• Tràng giang

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

A. MỞ BÀI

Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu, trưởng thành từ phong trào Thơ mới. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Huy Cận thường tìm nguồn cảm hứng từ thiên nhiên vạn vật, vũ trụ để gởi gắm "nỗi sầu vạn kỷ" với phong cách đậm chất trữ tình, triết lí. Một trong những bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại rút từ tập "Lửa thiêng" xuất bản năm 1940 là "Tràng giang". Bài thơ được gợi tứ từ dòng sông Hồng vào mùa thu 1939. Khi ấy, Huy Cận là sinh viên trường cao đẳng Canh Nông đứng ở bờ Nam bến Chèm – Hà Nội nhìn dòng sông hồng mênh mang sóng nước, lòng chạnh buồn khi nghĩ về cuộc đời nổi trôi nên đã sáng tác bài thơ này. Đặc biệt là đoạn thơ [...] bởi qua bức tranh sông nước lúc chiều tàn, nhà thơ đã bộc lộ cái tôi cô đơn, nỗi nhớ quê hương, nỗi buồn sông núi da diết của mình.

[...]

B. THÂN BÀI

· Khái quát chung:

a) Nhan đề

"Tràng giang" có nghĩa là sông dài. Đây là từ biến âm của hai chữ Hán Việt "trường giang". Âm "ang" trong "Tràng giang" được điệp lại tạo nên dư âm vang xa, mở ra chiều rộng bát ngát cho dòng sông tạo âm hưởng tao nhã, cổ kính chung cho toàn bài, đồng thời tránh sự nhầm lẫn với dòng sông Trường Giang của Trung Quốc.

b) Lời đề từ

"Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài"

Đề từ là những lời chỉ dẫn, mách bảo kín đáo về con đường khám phá tác phẩm văn chương. Lời đề từ có thể ví như chiếc khóa ngầm để mở bức thông điệp thực sự của nhà văn. Lời đề từ trong bài thơ thâu tóm cả tình và cảnh. Trước bức tranh trời rộng sông dài, nhân vật trữ tình bộc lộ nỗi niềm bâng khuâng, buồn nhớ về quê hương, đất nước. Câu thơ mang âm hưởng trầm buồn do phần lớn các thanh bằng tạo nên.

· Phân tích:

a) Khổ 1 Cảnh sông nước mênh mang, bát ngát và nỗi buồn của nhà thơ

Bài thơ được mở đầu bằng tứ thơ cổ điển: dòng sông, con thuyền, không gian rộng lớn và tâm trạng của con người.

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;"

Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sông nước mênh mang. Dòng sông ngoại cảnh cũng là dòng sông tâm hồn, nỗi buồn trải ra cùng lớp lớp sóng. Khác với dòng trường giang hùng vĩ, cuồn cuộn của Đỗ Phủ:

"Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ,

Bất tận Trường giang cổn cổn lai."

"Tràng giang" của Huy Cận lặng lờ "sóng gợn", "thuyền xuôi mái", nhuốm nỗi chia li "thuyền về nước lại sầu trăm ngả". "Sóng gợn" là sóng nhỏ lăn tăn, lan tỏa ra xa và sóng buồn điệp điệp là con sóng của lòng người chứa đựng nỗi buồn âm thầm, tha thiết. Có bao nhiêu lớp sóng trên sông là có bấy nhiêu nỗi buồn của thi sĩ.

Khi nói về hình ảnh của con thuyền là một trong những hình ảnh đẹp, không hiếm ở trong thơ ca đời Đường, thơ ca Việt Nam, những áng ca dao như:

"Thuyền về có nhớ bên chăng,

Bến thì một dạ bâng khuâng đợi thuyền."

(Ca dao)

Hay như hình ảnh con thuyền, dòng sông xuất hiện thật đẹp trong bài "Lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng" (Lí Bạch), Tì Bà hành (Bạch Cư Dị). Thế nhưng nhà thơ không chủ ý dùng hình ảnh con thuyền để khẳng định một tình yêu thủy chung hay khẳng định một tình bạn mà chủ yếu dùng hình ảnh con thuyền cô đơn, lẻ bóng, nhỏ nhoi để làm bật lên cái rộng dài của sông nước và ngược lại, dùng cái hữu hạn để nói cái vô hạn. Ngoài ra, câu thơ mở đầu và toàn bộ bài thơ có sự vận dụng linh hoạt nghệ thuật đầu gợi cuối mở. Các từ: "buồn điệp điệp", "nước song song", "thuyền về", "nước lại" ... có tác dụng làm cho giọng điệu bài thơ uyển chuyển, linh hoạt vừa tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc vừa tạo nên không khí trang trọng, cân xứng, nhịp nhàng cho cả bài thơ.

Ba câu đầu có cái nhìn bao quát, có cả cảnh và tình. Nhà thơ sử dụng thi pháp nghệ thuật của Đường thi, dùng khách quan để nói chủ quan, lấy ngoại cảnh khắc sâu tâm cảnh, cái chủ ý vẫn là nỗi buồn sầu được thể hiện rõ hơn qua nghệ thuật ẩn dụ nhân hóa "buồn điệp điệp", "sầu trăm ngả". Tuy nhiên, "Tràng giang" là bài thơ hiện đại – sản phẩm của phong trào Thơ mới nên bên cạnh màu sắc cổ điển vẫn bàng bạc sự cách tân của thơ ca hiện đại thể hiện ở hệ thống hình ảnh, thi liệu và cảm xúc. Câu thơ cuối được đánh giá là câu thơ tuyệt bút bởi chính chất hiện đại của nó:

"Củi một cành khô lạc mấy dòng."

Bảy chữ trong một dòng thơ, chữ nào cũng có hàm nghĩa sâu sắc. Nhà thơ sử dụng khá dày đặc các thủ pháp nghệ thuật như đảo ngữ, ẩn dụ, nhân hóa, đối lập. Chữ "củi" gợi lên hình ảnh một vật thể tầm thường trong cuộc sống ít thấy xuất hiện trong thơ ca cổ điển. Chữ "một" ít ỏi đối lập với mấy dòng rộng lớn. Chữ "cành" gợi sự nhỏ bé, chữ "lạc" gợi sự liên tưởng mất phương hướng. Như vậy, ta thấy được rằng đây rõ là thân phận của một cành củi khô trôi dạt từ trên thượng nguồn. Nó phải trải qua biết bao thăng trầm từ suối ra sông, từ sông ra biển cả. Từ nét nghĩa ấy, Huy Cận đã thổi vào dòng thơ ý nghĩa biểu tượng cho số kiếp nổi lênh đênh, trôi dạt của những con người. Trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh con thuyền, cành củi khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định, đồng thời gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả.

b) Khổ 2 – Cảnh bến sông hoang vắng và nỗi buồn cơ đơn của nhà thơ

Tưởng như nỗi buồn đã dừng lại, nhường chỗ cho chút niềm vui ủi an. Nhưng sang khổ thơ thứ hai, nỗi sầu càng lớn thêm, thấm sâu vào cảnh vật:

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa chợ vãn chiều."

Trước thiên nhiên rộng lớn ấy, nhà thơ mong tìm những nơi chốn tụ họp của con người "làng, chợ, bến" nhưng chỉ còn lại sự hoang vắng, trơ trọi. Lại thêm nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy "lơ thơ" được đảo lên đầu dòng nhằm nhấn mạnh sự thưa thớt trên cồn nhỏ. Bởi lẽ mùa thu, nước sông vùng Bắc bộ thường dâng cao. Những dải đất giữa sông đã bị bao phủ đầy nước, cây cối trên những cồn nhỏ đã cạn kiệt nhựa sống. Gió mùa thu nhẹ thổi, đem theo cái lạnh đìu hiu bao phủ khắc không gian rộng lớn. Mà nhắc đến "đìu hiu", có một sự thật thú vị rằng Huy Cận đã học từ câu thơ dịch "Chinh phụ ngâm":

"Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò."

Sự khác biệt ở khổ hai là không gian được mở rộng với chiều cao vời vợi của bầu trời, chiều dài bát ngát của dòng sông và chiều rộng mênh mang của vũ trụ.

Bến đò thường là nơi tụ tập đông người nhưng cái lạnh của tiết thu lúc chiều tàn khiến cho các bến nhỏ tịnh không một bóng người, càng tô đậm nỗi buồn đến sầu não của nhà thơ. Hai chữ "Đâu tiếng" đảo lên đầu dòng thơ như một câu hỏi tu từ gợi ra nhiều cách hiểu. Nếu hiểu theo sắc thái nghi vấn: đâu rồi âm thanh từ tiếng làng xa đưa lại thì câu thơ nhằm nhấn mạnh tâm trạng của nhân vật trữ tình đang tìm kiếm sự sống. Nếu hiểu theo nghĩa khẳng định: không hề có âm thanh từ phía làng xa đưa lại thì lại nhấn mạnh sự hụt hẫng, chơi vơi. Dù theo cách hiểu nào thì tâm trạng nhân vật trữ tình cũng khao khát tìm đến sự sống của con người. Chủ thể trữ tình trong trạng thái đơn côi nên nhìn đâu cũng thấy cái lạnh buồn, vắng vẻ.

Hai câu thơ cuối cùng được đánh giá là những câu thơ đạt hiệu quả thẩm mĩ.

"Nắng xuống trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng bến cô liêu."

Những cấu trúc đăng đối "nắng xuống - trời lên", "sông dài - trời rộng" nhấn mạnh ấn tượng không gian được mở ra ở cả ba chiều. Kết hợp độc đáo "sâu chót vót" với cái thăm thẳm của vũ trụ. "Sâu" gợi được ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng. "Chót vót" khắc họa được chiều cao dường như vô tận. Càng rộng, càng sâu, càng cao thì cảnh vật càng thêm vắng lặng, chỉ có sông dài với bờ bến lẻ loi, xa vắng. Nỗi buồn tựa hồ như thấm vào không gian ba chiều. Con người ở đây trở nên bé nhỏ, có phần như bị rợn ngợp trước vũ trụ rộng lớn, vĩnh hằng và không thể không cảm thấy "lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian" (Hoài Thanh).

c) Khổ 3 – Cảnh sông nước mênh mông hoang vắng đến rợn ngợp

Theo mạch cảm xúc của hai khổ thơ trước, khổ thơ thứ ba càng khắc sâu thêm nỗi buồn tuyệt đối:

"Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cần gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."

Khổ thơ ba thể hiện rõ bút pháp tả cảnh ngụ tình với những hình ảnh vừa gần gũi thân quen vừa giàu sức gợi. Những "cảnh nghèo phiêu dạt" giữa "lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng" phải chăng cũng là hình ảnh những kiếp người lênh đênh, vô định? Hình ảnh "bèo dạt về đâu hàng nối hàng" gợi lên hình ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu.

Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nghệ thuật phủ định được lặp lại: "không một chuyến đò ngang", "không cầu". Toàn cảnh sông dài, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người khi mà nhà thơ mong tìm một sự giao cảm, gắn bó nhưng trước mắt chỉ là không gian mênh mông, không một chuyến đò, không một cây cầu kết nối. Con người cảm thấy bơ vơ, cô độc giữa một cõi đời không chút niềm thân mật. Ở nơi đây không có bất cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống, của bóng hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật giữa con người với nhau Vì thế, nỗi buồn ở bài thơ này không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời.

d) Khổ 4 – Cảnh bầu trời lúc hoàng hôn và tâm trạng nhung nhớ của thi nhân

Khổ thơ cuối bài thơ vẽ nên một bức tranh đầy tráng lệ của thiên nhiên và nỗi buồn sâu lắng của lòng người:

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa."

Hai câu thơ đầu khổ thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên chiều tà với vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ. Và nỗi cô đơn dường như càng trở nên thấm thía khi hoàng hôn sắp đi về cõi tàn của trời đất. Được gợi từ câu thơ Đỗ Phủ: "Mặt đất mây đùn cửa ải xa", Huy Cận đã sáng tạo nên hình ảnh một hoàng hôn hùng vĩ "Lớp lớp mây cao đùn núi bạc". Hình ảnh những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác nối tiếp nhau "đùn" lên dưới ánh nắng chiều như tạo nên những quả núi dát bạc.

Cánh chim quen thuộc trong thơ ca về hoàng hôn đến Huy Cận cũng mang nét mới lạ: cái hữu hình của cánh chim nhỏ nghiêng xuống làm hiện lên cái vô hình của bóng chiều trĩu nặng. Thơ xưa thường tả hình ảnh cánh chim trong chiều muộn để gợi ý niệm về thời gian đồng thời gửi gắm nỗi buồn xa vắng như:

"Chim hôm thoi thót về rừng."

(Nguyễn Du)

Hay như trong bài "Chiều tối" của Hồ Chí Minh:

"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,"

Hình ảnh đôi cánh chim trong "Chiều tối" của Hồ Chí Minh hướng về một không gian nhất định là khu rừng gợi niềm khao khát được sum họp. Cánh chim trong bài thơ của Huy Cận không thấy có điểm dừng, vì thế nó thực sự mông lung, vô định. Nhà thơ sử dụng nghệ thuật mượn điểm vẽ diện kết hợp nghệ thuật đối lập "lớp lớp mây cao" – "chim nghiêng cánh nhỏ"; lấy cái hữu hạn làm nổi bật cái vô hạn. Dấu ":" xác lập tương quan giữa bầu trời và mặt đất. Đôi cánh chim cũng trĩu nặng vì chở bóng chiều âm thầm sa xuống mặt đất.

Hai câu thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của tác giả:

"Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."

Từ láy "dợn dợn" gợi sự đa nghĩa, không chỉ tả những đợt sóng lan xa mà hơn thế nó còn gợi lên cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ – nỗi buồn của người xa xứ đang nhớ quê hương da diết. Khoảnh khắc chiều tà gợi nỗi buồn xa vắng cho người xa quê. Bữa cơm gia đình đạm bạc nhưng ấm no cũng chính là sợi dây bền chặt, thiêng liêng gắn mỗi con người. Hai câu thơ cuối được tác giả lấy từ trong "Hoàng Hạc lâu" của Thôi Hiệu:

"Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu."

Câu thơ cuối đậm chất cổ điển khép lại bài thơ đã diễn tả một cách chân thực và rõ nét niềm thương nhớ quê hương đất nước của nhà thơ. Khói sóng trên sông làm Thôi Hiệu buồn, còn Huy Cận thì "không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà", nỗi nhớ đã luôn da diết trong lòng tác giả.

· Nghệ thuật & nội dung:

"Tràng giang" mang đậm phong vị cổ điển qua việc vận dụng nhuần nhuyển thể thơ bảy chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng đối; bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi hơn là tả, những từ Hán việt cổ kính "tràng giang", "cô liêu", ... Song, "Tràng giang" lại cũng rất mới qua xu hướng giãi bày trực tiếp cái tôi trữ tình "buồn điệp điệp", "sầu trăm ngả", "không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" ... qua những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn xúc cảm cá nhân của tác giả.

· Đánh giá:

Trong các bài thơ của nhà thơ trước Cách mạng thì đây là những vần thơ đậm chất Huy Cận nhất. Cụ thể, nói như nhà phê bình văn học Diệp Tiếp: "Thơ là tiếng lòng", nói như Tố Hữu: "Thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã thật tràn đầy", tức thơ là dòng chảy của cảm xúc. Chúng ta biết rằng Hoài Thanh từng nhận định: "Đời chúng ta nằm trong vòng chữ "tôi". Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ". Nếu như Thế Lữ cũng là một nhà thơ mới và có xu hướng "thoát lên tiên" để quên đi thực tại, hay một ví dụ khác là nhà thơ Chế Lan Viên thì muốn đem lá vàng hoa rụng của mùa thu trước để chắn nẻo xuân sang:

"Tôi có chờ đâu, có đợi đâu

Ðem chi xuân lại gợi thêm sầu?

- Với tôi, tất cả như vô nghĩa

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!"

Với bài thơ này, Huy Cận lại có một thái độ khác hẳn: triền miên trong nỗi buồn thương nhưng thi sĩ không bị xoáy vào vòng tròn tuyệt vọng hay một thế giới siêu thực như nhiều nhà thơ khác giai đoạn ấy. Ông vẫn tha thiết với cuộc đời và dành trọn những gì chân thành nhất cho nó, đắm say vào cảnh sắc của đất nước, quê hương và hòa mình với hương vị nồng nàn của cây cỏ. Và trích đoạn [...] trong tuyệt tác "Tràng giang" đã kết tinh tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Huy Cận, đánh dấu một trong những thành công xuất sắc của nhà thơ cả về phương diện nghệ thuật lẫn nội dung. Cùng với vốn văn hóa phong phú, dòng cảm xúc tinh tế, chân thực và quan điểm nghệ thuật rõ ràng cùng màu sắc riêng biệt, Huy Cận đã trở thành một trong bốn đỉnh cao của phong trào Thơ mới lúc bấy giờ và góp phần khiến thi đàn Việt Nam càng trở nên rực rỡ.

C. KẾT BÀI

Toàn bộ bài thơ đều thấm đẫm một nỗi buồn. Nỗi buồn trong bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới chính là nỗi buồn của cả thế hệ Huy Cận, cả dân tộc Việt Nam trong những năm tháng ngột ngạt, dưới thời Pháp thuộc. Nỗi buồn ấy cũng xuất phát từ quan niệm mĩ học của các nhà thơ lãng mạn thời Đường. Theo họ, cái đẹp thường đi đôi với cái buồn. Tuy nhiên cái buồn của Huy Cận trong bài thơ này là một nỗi buồn trong sáng vì nó thể hiện kín đáo tình yêu da diết, cháy bỏng của tác giả đối với quê hương, đất nước.

"Thuở chàng sống thì lòng chàng hay nhớ,

Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa?

Hay lòng chàng vẫn tủi nắng, sầu mưa

Cùng đất nước và nặng buồn sông núi?"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro