Chương 16

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

第16章 – Chương 16

又继续了一次溪水中那样的欢愉,拍了无数张亲密照片的云火这才满意地放下了手机。赵云霄的第一个动作就是立刻拿过手机要删除 [shānchú] 里面的激情 [jīqíng] 照片,却被一只爪子拦住了。

Lại tiếp tục làm một lần sung sướng như lúc ở dòng suối, Vân Hỏa chụp vô số tấm ảnh thân mật mới thỏa mãn đặt điện thoại xuống. Động tác đầu tiên của Triệu Vân Tiêu là lập tức cầm điện thoại xóa những bức ảnh nỏng bỏng trong máy, nhưng lại bị một cái chân chặn lại.

"呜——" 这个板板以后是我的了!他绝对不会让他的伴侣再看到前任 [qiánrèn] 雄性!

"U——" Tấm bảng này sau này là của anh! Hắn tuyệt đối sẽ không để giống cái của mình nhìn thấy tên giống đực trước kia nữa!

"坏云火,不能把这种照片留在手机里。" 赵云霄无奈极了,但明显跟这只野兽说不通。等云火出去觅食 [mì shí] 的时候他再删掉好了。身上是云火刚刚喷射出的一大滩 [tān] 浓浓的白液,赵云霄更加面红耳赤,好多......

"Vân Hỏa xấu, không được lưu những bức ảnh như thế trong điện thoại." Triệu Vân Tiêu hết sức bất lực, nhưng hiển nhiên cậu không thể nói rõ cho tên dã thú này hiểu. Chờ khi nào Vân Hỏa ra ngoài tìm thức ăn thì cậu phải xóa đi mới được. Trên người cậu là một bãi bạch dịch đậm đặc Vân Hỏa vừa mới bắn ra, Triệu Vân Tiêu càng đỏ mặt hơn, nhiều ghê...

云火叼住板板下了床,出去了。赵云霄坐起来寻找合适的东西擦拭 [cāshì],然后他再去清洗。云火很快回来了,嘴里的手机变成了一块兽皮。赵云霄在云火的额头 [étou] 上敲了一下,拿过兽皮。擦拭干净,他套上自己的半成品兽裙下床。云火要跟着去,赵云霄拦住他,不让他跟,怕他到时候又发情。

Vân Hỏa ngậm lấy tẩm bảng nhảy xuống giường, đi ra ngoài. Triệu Vân Tiêu ngồi dậy tìm đồ thích hợp để lau chùi, sau đó cậu phải đi rửa sạch. Vân Hỏa quay về rất nhanh, điện thoại trong miệng biến thành một mảnh da thú. Triệu Vân Tiêu gõ vào trán Vân Hỏa một cái, cầm lấy da thú. Lau chùi sạch sẽ, cậu mặc váy da thú bán thành phẩm xuống giường. Vân Hỏa cùng đi theo, Triệu Vân Tiêu ngăn hắn lại, không cho hắn đi theo, sợ đến lúc đó hắn lại động dục mất.

赵云霄离开了山洞,云火看看洞外的天色,还是出去了。叼了一张兽皮,云火展翅飞走。赵云霄看到云火飞走了,顾不上一身的水,套上半成品就去找手机。可是他两个山洞都找了一圈也没找到。赵云霄无奈 [wúnài] 地抚 [fǔ] 额:"云火,你竟然还会藏东西,那种照片怎么可以留下来。"

Triệu Vân Tiêu ra khỏi sơn động, Vân Hỏa nhìn sắc trời ngoài hang, vẫn đi ra ngoài. Ngậm một tấm da thú, Vân Hỏa sải cánh bay đi. Triệu Vân Tiêu thấy Vân Hỏa bay đi, không có thời gian quan tâm đến nước chảy đầy người, mặc đồ bán thành phẩm đi tìm điện thoại. Nhưng cậu tìm một vòng cả hai sơn động đều không tìm thấy. Triệu Vân Tiêu bất lực vỗ trán: "Vân Hỏa, vậy mà anh còn biết giấu đồ cơ à, loại ảnh đó làm sao mà để lại được."

云火不管那么多,更没有这种念头,他只知道他要装很多很多和他雌性的亲密。找不到手机,赵云霄回山洞继续缝制他的半成品。把两边缝起来一部分,他就有无袖 [xiù] 长衫了,再在腰部绑一条皮绳,就算大功告成 [dàgōnggàochéng]。

Vân Hỏa không quan tâm nhiều đến thế, cũng không có cái suy nghĩ như vậy, hắn chỉ biết hắn muốn chụp lại thật nhiều ảnh thân mật với giống cái của hắn. Không tìm được điện thoại, Triệu Vân Tiêu quay về hang động tiếp tục may vá đồ bán thành phẩm. Khâu hai bên lại một phần, cậu liền có áo vạt dài không tay, lại cuốn thêm một cái dây da ở eo, coi như là đã hoàn thành.

云火回来的时候赵云霄只是哀怨 [āiyuàn] 地看了他一眼,然后继续手上的工作。云火带回来大大小小三个石果(馒头),把石果撬 [qiào] 开,他拿着装石果回来的兽皮又飞走了。赵云霄立刻发现他还需要缝制一个大兽皮袋子好装东西。

Khi Vân Hỏa quay lại, Triệu Vân Tiêu nhìn hắn đầy hờn giận, sau đó tiếp tục công việc trên tay mình. Vân Hỏa quay về, mang theo ba trái thạch quả (bánh bao) kích thước khác nhau, nạy thạch quả ra, hắn cầm tấm da thú ban nãy vừa đựng thạch quả mang về bay đi tiếp. Triệu Vân Tiêu lập tức phát hiện ra mình cần phải làm một cái túi da thật to để đựng đồ nữa.

云火忙忙碌碌好几次,带回了竹竿、面包果、皂草等赵云霄今天都特别需要的东西,他还带回了一窝蛋,赵云霄喜欢吃蛋。在云火最后一次回来后,赵云霄的衣服也做好了。他选了一张比较长的兽皮,套在身上正好到他的膝盖 [xīgài]。衣服的两侧开叉 [chǎ] 到大腿中部,便于行走,然后顺着上去缝到袖口,袖口赵云霄留得比较开,针眼缝得也很松散 [sōngsǎn],这样不会太热。他还把领口部位又裁 [cái] 掉一块,露出大部分的锁骨,延伸至胸口以上两指宽的地方,也利于散热,还可以露出他的项鍊。兽皮不像布料透气,如果遮得严严实实,那就是受罪了。

Vân Hỏa đi vội đi vàng mất lần, mang những thứ hôm nay Triệu Vân Tiêu rất cần như thân cây trúc, quả bánh bao, cỏ bọt xà bông về, hắn còn mang cả một ổ trứng, Triệu Vân Tiêu thích ăn trứng. Sau lần cuối cùng Vân Hỏa quay lại, quần áo của Triệu Vân Tiêu cũng đã làm xong. Cậu chọn một tấm da thú tương đối to, mặc lên người vừa dài đến đúng đầu gối. Hai bên vạt áo xẻ ra từ đoạn giữa đùi, tiện cho việc đi lại, sau đó may liền cho đến cổ tay, Triệu Vân Tiêu để phần cổ tay khá rộng, mũi khâu cũng rất lỏng lẻo, như vậy mặc mới không nóng. Cậu còn cắt cả một phần cổ áo, để lộ ra phần lớn xương quai xanh, kéo dài xuống cách lồng ngực tầm hơn hai ngón tay, vừa đỡ nóng, vừa để lộ được vòng cổ của cậu. Da thú không thoáng khí như vải bông, nếu cứkín cổng cao tường quá thì đúng là tự hành xác.

在腰间系 [jì] 一条裁得并不均匀的兽皮绳,赵云霄在云火面前转了一圈,问:"怎么样?还行吗?"这是他第一次自己做衣服。云火上前两步,单爪抱住赵云霄,舔舔他的嘴。他的雌性穿什么都好看。他会尽快把钻地鼠的皮处理好的。

Giữa eo thắt một cái dây lưng da thú cắt không được đều cho lắm, Triệu Vân Tiêu đứng trước mặt Vân Hỏa xoay một vòng, hỏi: "Anh thấy sao? Trông được chứ?" Đây là lần đầu tiên cậu tự may quần áo. Vân Hỏa tiến lên hai bước, một chân ôm lấy Triệu Vân Tiêu, liếm miệng cậu. Giống cái của hắn mặc cái gì cũng đẹp. Hắn phải xử lý da chuột chũi thật nhanh mới được.

云火的夸赞给了赵云霄极大的信心。等云火以后变回成人类,他要给云火做衣服,做很多帅气的衣服。赵云霄不禁在心中描绘 [miáohuì] 云火如果变成人会是什么模样,一定很高大威猛又帅气,一定!

Lời khen ngợi của Vân Hỏa khiến Triệu Vân Tiêu cực kì tự tin. Đợi sau này Vân Hỏa biến được về thành người, cậu nhất định sẽ làm quần áo cho Vân Hỏa, may thật nhiều bộ quần áo đẹp trai ngời ngời. Triệu Vân Tiêu không nhịn được tự tưởng tượng trong lòng bộ dáng của Vân Hỏa nếu biến thành người sẽ như thế nào, nhất định là vừa to cao, vừa dũng mãnh, vừa đẹp trai, nhất định là như thế!

拍拍云火,赵云霄退出来,笑着说:"我去做饭。"今天他和云火都只吃了一顿,云火有没有吃都还不一定,天色开始渐暗,今天早点吃晚饭。

Vỗ vỗ Vân Hỏa, Triệu Vân Tiêu lùi ra cười nói: "Em đi nấu cơm đây." Hôm nay cậu và Vân Hỏa đều chỉ mới ăn có một bữa, Vân Hỏa ăn thật chưa còn không chắc nữa, sắc trời bắt đầu tối dần, hôm nay ăn cơm tối sớm một chút vậy.

"呜嗷~" 云火听懂了 "做饭" 这个词,每次雌性说这个词的时候就是去准备食物了。有了新衣服,赵云霄的心情也很飞扬。看到云火带回来的这么多丰盛的食材,他更是心情大好。巧妇难为无米之炊 [qiǎofū nánwéi wú mǐ zhī chuī] ,他不敢自夸厨艺多么了得,但没有食材他再想变换口味也只能望而兴叹 [wàng ér xīng tàn] 。

"U ngao~" Vân Hỏa nghe hiểu từ "nấu cơm" này, mỗi lần giống cái nói từ này đều sẽ đi chuẩn bị thức ăn. Có quần áo mới, tâm tình Triệu Vân Tiêu cực kì vui vẻ. Thấy Vân Hỏa mang về nhiều nguyên liệu nấu ăn phong phú như vậy, cậu càng vui vẻ hơn. Không bột đố gột nên hồ, cậu không dám tự khen tài bếp núc của mình giỏi cỡ nào, nhưng không có nguyên liệu thì việc cậu muốn thay đổi khẩu vị cũng chỉ đành bất lực.

赵云霄挑选今晚晚餐的食材,云火在周围转了一圈,回来的时候嘴里多了一部手机。他在昨晚等候吃饭的那个位置趴下,又开始研究起了手机。

Triệu Vân Tiêu chọn ra nguyên liệu nấu nướng bữa tối nay, Vân Hỏa đi một vòng xung quanh, lúc về đã thấy trong miệng ngậm cái điện thoại. Hắn nằm rạp ở chỗ ngồi chờ cơm tối qua, bắt đầu nghiên cứu điện thoại tiếp.

"咔嚓!"

"Tách tách!"

赵云霄朝发声的方向看过去,失笑:"云火,你到底把手机藏到哪去了?"云火抬眼看了他一眼,继续研究手机。对喜欢的人,赵云霄是绝对的没有脾气 [píqi],只要不是原则 [yuánzé] 性的问题,他总是妥协的那一个。云火喜欢玩手机,他也只会让云火去玩。现在两人相处的模式本来也是云火负责猎食,他负责煮饭。

Triệu Vân Tiêu nhìn về phía phát ra âm thanh, cười phì ra: "Vân Hỏa, rốt cuộc thì anh giấu di động ở đâu vậy?" Vân Hỏa ngẩng lên nhìn cậu rồi tiếp tục nghiên cứu điện thoại. Đối với người mình thích, Triệu Vân Tiêu chắc chắn sẽ không cáu kỉnh, chỉ cần không phải là vấn đề mang tính nguyên tắc, cậu đều có thể thỏa hiệp. Vân Hỏa thích nghịch điện thoại, cậu cũng chỉ có thể để Vân Hỏa nghịch tiếp. Hình thức sống chung của họ hiện tại là Vân Hỏa phụ trách săn thú, cậu phụ trách nấu ăn.

云火把猎物的内脏都拿回来了,而且还清洗了,就连肠子 [chángzi] 里的脏东西都清洗掉了。没有血腥,赵云霄就不怕这些内脏,何况云火很细心,把可能会引起他害怕的那些地方都去掉了。没有酱油醋等各种调味汁、调味品和香料,赵云霄绞尽脑汁 [jiǎo jìn nǎozhī] 想办法做出美味的食物。

Vân Hỏa cầm nội tạng con mồi về, hơn nữa còn rửa sạch sẽ, kể cả chất bẩn trong ruột cũng rửa sạch hết. Không có máu me, Triệu Vân Tiêu chẳng sợ mấy thứ nội tạng nữa, huống hồ Vân Hỏa còn rất cẩn thận, bỏ đi những bộ phận có thể khiến cậu sợ hãi. Không có những chất điều vị như tương, dầu, giấm, gia vị hay hương liệu, Triệu Vân Tiêu vắt óc suy nghĩ cách làm được món ngon.

把内脏重新清洗干净,赵云霄先用开水汆 [cuān] 了一遍,然后清洗干净再丢到锅里去煮。把晒干的盐果捣碎,再把他今晚要用到的香草、甜草等调味料洗好切碎备用。馒头果大小不一,里面的"馒头"自然也有大有小。小的 "馒头" 更甜一点,大的馒头口感更软一些。

Rửa sạch lại nội tạng, Triệu Vân Tiêu chần qua nước nóng một lần, sau đó rửa lại tiếp rồi mới bỏ vào nồi nấu lên. Giã nhỏ quả muối phơi khô, rửa sạch và cắt nhỏ những loại gia vị như hương thảo, cỏ ngọt để tối nay dùng đến. Qủa bánh bao kích cỡ không giống nhau thì tự nhiên phần "bánh bao" ruột quả cũng có cái to có cái nhỏ. "Bánh bao" nhỏ thì ngọt hơn, "bánh bao" to hơn thì khi ăn mềm hơn một chút.

赵云霄切 [qiē] 了半个大馒头,然后发现没有案板 [ànbǎn] 很不方便,他出声:"云火。"

Triệu Vân Tiêu xắt cái bánh bao lớn ra làm đôi, sau đó cậu phát hiện ra không có thớt thật là bất tiện, cậu gọi: "Vân Hỏa."

云火立刻抬头。

Vân Hỏa ngẩng đầu ngay tức khắc.

"我需要一个案板。" 赵云霄比划了一个四四方方的手势。云火考虑了一番,点点头。叼着手机起身飞走了,很快,他又回来了,手机又不在了,叼起他用来装东西的兽皮,这才飞进森林。

"Em cần một cái thớt" Triệu Vân Tiêu lấy tay vẽ một hình vuông vuông. Vân Hỏa suy nghĩ một lúc, gật đầu. Ngậm điện thoại bay đi, rất nhanh sau đó, hắn quay về, nhưng điện thoại thì biến mất. Ngậm lấy tấm da thú trước giờ vẫn dùng để đựng đồ, lần này hắn mới bay vào rừng.

尽快把皮袋子做出来吧,赵云霄如是想。有了骨刀做饭方便了许多,他先处理竹竿,要弄成一节一节的。弄好之后,把大红豆、甜菜 [tiáncài] 沫放进一节节的竹竿里,然后选择粗细刚好的骨头,砸成合适的长短,塞住竹竿的两侧,再把竹竿一根根插进火堆下方。竹竿不易燃,不然赵云霄还没法这么做。

Phải làm túi da thú nhanh một chút, Triệu Vân Tiêu nghĩ vậy. Có dao xương thú, nấu cơm cũng nhanh hơn nhiều, cậu xử lý thân cây trúc trước, chặt thành từng đoạn một. Chặt xong, thả đậu đỏ và củ cải đường vào từng đoạn thân trúc, sau đó chọn những khúc xương có độ dày vừa phải, đập vỡ thành những đoạn dài phù hợp, cắm giữ lấy hai bên thân trúc, rồi cắm từng đoạn cây trúc vào đống lửa. Thân cây trúc không bị thiêu dễ dàng, nếu không Triệu Vân Tiêu cũng không có cách nào làm như vậy.

云火今天带回的那只猎物,赵云霄用骨刀剔 [tī] 下来背部的里脊肉 [jí ròu],这主要是给云火吃的。内脏煮得已经变色了,赵云霄捞 [lāo] 出来,只留不容易熟的大肠继续煮。把里脊肉切成一大片一大片的,赵云霄用骨头棒敲打。全部敲打完之后,抹上盐果和香草碎末待用。接着,他去收拾云火带回来的其他东西。

Con mồi hôm nay Vân Hỏa mang về, Triệu Vân Tiêu lấy dao xương thú lóc lấy thịt thăn ở phần lưng con mồi, phần này chủ yếu là để Vân Hỏa ăn. Nội tạng nấu đến khi đổi màu, Triệu Vân Tiêu vớt ra, chỉ để phần đại tràng khó chín lại nấu tiếp. Thái thịt thăn thành từng miếng lớn, Triệu Vân Tiêu dùng xương thú đập liên tục. Đến khi đập thịt xong, cậu rắc quả muối và hương thảo giã vụn lên để lúc sau mới dùng. Cậu đi thu dọn những thứ đồ khác Vân Hỏa mang về.

等到把今天的收获都分类归入 [guī rù] 仓库,时间也过去了差不多半个小时。云火还没有回来,看来案板不是那么好找的。肉片差不多可以做了,赵云霄把所有的蛋全部打到一个大锅里,用筷子(去了树皮的坚硬树枝)打散。

Đợi đến khi phân loại những đồ thu thập được hôm nay bỏ vào nhà kho, cũng đã hết gần nữa tiếng. Vân Hỏa vẫn chưa trở về, xem ra làm thớt không dễ dàng gì. Miếng thịt đã nấu được rồi, Triệu Vân Tiêu đập tất cả trứng vào một cái nồi lớn, lấy đũa (là nhành cây cứng cáp đã bỏ vỏ cây) để đánh trứng.

"炒锅" 上火,放入所有的动物油脂。把捶 [chuí] 打好的肉片放在蛋液里,让肉片的两边均匀地沾 [zhān] 上蛋液,赵云霄放入 "油锅" 中。

Bắc "chảo" lên bếp, thả thêm tất cả mỡ động vật vào. Thả phần thịt đã đập vào hỗn hợp trứng, nhúng đều cả hai mặt miếng thịt vào trứng, Triệu Vân Tiêu thả miếng thịt vào "chảo dầu".

"滋——"

"Xèo——"

表面变得金黄了,赵云霄捞出来,再裹一遍蛋液,接着炸。在他把所有的肉片全部炸好后,云火叼着兽皮回来了,兽皮看上去沉甸甸的。

Bề mặt chuyển thành màu vàng ruộm, Triệu Vân Tiêu vớt ra, lại nhúng vào trứng một lần nữa rồi cho vào rán tiếp. Sau khi cậu rán hết chỗ thịt đó, Vân Hỏa mới ngậm da thú quay về, da thú nhìn qua có vẻ nặng trình trịch.

飞到赵云霄的身边,云火把兽皮放下,兽皮摊开,里面是一块近乎方形的石头,石头的表面湿乎乎的,下方有深绿色的苔藓,也有被凿 [záo] 击过的痕迹,显然石头原来的底部并不平整,凿击过后石头就可以平稳地放在地上了。赵云霄摸摸云火的牙齿:"辛苦了。"应该是云火从溪水里找来的。

Bay tới bên cạnh Triệu Vân Tiêu, Vân Hỏa thả da thú xuống, da thú mở ra, bên trong là một tảng đá gần như vuông vức, bề mặt đá ẩm ướt, bên dưới có rêu màu xanh sẫm, còn có cả dấu vết bị đục đẽo, rõ ràng bên dưới hòn đá này không phẳng như bây giờ, sau khi đục đẽo xong, tảng đá mới có thể để phẳng trên mặt đất. Triệu Vân Tiêu xoa hàm răng của Vân Hỏa: "Anh vất vả quá." Chắc là Vân Hỏa tìm tảng đá dưới suối rồi.

云火舔舔赵云霄,展开翅膀飞走。很快,他回来了,嘴里叼着手机。果真是藏起来了。赵云霄不管云火了,先清洗案板再说。

Vân Hỏa liếm liếm Triệu Vân Tiêu, sải cánh bay đi. Rất nhanh, hắn quay về, miệng lại ngậm điện thoại. Qủa nhiên là biết đường giấu đi. Triệu Vân Tiêu mặc kệ Vân Hỏa, đi rửa cái thớt đã rồi tính tiếp.

案板有点沉,赵云霄把案板推到靠墙的位置,然后接来水清洗。云火看了几张激情照片,鼻子动动,他闻到了食物的香味。赤目的双眼准确地看到了那一张张金黄的肉饼。

Cái thớt hơi nặng, Triệu Vân Tiêu đẩy cái thớt đến dựa vào tường, sau đó lấy nước rửa sạch. Vân Hỏa nhìn mấy bức ảnh nóng bỏng, cái mũi động đậy, hắn ngửi thấy mùi thức ăn. Đôi mắt đỏ thẫm nhìn thẳng về phía mấy cái bánh thịt vàng ruộm.

"云火,还不可以吃。"

"Vân Hỏa, vẫn chưa ăn được đâu."

云火伸出去的爪子收回,退回他趴着的地方,继续看手机,不过鼻子一动一动的,显然很馋 [chán]。

Cái chân đã vươn ra của Vân Hỏa lại thụt về, lùi về chỗ nằm bò ra lúc trước, tiếp tục xem điện thoại, nhưng cái mũi thì vẫn nhúc nhích, rõ là đang rất thèm ăn.

有了案板,赵云霄很快把内脏全部切成片放在一起。云火的注意力从板板上完全转移到了赵云霄的身上。对方做饭的方式他从来没有见过,虽然他已经很久没有回去过部落,没有接触过同族的人了,但在他存在的那些记忆中,族人都没有这样做过食物。不需要再去验证,雌性是和他完全不同的人,或者说,是不属于这里的人。雌性,还想回去吗?板板里雌性生活的地方......他形容不出,但明显比这里好很多很多。也只有那样的地方才能孕育出这样美丽、温柔、绝无仅有 [juéwújǐnyǒu] 的雌性吧......

Có thớt rồi, Triệu Vân Tiêu nhanh chóng xắt tất cả nội tạng thành từng miếng để cùng nhau. Sự chú ý của Vân Hỏa hoàn toàn chuyển từ tấm bảng sang Triệu Vân Tiêu. Cách đối phương nấu ăn hắn chưa từng thấy bao giờ, dù rằng hắn đã không quay về bộ lạc rất lâu rồi, cũng không tiếp xúc với người trong tộc, nhưng trong những kí ức vẫn còn tồn tại, các tộc nhân không nấu thức ăn như thế. Không cần phải kiểm chứng thêm nữa, giống cái hoàn toàn không giống bọn hắn, hay nói cách khác, không phải là người thuộc về nơi này. Giống cái, có muốn trở về không? Trong tấm bảng, nơi giống cái sinh sống... Hắn không hình dung ra nổi, nhưng hắn biết nơi đó rõ ràng tốt hơn ở đây rất nhiều. Cũng chỉ có nơi như vậy mới sản sinh ra được giống cái xinh đẹp, dịu dàng, có một không hai như vậy...

云火陷入了两难。如果雌性是害怕他而离开,他还能勉强接受,至少他可以偷偷去看雌性。但如果雌性回到了板板里的那个世界,那他去哪里找雌性呢?云火突然害怕了,不安了,他怕哪天一睁开眼睛雌性就不见了。

Vân Hỏa rơi vào thế lưỡng nan. Nếu như giống cái sợ hãi rồi rời bỏ hắn, hắn vẫn có thể miễn cưỡng chấp nhận, ít nhất hắn có thể đến trộm nhìn ngắm giống cái. Nhưng nếu giống cái quay về thế giới trong tấm bảng, hắn phải tới đâu để tìm lại giống cái đây? Vân Hỏa đột nhiên cảm thấy sợ hãi, bất an, hắn sợ ngày nào đó mở mắt ra không thấy giống cái đâu nữa.

"滋啦——"

"Xèo xèo——"

云火的鼻子动动,思绪回转,什么这么香?云火放下板板站了起来,他肚子饿了,抬脚就向香味散发的地方走去。

Mũi Vân Hỏa nhúc nhích, mạch suy nghĩ xoay chuyển, cái gì mà thơm thế? Vân Hỏa đặt tấm bảng xuống, đứng lên, hắn đói bụng rồi, nhấc chân đi về hướng mùi thơm đang lan tỏa.

"云火,你先别过来,现在还不能吃。"

"Vân Hỏa, tạm thời anh đừng qua đây, giờ vẫn chưa ăn được đâu."

赵云霄快速翻动勺子,没有炒菜铲 [chǎocài chǎn],只能用勺子了。云火走到赵云霄身边,"呜呜"叫,他饿了。赵云霄从还煮着大肠的锅里舀了几勺汤倒进炒锅中,云火咽口水,饿。

Triệu Vân Tiêu vội vàng dùng thìa lật giở, không có xẻng xào rau, chỉ có thể dùng thìa. Vân Hỏa đi tới bên cạnh Triệu Vân Tiêu, kêu "u u", hắn đói quá. Triệu Vân Tiêu múc vài thìa nước luộc phần ruột già trong nồi đổ vào chảo rán, Vân Hỏa nuốt một ngụm nước miếng, đói.

"咕噜噜——"

"Ọc ọc——"

"再等等好吗?" 赵云霄摸摸云火的脸。云火忍着口水,退到一边,很饿。肉杂熟得很快,赵云霄端下炒锅,把馒头一块块地掰 [bāi] 到锅里,然后翻搅 [fān jiǎo]。云火又凑 [còu] 了上来,吐舌头,流口水。

"Chờ một chút nữa thôi được không?" Triệu Vân Tiêu xoa mặt Vân Hỏa. Vân Hỏa nuốt nước miếng, lùi sang một bên, đói quá. Thịt băm chín rất nhanh, Triệu Vân Tiêu nhấc chảo rán xuống, bẻ từng miếng bánh bao thả vào chảo, sau đó khuẩy đảo lên. Vân Hỏa lại sáp đến gần, đầu lưỡi thè ra, chảy nước miếng.

"还很烫,忍忍。"

"Còn nóng lắm, nhịn một chút."

翻搅好了,赵云霄去切肉排 [ròupái]。云火低头就要去锅里吃,被赵云霄及时制止。把锅端到案板这边以免某只嘴馋的野兽忍不住要吃被烫到,赵云霄开始切肉排。没有材料调酱 [jiàng] 汁,味道总是会差,但这也是没有办法的事情。

Đảo đều xong, Triệu Vân Tiêu thái thịt thăn. Vân Hỏa cúi đầu định ăn luôn trong nồi nhưng bị Triệu Vân Tiêu kịp thời ngăn lại. Nhấc nồi đến để cạnh thớt, tránh cho tên dã thú tham ăn nào đó không nhịn được ăn nóng rồi bỏng mồm, Triệu Vân Tiêu bắt đầu thái thịt thăn. Không có nước tương làm đồ chấm, mùi vị không thể quá ngon, nhưng âu cũng chẳng còn cách nào khác.

把切好的肉排放到另一个干净的锅里,赵云霄从火堆里弄出烧得乌黑的竹竿。拿兽皮垫着,他打开封口的骨头,骨髓、骨油混合 [hùnhé] 着甜菜、大红豆和竹芯 [xìn] 的香气立刻窜 [cuàn] 了出来。云火心急地在原地踱步 [duó bù] ,他饿!

Thịt thăn thái xong để vào một cái nồi sạch, Triệu Vân Tiêu rút những đoạn thân cây trúc bị đốt đen thui ra. Lấy da thú để lót, cậu mở mảnh xương bịt kín ra, mùi thơm của tủy xương, nước xương hòa cùng vị củ cải đường, đậu đỏ và lõi cây trúc lập tức ùa ra. Vân Hỏa gấp gáp đi vòng vòng tại chỗ, hắn đói quá đi mất!

"再等等啊,马上就好了。" 赵云霄的鼻尖上冒出了汗珠。

"Chờ chút, sắp xong rồi đây." Đầu mũi Triệu Vân Tiêu đổ chút mồ hôi.

竹芯中本来软绵绵的白色物质在高温中变得稀稠。赵云霄把竹竿里的东西全部浇 [jiāo] 在肉排上,撒 [sǎ] 上盐果汁。用筷子戳戳大肠,有点烂了。赵云霄把煮大肠的锅也端下来。捞出大肠,切成一小段一小段的,然后炒锅上火,放油。

Trong lõi cây trúc vốn có những sợi trắng mềm như bông, ở nhiệt độ cao, chúng biến thành dạng lỏng đặc. Triệu Vân Tiêu rưới tất cả mọi thứ trong ống trúc lên thịt thăn, vẩy thêm nước quả muối. Dùng đũa xâm thử ruột già, hơi nhừ rồi. Triệu Vân Tiêu nhấc nồi ruột già xuống. Vớt ruột già ra, thái thành từng miếng nhỏ, sau đó bắc chảo rán lên, thả dầu vào.

最后,一锅香草炒大肠也好了。赵云霄呼出一口气:"吃饭!"

Sau cùng, nồi ruột già xào hương thảo đã nấu xong. Triệu Vân Tiêu thở phào: "Ăn cơm thôi!"

"嗷呜~!" 某只野兽早就等不及了。

"Ngao ô~!" Tên dã thú nào đó không chờ nổi nữa rồi.

赵云霄的晚餐是一碗肉杂馒头饭、三小块炸肉排和几小段炒大肠。不过他目前还顾不上吃。云火等不及要吃,但还有点烫。看云火不管烫不烫都要吃的架势 [jiàshi],担心他的舌头被烫伤的赵云霄便拿起碗,喂云火吃了起来。为什么是碗?勺子不够大。

Bữa tối của Triệu Vân Tiêu là một bát thịt băm trộn bánh bao, ba miếng nhỏ thịt thăn rán và vài miếng ruột già xào. Nhưng bây giờ cậu chưa có thời gian ăn. Vân Hỏa không chờ nổi đã muốn ăn lắm rồi, nhưng đồ ăn vẫn còn nóng. Nhìn cái dáng vẻ định mặc kệ nóng hay không cứ ăn đã của Vân Hỏa, Triệu Vân Tiêu lo lưỡi hắn bị bỏng liền bưng bát lên, đút cho Vân Hỏa ăn. Tại sao lại là bát? Vì thìa nó không đủ to.

用碗舀起半碗,吹凉,赵云霄直接倒进云火大张的嘴里。云火吃得是狼吞虎咽 [lángtūnhǔyàn],他特后悔把以前的那些猎物内脏都丢了。好吃!好吃!还要!还要!

Múc nửa bát một, thổi nguội, Triệu Vân Tiêu đổ thẳng vào cái mồm đang há to của Vân Hỏa. Vân Hỏa ăn như hổ đói, hắn cực kì hối hận vì lúc trước vứt đi nhiều nội tạng con mồi như thế. Ngon quá! Ngon quá! Ăn nữa! Ăn nữa!

喂了一半,锅里的也凉了,赵云霄这才让云火自己吃。云火的大脑袋几乎埋进了锅里,看他吃得这么香,赵云霄一点都不觉得累了,痴痴地笑。吃完了一大锅的馒头饭,云火开始吃肉排。大舌头一卷,三分之一的肉排就没有了。云霄的那碗饭还没吃饭,云火的肉排已经干干净净了。

Đút được một nửa thì nồi thức ăn cũng đã nguội rồi, Triệu Vân Tiêu mới để Vân Hỏa tự ăn. Đầu Vân Hỏa gần như vùi hẳn vào trong nồi, thấy hắn ăn ngon như thế, Triệu Vân Tiêu không cảm thấy mệt chút nào nữa, cậu cười ngốc nghếch. Ăn hết một nồi bánh bao lớn, Vân Hỏa bắt đầu ăn sang thịt thăn. Cái lưỡi lớn đảo một vòng, thịt thăn hết luôn một phần ba. Vân Tiêu chưa ăn xong bát của mình thì Vân Hỏa đã diệt sạch thịt thăn rồi.

在赵云霄的饭吃完后,云火面前的那份大肠连同香草在赵云霄的注视下全部进了云火的嘴里。等到赵云霄开始吃自己的肉排时,云火盯着他的肉排,眼里是某种渴求。

Khi Triệu Vân Tiêu ăn cơm xong, phần ruột già xào hương thảo trước mặt Vân Hỏa, dưới sự chứng kiến của Triệu Vân Tiêu, đều vào mồm Vân Hỏa hết. Đợi đến khi Triệu Vân Tiêu bắt đầu ăn sang phần thịt thăn của mình, Vân Hỏa nhìm chằm chằm món thịt thăn của cậu, trong mắt đầy vẻ khao khát.

"明天我再给你做别的好吃的。炖排骨 [páigǔ] 怎么样?" 赵云霄把肉排喂到云火的嘴边,云火很矛盾,他想吃,又怕云霄饿肚子。

"Ngày mai em nấu món ngon khác cho anh nha. Sườn hầm có được không?" Triệu Vân Tiêu đút miếng thịt thăn đến bên miệng Vân Hỏa, Vân Hỏa rất mâu thuẫn, hắn muốn ăn, nhưng lại sợ Vân Tiêu đói bụng.

"张嘴。"

"Há miệng ra nào."

云火向自己的食欲投降 [tóuxiáng] 了,张开血盆大口。赵云霄把肉排喂给了他吃。和自己吃过的肉排相比,这顿肉排只能用粗糙来形容。但不管有多粗糙,云火的反应都让赵云霄觉得自己是世界上最厉害的厨师。

Vân Hỏa đầu hàng trước lòng ham ăn của mình, há cái miệng to như chậu máu. Triệu Vân Tiêu đút thịt cho hắn ăn. So với món thịt thăn trước kia mình từng ăn, bữa thịt thăn tối nay chỉ có thể nói là làm qua loa. Nhưng cho dù qua loa đến đâu, phản ứng của Vân Hỏa khiến Triệu Vân Tiêu cảm thấy mình chính là đầu bếp giỏi nhất trần đời.

晚餐全部消灭光光,只剩下一锅煮大肠的汤。这锅汤赵云霄拿另一个锅扣住放到了卧室,明天还可以继续用。然后就该收拾清洗了,云火把云霄赶到了床上,他晚上来清洗。赵云霄也确实累了,主要是工具不合适,做饭不仅花时间也花精神精力。身上一股子油烟味,赵云霄休息了一会儿去洗澡。现在有了皂草真是方便许多。

Bữa tối bị tiêu diệt sạch sẽ, chỉ còn thừa lại canh ruột già đun. Nồi canh này Triệu Vân Tiêu lấy một cái nồi khác đậy lại, để trong phòng ngủ, ngày mai còn dùng tiếp. Cậu nên đi thu dọn nồi niêu rồi, Vân Hỏa đuổi Vân Tiêu lên giường, tối nay để hắn thu dọn cho. Triệu Vân Tiêu cũng mệt rồi, chủ yếu là do công cụ không phù hợp, nấu cơm không chỉ tốn thời gian mà còn tốn tinh thần sức lực nữa. Trên người có mùi khói dầu, Triệu Vân Tiêu nghỉ ngơi một lúc thì đi tắm. Bây giờ có cỏ bọt xà bông rồi nên tiện lợi hơn nhiều.

在赵云霄去洗澡的时候,云火看着地上的锅碗瓢 [pén] 盆 [pén] 眼里是沮丧。他不能当着雌性的面变身,很多事情他就做不了,只能让雌性自己去做,这样雌性就会很累。用爪子把锅碗推到一起,云火看看赵云霄洗澡的方向,眼底 [yǎndǐ] 深沉 [shēnchén]。

Khi Triệu Vân Tiêu đi tắm, Vân Hỏa nhìn xoong nồi bát đũa dưới đất, trong mắt tràn ngập chán nản. Hắn không thể biến hình trước mặt giống cái, có rất nhiều chuyện hắn không thể làm được, chỉ có thể để giống cái tự mình làm, làm như vậy lại khiến giống cái mệt mỏi. Dùng chân đẩy nồi bát sang một bên, Vân Hỏa nhìn về hướng Triệu Vân Tiêu đang tắm rửa, nét trầm lắng rơi vào đáy mắt.

今天洗过澡了,赵云霄只是用皂草洗了头发,身上用清水冲了冲 [chōng],洗去油烟。回到山洞,云火在床上了,赵云霄又转身出去了。回来的时候,他手里多了一个碗,一根刷牙的枝条。云火张开嘴,赵云霄用盐果泡过的水给他仔细清洁了牙齿,又给他擦了脸,这才上床准备休息。

Hôm nay đã tắm rồi, Triệu Vân Tiêu chỉ dùng cỏ tạo bọt gội đầu, lấy nước sạch dội qua người, tắm hết mùi khói dầu. Trở về hang động, Vân Hỏa đang ở trên giường rồi, Triệu Vân Tiêu quay người đi ra. Khi quay lại, trên tay cậu cầm thêm một cái bát, một nhành cây để đánh răng. Vân Hỏa há miệng, Triệu Vân Tiêu dùng nước ngâm quả muối, tỉ mỉ đánh răng cho hắn, lau mặt cho hắn, rồi mới lên giường chuẩn bị nghỉ ngơi.

他真的是一个很温柔很温柔的雌性。云火把云霄拦入怀中,舔他的脸,舔他的脖子,舔他的锁骨。他的雌性绝对是世界上最最温柔、最最好的雌性。只有很小的时候阿爸给他擦过脸,想到阿爸,云火的眼神黯然。

Em ấy đúng là một giống cái hết mực dịu dàng. Vân Hỏa kéo Vân Tiêu vào lòng, liếm mặt, liếm cổ, liếm xương quai xanh của cậu. Giống cái của hắn chắc chắn là giống cái dịu dàng nhất, tốt nhất trần đời. Chỉ có lúc còn nhỏ, hắn được a ba lau mặt cho, nhớ đến a ba mình, ánh mắt Vân Hỏa thoáng buồn.

"云火......" 呢喃 [nínán] 一声,累了的赵云霄闭上眼睛。除了做饭操持家务,他什么都不会。在原来的世界,他的任务是传宗接代。到了这个世界,他都不知道自己还能做什么,还有什么存在的意义。照顾好云火,是他唯一能为云火做的,希望时间长了,云火不会觉得他无趣,不会,觉得他是累赘 [léizhui]。

"Vân Hỏa......" Triệu Vân Tiêu mệt mỏi nhắm mắt, lầm bầm một tiếng. Ngoại trừ việc nấu cơm, làm việc nhà thì cái gì cậu cũng không biết làm. Ở thế giới ban đầu, trách nhiệm của cậu là nối dõng tông đường. Đến thế giới này, cậu không biết mình còn có thể làm cái gì, còn có ý nghĩa tồn tại gì. Chăm sóc Vân Hỏa thật tốt, là việc duy nhất cậu có thể làm cho Vân Hỏa, hi vọng thời gian sau này, Vân Hỏa sẽ không cảm thấy cậu thật buồn chán, à không, cảm thấy cậu là một sự phiền toái.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro