VẾT MÁU THỨ HAI(The Second Stain, 1904)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tôi đã định bụng dừng công bố các công trạng của Sherlock Holmes ở vụ Trang viên Abbey. Nguyên do chẳng phải là thiếu tư liệu, vì tôi có ghi chép về hàng trăm vụ chưa từng kể tới, cũng không phải vì bạn đọc đã bớt quan tâm đến tính cách khác thường và những phương pháp độc đáo của con người xuất chúng này. Thực ra lí do là ở chỗ Holmes đã tỏ ý không muốn tiếp tục công bố những kinh nghiệm của mình. Khi anh vẫn hành nghề thì những bản ghi chép thành tích ấy còn đôi chút giá trị thực tiễn đối với anh; nhưng vì anh đã dứt khoát rời khỏi London và dốc hết tâm trí vào việc nghiên cứu và nuôi ong ở Sussex Downs nên với anh sự nổi danh lại thành ra đáng ghét, và anh cương quyết yêu cầu tôi tuân thủ nghiêm ngặt theo ý anh trong chuyện này. Chỉ khi tôi trình bày với anh rằng tôi đã hứa công bố vụ án Vết máu thứ hai vào thời điểm chín muồi, và vạch ra cho anh thấy rằng chuỗi chuyện này cần khép lại ở cao trào là vụ án mang tính quốc tế quan trọng nhất mà anh từng được nhờ giải đáp thì mới thỏa đáng, rốt cuộc anh cũng ưng thuận rằng sự kiện này nên chăng cần được trình bày cẩn thận trước công chúng. Nếu chuyện tôi kể có một vài chi tiết chưa rõ thì công chúng nên rộng lòng hiểu cho rằng việc tôi kiệm lời có lí do hết sức chính đáng.

Hồi ấy, vào một năm nọ, hay thậm chí là một thập kỉ nọ, tôi sẽ không nói rõ thời gian, vào một sáng thứ ba của mùa thu, chúng tôi thấy hai vị khách tiếng tăm khắp Âu châu trong nhà trọ xoàng xĩnh của mình ở phố Baker. Một người khắc khổ, mũi cao, mắt diều hâu và có vẻ uy quyền hơn, không ai khác chính là huân tước Bellinger lừng danh, đã hai lần làm thủ tướng Anh quốc. Người kia, da ngăm ngăm, tề chỉnh và trang nhã, còn chưa đến độ trung niên và được phú cho mọi vẻ đẹp ngoại hình và trí tuệ, là ngài Trelawney Hope, vụ trưởng vụ Âu châu, và là chính khách đang thăng tiến nhanh nhất trong nước. Họ ngồi cạnh nhau trên chiếc trường kỉ la liệt giấy tờ trong phòng chúng tôi, và cứ nhìn diện mạo phờ phạc, âu lo của họ thì dễ thấy là họ đến đây vì một việc quan trọng cấp bách nhất. Hai bàn tay gầy guộc, nổi gân xanh của ngài thủ tướng nắm chặt cán dù bằng ngà, còn gương mặt hốc hác, khổ hạnh, ủ dột hết nhìn Holmes lại nhìn tôi. Ngài vụ trưởng thì căng thẳng giật ria mép và vân vê mấy cái triện móc ở dây đồng hồ quả quýt.

"Khi tôi phát hiện ra mình mất tài liệu lúc 8 giờ sáng nay, tôi lập tức thông báo cho ngài thủ tướng. Chính ngài ấy đề nghị cả hai chúng tôi phải đến tìm ông."

"Các vị đã báo cảnh sát chưa?"

"Chưa, thưa ông", thủ tướng nói bằng cung cách nhanh gọn, dứt khoát mà ông vốn nổi danh. "Chúng tôi chưa làm vậy, mà chúng tôi cũng không thể làm vậy. Báo cảnh sát, về lâu dài có nghĩa là thông báo cho công chúng biết. Đây là điều mà chúng tôi đặc biệt muốn tránh."

"Tại sao vậy, thưa ngài?"

"Vì tài liệu ta đang nói đến có tầm quan trọng lớn lao đến mức nếu công bố nó ắt sẽ dễ dàng - tôi gần như có thể nói là chắc chắn - dẫn đến cảnh hỗn loạn không đúng lúc nhất ở Âu châu. Bảo rằng hòa bình hay chiến tranh tùy thuộc vào việc này cũng không phải là nói quá. Nếu việc thu hồi nó không được giải quyết một cách tối mật thì có thu hồi cũng chẳng để làm gì, vì mục đích mà kẻ lấy nó nhắm đến là để cho ai ai cũng biết nội dung trong đó."

"Tôi hiểu rồi. Giờ, thưa ngài Trelawney Hope, tôi sẽ rất biết ơn nếu ngài cho tôi biết chính xác tài liệu này biến mất trong hoàn cảnh nào."

"Chuyện đó thì có thể nói ngắn gọn trong vài chữ, ông Holmes. Tôi nhận được bức thư - vì nó là một bức thư từ một vị quốc trưởng ở Âu châu - vào sáu ngày trước. Nó quan trọng đến mức tôi không bao giờ bỏ nó trong két sắt mà chiều chiều lại cầm về nhà ở Whitehall Terrace, và cất trong cặp tài liệu khóa kín để trong phòng ngủ của tôi. Tối hôm qua nó vẫn còn ở đấy. Tôi chắc chắn là thế. Trong khi sửa soạn để ăn tối thì tôi có mở cặp ra và thấy lá thư vẫn ở bên trong. Đến sáng nay thì nó đã không còn. Cặp tài liệu để cạnh chiếc gương trên bàn trang điểm trong phòng tôi cả đêm. Tôi không phải người ngủ say, phu nhân của tôi cũng vậy. Cả hai chúng tôi sẵn sàng cam đoan rằng trong đêm không ai có thể vào phòng cả. Vậy mà tôi xin nhắc lại là lá thư đã mất."

"Ngài dùng bữa tối lúc mấy giờ?"

"7 giờ rưỡi."

"Bao lâu sau thì ngài mới đi ngủ?"

"Phu nhân tôi đi xem hát. Tôi thức chờ cô ấy. 11 giờ rưỡi chúng tôi mới về phòng."

"Vậy là trong bốn tiếng đồng hồ cặp tài liệu để đó không được ai canh chừng?"

"Không bao giờ có ai được phép vào phòng tôi trừ cô hầu vào buổi sáng, và anh hầu của tôi, hoặc người hầu gái của phu nhân tôi, vào thời gian còn lại trong ngày. Cả hai đều là gia nhân tin cẩn đã ở cùng chúng tôi một thời gian rồi. Hơn nữa, không ai có thể biết được trong cặp tài liệu của tôi có gì quý giá hơn giấy tờ bình thường của bộ."

"Ai đã biết lá thư đó tồn tại?"

"Không ai trong nhà cả."

"Chắc hẳn là phu nhân biết?"

"Không, thưa ông, tôi không nói gì với phu nhân cho đến khi lá thư bị mất vào sáng nay."

Thủ tướng gật đầu công nhận.

"Lâu nay tôi vẫn biết anh có ý thức trách nhiệm quốc gia cao thế nào", ông ta nói. "Tôi tin chắc rằng trong trường hợp một bí mật có tầm quan trọng thế này thì nó sẽ vượt lên trên những mối quan hệ gần gũi nhất trong gia đình."

Vị vụ trưởng khẽ cúi đầu.

"Ngài quá ư công bằng với tôi, thưa ngài. Cho đến sáng nay thì tôi chưa hề hé môi nói lời nào với phu nhân về chuyện này."

"Có thể phu nhân đã đoán được chăng?"

"Không, ông Holmes, phu nhân tôi không đoán được - cũng không ai đoán ra được."

"Trước đây ngài đã từng mất tài liệu nào chưa?"

"Chưa, thưa ông."

"Ở Anh quốc có ai biết lá thư này tồn tại không?"

"Hôm qua mọi thành viên nội các đều đã được thông báo; nhưng ngài thủ tướng đã long trọng cảnh cáo để yêu cầu mọi người cam kết giữ kín hơn bí mật về nội dung bàn luận trong cuộc họp nội các. Trời ơi, ai ngờ được trong vòng vài giờ chính tôi lại để mất nó!" Gương mặt đẹp đẽ của ông ta biến dạng đi vì cơn tuyệt vọng, hai tay đưa lên vò đầu. Trong phút chốc, chúng tôi thoáng thấy một con người bình thường, bốc đồng, mãnh liệt, hết sức nhạy cảm. Phút sau thì cái vỏ bọc quý tộc đã thế chỗ, và giọng nói của ông ta từ tốn trở lại. "Ngoài các thành viên nội các ra thì còn có hai, ba viên chức trong vụ biết về lá thư. Ở Anh không còn ai khác, ông Holmes, tôi cam đoan với ông."

"Nhưng còn ở nước ngoài?"

"Tôi tin rằng ở nước ngoài không có ai nhìn thấy nó trừ người viết lá thư đó. Tôi tin chắc rằng các bộ trưởng bên đó... rằng các kênh chính thức thông thường không tham gia vào việc này."

Holmes cân nhắc một lát.

"Giờ thì, thưa ngài, tôi phải hỏi ngài cụ thể hơn lá thư này là gì, và tại sao việc nó bị mất lại gây ra những hệ lụy lớn lao như vậy?"

Hai chính khách liếc nhìn nhau thật nhanh rồi cặp chân mày tua tủa của thủ tướng chụm lại thành cái chau mày.

"Ông Holmes, cái phong bì ấy dài, mỏng, màu xanh nhạt, có dấu triện đỏ bằng sáp in hình con sư tử khom mình. Được đề bằng chữ viết lớn, đậm, gửi cho..."

"Thưa ngài", Holmes nói, "đã đành mấy chi tiết này thú vị và quả thực là cơ bản, nhưng tôi e rằng tôi phải tìm hiểu sâu hơn ngọn nguồn mọi chuyện. Bức thư viết gì?"

"Đó là bí mật quốc gia cực kì quan trọng, nên tôi e rằng không thể cho ông biết, tôi cũng thấy điều đó là không cần thiết. Nếu ông có thể tìm thấy một phong bì như tôi mô tả cùng với thư bên trong nhờ khả năng mà người ta nói là ông có thì ông sẽ lập công lớn cho đất nước, và sẽ có được bất cứ phần thưởng nào mà chúng tôi có quyền hạn ban tặng."

Sherlock Holmes đứng lên, mỉm cười.

"Hai vị là những người bận bịu nhất nước", anh nói, "và tuy ở địa vị hèn mọn tôi cũng có nhiều việc cần làm. Tôi vô cùng tiếc là không thể giúp các vị trong vụ này, và cuộc gặp gỡ này có kéo dài thêm nữa cũng sẽ uổng phí thời gian mà thôi."

Thủ tướng bật dậy, đôi mắt sâu ánh lên nét tinh anh, mãnh liệt mà đứng trước nó, cả nội các phải run sợ. "Thưa ông, tôi không quen...", ông mở lời, nhưng rồi kiềm chế cơn nóng nảy và lại ngồi xuống. Chừng cả phút đồng hồ tất cả chúng tôi ngồi im lặng. Rồi vị chính khách lão luyện nhún vai, "Chúng tôi phải chấp nhận điều kiện của ông thôi, ông Holmes. Chắc chắn là ông nói đúng, và thật phi lí nếu chúng tôi trông chờ ông hành động mà không hoàn toàn tin cậy ở ông."

"Tôi đồng tình với ngài, thưa ngài", chính khách trẻ tuổi hơn nói. "Vậy thì tôi xin trông cậy hoàn toàn vào danh dự của ông và đồng nghiệp của ông, bác sĩ Watson. Tôi cũng phải kêu gọi cả lòng yêu nước của ông nữa, vì tôi không thể hình dung ra một bất hạnh nào ghê gớm hơn cho đất nước nếu vụ này bị rò rỉ."

"Ngài có thể an tâm tin tưởng chúng tôi."

"Vậy thì, lá thư là của một vị quốc trưởng nước ngoài, ông ta bực tức vì mấy vụ mở mang thuộc địa gần đây của nước ta. Nó được viết vội và do ông ta tự ý viết. Các cuộc dò la cho thấy các bộ trưởng của ông ta không biết gì về chuyện này. Hơn nữa, lối diễn đạt trong thư không được thích hợp, và vài câu trong đó có tính khiêu khích đến mức nếu công bố thì chắc chắn sẽ dẫn đến một trạng thái tâm lí cực kì nguy hiểm ở nước ta. Thưa ông, sẽ có một vụ náo động lớn và tôi không ngần ngại nói rằng nếu lá thư bị lộ ra thì chỉ trong vòng một tuần, nước ta sẽ vướng vào một cuộc đại chiến."

Holmes viết ra một cái tên trên giấy rồi đưa cho ngài thủ tướng.

"Đúng. Là ông ta. Và lá thư này - một lá thư rất có thể gây tổn thất lên đến hàng tỉ bảng và tước đi sinh mạng của hàng trăm ngàn người - đã bị mất một cách khó hiểu như thế."

"Ngài đã thông tin cho người gửi chưa?"

"Rồi, thưa ông, một bức điện mã hóa đã được gửi đi."

"Có lẽ ông ta muốn công bố bức thư."

"Không, thưa ông, chúng tôi có lí do chắc chắn để tin rằng ông ta đã hiểu ra mình hành động bất cẩn và nông nổi. Bức thư này bị lộ ra sẽ là một đòn ghê gớm giáng vào ông ta và đất nước của ông ta hơn là vào chúng ta."

"Nếu vậy, việc để lộ bức thư sẽ có lợi cho ai? Sao ai đó lại muốn đánh cắp hay công bố nó?"

"Ông Holmes, ông bắt tôi trình bày chuyện trong lĩnh vực chính trị quốc tế cấp cao rồi đấy. Nhưng nếu ông xem xét tình hình Âu châu thì sẽ dễ dàng nhận ra động cơ. Cả Âu châu đang là một trại lính. Có hai khối liên minh quân sự tạo nên thế cân bằng trong cán cân sức mạnh quân sự. Anh quốc duy trì cán cân ấy. Nếu Anh bị kéo vào cuộc chiến với một trong hai liên minh đó thì quyền bá chủ chắc chắn sẽ rơi vào tay phe còn lại, dù họ có tham chiến hay không, ông vẫn theo kịp chứ?"

"Rất rõ. Vậy thì đối thủ của vị quốc trưởng này sẽ quan tâm đến việc chiếm lấy và công bố bức thư, nhằm gây bất hòa giữa nước ông ấy và nước chúng ta?"

"Đúng, thưa ông."

"Vậy nếu rơi vào tay một đối thủ thì lá thư này sẽ được gửi đến đâu?"

"Đến chính phủ của bất kì nước lớn nào ở Âu châu. Có lẽ ngay phút này nó đang đến đó theo tốc độ tàu hơi nước đưa nó đi được."

Ngài Trelawney Hope gục đầu xuống ngực than vãn. Thủ tướng ân cần đặt tay lên vai ông ta. "Đó là việc không may, anh bạn thân mến. Không ai trách anh được. Anh đã không từ biện pháp đề phòng nào. Giờ thì, ông Holmes, ông đã biết đầy đủ mọi chi tiết rồi. Ông đề nghị chúng tôi phải làm thế nào?"

Holmes lắc đầu vẻ bi đát.

"Thưa ngài, ngài nghĩ nếu lá thư này không được thu hồi thì sẽ có chiến tranh?"

"Tôi nghĩ điều đó rất có thể."

"Vậy thì, thưa ngài, hãy chuẩn bị cho chiến tranh."

"Nói vậy thì nặng nề quá, ông Holmes."

"Thưa ngài, xin hãy xem xét các sự việc. Không thể nghĩ là nó bị lấy cắp sau 11 giờ rưỡi tối, vì tôi hiểu cả ngài Hope và phu nhân đều ở trong phòng từ lúc đó cho đến khi biết được lá thư đã mất. Vậy thì, nó bị lấy vào tối hôm qua trong khoảng thời gian từ 7 giờ 30 phút đến 11 giờ 30 phút, có lẽ gần giờ trước hơn, vì dù ai lấy nó đi nữa thì hiển nhiên cũng biết rằng nó có ở đó và đương nhiên sẽ lấy cho được càng sớm càng tốt. Vậy thì, thưa ngài, nếu một tài liệu quan trọng như vậy bị đánh cắp vào giờ đó, lúc này nó có thể ở đâu được? Chẳng ai có lí do gì để giữ nó lại. Nó đã được nhanh chóng chuyển đến người cần rồi. Giờ ta có cơ may nào bắt kịp hay dù chỉ là lần dò ra nó đây? Nó đã nằm ngoài tầm tay của chúng ta rồi."

Thủ tướng đứng lên khỏi trường kỉ.

"Điều ông nói hoàn toàn hợp lí, ông Holmes. Tôi cảm thấy vấn đề quả thực đã nằm ngoài tầm tay của chúng ta."

"Ta hãy đoán chừng, chỉ để tranh luận thôi, là tài liệu bị cô hầu hay anh hầu lấy..."

"Cả hai đều là những gia nhân lâu năm và đáng tin cậy."

"Tôi nghe ngài nói rằng phòng ngài ở trên tầng ba, từ ngoài không có lối vào và từ bên trong thì không ai có thể đi lên mà không bị nhìn thấy. Vậy thì, phải là ai đó trong nhà lấy trộm lá thư. Kẻ trộm sẽ lấy nó cho ai? Cho một trong vài gián điệp và mật vụ quốc tế mà tôi khá rành tên tuổi. Có ba người có thể nói là đứng đầu trong nghề của họ. Tôi sẽ bắt đầu tìm hiểu bằng cách đi quanh để xem xem ai ở chỗ nấy không. Nếu một người vắng mặt - nhất là nếu hắn biến mất từ đêm qua - ta sẽ có một manh mối nào đó về chuyện lá thư đã đi đâu."

"Sao hắn ta lại phải vắng mặt?" Vụ trưởng hỏi. "Hắn ta sẽ cầm lá thư đến một đại sứ quán ở London, rất có thể là vậy."

"Tôi cho rằng họ không làm vậy đâu. Mấy mật vụ này làm việc độc lập, và mối quan hệ của họ với các đại sứ quán thường căng thẳng."

Thủ tướng gật đầu tán thành.

"Tôi tin là ông nói đúng, ông Holmes. Hắn ta sẽ tự tay cầm một chiến lợi phẩm quý giá như vậy đến trụ sở. Tôi nghĩ rằng đường lối hành động của ông rất xuất sắc. Trong khi đó thì, Hope này, ta không thể vì rủi ro này mà sao nhãng mọi phận sự khác. Nếu trong ngày có diễn biến gì mới thì chúng tôi sẽ liên lạc với ông, còn ông chắc chắn sẽ cho chúng tôi biết kết quả cuộc điều tra."

Hai chính khách cúi chào và ủ ê rời phòng. Khi các vị khách danh tiếng của chúng tôi đã đi khỏi thì Holmes lẳng lặng châm tẩu thuốc và ngồi trầm ngâm suy nghĩ một lúc. Tôi vừa mở tờ báo sáng và đang mải mê theo dõi một vụ án li kì xảy ra ở London đêm trước thì bạn tôi thốt lên một tiếng, bật dậy, để tẩu thuốc xuống bệ lò sưởi.

"Phải", anh nói, "không còn cách tiếp cận nào hay hơn. Hoàn cảnh này thật khốn khó, nhưng không phải vô vọng. Ngay cả bây giờ, nếu ta có thể chắc chắn ai trong số chúng đã lấy lá thư thì có thể nó vẫn chưa rời khỏi tay hắn. Suy cho cùng, với bọn này thì chỉ là chuyện tiền nong, mà sau lưng tôi đã có bộ Tài chính Anh. Nếu nó được đem bán thì tôi sẽ mua ngay - cho dù thế có nghĩa là thêm một xu nữa đánh lên thuế thu nhập của người dân. Có thể nghĩ rằng gã đó sẽ giữ nó lại để xem phía này ngã giá ra sao rồi mới thử vận may với bên kia. Chỉ có ba người đủ sức chơi một trò táo tợn như vậy, đó là Oberstein, La Rothiere và Eduardo Lucas. Tôi sẽ gặp từng tên một."

Tôi liếc nhìn tờ báo sáng.

"Có phải Eduardo Lucas ở phố Godolphin không?"

"Phải."

"Anh sẽ không gặp được hắn ta đâu."

"Sao lại không?"

"Đêm qua hắn đã bị ám sát tại nhà."

Trong các cuộc phiêu lưu của chúng tôi, bạn tôi thường xuyên làm tôi sửng sốt nên lần này tôi cảm thấy vô cùng đắc chí khi làm anh bàng hoàng. Anh nhìn sững, rồi giật tờ báo trong tay tôi. Đây là đoạn tôi đang chăm chú đọc khi anh đứng lên khỏi ghế:

ÁN MẠNG TẠI WESTMINSTER

Đêm qua, một vụ án bí ẩn đã xảy ra tại số 16 phố Godolphin, thuộc dãy nhà cổ kính và cách biệt có từ thế kỉ mười tám nằm giữa sông và tu viện, gần như lọt trong bóng tháp lớn của nghị viện. Cư ngụ trong tòa biệt thự nhỏ nhưng sang trọng này đã vài năm nay là ông Eduardo Lucas, ông nổi tiếng trong các tầng lớp xã hội nhờ phong cách cuốn hút và xứng danh là một trong những giọng nam cao nghiệp dư hàng đầu trong nước, ông Lucas ba mươi tư tuổi, chưa lập gia đình, trong nhà ông có bà Pringle, một quản gia lớn tuổi và Mitton, người hầu. Bà quản gia đi nghỉ sớm và ngủ ở tầng trên cùng của tòa nhà. Người hầu thì đi vắng cả buổi tối, thăm một người bạn tại Hammersmith. Từ 10 giờ trở đi ông Lucas chỉ còn lại một mình. Hiện vẫn chưa rõ chuyện gì đã xảy ra trong thời gian đó, nhưng lúc 12 giờ kém 15 phút, cảnh sát Barrett, khi đi dọc phố Godolphin, đã để ý thấy cửa nhà số 16 mở hé. Anh ta gõ cửa, nhưng không nghe ai trả lời. Nhận thấy có ánh đèn trong căn phòng ở mặt trước, anh ta tiến vào hành lang và lại gõ cửa, nhưng không có tiếng đáp. Anh ta bèn đẩy cửa bước vào. Căn phòng hỗn độn, bàn ghế bị xô cả qua một bên, còn một chiếc ghế thì nằm lật úp ở chính giữa phòng. Nằm cạnh chiếc ghế này, và vẫn còn nắm chặt một chân ghế, là người thuê nhà bất hạnh, ông ta bị đâm vào tim và hẳn đã chết ngay tức khắc. Hung khí gây án là dao găm cong của Ấn, được giật xuống từ bộ sưu tập những món vũ khí Á Đông trang hoàng trên một vách tường. Có vẻ như trộm cắp không phải là động cơ phạm tội, vì không thấy có dấu hiệu gì của mưu toan lấy đi đồ đạc có giá trị trong phòng, ông Eduardo Lucas nổi tiếng và được mến chuộng đến mức cái chết thảm khốc và bí ẩn của ông sẽ làm dấy lên mối quan tâm đau đớn và sự thương cảm sâu sắc trong giới bạn bè rộng rãi.

"Chà, Watson, anh hiểu sao về chuyện này?" Holmes hỏi sau một hồi lâu im lặng.

"Đó là sự trùng hợp lạ thường."

"Một sự trùng hợp ư! Đây là một trong ba người mà ta đã chỉ mặt điểm tên là những diễn viên khả dĩ của vở kịch này, vậy mà hắn ta lại chết bất đắc kì tử trong chính khoảng thời gian ta biết vở kịch đó đang diễn. Khả năng nó không phải trùng hợp là vô cùng lớn. Không có số liệu nào cho thấy điều đó. Không đâu, Watson thân mến, hai sự kiện có liên quan với nhau - phải có liên quan. Việc của ta là tìm ra mối liên quan ấy."

"Nhưng giờ thì hẳn cảnh sát đã biết cả rồi."

"Không hề. Họ biết tất cả những gì họ thấy ở phố Godolphin. Họ không biết, và sẽ không biết gì về Whitehall Terrace. Chỉ có ta mới biết cả hai sự kiện, và có thể lần dò ra mối liên hệ giữa chúng. Có một điểm rõ ràng mà bất luận thế nào cũng khiến tôi quay sang nghi ngờ Lucas. Phố Godolphin ở Westminster chỉ cách Whitehall Terrace vài phút đi bộ. Mấy tên mật vụ tôi vừa kể tên kia sống ở tận khu tây. Do vậy Lucas dễ dàng thiết lập quan hệ hay nhận lời nhắn từ những người sống trong nhà của viên vụ trưởng vụ Âu châu hơn mấy người kia - một chuyện nhỏ, nhưng khi các sự kiện bị dồn vào vài giờ đồng hồ thì lại có thể trở nên thiết yếu. Ồ! Ta có gì đây?"

Bà Hudson xuất hiện cùng tấm danh thiếp của một quý bà trên khay. Holmes liếc nhìn, nhướng mày, đưa cho tôi.

"Mời phu nhân Hilda Trelawney Hope vui lòng lên đây", anh nói.

Lát sau thì căn hộ khiêm nhường của chúng tôi, sáng hôm ấy đã vẻ vang lắm rồi, giờ lại còn được vinh dự hơn nữa vì người đàn bà yêu kiều nhất London xuất hiện. Tôi vẫn nghe nói đến nhan sắc cô con gái út của công tước xứ Belminster, nhưng không sự mô tả nào và không bức ảnh đen trắng nào giúp tôi ngờ trước được vẻ duyên dáng, tinh tế, thanh tú và nước da đẹp đẽ của gương mặt tuyệt sắc ấy. Vậy mà sáng mùa thu ấy, ấn tượng đầu tiên mà người ta quan sát được trên gương mặt ấy lại không phải là vẻ đẹp. Đôi má yêu kiều nhưng nhợt nhạt vì xúc động; mắt sáng, nhưng là thứ ánh sáng rực như người bị sốt; còn khuôn miệng xinh xắn mím chặt và u buồn vì cố gắng kiềm chế. Chính nỗi kinh hoàng - chứ không phải vẻ đẹp - đập vào mắt chúng tôi đầu tiên khi vị nữ khách đứng lại giây lát giữa khung cửa mở.

"Chồng tôi đã đến đây phải không, ông Holmes?"

"Phải, thưa phu nhân, ông ấy đã đến đây."

"Ông Holmes, tôi cầu xin ông đừng cho anh ấy biết là tôi đến đây."

Holmes khẽ cúi chào lãnh đạm và ra hiệu cho vị phu nhân ngồi xuống một chiếc ghế.

"Phu nhân đặt tôi vào một tình thế rất tế nhị. Tôi mời phu nhân ngồi xuống và cho tôi biết phu nhân muốn gì, nhưng tôi e rằng tôi không thể hứa vô điều kiện."

Cô lướt nhanh qua phòng rồi ngồi xuống, lưng xoay ra cửa sổ. Đó là một dáng vẻ đài các dong dỏng, duyên dáng, và cực kì nữ tính.

"Ông Holmes", cô nói, trong lúc hai bàn tay mang găng trắng cứ liên tục siết lại rồi buông ra, "tôi sẽ nói thật với ông những mong có thể khiến ông thành thật lại với tôi. Giữa vợ chồng tôi có sự tin cậy hoàn toàn trong mọi vấn đề trừ một lĩnh vực: Đó là chính trị. Anh ấy không hề hé môi trong chuyện này. Anh ấy không nói gì với tôi cả. Hiện giờ tôi biết rằng đêm qua trong nhà tôi đã xảy ra một sự việc vô cùng tệ hại. Tôi biết rằng một tài liệu đã biến mất. Nhưng bởi đây là vấn đề chính trị nên chồng tôi không chịu thổ lộ hết với tôi. Cho nên điều quan trọng nhất - tôi xin nói là quan trọng nhất - là tôi phải hiểu thấu chuyện này. Ngoài mấy chính khách ấy ra thì ông là người duy nhất biết đích xác các chi tiết. Thế nên tôi xin ông, ông Holmes, hãy cho tôi biết chính xác chuyện gì đã xảy ra và nó sẽ dẫn đến đâu. Hãy nói hết cho tôi nghe, ông Holmes. Đừng do quan tâm đến quyền lợi của thân chủ mà im lặng, vì tôi cam đoan với ông rằng quyền lợi của anh ấy, giá mà anh ấy thấy được điều đó, sẽ được đáp ứng nhiều nhất nếu anh ấy thổ lộ hết với tôi. Tài liệu bị đánh cắp này là gì vậy?"

"Thưa phu nhân, điều phu nhân đòi hỏi ở tôi quả thực là tôi không thể đáp ứng."

Cô rên một tiếng rồi hai tay ôm mặt.

"Phu nhân nên nhìn nhận sự việc thế này. Nếu chồng phu nhân nghĩ là không nên cho phu nhân biết chuyện thì người chỉ biết được sự thật theo cam kết bí mật nghề nghiệp như tôi lẽ nào lại có quyền nói điều ông ấy giấu hay sao? Đòi hỏi như vậy là không công bằng, ông ấy mới chính là người phu nhân nên hỏi."

"Tôi đã hỏi anh ấy. Bất đắc dĩ tôi mới phải đến gặp ông, Nhưng ông Holmes, dù không cho tôi biết điều gì rõ ràng, nhưng ông có thể giúp ích rất nhiều nếu làm sáng tỏ cho tôi một điểm."

"Là gì vậy, thưa phu nhân?"

"Sự nghiệp chính trị của chồng tôi có thể bị ảnh hưởng vì sự việc này không?"

"Vâng, thưa phu nhân, trừ phi vụ này được giải quyết ổn thỏa, còn không thì đương nhiên nó có thể để lại một hậu quả rất đáng tiếc."

"À!" Cô hít một hơi mạnh như người được giải tỏa những mối ngờ vực. "Một câu hỏi nữa, ông Holmes. Theo những gì chồng tôi vô tình để lộ trong lúc bàng hoàng vì tai họa này thì tôi hiểu rằng tài liệu bị mất có thể làm phát sinh những hệ lụy khủng khiếp cho cả cộng đồng."

"Nếu ông ấy đã nói vậy thì tất nhiên tôi không thể chối."

"Chúng thuộc loại gì?"

"Không, thưa phu nhân, phu nhân lại hỏi nhiều hơn mức tôi có thể trả lời rồi."

"Vậy thì tôi sẽ không làm mất thì giờ của ông thêm nữa. Thưa ông Holmes, tôi không trách ông vì không chịu nói thoải mái hơn, còn về phía ông thì tôi tin chắc ông sẽ không nghĩ xấu về tôi vì tôi muốn chia sẽ những nỗi lo âu của chồng tôi dù trái ý anh ấy. Một lần nữa, tôi xin ông đừng nói gì về chuyện tôi đến."

Đến bên cửa, cô còn quay lại nhìn chúng tôi, đó là ấn tượng cuối cùng mà tôi lưu lại về gương mặt đẹp ám ảnh, đôi mắt bàng hoàng và đôi môi mím chặt đó. Thế rồi cô đi mất.

"Nào, Watson, phái đẹp là lĩnh vực của anh", Holmes nói, mỉm cười, khi tiếng váy áo loạt soạt chìm khuất trong tiếng cửa trước đóng sầm lại. "Quý bà xinh đẹp đang mưu toan gì đây? Thực ra cô ta muốn gì?"

"Chắc hẳn cô ấy đã trình bày rõ ràng rồi, còn nỗi băn khoăn thì rất tự nhiên."

"Hừm! Nhớ lại vẻ ngoài của cô ta xem, Watson - cung cách, nỗi kích động bị kìm nén, sự bồn chồn, việc gặng hỏi kiên trì. Hãy nhớ rằng cô ta xuất thân từ một đẳng cấp không dễ bộc lộ cảm xúc."

"Dứt khoát là cô ấy rất xúc động."

"Nên nhớ cô ta sốt sắng đến lạ lùng khi cam đoan là nếu cô ta biết mọi chuyện thì sẽ tốt cho chồng hơn cả. Cô ta nói vậy là có ý gì? Và hẳn anh đã thấy, Watson, cô ta cố tình để ánh sáng chiếu vào phía lưng. Cô ta không muốn người khác đọc được vẻ mặt của mình."

"Phải đấy, cô ấy chọn đúng cái ghế đó."

"Vậy nhưng động cơ của phụ nữ thì rất khó dò. Anh có nhớ người đàn bà tại Margate mà tôi nghi ngờ cũng vì lí do đó không? Trên mũi bà ta không có phấn - đó hóa ra lại là đáp án đúng. Làm sao xây dựng trên vùng cát lún như vậy được? Hành động nhỏ nhặt nhất của họ cũng có thể đầy ý nghĩa, hay hành vi kì lạ nhất của họ cũng có thể tùy thuộc vào một cái trâm hay một cây kẹp tóc. Chào nhé, Watson."

"Anh đi sao?"

"Phải, tôi sẽ tha thẩn tại phố Godolphin cho hết buổi sáng cùng với các ông bạn chính quy của ta. Lời giải cho bài toán của ta nằm ở chỗ Eduardo Lucas, dù tôi phải thú nhận rằng tôi chưa có một ý niệm mơ hồ nào về chuyện nó sẽ có khuôn dạng ra sao. Lập giả thuyết trước khi có dữ kiện thực tế là một sai lầm vô cùng tai hại. Anh ở lại canh chừng, Watson tốt bụng ơi, và tiếp thêm khách mới nếu có. Nếu có thể, tôi sẽ về dùng bữa trưa với anh."

Cả ngày hôm đó và ngày hôm sau rồi hôm sau nữa Holmes có tâm trạng mà bạn bè sẽ gọi là lầm lì, còn người khác thì gọi là khinh khỉnh. Anh chạy ra chạy vào, hút thuốc liên tục, kéo đàn vĩ cầm vài cái, chìm trong suy tưởng, ngấu nghiến sandwich trái giờ trái giấc, và hầu như không trả lời những câu hỏi bất chợt của tôi. Tôi thấy rõ là mọi chuyện với anh hay cuộc tìm kiếm đều không suôn sẽ. Anh không chịu nói gì về chuyện này, và nhờ báo chí tôi mới biết các chi tiết trong cuộc điều tra, và việc bắt rồi thả John Mitton, anh hầu của người quá cố. Ban hội thẩm pháp y cho rằng tội 'giết người có chủ ý' đã rõ ràng, nhưng vẫn chưa rõ ai là hung thủ. Không suy ra được động cơ nào. Căn phòng đầy những thứ có giá trị, nhưng không vật gì bị lấy đi. Giấy tờ của người chết không bị lục lọi. Chúng được kiểm tra kĩ càng và cho thấy ông ta là một người say mê nghiên cứu chính trị quốc tế, một người thích hàn huyên không biết mệt, một nhà ngôn ngữ học xuất sắc, và một người viết thư không biết chán. Ông ta có quan hệ mật thiết với các chính trị gia hàng đầu của nhiều nước. Nhưng trong số tài liệu đầy các ngăn kéo của ông ta không phát hiện thấy gì li kì. Còn về quan hệ với nữ giới, ông ta có vẻ lăng nhăng và hời hợt. Ông ta thân quen nhiều người, nhưng ít bạn, và chẳng yêu ai. Thói quen bình thường, tư cách hạnh kiểm thì không có gì đáng chê trách. Cái chết của ông ta hoàn toàn là một bí ẩn, và rất có thể sau này vẫn sẽ như vậy.

Còn chuyện bắt người hầu John Mitton chẳng qua là một hành động vô hiệu để khỏi có vẻ án binh bất động. Nhưng không thể tố tụng anh ta. Đêm đó anh ta đi thăm bạn bè ở Hammersmith. Chứng cứ ngoại phạm đầy đủ. Đúng là anh ta khởi hành về nhà vào cái giờ mà anh ta vẫn có thể tới Westminster trước khi vụ án mạng được phát hiện, nhưng chuyện anh ta giải thích rằng mình đi bộ một quãng xem ra cũng có lí vì đêm đó trời quang đãng. Lúc 12 giờ anh ta mới về tới nhà, và có vẻ bàng hoàng, choáng váng vì tấn thảm kịch bất ngờ. Quan hệ của anh ta với ông chủ vẫn luôn tốt đẹp. Vài món đồ thuộc sở hữu của người chết - đặc biệt nhất là một hộp dao cạo nhỏ - đã được tìm thấy trong mấy rương đồ của người hầu, nhưng anh ta giải thích đó là quà của người quá cố, và bà quản gia có thể chứng thực chuyện này. Mitton làm việc cho Lucas được ba năm nay. Đáng chú ý là Lucas đã không dẫn Mitton theo đến lục địa. Đôi khi ông ta đi Paris suốt ba tháng liền nhưng để Mitton ở lại trông nom căn nhà ở phố Godolphin. Còn về bà quản gia, bà không nghe thấy gì trong đêm xảy ra vụ án. Nếu ông chủ có khách đến, vậy thì chính ông đã đón vào.

Vậy nên suốt ba buổi sáng, bí ẩn vẫn còn đó, như tôi theo dõi được trong báo. Holmes có biết gì thêm thì anh cũng giữ kín, nhưng khi anh nói với tôi là thanh tra Lestrade đã tiết lộ vụ này cho anh, tôi biết rằng anh đang theo sát từng diễn biến. Đến ngày thứ tư thì xuất hiện một bức điện dài từ Paris dường như giải đáp được toàn bộ vấn đề.

Tờ Daily Telegraph viết: Cảnh sát Paris vừa có một phát hiện vén bức màn bao trùm số phận bi thảm của ông Eduardo Lucas, tối thứ hai vừa qua đã chết vì vũ lực tại phố Godolphin, Westminster. Quý độc giả hẳn còn nhớ rằng nạn nhân bị đâm chết trong phòng mình, và sự nghi ngờ đổ dồn vào người hầu, nhưng vụ bắt giữ bị hủy vì anh ta có bằng chứng ngoại phạm. Hôm qua, đám gia nhân của một phụ nữ, gọi là bà Henri Fournaye, sống trong một biệt thự nhỏ ở đường Austerlitz, đã báo cho nhà chức trách rằng bà ta bị điên. Một cuộc khám xét cho thấy quả thực bà ta mắc chứng tâm thần thuộc loại kinh niên và nguy hiểm. Khi điều tra, cảnh sát phát hiện ra bà Henri Fournaye vừa về sau chuyến đi đến London hôm thứ ba vừa qua, và có bằng chứng để cho rằng bà ta có dính líu đến tội ác tại Westminster. Việc đối chiếu hình ảnh đã chứng minh chắc chắn rằng ông Henri Fournaye và Eduardo Lucas thực tế chỉ là một, và người chết vì lí do nào đó đã sống cuộc đời hai mặt ở London và Paris. Bà Fournaye, người gốc Creole, có bản tính cực kì dễ kích động và trước kia đã bị những cơn ghen tuông hành hạ đến độ điên loạn. Người ta phỏng đoán rằng chính trong một lần lên cơn điên như vậy, bà ta đã gây ra tội ác khủng khiếp gây xôn xao dư luận ở London suốt mấy ngày qua. Vẫn chưa dò được hành tung của bà ta vào đêm thứ hai, nhưng chắc chắn rằng vào sáng thứ ba, tại ga Charing Cross, có một phụ nữ khớp với đặc điểm nhận dạng của bà ta đã gây chú ý vì bề ngoài xốc xếch và cử chỉ dữ dằn. Do vậy, có lẽ tội ác đã được thực hiện trong lúc bà ta điên loạn, hoặc tác động tức thì của chuyện đó đã khiến người đàn bà bất hạnh mất trí. Lúc này bà ta không thể thuật lại mạch lạc chuyện đã qua, và các bác sĩ không hi vọng bà ta có thể hồi phục lí trí. Có nhân chứng khai rằng tối hôm thứ hai họ đã thấy một phụ nữ, có thể là bà Fournaye, theo dõi căn nhà ở phố Godolphin suốt vài giờ.

"Anh nghĩ sao về chuyện đó, Holmes?" Tôi đã đọc to bài tường thuật cho anh nghe trong khi anh ăn nốt bữa sáng.

"Watson thân mến ơi", anh nói, đứng lên khỏi bàn và đi tới đi lui trong phòng, "anh thật nhẫn nại, nhưng nếu ba ngày qua tôi không kể gì cho anh thì đó là vì chẳng có gì để kể. Ngay cả cái báo cáo từ Paris này cũng không giúp được gì nhiều cho ta."

"Về cái chết của gã này thì hẳn đã có kết luận rồi."

"Cái chết của gã này chỉ là sự tình cờ, một tình tiết không đáng kể so với nhiệm vụ thực của ta là dò ra tài liệu kia và cứu vãn một thảm họa ở Âu châu. Trong ba ngày qua, chỉ mỗi một thứ quan trọng xảy ra, đó là chẳng có gì xảy ra cả. Gần như mỗi giờ tôi đều nhận được báo cáo từ nội các, và chắc chắn không đâu ở Âu châu có dấu hiệu bất an nào. Vậy thì, nếu bức thư này đã lọt ra ngoài - không, không thể để nó lọt ra ngoài - nhưng nếu chưa thì nó có thể ở đâu? Ai có nó? Sao nó lại bị giữ lại? Đó là câu hỏi cứ nện như búa trong óc tôi. Lucas chết vào cái đêm bức thư biến mất có thật là trùng hợp ngẫu nhiên không? Bức thư đã từng tới tay hắn ta chưa? Nếu đã tới, sao nó lại không nằm trong số giấy tờ của hắn? Bà vợ điên loạn này của hắn có cầm nó đi không? Nếu có, lá thư có nằm trong nhà bà ta ở Paris không? Làm sao tôi có thể tìm kiếm nó mà không khiến cảnh sát Pháp sinh nghi? Watson thân mến, đây là một vụ mà với chúng ta luật pháp cũng nguy hiểm như tội phạm. Bàn tay ai cũng đều chống lại ta, vậy nhưng những lợi ích đang bị đe dọa lại rất ư to lớn. Tôi mà hoàn thành được vụ này thì nhất định nó sẽ đại diện cho tột đỉnh vinh quang trong sự nghiệp. À, tin tức mới nhất từ mặt trận cho tôi đây rồi!" Anh liếc vội bức thư vừa được đưa vào. "Ồ! Dường như Lestrade đã quan sát được điều gì đáng chú ý. Đội mũ vào đi Watson, ta sẽ cùng thả bộ xuống Westminster."

***

Đó là lần đầu tôi tới hiện trường vụ án - một căn nhà cao, xám xịt, mặt tiền hẹp, nghiêm trang và vững chãi như thế kỉ sản sinh ra nó. Lestrade mặt mày lầm lì nhìn ra phía chúng tôi từ cửa sổ ở mặt tiền, và anh ta niềm nở chào đón sau khi một cảnh sát to lớn mở cửa cho chúng tôi vào. Căn phòng chúng tôi được dẫn vào là nơi gây án, nhưng giờ không còn dấu vết nào, trừ một vết khó coi, loang lổ trên thảm. Tấm thảm này là một miếng len thô nhỏ vuông vắn ở chính giữa phòng, bao quanh là khoảng sàn gỗ rộng, đẹp đẽ, kiểu cổ ghép lại từ những khối vuông bóng loáng. Bên trên lò sưởi có đồ trần thiết là các thứ vũ khí ấn tượng, một trong số đó đã được dùng vào cái đêm bi thảm ấy. Bên cửa sổ là cái bàn viết đồ sộ, và mọi chi tiết trong căn hộ, tranh, thảm và rèm, thảy đều toát lên một thị hiếu xa xỉ đến độ gần như điệu đàng.

"Xem tin từ Paris chưa?" Lestrade hỏi.

Holmes gật đầu.

"Lần này xem ra các bạn Pháp của ta gãi đúng chỗ ngứa rồi. Rõ ràng là đúng như họ nói. Bà ta gõ cửa - tôi đoán là cuộc viếng thăm bất ngờ, vì ông ta sống cách biệt với mọi người. Ông ta mở cửa cho bà ta vào - đâu thể để bà ta đứng ngoài đường mãi được. Bà ta kể đã lần theo ông ta ra sao, trách móc ông ta, chuyện này dẫn đến chuyện kia, và rồi sẵn con dao găm rất tiện tay đó nên kết cục chẳng mấy chốc đã đến. Mặc dù không phải tất cả những việc ấy được thực hiện trong nháy mắt, vì mấy cái ghế này bị xô dạt cả qua bên kia, và ông ta còn nắm một cái trong tay như thể đã cố dùng nó để ngăn bà ta lại. Chúng tôi biết rõ ràng mọi việc cứ như đã được chứng kiến vậy."

Holmes nhướng mày. "Nhưng ông lại cho mời tôi?"

"À, phải, đó là chuyện khác kia - chỉ là một chuyện vụn vặt, nhưng là loại chuyện ông quan tâm - kì quặc, ông biết đấy, và có thể gọi là quái đản. Nó không dính dáng gì đến sự kiện chính - xét theo bề ngoài thì không thể nào."

"Vậy thì là gì?"

"Vâng, ông biết đấy, sau một vụ án kiểu này, bao giờ chúng tôi cũng rất cẩn thận giữ yên vị mọi thứ. Không có gì bị xê dịch. Cảnh sát trực ở đây cả ngày lẫn đêm. Sáng nay, khi người này đã được chôn cất và cuộc điều tra đã xong - trong chừng mực có liên quan đến căn phòng này - chúng tôi nghĩ mình có thể dọn dẹp lại đôi chút. Tấm thảm này, ông thấy đấy, không bị đóng chặt xuống, nó chỉ được trải ra đó. Chúng tôi đã nâng nó lên. Chúng tôi thấy..."

"Sao? Các ông thấy...", Mặt Holmes đâm căng thẳng vì lo lắng.

"À, tôi chắc cả trăm năm ông cũng không bao giờ đoán ra cái chúng tôi thấy đâu. Ông thấy vết máu trên thảm kia không? Đấy, hẳn phải thấm nhiều lắm, đúng không?"

"Chắc chắn là vậy."

"Chà, ông sẽ ngạc nhiên khi thấy rằng trên mặt sàn gỗ trắng tương ứng không có vết máu nào cả."

"Không có vết máu nào sao! Nhưng hẳn phải có..."

"Phải, ông sẽ nói vậy. Nhưng thực tế lại không có."

Ông ta cầm lấy góc thảm rồi lật lại, chúng tôi thấy quả đúng như lời ông ta nói.

"Nhưng mặt dưới cũng thấm máu như mặt trên. Nó phải để lại dấu vết chứ."

Lestrade cười khoái trá vì đã khiến chuyên gia nổi tiếng phải ngơ ngác. "Giờ tôi sẽ cho ông thấy lời giải thích. Có vết máu thứ hai, nhưng nó không tương ứng với vết kia. Ông tự xem lấy đi." Ông ta vừa nói vừa lật chỗ thảm khác lên, và ở đó, quả nhiên, có một vết loang đỏ thẫm trên bề mặt trắng vuông vức của cái sàn kiểu cổ. "Ông hiểu sao về chuyện này, ông Holmes?"

"Sao vậy, chuyện này đơn giản mà. Hai vết máu thì tương ứng, nhưng thảm đã bị xoay lại. Vì nó vuông và không bị đóng xuống nên dễ dàng làm vậy."

"Ông Holmes, cảnh sát không cần ông cho họ biết là tấm thảm chắc chắn đã bị xoay lại. Chuyện đó thì rõ rồi, vì vết máu sẽ trùng khớp với nhau - nếu ông trải nó thế này. Nhưng điều tôi muốn biết là ai đã xê dịch tấm thảm, và tại sao?"

Nhìn nét mặt bất động của Holmes, tôi biết là anh đang run lên vì thầm phấn chấn.

"Nghe này, Lestrade", anh nói, "anh cảnh sát trong hành lang vẫn trực tại chỗ này từ đầu đến giờ, đúng không?"

"Đúng vậy."

"Được, hãy nghe lời tôi khuyên. Hạch hỏi anh ta kĩ vào. Đừng làm vậy trước mặt chúng tôi. Chúng tôi sẽ chờ ở đây. Ông hãy dẫn anh ta vào căn phòng đằng sau. Một mình ông sẽ dễ moi được lời khai của anh ta hơn. Hãy hỏi anh ta tại sao anh ta dám cho người khác vào và để người đó một mình trong phòng này. Đừng hỏi anh ta có làm vậy không. Cứ coi như đó là điều đương nhiên. Nói cho anh ta hay rằng ông biết đã có người ở đây. Hãy dồn ép anh ta. Nói với anh ta rằng cơ may duy nhất để anh ta được tha thứ là phải khai ra. Cứ làm y như tôi dặn ông!"

"Trời, giá mà anh ta biết tôi sẽ khảo được chuyện đó từ anh ta!" Lestrade kêu lên. Ông ta lao ra hành lang, và vài phút sau giọng nói hoạnh họe đã vang lên từ căn phòng phía sau.

"Nào, Watson, nào!" Holmes kêu lên, hăm hở, cuống quýt. Toàn bộ sức mạnh mãnh liệt ẩn tàng đằng sau thái độ hờ hững của anh bỗng bùng phát đến cực điểm. Anh giật phăng tấm thảm len thô dưới sàn, rồi trong nháy mắt đã bò ra cạy từng vuông gỗ bên dưới. Khi anh cắm móng tay vào mép thì một tấm bật qua một bên. Nó bung ra như cái nắp hộp. Một hốc tối nhỏ mở ra bên dưới. Holmes hăm hở thọc tay vào rồi rút ra, càu nhàu cay cú vì giận dữ và thất vọng: Nó trống không.

"Nhanh lên, Watson, nhanh lên! Đậy nó lại!"

Cái nắp gỗ đã được đậy lại và tấm thảm len vừa được kéo thẳng thớm thì đã nghe thấy giọng Lestrade trong hành lang. Ông ta thấy Holmes đang uể oải dựa vào bệ lò sưởi, cam chịu và nhẫn nại, cố giấu những cái ngáp không kìm được.

"Xin lỗi đã để ông chờ, ông Holmes. Tôi thấy rằng ông đang chán muốn chết vì toàn bộ chuyện này. À phải, anh ta đã thú nhận, ổn rồi. Vào đây MacPherson. Hãy cho quý vị đây nghe hành vi hết sức không thể tha thứ được của anh."

Viên cảnh sát to con, rất bực tức và ăn năn, khép nép vào phòng.

"Tôi tin chắc là mình không có ý làm gì sai, thưa ông. Tối qua cô gái đó đến trước cửa - cô ta nhầm nhà. Thế rồi chúng tôi chuyện trò. Thật cô độc, khi phải trực ở đây cả ngày."

"Thôi được, rồi chuyện gì xảy ra?"

"Cô ta muốn xem nơi gây án - đã đọc thấy trên báo, cô ta nói. Cô ta là một cô gái rất đoan trang, ăn nói khôn khéo, thưa ông, và tôi thấy cho cô ta xem một tí cũng chẳng can gì. Khi nhìn thấy dấu vết đó trên thảm, cô ta ngã ra sàn, và nằm như thể chết rồi. Tôi chạy ra sau lấy chút nước, nhưng không làm cô ta tỉnh lại được. Tôi bèn đi vòng qua góc đường đến tiệm Thường Xuân mua chút rượu mạnh, khi tôi mang về thì cô gái đã tỉnh lại và đi rồi - tôi dám chắc là cô ta tự thấy xấu hổ, nên không dám nhìn mặt tôi."

"Còn chuyện xê dịch tấm thảm kia?"

"Vâng, thưa ông, khi tôi về thì nó có xộc xệch một chút, đương nhiên rồi. Ông hiểu cho, cô ta đã ngã sụp xuống đó, mà nó thì nằm trên cái sàn láng bóng chẳng có gì níu lại. Sau đó thì tôi kéo nó lại cho thẳng thớm."

"Một bài học cho anh là anh không lừa được tôi đâu, cảnh sát MacPherson", Lestrade nói, vẻ nghiêm trang. "Chắc chắn anh nghĩ việc anh không làm tròn phận sự không bao giờ bị phát hiện, vậy nhưng chỉ nhìn thoáng qua tấm thảm tôi cũng biết thừa có người đã được cho vào phòng. May cho anh đấy, anh bạn, vì không mất gì, nếu không anh sẽ rơi vào tình thế khó xử đấy. Tôi xin lỗi đã gọi ông xuống vì một chuyện cỏn con thế này, ông Holmes, nhưng tôi nghĩ chuyện vết máu thứ hai không tương ứng với vết đầu sẽ làm ông chú ý."

"Đương nhiên rồi, chuyện đó hết sức đáng chú ý. Người đàn bà này chỉ đến đây có một lần thôi phải không, anh cảnh sát?"

"Phải, thưa ông, chỉ một lần."

"Cô ta là ai?"

"Tôi không biết tên, thưa ông. Cô ta đang tới gặp chủ nhân của một mẩu rao vặt về đánh máy, rồi đến nhầm nhà - cô gái rất dễ thương, nhã nhặn, thưa ông."

"Cao ráo và đẹp nữa?"

"Vâng, thưa ông. Cô ta là một cô gái gia giáo. Tôi cho rằng ông có thể nói là cô ta đẹp. Có lẽ một số người sẽ nói cô ta rất đẹp. 'Ồ, anh cảnh sát, cho tôi xem một tí đi mà!' Cô ta nói. Cô ta có cái vẻ xinh xắn, đầy dụ hoặc, ta có thể nói như vậy, và tôi nghĩ để cô ta ló đầu qua cửa tí thôi cũng chẳng can gì."

"Cô ta ăn mặc ra sao?"

"Giản dị, thưa ông, áo khoác dài chấm đất"

"Lúc ấy là mấy giờ?"

"Lúc đó chỉ mới chạng vạng. Khi tôi mang rượu mạnh về thì họ đang thắp đèn."

"Tốt lắm", Holmes nói. "Đi thôi, Watson, tôi nghĩ ta có công chuyện quan trọng hơn ở chỗ khác."

Khi chúng tôi rời ngôi nhà thì Lestrade còn ở lại trong tiền phòng, tay cảnh sát ăn năn mở cửa cho chúng tôi ra. Trên cầu thang, Holmes quay lại và giơ lên cái gì đó mà anh đang cầm trong tay. Tay cảnh sát nhìn chăm chú.

"Trời ơi, thưa ông!" Anh ta kêu lên, vẻ sững sờ trên mặt.

Holmes đặt ngón tay lên miệng, đút tay lại vào túi ngực, rồi bật cười khi chúng tôi quay xuống đường. "Tuyệt lắm!" Anh nói. "Đi nào, Watson, hồi kết đã mở màn rồi. Anh sẽ thở phào khi biết sẽ không có chiến tranh, ngài Trelawney Hope sẽ không gặp trở ngại trong sự nghiệp xán lạn của mình, vị quốc trưởng bất cẩn sẽ không bị trừng phạt vì sự bất cẩn, thủ tướng sẽ không phải đối phó với bất cứ rối ren nào ở Âu châu, và nhờ một chút tài khéo léo và dàn xếp của ta sẽ không ai bị tổn hại gì vì cái đáng ra đã là một biến cố vô cùng tệ hại."

Tâm trí tôi ngập tràn niềm thán phục dành cho con người phi thường này.

"Anh giải được rồi ư!" Tôi kêu lên.

"Không đâu, Watson. Có mấy điểm vẫn còn mơ hồ như trước. Nhưng ta đã biết được nhiều đến mức ta sẽ có lỗi nếu không tìm ra phần còn lại. Ta sẽ đi thẳng đến Whitehall Terrace mà kết thúc chuyện này thôi."

Khi chúng tôi tới tư dinh của vị vụ trưởng vụ Âu châu thì phu nhân Hilda Trelawney Hope mới là người Sherlock Holmes xin gặp. Chúng tôi được dẫn vào phòng khách.

"Ông Holmes!" Phu nhân nói, mặt cô ửng đỏ vì phẫn nộ. "Chuyện này chứng tỏ rằng ông hết sức bất công và không rộng lượng. Như tôi đã giải thích, tôi muốn giữ kín chuyện tôi đến gặp ông, sợ rằng chồng tôi sẽ nghĩ tôi đang xâm phạm vào công việc của anh ấy. Vậy mà ông lại làm hại tôi bằng cách đến đây và vì thế chứng tỏ rằng giữa chúng ta có những mối liên hệ công việc."

"Rất tiếc, thưa phu nhân, tôi không còn chọn lựa khả dĩ nào khác. Tôi đã được giao nhiệm vụ thu hồi tài liệu vô cùng quan trọng này. Do vậy tôi phải yêu cầu phu nhân, thưa phu nhân, vui lòng giao nộp nó cho tôi."

Phu nhân đứng phắt dậy, gương mặt đẹp đẽ thoáng biến sắc. Đôi mắt rực lên - cô lảo đảo, tôi cứ tưởng cô sắp ngất. Thế rồi bằng một nỗ lực lớn, cô trấn tĩnh lại được sau cú sốc, cơn sững sờ và phẫn nộ tột cùng xua hết mọi biểu cảm khác trên mặt.

"Ông... Ông xúc phạm tôi, ông Holmes."

"Thôi, thôi, thưa phu nhân, vô ích thôi. Giao lá thư đây."

Cô vội chạy tới chỗ để chuông.

"Người hầu sẽ đưa các ông ra."

"Đừng rung chuông, thưa phu nhân Hilda. Nếu phu nhân làm vậy, mọi nỗ lực thành tâm của tôi nhằm ngăn ngừa một vụ tai tiếng sẽ vô hiệu. Hãy giao lá thư rồi mọi chuyện sẽ được giải quyết êm đẹp. Nếu phu nhân hợp tác với tôi thì tôi có thể dàn xếp mọi thứ. Nếu phu nhân bất hợp tác thì tôi sẽ phải vạch trần phu nhân."

Cô đứng với vẻ thách thức, hiên ngang, dáng người đài các mắt chăm chăm nhìn vào mắt anh như thể muốn đọc thấu tận cõi lòng anh. Bàn tay đặt trên chiếc chuông, nhưng nhẫn nhịn không rung nó.

"Ông đang cố làm tôi khiếp sợ. Đến đây hăm dọa một phụ nữ thì chẳng ra dáng trượng phu lắm đâu, ông Holmes. Ông nói rằng ông biết điều gì đó. Ông biết gì vậy?"

"Xin ngồi xuống, thưa phu nhân. Phu nhân sẽ tự làm mình đau nếu bị ngã đấy. Phu nhân phải ngồi xuống tôi mới nói. Cảm ơn phu nhân."

"Tôi sẽ cho ông năm phút, ông Holmes."

"Một là đủ rồi, phu nhân Hilda. Tôi biết rằng phu nhân đã đến chỗ Eduardo Lucas, đã đưa cho ông ta tài liệu này, và đêm qua phu nhân đã trở lại căn phòng đó một cách tài tình, tôi còn biết cả cách thức phu nhân lấy lá thư từ chỗ giấu dưới thảm."

Cô nhìn anh chằm chằm, mặt nhợt nhạt và hớp hớp hai cái rồi mới nói được.

"Ông điên rồi, ông Holmes. Ông điên rồi!" Cuối cùng cô kêu lên.

Anh rút trong túi ra một mẩu giấy bìa cứng nhỏ. Đó là phần ảnh chụp mặt một phụ nữ cắt ra từ một bức chân dung.

"Tôi mang theo cái này vì tôi nghĩ nó có thể có ích", anh nói. "Viên cảnh sát đó đã nhận ra."

Cô há hốc miệng rồi ngửa đầu ra ghế.

"Thôi nào, phu nhân Hilda. Phu nhân đang giữ lá thư. Vẫn có thể dàn xếp chuyện này. Tôi không mong đem rắc rối đến cho phu nhân. Phận sự của tôi sẽ chấm dứt khi tôi trả lại lá thư bị mất cho chồng phu nhân. Hãy nghe lời khuyên của tôi và thành thật với tôi, đó là cơ hội duy nhất cho phu nhân."

Khí phách của cô thật đáng khâm phục. Lúc này rồi mà cô vẫn không chịu nhận mình đã thua.

"Tôi nhắc lại cho ông, ông Holmes, rằng ông đang ảo tưởng một cách lố bịch."

Holmes đứng dậy khỏi ghế.

"Tôi lấy làm tiếc cho phu nhân, thưa phu nhân Hilda. Tôi đã làm hết sức vì phu nhân, tôi có thể thấy rằng tất cả như vô ích mà thôi."

Anh rung chuông. Người hầu bước vào.

"Ngài Trelawney Hope có nhà không?"

"Ngài ấy sẽ về lúc 1 giờ kém 15 phút, thưa ngài."

Holmes liếc nhìn đồng hồ.

"Còn mười lăm phút nữa", anh nói. "Tốt lắm, tôi sẽ chờ."

Người hầu vừa khép cửa lại thì phu nhân Hilda đã quỳ xuống dưới chân Holmes, hai bàn tay chìa ra, gương mặt mĩ miều ngẩng lên đẫm lệ.

"Ôi, tha cho tôi đi, ông Holmes! Xin hãy tha cho tôi!" Cô van xin, khẩn cầu rồi rít. "Vì Chúa, xin đừng nói cho anh ấy biết! Tôi yêu anh ấy biết nhường nào! Tôi không đời nào làm u ám cuộc đời anh ấy, mà tôi biết chuyện này sẽ làm tan nát trái tim cao thượng của anh ấy."

Holmes nâng phu nhân dậy. "Thưa phu nhân, tôi biết ơn vì phu nhân đã hồi tâm dù là vào phút chót! Không còn phút nào để phí phạm đâu. Lá thư đâu rồi?"

Cô lao tới bên bàn viết, mở khóa, và rút ra một phong bì dài màu xanh. "Đây, ông Holmes. Thề có Chúa tôi chưa từng xem nó!"

"Ta trả nó lại thế nào đây?" Holmes lẩm bẩm. "Nhanh lên, nhanh lên, ta phải nghĩ ra một cách nào đó! Cặp tài liệu để đâu?"

"Vẫn để trong phòng ngủ của anh ấy."

"May quá! Nhanh lên, thưa phu nhân, mang nó lại đây!"

Lát sau cô đã trở lại, cầm theo một chiếc cặp tài liệu dẹt màu đỏ.

"Lúc trước phu nhân mở thế nào? Phu nhân có một chìa khóa nữa? Phải, dĩ nhiên là phu nhân có. Mở đi!"

Phu nhân Hilda rút từ trong ngực áo ra một chìa khóa nhỏ. Cái cặp mở bung, trong đó chứa đầy giấy tờ. Holmes nhét sâu chiếc phong bì xanh vào lẫn giữa mấy trang của một xấp tài liệu khác. Cái cặp được đóng vào, khóa lại và trả về phòng ngủ.

"Giờ chúng ta đã sẵn sàng chờ ông ấy", Holmes nói, "ta vẫn còn mười phút nữa. Tôi sẽ mạo hiểm che giấu cho phu nhân, thưa phu nhân Hilda. Đáp lại, phu nhân hãy dành thời gian này để thành thật kể tôi nghe thực chất vụ việc kì lạ này là sao."

"Ông Holmes, tôi sẽ kể ông nghe mọi điều", phu nhân kêu lên. "Ôi, ông Holmes, tôi thà cắt bàn tay phải của mình còn hơn là đem lại cho anh ấy phút giây buồn phiền! Cả London này không có người đàn bà nào yêu chồng như tôi, vậy nhưng nếu anh ấy biết tôi đã hành động thế nào - tôi đã buộc phải hành động thế nào - anh ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho tôi. Vì anh ấy rất trọng danh dự nên anh ấy sẽ không quên hay tha thứ cho sự sa ngã của người khác. Xin hãy giúp tôi, ông Holmes! Hạnh phúc của tôi, hạnh phúc của anh ấy và cả mạng sống của chúng tôi đang bị đe dọa!"

"Nhanh lên, thưa phu nhân, sắp hết giờ rồi!"

"Đó là vì lá thư của tôi, ông Holmes, một lá thư khinh suất viết trước khi tôi lấy chồng - một lá thư rồ dại, một lá thư của đứa con gái bồng bột đang yêu. Tôi không có ý xấu, nhưng anh ấy có thể xem đó là tội lỗi. Nếu anh ấy đọc được lá thư thì niềm tin của anh ấy sẽ mãi tan tành. Tôi viết lá thư đó đã nhiều năm rồi. Tôi tưởng toàn bộ chuyện đó đã bị lãng quên. Thế rồi gã Lucas kia báo cho tôi biết rằng nó đã vào tay hắn, và hắn sẽ phơi bày trước mặt chồng tôi. Tôi cầu xin hắn thương tình. Hắn nói sẽ trả lá thư cho tôi nếu tôi đem đến cho hắn một tài liệu mà hắn mô tả trong cặp tài liệu của chồng tôi. Một gián điệp trong vụ đã báo cho hắn biết về sự tồn tại của bức thư đó. Hắn cam đoan với tôi rằng sẽ không có gì xấu xảy ra với chồng tôi. Hãy đặt mình vào trường hợp của tôi, ông Holmes! Tôi sẽ phải làm gì?"

"Thổ lộ với chồng mình."

"Tôi không thể, ông Holmes, tôi không thể! Một đằng thì dường như sẽ tan tành hết cả; một đằng thì, dù việc lấy giấy tờ của chồng mình có vẻ khủng khiếp, nhưng vẫn nằm trong vấn đề chính trị mà tôi không thể hiểu nổi hậu quả, trong khi chuyện tình yêu và lòng tin thì tôi đã quá rõ. Tôi đã làm chuyện đó, ông Holmes! Tôi lấy dấu chìa khóa của anh ấy. Gã Lucas này cung cấp cho tôi chiếc chìa khóa sao lại. Tôi mở cặp lấy tài liệu, rồi mang đến phố Godolphin."

"Chuyện gì xảy ra ở đấy, thưa bà?"

"Tôi gõ cửa như thỏa thuận. Lucas mở cửa. Tôi theo hắn ta vào phòng, để cửa khép hờ sau lưng, vì tôi sợ phải ở một mình với người này. Tôi nhớ khi bước vào thì bên ngoài có một người đàn bà. Việc của chúng tôi chẳng mấy chốc đã xong. Hắn có lá thư của tôi trên bàn. Tôi đưa hắn tài liệu, hắn đưa tôi lá thư. Lúc này thì có tiếng động ở cửa. Có tiếng bước chân trong hành lang. Lucas lẹ làng lật tấm thảm lên, nhét tài liệu vào một chỗ giấu nào đó ở đấy, rồi phủ lại.

Chuyện xảy ra sau đó giống như một giấc mơ hãi hùng. Tôi thấy một gương mặt cay độc, điên cuồng, rồi giọng một người đàn bà rít lên bằng tiếng Pháp, 'Tôi chờ chẳng uổng công. Rốt cục... rốt cục tôi đã bắt được ông với ả!' Cuộc giằng co thật dữ dội. Tôi thấy hắn ta cầm ghế, còn trong tay bà ta là một con dao loang loáng. Tôi bỏ chạy khỏi cảnh tượng khủng khiếp ấy, bỏ chạy khỏi ngôi nhà ấy, rồi sáng hôm sau tôi mới biết kết cục rùng rợn trên báo. Đêm đó tôi rất mừng vì đã lấy được lá thư của mình, và chưa thấy được tương lai sẽ đem lại điều gì. Sáng hôm sau tôi mới nhận ra rằng mình chỉ đổi rắc rối này lấy rắc rối khác. Nỗi lo âu khắc khoải của chồng tôi vì mất tài liệu xuyên thấu tâm can tôi. Tôi hầu như không kìm nổi, chỉ chực quỳ xuống chân anh ấy ngay tại chỗ mà kể cho anh ấy việc mình đã làm. Nhưng điều đó lại có nghĩa là tự thú về quá khứ. Sáng hôm ấy tôi đến gặp ông để tìm hiểu tầm mức việc làm sai trái của mình. Từ giây phút hiểu ra tôi đã hướng cả tâm trí vào một ý nghĩ là lấy lại tài liệu của chồng tôi. Hẳn nó còn ở nơi Lucas cất, vì nó được giấu trước khi người phụ nữ đáng sợ nọ vào phòng. Nếu không nhờ bà ta đến, tôi làm sao biết được nơi hắn giấu. Tôi phải vào căn phòng đó bằng cách nào đây? Suốt hai ngày trời tôi theo dõi chỗ này, nhưng cửa không hề mở. Tối qua tôi thử một lần cuối. Tôi đã làm gì và tôi đã làm được bằng cách nào thì ông đã biết. Tôi cầm tài liệu về, và đã tính hủy nó đi vì tôi không biết làm sao để trả nó lại mà không thú nhận tội lỗi với chồng. Trời ơi, tôi nghe tiếng chân anh ấy trên cầu thang rồi!"

Vụ trưởng hăm hở lao vào phòng. "Có tin gì không, ông Holmes, có tin gì không?" Ông ta kêu lên.

"Tôi có vài hi vọng."

"À, nhờ trời!" Mặt ông ta trở nên rạng rỡ. "Ngài thủ tướng sẽ dùng bữa trưa cùng tôi. Ngài ấy có thể chia sẽ những hi vọng của ông không? Ngài ấy có thần kinh thép, vậy mà từ khi sự kiện kinh khủng này xảy ra, ngài ấy hầu như không ngủ. Jacobs, anh mời thủ tướng lên được không? Còn em, em yêu, anh e đây là vấn đề chính trị. Ít phút nữa mọi người sẽ vào phòng ăn cùng em."

Thái độ của thủ tướng điềm đạm hơn, nhưng dựa vào ánh mắt long lanh và hai bàn tay xương xương đang run rẩy thì tôi biết ông cũng háo hức như người đồng nghiệp trẻ.

"Tôi hiểu là ông có gì đó để báo cáo, ông Holmes?"

"Vẫn chỉ bi quan thôi", bạn tôi trả lời. "Tôi đã dò hỏi khắp mọi nơi có thể, và tôi tin chắc rằng không có mối nguy hiểm nào cả."

"Nhưng như vậy vẫn chưa đủ, ông Holmes. Chúng tôi không thể sống mãi trên ngọn núi lửa như vậy được. Chúng tôi phải có cái gì rõ ràng."

"Tôi đang hi vọng lấy được nó. Vì vậy mà tôi đến đây. Càng nghĩ về vấn đề thì tôi càng tin chắc rằng bức thư chưa hề rời khỏi ngôi nhà này."

"Ông Holmes!"

"Nếu nó đã ra khỏi nhà thì chắc chắn lúc này nó đã được công bố rồi."

"Nhưng sao ai đó đã lấy nó mà lại còn để nó lại trong nhà này?"

"Chắc gì đã có ai lấy nó."

"Vậy thì sao nó lại biến mất khỏi cặp tài liệu?"

"Chắc gì nó đã biến mất khỏi cặp tài liệu."

"Ông Holmes, chuyện đùa này thật không phải lúc. Tôi cam đoan với ông rằng nó đã biến mất khỏi cái cặp."

"Từ sáng thứ ba ngài đã kiểm tra cái cặp chưa?"

"Chưa, việc đó không cần thiết."

"Biết đâu ngài đã bỏ sót không thấy nó."

"Tôi khẳng định là không thể nào."

"Nhưng tôi chưa tin, tôi đã gặp những chuyện như vậy. Tôi đoán chừng trong đó còn những giấy tờ khác. Nó bị lẫn trong đó không chừng."

"Nó nằm ở trên cùng."

"Có thể ai đó đã lắc cái cặp làm đảo lộn mọi thứ."

"Không, không, tôi đã lấy mọi thứ ra."

"Chuyện ấy dễ phân xử thôi, Hope", thủ tướng nói. "Ta hãy cho người đem cặp tài liệu vào đây."

Ngài vụ trưởng rung chuông.

"Jacobs, đem cặp tài liệu của tôi xuống đây. Chuyện nực cười này thật mất thời gian, nhưng dù sao, nếu không có gì khác làm ngài hài lòng thì ta đành phải thực hiện thôi. Cảm ơn anh, Jacobs, để nó ở đây. Tôi vẫn luôn đeo chìa khóa trên chiếc đồng hồ quả quýt. Đây là giấy tờ, ngài thấy đấy. Thư của huân tước Merrow, báo cáo của ngài Charles Hardy, giác thư từ Belgrade, công hàm về thuế ngũ cốc Nga-Đức, thư từ Madrid, thư của huân tước Flowers... Ôi trời ơi! Cái gì đây? Ngài Bellinger ơi! Ngài Bellinger!"

Thủ tướng giật cái phong bì màu xanh trên tay ông ta. "Phải, nó đây! Lá thư vẫn còn nguyên. Hope, tôi chúc mừng anh."

"Cảm ơn ngài! Cảm ơn ngài! Lòng tôi đã cất được một gánh nặng. Nhưng chuyện này thật không thể hiểu nổi, không thể nào. Ông Holmes, ông đúng là thầy pháp, thầy phù thủy! Làm sao ông biết nó ở đó?"

"Vì tôi biết nó không ở đâu khác."

"Tôi không tin nổi vào mắt mình nữa!" Ông ta rối rít chạy tới cửa. "Phu nhân tôi đâu? Tôi phải cho cô ấy biết rằng mọi chuyện đã ổn cả rồi. Hilda! Hilda!"

Chúng tôi nghe thấy giọng ông ta trên cầu thang. Thủ tướng nhìn Holmes, mắt long lanh.

"Thôi nào, thưa ông", ngài nói. "Trong chuyện này còn nhiều ẩn tình hơn những gì ta thấy. Làm sao lá thư trở về trong cặp được?"

Holmes quay đi để che nụ cười trước vẻ dò xét tinh anh của đôi mắt phi thường đó.

"Chúng tôi cũng có những bí mật ngoại giao của mình", anh nói rồi cầm mũ lên, quay ra cửa.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro