Fight 06. Part 02

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng



esmerald

.

"Khi làm việc với Thanh tra Harada, cô phải nhớ rõ quy tắc của những cây bút chì màu."

.

Tĩnh Hạ (ashizuka )

Dự thi "Đấu trường ngòi bút" – Tháng 8

Chủ đề: Bí ẩn

Từ khóa: Bút chì màu

SBD: 06




"Harada-san, đến nơi rồi."

Giọng nói trầm thấp của người tài xế vọng lại giữa lưng chừng tiếng mưa. Tôi mệt mỏi chớp mắt mấy cái, nhận ra cảnh vật ngoài cửa xe đã phủ lên một lớp sương mờ. Đồng hồ điện tử nhấp nháy báo hai giờ chiều, nhưng sắc trời tù mù xám xịt như thể sắp hoàng hôn. Gió rít qua khe hở nhỏ xíu chỗ cửa kính xe, mang theo mùi đất ẩm ngai ngái và âm thanh lá cây xào xạc từ xa. Tôi ngáp dài, đưa tay quờ quạng tìm chiếc áo khoác, để rồi giật mình nhận ra chỗ ngồi bên cạnh trống không.

- Harada-san! – Tôi bật dậy, lo lắng hỏi – Anh ấy đâu rồi?

Người tài xế, vốn là nhân viên xử lí hiện trường đến từ Sở Cảnh sát Tokyo, nhìn tôi cười đáp:

- Xe vừa dừng thì anh ấy bỏ đi luôn. Đuổi theo mau.

Tôi lắp bắp hai tiếng "cám ơn" ngượng ngập, rồi vội vã gom góp hành lý phóng khỏi xe. Trước mắt tôi là một ngọn đồi nhỏ, cây cối mọc xanh mướt um tùm, có duy nhất con đường độc đạo đầy bùn đất và sỏi đá dẫn lên đỉnh đồi. Dù trời mưa khá lớn, tôi vẫn có thể trông thấy bóng áo măng tô đen thẫm thấp thoáng sau những bụi cỏ cao. Đó là cấp trên của tôi, Harada Kaede-san.

- Chúc may mắn, lính mới. Đừng quên quy tắc bút màu nhé.

Anh chàng nhân viên hiện trường gọi với theo. Tôi cúi đầu cám ơn lần nữa, sau đó kéo mũ trùm đầu, khẩn trương đuổi theo bóng lưng kia.

Tên tôi là Nakagawa Suiyoubi, nhân viên thực tập mới của Sở Cảnh sát Tokyo. Tôi làm việc ở phòng pháp chứng để thu thập tư liệu cho luận văn tốt nghiệp. Tuy biết cảnh sát là nghề vất vả, tôi vẫn không thể ngờ chỉ mới tuần đầu của kì thực tập, tôi đã phải đi khảo sát hiện trường ở vùng rừng núi cách xa Tokyo đến cả trăm cây số.

- Xin đợi một chút.

Tôi khổ sở lên tiếng trong lúc chật vật leo dọc đoạn dốc trơn trượt. Bóng người phía trước giảm tốc độ, nhưng tuyệt nhiên không hề dừng lại. Harada-san được phân công hướng dẫn tôi trong kì thực tập. Anh ấy trước kia là bác sĩ pháp y, sau này trở thành Thanh tra phụ trách tổ trọng án dù tuổi còn khá trẻ. Tôi thường nghe người ta ca ngợi anh. Những lời khen tặng kín đáo truyền đi từ bàn làm việc của mấy chị gái luống tuổi, cho đến những anh chàng đồng nghiệp và các sếp lớn mặt mũi khó đăm đăm. Harada-san được xưng tụng là thiên tài trong việc điều tra khám nghiệm, và anh đáng lẽ sẽ tiến xa hơn nữa nếu không vì chuyện đó.

- Nakagawa-san, xem giúp tôi mấy giờ rồi.

Anh đột ngột nói, giọng có pha chút âm mũi, hơi trầm. Tôi chỉ vừa bắt kịp anh đã lập tức ngó đồng hồ, quên cả thở dõng dạc trả lời:

- Hai giờ ba mươi tám phút chiều, thưa-

Tôi dừng lại lưng chừng, bối rối. Dường như cảm nhận được sự lúng túng của tôi, Harada-san rút trong túi áo ra một cây bút chì màu xanh dương, nguệch ngoạc vài dòng vào cuốn sổ anh đang cầm trên tay. Chứng kiến cử chỉ đó, tôi mới mạnh dạn tiếp lời:

- Thưa Harada-san!

Harada-san nghiêng đầu nhìn tôi. Anh mỉm cười, đôi mắt nâu nhạt phảng phất thứ ánh sáng dịu dàng khuất sau cặp kính gọng mỏng đã mờ đi vì hơi sương. Tôi thoáng ngẩn người trước khoảnh khắc đó. Harada-san có một gương mặt đẹp, hay như Saitou-san ngồi cạnh tôi hay cảm thán, đẹp đến mức gỗ đá cũng động lòng.

Chị ấy nói thêm rằng trên đời không ai hoàn hảo. Lý do khiến Harada-san không thể thăng tiến xa hơn trong sự nghiệp, chính là vì anh được chẩn đoán mắc chứng rối loạn đa nhân cách. Đây là điều mà tất cả các nhân viên làm việc với anh đều phải biết. Tôi vẫn nhớ mình đã ngạc nhiên thế nào khi nghe về "quy tắc bút màu", ngạc nhiên hơn cả khi biết chuyện một người mắc vấn đề tâm lý vẫn có thể làm cảnh sát.

Harada-san có thói quen dùng bút chì màu để ghi chép. Nhân cách chính của anh, Thanh tra Harada Kaede, thích sử dụng bút xanh dương. Đây là nhân cách hay xuất hiện nhất, cũng là nhân cách thông minh, hòa nhã và lễ độ nhất.

Ngoài Harada Kaede, trong anh còn tồn tại hai nhân cách khác. Tôi đã từng gặp Sakata Ryou, nhân cách thích sử dụng bút chì vàng sậm. Anh ta cũng chính là kẻ đã bỏ rơi tôi trong xe khi nãy, nếu tôi đoán không lầm. Ryou rất khó tính, sống khép kín và hành xử khá lạnh lùng. Tuy nhiên, anh ta có óc phán đoán nhạy bén và khả năng phản xạ cực kì tốt. Harada-san từng bảo, nếu lỡ có xảy ra đánh nhau hay bị truy đuổi, tôi hoàn toàn có thể trông cậy vào Ryou.

Yuu là nhân cách lặng lẽ nhất. Hắn không mấy khi xuất hiện, cũng vì thế mà có nhiều loại tin đồn vây quanh hắn. Yuu thích dùng bút chì đỏ, nhưng có người nói đó chỉ là phép ẩn dụ, vì khác với Harada-san và Ryou, hắn không quan tâm đến thân phận cảnh sát của bản thể. Hắn ló mặt ra khi thấy máu. Và một khi Yuu nắm quyền điều khiển, hắn sẽ chỉ biến mất khi tay vấy máu người.

Đó cũng là lý do tên hắn gắn liền với "bút chì màu đỏ". Harada-san chưa từng lên tiếng về tính đúng sai của tin đồn, nhưng tôi đã được cảnh báo rằng khi thấy bút chì đỏ xuất hiện, phải lập tức chạy khỏi anh, càng xa càng tốt.

Ba nhân cách của Harada-san đều không thích việc bị gọi sai tên. Harada Kaede thường chỉ nhẹ nhàng đính chính, Sakata Ryou sẽ hừ lạnh và phớt lờ. Còn Yuu, có trời mới biết hắn phản ứng thế nào. Đồng nghiệp của anh từng có khoảng thời gian rất vất vả phân biệt từng nhân cách, mãi cho đến khi họ chú ý đến cách anh sử dụng bút để ghi chép.

Những nhân viên trong Sở Cảnh sát Tokyo vì thế lập ra "quy tắc bút chì màu". Tôi thuộc nó nằm lòng, nhưng đôi khi cũng khó tránh khỏi phân vân.

- Nakagawa-san, đến nơi rồi.

Harada-san lên tiếng thông báo, cánh tay trái vươn ra, hướng về phía tôi. Tôi ngần ngại một lúc trước khi siết lấy tay anh, và anh giúp tôi leo lên đoạn dốc cuối cùng của ngọn đồi. Da anh trắng, bàn tay thì lạnh, năm ngón tay mảnh mai nhưng rắn rỏi đến bất ngờ. Tôi chắc chắn rằng mình thích Harada Kaede nhất trong ba nhân cách. Sự hòa nhã của anh khiến tôi cảm động. Hơn nữa, anh là kẻ hay cười. Tôi thích trông thấy anh cười.

- Cám ơn, Harada-san.

Mưa tạnh bớt, chuyển dần thành bụi nước li ti bám trên vạt áo, rũ xuống cây cỏ mỏng manh như tơ nhện nhẹ buông. Tôi đưa tay dụi mắt, bắt gặp mình đang ở trong một khu vườn đầy hoa. Mảnh sân này nối liền với con đường độc đạo, xung quanh có hàng rào gỗ sơn trắng đã ngả màu. Dưới chân tôi có hoa trà, thạch thảo, violet và mấy khóm cúc vàng, chúng dịu dàng bao bọc ngôi nhà gạch xây theo kiểu Tây phương. Ngôi nhà khá rộng rãi, có ba tầng, tuy nhiều phần đã cũ mục nhưng trông vẫn bắt mắt lạ thường. Từ cửa sổ tầng hai có dàn thường xuân xanh ngắt buông mình lưng chừng giữa không trung, thấp thoáng có tiếng chuông gió trong lành lẩn khuất trong không gian sũng nước.

Tôi nhìn quanh, lặng lẽ thở dài. Có ai ngờ khung cảnh yên bình này lại là hiện trường xảy ra một vụ án mạng đáng tiếc.

- Vào tối muộn ngày hai mươi chín tháng sáu – Tôi lướt qua xấp báo cáo trên tay, nhỏ giọng đọc – Đường dây khẩn cấp nhận được cuộc gọi từ địa chỉ này, vốn là trại trẻ mồ côi. Do đêm đó có bão lớn nên sáng sớm cảnh sát mới tới nơi, họ tìm thấy cô Yamada, người quản lý trại, và mười hai đứa trẻ khác chết bên bàn ăn tối.

Trộm nhìn sang chỗ Harada-san, tôi yên tâm phần nào khi nhận ra anh vẫn đang ghi chép bằng bút chì xanh dương.

- Nguyên nhân tử vong được xác nhận do nấm độc có trong món canh. Khám nghiệm hiện trường ban đầu cho thấy đây là một tai nạn. Theo thông tin của hàng xóm xung quanh, bọn trẻ hay đi hái nấm trong rừng, dường như chúng đã nhầm nấm độc với nấm thường ăn được. Cuộc gọi khẩn cấp có lẽ là lời cầu cứu muộn màng từ cô quản lý.

Sau khi tuôn một tràng chữ dài dằng dặc, tôi ngừng lại thở lấy hơi, hai má sớm đã nóng bừng lên.

- Harada-san, em tóm tắt thế có đầy đủ chưa?

Cấp trên của tôi thoáng trầm ngâm. Anh ngước mặt nhìn lên giàn thường xuân, mi mắt khẽ chớp chạm vào gò má rất nhanh. Rồi anh quay người, năm ngón tay khép hờ vỗ nhẹ lên đầu tôi một cái.

- Giọng đọc khá lắm – Harada-san cười – Thế em có biết chúng ta đến đây làm gì không?

- Em biết – Tôi gật đầu ra vẻ tự tin – Chúng ta truy tìm dấu vết của đứa trẻ thứ mười ba.

Anh gật đầu khích lệ tôi, khóe môi hơi cong lên, khiến nét cười ở đuôi mắt càng thêm ôn hòa. Nhưng tôi không có cơ hội ngắm nhìn anh quá lâu. Tay anh rời khỏi tóc tôi, lục tìm trong túi áo, lấy ra cây bút chì vàng.

- Mang găng tay vào. Nhớ cẩn thận bước chân.

Harada-san chỉ nói có thế. Anh rảo bước tiến đến chỗ cánh cửa gỗ cũ kĩ, không thèm ngoảnh lại nhìn tôi lấy một lần. Tiếng chìa khóa tra vào ổ nghe lách cách khô khốc, theo sau là tiếng bản lề kêu cót két chạm vào tai tôi. Cố dằn cảm giác hụt hẫng trong lòng, tôi đuổi theo anh.

- Rõ, thưa Sakata-san!

Chúng tôi đến phòng ăn đầu tiên. Bàn ăn làm bằng gỗ, hình chữ nhật cạnh dài, kê kế bên quầy bếp, xung quanh là ghế đẩu bọc nệm hoa đếm đủ mười ba cái nhỏ và một cái lớn. Trên bàn đặt lọ sứ cắm hoa trà, cánh hoa khô quắt, giòn rụm, rơi vỡ lả tả trên tấm khăn trải bàn trắng tinh.

Tôi dẫm chân trên sàn gỗ, cẩn thận tránh mấy mảnh thủy tinh rải rác dưới sàn nhà. Thi thể của các nạn nhân đã được mang đi, thứ duy nhất còn sót lại là những đường gạch trắng đánh dấu nơi họ ngã xuống.

- Có tất cả mười ba nạn nhân – Tôi nói, giọng ỉu xìu – Hồ sơ của họ đều được lưu trữ trong văn phòng của trại trẻ. Khi đối chiếu, cảnh sát nhận ra có một đứa trẻ mất tích. Họ đã tìm quanh nhà và quanh rừng hai lần trong vòng 48 tiếng sau khi phát hiện vụ án, nhưng không tài nào tìm ra cô bé, dù còn sống hay đã chết.

Ngòi bút chì ma sát với giấy cứng tạo thành những âm thanh loạt soạt. Tôi chìa tấm ảnh lấy từ xấp báo cáo trước mặt Harada-san. Trong ảnh là một cô bé khoảng mười, mười hai tuổi, mái tóc vàng sáng và đôi mắt màu xanh lục bảo nổi bật dị thường, nhất là khi chủ nhân của nó sống ở khu rừng núi hẻo lánh Nhật Bản. Cô bé là con lai, không rõ tung tích bố mẹ, từng được nhà thờ nhận nuôi trước khi chuyển về trại trẻ mồ côi trên đồi này. Tên đứa trẻ là Esmerald, đọc gần giống "emerald", có lẽ cũng vì đôi mắt xanh xinh đẹp đó.

- Có giả thuyết cho rằng cô bé này bị bắt nạt bởi vẻ ngoài đặc biệt, đó cũng có thể là động cơ...

Tôi lặp lại lời của mấy anh chàng nhân chứng, cố gắng phá tan sự im lặng ngột ngạt giữa bản thân và cấp trên. Harada-san đang chăm chú săm soi chiếc nồi canh trên bếp, nghe tôi nói thế chỉ lắc đầu:

- Tôi không biết Kaede dạy cô những gì, nhưng khi đi với tôi, đừng có nói ra mấy suy luận vô căn cứ. Chúng ta không phải thám tử. Hoàn cảnh, động cơ, tính cách của thủ phạm và nạn nhân chẳng liên quan gì đến chúng ta. Tất cả những gì tôi và cô phải làm, đó là đưa ra những bằng chứng khoa học xác thực. Chỉ vậy thôi.

Tôi gật đầu, bộ dạng ra chiều nhận lỗi. Sakata Ryou bình thường kiệm lời, nhưng mỗi khi giáo huấn người khác, anh ta trở thành nhân cách nói nhiều nhất trong cả ba.

- Vậy... anh định làm gì?

Tôi hỏi. Harada-san đáp:

- Chúng ta kiểm tra xem có ai rời khỏi phòng ăn không.

Tôi lờ mờ đoán được ý anh. Tất cả các nạn nhân đều chết bên bàn ăn, chiếc điện thoại duy nhất đặt trong bếp được xác nhận có dấu vân tay của cô quản lý. Nếu Esmerald sống sót, chúng tôi sẽ tìm được dấu vết cô bé rời bỏ phòng ăn. Nghĩ thế, tôi hào hứng chuẩn bị những dụng cụ cần thiết, rồi bám theo Harada-san, bắt đầu kiểm tra tấm thảm trải trước cửa phòng ăn. Trên sàn có rất nhiều chén dĩa và đồ ăn rơi vãi, nên dù cẩn thận đến mức nào, chắc chắn sẽ để lại dấu vết.

Nhưng cuối cùng, tôi chẳng tìm được gì.

- Rõ rồi – Cấp trên của tôi kết luận trong lúc tháo găng tay – Esmerald không ở đây vào đêm hôm đó.

- Tạm cho là cô bé đã thoát khỏi món canh nấm độc – Tôi phụ họa – Nhưng tại sao cô bé không ăn tối? Và cô bé chạy đi đâu? Cũng đã gần một tháng rồi còn gì...

Harada-san nhíu mày nghĩ ngợi một lúc.

- Chúng ta xem quanh nhà lần nữa.

Tôi nghe theo anh rời khỏi bếp. Chúng tôi dạo quanh phòng khách và phòng ngủ của mấy đứa trẻ, cố gắng lần tìm manh mối từ những con người đã chết. Không gian nhuộm vẻ bình yên tĩnh lặng, phủ lên những tấm rèm cửa mỏng mảnh thêu hoa, những con thú nhồi bông êm ái, và chuông gió trăng sao treo lơ lửng trên trần. Tôi tìm thấy chiếc hộp chứa đầy hạc giấy, dường như là của bọn trẻ cùng gấp, để xen kẽ giữa những bức tranh vẽ vườn hoa và ngôi nhà của chúng. Trong lòng tôi đột nhiên cảm thấy rất bi ai.

Cũng chính vì sự bi ai đó, tôi đưa mắt tìm kiếm Harada-san, dù anh đang là ai đi nữa.

Nhưng tôi không thấy anh, tôi thấy một thứ khác.

Đứa trẻ ấy mặt mũi trắng bệch, đôi mắt đen sâu hoắm, lặng lẽ đứng nhìn tôi từ góc nhà. Tôi nửa hoảng sợ, nửa tò mò, liền cất giọng gọi lớn:

- Này, em là ai? Đứng lại!

Như bản năng sai khiến, tôi lập tức đuổi theo khi nó quay lưng bỏ chạy. Sàn nhà gỗ cũ mục kêu cót két dưới chân tôi. Có tiếng Harada-san hét tên tôi ở phía sau, nhưng tôi không còn quá nhiều thời gian để quan tâm nữa. Bóng lưng đứa trẻ trước mắt tôi mỗi lúc một xa dần. Tôi không biết nó là ai, tại sao lại lọt vào nơi này, nhưng chắc chắn nó biết gì đó về vụ mất tích bí ẩn của Esmerald. Đứa trẻ kéo tôi vào đoạn hành lang tối, rồi dừng lại trước một bức tường.

- Chị là cảnh sát – Tôi nói, giơ cao thẻ ngành – Chị không hại em đâu. Lại đây, đừng chạy nữa.

Thằng bé lắc đầu. Nó chỉ tay vào chiếc kệ sách gần đó như muốn nói điều gì. Tôi chạm tay vào lưỡi dao giải phẫu giấu trong túi áo khoác, bắt đầu chậm rãi tiến lại gần. Nghề cảnh sát đầy rẫy nguy hiểm, vì thế tôi luôn chuẩn bị sẵn thứ gì đó phòng thân.

"Cạch."

Gió thổi mạnh, kéo tung cánh cửa sổ gần đó, khiến ánh sáng bên ngoài hắt vào nơi thằng bé đang đứng. Nó ngửa cổ, giương mắt nhìn tôi lần nữa, rồi tan biến vào bóng tối.

Đến lúc này, tôi mới nhận ra bản thân đang run bần bật.

Hướng thằng mũi dao về phía trước, tôi nuốt khan, nghe tim mình đập loạn xạ trong lồng ngực. Tiếng Harada-san gọi tên tôi vẫn vang vọng giữa ngôi nhà vắng. Dường như tôi đã chạy được một đoạn rất xa, và ngôi nhà này rộng hơn chúng tôi tưởng tượng. Giữa lúc phân vân không biết nên tiến hay lùi, tôi chợt nhớ lại lúc nãy, vào cái khoảnh khắc đứa trẻ nhìn tôi, nó đã mấp máy mấy từ. Tôi không hiểu được thanh âm của nó, nhưng có thể đọc được cử động của khóe môi. Một âm e dài, một chữ me ngắn, gấp gáp, và kết thúc bằng một chữ ra.

Ee-me-ra.

Esmerald.

Thằng bé quả nhiên biết về Esmerald. Nhưng nó là ai? Hay.. là cái gì?

Tôi bước đến gần kệ sách. Nó khá nhỏ so với người trưởng thành, chất đầy những tập truyện cổ tích và giấy tô màu, nhưng không có vẻ gì là quá nặng. Ngay cả phụ nữ như tôi cũng có thể di chuyển nó nếu muốn. Nghĩ thế, tôi xắn tay áo, thử dùng sức đẩy nó sang một bên.

Chiếc kệ trượt đi dễ dàng như không. Tôi tìm thấy "cánh cửa" ở khoảng tường phía sau kệ sách, thực chất là tấm vách mỏng hơi lõm vào trong. Hít thật sâu để lấy can đảm, tôi đặt tay lên tấm vách. Có những tiếng lọc xọc nghe như là bánh răng chuyển động, và trước sự ngạc nhiên của tôi, tấm vách ngả về phía sau đánh rầm, để lộ ra một đoạn cầu thang hẹp dẫn xuống dưới.

Ngôi nhà này thực chất có đến bốn tầng?

Tôi nhất thời không biết phải làm gì tiếp theo, liền cất giọng gọi:

- Harada-san?

Nhưng không có tiếng trả lời. Kì lạ thật, anh chạy nhanh hơn tôi nhiều, đáng lẽ bây giờ phải bắt kịp tôi rồi chứ? Trừ phi anh lạc đường, nhưng chúng tôi đều có bản vẽ sơ bộ ngôi nhà lấy từ chỗ nhân viên kĩ thuật, chuyện đó không thể nào xảy ra.

Tôi quyết định không suy nghĩ quá nhiều nữa. Trước mắt cứ thử theo đường cầu thang tiến xuống dưới xem sao. Tôi hơi rùng mình khi nghĩ đến những thứ không hay đang chờ mình dưới đó, dù vậy, không hiểu bản thân tìm được can đảm ở đâu, tôi cứ thế tiến về phía trước. Đoạn cầu thang không ngắn cũng không dài, tôi mất khoảng nửa phút để đến nơi cần đến.

Trước mắt tôi là một căn phòng nhỏ, bài trí khá giống những phòng ngủ khác trong trại trẻ mồ côi, có điều đơn giản hơn. Trên bức tường gần đó, tôi thấy có tấm biển làm bằng gỗ trơn, chữ "Esmerald" được viết bằng năm kí tự katakana.

Vậy ra đây là phòng của Esmerald.

Tôi không rõ lý do phòng ngủ của cô bé được đặt ở vị trí khác thường thế này, nhưng đội xử lí hiện trường đã bỏ sót nó. Cũng chính vì thế, họ không thể tìm ra cô bé.

Cơn ớn lạnh đột ngột chạy dọc sống lưng tôi. Đã gần một tháng kể từ khi xảy ra vụ án. Esmerald đã sống thế nào? Và liệu cô bé có còn sống không? Bị cảm giác điềm gở thôi thúc, tôi lật tung căn phòng lên, rà soát mọi ngóc ngách có thể, nhưng Esmerald vẫn bặt tăm. Bù lại, tôi tìm được quyển nhật kí bọc giấy màu có họa tiết hình hoa, thứ tôi đoán vốn thuộc về Esmerald, được vùi kĩ giữa ngăn tủ đựng đầy váy ren và nơ cài tóc.

Không biết làm gì hơn, tôi mở nó ra đọc.

Nét chữ của cô bé rất mỏng, mềm mại và hơi run. Esmerald viết bằng bút chì màu, mỗi ngày lại một màu khác nhau, dường như phụ thuộc vào tâm trạng của chủ nhân cuốn nhật kí.

"Ngày 07 tháng 02.

Mình lại phải chuyển nhà. Hôm nay trời còn mưa nữa. Mình thấy buồn chán lắm. Giày và gấu váy của mình ướt sũng, lại còn bẩn nữa. Daiki vừa trông thấy mình liền ôm bụng cười. Mình chẳng thích thằng nhóc đó chút nào."

Daiki. Mikagami Daiki. Tôi lẩm bẩm cái tên trong miệng, dường như là một trong mười hai đứa trẻ đã chết vì nấm độc.

"Ngày 09 tháng 03.

Cuối cùng Daiki cũng chịu xin lỗi mình. Cô Yamada sắp cho mình căn phòng dưới hầm, vì nó nhìn thẳng ra khu rừng và thảm cỏ đầy hoa dại. Cô bảo đây là căn cứ bí mật của cô thời còn bé. Thực sự thì mình rất vui. Cô Yamada nấu ăn cũng ngon nữa. Mình thích cô ấy cực kì."

"Ngày 13 tháng 04.

Daiki bảo muốn dạy mình gấp hạc. Dường như mọi người rất thích hạc giấy? Nhưng mình vụng về lắm. Liệu cậu ấy có cười mình không nhỉ?"

Tôi lướt qua những dòng chữ ngây thơ tròn vành ấy, trong lòng không khỏi dấy lên cảm xúc ấm áp khó tả. Hóa ra những đứa trẻ khác đối xử với Esmerald rất tốt, chúng coi cô bé như gia đình, và những ngày tháng của cô bé ở đây thực sự bình yên. Lũ trẻ cùng nhau trồng hoa, vẽ tranh, làm vườn, và dạy nhau ca hát. Tất cả được tái hiện qua từng trang nhật kí của Esmerald, như thước phim quay ngược, hạnh phúc và đủ đầy tựa câu chuyện cổ tích về xứ thần tiên.

Nhưng câu chuyện nào rồi cũng phải đến hồi kết.

Tay tôi run run lật sang trang nhật kí ngày hai mươi chín tháng sáu, cũng chính là đêm đã xảy ra vụ án.

"Ngày 29 tháng 06.

Chiều nay mọi người cùng đi hái nấm. Mình đã dặn Daiki đợi mình, nhưng cậu ấy lại đi trước với Momoko. Đã thế cậu ấy không chịu xin lỗi mình. Cô Yamada còn nói đỡ cho cậu ấy nữa. Mình ghét mọi người.

Cô Yamada đang gõ cửa kêu mình ra ăn tối. Nhưng mình không thèm đâu."

Tiếng thở dài không rõ tôi giấu trong lồng ngực từ bao giờ, bất giác trượt khỏi khóe môi tôi. Ra đây là toàn bộ bí ẩn đằng sau sự việc. Tối hôm đó, Esmerald đã cãi nhau với Daiki, vì thế cô bé không dùng bữa với mọi người. Và cũng nhờ vậy, Esmerald thoát chết.

Nhưng cô bé đã đi đâu?

Tôi miễn cưỡng đọc nốt những dòng nhật kí cuối cùng trong quyển sổ.

"Ngày 01 tháng 07.

Mình nhốt mình trong phòng đã hai ngày rồi. Nhưng Daiki vẫn không đến xin lỗi, mà lạ, mình còn nghe những tiếng lục cục kì quái phía trên nhà. Có phải mọi người quên mình rồi không?

Daiki, cô Yamada, cả Momoko nữa. Mọi người đâu hết rồi?"

Câu hỏi bỏ ngỏ của cô bé đáng thương đó cũng chính là câu hỏi lớn nhất trong lòng tôi. Esmerald, cô bé đã đi đâu rồi? Trong giây phút cô đơn nhất, cùng với nỗi ám ảnh bản thân bị lãng quên, em có thể đi đâu?

Tiếng gót giày lộp cộp vang lên cắt ngang luồng suy nghĩ của tôi. Có ai đó đang xuống cầu thang.

Tôi đứng dậy, giấu vội quyển nhật kí vào túi áo, mũi dao giải phẫu lần nữa hướng về phía trước. Nhưng tôi lập tức rụt tay lại khi nhận ra gương mặt và dáng người của Harada-san.

- Anh đây rồi – Tôi mừng rỡ reo lên, tuy không chắc anh ấy đang là Sakata Ryou hay Harada Kaede – Nghe này, em đã biết lý do tại sao...

Còn chưa nói hết câu, tôi thấy máu trong người đông cứng khi nhận ra vật anh ấy đang cầm trên tay.

Cây bút chì đỏ.

Yuu.

Theo phản xạ, tôi lùi lại phía sau. Anh ghim ánh nhìn sắc nhọn vào tôi, chăm chú như diều hâu ngắm nghía con mồi. Tôi luôn đọc được nét dịu dàng trong mắt Harada-san, sự nghiêm khắc và thành thật trên gương mặt Sakata Ryou, nhưng giờ đây, dưới đáy đôi đồng tử nâu nhạt quen thuộc đó, lại là khoảng trống rỗng đến vô hồn.

Tại sao Yuu xuất hiện? Đã có chuyện gì xảy ra?

Cố ngăn nỗi hoảng loạn đang chực trào lên trong lòng, tôi hỏi nhỏ:

- Anh là Yuu?

Harada-san không trả lời. Anh chỉ đứng đó. Đầu anh hơi nghiêng sang bên, khóe môi từ từ nhếch lên, tạo thành nụ cười toe toét và méo mó.

Không suy nghĩ gì thêm, tôi quay lưng bỏ chạy. Tôi mở cánh cửa đầu tiên mình bắt gặp và lao ra ngoài, mặc kệ mưa rơi xối xả trên đầu, trên tóc, tôi phóng như bay băng qua thảm cỏ, hướng về phía khu rừng. Harada-san theo sát sau lưng tôi, nhanh như một con sói xám.

Tôi không rõ mình đã chạy bao lâu trước khi anh tóm được tôi. Tay anh siết chặt lấy vai tôi, chặt đến mức trong thoáng chốc, tôi tưởng anh đã bẻ gãy tay mình.

- Không sao đâu. Nào, ổn rồi, anh ở đây.

Giọng Harada-san vang lên, gần như chìm nghỉm trong tiếng mưa rả rích. Tôi ngây người nhìn anh, bắt gặp nụ cười ôn hòa quen thuộc.

- Harada-san? Nhưng vừa nãy..?

Tôi lắp bắp không thành câu.

- Chúng ta vào nhà trước đã.

Anh dịu dàng vỗ vai tôi. Tôi thở phào, gánh nặng trong lồng ngực cuối cùng cũng được trút bỏ. Chúng tôi đang đứng giữa khoảng rừng thưa, cây thân cao, dây leo và cây bụi mọc xen kẽ, tán lá trên đầu đan dày thành chiếc dù che bớt mưa rơi. Tôi chìa quyển nhật kí ra trước mặt anh, nói khẽ:

- Mọi bí ẩn của vụ án đều nằm trong đây. À, trừ việc Esmerald đang ở đâu.

- Em làm tốt lắm – Harada-san gật gù – Lúc trông thấy em bỏ chạy, anh đã phát hoảng lên. Đột nhiên em nhìn vào góc nhà, rồi sau đó..

- Em đuổi theo thằng nhóc lạ mặt đấy chứ...

Chân mày anh thoáng cau lại.

- Ai cơ?

Tôi cũng không khỏi cảm thấy hoang mang:

- Chẳng lẽ anh không nhìn thấy? Khoan.. Ở đằng kia!

Đứa trẻ lúc nãy vừa xuất hiện giữa mấy khóm hoa cúc dại, gương mặt trắng lạnh lẽo thấp thoáng sau những phiến lá xanh. Tôi rảo bước lại gần, nhưng không tìm thấy nó. Ngược lại, trước mắt tôi là con đường nhỏ phủ đầy bùn và đất dẻo, nền đất hằn rõ những dấu giày nhỏ bé.

Đột nhiên, tôi cảm thấy câu trả lời đang đến rất gần.

- Harada-san, anh nhìn xem...

Chúng tôi cẩn trọng lần theo những dấu chân. Chúng hướng thẳng đến cái hồ nhỏ nằm lọt thỏm giữa rừng cây. Gió nhẹ cuối thu thổi lăn tăn trên mặt nước, kéo theo lá vàng rơi xao xác trôi bồng bềnh tựa những chiếc thuyền tí hon. Nói là hồ, nhưng nó cũng chỉ rộng và sâu cỡ bồn tắm gỗ truyền thống kiểu Nhật, xung quanh phủ đầy đất mùn và cỏ dại. Tôi nhớ Esmerald đã từng nhắc đến cái hồ này trong nhật kí. Cô bé hay đến đây chơi đùa cùng Daiki.

Và giờ, tất cả những gì còn sót lại, là đoạn xương cánh tay nổi trên mặt nước. Mưa gió, côn trùng và chim chóc đã rỉa sạch lớp da thịt bên ngoài, chỉ chừa lại khung xương mảnh khảnh. Tuy nhiên, thân thể Esmerald dưới hồ vẫn vẹn nguyên không tì vết. Chúng tôi gạt bớt lá khô đi để nhìn cho rõ.

Cô bé nằm lặng yên dưới làn nước lạnh, đôi mắt xanh như ngọc lục bảo mở to, tròn trịa và ngây thơ ngưỡng vọng bầu trời. Esmerald tết tóc thành hai dải thắt ruy băng, trên người mặc chiếc đầm hoa màu xanh lam, thứ cô bé thích nhất, cũng là bộ trang phục nó đã mặc vào ngày đầu tiên gặp gỡ Daiki.

- Esmerald..

Tôi thì thầm, nhất thời trong lòng như chết lặng. Bên cạnh tôi, Harada-san chỉ khẽ thở dài. Esmerald đã tìm đến đây, trong lúc cô đơn và tuyệt vọng nhất. Có lẽ cô bé nghĩ Daiki sẽ ở đây. Nhưng rồi thằng bé không xuất hiện. Mãi mãi không xuất hiện.

Esmerald đã đợi bao lâu?

Tôi không biết. Anh cũng không biết. Và hai nhân cách còn lại của anh chắc cũng không biết nốt. Nhưng chúng tôi hiểu mình cần làm gì.

- Ổn rồi. Em không cần chờ nữa.

Harada-san cúi xuống, điệu bộ nhẹ nhàng hệt như lúc anh vỗ về tôi, không ngần ngại nắm lấy cánh tay trơ xương của cô bé. Anh vỗ về nó, giọng điệu êm ái tựa khúc hát ru.

- Chúng tôi đưa em về với mọi người.

.

Vụ án khép lại nhanh chóng. Lựa một ngày trời quang đãng, tôi cùng Harada-san đến tảo mộ Esmerald. Nơi an nghỉ cuối cùng của cô bé nằm ở khu nghĩa trang của ngôi chùa cổ, ngay bên cạnh Daiki và những người đứa trẻ khác trong trại mồ côi.

Tôi đặt bó huệ tây lên ngôi mộ, trầm ngâm một lúc lâu.

- Em có chuyện muốn hỏi.. Harada-san.

Trộm nhìn cây bút chì màu xanh dương trên tay anh, tôi ngượng ngập cúi đầu.

- Ừ, em nói đi.

- Tại sao lúc đó.. Yuu lại xuất hiện? Em nghe người ta bảo...

Anh không vội giải thích, cũng không vội trả lời. Nắng ấm nhảy nhót trên những nhánh tóc đen, chúng ôm gọn lấy gương mặt hiền hòa nhưng cương nghị, phản chiếu trong đáy mắt nâu và sâu thăm thẳm. Tôi không rõ anh đang nghĩ gì. Hay anh đang là ai. Nhưng tôi đoán chuyện đó cũng chẳng còn quan trọng nữa.

- Yuu.. Là tính cách bản năng nhất trong anh – Harada-san lên tiếng sau khoảng lặng kéo dài – Làm cảnh sát, tức là phải thường xuyên đối đầu với nguy hiểm. Có những tình huống sinh tử, anh buộc phải dựa vào bản năng chiến đấu để vượt qua. Đó là lúc Yuu ra mặt. Cậu ta sẽ làm mọi thứ để sống sót. Có lẽ cũng vì thế mà Yuu bị hiểu lầm là khát máu.

- Nhưng.. – Tôi lại càng bối rối – Thứ gì đã đe dọa tính mạng anh hôm đó?

- Không phải anh – Harada-san lắc đầu cười – Mà là em. Yuu đã ở đó.. vì anh nghĩ rằng em đang gặp nguy hiểm.

Nếu có thể, tôi sẽ đổ thừa rằng nắng hôm đó quá ấm. Rằng trời hôm đó quá xanh. Rằng phấn hoa khiến tôi dị ứng, cho nên gò má tôi ửng hồng.

- Thành thật cảm ơn anh.

Đó là tất cả những gì tôi có thể nói. Anh cũng không phản ứng gì thêm. Tôi nhìn sang ngôi mộ của Daiki bên cạnh, buồn bã thở dài.

- Đứa trẻ em trông thấy hôm đó.. đúng là gương mặt này.

- Anh nghĩ thằng bé không có ý xấu – Harada-san chia bó huệ tây thành hai phần, đặt một nửa lên mộ Daiki – Nó chỉ muốn chúng ta tìm ra Esmerald. Nó không muốn bỏ con bé một mình.

Tôi tán đồng:

- Em cũng đoán thế.

Gió mang theo cánh hoa hồng nhạt rải khắp khu nghĩa trang, vương lên cả vạt áo và tóc tôi. Tôi nghĩ về những con hạc giấy. Về đôi mắt của Esmerald. Và những cây bút chì màu.

- Em sẽ cầu nguyện chứ?

Harada-san đột nhiên hỏi. Tôi gật đầu, khe khẽ đáp:

- Chắc chắn rồi, Harada-san.

Anh nhắm mắt, bật cười khi nhận ra tôi chẳng còn cần đến "quy tắc bút màu".


END.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro