tim, thông minh xuất chúng bao nhiêu thì lại thiếu vắng tình người bấy nhiêu. Mối ác cảm đối với phụ nữ và không ưa kết giao bạn bè là những nét điển hình cho bản tính lãnh đạm của anh nhưng việc anh luôn gạt đi mọi lời đề cập đến người thân của mình cũng không kém phần rõ rệt. Tôi cứ ngỡ anh là trẻ mồ côi không người thân thích, nhưng một ngày kia, trước sự ngạc nhiên tột độ của tôi, anh bắt đầu đề cập đến anh trai mình.

Lúc đó là một buổi chiều hè sau giờ uống trà, khi cuộc chuyện trò đã bắt đầu lan man, rời rạc, hết nhảy từ các câu lạc bộ golf đến những nguyên nhân thay đổi độ nghiêng của đường hoàng đạo rồi cuối cùng xoay quanh câu hỏi về sự lại tổ và những năng khiếu di truyền. Vấn đề đang bàn luận là năng khiếu đặc biệt ở một người có bao nhiêu phần là do thừa hưởng từ tổ tiên và bao nhiêu là do rèn luyện từ nhỏ.

"Trong trường hợp của bản thân anh", tôi nói, "từ tất cả những gì anh đã kể cho tôi nghe thì dường như tài quan sát và khả năng suy luận của anh rõ ràng là do sự rèn luyện bài bản."

"Anh nói đúng trong một chừng mực nào đó", anh trả lời với vẻ tư lự. "Tổ tiên tôi là điền chủ ở nông thôn và dường như họ cũng sống bình thường như những điền chủ khác. Tuy nhiên, thiên hướng này của tôi lại có sẵn trong huyết thống và có lẽ bắt nguồn từ bà nội tôi là em gái của họa sĩ người Pháp Vernet. Năng khiếu nghệ thuật do di truyền có thể bộc lộ dưới nhiều hình thức rất kì lạ."

"Nhưng làm thế nào mà anh biết năng khiếu ấy là do di truyền?"

"Bởi Mycroft nhà tôi thừa hưởng năng khiếu đó hơn tôi rất nhiều."

Quả thật đây là điều hoàn toàn mới mẻ với tôi. Nếu nước Anh còn một người nữa cũng có những khả năng đặc biệt như thế thì tại sao cả cảnh sát lẫn bàn dân thiên hạ chẳng ai nghe nói gì về anh ta? Tôi nêu thắc mắc này với ngụ ý là bạn mình vì khiêm tốn nên tự nhận là kém hơn. Holmes cười phá lên trước ý kiến của tôi.

"Anh Watson thân mến", anh đáp, "tôi không thể nào đồng ý với những ai coi khiêm tốn là đức tính. Đối với một nhà tư duy logic thì mọi việc phải được xem xét đúng bản chất, và việc tự đánh giá thấp bản thân cũng như thổi phồng khả năng chính mình đều là bẻ cong sự thật. Vì thế, khi tôi nói Mycroft có khả năng nhận xét tốt hơn tôi thì anh có thể hiểu là tôi đang nói một sự thật chính xác theo đúng nghĩa của nó."

"Đấy là em trai anh?"

"Anh ấy hơn tôi bảy tuổi."

"Thế thì tại sao không ai biết gì về anh ấy?"

"Ồ, anh ấy rất nổi tiếng trong giới của mình."

"Tức là ở đâu?"

"Ở Câu lạc bộ Diogenes chẳng hạn."

Tôi chưa bao giờ nghe nói đến tổ chức này và hẳn là vẻ mặt tôi thể hiện quá rõ điều đó nên Sherlock Holmes rút đồng hồ ra.

"Diogenes là câu lạc bộ lạ lùng nhất ở London và Mycroft là một trong những người kì lạ nhất. Anh ấy luôn ở đó từ 5 giờ kém 15 đến 8 giờ kém 20. Bây giờ là 6 giờ, vì thế nếu anh thích một cuộc đi dạo vào buổi chiều đẹp trời này thì tôi rất sẵn lòng giới thiệu anh với hai điều lạ lùng."

Năm phút sau chúng tôi đã ra ngoài đường và đi bộ tới vòng xoay Regent. "Chắc là anh thắc mắc", bạn tôi lên tiếng, "vì sao Mycroft không sử dụng những khả năng của anh ấy vào công việc điều tra. Anh ấy không làm được việc đó."

"Nhưng tôi tưởng anh nói là..."

"Tôi nói rằng anh ấy tài giỏi hơn tôi trong việc quan sát và suy luận. Nếu nghệ thuật điều tra chỉ cần ngồi trên ghế bành mà lập luận từ đầu đến cuối thì anh tôi sẽ là nhà điều tra hình sự tài giỏi nhất xưa nay. Nhưng anh ấy không có khát khao cũng như không có sức lực. Thậm chí anh ấy còn chẳng buồn cố gắng xác minh xem lời giải của mình có đúng hay không và chẳng thà bị xem là sai lầm chứ không chịu nhọc công để chứng tỏ là mình đúng. Đã biết bao nhiêu lần tôi đưa các vụ án tới tay anh ấy và lần nào suy luận của anh ấy cũng đúng. Tuy nhiên anh ấy hoàn toàn không thể xử lí các chi tiết ngoài hiện trường mà đáng lẽ phải được xem xét trước khi vụ án được đưa ra trước quan tòa hay bồi thẩm đoàn."

"Vậy đó không phải là nghề nghiệp của anh ấy?"

"Hoàn toàn không. Nếu như công việc này là kế sinh nhai của tôi thì với anh ấy nó chỉ đơn thuần là một thú vui tài tử. Anh ấy có khả năng xử lí số liệu phi thường và anh ấy kiểm toán sổ sách cho một số ban ngành của chính phủ. Mycroft sống ở phố Pall Mall và cứ mỗi sáng thì anh ấy đi bộ vòng đến đường Whitehall rồi đến chiều lại đi bộ trở về. Năm này sang năm khác chẳng bao giờ anh ấy tập luyện một bài tập thể dục nào khác và cũng chẳng xuất hiện ở nơi nào khác ngoại trừ Câu lạc bộ Diogenes ở ngay đối diện nhà anh ấy."

"Tôi vẫn không tài nào nhớ ra cái tên này?"

"Khó đấy. Anh biết không, ở London có rất nhiều người chẳng hề mong muốn kết giao bạn bè, một số là vì nhút nhát, số khác thì do chán ghét con người. Tuy nhiên họ vẫn thích một chỗ ngồi êm ái với cuốn tạp chí vừa xuất bản. Lúc đầu Câu lạc bộ Diogenes được lập ra nhằm đem lại sự thoải mái cho những người này và giờ thì nó là nơi quy tụ những người không giao du, không bè bạn trong thành phố. Không thành viên nào được phép để ý đến thành viên nào dù chỉ đôi chút. Ngoại trừ trong phòng dành cho người lạ ra, không ai được nói chuyện bất kể trong tình huống nào và nếu bị ban chấp hành phát hiện vi phạm quy định này đến lần thứ ba thì rất có thể kẻ ba hoa đó sẽ bị trục xuất. Anh trai tôi là một trong những người sáng lập ra câu lạc bộ này và bản thân tôi cũng thấy nó đem lại một bầu không khí rất dễ chịu."

Trong khi nói chuyện chúng tôi đã đến cuối phố St. James và từ đó chúng tôi đi xuôi theo Pall Mall. Sherlock Holmes dừng lại trước một cánh cửa cách ngõ Carlton không xa, và sau khi yêu cầu tôi giữ im lặng, anh dẫn tôi vào sảnh. Qua tấm vách kính tôi thoáng thấy một căn phòng rộng rãi và sang trọng, bên trong có khá nhiều người ngồi đọc báo trong các góc riêng. Holmes dẫn tôi đến một căn phòng nhỏ trông ra phố Pall Mall và để tôi chờ ở đó, một phút sau anh quay trở lại cùng một người mà tôi biết chắc đó là anh trai của anh.

Mycroft Holmes có vóc dáng to lớn, đậm người hơn hẳn Sherlock. Thân hình anh tuy béo phì, nhưng khuôn mặt dù to bè vẫn có nét sắc sảo, cũng là đặc điểm rất nổi bật trên mặt người em. Đôi mắt màu xám nhạt của anh sáng một cách kì lạ và dường như luôn ẩn chứa ánh nhìn xa xăm, tư lự mà tôi chỉ bắt gặp ở Sherlock những khi anh tập trung toàn bộ năng lượng.

"Rất vui được gặp, thưa ông", anh cất tiếng chào và chìa ra bàn tay to tướng như bàn chân hải cẩu. "Kể từ khi ông ghi chép lại những vụ án của Sherlock thì tôi nghe tên chú ấy ở mọi nơi. Nhân tiện, Sherlock này, anh vẫn có ý đợi chú đến hỏi ý kiến anh về vụ Tòa dinh thự hồi cuối tuần. Anh nghĩ có lẽ vụ đó hơi quá sức chú."

"Không, em đã giải quyết xong rồi", bạn tôi mỉm cười đáp.

"Hẳn nhiên là Adams."

"Phải, chính là Adarns."

"Ngay từ đầu anh đã chắc thế." Cả hai cùng ngồi xuống bên khoang cửa sổ xây lồi ra ngoài của câu lạc bộ. "Đây là vị trí dành cho những ai muốn nghiên cứu về con người", Mycroft nói. "Hãy nhìn xem có biết bao nhiêu là kiểu người ấn tượng! Chẳng hạn như hai người đàn ông đang đi về phía chúng ta."

"Người ghi điểm bi-a và người đi bên cạnh?"

"Đúng thế. Chú biết gì về người kia?"

Hai người đàn ông dừng ngay trước khuôn cửa sổ. Dấu hiệu duy nhất của môn bi-a mà tôi có thể nhìn thấy ở một trong hai người là mấy vệt phấn trên túi áo gilet. Còn người kia thì rất thấp bé, da ngăm, đội mũ hất ra sau và xách vài gói đồ.

"Em nhận ra đó là một cựu binh", Sherlock nói.

"Và vừa mới xuất ngũ", người anh nhận xét.

"Phục vụ ở Ấn Độ, em thấy thế."

"Và là một hạ sĩ quan."

"Pháo binh hoàng gia, em nghĩ vậy", Sherlock nói tiếp.

"Và là một người góa vợ."

"Nhưng có một đứa con."

"Những đứa con mới đúng, chú em."

"Nào", tôi nói và cười to, "thế này thì hơi quá."

"Chắc chắn mà", Holmes đáp, "ta dễ thấy rằng người đàn ông dáng vẻ đường hoàng, oai phong, có màu da cháy nắng ấy là một binh sĩ, cấp cao hơn binh nhì và vừa trở về từ Ấn Độ."

"Còn việc ông ta chỉ vừa mới xuất ngũ không lâu được thể hiện ở chỗ vẫn còn đi giày quân dụng", Mycroft nhận xét.

"Ông ta không có sải bước của một kị binh, nhưng lại đội mũ lệch, căn cứ vào một bên trán có màu da trắng hơn. Xét cân nặng của ông ta thì không thể là công binh được. Vậy là pháo binh."

"Tiếp theo, bộ trang phục cho thấy một người vô cùng thân thiết với ông ta vừa mất. Do ông ta tự đi mua sắm nên có lẽ người chết là vợ ông ta, ông ta mua những thứ cho trẻ con, ông thấy chứ. Có một cái xúc xắc cho thấy một trong những đứa con của ông ta còn nhỏ lắm. Có lẽ người vợ đã chết vì hậu sản. Ông ta còn kẹp một cuốn truyện tranh dưới nách chứng tỏ ông ta còn phải lo cho một đứa trẻ nữa."

Tôi bắt đầu hiểu ra ý của bạn mình khi anh nói rằng anh trai của mình có những khả năng thậm chí còn sắc bén hơn cả anh. Anh liếc sang tôi và mỉm cười. Mycroft bốc ra một dúm bột thuốc lá từ chiếc hộp đồi mồi rồi dùng một chiếc khăn tay to bằng lụa đỏ phủi những bụi thuốc rơi trên áo khoác.

"Nhân tiện, Sherlock này", anh nói, "anh có thứ này rất hợp với chú, một vụ hết sức lạ lùng người ta vừa nhờ anh xem xét. Thật sự là anh không đủ hơi sức để theo đuổi vụ này, chỉ có thể ngó qua một chút thôi, nhưng nó cũng đem lại cơ sở để anh phỏng đoán tí chút cho vui. Nếu chú muốn nghe qua các chi tiết."

"Anh Mycroft thân mến, em rất vui lòng."

Người anh viết vội vài chữ lên một tờ giấy trong cuốn sổ tay rồi rung chuông gọi và trao tờ giấy cho người phục vụ.

"Anh vừa mời ông Melas đến đây", anh ta nói. "Ông ta sống ở tầng trên nhà anh và bọn anh cũng có quen biết sơ nên khi gặp rắc rối ông ấy đến gặp anh. Ông Melas là người gốc Hi Lạp, theo anh biết, và rất giỏi ngoại ngữ. Ông ta kiếm sống một phần nhờ công việc thông dịch ở tòa án và phần khác là làm hướng dẫn viên cho những người phương Đông giàu có thường đến những khách sạn ở đại lộ Northumberland. Anh nghĩ rằng nên để ông ta tự kể lại trải nghiệm vô cùng đặc biệt của mình theo cách của ông ta."

Chỉ vài phút sau, chúng tôi gặp một người đàn ông thấp đậm, da màu ôliu và mái tóc đen bóng như than cho thấy ông ta là người gốc phương Nam, dù giọng nói hoàn toàn là của một người Anh có học vấn. Ông ta nồng nhiệt bắt tay Sherlock Holmes và đôi mắt đen của ông ta lấp lánh niềm vui khi biết rằng vị chuyên gia này nóng lòng muốn nghe câu chuyện của mình.

"Tôi không nghĩ cảnh sát tin lời tôi, thật thế", ông ta than thở. "Chỉ vì họ chưa bao giờ nghe đến chuyện này nên cứ nghĩ rằng một việc như thế chẳng thể nào xảy ra. Nhưng tôi biết chừng nào còn chưa rõ điều gì xảy ra với người đàn ông tội nghiệp bị dán băng kín mặt đó thì tôi sẽ không bao giờ yên lòng được."

"Tôi rất muốn nghe đây", Sherlock Holmes nói.

"Hôm nay là thứ tư", ông Melas nói. "Chuyện xảy ra vào tối thứ hai, chỉ mới hai ngày trước, các ông hiểu chứ. Tôi là một thông dịch viên, có lẽ người hàng xóm của tôi đây cũng đã cho ông biết. Tôi thông dịch đủ mọi thứ tiếng - hay gần như tất cả - nhưng vì tôi là người gốc Hi Lạp và mang một cái tên Hi Lạp nên người ta hay mời tôi dịch thứ tiếng này nhất. Đã bao năm nay tôi là người thông dịch tiếng Hi Lạp hàng đầu ở London và tên tôi nổi tiếng ở các khách sạn. Không ít lần tôi được mời đi vào những giờ giấc trái khoáy cho những người nước ngoài gặp khó khăn hoặc các khách du lịch đến muộn muốn tôi thông dịch cho họ. Vì thế mà tối thứ hai vừa rồi tôi không ngạc nhiên khi một người tên Latimer, một chàng trai trẻ ăn mặc rất đúng mốt, đến nhà và đề nghị tôi đi cùng anh ta trên cỗ xe ngựa đang đợi sẵn trước cửa. Anh ta cho biết có một người bạn Hi Lạp đến đây để bàn công việc làm ăn nhưng vì người ấy chẳng biết thứ ngôn ngữ nào ngoài tiếng mẹ đẻ nên buộc phải có một người thông dịch. Theo lời chàng trai ấy thì tôi hiểu rằng nhà của anh ta cũng khá xa, ở Kensington, và anh ta có vẻ rất gấp rút, cứ thúc giục tôi nhanh chóng bước vào xe khi chúng tôi xuống đường. Tôi nói là bước vào xe nhưng tôi thấy khó mà tin nổi là mình đang ngồi trong một cỗ xe ngựa. Chắc chắn là nó rộng rãi hơn loại xe bốn bánh xấu xí của London và nội thất trong xe, dù đã sờn cũ, đều là loại đắt tiền. Latimer ngồi đối diện với tôi và chúng tôi bắt đầu lên đường, qua giao lộ Charing Cross và thẳng lên đại lộ Shaftesbury. Chúng tôi đi đến đường Oxford và khi tôi vừa mới đánh liều nhận xét rằng đây không phải lối đi thẳng đến Kensington thì tôi lập tức phải im bặt bởi hành vi bất thường của người đi cùng.

Đầu tiên anh ta rút từ trong túi ra một cái dùi cui lõi chì trông rất kinh khủng và vung vẩy nó vài lần như muốn kiểm tra độ nặng và sức mạnh của nó. Rồi anh ta đặt nó xuống ghế bên cạnh mà chẳng nói tiếng nào. Sau hành động ấy, anh ta kéo cửa sổ cả hai bên lên và tôi ngạc nhiên khi thấy các tấm kính cửa bị che kín bằng giấy để ngăn không cho tôi nhìn thấy gì ở bên ngoài.

'Xin lỗi vì phải che đi tầm nhìn của ông, ông Melas', anh ta nói. 'Sự thật là tôi không muốn ông biết nơi mà chúng ta sắp đến. Có khả năng tôi sẽ gặp rắc rối nếu ông có thể tìm đường quay lại đó.'

Như ông có thể hình dung, tôi hoàn toàn sửng sốt khi nghe nói thế. Người ngồi cùng xe với tôi là một gã trai trẻ vai rộng cường tráng, chưa kể đến thứ vũ khí kia, nếu phải đối phó với hắn ta thì tôi chẳng có chút cơ hội nào.

'Cư xử thế là rất khác thường đấy ông Latimer', tôi lắp bắp. 'Ông phải nhận thấy rằng những gì mình đang làm là bất hợp pháp đấy.'

'Đúng là hơi tự tiện,' hắn ta nói, 'nhưng chúng tôi sẽ đền bù cho ông. Tuy nhiên, tôi phải cảnh báo ông, ông Melas ạ, rằng tối nay hễ ông định báo động hoặc làm gì trái ý tôi thì ông sẽ thấy vấn đề trở nên nghiêm trọng đấy. Tôi mong ông hãy nhớ rằng chẳng ai biết ông ở đâu và cho dù ông ở trong cỗ xe này hay tại nhà tôi thì cũng đều nằm trong tay tôi.'

Hắn nói khẽ nhưng sít răng lại khiến cho những lời lẽ này nghe đầy hăm dọa. Tôi ngồi yên tự hỏi vì lí do gì mà hắn lại bắt cóc tôi theo kiểu lạ kì này. Cho dù vì lí do nào đi nữa thì rõ ràng là có kháng cự cũng chẳng được và thế là tôi chỉ còn cách đợi xem chuyện gì sẽ xảy ra.

Xe đi được gần hai giờ và tôi không hề có chút manh mối nào là mình đang đi đâu. Thỉnh thoảng tiếng đá lạo xạo cho biết đó là một đoạn đường rải đá và ở những đoạn khác khi xe lướt êm thì tôi đoán đó là đường nhựa, nhưng, ngoại trừ sự thay đổi về âm thanh ra thì chẳng có dấu hiệu nhỏ nào giúp tôi đoán được là mình đang đi đến đâu. Giấy dán ở mỗi ô cửa sổ đều là loại giấy chắn sáng và một tấm rèm màu xanh đã che kín tấm kính ở phía trước. Chúng tôi rời Pall Mall lúc 7 giờ 15 và cuối cùng thì xe cũng dừng lại khi đồng hồ của tôi chỉ 9 giờ kém 10. Người đi cùng xe với tôi hạ cửa sổ xuống và tôi thoáng nhìn thấy một khung cửa vòm thấp với một ngọn đèn bên trên. Khi tôi còn đang hấp tấp xuống xe thì khung cửa ấy mở tung và tôi đã thấy mình ở trong nhà, mơ hồ nhận thấy có một bãi cỏ và cây cối mọc hai bên lúc tiến vào. Tuy nhiên, tôi không dám chắc đó là vườn tư hay quang cảnh vùng quê. Bên trong có một ngọn đèn khí đốt đã được vặn xuống rất nhỏ khiến tôi chẳng nhìn được mấy ngoại trừ là tiền sảnh khá rộng và có treo nhiều tranh. Trong ánh sáng lờ mờ tôi có thể nhận thấy người ra mở cửa là một người đàn ông đứng tuổi thấp bé, có vẻ tiều tụy, dáng gù. Khi ông ta quay qua chúng tôi, tia sáng lóe lên từ ngọn đèn cho thấy ông ta đeo kính.

'Có phải ông Melas đây không, Harold?' Ông ta lên tiếng.

'Vâng.'

'Tốt lắm, rất tốt! Chúng tôi không có ác ý gì đâu, ông Melas, tôi mong là thế, nhưng không có ông thì chúng tôi không thể nào tiếp tục công việc được. Nếu ông xử sự đàng hoàng với chúng tôi thì ông sẽ chẳng phải hối tiếc gì cả, nhưng nếu ông định giở trò thì chỉ có Chúa mới cứu được ông!' Ông ta nói theo cái lối căng thẳng, giật cục, xen lẫn vài tiếng cười hinh hích, thế nhưng lại khiến tôi thấy sợ hơn gã kia.

'Các ông muốn gì ở tôi?' Tôi hỏi.

'Chỉ cần ông dịch vài câu hỏi cho một người Hi Lạp đang ở chỗ chúng tôi và cho chúng tôi biết câu trả lời. Nhưng không được nói thêm ngoài những gì cần dịch, nếu không thì...' lại thêm một tràng cười hinh hích căng thẳng, 'chẳng thà ông chưa bao giờ có mặt trên cõi đời này.'

Trong khi nói ông ta mở một cánh cửa và dẫn tôi vào một căn phòng trông có vẻ được bài trí rất sang trọng, nhưng cũng chỉ được chiếu sáng bởi một ngọn đèn duy nhất được vặn nhỏ xuống một nửa. Căn phòng quả là rộng rãi và chân tôi lún xuống khi bước trên tấm thảm chứng tỏ nó rất dày. Tôi thoáng thấy những chiếc ghế bọc nhung, một lò sưởi cao bằng đá cẩm thạch trắng bên cạnh là thứ gì đó trông như một bộ áo giáp Nhật. Ngay dưới ngọn đèn là một cái ghế và người đàn ông đứng tuổi ra hiệu bảo tôi ngồi vào đó. Gã thanh niên đã rời đi nhưng đột nhiên hắn quay trở lại qua một cánh cửa khác, dẫn theo một người trong bộ y phục giống như áo choàng rộng, di chuyển chậm chạp về phía chúng tôi. Khi người này bước vào vầng sáng lờ mờ khiến tôi có thể nhìn thấy ông ta rõ hơn thì tôi rùng mình khiếp sợ trước bộ dạng ông ta. Ông ta nhợt nhạt như một xác chết và tiều tụy kinh khủng, đôi mắt sáng, lồi ra cho thấy người này có tinh thần mạnh mẽ hơn thể chất. Nhưng điều tác động lên tôi mạnh hơn tất cả mọi dấu hiệu suy yếu vì cơ thể của ông ta chính là khuôn mặt bị dán chằng chịt đầy băng dính và một dải băng rộng bịt kín miệng ông ta.

'Cậu có tấm bảng đấy không, Harold?' Người đàn ông đứng tuổi hỏi to khi người mới bước vào gần như ngã quỵ xuống một chiếc ghế. 'Đã cởi trói cho hắn chưa? Được rồi, giờ thì đưa cho hắn cây bút chì. Ông sẽ hỏi hắn ta vài câu hỏi, ông Melas ạ, và hắn sẽ viết câu trả lời lên bảng. Trước tiên hỏi xem hắn đã sẵn sàng kí tên vào các loại giấy tờ chưa?'

Đôi mắt người đàn ông tóe lửa.

'Không bao giờ!' Ông ta viết như thế bằng chữ Hi Lạp lên tấm bảng.

'Bất luận hoàn cảnh nào cũng vậy ư?' Tôi hỏi ông ta theo lệnh của tên bạo chúa.

'Trừ phi tôi chính mắt chứng kiến lễ cưới của cô ấy do một linh mục Hi Lạp mà tôi biết chủ trì.'

Gã kia cười hinh hích vẻ hiểm độc.

'Thế ông có biết điều gì đang đợi ông không?'

'Tôi chẳng quan tâm tới điều gì xảy ra với mình.'

Đó là những câu hỏi và trả lời trong cuộc đối thoại lạ lùng nửa nói nửa viết giữa chúng tôi. Tôi cứ phải hỏi đi hỏi lại xem ông ta có chịu nhượng bộ và bằng lòng kí các giấy tờ hay không. Và lần nào tôi cũng nhận được câu trả lời đầy căm phẫn. Nhưng tôi chợt nảy ra một ý hay ho. Tôi thêm vào mỗi câu hỏi một câu ngắn của mình, lúc đầu thì là những câu vô hại để thử xem bọn chúng có biết gì hay không, và rồi khi thấy chẳng có phản ứng gì, tôi bắt đầu liều lĩnh hơn. Cuộc đối thoại của chúng tôi diễn ra như sau:

'Nếu cứ ngoan cố như thế thì chẳng được gì đâu. Ông là ai?

'Tôi không quan tâm. Tôi mới đến London.'

'Số phận của ông là do chính ông quyết định đấy. Ông đến đây được bao lâu rồi?'

'Mặc kệ. Ba tuần!'

'Đằng nào tài sản cũng đâu có thuộc về ông. Sao ông ra nông nỗi này!'

'Nó cũng không rơi vào tay bọn bất lương. Chúng bỏ đói tôi!'

'Nếu ông chịu kí thì sẽ được tự do. Ngôi nhà này là đâu?'

'Tôi sẽ chẳng bao giờ kí. Tôi không biết!'

'Ông làm thế không ích gì cho cô ta đâu. Ông tên gì?'

'Tôi muốn nghe chính miệng cô ấy nói thế. Kratides.'

'Ông sẽ được gặp cô ta nếu bằng lòng kí. Ông từ đâu đến?'

'Vậy thì khỏi gặp. Athens!'

Chỉ cần thêm năm phút nữa thôi là tôi sẽ moi ra được toàn bộ sự việc ngay trước mặt bọn chúng, ông Holmes ạ. Câu hỏi kế tiếp của tôi có thể sẽ làm sáng tỏ vấn đề, nhưng đúng lúc đó thì cánh cửa bật mở và một người phụ nữ bước vào phòng. Tôi không thể nhìn rõ cô ta nhưng chỉ biết rằng đó là một cô gái cao ráo và duyên dáng với mái tóc đen và mặc áo dài trắng rộng.

'Harold', cô ta bập bẹ nói bằng tiếng Anh. 'Tôi không thể nào ở thêm được nữa. Nơi này cô đơn quá, chỉ có... Ôi, lạy Chúa, anh Paul đây mà!' Những tiếng cuối cô ta nói bằng tiếng Hi Lạp và cùng lúc đó người đàn ông với nỗ lực không ngờ đã giật được mảnh băng dính ra khỏi miệng và kêu to: 'Sophy! Sophy!' Rồi lao vào vòng tay của cô gái. Thế nhưng, họ chỉ kịp ôm nhau trong giây lát vì gã thanh niên đã túm lấy cô gái và đẩy cô ta ra khỏi phòng trong khi tên đứng tuổi dễ dàng chế ngự nạn nhân ốm yếu của hắn và lôi ông ta ra ngoài qua một cánh cửa khác. Trong một lúc chỉ còn có mình tôi trong phòng và tôi đứng bật dậy thoáng nghĩ biết đâu mình có thể tìm ra được manh mối nào đó để đoán xem ngôi nhà này là đâu. Nhưng thật may là tôi chưa kịp đi bước nào vì khi nhìn ra thì tôi thấy gã đàn ông lớn tuổi đang đứng ở khung cửa mắt dán chặt vào tôi.

'Thế là xong, ông Melas ạ,' hắn ta nói. 'Ông cũng thấy rằng chúng tôi đã tin cậy mà trao cho ông một công việc rất riêng tư. Lẽ ra chúng tôi không nên làm phiền ông, chỉ vì người bạn nói được tiếng Hi Lạp của chúng tôi và là người tham gia từ đầu những cuộc thương lượng này buộc phải trở về phương Đông. Do đó chúng tôi cần phải tìm một người nào đó thế chỗ ông ta và may mắn là chúng tôi được biết đến năng lực của ông.' Tôi nghiêng đầu.

'Đây là năm đồng sovereign, hắn vừa nói vừa bước lại gần tôi, 'mà tôi hi vọng là món tiền công xứng đáng, nhưng hãy nhớ,' hắn nói thêm, vỗ nhẹ vào ngực tôi và cười hinh hích, 'nếu ông hé lộ cho ai biết về chuyện này, chỉ một người thôi, thì cầu Chúa phù hộ cho tính mạng của ông!'

Tôi không thể nào tả nổi cho ông nghe sự ghê tởm và nỗi kinh hoàng của mình đối với gã đàn ông có vẻ ngoài hèn hạ này. Lúc này tôi đã có thể nhìn hắn ta rõ hơn vì ánh đèn đang chiếu xuống hắn. Nét mặt hắn trông ốm yếu và vàng vọt, chỏm râu nhọn của hắn mọc lởm chởm và thưa thớt. Khi nói hắn vênh mặt ra phía trước, môi và mí mắt cứ liên tục giật như một người bị chứng múa giật. Tôi không khỏi nghĩ rằng cái kiểu cười nho nhỏ lạ lùng của hắn chắc cũng là triệu chứng của một căn bệnh thần kinh nào đó. Thế nhưng vẻ đáng sợ của khuôn mặt hắn lại tập trung ở đôi mắt màu xám thép và sáng lạnh lùng toát lên vẻ hiểm ác và tàn độc từ sâu bên trong.

'Nếu ông mà để lộ chuyện này thì chúng tôi sẽ biết ngay,' hắn nói. 'Chúng tôi có những biện pháp riêng để thu thập thông tin. Giờ thì xe đang đợi ông ở bên ngoài và bạn tôi sẽ đưa ông về.'

'Tôi hối hả bước qua tiền sảnh rồi trèo vào cỗ xe, một lần nữa tôi lại thoáng trông thấy cây cối và một mảnh vườn. Latimer theo sát phía sau và lên ngồi đối diện với tôi mà chẳng nói tiếng nào. Một lần nữa, trong yên lặng và cửa xe được kéo lên kín mít, chúng tôi lại vượt qua đoạn đường dài dằng dặc mãi đến quá nửa đêm mới dừng lại.

'Ông sẽ xuống đây, ông Melas ạ,' người đồng hành với tôi lên tiếng. 'Rất tiếc vì phải bỏ ông ở một chỗ cách xa nhà thế này nhưng không còn lựa chọn nào khác. Nếu ông cố sức bám theo chiếc xe thì chỉ tự chuốc lấy thương tích thôi.'

Trong khi nói thì hắn mở cửa xe và tôi chỉ vừa kịp nhảy ra thì gã đánh xe đã quất ngựa và chiếc xe lọc cọc phóng đi. Tôi ngẩn ngơ nhìn quanh. Tôi đang đứng trong một bãi đất rải rác thạch nam xen lẫn với từng lùm kim tước tối thẳm. Xa xa có một dãy nhà với ánh đèn rải rác chiếu qua những khung cửa sổ trên cao. Nhìn sang phía khác tôi thấy những đốm đỏ đèn hiệu của một tuyến đường sắt. Chiếc xe ngựa đã khuất khỏi tầm mắt. Tôi cứ đứng đó chăm chú nhìn quanh và tự hỏi không biết mình đang ở nơi nào thì chợt nhìn thấy từ trong bóng tối có một người đang đi về phía mình. Khi ông ta đến gần thì tôi nhận ra đó là một người khuân vác của nhà ga.

'Xin ông vui lòng cho biết đây là đâu?' Tôi hỏi.

'Wandsworth Common', ông ta đáp.

'Từ đây có thể đón tàu vào thành phố được không?'

'Nếu ông đi khoảng một dặm nữa đến ga Clapham Junction', ông ta trả lời, 'thì vừa kịp để bắt chuyển tàu cuối cùng đi Victoria.'

Đó là đoạn kết chuyến phiêu lưu của tôi, thưa ông Holmes. Tôi không biết là mình đã đi đến đâu, những người mình đã gặp là ai, hay bất cứ điều gì khác ngoại trừ những gì tôi đã kể ông nghe. Nhưng tôi biết rằng có một âm mưu xấu xa đang diễn ra và tôi muốn giúp được phần nào cho người đàn ông khốn khổ kia. Tôi đã kể toàn bộ câu chuyện cho ông Mycroft Holmes vào sáng hôm sau rồi sau đó đã trình báo với cảnh sát."

Sau khi nghe xong câu chuyện kì lạ này tất cả chúng tôi đều ngồi lặng đi một lúc. Sau đó Sherlock nhìn sang anh trai mình. "Anh đã làm gì chưa?" Anh hỏi.

Mycroft cầm tờ Daily News trên bàn lên.

"Phần thưởng cho ai cung cấp thông tin cho biết một quý ông Hi Lạp tên Paul Kratides, đến từ Athens và không nói được tiếng Anh, hiện đang ở đâu. Một phần thưởng tương đương dành cho bất kì ai biết được tin tức về một phụ nữ Hi Lạp tên Sophy. Xin gửi về hộp thư X 2473. Đó là tin đăng trên tất cả các nhật báo. Chưa có hồi đáp."

"Thế còn tòa công sứ Hi Lạp?"

"Anh đã hỏi rồi. Họ chẳng biết gì cả."

"Vậy thì một bức điện đến sở chỉ huy cảnh sát Athens, được chứ?"

"Gia đình tôi có bao nhiêu sức lực thì Sherlock thừa hưởng cả." Mycroft quay sang tôi nói. "Được rồi, chú cứ tiến hành vụ này bằng mọi cách và cho anh biết tin nếu có kết quả gì."

"Chắc chắn rồi", bạn tôi trả lời và đứng dậy. "Em sẽ báo tin cho anh và cả ông Melas nữa. Còn trong lúc này, nếu tôi ở địa vị ông, ông Melas ạ, thì tôi sẽ rất cảnh giác, vì tất nhiên là qua những mẩu tin đăng báo này bọn chúng thể nào cũng biết rằng ông đã phản bội chúng."

***

Khi chúng tôi bước về nhà, Holmes ghé vào một trạm điện báo và gửi đi vài bức điện.

"Anh thấy đấy, Watson", anh nhận xét, "buổi tối của chúng ta chẳng uổng phí chút nào. Một số vụ án lí thú nhất đã đến tay tôi thông qua anh Mycroft như thế này. Vụ mà ta vừa nghe dù chỉ có một cách giải thích nhưng vẫn có những nét riêng biệt."

"Anh hi vọng sẽ giải quyết được nó chứ?"

"Ồ, nếu ta đã biết đến đấy rồi mà không khám phá ra được phần còn lại thì mới là lạ. Chắc chắn là anh cũng đã nghĩ ra giả thuyết nào đó có thể giải thích cho những dữ kiện mà ta đã nghe."

"Đúng, nhưng hãy còn mơ hồ."

"Vậy ý kiến của anh thế nào?"

"Theo như tôi thấy thì chắc chắn là cô gái Hi Lạp đã bị gã người Anh tên Harold Latimer bắt đi."

"Bắt đi từ đâu?"

"Athens, có lẽ thế."

Sherlock Holmes lắc đầu. "Gã đó không biết một chữ Hi Lạp nào. Cô gái thì nói được khá tiếng Anh. Ta suy ra rằng cô ta đã ở Anh được một thời gian còn hắn thì chưa hề đến Hi Lạp."

"Vậy là cô ta đến Anh chơi và tên Harold này đã dụ được cô ta trốn theo hắn."

"Như thế thì có vẻ hợp lí hơn."

"Thế rồi người anh trai - vì tôi nghĩ rằng ông ta phải có quan hệ họ hàng với cô gái - đã từ Hi Lạp đến đây để ngăn cản. Song do bất cẩn nên ông ta đã lọt vào tay gã thanh niên và tên đồng bọn già hơn. Chúng bắt giam ông ta và dùng bạo lực để buộc ông ta phải kí vào một số giấy tờ để chuyển giao tài sản của cô gái - mà có thể đã được ủy thác cho ông ta - lại cho chúng. Ông ta từ chối không chịu kí. Để thương lượng được với ông ta, bọn chúng cần đến một thông dịch viên và chúng đã chọn ông Melas này, sau khi đã dùng người khác. Cô gái không hề biết gì về việc anh trai mình đến đây và hoàn toàn nhờ tình cờ mà đã gặp được ông ta."

"Rất tuyệt vời, Watson!" Holmes kêu lên. "Tôi thật sự nghĩ rằng anh đã gần tìm ra sự thật. Anh xem, chúng ta đã nắm được trong tay tất cả mọi lá bài và chỉ có mỗi một điều đáng sợ là chúng sẽ đột ngột sử dụng bạo lực. Nếu chúng cho ta thêm thời gian thì chắc chắn ta sẽ tóm được bọn chúng."

"Nhưng làm thế nào có thể tìm ra được căn nhà ấy?"

"Nếu điều phỏng đoán của chúng ta là đúng và quả thật tên của cô gái là Sophy Kratides thì chúng ta sẽ tìm ra được cô ta dễ dàng. Đó chính là niềm hi vọng chủ yếu của chúng ta vì người anh trai của cô ta mới chân ướt chân ráo đến đây. Có thể thấy là từ khi gã Harold làm quen với cô gái đến nay đã được một khoảng thời gian, ít ra cũng là vài tuần - vì người anh trai ở Hi Lạp đã kịp hay tin và lên đường sang đây. Nếu suốt khoảng thời gian này chúng vẫn sống trong ngôi nhà đó thì có thể là chúng ta sẽ có hồi đáp cho mẩu tin đăng báo của anh Mycroft."

Trong khi mải nói chuyện, chúng tôi đã về đến nhà ở phố Baker. Holmes bước lên cầu thang trước và khi mở cánh cửa phòng của chúng tôi thì anh chợt giật mình ngạc nhiên. Nhìn qua vai anh, tôi cũng kinh ngạc không kém. Người anh trai Mycroft của anh đang ngồi trên ghế bành hút thuốc.

"Vào đi, Sherlock! Mời vào, thưa ông", anh ta thản nhiên nói và mỉm cười trước vẻ mặt sửng sốt của chúng tôi. "Chú không ngờ là anh lại hoạt động tích cực thế này phải không, Sherlock? Không hiểu sao anh lại thấy vụ này rất thu hút mình."

"Anh đến đây bằng cách nào?"

"Anh đi bằng xe ngựa vượt qua hai người."

"Đã có tiến triển gì mới chưa?"

"Anh đã nhận được một thư trả lời cho mẩu tin đăng báo."

"A!"

"Phải, hai người vừa đi vài phút thì có tin."

"Và có kết quả gì không?"

Mycroft Holmes lấy ra một tờ giấy.

"Nó đây", anh ta nói, "là do một người đàn ông trung niên có thể chất yếu ớt viết bằng bút mực ngòi to trên loại giấy vàng kem. Nội dung như sau:

THƯA ÔNG,

Để đáp lại mẩu tin của ông đăng trên số báo ra ngày hôm nay, tôi xin báo cho ông rằng tôi biết rõ người phụ nữ được đề cập đến. Nếu ông vui lòng ghé đến chỗ tôi thì tôi sẽ cung cấp một số chi tiết về câu chuyện đau buồn của người ấy. Cô ta hiện đang sống trong biệt thự Hoa Sim tại Beckenham.

Chân thành,

J. DAVENPORT

"Ông ta viết từ Lower Brixton", Mycroft Holmes nói. "Chú có nghĩ là bây giờ ta nên đánh xe đến chỗ ông ta để tìm hiểu đầu đuôi câu chuyện không, Sherlock?"

"Anh Mycroft thân mến, tính mạng của người anh quan trọng hơn câu chuyện về cô em. Em nghĩ rằng ta nên đến Sở Cảnh sát London báo cho thanh tra Gregson rồi đi thẳng đến Beckenham. Chúng ta đều biết rằng tính mạng của ông ta đang rất nguy ngập và mỗi giờ phút đều quý báu."

"Ta cũng nên đưa ông Melas cùng đi", tôi đề nghị. "Có thể chúng ta sẽ cần đến một người thông dịch."

"Xuất sắc", Holmes đồng ý. "Hãy cho cậu bé giúp việc đi gọi một cỗ xe bốn bánh và chúng ta sẽ khởi hành ngay lập tức." Anh vừa nói vừa mở ngăn kéo bàn ra và tôi để ý thấy anh nhét khẩu súng lục vào túi. "Đúng", anh trả lời ánh mắt của tôi, "qua những gì đã nghe, tôi phải nói rằng ta đang đối mặt với một băng nhóm rất nguy hiểm."

Trời đã nhá nhem khi chúng tôi đến phố Pall Mall và gõ cửa phòng ông Melas. Một người đàn ông vừa đến gặp ông ta và ông ta đã đi.

"Bà có thể cho tôi biết là ông ấy đi đâu không?" Mycroft Holmes hỏi.

"Thưa ông, tôi không rõ", người phụ nữ ra mở cửa cho chúng tôi đáp, "tôi chỉ biết là ông ấy đi cùng với người kia trong xe ngựa."

"Người kia có cho biết tên không?"

"Dạ không, thưa ông."

"Có phải ông ta là một thanh niên cao, da ngăm và đẹp trai không?"

"Ồ, không phải đâu, ông ạ. Là một người thấp bé, đeo kính, mặt hốc hác nhưng rất vui vẻ vì ông ta cứ cười suốt trong khi nói chuyện."

"Đi thôi!" Holmes đột ngột kêu lên. "Chuyện trở nên nghiêm trọng rồi", anh nhận xét khi chúng tôi đánh xe đến Sở Cảnh sát London. "Bọn chúng lại bắt giữ Melas. Ông ta không phải là người mạnh mẽ về thể chất và bọn chúng biết rõ điều ấy từ đêm trước. Tên bất lương này có thể khủng bố ông ta ngay khi vừa đối mặt. Rõ ràng là chúng còn cần đến chuyên môn của ông ta nhưng một khi đã dùng xong thì chúng sẵn sàng trừng phạt ông ta vì đã phản bội chúng."

Chúng tôi chỉ hi vọng là vì đi bằng xe lửa, chúng tôi sẽ tới Beckenham cùng lúc hoặc sớm hơn cỗ xe ngựa. Thế nhưng khi đến Sở Cảnh sát London thì phải mất hơn một giờ chúng tôi mới gặp được thanh tra Gregson và hoàn tất những thủ tục pháp lý để có thể tiến vào căn nhà nọ. Lúc 10 giờ kém 15 chúng tôi đến được cầu London và phải nửa giờ sau cả bốn chúng tôi mới đặt chân xuống sân ga Beckenham. Rồi lại ngồi xe thêm nửa dặm nữa chúng tôi mới đến được biệt thự Hoa Sim một tòa nhà lớn tối tăm có khuôn viên riêng, tách khỏi con đường. Đến đây chúng tôi xuống xe rồi cùng nhau đi lên lối vào.

"Tất cả mọi cửa sổ đều tối đen", viên thanh tra nhận xét. "Căn nhà trông có vẻ như đã không còn ai."

"Con mồi của chúng ta đã vỗ cánh bay đi, chỉ còn cái tổ trống trơn", Holmes nói.

"Sao anh lại nói thế?"

"Vì trong khoảng một giờ qua đã có một cỗ xe chất đầy hành lí rời đi."

Viên thanh tra cười phá lên. "Dưới ánh sáng từ ngọn đèn ở cổng quả là tôi có trông thấy những vết bánh xe nhưng còn hành lí thì ở đâu ra?"

"Ông có thể thấy vết bánh xe cũng của cỗ xe đó chạy vào. Nhưng vết bánh xe đi ra hằn sâu hơn rất nhiều, nhiều đến nỗi ta có thể chắc rằng chiếc xe đó đã chở khá nặng."

"Ông quan sát hơn tôi tí chút", viên thanh tra nhún vai nói. "Thật là không dễ gì mà phá được cánh cửa này nhưng ta sẽ thử nếu không có ai mở."

Ông ta gõ mạnh chiếc vòng sắt ở cửa rồi giật dây chuông nhưng đều vô ích. Holmes đã lỉnh đi đâu đó và quay trở lại sau vài phút.

"Tôi đã mở được một cánh cửa sổ," anh thông báo.

"Thật may là ông đứng về phía cảnh sát chứ không phải là tội phạm, ông Holmes ạ", viên thanh tra nhận xét khi ông ta nhìn thấy bạn tôi khéo léo đẩy cái then cửa ra. "Tốt, tôi nghĩ rằng trong tình huống này ta có thể vào mà không cần mời."

Chúng tôi lần lượt vào trong một căn phòng rộng rãi, rõ ràng là căn phòng mà ông Melas đã từng được đưa đến. Viên thanh tra thắp đèn và nhờ vào ánh sáng của nó mà chúng tôi có thể nhìn thấy hai cửa ra vào, tấm thảm, ngọn đèn và một bộ áo giáp Nhật đúng như ông ta đã tả cho chúng tôi nghe. Trên mặt bàn hãy còn đặt hai cái li, một chai rượu mạnh đã cạn và phần thức ăn thừa.

"Gì vậy?" Holmes bất chợt hỏi.

Chúng tôi đều đứng lặng yên và lắng nghe. Một tiếng rên nhỏ vọng từ đâu đó phía trên đầu chúng tôi. Holmes chạy vội về phía cửa và lao ra tiền sảnh. Âm thanh yếu ớt đó phát ra từ tầng trên. Anh lao lên, viên thanh tra và tôi bám anh sát gót còn Mycroft cũng cố gắng lê thân hình to lớn theo sau.

Trên tầng hai có ba cánh cửa quay mặt ra hành lang và từ cánh cửa ở giữa vọng ra âm thanh báo điềm gở, khi thì chùng xuống thành tiếng lầm bầm khe khẽ, khi lại vút vang lên thành tiếng rên the thé. Cánh cửa bị khóa nhưng chìa hãy còn cắm ở bên ngoài. Holmes mở tung cửa lao vào nhưng rồi lại chạy vụt trở ra ngay, bàn tay bịt ngang cổ.

"Có khói than", anh kêu lên, "Hãy đợi một chút. Khói sẽ tan."

Nhíu mắt nhìn vào chúng tôi có thể thấy luồng ánh sáng duy nhất trong phòng được phát ra từ ngọn lửa xanh nhạt đang lập lòe trên một cái kiềng ba chân bằng đồng đặt ở giữa phòng. Nó rọi lên sàn nhà một quầng sáng màu xanh xám rất quái dị còn trong bóng tối ở phía sau thì hiện lờ mờ hai bóng hình đang co sát bức tường. Từ cánh cửa mở phả ra một làn hơi độc hết sức khó chịu khiến chúng tôi phải thở hổn hển và ho sặc sụa. Holmes chạy lên phía đầu cầu thang để hít vào một ngụm không khí trong lành rồi nhanh chóng lao vào trong phòng, anh mở toang cửa sổ và ném mạnh cái kiềng ba chân kia xuống vườn.

"Một phút sau là chúng ta có thể vào được", anh hổn hển nói trong khi phóng nhanh trở ra. "Có ai thấy nến đâu không? Tôi ngờ rằng với loại khí này thì ta không thể nào đánh diêm được. Anh Mycroft, hãy rọi đèn từ cửa và bọn em sẽ đưa họ ra. Nào!"

Chúng tôi hối hả tiến lại chỗ hai người đàn ông bị ngộ độc, kéo họ ra và đưa xuống sảnh sáng đèn. Cả hai đều bất tỉnh và môi của họ thâm đen, mặt thì sưng phù và tụ huyết, hai mắt lồi hẳn ra. Quả thật là nét mặt của họ bị biến dạng đến nỗi nếu không nhờ hàm râu đen và thân hình mập đậm thì chúng tôi không sao nhận ra được một trong hai người chính là người thông dịch tiếng Hi Lạp vừa mới chia tay chúng tôi vài giờ trước tại Câu lạc bộ Diogenes. Cả tay và chân ông ta bị trói chặt vào nhau và phía trên một mắt còn hiện rõ dấu vết của một cú đánh mạnh. Người kia, cũng bị trói cùng một kiểu, là một người cao, thân thể đã gầy mòn đến cùng kiệt, trên mặt dán mấy dải băng dính trông rất quái dị. Khi được chúng tôi đặt xuống thì ông ta đã ngừng rên rỉ và chỉ thoáng nhìn qua tôi cũng biết là chúng tôi đã không kịp cứu ông ta. Tuy nhiên, ông Melas hãy còn sống và chưa đến một giờ sau, với sự hỗ trợ của hơi ammoniac và rượu mạnh, tôi hài lòng khi thấy ông ta mở mắt và biết rằng mình đã kéo ông ta khỏi tay thần chết.

Câu chuyện ông Melas kể lại rất đơn giản và khẳng định những suy đoán của chúng tôi. Vị khách của ông ta ngay sau khi bước vào nhà đã rút từ trong tay áo ra một cái gậy bọc da và ông ta vì quá sợ mình sẽ bị giết luôn tại chỗ nên lại để cho hắn bắt đi lần thứ hai. Quả thật, gã bất lương có tiếng cười hinh hích ấy đã tác động đến người thông dịch khốn khổ như một phép thôi miên, đến nỗi khi kể về tên bắt cóc, hai tay ông ta cứ run bần bật và gò má thì trắng bệch. Ngay sau đấy ông ta bị đưa đến Beckenham và lại đóng vai trò thông dịch trong cuộc đối thoại lần thứ nhì mà thậm chí còn nhiều kịch tính hơn lần trước vì hai gã người Anh dọa giết tù nhân ngay tức khắc nếu ông ta không chịu làm theo các yêu cầu của chúng. Cuối cùng, khi thấy ông ta không hề bị khuất phục trước mọi sự đe dọa, bọn chúng quăng ông ta vào phòng giam và sau khi sỉ vả Melas về tội phản bội vì đã cho đăng mẩu tin trên báo, chúng dùng gậy đánh ông này bất tỉnh, sau đó ông ta không còn nhớ gì cho đến khi mở mắt ra và trông thấy chúng tôi đang cúi xuống nhìn mình.

***

Đó là vụ án kì lạ của người thông dịch tiếng Hi Lạp, lời giải vụ này nay vẫn còn có phần chưa sáng tỏ. Khi liên lạc với người đã trả lời mẩu tin, chúng tôi biết rằng cô gái bất hạnh xuất thân từ một gia đình Hi Lạp giàu có và sang Anh để thăm vài người bạn. Trong thời gian ở đây cô ta gặp một gã trai tên là Harold Latimer, hắn đã tạo được lòng tin nơi cô và sau đó thuyết phục cô cùng trốn đi với hắn. Choáng váng trước sự việc này, bạn bè cô ta cho rằng chỉ cần thông báo với người anh của cô ở Athens là xong chuyện, sau đó phủi tay không can thiệp vào việc này nữa. Người anh khi đặt chân tới Anh quốc do thiếu thận trọng đã rơi vào tay của Latimer và tên đồng bọn của hắn là Wilson Kemp - một gã có nhiều tiền án. Vì không nói được tiếng Anh nên ông ta bất lực trong tay chúng, rồi chúng giam giữ và dùng vũ lực lẫn bỏ đói để buộc ông ta phải kí giấy giao tài sản của mình và của cô em gái cho chúng. Chúng đã giam ông ta trong ngôi nhà đó mà cô gái chẳng hề hay biết và những dải băng dính dán khắp mặt ông ta là để nếu như cô ta có thoáng trông thấy cũng khó nhận ra anh mình. Thế nhưng, trực giác của phụ nữ đã ngay lập tức giúp cô nhìn xuyên qua lớp ngụy trang đó và nhận ra anh mình ngay lần gặp đầu vào dịp người thông dịch đến. Tuy nhiên, chính bản thân cô gái khốn khổ cũng chịu cảnh giam cầm vì trong căn nhà đó chẳng còn ai khác ngoài gã xà ích và vợ hắn mà cả hai kẻ đó cũng đều là công cụ trong tay của kẻ chủ mưu. Nhận thấy bí mật của mình đã bị lộ và người tù cũng không chịu khuất phục, trong vài tiếng còn lại, hai tên bất lương đem cô gái bỏ trốn khỏi căn nhà đầy đủ tiện nghi chúng đã thuê sau khi đinh ninh rằng đã trả thù kẻ không chịu khuất phục lẫn người phản bội mình.

Nhiều tháng sau, một bài báo kì lạ được cắt ra và gửi đến chúng tôi từ Budapest. Trong đó kể lại việc hai du khách người Anh, đi cùng với một phụ nữ, đã gặp một kết cục bi thảm. Cả hai đều bị đâm chết và cảnh sát Hungary cho rằng có vẻ như họ đã cãi vã và gây thương tích trí mạng cho nhau. Tuy nhiên, tôi lại cho rằng Holmes nghĩ khác và đến giờ vẫn khăng khăng là nếu tìm được cô gái Hi Lạp, ta sẽ biết những mất mát của cô và anh trai đã được rửa hận thế nào.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro