Chương 8

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

第8章 – Chương 8

云火可能是在找什么东西吧?赵云霄如是想。跟着云火又走了一会儿,这回赵云霄停下了。他看到了面包果树。云火也看到了,不过显然云火看不上 [kànbushàng] 面包果。他松开 [sōng kāi] 缠绕 [chán rào] 着赵云霄的尾巴,然后扭头对赵云霄叫了几声,接着越过面包果树朝里面跑去。

Vân Hỏa đang tìm gì đó chăng? Triệu Vân Tiêu nghĩ vậy. Đi cùng Vân Hỏa một lúc, lúc này Triệu Vân Tiêu dừng lại. Cậu nhìn thấy cây bánh mì. Vân Hỏa cũng nhìn thấy, nhưng hiển nhiên Vân Hỏa chướng tai gai mắt thứ quả bánh mì này. Hắn buông cái đuôi đang quấn lấy Triệu Vân Tiêu ra, quay đầu kêu với Triệu Vân Tiêu vài tiếng, sau đó lướt qua cây bánh mì chạy vào trong rừng.

"云火?"赵云霄在后面喊,以为云火丢下他走了,有点害怕。

"Vân Hỏa?" Triệu Vân Tiêu kêu phía sau, tưởng Vân Hỏa vứt cậu ở đây mà đi, cảm thấy hơi sợ hãi.

云火扭头看看他,又叫了几声,然后继续往深处跑了。赵云霄站在原地不敢动,他不相信云火会这么丢下他一个人离开,可是云火为什么要跑开呢?赵云霄看着那颗挂满果实的面包果树,脑袋里很乱。

Vân Hỏa quay đầu nhìn cậu, lại kêu thêm mấy tiếng nữa, sau đó tiếp tục chạy vào chỗ sâu hơn. Triệu Vân Tiêu đứng nguyên tại chỗ không dám cử động, cậu không tin Vân Hỏa sẽ vứt cậu ở đây một mình rồi bỏ đi, nhưng tại sao Vân Hỏa lại chạy đi? Triệu Vân Tiêu nhìn cây bánh mì mọc đầy quả, trong đầu cậu rối bời.

"呜呜——"茂密的丛林 [cónglín] 里传出云火的叫声,赵云霄立刻心安了,云火没有离开。过了会儿,又传来几声云火的叫声,赵云霄知道云火是在告诉他它就在附近,不要怕。赵云霄原地坐下,等着云火回来。他发现,他很怕云火一声不响地丢下他离开。

"U u......" Trong rừng cây um tùm truyền ra tiếng của Vân Hỏa, Triệu Vân Tiêu lập tức yên tâm, Vân Hỏa không bỏ đi. Một lúc sau, tiếng kêu của Vân Hỏa lại truyền tới, Triệu Vân Tiêu biết Vân Hỏa đang nói với cậu rằng nó chỉ ở quanh đó thôi, đừng sợ. Triệu Vân Tiêu ngồi xuống tại chỗ, chờ Vân Hỏa quay lại. Cậu phát hiện ra rằng cậu rất sợ Vân Hỏa bỏ rơi cậu mà không nói tiếng nào.

灌丛 [guàncǒng] 沙沙 [shāshā] 响,一抹赤红的身影出现,赵云霄迅速站了起来。云火回来了,赵云霄毫不吝啬 [lìnsè] 地送给云火一个大大的笑容。云火的嘴里叼着一根细竹竿 [zhúgān]。他快速来到赵云霄的跟前,尾巴缠住赵云霄的手腕,往林子外走。

Trong bụi cây vang lên tiếng sàn sạt, bóng dáng màu đỏ đậm xuất hiện, Triệu Vân Tiêu nhanh chóng đứng dậy. Vân Hỏa trở lại rồi, Triệu Vân Tiêu không hề keo kiệt chút nào, nở một nụ cười thật tươi với Vân Hỏa. Trong miệng Vân Hỏa ngậm một thân trúc nhỏ. Hắn chạy thật nhanh đến trước mặt Triệu Vân Tiêu, đuôi quấn lấy cổ tay Triệu Vân Tiêu, đi ra khỏi rừng.

云火是去找竹竿?赵云霄好奇地看着被云火拖在地上的翠绿 [cuìlǜ] 色的,好似 [hǎosì] 竹竿的东西,很纳闷 [nà mèn] 云火要竹竿干什么。

Vân Hỏa đi tìm thân cây trúc sao? Triệu Vân Tiêu tò mò nhìn thứ màu xanh lá cây giống như thân cây trúc đang bị Vân Hỏa kéo lê trên đất, bối rối không biết Vân Hỏa muốn lấy cây trúc làm gì.

把赵云霄带回岩石后,云火去湖边。赵云霄怕看到湖旁的尸体,乖乖躲在岩石后面不张望 [zhāngwàng]。等了没多久,云火回来了,嘴里叼着洗干净的竹竿。他在赵云霄面前顿 [dùn] 坐下,一只前爪按着竹竿,牙齿"卡吧"一咬,竹竿断了。云火把嘴里断了的一截竹竿递给赵云霄。赵云霄接过,往竹竿里一看,惊讶 [jīngyà] 地挑眉 [tiāo méi]。

Sau khi đưa Triệu Vân Tiêu quay về núi nham thạch, Vân Hỏa đến bờ hồ. Triệu Vân Tiêu sợ phải nhìn thấy cái xác cạnh hồ, ngoan ngoãn trốn đằng sau đá nham thạch không nhìn xung quanh nữa. Đợi không lâu lắm, Vân Hỏa quay về, trong miệng ngậm thân cây trúc đã rửa sạch sẽ. Hắn đột nhiên ngồi xuống trước mặt Triệu Vân Tiêu, một chân trước giữ lấy thân cây trúc, hàm răng cắn "rắc" một cái, thân cây vỡ ra. Vân Hỏa đưa đoạn thân cây bị cắn vỡ cho Triệu Vân Tiêu. Triệu Vân Tiêu cầm lấy, vừa nhìn thấy thứ bên trong thân cây, cậu kinh ngạc nhướng mày.

叫了一声,云火继续咬竹竿。把竹竿咬成好几节 [jié],他全部放在赵云霄脚边然后离开了。竹竿里是白色的棉 [mì] 状物 [zhuàng wù],赵云霄用指头弄出一点来尝尝,顿时双眼放光。云火原来是带他找吃的去了!竹竿里的棉状物口感有点像棉花糖 [miánhuā táng],有一股 [gǔ] 淡淡的甜味。嘴角含笑,赵云霄不客气地品尝起美味来,好吃。

Kêu lên một tiếng, Vân Hỏa tiếp tục cắn thân cây. Cắn cây trúc thành mấy đoạn, hắn thả hết đến cạnh chân Triệu Vân Tiêu rồi rời khỏi đó. Bên trong thân cây trúc có vật gì đó có dạng giống bông, Triệu Vân Tiêu lấy đầu ngón tay kéo ra một chút ăn thử, ngay lập tức mắt cậu tỏa sáng. Thì ra Vân Hỏa mang cậu đi tìm đồ ăn! Thứ trông như bông trong thân cây trúc có vị hơi giống kẹo bông, vị ngọt nhẹ. Khóe miệng mang nét cười, Triệu Vân Tiêu không khách sáo thưởng thức đồ ăn ngon, ngon thật đấy.

不知不觉 [bùzhībùjué] 地就把一整根竹竿给吃完了。赵云霄打了两个饱嗝 [dǎbǎogé]。云火吃了吗?赵云霄踟躇 [chíchú] 了一阵,还是从岩石后走了出来。天黑了,视野 [shìyě] 也不是太清楚,赵云霄往湖边看。就看到一抹火红还在和那一座肉山奋战 [fènzhàn]。赵云霄蹙眉 [cù méi],看了几分钟,他扬声 [yáng shēng]:"云火。"

Bất giác đã ăn hết cả một thân cây trúc, Triệu Vân Tiêu ợ hai cái. Vân Hỏa đã ăn chưa nhỉ? Triệu Vân Tiêu chần chừ một hồi rồi mới từ núi nham thạch đi ra ngoài. Trời tối rồi, tầm mắt cũng nhìn không rõ lắm, Triệu Vân Tiêu nhìn sang phía bờ hồ liền thấy một bóng hình đỏ rực như lửa đang chiến đấu hăng hái với núi thịt lớn. Triệu Vân Tiêu cau mày, nhìn mấy phút, cậu hô lớn: "Vân Hỏa."

正在奋战的赤红野兽立刻朝这边看了过来,并且很配合地叫了几声。赵云霄朝对方招招手,云火跳 [tiào] 下肉山先到河边清洗了一下嘴巴和爪子,然后欢快 [huānkuài] 地跑过来。

Dã thú đỏ thẫm đang hăng hái chiến đấu lập tức nhìn sang phía bên này, hơn nữa rất phối hợp kêu lên mấy tiếng. Triệu Vân Tiêu vẫy tay về phía đối phương, Vân Hỏa nhảy xuống khỏi núi thịt rồi qua bờ sông rửa sạch miệng và móng vuốt một chút, sau đó khoan khoái chạy qua.

"云火,你的伤还没好,休息吧。"赵云霄轻轻抓住云火脖子上的毛让他跟自己去休息。云火乖乖地跟着赵云霄走,很高兴。来到岩石后,赵云霄让云火躺在他铺好的兽皮上,然后他拿起晒干的T恤布去湖边清洗了一下回来给云火擦身。云火是他见过的唯一会主动去洗脸洗手的动物,真厉害。

"Vân Hỏa, vết thương của mày vẫn chưa lành, nghỉ ngơi đi." Triệu Vân Tiêu nhẹ nhàng giữ lấy lông trên cổ Vân Hỏa bắt nó đi nghỉ ngơi với mình. Vân Hỏa ngoan ngoãn đi theo Triệu Vân Tiêu, rất vui vẻ. Tới đằng sau núi nham thạch, Triệu Vân Tiêu để cho Vân Hỏa nằm trên tấm da thú cậu đã trải ra, sau đó cậu cầm miếng vải áo T-shirt đã phơi khô đến bên hồ giặt sạch rồi về lau người cho Vân Hỏa. Vân Hỏa là con vật duy nhất cậu từng biết chủ động đi rửa mặt rửa tay, giỏi thật đấy.

云火翻身露出肚皮,非常配合。赵云霄擦得仔细 [zǐxì],伤口已经愈合 [yùhé],他还是给云火抹了一次药汁。都说动物只会在他信任 [xìnrèn] 的人面前露出肚皮。擦拭 [cāshì] 着云火肚皮上的污物 [ū wù],赵云霄想,云火是信任他的吧。真好。因为他也很信任云火。

Vân Hỏa lật người để lộ cái bụng ra, hết sức phối hợp. Triệu Vân Tiêu lau rất tỉ mỉ, miệng vết thương đã khép lại, cậu vẫn bôi một lần nước thuốc cho Vân Hỏa. Người ta vẫn hay nói động vật chỉ lộ bụng trước mặt người mà chúng tin tưởng. Lau sạch vết bẩn trên bụng Vân Hỏa, Triệu Vân Tiêu nghĩ, Vân Hỏa tin tưởng cậu đó nhỉ. Tốt quá. Vì cậu cũng rất tin tưởng Vân Hỏa.

赵云霄上身的兽皮被他用柔软 [róuruǎn] 的树枝缠了几圈固定 [gùdìng] 住。没有剪子或刀等工具,赵云霄也没法把兽皮裁剪 [cáijiǎn] 成衣服,只能像抹胸 [mò xiōng] 那样裹住上身,这样就导致他的肩膀 [jiānbǎng] 和锁骨 [suǒgǔ] 的部位是露在外的。享受着赵云霄的服务,云火的赤目火热地看着雌性露在外的美丽部位。和雌性相处的时间越长,他越想把雌性永远留在自己的身边。

Da thú trên người Triệu Vân Tiêu được cậu dùng cành cây mềm quấn lại vài vòng để cố định lại. Không có những công cụ như kéo hay dao, Triệu Vân Tiêu không có cách nào cắt may da thú thành quần áo, chỉ có thể mặc như kiểu áo quây trên người thôi. Điều này khiến cho những chỗ như vai và xương quai xanh của cậu lộ ra ngoài. Thưởng thức bộ đồ của Triệu Vân Tiêu, đôi mắt Vân Hỏa nóng bỏng như lửa ngắm nhìn những bộ phận xinh đẹp lộ ra của giống cái. Thời gian sống chung với giống cái càng dài, hắn càng muốn giữ giống cái lại bên mình cả đời.

给云火擦了三遍身体,累得满头是汗的赵云霄才收了手。接着,他拿来可以刷牙的粗 [cū] 草根,沾 [zhān] 了一些盐果水,给云火清洁 [qīngjié] 剑齿。云火明白了雌性要给他做什么,他幸福地张开嘴。赵云霄满意地摸了摸云火的剑齿,给他认真清洁起牙齿来。

Lau người cho Vân Hỏa ba lần, Triệu Vân Tiêu mệt tới mức cả đầu đều là mồ hôi thì mới dừng tay. Sau đó, cậu cầm rễ cỏ thô dùng để đánh răng, dính thêm chút nước quả muối, làm sạch răng kiếm cho Vân Hỏa. Vân Hỏa biết giống cái muốn làm gì cho mình, hắn hạnh phúc há to miệng. Triệu Vân Tiêu thỏa mãn sờ răng kiếm của Vân Hỏa, cẩn thận làm sạch bộ răng cho hắn.

牙齿清洁了两遍,赵云霄到湖边收拾了一番 [yī fān],自己也洗漱 [xǐshù] 好,然后回到云火身边。把剩下的两条兽皮盖在云火的身上,赵云霄窝进云火敞开 [chǎngkāi] 的怀抱中,脸上带着几分羞赧。云火是雄性,表现得又很聪明,赵云霄很难把他当成是普通的野兽来看待。这样窝在云火的怀里,他会有一种被纯男性抱着的错觉 [cuòjué]。不过他还是在心里一遍遍告诉自己,云火只是智商 [zhìshāng] 高罢了,他再怎么聪明也还是一只野兽。和野兽如此亲密 [qīnmì] 地躺在一起是没有关系的。

Đánh răng hai lần, Triệu Vân Tiêu đến bên hồ dọn dẹp một phen, bản thân cũng đánh răng rửa mặt, sau đó quay về bên cạnh Vân Hỏa. Lấy hai tấm da thú còn lại đắp lên người Vân Hỏa, Triệu Vân Tiêu chui vào cái ôm rộng mở của Vân Hỏa, trên mặt mang theo đôi nét ngại ngùng. Vân Hỏa là giống đực, lại rất thông minh, Triệu Vân Tiêu hó mà đối xử với hắn như một con thú bình thường. Nằm trong lòng Vân Hỏa, cậu có một loại cảm giác như đang nằm trong vòng tay của người thuần nam vậy. Nhưng cậu vẫn tự nhắc đi nhắc lại trong lòng rằng, Vân Hỏa cũng chỉ dừng lại ở chỉ số thông minh cao thôi, cho dù có thông minh đến đâu thì cũng chỉ là dã thú. Nằm cùng dã thú một cách thân mật như vậy cũng không sao đâu.

把赵云霄严实 [yánshi] 地拥在自己的怀中,云火幸福地闭上眼睛。伤势 [shāngshì] 还未完全好,又忙碌了一天,也确实累了。红色的月光洒在两人的身上,一只沉睡的凶猛野兽,一位娇小的中性人,两人相拥在一起的姿势看上去是那么的契合 [qìhé]。

Ôm chặt Triệu Vân Tiêu trong lòng mình, Vân Hỏa hạnh phúc nhắm mắt lại. Tình trạng vết thương vẫn chưa tốt hẳn, lại phải bận bịu một ngày, hắn thực sự cũng mệt rồi. Ánh trăng đỏ rơi trên thân thể hai người, một con mãnh thú ngủ say, một người trung tính nhỏ xinh, tư thế hai người ôm lấy nhau nhìn qua sao lại phù hợp đến thế.

云火用了整整五天的时间才把青皮兽的尸体处理完毕。已经有爱吃腐食的大鸟在天空中盘旋了。那些鸟的翅膀 [chìbǎng] 本来就很大,又一群的飞在天上,几乎遮天蔽日 [zhē tiān bì rì]。大鸟们似乎很怕云火,只是在空中盘旋,并没有下来抢 [qiǎng] 食。腐肉的气味令人恶心,赵云霄远远地躲开,云火也不让他靠近湖边。入夜之后,原本拥着赵云霄睡觉的云火悄悄爬起来。把身上的兽皮盖在赵云霄的身上,他去了湖边。

Vân Hỏa mất đúng năm ngày mới xử lý xong toàn bộ xác con thanh bì thú. Đã có rất nhiều con chim lớn thích ăn xác thối luẩn quẩn lượn trên trời. Cánh của những loài chim này vốn đã rất to, lại còn bay thành đàn trên trời, gần như che kín cả bầu trời. Đám chim lớn đó dường như rất sợ Vân Hỏa, chỉ dám quanh quẩn trên trời chứ không dám xuống tranh cướp thức ăn. Mùi xác thối khiến cho người ta phát buồn nôn, Triệu Vân Tiêu trốn ở rõ xa, Vân Hỏa cũng không cho cậu đến gần bờ hồ. Khi màn đêm đã buông xuống, Vân Hỏa vốn đang ôm Triệu Vân Tiêu ngủ khẽ khàng bò dậy. Lấy da thú trên người đắp lên người Triệu Vân Tiêu, hắn đến bờ hồ.

月光下,赤红的野兽身形发生了诡异 [guǐyì] 的变化。原本四肢着地的他变成了人形。眼睛依旧 [yījiù] 的血红,尾巴垂 [chuí] 在地上,人形的手掌有着尖锐的指甲 [zhǐjia],火红的长发披 [pī] 在脑后,兽形的耳朵抖动 [dǒudòng],密切注意着岩石后面的动静。把青皮兽的皮摊开在地上,他动作很快地把青皮兽的骨头等物放在兽皮上。天将拂晓 [fúxiǎo] 的时候,云火到湖里清洗了身体,然后变回野兽的模样,回到熟睡的赵云霄身边,躺下。

Dưới ánh trăng, hình thể dã thú đỏ thẫm phát sinh những biến đổi kì lạ. Vốn đang bốn chân chạm đất, hắn biến thành hình người. Đôi mắt vẫn mang màu đỏ tươi như cũ, cái đuôi buông thõng trên mặt đất, bàn tay ở dạng người vẫn mang móng tay sắc nhọn, mái tóc dài đỏ rực thả sau đầu, đôi tai ở dạng hình thú giật giật, cẩn thận chú ý đến động tĩnh ở núi nham thạch phía sau. Trải da của thanh bì thú trên mặt đất, hắn nhanh chóng thả xương cốt của thanh bì thú lên tấm da thú. Khi trời sắp tờ mờ sáng, Vân Hỏa vào trong hồ tắm rửa sạch cơ thể, sau đó biến lại về hình thú, quay về bên cạnh Triệu Vân Tiêu đang ngủ say, nằm xuống.

他刚刚侧躺好,赵云霄就钻到了他的怀里,这时候的气温是一天中最低的。不够暖和的赵云霄下意识地寻找热源。赤红的双目晶亮 [jīng liàng],把依赖 [yīlài] 他的雌性圈入自己兽身的怀中,为他遮挡 [zhēdǎng] 清晨的寒冷。

Hắn vừa mới nằm xuống bên cạnh, Triệu Vân Tiêu liền chui vào lòng hắn, nhiệt độ lúc này là thấp nhất trong ngày. Triệu Vân Tiêu không đủ ấm nên vô thức tìm nguồn nhiệt. Đôi mắt đỏ thẫm sáng lên, hắn ôm lấy giống cái ỷ lại vào mình vào trong cái ôm hình thú của bản thân, thay cậu che chắn lạnh lẽo buổi ban sớm.

早上醒来的赵云霄只觉得身上热得出汗,睁眼一看,他知道自己为什么热了。云火的大脑袋抵 [dǐ] 着他的头顶,从他呼吸的声音中可以判定他还在睡。知道云火这几天累了,赵云霄动作很轻地把身上的兽皮扯 [chě] 到一边,没有起来的意思。根据他的经验,他一起来云火就一定会起来,他想云火能多睡会儿。虽然他是人类,云火是野兽,但事实上一直是云火在照顾他,他能做的实在有限。很奇怪不是吗?但情况就是如此。在两人一起生活的日子里,云火这只野兽把他照顾得很好,时常让他忘记云火只是一只野兽、一只在人类的思维 [sīwéi] 中只有本能的动物。

Buổi sáng Triệu Vân Tiêu tỉnh lại liền cảm thấy người mình nóng tới đổ mồ hôi, vừa mở mắt ra nhìn, cậu liền biết tại sao mình lại nóng như vậy. Cái đầu to tướng của Vân Hỏa chống lên đỉnh đầu cậu, từ tiếng hô hấp có thể đoán ra hắn vẫn còn đang ngủ. Biết mấy hôm nay Vân Hỏa mệt rồi, Triệu Vân Tiêu nhẹ nhàng kéo tấm da thú trên người mình sang một bên, cậu cũng không định dậy luôn. Dựa theo kinh nghiệm của cậu, cậu vừa thức dậy thì nhất định Vân Hỏa cũng dậy theo, cậu muốn để Vân Hỏa được ngủ lâu hơn chút nữa. Cho dù cậu là người, Vân Hỏa là dã thú, nhưng sự thật là Vân Hỏa vẫn luôn chăm sóc cho cậu, những gì cậu có thể làm được bây giờ rất hạn chế. Thật kì lạ phải không? Nhưng tình hình chính là như thế. Trong những ngày hai người ở với nhau, dã thú Vân Hỏa này chăm sóc cậu rất tốt, bình thường khiến cậu quên mất Vân Hỏa chỉ là một con thú, một động vật chỉ biết hành động theo bản năng như trong tư duy của con người.

哪怕 [nǎpà] 是那只可令地动山摇的大恐龙,赵云霄都觉得它的智商也完全比不过云火,云火也许是森林中最聪明的动物了。肚子也不饿,赵云霄安静地窝在云火的怀里,想他刚刚到这里来的时候,想云火暗中照顾他的日子,想他遇到云火后的生活。想到这里他陡然 [dǒurán] 发现,他已经好多天没有在石壁上记录了。

Cho dù con khủng long to lớn có thể mạnh kinh thiên động địa tới mức nào, Triệu Vân Tiêu cảm thấy chỉ số thông minh của nó hoàn toàn thua kém Vân Hỏa. Vân Hỏa có lẽ là con vật thông minh nhất trong rừng rồi. Không đói bụng lắm, Triệu Vân Tiêu yên lặng nằm trong lòng Vân Hỏa, nghĩ tới thời điểm cậu vừa mới tới đây, nghĩ tới những ngày Vân Hỏa âm thầm chăm lo cho mình, nghĩ tới cuộc sống sau khi gặp được Vân Hỏa. Nghĩ tới đây, cậu đột nhiên phát hiện ra, đã rất nhiều ngày cậu không còn khắc nét trên vách đá nữa rồi.

在赵云霄把兽皮扯到一边时,云火就醒了。他以为雌性饿了,没想到对方只是扯掉了兽皮接着继续安静地窝在他的怀里。应该是热了吧。其实他并不会因为一夜没睡而有多疲累,对他来说,三四天不睡觉都没关系。可是他非常非常享受雌性温柔地窝在他怀中的幸福。这样的幸福不知道能持续多久,所以他要尽可能多的保留一些。从来都是被孤立 [gūlì] 的他在被驱逐 [qūzhú] 出部落后就更没有机会和别人甚至是一个雌性如此贴近 [tiējìn] 了。他贪恋 [tānliàn] 雌性的柔软、贪恋雌性身上诱人的甜香。他想,等雌性离开他的那一天,他肯定会痛不欲生,这些与雌性共同生活的日子将会伴随他煎熬 [jiān'áo] 地度过余生 [yúshēng]。

Khi Triệu Vân Tiêu kéo da thú sang một bên thì Vân Hỏa đã tỉnh lại rồi. Hắn tưởng giống cái đã đói rồi, không nghĩ tới người kia lại chỉ vứt da thú ra rồi sau đó tiếp tục nằm yên trong lòng hắn. Chắc em ấy nóng rồi. Thực ra hắn sẽ không vì một đêm không ngủ mà quá mệt mỏi, đối với hắn mà nói, ba bốn ngày không ngủ cũng chẳng sao. Nhưng hắn cực kỳ hưởng thụ niềm hạnh phúc giống cái dịu dàng nằm trong lòng mình. Niềm hạnh phúc như vậy không biết có thể kéo dài được bao lâu, cho nên hắn muốn níu giữ lấy nó càng lâu càng tốt. Vốn một kẻ bị cô lập như hắn sau khi bị trục xuất khỏi bộ lạc thì sẽ càng không có cơ hội tiếp xúc với người khác, thậm chí là với một giống cái như vậy. Hắn rất lưu luyến sự dịu dàng của giống cái, lưu luyến mùi hương ngọt ngào hấp dẫn trên người giống cái. Hắn nghĩ, đợi đến cái ngày giống cái rời bỏ mình, hắn chắc chắn sẽ đau khổ đến không còn muốn sống nữa, những ngày cùng sống chung với giống cái sẽ theo hắn, dằn vặt hắn suốt phần đời còn lại.

不过虽然很贪恋,云火在躺了一个小时后还是假装醒来了。他的脑袋一动,赵云霄就知道他醒了。摸摸云火,赵云霄说:"再睡一会儿吧。"

Nhưng cho dù rất lưu luyến, Vân Hỏa nằm thêm một tiếng rồi giả bộ vừa mới tỉnh lại. Đầu hắn vừa nhúc nhích, Triệu Vân Tiêu liền biết hắn dậy rồi. Vuốt ve Vân Hỏa, Triệu Vân Tiêu nói: "Ngủ thêm một chút nữa đi."

从赵云霄的肢体语言 [zhītǐ yǔyán] 上云火明白了他的意思,他只觉得自己瞬间被无尽的幸福席卷 [xíjuǎn] 了。可很快,他的眼里就闪过黯然,如果雌性知道他根本就不是野兽,这些幸福就会全部破灭 [pòmiè]。习惯了被抛弃 [pāoqì] 的云火很快从黯然中恢复过来。舔了舔赵云霄的手,他还是起来了,不能饿到雌性。

Nhìn ngôn ngữ cơ thể của Triệu Vân Tiêu, Vân Hỏa hiểu ý của cậu, hắn cảm thấy bản thân lập tức bị cuốn vào niềm hạnh phúc vô tận. Nhưng rất nhanh, trong mắt hắn thoáng nét ủ ê, nếu như giống cái biết hắn vốn không phải là dã thú, niềm hạnh phúc này sẽ sụp đổ hoàn toàn. Vân Hỏa đã quen với việc bị vứt bỏ nên hắn hồi phục lại rất nhanh từ trong nỗi buồn chán. Liếm tay Triệu Vân Tiêu, hắn đứng dậy, không nên để giống cái bị đói.

伸了个懒腰,云火又舔了舔坐起来的赵云霄的肩膀,然后越过赵云霄往森林的方向走去。赵云霄知道他是去找吃的了。不再害怕云火会一声不响地丢下他,赵云霄把兽皮叠 [dié] 好放在一边的岩石上,然后去湖边洗漱。

Vươn vai một cái, Vân Hỏa lại liếm bả vai của Triệu Vân Tiêu vừa mới ngồi dậy, sau đó đi lướt qua Triệu Vân Tiêu đi về phía rừng. Triệu Vân Tiêu biết hắn đi tìm đồ ăn. Không sợ Vân Hỏa bỏ hắn lại lẳng lặng không nói tiếng nào, Triệu Vân Tiêu gấp da thú lại để sang một bên đá nham thạch, sau đó đi đến bên hồ đánh răng rửa mặt.

绕 [rào] 过岩石,就看到几十只黑色的鸟聚集在那堆被云火剥离出来的恐龙肉山上进食,肉体腐败的气味很明显。赵云霄尽可能地远离那些可怕的大鸟,到最靠近岩石边的湖边去洗漱。那些危险的大鸟对赵云霄这个大活人并不感兴趣,最多就是看他几眼,好似在判断他会不会来跟它们抢食。在发现赵云霄对这堆肉山没有威胁 [wēixié] 后,那些大鸟也乐意不去打扰赵云霄,最主要的是,赵云霄身上的某种气味令他们不安,所以他们也不会去招惹 [zhāorě] 赵云霄。

Lượn vòng quanh núi nham thạch liền nhìn thấy mấy chục con chim màu đen tập trung lại đống thịt khủng long đã bị Vân Hỏa lột da để ăn xác, mùi thịt thối rất rõ ràng. Triệu Vân Tiêu cố gắng cách xa lũ chim to lớn đó nhất có thể, đến bờ hồ chỗ gần núi nham thạch nhất để đánh răng rửa mặt. Những con chim nguy hiểm đó không có hứng thú chút nào với một người sống sờ sờ như Triệu Vân Tiêu, cùng lắm là nhìn cậu mấy lần, dường như đang đoán xem cậu có đến tranh thức ăn của chúng hay không. Sau khi phát hiện ra Triệu Vân Tiêu không có tính uy hiếp với đống thịt này, đám chim lớn cũng vui vẻ không đến làm phiền Triệu Vân Tiêu, chủ yếu là do trên người Triệu Vân Tiêu có một thứ mùi nào đó khiến chúng cảm thấy bất an, cho nên bọn chúng cũng không đến chọc giận Triệu Vân Tiêu.

赵云霄一边刷牙一边注意着肉山的方向。他记得昨天肉山的附近还有一堆骨头山呢,怎么睡了一觉起来不见了?而且恐龙皮好像也不见了。云火对这些骨头很看重,不然也不会费劲地把骨头和肉分离出来。这么一想,赵云霄急忙漱了口。那些骨头和皮不会被森林里的野兽偷走了吧?不敢乱跑,何况附近还有一群吃肉的鸟,赵云霄只能睡觉的那块岩石后焦急 [jiāojí] 地等待云火回来。左等右等,云火终于回来了,赵云霄急忙跑到他面前抓住他脖子上的毛就要去湖边。

Triệu Vân Tiêu vừa đánh răng vừa nhìn về phía núi thịt. Cậu nhớ hôm qua bên cạnh núi thịt còn có cả một đống xương nữa, sao vừa ngủ dậy đã không thấy nữa rồi? Hơn nưa, hình như da khủng long cũng không thấy đâu rồi. Vân Hỏa có vẻ rất xem trọng đám xương thú đó, bằng không hắn sẽ không cật lực tách xương ra khỏi thịt. Vừa nghĩ như vậy, Triệu Vân Tiêu vội vàng súc miệng. Không phải xương và da thú bị những con thú trong rừng trộm mất rồi đấy chứ? Không dám chạy loạn, huống hồ gần đây còn có một bầy chim ăn thịt nữa, Triệu Vân Tiêu chỉ có thể đến đằng sau tảng đá có thể nghỉ ngơi, nôn nóng chờ Vân Hỏa quay lại. Chờ lên chờ xuống, cuối cùng Vân Hỏa đã trở về, Triệu Vân Tiêu vội vã chạy đến trước mặt hắn, nắm lấy túm lông ở cổ, muốn đi về phía hồ.

云火把嘴里叼着的新鲜动物放在地上,疑惑地跟着赵云霄走,雌性看起来很着急,出了什么事?云火不由得想到那些腐食鸟。那些家伙是不是吓到雌性了?果然应该把青皮兽的肉丢到森林里去才对。只是雌性不喜欢他身上有腐烂的味道,云火马上考虑怎么样能又把那些肉移走,又不让雌性嫌弃 [xiánqì] 自己身上的味道。

Vân Hỏa thả con mồi tươi rói đang ngậm trong miệng xuống đất, nghi hoặc đi theo Triệu Vân Tiêu, nhìn giống cái có vẻ rất vội vã, chẳng lẽ có chuyện gì sao? Vân Hỏa không kìm được nghĩ đến đám chim ăn xác thối. Chẳng lẽ bọn chúng dọa giống cái sợ sao? Đúng là nên vứt thịt thanh bì thú vào trong rừng mới đúng. Chỉ là giống cái không thích mình bị dính mùi xác thối, Vân Hỏa lập tức suy nghĩ làm thế nào để di dời đám thịt kia đi mà không để giống cái ghét bỏ mùi trên người mình.

不清楚云火完全想岔 [chà] 了,绕过岩石后,赵云霄指着前方焦急地说:"云火,皮和骨头都不见了,是不是被偷了?"

Không biết Vân Hỏa đã hoàn toàn nghĩ đi đằng nào rồi, vòng qua sau nham thạch, Triệu Vân Tiêu chỉ về phía trước, gấp gáp nói: "Vân Hỏa, da và xương thú không thấy đâu nữa rồi, có phải bị trộm mất rồi không?"

云火速度回神,看向赵云霄指着的方向。眨 [zhǎ] 了两下眼睛,他看向身边的雌性。赵云霄继续说:"我早上起来就发现都不见了。"如果云火能听懂他的话就好了。赵云霄不知该怎么让云火明白。云火明白了。因为赵云霄刚才指的地方就是他之前堆放骨头的地方。雌性是不是发现骨头不见了所以着急?

Vân Hỏa nhanh chóng hoàn hồn, nhìn về hướng Triệu Vân Tiêu chỉ. Chớp mắt hai cái, hắn nhìn về giống cái bên cạnh. Triệu Vân Tiêu tiếp tục nói: "Sáng nay tao tỉnh dậy đã phát hiện ra không thấy rồi." Nếu Vân Hỏa nghe hiểu lời mình nói thì tốt rồi. Triệu Vân Tiêu không biết làm thế nào để cho Vân Hỏa hiểu. Vân Hỏa đã hiểu rồi. Bởi vì chỗ Triệu Vân Tiêu vừa mới chỉ chính là chỗ hắn để đống xương lúc trước. Có phải giống cái phát hiện ra không thấy đống xương đâu nữa nên mới cuống lên như vậy không?

云火舔舔赵云霄的肩膀,然后尾巴圈住他的手腕带他走。赵云霄松了口气 [sōng kǒu qì],云火听明白了!走了几步,云火停下,爬伏 [fú] 在地上,尾巴拉着赵云霄往他身上凑 [còu]。赵云霄紧张地摸摸突然趴下的云火,查看他已经愈合的伤口,问:"是不是伤口又痛了?"

Vân Hỏa liếm nhẹ bả vai Triệu Vân Tiêu, sau đó cái đuôi quấn lấy cổ tay cậu đưa cậu đi. Triệu Vân Tiêu thở dài nhẹ nhõm, Vân Hỏa nghe hiểu rồi! Đi được vài bước, Vân Hỏa dừng lại, nằm phục xuống đất, cái đuôi kéo Triệu Vân Tiêu lại gần người mình. Triệu Vân Tiêu căng thẳng vỗ về Vân Hỏa đột nhiên lại bò rạp xuống, kiểm tra lại vết thương đã lành, hỏi: "Có phải vết thương lại đau rồi phải không?"

云火的脑袋蹭蹭 [cèng] 赵云霄,左后爪抬起把赵云霄往自己的背上推,赵云霄愣了愣,不确定地爬上云火的背,云火是让他上来吗?下一刻,赵云霄就确定了,因为云火站起来了。

Đầu Vân Hỏa cọ cọ Triệu Vân Tiêu, chân trái đằng sau nhấc lên đẩy Triệu Vân Tiêu về phía lưng mình, Triệu Vân Tiêu ngây ra, không chắc chắn lắm mà trèo lên lưng Vân Hỏa. Vân Hỏa muốn mình trèo lên phải không? Ngay lập tức, Triệu Vân Tiêu liền thấy chắc chắn luôn, vì Vân Hỏa đứng dậy.

"啊!"被云火的起身吓了一跳的赵云霄急忙抓住云火脖子上的毛。云火扭头舔了舔他的手,脚步欢快地往森林里走。趴在他背上的赵云霄笑了,他调整好坐姿,直起上身,不由得精神高涨。啊,骑马的感觉是不是就是这样?不不,云火不是马,而且比马威风 [wēifēng] 多了。赵云霄摸摸云火的大脑袋,弯身在他的耳边说:"云火,谢谢你。"

"Aaaaaa!" Triệu Vân Tiêu bị động tác đứng lên của Vân Hỏa dọa hết hồn, nhanh chóng nắm lấy phần lông ở cổ Vân Hỏa. Vân Hỏa quay đầu liếm tay cậu, bước đi vui vẻ đi vào trong rừng. Triệu Vân Tiêu bò rạp trên lưng hắn cười lên, cậu điều chỉnh lại tư thế ngồi của mình, thẳng người lên, tinh thần nhảy vọt không kìm nén được. Ôi, cảm giác cưỡi ngựa chắc cũng như thế này phải không? Không không, Vân Hỏa không phải là ngựa, so với ngựa còn oai phong hơn nhiều ấy chứ. Triệu Vân Tiêu vuốt cái đầu to lớn của Vân Hỏa, cúi xuống bên tai hắn nói: "Vân Hỏa, cảm ơn mày."

云火......野兽知道这是雌性给他起的名字,虽然他不怎么会念,更不知道是什么意思。但他很喜欢,喜欢雌性给他起的名字,不管是什么意思他都喜欢。心情一好,云火的步伐 [bùfá] 就更加轻快,他伸展两只大肉翅,快跑了起来,好似随时都可以飞翔 [fēixiáng]。赵云霄努力圈住云火的脖子,笑着问:"云火,你的翅膀可以飞了吗?"云上的火焰 [huǒyàn],一定要飞上云霄 [yúnxiāo]。

Vân Hỏa... Dã thú biết đó là cái tên mà giống cái đặt cho mình, tuy rằng hắn không biết đọc như thế nào, cũng không biết nó có nghĩa là gì, nhưng hắn rất thích, thích cái tên giống cái đặt cho mình, cho dù có nghĩa gì thì hắn cũng thích. Tâm trạng vừa tốt hơn, nhịp chân của Vân Hỏa càng nhanh chóng và nhẹ nhàng hơn, hắn dang rộng đôi cánh của mình, chạy nhanh hơn, dường như tùy lúc là có thể bay lên. Triệu Vân Tiêu cố gắng ôm lấy cổ Vân Hỏa, cười nói: "Vân Hỏa, cánh của mày có bay được không?" Ngọn lửa đỏ rực trên trời, nhất định có thể bay được đến tận mây xanh.

飞上云霄......赵云霄突然很渴望云火能带着他飞起来。云火似乎听到了他心里的声音,脚步一转,他朝旁边快速奔驰 [bēnchí],两只大大的翅膀挥动,赵云霄发出一声声惊呼。啊!云火飞起来了!没有马上飞得很高,云火背着赵云霄飞过湖面落在岩石上,然后又从岩石上飞起,落在森林边。赵云霄的笑声也令云火感到了前所未有 [qiánsuǒwèiyǒu] 的快乐。

Bay đến với mây xanh... Triệu Vân Tiêu đột nhiên cực kỳ khao khát Vân Hỏa có thể mang cậu bay lên trời. Vân Hỏa dường như nghe thấy tiếng lòng của cậu, xoay bước, chạy băng băng sang phía bên cạnh, đôi cánh lớn mở bung, Triệu Vân Tiêu phát ra tiếng kinh hô. Aaaaaaaaa! Vân Hỏa bay lên rồi! Không bay lên cao ngay lập tức, Vân Hỏa cõng Triệu Vân Tiêu bay qua mặt hồ hạ xuống núi nham thạch, sau đó lại từ núi nham thạch bay lên, hạ xuống cạnh bìa rừng. Tiếng cười của Triệu Vân Tiêu khiến Vân Hỏa cảm nhận được niềm vui chưa từng có.

"云火,云火......"赵云霄一遍遍地喊云火的名字,希望对方能知道这是他为他起的名字。云火、云霄,这一刻,赵云霄就觉得云火是他的家人,他,也是云火的家人。

"Vân Hỏa, Vân Hỏa...." Triệu Vân Tiêu hét to tên hắn hết lần này đến lần khác, hi vọng đối phương biết được đó là tên cậu đặt cho hắn. Vân Hỏa, Vân Tiêu, vào thời khắc này, Triệu Vân Tiêu liền cảm thấy Vân Hỏa chính là người nhà của cậu, cậu cũng chính là người nhà của Vân Hỏa.



Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro