Chương 6: La Marseillaise (4)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


IV

Khi tỉnh dậy, tôi phát hiện ra mình đã biến thành người sẽ hành quyết Marie Antoinette.

Không cần ai mách bảo, cái nhận thức đó nở bừng trong tôi một cách hết sức tự nhiên như đóa hoa sen khi trời cừa chớm hạ. Tôi hiểu mình cần phải đi đâu (tới pháp trường), và làm gì (khiến cho một cái đầu rơi xuống).

Những mảng màu xám xịt xen đỏ thẫm của một thành phố hoang tàn, đổ nát lòa nhòa trôi tuột về phía đằng sau. Bên trong xe hôi nồng mùi gia súc và bộ trang phục rườm rà, tôi bắt đầu nghĩ ngợi miên man về cái điều mình sắp phải làm. Tôi đây nào đâu phải một tên vĩ cuồng, khoái chí tới phát rồ khi nhìn thấy cảnh máu chảy đầu rơi. Tôi, Nakamura Tsuyonari, đơn thuần là gã nhân viên quèn mang quốc tịch Nhật, làm việc cho một công ty xuất nhập khẩu đã có tên trên sàn chứng khoán, vô tình thế vào vai một kẻ sắp hành quyết Cựu Hoàng hậu nước Pháp. Một sự kiện lịch sự chấn động chứ chẳng đùa. Trong khi đó, đôi tay tôi, từ trước đến nay, chỉ quen với việc thái rau củ quả, băm thịt và chặt đầu cá là hết nấc.

Ước gì thân xác tôi đang mang là của Nữ Hoàng Đầm Cơ hay "Robespierre-đại-đế" thì hay biết mấy bởi họ có vẻ am hiểu về đống thủ cấp hơn là một con người toàn vẹn đủ đầy. Ngoài ra, họ chỉ việc ra lệnh, rồi thì sẽ có người lo liệu tất tần tật mọi thứ từ A đến Z. Những đôi găng tay tẩm nước hoa sẽ chẳng bao giờ vấy nổi một giọt máu dù cho có bao nhiêu xác người ngã xuống dưới chân họ đi chăng nữa.

Tuy nhiên, nếu so sánh giữa một nhà chính trị mang tư tưởng có hơi cực đoan một tẹo và một bà Đầm già ăn bận lòe loẹt, diêm dúa và hành xử như đứa trẻ chẳng bao giờ chịu lớn, thì vế đầu nghe có vẻ khả thi hơn. Bên cạnh đó, cá nhân tôi cũng có cảm tình với ẩm thực Pháp Lan Tây hơn nhiều.

Tôi còn chưa kịp chọn lựa xong thì chiếc xe ngựa đột ngột dừng lại, khiến tôi suýt chút nữa là ngã dúi dụi xuồng sàn xe cáu bẩn. Cửa xe mở ra phía bên ngoài và xuất hiện trước mặt tôi là một ông già đầu đội tóc giả uốn thành sáu cuộn kiểu bánh quy ống, chia đều dọc hai bên thái dương, mặt nhăn nhó khổ sở như thể đang ngậm một trái mơ chua trong miệng.

"Mọi thứ đã chuẩn bị đủ rồi, thưa quý ông."

Lão vừa xoa hai tay vào nhau, vừa nói bằng một thái độ e thẹn tôi chưa từng thấy trước đây ở người Nhật, cả đàn ông lẫn đàn bà. Lão dẫn tôi tới một chiếc ghế tựa đặt bên cạnh một cái bàn con, ngay bên cạnh vị nữ thánh vĩ đại thứ hai của nước Pháp, chỉ xếp sau mỗi Jeanne d'Arc, Madame La Guillotine xinh đẹp và công bằng. Trên bàn có đặt một đĩa ốc sên sống và lòng lợn nướng, thêm hai mẩu bánh mì khô không khốc, cùng một ly rượu vang trắng.

Tôi liếc nhìn hai món ăn trên bàn mà cố giấu đi vẻ mặt thất vọng. "Giữa bao nhiêu của ngon vật lạ của một trong những nền ẩm thực hàng đầu thế giới mà họ lại dọn lên hai món này." Tôi nghĩ thầm như thế trước khi đặt mông ngồi xuống ghế. Ông lão nài tôi ăn chút gì đó để có sức mà thực hiện buổi hành quyết. Tôi từ chối với lý do hai món này đã khiến tôi khổ sở nguyên đêm do bị những cơn đau bụng hành hạ. "Vậy ngài muốn ăn gì ạ, thưa đức ngài." Lão cung kính hỏi. Tôi để ý thấy, rằng lão không hề gọi tên tôi mà chỉ lễ phép xưng hai tiếng "đức ngài". Rốt cuộc thì đến bao giờ tôi mới biết tên của kẻ hành quyết mà mình đang nương nhờ cơ thể đây?

"Thế còn macaron thì sao?"

Tôi chọn món bánh ngọt như đường phèn, nhưng có màu sắc vô cùng thích mắt đó chỉ bởi vì người Nhật cứ nhắc tới đồ ăn Pháp là liền nghĩ ngay tới macaron. Hồi trưởng phòng Noriguchi có chuyến công tác sang Pháp, đám đàn bà con gái trong công ty xếp hàng trước cửa văn phòng chỉ để nhờ ông mua bánh macaron tại một cửa hàng được xem là cái nôi của món bánh này ở Paris.

"Chà, thế thì hơi khó đấy ạ." Trán ông lão bắt đầu lấm tấm mồ hôi. Lão nói bằng giọng run run. "Bởi...đó là món mà Marie Antoinette chọn làm bữa ăn cuối cùng. Những chiếc bánh macaron cuối cùng ở Paris."

"À, thế thì thôi. Dù sao tôi cũng vừa ăn một bữa no căng bụng, và sẽ rời đi sớm thôi."

Tôi nói thế, rồi cho phép ông lão lũi đi. Ngồi dựa lưng thoải mái trên chiếc ghế đóng bằng gỗ sồi, giờ đây tôi mới để ý tới đám đông, bao gồm đủ loại người: già trẻ, gái trai, những người ăn vận thanh lịch lẫn những tên mặt đỏ vang, dân Paris chính gốc hay những kẻ tò mò đến từ những vùng lân cận, đang tụ tập mỗi lúc một đông bên dưới đài hành quyết.Ai nấy đều đội những chiếc nón kiểu bonnet đỏ, trông hao hao chiếc mũ mang tính biểu tượng của ông già Noel. Họ đứng sau những hàng rào nhọn hoắt, tay cầm theo những giỏ đựng đầy hoa tươi, bánh mỳ, và cả trái cây nữa. Bầu không khí thì rõ ồn ào và náo nhiệt như trẩy hội đầu xuân. Quán xá xung quanh khu pháp trường thì giăng đèn, khết hoa. Đôi ba cậu thiếu niên mặt mũi lấm lem đeo trên cổ những chiếc thùng chất đầy những chai bia không sủi bọt và loại rượu cồn đủ sức làm cháy yết hầu của tay bợm nhậu cự phách nhất. Một nhúm trẻ con xinh xắn tựa thiên thần cá hát líu lo.

Họ, cũng như chính bản thân tôi, đang nóng lòng chờ đợi sự xuất hiện của nhân vật chính ngày hôm nay, Nữ Đại công tước nước Áo, nhưng đồng thời cũng chính là kẻ thù chung của nước Pháp, Marie Antoinette.

Tôi khẽ nhấp một ngum rượu vang, rồi trầm mặc hướng cặp mắt vốn không thuộc về mình nhìn về xa xăm, vô định. Đằng sau cái quần thể người kia là một khu vườn trồng đầy hoa Oải Hương; đằng sau khu vừa đó lại là một hàng cây Mimosa chưa tới kỳ trổ hoa; sau hàng cây ấy lại là biển xanh màu ngọc bích (nhưng lại chẳng có bãi cát vàng); còn phía đằng sau biển cả có gì thì tôi không rõ vì tầm mắt đã bị chặn đứng bởi đường chân trời hửng lên sắc hồng đào ấm áp.Và kìa, hiện lên sáng chói như một ngôi sao ban mai trên đường chân trời là một cỗ xe tròn như trái bí rợ được kéo bởi bốn con ngựa lông trắng tinh khôi. Thậm chí, khi vừa trông thấy nó, trong đầu tôi tự phát ra đoạn nhạc quen thuộc: "phải có chiếc đũa thần mới nên phép thần thông, phải có trái bí rợ mới thành xe tứ mã"

Cỗ xe sang trọng ấy vừa đỗ xịch lại thì đám đông dân chúng vội đứng dạt sang hai bên, mở ra một con đường rộng rãi dẫn thẳng đến chỗ tôi và Louisette - La Veuve đang rạo rực mong ngóng. Người xà ích (hẳn là được biến ra dạng người từ một trong những chú chó trung thành của nàng Marie), nhảy xuống khỏi ghế lái, rồi nháo nhào chạy tới mở cửa xe. Bước ra từ bên trong cỗ xe thần tiên nọ không phải là nàng Lọ Lem; thay vào đó lại chính là con búp bê đắt giá mà Nữ hoàng Maria Theresa đã tặng cho nước Pháp. Nàng, Marie Antoinette Josèphe Jeanne, nắm tay người xà ích, thận trọng bước xuống những bậc thang phủ đầy kim tuyến.

Bộ xiêm y nàng chọn cho một ngày trọng đại như hôm nay hẳn phải là một trong những chiếc váy Chemise à la Reine đẹp nhất nàng sở hữu. Chiếc váy Marie đang vân trên mình được may bằng vải muslin mỏng dập dờn những gợn thiên thanh, với phần cổ khoét tròn nhún bèo. Trên tà váy đính những chiếc chuông nhỏ nô nức cất lên tiếng hát của những vì sao. (Vậy là tôi đã nhớ đúng. Đó chính là nàng!) Một chiếc khăn lụa to bản được nhuộm màu hoàng hôn nơi Tân Thế Giới âu yếm ôm ấp quanh vòng eo nhỏ xíu của nàng. Chồng nàng đã hứa sẽ đưa nàng sang thăm thú một phen cho thỏa chí tang bồng sau khi ngài dẹp yên xong cuộc bạo loạn ("Nhưng thưa bệ hạ, đó đâu chỉ đơn thuần là một cuộc bảo loạn. Đó là một cuộc Cách mang!") Mái tóc đã bạc trắng sau một đêm của Cựu Hoàng Hậu nước Pháp được búi lại gọn gàng theo kiểu Chignon thanh lịch, cài lệch trên đó một đóa Mẫu Đơn tím hoang hoải, to xấp xỉ một cái chén Trung Hoa. Ban đầu, tỳ nữ chăm sóc cho nàng vốn định mang tới cả một vòng hoa tươi, nhưng như thế thì lại phô trương quá. Bên cạnh đó, bông hoa cài trên mái tóc màu vàng dâu Tây của nàng đẹp một cách phi thực, như thể một kẻ si mê nhan sức của nàng đã nhảy vào tranh của Monet để hái trộm nó về tặng nàng vậy. Dái tai dày lủng lẳng đôi bông hình lá liễu bằng bạc. Nơi chiếc cổ cao và trắng ngần như một đóa hoa huệ vươn cao ngạo nghễ lấp lánh sợi dây chuyền chế tác từ vàng trắng gắn đá Sapphire ("Phải, nàng có vô số trang sức lộng lẫy, nhưng nàng dám thề trước Chúa, rằng bản thân không hề biết tới sự tồn tại của sợi dây chuyền kim cương đó."). Hai bàn chân nàng lọt thỏm trong đôi hài màu be đính ngọc trai. Nếu để miêu tả một cách xúc tích nhất có thể về dung mạo của Marie Antoinette, tôi chỉ có thế tóm gọn trong một câu: "Nàng đẹp như quỷ Lucifer khi vẫn còn phủ phục dưới chân Thiên Chúa."

Dân chúng mải nhìn theo nàng đến nỗi quên cả việc đay nghiến, hạ nhục người đàn bà đã khiến cuộc sống của họ chìm trong cảnh lầm than. Đám trẻ con thì cứ há hốc miệng nhìn nàng đắm đuối. Bỗng, Marie, chủ nhân của mọi buổi tiệc hoàng đàng nhất, dùng hai ngón tay thon dài của mình nâng nhẹ vạt váy, rồi bắt chéo chân, cúi chào. Cả đám đông như bừng tỉnh. Nhưng họ không nguyền rủa nàng, mà nhất loạt thét gọi tên nàng một cách đầy hào hứng và nhiệt liệt. Cứ như thể nàng không phải là phạm nhân đang bị áp giải lên ngọn đầu đài, mà là nàng tiên được tôn vinh trong những lễ hội mùa xuân. Marie ưỡn bờ ngực tròn đầy, đầu ngẩng cao ngạo nghễ. Đám đàn ông cùng trẻ nhỏ hát vang bài "La Guillotine Permanente"nổi tiếng trong khi đám đàn bà con gái rải những cánh hoa muôn sắc muôn màu dưới mỗi bước nàng đi, nhẹ nhàng và thanh thoát như thể bàn chân không chạm mặt đất.

"Le député Guillotin

Dans la médecine

Très expert et très malin

Fit une machine

Pour purger le corps français

De tous les gens à projets

C'est la guillotine, ô gué

C'est la guillotine"

("Đại biểu Guillotin

Tinh thông y thuật

Đã chế tạo ra một cỗ máy

Nhằm thanh lọc những thây ma nước Pháp

Từ tất cả mọi người với biết bao dự tính

Chính là máy chém đây, vạn tuế

Máy chém đến đây")

Marie không bận tâm đến lời ca tiếng hát của dân chúng xung quanh, cũng giống như lúc nàng cho đóng kín toàn bộ cửa sổ điện Versille để tiếng khóc than thống khổ của họ không quấy rầy giấc ngủ trưa quý giá của nàng. Nàng cứ thẳng hướng ngọn đầu đài mà bước phăm phăm. Xưa kia, với đôi hài này, nàng bước đi giữa biển vàng, còn giờ đây, chân nàng tha thướt rẽ lối hóa. Quý tộc thì vô số, nhưng có mấy ai toát ra được cái khí chất cao sang, quý phái đặc biệt như nàng. Đó là vừa là thiên tước, vừa do trải qua sự dạy dỗ nghiêm khắc mà thành. Khi nàng bước lên những bậc thang gỗ mục nát trong tư thế dang cánh của một con thiên nga, và lỡ vấp chân, loạng choạng, tôi mau lẹ đỡ lấy cánh tay nàng trắng muốt. Chúng tôi xoay nửa vòng, như thể vô tình bị cuốn vào một điệu Waltz của Tschaikosky. Muôn tiếng chuông ngân. Leng keng. Leng keng. Và rồi mũi hài nàng, ngoan ngoãn tuân theo đúng sự an bài của lịch sử, giẫm nhẹ lên bàn chân tôi. "Xin lỗi quý ông, ta không cố ý." Marie cười ngại ngùng, má hây hây đỏ. "Xin lệnh bà chớ bận tâm." Nàng có vẻ ngạc nhiên khi nghe tôi gọi hai tiếng "lệnh bà", nhưng ngay lập tức, gương mặt nàng lại trở về trạng thái bình thản đến rợn cả gai ốc.

Tôi giới thiệu người cộng sự ngày hôm nay của mình với nàng. "Xin hãy chào hỏi nhau đi nào. Madame La Guillotine, đây là khách quý của chúng ta, Madame Deficit." Vợ của Louise Capet tha thướt hành lễ kiểu hoàng gia, để lộ đôi chân mang vớ trắng thêu họa tiết hoa đồng tiền, còn Louisette lại im thin thít.

Marie đứng tần ngắm nhìn cỗ máy hành quyết như thể nó là một ngẫu tượng bị khuân trộm về từ những vùng đất mà ngay chính thầy dạy Địa lý của nàng cũng chưa từng nghe tới. Nếu cỗ máy mà biết nói năng, Marie hẳn có rất nhiều câu hỏi cần nó trả lời. Như chuyện tại sao nàng lại bị đưa tới đây chỉ vì muốn mời thần dân của mình ăn bánh? Tại sao nhã ý của nàng lại khiến họ phẫn nộ? Đức vua uy nghi của nàng đang ở đâu? Trên chiến trường khốc liệt giao chiến với quân Anh hay đang trên đường công du sang đất Phổ? Các con của nàng liệu đã về quê ngoại an toàn và có ngủ ngoan trong vòng tay của bác chúng? (Ôi, thật may là người ta đã không tiết lộ với nàng chuyện gì đã xảy ra với những lọn tóc vàng thân yêu đó)

Giờ hành quyết đã điểm. Theo luật định thì nàng phải chịu trói quặt hai tay ra đằng sau lưng. "Ta sợ dây thừng lắm." Marie nói vởi vẻ hoang mang. Bởi rất nhiều năm về trước, nàng đã một lần chứng kiến một người đàn ông (Robert-François Damiens, có lẽ vậy) bị xử tử bằng một cách thức vô cùng man rợ: đầu và tứ chi của phạm nhân bị trói chặt vào năm con ngựa bằng dây thừng; để rồi, khi lũ ngựa lồng lên phi nước đại thì cũng chính là khoảnh khắc ông ta bị phanh thây. "Nếu lệnh bà sợ, ta có thể dùng thứ này." Dứt lời, tôi rút từ trong túi ra một dải lụa dài màu vàng lúa chín ra, trải nó dọc đôi lòng bàn tay để cho nàng xem. Không thể nhầm được, đây chính là sợi dây mà Naoko vẫn thường dùng để buộc tóc. Tại sao nó lại nằm trong túi tên đồ tể sống ở tận nước Pháp xa xôi cơ chứ?

Tuy vậy, tôi chẳng có thời gian để truy vấn chuyện đó quá lâu. Ớ phía đối diện, Marie đã chủ động vòng hai cánh tay ra sau cái lưng thon của nàng, và đang nhẫn nại chờ đợi tôi trói hai cổ tay nàng lại với nhau. Sau đó, nàng tự giác nằm lên trên phản gỗ, cổ đặt vào cái khe bán nguyệt. Đột nhiên, ngay lúc này, tôi lại cảm thấy móng vuốt đen xì của một cơn hãi hùng cào xé

"Sao mình có thể hủy hoại một thứ đẹp đẽ như thế này? Nàng là sinh vật đẹp đẽ nhất mà mình từng gặp."

Suy nghĩ ấy khiến lòng thương xót trong tôi suýt chút nữa là vỡ òa thành nước mắt. Tiếng hát ca ngợi cỗ máy giết người tráng lệ mỗi lúc một lớn dần lên. Bọn đàn ông mắt vằn tia máu bắt đầu cất tiếng chửi rủa, nhưng không phải hướng tới Marie, mà dành cho tôi. Họ hối thúc tôi mau chóng tiến hành buổi hành quyết. Mắt tôi hoa lên, và thậm chí trong vài giây ngắn ngủi, tôi đã thấy những cơn gió đêm của Vangogh lướt qua trước mắt mình. Bàn tay nắm quyền sinh sát của tôi ướt đầm đìa mồ hôi.

("Tôi biết, hơn bất kỳ ai, em đẹp đẽ và trong sạch. Nhưng, em không thể ôm lấy toàn bộ những điều tốt đẹp, phúc lành và cả tình yêu cho riêng mình được; trong khi những người khác thì phải cõngc trên lưng hàng tấn khổ đau, nhọc nhằn thay em. Em sẽ không bao giờ hiểu được khi vẫn còn mặc chiếc váy đó, chân em vẫn mang đôi hài đó, và viên hồng ngọc vẫn tỏa sáng rực rỡ trong lồng ngực em. Tôi phải hy sinh em cho Cách mạng. Sự ra đi của em sẽ mang lại hạnh phúc cho hàng triệu người đấy, em có tỏ chăng?)

Giữa lúc tôi đang lạc lối giữa những suy nghĩ đầy mâu thuẫn giờ đây giao nhau tại một điểm mà ai đó đã chọn để đặt bức tượng Pietà của Michelangelo vào đó, thì bất chợt có tiếng chuông đồng đổ xuống từ trên trời cao. Ngẩng đầu lên, thì ra là có ai đó trên ngọn tháp nhà thờ Đức Bà đang rung lên những hồi chuông gióng giả. Nhìn xuống phía bên dưới, dân chúng đang không ngừng reo hò phấn khởi, và tung lên không trung những chiếc mũ tượng trưng cho sự tự do vĩnh viễn. Run rẩy, ớn lạnh, tôi từ từ hạ tầm mắt nhìn xuống bàn tay mình. Trống không. Tôi đã buông sợi dây thừng định mệnh ra từ lúc nào chẳng hay.

Và đầu nàng đã nằm yên trong rổ.

Còn thứ đậm đặc màu đỏ đang tràn lan trên tấm phản hay sàn gỗ này là gì đây? Là hoa hồng trồng nơi sân điện Versailles? Là lông chim Chào mào đỏ phương Bắc? Hay tấm áo choàng của Đức Hồng Y?

Tôi còn chưa kip hoàng hồn thì một gã mặt chi chít mụn bọc sưng phồng to tướng như thể sắp bục vỡ tới nơi, bỗng dưng xô đổ hàng rào, lao lên đài hành quyết, đẩy tôi sang một bên, nhảy bổ tới chỗ cái rổ mây, nắm lấy tóc nàng, rồi giơ thủ cấp nàng lên cho đám đông bên dưới thưởng lãm. Tôi còn chưa kịp ngăn kẻ điên rồi đó lại thì hắn ta đã ném cái đầu của nàng xuống biển mắt hau háu, snags quắc như bầy mèo đói, bên dưới.

Và mọi chuyện vẫn chưa dừng lại ở đó...

Lão tùy tùng già nua của tôi, khuôn mặt đã mất hẳn vẻ e thẹn ban đầu, giờ chị đọng lại mỗi biểu cảm khát khao, cuồng khấu. Tay lão cầm cái bánh mì tôi bỏ lại nhúng vào thứ-gì-đó-không-rõ dưới sàn nhà, rồi tọng vào mồm, nhai ngấu nghiến.

"Mứt của phù thủy chẳng phải sẽ giúp chúng ta bất tử hay sao?"

Thì ra là mứt. Thứ mứt dâu mang đến sự vĩnh hằng. Vậy trong ngực trái nàng không phải là hồng ngọc thông thường mà là Hòn đá Triết Gia mà các Giả kim thuật sĩ bấy lâu nay vẫn miệt mài tìm kiếm. Thấy không, đúng như tôi đã cam đoan với nàng, cái chết của nàng sẽ không hề vô nghĩa. Hãy nhìn xem, dân chúng đang hạnh phúc liếm láp thứ mứt tươi ngon được đổi bằng sinh mạng của nàng kìa. Những chiếc chuông nhà thơ vẫn rung lên liên hồi. Tôi hoang mang tự hỏi: "Chảng lẽ Giáng Sinh đã tới rồi ư?"

Bỗng, tôi chợt nhớ ra, mình phải bảo vệ thân xác không đầu của nàng trước khi đám đông đã ngoài tầm kiểm soát của quan binh kia xé nó ra thành trăm mảnh. Nhưng khi tôi vừa lật nửa nó ra thì lập tức rùng mình kinh hãi. Thứ đang ở trước mặt tôi là...

"Nhanh! Kéo màn lại đi! Sao lại thành ra một mớ hỗn loạn thế này? Chả đúng với kịch bản gì cả."

Có tiếng ai đó nửa xa lạ, nửa thân quen vọng tới từ phía Đông. Và chỉ sau một cái chớp mắt, tất cả mọi thứ, bao gồm lão già buồn thảm, gã mặt mụn đỏ au, đám dân chúng đói khát, và thậm chí cả vườn hoa, khu rừng trồng đầy những cây Mimosa, biển cả với đường chân trời màu lòng đào, đều vụt biến thành những mảnh bìa carton được tô vẽ công phu.

Chỉ có cỗ máy chém và xác thân nàng Marie là chẳng thấy tăm hơi.

Trong lúc đầu óc tôi vẫn lơ mơ làng màng như mây mù che phủ London, chưa hình dung ra được bất kỳ điều gì giữa một chuỗi những sự kiện kỳ lạ nối tiếp nhau như thế này, một bàn chân vô hình đá tôi văng thẳng về đằng trước; để rồi đôi tấm màn nhung lặng lẽ buông xuống lưng.

Từ bên dưới những hàng ghế khán giả không bóng người tối tăm, mờ mịt dội lên tiếng vỗ tay rào rào. Tôi cảm thấy hổ thẹn như thể mình bị lột trần truồng rồi để mặc cho đám đông cười nhạo. Tôi cần phải nói một điều gì đó! Nhưng là câu gì cho phù hợp với hoàn cảnh khó xử này đây?

Tôi buông một tiếng thở dài nặng trĩu, toan cúi chào thật nhanh một cái, rồi quay trở vào bên trong cánh gà, thì đột ngột một cơn choáng váng ấp tới.

Tôi ngã nhào khỏi bệ sân khấu cao thật cao.

Và sau đó trở về thế giới thực với tư cách Nakamura Tsuyonari. 

(Còn tiếp)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro