BA CHÀNG SINH VIÊN(The Three Students, 1904)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Vào năm 1895, một loạt sự kiện mà tôi không muốn đi sâu ở đây đã khiến Sherlock Holmes và tôi phải lưu lại vài tuần tại một thành phố đại học của Anh. Cũng chính trong thời gian này, chúng tôi đã dấn thân vào một cuộc phiêu lưu nho nhỏ nhưng cuốn hút sắp được tôi kể ra đây. Hiển nhiên tiết lộ bất cứ chi tiết nào khiến độc giả nhận ra trường đại học hay kẻ phạm tội cũng đều là khinh suất và gây nhiều phiền phức. Một vụ tai tiếng có thể làm ảnh hưởng tới nhiều người như vậy nên chìm trong quên lãng. Tuy nhiên, nếu sự việc được mô tả thận trọng và đúng mực, nó sẽ làm sáng rõ một số phẩm chất nổi bật của bạn tôi. Vì vậy trong khi trình bày, tôi sẽ cố tránh dùng những từ có thể giới hạn các sự việc vào một nơi chốn cụ thể, hay gợi ý về danh tính của những người có liên quan.

Hồi ấy, chúng tôi ngụ tại một nhà trọ tiện nghi gần thư viện mà Sherlock Holmes năng lui tới để làm một vài nghiên cứu về hiến chương Anh thời đầu (chúng đã đưa đến các thành quả nổi bật, có thể là đề tài cho những câu chuyện tôi kể sau này). Một tối nọ, cũng chính tại căn nhà trọ đó, chúng tôi đã tiếp ông Hilton Soames, thầy phụ đạo và giảng viên của Đại học St. Luke. Thầy Soames cao gầy, dễ bị căng thẳng và kích động. Xưa nay tôi vẫn biết ông hay bồn chồn, nhưng riêng dịp này, ông lại bối rối đến không kiềm chế nổi, cho thấy rõ có chuyện bất thường đã xảy ra.

"Thưa ông Holmes, tôi rất mong được ông dành cho vài giờ quý báu. Một sự việc rất khó xử vừa xảy ra tại St. Luke và quả thực, nếu không nhờ may mắn đưa ông tới thành phố này thì tôi chẳng biết xoay xỏa ra sao."

"Giờ tôi rất bận nên không muốn bị xao lãng", bạn tôi đáp. "Tôi chân thành khuyên thầy nên nhờ cảnh sát thì hơn."

"Không được đâu, thưa ông, hoàn toàn không thể dùng phương cách đó. Khi bánh xe luật pháp đã chuyển động thì không gì có thể dừng nó lại cho tới khi sự việc sáng tỏ. Nhưng khổ nỗi, đây lại là một vụ mà vì uy tín của trường, điều cốt yếu nhất là tránh tai tiếng, ông Holmes, ông không những nổi danh vì tài phá án, mà còn vì sự kín kẽ. Trên đời này chỉ có ông giúp được tôi thôi, ông Holmes, xin ông hãy giúp tôi."

Kể từ hồi rời khỏi môi trường quen thuộc của phố Baker, tâm trạng bạn tôi vẫn chưa khá lên mấy. Thiếu mấy cuốn sổ ghi chú, dăm lọ hóa chất và cái bừa bộn ở nhà, anh không được thoải mái. Anh nhún vai ra chiều miễn cưỡng chấp thuận, trong khi vị khách của chúng tôi liến thoắng kể câu chuyện của mình.

"Thưa ông Holmes, mai là ngày bắt đầu kì thi giành học bổng Fortescue. Tôi là giám khảo môn tiếng Hi Lạp. Tôi ra đề là một bài dịch khá dài mà chưa thí sinh nào làm qua. Nó đã được đem đi in và vì học bổng rất có giá trị nên nếu thí sinh nào biết trước đề, người đó sẽ có lợi thế rất lớn. Bởi lẽ đó, chúng tôi phải hết sức cẩn thận trong việc giữ kín đề thi. Khoảng 3 giờ chiều nay, thợ in gửi bản in thử tới. Đề gồm nửa chương bản thảo của sử gia Thucydides. Tôi phải soát thật cẩn thận để đảm bảo đề bài tuyệt đối chính xác. Tới 4 rưỡi, tôi vẫn chưa đọc xong, nhưng vì đã hứa đi dùng trà cùng một người bạn, tôi đành để bản in thử trên bàn làm việc và vắng mặt khoảng một tiếng đồng hồ.

Ông Holmes, ông cũng biết rằng các cửa của trường tôi là cửa kép, bên trong là cửa bọc nỉ, bên ngoài là cửa gỗ sồi. Khi lại gần cửa ngoài, tôi kinh ngạc thấy chìa khóa cắm trong ổ. Thoạt đầu, tôi ngỡ là khi đi mình đãng trí quên rút chìa nhưng lúc sờ vào túi, tôi thấy chìa của tôi trong đó. Theo như tôi biết thì chỉ còn một chìa nữa do người hầu của tôi, tên là Bannister giữ. Ông ta làm việc cho tôi đã mười năm nay và tuyệt đối ngay thẳng. Sau khi hỏi ra, tôi biết cái chìa kia đúng là của ông ta. Bannister đã vào phòng để hỏi tôi có muốn dùng trà không và quên rút chìa khi ra ngoài. Chắc ông ta chỉ ở trong phòng tôi vài phút lúc tôi vắng mặt. Trong những dịp khác, sự đểnh đoảng này cũng chẳng việc gì, nhưng vào ngày hôm nay, nó thật tai hại. Nhìn lên bàn là tôi biết có người lục lọi giấy tờ. Đề thi gồm ba trang. Trước khi đi, tôi để chúng ở cùng một chỗ. Nhưng khi ấy, tôi thấy một trang nằm trên sàn, một trang tại cái bàn kê sát cửa sổ, còn một trang vẫn ở vị trí cũ."

Holmes nhấp nhổm lần đầu tiên.

"Trang đầu ở trên sàn, trang thứ hai dưới cửa sổ còn trang thứ ba ở chỗ cũ", anh nói.

"Chính thế, thưa ông Holmes. Ông làm tôi ngạc nhiên quá. Làm sao ông biết?"

"Mời thầy tiếp tục câu chuyện rất thú vị của mình."

"Lúc đầu, tôi cho rằng Bannister đã tự tiện xem giấy tờ của tôi, nhưng ông ta một mực phủ nhận với thái độ cực kì thành thật, nên tôi chắc chắn ông ta không nói dối. Nếu vậy thì phải có người đi ngang qua, để ý thấy chìa khóa cắm ở cửa, biết tôi đã ra ngoài rồi nên vào xem trộm đề thi. Vì học bổng rất có giá trị nên một kẻ vô liêm sỉ rất có thể liều để giành lợi thế so với các thí sinh khác. Bannister rất khổ sở về sự này. Ông ta suýt ngất khi chúng tôi nhận thấy đề thi bị xem trộm. Tôi cho ông ta uống chút rượu brandy, để ông ta ngồi xuống ghế còn tôi kiểm tra phòng thật kĩ lưỡng. Tôi thấy ngay là ngoài đống giấy tờ lộn xộn, kẻ đột nhập còn để lại một vài dấu vết khác. Trên cái bàn kê bên cửa sổ có vài mảnh vỏ bút chì được chuốt ra. Một đầu chì gãy cũng nằm đó. Rõ ràng là tên ma lanh kia vội vàng chép lại đề thi, làm gãy bút chì nên buộc phải chuốt lại mũi chì."

"Tuyệt lắm!" Holmes vui vẻ lại khi sự việc càng lúc càng cuốn hút anh. "Thầy gặp may đấy."

"Chưa hết. Tôi có một cái bàn mới, được phủ da màu đỏ rất đẹp. Cả tôi và Bannister đều sẵn sàng cam đoan là nó láng mịn và không có lấy một tì vết. Ấy thế mà lúc đó tôi lại phát hiện trên bàn có một vết rách dài độ ba inch - không phải vết xước, mà là vết rách rõ ràng. Không chỉ vậy, trên bàn còn có một mẩu bột đen hay đất sét nhỏ, lấm tấm gì đó như mùn cưa. Tôi tin chắc những dấu vết kia là do kẻ lục lọi đề thi để lại. Không có dấu chân và chúng cớ nào khác tiết lộ danh tính của hắn. Tôi đang không biết làm thế nào thì chợt nhớ ra ông đang ở trong thành phố nên vội vàng đến nhờ ông. Ông Holmes, xin hãy giúp tôi! Ông hiểu tình thế khó xử của tôi rồi đấy. Hoặc tôi phải tìm cho ra người này, hoặc phải hoãn kì thi đến khi chuẩn bị xong đề bài mới. Nhưng nếu chọn hoãn kì thi tôi buộc phải đưa ra lời giải thích, mà làm thế chẳng khác nào gieo tiếng xấu cho nhà trường. Vì vậy, tôi mong vấn đề được dàn xếp kín đáo và trong im lặng."

"Tôi sẵn lòng tìm hiểu vụ này và tư vấn cho thầy theo khả năng mình", Holmes nói, đứng lên mặc áo khoác. "Vụ này không đến nỗi vô vị. Có ai tới gặp thầy sau khi bản in thử được chuyển tới không?"

"Có, cậu sinh viên người Ấn, Daulat Ras, cũng sống trong ngôi nhà đó. Cậu ta vào hỏi tôi về kì thi."

"Cậu ta tham gia kì thi?"

"Phải."

"Mà đề thi để trên bàn?"

"Tôi chắc chắn lúc đó đề thi vẫn được cuộn lại."

"Nhưng cậu ta có thể đoán ra đó là bản in thử chứ?"

"Có lẽ."

"Sau đó không còn ai vào phòng của thầy nữa?"

"Vâng."

"Có ai biết bản in thử sẽ ở chỗ thầy không?"

"Không ai, trừ thợ in."

"Bannister có biết không?"

"Không, đương nhiên là không. Không ai biết hết"

"Hiện giờ Bannister ở đâu?"

"Tội nghiệp, ông ta đang mệt lắm. Tôi để ông ta ngồi lại ghế rồi vội đến gặp ông."

"Thầy để cửa mở sao?"

"Tôi khóa cất đề thi rồi."

"Thầy Soames, chúng ta có thể suy luận thế này: Nếu cậu sinh viên người Ấn không nhận ra cuộn giấy trên bàn là bản in thử, vậy kẻ chúng ta cần tìm chỉ vô tình biết bản in thử ở đó."

"Có lẽ vậy."

Holmes cười bí hiểm.

"Thôi được," anh nói, "chúng ta sẽ đến phòng của thầy xem xét. Watson thân mến, đây không phải vụ dành cho anh. Nó cần đến óc suy luận chứ không phải kĩ năng y khoa. Nhưng nếu anh muốn thì cứ đi. Nào thầy Soames, tôi đã sẵn sàng phục vụ thầy!"

Phòng làm việc của thân chủ chúng tôi có cửa sổ thấp, gắn lưới sắt và nhìn ra khoảng sân rêu phong của ngôi trường cổ kính. Cửa chính hình vòm kiểu Gothic dẫn đến cái cầu thang đá đã mòn nhẵn. Ở tầng một là phòng của ông thầy. Ba cậu sinh viên ở các tầng trên, mỗi người một tầng.

Khi chúng tôi tới hiện trường xảy ra vụ việc, trời đã nhập nhoạng tối. Holmes đứng ở ngoài ngôi nhà và chăm chủ quan sát ô cửa sổ. Sau đó, anh tiến tới lối kiễng chân nghễn cổ nhìn vào phòng.

"Hắn phải vào qua ngả cửa chính. Cửa sổ không có khe hở nào ngoài ô kính đó", thầy Soames nói.

"Vậy sao?" Holmes nói và nở nụ cười kì quặc khi liếc nhìn ông bạn đồng hành của chúng tôi. "Được rồi, nếu ở đây không còn gì để tìm hiểu thêm, chúng ta vào trong thôi."

Ông giảng viên mở cửa ngoài rồi dẫn chúng tôi vào phòng. Chúng tôi dừng ở cửa khi Holmes kiểm tra tấm thảm.

"Tôi e là ở đây không có dấu vết gì", anh nói. "Thật khó mà trông mong tìm được thứ đó vào một ngày khô ráo thế này. Xem ra người hầu của thầy đã khỏe lại rồi. Thầy bảo đã để ông ta ngồi xuống ghế. Cái ghế nào vậy?"

"Cái bên cửa sổ."

"Tôi hiểu rồi, gần cái bàn nhỏ này. Giờ hai người vào được rồi. Tôi đã xong với tấm thảm. Ta hãy xem xét cái bàn nhỏ trước. Tất nhiên, chuyện xảy ra đã rõ quá rồi. Người này bước vào, cầm từng tờ đề thi ở bàn giữa phòng lên và đem tới bàn cạnh cửa sổ. Hắn cho rằng từ chỗ đó, hắn sẽ thấy thầy đi qua sân để về phòng và kịp thời chuồn êm thấm."

"Nhưng hắn đã không thấy", thầy Soames nói, "vì tôi vào bằng cửa hông."

"A, vậy thì tốt! Nhưng nói tóm lại, hắn đã tính toán vậy đấy. Cho tôi xem ba tờ giấy nào. Không có dấu tay. Hắn cầm tờ này qua trước và chép lại. Nếu viết tháu hết mức, hắn sẽ mất bao lâu nhỉ? Ít nhất là mười lăm phút. Rồi hắn vứt tờ đó xuống và cầm tờ kế lên. Hắn đang chép dở thì thầy về nên hắn phải vội rút lui - rất vội, nên không kịp để đề thi về chỗ cũ. Nhờ thế mà thầy biết có kẻ lục lọi giấy tờ. Khi tới cửa ngoài, thầy không nghe thấy tiếng chân vội chạy trên cầu thang sao?"

"Không."

"Chà, như thầy nhận thấy, hắn viết mạnh đến mức làm gãy ngòi chì và phải chuốt lại. Cái này đáng chú ý đấy Watson. Đây không phải loại bút chì thường. Nó lớn hơn cỡ thường, có ruột chì mềm, vỏ màu xanh đen, tên nhà sản xuất bằng chữ bạc và chỉ còn dài độ bốn phân. Thầy Soames, hãy tìm cây bút chì như vậy và thầy sẽ tóm được thủ phạm. Để thầy dễ dàng tìm ra kẻ kia hơn, tôi xin bổ sung là hắn có một con dao bản to, rất cùn."

Thầy Soames hơi choáng ngợp trước hàng loạt các thông tin vừa ập tới.

"Tôi theo kịp ông ở một sổ điểm", ông ta nói, "nhưng về chiều dài..."

Holmes chìa ra một mảnh vỏ bút chì nhỏ chỉ có vỏn vẹn mấy chữ NN.

"Thầy hiểu rồi chứ?"

"E là tới giờ, tôi cũng chưa..."

"Watson, NN có thể là gì? Nó là hai chữ cuối của một từ. Anh biết Johann Faber là tên nhà sản xuất bút chì phổ biến nhất. Vậy chẳng rõ là khúc bút chì còn lại chứa từ đằng sau sao?" Anh nghiêng cái bàn nhỏ ra trước bóng đèn điện. "Nếu hắn viết trên giấy mỏng thì nét chữ sẽ hằn xuống mặt phẳng nhẵn bóng này. Không, tôi không thấy gì cả. Ở đây không còn gì để tìm hiểu thêm. Giờ đến cái bàn giữa. Tôi đoán chừng đây là mẩu bột đen dính mùn cưa thầy nói đến. Theo tôi thấy thì nó có dạng gần như hình chóp và lõm vào trong. Đúng như thầy nói, có vẻ nó dính mùn cưa. A, cái này thú vị đây. Một vết rách rất rõ ràng. Nó bắt đầu bằng một vệt xước nông và kết thúc bằng cái lỗ rách xơ ra. Thầy Soames, cảm ơn thầy đã cho tôi biết về vụ này. Mà cánh cửa lớn đó dẫn vào đâu?"

"Vào phòng ngủ của tôi."

"Kể từ lúc xảy ra chuyện, thầy có vào phòng đó lần nào không?"

"Chưa, tôi bỏ đi tìm ông ngay."

"Tôi muốn xem qua một chút. Phòng kiểu xưa, đẹp thật! Có lẽ thầy sẽ vui lòng chờ tôi kiểm tra xong sàn nhà. Không, tôi không thấy gì cả. Vậy còn tấm rèm này? Thầy treo quần áo ở đằng sau. Nếu ai đó muốn trốn trong phòng này thì hắn phải nấp ở đây, vì giường quá thấp còn tủ quần áo quá hẹp. Chắc giờ chẳng có ai trong đó đâu nhỉ?"

Nhìn điệu bộ hơi cứng nhắc và cảnh giác của Holmes khi vén rèm, tôi biết anh đã sẵn sàng đối phó với mọi sự. Nhưng sau tấm rèm chẳng có gì ngoài vài ba bộ đồ treo trên một hàng móc áo. Holmes quay gót rồi bất ngờ cúi xuống sàn.

"Ô la la! Cái gì đây?" Anh nói.

Đó là một mẩu nhỏ màu đen dạng hình chóp, giống hệt mẩu trên bàn ngoài phòng làm việc. Holmes cầm lên tay và soi dưới ánh đèn điện.

"Thầy Soames này, xem ra vị khách của thầy để lại dấu vết cả trong phòng ngủ lẫn phòng khách."

"Hắn vào đây làm gì?"

"Mục đích của hắn đã quá rõ. Thầy trở về theo hướng hắn không liệu trước và mãi khi thầy tới cửa ngoài, hắn mới nhận ra. Hắn còn làm gì được đây? Hắn quơ lấy mọi thứ có thể tiết lộ danh tính của hắn và trốn vào phòng ngủ."

"Trời ơi, ông Holmes, ý ông là suốt thời gian tôi nói chuyện với Bannister ở phòng làm việc, chúng tôi đã giam hắn trong này mà không biết?"

"Đúng vậy?"

"Thưa ông Holmes, liệu còn khả năng nào khác không? Ông đã quan sát cửa sổ phòng ngủ của tôi chưa?"

"Ô cửa mắt cáo, khung chì, ba ô kính riêng biệt, một ô có thể mở ra và đủ rộng cho một người chui vừa."

"Đúng vậy. Nó dẫn ra một góc vườn khá khuất. Gã này có thể đột nhập qua đấy, đi qua phòng ngủ và để lại dấu vết, rồi cuối cùng thoát ra ngoài qua cửa chính để ngỏ."

Holmes lắc đầu sốt ruột

"Thôi giờ chúng ta bắt đầu điều tra nào," anh nói. "Thầy nói có ba sinh viên ở trong nhà này và thường đi qua cửa phòng làm việc của thầy?"

"Đúng vậy."

"Và cả ba đều dự thi?"

"Phải."

"Thấy có nghi ngờ ai trong số họ không?"

Soames ngần ngừ.

"Đây là một vấn đề rất tế nhị", ông ta nói. "Tôi không muốn nghi ngờ ai khi chưa có bằng chứng."

"Cứ nói cho tôi nghi ngờ. Tôi sẽ tìm bằng chứng."

"Vậy thì để tôi cho ông biết vắn tắt về ba người họ. Sống ở tầng hai là Gilchrist, một sinh viên và vận động viên giỏi. Cậu ta chơi trong đội bóng bầu dục và đội cricket của trường, đồng thời là quán quân chạy vượt rào và nhảy xa. Cậu ta là người tử tế. Cha cậu ta là ngài Jabez Gilchrist, một quý tộc vì cá độ đua ngựa mà tán gia bại sản rồi qua đời, để lại anh sinh viên của tôi sống trong cảnh nghèo túng. Nhưng cậu ta chăm chỉ và cần cù nên sẽ có ngày khấm khá. Daulat Ras người Ấn ngụ ở tầng ba. Cậu ta trầm tính và sống khép kín như dân Ấn đa phần vẫn vậy. Cậu ta học tốt nhưng yếu ở môn tiếng Hi Lạp. Cậu ta chăm học và sống ngăn nắp. Sống ở tầng trên cùng là Miles McLaren. Cậu ta rất sáng dạ, có khi phải nhất trường, nhưng lại lười học, ương ngạnh, ăn chơi trác táng và vô kỉ luật. Cậu ta suýt bị đuổi học ngay trong năm nhất vì dính vào một vụ bài bạc. Cả học kì này, cậu ta toàn rong chơi nên hẳn sẽ khiếp đảm trước kì thi này."

"Vậy thầy nghi ngờ người thứ ba?"

"Tôi không nói vậy. Nhưng trong ba người, cậu McLaren dám làm chuyện kia nhất."

"Quả vậy. Thầy Soames này, tôi muốn gặp người hầu Bannister của thầy."

Đó là một người đàn ông nhỏ thó, mặt trắng bệch, mày râu nhẵn nhụi, tóc hoa râm, độ năm mươi tuổi. Ông ta hãy còn buồn bã trước biến cố vừa rồi. Gương mặt đầy đặn nhăn lại vì lo lắng, còn mấy ngón tay không làm sao yên được.

"Bannister, chúng tôi đang điều tra vụ không vui kia", chủ của ông ta nói.

"Vâng, thưa ông."

"Hẳn ông đã bỏ quên chìa trên ổ khóa?" Holmes hỏi.

"Phải, thưa ông."

"Việc ông quên chìa khóa vào đúng ngày có đề thi trong phòng không phải quá bất thường chứ?"

"Tôi rất lấy làm tiếc về chuyện đó, thưa ông. Nhưng thỉnh thoảng tôi cũng đãng trí như vậy."

"Ông vào phòng khi nào?"

"Khoảng 4 giờ rưỡi. Thầy Soames thường dùng trà vào giờ đó."

"Ông ở lại trong bao lâu?"

"Khi thấy ông chủ không có ở đây, tôi liền ra ngay."

"Ông có xem đề thi này trên bàn không?"

"Không, thưa ông, dĩ nhiên là không."

"Sao ông quên chìa khóa ở cửa?"

"Tay tôi bận bưng khay trà. Tôi tự nhủ sẽ quay lại lấy rồi quên khuấy mất."

"Cửa ngoài có chốt lẩy không?"

"Không, thưa ông."

"Vậy là cửa mở suốt thời gian đó?"

"Phải, thưa ông."

"Ai trong phòng cũng ra được?"

"Đúng, thưa ông."

"Khi thầy Soames về và cho gọi ông, ông thấy rất khổ tâm?"

"Phải, thưa ông. Suốt bao năm tôi ở đây, chuyện như vậy chưa từng xảy ra. Tôi đã suýt ngất, thưa ông."

"Tôi hiểu, ông đã ngồi đâu khi bắt đầu thấy choáng váng?"

"Tôi ở đâu ấy ạ? Tất nhiên là trong phòng này, ở ghế gần cửa."

"Ông ngồi ở chỗ đó kể ra cũng lạ. Sao ông không ngồi ở những cái ghế khác?"

"Tôi cũng không rõ nữa, thưa ông. Tôi thấy ngồi đâu cũng được."

"Ông Holmes, tôi thật lòng nghĩ ông ta không để ý xem mình ngồi ở đâu đâu. Lúc ấy trông ông ta tệ lắm, mặt mũi cứ tái xanh tái mét cả."

"Ông vẫn ngồi đây khi ông chủ rời đi?"

"Chỉ độ vài phút thôi. Sau đó tôi khóa cửa và về phòng mình."

"Ông nghi ngờ ai?"

"Tôi không nghi một ai, thưa ông. Tôi không tin có ai trong trường này lại có thể trục lợi bằng cách kia."

"Cảm ơn ông, vậy là đủ rồi", Holmes nói. "À, còn một chuyện nữa. Ông chưa nói cho ai trong ba sinh viên kia biết chuyện chứ?"

"Chưa, thưa ông. Tôi chưa nói một tiếng nào."

"Ông chưa gặp ai sao?"

"Chưa, thưa ông."

"Tốt lắm. Thầy Soames này, nếu thầy bằng lòng thì chúng ta sẽ đi dạo trong sân một lát."

Từ sân nhìn lên, chúng tôi thấy ánh đèn điện vàng vọt hắt ra từ cả ba ô cửa sổ.

"Ba chú chim đều ở trong ổ", Holmes nói. "Ồ! Cái gì kia? Một người có vẻ đang bồn chồn."

Đó là cậu người Ấn đang đi tới đi lui trong phòng và cái bóng của cậu ta in lên rèm.

"Tôi muốn ngó qua từng người một", Holmes nói.

"Vậy có được không nhỉ?"

"Dễ thôi", Soames trả lời. "Dãy phòng này thuộc loại cổ nhất trong trường, vì vậy chuyện có khách tới tham quan cũng không hề lạ. Mời các ông đi theo tôi, tôi sẽ dẫn đường."

"Ông nhớ đừng gọi tên chúng tôi đấy nhé!" Holmes nói khi chúng tôi gõ cửa phòng Gilchrist.

Một thanh niên cao gầy, tóc hoe vàng ra mở cửa rồi niềm nở mời chúng tôi vào khi biết mục đích chuyến viếng thăm. Phòng vẫn còn lại vài bức phù điêu đẹp đẽ thời Trung cổ. Holmes mê mẩn một bức đến độ đòi vẽ nó vào cuốn sổ tay cho kì được. Anh làm gãy bút chì nên đành hỏi mượn một cái của chủ nhân căn phòng, rồi sau đó mượn thêm dao để chuốt. Vận xui kì lạ đó tiếp tục bám theo anh tại phòng cậu người Ấn. Đó là một gã trầm lặng, nhỏ thó, mũi khoằm, cứ gườm gườm nhìn chúng tôi suốt và mừng ra mặt khi Holmes nghiên cứu xong mấy bức phù điêu. Tuy nhiên tại cả hai phòng, tôi đều không thấy Holmes bắt được manh mối cần tìm. Đến phòng thứ ba, mánh của Holmes thất bại từ trong trứng nước. Chúng tôi gõ cửa nhưng chủ nhân căn phòng không chịu mở, đã thế còn tặng chúng tôi một tràng chửi rủa.

"Tôi cóc cần biết mấy người là ai. Mấy người đi phứt cho nhờ!" Giọng giận dữ gầm lên. "Tôi bận ôn thi, các người nghe rõ chưa?"

"Một gã thô lỗ", người dẫn đường của chúng tôi nói, đỏ mặt giận dữ khi chúng tôi xuống nhà. "Tất nhiên cậu ta không biết tôi là người gõ cửa. Nhưng kể cả vậy thì cậu ta cũng quả là bất lịch sự và lối cư xử đó thật đáng ngờ trong hoàn cảnh này."

Phản ứng của Holmes khá kì lạ.

"Ông có thể cho tôi biết chiều cao chính xác của cậu này không?" Anh hỏi.

"Ông Holmes, tôi quả thật không biết chắc cậu ta cao hơn cậu người Ấn nhưng thấp hơn Gilchrist. Chắc tầm năm foot sáu."

"Chuyện đó rất quan trọng", Holmes nói. "Còn giờ xin chúc thầy Soames ngủ ngon."

Người dẫn đường của chúng tôi kêu lên tỏ ý kinh ngạc và thất vọng, "Ôi, ông Holmes, ông không định bỏ tôi đường đột thế này chứ? Hình như ông chưa nhận ra tình thế. Mai là thi rồi. Tối nay tôi buộc phải đưa ra quyết định dứt khoát. Tôi không thể để kì thi diễn ra khi đề thi bị lộ. Tôi phải làm gì đó."

"Ông cứ để nguyên vậy đi. Sớm mai tôi sẽ ghé rồi bàn về việc này, có thể lúc đó tôi đã nắm được những tình tiết mới giúp ông thoát khỏi tình cảnh này. Còn từ giờ tới đó, ông đừng thay đổi gì cả."

"Đành vậy."

"Ông yên tâm. Nhất định chúng tôi sẽ tìm được cách giúp ông thoát khỏi rắc rối. Tôi sẽ đem hai mẩu đất đen và mảnh vỏ bút chì về. Xin chào ông!"

Bước ra khoảng sân tối om, chúng tôi ngước nhìn ngôi nhà một lần nữa. Cậu người Ấn vẫn đi tới đi lui trong phòng, nhưng chúng tôi không thấy bóng dáng hai người kia đâu.

"Watson này, anh nghĩ sao?" Holmes hỏi khi chúng tôi tiến ra đường lớn. "Tôi thấy chúng ta như đang chơi trò loại trừ vậy. Anh có ba người. Thủ phạm phải là một trong số họ. Anh chọn đi. Anh chọn ai nào?"

"Gã ăn nói lỗ mãng ở tầng trên cùng. Hắn là kẻ 'có tiếng' nhất. Nhưng gã người Ấn có vẻ ranh ma. Và sao cậu ta cứ đi lại trong phòng suốt vậy?"

"Cũng không có gì đâu. Nhiều người thường làm vậy khi học thuộc lòng."

"Cách cậu ta nhìn chúng ta rất đáng ngờ."

"Anh cũng sẽ như vậy nếu bị một toán người lạ làm phiền trong khi ngày mai anh có một kì thi quan trọng và mọi phút chuẩn bị đều đáng quý. Không, những chi tiết đó cùng với bút chì và dao, tất thảy đều thỏa đáng. Nhưng gã đó lại khiến tôi rối trí."

"Ai?"

"Gã người hầu Bannister chứ ai, ông ta đang toan tính gì đây?"

"Tôi thấy ông ta là người trung hậu."

"Tôi cũng thấy vậy. Đó chính là chỗ khó hiểu. Sao một con người trung hậu như vậy lại... À, có một tiệm văn phòng phẩm lớn này. Ta sẽ bắt đầu tìm hiểu từ đấy."

Trong thành phố chỉ có bốn tiệm bán văn phòng phẩm chính và tại mỗi tiệm, Holmes đều đưa mấy mảnh vỏ bút chì ra và đồng ý trả nhiều tiền để mua cái bút giống vậy. Nhưng mọi tiệm đều trả lời đây là loại bút chì có kích thước lạ và thường không có sẵn, tuy nhiên bạn tôi có thể đặt mua. Bạn tôi không có vẻ chán nản vì thất bại, anh chỉ vui vẻ nhún vai chấp nhận.

"Không được rồi, Watson thân mến. Manh mối rõ ràng và duy nhất này sẽ chẳng dẫn chúng ta tới đâu. Nhưng tôi nghĩ chúng ta vẫn có thể làm rõ sự việc mà không cần đến nó. Ôi trời, anh bạn ơi, bà chủ nhà đã dặn chúng ta về ăn tối lúc 7 rưỡi mà giờ đã là gần 9 giờ rồi Watson, với thói hút thuốc liên tu bất tận, lại còn ăn uống không đúng giờ đúng giấc, tôi thấy trước là anh và tôi sẽ sớm bị tống cổ đi thôi. Nhưng trước hết, chúng ta phải giải quyết xong vấn đề của ông thầy đang lo sốt vó, gã người hầu bất cẩn và ba chàng sinh viên đang mong giành học bổng kia đã."

Trong vài tiếng còn lại của ngày hôm ấy, Holmes không nói gì thêm về sự việc dù anh ngồi trầm ngâm nghĩ ngợi một lúc lâu sau bữa tối muộn. 8 giờ sáng hôm sau, anh vào phòng tôi vừa đúng lúc tôi sửa soạn xong.

"Nào, Watson," anh nói, "đến lúc chúng ta phải xuống St. Luke rồi. Anh có thể bỏ bữa điểm tâm chứ?"

"Được."

"Chừng nào chúng ta còn chưa báo cho thầy Soames một tin khả quan, ông ta hẳn sẽ còn đứng ngồi không yên."

"Anh có tin khả quan cho ông ta chưa?"

"Tôi nghĩ là rồi."

"Anh có kết luận rồi ư?"

"Đúng thế đấy, Watson thân mến. Tôi giải được bí ẩn rồi."

"Nhưng anh đã có chứng cớ mới nào đâu?"

"À há! Chẳng phải tự dưng mà tôi rời giường từ 6 giờ sáng, khi trời còn sớm bảnh ra. Tôi đi bộ suốt hai giờ trên đoạn đường chí ít cũng phải năm dặm và cuối cùng cũng thu được gì đó. Nhìn này!"

Anh xòe tay ra. Trong lòng bàn tay anh là ba mẩu đất sét hình chóp màu đen.

"Ơ này, Holmes, hôm qua anh có hai mẩu thôi mà!"

"Rồi sáng nay có thêm một mẩu nữa. Tôi lấy mẩu thứ ba ở nơi xuất phát của hai mẩu đầu tiên. Sao thế, Watson? Thôi, cùng tôi đi giải thoát ông bạn Soames khỏi nỗi phiền muộn nào."

Khi chúng tôi tới nơi, ông thầy khốn khổ đang đứng ngồi không yên. Chỉ vài giờ nữa là kì thi bắt đầu, ấy vậy mà ông ta chưa biết nên công bố sự việc hay mặc thây cho kẻ gian trá tranh học bổng đáng giá. Đầu óc căng như dây đàn khiến ông ta không ngồi yên nổi, vậy nên vừa thấy Holmes, ông ta đã chạy ào ra và dang tay đón mừng.

"Ơn trời ông đến rồi! Tôi chỉ sợ ông cũng bó tay. Tôi phải làm gì đây? Kì thi có tiếp tục không?"

"Có. Bất luận thế nào cũng phải để nó diễn ra."

"Nhưng còn tên vô lại kia?"

"Hắn sẽ không thi."

"Ông biết hắn là ai rồi sao?"

"Tôi nghĩ vậy. Vì chuyện này phải được giữ kín nên chúng ta sẽ tự lập ra một tòa án binh nho nhỏ vậy. Thầy Soames, mời thầy ngồi đằng kia! Watson, anh ngồi đây! Tôi sẽ ngồi ở ghế bành chính giữa. Chúng ta đã đủ oai nghiêm để làm thủ phạm phải hoảng hốt rồi đấy. Xin thầy vui lòng rung chuông!"

Bannister vào, ông ta suýt té ngửa vì ngạc nhiên và hốt hoảng trước phong thái pháp đình của chúng tôi.

"Ông vui lòng đóng cửa cho", Holmes nói. "Giờ thì Bannister, ông vui lòng khai thật cho chúng tôi biết sự việc hôm qua chứ?"

Ông này tái mét tới tận chân tóc.

"Thưa ông, tôi đã thưa cả rồi."

"Không còn gì để kể thêm sao?"

"Không, thưa ông."

"Nếu vậy, tôi đành gợi ý cho ông vài điều. Hôm qua khi ngồi xuống chiếc ghế đó, phải chăng ông có chủ đích che giấu một vật có thể tiết lộ danh tính kẻ đột nhập?"

Bannister tái mặt. "Không, thưa ông. Không hề."

"Chỉ là gợi ý thôi mà", Holmes khéo léo nói. "Thú thật là tôi không thể chứng minh điều đó. Nhưng chuyện đó xem ra rất có thể, vì thầy Soames vừa rời nhà là ông liền thả kẻ nấp trong phòng ngủ đi mất."

Bannister liếm đôi môi khô nẻ.

"Tôi không thả ai, thưa ông."

"A, đáng tiếc thật, Bannister à. Có thể lúc trước ông nói thật, nhưng giờ tôi biết ông đang nói dối."

Người đàn ông tỏ vẻ sưng sỉa bất chấp.

"Không có ai cả, thưa ông."

"Thôi nào, Bannister!"

"Không, thưa ông. Không có ai cả."

"Vậy là ông không thể cho chúng tôi thêm thông tin rồi. Ông vui lòng ở lại trong phòng nhé? Mời ông đứng gần cửa phòng ngủ. Thầy Soames, thầy vui lòng lên phòng cậu Gilchrist và bảo cậu ta xuống đây."

Một loáng sau, ông thầy đã trở lại và dẫn theo chàng sinh viên nọ. Cậu ta có dáng dấp đẹp đẽ, cao ráo, uyển chuyển và nhanh nhẹn, bước đi thoăn thoắt và gương mặt cởi mở, dễ gần. Đôi mắt xanh tràn ngập lo âu nhìn từng người trong chúng tôi, rồi cuối cùng bàng hoàng dừng lại ở Bannister đang đứng trong góc đằng xa.

"Đóng cửa lại đã", Holmes nói. "Này cậu Gilchrist, ở đây chỉ có chúng ta và không ai ngoài kia biết một chữ nào về chuyện này. Chúng ta hoàn toàn có thể thẳng thắn nói chuyện với nhau. Cậu Gilchrist, chúng tôi muốn biết làm sao mà một con người trọng danh dự như cậu lại làm cái chuyện như hôm qua chứ?"

Chàng trai khốn khổ loạng choạng bước lui và ném về Bannister một cái nhìn hoảng sợ pha lẫn trách móc.

"Không, không phải tôi đâu, thưa cậu Gilchrist. Tôi không hề nói một chữ nào - không hé răng một chữ nào hết!" Ông người hầu kêu lên.

"Phải, nhưng ông vừa nói đấy thôi", Holmes cất tiếng. "Còn cậu, hẳn cậu thấy rằng sau lời nói vừa rồi của Bannister, cậu đã rơi vào tình thế vô vọng và cậu chỉ còn một cơ may duy nhất nếu thành khẩn khai thật."

Gilchrist giơ một bàn tay lên và cố kiềm nén vẻ uất ức hiện lên gương mặt trong chốc lát. Sau đó, cậu ta quỳ thụp xuống cạnh bàn, hai tay ôm mặt và bật khóc.

"Nào, nào", Holmes nhẹ nhàng nói, "đời chẳng có ai là không phạm sai lầm và ít ra không ai có thể quy kết rằng cậu đã phạm tội ác tày trời. Có lẽ sẽ đỡ hơn cho cậu nếu tôi kể lại sự vụ và nếu tôi sai ở chỗ nào thì cậu cứ đính chính. Vậy được chứ? Thôi, cậu không cần trả lời đâu. Hãy nghe và cậu sẽ thấy tôi không hề nói oan cho cậu.

Thầy Soames, từ lúc thầy nói rằng không có ai, kể cả Bannister, biết đề thi ở trong phòng thầy, vụ này đã bắt đầu tựu hình rõ rệt trong đầu tôi. Chúng ta có thể gạt thợ in ra khỏi diện nghi vấn. Nếu muốn, anh ta có thể chép lại đề thi ngay trong nhà mình. Tôi cũng không nghi ngờ cậu người Ấn, vì bản in thử được cuộn lại nên cậu ta không thể biết đó là gì. Mặt khác, tôi không tin có người tình cờ bước vào và vô tình thấy đề thi. Người vào phải biết đề thi có ở đó. Nhưng làm sao hắn ta biết?

Trước khi vào nhà, tôi có kiểm tra cửa sổ phòng làm việc của thầy. Thầy ngạc nhiên vì cho rằng tôi đang cân nhắc khả năng có người giữa ban ngày ban mặt, dưới con mắt của bao nhiêu người sống đối diện ngôi nhà này, lại cố chui qua ngả đó. Như vậy vô lí quá. Lúc ấy, tôi đang ước lượng xem người này phải cao chừng nào mới có thể thấy giấy tờ để trên bàn giữa phòng là gì khi đi ngang qua. Tôi cao sáu foot, ấy vậy mà cũng phải cố lắm tôi mới nhìn ra được. Vậy nên kẻ kia phải cao tầm tôi hoặc hơn. Giờ hẳn thầy đã rõ vì sao trong ba cậu sinh viên, tôi lại nghi ngờ cậu Gilchrist nhất. Tôi vào nhà và nói cho thầy nghe các suy đoán của tôi về cái bàn kê gần cửa sổ. Tôi không rút ra kết luận gì về cái bàn giữa phòng cho đến khi thầy nói Gilchrist là vận động viên nhảy xa. Bấy giờ, toàn bộ sự việc ngay tức khắc hiện lên trong đầu tôi và việc tôi cần làm chỉ còn là tìm ra vài bằng chứng chứng thực. Chẳng mấy chốc tôi đã có được chúng.

Chuyện xảy ra như thế này: Cả buổi chiều chàng trai kia ở ngoài sân vận động để luyện nhảy xa. Cậu ta đi đôi giày nhảy về, mà như thầy biết đấy, đây là loại giày đinh. Lúc đi ngang cửa sổ phòng thầy, nhờ lợi thế chiều cao nên cậu ta thấy mấy bản in thử trên bàn và đoán ra chúng là gì. Chuyện xấu đã chẳng xảy ra nếu khi đi qua cửa phòng thầy, cậu ta không thấy cái chìa khóa người hầu sơ suất để quên. Cậu ta bị thôi thúc phải vào xem cái cậu ta thấy có phải đề thi ngày mai không. Hành động đó không hề mạo hiểm vì nếu bị bắt gặp, cậu ta có thể nói mình có chuyện cần hỏi thầy. Khi thấy đó đúng là đề thi, cậu ta đã đầu hàng sự cám dỗ. Cậu ta đặt giày lên bàn. Cậu để gì bên ghế gần cửa sổ vậy?"

"Đôi găng tay", chàng trai nói.

Holmes đắc thắng nhìn Bannister.

"Cậu ta để găng tay trên ghế rồi lấy từng tờ đề thi để chép lại. Cậu ta tưởng thầy sẽ về qua cửa chính nên ngồi bên bàn cạnh cửa sổ để trông chừng. Như chúng ta đã biết, thầy vào bằng cửa hông. Cậu ta rất bất ngờ khi nghe tiếng thầy mở cửa ngoài. Cậu ta không còn đường thoát. Cậu ta chộp lấy đôi giày và chạy ào vào phòng ngủ nhưng để quên đôi găng tay. Thầy quan sát thấy rằng vết rách khá nông ở một bên, nhưng lại hằn rõ theo hướng của phòng ngủ. Chỉ riêng điều ấy cũng đủ cho ta thấy chiếc giày bị kéo về hướng đó và thủ phạm trốn trong phòng ngủ. Đất bám quanh một đinh giày vương lên bàn và mẩu đất thứ hai rã ra và rơi xuống sàn phòng ngủ. Xin được nói thêm, sáng nay tôi đã ra sân vận động, thấy rằng loại đất sét đen cứng này được đổ trong hố nhảy cùng một ít vỏ cây mịn hay mùn cưa rải lên trên để vận động viên không bị trượt ngã. Tôi nói đúng chứ, cậu Gilchrist?"

Anh sinh viên đứng thẳng dậy.

"Vâng, ông nói đúng", cậu ta nói.

"Chao ôi, cậu không còn gì để nói nữa ư?" Thầy Soames kêu lên.

"Có, thưa thầy, tôi còn có điều muốn nói, nhưng nỗi kinh hoàng bị vạch trần nhục nhã này làm tôi rối trí. Thầy Soames, hồi sớm nay sau một đêm thao thức, tôi đã viết một lá thư gửi thầy. Tôi viết trước khi biết tội lỗi của mình bị vạch trần. Nó đây ạ. Trong thư tôi có viết: Tôi quyết định không dự thi. Tôi được nhận vào làm ở Sở Cảnh sát Rhodes nên sẽ đi Nam Phi ngay."

"Tôi thật lòng rất vui khi biết cậu không định lợi dụng sơ sót của tôi", thầy Soames nói.

"Nhưng sao cậu lại đổi ý?"

Gilchrist chỉ Bannister.

"Chính người này đã đưa tôi vào đường ngay", cậu ta nói.

"Giờ nói đi, Bannister", Holmes nói. "Sau điều tôi vừa giải thích, hẳn ông đã thấy rõ chỉ có ông mới có thể cho chàng trai này ra khỏi phòng, vì sau lúc thầy Soames đi, chỉ còn lại mình ông trong phòng và ông hẳn đã khóa cửa khi ra. Tôi không tin cậu ta thoát ra ngoài qua đường cửa sổ phòng ngủ. Ông có thể làm sảng tỏ điểm cuối cùng trong bí ẩn này và cho chúng tôi biết lý do ông hành động như vậy chứ?"

"Nếu ông biết về tôi, ông sẽ thấy lí do rất đơn giản, nhưng tuy thông minh là thế ông không thể biết chuyện. Thưa ông, khi xưa tôi làm quản gia cho ông Jabez Gilchrist, cha của cậu đây. Khi ông ấy khánh kiệt thì tôi đến trường làm, nhưng tôi không bao giờ quên ông chủ quá cố. Tôi chăm lo cho con trai ông ấy để trả ơn. Vâng thưa ông, hôm qua khi thầy Soames gọi tôi vào phòng, cái tôi thấy trước tiên là đôi găng tay màu nâu của cậu Gilchrist trên cái ghế đó. Tôi biết rõ đôi găng nên hiểu ra ngay. Nếu thầy Soames thấy chúng, tất cả sẽ hỏng bét. Tôi vội ngồi xuống ghế đó và không nhúc nhích cho đến khi thầy Soames chạy đi tìm ông. Sau đó cậu chủ tội nghiệp, người từng ngồi trong lòng tôi, bước ra và thú nhận tất cả. Thưa ông, lẽ tự nhiên tôi phải cứu cậu ấy chứ? Và cũng là lẽ tự nhiên tôi phải nói phải quấy với cậu Gilchrist như người cha quá cố của cậu ấy, để cậu ấy hiểu mình không thể trục lợi bằng cách đó, đúng không? Ông có chê trách tôi không, thưa ông Holmes?"

"Đúng, tôi không thể chê trách ông", Holmes nói rất thành thực và đứng dậy. "Thầy Soames, tôi nghĩ chúng tôi đã làm sáng tỏ vấn đề nho nhỏ của ông và bữa điểm tâm đang chờ chúng tôi ở nhà. Đi nào, Watson! Còn về phần cậu, tôi mong một tiền đồ xán lạn đang chờ cậu ở Rhodes. Cậu đã vấp ngã một lần và tôi mong cậu có thể vươn cao trong tương lai."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro