Chương 7

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

第7章 – Chương 7

考虑 [kǎolǜ] 了良久,赵云霄拿着激光棒再次进入森林。忍着恶心 [ěxin] 和害怕,他挑了一只最大的死掉的动物,拖 [tuō] 出森林。森林里很凉快,这些尸体仍然很新鲜。在赵云霄从森林出来时,一直注意着他的野兽低吼了起来。以为它伤口痛,赵云霄急忙丢下动物跑了过去。

Suy nghĩ rất lâu, Triệu Vân Tiêu cầm gậy laser đi vào rừng một lần nữa. Chịu đựng cơn buồn nôn và sợ hãi, cậu chọn xác một con vật lớn nhất, kéo ra khỏi rừng. Trong rừng rất mát mẻ, những cái xác này vẫn còn rất tươi. Khi Triệu Vân Tiêu ra khỏi rừng, dã thú luôn nhìn cậu phát ra tiếng gầm trầm thấp. Cho rằng vết thương của nó đang đau, Triệu Vân Tiêu vội vàng vứt con vật trong tay xuống rồi chạy qua.

跪坐 [guìzuò] 在野兽的身边,赵云霄查看 [chákàn] 它的伤口。他刚一坐下,野兽的一只爪子就扣住 [kòu zhù] 了他的身体。赵云霄抬 [tái] 眼看去,眼里是疑惑 [yíhuò]。野兽半合著眼睛,另一只爪子又扣住了赵云霄,把他整个人都圈在自己的身前了。赵云霄更不解了,怎么了?

Ngồi xổm bên cạnh dã thú, Triệu Vân Tiêu kiểm tra miệng vết thương. Cậu vừa mới ngồi xuống, một móng vuốt của dã thú giữ người cậu lại. Triệu Vân Tiêu ngước mắt lên nhìn, trong mắt cậu có sự nghi hoặc. Đôi mắt dã thú hơi khép lại, một móng vuốt khác cũng giữ Triệu Vân Tiêu lại, vây cả người cậu lại trước người mình. Triệu Vân Tiêu càng không hiểu, nó làm sao vậy?

摸了摸野兽的爪子,一点都不害怕那弯曲 [wānqū]、尖锐的利爪,赵云霄就如对待一个人那样解释说:"我去把那只动物处理下,晚上要吃的。"

Vuốt ve móng vuốt của dã thú, không hề sợ hãi móng vuốt cong sắc bén, Triệu Vân Tiêu đối xử với nó như với một con người, giải thích rằng: "Tao đi xử lí con vật kia, buổi tối nay còn có cái để ăn."

野兽的爪子往回收,赵云霄几乎要贴在野兽的怀里了。生怕碰到野兽的伤口,赵云霄不得不 [bùdébù] 一手按着野兽的肩胛 [jiānjiǎ],又说:"我就在湖边收拾,晚上我还熬肉汤给你喝。"

Móng vuốt của dã thú càng thu lại, Triệu Vân Tiêu gần như dán vào lòng dã thú. Sợ đụng phải vết thương của dã thú, Triệu Vân Tiêu đành phải dùng một tay ấn giữ vai dã thú, nói: "Tao chỉ dọn dẹp ngay bên hồ thôi, buổi tối tao hầm canh thịt cho mày ăn nha."

野兽低低叫了几声,舔了舔赵云霄的手,细长的尾巴拍了拍地面,不配合。赵云霄被困住了,他也不敢用力挣脱 [zhèng tuō],野兽身上有伤。不得已 [bùdéyǐ],他调整了一下姿势 [zīshì],挨 [ái] 着野兽坐好,等到晚上肚子饿了再去收拾好了。想到野兽可能是想让他陪着,赵云霄顺了顺野兽腮 [sāi] 旁处凌乱 [língluàn] 的毛发。红色,通体 [tōngtǐ] 的红色,就连眼睛都是红色的,他还没见过如此火红的野兽。

Dã thú thấp giọng kêu vài tiếng, liếm tay Triệu Vân Tiêu, cái đuôi thon dài vỗ vỗ trên mặt đất, không chịu. Triệu Vân Tiêu bị vây lại, cậu cũng không dám dùng sức thoát ra, trên người dã thú còn có thương tích. Bất đắc dĩ, cậu đổi tư thế một chút, tiếp tục ngồi bên dã thú, chờ đến tối đói bụng rồi thì hẵng thu dọn vậy. Nghĩ rằng dã thú muốn cậu ở bên cạnh, Triệu Vân Tiêu vuốt lại đám lông rối bù bên quai hàm của nó. Màu đỏ, cả người đều là màu đỏ, thậm chí đến đôi mắt cũng là màu đỏ, cậu chưa từng gặp một con thú nào đỏ rực lửa như vậy.

"是你吧?" 赵云霄低低地问,但带着肯定。心里有一个声音不停地告诉他,那个在暗处默默照顾他的好心人就是这支野兽。

"Là mày phải không?" Triệu Vân Tiêu nhẹ giọng hỏi, nhưng có thể khẳng định chắc chắn. Trong lòng vẫn có một thanh âm không ngừng nói với cậu rằng, người tốt bụng vẫn luôn âm thầm chăm sóc cho cậu chính là con thú này đây.

"谢谢你。"

"Cảm ơn mày."

赤红的双眼在看着他,赵云霄摀 [wǔ] 住野兽的两只眼睛:"睡一会儿吧,受伤了要多睡觉。"

Đôi mắt màu đỏ thẫm vẫn đang nhìn cậu, Triệu Vân Tiêu che lại cả hai mắt dã thú: "Ngủ một lúc đi, bị thương thì phải ngủ nhiều vào."

野兽被摀住的眼睛里是黯然 [ànrán],果然雌性还是怕他的眼睛。眼睛上的手离开,顺着他的脑袋抚摸 [fǔmō],然后是下巴 [xiàba]、脖子、身体。野兽闭上眼睛,这个雌性已经很不怕他了,他该满足才对。他自己也知道他的眼睛很吓人。

Trong đôi mắt bị bịt lại của dã thú đầy vẻ chán nản, quả nhiên giống cái này vẫn sợ đôi mắt của hắn. Bàn tay che mắt bỏ ra, vuốt ve đầu hắn, sau đó là cằm, cổ, cơ thể. Dã thú nhắm mắt lại, giống cái này không sợ mình nữa, hắn nên biết thỏa mãn mới đúng. Hắn tự biết đôi mắt mình làm người khác sợ hãi.

野兽在自己的抚摸下身体放软,眼睛也闭上了,赵云霄这才感觉到自己也很疲惫 [píbèi]。经历了惊心动魄 [jīngxīndòngpò] 的生死劫难 [jiénán],精神一旦 [yīdàn] 松懈 [sōngxiè] 下来,他只觉得脑袋发晕。可是野兽受伤了,万一又有什么危险的动物出现怎么办?赵云霄不敢睡。可他越不敢睡就觉得脑袋越沉。抗拒了半天,他最终仍是不支 [bùzhī] 地睡着了。

Cơ thể dã thú được vuốt đến mềm nhũn, mắt nhắm lại, Triệu Vân Tiêu lúc này mới cảm thấy mình cũng mệt lử. Vừa phải trải qua một kiếp nạn chấn động tâm can, một khi tinh thần đã được thả lỏng, cậu chỉ cảm thấy đầu óc choáng váng. Nhưng dã thú bị thương rồi, nhỡ mà có động vật nguy hiểm nào xuất hiện thì phải làm sao đây? Triệu Vân Tiêu không dám ngủ. Nhưng cậu càng không dám ngủ thì đầu óc càng nặng trĩu. Cố gắng chống lại cơn buồn ngủ hồi lâu, cuối cùng cậu vẫn không chịu nổi nữa mà ngủ thiếp đi mất.

赤红的双目睁开 [zhēng kāi],野兽轻轻转动脑袋,让靠着他的脑袋睡着的人能躺在他的怀里。野兽的心几乎要从嗓子 [sǎngzi] 眼里跳出来了。他和雌性靠得如此之近,他能清楚地闻到雌性身上甜美的味道,那是诱惑 [yòuhuò] 的味道。咽了咽 [yàn] 嗓子,野兽轻轻地把雌性的身体往下挪了挪 [nuó],让雌性可以枕 [zhěn] 在自己的右前肢上。又咽了几口唾沫 [tuòmo],野兽趁着赵云霄睡着了,肆无忌惮 [sìwújìdàn] 地看他露在兽皮外的肩膀 [jiānbǎng]、锁骨 [suǒgǔ] ......野兽舔了舔鼻子,流血了。

Đôi mắt đỏ thẫm mở ra, dã thú nhẹ nhàng dịch chuyển đầu, để cho người đang nằm dựa vào đầu hắn có thể nằm vào trong lòng mình. Trái tim dã thú như muốn vọt ra khỏi cổ họng. Hắn và giống cái dựa vào nhau gần như thế, hắn ngửi được rõ ràng mùi hương thơm dịu ngọt trên người giống cái, đó là một mùi hương đầy hấp dẫn. Nuốt nước bọt, dã thú nhẹ nhàng để cơ thể giống cái dịch xuống dưới, để giống cái gối đầu lên chân trước bên phải của mình. Lại nuốt thêm vài ngụm nước miếng, nhân lúc Triệu Vân Tiêu đang ngủ, dã thú không kiêng nể gì, nhìn ngắm bờ vai, xương quai xanh... lộ ra ngoài tấm da thú. Dã thú liếm mũi, chảy máu rồi.

一觉醒来 [yī jiào xǐng lái],天竟然已经黑了,红色的月亮挂在夜空。赵云霄只觉得身上暖洋洋 [nuǎn yángyáng] 的。有什么紧紧搂 [lōu] 着自己,他扭 [niǔ] 头一看,差点吓得叫出来。任谁睡了一觉起来旁边有一只带着长长剑齿的野兽都会被吓一跳 [xià yī tiào] 。好在赵云霄反应很快,认出身边的野兽是谁。野兽的胸膛 [xiōngtáng] 均匀 [jūnyún] 的起伏 [qǐfú],还在熟睡中。赵云霄没有动,安静地躺着。身下是兽皮,他枕着野兽的一只前肢,野兽的另一只前肢搂着他,难怪他感觉暖洋洋的,野兽把他整个人几乎都拥在了怀里,仍带着浓浓血腥气的身体给了他足够的温暖。

Thức dậy sau giấc ngủ, vậy mà trời đã tối đen rồi, mặt trăng đỏ đang lơ lửng giữa bầu trời đêm. Triệu Vân Tiêu chỉ cảm thấy trên người rất ấm áp. Có cái gì đó đang ôm chặt lấy mình, cậu xoay đầu nhìn, suýt chút nữa sợ đến hét ra tiếng. Bất cứ ai vừa ngủ dậy thấy có một dã thú răng kiếm dài ngoằng bên cạnh thì đều sẽ bị dọa cho hết hồn. May mà Triệu Vân Tiêu kịp nhanh chóng phản ứng lại, nhận ra dã thú bên cạnh mình là ai. Lồng ngực dã thú lên xuống đều đặn, vẫn đang ngủ say. Triệu Vân Tiêu không cựa quậy, im lặng nằm đó. Dưới người là tấm da thú, cậu gác đầu lên một chân trước của dã thú, chân trước còn lại của nó thì ôm lấy cậu, thảo nào cậu thấy ấm áp như thế. Dã thú gần như ôm cả người cậu trong lòng, cơ thể vẫn còn mùi máu tanh nồng lại mang đến cho cậu cảm giác đủ ấm áp.

多久没有这么被"人"紧拥着了。尽管这并不是一人,却让赵云霄感受到了睽违 [kuí wéi] 已久的体温 [tǐwēn] 热度 [rèdù]。以常人的眼光来看,野兽长得很可怕。通体赤红不说,那两颗长长的剑齿看得就让人肉疼,更别说野兽庞大的身躯和尖锐的爪子。如果不是在这种情况下与野兽相遇,赵云霄恐怕也会吓得惊慌失措 [jīnghuāngshīcuò]、四处逃窜 [táocuàn] 吧。

Đã lâu lắm rồi không được "người" khác ôm chặt lấy. Cho dù đây chẳng phải là con người thì vẫn đủ để Triệu Vân Tiêu cảm nhận được nhiệt độ cơ thể xa cách đã lâu. Từ cách nhìn của người bình thường mà nói, con thú này trông thật đáng sợ. Chưa nói đến toàn thân màu đỏ sẫm, mà nhìn hai chiếc răng kiếm dài thôi đã thấy da nhức thịt nhối rồi, càng chẳng cần nói đến vóc dáng khổng lồ và móng vuốt sắc bén của nó. Nếu như không phải gặp dã thú trong tình cảnh này, Triệu Vân Tiêu sẽ bị dọa tới mức sợ hết hồn, chạy trốn thục mạng ấy chứ.

真奇怪,没想到他竟然会如此安静地躺在一头猛兽的怀里,而这只敢于与恐龙搏斗 [bódòu] 的猛兽不仅会英勇地救他,还会细心地照顾他,甚至是像此刻 [cǐkè] 这样把他拥入怀中为他挡风 [dǎng fēng] 取暖 [qǔnuǎn]。赵云出大着胆子地抽出手,摸上野兽的剑齿。野兽的爪子微微动了下,赤红的双眼缓缓睁开。其实在赵云霄醒来的时候它就醒了,在野外生存的它不会真正的睡死。

Thật kì lạ, không nghĩ rằng cậu lại có thể nằm trong lòng một con mãnh thú một cách yên bình như thế, dã thú dũng cảm này không chỉ dám đánh nhau với khủng long để cứu cậu, mà còn chăm sóc cậu chu đáo, thậm chí còn ôm cậu vào lòng để chắn gió sưởi ấm cho cậu giống như lúc này. Triệu Vân Tiêu can đảm vươn tay ra, sờ lên răng kiếm của dã thú. Móng vuốt của dã thú khẽ động, đôi mắt đỏ thẫm từ từ mở ra. Thực ra từ lúc Triệu Vân Tiêu tỉnh thì nó cũng tỉnh lại rồi, nó sống ở nơi hoang dã nên không thể thực sự ngủ say như chết được.

睁开眼睛,就看到雌性在摸他的牙齿,野兽忍不住伸出舌头舔了舔雌性的手,然后他呆住了。赵云霄被野兽舔得手心养,他笑着躲开。抬眼,就看到野兽呆呆地看着他,赵云霄摸摸野兽巨大的脑袋:"我去弄吃的。"说完,他动作轻柔 [qīngróu] 地拉开野兽放在他身上的前肢,然后坐了起来。

Mở mắt ra liền nhìn thấy giống cái đang sờ vuốt hàm răng của hắn, dã thú không nhịn được mà thè lưỡi ra liếm bàn tay giống cái, sau đó hắn ngẩn ra. Bị dã thú liếm như vậy, Triệu Vân Tiêu cảm thấy cả tay và trong lòng đều ngứa ngáy, cậu cười bỏ tay ra. Ngước mắt lên, thấy dã thú đang ngây ra nhìn mình, Triệu Vân Tiêu vỗ về cái đầu to tướng của dã thú: "Tao đi làm đồ ăn nha." Nói xong, cậu nhẹ nhàng kéo chân trước của dã thú đang để trên người mình ra, sau đó ngồi dậy.

(cụm 得手心养 mình nghĩ là tác giả định dùng từ này, nghĩa là ngứa ngáy, chứ không phảI nuôi dưỡng, cả hai từ đều đọc là /yǎng/)

雌性对他笑了......野兽的心怦跳 [xīn pēng tiào],雌性的笑容真美。这是第一次有雌性对他笑。红色的月光下,野兽的眼睛看上去更加的血腥可怕,不过赵云霄一点都不害怕。他又摸了摸野兽的脑袋,裹 [guǒ] 好因为起身而滑 [huá] 下的兽皮,去弄吃的。殊不知 [shūbùzhī] 他的动作令野兽又一次看傻了眼。月光下,雌性的上身透 [tòu] 出诱人 [yòu rén] 的光泽 [guāngzé]。真好看,这个雌性真好看......野兽在赵云霄看不到的地方眼神 [yǎnshén] 黯淡 [àndàn]。这么漂亮的雌性不会属于 [shǔyú] 他。

Giống cái đang cười với hắn... Trái tim của dã thú đập loạn xạ, nụ cười của giống cái thật đẹp. Đây là lần đầu tiên giống cái cười với hắn. Dưới ánh trăng đỏ, mắt dã thú càng ánh lên màu đỏ của máu trông thật đáng sợ, nhưng Triệu Vân Tiêu không hề sợ hãi chút nào. Cậu vừa vỗ về đầu dã thú, vừa quây lại tấm da thú trên người vì cậu đứng dậy mà trượt xuống, đi nấu đồ ăn. Nào biết rằng động tác của cậu khiến cho dã thú nhìn ngây ra một lần nữa. Dưới ánh trăng, trên người giống cái hiện lên vẻ rực rỡ động lòng người. Thật xinh đẹp, giống cái này thật quá xinh đẹp... Ở nơi Triệu Vân Tiêu không nhìn thấy, đôi mắt dã thú ảm đạm. Giống cái xinh đẹp như vậy không thể thuộc về mình.

先吃了一个面包果果腹 [guǒfù],赵云霄找到他白天丢在河边的那具动物尸体。正发愁怎么处理,有厚重 [hòuzhòng] 的脚步声传来,赵云霄回头,惊呼:"你怎么起来了?"

Ăn một quả bánh mì trước cho no, Triệu Vân Tiêu tìm cái xác con vật ban sáng cậu vứt bên bờ hồ. Đang lo không biết nên xử lí như thế nào, có tiếng bước chân nặng nề truyền tới, Triệu Vân Tiêu quay lại, kinh hô: "Sao mày lại đứng dậy?"

野兽来到赵云霄的身边蹭 [cèng] 了蹭他。站起来的他都有赵云霄的胸口那么高,真的是庞然大物 [pángrándàwù]。又蹭了蹭赵云霄裸露的肩膀,野兽低头咬住那具动物尸体,抬脚缓步朝森林走去。赵云霄想要跟过去,走了两步又停下了。他想野兽不会想让他看到自己怎么进食才去森林里的吧。

Dã thú đến bên cạnh Triệu Vân Tiêu cọ vào cậu. Nó đứng cao ngang ngực Triệu Vân Tiêu, đúng là một con vật to lớn khổng lồ. Lại cọ tiếp vào bả vai trần lộ ra của Triệu Vân Tiêu, dã thú cắn lấy xác động vật, nhấc chân chậm rãi đi vào rừng. Triệu Vân Tiêu muốn đi theo, nhưng đi được hai bước thì dừng lại. Cậu nghĩ dã thú không muốn để cậu nhìn thấy nó ăn thịt như thế nào nên mới đi vào rừng nhỉ.

野兽拖着自己的晚餐进了森林,不一会儿,赵云霄就听到了好似皮毛从身上剥离的声音。他搓搓 [cuō] 胳膊 [gēbo] 上的鸡皮疙瘩 [jīpígēda] 离开了。到森林的另一边捡了一些枯枝 [kū zhī] ,赵云霄在湖边生起火堆 [duī]。坐在火堆旁,赵云霄注视着野兽进食 [jìnshí] 的方向。耐心地等待了快一个小时,野兽才从森林里出来了,赵云霄马上站起来跑过去。

Dã thú kèo đồ ăn tối của mình vào rừng, không lâu sau, Triệu Vân Tiêu nghe thấy âm thanh lột da thú. Cậu xoa xoa cánh tay đang nổi da gà rồi rời khỏi đó. Đến một phía khác của cánh rừng nhặt cành cây khô, Triệu Vân Tiêu nhóm lửa bên hồ. Ngồi bên đống lửa, Triệu Vân Tiêu nhìn về hướng dã thú đang ăn uống. Kiên nhẫn chờ gần một tiếng, dã thú mới đi từ trong rừng ra, Triệu Vân Tiêu lập tức đứng lên chạy qua đó.

野兽走得很慢,嘴里叼着东西。赵云霄跑到野兽跟前这才看清楚它叼的是什么。是一具被剥了皮、去了内脏和脑袋的动物尸体。赵云霄伸手接过,不顾 [bùgù] 上面还没清洗掉的血渍 [xuèzì],他走到湖边清洗了起来。野兽慢腾腾地回到原地,躺下。

Dã thú đi đứng rất chậm, trong miệng còn ngậm theo đồ. Triệu Vân Tiêu chạy đến trước mặt dã thú mới nhìn thấy rõ nó đang ngậm cái gì. Là xác một con vật đã được lột da, bỏ nội tạng và đầu. Triệu Vân Tiêu vươn tay ra cầm lấy, bất chấp trên đó vẫn còn máu chưa rửa sạch, cậu đến bên hồ rửa thịt. Dã thú chầm chậm quay lại chỗ cũ nằm xuống.

果然是它......一边清洗着,赵云霄不停地深呼吸。虽然之前已经猜到了,但在得知 [dézhī] 真相 [zhēnxiàng] 后他还是抑制 [yìzhì] 不住的眼眶 [yǎnkuàng] 泛 [fàn] 热。一想到野兽默默地为他采摘 [cǎizhāi] 水果、为他处理肉食、为他寻找各种食材,赵云霄不知要如何对野兽表达自己的感激。如果不是野兽一直在照顾他,他不知道自己能不能坚持到现在,或者,他早已成为那只恐龙的嘴中餐了。

Quả nhiên chính là nó.... Vừa rửa đồ ăn, Triệu Vân Tiêu không ngừng hít thở sâu. Tuy rằng lúc trước đã đoán ra được, nhưng sau khi biết được chân tướng, cậu vẫn không kiềm nén nổi vành mắt nóng lên. Cứ nghĩ đến dã thú âm thầm đi hái trái cây, xử lí thịt sống, tìm các loại nguyên liệu nấu ăn cho mình, Triệu Vân Tiêu không biết làm thế nào để nói lên sự cảm kích của mình với dã thú. Nếu không có dã thú vẫn luôn chăm sóc cậu, cậu không biết liệu mình có thể sống sót đến bây giờ hay không, hay có khi, cậu đã thành đồ ăn trong miệng khủng long từ lâu rồi.

在湖边呆了许久平静心绪,赵云霄这才拿着洗干净的肉食回来。用大树叶包裹住肉食,在附近的岩石后找了一个地方放好,赵云霄没有就此 [jiùcǐ] 休息,而是打来水,煮开,给野兽擦身、换药。野兽嘴边的胡须上有血渍,是刚才进食的时候沾 [zhān] 上的。

Ngồi ngẩn ra bên hồ rất lâu để trong lòng bình tĩnh lại, Triệu Vân Tiêu mới cầm thịt đã rửa sạch quay lại. Dùng lá cây to bọc lại miếng thịt, tìm một chỗ đằng sau núi nham thạch thả xuống, từ sau lúc đó, Triệu Vân Tiêu không lúc nào ngơi tay, từ lấy nước, đun lên, lau người rồi thay thuốc cho dã thú. Trên bộ râu bên miệng dã thú vẫn còn vết máu, là do ban nãy ăn uống bị dính lên.

给野兽换好药,赵云霄跪坐在它的身前认真 [rènzhēn] 地说:"你好,我叫赵云霄,很高兴能认识你。"

Thay thuốc cho dã thú xong, Triệu Vân Tiêu ngồi xổm trước mặt nó, nghiêm túc nói: "Chào mày, tao là Triệu Vân Tiêu, rất vui được gặp mày."

野兽听不懂他在说什么,但很高兴对方不怕他,愿意和他说话。雌性的声音都是这么好听。赵云霄接着说:"我叫你云火好吗?"

Dã thú nghe không hiểu lời cậu nói, nhưng rất vui mừng khi thấy đối phương không sợ hắn, bằng lòng nói chuyện với hắn. giọng nói của giống cái thật dễ nghe. Triệu Vân Tiêu nói tiếp: "Tao gọi mày là Vân Hỏa được không?"

野兽舔舔赵云霄的手,其实他更想舔肩膀、舔脸。知道野兽听不懂自己的话,赵云霄摊 [tān] 开手掌让对方舔他,说:"你不反对就是同意了。那我以后就叫你云火。"

Dã thú liếm tay Triệu Vân Tiêu, thực ra hắn muốn liếm vai, liếm mặt cậu. Biết dã thú không hiểu lời mình, Triệu Vân Tiêu mở lòng bàn tay ra để đối phương liếm lấy, nói: "Mày đã không phản đối thì tao coi như là đồng ý rồi nha. Vậy sau này tao sẽ gọi mày là Vân Hỏa."

云霄,云火......如果他真的回不去了,野兽就是他在这个世界上唯一的亲人了。他希望,野兽能成为他的亲人。主动钻入野兽的怀里,赵云霄抚摸野兽有着长长毛发的脖子。野兽这里的毛发很像公狮子,但野兽的脸比狮子和老虎看上去更凶猛 [xiōngměng],上颚 [shàngè] 长长的獠牙 [liáo yá] 像他在书上看到的远古 [yuǎngǔ] 的剑齿虎那样。背部的两只肉翅收拢 [shōulǒng],赵云霄记得这两只肉翅展开的时候非常的壮观 [zhuàngguān]。一只会飞翔 [fēixiáng] 的野兽。赵云霄低喃 [nán]:"云火......我叫云霄......赵云霄......"

Vân Tiêu, Vân Hỏa... Nếu như cậu thực sự không thể trở về được nữa, dã thú chính là người thân duy nhất của cậu ở thế giới này. Cậu hi vọng, dã thú có thể trở thành người thân của mình. Chủ động chui vào lòng dã thú, Triệu Vân Tiêu vuốt ve cái cổ đầy lông dài của nó. Lông ở chỗ này của dã thú giống như cái bờm của con sư tử đực, nhưng mặt của dã thú trông còn hung dữ hơn so với sư tử và hổ, răng nanh dài dài hàm trên giống như hổ răng kiếm thời viễn cỗ cậu từng thấy trong sách. Hai cái cánh ở sau lưng thu lại, Triệu Vân Tiêu nhớ khi đôi cánh này mở ra trông hết sức đồ sộ. Một con thú có thể bay lượn. Triệu Vân Tiêu nhỏ giọng thì thầm: "Vân Hỏa... Tao tên là Vân Tiêu... Triệu Vân Tiêu..."

"呜 [wū]......" 野兽低低叫了一声,伸出的舌头最终还是舔上了赵云霄的裸肩。他多么想能拥有这个雌性,多么想。

"U..." Dã thú trầm giọng kêu một tiếng, đầu lưỡi vươn ra cuối cùng cũng liếm được bờ vai trần của Triệu Vân Tiêu. Hắn khao khát được ôm lấy giống cái này biết bao, mong mỏi biết bao.

赵云霄任野兽舔他的手、舔他的肩膀、舔他的脖子。这种被需要、被呵护 [hēhù] 的感觉令他几乎忘记了林明远带给他的伤害。下午睡了很久,赵云霄一点都不睏 [kùn]。耳边伴随着虫鸣和野兽的呼吸声,赵云霄让自己的大脑放空,手指无意识地抚摸搭在他身上的那只爪子。不知发呆了多久,赵云霄又睡着了,睡得安然。

Triệu Vân Tiêu kệ cho dã thú liếm tay, liếm vai, liếm cổ cậu. Cảm giác được người khác cần đến mình, được che chở khiến cậu gần như quên mất những tổn thương mà Lâm Minh Viễn mang lại cho cậu. Ngủ trưa nhiều quá, Triệu Vân Tiêu không thấy buồn ngủ chút nào. Bên tai là tiếng côn trùng kêu và tiếng hô hấp của dã thú, Triệu Vân Tiêu để đầu óc mình được thư giãn, ngón tay vô thức vuốt ve móng vuốt đang đặt trên người mình. Không biết ngây ngẩn mất bao lâu, Triệu Vân Tiêu lại ngủ thiếp đi, ngủ thật an bình.

云火在湖边养了三天,令赵云霄高兴的是云火的伤口恢复 [huīfù] 得很快。第四天,云火在吃过早饭后去收拾那头死了多日的恐龙。恐龙的尸体已经开始腐败 [fǔbài],云火把赵云霄赶 [gǎn] 到了远处的一块岩石后,不让他看接下来的恶心场面 [chǎngmiàn]。赵云霄很听话地躲了起来。窝在一块大岩石的后面,他从包里拿出平板书看他存储 [cúnchú] 在电子书里的书籍 [shūjí]。这几天照顾云火,他都没有去湖里,对未来 [wèilái] 的生活,他又有些迷茫 [mímáng]。云火的伤好了,那云火会跟他生活在一起吗?如果生活在一起,那他万一 [wànyī] 能回去呢?这几天,都没有什么别的动物来找云火,赵云霄猜测云火可能也没有什么亲人。都说动物成年后就会离开父母,那云火应该成年了吧。

Vân Hỏa dưỡng thương bên hồ ba ngày, điều khiến cho Triệu Vân Tiêu vui mừng là vết thương của Vân Hỏa hồi phục rất nhanh. Đến ngày thứ tư, Vân Hỏa ăn xong bữa sáng liền đi dọn dẹp xác con khủng long đã chết nhiều ngày. Xác con khủng long đã bắt đầu bốc mùi hôi thối. Vân Hỏa xua Triệu Vân Tiêu đến sau một tảng nham thạch ở đằng xa, không để cho cậu nhìn thấy cảnh tượng buồn nôn này. Triệu Vân Tiêu rất nghe lời trốn sang chỗ khác. Ngồi đằng sau tảng đá lớn, cậu lấy máy đọc sách trong túi ra, đọc tiếp sách điện tử lưu trong máy. Mấy ngày gần đây mải chăm sóc cho Vân Hỏa, cậu không tiến vào lòng hồ nữa, cậu cảm thấy hơi hoang mang về cuộc sống tương lai. Vết thương của Vân Hỏa tốt lên rồi, liệu Vân Hỏa có muốn cùng sống với cậu không? Nếu như sống cùng nhau, liệu nhỡ đâu có một ngày cậu trở về được thì sao? Mấy ngày nay, không có bất cứ một động vật nào khác đến tìm Vân Hỏa, Triệu Vân Tiêu đoán Vân Hỏa có thể không có người thân nào. Người ta vẫn hay nói động vật khi đã trưởng thành thì sẽ rời khỏi cha mẹ, vậy chắc Vân Hỏa cũng đã trưởng thành rồi nhỉ.

这一躲就躲到了傍晚,中午赵云霄自己吃了一个面包果。云火没有来找他,赵云霄也没有去找云火。如果云火要离开,他也拦 [lán] 不住,反而 [反而] 徒 [tú] 增 [zēng] 伤感 [shānggǎn],不如就在这里等着吧。天暗了,赵云霄把电子书收回包里,伸了个懒腰。四周很安静,云火似乎已经离开了,赵云霄忍下心中的失落和伤感从岩石后面出来。在原地犹豫了半晌,他还是拔腿 [bátuǐ] 朝湖边走去。刚越过 [yuèguò] 大岩石,赵云霄往湖边一瞟,立刻转过身又躲回了岩石后,不过他脸上的失落换成了轻松的笑容。

Tránh đi đến tận chạng vạng, buổi trưa Triệu Vân Tiêu ăn một quả bánh mì. Vân Hỏa vẫn chưa quay lại tìm cậu, Triệu Vân Tiêu cũng không đi tìm Vân Hỏa. Nếu như Vân Hỏa muốn bỏ đi, cậu cũng không thể ngăn cản được, ngược lại chỉ càng thêm thương cảm, không bằng cứ ở đây chờ đợi. Trời tối rồi, Triệu Vân Tiêu cất sách điện tử vào trong túi, vươn vai. Xung quanh rất yên tĩnh, Vân Hỏa hình như đã bỏ đi rồi, Triệu Vân Tiêu kìm nén nỗi mất mát và buồn khổ trong lòng, đi ra từ đằng sau tảng đá. Lưỡng lự tại chỗ một lúc, cậu cất bước đi về phía hồ. Vừa mới bước qua tảng đá lớn, Triệu Vân Tiêu liếc nhìn bờ hồ, lập tức xoay người trốn sau tảng đá, nhưng vẻ mất mát trên mặt lại đổi thành nụ cười thoải mái.

湖边,云火正埋头 [máitóu] 处理 [chǔlǐ] 恐龙的尸体。皮已经剥下一半了,骨头也分离 [fēnlí] 出很多。恐龙太大了,这项工作怎么也得三四天的时间才能完成。青皮兽是这个世界绝对的霸主 [bàzhǔ],但好在数量并不多,一片大陆 [dàlù] 可能也就只有三四头青皮兽,再加上 [jiā shàng] 青皮兽彼此之间会争斗,也会吞食 [tūnshí] 幼崽 [yòu zǎi] ,所以青皮兽的数量一直不多,也不是那么容易就能碰到。这头青皮兽应该是到了发情期 [fā qíng qī] 所以才会闯 [chuǎng] 入这里,青皮兽更喜欢水多的地方。青皮兽的肉质艰涩 [sè],不好吃,所以坏了就坏了,云火一点都不可惜。但青皮兽的皮、牙齿、爪子、骨头等等都是宝贝,必须分离出来全部带走。

Bên hồ, Vân Hỏa đang vùi đầu xử lý cái xác con khủng long. Da thú đã lột được một nửa, xương cốt cũng đã tách ra được rất nhiều. Con khủng long quá lớn, việc này thế nào cũng phải mất đến ba, bốn ngày mới làm xong. Thanh bì thú là chúa tể ở thế giới này, nhưng may là số lượng loài này không nhiều, mảnh lục địa này khả năng chỉ có tầm ba, bốn con thanh bì thú. Thêm vào đó, giữa loài thanh bì thú cũng tranh đấu với nhau, hơn nữa còn ăn thịt cả con non, cho nên số lượng thanh bì thú luôn ít ỏi, cũng không dễ gặp phải chúng. Con thanh bì thú này chắc hẳn đang vào thời kì động dục nên mới xông vào đây, thanh bì thú thích những nơi có nhiều nước. Chất lượng thịt thanh bì thú rất thô ráp, khó ăn, cho nên thiu rồi thì để hỏng luôn đi, Vân Hỏa chẳng thấy tiếc chút nào, nhưng da, răng, móng vuốt, xương của thanh bì thú đều là vật quý hiếm, cần phải tách ra toàn bộ rồi mang về hết.

抬头看一眼天色,云火暂时停了下来。到湖边用爪子撩起水清洗了一下脸,又洗了洗爪子,他去找雌性。身上的伤还没完全好,他打消 [dǎxiāo] 了跳到湖水里清洗身体的念头 [niàntou]。

Ngẩng đầu lên nhìn sắc trời, Vân Hỏa tạm thời ngừng tay. Tới bên hồ lấy móng vọc nước lên rửa mặt một chút, vừa rửa luôn cả móng, hắn đi tìm giống cái. Vết thương trên người chưa khỏi hoàn toàn, hắn bỏ đi suy nghĩ nhảy xuống hồ rửa sạch cả cơ thể.

"呜呜——" 云火叫了两声。

"U u..." Vân Hỏa kêu lên hai tiếng.

立刻的,岩石后面探出一个人的脑袋,云火快速地跑了过去。赵云霄从岩石后面走出来,笑着问:"弄好了吗?"

Ngay lập tức, đằng sau tảng nham thạch ló ra một cái đầu, Vân Hỏa nhanh chóng chạy qua. Triệu Vân Tiêu từ đằng sau tảng đá đi qua, cười hỏi: "Làm xong chưa?"

云火听不懂雌性的语言,但他很喜欢雌性跟他说话。轻轻咬了下雌性的手腕 [shǒuwàn],云火转身,让雌性跟着他走。赵云霄跟上他,一眼都不敢去看湖边的那具尸体被处理成什么样子了。刚才不小心瞟到一眼已是令他毛骨悚然 [máogǔsǒngrán]。

Vân Hỏa không hiểu ngôn ngữ của giống cái, nhưng hắn rất thích nghe giống cái nói chuyện với mình. Nhẹ nhàng cắn cổ tay giống cái, Vân Hỏa xoay người, để giống cái đi theo mình. Triệu Vân Tiêu đi theo hắn, không dám nhìn xem cái xác bên hồ đã được xử lí như thế nào rồi. Ban nãy không cẩn thận liếc mắt nhìn làm cậu sởn cả tóc gáy.

云火的尾巴甩 [shuǎi] 了甩,又回头看了眼赵云霄,几次鼓足勇气后,云火的尾巴缠 [chán] 住了赵云霄的手腕,身上的毛因为这样的举动 [jǔdòng] 而全部乍 [zhà] 开,赤红的双目里是没有被雌性甩开的兴奋。赵云霄看看手腕上缠了几圈的尾巴,不由得感叹云火尾巴的灵活。脑袋里闪过一个画面,他反手握住了云火的尾巴,然后噗哧 [pū chī] 笑了。这样好像在遛 [liù] 狗。区别是他遛的是一只大野兽。

Cái đuôi của Vân Hỏa vung vẫy, vừa quay đầu lại nhìn Triệu Vân Tiêu, sau vài lần lấy can đảm, đuôi của Vân Hỏa liền quấn lấy cổ tay Triệu Vân Tiêu, lông mao trên người vì động tác này mà xù cả lên, trong đôi mắt đỏ thẫm là niềm sung sường vì không bị giống cái hất cái đuôi đi. Triệu Vân Tiêu nhìn cái đuôi đang quấn vài vòng quanh cổ tay mình, không nhịn được mà cảm thán cái đuôi của Vân Hỏa thật linh hoạt. Một hình ảnh chợt lóe lên trong đầu cậu, cậu xoay cổ tay nắm lấy cái đuôi của Vân Hỏa, sau đó cười khúc khích. Như thế này giống dắt chó đi dạo quá. Chỉ khác ở chỗ con mà cậu dắt đi dạo lại là một dã thú to lớn.

他这么一握不要紧,云火猛地停了下来,身上的毛发从尾巴开始往脑袋呈现 [chéngxiàn] 波浪 [bōlàng] 形的起伏。他只觉得阵阵酥麻 [sūmá] 从被握着的尾巴处涌上脑袋。

Cậu nắm không chặt, Vân Hỏa lại dừng khựng lại, lông trên người từ đuôi cho đến đầu lộ ra những đợt nhấp nhô như sóng gợn. Hắn chỉ cảm thấy từng cơn tê dại truyền từ phần đuôi bị nắm lấy vọt tới tận óc.

"云火?" 赵云霄喊了一声,怎么停下了?

"Vân Hỏa?" Triệu Vân Tiêu gọi một tiếng, sao lại dừng lại rồi?

雌性握着他的尾巴......握着......云火脚步虚软地往前走,压根 [yàgēn] 不记得自己要去做什么了,彻底 [chèdǐ] 沉浸 [chénjìn] 在被雌性握着尾巴的幸福中。雄性的尾巴只有伴侣才能碰。这几天的相处云火也能感觉出来雌性应该不是周围部落里的雌性,很可能雌性并不知道尾巴是不能随便碰的,但云火不管这么多。只要雌性一天不离开他,他就会一天把雌性纳入 [nàrù] 自己的势力 [shìli] 范围 [fànwéi] 内,雌性,就是他想要的伴侣。

Giống cái đang nắm lấy đuôi của mình... Nắm lấy... Bước chân Vân Hỏa mềm nhũn đi về phía trước, căn bản là không còn nhớ mình định đi đâu làm gì nữa, hoàn toàn chìm đắm trong cảm giác hạnh phúc được giống cái nắm lấy đuôi. Đuôi của giống đực chỉ có bầu bạn mới được chạm vào. Sống cùng nhau mấy ngày nay, Vân Hỏa cũng cảm giác được giống cái này không phải là giống cái của bộ lạc xung quanh, rất có thể giống cái thậm chí còn không biết đuôi là nơi không thể tùy tiện chạm tới, nhưng Vân Hỏa không quan tâm nhiều đến vậy. Chỉ cần một ngày giống cái này không rời bỏ hắn thì ngày đó hắn sẽ đặt giống cái này trong phạm vi thế lực của mình. Giống cái này, chính là bầu bạn mà hắn mong ước.

"云火,你要去哪?" 见对方一直往森林里走,赵云霄出声询问。难道是要离开了吗?他的包还在岩石那边呢,还有......他还不想离开。

"Vân Hỏa, mày muốn đi đâu vậy?" Thấy đối phương cứ đi thẳng vào trong rừng, Triệu Vân Tiêu dò hỏi. Lẽ nào là muốn rời khỏi đây? Túi của cậu vẫn còn ở núi nham thạch đằng kia, còn có... cậu vẫn chưa muốn đi.

云火从自己的假想中回神,这才发现自己好像走远了。朝四周看了看,云火不得不掉头往回走,他只是带雌性来找吃的。他现在的身体状况最好避开可能出现的大型野兽,现在去森林深处不是理智的选择。不敢看赵云霄,云火低着头往回走。

Vân Hỏa tỉnh táo lại từ trong tưởng tượng của bản thân, lúc này mới phát hiện ra hình như đi xa quá rồi. Nhìn quanh bốn phía, Vân Hỏa đành phải đi quay lại, hắn chỉ muốn đưa giống cái đi tìm đồ ăn thôi mà. Sức khỏe của hắn hiện giờ tốt nhất nên tránh những con thú hình thể lớn có khả năng xuất hiện, hiện tại đi sâu vào trong rừng không phải một lựa chọn thông minh. Không dám nhìn Triệu Vân Tiêu, Vân Hỏa cúi đầu đi vòng lại. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro