Chương 4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

第4章 – Chương 4

慢慢走进湖里,直到湖水淹 [yān] 没到胸 [xiōng] 腹 [fù] 之下,赵云霄才停了下来。在湖水里站了十几分钟,他缓缓 [huǎn huǎn] 往旁边挪 [nuó],水草在缠绕 [chán rào] 他的脚踝 [jiǎo huái],每走一步,他都小心翼翼。就这样一直走到精疲力尽 [jīng pí lì jìn] ,他才游回岸边。

Chầm chậm bước vào lòng hồ, mãi cho đến khi nước hồ ngập đến gần ngực bụng, Triệu Vân Tiêu mới ngừng lại. Đứng trong hồ nước mười mấy phút, cậu mới chậm rãi di chuyển sang bên cạnh, bèo rong quấn quanh mắt cá chân, mỗi bước đi, cậu đều phải thật cẩn thận. Cứ như vậy cho lúc kiệt quệ sức lực, cậu mới bơi về bờ.

今天又失败了。夜晚的冷风吹过,浑身 [húnshēn] 湿透 [shī tòu] 的赵云霄打了个寒颤 [hánzhàn],急忙跑回位于湖边的岩石洞里。这处湖水三面环林,一面是岩石峭壁 [qiàobì]。赵云霄在岩石群里找到一个落脚 [luòjiǎo] 的洞,面积 [miànjī] 不大,却是他目前仅能找到的最好的藏身 [cángshēn] 处。

Hôm nay lại không được rồi. Gió lạnh ban đêm thổi tới, Triệu Vân Tiêu toàn thân ướt đẫm rùng mình, nhanh chóng chạy về cái động nham thạch bên hồ. Hồ nước ba mặt tiếp giáp với rừng rậm, một mặt còn lại là vách núi đá nham thạch dựng đứng. Triệu Vân Tiêu tìm thấy một hang động để dừng chân ở quần thể nham thạch, diện tích không lớn, trước mắt đây là nơi tốt nhất cậu tìm được để náu mình.

回到洞里,脱下湿掉的衣服放在洞口晾干 [liàng gān],再用他搬来的石块堵住洞穴口。赵云霄拿石头在岩石壁上划了一道,那里已经有好几条线了,这意味着 [yìwèizhe] 又是一天过去了。

Trở về hang động, cởi bỏ bộ quần áo ướt đẫm để hong khô trước cửa hang, cậu lại vần tảng đá lớn đến chặn cửa hang lại. Triệu Vân Tiêu cầm một cục đá khắc trên vách hang, trên đó đã có vài nét vạch khác. Điều này có nghĩa là lại thêm một ngày nữa trôi qua.

白天的阳光炙热 [zhìrè],晚上从林子里吹来的风却带着几分寒意还有野兽 [yěshòu] 的零星 [língxīng] 叫声。数一数石壁上的线,有19条了。赵云霄仍无法相信自己会来到这样一个奇怪的地方,更不敢相信他其实是穿越 [chuānyuè] 了。他记得自己落水了,结果醒来之后他不是在医院,而是在湖边,一个和他落水的地方完全不同的湖边。他落水的那个湖很大,一眼望不到头 [dàotóu],这个湖的面积却不大,不过很深。

Mặt trời ban ngày nóng hầm hập, buổi tối, gió từ rừng thổi tới mang theo chút lạnh lẽo, còn có lác đác tiếng gầm rú của thú hoang. Đếm từng nét gạch trên vách hang, đã được 19 nét rồi. Triệu Vân Tiêu vẫn chưa thể tin nổi mình lại đến một nơi kì lạ như thế này, càng chẳng dám tin mình cứ thế xuyên không. Cậu chỉ nhớ bản thân rơi xuống nước, rồi kết quả là sau khi tỉnh lại thì cậu lại không nằm trong bệnh viện mà lại nằm bên hồ nước, một cái hồ không giống với hồ nước cậu rơi xuống chút nào. Cái hồ cậu ngã xuống rất to, đánh hết tầm mắt không thấy đến bờ bên kia. Còn diện tích cái hồ này không quá lớn, thế nhưng lại rất sâu.

在经历了最初的慌乱后,赵云霄不得不 [bùdébù] 冷静下来。夜晚头顶上血红色的月亮提醒 [tíxǐng] 着他这里是另外一个世界。而且他落水的地方周边 [zhōubiān] 都是酒店,根本没有如此 [rúcǐ] 茂密 [màomì] 的森林和岩石峭壁。用看书打发时间 [dǎ fā shí jiān] 的赵云霄猜测 [cāicè] 自己八成是穿越了。

Sau khi trải qua cảm giác hoảng loạn lúc đầu, Triệu Vân Tiêu buộc mình phải bình tĩnh lại. Đêm khuya, mặt trăng màu đỏ máu nhắc nhở cậu, đây là một thế giới hoàn toàn khác. Hơn nữa, nơi cậu rơi xuống xung quanh đều là khách sạn, không thể có rừng rậm um tùm và vách núi nham thạch như thế này được. Lấy việc đọc sách để giết thời gian, Triệu Vân Tiêu đoán đến 80% là mình đã xuyên không rồi.

"来" 之前他什么都没吃, "来" 之后他又饿了一天,求生 [qiúshēng] 的欲望 [yùwàng] 战胜 [zhànshèng] 了颓废 [tuífèi],赵云霄鼓足勇气 [gǔ zú yǒngqì] 去林子里找吃的。他的运气 [yùnqi] 很好,林边就有挂满果实 [guǒshí] 的果树。在看到一只长者翅膀 [chìbǎng] 的野猪 [yězhū] 状 [zhuàng] 的动物张开血盆大口把一个个果实吞 [tūn] 进肚子里后,赵云霄在野猪吃饱离开后捡起落在地上的成熟果实飞快地逃离 [táo lí] ,他果然是穿越了。他的世界里野猪绝对没有翅膀!

Trước khi "đến" đây cậu chưa ăn gì cả, sau khi "đến" đây rồi cậu cũng nhịn đói một ngày. Khát vọng sinh tồn đã chiến thắng nỗi suy sụp tinh thần, Triệu Vân Tiêu lấy hết can đảm đi vào trong rừng tìm đồ ăn. Số cậu rất may mắn, trong rừng có loài cây nặng trĩu quả. Sau khi nhìn thấy một loài động vật hình dáng như lợn rừng có cánh đang há cái mồm to như chậu máu ngốn từng quả vào bụng, Triệu Vân Tiêu chờ con lợn rừng này ăn no bỏ đi thì nhặt mấy trái cây chín rơi dưới đất rồi nhanh chóng bỏ chạy. Cậu chắc chắn là đã xuyên không rồi. Chứ ở thế giới của cậu đời nào lợn lại mọc cánh!

顾不上 [gù bú shàng] 再去伤心林明远的出轨,赵云霄目前面临的最大问题是生存。他没有翅膀,飞不过岩石峭壁,他也不敢进入森林。吃了一个果实就把自己喂饱的赵云霄尝试回去的方法。他是从湖水中穿越来的,那最可能的就是从湖水中回去。他失踪 [shīzōng] 了,最担心最伤心的就是父亲,他必须回去。

Chẳng có thời gian để đau khổ về chuyện Lâm Minh Viễn ngoại tình, trước mắt vấn đề lớn nhất Triệu Vân Tiêu phải đối mặt là sinh tồn. Cậu không có cánh, không thể bay qua núi đá nham thạch, cậu cũng không dám đi vào rừng. Triệu Vân Tiêu ăn một quả trái cây thì no, cậu thử tìm cách để quay về. Cậu xuyên không từ giữa hồ nước tới, vậy thì có khả năng tìm được đường về từ giữa hồ nước. Cậu mất tích thì người lo lắng, đau khổ nhất là cha cậu, cậu phải quay trở về.

白天会有动物到湖边来饮水,赵云霄不敢出去,躲 [duǒ] 在他找到的洞穴里。等到夜晚,他才敢从洞穴里出来,晚上只有小型的夜行动物会到湖边来。那些动物一看就很温顺 [wēnshùn],因为赵云霄看到它们只吃苔藓 [táixiǎn]、青草和树叶,不像白天的那些大型动物一边饮水一边朝他这个方向看,似乎 [sìhū] 看出那里有一道美味,那些尖尖 [jiān] 的剑齿 [jiàn chǐ] 或是 [huò shì] 獠牙 [liáo yá] 看得赵云霄惧怕 [jùpà] 不已 [bùyǐ]。不过幸运的是那些动物只是看,并没有过来搜寻的意思,他才得以安然活到现在。

Ban ngày sẽ có động vật đến bên hồ uống nước, Triệu Vân Tiêu không dám đến đó, chỉ có thể trốn tránh trong hang động mà mình tìm được. Chờ đến đêm khuya, cậu mới dám từ trong động chui ra, buổi tối chỉ có động vật ăn đêm nhỏ đến bờ hồ. Những con vật đó thoạt nhìn rất ngoan ngoãn, vì Triệu Vân Tiêu nhìn thấy chúng chỉ ăn rêu, cỏ xanh và lá cây. Không giống những động vật lớn ban ngày đến đây vừa uống nước, vừa nhìn về hướng cậu, dường như chúng phát hiện ra có mùi gì đó thơm ngon lắm, mấy cái răng kiếm hay răng nanh sắc nhọn đó đủ khiến Triệu Vân Tiêu sợ mãi. Nhưng may mắn thay là những con vật đó chỉ nhìn thôi chứ không định qua đây tìm kiếm, cậu mới dám yên tâm sống ở đây đến giờ này.

在确定晚上自己比较安全后,赵云霄就开始尝试寻找回家的路。他每晚都在湖水里摸索 [mōsuǒ],但令人沮丧 [jǔsàng] 的是他仍然 [réngrán] 在这里。来到这个地方,赵云霄随身所带的手机、平板书 [píngbǎn shū] 和防狼激光 [jīguāng] 棒还有点用处。三种东西都是用阳光能充电 [chōngdiàn],当然,手机是没有信号的。白天,不敢出去的赵云霄就是通过看书或者玩手机上的小游戏打发时间。感激 [gǎnjī] 人类的智慧 [zhìhuì],如果是几百年前需要电来充能,那他只能左手平板书和右手手机拍出点响声来自娱自乐 [zì yú zì lè] 了。

Sau khi xác định buổi tối có vẻ an toàn hơn, Triệu Vân Tiêu bắt đầu con đường tìm cách quay về nhà. Mỗi tối cậu đều lần mò trong hồ nước, nhưng điều khiến con người ta chán nản là cậu vẫn ở đây. Đến nơi này, di động, sách điện tử và gậy laser phòng thân của Triệu Vân Tiêu vẫn còn hữu dụng. Ba đồ vật này đều sạc bằng năng lượng mặt trời, đương nhiên, di động đã mất tín hiệu rồi. Buổi sáng khi không dám đi ra ngoài, Triệu Vân Tiêu đọc sách hoặc chơi trò chơi trên điện thoại để giết thời gian. Phải cảm ơn trí tuệ của loài người, nếu như là mấy trăm năm trước mấy thứ này phải sạc bằng năng lượng điện, thì giờ cậu chỉ có thể tay trái cầm máy đọc sách, tay phải cầm điện thoại gõ nhịp tạo âm thanh để tự tìm chút niềm vui rồi.

森林边的水果一个就够赵云霄吃一顿 [dùn],但最痛苦的是没有盐 [yán],身上没力气。没有办法,赵云霄只能在森林边徘徊 [páihuái] 摸索。虽然落到这个地方很不幸,但相对来说也伴随有幸福的事情。他找到了可以藏身的洞穴,找到了可以果腹 [guǒfù] 的水果,还找到了可以当盐来用的盐果。盐果是赵云霄自己命名 [mìngmíng] 的。是一种白色的葡萄串状的果实。他发现不管是白天的动物还是晚上的,都会到岩石峭壁这边摘 [zhāi] 这种白色的果实来吃,索性 [suǒxìng] 他躲藏 [duǒcáng] 的地方没有长这种果子,不然难保不会被白天的食肉动物给吃掉。后来赵云霄也摘了一串来吃,结果差点咸 [xián] 死他。

Một quả trái cây trong rừng rậm đủ cho Triệu Vân Tiêu ăn một bữa, nhưng khổ nhất là không có muối, người không có sức gì cả. Không còn cách nào, Triệu Vân Tiêu chỉ có thể quanh quẩn trong rừng mò mẫm. Tuy là rơi vào nơi này thật xui xẻo, nhưng nhìn nhận theo cách khác, điều này cũng đi kèm với hạnh phúc. Cậu tìm được một hang động có thể trú ẩn, tìm được loại trái cây có thể ăn no, còn tìm được một loại quả muối để dùng thay muối ăn. Quả muối là loại quả Triệu Vân Tiêu tự đặt tên, là thứ trái cây trông giống chùm nho màu trắng. Cậu phát hiện ra dù là động vật ban ngày hay loài sống về đêm đều đến gần vách núi nham thạch để hái ăn loại quả này, cậu dứt khoát chọn nơi trú ẩn không có thứ quả này, bằng không thì khó mà tránh khỏi bị những loài động vật ăn thịt ban ngày xơi tái. Về sau, Triệu Vân Tiêu cũng hái chùm quả này ăn, kết quả là suýt chút nữa bị mặn đến chết.

赵云霄这才明白为什么那些动物是用舔 [tiǎn] 的,而不是直接吃。食物、水、盐的问题都解决了,剩下 [shèng xià] 的就是回家了。捧 [pěng] 着平板书,赵云霄的鼻子泛酸,他想父亲,想回家。如果回不去,他不是老死在这小小的洞穴里就是成为某种野兽的腹中餐。在这种负面情绪不停往上冒 [mào] 的时候,赵云霄拍拍脸,告诉自己要振作 [zhènzuò]。父亲身边有郭叔叔,那父亲一定可以走出失去他的伤痛吧。至于 [zhìyú] 其他人,赵云霄失神地看着洞穴顶。时间长了,朋友们也最多伤感一下,何况他的朋友本来也就不多。而林明远......赵云霄自嘲地扯扯嘴角,他已是自顾不暇,林明远会怎么样他也无心去管了。

Đến lúc đó Triệu Vân Tiêu mới hiểu tại sao động vật chỉ liếm chứ không phải ăn cả quả. Vấn đề đồ ăn, nước uống, muối đều đã được giải quyết, vấn đề còn lại là tìm cách về nhà. Ôm sách điện tử, mũi Triệu Vân Tiêu nghèn nghẹn, cậu nhớ cha, cậu muốn về nhà. Nếu như không trở về được, nếu cậu không chết già trong cái hang động bé nhỏ này thì cũng sẽ thành đồ ăn trong bụng con dã thú nào đó. Khi những cảm xúc tiêu cực cứ dâng trào, Triệu Vân Tiêu tự vỗ vỗ mặt mình và tự nhủ phải phấn chấn lên. Bên cạnh cha còn có chú Quách, cha nhất định có thể vượt qua nỗi đau mất đi con trai. Còn về những người khác, Triệu Vân Tiêu thất thần nhìn nóc hang động. Thời gian lâu dài, bạn bè cùng lắm cũng chỉ thương tiếc mấy hồi, huống hồ cậu cũng chẳng có nhiều bạn bè. Mà Lâm Minh Viễn... Triệu Vân Tiêu tự cười nhạo nhếch khóe miệng. Cậu lúc này ốc còn chẳng mang nổi mình ốc, Lâm Minh Viễn sau này ra sao cậu cũng chẳng hơi sức đâu mà quan tâm.

但不管赵云霄怎么把林明远抛 [pāo] 出自己的脑袋,他的心脏 [xīnzàng] 仍然不受控制地抽痛 [chōutòng]。林明远是他的初恋,是他付出 [fùchū] 了能付出的所有感情的爱人。而最终,他得到的却是背叛 [bèipàn]。他不恨林明远爱上别人,却难免 [nánmiǎn] 怪 [guài] 他的欺瞒 [qīmán]。如果不是他无意中发现,那林明远会骗到他何时 [héshí]。想到自己有可能一辈子被蒙在鼓里 [méng zài gǔ lǐ],一辈子过那样在家等林明远回来的日子,赵云霄就不寒而栗 [bù hán ér lì]。

Nhưng cho dù Triệu Vân Tiêu cố vứt Lâm Minh Viễn ra khỏi đầu mình như thế nào, trái tim cậu vẫn không kiềm được mà đau nhói. Lâm Minh Viễn là mối tình đầu của cậu, là người cậu đã đánh đổi tất cả tình cảm có thể mang ra đánh đổi mà có được. Vậy mà đến cuối cùng, những gì cậu nhận lại chỉ là sự phản bội. Cậu không hận Lâm Minh Viễn yêu người khác, nhưng không thể không oán giận việc anh ta lừa dối cậu. Nếu không phải cậu vô tình phát hiện ra, vậy thì Lâm Minh Viễn sẽ còn lừa cậu đến bao giờ nữa. Nghĩ đến cái khả năng cả đời cậu hoàn toàn mù tịt không biết gì, cả một đời phải trải qua những ngày tháng chỉ biết ở nhà chờ đợi Lâm Minh Viễn trở về, Triệu Vân Tiêu cực kỳ sợ hãi.

外面传来了阵阵 [zhèn] 的野兽叫声,赵云霄急忙收回思绪 [sīxù] 检查一遍洞口。洞堵住洞口的石块缝隙 [fèngxì] 里朝外往,赵云霄暗暗 [ànàn] 惊呼 [jīng hū] 。有一群小型肉食动物在猎食 [liè shí] 一只很大型的动物。这里的动物赵云霄都不知道叫什么,唯一 [wéiyī] 认识的就是长翅膀的野猪。不忍再看下去,他缩回脑袋 [nǎodai],尽量让自己的呼吸 [hūxī] 降到最缓。如果那群 "小" 动物发现他的存在,他绝对看不到今晚的红色月亮。

Từ bên ngoài truyền tới từng hồi tiếng dã thú gầm rú, Triệu Vân Tiêu vội vàng thu lại mạch suy nghĩ, kiểm tra cửa hang động. Đẩy tảng đá chặn ở cửa động tạo khe hở để nhìn ra ngoài, Triệu Vân Tiêu thầm kinh hô. Có một đàn động vật ăn thịt nhỏ đang săn đuổi một con vật rất lớn. Triệu Vân Tiêu không biết tên các loài động vật ở đây, chỉ biết duy nhất loài lợn rừng có cánh. Không dám nhìn tiếp, cậu rụt đầu lại, cố gắng hít thở nhẹ hết sức có thể. Nếu để đám động vật nhỏ biết đến sự tồn tại của mình, cậu chắc chắn không sống nổi đến lúc nhìn thấy mặt trăng đỏ tối nay.

捕猎 [bǔliè] 的过程很快,太阳开始落山的时候湖边恢复 [huīfù] 了平静。赵云霄把晾在洞外的衣服拿进来,已经完全干了。这是他最宝贵 [bǎoguì] 的财富 [cáifù],如果衣服破了、烂 [làn] 了,他就只能裸体 [luǒtǐ] 或者用树叶遮羞 [zhēxiū] 了。没想到自己这个27世纪的新人类会沦落 [lúnluò] 为原始 [yuánshǐ] 人,经历了近20天的原始生活,赵云霄对原始时代的人类祖先 [zǔxiān] 异常 [yìcháng] 的崇拜 [chóngbài],能在那样艰苦 [jiānkǔ] 的环境下生存下来的人类值得他崇拜。

Quá trình săn bắt diễn ra rất nhanh chóng, khi mặt trời bắt đầu xuống núi, bên hồ nước đã yên tĩnh trở lại. Triệu Vân Tiêu cầm quần áo phơi ngoài hang động vào, đồ đã khô cả rồi. Đây là của cải quý giá nhất của cậu, nếu quần áo bị thủng hay rách nát, cậu chỉ còn nước khỏa thân hoặc dùng lá cây che người mất thôi. Chẳng thể ngờ tới, bản thân là con người thời đại mới thể kỷ 27 lại lưu lạc thành người nguyên thủy, trải qua cuộc sống nguyên thủy gần 20 ngày, Triệu Vân Tiêu cực kỳ sùng bái tổ tiên loài người thời nguyên thủy. Loài người có thể tồn tại trong hoàn cảnh gian khổ như thế đáng để cậu tôn sùng.

又等到天完全黑下来,赵云霄搬开洞口的石头,出了洞穴 [dòngxuè]。把包留在洞里,他藉 [jiè] 着月光爬下岩石。这里的月亮不仅颜色诡异 [guǐyì],而且永远都是圆圆的,赵云霄一边往下爬一边还分心地胡思乱想 [húsīluànxiǎng]。这颗 [kē] 星球是怎么自转 [zìzhuàn] 的?为什么月亮一直是圆的?这里有季节之分吗?像他生活的新星上,只有春夏之分,要想看分明的四季只能回地球。

Chờ đến khi trời tối hẳn, Triệu Vân Tiêu mới vần tảng đá ở cửa hang đi rồi ra khỏi hang. Để túi lại trong hang động, cậu nương theo ánh trăng bò xuống núi nham thạch. Mặt trăng ở đây không chỉ có màu sắc kỳ dị, mà nó lúc nào cũng tròn. Triệu Vân Tiêu vừa bò xuống, vừa phân tâm nghĩ ngợi lung tung. Chẳng lẽ hành tinh này lại tự quay? Tại sao mặt trăng luôn tròn? Ở đây có phân rõ từng mùa không? Giống như trên hành tinh mới mà cậu sống, chỉ có hai mùa xuân hạ, còn muốn nhìn bốn mùa thay đổi rõ rệt thì phải quay lại trái đất.

跳下最后一块石头,赵云霄来到湖边,深吸一口气,暗暗祈祷 [qídǎo] 能让他找到回家的路,然后抬脚 [tái jiǎo] 进入湖中。身体因为湖水的冰凉 [bīngliáng] 而发抖,赵云霄一步步往里走,走到湖水淹没胸腹才停下。又和昨晚一样,探索 [tànsuǒ] 到精疲力尽,他不得不返回岸上,今晚仍是无果。在岸边休息了一会儿,赵云霄脱下湿衣服,把水拧 [níng] 干再套 [tào] 回身上。他要去摘明天吃的水果。四处左右看看,没有发现什么危险 [wēixiǎn] 的生物,他朝他惯常 [guàncháng] 采 [cǎi] 水果的方向走去,没有发现森林中有一双红色的眼睛一直在注意着他。准确地说,这双眼睛已经注意了他三天了。

Nhảy xuống tảng đá cuối cùng, Triệu Vân Tiêu đến bên hồ, hít sâu một hơi, cậu thầm cầu nguyện mình sẽ tìm được đường về nhà, rồi sau đó nhấc chân bước vào trong hồ. Nước trong hồ lạnh lẽo khiến cơ thể run rẩy, Triệu Vân Tiêu bước từng bước, đến khi nước ngập đến lưng chừng ngực bụng mới dừng lại. Vẫn giống như hôm qua, tìm kiếm đến lúc kiệt quệ sức lực, cậu đành quay lại bờ, tối nay vẫn không có kết quả. Nghỉ ngơi trên bờ một lúc, Triệu Vân Tiêu cởi bộ quần áo ướt ra, vắt cho ráo nước rồi mặc lại vào người. Cậu phải đi hái hoa quả làm đồ ăn cho ngày mai. Nhìn ngó bốn phía không thấy động vật nguy hiểm nào, cậu đi về hướng hàng ngày vẫn hay đi hái hoa quả, lại không phát hiện ra trong rừng có một đôi mắt đỏ ngầu vẫn luôn chú ý đến mình. Nói đúng ra, cặp mắt này đã để ý đến cậu ba ngày rồi.

走到长着面包果的树下,赵云霄先在地上寻找了一番,看有没有掉下来的成熟果子。面包 [miànbāo] 果也是赵云霄自己命名的。倒不是说这种果子吃起来像面包,而是它很顶 [dǐng] 饿,像面包一样,赵云霄就这么叫了。不过他今晚的运气不是很好,地上的面包果都是被啃 [kěn] 食过的。

Đến dưới gốc cây bánh mì, Triệu Vân Tiêu tìm kiếm dưới đất một hồi xem có quả chín nào rơi không. Quả bánh mì là loại cây Triệu Vân Tiêu tự đặt tên. Đặt tên như vậy không phải là vì loại quả này ăn có vị giống bánh mì, mà là vì ăn xong nhanh đói như bánh mì nên Triệu Vân Tiêu mới gọi như vậy. Nhưng có vẻ hôm nay cậu không may mắn cho lắm, quả bánh mì trên mặt đất đều bị gặm cả rồi.

长面包果的树很高,赵云霄又不会爬树的技能,他只能找长的树枝 [shùzhī] 把果实打下来。这样折腾 [zhēteng] 了快一个小时才打下来他需要的六个面包果。面包果放两天就坏了,赵云霄每次只带回够他两天吃的数量。把面包果放在宽大 [kuāndà] 的树叶里裹 [guǒ] 起来带回去,赵云霄是一刻都不敢在林子里呆。夜晚的森林,好像会吃人的黑洞,总是令他害怕不已。

Cây bánh mì mọc rất cao, Triệu Vân Tiêu lại chẳng biết trèo cây, cậu chỉ có thể kiếm một cành cây thật dài đập cho quả rơi xuống. Cứ đập chán đập chê như vậy gần một tiếng cậu mới nhặt được sáu quả. Quả bánh mì để hai ngày là hỏng rồi, Triệu Vân Tiêu mỗi lần chỉ hái đủ lượng trái cây để ăn trong hai ngày. Bọc quả bánh mì bằng cái lá to mang về, Triệu Vân Tiêu không dám nán lại trong rừng thêm chút nào nữa. Rừng rậm ban đêm giống như cái hang tối om ăn thịt người, lúc nào cũng khiến cho cậu sợ hãi không thôi.

打果子出了一身的汗 [hàn],手上也是泥土 [nítǔ]。赵云霄先把树叶在湖水里洗干净,然后洗果子,洗好后他脱下衣服再次进入湖中清洗身体。不去想父亲,不去想怎样回到原来的世界,赵云霄让自己享受此刻的宁静 [níngjìng]。不同于独自在家中等待的寂寞,而是纯粹的宁静。这里有自然的风、自然的鸟叫虫鸣 [míng]、自然的森林,没有任何人工 [réngōng] 的痕迹 [hénjì]。就连水都更甘甜 [gāntián] 一些。

Đập trái cây xong thì người cậu cũng mướt mải mồ hôi, trên tay cũng dính đầy bùn đất. Triệu Vân Tiêu rửa sạch lá cây trong hồ nước, sau đó rửa trái cây, rửa xong cậu mới lại cởi quần áo lần nữa, bước vào hồ tắm cho sạch sẽ. Không nhớ tới cha, không nhớ tới thế giới trước kia của cậu, Triệu Vân Tiêu để cho bản thân mình hưởng thụ chút thời gian yên lặng này. Không giống như cảm giác tĩnh mịch ở nhà chờ đợi một mình, mà đây là sự tĩnh lặng đơn thuần. Ở đây có gió trời, có tiếng chim hót ve kêu, có rừng rậm tự nhiên, không có bất cứ dấu vết nào do con người tạo ra. Thậm chí, nước cũng ngọt hơn một chút.

【如果这里是原世界,那父亲肯定喜欢在这里养老。】放任 [fàngrèn] 自己飘 [piāo] 在水面上,赵云霄看着夜空挂着的血红月亮。这里的晚上只有月亮,没有星星,这到底是什么世界?还是人类开发出的另一颗新星?耳朵里是水波粼粼的声音,赵云霄闭 [bì] 上眼睛,心窝处不曾 [bùcéng] 停止 [tíngzhǐ] 的刺痛 [cìtòng] 多了一些他最需要的安宁。他来到这里是巧合 [qiǎohé] 还是必然?没有林明远的日子没有他想象的那么难熬 [nán áo] ,也许,他对林明远的爱在他每天的独自 [dúzì] 等待中已经被逐渐 [zhújiàn] 消磨 [xiāomó] 掉了。所以,他伤心,却不是痛不欲生 [tòngbùyùshēng]。如果,他不是中性人,明远还会找他吗?答案是肯定的。如果,他不是中性人就好了。

[Nếu như nơi này là thế giới trước kia, chắc chắn cha sẽ thích sống dưỡng lão ở đây.] Để mặc bản thân trôi nổi trên mặt nước, Triệu Vân Tiêu nhìn ngắm mặt trăng đỏ như màu máu trên trời. Buổi tối ở đây chỉ có mặt trăng, không có sao. Rốt cuộc đây là thế giới nào? Liệu có phải là một hành tinh mới loại người vừa khai phá không? Bên tai là tiếng sóng nước sóng sánh, Triệu Vân Tiêu nhắm mắt lại, trái tim chưa từng thôi đau đớn lúc này lại có thêm một chút yên bình mà cậu cần nhất. Cậu đến đây chỉ là tình cờ hay là lẽ tất nhiên? Những ngày không có Lâm Minh Viễn cũng không đau khổ như cậu tưởng tượng. Có lẽ, tình yêu của cậu đối với Lâm Minh Viễn dần dần bị những tháng ngày vò võ một mình làm cho hao mòn rồi. Cho nên, cậu có đau lòng, nhưng cũng không đến mức đau khổ tột cùng. Nếu như, cậu không phải người trung tính, liệu Minh Viễn có tìm đến cậu hay không? Đáp án chắc chắn là không rồi. Nếu như cậu không phải người trung tính thì tốt rồi.

"嘀嗒,嘀嗒"

"Tí tách, tí tách"

两颗水珠沿 [yán] 着赵云霄的太阳穴 [tàiyángxué] 流入水中。睁开眼睛,越来越多的水珠混 [hùn] 入湖水,赵云霄对自己微笑,离开林明远的赵云霄还是赵云霄。这里的世界不会因为多了他一个人而有所变化,同理 [tóng lǐ],他的世界不会因为少了一个林明远而从此 [cóngcǐ] 灰暗 [huī'àn]。他,还是赵云霄。即使 [jíshǐ] 不再相信爱情,不再结婚,他也还是他,没有人能夺 [duó] 走他的幸福,除了他自己。

Hai giọt nước chảy men theo thái dương của Triệu Vân Tiêu hòa vào dòng nước. Mắt cậu mở to, nước mắt hòa với nước hồ mỗi lúc một nhiều, Triệu Vân Tiêu mỉm cười với bản thân. Triệu Vân Tiêu có rời xa Lâm Minh Viễn thì vẫn là Triệu Vân Tiêu. Thế giới này sẽ không vì có thêm một mình cậu mà thay đổi, cũng cùng lí do đó, thế giới của cậu sẽ không vì thiếu đi một Lâm Minh Viễn mà chìm vào u tối từ đây. Cậu, vẫn là Triệu Vân Tiêu. Cho dù không tin tưởng vào tình yêu nữa, không kết hôn nữa, cậu vẫn sẽ là cậu, không ai có thể cướp mất hạnh phúc của cậu, trừ bản thân cậu ra.

从水中浮 [fú] 起来,赵云霄游到岸边。上了岸,他就那么赤裸 [chì luǒ] 地身体拿着水果和衣服回他的"小窝"。一双赤红 [chìhóng] 的眼睛在灌丛 [guàncǒng] 的遮掩 [zhēyǎn] 下肆无忌惮 [sìwújìdàn] 地看着某人赤裸的身躯 [shēnqū],看着那人费力 [fèilì] 地爬上岩石,最终钻入一个岩石洞。

Nổi lên khỏi mặt nước, Triệu Vân Tiêu bơi vào bờ. Lên bờ rồi, cậu ở trần, cầm trái cây và quần áo quay về cái "ổ" nhỏ của mình. Đôi mắt đỏ thẫm nấp sau bụi cây ngắm thân trần của người nào đó một cách trắng trợn, nhìn người đó nhọc nhằn trèo lên núi nham thạch rồi cuối cùng chui vào hang động.

猩红 [xīnghóng] 的舌头 [shétou] 舔舔嘴唇 [zuǐchún],尖锐 [jiānruì] 的白色剑齿闪过寒光 [hánguāng],灌丛发出"沙沙" [shāshā] 声,一抹庞大 [pángdà] 的身影 [shēnyǐng] 从灌丛中站了起来。红色的月光下,它的身上也蒙 [méng]上了一层血红。

Đầu lưỡi đỏ tươi liếm môi, hàm răng kiếm trắng sáng sắc bén như ánh lên nhọn hoắt, bụi cây phát ra âm thanh "xào xạc", một bóng dáng khổng lồ đứng lên từ trong lùm cây. Dưới ánh trăng đỏ, cơ thể của nó cũng được phủ lên một tầng sắc đỏ tươi.

赵云霄把衣服晾在洞外的一个大石头下面,然后回到洞内把洞口堵起来。洞里铺 [pū] 满了柔软 [róuruǎn] 的树叶,他再把厚厚 [hòu] 的好几层大树叶盖 [gài] 在身上当被子。看了会儿书,他关了平板躺下睡觉。一觉睡到天亮,赵云霄深了个懒腰 [lǎnyāo],醒了。发了会儿呆 [fādāi],他坐了起来,紧接着 [jǐn jiēzhe] ,他怕得大叫了一声迅速 [xùnsù] 往后挪,紧紧贴着岩石壁。

Triệu Vân Tiêu phơi quần áo bên một hòn đá lớn ngoài hang động, rồi quay về hang lấy đá lấp cửa. Trong hang trải đầy lá cây mềm mại, cậu lấy thêm vài tầng lá to dày khác đắp lên người thay chăn. Đọc sách một hồi, cậu tắt máy đọc sách rồi nằm xuống ngủ. Ngủ thẳng đến khi trời sáng, Triệu Vân Tiêu vươn vai tỉnh ngủ. Đờ ra một lúc, cậu ngồi dậy. Ngay sau đó, cậu sợ đến mức hét to một tiếng, nhanh chóng lùi về đằng sau, cả người dán sát vào vách nham thạch.

这,这是怎么回事!赵云霄浑身的毛孔 [máokǒng] 全部张开,寒毛 [hánmáo] 竖立 [shùlì],肾上腺激素 [shènshàngxiànsù] 井喷。他刚刚躺着的身边有一片陌生 [mòshēng] 的叶子!这不是他如此惊恐 [jīngkǒng] 的原因。那片叶子上有一只被剥 [bāo] 了皮的不知名的动物!动物的脑袋和内脏都被去掉了,动物甚至还用树枝串了起来!叶子旁放着两块黄色的石头!他昨晚睡觉前绝对没有这些东西!

Chuyện, chuyện này là sao! Toàn bộ lỗ chân lông trên người Triệu Vân Tiêu mở ra, lông tơ dựng lên, adrenaline tiết ra mãnh liệt. Bên cạnh chỗ cậu vừa nằm có thêm một cái lá rất lạ! Đây cũng phải lí do khiến cậu sợ hãi như thế. Trên cái lá đó là một con vật không biết tên đã bị lột da! Đầu và nội tạng động vật đã bị vứt hết đi rồi, con vật đó thậm chí còn bị một cành cây xuyên qua! Bên cạnh cái lá còn để hai viên đá màu vàng! Tối qua trước lúc cậu đi ngủ chắc chắn không có những thứ này!

有人来过!赵云霄紧紧咬住嘴,快吓 [(từ cảm thán, tỏ ý không bằng lòng)] 死了。死死盯着那只不知名的动物好半天,恢复了一点点力气的赵云霄浑身发软地挪到洞口往外看。外面的湖边很安静,一只动物都没有,观察了半天,他鼓足勇气搬开一块石头,探头出去,外面什么都没有。到底是谁?!

Có người tới đây! Triệu Vân Tiêu cắn chặt môi, suýt thì bị dọa chết rồi. Nhìn chằm chằm con vật không biết tên kia rõ lâu, Triệu Vân Tiêu lấy lại chút bình tĩnh rồi mới bò rạp cái cơ thể đang nhũn ra đến cửa hang nhìn ra ngoài. Bên bờ hồ rất yên tĩnh, chẳng có con vật nào, ngó nghiêng chán chê, cậu lấy can đảm vần tảng đá chắn cửa hang ra, ngó đầu ra ngoài, bên ngoài chẳng có gì cả. Rốt cuộc là ai cơ chứ?

把石头重新放好,赵云霄把身体蜷缩 [quánsuō] 起来,来到这里他是第一次如此的害怕。心里喊着"父亲父亲" ,赵云霄动也不敢动。直到肚子发出飢饿 [jī"è] 的叫声,他才发现竟然已经中午了。心不在焉地吃了一个面包果,赵云霄继续盯着那具动物尸体,阳光落幕 [luòmù],傍晚 [bàngwǎn] 来临,当他的肚子再一次发出飢饿的叫声时,他靠近了那具尸体。

Kéo tảng đá về lại chỗ cũ, Triệu Vân Tiêu cuộn tròn người mình lại. Từ khi đến nơi này, đây là lần đầu tiên cậu sợ hãi đến thế. Trong lòng gọi "cha ơi cha ơi", Triệu Vân Tiêu không dám cử động. Mãi cho đến lúc bụng đói sôi lên ầm ầm, cậu mới phát hiện ra giờ đã là buổi trưa rồi. Ăn một quả bánh mì trong lúc không tập trung, Triệu Vân Tiêu vẫn cứ nhìn xác con động vật kia. Mặt trời dần xuống núi, trời sắp chập tối, khi chiếc bụng đói lại phát ra tiếng sôi ùng ục, cậu mới tới gần cái xác kia.

尸体的颜色鲜艳 [xiānyàn],一看就是刚死没多久的。尸体上也没有什么诡异的颜色,应该没有毒 [dú] 什么的。赵云霄舔了舔嘴,他承认 [chéngrèn] 自己想吃肉。每天除了面包果就是盐果,赵云霄不是不想换口味,但他没有换口味的能力。到底是谁送来的?赵云霄已经可以肯定有人发现了他的存在。人?赵云霄的精神突然一震,这里有人?!

Màu cái xác vẫn còn tươi nguyên, vừa nhìn là biết mới chết chưa lâu. Nhìn thân thể con mồi không có màu gì lạ, chắc không có độc đâu nhỉ. Triệu Vân Tiêu liếm môi, cậu phải thừa nhận là mình thèm ăn thịt. Mỗi ngày không phải ăn quả bánh mì thì là thêm ít quả muối, Triệu Vân Tiêu cũng muốn đổi sang món khác, nhưng cậu không có đổi món được. Rốt cuộc là ai mang đồ đến chứ? Triệu Vân Tiêu đã khẳng định được là có người phát hiện ra sự tồn tại của cậu. Người? Trong lòng Triệu Vân Tiêu chấn động, ở đây có người sao?

迅速搬开洞口的石头,套上已经有些磨损 [mósǔn] 的衣服,赵云霄钻出洞穴站在岩石上眺望 [tiàowàng]。他不敢喊,他希望给他送来食物的那个人能看到他。他对着森林招手 [zhāoshǒu],希望那个人能来带他走。可是直到赵云霄的手臂 [shǒubì] 都摇 [yáo] 酸了,也没有他以为的 "人" 出现。

Nhanh chóng đẩy tảng đá ở cửa ra, mặc bộ quần áo đã hơi mòn lên người, Triệu Vân Tiêu đứng sát cửa động trông về phía xa xa. Cậu không dám hô to, cậu hi vọng người đưa đồ ăn có thể nhìn thấy cậu. Cậu vẫy tay về hướng cánh rừng, hi vọng người đó có thể đưa cậu đi. Nhưng mãi đến khi cánh tay Triệu Vân Tiêu đã vẫy đến mỏi nhừ, vẫn không thấy "người" ta xuất hiện.

难道不是人?可不是人又能是谁把动物的皮剥下、内脏取出,还用树枝串起来,明显是让他烤肉吃。烤肉?赵云霄拿起那两颗黄色的石头,闻了闻,他的眼睛一亮。把两块石头对着摩擦 [mócā] 了一下,他惊喜 [jīngxǐ] 地发现竟然 [jìngrán] 有火花 [huǒhuā]!这难道就是传说 [chuánshuō] 中的打火石?!

Lẽ nào không phải là người? Nhưng nếu không phải người thì làm sao lột da động vật, bỏ nội tạng, còn biết dùng cành cây xuyên qua, rõ ràng là để cho cậu nướng thịt mà. Thịt nướng? Triệu Vân Tiêu cầm hai viên đá màu vàng kia lên, ngửi thử, đôi mắt cậu liền sáng bừng lên. Ma sát hai viên đá với nhau một chút, cậu mừng rỡ phát hiện ra ấy thế mà lại có tia lửa! Chẳng lẽ đây chính là đá đánh lửa trong truyền thuyết sao?!

"谢谢你。" 不敢太大声地对着森林的方向喊了声,赵云霄决定放下恐惧 [kǒngjù] 享受好心"人"送来的食物。

"Cảm ơn." Không dám hô to về phía rừng rậm, Triệu Vân Tiêu quyết định buông lỏng cảm giác sợ hãi để hưởng thụ đồ ăn "người" tốt đó tặng cho cậu.










Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro