THUNG LŨNG KINH HOÀNG (THE VALLEY OF FEAR, 1904)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

PHẦN I
THẢM KỊCH Ở BIRLSTONE1. Cảnh báo

"Tôi đang nghĩ...," tôi nói.

"Tôi cũng thế đấy," Sherlock Holmes sốt ruột lên tiếng.

Tôi tin mình là một trong những người có sức chịu đựng bền bỉ nhất, nhưng phải thú thật là tôi phật lòng với kiểu ngắt lời mỉa mai đó.

"Này, Holmes," tôi nói nghiêm khắc, "đúng là nhiều lúc anh hơi khó chịu đấy."

Anh quá mải mê với dòng suy nghĩ riêng nên chẳng buồn đáp lại ngay lời chê trách của tôi. Không hề động tới món điểm tâm trước mặt, anh ngồi chống cằm suy tư nhìn lá thư vừa rút khỏi phong bì. Rồi anh lại cầm chính cái phong bì đó giơ lên ánh sáng và xem xét rất cẩn thận cả mặt ngoài lẫn nắp.

"Đúng nét chữ của Porlock," anh tư lự nói. "Tôi tin chắc đó là nét chữ Porlock, dù trước đây tôi thấy nó có hai lần thôi. Chữ e viết như số 3 lật ngược có dấu ngoặc bay bướm trên đầu rất đặc trưng. Nhưng nếu đúng là thư của Porlock thì chắc chắn phải có chuyện tối quan trọng."

Anh đang nói với chính mình hơn là nói với tôi, nhưng nỗi bực tức trong tôi đã tan biến khi lòng hiếu kì bị những lời ấy khơi gợi. Tôi hỏi, "Thế Porlock là ai?"

"Porlock là tên giả, Watson à, nhưng kẻ dùng tên ấy lại là một nhân vật quỷ quyệt khó lường. Trong một lá thư trước, y đã nói thẳng đó không phải tên thật và thách tôi tìm được y trong hàng triệu người chen chúc ở đại đô thành này. Porlock quan trọng không phải vì bản thân y, mà là vì cái kẻ danh tiếng có quan hệ với y. Anh cứ thử hình dung quan hệ giữa cá mồi với cá mập, giữa chó rừng với sư tử, hay bất cứ thứ gì tầm thường nhưng lại thân thiết với một thứ khác rất ghê gớm là rõ. Mà kẻ kia không chỉ ghê gớm thôi đâu, Watson, hắn còn ác hiểm nữa kìa... ác hiểm cùng cực. Quan điểm của tôi là vậy. Có bao giờ anh nghe tôi nhắc tới giáo sư Moriarty chưa?"

"Tên học giả tội phạm nổi danh trong giới bất hảo cũng như..."

"Hân hạnh quá, Watson!"

Tưởng tôi so sánh kẻ ấy với anh, Holmes lẩm bẩm làm ra vẻ phản đối.

"Tôi định nói là cũng như hắn vô danh đối với công chúng."

"Ghi điểm! Xuất thần!" Holmes hô lên. "Không ngờ anh lại có máu tiếu lâm giảo hoạt đến thế. Watson, giờ tôi phải đề phòng anh mới được. Nhưng khi gọi Moriarty là tội phạm thì dưới con mắt luật pháp, anh đang thốt ra một lời vu khống đấy, và đó mới chính là điều trác tuyệt và kì diệu! Kẻ chủ mưu vĩ đại nhất mọi thời, kẻ đầu trò mọi vụ án lớn, đầu não điều khiển thế giới ngầm, bộ óc có thể làm thay đổi vận mệnh nhiều quốc gia... Hắn là thế đó! Thế nhưng hắn lại nằm ngoài mọi ngờ vực, chưa từng bị chỉ trích, có cách lèo lái và đổi trắng thay đen giỏi đáng nể tới độ chỉ bằng những lời anh vừa nói ra thôi, hắn có thể lôi anh ra hầu tòa và bắt anh mất cả một năm tiền lương hưu để bồi thường danh dự cho hắn. Chẳng phải hắn là tác giả lừng danh của cuốn Động lực học của tiểu hành tinh, một cuốn sách đạt tới trình độ đỉnh cao của toán học thuần túy tới mức không một ai trong giới tu thư khoa học có thể phê phán nổi đó sao? Ai dám phỉ báng một con người như vậy? Chỉ cần một câu thôi, anh sẽ trở thành tên bác sĩ thối mồm còn hắn là vị giáo sư bị nhục mạ! Thế mới tài tình chứ, Watson. Nhưng nếu lũ lâu la đừng làm vướng chân tôi, nhất định sẽ có ngày tôi được đối đầu với kẻ này."

"Mong là tôi có mặt để chứng kiến!" Tôi sốt sắng thốt lên. "Nhưng anh đang nói về người tên là Porlock."

"A, đúng... cái tên Porlock này là một mắt xích khá cận kề với đầu mối vĩ đại kia. Nói riêng với anh, Porlock không hẳn là mối liên kết hữu hiệu lắm. Y chỉ là mắt xích khiếm khuyết duy nhất trong cả xâu chuỗi tôi tìm được."

"Nhưng chỉ cần bẻ gãy mắt xích yếu nhất là phá được cả sợi xích."

"Chính xác, Watson thân mến! Vì thế mà Porlock cực kì quan trọng. Được dẫn dắt bởi khát vọng hướng thiện mới manh nha, và được khích lệ bởi những tờ giấy bạc mười bảng Anh thỉnh thoảng y nhận được qua những phương thức khôn khéo, Porlock đã đôi lần báo trước cho tôi những tin tức giá trị. Ấy mới là thông tin giá trị nhất, vì chúng giúp ta tiên liệu và ngăn chặn tội ác chứ không phải báo thù khi chuyện đã rồi. Tôi tin chắc rằng, nếu tôi có mật mã, chúng ta sẽ thấy bức thư này có tính chất đúng như tôi đã đề cập."

Holmes lại trải phẳng lá thư trên chiếc đĩa không dùng tới. Tôi đứng lên, ngó qua vai anh, nhìn xuống dòng thư kì cục có nội dung như sau:

534 C2 13 127 36 31 4 17 21 41 DOUGLAS 109 293 5 37 BIRLSTONE 26 BIRLSTONE 9 47 171

"Là gì vậy, Holmes?"

"Rõ ràng y cố truyền tin mật."

"Nhưng gửi tin mã hóa mà không có cách giải mã thì có ích gì?"

"Trong trường hợp này, đúng là chẳng có ích gì cả."

"Sao anh lại nói: Trong trường hợp này?"

"Bởi vì có nhiều loại mật mã mà tôi có thể đọc dễ dàng như là đọc những thứ ngụy thư trong mục rao vặt trên báo; những mưu chước thô thiển chỉ giúp giải khuây chứ không làm mệt óc. Nhưng cái này thì khác. Hiển nhiên nó tham chiếu tới các từ trong một trang sách nào đó. Chừng nào tôi còn chưa biết đó là trang nào trong cuốn sách nào thì tôi đành bất lực."

"Nhưng sao lại có 'Douglas' và 'Birlstone'?"

"Hiển nhiên là vì những từ đó không có trong trang sách liên quan."

"Thế sao y không cho biết tên cuốn sách chứ?"

"Watson thân mến ơi, bản tính khôn ranh cùng cái thói xảo quyệt bẩm sinh chắc chắn sẽ ngăn không cho con người này gửi kèm cả mật mã lẫn thông điệp trong cùng một phong thư. Nếu thư thất lạc thì y tiêu đời. Còn như thế này, sự việc chỉ xấu đi nếu cả hai thư cùng rơi vào tay nhầm người. Lá thư thứ hai của chúng ta lẽ ra giờ đã phải tới rồi, và tôi sẽ ngạc nhiên nếu thư đó không giải thích gì thêm, và khả năng cao hơn là nó sẽ cho ta biết những chữ số này viện dẫn từ pho sách nào."

Trù liệu của Holmes được đáp ứng chỉ vài phút sau đó khi Billy, chú nhóc giúp việc, xuất hiện với đúng bức thư chúng tôi đang mong đợi.

"Cùng nét chữ ấy," Holmes vừa nói vừa mở phong bì, "và có kí tên hẳn hoi," anh hoan hỉ nói thêm khi mở thư. "Ta thử xem nào, Watson." Thế nhưng mặt anh sa sầm khi đọc qua nội dung. "Trời, thất vọng thật! Watson, tôi e là mọi trông đợi của chúng ta đều không thành. Mong là anh chàng Porlock này không gặp tai họa gì."

Rồi anh đọc bức thư:

KÍNH GỬI ÔNG HOLMES!

Đây là lần cuối cùng ta liên lạc với nhau. Quá nguy hiểm - ông ta đã hồ nghi. Tôi có thể nhận ra là ông ta đang nghi ngờ tôi. Ông ta đột nhiên đến gặp tôi khi tôi vừa ghi xong địa chỉ lên phong bì này với ý định gửi cho ông cách giải mã. Tôi đã lo liệu được. Nếu nhìn thấy rồi thì hẳn ông ta sẽ gây khó dễ cho tôi. Nhưng tôi thấy rõ ánh nghi ngờ trong mắt ông ta. Xin hãy đốt bức mật thư, vì giờ nó không có ích gì cho ông nữa.

FRED PORLOCK

Holmes ngồi một hồi mân mê lá thư ấy giữa những ngón tay, chau mày nhìn đăm đăm vào lò sưởi. Sau cùng anh lên tiếng, "Dẫu sao, chắc cũng chẳng có chuyện gì. Có thể chỉ là do lương tâm y cắn rứt. Khi tự ý thức mình là kẻ phản bội thì có thể y đã nhận ra sự buộc tội trong ánh mắt của người kia."

"Người kia chắc là giáo sư Moriarty."

"Không ai khác! Khi bất kì ai trong giới đó nhắc đến ông ta thì anh biết họ muốn nói ai. Với tất cả bọn họ, chỉ có một 'ông ta' thống lĩnh."

"Nhưng ông ta làm được gì chứ?"

"Hừm! Đó là một câu hỏi lớn. Khi anh đối đầu với một trong những bộ óc hàng đầu Âu châu, và sau lưng hắn là mọi thế lực đen tối thì có vô vàn khả năng. Dù gì anh bạn Porlock hẳn nhiên đã sợ mất vía; xin vui lòng so sánh chữ viết trong thư này với chữ viết trên phong bì mà y bảo là đã viết trước cuộc viếng thăm báo điềm dữ ấy. Một đằng là chữ viết rõ ràng, dứt khoát. Một đằng là chữ viết khó đọc."

"Thế còn viết thư làm gì chứ? Y cứ mặc kệ luôn có phải đơn giản hơn không?"

"Vì sợ tôi sẽ đi điều tra vụ này và có khả năng sẽ gây rắc rối cho y."

"Hẳn rồi," tôi nói. "Nhất định là vậy." Tôi đã cầm bức mật thư ban đầu lên săm soi. "Thật khó chịu khi biết tờ giấy này có thể mang một bí mật quan trọng nào đó nhưng lại nằm ngoài khả năng lí giải của con người."

Sherlock Holmes đã dẹp bữa điểm tâm chưa hề dùng tới qua một bên và châm cái tẩu thuốc nặng mùi vốn luôn đồng hành cùng anh những lúc anh tập trung nhất.

"Không đâu!" Anh vừa nói vừa ngả lưng ra ghế, mắt nhìn lên trần nhà. "Có lẽ có những chi tiết mà trí óc xảo quyệt của anh không để ý. Ta hãy xem xét lại vấn đề dưới con mắt suy luận thuần túy đi. Những tham chiếu của người này nằm trong một cuốn sách. Đó là xuất phát điểm của chúng ta."

"Một xuất phát điểm khá mông lung."

"Thế thì thử xem ta có thể thu hẹp nó lại được chăng. Tôi càng tập trung suy nghĩ thì lại càng thấy nó bớt bí hiểm. Ta có gợi ý gì về cuốn sách này không?"

"Không."

"Chà, chà, chắc chắn là không đến nỗi tệ như thế. Bức mật thư bắt đầu với con số lớn 534, phải không? Ta có thể đặt ra một giả thuyết rằng 534 là trang mà mật thư này đề cập tới. Như vậy cuốn sách của chúng ta phải dày, vậy là ta đã có một dữ kiện. Ta còn gợi ý nào khác cho biết tính chất của pho sách lớn này? Mật hiệu kế tiếp là C2. Theo anh thì nó có nghĩa gì, Watson?"

"Chương 2, chắc chắn."

"Khó mà thế được, Watson. Tôi chắc anh sẽ đồng ý với tôi là nếu đã cho biết trang thì chẳng cần cho biết chương làm gì. Hơn nữa, nếu trang 534 nằm ở chương hai thì chương một dài quá là phi lí."

"Cột!" Tôi nói to.

"Xuất sắc, Watson. Sáng nay anh thật tuyệt vời. Nếu C2 mà không phải là cột hai thì tôi thất vọng lắm. Anh thấy đó, bây giờ ta có thể hình dung ra một pho sách lớn in hai cột với mỗi cột có khá nhiều dòng, bởi vì trong bức mật thư có số 293. Ta đã suy luận được hết chưa?"

"Tôi e là rồi đó."

"Anh lại ngại nghĩ rồi. Hãy tỏa sáng một lần nữa, Watson thân mến, động não thêm đi! Nếu đó là một pho sách hiếm thì hẳn y phải gửi cho tôi rồi. Thay vì thế, trước khi dự tính của y bị nghi ngờ, y đã định gửi manh mối cho tôi trong phong thư này. Trong lá thư sau y cũng viết thế. Điều này cho thấy, có vẻ như đó là một cuốn sách mà y cho rằng tôi sẽ dễ dàng tự tìm được. Y có cuốn sách đó, và nghĩ tôi cũng có. Tóm lại, Watson, đó là một cuốn sách rất thông dụng."

"Những gì anh nói đúng là rất có lí."

"Vậy là chúng ta đã thu gọn phạm vi vào việc tìm một cuốn sách dày, in hai cột và rất thông dụng."

"Kinh Thánh!" Tôi kêu lên đắc thắng.

"Giỏi, Watson, giỏi! Nhưng chưa đủ giỏi lắm, nếu như tôi có thể nói như vậy! Tôi thật không sao nêu được hà cớ gì một cuốn Kinh Thánh lại nằm sát sườn một kẻ đồng minh của Moriarty. Ngoài ra, Kinh Thánh lại có vô số ấn bản nên y không thể cho rằng có hai ấn bản được đánh số trang giống nhau. Rõ ràng đây phải là một cuốn sách được chuẩn hóa. Y biết chắc chắn trang 534 của y sẽ giống hệt trang 534 của tôi."

"Nhưng rất ít sách phù hợp với tiêu chuẩn đó."

"Chính xác. Sự cứu giúp ta cần nằm ở đó. Việc tìm kiếm của ta giờ thu hẹp vào những pho sách được chuẩn hóa mà bất kì ai cũng có khả năng sở hữu."

"Cuốn Bradshaw."

"Có mấy vấn đề, Watson ạ. Ngữ vựng của cuốn Bradshaw cô đọng, súc tích nhưng có hạn. Khó lòng dùng cuốn này để chọn từ cho những thông điệp khái quát. Ta sẽ loại cuốn Bradshaw ra. Cũng vì lí do đó, tôi e là không chọn một cuốn từ điển. Vậy thì còn lại gì?"

"Cuốn niên giám!"

"Xuất sắc, Watson! Nếu anh mà không đoán trúng thì tôi đi đầu xuống đất. Cuốn niên giám! Ta hãy xem xét cuốn niên giám Whitaker. Cuốn đó thông dụng. Nó đáp ứng yêu cầu về số trang. Nó in hai cột. Tuy lượng từ vựng ở phần đầu không nhiều nhưng nếu tôi nhớ không lầm thì càng về sau càng phong phú." Anh lấy cuốn sách ở bàn làm việc ra. "Đây là trang 534, cột hai, tôi thấy dày đặc chữ viết về chuyện kinh doanh và tài nguyên của Ấn Độ thuộc Anh. Ghi lại các từ đi, Watson! Số 13 là 'Mahratta'. Tôi e không phải là một khởi đầu thuận lợi. Số 127 là 'bán' ít ra cũng có nghĩa, mặc dù chẳng liên quan gì đến chúng ta và giáo sư Moriarty. Giờ cứ thử tiếp xem. Thế Mahratta bán cái gì? Trời! Từ kế tiếp là 'lợn' Chúng ta tiêu rồi, Watson thân mến! Tiêu tùng!"

Anh nói với giọng điệu bỡn cợt nhưng đôi mày rậm đang chau lại kia đã chứng tỏ sự thất vọng và bực tức. Tôi ngồi xụi lơ, rầu rĩ nhìn lò sưởi. Sự im lặng kéo dài bị phá vỡ khi Holmes thốt lên một tiếng rồi phóng tới chiếc tủ nhiều ngăn, và quay trở ra với pho sách bìa vàng thứ hai trong tay.

"Watson, chúng ta sai vì quá cập nhật!" Anh nói to. "Chúng ta đi trước thời đại nên phải lĩnh hậu quả thôi. Hôm nay mới là mùng 7 tháng 1 mà chúng ta đã dùng cuốn niên giám mới nhất rồi. Rất có khả năng là Porlock soạn bức mật thư này theo ấn bản năm ngoái. Nhất định y sẽ cho ta biết điều đó nếu như y viết được thư giải thích như dự định. Bây giờ xem thử trang 534 có gì dành cho ta đây. Số 13 là 'Có', coi bộ nhiều hứa hẹn đấy. Số 127 là 'một'... 'Có một'..." Mắt Holmes sáng rực lên vì phấn khích và những ngón tay thon dài, bồn chồn run run khi đếm số chữ. "... 'hiểm'. Ha ha! Đúng rồi! Ghi lại đi, Watson. 'Có một hiểm... họa... sẽ... sắp... sửa... tới'. Rồi tới cái tên 'Douglas' ta đã biết... Rồi 'giàu... quê... giờ... ở... nhà Birlstone. Birlstone... bị... mật... nguy'. Thấy chưa, Watson? Anh nghĩ sao về sự suy luận thuần túy và kết quả của nó? Nếu tiệm rau quả có bán vòng nguyệt quế, tôi sẽ sai thằng Billy ra mua về một cái."

Tôi nhìn chằm chằm vào nội dung kì quặc trong tờ giấy kê trên đầu gối mà tôi đã ghi nguệch ngoạc theo từng chữ anh giải đoán. Tôi nói, "Truyền đạt ý nghĩa kiểu gì mà xáo trộn kì cục quá chừng!"

"Trái lại, y đã thông báo khá rõ ràng đấy," Holmes nói. "Khi anh tìm chữ trong một cột chữ in duy nhất để diễn đạt ý tưởng, anh không thể mong đợi sẽ có đủ hết các từ anh cần. Anh buộc phải lược bỏ vài chữ nào đó để người nhận tự suy đoán. Ý nghĩa ở đây hoàn toàn rõ ràng. Một chuyện nguy hiểm chết người nào đó đang nhắm tới ông Douglas nào đó, theo nội dung này thì ông ta là một quý ông giàu có ở vùng quê. Chắc chắn y báo 'bí mật' đang gặp nguy nhưng không tìm được chữ 'bí' nên đành dùng 'bị'. Kết quả là đây, và chỉ cần một chút phân tích lành nghề!"

Holmes luôn có niềm thích thú vị kỉ của một nghệ sĩ đích thực khi gặt hái được thành quả tốt hơn, ngay cả khi lòng anh không vui vì kết quả thấp hơn mức mong đợi. Anh còn đang cười thích chí với thành công này thì chú nhóc Billy đã mở toang cửa và đưa thanh tra MacDonald ở Sở Cảnh sát London vào phòng.

Đó là những ngày đầu tiên của năm cuối cùng thập niên 1880, khi Alec MacDonald chưa nổi tiếng khắp nước như bây giờ. Anh ta là một nhân viên trẻ tuổi nhưng được tín nhiệm trong lực lượng thanh tra vì đã thể hiện xuất sắc trong nhiều vụ án được giao phó. Vóc dáng cao, săn chắc của anh ta hứa hẹn một sức lực phi thường, còn hộp sọ to và đôi mắt sâu rực sáng cho thấy rõ một trí tuệ sắc sảo đang ẩn sau đôi mày rậm. Anh ta là người ít lời, kĩ tính, nghiêm nghị và nói đặc giọng vùng Aberdeen.

Có hai lần trong sự nghiệp, Holmes đã giúp cho MacDonald thành công, còn sự tưởng thưởng duy nhất cho riêng anh chỉ là niềm vui trí tuệ của việc phá án. Vì lí do đó, anh chàng Scotland này dành cho người đồng nghiệp tài tử một lòng quý trọng sâu sắc và anh ta bày tỏ bằng một cách rất chân thành là gặp khó khăn gì cũng đều hỏi ý kiến Holmes. Kẻ tầm thường ngoài chính mình ra chẳng hề biết trời cao đất dày; nhưng người tài cán thì nhận biết ngay bậc anh tài. MacDonald đủ tài ba trong nghề để hiểu rằng không có gì phải hổ thẹn khi cầu viện sự trợ giúp của một con người vô song trên khắp Âu châu, cả về tài năng lẫn kinh nghiệm. Holmes không có thói quen kết thân nhưng anh tỏ ra khoan dung với gã Scotland to con này và tươi cười khi thấy MacDonald bước vào.

"Siêng năng thế, ông Mac," Holmes nói. "Chúc ông may mắn săn được mồi. Ông đến sớm thế tôi e là có chuyện gì đây."

"Nếu ông nói 'mong' thay vì 'e' thì sẽ gần với sự thật hơn; tôi nghĩ thế đấy, ông Holmes," viên thanh tra đáp lời với nụ cười toe toét đầy ngụ ý. "Chà, chắc là một chút xíu rượu sẽ xua đi cái buốt giá buổi sáng. Không, tôi không hút thuốc, cảm ơn. Tôi sẽ phải đi gấp vì những giờ phút đầu tiên của một vụ án mới chính là thời gian quý báu và không ai hiểu rõ điều đó hơn là chính ông. Nhưng... nhưng..."

Viên thanh tra đột ngột im bặt và trân trối nhìn với ánh mắt hết sức ngỡ ngàng vào tờ giấy trên bàn. Đó là tờ giấy tôi đã nguệch ngoạc ghi thông điệp bí ẩn kia.

"Douglas!" Anh ta lắp bắp. "Birlstone! Cái gì thế, ông Holmes? Ôi, thật quái đản! Ông lấy những cái tên đó ở đâu ra hở trời?"

"Đó là một mật thư mà bác sĩ Watson và tôi vừa có dịp giải mã. Nhưng tại sao..., mấy cái tên đó có vấn đề gì à?"

Viên thanh tra hết nhìn Holmes lại nhìn tôi với vẻ mặt bàng hoàng sửng sốt. MacDonald nói, "Có đó! Đêm qua ông Douglas ở điền trang Birlstone đã bị giết một cách man rợ."

2. Sherlock Holmes đàm luận

Đó là một trong những khoảnh khắc kịch tính mà vì nó, anh bạn tôi tồn tại. Bảo rằng anh sững sờ hay thậm chí rúng động vì thông báo đáng kinh ngạc đó là nói quá lời. Dù bản tính lập dị của Holmes không hề có một chút tàn nhẫn nào, nhưng anh chắc chắn từ lâu đã vô cảm với những kích thích quá độ. Tuy vậy, cảm xúc của anh dẫu có cùn nhụt thì nhận thức trí tuệ vẫn hết sức sắc bén. Anh không hề tỏ ra kinh hãi như tôi lúc đó mà lại điềm tĩnh tập trung như một nhà hóa học nhìn thấy các tinh thể ngưng tụ từ một dung dịch bão hòa.

"Đáng chú ý! Đáng chú ý!"

"Hình như ông không ngạc nhiên."

"Tôi có quan tâm, ông Mac, nhưng chẳng ngạc nhiên. Sao tôi phải ngạc nhiên chứ? Tôi nhận được bức thư của một kẻ ẩn danh, mà tôi biết là quan trọng, cảnh báo rằng nguy hiểm đang đe dọa một người nào đó. Trong vòng một giờ sau, tôi biết mối nguy hiểm ấy thành sự thật và người đó đã chết. Tôi quan tâm, nhưng như ông thấy đó, tôi không ngạc nhiên."

Bằng vài câu vắn tắt, Holmes giải thích cho viên thanh tra biết về chuyện lá thư và mật mã. MacDonald ngồi, hai tay chống cằm, đôi lông mày vàng rậm chau lại.

"Sáng nay tôi định đi Birlstone," anh ta nói. "Tôi đến hỏi xem ông và bạn ông có thể đi cùng không. Nhưng bây giờ qua những gì ông nói, có lẽ chúng ta ở lại London làm việc thì tốt hơn."

"Tôi không nghĩ thế," Holmes nói.

"Thôi đi, ông Holmes!" Viên thanh tra kêu to. "Một hai ngày nữa báo chí sẽ đăng toàn chuyện bí ẩn ở Birlstone, nhưng bí ẩn nằm ở đâu nếu như ở ngay London này lại có kẻ tiên liệu được tội ác trước khi nó xảy ra chứ? Chúng ta chỉ cần tóm được tên này là biết hết phần còn lại."

"Chắc chắn rồi, ông Mac. Nhưng ông thử nói xem làm sao tóm được kẻ gọi là Porlock này."

MacDonald xoay trở bức thư Holmes đã đưa.

"Gửi từ Camberwell, chẳng có ích gì mấy. Theo ông nói, tên lại là tên giả. Đúng là chẳng có nhiều manh mối. Ông nói là có gửi tiền cho y phải không?"

"Hai lần."

"Bằng cách nào?"

"Tiền mặt gửi tới bưu cục Camberwell."

"Ông có bỏ công xem thử ai đến nhận không?"

"Không."

"Sao lại không?" Viên thanh tra tỏ ra ngạc nhiên và hơi sửng sốt.

"Vì tôi luôn giữ chữ tín. Tôi đã hứa khi lần đầu y viết thư cho tôi là tôi sẽ không truy tìm y."

"Ông nghĩ là có ai đứng đằng sau không?"

"Tôi biết là có."

"Vị giáo sư mà ông đã nhắc tới?"

"Chính xác!"

Thanh tra MacDonald mỉm cười, mi mắt hấp háy khi anh ta liếc nhìn về phía tôi.

"Ông Holmes, không giấu gì ông, Ban Điều tra Hình sự chúng tôi cho rằng ông luôn bận tâm quá mức về vị giáo sư này. Đích thân tôi cũng đã tìm hiểu chút ít. Ông ta có vẻ thuộc hạng người tài giỏi, thông thái và rất đáng kính."

"Tôi mừng là ông ít ra cũng tìm hiểu tới mức đó về tài năng kia."

"Ôi, sao mà không biết chứ! Sau khi nghe quan điểm của ông về người này, tôi quyết định gặp ông ta. Tôi đã tán gẫu với giáo sư về các hiện tượng nguyệt thực và nhật thực. Tôi không hiểu sao cuộc nói chuyện lại đi vào đề tài đó, nhưng ông ta đã bày ra một chiếc đèn tụ quang và một quả địa cầu rồi chỉ trong một phút đã giải thích rõ ràng hết. Ông ta có cho tôi mượn một cuốn sách nhưng tôi không ngại nói rằng cuốn đó hơi cao so với trình độ của tôi dù tôi đã được giáo dục tốt ở Aberdeen. Với gương mặt gầy, mái tóc bạc và cách nói chuyện nghiêm trang, ông ta đúng là mẫu người tuyệt vời để làm mục sư. Lúc chia tay, ông ta đặt tay lên vai tôi cứ như là một người cha cầu phúc cho con mình trước khi nó bước vào thế giới lạnh lùng tàn nhẫn này."

Holmes xoa tay cười khúc khích.

"Hay!" Anh nói. "Hay quá! Nói nghe nào, ông bạn MacDonald, tôi chắc cuộc gặp gỡ cảm động và thú vị ấy diễn ra trong thư phòng của vị giáo sư đó?"

"Đúng là thế."

"Một căn phòng đẹp, phải không?"

"Đúng là đẹp, rất đẹp, ông Holmes."

"Ông ngồi ngay trước bàn giấy?"

"Đúng thế."

"Nắng chiếu vào mặt ông còn người kia ngồi trong bóng tối?"

"Lúc đó là buổi tối, nhưng tôi nhớ là đèn chiếu vào mặt tôi."

"Phải vậy thôi. Thế ông có để ý tới bức tranh treo trên đầu ông giáo sư không?"

"Tôi không bỏ sót gì mấy đâu, ông Holmes. Có lẽ tôi đã học được điều đó từ ông đấy. Có, tôi thấy bức tranh đó, tranh vẽ một thiếu phụ tựa đầu lên hai bàn tay, mắt liếc nhìn người xem tranh."

"Bức đó của Jean Baptiste Greuze."

Viên thanh tra cố tỏ ra quan tâm.

"Jean Baptiste Greuze là một họa sĩ Pháp nổi danh trong những năm 1750 đến 1800." Holmes nói tiếp, chụm các đầu ngón vào nhau và ngả lưng hẳn ra ghế. "Tất nhiên là tôi đang nói về sự nghiệp hội họa của ông ta. Giới phê bình hiện đại đánh giá Greuze cao hơn những họa sĩ cùng thời."

Ánh mắt của viên thanh tra trở nên lơ đãng. Anh ta nói, "Chẳng phải tốt hơn sao nếu ta nói về..."

"Chúng ta đang nói về chuyện đó," Holmes ngắt lời. "Những gì tôi đang nói có tác động quan trọng và rất cụ thể đến vụ mà ông gọi là Bí ẩn Birlstone. Thực tế, xét theo nghĩa nào đó thì đây chính là cốt lõi của vụ này đấy."

MacDonald gượng cười và tôi thấy anh ta đang tỏ vẻ chống chế. "Dòng tư duy của ông đi hơi quá nhanh so với tôi, thưa ông Holmes. Ông loại bớt vài mắt xích khiến tôi không hiểu hết được các mối liên quan. Ông thợ vẽ quá cố đó với vụ Birlstone này thì có can hệ gì hở trời?"

"Mọi kiến thức đều hữu dụng cho nhà thám tử," Holmes nói. "Thậm chí cả một chuyện vặt vãnh là vào năm 1865 một bức tranh của Greuze có tên La Jeune Fille à l'Agneau được bán ra với giá một triệu hai trăm ngàn franc, tức hơn bốn mươi ngàn bảng, ở nhà đấu giá Portalis cũng có thể khởi động cho một chuỗi suy tưởng trong đầu ông."

Quả vậy. Viên thanh tra trông có vẻ chú tâm thật sự. Holmes nói tiếp, "Xin nhắc ông nhớ rằng mức lương của vị giáo sư kia có thể xác định được qua nhiều pho sách tham khảo đáng tin cậy. Bảy trăm bảng Anh một năm."

"Vậy làm sao ông ta có thể mua..."

"Thế đấy! Làm cách nào?"

"À, thật đáng chú ý," viên thanh tra nói với vẻ trầm ngâm. "Nói tiếp đi, ông Holmes. Tôi thật sự muốn nghe. Hay đấy!"

Holmes mỉm cười. Anh lúc nào cũng sôi nổi trước sự ngưỡng mộ chân thành - đặc điểm của một nghệ sĩ đích thực. Anh hỏi, "Thế còn vụ Birlstone thì sao?"

"Chúng ta còn thời gian mà," viên thanh tra vừa nói vừa nhìn đồng hồ trên tay. "Tôi có xe ngựa chờ sẵn ngay cửa và chúng ta mất không đầy hai mươi phút để tới ga Victoria. Nhưng ông Holmes, về chuyện bức tranh thì tôi nhớ có lần ông bảo tôi là ông chưa hề gặp giáo sư Moriarty."

"Đúng, tôi chưa hề gặp."

"Thế làm sao ông biết rõ nhà cửa ông ta được?"

"À, đó là chuyện khác. Tôi đã đến nhà Moriarty ba lần, hai lần chờ gặp hắn với những cái cớ khác nhau nhưng lại ra đi trước khi hắn về nhà. Còn một lần, chà, tôi chưa hề nói về lần đó cho một thanh tra nhà nước nào. Đó là lần cuối cùng, tôi đã tự tiện lục lọi giấy tờ của hắn và thu được nhiều kết quả bất ngờ."

"Ông tìm được cái gì đáng ngờ sao?"

"Hoàn toàn không. Đó là điều khiến tôi kinh ngạc. Tuy nhiên, bây giờ ông đã nhìn thấy vấn đề về bức tranh đó. Điều ấy chứng tỏ hắn rất sung túc. Hắn giàu lên bằng cách nào? Hắn không lấy vợ. Em trai hắn là trưởng ga xe lửa ở miền tây Anh quốc. Chức giáo sư của hắn có thu nhập bảy trăm bảng một năm. Ấy thế mà hắn lại sở hữu một bức tranh của Greuze."

"Sao nữa?"

"Chắc chắn là ngụ ý đã quá rõ."

"Ý ông là giáo sư này có thu nhập rất lớn và ông ta hẳn phải kiếm tiền bằng một cách phi pháp nào đó?"

"Chính xác. Đương nhiên tôi còn nhiều lí do khác để nghĩ như thế; hàng chục sợi tơ mong manh mơ hồ hướng về trung tâm của cái mạng nhện, nơi con vật độc địa đang ẩn náu trong bất động. Tôi chỉ nhắc đến bức Greuze vì nó phù hợp với tầm quan sát của ông về vấn đề này."

"Chà, ông Holmes, phải nhìn nhận là những gì ông nói rất hấp dẫn; còn hơn cả hấp dẫn nữa, phải nói là tuyệt vời. Nhưng nếu được xin ông cho biết rõ hơn chút nữa. In bạc, đúc tiền, đạo chích... tiền đó từ đâu ra?"

"Có bao giờ ông đọc về Jonathan Wild chưa?"

"Chà, cái tên đó nghe quen quen. Một nhân vật tiểu thuyết phải không? Tôi không đọc nhiều tiểu thuyết trinh thám lắm, vì toàn rặt chuyện những thằng cha phá án như thần nhưng không bao giờ cho ta biết họ làm được bằng cách nào. Đó chỉ là hư cấu chứ không phải sự thật."

"Jonathan Wild không phải là thám tử, mà cũng chẳng phải nhân vật tiểu thuyết. Đó là một tên tội phạm hàng đầu, sống vào thế kỉ trước, khoảng những năm 1750 gì đó."

"Vậy thì hẳn chẳng có ích gì cho tôi. Tôi là người thực tế."

"Ông Mac ơi, điều thực tế nhất ông nên làm trong cuộc đời là tự nhốt mình trong phòng suốt ba tháng và đọc lịch sử tội phạm mười hai giờ mỗi ngày. Mọi thứ đều lặp lại theo chu kì, kể cả chuyện giáo sư Moriarty. Jonathan Wild là đầu não của giới tội phạm London, và hắn ta hưởng hoa hồng mười lăm phần trăm để bán trí tuệ và tài tổ chức cho chúng. Bánh xe cứ xoay vòng và đến đúng chu kì thì cái nan hoa ấy lại xuất hiện. Mọi chuyện đã từng xảy ra hết rồi, và sẽ lặp lại. Tôi sẽ kể đôi điều về Moriarty, có thể khiến ông quan tâm."

"Ông sẽ khiến tôi quan tâm, chắc chắn rồi."

"Tình cờ tôi biết được mắt xích đầu tiên trong sợi xích của Moriarty, một sợi xích với một đầu là lão thống soái bất lương còn đầu kia là cả trăm mối, nào là võ sĩ túng bấn, dân móc túi, dân tống tiền và bọn cờ gian bạc lận, gây ra đủ loại tội ác. Cánh tay phải của hắn ta là đại tá Sebastian Moran, một kẻ cũng đứng tách biệt bên ngoài, không dễ đến gần và thận trọng như chính Moriarty. Ông có biết Moriarty trả cho tên này bao nhiêu tiền không?"

"Tôi rất muốn nghe."

"Sáu nghìn bảng Anh một năm. Đó là cái giá của trí tuệ đó, thưa ông; nguyên tắc làm ăn kiểu Mỹ. Rất tình cờ tôi mới biết được chi tiết đó. Cao hơn cả mức lương thủ tướng. Nói thế chắc ông hình dung được tài sản của Moriarty và quy mô hoạt động của hắn rồi nhỉ? Một điểm nữa, gần đây tôi đã quyết tâm truy ra các chi phiếu của Moriarty, chỉ là loại chi phiếu thông thường mà hắn thanh toán cho các loại phí sinh hoạt. Chúng rút tiền từ sáu nhà băng khác nhau. Điều đó khiến ông có ấn tượng gì chăng?"

"Đúng là lạ thật! Thế ông nhìn nhận điều đó như thế nào?"

"Hắn không muốn gây lời đồn đại về tài sản của mình. Hắn không muốn ai biết mình có bao nhiêu tiền. Tôi tin chắc hắn có hai mươi tài khoản nhà băng; phần lớn tài sản nằm ở nước ngoài, rất có thể là ở các nhà băng Deutsche Bank bên Đức hay Crédit Lyonnais bên Pháp. Một lúc nào đó, khi ông có được một hay hai năm rảnh rỗi, tôi đề nghị ông điều tra về giáo sư Moriarty này."

Cuộc nói chuyện càng tiếp diễn thì thanh tra MacDonald càng bị cuốn hút thêm. Mối quan tâm đã khiến anh ta quên mất hiện tại. Nhưng giờ đầu óc thực tế của dân Scotland lại khiến anh ta phải quay lại ngay với vấn đề trước mắt.

"Chuyện đó tính sau vậy," anh ta nói. "Ông làm chúng tôi lạc lối với những giai thoại hấp dẫn của ông đấy, ông Holmes. Điều thật sự đáng kể là ý kiến của ông về mối liên quan giữa vị giáo sư đó và vụ án này, là chuyện ông đã biết trước qua bức thư do một người tên Porlock gửi đến. Với chuyện cấp bách hiện tại, chúng tôi có thể có thêm thông tin gì chăng?"

"Chúng ta có thể hình dung về những động cơ gây án. Theo như nhận xét ban đầu của ông, tôi biết ông cho rằng đây là một án mạng khó hiểu, hay ít ra là khó giải thích. Bây giờ cứ giả sử rằng nguồn cơn gây án là đúng như ta nghi ngờ đi, vậy thì có thể do hai động cơ khác nhau. Thứ nhất, tôi có thể nói với ông rằng Moriarty quản quân với chính sách bàn tay sắt. Hắn trừng phạt thuộc hạ rất nặng. Kẻ phạm lỗi chỉ có đường chết. Giờ ta phải giả định là kẻ vừa bị sát hại - Douglas, mà hay ở chỗ một thuộc cấp của tên tội phạm hàng đầu này lại biết trước định mệnh của người này - đã phản bội thủ lĩnh. Kết quả là Douglas phải bị thanh trừng và cái chết của anh ta cũng là để răn đe kẻ khác."

"Còn động cơ thứ hai, ông Holmes?"

"Thứ hai, việc này do Moriarty sắp đặt sao cho giống một vụ án bình thường. Có bị mất trộm gì không?"

"Tôi không nghe nói gì."

"Nếu có thì sẽ mâu thuẫn với giả thuyết thứ nhất và thích hợp với giả thuyết thứ hai. Có thể Moriarty đứng ra bày mưu tính kế để được chia phần lợi lộc, hoặc cũng có thể hắn được trả thật nhiều tiền để trực tiếp lo liệu vụ này. Cả hai khả năng đều có thể. Nhưng dù là động cơ nào, hay là nếu có một mưu tính thứ ba chăng nữa, thì chúng ta phải tìm lời giải ở dưới Birlstone. Tôi biết rõ Moriarty lắm nên không nghĩ rằng người này để lại ở đây bất kì manh mối gì giúp ta lần đến hắn."

"Vậy thì ta phải đi Birlstone!" MacDonald vừa kêu to vừa nhảy phắt khỏi ghế. "Ối trời, đã muộn thế này rồi à? Vậy, tôi cho quý vị năm phút chuẩn bị và chỉ có thế thôi."

"Thế là quá nhiều cho cả hai chúng tôi," Holmes nói khi anh đứng bật dậy và hấp tấp thay chiếc áo khoác mặc ở nhà bằng áo bành tô. "Ông Mac, khi đi đường tôi mong là ông vui lòng cho tôi biết hết mọi chuyện."

'Hết mọi chuyện' hóa ra lại ít ỏi đến mức thất vọng, thế nhưng cũng đủ đảm bảo rằng vụ này rất đáng để anh bạn chuyên gia của tôi quan tâm sâu sắc. Holmes hăm hở liên tục xoa hai bàn tay thon dài vào nhau trong lúc lắng nghe những chi tiết sơ sài nhưng rất đặc biệt. Nhiều tuần lễ vô vị liên tiếp đã trôi qua và đến bây giờ chúng tôi mới có một mục tiêu thích hợp để cho những năng lực phi thường, giống như mọi thiên khiếu đặc biệt khác, khỏi phải day dứt anh bạn tôi khi chúng bị bỏ mặc. Nếu không hoạt động thì bộ óc sắc bén ấy sẽ cùn mòn, hoen gỉ.

Đôi mắt Sherlock Holmes long lanh, hai gò má xanh tái ửng hồng, và toàn bộ gương mặt hăm hở ngời lên một ánh sáng chỉ phát ra khi có công việc réo gọi. Ngồi trong xe ngựa, anh chồm người tới trước chăm chú lắng nghe MacDonald kể sơ lược về vụ án đang chờ đợi chúng tôi ở hạt Sussex. Tuy nhiên, thông tin bản thân viên thanh tra nắm được lại tới từ tờ trình viết nguệch ngoạc được chuyển đến tay anh ta theo chuyến tàu chở sữa bò lúc trời mờ sáng. White Mason, viên sĩ quan cảnh sát sở tại, là bạn thân của MacDonald nên anh ta được thông báo sớm hơn lệ thường ở Sở Cảnh sát London khi các tỉnh cần trợ giúp. Có điều bức thư gửi đến viên chuyên gia tội phạm này lại tỏa ra hơi hướm lạnh lẽo. Anh ta đọc cho chúng tôi nghe bức thư:

Thanh tra MacDonald thân mến!

Yêu cầu hỗ trợ chính thức nằm trong phong bì khác. Thư này chỉ dành riêng cho anh. Hãy điện cho tôi biết anh có thể đi chuyến tàu sáng nào để tới Birlstone, tôi sẽ đón anh - hoặc cử người đón nếu tôi quá bận. Vụ này rất khó khăn. Đừng phí thời gian khởi động. Nếu anh có thể mời ông Holmes, xin đưa đi cùng, vì ông ấy sẽ tìm thấy nhiều điều đúng như sở thích. Chúng tôi hẳn sẽ cho rằng toàn bộ đã được dàn cảnh để tạo kịch tính nếu như không có một xác chết. Nói thật, vụ này rất khó khăn.

"Bạn ông coi bộ khôn ngoan đó," Holmes nói.

"Đúng, thưa ông, và nếu được nhận xét, tôi sẽ nói White Mason là người rất năng động."

"Chà, thế ông còn biết gì nữa không?"

"Chỉ biết là anh ta sẽ cho chúng ta biết mọi chi tiết khi gặp nhau."

"Vậy thì làm sao ông biết về ông Douglas và chuyện ông ta đã bị giết một cách man rợ?"

"Chuyện đó nằm trong báo cáo chính thức gửi kèm theo. Nó không có từ 'man rợ'; ngành chúng tôi không chính thức công nhận từ đó. Báo cáo cho biết tên nạn nhân là John Douglas. Nó cho biết người này bị vỡ sọ vì sức công phá của một khẩu súng săn. Nó cũng cho biết thời gian báo án là gần nửa đêm hôm qua. Nó cũng nói thêm rằng vụ này chắc chắn là án mạng nhưng chưa bắt được nghi phạm và có tính chất lạ thường rất phức tạp. Đến giờ chúng tôi chỉ biết có thế, ông Holmes à."

"Vậy thì xin phép ông, chúng ta cứ để yên mọi chuyện vậy đi, ông Mac. Cố đưa ra giả thuyết quá sớm trong khi chưa có đủ dữ kiện chính là tai nạn nghề nghiệp của chúng ta đó. Hiện giờ tôi chỉ biết hai điều: Một trí tuệ lớn ở London và một xác chết ở Sussex. Sợi xích nối giữa hai điều đó là thứ chúng ta phải truy tìm."

3. Thảm kịch ở Birlstone

Bây giờ tạm thời tôi xin phép không đưa ý kiến chủ quan chẳng mấy quan trọng của mình, và mô tả các sự kiện đã xảy ra trước khi chúng tôi đến hiện trường theo những gì chúng tôi biết được sau đó. Chỉ bằng cách ấy tôi mới có thể cho độc giả đánh giá được những con người liên quan và bối cảnh kì lạ đã định đoạt số phận của họ.

Birlstone là một ngôi làng nhỏ cổ kính với những ngôi nhà nửa gỗ nửa gạch nằm ở ranh giới phía bắc hạt Sussex. Suốt nhiều thế kỉ, nơi này không hề thay đổi; nhưng chỉ trong vài năm vừa qua, điều kiện và cảnh quan đẹp như tranh ở đây đã thu hút nhiều cư dân giàu có và biệt thự của họ lấp ló giữa những cánh rừng bao quanh. Những cánh rừng này thuộc phần rìa của khu rừng Weald bao la nhưng thưa dần cho đến khi gặp dãy núi đá phấn phía bắc. Một số hàng quán nhỏ đã xuất hiện để đáp ứng nhu cầu của dân số tăng lên, cho nên có vẻ như Birlstone sẽ nhanh chóng từ một ngôi làng cổ trở thành một thị trấn hiện đại. Đây chính là trung tâm của một vùng quê khá rộng lớn bởi vì Tunbridge Wells, thị trấn trọng điểm gần nhất, lại nằm cách xa mười đến mười hai dặm về phía đông, bên kia ranh giới hạt Kent.

Cách thị trấn này chừng nửa dặm, tọa lạc giữa một khu vườn xưa nổi tiếng với những cây sồi cổ thụ là điền trang Birlstone cổ kính. Một phần tòa nhà lâu đời này đã có từ thời Thánh chiến thứ nhất, khi Hugo de Capus xây một pháo đài ngay giữa khu đất được Vua Mặt Đỏ ban cho. Pháo đài bị hỏa hoạn thiêu rụi vào năm 1543, và tới thời Jacobean thì một số viên đá móng ám khói được sử dụng lại để xây một điền trang bằng gạch trên phế tích của lâu đài phong kiến xưa kia. Điền trang Birlstone với nhiều mái đầu hồi và những cửa sổ với chấn song đan chéo hầu như vẫn y nguyên như lúc xây dựng đầu thế kỉ mười bảy. Trong hai hào nước bảo vệ khuôn viên này vào thời chiến chinh xưa, hào phía ngoài bây giờ được để cho cạn khô và giữ vai trò khiêm nhường của một vườn rau phục vụ nhà bếp. Hào bên trong vẫn còn nước, rộng chừng bốn mươi foot, nhưng chỉ còn sâu vài foot, bao quanh toàn bộ ngôi nhà. Một con suối nhỏ ăn thông với hào nước và tiếp tục chảy ra bên ngoài, do đó nước trong hào tuy đục ngầu nhưng không hề là nước tù đọng hay độc hại. Các cửa sổ tầng một chỉ cách mặt nước hào chừng một foot. Lối duy nhất để vào nhà là đi qua cây cầu rút, xích và trục tời đã gỉ sét, hư hỏng từ lâu. Tuy nhiên, những người mới đến ngụ cư ở lâu đài đã sửa chữa và giờ cây cầu rút không những dùng được mà còn được kéo lên mỗi tối và hạ xuống mỗi sáng. Do phục hồi lề thói thời phong kiến như thế nên hễ đêm đến, điền trang Birlstone lại biến thành ốc đảo - một dữ kiện có liên quan trực tiếp đến chuyện bí ẩn mà chẳng bao lâu sau đã thu hút sự chú ý của cả Anh quốc này.

Lâu đài đã không có ai cư ngụ suốt nhiều năm và khi nhà Douglas sở hữu thì nó đã sắp hóa thành một phế tích đẹp như tranh. Gia đình này chỉ có hai người - John Douglas và vợ. Douglas khác thường, cả trong tính cách lẫn bề ngoài, ông ta trạc năm mươi tuổi, mặt gân guốc, cằm bạnh, bộ ria điểm bạc, đôi mắt xám sắc bén lạ lùng, và thân hình dẻo dai, cường tráng không hề mai một sức mạnh và sự nhanh nhẹn của tuổi trẻ. Ông vui vẻ, hòa nhã với mọi người nhưng thái độ có phần hơi suồng sã khiến người ta có cảm giác rằng ông từng sống trong những tầng lớp xã hội thấp kém hơn cộng đồng hạt Sussex. Dù khiến các láng giềng nhiều học thức phải tò mò và e dè, Douglas nhanh chóng nổi như cồn trong đám dân làng nhờ đóng góp hậu hĩnh cho mọi mục đích chung và chăm chỉ tham gia những buổi hòa nhạc nồng khói thuốc cũng như các hoạt động khác. Nhờ có giọng nam cao ngân vang đặc biệt, trong những dịp này ông luôn sẵn sàng chiếu cố hát một bài tuyệt hay. Có vẻ ông lắm tiền nhiều của, nghe đâu là do ông kiếm được ở các mỏ vàng bên California, và chính miệng ông cũng như từ vợ ông nói ra là Douglas đã có một quãng đời sống bên Mỹ. Cái ấn tượng tốt từ lòng hào phóng và cung cách xởi lởi của ông được tăng thêm do ông nổi tiếng bạt mạng. Dù là một tay kị mã tồi, nhưng Douglas luôn có mặt ở mọi cuộc tụ họp và ngã những cú ngoạn mục nhất trong những lần quyết ganh đua với những người giỏi nhất. Khi nhà của mục sư bị cháy, ông một lần nữa đã chứng tỏ lòng gan dạ khi lao vào trong tòa nhà để cứu tài sản lúc đội cứu hỏa địa phương đã bó tay bất lực. Cho nên chỉ trong vòng năm năm, John Douglas ở điền trang Birlstone đã thành người lừng danh trong vùng.

Vợ ông cũng được lòng những ai đã quen biết bà, nhưng ngoài ra theo thông lệ của người Anh thì rất hiếm khi có khách đến viếng thăm một người xa lạ sống cùng địa hạt. Điều này chẳng vấn đề gì mấy đối với bà vì bà vốn sống khép kín và có vẻ chỉ chuyên tâm chăm lo cho chồng cùng việc nhà. Được biết bà là con nhà quyền quý ở Anh quốc và đã gặp Douglas ở London, vào lúc đó ông đang góa vợ. Bà Douglas là một giai nhân có vóc cao dáng mảnh, da ngăm, trẻ hơn chồng chừng hai mươi tuổi; sự cách biệt tuổi tác dường như không ảnh hưởng gì đến cuộc sống gia đình viên mãn của họ. Tuy nhiên, những ai biết rõ vợ chồng Douglas nhất thỉnh thoảng cũng nói rằng giữa hai người không có sự tin cậy hoàn toàn, bởi vì người vợ hoặc là rất ít nhắc đến quá khứ của chồng, hoặc có thể không được biết đầy đủ về quãng đời đó. Vài người tinh ý đã thấy và nhận xét rằng nhiều lúc bà Douglas lộ vẻ căng thẳng và tỏ ra hết sức lo lắng nếu như người chồng vắng nhà, hoặc nhất là khi ông trở về quá muộn. Ở vùng quê tĩnh lặng, nơi mọi chuyện ngồi lê đôi mách đều được hoan nghênh, sự yếu đuối của nữ chủ nhân điền trang này không thể thoát khỏi bị soi mói, và lại càng bị bàn tán ác hơn khi sự việc kinh khủng kia xảy ra.

Còn một người khác nữa ở trong lâu đài đó. Tuy chỉ thỉnh thoảng ghé đến, nhưng sự hiện diện của người này vào lúc xảy ra sự việc lạ lùng sắp được kể lại dưới đây đã khiến danh tính của ông ta được đông đảo bàn dân thiên hạ biết đến. Đó là Cecil James Barker, đến từ Hales Lodge, Hampstead. Người ta thường thấy thân hình cao lớn dẻo dai của Cecil Barker trên con lộ chính của làng Birlstone bởi ông ta là vị khách quen và được nghênh đón ở điền trang. Người ta càng để ý đến Barker hơn nữa vì ông ta là người bạn duy nhất trong đoạn quá khứ bí ẩn của ông Douglas - dân làng chỉ biết đến một Douglas mới tới sống tại vùng quê Anh quốc này. Bản thân Barker chắc chắn là dân Anh; nhưng theo lời ông ta thì rõ ràng Barker quen biết Douglas ở Mỹ và cả hai đã rất thân thiết từ hồi sống bên đó. Barker có vẻ khá giàu có và hình như sống độc thân. Về tuổi tác, ông ta trẻ hơn Douglas - chừng bốn lăm là cùng. Ông ta cao dong dỏng, ngực nở, mày râu nhẵn nhụi, mặt như võ sĩ, lông mày đen đậm và đôi mắt đen đầy uy quyền mà ông chỉ cần lừ một cái, chứ chẳng cần đụng tay đụng chân cũng có thể khiến cả đám thù nghịch phải nhường bước. Barker không cưỡi ngựa hay đi săn mà thường ngậm tẩu thuốc và tha thẩn cả ngày quanh ngôi làng cổ hoặc ngồi xe ngựa cùng gia chủ - nếu Douglas vắng nhà thì đi cùng nữ gia chủ - thăm thú khắp vùng quê tươi đẹp. "Một quý ông hòa nhã, hào phóng", ông quản gia Ames nhận xét. "Nhưng nói thật! Khôn hồn thì đừng có chọc giận ông ta!"Barker rất thân với Douglas, và cũng thân với bà chủ không kém - một mối thân tình không ít lần khiến người chồng bực tức đến độ ngay cả đám gia nhân cũng nhận thấy. Đó là nhân vật thứ ba có mặt trong nhà khi tai họa ập đến.

Còn về những người cư ngụ khác ở ngôi nhà cổ đó thì ta chỉ cần nhắc tới ông Ames nghiêm nghị, đáng kính và thạo việc, cùng với bà Allen, một người vui tính hoạt bát đỡ đần việc nhà cho nữ gia chủ. Sáu người hầu còn lại trong nhà này không liên quan gì đến các biến cố của đêm 6 tháng 1.

Lúc 11 giờ 45, đồn cảnh sát nhỏ trong vùng do hạ sĩ Wilson của Sở Cảnh sát Sussex phụ trách nhận được báo án. Quá hốt hoảng, Cecil Barker đã chạy ào đến tận cửa rung chuông náo loạn. Một thảm kịch khủng khiếp đã xảy ra ở điền trang, John Douglas đã bị sát hại. Tin tức tới làm ai nấy đều sửng sốt. Barker sấp ngửa quay về nhà, mấy phút sau viên hạ sĩ cảnh sát cũng đi theo và đến hiện trường vụ án quá 12 giờ một chút, sau khi nhanh chóng làm các thủ tục báo cáo với giới thẩm quyền trong địa hạt là có chuyện nghiêm trọng đang diễn ra.

Khi tới điền trang, viên hạ sĩ thấy cây cầu rút đã hạ xuống, các cửa sổ sáng đèn, và toàn bộ người trong nhà đều trong trạng thái hoang mang hốt hoảng. Đám gia nhân mặt tái xanh đứng xúm tụm trong tiền sảnh còn ông quản gia sợ hãi đứng vặn vẹo hai bàn tay ngay ngưỡng của. Chỉ có Cecil Barker là kiểm soát được cảm xúc; ông ta mở cánh cửa gần cổng vào nhất và ra hiệu cho viên hạ sĩ đi theo. Ngay lúc đó bác sĩ Wood đến, ông này là một bác sĩ đa khoa giỏi và nhanh nhẹn trong làng. Cả ba cùng đi vào căn phòng tai họa trong lúc người quản gia khiếp hãi bén gót theo sau, đóng sập cánh cửa lại để đám hầu gái khỏi thấy cảnh tượng kinh khủng bên trong.

Người chết nằm ngửa, tay chân dang rộng ngay giữa phòng. Ông ta chỉ mặc chiếc áo choàng màu hồng khoác ngoài bộ đồ ngủ. Đôi bàn chân trần xỏ trong đôi dép rơm. Chỉ cần nhìn qua nạn nhân vị bác sĩ cũng biết sự hiện diện của mình là không cần thiết. Nạn nhân đã lĩnh một thương tích khủng khiếp. Nằm ngang ngực xác chết là một vũ khí kì lạ, một khẩu súng săn hai nòng cưa ngắn chỉ còn cách cò súng chừng một foot. Rõ ràng khẩu súng đã bắn ở cự li gần và nạn nhân hứng trọn lực công phá vào mặt, nên cái đầu gần như nát bấy. Hai cò súng đã được buộc với nhau để đôi nòng súng nã đạn đồng thời và tăng thêm sức sát thương.

Viên cảnh sát vùng quê mất tự tin và lo ngại trách nhiệm quá lớn lao mà đột nhiên ông ta phải gánh vác. "Chúng ta không được đụng vào bất cứ cái gì khi thượng cấp của tôi chưa đến," ông ta hạ giọng nói khẽ, ánh mắt e dè nhìn cái đầu dễ sợ kia.

"Cho tới giờ mọi thứ vẫn nguyên trạng," Cecil Barker nói. "Tôi xin bảo đảm. Ông thấy mọi thứ đúng y như lúc tôi phát hiện."

"Phát hiện lúc nào?" Viên hạ sĩ rút sổ tay ra.

"Đúng 11 giờ rưỡi. Tôi còn chưa thay đồ và đang ngồi bên lò sưởi phòng ngủ thì nghe tiếng súng. Tiếng nổ không lớn lắm, dường như bị nghẹt lại. Tôi chạy ào xuống... Chỉ sau đó ba mươi giây là tôi đã vào phòng này."

"Cửa có mở không?"

"Có, cửa mở. Lúc đó ông Douglas xấu số nằm đúng y như ông thấy đó. Cây nến phòng ngủ của ông ấy còn cháy sáng trên bàn. Mấy phút sau đó chính tôi là người thắp ngọn đèn này lên."

"Ông không hề thấy ai?"

"Không. Tôi nghe tiếng bà Douglas đang xuống cầu thang ở đằng sau nên tôi chạy ào ra, không cho bà trông thấy cảnh tượng ghê sợ này. Bà giúp việc Allen đưa bà chủ đi chỗ khác. Ames cũng đã tới và chúng tôi quay trở lại căn phòng này."

"Nhưng tôi biết chắc là cây cầu rút được kéo lên suốt đêm."

"Đúng, cầu đã kéo lên cho tới khi tôi hạ nó xuống."

"Vậy thì kẻ sát nhân làm sao tẩu thoát được chứ? Không thể có chuyện đó! Ông Douglas hẳn là tự bắn mình rồi."

"Lúc đầu chúng tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng nhìn đây này!" Barker kéo rèm cửa qua một bên và cho thấy ô cửa sổ dài có chấn song đan chéo được mở rộng. "Và xem đây!" Ông ta hạ chiếc đèn xuống gần và soi vào một dấu máu trông giống hình đế giày trên bệ cửa sổ gỗ. "Có kẻ đã bước lên đây để tẩu thoát ra ngoài."

"Ý ông là có kẻ đã lội qua hào nước?"

"Chính xác!"

"Nếu ông vào phòng này ngay sau khi xảy ra vụ án chỉ có nửa phút thì kẻ này ngay lúc đó nhất định còn ở dưới hào nước."

"Tôi tin chắc như thế. Trời ơi, ước gì lúc đó tôi đã chạy ngay tới cửa sổ này! Nhưng tấm rèm thì che kín như ông thấy, và tôi cũng không hề nghĩ ra điều đó. Rồi tôi nghe tiếng chân của bà Douglas, và tôi không thể để cho bà ấy vào phòng này. Bà ấy mà thấy thì kinh khủng quá."

"Quá kinh khủng!" Vị bác sĩ lên tiếng, mắt nhìn cái đầu nát bấy và những dấu vết ghê rợn chung quanh đầu. "Tôi chưa bao giờ thấy một thương tích như thế này kể từ khi xảy ra vụ đụng tàu hỏa ở Birlstone."

"Nhưng mà này!" Viên hạ sĩ cảnh sát mở lời, nhận thức chậm chạp quê mùa của ông ta vẫn đang suy nghĩ về ô cửa sổ mở. "Ông nói kẻ nào đó tẩu thoát bằng cách lội qua hào nước thì cũng được đi, nhưng tôi muốn hỏi ông là nếu cầu đã kéo lên thì làm sao hắn đi vào nhà được chứ?"

"À, đó là vấn đề," Barker nói.

"Thế cầu kéo lên lúc mấy giờ?"

"Gần 6 giờ." Ông quản gia Ames đáp.

"Tôi có nghe nói cây cầu đó thường được kéo lên lúc hoàng hôn. Như vậy vào mùa này phải kéo lên lúc gần 4 giờ rưỡi chứ đâu phải 6 giờ."

"Bà Douglas có khách đến dùng trà," Ames nói. "Khách chưa về thì tôi đâu thể kéo cầu lên được. Chính tôi quay trục tời lên mà."

"Vậy thì thế này," viên hạ sĩ nói. "Nếu có ai ở ngoài đi vào, nếu đúng là thế, họ phải băng qua cầu mà vào trước 6 giờ và ẩn nấp từ lúc đó cho tới khi ông Douglas vào phòng này sau 11 giờ."

"Hẳn thế rồi! Ông Douglas đêm nào cũng đi vòng quanh nhà một lần cuối trước khi đi ngủ để xem đèn đuốc tắt cả chưa. Cho nên ông ấy mới vào phòng này. Kẻ đó đã chực sẵn và bắn ông ấy. Rồi hắn thoát qua ngả cửa sổ, bỏ lại khẩu súng. Tôi suy đoán như thế vì không có cách nào khác phù hợp với mọi dữ kiện."

Viên cảnh sát nhặt tấm thiếp nằm trên sàn cạnh bên tử thi lên xem. Trên tấm thiếp là hai chữ tắt V.V, bên dưới là số 341 viết tháu bằng bút mực.

"Gì thế này?" Ông ta vừa giơ lên vừa hỏi.

Barker nhìn với vẻ tò mò rồi nói, "Giờ tôi mới thấy đó. Chắc là tên sát nhân đã bỏ lại đấy thôi."

"V.V, 341. Không thể hiểu được." Viên hạ sĩ cứ xoay trở tấm thiếp trên những ngón tay to bè của mình. "V.V. là gì? Chắc là viết tắt tên ai đó. Ông tìm được cái gì thế, bác sĩ Wood?"

Đó là một cái búa cỡ lớn nằm sẵn trên tấm thảm phía trước lò sưởi - một cái búa to nặng của dân thợ. Cecil Barker chỉ chiếc hộp đựng đinh đầu đồng trên bệ lò sưởi, "ông Douglas hôm qua có đổi chỗ treo mấy bức tranh này," ông ta nói. "Chính tôi thấy ông ấy đứng trên cái ghế đó và chỉnh lại bức tranh lớn treo bên trên. Vì thế mà có cái búa này."

"Tốt nhất chúng ta cứ để cái búa lại trên tấm thảm như lúc nãy đi," viên hạ sĩ vừa nói vừa gãi đầu lúng túng. "Muốn hiểu thấu đáo vụ này phải cần tới những bộ óc giỏi nhất trong ngành cảnh sát. Phải cầu viện tới London mới xong." Ông ta giơ cao chiếc đèn cầm tay và đi từ từ quanh phòng. "A!" Ông ta kêu lên phấn khởi, tay kéo rèm cửa sổ sang một bên. "Mà tấm rèm này buông xuống lúc mấy giờ?"

"Khi tới giờ thắp đèn," ông quản gia nói. "Sau 4 giờ một chút."

"Nhất định đã có người ẩn nấp ở đây," viên hạ sĩ hạ thấp chiếc đèn xuống và ở một góc bệ cửa sổ hiện rõ những dấu giày vấy bùn. "Tôi buộc phải nói là những dấu vết này phù hợp với giả thuyết của ông, ông Barker ạ. Hình như kẻ này đã vào nhà sau 4 giờ khi đã buông rèm, và trước 6 giờ khi cầu đã kéo lên. Hắn lẻn vào phòng này vì đây phòng đầu tiên hắn thấy. Không có chỗ nào khác để ẩn nấp nên hắn chui vào sau tấm rèm này. Mọi việc có vẻ khá rõ ràng. Rất có khả năng hắn chỉ định ăn trộm, nhưng vì bị ông Douglas tình cờ bắt gặp nên hắn sát hại ông ta rồi tẩu thoát."

"Tôi cũng suy đoán như thế," Barker nói. "Nhưng mà này, chúng ta không phí phạm thời gian đấy chứ? Chúng ta không thể tiến hành truy lùng khắp vùng này trước khi tên đó trốn thoát sao?"

Viên hạ sĩ ngẫm nghĩ một lúc.

"Không có chuyến tàu nào chạy trước 6 giờ sáng cho nên hắn không thể trốn đi bằng tàu hỏa được. Nếu hắn đi bằng đường bộ với bộ dạng ướt sũng nước thì người ta sẽ chú ý. Dù sao tôi cũng không thể rời khỏi nơi này khi chưa có người đến thay phiên. Nhưng tôi nghĩ không ai trong các ông nên đi đâu cho tới khi nào chúng tôi xác định vấn đề rõ ràng hơn."

Ông bác sĩ đón lấy chiếc đèn và xem xét thật kĩ lưỡng xác chết. Ông hỏi, "Dấu gì thế này? Có thể liên quan đến tội ác này chăng?"

Cánh tay phải của người chết từ trong chiếc áo khoác duỗi thẳng ra ngoài, phơi trần đến tận khuỷu. Lưng chừng cánh tay là một dấu hiệu kì lạ màu nâu, một hình tam giác nằm trong một hình tròn, rành rành trên nước da màu mỡ lợn.

"Không phải hình xăm," bác sĩ vừa nói vừa nhìn chăm chú qua đôi mắt kính. "Tôi chưa hề thấy cái gì như thế này. Người này từng bị đóng dấu bằng sắt nung như người ta đóng dấu trâu bò. Dấu này có ý nghĩa gì chứ?"

"Tôi không dám nói là tôi biết ý nghĩa của nó," Cecil Barker nói, "nhưng tôi đã thấy dấu này trên cánh tay ông Douglas nhiều lần trong mười năm qua."

"Tôi cũng vậy," người quản gia lên tiếng. "Nhiều lần ông chủ xắn tay áo lên và tôi đã thấy đúng cái dấu đó. Tôi cũng từng thắc mắc không biết đó là dấu gì."

"Vậy thì nó cũng chẳng liên quan gì đến vụ án này đâu," viên hạ sĩ nói. "Nhưng dù sao cũng là điều kì lạ. Mọi thứ dính dáng đến vụ này đều kì lạ. Chà, cái gì nữa đây?"

Ông quản gia kêu to một tiếng ngạc nhiên và chỉ vào bàn tay xòe ra của người chết.

"Chúng lấy mất chiếc nhẫn cưới của ông ấy rồi!" Ames nói không thành lời.

"Sao?"

"Dạ, đúng vậy. Ông chủ luôn đeo chiếc nhẫn cưới vàng trơn trên ngón tay út bên trái rồi thêm chiếc nhẫn có nạm miếng vàng thô kia bên trên, còn ngón giữa đeo nhẫn chạm hình rắn trườn. Nhẫn vàng thô với nhẫn con rắn còn đó nhưng nhẫn cưới mất tiêu rồi."

"Ông ấy nói đúng," Barker xác nhận.

"Ông bảo là chiếc nhẫn cưới đeo dưới chiếc kia sao?"

"Luôn luôn!"

"Thế thì tên sát nhân, dù hắn là ai, trước hết phải tháo chiếc nhẫn vàng thô ra, rồi tới nhẫn cưới, và sau đó lại đeo chiếc nhẫn vàng thô vào."

"Đúng là thế!"

Vị cảnh sát vùng quê lắc đầu.

"Tôi thấy có vẻ như chúng ta nên nhờ Sở Cảnh sát London giúp vụ này càng sớm càng tốt," ông nói. "Ông White Mason là người nhanh trí. Lâu nay không có việc nào trong vùng này là quá sức ông ta. Chẳng bao lâu nữa ông ta sẽ đến đây hỗ trợ chúng ta. Nhưng tôi nghĩ rằng muốn làm rõ vụ này thì phải cầu viện London thôi. Dù sao tôi cũng không hề ngại khi nói rằng vụ này quá khó hiểu đối với những người như tôi."

4. Bóng tối

Lúc 3 giờ sáng, nhận được cấp báo của hạ sĩ Wilson từ Birlstone, chánh thanh tra hạt Sussex đã đến trên một cỗ xe nhỏ do một con ngựa phi muốn đứt hơi kéo. Theo chuyến tàu 5 giờ 45 sáng, thư ông ta gửi đã kịp tới Sở Cảnh sát London, và lúc 12 giờ trưa đã có mặt ở ga Birlstone đón chúng tôi. White Mason là người có vẻ xuề xòa, không cầu kì hình thức mặc bộ vét vải tuýt thùng thình, mặt đỏ hồng, râu cạo nhẵn, thân hình hơi béo, và đôi chân vòng kiềng chắc khỏe quấn xà cạp; ông trông như một tiểu điền chủ, một người gác rừng về hưu, hoặc bất cứ ai trên đời này, ngoại trừ là một sĩ quan điều tra đầy triển vọng ở địa phương.

"Vụ này quả hết sức khó khăn, anh MacDonald!" Ông ta cứ lặp lại mãi câu đó. "Bọn báo chí mà biết chuyện sẽ bu về đây như ruồi. Tôi hi vọng chúng ta sẽ phá xong án trước khi chúng chõ mũi vào đây và làm xáo trộn hết mọi dấu vết. Tôi chưa từng thấy vụ nào như thế này. Sẽ có đôi điều khiến ông quan tâm đó, thưa ông Holmes, nếu tôi không lầm. Và cả ông nữa, thưa bác sĩ Watson, bởi vì cũng cần có ý kiến của giới y khoa thì việc mới xong. Phòng trọ của các ông ở Westville Arms. Không còn chỗ nào khác cả; dù sao tôi cũng nghe nói chỗ đó sạch sẽ và đàng hoàng. Người này sẽ mang hành lí cho các ông. Xin vui lòng đi lối này, thưa quý ông."

Viên thanh tra hạt Sussex này quả là người nhiệt tình và tất bật. Trong vòng mười phút, cả ba chúng tôi đều tìm được chỗ ở của mình. Thêm mười phút nữa là chúng tôi đã an vị ở sảnh đón khách của lữ quán và được chiêu đãi bằng một bản tóm tắt nhanh những sự kiện đã được kể ở chương trước. MacDonald thỉnh thoảng ghi chép trong khi Holmes ngồi chăm chú, với vẻ mặt vừa ngạc nhiên vừa ngưỡng mộ cung kính như một nhà thực vật học đang quan sát một loài hoa quý hiếm.

"Đáng chú ý!" Anh nói khi câu chuyện được kể xong. "Hết sức đáng chú ý! Tôi không thể nhớ được vụ nào có tình tiết khác thường như vậy."

"Tôi cũng nghĩ ông sẽ nói như thế đó, ông Holmes," White Mason thích thú đáp lời. "Ở Sussex chúng tôi cùng theo dõi thời sự kĩ lắm. Bây giờ tôi đã kể các diễn tiến trước lúc tôi đến trực hiện trường thay cho hạ sĩ Wilson trong khoảng từ 3 đến 4 giờ sáng nay. Nói thật! Tôi bắt con ngựa già chạy như điên! Nhưng hóa ra tôi không cần phải gấp gáp như thế, bởi vì chẳng có việc gì cụ thể cho tôi làm cả. Hạ sĩ Wilson đã nắm hết mọi chi tiết. Tôi đã kiểm tra, xem xét và có thể bổ sung thêm vài dữ kiện của riêng mình."

"Dữ kiện gì?" Holmes háo hức hỏi ngay.

"À, trước tiên tôi kiểm tra cái búa. Có bác sĩ Wood ở đó phụ giúp tôi. Chúng tôi không hề thấy dấu vết bạo lực nào trên đó cả. Tôi cứ hi vọng là ông Douglas đã dùng cái búa đó tự vệ và có thể để lại dấu vết đả thương tên sát nhân trên búa trước khi buông nó xuống tấm thảm. Nhưng chẳng hề có dấu vết gì."

"Điều đó tất nhiên chẳng chứng minh được gì cả," thanh tra MacDonald nhận xét. "Đã có nhiều vụ án mạng bằng búa mà không hề có dấu vết trên cái búa."

"Đúng thế. Không chứng minh được là cái búa đã không được dùng tới. Nhưng nếu như có dấu vết gì thì hẳn đã có ích cho chúng ta rồi. Thực tế là không hề có. Sau đó tôi kiểm tra khẩu súng, vỏ đạn là loại đạn săn thú lớn, và như hạ sĩ Wilson đã xác định, hai cò súng đã được chằng vào nhau cho nên nếu siết cò thì cả hai nòng đều nã đạn. Người nào chỉnh súng như thế rõ ràng đã rắp tâm giết nạn nhân bằng được. Khẩu súng bị cưa nòng chỉ còn dài không tới hai foot; người ta có thể dễ dàng giấu trong áo khoác mang theo. Súng không hề có nhãn hiệu nhưng có mấy chữ P-E-N in trên rãnh giữa hai nòng súng, phần còn lại của nhãn hiệu này đã bị cưa cụt."

"Một chữ P hoa lớn có nét vòng bay bướm trên đầu còn chữ EN nhỏ hơn phải không?" Holmes hỏi.

"Chính xác."

"Đó là Pennsylvania Small Arms Company, một hãng nổi tiếng của Mỹ," Holmes nói.

White Mason trố mắt nhìn anh bạn tôi chẳng khác gì một thầy lang vườn nhìn một chuyên gia ở phố Harley, người chỉ bằng một lời nói đã hóa giải hết mọi nan đề khiến ông ta bối rối.

"Thật là quý hóa quá, ông Holmes. Chắc chắn ông đúng rồi. Tuyệt thật! Tuyệt thật! Ông nhớ hết nhãn hiệu của mọi loại súng ống trên đời này sao?"

Holmes khoát tay tỏ ý không muốn nói tới chuyện này.

"Chắc chắn đây là khẩu súng săn của Mỹ," White Mason nói tiếp. "Hình như tôi đã đọc ở đâu đó rằng kiểu súng săn cưa nòng là loại vũ khí thường dùng ở nhiều nơi bên Mỹ. Dù không biết nhãn hiệu trên nòng súng, tôi cũng nghĩ tới chuyện đó. Rồi lại có thêm bằng chứng rằng kẻ đã vào nhà giết gia chủ là một người Mỹ."

MacDonald lắc đầu bảo, "Ô kìa, đúng là anh đi quá nhanh đấy. Tôi còn chưa biết có gì chứng minh là đã có người lạ vào ngôi nhà đó cơ mà."

"Cửa sổ mở, dấu máu trên bệ cửa, tấm danh thiếp kì lạ, dấu giày tại góc phòng, khẩu súng!"

"Hết thảy những thứ đó đều có thể dàn dựng được hết. Ông Douglas là người Mỹ, hoặc đã sống rất lâu ở Mỹ. Ông Barker cũng vậy. Anh đâu cần phải nhập cảnh thêm một người Mỹ từ bên ngoài vào để lí giải cho những hành vi kiểu Mỹ."

"Ames, người quản gia..."

"Người đó thì sao? Ông ta có đáng tin không?"

"Đã từng sống mười năm với ngài Charles Chandos, rất đáng tin cậy. Ông này đã làm việc cho Douglas từ khi Douglas mua điền trang năm năm trước. Ames chưa từng thấy khẩu súng như vậy trong nhà."

"Súng được cưa cụt nòng để tiện bề cất giấu. Có thể bỏ gọn trong bất kì chiếc hộp nào. Làm sao ông ta có thể bảo đảm là trong nhà không hề có khẩu súng như thế?"

"Chà, dù sao thì ông ta cũng chưa bao giờ thấy nó."

MacDonald bướng bỉnh lắc đầu nguầy nguậy.

"Tôi không tin là có ai vào nhà," anh ta nói. Khi mải mê tranh luận MacDonald lại càng mang nặng khẩu âm Aberdeen. "Tôi muốn anh xem xét lại những gì liên quan nếu như anh cho rằng khẩu súng đó được mang vào nhà và mọi chuyện lạ lùng này do một người bên ngoài thực hiện. Này anh, không thể tin nổi! Hoàn toàn trái ngược với lẽ thường! Ông Holmes ơi, qua những gì đã biết thì tôi muốn nghe ý kiến của ông."

"Ông cứ trình bày lí lẽ của ông đi, ông Mac," Holmes nói với kiểu cách như một quan tòa.

"Cứ cho hung thủ là người ngoài đi thì tên này cũng không phải kẻ trộm. Cái nhẫn và tấm danh thiếp cho thấy đây là vụ giết người vì lí do riêng nào đó. Đây là một kẻ lẻn vào nhà với mưu đồ giết người. Nếu biết suy nghĩ, hắn sẽ biết rằng mình sẽ khó tẩu thoát vì tòa nhà này có hào nước bao quanh. Hắn sẽ chọn loại vũ khí gì? Ông sẽ nói là loại vũ khí khẽ khàng nhất trên đời. Và rồi hắn có thể hi vọng là khi hành động xong sẽ nhanh chóng lẻn qua cửa sổ, lội qua hào nước và ung dung tẩu thoát. Điều đó dễ hiểu. Nhưng chuyện hắn bỏ công sức mang theo thứ vũ khí ồn ào nhất có thể chọn được, thừa biết tiếng súng sẽ khiến mọi người trong nhà chạy tới ngay lập tức, và chắc chắn là người ta sẽ nhìn thấy hắn trước khi hắn kịp vượt qua hào nước, thì có dễ hiểu chăng? Ông có tin được không, ông Holmes?"

"Chà, lập luận của ông rất vững chắc," anh bạn tôi trầm ngầm đáp lại. "Vụ này đúng là cần phải suy xét thật kĩ càng. Cho phép tôi hỏi nhé, White Mason, ông có kiểm tra ngay phía bên kia hào nước để xem có dấu vết nào của một người từ dưới nước trèo lên không?"

"Không hề có dấu vết gì, ông Holmes. Bờ bên kia là một kè đá, không hi vọng tìm thấy dấu vết."

"Không có dấu chân hay vết tích nào sao?"

"Không hề."

"A! Ông White Mason, chắc ông không phản đối chuyện chúng tôi muốn tới ngôi nhà đó ngay chứ? Rất có thể sẽ tìm ra vài chi tiết nhỏ cho thấy manh mối."

"Tôi cũng định để nghị thế đấy, ông Holmes, nhưng tôi nghĩ tốt nhất là nên cho ông biết qua mọi thông tin trước khi chúng ta đi. Tôi chắc là nếu ông nảy ra ý tưởng gì..." White Mason nhìn nhà thám tử nghiệp dư với vẻ hồ nghi.

"Tôi đã từng làm việc với ông Holmes trước đây," thanh tra MacDonald nói. "Ông ấy chơi được lắm."

"Dù sao, để tôi nói rõ về cách chơi của tôi," Holmes nói, nở một nụ cười. "Tôi tham gia một vụ nào đó là để giúp công lí được thực thi và cũng để hỗ trợ công việc của cảnh sát. Nếu có khi nào tôi điều tra riêng rẽ với lực lượng cảnh sát thì đó là bởi họ đã đẩy tôi ra ngoài trước. Tôi không hề muốn tạo tiếng tăm bằng cách gây bất lợi cho họ. Đồng thời, ông White Mason à, tôi đòi hỏi quyền được làm việc theo cách riêng của mình và chỉ thông báo kết quả khi nào tôi muốn - toàn bộ kết quả chứ không phải từng giai đoạn."

"Tôi chắc chắn là mọi người đều hân hạnh vì sự hiện diện của ông và sẽ cho ông biết hết những gì chúng tôi biết," White Mason nói chân thành. "Đi luôn nhé, bác sĩ Watson, chúng tôi ai cũng muốn được nhắc tới trong truyện của ông vào lúc nào đó thích hợp."

Chúng tôi tản bộ theo con đường làng duyên dáng, với hai bên là hai hàng cây du xén cụt ngọn. Ngay cuối đường là hai trụ đá cổ kính, bạc màu mưa nắng và bám đầy địa y, trên đỉnh là cái gì đó không còn nhận ra hình thù, vốn một thời là tượng con sư tử chồm lên của thái ấp Birlstone. Đi một quãng ngắn theo con đường ngoằn ngoèo bao quanh với những bãi cỏ và cây sồi - đúng như những gì ta chỉ nhìn thấy ở vùng quê Anh quốc - là đến một chỗ ngoặt đột ngột và trước mắt chúng tôi là một dãy nhà lúp xúp bằng gạch màu nâu xỉn kiểu kiến trúc Jacobean, nhà nào cũng có một vườn cây thủy tùng cắt tỉa nằm một bên. Tới gần hơn, chúng tôi nhìn thấy một cây cầu rút và một hào nước rộng xinh đẹp tĩnh lặng và lấp lánh như thủy ngân dưới ánh nắng lạnh lẽo của mùa đông.

Ba thế kỉ đã trôi qua nơi điền trang cổ kính, những thế kỉ của sinh li và tái hợp, của những điệu dân vũ và những cuộc hội họp của dân săn cáo. Kể cũng lạ thay, bây giờ bí ẩn này lại bao trùm những bức tường cổ kính nơi đây! Thế nhưng những chóp mái nhọn và những đầu hồi cổ quái chìa ra ngoài lại là lớp vỏ bọc hết sức thích hợp che giấu một mưu đồ ác hiểm kinh người. Khi nhìn những ô cửa sổ thụt sâu trong hốc tường và dòng nước ngầu đục lăn tăn gợn sóng, tôi thấy không cảnh trí nào có thể tương xứng hơn để diễn ra một tấn thảm kịch như vậy.

"Cái cửa sổ đó đấy," White Mason nói, "cái nằm ngay bên phải cầu rút đấy. Cánh cửa mở ra đúng như đã thấy đêm qua."

"Trông khá hẹp để cho một người chui qua lọt."

"Chà, nếu người không mập béo thì cũng qua được. Không cần ông suy luận chúng tôi cũng biết điều đó, ông Holmes. Người như ông hay tôi, nếu cố, có thể chui lọt được thôi."

Holmes đi tới rìa hào nước nhìn qua bên kia. Rồi anh xem xét kè đá và bờ cỏ giáp ranh.

"Tôi đã xem kĩ rồi, ông Holmes," White Mason nói. "Ở đó chẳng có gì cả, không có dấu vết cho thấy có người đã leo lên, nhưng tại sao kẻ đó phải lưu lại dấu vết chứ?"

"Chính xác. Tại sao phải thế? Nước lúc nào cũng đục ngầu vậy à?"

"Nói chung là lúc nào cũng có màu này. Dòng suối cuốn theo đất sét vào đây."

"Sâu chừng nào?"

"Hai bên bờ chừng hai foot còn ở giữa là ba foot."

"Vậy chúng ta có thể bỏ qua khả năng là kẻ đó đã chết đuối khi băng qua hào nước."

"Đúng. Kể cả trẻ con cũng không sao chết đuối ở đây được."

Chúng tôi đi qua cây cầu rút và ông quản gia Ames - một người xương xẩu, gầy gò, cổ quái - đón mọi người vào. Ông già tội nghiệp này tái xanh và run lập cập vì kinh hãi. Viên hạ sĩ sở tại - một người cao lớn, trịnh trọng và u sầu - vẫn còn canh giữ căn phòng định mệnh. Vị bác sĩ đã ra về.

"Có gì mới không, hạ sĩ Wilson?" White Mason hỏi.

"Thưa không."

"Thế thì anh có thể về nhà. Anh vất vả đủ rồi. Nếu cần thì chúng tôi sẽ cho gọi anh. Ông quản gia tốt nhất nên chờ bên ngoài. Nói ông ta báo với ông Cecil Barker, bà Douglas, và bà giúp việc là chốc nữa chúng tôi muốn nói chuyện với họ. Bây giờ, thưa quý vị, có lẽ cho tôi được phép trình bày trước, rồi sau đó quý vị sẽ nêu quan điểm của mình."

Tay chuyên gia vùng quê này khiến tôi ấn tượng. Ông ta nắm chắc mọi dữ kiện và có tư duy thực tế rất rõ ràng, tỉnh táo, điều sẽ giúp ông tiến xa trong sự nghiệp. Holmes chăm chú lắng nghe, không hề tỏ vẻ gì nóng nảy như thường thấy khi anh nghe những giải trình chính thức.

"Tự sát hay cố sát chính là câu hỏi đầu tiên của chúng ta, phải không quý vị? Nếu là tự sát thì chúng ta phải tin rằng người chết trước hết phải tháo chiếc nhẫn cưới ra giấu đi, sau đó mặc áo khoác đi xuống đây, giẫm cho vấy bùn sình trong góc phòng sau tấm rèm để làm như có kẻ nào đó đang rình rập ông ta, rồi mở cửa sổ, bôi máu lên..."

"Rõ ràng là chúng ta có thể bỏ qua chuyện đó," MacDonald nói.

"Tôi cũng nghĩ thế. Không thể nào là tự sát được. Vậy thì đã có một vụ cố sát. Điều chúng ta phải xác định là chuyện này do người ngoài hay người nhà gây ra."

"Được, cho chúng tôi biết lập luận của anh đi."

"Tuy là khó điều tra, nhưng hung thủ chỉ có thể rơi vào một trong hai loại đó. Trước hết ta giả sử rằng một hay nhiều người trong nhà này đã gây án. Chúng bắn chết người này ở đây vào lúc yên ắng tĩnh mịch và người nhà chưa đi ngủ. Nhưng rồi chúng lại gây án bằng thứ vũ khí ồn ào và lạ lùng nhất đời như để báo cho mọi người biết có chuyện, một thứ vũ khí chưa từng thấy trong nhà này. Chuyện này có vẻ không phải một khởi đầu thường thấy, phải không?"

"Đúng, không thể nào được."

"Đấy, thế thì tất cả điều nhất trí rằng sau khi nghe báo động thì cùng lắm chỉ một phút là toàn bộ người trong nhà, không chỉ có ông Cecil Barker tuy rằng ông ta tuyên bố mình là người đầu tiên, mà còn có Ames nữa, đã có mặt tại hiện trường. Quý vị muốn nói với tôi rằng chỉ trong khoảng thời gian đó hung thủ đã kịp tạo dấu chân trong góc phòng, mở cửa sổ, bôi máu trên bệ cửa, tháo nhẫn cưới khỏi tay người chết, và làm đủ thứ chuyện khác sao? Phi lí hết sức!"

"Ông lập luận rất rõ ràng," Holmes nói. "Tôi đồng tình với ông."

"Đấy, thế thì chúng ta quay lại giả thuyết rằng vụ này do người ngoài gây ra. Chúng ta vẫn phải đương đầu với nhiều khó khăn lớn nhưng dẫu sao không phải là không có khả năng xảy ra. Kẻ đó đã vào nhà này trong khoảng từ 4 giờ rưỡi đến 6 giờ, giữa lúc hoàng hôn và lúc kéo cầu lên. Nhà có mấy vị khách, và cửa lại mở, nên chẳng có gì ngăn cản kẻ đó đột nhập. Có thể hắn là một tên trộm bình thường, hoặc cũng có thể có hận thù riêng tư gì với ông Douglas. Vì ông Douglas đã sống phần lớn cuộc đời ở Mỹ, và khẩu súng săn này có vẻ là một vũ khí của Mỹ, nên giả thuyết thù hận riêng tư có vẻ hợp lí hơn. Kẻ đó lẻn vào phòng này vì đây là căn phòng đầu tiên hắn thấy và hắn nấp sau tấm rèm này. Hắn đứng ở đó cho tới sau 11 giờ đêm. Lúc đó ông Douglas bước vào phòng. Đó là một cuộc gặp gỡ ngắn, nếu như quả thật có gặp gỡ, bởi vì bà Douglas khẳng định rằng khi nghe tiếng súng thì chồng bà chỉ mới rời bà ta không hơn vài phút."

"Cây nến này chứng tỏ điều đó," Holmes nói.

"Chính xác. Cây nến, đó là cây nến mới, chỉ cháy chưa đầy nửa inch. Ông Douglas hẳn phải để nến trên bàn này trước khi bị tấn công, nếu không nó phải rơi xuống đất khi ông ta ngã xuống. Như vậy ông ta không bị tấn công ngay khi bước vào phòng. Lúc ông Barker đến, cây nến vẫn cháy còn đèn đã tắt."

"Tất cả đều khá rõ ràng."

"Đấy, vậy thì bây giờ chúng ta có thể tái hiện các sự việc theo hướng đó. Ông Douglas đi vào phòng. Ông đặt cây nến xuống. Một người từ sau tấm rèm xuất hiện. Hắn cầm khẩu súng này. Hắn đòi chiếc nhẫn cưới, có trời mới biết tại sao, nhưng nhất định phải thế. Ông Douglas giao nộp nhẫn. Rồi do có chủ đích hoặc là trong lúc xô xát, Douglas có thể đã chụp lấy cái búa mà ta thấy trên thảm, hắn đã bắn Douglas chết thảm. Hắn bỏ lại khẩu súng và có vẻ như bỏ lại cả tấm danh thiếp kì lạ này, V.V 341, chẳng biết có ý nghĩa gì, rồi tẩu thoát qua cửa sổ và băng qua hào nước đúng ngay lúc ông Cecil Barker phát hiện ra án mạng. Ông thấy thế nào, ông Holmes?"

"Rất hay, nhưng hơi thiếu sức thuyết phục."

"Ôi, chuyện này hết sức phi lí, còn nếu không phải phi lí thì là quá sức nan giải!" MacDonald kêu lên. "Kẻ nào đó đã giết người này, và dù đó là ai thì tôi có thể chứng minh rõ ràng cho ông thấy là hắn ta lẽ ra phải hành động theo cách khác. Việc gì hắn phải chặn đường rút lui của mình như thế? Việc gì hắn phải dùng súng săn trong khi im lặng hành động mới có cơ may tẩu thoát của hắn chứ? Thế đó, ông Holmes, mong ông chỉ đường dẫn lối cho chúng tôi với, vì ông bảo lập luận của ông White Mason không thuyết phục."

Holmes ngôi chăm chú quan sát trong suốt cuộc thảo luận kéo dài, không bỏ sót một lời nào, còn đôi mắt tinh anh hết đảo sang phải lại nhìn sang trái, vầng trán nhăn lại vì suy nghĩ.

"Tôi muốn có thêm vài dữ kiện nữa thì mới đưa ra được giả thuyết, ông Mac," anh vừa nói vừa quỳ xuống cạnh xác chết. "Ôi trời! vết thương này thật kinh khủng quá. Chúng ta gọi người quản gia vào đây một lát được không?... Ames, tôi biết là ông thường thấy dấu hiệu khác thường này, dấu sắt nung một hình tam giác bên trong hình tròn, trên cánh tay ông Douglas phải không?"

"Dạ, thường thấy."

"Ông có bao giờ nghe ai suy đoán nó có ý nghĩa gì không?"

"Dạ, không."

"Bị đóng dấu nung như thế này hẳn là đau đớn lắm. Chắc chắn đây không phải vết bỏng. Này Ames, tôi thấy có một miếng cao dán nhỏ bên góc hàm ông Douglas. Ông đã từng thấy nó chưa?"

"Dạ rồi, ông chủ bị dao phạm phải khi cạo râu sáng hôm qua."

"Trước đây có khi nào ông thấy ông ta bị như thế khi cạo râu không?"

"Rất lâu rồi mới thấy lại, thưa ông."

"Hay đấy!" Holmes nói. "Tất nhiên có thể chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng cũng có thể là vì ông ta căng thẳng mà nếu vậy thì đây là dấu hiệu chứng tỏ ông ta có lí do để sợ rằng mình đang gặp nguy hiểm. Ngày hôm qua ông có thấy thái độ của ông chủ có gì khác lạ không, Ames?"

"Tôi có thấy ông chủ hơi bồn chồn lo lắng, thưa ông."

"À! Cuộc tấn công này có thể là không hoàn toàn bất ngờ đâu. Coi bộ chúng ta tiến triển được chút ít rồi, phải không? ông có muốn thẩm vấn không, ông Mac?"

"Thôi, ông Holmes, mọi sự đang nằm trong tay người giỏi hơn tôi rồi."

"À, vậy thì chúng ta sẽ chuyển sang tấm danh thiếp này, V.V 341. Đây là giấy bìa loại nhám. Trong nhà ông có thấy tấm danh thiếp nào kiểu kiểu như vậy bao giờ chưa?"

"Tôi nghĩ là không."

Holmes đi tới bàn giấy và chấm một chút mực từ mỗi lọ mực lên trên tờ giấy thấm. Anh nói, "Tấm thiếp không được viết trong phòng này, đây là mực đen còn mực kia hơi tím. Tấm thiếp được viết bằng bút ngòi tù còn mấy cái bút này đều là loại ngòi nhọn. Tôi cho rằng tấm thiếp được viết ở nơi khác. Ông có hiểu gì về mấy chữ ghi trên này không, Ames?"

"Dạ không, thưa ông."

"Theo ông thì sao, ông Mac?"

"Nó khiến tôi nghĩ đến một kiểu hội kín nào đó, cái dấu nung trên cánh tay kia cũng cho tôi cảm giác đó."

"Tôi cũng nghĩ vậy," White Mason phụ họa.

"Chà, chúng ta có thể lấy điều đó làm cơ sở cho một giả thuyết và rồi xem thử chúng ta gỡ giải được bao nhiêu gút thắt. Một tay lâu la của một hội kín nào đó vào nhà, chờ ông Douglas, bắn ông ta gần như nát sọ bằng vũ khí này, rồi tẩu thoát bằng cách lội qua hào nước, sau khi để lại tấm thiếp bên cạnh xác chết, vì chi tiết này chắc chắn sẽ được báo chí nhắc đến và đó là cách báo cho các thành viên khác của hội kín ấy biết rằng việc trả thù đã xong. Vậy thì mọi chi tiết đều ăn khớp. Nhưng trong mọi loại vũ khí tại sao lại chọn khẩu súng này?"

"Chính xác!"

"Và tại sao lại mất chiếc nhẫn?"

"Đúng thế."

"Và tại sao không ai bị bắt giữ? Giờ đã quá 2 giờ rồi. Tôi cho rằng từ lúc bình minh, mọi cảnh binh trong vòng bốn mươi dặm quanh đây đều đang truy tìm một kẻ lạ mặt người ướt sũng chứ?"

"Đúng như thế, ông Holmes."

"Chà, trừ phi hắn đi ẩn náu hoặc là đã thay sang áo quần khô ráo rồi, chứ không thì đời nào cánh cảnh binh để hắn lọt lưới. Thế nhưng cho tới lúc này họ vẫn tìm không ra kẻ đó!" Holmes đã đi tới cửa sổ và đang dùng kính lúp xem xét dấu máu trên bệ cửa. "Rõ ràng đây là dấu một chiếc giày giẫm lên. Dấu giày khá lớn, ta có thể nói là một người có bàn chân bẹt. Lạ thật, bởi vì nếu căn cứ theo bất kì dấu chân nào trong góc nhà vấy bùn sình kia thì ai cũng phải nói đó là một bàn chân cân đối hơn nhiều. Tuy nhiên, các dấu chân đều không rõ ràng lắm. Thế dưới cái bàn con kia là gì vậy?"

"Quả tạ tay của ông Douglas," Ames đáp.

"Chỉ có một quả tạ tay. Quả còn lại đâu?"

"Tôi không biết, ông Holmes. Có thể chỉ có một quả. Nhiều tháng rồi tôi không để ý tới chúng."

"Một quả tạ tay...," Holmes nói với vẻ nghiêm trọng nhưng lời anh bị cắt ngang bởi một tiếng gõ cửa thình thình.

Một người cao lớn, nước da rám nắng, râu cạo nhẵn, vóc dáng cường tráng đang đứng nhìn chúng tôi. Tôi dễ dàng đoán ra ngay đó là Cecil Barker mà tôi đã nghe nhắc tới. Đôi mắt đầy uy quyền của ông ta đảo nhanh qua từng khuôn mặt với cái nhìn nghi ngờ. Ông ta lên tiếng, "Xin lỗi đã làm gián đoạn cuộc hội ý của các ông, nhưng các ông cần biết tin mới nhất."

"Bắt được ai chăng?"

"Không may mắn thế đâu. Nhưng người ta tìm thấy chiếc xe đạp của hẳn. Tên này đã bỏ lại chiếc xe đạp. Hãy đến xem đi. Chỉ cách cửa tiền sảnh chừng trăm yard."

Chúng tôi thấy ba hay bốn người giữ ngựa và những kẻ rảnh rỗi đang đứng bu trên đường vào lâu đài, xem xét một chiếc xe đạp vốn giấu kín trong một bụi cây rậm nay đã được lôi ra. Đó là một chiếc xe hiệu Rudge Whitworth đã cũ, dính đầy bùn sình vì những chuyến hành trình dài. Trong cái túi gắn sau yên xe có một chiếc cờ lê và một vịt dầu nhưng không hề có manh mối gì về chủ nhân.

"Giá mấy thứ này được đăng kí và đánh số thì có ích cho cảnh sát biết mấy," viên thanh tra nói. "Nhưng có được manh mối là tốt lắm rồi. Nếu không tìm ra nơi hắn đến thì ít nhất chúng ta cũng biết hắn từ đầu tới. Nhưng làm sao tên này lại bỏ xe đạp ở đây hở trời? Và làm sao hắn chạy trốn mà không cần tới xe chứ? Chúng ta không thấy được một chút tia sáng nào trong vụ này cả, ông Holmes."

"Vậy sao?" Anh bạn tôi trầm ngâm đáp. "Lạ đấy!"

5. Nhân vật của tấn tuồng

"Các ông đã thấy hết những gì cần thiết ở thư phòng đó chưa?" White Mason hỏi khi chúng tôi quay vào nhà.

"Tạm thời là đủ," viên thanh tra đáp. Holmes cũng gật đầu.

"Vậy bây giờ chắc các ông cũng muốn nghe lời khai của mấy người trong nhà. Chúng tôi xin phép trưng dụng phòng ăn, Ames ạ. Ông vui lòng vào trước và hãy nói hết những gì ông biết."

Tường trình của người quản gia rõ ràng và đơn giản, ông ta tạo được ấn tượng là người rất đáng tin. Ông ta được thuê làm việc cách đây năm năm khi Douglas mới đến Birlstone. Ames biết ông Douglas là một quý ông giàu sang đã kiếm được nhiều tiền bên Mỹ. Douglas là một người chủ tốt và chu đáo - có thể không bằng như ông chủ cũ nhưng người ta không thể có được mọi điều mong muốn. Người quản gia chưa hề thấy ông Douglas tỏ ra sợ hãi bao giờ; trái lại vị gia chủ này là người gan dạ nhất mà Ames từng gặp. Douglas ra lệnh mỗi tối phải kéo cây cầu rút lên vì đó là truyền thống lâu đời của lâu đài cổ này và ông ta muốn duy trì lề thói xưa.

Ông Douglas hiếm khi đi London hay rời khỏi làng, nhưng vào cái ngày trước ngày xảy ra án mạng, ông ta có đi mua sắm ở Tunbridge Wells. Ames để ý thấy ông Douglas có dấu hiệu bồn chồn bất an vào ngày hôm đó, vì ông ấy có vẻ nôn nóng bực bội khác thường. Lúc nghe chuông báo động inh ỏi đêm qua, Ames chưa đi ngủ mà còn đang ở trong kho bếp sau nhà dọn dẹp bát đĩa. Ông ta không hề nghe thấy tiếng súng, nhưng cũng khó mà nghe được gì vì nhà bếp và kho bếp nằm tận cuối lâu đài, cách hiện trường nhiều cánh cửa đóng kín và một hành lang dài. Nghe tiếng chuông rung ầm ĩ, bà giúp việc cũng ra khỏi phòng. Hai người đã cùng nhau đi lên nhà trước.

Lúc họ đến chân cầu thang thì Ames gặp bà Douglas đang đi xuống. Không, bà ta không hề gấp gáp; người quản gia có cảm tưởng như bà chủ không hề bị kích động gì đặc biệt. Đúng lúc bà ta xuống tới chân cầu thang thì ông Barker từ trong thư phòng đó lao ra. Ông ta chặn bà Douglas lại và van nài bà ta quay lui. "Hãy vì Chúa mà trở về phòng cô đi!" Barker la to. "Jack chết rồi! Khốn khổ cho anh ấy, nhưng cô không làm gì được nữa! Hãy vì Chúa mà về phòng đi!" Sau một lúc thuyết phục ở cầu thang thì bà Douglas quay lui. Bà ta không gào thét. Bà ta không hề kêu khóc một chút nào. Bà giúp việc Allen đưa bà Douglas lên lầu và hai người cùng ở lại trong phòng bà chủ.

Ames và Barker sau đó vào thư phòng và thấy mọi thứ đúng y như cảnh sát đã mục kích. Lúc đó nến không cháy nhưng đèn lại sáng. Họ nhìn ra cửa sổ nhưng màn đêm tối đen và họ không thể thấy, nghe được gì. Hai người này sau đó chạy ra tiền sảnh để Ames quay trục tời hạ cầu xuống. Và rồi ông Barker liền vội vàng chạy đi báo cảnh sát.

Về cơ bản thì lời khai của ông quản gia là như thế.

Tường trình của bà giúp việc Allen, xét theo nội dung, đã chứng thực lời khai của gia nhân kia. Phòng bà giúp việc này nằm gần nhà trước hơn là kho bếp nơi Ames đang dọn dẹp. Bà đang sửa soạn đi ngủ thì nghe thấy tiếng chuông inh ỏi. Bà hơi nặng tai. Có lẽ vì thế mà bà không nghe tiếng súng, nhưng dù sao thì thư phòng cũng ở cách xa. Bà ta nhớ có nghe tiếng gì đó hình như là tiếng cánh cửa đóng sầm một cái. Nhưng lúc đó sớm hơn nhiều - ít nhất là nửa giờ trước khi bà nghe tiếng chuông rung. Khi ông Ames chạy ra nhà trước, bà theo cùng. Bà thấy ông Barker, mặt tái xanh sợ hãi, từ trong thư phòng đi ra. Ông ta chặn bà Douglas lúc đó đang xuống lầu. Barker nài nỉ bà Douglas quay lui và bà ta trả lời gì đó nhưng bà Allen không nghe được. "Đưa cô ấy lên lầu! Ở lại với cô ấy!" Barker bảo bà Allen. Bà giúp việc liền đưa bà Douglas về phòng ngủ và cố sức trấn an bà chủ. Bà Douglas vô cùng sợ hãi, người run lẩy bẩy, nhưng không có ý muốn đi xuống nữa. Bà Douglas mặc áo khoác ngồi trước lò sưởi trong phòng ngủ, vùi mặt trong hai lòng bàn tay. Bà Allen ở lại với bà chủ gần như suốt đêm. Còn các gia nhân khác, tất cả đều đã đi ngủ và không hay biết gì về chuyện kinh hoàng kia mãi tới khi cảnh sát tới nơi. Họ ngủ ở dãy phòng tận cùng sau nhà và có lẽ là không hề nghe thấy gì cả.

Hóa ra bà giúp việc này cũng chẳng bổ sung được gì qua cuộc thẩm vấn ngoại trừ những tiếng than khóc và những lời kinh ngạc.

Cecil Barker tiếp nối bà Allen trong vai trò nhân chứng. Về những chuyện xảy ra đêm trước, ông ta chẳng nói thêm được bao nhiêu so với những gì đã thuật lại với cảnh sát. Cá nhân ông ta tin chắc tên sát nhân đã tẩu thoát qua ngả cửa sổ. Theo Barker, dấu máu đã xác định điều đó. Hơn nữa, cầu đã kéo lên thì không còn lối thoát khả dĩ nào khác. Ông ta không biết kẻ giết người kia sau đó ra sao, hay tại sao y bỏ lại chiếc xe đạp, nếu chiếc xe đúng là của y. Tên sát nhân không thể nào chết đuối trong hào nước vì dưới hào không có chỗ nào nước sâu hơn ba foot.

Trong đầu, Barker đã có sẵn một giả thuyết rất rõ ràng về vụ án mạng này. Douglas là người kín kẽ và không bao giờ nói về một phần quãng đời đã trải qua. Douglas di cư sang Mỹ từ khi còn rất trẻ. Douglas ăn nên làm ra và Barker gặp ông ta ở California; tại đó hai người hùn hạp làm ăn thành công khi giành được quyền khai thác mỏ ở khu vực mang tên Benito Canyon. Công việc rất khấm khá nhưng Douglas đột ngột bán hết phần của mình và lên đường về Anh quốc. Lúc đó Douglas đã góa vợ. Sau này Barker cũng chuyển tài sản thành tiền mặt và về sống ở London. Từ đó hai người nối lại liên lạc.

Douglas khiến Barker có cảm giác rằng một mối nguy nào đó luôn đón chờ người bạn của mình, và Barker luôn coi những chuyện Douglas làm - đột ngột rời California, hay thuê nhà ở một nơi hết sức tĩnh lặng của Anh quốc - là có liên quan đến hiểm họa ấy. Barker cho rằng một hội kín, một tổ chức bạo ngược nào đó, luôn truy tìm Douglas và nhất định không bỏ cuộc chừng nào chưa giết được người này. Vài lời nói của Douglas đã khiến Barker có ý nghĩ đó, tuy Douglas chưa bao giờ cho biết đó là hội nào, cũng như vì đâu mà ông ta lại làm mất lòng tổ chức đó. Barker chỉ có thể giả thuyết rằng những chữ viết trên tấm thiếp có liên quan gì đó đến hội kín ấy.

"Ông sống với ông Douglas bên California bao lâu?" Thanh tra MacDonald hỏi.

"Tổng cộng năm năm."

"Ông nói hồi ấy ông Douglas sống độc thân phải không?"

"Không, tôi nói ông ấy góa vợ."

"Có bao giờ ông nghe nói đến xuất thân người vợ trước của ông Douglas không?"

"Không, tôi nhớ có nghe anh ấy nói cô ấy là người gốc Đức, và tôi đã thấy ảnh chân dung của cô ấy. Một phụ nữ rất đẹp. Cô ấy chết vì bệnh thương hàn một năm trước khi tôi gặp Douglas."

"Ông không biết quá khứ của ông Douglas có liên quan đến vùng nào cụ thể bên Mỹ sao?"

"Tôi thường nghe anh ấy nói đến Chicago. Anh ấy biết rõ thành phố ấy và từng làm việc ở đó. Tôi có nghe anh ấy nói về những khu vực mỏ sắt và mỏ than. Thời trước anh ấy lưu lạc khắp nơi."

"Ông ta là chính khách hả? Cái hội kín này có dính dáng tới chính trị không?"

"Không, anh ấy hề quan tâm đến chuyện chính trị."

"Ông không có lí do gì để cho rằng ông ta từng làm chuyện phi pháp sao?"

"Trái lại, trong đời tôi chưa bao giờ gặp ai ngay thẳng hơn anh ấy."

"Không hề có điều gì lạ thường trong cuộc sống của ông ta bên California à?"

"Anh ấy thích nhất là ở lại làm việc trong khu mỏ của chúng tôi tại miền núi. Nếu tránh được thì anh ấy chẳng bao giờ đi tới nơi những người khác thường tụ họp. Đó là lí do lúc đầu tôi nghĩ là có ai đang truy lùng anh ấy. Rồi khi Douglas thình lình bỏ đi Âu châu thì tôi tin chắc như thế. Tôi nghĩ anh ấy đã nhận được một lời cảnh báo nào đó. Sau khi Douglas đi một tuần lễ là có năm sáu người đến dò hỏi về anh ấy."

"Loại người như thế nào?"

"Chà, đó là một đám trông hết sức khó ưa. Họ tới khu mỏ và muốn biết anh ấy đi đâu. Tôi bảo họ anh ấy đã đi Âu châu và tôi không biết phải tìm ở đâu. Họ không có ý gì tốt đẹp với anh ấy đâu, nhìn là biết ngay."

"Họ là người Mỹ, dân California à?"

"Chà, tôi không rõ có phải dân California không. Nhưng đúng là người Mỹ. Có điều họ cũng không phải thợ mỏ. Tôi không biết họ là ai và tôi rất mừng khi họ bỏ đi."

"Lúc đó là sáu năm trước?"

"Gần bảy năm."

"Trước đó hai ông đã sống cùng nhau năm năm ở California, như vậy là đã có chuyện gì đó xảy ra ít nhất từ mười một năm trước?"

"Chắc là thế."

"Phải là chuyện thù oán gì đó nghiêm trọng lắm thì người ta mới dốc lòng truy đuổi lâu đến thế. Chuyện vặt vãnh không thể gây thù hận lâu dài như vậy."

"Tôi nghĩ chuyện đó phủ bóng đen lên cuộc đời anh ấy. Douglas không bao giờ quên."

"Nhưng nếu một người biết có nguy hiểm rình rập, và lại biết rõ nữa, ông không nghĩ là người đó sẽ nhờ cảnh sát bảo vệ à?"

"Có thể đó là một nguy hiểm mà không ai có thể bảo vệ anh ấy khỏi nó. Có một điều các ông cần biết. Douglas đi đâu cũng có vũ khí phòng thân. Khẩu súng lục của anh ấy luôn nằm trong túi. Nhưng rủi thay, đêm qua anh ấy lại khoác áo ngủ và bỏ khẩu súng trong phòng. Tôi đoán Douglas nghĩ là mình được an toàn khi cây cầu đã kéo lên."

"Tôi muốn biết thời gian cụ thể một chút," MacDonald nói. "Ông Douglas rời California đã khoảng sáu năm. Một năm sau ông cũng đi theo, đúng không?"

"Đúng là thế."

"Và ông ta đã lập gia đình được năm năm. Hẳn ông phải trở về trong khoảng thời gian ông ta kết hôn."

"Trước đó một tháng. Tôi làm phù rể cho anh ấy mà."

"Ông có quen biết bà Douglas trước khi hai người đó kết hôn không?"

"Không, tôi không biết. Tôi đã xa Anh quốc suốt mười năm."

"Nhưng kể từ khi đó ông rất thường xuyên gặp gỡ bà ta."

Barker nghiêm mặt nhìn thẳng vào viên thanh tra cảnh sát.

"Kể từ đó tôi rất thường xuyên gặp gỡ anh ấy," Barker đáp. "Nếu như tôi có gặp gỡ cô ấy là bởi vì ta không thể thăm viếng một người đàn ông mà không biết gì đến vợ người đó. Nếu ông nghĩ là có quan hệ gì..."

"Tôi không nghĩ gì cả, ông Barker. Tôi buộc phải tìm hiểu mọi điều có thể liên quan đến vụ này. Nhưng tôi không hề có ý xúc phạm."

"Một số câu hỏi gây mất lòng đó," Barker giận dữ trả lời.

"Chúng tôi chỉ cần sự thật. Vì lợi ích của ông cũng như của mọi người, mọi chi tiết đều phải rõ ràng. Ông Douglas có hoàn toàn tán thành tình bạn của ông với vợ ông ta không?"

Mặt Barker tái đi, hai bàn tay to khỏe đan chặt vào nhau run rẩy vì tức tối.

"Ông không có quyền hỏi những câu như thế!" Barker to tiếng. "Chuyện này có liên quan gì đến vụ án ông đang điều tra chứ?"

"Tôi phải lặp lại câu hỏi đó."

"A, tôi từ chối trả lời."

"Ông có thể khước từ trả lời, nhưng ông phải hiểu rằng bản thân sự khước từ của ông chính là câu trả lời, bởi vì nếu không có gì phải che giấu thì ông đã không từ chối."

Barker ngồi im một hồi với gương mặt quyết đoán và đôi lông mày đen đậm chau lại trong dòng suy nghĩ dữ dội. Rồi ông ta ngước lên và nở một nụ cười.

"Chà, tôi nghĩ quý ông đây dẫu sao cũng chỉ làm bổn phận chính đáng của mình mà thôi, và tôi không có quyền cản trở. Tôi chỉ yêu cầu các ông đừng làm vợ anh ấy lo lắng vì chuyện này, bởi cô ấy đã đủ rối trí rồi. Tôi có thể nói rằng anh Douglas xấu số chỉ có một khuyết điểm duy nhất, và đó là lòng ghen tuông. Anh ấy quý mến tôi, không ai có thể yêu quý bạn hơn thế. Và anh ấy cũng hết lòng với vợ mình. Douglas thích tôi ghé đến đây và cứ luôn mời tôi tới. Thế nhưng nếu vợ anh ấy và tôi trò chuyện với nhau hoặc có vẻ như giữa chúng tôi có sự cảm thông thì anh ấy lại phát ghen và bất chợt nổi nóng, nói toàn những lời điên rồ nhất. Hơn một lần tôi đã thề sẽ không đến đây nữa vì lí do đó, nhưng rồi anh ấy lại viết cho tôi những lá thư khẩn thiết, đầy ân hận tới mức tôi phải viếng thăm. Nhưng tôi có thể lấy danh dự ra cam đoan với quý ông, không người đàn ông nào có được một người vợ yêu thương và chung thủy hơn đâu, và tôi cũng dám nói là không kiếm đâu được một người bạn trung thành như tôi!"

Lời nói đầy cảm xúc và nhiệt thành như thế nhưng thanh tra MacDonald vẫn không bỏ qua vấn đề này. Anh ta hỏi, "Ông có biết là chiếc nhẫn cưới đã bị tháo khỏi ngón tay xác chết không?"

"Hình như là thế," Barker nói.

"Ông ngụ ý gì khi nói 'hình như' chứ? Ông biết đó là sự thật cơ mà."

Người kia có vẻ hoang mang, do dự. "Khi tôi nói 'hình như' tức là tôi cho rằng chính anh ấy đã tháo nhẫn ra."

"Chuyện chiếc nhẫn cưới không thấy đâu chẳng phải gợi người ta nghĩ giữa vụ thảm án này và cuộc hôn nhân có mối liên hệ với nhau sao?"

Barker nhún đôi vai rộng và nói, "Tôi không thể nói là điều đó có ý nghĩa gì. Nhưng nếu ông muốn cho là điều đó ám chỉ tới tiết hạnh của người phụ nữ ấy," ánh mắt Barker lóe lên một thoáng, rồi bằng một nỗ lực lộ rõ ông ta đã chế ngự được cảm xúc bản thân, "...chà, các ông đi sai hướng rồi, vậy thôi."

"Tôi không biết tôi có còn điều gì khác để hỏi ông ngay lúc này chăng," MacDonald lạnh lùng nói.

"Có một điều nho nhỏ," Sherlock Holmes lên tiếng. "Khi ông bước vào căn phòng đó thì chỉ có một cây nến thắp trên bàn, phải vậy không?"

"Phải, đúng như thế."

"Trong ánh nến ấy ông nhìn thấy một chuyện khủng khiếp đã xảy ra?"

"Chính xác."

"Ông lập tức rung chuông cầu cứu?"

"Phải."

"Và có trợ giúp đến ngay?"

"Trong vòng một phút sau."

"Thế nhưng khi mọi người đến thì họ thấy nến đã tắt và còn đèn được thắp. Điều này có vẻ rất đáng chú ý."

Một lần nữa Barker tỏ dấu hiệu do dự. Ông ta trả lời sau một lúc ngần ngừ, "Tôi không thấy điều đó đáng chú ý, ông Holmes. Ánh nến có phần tù mù. Tôi nghĩ ngay đến việc cần phải nhìn rõ hơn. Đèn cũng nằm trên bàn, nên tôi thắp lên."

"Và thổi tắt nến?"

"Chính xác."

Holmes không hỏi gì thêm nữa và Barker quay lưng rời phòng sau khi thận trọng nhìn từng người chúng tôi, một ánh mắt mà tôi thấy có vẻ ẩn chứa thách thức.

Thanh tra MacDonald đã viết mấy chữ tỏ ý muốn hầu chuyện với bà Douglas trong phòng riêng nhưng bà ta đã phúc đáp là muốn gặp chúng tôi trong phòng ăn. Bây giờ bà ta xuất hiện, một mĩ nhân dáng cao trạc tuổi ba mươi, kín kẽ và tự chủ đến mức lạ thường, rất khác biệt với mẫu nhân vật quẫn trí, bi thương mà tôi đã hình dung. Đúng là gương mặt bà ta tái nhợt và u sầu như dung mạo của người đã trải qua biến cố lớn, nhưng phong thái vẫn điềm tĩnh và bàn tay đẹp như tạc tì trên cạnh bàn vẫn tĩnh tại như bàn tay tôi. Đôi mắt buồn quyến rũ của bà ta nhìn chúng tôi từ người này sang người khác với một vẻ tò mò lạ kì. Cái nhìn dò hỏi ấy đột nhiên biến thành lời nói.

"Các ông tìm ra gì chưa?" Bà ta lên tiếng.

Là do tôi tưởng tượng ra, hay câu hỏi đó tiềm tàng một nỗi sợ hãi hơn là hi vọng.

"Chúng tôi đang làm mọi điều có thể, thưa bà Douglas," viên thanh tra nói. "Bà có thể yên tâm là chúng tôi không bỏ sót gì cả."

"Đừng ngại tốn tiền bạc," bà ta nói với giọng đều đều, vô cảm. "Tôi chỉ mong quý vị nỗ lực hết sức."

"Chắc là bà có thể cho chúng tôi biết đôi điều may ra làm sáng tỏ được chuyện này."

"Tôi không e ngại gì cả, tôi sẵn sàng nói hết những gì tôi biết."

"Chúng tôi đã nghe ông Cecil Barker nói là trên thực tế bà không nhìn thấy gì, bà không hề vào phòng đó khi thảm kịch xảy ra, phải không?"

"Đúng, tôi vừa xuống cầu thang thì anh ấy bảo tôi quay lại. Anh ấy cầu xin tôi trở về phòng mình."

"Ra thế. Trước đó bà nghe thấy tiếng súng và đi xuống ngay?"

"Tôi mặc áo khoác rồi mới xuống."

"Bao lâu sau khi nghe tiếng súng thì ông Barker ngăn bà lại ở cầu thang?"

"Chắc phải mất vài phút. Những lúc như thế khó mà để ý chuyện thời gian. Anh ấy nài nỉ tôi đừng vào đó. Anh ấy khẳng định là tôi chẳng thể làm gì được. Sau đó bà giúp việc Allen đưa tôi trở lên lầu. Tất cả cứ như một cơn ác mộng."

"Bà có thể cho chúng tôi biết là ông nhà đã đi xuống dưới được chừng bao lâu thì bà nghe tiếng súng không?"

"Không, tôi không biết được. Chồng tôi đi thẳng từ phòng thay đồ và tôi không nghe tiếng anh ấy đi xuống. Tối nào chồng tôi cũng đi một vòng quanh nhà vì anh ấy luôn lo ngại có hỏa hoạn. Đó là điều duy nhất tôi từng thấy anh ấy lo ngại."

"Đó là điều tôi muốn đề cập, thưa bà Douglas. Bà đã quen biết ông nhà chỉ ở Anh quốc mà thôi, phải không?"

"Vâng, chúng tôi lấy nhau đã năm năm rồi."

"Có bao giờ bà nghe ông nhà nói bất cứ chuyện gì đã xảy ra bên Mỹ và có thể gieo nguy hiểm cho ông ấy không?"

Bà Douglas suy nghĩ kĩ lưỡng trước khi trả lời.

"Có," một lúc sau bà mới lên tiếng, "tôi luôn có cảm giác là có mối nguy hiểm nào đó đang rình rập chồng tôi. Anh ấy không chịu nói cho tôi biết. Không phải anh ấy không tin tôi, giữa hai vợ chồng tôi luôn có tình yêu thương và sự tin cậy tuyệt đối, mà là do anh ấy muốn tôi khỏi phải lo lắng. Chồng tôi nghĩ nếu tôi mà biết hết thì tôi sẽ suốt ngày rầu rĩ ủ ê cho nên anh ấy giữ kín bí mật."

"Thế thì làm sao bà biết được chứ?"

Gương mặt bà Douglas bừng lên với một nụ cười thoáng qua.

"Có thể nào một người chồng luôn giữ canh cánh suốt đời một bí mật mà người phụ nữ yêu thương anh ta lại không hề nghi ngờ chứ? Tôi biết qua việc anh ấy không chịu kể nhiều về quãng đời sống bên Mỹ. Tôi biết qua những cách đề phòng của anh ấy. Tôi biết qua mấy lời anh ấy nói. Tôi biết qua cách chồng tôi nhìn những người lạ mặt không mong đợi. Tôi hoàn toàn chắc chắn rằng anh ấy có những kẻ thù rất mạnh, rằng anh ấy tin là chúng đang truy tìm, rằng anh ấy lúc nào cũng đề phòng chúng. Tôi tin chắc điều đó tới mức suốt nhiều năm qua mỗi lần chồng tôi về nhà muộn hơn mong đợi là tôi khiếp hãi."

"Cho phép tôi hỏi," Holmes lên tiếng, "ông nhà đã nói gì khiến bà chú ý vậy?"

"Thung lũng Kinh hoàng," người phụ nữ đáp. "Anh ấy thường nói vậy mỗi khi tôi gặng hỏi. Anh đã từng sống tại Thung lũng Kinh hoàng. Anh vẫn chưa thoát khỏi chốn đó... Có lần tôi đã hỏi chồng tôi khi tôi thấy anh ấy có vẻ nghiêm trọng khác thường, 'Chúng ta không bao giờ thoát khỏi Thung lũng Kinh hoàng được sao?' Anh ấy trả lời, 'Có lúc anh nghĩ rằng chúng ta sẽ không bao giờ thoát'."

"Nhất định là bà có hỏi ông nhà về ý nghĩa của cái Thung lũng Kinh hoàng đó chứ?"

"Tôi có hỏi nhưng thường thì chồng tôi đâm ra nghiêm trọng và sẽ lắc đầu bảo, 'Trong hai ta có một người sống trong bóng tối là đủ tồi tệ rồi em. Cầu Chúa cho em không bao giờ phải sống như thế!' Đó là một thung lũng có thật mà chồng tôi đã từng sống ở đó và đã có chuyện gì kinh khủng xảy ra cho anh ấy, tôi tin chắc như vậy nhưng không thể cho các ông biết gì hơn nữa."

"Thế ông ta không hề nhắc đến tên người nào sao?"

"Có chứ, cách đây ba năm có lần chồng tôi mê sảng vì lên cơn sốt khi đi săn bị tai nạn. Tôi còn nhớ lúc đó anh cứ liên tục nhắc tên một người nào đó. Anh ấy gọi tên người đó với giọng giận dữ và có phần hãi hùng. Người đó là McGinty, Hội chủ McGinty. Khi anh ấy bình phục tôi có hỏi McGinty là ai và là chủ của hội gì. Anh ấy chỉ cười to và nói, 'Tạ ơn Chúa, không phải chủ của anh!' Và đó là tất cả những gì anh ấy nói với tôi. Nhưng giữa Hội chủ McGinty và Thung lũng Kinh hoàng có mối liên quan."

"Còn một chuyện nữa," thanh tra MacDonald nói. "Có phải bà gặp ông Douglas trong một nhà trọ ở London và đính hôn với ông ta ở đấy? Có chuyện gì lãng mạn, chuyện gì cần giấu kín hay bí mật về đám cưới không?"

"Lãng mạn thì có. Luôn luôn lãng mạn. Nhưng bí mật thì không hề."

"Ông nhà không có tình địch?"

"Không."

"Chắc chắn là bà đã biết chuyện chiếc nhẫn cưới của ông nhà đã bị mất. Điều đó có gợi cho bà điều gì không? Cứ cho là một kẻ thù nào đó trong quãng đời trước của chồng bà đã truy lùng ông ta và gây án đi, vậy thì vì lí do nào mà kẻ đó lại lấy đi chiếc nhẫn cưới của ông ta chứ?"

Tôi xin thề rằng trong một thoáng tôi đã thấy một nụ cười thấp thoáng trên đôi môi người phụ nữ này.

"Thực tình là tôi không biết," bà ta đáp. "Rõ ràng đây là chuyện lạ lùng hết sức."

"Chà, chúng tôi sẽ không giữ bà lâu hơn nữa, và chúng tôi xin lỗi đã làm phiền bà vào lúc này," viên thanh tra nói. "Chắc chắn sẽ còn nhiều chuyện khác nữa, nhưng khi nào cần chúng tôi sẽ hỏi ý bà."

Bà Douglas đứng dậy và một lần nữa tôi lại nhận ra ánh mắt như dò xét của bà ta lướt qua cả bốn chúng tôi. "Lời khai của tôi có tạo được ấn tượng gì với các ông?" Cái nhìn ấy, nếu thốt nên lời thì sẽ là câu hỏi đó. Rồi cúi chào, bà ta đi nhanh ra khỏi phòng.

"Một người đàn bà xinh đẹp, rất xinh đẹp," MacDonald nói với vẻ trầm ngâm sau khi cánh cửa phòng đã khép lại sau lưng bà Douglas. "Cái gã Barker này chắc chắn là ghé xuống đây thường xuyên. Hắn ta thừa sức quyến rũ phụ nữ. Hắn đã thừa nhận là người chết có tính hay ghen, và chắc là bản thân hắn biết rõ cái gì gây ra sự ghen tuông đó. Rồi còn chuyện chiếc nhẫn cưới. Ta không thể bỏ qua chuyện đó. Kẻ nào mà tháo chiếc nhẫn cưới của người chết ra thì... Ông nghĩ sao về chuyện này, ông Holmes?"

Anh bạn tôi đang ngồi đắm chìm trong suy nghĩ, hai bàn tay ôm đầu. Bây giờ anh đứng dậy rung chuông.

"Ames," anh nói khi người quản gia bước vào, "ông Cecil Barker hiện đang ở đâu?"

"Để tôi đi tìm, thưa ông."

Một lát sau Ames quay lại cho biết Barker đang ở ngoài vườn.

"Ames, ông có nhớ là ông Barker mang gì dưới chân khi ông theo ông ta vào thư phòng đó đêm hôm qua không?"

"Dạ có, thưa ông Holmes. Ông ấy mang đôi dép phòng ngủ. Tôi đã mang đôi ghệt ra cho ông Barker khi ông ấy đi báo cảnh sát."

"Đôi dép ấy bây giờ ở đâu?"

"Vẫn còn nằm dưới cái ghế trong tiền sảnh đấy ạ."

"Tốt lắm, Ames. Tất nhiên điều quan trọng đối với chúng tôi là phải biết dấu chân nào là của ông Barker, dấu chân nào là của người ngoài."

"Dạ, tôi thấy đôi dép ấy dính máu, thực tình thì cả đôi của tôi cũng thế ạ."

"Xét theo thực trạng căn phòng, điều đó cũng bình thường mà. Tốt lắm, Ames. Khi nào cần chúng tôi sẽ rung chuông gọi ông."

Vài phút sau chúng tôi đã ở trong thư phòng đó. Holmes đã mang theo đôi dép mềm lấy ngoài tiền sảnh. Đúng như Ames đã lưu ý, hai đế dép dính máu khô thẫm màu.

"Lạ thật!" Holmes lẩm bẩm khi anh đứng dưới ánh sáng hắt vào qua cửa sổ xem xét tỉ mỉ đôi dép. "Đúng là rất lạ!"

Nhanh nhẹn khom người xuống như một con mèo vồ mồi, anh đặt một chiếc dép lên dấu máu trên bệ cửa sổ. Chiếc dép trùng khớp hoàn toàn. Anh mỉm cười với các cộng sự.

Viên thanh tra rạng rỡ hẳn lên vì phấn khởi. Giọng nói đặc sệt chất Aberdeen của anh ta nghe rổn rảng như tiếng que gõ vào lan can.

"Ôi," anh ta kêu lên, "không còn nghi ngờ gì nữa! Chính Barker đã ngụy tạo dấu chân trên bậu cửa sổ. Dấu này to hơn bất kì dấu giày nào. Tôi nhớ ông có nói đó là một bàn chân bẹt, và đây là lời giải thích. Nhưng đây là trò gì thế, ông Holmes, trò gì đây?"

"A, trò gì đây nhỉ?" Anh bạn tôi trầm ngâm nhắc lại.

White Mason cười khúc khích rồi xoa hai bàn tay vào nhau đầy đắc chí. Ông ta nói to, "Tôi đã nói vụ này rất nan giải mà! Thực tình là rất nan giải!"

6. Tia sáng đầu tiên

Ba vị thám tử kia có nhiều chuyện tỉ mỉ cần phải điều tra nên tôi một mình quay lại chỗ trọ khiêm nhường của chúng tôi ở lữ quán. Nhưng trước khi trở về, tôi tản bộ một vòng khu vườn xưa lạ mắt bên cạnh tòa nhà này. Những hàng cây thủy tùng rất lâu năm được tỉa tót thành những dáng lạ lùng bao quanh, trang trí cho khu vườn. Bên trong là bãi cỏ xanh tươi có một chiếc đồng hồ mặt trời cũ kĩ đặt ngay chính giữa. Toàn bộ cảnh quan toát lên sự êm dịu và tĩnh tại rất thích hợp cho thần kinh có phần chấn động của tôi.

Trong bầu không khí hết sức bình an đó, ta có thể quên đi thư phòng tăm tối với xác người đẫm máu nằm sõng soài dưới sàn nhà, hoặc chỉ nhớ đến nó như nhớ một cơn ác mộng phi thực. Tuy nhiên, khi tôi dạo quanh vườn, cố tắm mình trong hương thơm dịu dàng của cây lá thì lại xảy ra chuyện lạ buộc tôi phải nhớ lại thảm kịch ấy và để lại trong tâm trí tôi một dấu ấn đen tối.

Tôi có nói rằng có rặng thủy tùng bao quanh khu vườn. Ở đầu xa nhất tính từ ngôi nhà, chúng mọc dày hơn và đan thành một hàng giậu chạy dài liên tục. Bên kia hàng giậu, khuất tấm mắt người từ phía ngôi nhà đi tới là một băng ghế đá. Khi đến gần chỗ ấy tôi nghe có tiếng nói, một giọng trầm của đàn ông và được đáp lại bằng tiếng cười khe khẽ của phụ nữ. Một thoáng sau đó, tôi đã vòng qua đầu hàng giậu và tôi nhìn thấy bà Douglas và gã Barker kia trước khi họ nhận ra sự hiện diện của tôi. Dáng vẻ người phụ nữ khiến tôi sửng sốt. Khi ở trong phòng ăn, bà ta tỏ ra nghiêm trang và kín đáo. Bây giờ vẻ u buồn giả tạo của người đàn bà đã tan biến, ánh mắt sáng rực niềm vui sống và trên gương mặt vẫn còn rộn ràng sự thích thú vì lời nói của người bên cạnh. Barker ngồi chồm tới trước, hai bàn tay đan vào nhau, cẳng tay tì trên đầu gối, trên gương mặt điển trai, dạn dĩ cũng mang một nét cười. Trong một thoáng - nhưng là một thoáng muộn màng - họ lại khoác lên hai chiếc mặt nạ nghiêm trang khi thấy bóng tôi xuất hiện. Họ vội trao đổi mấy lời qua lại rồi Barker đứng dậy đi về phía tôi.

"Xin lỗi," ông ta nói, "chắc tôi đang nói chuyện với bác sĩ Watson?"

Tôi cúi chào với vẻ lạnh lùng, hẳn là đã bộc lộ rõ hết cái cảm giác nảy sinh trong tâm trí tôi.

"Chúng tôi nghĩ chắc ông hẳn là bác sĩ Watson, bởi vì tình bạn của ông với ông Sherlock Holmes thì ai cũng biết. Phiền ông ghé đến nói chuyện với bà Douglas một chút được chứ?"

Tôi mang bộ mặt khó chịu đi theo Barker. Tôi có thể thấy rõ mồn một trong tâm trí mình hình ảnh cái xác bị bắn nát đầu nằm trên sàn. Ở đây, chỉ vài giờ sau thảm kịch ấy, vợ cùng bạn thân nhất của người chết lại cười nói với nhau sau một bụi cây ngay trong khu vườn của chính kẻ quá cố. Tôi dè dặt chào người phụ nữ. Khi trong phòng ăn, tôi đã buồn cùng với nỗi buồn đau của bà ta. Bây giờ tôi lãnh đạm nhìn thẳng vào đôi mắt khẩn khoản kia.

"Tôi e ông sẽ nghĩ tôi là người nhẫn tâm chai đá," bà ta nói.

Tôi nhún vai đáp, "Không phải việc của tôi."

"Có lẽ rồi sẽ có ngày ông đánh giá tôi đúng. Giá như ông hiểu rằng..."

"Bác sĩ Watson không việc gì phải hiểu," Barker cắt lời ngay. "Như chính bác sĩ đã nói, đây không phải việc của ông ấy."

"Đúng vậy," tôi nói, "và tôi xin phép đi dạo tiếp."

"Khoan đã, thưa bác sĩ Watson," người phụ nữ cất giọng khẩn khoản. "Có một chuyện mà chỉ ông mới trả lời chính xác nhất, và điều đó có thể hết sức quan trọng đối với tôi. Ông biết rõ hơn ai hết về ông Holmes và mối quan hệ của ông ấy với cảnh sát. Giả sử có một chuyện được tiết lộ riêng cho ông ấy biết thì ông ấy có bắt buộc phải chia sẻ với các thanh tra không?"

"Đúng đấy," Barker sốt sắng phụ họa. "Ông ấy làm việc độc lập hay phối hợp với cảnh sát?"

"Thật sự tôi không biết mình có đủ tư cách để nói về vấn đề này hay không."

"Xin ông, tôi năn nỉ ông đó, bác sĩ Watson! Tôi chắc chắn sẽ mang ơn, mang ơn ông nhiều lắm nếu như ông giúp chúng tôi thấu suốt."

Trong lời bà Douglas có một âm hưởng chân thành tới mức tôi liền lập tức quên hết hành vi thiếu ý thức của bà ta lúc nãy và xiêu lòng chiều theo.

"Ông Holmes là một nhà điều tra độc lập," tôi nói. "Ông ấy tự chủ hoàn toàn và chỉ làm theo lương tri của mình. Nhưng ông ấy tất nhiên cũng cảm thấy cần phải thành thật với các viên chức đang hợp tác điều tra, và ông ấy sẽ không giấu giếm cảnh sát bất cứ điều gì có thể giúp họ đưa tội phạm ra trước công lí. Ngoài điều đó ra tôi không thể nói gì nữa, và tôi đề nghị bà gặp chính ông Holmes nếu như muốn biết rõ hơn."

Nói xong tôi nhấc mũ chào rồi đi tiếp, còn họ vẫn ngôi sau hàng giậu kín đáo ấy. Ngoái nhìn lại khi đi vòng qua đầu kia bờ giậu, tôi vẫn thấy họ đang nói chuyện rất sôi nổi và vì họ đang nhìn theo tôi, rõ ràng chủ đề tranh luận của họ chính là cuộc gặp gỡ vừa rồi.

"Tôi không muốn nghe gì hết về những chuyện bí mật của họ," Holmes nói khi tôi thuật lại những gì xảy ra. Anh đã dành cả buổi chiều ở điền trang hội ý với hai người cộng sự và trở về lúc 5 giờ, bụng cồn cào thèm một bữa ăn nhẹ và tôi đã bảo lữ quán chuẩn bị cho anh. "Không bí mật riêng tư gì hết, Watson ạ, vì chúng sẽ gây ra rất nhiều rầy rà nếu như có lệnh bắt giữ họ vì tội âm mưu và giết người."

"Anh nghĩ sẽ có chuyện đó sao?"

Holmes đang lúc cao hứng và vui vẻ nhất.

"Watson thân mến ơi, khi nào tôi xử xong quả trứng thứ tư, tôi sẽ sẵn sàng cho biết hết tình hình. Tôi không nói là đã hiểu rõ ngọn nguồn, còn lâu mới hiểu cặn kẽ, nhưng khi nào chúng ta tìm ra quả tạ thất lạc..."

"Quả tạ tay là sao?"

"Ôi trời, Wason, lẽ nào anh không hiểu là vụ này phụ thuộc hoàn toàn vào quả tạ thất lạc đó sao? À, à, anh không cần phải thất vọng làm chi, vì nói riêng với anh thôi, tôi nghĩ cả thanh tra Mac lẫn ông cảnh sát xuất sắc của vùng này cũng không hiểu hết tầm quan trọng của nó. Một quả tạ đấy, Watson! Nghĩ mà xem, một người năng tập thể dục thể thao mà chỉ dùng có một quả tạ! Anh cứ tự hình dung đến chuyện phát triển không đồng đều đi, đến nguy cơ nhãn tiền là bị vẹo cột sống đi. Thật kinh ngạc, Watson, thật kinh ngạc!"

Anh ngồi đó miệng nhồm nhoàm bánh mì, mắt ánh lên vẻ tinh quái, quan sát vẻ lúng túng của tôi. Chỉ riêng cảnh tượng anh ngấu nghiến hết sức ngon lành cũng đã bảo đảm cho thành công, bởi tôi còn nhớ rõ anh đã từng có nhiều ngày đêm không buồn ăn uống, lúc tâm trí anh bối rối vì bị một vấn đề nào đó giày vò trong khi gương mặt gầy sôi nổi của anh càng lúc càng hốc hác đi vì việc tập trung toàn bộ trí tuệ đầy lao khổ. Cuối cùng anh châm tẩu thuốc, và đi tới ngồi ở góc lò sưởi của lữ quán xưa này, nói về công việc chậm rãi và tùy hứng cứ như đang thốt thành lời những gì đang nghĩ trong đầu chứ không phải những gì đã suy xét kĩ.

"Dối trá, Watson ạ, dối trá quá mức, trắng trợn, lộ liễu, bất chấp, chúng ta mới bước tới cửa là đã nghe toàn lời giả dối! Đó là khởi điểm của chúng ta. Toàn bộ câu chuyện do Barker kể lại chỉ là dối trá. Nhưng câu chuyện của Barker lại được bà Douglas chứng thực. Cho nên bà ta cũng nói dối luôn. Cả hai đều dối trá, và đang âm mưu gì đó. Cho nên bây giờ chúng ta đã có một vấn đề rõ ràng. Tại sao họ lại nói dối, và họ đang cố che giấu sự thật nào? Ta hãy thử xem, Watson, anh và tôi, xem chúng ta có thể chọc thủng tấm màn dối trá này và nhìn ra sự thật không.

Làm sao tôi biết là họ nói dối? Vì đó là một câu chuyện bịa đặt vụng về hoàn toàn không thể có thật. Nghĩ coi! Theo như câu chuyện chúng ta được nghe kể, tên sát nhân sau khi giết người xong chỉ có không đầy một phút để tháo chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay xác chết, chiếc nhẫn đó lại nằm dưới một chiếc nhẫn khác, rồi lại đeo chiếc nhẫn kia vào, kẻ đó không thể nào lại làm như vậy, rồi còn để tấm danh thiếp quái gở kia bên cạnh nạn nhân nữa. Tôi dám nói chuyện đó rõ ràng là phi lí.

Anh có thể cho rằng, và tôi rất kính trọng óc phán đoán của anh, Watson à, đến nỗi tôi cho là anh sẽ nghĩ như thế, rằng chiếc nhẫn có thể đã được tháo ra trước khi người đó bị giết. Việc cây nến chỉ được thắp sáng trong một thời gian ngắn cho thấy không hề có cuộc gặp gỡ lâu dài nào hết. Chẳng lẽ Douglas, người nghe nói là rất gan lì, lại có thể nhanh chóng giao nộp chiếc nhẫn cưới trước một đòi hỏi chớp nhoáng như vậy, cứ cho là ông ta chịu giao nộp nó đi? Không đâu, Watson, không đâu, kẻ giết người kia đã ở một mình với người chết ấy một lúc lâu với chiếc đèn thắp sáng. Tôi tin chắc điều đó. Nhưng phát súng rõ ràng là nguyên nhân gây ra cái chết. Do đó phát đạn phải được bắn vào lúc nào đó sớm hơn thời điểm chúng ta được nghe kể. Chắc chắn như thế. Do đó, chúng ta đang chứng kiến một âm mưu có chủ đích của hai người đã nghe thấy tiếng súng, gã Barker và bà Douglas. Hơn nữa, khi tôi chứng minh được rằng dấu máu trên bệ cửa sổ là do Barker ngụy tạo đánh lừa cảnh sát, anh sẽ nhận thấy vụ này càng lúc càng bất lợi cho hắn.

Bây giờ chúng ta phải tìm hiểu xem án mạng đó thực tế đã xảy ra vào giờ nào. Cho tới 10 giờ rưỡi thì đám gia nhân vẫn lui tới khắp nhà nên chắc chắn không thể xảy ra trước thời gian đó. Đến 11 giờ kém 15 tất cả bọn họ đều về phòng ngủ, ngoại trừ Ames ở trong kho bếp. Sau khi anh cáo từ chúng tôi lúc chiều nay, tôi đã thử nghiệm vài lần và thấy rằng nếu đứng trong kho bếp khi mọi cánh cửa đã đóng kín thì tôi không hề nghe bất cứ tiếng động nào do MacDonald tạo ra trong thư phòng kia.

Thế nhưng, ở phòng của bà giúp việc thì khác. Nó nằm bên hành lang không xa lắm, và từ đó tôi có thể nghe mơ hồ được tiếng nói nếu như nói rất to. Tiếng nổ của khẩu súng săn đã bị chặn bớt phần nào khi nã đạn ở cự li rất gần, trong trường hợp này không nghi ngờ gì nữa. Tiếng nổ sẽ không lớn, thế nhưng trong đêm im ắng âm thanh đó dễ dàng vọng tới phòng bà Allen. Như chính bà Allen đã nói, bà ta hơi lãng tai; dù vậy trong lời khai bà ta có nhắc đến chuyện nghe tiếng gì đó giống như cánh cửa đóng sầm lại khoảng nửa giờ trước khi có chuông báo động. Nửa giờ trước khi có chuông tức là 11 giờ kém 15. Tôi tin chắc bà ta đã nghe thấy tiếng súng, và đó chính là thời gian thực sự xảy ra vụ giết người.

Nếu như vậy, chúng ta bây giờ phải xác định xem Barker và bà Douglas, giả sử họ không phải là những kẻ giết người, có thể làm gì từ 11 giờ kém 15, khi tiếng súng khiến họ phải đi xuống nhà, cho tới 11 giờ 15, khi họ rung chuông gọi gia nhân đến. Họ làm gì trong khoảng thời gian đó, và tại sao không báo động ngay? Đó là câu hỏi dành cho chúng ta, và trả lời được nó tức là chúng ta đã tiến một bước dài để làm sáng tỏ vụ án này."

"Bản thân tôi tin rằng giữa hai người này có sự thỏa thuận," tôi nói. "Bà ta phải là kẻ nhẫn tâm lắm mới có thể ngồi cười cợt nghe bông đùa trong khi chồng bị sát hại chỉ mới mấy tiếng đồng hồ trước."

"Chính xác. Bà ta cũng không tạo ấn tượng về là một người vợ tốt khi thuật lại những gì xảy ra. Tôi không phải là kẻ hết lòng đeo đuổi nữ giới, như anh đã biết đó, Watson, nhưng kinh nghiệm sống đã dạy tôi biết là ít có người vợ nào, nếu cô ta còn chút quan tâm đến chồng, lại có thể để cho lời nói của bất kì ai ngăn cản mình nhìn xác chồng. Watson, nếu tôi lấy vợ thì chỉ mong sao vợ tôi không cạn tình đến mức bằng lòng cho người giúp việc dắt đi trong khi xác tôi chỉ nằm cách cô ta có vài yard. Màn kịch này dàn dựng quá kém cỏi, bởi vì ngay cả những điều tra viên non nớt nhất cũng phải kinh ngạc khi không hề có tiếng gào khóc, than vãn như thói thường của phụ nữ. Nếu không còn gì khác thì nội tình tiết này thôi cũng đã khiến tôi nghi ngờ đây là một âm mưu sắp đặt sẵn."

"Thế anh cho rằng chắc chắn Barker và bà Douglas phạm tội giết người sao?"

"Câu hỏi thẳng thừng của anh thật đáng sợ đấy, Watson," Holmes vừa nói vừa vung vẩy tẩu thuốc về phía tôi. "Hỏi gì mà cứ như bắn một phát đạn kết liễu thế! Nếu như anh muốn hỏi bà Douglas và Barker có biết sự thật về vụ giết người này và đang mưu đồ che giấu nó thì tôi có thể cho anh một câu trả lời thành thật. Tôi tin chắc như thế. Nhưng lời tuyên bố kinh khủng của anh không có cơ sở. Tạm thời ta hãy xem xét những điểm khó khăn chưa giải quyết được. Chúng ta giả sử rằng giữa hai người này tồn tại một thứ tình cảm bất chính, và cứ cho là họ rắp tâm trừ khử kẻ ngáng đường là ông Douglas đi. Đây là một giả thuyết khó có khả năng xảy ra, bởi vì khi tôi kín đáo dò hỏi, đám gia nhân cùng nhiều người khác, họ đều không làm vững thêm cho giả thuyết này. Ngược lại, có nhiều bằng chứng về chuyện vợ chồng Douglas rất yêu thương nhau."

"Điều đó không đúng, tôi chắc chắn," tôi vừa nói vừa nghĩ đến gương mặt tươi cười xinh đẹp trong khu vườn kia.

"À, ít ra Barker và bà Douglas cũng tạo được ấn tượng đó. Tuy nhiên, chúng ta cứ cho rằng đây là một cặp cực kì tinh ranh đi, họ đã lừa gạt mọi người ngon ơ và thông đồng giết chết người chồng. Ngẫu nhiên người chồng lại là kẻ đang bị nguy hiểm rình rập..."

"Chúng ta chỉ nghe họ nói thế thôi."

Holmes tỏ ra tư lự. "Tôi biết chứ, Watson. Anh đang xây dựng một giả thuyết trên cơ sở là mọi chuyện họ nói ngay từ đầu đều giả dối. Theo ý kiến của anh thì hễ có mối đe dọa tiềm tàng nào, không có hội kín, không có Thung lũng Kinh hoàng, ông trùm Mac gì đó, hay bất cứ thứ gì khác. Chà, suy luận thế cũng hợp lí. Thử nhìn xem nó đưa chúng ta đến đâu. Họ bịa ra chuyện đó để giải thích cho vụ án. Rồi họ để chiếc xe đạp ngoài vườn làm bằng chứng về sự tồn tại của một người ngoài, vết máu trên bệ cửa sổ cũng có cùng mục đích. Cả tấm thiếp bên xác chết cũng thế, có thể nó đã được chuẩn bị sẵn. Tất cả những dữ kiện đó đều khớp với giả định của anh đấy, Watson. Nhưng bây giờ chúng ta lại gặp phải những chi tiết dứt khoát là gai góc, khó chịu, và không thể lắp vào đâu cho vừa. Trong mọi thứ vũ khí, tại sao lại phải dùng một khẩu súng săn cưa nòng... và lại là súng của Mỹ chứ? Làm sao cặp này có thể chắc chắn rằng tiếng nổ sẽ không lôi kéo ai tới chỗ họ? Chuyện bà Allen không để tâm đến cánh cửa đóng sầm chỉ là tình cờ thôi. Tại sao cặp nhân tình này lại làm những chuyện như vậy, Watson?"

"Thú thật là tôi không lí giải được."

"Hơn nữa, nếu một người đàn bà và nhân tình âm mưu giết chết người chồng, liệu họ có rêu rao tội lỗi của mình bằng cách tháo chiếc nhẫn cưới sau khi giết người để phô trương không? Anh thấy chuyện đó có thể xảy ra không, Watson?"

"Không, không thể."

"Và thêm nữa, nếu như anh muốn bày ra một chiếc xe đạp đã giấu kín, thử hỏi chuyện đó có đáng làm không khi mà ngay cả một tay thám tử đần độn nhất cũng thấy ngay đó là trò đánh lạc hướng, bởi vì chiếc xe đạp là thứ đầu tiên mà kẻ đào tẩu cần tới để trốn thoát."

"Tôi không thể nghĩ ra cách lí giải nào."

"Thế nhưng bao giờ cũng có cách kết hợp các sự kiện để đưa ra lời lí giải hợp lí nhất. Tôi sẽ cho anh thấy một hướng suy nghĩ khả dĩ hơn, đây chỉ là một trò thao dượt tư duy, không hề khẳng định là hướng đi này đúng. Thú thật đây chỉ là tưởng tượng mà thôi, nhưng chẳng phải tưởng tượng thường dẫn ta đến với sự thật đấy sao? Ta giả sử rằng có một bí mật tội lỗi nào đó, một bí mật đúng là ô nhục trong cuộc đời của chính Douglas. Vì nó mà có kẻ đã giết chết ông ta, và ta giả sử rằng đó là một kẻ phục thù, một kẻ ở bên ngoài. Kẻ phục thù này, vì lí do nào đó mà thú thật tôi cũng không sao giải thích được, đã lấy chiếc nhẫn cưới của người chết. Mối thù này có thể đã có từ cuộc hôn nhân đầu tiên của Douglas, và chiếc nhẫn bị lấy đi vì chính lí do đó.

Trước khi kẻ phục thù tẩu thoát, Barker và vợ của Douglas đã vào phòng đó. Tên giết người đã thuyết phục họ rằng bắt hắn chỉ tổ phơi bày một chuyện nhục nhã ghê gớm nào đó. Họ tin theo lời hắn ta và để cho hắn đi. Vì thế, có lẽ họ đã hạ cây cầu xuống, chuyện này có thể làm rất êm thắm, và sau đó kéo cầu lên trở lại. Hung thủ tẩu thoát và vì lí do nào đó lại nghĩ rằng đi bộ sẽ an toàn hơn đi xe đạp, cho nên hắn giấu chiếc xe ở một nơi kín đáo để hắn cao chạy xa bay rồi thì người ta mới tìm thấy nó. Đến đây giả định của ta vẫn nằm trong phạm vi khả thi, phải vậy không?"

"Chà, nghe có lí, chắc chắn rồi," tôi nói có phần dè dặt.

"Watson, chúng ta cần phải nhớ là cho dù bất cứ chuyện gì xảy ra thì chắc chắn là rất lạ thường. Đấy, bây giờ tiếp tục với giả định của chúng ta nhé; sau khi tên sát nhân đi khỏi thì hai người này, không nhất thiết phải là một cặp nhân tình, nhận ra rằng họ đã tự đặt mình vào một tình huống khó lòng chứng minh là họ vô can hoặc vô tội. Họ ứng phó một cách hấp tấp và vụng về. Barker lấy chiếc dép vấy máu tạo ra dấu chân trên bệ cửa sổ để ngụ ý đó là cách tên sát nhân đã tẩu thoát. Họ hiển nhiên là phải nghe thấy tiếng súng, cho nên họ phải báo động đúng như họ đã làm, nhưng báo động sau khi xảy ra chuyện cả nửa giờ đồng hồ."

"Thế theo anh thì làm sao chứng minh được hết mọi điều đó?"

"Chà, nếu có người bên ngoài thì ta có thể truy lùng và bắt hắn. Đó sẽ là chứng cứ hữu hiệu nhất. Bằng không... à, các phương kế khoa học còn lâu mới cạn kiệt. Tôi nghĩ rằng chỉ cần một buổi tối nghiên cứu thôi là tôi sẽ có cách."

"Một buổi tối thôi!"

"Tôi tính chốc nữa sẽ quay lại nơi đó. Tôi đã thu xếp với ông Ames đáng mến, ông ta hoàn toàn không dốc lòng vì Barker đâu. Tôi sẽ ngồi trong phòng đó xem thử bầu không khí ấy có gợi hứng gì cho mình không. Tôi tin vào thổ thần thổ địa. Cứ cười đi, anh bạn Watson. Chà, để rồi xem. À này, anh có mang theo cái dù to của anh đấy chứ?"

"Nó đây này."

"Chà, cho tôi mượn được không?"

"Hẳn rồi... nhưng đó là một thứ vũ khí chẳng ra gì! Nếu như có nguy hiểm..."

"Chẳng có gì nghiêm trọng đâu, Watson thân mến ơi, hoặc nếu cần thì tôi nhất định sẽ nhờ anh trợ giúp. Nhưng tôi sẽ mang cái dù theo. Lúc này tôi chỉ còn chờ các cộng sự của chúng ta từ Tunbridge Wells trở về mà thôi, họ tới đó để tìm cho ra người có khả năng là chủ chiếc xe đạp ấy."

Mãi tới khi sụp tối, thanh tra MacDonald và White Mason mới quay về sau chuyến đi xa, và họ xuất hiện với bộ mặt hả hê, cho biết đã có tiến triển lớn trong việc điều tra.

"Trời, thú thật tôi đã không hề tin là có dính líu tới người bên ngoài," MacDonald nói, "nhưng đó là chuyện cũ rồi. Chúng tôi đã xác định được nguồn gốc chiếc xe, và đã có mô tả nhân dạng của đối tượng, đúng là một bước tiến xa."

"Nghe có vẻ như chuyện bắt đầu đến hồi kết," Holmes nói. "Tôi hết lòng chúc mừng hai ông."

"Tôi bắt đầu từ dữ kiện ông Douglas đã tỏ ra bất an từ ngày hôm trước, khi ông ta đến Tunbridge Wells. Như vậy chính ở Tunbridge Wells ông ta mới bắt đầu nhận ra được mối nguy hiểm nào đó. Cho nên nếu có người tới đây bằng xe đạp thì hắn ta hẳn phải đến từ Tunbridge Wells. Chúng tôi mang chiếc xe đạp theo và mang đến cho các khách sạn xem. Người quản lí ở Eagle Commercial nhận ra ngay chiếc xe là của một người tên là Hargrave đã thuê phòng ở đó cách đây hai hôm. Toàn bộ tư trang của hắn ta chỉ là một cái vali nhỏ và chiếc xe đạp này. Hắn đã đăng kí với khách sạn là hắn từ London đến nhưng không hề cho biết địa chỉ cụ thể. Chiếc vali có xuất xứ từ London, và các thứ trong đó đều là đồ Anh quốc, nhưng bản thân người này chắc chắn là dân Mỹ."

"Chà, chà," Holmes hân hoan nói, "quả thực các ông đã làm được những việc rất thực tiễn trong khi tôi cứ ngồi đây với bạn tôi để thêu dệt bao giả thuyết! Đó là một bài học về tính thực tế, ông Mac ạ."

"À, đúng vậy đó, ông Holmes," viên thanh tra đắc chí nói.

"Nhưng điều này có thể lại rất phù hợp với giả thuyết của anh," tôi nói. "Có thể phù hợp mà cũng có thể không. Nhưng hãy cho chúng tôi nghe đoạn cuối, ông Mac. Không có gì giúp xác định tung tích kẻ đó sao?"

"Ít tới mức ta thấy rõ là hắn đã cẩn thận phòng xa. Không hề có giấy tờ hay thư từ gì, và chẳng rõ manh mối nào trên quần áo. Trên bàn phòng ngủ, hắn để một tấm bản đồ đường đi xe đạp của địa hạt. Hắn đã rời khách sạn sau bữa điểm tâm sáng hôm qua trên chiếc xe đạp đó và cho đến lúc chúng tôi điều tra thì không ai biết tin tức gì về hắn nữa."

"Điều đó khiến tôi thắc mắc đấy, ông Holmes," White Mason nói. "Nếu tên ấy không muốn bị hô hoán truy đuổi thì ắt là hắn phải quay về và ở lại khách sạn như một du khách vô tội rồi. Còn như thế này, hắn phải biết người quản lí khách sạn sẽ đi báo cảnh sát và sự mất tích của hắn sẽ được liên kết với vụ án mạng chứ."

"Ai cũng sẽ nghĩ như thế. Dù vậy, cho đến lúc này ta biết là hắn không hề ngu ngốc, bởi vì hắn vẫn chưa bị bắt. Nhưng còn nhân dạng của hắn... như thế nào?"

MacDonald xem lại sổ tay.

"Những gì người ta có thể cho biết thì chúng tôi có hết cả đầy rồi. Hắn không thuộc dạng người đặc biệt khiến ai cũng phải chú ý đâu; tuy nhiên người gác cửa khách sạn, nhân viên trực, và cô hầu phòng đều đồng ý rằng những đặc điểm nhân dạng này khá đầy đủ. Hắn cao chừng năm foot chín, tuổi trạc năm mươi, tóc hoa râm, ria mép nhuốm bạc, mũi khoằm, mang một gương mặt mà ai cũng mô tả là dữ tợn và đáng sợ."

"Chà, trừ nét mặt ra thì mô tả nhân dạng này nghe cứ như tả chính ông Douglas," Holmes nói. "Ông ta cũng trên năm mươi tuổi, tóc và ria mép ngả bạc, chiều cao cũng xấp xỉ. Ông có biết gì thêm nữa không?"

"Hắn ta mặc bộ vét dày màu xám cài khuy lệch, bên ngoài choàng thêm áo khoác ngắn màu vàng và đội mũ két mềm."

"Còn khẩu súng săn thì sao?"

"Dài không tới hai foot. Nó có thể bỏ vừa trong vali. Hắn ta dễ dàng giấu khẩu súng đó trong áo khoác."

"Theo ông những điều này liên quan thế nào đến tổng thể vụ án?"

"Chà, ông Holmes," MacDonald nói, "khi nào bắt được tên này chúng tôi hãy nói thì tốt hơn, và ông có thể tin chắc là chỉ trong vòng năm phút sau khi lấy lời khai nhân chứng, tôi đã gửi mô tả nhân dạng của hắn bằng điện tín đi các nơi. Nhưng cho dù chỉ có vậy thôi, công việc rõ ràng đã tiến triển rất nhiều. Chúng ta biết có một người Mỹ tự xưng là Hargrave đã đến Tunbridge Wells cách đây hai hôm với một chiếc xe đạp và một cái vali. Trong vali là khẩu súng săn cưa nòng, do đó hắn đến đây với chủ đích gây án. Sáng hôm qua, hắn đã rời khỏi nơi đó bằng xe đạp, súng giấu trong áo khoác. Không một ai nhìn thấy hắn tới đây, theo như những gì chúng ta đã biết, nhưng hắn không cần phải băng qua ngôi làng này để tới cổng vườn điền trang và trên đường lộ lại có nhiều người đi xe đạp. Có thể hắn đã lập tức giấu ngay chiếc xe vào bụi cây nơi sau này người ta tìm ra, và cũng có khả năng là hắn đã ẩn nấp ở đó, theo dõi ngôi nhà, chờ ông Douglas đi ra. Khẩu súng săn ấy là một thứ vũ khí kì quặc để sử dụng trong nhà, nhưng ban đầu hắn đã định sử dụng ở bên ngoài và như thế hiển nhiên lại thuận lợi, vì không thể bắn trật và tiếng nổ trong một khu vực săn bắn của người Anh như nơi này là rất đỗi bình thường, tới mức chẳng ai buồn chú ý."

"Tất cả đều rất hợp lí," Holmes nói.

"Chà, ông Douglas đã không ló mặt ra. Thế thì hắn phải làm gì đây? Hắn bỏ xe đạp lại và tiếp cận ngôi nhà vào lúc chạng vạng. Hắn thấy cây cầu hạ xuống và chẳng có ai chung quanh. Chắc chắn hắn nhân cơ hội này đi vào, nếu có gặp ai thì hắn sẽ viện cớ gì đó. Hắn không gặp ai cả. Hắn lẻn ngay vào căn phòng đầu tiên hắn nhìn thấy và nấp sau tấm rèm. Từ chỗ đó, hắn nhìn thấy cây cầu được kéo lên và biết rằng lối thoát duy nhất là phải vượt qua hào nước. Hắn chờ đến 11 giờ 15, khi ông Douglas theo thông lệ mỗi đêm đi kiểm tra quanh nhà và bước vào phòng đó. Hắn bắn ông ta và tẩu thoát như đã trù tính. Hắn biết là người của khách sạn sẽ mô tả chiếc xe đạp và đó sẽ là manh mối chống lại hắn, cho nên hắn bỏ xe lại và bằng cách nào đó tìm đường tới London hay tới một nơi ẩn náu an toàn mà hắn đã sắp xếp. Ông thấy thế nào, ông Holmes?"

"Chà, cách lí giải của ông rất súc tích và rõ ràng. Đó là sự việc theo ý ông. Còn theo ý tôi thì vụ án đã được thực hiện sớm hơn nửa giờ so với lời khai báo, cả bà Douglas và Barker đều cùng nhau âm mưu che giấu điều gì đó, hai người này đã giúp cho tên sát nhân tẩu thoát hay ít ra thì họ đã đến căn phòng đó trước khi tên kia tẩu thoát, và họ đã ngụy tạo chứng cớ về chuyện tên kia tẩu thoát qua cửa sổ trong khi rất có khả năng là chính họ đã hạ cầu xuống cho hắn đi ra. Đó là cách lí giải của tôi cho nửa đầu câu chuyện."

Hai thanh tra kia lắc đầu.

"Ồ, ông Holmes, nếu đúng thế thì chúng ta hết gặp bí ẩn này lại đụng bí ẩn khác," viên thanh tra đến từ London nói.

"Xét theo phương diện nào đó là một bí ẩn nan giải hơn," White Mason nói. "Người phụ nữ đó cả đời chưa hề sang Mỹ. Làm sao bà ta lại có quan hệ với một tên sát nhân người Mỹ, khiến bà ta phải bảo vệ hắn chứ?"

"Tôi hoàn toàn thừa nhận những điều nan giải này," Holmes nói. "Tôi tính tự mình đêm nay làm một cuộc điều tra nhỏ, và rất có thể việc này sẽ đóng góp được chút gì cho công việc chung."

"Có cần chúng tôi hỗ trợ không, ông Holmes?"

"Không, không cần! Bóng tối và cái dù của bác sĩ Watson, tôi chỉ cần thế thôi. Còn Ames, ông Ames trung thành, nhất định ông ta sẽ chiếu cố tôi. Mọi hướng suy luận đều dẫn tôi quay ngược về một câu hỏi cốt lõi: Tại sao một người ưa thể thao lại có thể luyện hình thể theo một cách lạ thường là chỉ dùng duy nhất một quả tạ tay?"

Khi Holmes trở về sau chuyến độc hành thì trời đã khuya. Chúng tôi ngủ trong một phòng đôi, phòng tốt nhất mà lữ quán vùng quê nhỏ bé này có thể đáp ứng. Tôi đang ngủ thì mơ màng tỉnh giấc vì tiếng chân anh vào phòng.

"Chà, Holmes," tôi làu bàu, "tìm được gì không?"

Anh lẳng lặng đứng bên tôi, tay cầm nến. Rồi thân hình cao gầy của anh cúi xuống gần tôi. Anh thì thào, "Nghe này, Watson, anh có sợ phải ngủ chung phòng với một người điên, một kẻ bại não, một gã khờ đầu óc bất bình thường không?"

"Không hề," tôi ngạc nhiên đáp lại.

"À, thế thì may quá," anh nói và suốt đêm ấy anh không thốt lên một lời nào nữa.

7. Lời giải

Buổi sáng sau bữa điểm tâm, chúng tôi thấy thanh tra MacDonald và White Mason đang ngồi hội ý riêng trong phòng khách nhỏ của viên hạ sĩ cảnh sát. Trên chiếc bàn trước mặt họ là một chồng thư từ với điện tín, họ đang cẩn thận chọn lọc và ghi chép. Có ba bức đã được bỏ sang một bên.

"Vẫn còn theo dấu vết người đạp xe bí ẩn đấy à?" Holmes vui vẻ hỏi. "Có tin tức gì mới về tên côn đồ ấy không?"

MacDonald khổ sở chỉ vào đống thư tín.

"Hiện giờ người ta phát hiện ra hắn ở Leicester, Nottingham, Southampton, Derby, East Ham, Richmond và mười bốn nơi khác nữa. Ở ba nơi là East Ham, Leicester và Liverpool, hắn đã bị truy tố và đã bị bắt giam. Cả nước này hình như đầy những tên tội phạm chạy trốn để khỏi mặc áo tù."

"Ôi trời!" Holmes nói với vẻ thông cảm. "Này, ông Mac và ông White Mason, tôi muốn hai ông nghe một lời khuyên rất chân thành. Khi tham gia vụ này cùng các ông, tôi đã ra điều kiện, chắc chắn các ông còn nhớ, là tôi sẽ không trình bày những giả thuyết chỉ chứng minh được nửa vời, mà tôi sẽ giữ riêng và cân nhắc các ý kiến của mình cho đến khi nào thấy hài lòng rằng mọi chi tiết đều đúng. Vì lí do đó, hiện thời tôi không thể cho các ông biết hết những gì đang nghĩ trong đầu. Mặt khác, tôi cũng đã nói là sẽ đối xử công bằng với các ông nên tôi không thể để mặc các ông phí công vô ích thêm nữa. Vì vậy sáng nay tôi muốn khuyên các ông một lời, tóm gọn trong bốn chữ thôi: Bỏ vụ này đi."

MacDonald và White Mason trố mắt kinh ngạc nhìn người cộng sự lừng danh.

"Ông xem vụ này là vô vọng!" Viên thanh tra kêu to.

"Tôi xem việc các ông đang theo đuổi là vô vọng. Còn việc tìm ra sự thật thì tôi lại không cho là vô vọng."

"Nhưng kẻ đi xe đạp kia! Hắn đâu phải chuyện bịa. Chúng tôi có mô tả nhân dạng, cái vali, chiếc xe của hắn. Nhất định hắn phải ở đâu đó. Tại sao chúng ta không thể bắt hắn chứ?"

"Đúng, đúng, chắc chắn hắn phải ở đâu đó, và chắc chắn chúng ta sẽ bắt được hắn, nhưng tôi không muốn các ông phí phạm sức lực ở East Ham hay Liverpool. Tôi bảo đảm chúng ta có thể tìm ra con đường ngắn hơn để đạt kết quả."

"Ông đang giấu giếm gì đó. Vậy là không công bằng đâu, ông Holmes." Viên thanh tra bực tức.

"Ông biết phương pháp làm việc của tôi mà, ông Mac. Nhưng tôi chỉ giữ kín trong một thời gian ngắn nhất có thể được. Tôi chỉ muốn kiểm chứng các thông tin theo cách nào đó, việc này sắp hoàn thành rồi, sau đó tôi sẽ cáo từ quay về London và để lại toàn bộ kết quả cho ông tùy nghi sử dụng. Tôi không thể làm khác vì tôi mang ơn ông quá lớn, vì trong mọi chuyện đã kinh qua tôi không nhớ nổi có vụ điều tra nào lại lí thú và đặc biệt như thế này."

"Tôi hoàn toàn không hiểu nổi, ông Holmes. Chúng tôi đã gặp ông tối qua sau khi từ Tunbridge Wells về, và nhìn chung ông đã đồng tình với kết quả của chúng tôi. Sau đó có chuyện gì mà ông lại đổi ý hoàn toàn về vụ này thế?"

"Chà, chẳng giấu gì ông, như tôi đã nói đêm qua tôi có dành ra vài giờ tìm hiểu ở điền trang."

"Chà, có chuyện gì?"

"À, tạm thời tôi chỉ có thể trả lời rất chung chung vậy thôi. Nhưng mà này, tôi đang đọc một cẩm nang du lịch tuy ngắn nhưng hấp dẫn và dễ hiểu về lâu đài cổ ấy, có thể mua với giá một xu từ tiệm tạp hóa trong vùng."

Nói tới đây Holmes rút trong túi áo gilê ra một tập sách nhỏ, bìa có in một tranh khắc thô sơ về điền trang Birlstone cổ kính.

"Ông Mac thân mến ơi, cuộc điều tra sẽ thú vị thêm bội phần khi người ta hiểu rõ bối cảnh lịch sử của môi trường xung quanh. Đừng nôn nóng, vì tôi quả quyết với ông rằng ngay cả một câu chuyện sơ lược như thế này cũng đủ giúp ta hình dung được quá khứ. Để tôi cho ông một ví dụ nhé: Được xây dựng vào năm thứ năm dưới triều James I, và nằm trên đất của một tòa nhà còn cổ xưa hơn, điền trang Birlstone là một trong những minh chứng đẹp nhất còn sót lại về các lâu đài kiểu Jacobean có hào nước bao quanh..."

"Ông chế nhạo chúng tôi đó, ông Holmes!"

"Ô kìa, ông Mac! Lần đầu tiên tôi thấy ông nóng giận đấy. Thôi, tôi sẽ không đọc nguyên văn nữa vì ông khó chịu với đề tài này. Nhưng ông sẽ thừa nhận rằng có nhiều sự kiện đáng chú ý liên quan đến ngôi nhà cổ ấy, nếu tôi nói cho ông biết rằng đã có một ngài đại tá trong phe Quốc hội chiếm giữ nơi đó vào năm 1644, hay vua Charles ẩn náu ở đó suốt nhiều ngày vào thời Nội chiến, và cuối cùng là chuyện vua George II từng tới viếng thăm nơi đây."

"Tôi không hề nghi ngờ gì, ông Holmes, nhưng những điều đó chẳng liên quan gì đến công việc của chúng ta."

"Không liên quan à? Không liên quan à? Hãy nhìn rộng hơn đi, ông Mac thân mến ơi, đó là một trong những điều thiết yếu của nghề nghiệp chúng ta. Nghĩ ra ý tưởng kết hợp với vận dụng linh hoạt những kiến thức thu thập được thường thu được ích lợi vô cùng lớn đấy. Xin ông bỏ quá cho những nhận xét từ một người, tuy chỉ hơi am hiểu về tội phạm, nhưng vẫn lớn tuổi hơn và có lẽ nhiều kinh nghiệm hơn ông."

"Tôi là người đầu tiên thừa nhận điều đó," viên thanh tra kia nói thật tình. "Nhưng phải nói là cách ông trình bày quan điểm thật vòng vo rối rắm hết sức."

"Thôi, thôi, tôi bỏ qua phần lịch sử để đi thẳng vào các sự việc hiện tại. Như đã nói, đêm qua tôi ghé đến điền trang. Tôi không gặp cả Barker lẫn bà Douglas. Tôi thấy không cần phải quấy rầy họ, nhưng tôi rất vui khi được biết nữ gia chủ chẳng có vẻ gì héo hon buồn khổ cả và bà ta đã ăn một bữa tối rất thịnh soạn. Tôi chỉ đặc biệt đến thăm ông Ames đáng kính, người mà tôi có cảm tình và ông ấy thì cũng quý tôi, và kết quả là ông ta cho tôi ngồi một mình trong thư phòng đó một lúc mà không cần hỏi ý kiến ai hết."

"Sao? Ngồi với xác chết ư?" Tôi thốt lên.

"Không, không, mọi thứ bây giờ đã đâu vào đấy. Ông Mac, theo tôi biết thì ông cho phép tôi làm điều đó mà. Căn phòng ấy đã trở lại nguyên trạng, và tôi đã có mười lăm phút rất hữu ích ở đó."

"Thế ông làm gì?"

"Chà, chuyện hết sức đơn giản nên không việc gì phải giữ bí mật: Tôi tìm quả tạ tay bị thất lạc. Quả tạ ấy luôn giữ một vai trò quan trọng trong đánh giá của tôi về vụ này. Cuối cùng tôi đã tìm ra."

"Ở đâu?"

"À, tới đấy chúng ta ngấp nghé khám phá ra bí ẩn này rồi. Để tôi nói thêm chút nữa, một chút xíu thôi, và tôi hứa sau này sẽ chia sẻ hết với ông những gì tôi biết."

"Chà, chúng tôi bắt buộc phải làm theo ý ông vậy," viên thanh tra nói, "nhưng ông bảo chúng tôi bỏ vụ này thì... tại sao chúng tôi phải bỏ vụ này hở trời?"

"Ông Mac thân mến, vì lí do đơn giản là ngay từ đầu ông đã không biết mình đang điều tra cái gì."

"Chúng tôi điều tra vụ sát hại ông Douglas ở điền trang Birlstone."

"Đúng, đúng, các ông đang làm việc đó. Nhưng đừng mất công truy tìm quý ông bí ẩn đi xe đạp kia nữa. Tôi quả quyết với ông là chẳng có ích gì đâu."

"Thế ông bảo chúng tôi phải làm gì chứ?"

"Tôi sẽ bảo các ông chính xác những gì cần làm, nếu như các ông chịu nghe theo."

"Chà, tôi buộc phải nói là ông hành động kì quặc nhưng luôn có cái lí của ông. Tôi sẽ làm theo lời ông."

"Còn ông, White Mason?"

Viên thanh tra vùng quê bất lực nhìn hết người này sang người khác. Holmes cùng các phương pháp của anh đều mới lạ đối với ông ta. Một hồi sau, White Mason mới nói, "Ồ, nếu anh Mac đây thấy ổn thì tôi cũng bằng lòng thôi."

"Hay lắm!" Holmes nói. "Đó, vậy thì tôi phải đề nghị hai ông nên vui vẻ, thư thái đi dạo ngắm cảnh thôn quê. Người ta bảo tôi rằng quang cảnh nhìn từ đồi Birlstone về phía Weald rất độc đáo. Chắc chắn chúng ta sẽ tìm một lữ quán nào đó thích hợp để ăn trưa, mặc dù tôi không thể giới thiệu địa điểm nào vì tôi không am hiểu vùng này. Vào buổi chiều, mệt mỏi nhưng vui thú..."

"Này, đùa cợt như thế là quá lắm rồi!" MacDonald tức tối đứng bật khỏi ghế.

"Thôi, thôi, các ông muốn làm gì hôm nay thì làm," Holmes nói, vui vẻ vỗ vai viên thanh tra. "Muốn làm gì, muốn đi đâu thì cứ việc, nhưng nhất định phải gặp tôi ở đây trước hoàng hôn... nhất định đấy, ông Mac."

"Nói thế nghe còn được."

"Tôi chỉ khuyên toàn điều hay thôi, nhưng tôi không bắt buộc, chỉ cần là các ông ở đây khi tôi cần đến. Nhưng bây giờ, trước khi chia tay, tôi muốn ông viết một lá thư cho ông Barker."

"Nội dung ra sao?"

"Tôi đọc cho ông viết nhé. Sẵn sàng chưa? Thưa ông. Tôi chợt thấy chúng tôi có bổn phận phải tát cạn hào nước, với hi vọng sẽ tìm ra đôi điều..."

"Phi lí," viên thanh tra ngắt lời. "Tôi đã kiểm tra rồi."

"Ồ kìa, ông thanh tra! Xin vui lòng làm theo tôi bảo."

"À, đọc tiếp đi."

"...với hi vọng sẽ tìm ra đôi điều có liên quan đến vụ án. Tôi đã sắp xếp và sáng sớm mai thợ thuyền sẽ bắt đầu làm việc để đổi hướng dòng chảy hào nước.."

"Phi lí!"

"...đổi hướng dòng chảy của hào nước, do đó tôi nghĩ tốt nhất nên báo trước việc này cho ông rõ. Bây giờ kí tên vào, và cho người gửi thư đi lúc 4 giờ. Vào giờ đó, chúng ta sẽ gặp lại nhau ở phòng này. Từ giờ đến đó ai muốn làm gì cứ làm, vì tôi bảo đảm với các ông rằng việc điều tra chắc chắn đã tới lúc phải tạm ngưng."

Trời dần tối khi chúng tôi tụ họp lại. Thái độ Holmes bây giờ rất nghiêm túc, tôi thì tò mò, còn hai viên thanh tra kia rõ ràng là bất bình và khó chịu.

"Đấy, thưa quý vị," anh bạn tôi trịnh trọng nói, "bây giờ tôi yêu cầu quý vị cùng tôi kiểm chứng hết mọi chuyện, và tự quý vị sẽ phán xét xem chuyện ta thấy có xác minh được cho kết luận của tôi hay không. Tối nay trời lạnh giá và tôi không biết cuộc phiêu lưu của chúng ta sẽ kéo dài bao lâu, cho nên tôi đề nghị quý vị hãy mặc áo khoác thật ấm. Điều tối quan trọng là chúng ta phải có mặt đúng chỗ trước khi trời sụp tối, cho nên xin phép quý vị, chúng ta phải khởi hành ngay lập tức."

Chúng tôi đi men theo ranh giới phía ngoài khu vườn điền trang tới một khe hở của hàng rào bao quanh. Chúng tôi lách qua lối này và rồi trong bóng tối dần buông, cả nhóm đi theo Holmes cho đến khi gặp một bụi cây mọc đối diện cửa chính và cây cầu rút. Cây cầu vẫn chưa được kéo lên. Holmes ngồi thụp sau lùm cây lá xum xuê và ba người chúng tôi làm theo.

"Chà, bây giờ ta sẽ làm gì?" MacDonald hỏi có phần cộc cằn.

"Kiên nhẫn và càng ít gây tiếng động càng tốt," Holmes đáp.

"Nhưng chúng ta đến vì cái gì cơ chứ? Thật sự tôi nghĩ rằng ông nên đối xử với chúng tôi thẳng thắn hơn."

Holmes bật cười rồi nói, "Watson cứ một mực cho tôi là một kịch sĩ trong đời thực. Chút máu nghệ sĩ tuôn chảy trong tôi và luôn đòi hỏi một màn biểu diễn ra trò. Ông Mac, cái nghề của chúng ta ắt sẽ tẻ ngắt nếu như chúng ta không thỉnh thoảng dàn cảnh để tôn vinh phần kết. Một lời kết tội lỗ mãng, một cái vỗ vai cục súc... người ta sẽ nghĩ sao về một đoạn kết như thế? Nhưng một chút suy luận nhanh, một cạm bẫy tinh vi, một dự báo đúng đắn những gì sẽ diễn ra, hoặc nếu ta chứng minh thành công cho một giả thuyết táo bạo... những điều đó há chẳng phải là niềm kiêu hãnh và tính chính đáng của công việc đời ta sao? Ngay lúc này ông đang run lên vì sức quyến rũ của tình thế và vì những tiên liệu về cuộc đi săn. Nếu tôi cứ nói rõ ràng hết cả thì còn gì hồi hộp nữa? Tôi chỉ yêu cầu một chút kiên nhẫn, ông Mac ạ, và rồi ông sẽ biết hết mọi chuyện thôi."

"Ôi, tôi chỉ mong niềm kiêu hãnh và tính chính đáng cùng với các thứ kia sẽ xuất hiện trước khi chúng ta chết cóng hết cả lũ," viên thanh tra London nói với vẻ cam chịu hài hước.

Tất cả chúng tôi đều có lí do cụ thể để nuôi hi vọng, bởi vì việc canh chừng này kéo dài lê thê trong cảnh rét mướt. Bóng đêm từ từ bao trùm mặt tiền âm u chạy dài của tòa nhà cổ. Khí ẩm, lạnh, hôi hám bốc lên từ hào nước khiến chúng tôi buốt giá tận xương tủy và răng thì va vào nhau lập cập. Ngoài một chiếc đèn duy nhất treo trên cổng vào và một quầng sáng ổn định hắt ra từ thư phòng định mệnh kia, bốn bề đều tối đen tĩnh lặng như tờ.

"Còn kéo dài bao lâu nữa?" Viên thanh tra lại hỏi. "Và chúng ta đang theo dõi cái gì đây?"

"Tôi cùng như ông, đâu biết được sẽ còn đợi đến chừng nào," Holmes trả lời có phần khó chịu. "Nếu bọn tội phạm lúc nào cũng lên lịch trình hành động chính xác như giờ tàu chạy thì quả là quá tiện cho tất cả chúng ta rồi. Còn chúng ta đang theo... Kìa, ta đang theo dõi cái đó đấy!

Lúc anh nói, ánh đèn vàng trong thư phòng bị che khuất vì có người nào đi qua đi lại phía trước. Bụi cây đang che giấu chúng tôi mọc đối diện với cửa sổ căn phòng và cách xa chừng trăm foot. Lúc này, cửa sổ mở toang ra sau mấy tiếng bản lề kêu kẽo kẹt, và chúng tôi có thể thấy lờ mờ bóng cái đầu và vai một người đàn ông đang nhìn ra ngoài màn đêm. Hắn nhìn quanh quất một cách lén lút, mờ ám suốt mấy phút liền giống như một kẻ muốn biết chắc là mình không bị theo dõi. Sau đó hắn chồm người ra, và trong sự tĩnh mịch đặc quánh của đêm chúng tôi nghe tiếng khua nước róc rách nhè nhẹ. Hình như hắn đang khuấy động hào nước với một vật trên tay. Rồi thình lình, như ngư dân kéo cá, hắn kéo lên vật gì đó - một vật lớn, tròn tròn che khuất ánh đèn khi nó được lôi qua khung cửa mở.

"Đi!" Holmes kêu lên. "Đi nào!"

Tất cả chúng tôi đều đứng dậy, tay chân tê cứng, loạng choạng theo Holmes, trong lúc anh chạy thật nhanh qua cầu và rung chuông cửa kịch liệt. Phía bên kia có tiếng mở then cửa cọt kẹt và ngay lối vào xuất hiện ông Ames đang trong cơn sửng sốt. Không nói một lời, Holmes gạt ông ta qua một bên, rồi với chúng tôi theo sau, anh lao vào căn phòng có kẻ nãy giờ chúng tôi theo dõi.

Chiếc đèn dầu trên bàn tỏa ra thứ ánh sáng lúc nãy chúng tôi nhìn thấy ở bên ngoài. Bây giờ chiếc đèn ấy nằm trong tay Cecil Barker, ông ta đang giơ đèn về phía chúng tôi khi tất cả ùa vào. Ngọn đèn hắt sáng lên gương mặt nhẵn nhụi, cương quyết, mạnh mẽ và đôi mắt ngập ý đe dọa của ông ta.

"Chuyện quỷ quái gì thế này?" Barker to tiếng. "Các người tìm cái gì thế?"

Holmes đảo mắt nhìn quanh thật nhanh rồi nhảy xổ tới một cái bọc ướt sũng nước có buộc dây vừa được tống vào dưới bàn viết.

"Chúng tôi đang tìm thứ này, ông Barker, cái bọc này, được dằn thêm một quả tạ cho nặng, mà ông vừa mới lôi lên từ dưới hào nước."

Barker ngỡ ngàng trân trối nhìn Holmes.

"Làm sao ông biết được chuyện này?" Ông ta hỏi.

"Đơn giản là tôi đã bỏ nó xuống đó."

"Ông bỏ nó xuống đó? Ông?"

"Có lẽ tôi phải nói là 'trả nó về chỗ cũ' thì đúng hơn," Holmes nói. "Chắc ông còn nhớ, thanh tra MacDonald, tôi cứ lấn cấn vì thấy thiếu mất một quả tạ. Tôi đã lưu ý ông, nhưng vì áp lực của nhiều chuyện ông đã không có thời gian xem xét cái chi tiết lẽ ra đã có thể giúp ông nhiều trong việc suy luận. Khi hào nước ở ngay cạnh bên và một quả tạ bị mất thì việc cho rằng một thứ gì đó đã được thả chìm xuống nước không phải là một giả thuyết quá viễn vông. Thấy cũng đáng kiểm chứng nên nhờ có ông Ames giúp đỡ cho tôi vào phòng này, và nhờ phần móc ở cán dù của bác sĩ Watson, đêm qua tôi đã kéo cái bọc này lên xem xét kĩ. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là chúng ta phải chứng minh được ai bỏ nó xuống đó. Chúng ta thực hiện điều này bằng một mưu kế rất hiển nhiên là tuyên bố ngày mai sẽ tát cạn hào nước, như vậy kẻ nào đã giấu cái bọc thì nhất định sẽ phải lôi nó lên ngay khi bóng đêm có thể giúp y tiến hành thuận lợi. Chúng tôi có không dưới bốn nhân chứng đã thấy được ai là người đã tận dụng cơ hội này, và như vậy, ông Barker, tôi nghĩ lời giải thích bây giờ thuộc về ông đó."

Sherlock Holmes đặt cái bọc sũng nước lên bàn cạnh chiếc đèn và tháo dây buộc. Từ trong bọc anh lôi ra một quả tạ tay rồi thả cho nó lăn vào góc phòng chung chỗ với quả tạ còn lại. Kế đó anh rút ra một đôi giày.

"Giày của Mỹ, các ông thấy đó," anh vừa nói vừa chỉ vào mũi giày. Rồi anh đặt lên bàn một con dao dài, nguy hiểm nằm trong bao. Cuối cùng anh xổ ra một mớ áo quần, bao gồm một bộ đồ lót, đôi vớ, một bộ vét vải tuýt màu xám, và một chiếc áo khoác màu vàng. "Áo quần loại này cũng thường thấy," Holmes nói, "nhưng riêng chiếc áo khoác là khiến ta nghi ngờ." Anh nhẹ nhàng giơ chiếc áo về phía ánh đèn. "Các ông thấy đó, túi trong được nới dài theo lớp vải lót để có đủ chỗ chứa một khẩu súng săn cưa nòng. Trên cổ áo còn nhãn của hiệu may 'Neal, Outhtter, Vermissa, U.S.A'. Tôi đã có một buổi chiều hữu ích ở thư viện của mục sư giáo phận và biết thêm một chuyện rằng Vermissa là thị trấn phát đạt nhất trong các vùng thung lũng mỏ sắt và mỏ than nổi tiếng của Hoa Kì. Này ông Barker, tôi còn nhớ ông đã liên tưởng những khu mỏ than đó với bà vợ đầu của ông Douglas, và sẽ không quá viển vông nếu suy luận rằng chữ tắt V.V trên tấm thiếp bên cạnh xác chết có thể là thung lũng Vermissa Valley, hoặc giả chính cái nơi đã sai người bí mật thực hiện vụ ám sát này có thể là Thung lũng Kinh hoàng mà chúng ta đã nghe nói. Phần lớn câu chuyện đã khá rõ ràng. Còn bây giờ, ông Barker, tôi hình như đã hơi cản trở lời phân trần của ông."

Vẻ biến sắc của Cecil Barker trong suốt thời gian nhà thám tử lừng danh phơi trần sự thật quả là một cảnh tượng đặc sắc. Nét tức giận, sửng sốt, rụng rời và do dự lần lượt hiện trên gương mặt ấy. Cuối cùng ông ta phải lẩn tránh bằng một biểu cảm mỉa mai có phần cay cú.

"Ông biết nhiều quá đấy, ông Holmes, có lẽ ông nên kể cho tôi biết thêm thì hay hơn," Barker chế nhạo.

"Tôi tin chắc là mình có thể kể nhiều chuyện hơn nữa, ông Barker, nhưng xin nhường hân hạnh đó cho ông mới phải."

"Ồ, ông nghĩ vậy sao? Chà, tôi chỉ có thể nói rằng nếu có bất kì bí mật nào ở đây thì đó không phải là bí mật của tôi, và tôi không phải là người phải tiết lộ."

"Kìa, ông Barker," viên thanh tra bình thản nói, "nếu ông cứ giữ giọng điệu đó thì chúng tôi buộc phải canh chừng ông không rời cho đến chừng nào có lệnh bắt giam ông."

"Các ông muốn làm cái gì thì tùy," Barker thách thức.

Đối với Barker mọi sự việc dường như đã đi tới một kết cục xác định, bởi vì chỉ cần nhìn qua gương mặt cương quyết cũng đủ hiểu không có nhục hình nào có thể buộc ông ta đưa lời biện minh. Tuy nhiên, sự bế tắc này đã bị phá vỡ bằng một giọng nói phụ nữ. Bà Douglas nãy giờ đã đứng nghe ngoài cánh cửa khép hờ, và lúc này bước vào phòng.

"Anh đã vất vả đủ rồi, Cecil," bà ta nói. "Dẫu mai này có ra sao thì anh cũng vất vả đủ rồi."

"Đủ rồi và còn hơn thế," Sherlock Holmes nghiêm trang nói. "Thưa bà, tôi hoàn toàn cảm thông với bà và hết lòng mong bà đặt chút niềm tin vào quyền hạn suy xét của chúng tôi mà tự giác giãi bày hết với cảnh sát. Rất có thể chính tôi đây đã phạm sai lầm là không làm theo gợi ý được bà chuyển đến qua bác sĩ Watson bạn tôi nhưng vào lúc đó tôi có mọi lí do để tin là bà có liên quan trực tiếp đến vụ án này. Bây giờ tôi đã biết chắc là không phải như thế. Nhưng vẫn còn rất nhiều điều cần phải giải thích và tôi đề nghị bà hãy để cho chính ông Douglas kể chuyện của mình."

Nghe Holmes nói thế, bà Douglas bật ra một tiếng thảng thốt. Hai viên thanh tra kia và tôi ắt là đã phụ họa theo, khi chúng tôi nhận ra một người đàn ông không biết xuất hiện từ đâu, giờ đang từ trong góc phòng tăm tối bước ra. Bà Douglas quay lại và liền vòng tay ôm chầm người ấy. Barker siết chặt lấy bàn tay kẻ đó chìa ra.

"Cách này là tốt nhất, Jack," bà vợ cứ lặp lại câu đó. "Em tin chắc vậy là tốt nhất."

"Quả thật là thế, ông Douglas," Sherlock Holmes nói. "Tôi bảo đảm ông sẽ không còn cách nào tốt hơn đâu."

Người ấy đứng nhìn chúng tôi, mắt chớp liên tục với vẻ choáng váng của một người từ trong bóng tối đi ra ánh sáng. Một gương mặt đặc biệt, đôi mắt xám dạn dĩ, bộ ria rậm xám bạc tỉa ngắn, cái cằm vuông nhô ra, và một khuôn miệng mang nét hóm hỉnh. Người ấy đứng nhìn chúng tôi thật lâu rồi trước sự ngạc nhiên của tôi, ông ta đi tới ngay chỗ tôi và trao một bọc giấy tờ.

"Tôi đã nghe tiếng ông," ông ta nói với giọng không ra Anh cũng chẳng hẳn Mỹ, nhưng tựu chung là từ tốn, dễ nghe. "Ông là sử gia ghi lại mọi chuyện. Ồ, thưa bác sĩ Watson, tôi dám cược đến đồng đôla cuối cùng là ông chưa bao giờ nắm trong tay một câu chuyện như thế này. Ông cứ thuật lại theo cách của mình, nhưng đây chính là các sự việc có thực, và ông đã có trong tay rồi thì đừng để công chúng chờ mong. Tôi đã nấp kín hai ngày rồi và suốt những giờ còn ánh sáng ban ngày, sáng được chừng nào hay chừng đó trong cái xó xỉnh ấy, tôi đã ghi lại mọi việc ra giấy. Ông cứ tùy nghi sử dụng... Ông và công chúng của ông. Đây là câu chuyện Thung lũng Kinh hoàng."

"Đó là dĩ vãng, ông Douglas," Sherlock Holmes bình thản nói. "Những gì chúng tôi mong muốn lúc này là nghe câu chuyện hiện tại của ông."

"Rồi sẽ biết ngay thôi, thưa ông," Douglas nói. "Cho phép tôi vừa nói vừa hút thuốc nhé? Chà, cảm ơn, ông Holmes. Nếu tôi không lầm thì chính ông đây ghiền thuốc lắm, và ông thừa biết cảm giác ngồi hai ngày với thuốc lá sẵn trong túi nhưng lại sợ mùi thuốc tố cáo mình là như thế nào." Ông ta tựa người vào bệ lò sưởi và hút điếu xì gà Holmes trao cho. "Tôi đã nghe danh ông, thưa ông Holmes. Tôi không hề nghĩ là mình có thể gặp ông. Nhưng trước khi ông đọc xong cái đó," Douglas hất hàm về hướng mớ giấy tờ trên tay tôi, "thì tôi đã mang đến cho ông điều gì đó mới mẻ."

Thanh tra MacDonald nãy giờ trố mắt nhìn người mới đến với vẻ kinh ngạc tột độ.

"Ôi, tôi chịu thua!" Sau cùng anh ta mới kêu to. "Nếu ông là John Douglas của điền trang Birlstone vậy thì hai ngày nay chúng tôi điều tra cái chết của ai, và bây giờ ông từ đâu hiện ra thế hở? Tôi thấy ông cứ như từ dưới sàn nhà bật lên chẳng khác gì hình nộm trong hộp lò xo."

"À, ông Mac," Holmes vừa nói vừa giơ một ngón tay ra bộ khiển trách, "ông không chịu đọc mẩu truyện cực hay lưu truyền trong vùng về nơi ẩn náu của vua Charles. Thời đó nếu muốn trốn, người ta sẽ tìm chốn ẩn náu rất kín đáo, và chỗ người xưa dùng được thì người nay cũng dùng tốt. Tôi suy ra chúng ta sẽ tìm thấy ông Douglas ngay trong nhà này."

"Thế ông đã chơi xỏ chúng tôi bao lâu rồi, ông Holmes?" Viên thanh tra tức tối hỏi. "Thế ông đã để chúng tôi phí phạm công sức truy xét một chuyện ông biết là vô lí bao lâu rồi?"

"Đâu có, ông Mac thân mến ơi. Đêm qua tôi mới hình dung ra được sự thể, nhưng đến tối nay mới kiểm chứng được. Tôi đã đề nghị ông và người cộng sự nghỉ phép ngày hôm nay. Tôi biết làm gì hơn chứ? Lúc tôi tìm ra bộ đồ trong hào nước, tôi lập tức hiểu ra cái xác chúng ta thấy không thể nào là xác của ông John Douglas, mà nhất định phải là xác của kẻ đạp xe từ Tunbridge Wells đến. Không thể có kết luận nào khác. Cho nên tôi phải xác định xem ông John Douglas đang ở đâu, và khả năng có thể xảy ra nhất chính là ông ta ẩn náu ngay trong nhà, nhờ sự tiếp tay của vợ và bạn, quả là tiện lợi cho một kẻ đào tẩu, và ông ta đang chờ đến lúc tình hình êm hơn mới đào tẩu thật sự."

"Chà, ông hình dung ra đúng cả," Douglas nói với vẻ tán thành. "Tôi nghĩ là mình phải tránh né luật pháp Anh quốc của quý vị, vì tôi không biết chắc mình sẽ bị xét xử ra sao và tôi cũng thấy rất có khả năng mình sẽ đánh lạc hướng được hết mọi truy lùng. Xin ông nhớ cho, từ đầu đến cuối tôi không hề làm điều gì đáng xấu hổ, và hễ làm gì mà tôi không dám lặp lại, nhưng ông cứ tự phán xét lấy sau khi nghe chuyện của tôi. Không cần phải cảnh báo tôi đâu, ông thanh tra, tôi nhất định chỉ nói sự thật. Tôi sẽ không kể lại từ đầu. Tất cả đều ghi ở đó," ông ta chỉ tập giấy tờ tôi cầm, "và các ông sẽ thấy đó là một câu chuyện hết sức lạ lùng. Tóm lại là như thế này. Có vài người có lí do để thù ghét tôi và họ sẵn sàng chi tới đồng đôla cuối cùng để giết tôi cho kì được. Chừng nào một trong hai bên còn sống thì trên đời này không hề có an toàn dành cho tôi. Họ săn lùng tôi từ Chicago tới California, rồi truy đuổi tôi khi tôi rời nước Mỹ; đến lúc tôi lấy vợ và định cư ở chốn yên tĩnh này, tôi cứ nghĩ những năm cuối đời của mình sẽ được bình an.

Tôi chưa từng giải thích hoàn cảnh đó cho vợ tôi biết. Tại sao tôi phải lôi cô ấy vào chuyện này chứ? Cô ấy sẽ không bao giờ có được một phút giây nào an lòng nữa, mà sẽ luôn tưởng tượng ra chuyện buồn lo. Tôi đoán cô ấy có biết gì đó vì có thể tôi đã có lúc buột miệng nói đôi câu, nhưng mãi đến hôm qua, sau khi quý ông đã gặp cô ấy thì tôi rõ vợ tôi không biết thực trạng của vấn đề. Cô ấy đã nói với các ông tất cả những gì cô ấy biết, và cả anh Barker đây cũng vậy, bởi vì vào đêm xảy ra chuyện thì không còn nhiều thời gian để giải thích. Bây giờ cô ấy sẽ biết mọi chuyện và lẽ ra nếu tôi khôn ngoan thì hẳn phải cho cô ấy biết sớm hơn. Nhưng đó là chuyện khó khăn, em yêu ạ," ông ta nắm tay vợ một lát, "và anh đã cố làm những gì tốt nhất.

Đó, thưa quý ông, cái ngày trước khi xảy ra biến cố này, tôi có đi qua Tunbridge Wells và thoáng thấy một người ngoài đường. Chỉ là thoáng thấy nhưng tôi rất tinh mắt với những chuyện như thế, và tôi biết đích xác hắn là ai. Đó là kẻ ghê gớm nhất trong mọi kẻ thù của tôi, kẻ đã săn lùng tôi suốt bao năm qua như một con sói đói truy đuổi con tuần lộc. Tôi biết rắc rối sẽ đến và tôi về nhà sẵn sàng nghênh địch. Tôi cứ nghĩ một mình tôi sẽ vượt qua được hết, vận may của tôi đã từng được truyền tụng khắp đất Hoa Kì vào năm 1876. Tôi luôn tin rằng vận may vẫn ở cùng tôi.

Tôi đề phòng suốt ngày hôm sau và không hề đi ra vườn ngoài. Thà là vậy còn hơn để hắn bắn gục tôi bằng khẩu súng săn hai nòng trước khi tôi kịp rút súng bắn trả. Sau khi kéo cầu lên - tâm trí tôi luôn thấy thoải mái khi cầu được kéo lên mỗi tối - tôi quên hết mọi âu lo. Tôi không hề nghĩ là hắn lại vào nhà phục sẵn. Nhưng khi tôi khoác áo choàng ngủ đi một vòng như thói quen, vừa bước vào thư phòng này tôi đánh hơi ra mùi nguy hiểm. Tôi chắc là ai trong đời từng gặp nhiều nguy hiểm, mà tôi gần như kinh qua điều đó nhiều hơn ai hết, kẻ đó sẽ có giác quan thứ sáu vô cùng nhạy bén. Tôi bỗng thấy bất an, thế nhưng lại không biết vì nguyên cớ gì. Liền sau đó tôi phát hiện một chiếc ghệt thò ra dưới tấm rèm cửa sổ, và tôi biết ngay là tại sao.

Tôi chỉ cầm một cây nến trên tay, nhưng ngọn đèn ngoài tiền sảnh tỏa sáng rất rõ qua cánh cửa mở. Tôi đặt nến xuống và nhảy tới chụp cái búa để trên thành lò sưởi. Cùng lúc đó hắn nhảy xổ vào tôi. Tôi thấy ánh dao lóe lên, và tôi vung búa nện hắn. Tôi đã nện trúng hắn đâu đó, vì con dao rơi xuống sàn leng keng. Hắn chạy quanh chiếc bàn này tránh né nhanh như chạch, và một lát sau hắn lôi khẩu súng dưới áo khoác ra. Tôi nghe tiếng hắn lên đạn, nhưng hắn chưa kịp bắn thì tôi đã chộp lấy khẩu súng. Tôi nắm chặt nòng súng và hai bên vật lộn đâu khoảng một phút, cố giành khẩu súng cho mình. Kẻ nào vuột tay kẻ đó chết. Hắn không hề lơi tay nhưng báng súng đã bị hạ xuống. Có lẽ chính tôi đã bóp cò. Cũng có thể súng cướp cò khi hai bên giằng co. Dẫu sao thì hắn lĩnh đủ cả hai phát đạn vào mặt, còn tôi đứng đó, trân trối nhìn thi thể của tên Ted Baldwin. Tôi đã nhận ra hắn ở thị trấn, và cũng nhận ra khi hắn xông vào tôi; nhưng lúc đó, khi tôi cúi nhìn xác chết ấy, tôi dám cá ngay cả mẹ đẻ của hắn cũng không thể nhận dạng con mình. Tôi vốn quen với những cảnh hung bạo nhưng lúc đó chính tôi còn thấy buồn nôn.

Tôi đang vịn tay vào cạnh bàn thì Barker hớt hãi chạy xuống. Tôi nghe tiếng chân vợ tôi đang xuống và tôi chạy ra cửa ngăn cô ấy lại. Đó không phải cảnh tượng cho phụ nữ xem. Tôi hứa sẽ đến gặp cô ấy ngay. Tôi nói mấy lời với Barker, chỉ cần nhìn qua là anh ấy hiểu hết, và chúng tôi chờ cho mọi người kéo tới. Nhưng không hề thấy bóng ai. Và chúng tôi hiểu rằng đám người hầu không hề nghe thấy gì và mọi chuyện vừa xảy ra chỉ riêng ba chúng tôi biết. Ngay lúc đó tôi nảy ra một ý. Tôi ngây ngất vì ý tưởng tuyệt vời ấy. Tay áo của tên kia đã trượt lên cao và lộ ra cái dấu nung của hội đoàn trên cẳng tay. Nhìn đây!"

Người mà chúng tôi biết là Douglas xắn tay áo lên cho mọi người thấy một hình tam giác màu nâu nằm trong một vòng tròn, y hệt như cái dấu hiệu chúng tôi đã thấy trên xác chết kia.

"Thấy cái dấu đó là tôi nghĩ ra ngay. Dường như chỉ nhìn qua một cái là tôi hình dung được hết. Chiều cao, kiểu tóc và vóc dáng của hắn đều giống như tôi. Nhưng bộ mặt thì không ai có thể biết được, quỷ thần ạ! Tôi mang xuống bộ đồ này và trong vòng mười lăm phút Barker và tôi đã khoác chiếc áo ngủ của tôi vào người hắn và để hắn nằm đúng như các ông đã thấy. Đồ đạc của hắn chúng tôi cho hết vào một bọc, tôi dằn thêm cho nặng bằng quả tạ duy nhất mà tôi tìm ra rồi ném cái bọc qua cửa sổ. Tấm thiếp hắn định bỏ cạnh xác tôi bây giờ nằm bên xác hắn.

Tôi đeo mấy chiếc nhẫn của tôi vào ngón tay hắn, nhưng khi tới chiếc nhẫn cưới thì..." Douglas chìa bàn tay to bè của mình ra, "các ông có thể thấy là tôi đã tới tận cùng giới hạn. Tôi chưa hề tháo chiếc nhẫn này ra từ ngày cưới vợ và muốn lấy ra thì phải dùng dũa mà mài cho đứt lìa mới được. Dẫu sao tôi cũng không biết mình có cam lòng chia xa với kỉ vật đó không, nhưng có muốn tôi cũng đành lực bất tòng tâm. Cho nên tôi đành mặc kệ ra sao thì ra. Tiếp đó, tôi lại mang xuống một miếng băng và dán vào hàm xác chết đúng y chỗ mà tôi đang dán trên mặt mình. Ông Holmes, ông đã bỏ sót chi tiết đó, cho dù ông rất tài tình, bởi vì nếu ông thử lột miếng băng ấy ra thì ông sẽ thấy bên dưới không hề có vết dao cứa nào cả.

Đó, chuyện là vậy đấy. Nếu như tôi có thể ẩn náu một thời gian rồi sau đó thoát được đến nơi có thể đoàn tụ với 'góa phụ' của mình thì chúng tôi sẽ có cơ may sống bình an suốt phần đời còn lại. Bọn ác ôn này sẽ không chịu để cho tôi yên thân chừng nào tôi chưa xuống mồ, nhưng nếu chúng thấy báo chí đăng tin Baldwin đã giết được kẻ thù thì mọi rắc rối sẽ kết thúc. Tôi không có nhiều thời gian để nói tường tận với Barker và vợ mình, nhưng họ đủ hiểu biết để giúp tôi thực hiện kế hoạch. Tôi biết rõ về chỗ ẩn náu, Ames cũng biết, nhưng ông ấy không hề nghĩ đến việc liên kết chỗ đó với vấn đề này. Tôi rút lui vào chỗ ẩn náu, và để cho Barker làm nốt những gì còn lại.

Tôi chắc là các ông cũng biết anh ấy đã làm gì. Anh ấy mở cửa sổ và ngụy tạo dấu chân trên bệ cửa để khiến mọi người nghĩ tên sát nhân đã tẩu thoát theo ngả đó. Một điều hết sức khó tin, nhưng vì cầu đã kéo lên và không còn đường nào khác. Sau đó, khi đã dàn dựng xong, anh ấy vận hết sức đánh chuông báo động. Những gì xảy ra sau đó các ông đã biết rồi. Thế đấy, thưa quý ông, các ông muốn làm gì tùy ý, nhưng tôi đã nói sự thật và toàn bộ sự thật, xin thề với Chúa! Điều bây giờ tôi muốn hỏi các ông là tôi sẽ bị xét xử thế nào theo luật pháp Anh quốc?"

Một sự im lặng kéo dài và cuối cùng bị phá tan bởi Sherlock Holmes.

"Luật pháp Anh quốc nói chung là công bằng. Ông đáng tội thế nào thì xử đúng thế đấy, ông Douglas. Nhưng tôi muốn hỏi ông rằng làm sao người đó biết ông sống ở đây, làm sao hắn vào được nhà này, và biết nấp ở đâu để chờ ông?"

"Tôi chịu."

Gương mặt Holmes tái nhợt đi, đầy vẻ nghiêm trọng.

"Chuyện này chưa kết thúc đâu, tôi e là thế," anh nói. "Có thể ông sẽ gặp nhiều chuyện khác còn nguy hiểm hơn cả luật pháp Anh quốc, hay thậm chí còn hơn cả những kẻ thù bên Mỹ của ông. Tôi thấy rắc rối đang chờ đợi ông đó, ông Douglas. Ông hãy nghe lời khuyên của tôi mà tiếp tục đề phòng đi."

Và bây giờ, thưa các độc giả kiên nhẫn của tôi, xin mời quý vị cùng tôi tạm thời rời khỏi điền trang Birlstone ở hạt Sussex, và cũng rời khỏi thời điểm mà chúng ta thực hiện hành trình cuối cùng để kết thúc câu chuyện kì lạ về người từng mang tên John Douglas. Tôi muốn quý vị đi ngược thời gian chừng hai mươi năm và vượt qua không gian hàng ngàn dặm về phía tây, để tôi có thể trình bày một câu chuyện đặc biệt khủng khiếp - đặc biệt và khủng khiếp tới mức quý vị khó lòng tin nổi cho dù tôi đã thuật lại, cho dù chuyện thực sự đã xảy ra.

Xin đừng nghĩ rằng chuyện này chưa xong mà tôi đã chen vào chuyện khác. Cứ đọc tiếp quý vị sẽ thấy không phải như thế. Và khi tôi đã kể tỉ mỉ những biến cố xa xôi và quý vị đã khám phá ra những bí mật quá khứ, chúng ta sẽ tái ngộ trong ngôi nhà phố Baker, nơi mà sự việc này, cũng như nhiều biến cố phi thường khác, sẽ đi đến hồi kết.

PHẦN II
QUÂN CƯỜNG ĐẠO8. Lữ khách

Hôm đó là ngày 4 tháng 2 năm 1875. Mùa đông năm ấy thật khắc nghiệt, tuyết phủ dày trên những hẻm núi thuộc rặng Gilmerton. Tuy nhiên, những chiếc máy cày hơi nước vẫn giữ cho tuyến đường sắt thông suốt và chuyến tàu chiều nối liền một loạt các khu định cư của dân khai mỏ đang chầm chậm rên xiết bò ngược những cung đường dốc từ Stagville dưới đồng bằng lên tới Vermissa, thị trấn chính nằm ở đầu thung lũng Vermissa Valley. Từ điểm này, đường sắt chạy xuôi về giao lộ Bartons ở Helmdale và hạt Merton - khu canh tác nông nghiệp. Đó là đường tàu độc tuyến, nhưng ở mỗi đường tàu tránh - mà những đường phụ này thì vô số kể - các toa vận tải ăm ắp quặng than và sắt xếp hàng dài đã nói lên sự giàu có tiềm ẩn, vốn lâu nay thu hút một đám đông cục súc và mang cuộc sống tất bật đến cái xó xỉnh hoang liêu nhất Hợp chúng quốc Hoa Kì.

Quả đúng là hoang liêu! Những người tiên phong băng qua nẻo đường này có lẽ không thể ngờ rằng những thảo nguyên màu mỡ nhất, đồng cỏ tươi tốt nhất đều vô giá trị nếu so với vùng đất ảm đạm toàn núi đá đen đúa và rừng rú chằng chịt này. Hai bên rặng núi, phía trên những cánh rừng âm u gần như không biết đến ánh mặt trời là các đỉnh cao trơ trụi đầy tuyết trắng cùng đá nhọn vươn lên sừng sững, để lại chính giữa một lũng hẹp quanh co, khúc khuỷu chạy dài. Đoàn tàu nhỏ bé kia đang chậm chạp bò lên hẻm núi ấy.

Ngọn đèn dầu hỏa vừa được thắp sáng trong toa hành khách đầu tiên, một toa dài trống trải có khoảng hai mươi hay ba mươi người. Hầu hết họ là công nhân trở về sau một ngày lao lực ở phía dưới thung lũng. Nhìn những gương mặt lấm lem và đèn an toàn họ mang theo thì ít nhất có hơn chục người là dân thợ mỏ chính hiệu. Họ túm tụm thành một nhóm vừa hút thuốc vừa thì thầm nói chuyện, thỉnh thoảng lại liếc trộm hai người ngồi bên đối diện. Qua sắc phục và phù hiệu thì hai người ấy rõ ràng là cảnh sát.

Nhiều phụ nữ thuộc tầng lớp cần lao và mấy người lữ hành có thể là những chủ tiệm nhỏ trong vùng hợp thành nhóm khách còn lại, ngoại trừ một thanh niên ngồi tách ra trong góc. Đấy mới chính là người chúng ta quan tâm. Hãy nhìn chàng trai cho kĩ vì anh đáng cho ta chú ý.

Đó là một thanh niên tầm thước, nước da khỏe khoắn, và có lẽ trạc ba mươi. Anh ta có đôi mắt to màu xám hóm hỉnh, lanh lợi, luôn ánh lên vẻ hiếu kì qua cặp mắt kính mỗi lần nhìn người xung quanh. Dễ thấy rằng đây là người hòa đồng và tâm tính có lẽ khá xuề xòa, sẵn sàng thân thiện với tất cả. Bất kì ai cũng có thể nhận ra ngay anh ta là người quen giao du, thích chuyện trò, đầu óc lanh lợi và miệng luôn tươi cười. Thế nhung nếu quan sát kĩ càng hơn sẽ nhận ra cái quai hàm có phần cương nghị và đôi môi mím chặt lì lợm kia báo trước đằng sau gương mặt ấy ẩn chứa nhiều điều sâu thẳm, và sẽ thấy anh chàng tóc nâu vui tính gốc Ireland này có khả năng để lại dấu ấn trong bất kì hội nhóm nào, dù tốt hay xấu, mà anh ta gia nhập.

Sau khi ướm thử đôi câu với người thợ mỏ gần nhất và chỉ nhận được mấy lời đáp cộc lốc thô lỗ, người lữ hành này đành cam chịu im lặng, đưa mắt đăm chiêu nhìn ra cửa sổ ngắm cảnh tượng nhạt nhòa bên ngoài.

Đó không phải là một khung cảnh vui vẻ gì. Xuyên qua bóng tối đang lan rộng, những lò luyện kim trên các triền đồi vẫn phập phồng ánh lửa đỏ. Từng đống xỉ than và tàn tro khổng lồ nằm lù lù bên những ổng thông hơi của khu mỏ vươn cao ngất nghểu. Rải rác đây đó hai bên đường tàu là những cụm nhà gỗ tồi tàn xúm xít, những ô cửa sổ đã bắt đầu sáng đèn, và các ga xép thường tấp nập những cư dân đen đúa. Các thung lũng mỏ than và sắt của vùng Vermissa không phải là chốn dành cho người thư nhàn hay dân học thức. Khắp nơi chỉ toàn là dấu hiệu khắc nghiệt của cuộc tranh sống tàn khốc nhất, của những việc thô bạo cần phải làm, và của những kẻ cục súc sẽ làm những việc đó.

Chàng lữ khách đăm đăm nhìn vùng đất khắc nghiệt bên ngoài với vẻ mặt vừa kinh tởm vừa hứng thú, chứng tỏ khung cảnh này mới mẻ đối với anh ta. Lâu lâu anh lại rút trong túi ra một bức thư dày rồi vừa đọc vừa hí hoáy ghi chú bên lề. Có lần anh ta lấy từ sau thắt lưng ra một món đồ mà không ai ngờ rằng một người tính khí ôn hòa như thế lại sở hữu. Đó là một khẩu súng lục cỡ lớn nhất của hải quân. Khi anh ta xoay nghiêng khẩu súng về phía ánh sáng, ánh lóe trên gờ các vỏ đạn bằng đồng nằm trong ổ quay cho thấy súng đã nạp đầy đạn. Anh ta nhanh chóng cất súng vào túi trong nhưng một người thợ ngồi một mình trên băng ghế gần bên đã kịp nhìn thấy.

"Ê, bồ!" Người đó lên tiếng. "Coi bộ súng đạn sẵn sàng nhỉ?"

Chàng trai mỉm cười với vẻ ngượng ngập.

"Ừ," anh nói, "ở chỗ tôi sống lúc trước có lúc cũng cần tới nó."

"Thế ở đâu vậy?"

"Chỗ sau cùng là Chicago."

"Mới tới vùng này à?"

"Ừ."

"Có thể ở đây anh sẽ cần tới nó đấy," người thợ kia tiếp chuyện.

"A! Vậy sao?" Chàng trai có vẻ chú ý.

"Anh không nghe chuyện gì gần đây à?"

"Có nghe gì đâu."

"À, tôi nghĩ vùng này lắm chuyện đó. Rồi anh sẽ biết ngay mà. Vì sao anh tới đây vậy?"

"Tôi nghe nói ở đây luôn sẵn việc cho ai chịu làm."

"Anh có phải thành viên hội đoàn không?"

"Có chứ."

"Thế thì anh sẽ có việc làm thôi, tôi nghĩ vậy. Có bạn bè gì không?"

"Không có, nhưng tôi có cách để kết bạn."

"Cách gì vậy?"

"Tôi là người của Tổng hội Huynh đệ Tự do. Ở thành phố nào cũng có chi hội và ở đâu có chi hội thì tôi sẽ kiếm được bạn bè."

Lời nói ấy có một tác động đặc biệt đối với người đồng hành kia. Anh ta đảo mắt nhìn quanh khắp toa tàu với vẻ ngờ vực. Đám thợ mỏ vẫn đang to nhỏ trò chuyện với nhau. Hai sĩ quan cảnh sát đang ngủ gà ngủ gật. Anh ta bước qua ngồi cạnh bên chàng lữ khách và chìa tay ra.

"Đưa tay đây," anh ta nói.

Hai bên bắt tay nhau.

"Tôi thấy anh nói thật đấy," người thợ nói. "Nhưng để cho chắc chắn vẫn hơn." Anh ta đưa tay phải lên ngang lông mày phải. Lữ khách liền đưa ngay bàn tay trái lên ngang lông mày trái.

"Đêm đen bất hảo," người thợ nói.

"Đúng, cho khách lạ bôn ba," người kia đáp lại.

"Vậy tốt rồi đó. Tôi là huynh Scanlan, Chi hội 341, Vermissa Valley. Rất vui gặp anh ở vùng này."

"Cảm ơn. Tôi là huynh John McMurdo, Chi hội 29, Chicago. Hội chủ là J.H. Scott. Tôi đúng là may mắn khi sớm gặp được người anh em."

"Người của chúng ta quanh đây nhiều lắm. Anh sẽ thấy là trên khắp Hoa Kì, không ở đâu tổng hội lại hưng thịnh như ở Vermissa Valley này. Chúng tôi có thêm một thanh niên như anh cũng được. Nhưng tôi không hiểu sao một hội viên lanh lợi mà chẳng tìm được việc làm ở Chicago."

"Ở đó tôi có nhiều chuyện để làm chứ," McMurdo nói.

"Thế sao lại bỏ đi?"

McMurdo hất đầu về phía hai viên cảnh sát và mỉm cười nói, "Tôi chắc là mấy thằng cha kia rất muốn biết lí do."

Scanlan rên lên một tiếng cảm thông. "Rắc rối à?" Anh ta hỏi thì thầm.

"Lớn."

"Chuyện tù tội?"

"Nhiều thứ khác nữa."

"Đừng có nói là giết người!"

"Còn quá sớm để nói đến những chuyện đó," McMurdo nói với giọng điệu một kẻ ngạc nhiên vì đã lỡ nói nhiều hơn ý muốn. "Tôi có nhiều lí do cụ thể thích đáng để bỏ Chicago, và anh biết thế là đủ. Anh là ai mà tự cho mình có quyền hỏi những điều như thế chứ?" Đôi mắt xám đằng sau đôi kính đột nhiên lóe lên một tia tức giận nguy hiểm.

"Không sao đâu bồ, không cố ý làm mất lòng đâu. Dù anh có làm gì thì anh em cũng sẽ chẳng nghĩ gì đâu. Giờ anh xuống đâu?"

"Vermissa."

"Đó là trạm dừng thứ ba trên tuyến này. Anh sẽ ở đâu?"

McMurdo lấy ra một phong thư và giơ lại gần chiếc đèn dầu tù mù. "Địa chỉ đây này... Jacob Shafter, đường Sheridan. Đó là một nhà trọ tôi được một người quen ở Chicago giới thiệu cho."

"Chà, tôi không biết chỗ này, Vermissa không phải địa bàn của tôi. Tôi sống ở Hobson's Patch và chúng tôi sắp xuống ở ga đó. Nhưng này, tôi muốn cho anh một lời khuyên nhỏ trước khi chia tay. Nếu gặp rắc rối ở Vermissa thì cứ đi thẳng tới Nhà Hội đoàn gặp thủ lĩnh McGinty. Ông ta là Hội chủ Chi hội Vermissa và ở khu vực đó sẽ không có chuyện gì xảy ra trái ý Át chủ McGinty. Tạm biệt bồ! Có thể chúng ta sẽ gặp nhau ở chi hội một tối nào đó. Nhưng nhớ lời tôi. Nếu gặp rắc rối thì cứ tìm thủ lĩnh McGinty."

Scanlan xuống tàu và McMurdo một lần nữa lại chìm đắm trong dòng suy tưởng. Màn đêm đã buông xuống và các lò nung hoạt động không ngơi nghỉ vẫn ầm ầm tóe lửa trong bóng tối. Trên cái nền sáng bệch bạc ấy, những bóng người đen đúa còng lưng oằn người xoay xoay vặn vặn theo chuyển động của trục tời hay tay quay đang loạch xoạch, ầm ầm một tiết tấu bất tận.

"Tôi chắc hỏa ngục cũng trông như thế này thôi," một tiếng nói vang lên.

McMurdo quay lại và thấy một viên cảnh sát đã chuyển sang ngồi cùng băng ghế với mình và đang nhìn ra cảnh hoang vu đỏ lửa kia.

"Nhìn cảnh này, tôi đồng ý là hỏa ngục cũng chỉ đến thế là cùng." Viên cảnh sát thứ hai lên tiếng. "Tôi không nghĩ lũ quỷ sứ dưới đó tồi tệ hơn lũ trên này đâu. Chắc cậu mới đến vùng này phải không, chàng trai?"

"À, thì sao nào?" McMurdo dè dặt đáp lại.

"Này cậu, tôi chỉ muốn khuyên cậu một điều là nên kết giao cho cẩn thận. Tôi không nghĩ là tôi sẽ bắt đầu bằng cách kết bạn với Mike Scanlan, nếu tôi là cậu."

"Tôi giao du với ai thì mắc mớ gì tới ông?" McMurdo quát to khiến mọi người trong toa tàu đều phải quay lại nghe ngóng cuộc đấu khẩu. "Tôi có nhờ ông khuyên bảo không, bộ ông tưởng tôi là đứa khờ, không có ông thì không biết xoay xở à? Ai nói chuyện với ông mà ông xía vào, và xin thề là còn lâu tôi mới thèm nói chuyện với ông!" Anh ta nghênh mặt lên, gầm gừ với hai tay cảnh sát như một con chó nhe nanh.

Hai viên cảnh sát to béo nhưng hiền lành sửng sốt khi thấy lời bắt chuyện thân thiện của họ gặp phải phản ứng khước từ dữ dội lạ thường ấy. Một người nói, "Đừng nóng, anh bạn. Vì thấy anh là biết ngay người lạ mới đến nên tôi chỉ dặn trước để anh biết thôi mà."

"Tôi là kẻ xa lạ ở đây nhưng tôi chẳng lạ gì loại người như các ông!" McMurdo hét lên trong cơn thịnh nộ vô cớ. "Loại các người rặt một lũ như nhau, toàn thích giở giọng khuyên bảo khi chẳng ai cần tới."

"Có lẽ chúng tôi sẽ sớm gặp lại cậu thôi," một viên cảnh sát nhăn mặt nói. "Nếu tôi là thẩm phán thì tôi sẽ tống cậu vào tù cho coi."

"Tôi cũng nghĩ vậy," viên cảnh sát kia lên tiếng. "Chắc chúng ta sẽ còn gặp nhau."

"Đừng tưởng tôi sợ các người, còn lâu!" McMurdo to tiếng. "Tôi là Jack McMurdo đây... nghe chưa? Nếu cần các người cứ tìm tôi ở nhà Jacob Shafter trên đường Sheridan, Vermissa; tôi không trốn tránh các người đâu, nghe chưa? Dù ngày hay đêm thì tôi cũng không sợ gặp mặt các người... đừng có tưởng lầm nghe!"

Đám thợ mỏ xì xào tỏ vẻ đồng tình và thán phục trước thái độ gan lì của người mới đến, trong khi hai viên cảnh sát nhún vai rồi tiếp tục cuộc trò chuyện riêng.

Mấy phút sau, đoàn tàu tiến vào một nhà ga đèn đóm tù mù, nhưng chung quanh khá quang đãng vì Vermissa là thị trấn lớn nhất trên tuyến đường này. McMurdo xách chiếc vali nhỏ bằng da, định dấn bước vào bóng tối thì một người thợ mỏ đến bắt chuyện.

"Này bồ! Thề có Chúa, anh bạn đúng là rành cách đối đáp với bọn cớm," người này nói với giọng kính nể. "Anh nói nghe thật đã đó. Để tôi xách vali và chỉ đường cho. Trên đường về lán trại, tôi cũng đi ngang nhà Shafter."

Một điệp khúc "Tạm biệt" thân thiện liên tục phát ra từ đám thợ mỏ khi cả hai băng qua sân ga. Ngay cả khi chưa đặt chân tới Vermissa, nhân vật McMurdo ương ngạnh đã nổi danh rồi.

Cả vùng này đã là một nơi đáng sợ nhưng thị trấn lại còn tệ hơn. Dọc theo khe núi chạy dài ngoài kia ít ra cũng còn chút gì huy hoàng ảm đạm trong những ngọn lửa bốc lên cao ngút và màn khói cuồn cuộn mịt mù, khi sức lực và sự cần cù của con người đã tìm thấy một công trình thích hợp trong các ngọn đồi để dốc cạn vào những hầm hố khổng lồ. Còn thị trấn này lại lồ lộ một vẻ bần cùng, xấu xí, tồi tàn tới mức tang thương. Con đường chính đã bị xe cộ cày nát thành một bãi bùn tuyết kinh khủng. Hè phố chật chội, mấp mô. Vố số ngọn đèn khí đốt chỉ làm một việc duy nhất là soi rõ hơn một hàng dài những căn nhà gỗ, căn nào cũng có hàng hiên quay ra đường, bẩn thỉu và nhếch nhác.

Khi hai người đến gần trung tâm thị trấn, cảnh tượng trở nên tươi vui hơn nhờ một dãy cửa tiệm đèn thắp sáng rực, và nhờ cả mấy quán rượu và sòng bạc nằm chen chúc, nơi đám thợ mỏ tiêu xài những đồng tiền công gian khổ nhưng hậu hĩnh.

"Đó là Nhà Hội đoàn," người dẫn đường vừa nói vừa chỉ một quán rượu to lớn, bề thế chẳng khác gì một khách sạn. "Thủ lĩnh ở đó là Jack McGinty."

"Ông ta là người thế nào?" McMurdo hỏi.

"Cái gì? Anh chưa bao giờ nghe tiếng thủ lĩnh à?"

"Làm sao tôi biết ông ta khi tôi là người xa lạ ở vùng này, anh biết mà?"

"À, tôi tưởng ông ta nổi tiếng khắp cả nước đấy chứ. Báo chí cứ nhắc tới hoài mà."

"Sao lại nhắc?"

"Chà," người thợ mỏ hạ giọng xuống, "... vì nhiều vụ."

"Vụ gì?"

"Chúa ơi, anh bạn này! Anh đúng là kì cục, tôi nói không hề có ý làm mất lòng đâu. Ở những khu vực như thế này thì chỉ rặt toàn những vụ của băng Scowrer mà thôi."

"À, hình như tôi có đọc gì đó về đám Scowrer này ở Chicago. Một băng đảng toàn bọn sát nhân, phải không?"

"Suỵt, liệu hồn!" Người thợ mỏ kêu lên, hoảng hốt đứng sững lại, kinh ngạc nhìn bạn đồng hành. "Ở vùng này anh mà đứng giữa đường nói năng như thế thì không thọ lâu đâu. Nhiều người chỉ bất cẩn thôi mà còn bị đánh chết kìa."

"Ồ, tôi có biết gì đâu. Chỉ là tôi đọc báo thấy vậy mà."

"Tôi không nói là anh không đọc đúng sự thật," người kia vừa nói vừa bồn chồn nhìn quanh, cẩn trọng quan sát các vùng tối như thể sợ một mối nguy hiểm nào đó đang ẩn nấp gần đó. "Nếu cứ giết người là cố sát hết thì chỉ có Chúa mới biết đâu là quân có tội đâu là kẻ lương thiện. Nhưng người lạ à, anh đừng có dại mà nói rằng cái tên Jack McGinty có liên can tới mấy vụ này đó, bởi vì mọi lời thì thầm đều sẽ tới tai ông ta và ông ta không phải là người dễ dàng bỏ qua chuyện đó đâu. Đấy, cái nhà trọ mà anh định tới là cái nhà thụt sâu cách xa đường lộ đó. Anh sẽ thấy ông lão Jacob Shafter trông coi cái nhà đó là người lương thiện nhất thị trấn này."

"Cảm ơn anh," McMurdo nói rồi bắt tay người mới quen, anh xách vali bước theo lối đi dẫn vào nhà trọ và gõ một tiếng vang rền vào cửa chính.

Cánh cửa được mở ra ngay bởi một người hoàn toàn khác với mong đợi của anh. Đó là một cô gái trẻ kiều diễm lạ thường. Cô gái là người gốc Đức, mái tóc bạch kim tương phản duyên dáng với đôi mắt huyền xinh đẹp đang quan sát người khách lạ, và vẻ ngạc nhiên cùng bối rối đáng yêu làm ửng hồng gương mặt nhợt nhạt của nàng. Trong luồng sáng chói ùa ra ngưỡng cửa rộng mở, đối với McMurdo cô gái ấy dường như là một hình ảnh mĩ lệ chưa từng thấy, và dung nhan ấy càng quyến rũ hơn giữa khung cảnh ảm đạm nhớp nhúa trái ngược. Một nhành hoa tím xinh đẹp mọc lên trên đống xỉ than đen đúa của khu mỏ chắc hẳn cũng không thể khiến McMurdo ngạc nhiên hơn. Anh bị mê hoặc tới mức cứ đứng đó nhìn không thốt nên lời, và chính cô gái phá vỡ sự im lặng.

"Tôi cứ tưởng cha tôi về," cô ta nói với giọng pha chút âm Đức nghe rất hay. "Anh đến gặp cha tôi à? Cha tôi xuống phố rồi. Chắc cha tôi sẽ về ngay thôi."

McMurdo tiếp tục nhìn cô gái trân trối tỏ rõ lòng ái mộ cho đến khi cô cúi đầu bối rối trước vị khách ngang ngược này.

"Không, thưa cô," sau cùng anh ta mới lên tiếng, "tôi không có gì gấp gáp cần gặp ông ấy. Nhưng có người giới thiệu tôi đến đây thuê trọ. Tôi đã nghĩ chỗ này có lẽ hợp ý mình... và bây giờ tôi tin chắc điều đó."

"Anh quyết định thật là nhanh đó," cô gái tươi cười nói.

"Ai không đui mù thì cũng thế thôi," người kia đáp.

Cô gái bật cười trước lời khen ngợi ấy.

"Xin mời anh vào," cô nói. "Tôi là Ettie Shafter, con gái của ông Shafter. Mẹ tôi mất rồi nên tôi quán xuyến cái nhà này. Anh có thể ngồi bên lò sưởi trong phòng ngoài chờ cha tôi... A, cha đã về kìa! Vậy thì anh có thể thương lượng với cha tôi luôn đấy."

Một người đứng tuổi to béo đang bước trên lối vào nhà. McMurdo giải thích vắn tắt chuyện của mình. Một người tên Murphy ở Chicago đã cho anh địa chỉ này. Người đó lại được người khác giới thiệu. Ông lão Shafter sẵn lòng đón nhận. Khách lạ không ngại ngần gì về giá cả, đồng ý lập tức mọi điều kiện, và rõ ràng là người này có khá bộn tiền. Với bảy đôla một tuần trả trước, anh ta có ngay một chỗ ăn ở.

Thế là McMurdo, kẻ tự thú nhận là tội phạm đang đào tẩu, đã cư ngụ dưới mái nhà của cha con Shafter, bước đầu tiên trong một loạt biến cố hết sức đen tối và kéo dài, rồi kết thúc ở một vùng đất xa xăm diệu vợi.

9. Hội chủ

McMurdo nhanh chóng nổi tiếng trong vùng. Anh đi tới đâu mọi người ở đó liền chú ý ngay. Chỉ trong vòng một tuần anh đã trở thành người tiếng tăm nhất hạng ở nhà trọ Shafter. Có hơn chục người thuê trọ ở đây nhưng họ toàn là phường quản đốc lương thiện hay nhân viên bình thường ở các cửa hiệu, những con người có tố chất khác hẳn anh chàng Ireland này. Khi họ tụ tập lại vào buổi tối, anh lúc nào cũng sẵn những lời bông đùa mau mắn nhất, những cuộc trò chuyện hoạt náo nhất, và những bài ca hay nhất. Anh là một người bạn vui tính bẩm sinh và có khả năng thu hút thiện cảm của mọi người chung quanh. Thế nhưng lâu lâu anh lại bộc lộ một cơn thịnh nộ dữ dội, đột ngột giống như lúc trên tàu, một sức mạnh buộc những ai tiếp xúc cũng phải kính nể và thậm chí sợ hãi. Tương tự, với luật pháp cùng những ai liên quan đến luật pháp, anh khinh miệt tột độ ra mặt, khiến người ở trọ chung nhà kẻ thì khoái trá, kẻ thì kinh hãi.

Bằng vẻ ái mộ không giấu giếm từ ngày đầu tiên, McMurdo đã tỏ rõ là con gái ông chủ nhà đã cướp mất trái tim anh ngay khi anh nhìn thấy nhan sắc và nét duyên dáng của cô. Anh không phải là kẻ thiếu tự tin trong chuyện đeo đuổi phụ nữ. Sang ngày thứ hai, anh đã tỏ tình với cô gái và kể từ đó anh cứ lặp đi lặp lại cùng một chuyện, hoàn toàn bất chấp những gì cô có thể nói ra để làm nản lòng anh.

"Người khác ư?" McMurdo kêu lên. "A, rủi thay cho kẻ ấy! Hắn phải coi chừng đó! Chẳng lẽ anh lại để mất cơ hội của cả cuộc đời, mất hết mọi khao khát của con tim vì người khác sao? Em cứ cự tuyệt đi, Ettie; rồi có ngày em sẽ bằng lòng, và anh sẵn lòng chờ đợi."

Anh là kẻ đeo đuổi nguy hiểm với giọng Ireland lém lỉnh và cách tán tỉnh hay ho. Anh toát ra sức hấp dẫn của một kẻ từng trải và bí hiểm khiến phụ nữ phải để tâm và cuối cùng phải xiêu lòng. Anh có thể nói về những thung lũng đẹp đẽ của quê hương Monaghan, về một hòn đảo xa xôi xinh đẹp, về những ngọn đồi thấp và đồng cỏ xanh rì; tất cả dường như càng thêm mĩ miều khi được hình dung giữa cái chốn tuyết rơi bẩn thỉu này. Sau đó anh lại tán dương cuộc sống nơi đô thành miền Bắc của Detroit, của những trại khai thác gỗ ở Michigan, và cuối cùng là Chicago, nơi anh từng làm việc trong một nhà máy xẻ gỗ. Và rồi lại đến những lời bóng gió về chuyện phiêu lưu, về cái cảm giác khi anh gặp những điều kì lạ ở thành phố lớn ấy, kì lạ và mật thiết tới mức lẽ ra không nên nói tới. Anh nói với vẻ đăm chiêu về việc phải đột ngột ra đi, rũ bỏ những ràng buộc cũ, trốn chạy vào một thế giới xa lạ, kết thúc ở cái thung lũng buồn thảm này. Và Ettie lắng nghe, đôi mắt huyền ánh lên sự trắc ẩn và đồng cảm - hai cảm xúc có khả năng chuyển biến nhanh chóng và tự nhiên thành tình yêu.

McMurdo tạm thời tìm được công việc làm sổ sách vì anh vốn là người học cao. Công việc này chiếm gần hết thời gian trong ngày và anh vẫn chưa có dịp trình diện người đứng đầu chi hội của Tổng hội Huynh đệ Tự do tại vùng này. Tuy nhiên, một cuộc viếng thăm của Mike Scanlan, người cùng hội mà McMurdo đã gặp trên tàu, đã nhắc anh nhớ ra thiếu sót này. Scanlan nhỏ con, mặt choắt, mắt đen, tính hay lo âu kia có vẻ vui mừng khi gặp lại McMurdo. Sau vài li whisky, anh ta đề cập đến mục đích viếng thăm.

"Này, McMurdo," anh ta nói. "Tôi còn nhớ địa chỉ của anh nên mạo muội ghé thăm. Tôi ngạc nhiên là anh vẫn chưa trình diện với Hội chủ đó. Sao anh còn chưa đi gặp thủ lĩnh McGinty nhỉ?"

"Chà, tôi phải tìm việc làm. Tôi cũng bận quá."

"Bận mấy thì anh cũng phải dành thời gian gặp ông ấy. Chúa ơi, anh bạn này! Anh không đến Nhà Hội đoàn đăng kí danh tính ngay buổi sáng đầu tiên tới đây đúng là quá dại! Nếu mà anh đụng độ phải ông ấy... thôi, đừng đụng chạm gì thì hơn, vậy đó!"

McMurdo hơi ngạc nhiên.

"Tôi đã gia nhập hội đoàn hơn hai năm rồi, Scanlan, nhưng chưa bao giờ nghe nói phải làm bổn phận này cấp bách như vậy."

"Có thể ở Chicago thì khác."

"Vậy sao?"

Scanlan nhìn anh chằm chằm thật lâu. Trong ánh mắt anh ta có gì đó như báo điềm chẳng lành.

"Không phải thế à?"

"Một tháng nữa anh sẽ không nói thế. Tôi biết anh đã đấu khẩu với cảnh sát sau khi tôi rời tàu hôm đó."

"Làm sao anh biết?"

"Ồ, chuyện đó đồn khắp... Ở vùng này mọi chuyện dù tốt hay xấu đều được lan truyền nhanh."

"À, đúng thế. Tôi cho mấy tên chó săn đó biết tôi nghĩ gì về chúng."

"Nói có Chúa, anh đúng là người hợp ý McGinty đó."

"Sao? Ông ta cũng ghét cảnh sát à?"

Scanlan cười phá lên. "Đi gặp ông ấy đi, chàng trai ạ."

Lúc ra về Scanlan vẫn nhắc lại, "Ông ta sẽ không ghét cảnh sát mà sẽ ghét anh nếu như anh không tới gặp! Hãy nghe lời bạn bè khuyên mà đi ngay đi!"

Tình cờ ngay tối hôm đó, McMurdo lại có một cuộc gặp gỡ khác buộc anh phải nhanh chóng làm theo lời khuyên của Scanlan. Có thể là sự quan tâm của anh đối với Ettie giờ càng lộ rõ hơn trước, hoặc những biểu hiện đó dần dà khiến đầu óc chậm chạp của ông chủ nhà người Đức tốt bụng kia buộc phải chú ý, nhưng vì nguyên cớ gì thì ông lão cũng ra hiệu gọi chàng trai vào phòng riêng và nói ngay chuyện này không cần quanh co úp mở.

"Này cậu," ông già nói, "tôi thấy hình như cậu đang để ý con Ettie nhà tôi. Có phải vậy không hay là tôi lầm?"

"Vâng, đúng vậy đó," chàng trai trả lời.

"À, vậy thì tôi nói ngay với cậu luôn là chuyện đó không được. Đã có người âm thầm đến trước cậu rồi."

"Cô ấy có nói thế."

"À, cậu có thể tin là con gái tôi nói thật. Nhưng nó có cho cậu biết là ai không?"

"Không, tôi có hỏi nhưng cô ấy không chịu nói."

"Tôi chắc con ranh đó không dám! Có lẽ nó không muốn làm cậu sợ bỏ chạy luôn."

"Sợ ư?" McMurdo nổi nóng liền.

"Đúng đó, chàng trai! Sợ người này thì cũng không có gì phải xấu hổ cả. Đó là Teddy Baldwin."

"Thế hắn là quân của nợ nào?"

"Hắn là đầu đảng Scowrer."

"Scowrer! Tôi đã từng nghe nói tới bọn này. Hết Scowrer ở đây lại Scowrer ở kia, và lúc nào cũng nói thì thầm! Các người sợ gì chứ? Bọn Scowrer là ai?"

Theo bản năng, ông chủ nhà trọ lại hạ giọng nói khẽ giống như bất kì ai từng nhắc đến cái tổ chức ghê gớm ấy. Ông già nói, "Scowrer là Tổng hội Huynh đệ Tự do!"

Chàng trai kia trố mắt. "Ủa! Chính tôi đây cũng là người của hội đó mà!"

"Cậu! Nếu biết trước thế thì tôi không đời nào chứa chấp cậu... cho dù cậu có trả tôi một trăm đôla một tuần cũng không."

"Cái hội đó có gì sai trái chứ? Đó là hội ái hữu chuyên làm việc thiện mà. Điều lệ đã nói như thế."

"Có thể ở đâu đó là vậy. Không phải ở đây!"

"Ở đây thì sao?"

"Là băng đảng giết người, vậy đó!"

McMurdo bật ra một tiếng cười hồ nghi. "Làm sao ông chứng minh được?" Anh hỏi.

"Chứng minh à? Đâu cần phải có năm chục án mạng mới chứng minh được! Vụ Milman và Van Shorst, vụ gia đình Nicholson, rồi ông già Hiam, rồi thằng nhóc Billy James và nhiều vụ khác! Chứng minh à? Chẳng lẽ ở thung lũng này còn có ai không biết sao?"

"Nghe đây!" McMurdo nghiêm nghị nói. "Tôi muốn ông rút lại những lời vừa nói hoặc là phải nói cho rõ. Trước khi tôi rời khỏi phòng này, ông phải làm một trong hai việc đó. Hãy thử đặt ông vào vị trí của tôi đi. Tôi đây, một người lạ trong thị trấn này. Tôi là người của một hội đoàn mà tôi chỉ biết nó hoàn toàn vô hại. Ông sẽ thấy hội đoàn này có mặt trên khắp Hoa Kì, nhưng lúc nào cũng là một tổ chức vô hại. Bây giờ, khi tôi đang tính báo danh ở đây thì ông lại bảo nó chính là băng đảng giết người Scowrer kia. Tôi nghĩ ông nợ tôi một lời xin lỗi hoặc là một lời giải thích đó, ông Shafter."

"Tôi chỉ nói với cậu điều mà ai nấy đều biết, cậu à. Các đầu đảng của hội này cũng là đầu đảng của hội kia. Nếu cậu gây hấn với hội này thì hội kia sẽ cho cậu ăn đòn. Bọn tôi ở đây biết quá rõ chuyện đó."

"Chỉ là tin đồn... tôi muốn chứng cứ!" McMurdo nói.

"Nếu cậu sống đây lâu thì cậu sẽ có chứng cứ. Nhưng tôi quên rằng chính cậu cũng là người của bọn họ. Chẳng mấy chốc rồi cậu cũng sẽ tệ hại như cái ngữ ấy. Nhưng cậu phải tìm chỗ khác mà trọ, cậu à. Tôi không thể chứa chấp cậu nữa. Một đứa trong bọn này tới tán tỉnh con Ettie nhà tôi là đã quá thể rồi, mà tôi lại không dám cấm cửa hắn, giờ tôi lại phải chứa thêm một tên đồng bọn nữa ở trọ trong nhà sao? Thực đấy, sau đêm nay cậu không được ở đây nữa!"

McMurdo có cảm tưởng như phải chịu bản án trục xuất khỏi chỗ ở tiện nghi và xa rời cô gái anh yêu. Anh thấy cô ngồi một mình trong phòng khách cũng ngay tối hôm đó và anh trút phiền muộn với cô.

"Ờ, cha em đã ra tối hậu thư với anh rồi," anh nói. "Nếu chỉ là chuyện phòng trọ thôi thì anh chẳng màng, nhưng Ettie ơi, dù mới quen em một tuần thôi, nhưng thực sự em chính là lẽ sống của anh, làm sao anh có thể sống mà không có em chứ!"

"Ôi, thôi nào, anh McMurdo, đừng nói thế!" Cô gái nói. "Anh là người đến sau, em đã bảo anh rồi mà? Đã có một người khác, và nếu như em chưa hứa hẹn sẽ làm vợ người đó ngay thì ít nhất em cũng không thể hứa hẹn gì với ai khác!"

"Nếu anh là người đến trước thì anh có cơ hội nào không, Ettie?"

Cô gái vùi mặt vào hai lòng bàn tay. "Em ước gì anh là người đến trước!" Cô gái thổn thức.

McMurdo lập tức quỳ gối trước mặt cô gái. Anh nói to, "Hãy vì Chúa, Ettie! Em chấp nhận vậy sao? Lẽ nào em phá hỏng cuộc đời của cả hai ta chỉ vì lời hứa đó? Hãy nghe theo trái tim, em yêu! Lời chỉ dẫn ấy an toàn hơn bất kì hứa hẹn nào trước đây. Ngay lúc đang nói đây em đã nhận ra điều đó rồi."

Hai bàn tay sạm nâu mạnh mẽ của anh siết chặt hai bàn tay trắng muốt của Ettie.

"Hãy nói em sẽ là của anh đi và chúng ta sẽ cùng nhau vượt qua tất cả."

"Không phải ở đây chứ?"

"Ngay ở đây!"

"Đừng, đừng, Jack!" Đôi cánh tay anh giờ đã ôm lấy cô gái. "Ở đây không được đâu. Anh đưa em đi xa được không?"

Gương mặt McMurdo thoáng hiện một sự giằng co nhưng rồi lại cứng rắn như đá.

"Không, ở đây," anh nói. "Anh sẽ vì em mà thách thức cả thế giới, Ettie, ngay ở đây!"

"Sao chúng ta không thể cùng nhau bỏ đi?"

"Không được, Ettie, anh không thể bỏ nơi này."

"Nhưng tại sao?"

"Anh sẽ không bao giờ ngẩng cao đầu được nữa nếu như anh cảm giác mình bị đuổi đi. Hơn nữa, chúng ta phải sợ gì nào? Chẳng lẽ chúng ta không phải là những người tự do ở một xứ tự do sao? Nếu em yêu anh và anh yêu em thì ai dám ngăn cản?"

"Anh không biết đâu, Jack! Anh chỉ mới tới đây không lâu. Anh không biết gã Baldwin này đâu. Anh không biết McGinty và băng Scowrer của ông ta."

"Đúng, anh không biết họ, nhưng anh cũng không sợ họ và cũng không tin họ!" McMurdo nói. "Anh đã từng sống giữa những kẻ cục súc, em yêu, và thay vì sợ họ thì rốt cuộc họ luôn luôn sợ anh... luôn luôn, Ettie. Chuyện này nghe qua là thấy phi lí! Theo lời cha em, nếu như bọn chúng đã gây ra bao tội ác ở thung lũng này, và nếu mọi người đều biết đích danh bọn chúng, tại sao không có tên nào bị truy tố chứ? Em trả lời anh đi, Ettie?"

"Bởi vì không có nhân chứng nào dám đứng ra chống lại chúng. Nếu ai làm thế thì sẽ không sống lâu quá một tháng. Và chúng luôn có đồng bọn sẵn sàng thề là kẻ bị buộc tội không có mặt ở nơi xảy ra tội ác. Nhưng Jack, chắc chắn là anh đã đọc hết những chuyện như thế. Em biết tờ báo nào ở Hoa Kì cũng nhan nhản những chuyện này mà."

"À, đúng là anh có đọc mấy thứ đó, nhưng chỉ nghĩ là chuyện bịa. Có thể những người này có lí do để làm như thế. Hoặc có thể họ đã bị đối xử bất công và không còn cách nào khác để tự cứu lấy thân."

"Ôi, Jack, đừng để em nghe anh nói những lời đó! Anh nói y như hắn... như người kia!"

"Baldwin... hắn cũng nói như thế sao?"

"Và đó là lí do mà em căm ghét hắn đến thế. Ôi, Jack, giờ em có thể nói thật với anh. Em căm ghét hắn hết sức, nhưng cũng khiếp sợ hắn. Em sợ cho bản thân em, nhưng trên hết, em sợ cho cha. Em biết nếu em dám nói với hắn những gì em cảm nhận thì tai họa lớn sẽ giáng xuống đầu cha con em. Đó là lí do em cứ trì hoãn bằng những lời hứa hẹn nửa vời. Thực sự đó là niềm hi vọng duy nhất của hai cha con. Nhưng Jack ơi, nếu anh cùng chạy trốn với em, chúng ta có thể đưa cha đi cùng và sống bên nhau, mãi mãi thoát khỏi quyền lực của những kẻ hung ác này."

Một lần nữa gương mặt McMurdo lại thoáng hiện vẻ giằng co rồi lại cứng rắn như cũ.

"Ettie, sẽ không có tai ương nào xảy đến cho em, và cho cả cha em nữa. Còn nói về những kẻ hung ác, anh nghĩ trước khi chúng ta tâm sự với nhau, em có thể thấy anh cũng chẳng kém những kẻ đáng sợ nhất trong bọn chúng đâu."

"Không phải thế, Jack, không phải! Em luôn tin tưởng anh dù ở bất kì đâu."

McMurdo bật cười cay đắng.

"Lạy Chúa! Em có biết gì về anh đâu chứ! Đầu óc ngây thơ của em thậm chí còn không biết anh đang nghĩ gì, em yêu. Nhưng, ơ kìa, có khách nào đến vậy?"

Cửa chính vừa đột ngột bật mở và một gã trai trẻ nghênh ngang hách dịch đi vào. Tay này điển trai, ăn mặc bảnh bao, độ tuổi và tầm vóc cũng tương đương McMurdo. Dưới chiếc mũ dạ đen rộng vành mà gã chẳng buôn bỏ xuống, bộ mặt điển trai, với đôi mắt dữ tợn, hống hách và cái mũi diều hâu, đang hung hăng nhìn hai người ngồi bên lò sưởi.

Ettie đã đứng bật dậy đầy bối rối và hốt hoảng.

"Rất vui được gặp anh, anh Baldwin," cô gái nói. "Anh đến sớm hơn em tưởng. Xin mời anh ngồi."

Baldwin đứng chống nạnh nhìn McMurdo. Gã hỏi cộc lốc, "Ai đó?"

"Một người bạn của em, anh Baldwin, người mới đến trọ. Anh McMurdo, cho phép tôi giới thiệu anh với anh Baldwin."

Hai kẻ trai tráng gật đầu chào nhau, mặt mày cau có.

"Chắc cô Ettie đã cho mày biết về quan hệ giữa cô ấy với tao rồi chứ?" Baldwin nói.

"Tôi không biết giữa hai người có mối quan hệ nào."

"Không à? À, bây giờ mày sẽ được biết. Hãy nhớ lời tao là cô gái này đã thuộc về tao, và mày sẽ thấy ra ngoài đi dạo tối nay là rất thích hợp."

"Cảm ơn, tôi không có hứng đi dạo."

"Không à?" Đôi mắt hung dữ của gã kia long sòng sọc. "Chắc là mày có hứng đánh nhau đấy, tên khách trọ kia!"

"Đúng ý tôi đó!" McMurdo vừa to tiếng vừa đứng phắt dậy. "Đề nghị của anh thật hết sức đáng hoan nghênh."

"Hãy vì Chúa, Jack ơi! Ôi, hãy vì Chúa!" Quẫn trí, cô Ettie khốn khổ kêu lên. "Ôi Jack, Jack, anh ta sẽ hại anh mất!"

"À, Jack à, gọi thân mật nhỉ?" Baldwin nói kèm với tiếng chửi thề. "Hai người thân mật quá nhỉ?"

"Ôi, Ted, anh vừa phải thôi... xin hãy tử tế! Hãy vì em, Ted, nếu anh thương em thì xin hãy rộng lòng bỏ qua!"

"Ettie, anh nghĩ rằng nếu em cứ mặc kệ đi thì hai chúng tôi sẽ giải quyết xong chuyện này," McMurdo bình thản nói. "Hay là thế này, anh Baldwin, anh với tôi đi ra đường đi. Tối nay trời đẹp, và bên kia dãy phố kế cận có một bãi đất trống."

"Tao sẽ xử mày mà không cần phải bẩn tay," kẻ kình địch kia nói. "Trước khi tao xong việc với mày, mày sẽ phải ước giá chưa từng đặt chân vào nhà này!"

"Hãy xử ngay lúc này đi!" McMurdo cao giọng.

"Chính tao là người sẽ chọn thời điểm chứ không phải mày. Nhìn đây!" Gã đột nhiên xắn tay áo lên và phô ra một dấu hiệu kì lạ như được đóng bằng sắt nung trên cẳng tay. Đó là một vòng tròn bao ngoài một hình tam giác. "Mày biết nó có ý nghĩa gì không?"

"Tôi không biết và cóc cần biết!"

"A, rồi mày sẽ biết, tao hứa với mày đó. Mày cũng chẳng thọ lâu đâu. Chắc là Ettie có thể cho mày biết vài chuyện tương tự. Còn cô, Ettie, rồi cô sẽ phải quỳ gối mà bò về với tôi... nghe chưa hả?... Quỳ gối mà bò đấy... và khi đó tôi sẽ cho cô biết phải lĩnh hình phạt nào. Cô đã sinh chuyện... thề với Chúa, tôi sẽ bắt cô phải lĩnh hậu quả!"

Gã điên tiết nhìn cả hai người. Rồi gã quay gót và liền sau đó cánh cửa nhà ngoài đóng sầm một tiếng.

McMurdo và cô gái đứng im lặng hồi lâu. Rồi cô vòng tay ôm anh. "Ôi, Jack, anh thật gan dạ! Nhưng chẳng ích gì đâu, anh phải chạy trốn đi! Ngay đêm nay, Jack... đêm nay! Đó là hi vọng duy nhất của anh. Hắn sẽ lấy mạng anh. Em đã thấy điều đó trong ánh mắt ghê gớm của hắn. Anh không có cơ may nào để chống lại cả chục đứa bọn chúng, với thủ lĩnh McGinty và bao thế lực của hội đoàn này đứng đằng sau chúng nó."

Gỡ vòng tay cô gái ra, McMurdo hôn cô và dịu dàng đỡ cô ngồi lại xuống ghế.

"Cứ thế đi, em yêu, cứ ngồi yên đó! Đừng lo lắng hay sợ hãi gì cho anh. Anh cũng là người của Huynh đệ Tự do mà. Anh cũng vừa cho cha em biết điều đó. Có thể anh cũng chẳng tốt đẹp gì hơn bọn chúng, cho nên em đừng có phong thánh cho anh. Giờ anh đã nói thế thì không chừng em cũng căm ghét anh luôn."

"Căm ghét anh ư, Jack? Em còn sống trên đời thì không bao giờ có chuyện đó. Em biết là người của Huynh đệ Tự do ở bất kì đâu cũng chẳng hại ai, ngoại trừ ở đây, việc gì em phải nghĩ xấu về anh chỉ vì điều đó chứ? Nhưng nếu anh là người của Huynh đệ Tự do thì tại sao anh không xuống phố kết thân với thủ lĩnh McGinty chứ, Jack? Ôi, mau đi, Jack, mau đi! Anh phải bắn tiếng ngay nếu không bọn chó săn kia lại truy lùng anh đó."

"Anh cũng đang nghĩ tới việc này," McMurdo nói. "Anh sẽ đi liền và thu xếp mọi chuyện. Em cứ nói với cha em là anh ngủ lại đây đêm nay rồi sáng mai sẽ tìm chỗ trọ khác."

Tửu điếm của McGinty vẫn đông đúc như thường lệ vì đó là nơi la cà được ưa chuộng của mọi phần tử hơi thô lậu ở thị trấn này. McGinty nổi tiếng vì tính khí vui vẻ, bỗ bã, những yếu tố tạo thành cái mặt nạ che đậy hầu hết những gì ẩn giấu bên trong. Nhưng ngoài sự nổi tiếng ấy, ông ta là người mà ai trong thị trấn cũng phải sợ, và thực tế là sự sợ hãi ấy lan tỏa trong vòng ba mươi dặm của thung lũng và vượt qua cả hai bên triền núi. Bản thân sự sợ hãi cũng đủ cho tửu điếm này luôn đầy khách vì không ai có thể thờ ơ với thiện chí của ông ta.

Ngoài nắm giữ những quyền lực bí mật mà ai ai cũng cho rằng ông ta sẽ sử dụng một cách tàn nhẫn, McGinty là một công chức cao cấp - ủy viên hội đồng thị trấn kiêm ủy viên lục lộ - đắc cử nhờ lá phiếu của lũ lưu manh và những kẻ này sau đó lại mong đợi ân huệ do ông ta ban phát. Sưu cao thuế nặng khôn xiết, công trình công cộng bị bỏ bê, ngân khoản mờ ám bị đám kiểm toán ăn hối lộ bỏ qua, và các công dân đàng hoàng bị tống tiền công khai nhưng phải ngậm miệng làm thinh vì sợ gặp phải những chuyện còn tệ hại hơn. Cứ như thế, năm này qua năm khác, những chiếc ghim cà vạt bằng kim cương của thủ lĩnh McGinty thêm phần phô trương, những dây chuyền vàng thêm đè nặng lên bộ vét ngày một thêm hào nhoáng, và tửu điếm của ông ta cứ bành trướng dần đến sắp nuốt chửng hết cả một dãy phố thuộc khu Market Square.

McMurdo đẩy cánh cửa lật vào tửu điếm và len lỏi giữa đám người bên trong, đi qua không gian mịt mù khói thuốc và nồng nặc mùi rượu mạnh. Nơi này đèn đuốc sáng choang, những tấm gương mạ vàng cầu kì cỡ đại ốp trên mọi bức tường lại phản chiếu và nhân bội thêm cái nguồn sáng chói mắt ấy. Vài bartender mặc sơmi xắn tay đang tất bật pha chế thức uống cho những kẻ nhàn rỗi ngồi bên quầy rượu rộng rãi được bọc đồng.

Ở trong cùng, đang tựa người vào quầy rượu, với điếu xì gà ngậm bên mép là một kẻ cao lớn, lực lưỡng, không ai khác chính là McGinty khét tiếng. Ông ta to lớn kềnh càng, râu quai nón mọc lên tới gò má, mớ tóc đen nhánh xù như bờm sư tử rủ xuống tận cổ áo. Ông ta có nước da ngăm ngăm như người Ý còn đôi mắt đen sậm lạ lùng, lại hơi lé một chút, nên càng bộc lộ vẻ hung hiểm đặc biệt. Mọi điểm khác trong con người này - tầm vóc đáng nể, vẻ đường bệ và bộc trực - đều phù hợp với phong thái vui vẻ, thẳng thắn ông ta tạo ra. Ai cũng phải nói đây là một người lương thiện, chân chất, tâm tính đàng hoàng cho dù nói năng có vẻ bỗ bã. Chỉ đến khi đôi mắt đen sậm, bí hiểm và tàn nhẫn kia hằm hè nhìn người kia mới có cảm giác mình đang đối mặt với một chuỗi hiểm họa tiềm ẩn; nhưng sức mạnh, sự gan lì và giảo quyệt đằng sau đôi mắt càng làm cho cái nhìn ấy ghê gớm hơn gấp ngàn lần.

Quan sát kĩ người đó rồi McMurdo mới lách qua đám đông đi tới với vẻ bạo dạn bất cần thường lệ, và chen vào một nhóm xun xoe đang nịnh hót vị thủ lĩnh quyền lực kia; cả đám người ấy cứ cười rú lên theo từng câu bông lơn vụn vặt nhất của ông trùm. Đôi mắt xám lì lợm sau đôi tròng kính của người khách lạ trẻ tuổi can đảm đáp trả cái nhìn của đôi mắt đen đáng sự đang chiếu thẳng vào mình.

"À, chàng trai, tôi không nhớ là đã gặp anh."

"Tôi mới tới đây, thưa ông McGinty."

"Anh không mới tới mức không biết phải gọi đúng danh xưng của một quý ông chứ?"

"Ông ấy là ủy viên Hội đồng McGinty," ai đó trong đám người kia lên tiếng.

"Xin lỗi, thưa ông Hội đồng. Tôi chưa biết lề thói nơi đây. Nhưng có người khuyên tôi nên gặp ông."

"À, anh muốn gặp tôi. Chỉ có vậy thôi. Thế anh nghĩ gì về tôi?"

"Ồ, đánh giá bây giờ còn quá sớm. Nếu trái tim ông cũng lớn như cơ thể, và tấm lòng cũng đẹp như diện mạo ông thì tôi không còn mong gì hơn," McMurdo nói.

"Chúa ơi! Đúng giọng điệu Ireland cơ này!" Ông chủ tửu điếm thốt lên, không rõ là để chiều lòng vị khách táo tợn này hay là để giữ phẩm giá của mình. "Thế anh có đủ tư cách để tôi tiếp anh không?"

"Chắc chắn có," McMurdo nói.

"Thế có người bảo anh gặp tôi à?"

"Đúng vậy."

"Ai bảo anh thế?"

"Scanlan ở Chi hội 341, Vermissa. Xin uống mừng sức khỏe ông Hội đồng, và chúc cho mối hữu hảo ngày càng tốt đẹp." Anh nâng lên môi cốc rượu vừa được bày ra rồi nốc cạn, ngón út của bàn tay cầm cốc giơ cao.

Quan sát anh từng nhất cử nhất động, bây giờ McGinty nhướng cặp mày rậm đen lên.

"Ồ, ra thế hả?" Ông ta nói. "Tôi phải để ý hơn về việc này đó, anh..."

"McMurdo."

"Để ý hơn đó, anh McMurdo, bởi vì ở vùng này chúng tôi không tin ai và cũng không tin những gì nghe nói lại. Vào trong một chút đi, vòng ra sau quầy rượu này."

Đằng sau có một gian phòng nhỏ có các thùng rượu xếp thành hàng dài. McGinty cẩn thận đóng cửa rồi ngồi trên một thùng rượu, vừa trầm ngâm cắn điếu xì gà vừa quan sát người mới đến bằng đôi mắt đáng sợ kia. Suốt mấy phút ông ta chỉ ngồi im lìm. McMurdo vui vẻ chịu đựng ánh dò xét của kẻ kia, một bàn tay anh thọc vào túi áo khoác, bàn tay kia anh vân vê bộ ria màu nâu của mình. Thình lình McGinty chồm người tới, giơ ra một khẩu súng lục trông rất nguy hiểm.

"Nhìn đây, đồ ranh con," ông ta nói, "nếu để tôi nghi anh đang giở trò gì với bọn tôi thì anh không yên đâu."

"Đây là kiểu đón tiếp lạ lùng của một hội chủ hội Huynh đệ Tự do dành cho một người lạ cùng hội đoàn đấy," McMurdo đáp lại có phần nghiêm trang.

"A, nhưng đó là điều anh phải chứng minh," McGinty nói, "và nếu chứng minh không xong thì chỉ có Chúa mới cứu được anh bạn! Anh gia nhập ở đâu?"

"Chi hội 29 ở Chicago."

"Bao giờ?"

"Ngày 24 tháng 6 năm 1872."

"Ai là hội chủ?"

"James H. Scott."

"Trưởng khu vực của anh là ai?"

"Bartholomew Wilson."

"Hừm! Coi bộ đối đáp trơn tru đó. Thế anh bạn đang làm gì ở đây?"

"Làm việc, cũng như ông... nhưng công việc nghèo hèn hơn."

"Trả lời nhanh nhẹn đấy!"

"Vâng, tôi lúc nào cũng mau mồm mau miệng."

"Thế anh bạn hành động có nhanh không?"

"Ai biết rõ đều bảo tôi là người lanh lẹ."

"À, bọn tôi sẽ thử thách điều đó sớm hơn anh tưởng. Anh có nghe nói gì về chi hội vùng này không?"

"Tôi có nghe nói phải là người trưởng thành mới được gia nhập."

"Với anh thì đúng đấy, anh McMurdo. Tại sao anh bỏ Chicago?"

"Còn lâu tôi mới nói ra!"

McGinty mở to mắt. Ông ta không quen nghe trả lời theo kiểu như vậy và câu đó khiến ông buồn cười.

"Sao anh không nói tôi biết?"

"Bởi vì người cùng hội không được nói dối với nhau."

"Vậy là sự thật quá tồi tệ nên không dám nói à?"

"Ông nói như vậy cũng được, nếu ông muốn."

"Nghe đây, anh đừng mong là tôi, một hội chủ, lại có thể kết nạp một kẻ không thể nói rành mạch về quá khứ của mình."

McMurdo có vẻ khó xử. Rồi anh lấy ở túi áo trong ra một mẩu báo cũ. Anh nói, "Ông sẽ không tố giác người đồng hội chứ?"

"Anh dám nói với tôi như thế thì tôi sẽ cho anh một bạt tai đó!" McGinty nóng nảy quát lên.

"Ông nói đúng, thưa ông Hội đồng," McMurdo nhún nhường nói. "Tôi phải xin lỗi ông. Tôi nói mà không nghĩ. Chà, tôi biết mình sẽ được an toàn dưới sự che chở của ông. Ông xem mẩu báo này đi."

McGinty đọc lướt qua tường thuật về vụ bắn chết tên Jonas Pinto nào đó ở tửu điếm Lake Saloon của phố Market, Chicago trong tuần lễ đầu năm mới 1874.

"Anh làm à?" Ông ta vừa hỏi vừa trả lại mẩu báo.

McMurdo gật đầu.

"Sao anh bắn thằng đó?"

"Lúc đó tôi đang giúp chính phủ đúc tiền. Tiền tôi làm không có bảo chứng nhưng trông giống hệt tiền chính phủ và chi phí rẻ hơn. Tên Pinto này giúp tôi tuồn tiền..."

"Giúp cái gì cơ?"

"À, tức là giúp lưu hành tiền giả. Sau đó hắn muốn tố cáo. Có thể trước đó hắn đã tố cáo tôi rồi. Tôi không thèm kiểm tra. Tôi liền bắn hắn rồi bỏ đi luôn về vùng mỏ than."

"Sao lại về vùng mỏ than?"

"Vì tôi đọc báo thấy nói là dân ở các vùng này ít tọc mạch."

McGinty bật cười. "Đầu tiên anh bạn đúc tiền giả rồi kế tiếp lại giết người, sau đó anh bạn tới vùng này vì nghĩ nơi đây sẽ đón tiếp anh bạn."

"Sự thật là như thế," McMurdo đáp.

"Chà, tôi thấy anh bạn sẽ còn làm được nhiều việc hơn thế. Này, anh bạn đúc được tiền thật sao?"

McMurdo móc trong túi ra năm, sáu đồng tiền.

"Đám này chưa từng đi qua nhà máy đúc tiền Philadelphia."

"Thật không đấy!" McGinty để mấy đồng tiền trên bàn tay hộ pháp đầy lông lá như đười ươi rồi giơ dưới ánh đèn. "Tôi thấy giống hệt. Chúa ơi! Anh bạn sẽ là một người đồng hội vô cùng được việc, tôi nghĩ thế! Trong hội đoàn có vài thành phần bất hảo cũng không sao đâu, anh bạn McMurdo, bởi vì sẽ có lúc chúng ta phải tự lo liệu lấy thân. Nếu bị chèn ép mà chúng ta không xô đẩy lại thì chẳng mấy chốc sẽ bị dồn vào chân tường thôi."

"Chà, tôi nghĩ mình có thể góp phần xô đẩy cùng với các anh em khác."

"Coi bộ anh gan lì đó. Anh không hề nao núng khi tôi chĩa khẩu súng này vào anh."

"Người đang gặp nguy hiểm đâu phải là tôi."

"Vậy ai chứ?"

"Chính là ông, thưa ông Hội đồng." McMurdo rút khẩu súng ngắn đã lên đạn trong túi bên hông áo khoác ra. "Tôi lúc nào cũng đề phòng ông. Và tôi nghĩ tài bắn súng của tôi cũng nhanh chẳng kém ông đâu."

"Lạy Chúa!" McGinty giận đỏ mặt rồi sau đó cười ầm lên. "Đó, bao năm rồi bọn tôi chưa hề gặp chuyện gì ghê gớm cận kề như thế này. Tôi nghĩ chi hội này rồi sẽ hãnh diện về anh... Sao, mày muốn cái quái gì thế? Sao không để tao yên được năm phút nói chuyện với quý ông này mà cứ xộc vào làm gì?"

Anh chàng bartender đứng luống cuống. "Xin lỗi ông Hội đồng, nhưng có Ted Baldwin tới. Anh ta nói cần gặp ông ngay."

Có thông báo cũng vô nghĩa, bởi vì bộ mặt dữ tợn, quyết liệt của chính Ted Baldwin đã xuất hiện sau lưng gã nhân viên tửu điếm. Gã xô kẻ kia ra ngoài và đóng sập cửa lại.

"Ra thế," gã vừa nói vừa tức tối nhìn McMurdo, "mày đã tới đây trước rồi sao? Thưa ông Hội đồng, tôi có chuyện muốn thưa với ông về người này."

"Vậy thì nói ra ở đây, ngay bây giờ, trước mặt tôi đi," McMurdo cao giọng.

"Tao sẽ nói lúc nào tao muốn, theo cách của tao."

"Thôi! Thôi!" McGinty vừa nói vừa rời khỏi thùng rượu. "Như vậy không được đâu. Chúng ta có người huynh đệ mới ở đây, Baldwin, và chúng ta không được chào đón anh ta theo kiểu đó. Đưa tay ra, anh bạn, làm hòa đi chứ!"

"Không đời nào!" Baldwin điên tiết hét lên.

"Tôi đã đề nghị với anh ta đấu tay đôi nếu anh ta cho rằng tôi đã cư xử sai trái," McMurdo nói. "Tôi sẽ đấu bằng hai nắm đấm này, còn nếu như anh ta không bằng lòng thì tôi sẽ đấu theo bất cứ cách nào anh ta chọn. Đấy, thưa ông Hội đồng, bây giờ tôi để cho ông phân xử hai bên theo cương vị của một hội chủ."

"Nhưng nguyên cớ gì chứ?"

"Một cô gái. Cô ta toàn quyền tự do lựa chọn."

"Vậy sao?" Baldwin quát to.

"Nếu đặt giữa hai huynh đệ đồng hội, cô gái có quyền tự do lựa chọn," thủ lĩnh nói.

"Ồ, ông phán quyết như thế à?"

"Đúng thế đấy, Ted Baldwin," McGinty nói với một cái quắc mắt hung tợn. "Anh muốn cãi lại phải không?"

"Sao ông lại bỏ rơi người đã sát cánh cùng ông suốt năm năm trời để bênh vực một kẻ mà trước đây ông chưa từng gặp chứ? Ông đâu mãi là hội chủ được, Jack McGinty! Thề có Chúa! Lần bầu cử sắp tới..."

Ông Hội đồng lao tới Baldwin như con hổ vồ mồi. Hai bàn tay ông ta chộp cổ họng người kia và xô hắn ngã ngửa trên một thùng rượu. Trong cơn điên tiết, ông ta lẽ ra đã bóp cổ Baldwin tới chết nếu không có McMurdo can thiệp.

"Xin nương tay, ông Hội đồng! Vì Chúa, xin nương tay cho!" McMurdo vừa nói to vừa kéo ông ta lùi lại.

McGinty buông tay và Baldwin, vừa sợ điếng hồn vừa thở hổn hển, toàn thân run lẩy bẩy vì vừa cận kề cái chết, lồm cồm ngồi thẳng dậy trên thùng rượu cạnh nơi gã vừa bị xô vào.

"Mày đáng bị như thế nhiều lần rồi, Ted Baldwin... bây giờ mày lĩnh đủ!" McGinty quát lên, bộ ngực đồ sộ phập phồng tức giận. "Mày tưởng nếu tao không được bầu làm hội chủ nữa thì mày sẽ thế chỗ tao đấy à? Chuyện đó để hội đoàn lo liệu. Nhưng chừng nào tao còn là thủ lĩnh thì tao không cho phép đứa nào giở giọng chống đối tao hay phán quyết của tao."

"Tôi không hề chống đối ông," Baldwin vừa thều thào vừa sờ cổ.

"Được," McGinty thốt lên một tiếng rồi liền chuyển sang thái độ vui vẻ, bỗ bã như trước. "Vậy thì tất cả chúng ta lại là bạn tốt và kết thúc chuyện này."

Ông ta lấy một chai champagne trên kệ xuống và vặn nút bần ra.

"Đây," ông ta nói tiếp khi rót đầy ba chiếc li cao. "Ta hãy uống giảng hòa. Sau đó, như các anh đã biết, giữa chúng ta sẽ không còn oán thù nữa. Bây giờ, tay trái đặt lên yết hầu. Tôi nói với anh, Ted Baldwin, anh phật ý chuyện gì?"

"Mây mù nặng trĩu," Baldwin đáp.

"Những rồi trời sẽ hửng."

"Xin thế là thế!"

Hai người cạn li, và nghi thức đó lại được tiến hành giữa Baldwin và McMurdo.

"Đấy!" McGinty vừa nói vừa xoa tay. "Vậy là kết thúc ân oán. Nếu chuyện này đi xa hơn thì hội đoàn sẽ trừng phạt, và lúc đó sẽ nặng tay đấy, như anh Baldwin đây đã biết rồi... còn anh sẽ sớm biết thôi, McMurdo, nếu anh muốn rắc rối!"

"Tin đi, tôi chẳng muốn thế đâu," McMurdo nói. Anh chìa tay cho Baldwin. "Tôi mau gây gổ nhưng cũng mau bỏ qua. Người ta bảo đó là do máu nóng Ireland của tôi. Nhưng chuyện xong rồi và tôi không bực bội nữa."

Baldwin buộc phải bắt bàn tay chìa ra, bởi vì đôi mắt hung ác của thủ lĩnh đáng sợ kia đang nhìn gã. Nhưng bộ mặt sưng sỉa của gã cho thấy mấy lời của McMurdo chẳng làm gã động lòng.

McGinty vỗ vai cả hai người.

"Ôi đàn bà!" Ông ta kêu lên. "Nghĩ mà coi, bọn tóc dài ấy mà lại chia rẽ hai chàng trai của tôi chứ! Thật xui xẻo! Chỉ có ý muốn của lũ chúng nó mới giải quyết được vấn đề chứ một hội chủ như tôi thì đành chịu... và hãy ca tụng Chúa vì điều đó! Không có đám đàn bà ấy thì chúng ta cũng đã lắm chuyện rồi. Anh McMurdo, anh sẽ phải gia nhập Chi hội 341. Chúng tôi có cách thức riêng khác hẳn ở Chicago. Tối thứ bảy này có cuộc họp, nếu anh đến được thì chúng tôi sẽ cho anh được tự do mãi mãi ở Vermissa Valley."

10. Chi hội 341, Vermissa

Sau buổi tối quá nhiều biến cố sôi động ấy, ngay hôm sau McMurdo dọn đồ khỏi nhà ông già Jacob Shafter và đến thuê trọ ở chỗ bà quả phụ MacNamara nằm ngay rìa thị trấn. Scanlan, người bạn kết giao đầu tiên trên chuyến tàu ấy, không lâu sau đó cũng chuyển tới Vermissa, và hai người ở chung. Nhà bà quả phụ không có khách trọ nào khác và chủ nhà lại là một bà già Ireland dễ tính nên để mặc hai người tùy ý, thế là họ tha hồ nói và làm mọi điều mà những người có chung bí mật thường chia sẻ.

Già Shafter đã khoan nhượng tới mức cho phép McMurdo đến nhà dùng bữa lúc nào anh muốn, cho nên chuyện tình cảm của anh với Ettie không hề tan vỡ. Trái lại, theo thời gian tình cảm ấy càng lúc càng nồng nàn.

Trong phòng riêng ở chỗ trọ mới, McMurdo cảm thấy an toàn tới mức anh lôi mấy cái khuôn đúc tiền ra và sau khi cam kết giữ bí mật, một số huynh đệ đồng hội được phép ghé tới xem và mang về ít tiền giả, mà chúng thì tinh xảo tới mức có dùng để trao đổi mua bán cũng không hề khó khăn hay nguy hiểm gì. Với một tài nghệ tuyệt hảo như thế, lí do McMurdo lại phải nai lưng làm việc kiếm tiền quả là một điều bí ẩn mà bằng hữu của anh không ngừng thắc mắc, mặc dù anh luôn giải thích rằng nếu anh sống mà không có sinh kế gì cụ thể thì cảnh sát sẽ nhanh chóng để ý dò la.

Quả thực đã có một viên cảnh sát theo dõi anh, nhưng may sao biến cố đó lại mang đến lợi nhiều hơn hại cho anh chàng ưa mạo hiểm. Sau lần ra mắt đầu tiên, ít có tối nào mà McMurdo lại không mò tới tửu điếm của McGinty, để kết thân với các chàng trai ở đó - các chàng trai là cách nói vui vẻ mà cái băng đảng nguy hiểm thống trị nơi này thường gọi mình. Phong thái hào hoa và lối nói năng táo bạo đã giúp anh được lòng mọi người, còn cách anh dứt điểm đối thủ thật mau lẹ và chính xác trong một cuộc ẩu đả tới bến ở quán rượu lại càng làm cho cộng đồng lỗ mãng đó thêm kính nể. Tuy nhiên, chính biến cố đây mới nâng anh lên cao hơn nữa trong mắt mọi người.

Đúng vào giờ đông đúc một tối nọ, cửa mở ra và một người bước vào, trong bộ đồng phục xanh nhã nhặn và đội chiếc mũ lưỡi trai của cảnh sát vùng mỏ. Đó là một nhóm đặc biệt do các chủ mỏ than và đường sắt lập ra để giúp sức cho giới cảnh sát dân sự bình thường, lực lượng đã hoàn toàn bất lực trước tình trạng côn đồ có tổ chức đang hoành hành ngang ngược tại khu vực này. Mọi người im bặt khi kẻ đó bước vào và nhiều ánh mắt hiếu kì dồn về phía anh ta, nhưng mối quan hệ giữa cảnh sát và tội phạm khá khác thường ở nhiều nơi trên nước Mỹ, và bản thân McGinty đang đứng sau quầy rượu không hề tỏ ra ngạc nhiên khi viên cảnh sát tự gia nhập nhóm khách hàng của ông ta.

"Một li whisky không pha, cho đêm đỡ lạnh," viên sĩ quan cảnh sát nói. "Chắc là chúng ta chưa từng gặp nhau, phải không ông Hội đồng?"

"Anh là chỉ huy mới à?" McGinty nói.

"Đúng thế. Thưa ông Hội đồng, chúng tôi mong là ông cùng các công dân có chức sắc khác sẽ giúp chúng tôi giữ gìn luật pháp và trật tự ở thị trấn này. Tôi là đại úy Marvin."

"Không có anh thì chúng tôi cũng chẳng chết, đại úy Marvin," McGinty lạnh lùng nói, "vì chúng tôi đã có cảnh sát riêng của thị trấn, và đâu cần thêm hàng nhập cảng. Các anh chỉ là tay sai ăn tiền của bọn tư bản, được chúng thuê để đánh đập hay nã đạn vào đám đồng bào nghèo hèn hơn mà thôi."

"Chà, chà, chúng ta sẽ không tranh cãi chuyện này," viên sĩ quan cảnh sát nói với giọng hài hước. "Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều làm bổn phận của mình theo cách mình nhìn nhận sự việc, chỉ có điều chúng ta không cùng chung một cách nhìn." Anh ta uống cạn li rồi quay lưng định đi ra thì bắt gặp gương mặt của McMurdo đang cau có ngay bên cạnh.

"Xin chào! Xin chào!" Anh ta kêu to và nhìn McMurdo từ trên xuống dưới. "Người quen cũ đây mà!"

McMurdo lùi ra xa. "Trong đời tao chưa hề là bạn của mày hay của bất kì thằng cớm chó chết nào khác," anh nói.

"Người quen không phải lúc nào cũng là bạn," viên đại úy cảnh sát ngoác miệng cười. "Anh là Jack McMurdo ở Chicago, đúng không, đừng có chối!"

McMurdo nhún vai. "Tao không chối," anh nói. "Mày tưởng tao xấu hổ vì chính cái tên của mình sao?"

"Dù sao thì anh cũng có lí do để xấu hổ đấy."

"Ý mày muốn nói cái quái gì?" McMurdo quát lên, thu tay thành quyền.

"Thôi, thôi đi, Jack, hăm dọa tôi chẳng ích gì đâu. Tôi từng là cảnh sát ở Chicago trước khi tới khu mỏ than chết tiệt này, và tôi nhìn là biết ngay ai là đạo tặc Chicago."

Mặt McMurdo sa sẩm. "Đừng có nói mày là Marvin của Tổng cục Cảnh sát Chicago đấy!" Anh kêu lên.

"Đích thị là Teddy Marvin ngày xưa đây, xin hầu ngài. Ở đó bọn tôi vẫn chưa quên vụ bắn chết Jonas Pinto đâu."

"Tao không bắn nó."

"Không à? Một câu nói của anh mà là bằng chứng chắc? À, thằng đó mà chết thì cũng hết sức thuận tiện cho anh, nếu không anh đã bị tóm vì tội tuồn tiền giả. Thôi, chúng ta bỏ qua chuyện đó đi, bởi vì nói riêng với anh... và có lẽ nói ra câu này cũng quá giới hạn mà chức trách cho phép rồi, nhưng họ không có bằng chứng cụ thể để buộc tội anh, và từ ngày mai Chicago rộng cửa đón anh đấy."

"Tao ở đây cũng thoải mái rồi."

"A, tôi đã mách nước cho anh, còn anh cứ sưng sỉa như đồ chó vô ơn."

"Chà, tôi chắc là anh có ý tốt, và tôi xin cảm ơn anh," McMurdo nói nhưng không có vẻ gì hàm ơn.

"Tôi sẽ ngậm miệng chừng nào còn thấy anh sống đàng hoàng," viên đại úy nói. "Nhưng thề có Chúa! Sau vụ này anh đừng có hòng thoát nạn dễ dàng lần nữa! Tạm biệt anh nhé... và tạm biệt, ông Hội đồng."

Viên cảnh sát chưa kịp ra khỏi quán rượu thì đã tạo dựng nên một anh hùng địa phương. Những kì tích của McMurdo ở tận Chicago đã được mọi người rỉ tai nhau trước đó. Còn anh luôn gạt bỏ mọi câu hỏi bằng một nụ cười cứ như một người không muốn bị ép nhận danh tiếng. Nhưng bây giờ chuyện đó đã được chính thức xác nhận. Lũ ăn không ngồi rồi trong quán bu lấy anh và bắt tay nhiệt tình. Kể từ lúc đó anh không còn giữ kẽ nữa. Tửu lượng của anh rất được, nhưng tối hôm ấy, nếu người bạn Scanlan không ở kề cận để đưa anh về nhà thì người hùng được tôn vinh này nhất định đã phải ngủ qua đêm dưới quầy rượu.

Vào một tối thứ bảy, McMurdo được giới thiệu với chi hội. Anh cứ tưởng mình sẽ được gia nhập không cần nghi thức gì vì anh đã được kết nạp ở Chicago, nhưng ở Vermissa có những lễ nghi đặc biệt mà mọi người tự hào và ứng viên nào cũng phải trải qua. Tất cả tề tựu trong một gian phòng lớn dành riêng cho mục đích này ở Nhà Hội đoàn. Khoảng sáu mươi thành viên đã tề tựu ở Vermissa nhưng số đó không đại diện cho toàn bộ lực lượng tổ chức bởi vì ở thung lũng này, cũng như khu vực hai bên triền núi, còn nhiều chi hội khác; tất cả sẽ tráo thành viên cho nhau khi có việc quan trọng nảy sinh cần đến những người lạ mặt giúp gây chuyện tại khu vực đó. Tổng cộng có không dưới năm trăm thành viên rải rác khắp vùng mỏ than này.

Trong phòng họp trống trải đó, mọi người tập hợp quanh một chiếc bàn dài. Sát tường là một chiếc bàn nữa bày đầy chai cốc đủ loại, và chúng thu hút ánh mắt của nhiều người lắm lắm. McGinty ngồi ở đầu bàn, chiếc mũ bêrê nhung đen đội trên mái tóc đen bù rối, cái khăn choàng màu tím quấn quanh cổ, khiến ông ta trông như một thầy tế đang chủ trì một nghi lễ ma quỷ nào đó. Ngồi hai bên ông ta là các thành viên có địa vị cao trong chi hội, trong đó có gã Ted Baldwin mang bộ mặt điển trai tàn nhẫn. Mỗi người đều quàng một cái khăn hay đeo một huy hiệu cho biết chức sắc của mình. Hầu hết những người này đều không còn trẻ nhưng số ít còn lại là thanh niên từ mười tám đến hai lăm, những tên tay sai nhanh nhảu thạo việc, thừa lệnh những người cấp cao hơn. Trong số lớn tuổi hơn, nhiều bộ mặt cho thấy cái tâm tính hung ác, bất chấp luật lệ; nhưng nhìn cái đám thuộc hạ không cấp bậc kia, thật khó mà tin rằng những thanh niên có vẻ chân chất, nhiệt tình này lại là một bè lũ sát nhân nguy hiểm, đầu óc đã hoàn toàn suy đồi về đạo đức tới mức chúng hãnh diện một cách đáng kinh tởm về sự giết người thành thạo của mình, và hết lòng kính nể những ai khét tiếng trong công việc mà chúng gọi là 'làm sạch sẽ'. Với bản tính méo mó ấy, chuyện đang tâm gieo họa cho những người chưa hề gây hại gì tới chúng, thậm chí cho người chúng chưa hề gặp trong đời, với chúng lại chính là một việc làm anh hùng chí khí. Thực hiện tội ác xong, chúng tranh cãi xem ai đã ra đòn chí tử, và giải khuây bằng cách mô tả những tiếng gào thét và bộ dạng quằn quại của người bị giết.

Hồi xưa, ít nhiều chúng còn bí mật dàn xếp, nhưng vào thời điểm câu chuyện này diễn ra thì chúng đã hành động hết sức công khai. Lí do là sự thất bại quá nhiều lần của luật pháp đã cho chúng thấy rằng: Một mặt, không ai dám đứng ra làm chứng buộc tội chúng; mặt khác, chúng có vô số người thân tín sẵn sàng đứng ra làm chứng bảo vệ chúng, cùng với một ngân quỹ dồi dào để có thể chi trả cho những luật sư tài giỏi nhất tiểu bang. Suốt mười năm lộng hành ấy, không một lần nào chúng bị kết án, và mối nguy duy nhất có thể đe dọa lũ cường đạo này chính là bản thân nạn nhân - những người tuy thân cô thế yếu và thường bị tấn công bất ngờ, nhưng đôi lúc cũng có thể khiến những kẻ tấn công phải e sợ.

McMurdo đã được báo trước về một thử thách đang chờ đợi mình, nhưng không ai cho anh biết thử thách thế nào. Lúc này anh đang được hai huynh đệ trang nghiêm đưa vào một phòng bên ngoài. Qua vách ngăn bằng ván, anh nghe thấy những tiếng xì xào tạp nham của đám người tụ họp bên trong. Một hai lần anh nghe nhắc đến tên mình và anh biết họ đang bàn về việc kết nạp anh. Sau đó một tên cận vệ ngực đeo chéo dải khăn hai màu vàng xanh từ trong đi ra.

"Hội chủ lệnh rằng hãy trói, bịt mắt anh ta rồi cho vào," hắn nói.

Ba tên này lột bỏ áo khoác McMurdo, xắn tay áo bên phải của anh lên, và cuối cùng trói quặt tay anh lại. Kế đó, chúng trùm một mũ vải đen dày che kín hết nửa trên khuôn mặt McMurdo để anh không thể nhìn thấy gì. Sau đó anh được dẫn vào phòng họp.

Trong cái mũ trùm đầu đó anh chỉ thấy tối đen và ngột ngạt. McMurdo nghe tiếng loạt xoạt, rì rầm của những người chung quanh, rồi nghe tiếng McGinty văng vẳng qua lớp vải đang che kín tai mình.

"John McMurdo," tiếng nói ấy vang lên, "anh có phải là thành viên Tổng hội Huynh đệ Tự do không?"

Anh cúi đầu xác nhận.

"Có phải anh thuộc Chi hội 29, Chicago không?"

Anh cúi đầu lần nữa.

"Đêm đen bất hảo," lại tiếng nói ấy.

"Đúng, cho khách lạ bôn ba," anh đáp.

"Mây mù nặng trĩu."

"Đúng, bão tố đang cận kề."

"Các huynh đệ hài lòng chưa?" Hội chủ hỏi.

Có tiếng xì xào đồng loạt tán thành.

"Người anh em, qua mật khẩu đối đáp chúng tôi biết anh đúng là người cùng hội," McGinty nói. "Tuy nhiên, chúng tôi muốn anh biết rằng ở địa hạt này và nhiều địa hạt khác trong vùng vốn có những nghi lễ nhất định, và thêm một số đòi hỏi của riêng chúng tôi dành cho những ai xứng đáng. Anh sẵn sàng chịu thử thách không?"

"Có."

"Anh có can đảm không?"

"Có."

"Hãy bước tới trước chứng minh đi."

Trong lúc những lời ấy thốt lên, McMurdo nhận ra hai mũi nhọn nằm ngay trước đôi mắt anh, ấn sát vào đôi mắt tới mức chỉ cần anh nhớm bước tới là bị chúng chọc thủng mắt ngay. Thế nhưng anh vẫn gan lì dấn tới một bước kiên quyết và anh vừa dợm chân đi thì áp lực trên mắt đã tan biến. Tiếng rì rầm tán thưởng vang lên khe khẽ.

"Anh ta can đảm đấy," vẫn tiếng McGinty. "Anh có chịu được đau đớn không?"

"Không thua kém ai," anh đáp.

"Thử đi!"

Điều duy nhất McMurdo có thể làm được là cố nén để không thét lên bởi vì một cảm giác đau đớn tột độ đang xuyên thấu cẳng tay anh. McMurdo suýt ngất đi vì chấn động đột ngột đó nhưng anh cắn môi, siết chặt hai nắm tay để che giấu cơn đau đớn.

"Tôi có thể chịu đựng hơn thế," anh nói.

Lần này là một tràng vỗ tay vang dội. Chưa cuộc ra mắt nào ở chi hội này lại ngoạn mục đến thế. Những bàn tay vỗ vào lưng McMurdo, và cái mũ trùm đầu anh được tháo ra. Anh đứng chớp mắt và tươi cười trong tràng chúc mừng của đám người cùng hội.

"Một lời cuối cùng, người anh em McMurdo," McGinty nói. "Anh đã từng thề bí mật và trung thành, và hình phạt cho bất kì hành động nào vi phạm lời thề đó là một cái chết tức thì, anh biết chứ?"

"Biết," McMurdo nói.

"Anh có chấp nhận tuân phục đương kim hội chủ vô điều kiện không?"

"Có."

"Vậy thì nhân danh Chi hội 341, Vermissa, tôi hoan nghênh anh gia nhập. Anh sẽ được hưởng những đặc quyền và tham gia các cuộc họp của chi hội. Này Scanlan, anh bày rượu lên cái bàn kia và chúng ta sẽ uống mừng người anh em xứng đáng này."

Có người đã mang áo khoác lại cho McMurdo, nhưng trước khi mặc vào, anh xem xét cánh tay phải vẫn còn đang nhức nhối hết sức. Trên phần thịt của cẳng tay là một vòng tròn bao quanh một hình tam giác, hằn sâu và nóng đỏ do dấu sắt nung để lại. Có mấy người đứng gần anh cũng xắn tay áo lên khoe dấu hiệu hội viên.

"Chúng tôi ai cũng có cả," một người nói, "nhưng không ai gan dạ như anh khi chịu thử thách này."

"Chậc! Không hề gì," anh nói nhưng dấu hằn ấy dù sao cũng vẫn đau nhức.

Khi rượu mừng lễ kết nạp đã uống cạn, chi hội tiếp tục công chuyện. Vốn chỉ quen với những thông lệ bình thường của Chicago, McMurdo bây giờ dỏng tai lên nghe và trong lòng ngạc nhiên hơn những gì anh biểu lộ ngoài mặt.

"Việc đầu tiên theo nghị trình," tiếng McGinty, "là đọc bức thư sau đây của Trưởng khu vực Windle, Chi hội 249 hạt Merton. Anh ta viết như sau:

THƯA ÔNG!

Có việc cần xử với tên Andrew Rae thuộc đám chủ mỏ than Rae & Sturmash gần nơi này. Ông cần nhớ rằng chi hội của ông còn nợ một lần báo đáp sau khi hai huynh đệ của chúng tôi đã giúp sức xử tên tuần cảnh mùa thu vừa rồi. Ông phái cho hai người thạo việc, họ sẽ được thủ quỹ Higgins của chi hội chúng tôi giao việc, địa chỉ người này ông đã biết rồi. Higgins sẽ cho hai huynh đệ đó biết thời gian và địa điểm hành động. Lời chào tự do.

J. W. WINDLE, TKV.HĐTD

Windle chưa bao giờ từ chối yêu cầu mượn người của chúng ta, và chúng ta không được từ chối ông ấy," McGinty ngừng lời và nhìn quanh phòng với đôi mắt đen sậm hiểm ác. "Ai tình nguyện nào?"

Nhiều tên trai trẻ đưa tay lên. Hội chủ nhìn chúng, nở nụ cười tán thành.

"Chú mày đi, Cormac Hổ Báo. Nếu chú mày xử lí ngon lành như lần trước thì không thể nào hỏng việc được. Cả chú mày nữa, Wilson."

"Tôi không có súng," tên tình nguyện nói, hắn chỉ là một thằng nhóc tuổi thiếu niên.

"Vụ đầu tiên phải không? À, phải có lúc nào đó cho chú mày đổ máu chứ. Đây sẽ là khởi đầu tốt cho chú mày. Còn súng, nếu ta không lầm, sẽ có người lo liệu. Nếu chú mày tới trình diện vào ngày thứ hai thì còn đủ thời gian. Khi nào quay về, chú mày sẽ được đón tiếp long trọng đấy."

"Còn phần thưởng cho lần này?" Cormac hỏi. Tính dã man của tên thanh niên vóc dáng vạm vỡ, mặt mày đen đúa hung tợn này đã khiến hắn có biệt danh là Hổ Báo.

"Đừng bận tâm phần thưởng. Chú mày cứ làm vì danh dự của chi hội. Biết đâu khi xong việc lại có thêm mấy đồng lẻ cho vào rương."

"Tên đó đã gây ra chuyện gì?" Thằng nhóc Wilson hỏi.

"Những đứa như chú mày đừng có hỏi lí do. Tên đó đã được bên kia phán quyết rồi. Đó không phải việc của chúng ta. Tất cả những gì chúng ta phải làm là cứ thi hành án giúp họ, giống như họ đã giúp ta vậy. Nhân tiện cũng nói luôn, tuần sau sẽ có hai huynh đệ từ chi hội Merton đến làm vài việc ở khu vực này."

"Ai vậy?" Có người hỏi.

"Tin tôi đi, khôn ngoan thì đừng có thắc mắc. Nếu các anh em không biết gì thì cũng không làm chứng được gì cả và sẽ không có rắc rối nào hết. Họ sẽ làm công việc thu dọn ổn thỏa cho chúng ta."

"Quả là đúng lúc!" Ted Baldwin nói to. "Bọn ở vùng này ngày càng khó kiểm soát. Chỉ mới tuần trước, ba người của ta bị thằng đốc công Blaker sa thải. Thằng đó mắc nợ chúng ta lâu lắm rồi và nó sẽ phải trả cả vốn lẫn lãi."

"Trả cách nào?" McMurdo hỏi thầm người ngồi bên cạnh.

"Ăn một băng đạn!" Tên này vừa nói vừa cười ầm lên. "Anh thấy bọn tôi chơi được không, người anh em?"

Bản chất tội phạm của McMurdo dường như đã hấp thu được tinh thần của cái hội đoàn đê tiện mà bây giờ anh là thành viên. Anh nói, "Tôi thích lắm. Đây đúng là nơi dành cho một kẻ gan lì."

Nhiều người ngồi quanh nghe được lời anh và vỗ tay tán thưởng.

"Chuyện gì thế?" Vị hội chủ tóc đen ở đầu bàn hỏi to.

"Người anh em mới, thưa Hội chủ, anh ta thấy hợp với cách thức của chúng ta."

McMurdo liền đứng dậy. "Kính thưa Hội chủ, tôi muốn nói rằng nếu cần phải trái với ai thì tôi sẽ rất vinh dự nếu được lựa chọn để giúp chi hội này."

Anh dứt lời là có tiếng vỗ tay rần rần. Mọi người có cảm tưởng như một vầng thái dương mới đang ló dạng ở chân trời. Với một số kẻ chức sắc lớn tuổi hơn thì diễn tiến này có lẽ hơi quá nhanh chóng. Ngồi cạnh chủ tọa, viên thư kí Harraway, một lão già râu xám, mặt như diều hâu, lên tiếng, "Tôi cho rằng người anh em McMurdo nên chờ cho tới khi nào chi hội có hảo ý huy động."

"Hẳn rồi, ý tôi là như thế, tôi phục tùng quyết định của quý ông," McMurdo nói.

"Rồi sẽ tới lượt, người anh em," vị chủ tọa nói. "Chúng tôi đã lưu ý thấy anh là người chí khí, và chúng tôi tin là anh sẽ làm tốt ở vùng này. Nếu anh thích thì tối nay có một việc nhỏ anh có thể tham gia."

"Tôi sẽ chờ cho tới khi có chuyện đáng bỏ công hơn."

"Dẫu sao tối nay anh đi cũng được, như vậy anh sẽ biết rõ hơn về vị thế của chúng ta trong cộng đồng này. Tôi sẽ thông báo sau. Còn lúc này," ông ta liếc nhìn tờ nghị trình, "tôi còn vài điều nữa cần đưa ra cuộc họp. Trước hết, tôi yêu cầu thủ quỹ cho biết kết toán tiền bạc trong nhà băng. Đang cần một khoản trợ cấp cho bà vợ góa của Jim Carnaway. Anh ta đã chết bất ngờ khi đang làm việc cho chi hội và chúng ta có bổn phận không để cho vợ anh ta thiệt thòi."

"Jim bị bắn tháng trước khi mọi người định giết tên Chester Wilcox ở Marley Creek," người ngồi cạnh McMurdo giải thích.

"Ngân quỹ hiện thời vẫn dồi dào," thủ quỹ nói, trước mặt là cuốn sổ trương mục. "Các công ty gần đây khá hào phóng. Max Linder & Co đã chi năm trăm đôla để được yên thân. Walker Brothers chuyển vào một trăm, nhưng chính tôi đã rút ra để trả lại và đòi năm trăm. Nếu đến thứ tư mà không nghe thấy gì thì giàn trục quay của chúng sẽ bị phá hỏng. Năm trước chúng ta đã phải thiêu rụi cái máy nghiền quặng của chúng thì chúng mới tỏ ra biết điều. Còn Công ty Than West Section đã đóng tiền góp hàng năm. Chúng ta hiện có đủ tiền để làm mọi nghĩa vụ."

"Còn lão Archie Swindon thì sao?" Một đồng bọn hỏi.

"Hắn đã bán sạch cơ nghiệp và đi khỏi vùng này rồi. Tên quỷ già đó để lại một lá thư cho chúng ta bảo rằng lão thà làm phu quét đường tự do ở New York còn hơn làm chủ một cái mỏ lớn bị khống chế bởi một băng tống tiền. Lạy Chúa! Lão đã khôn hồn mà cuốn gói trước khi lá thư ấy đến tay chúng ta! Tôi chắc lão không dám ló mặt đến thung lũng này nữa đâu."

Một người đứng tuổi, mày râu nhẵn nhụi, có bộ mặt hiền từ và vầng trán cao ở đầu bàn đối diện vị chủ tọa đứng lên hỏi, "Thưa ông thủ quỹ, cho phép tôi hỏi ai đã mua lại tài sản của người mà chúng ta đã xua đi khỏi vùng này thế?"

"À, người anh em Morris. Công ty Hỏa xa Địa hạt Merton và Tiểu bang đã mua lại."

"Thế ai đã mua mấy khu mỏ của Todman và của Lee đã rao bán năm ngoái theo kiểu đó vậy?"

"Cũng chính là công ty đó, người anh em Morris."

"Thế ai đã mua mấy nhà máy đúc thép của Manson, Shuman, Van Deher và của Atwood khi tất cả bọn họ mới từ bỏ gần đây?"

"Tất cả đều được Tổng công ty Khoáng sản West Gilmerton mua."

"Người anh em Morris," vị chủ tọa nói, "tôi không hiểu chuyện ai mua lại thì quan trọng gì, vì những tài sản đó đâu có khiêng ra khỏi vùng này được."

"Kính thưa Hội chủ, với tất cả lòng tôn kính, tôi nghĩ điều đó rất quan trọng đối với chúng ta. Chuyện mua bán như vậy đã diễn ra suốt mười năm nay. Chúng ta đang dần dần xua hết mọi tiểu thương ra khỏi ngành mỏ. Kết quả là gì? Chúng ta thấy thế chỗ họ là các đại công ty như Tập đoàn Hỏa xa hay Tập đoàn Sắt thép; họ có ban giám đốc ở tận New York hay Philadelphia và bất chấp những hăm dọa của chúng ta. Chúng ta có thể tống khứ các ông chủ được những công ty này đặt tại đây, nhưng rồi người khác sẽ lại được phái đến thay thế. Và chúng ta đang tự gây nguy hiểm cho mình. Đám tiểu thương không thể gây hại cho chúng ta. Họ không có nhiều tiền hay quyền lực. Miễn là chúng ta đừng vắt kiệt họ thì họ vẫn nằm trong vòng khống chế của ta. Nhưng nếu các công ty lớn thấy rằng chúng ta chính là chướng ngại giữa họ và lợi nhuận thì họ sẽ không ngại tốn công sức hay tiền của để săn lùng chúng ta và đưa ra tòa đấy."

Những lời đáng ngại ấy khiến mọi người im lặng, và mọi bộ mặt đều sa sẩm khi trao nhau những cái nhìn u ám. Họ đã quen có quyền lực vô hạn và không bị chống đối tới mức trong thâm tâm họ không hề nghĩ đến khả năng sẽ bị trừng phạt. Bởi thế cái ý nghĩ đó khiến ngay cả những kẻ táo tợn nhất trong đám cũng ớn lạnh.

Morris nói tiếp, "Tôi nghĩ là chúng ta nên nương tay với đám tiểu thương. Vào cái ngày mà tất cả bọn họ đã bị tống khứ đi hết thì quyền lực của hội đoàn này cũng sẽ suy tàn."

Sự thật không mong đợi thường không được hưởng ứng. Nhiều tiếng kêu tức tối vang lên khi Morris ngồi xuống ghế trở lại. McGinty đứng dậy với vẻ mặt không vui.

"Người anh em Morris," ông ta nói, "anh chỉ toàn nói gở miệng. Chừng nào các thành viên chi hội này còn đoàn kết thì không có thế lực nào ở Hoa Kì có thể động đến mọi người. Chẳng phải chúng ta từng kinh qua không ít chuyện pháp đình đấy sao? Theo tôi, các công ty lớn sẵn sàng chi tiền hơn là chịu ăn đòn, cũng giống các công ty nhỏ mà thôi. Và bây giờ, các anh em," McGinty bỏ mũ nhung đen xuống và tháo khăn choàng ra trong khi nói lời kết thúc, "chi hội đã xong công việc tối nay, ngoại trừ một chuyện nhỏ có thể tôi sẽ nhắc tới khi chúng ta chia tay. Giờ đã đến lúc huynh đệ thư giãn và hòa hợp."

Bản chất con người đúng là kì lạ. Ở đây là những kẻ vốn giết người quen tay từng nhiều lần hạ sát người cha của các gia đình - nhiều nạn nhân chúng chẳng hề có ác cảm gì - mà không hề có một thoáng ân hận hay thương xót cho những người vợ than khóc hay những đứa con bơ vơ. Thế nhưng chính những kẻ đó lại có thể mủi lòng nhỏ lệ vì một khúc nhạc lâm li thống thiết. McMurdo có giọng nam cao rất hay và nếu như trước đó anh chưa giành được thiện cảm của hội đoàn này thì bây giờ thiện cảm ấy lại dạt dào sau khi anh khiến tất cả ngây ngất với những bài ca như "I'm Sitting on the Stile, Mary", và "On the Banks of Allan Water."

Ngay đêm đầu tiên, chàng tân binh đã trở thành một trong những huynh đệ được lòng mọi người nhất, tạo ngay được sự lưu ý cất nhắc và thăng tiến. Tuy nhiên, ngoài tình hữu hảo này còn có những phẩm chất khác để trở thành một Huynh đệ Tự do được trọng vọng, và trước khi buổi tối kết thúc McMurdo đã được cho một ví dụ. Rượu whisky đã được chuyền quanh nhiều vòng, và ai ai mặt cũng đỏ gay, sẵn sàng làm mọi việc tai ác khi vị hội chủ một lần nữa đứng lên nói với mọi người.

"Các chàng trai," ông ta nói, "ở thị trấn này có một kẻ muốn ăn đòn, và chính các anh em phải lo liệu việc đó. Tôi đang nói tới James Stanger của tòa báo Herald. Mọi người đã biết hắn lại đang to mồm chống đối chúng ta chưa?"

Có tiếng xì xào đồng tình cùng nhiều tiếng chửi thề lẩm bẩm. McGinty rút trong túi áo gilê ra một mẩu giấy. Ông ta đọc lên:

LUẬT LỆ VÀ TRẬT TỰ!

Khủng Bố Ngự Trị Khu Mỏ

Mười hai năm đã trôi qua kể từ vụ sát hại đầu tiên cho thấy sự tồn tại của một tổ chức tội phạm ngay giữa chúng ta. Từ đó, những vụ lộng hành này chưa từng ngừng nghỉ, và tới nay đã đến mức độ biến chúng ta trở thành điều sỉ nhục của thế giới văn minh. Chẳng lẽ quốc gia vĩ đại của chúng ta mở lòng đón nhận những kẻ ngoại bang trốn chạy ách chuyên quyền của Âu châu để rồi phải lĩnh hậu quả đó sao? Chẳng lẽ những kẻ ngoại bang đó rồi sẽ trở thành những tên bạo chúa đè đầu cưỡi cổ chính những người đã cưu mang chúng sao? Và chẳng lẽ một tình trạng khủng bố và cô lập lại được củng cố ngay dưới bóng hồn thiêng của lá cờ sao Tự Do, cái tình trạng sẽ khiến chúng ta hãi hùng nếu như biết rằng nó tồn tại ngay trong nền quân chủ suy đồi nhất của phương Đông? Ai cũng biết chúng. Hoạt động của chúng hiển nhiên và công khai. Chúng ta còn phải chịu đựng bao lâu nữa! Chúng ta có thể mãi mãi sống...

"Thôi, tôi chán ngấy cái giọng ỉ ôi đó lắm rồi!" Vị chủ tọa vừa nói to vừa vứt mẩu giấy báo xuống bàn. "Hắn nói về chúng ta như thế đó. Vấn đề tôi muốn hỏi các anh em là chúng ta sẽ đáp trả hắn như thế nào?"

"Giết nó!" Cả chục giọng nói hung hăng hét lên.

"Tôi phản đối," Morris, người có bộ mặt nhẵn nhụi và vầng trán cao, lên tiếng. "Các anh em, tôi nói thẳng là chúng ta đã quá nặng tay ở thung lũng này rồi, và sẽ tới lúc mọi người trong vùng vì phải tự vệ mà đoàn kết lại nghiền nát chúng ta. James Stanger là một ông già. Ông ta được cả thị trấn lẫn khu vực này kính nể. Tờ báo của ông ta đại diện cho khối thống nhất ở thung lũng. Nếu ông ta bị hạ sát thì cả tiểu bang sẽ rúng động và chỉ tiêu diệt hết chúng ta thì họ mới chịu yên."

"Chúng nó tiêu diệt được bọn ta bằng cách gì chứ, thưa ông thụt thò kia?" McGinty la to. "Bằng cảnh sát à? Thôi đi, phân nửa đám cảnh sát ăn tiền của bọn ta và phân nửa còn lại thì sợ bọn ta. Hay bằng pháp đình và thẩm phán chăng? Chúng ta từng kinh qua chuyện đó rồi mà có sao đâu?"

"Dân chúng phẫn uất có thể hành hình chúng ta bất cần tòa án," Morris nói.

Lời nói đó được chào đón bằng một tràng la ó giận dữ đồng loạt. McGinty lên tiếng, "Tôi chỉ cần giơ ngón tay lên là có thể xua hai trăm người vào làm cỏ sạch bách cả thị trấn này không chừa một mống." Rồi ông ta đột ngột cao giọng, cặp lông mày đen to tướng chau lại thành một cái nhăn mày ghê gớm. "Nghe đây, người anh em Morris, tôi đã để ý tới anh lâu rồi! Anh không có gan mà lại cứ muốn hù dọa cho người khác sợ. Rồi sẽ có một ngày đen đủi cho anh khi cái tên Morris sẽ nằm trong tờ nghị trình của chi hội, và tôi đang tính ghi cái tên của anh vào đó đấy."

Morris tái mặt, đầu gối như muốn nhũn ra khi ông ta ngồi thụp xuống chỗ cũ. Ông ta nâng cốc rượu bằng bàn tay run rẩy và uống xong mới nói nên lời.

"Kính thưa Hội chủ, tôi xin lỗi đã lỡ lời với Hội chủ và các anh em chi hội. Tôi là thành viên trung tín, tất cả quý vị đều biết điều đó, chỉ vì lo lắng cho an nguy của chi hội mà tôi mới nói những lời như thế. Nhưng thưa Hội chủ, tôi tin vào sự suy xét của Hội chủ hơn là vào bản thân, và xin hứa sẽ không tái phạm nữa."

Gương mặt cau có của vị hội chủ dãn ra khi nghe những lời nhún nhường đó.

"Tốt lắm, người anh em Morris, chính tôi đây cũng rất tiếc nếu phải cho anh một bài học. Nhưng chừng nào tôi còn ở cương vị này thì chúng ta vẫn là một chi hội thống nhất trong lời nói và việc làm. Và bây giờ, các chàng trai," ông ta đảo mắt nhìn mọi người nói tiếp, "tôi chỉ nói thế này, nếu lão Stanger toi mạng thì sẽ rắc rối cho chúng ta hơn mức cần thiết. Đám chủ bút sẽ hợp nhau lại và mọi tờ báo ở tiểu bang sẽ tru tréo gọi cảnh sát và quân đội tới. Nhưng tôi nghĩ các anh có thể cho hắn một đòn cảnh cáo. Anh lo được chứ, người anh em Baldwin?"

"Hẳn rồi!" Gã côn đồ ấy hăm hở nói.

"Anh cần bao nhiêu người?"

"Sáu người, và hai đứa canh cửa. Mày đi nhé, Gower, mày nữa, Mansel, mày nữa, Scanlan, và hai anh em thằng Willaby."

"Tôi đã hứa với người anh em mới là cho anh ta tham gia," vị hội chủ lên tiếng.

Ted Baldwin nhìn McMurdo với ánh mắt cho thấy hắn vẫn chưa quên và cũng không bỏ qua chuyện cũ.

"À, nếu nó muốn thì cho nó đi," hắn ta nói với giọng cáu kỉnh. "Đủ rồi đó. Làm càng sớm càng tốt."

Cả đám giải tán trong những tiếng hò hét và những câu hát lè nhè đứt đoạn. Tửu điếm vẫn còn đông đúc, với đám rượu chè say sưa và nhiều thành viên trong hội nán lại chưa về.

Nhóm người được giao nhiệm vụ ào ra phố, đi thành tốp hai hay ba người trên vỉa hè để tránh gây chú ý. Đêm đó lạnh buốt, vầng trăng bán nguyệt tỏa ánh lung linh trên bầu trời giá rét đầy sao. Cả nhóm tập trung lại trong khoảnh sân đối diện một tòa nhà cao cao. Tên tờ báo Vermissa Herald màu vàng chóe nằm giữa mấy ô cửa sổ sáng đèn. Từ bên trong vẳng ra tiếng máy in chạy xành xạch.

"Này, anh kia," Baldwin nói với McMurdo, "anh có thể đứng dưới cửa canh chừng để cả bọn không bị quấy rầy. Arthur Willaby cùng canh với anh. Mấy đứa khác đi theo tao. Đừng sợ, các chàng trai, vì có cả chục người sẽ làm chứng là chúng ta ngay lúc này đang ngồi ở Nhà Hội đoàn."

Đã gần nửa đêm, đường phố vắng tanh chỉ có một hai gã say đang bước thấp bước cao đi về nhà. Toán đồng đảng băng qua đường và xô bật cửa tòa soạn, Baldwin xông vào rồi chạy lên cầu thang trước mặt. McMurdo và một người nữa ở lại bên dưới. Từ phòng trên lầu vang ra tiếng quát tháo, kêu cứu, rồi tiếng chân giẫm đạp và tiếng ghế bị xô đổ.

Một chốc sau một người tóc bạc lao ra thềm cầu thang. Ông ta chưa kịp đi xa hơn thì đã bị tóm lại, đôi mục kỉnh rơi lanh canh xuống chỗ McMurdo đứng. Có tiếng huỳnh huỵch và tiếng rên la. Ông già nằm sấp mặt và bị sáu chiếc gậy đồng loạt quất tới tấp lên người. Ông già quằn quại, tay chân ốm yếu lòng khòng run bần bật dưới những cú đòn thù. Mấy tên kia rốt cuộc cũng ngừng tay nhưng Baldwin, bộ mặt tàn bạo cười nhăn nhở như quỷ sứ, vẫn tiếp tục quật gậy vào đầu ông già trong khi nạn nhân kia tuyệt vọng đưa hai cánh tay lên chống đỡ. Mái tóc bạc của ông ta đã đẫm những máu. Baldwin còn đang khom người bên nạn nhân, giáng những cú quất hèn hạ vào bất cứ chỗ nào lộ ra trên người ông già thì McMurdo từ dưới cầu thang phóng lên xô gã lùi lại.

"Mày giết chết ông ta mất," anh nói. "Thôi ngay!"

Baldwin nhìn anh kinh ngạc. "Thằng khốn!" Gã hét lên. "Mày là ma mới trong hội mà dám xen vào sao? Tránh ra!" Gã vung gậy nhưng McMurdo cũng rút ngay khẩu súng trong túi ra.

"Mày mới là thằng tránh ra!" Anh quát. "Mày mà động tới tao là tao bắn nát đầu mày. Còn chuyện chi hội thì lệnh của Hội chủ chẳng phải là không được giết chết người này sao? Thế mày đang làm gì nếu không phải là tính giết người?"

"Anh ta nói đúng đó," một tên trong bọn lên tiếng.

"Lạy Chúa! Các anh phải mau lên đi!" Người ở bên dưới la lên. "Các cửa sổ đều đã sáng đèn và chỉ trong năm phút nữa thôi là cả thị trấn sẽ kéo tới cho coi."

Đúng là dưới đường đã có tiếng la ó, và một nhóm thợ sắp chữ và thợ canh máy in đã kéo tới sảnh dưới nóng lòng hành động. Bỏ mặc thân hình mềm rũ bất động của ông chủ bút nằm trên đầu cầu thang, đám tội phạm lao xuống hấp tấp chạy ra ngoài, về tới Nhà Hội đoàn rồi, vài tên trong bọn trà trộn vào đám đông trong tửu điếm của McGinty, thì thầm qua quầy rượu báo với thủ lĩnh là công việc đã được tiến hành trót lọt. Mấy người khác, trong đó có McMurdo, rẽ sang các đường phụ và theo những ngả vòng vèo đi về nhà.

11. Thung lũng Kinh hoàng

Khi McMurdo thức dậy sáng hôm sau, anh có lí do rõ ràng để nhớ lại chuyện kết nạp vào hội đoàn. Đầu anh nhức buốt vì ảnh hưởng của rượu và cánh tay sưng tấy bỏng rát ở nơi bị đóng dấu. Với nguồn thu nhập đặc biệt của mình, anh không cần phải đi làm đều đặn, cho nên anh dùng một bữa điểm tâm muộn rồi ở nhà cả buổi sáng viết một lá thư dài gửi bạn. Sau đó anh đọc tờ Daily Herald. Ở tin đặc biệt đăng vào giờ chót, anh thấy dòng tít: Bạo hành ở tòa báo Herald - Chủ bút bị thương nặng. Đó là một bài phóng sự ngắn về các sự việc mà bản thân anh còn am tường hơn cả người viết. Phần kết của bài báo có đoạn:

Vấn đề hiện đang thuộc thẩm quyền của cảnh sát, nhưng khó mà hi vọng rằng nỗ lực của họ sẽ mang đến kết quả tốt hơn những lần trước. Một số thủ phạm đã bị nhận dạng và hi vọng sẽ có được một bản án nào đó dành cho chúng. Ai cũng biết đứng sau vụ bạo hành chính là hội đoàn tai tiếng đã khống chế cộng đồng này suốt một thời gian dài và bổn báo Herald lâu nay vẫn giữ quan điểm không thỏa hiệp với bọn chúng. Các thân hữu của ông Stanger sẽ hoan hỉ khi biết ông chủ bút tuy bị đánh đập tàn nhẫn và phải chịu nhiều thương tích nặng trên đầu, nhưng không bị tổn hại nào nguy cấp đến tính mạng.

Sau cùng bài báo cho biết một đội cảnh vệ trang bị súng trường Winchester đã được điều tới bảo vệ tòa soạn. McMurdo bỏ tờ nhật báo xuống và đang châm một tẩu thuốc với bàn tay còn run rẩy vì quá gắng sức tối hôm trước thì bên ngoài có tiếng gõ cửa. Bà chủ nhà mang vào cho anh một lá thư tay vừa được một thằng nhóc đưa tới. Không có kí tên, thư viết:

Tôi mong được tiếp chuyện với anh nhưng không muốn gặp tại tư gia. Tôi sẽ chờ anh bên cột cờ trên đồi Miller. Nếu như bây giờ anh đến được, tôi có chuyện quan trọng muốn nói cho anh biết.

Hết sức ngạc nhiên, McMurdo đọc lá thư ấy hai lần vì anh không thể đoán ra người viết là ai và có ý gì. Nếu là nét chữ phụ nữ thì anh có thể đoán đây là khởi đầu của một trong những cuộc phiêu lưu mà anh đã quá quen thuộc trong quá khứ. Nhưng đây là nét chữ đàn ông, và lại là chữ viết của người học thức cao nữa. Cuối cùng, sau một lúc do dự, anh quyết định tìm hiểu ngọn nguồn.

Đồi Miller là một công viên bị bỏ bê không chăm sóc ngay trung tâm thị trấn. Vào mùa hè đây là nơi thư giãn ưa chuộng của dân chúng nhưng vào mùa đông lại rất hoang vắng. Từ trên đỉnh đồi, ta không những nhìn thấy cả thị trấn bẩn thỉu, lộn xộn, mà còn thấy cả thung lũng ngoằn ngoèo phía dưới với những mỏ than và nhà máy nằm rải rác đen ngòm trên lớp tuyết hai bên triền dốc, cùng những khu lán trại bằng gỗ bị tuyết phủ trắng nằm kế bên.

McMurdo tản bộ theo lối đi quanh co giữa hai hàng giậu cho đến khi gặp một tiệm ăn bỏ hoang vốn là chốn quen của những cuộc liên hoan mùa hè. Cạnh đó là một cột cờ trơ trọi và dưới chân cột là một người đội mũ kéo sụp xuống mắt, cổ áo khoác dựng thẳng tới vành tai. Khi người ấy quay mặt lại, McMurdo nhận ra đó chính là người cùng hội Morris, kẻ đã làm cho Hội chủ nổi giận tối hôm trước. Họ chào hỏi nhau bằng những mật khẩu đối đáp theo nghi thức.

"Tôi muốn nói với anh mấy lời, anh McMurdo à," người lớn tuổi kia nói với vẻ ngần ngừ cho thấy ông ta có lí do tế nhị. "Anh đến thật là quý hóa quá."

"Sao ông không kí thư?"

"Phải cẩn thận chứ, anh. Vào thời buổi này ta đâu biết được chuyện gì sẽ xảy đến cho mình. Ta cũng chẳng biết ai đáng tin còn ai không đáng tin nữa."

"Chắc chắn ta có thể tin tưởng các huynh đệ trong hội đoàn."

"Không đâu, không phải lúc nào cũng thế," Morris nóng nảy thốt lên. "Chúng ta nói gì, thậm chí là nghĩ gì, hình như đều tới tai tên McGinty đó."

"Này!" McMurdo lạnh lùng bảo. "Ông biết rõ mà, chỉ mới tối hôm qua tôi đã thề trung thành với Hội chủ. Giờ ông lại muốn tôi phá bỏ lời thề sao?"

"Nếu anh nghĩ như vậy thì tôi chỉ có thể nói là xin lỗi đã làm phiền anh đến gặp tôi," giọng Morris buồn bã. "Thời thế đã tệ hại tới mức hai công dân tự do lại không thể nói thẳng suy nghĩ với nhau."

Không ngừng chăm chú quan sát người đối diện, McMurdo bây giờ lại có phần bớt căng thẳng. Anh nói, "Tất nhiên tôi chỉ nói về cá nhân tôi thôi. Tôi là người mới, ông biết rồi đấy, và mọi chuyện đều lạ lẫm đối với tôi. Ông Morris, tôi không nên nhận xét thì hơn và nếu ông thấy cần nói gì thì tôi sẵn sàng nghe."

"Rồi báo lại với thủ lĩnh McGinty!" Morris cay đắng nói.

"Đó, đúng là ông bất công với tôi rồi," McMurdo kêu lên. "Cá nhân tôi là người trung thành với hội đoàn, và tôi đã nói thẳng với ông điều đó, nhưng tôi sẽ là một kẻ tồi tệ nếu như tôi lại đi tâu hót với bất kì ai những gì ông đã thổ lộ riêng tư với tôi. Tôi sẽ không hé răng cho ai biết hết, nhưng tôi phải nói trước là ông đừng có mong chờ tôi giúp đỡ hay thông cảm gì cả."

"Từ lâu tôi đã không còn mong chờ hai điều đó nữa rồi," Morris nói. "Với những gì tôi nói thì tôi coi như đã phó thác tính mạng cho anh. Nhưng cho dù anh không phải người tốt, mà qua chuyện hồi tối tôi thấy anh rồi cũng sẽ giống như những kẻ tệ hại nhất bọn, nhưng dẫu sao anh cũng còn mới mẻ và lương tâm chưa chai đá như bọn kia. Chính vì thế tôi mới thấy cần nói chuyện với anh."

"À, thế ông muốn nói gì?"

"Nếu anh tố cáo tôi thì trời tru đất diệt anh đó!"

"Nhất định tôi sẽ giữ kín."

"Được, vậy thì tôi hỏi khi anh gia nhập Huynh đệ Tự do ở Chicago và tuyên thệ hảo tâm, trung thành, có bao giờ anh nghĩ điều đó sẽ dẫn dắt anh đến con đường phạm tội không?"

"Nếu như ông gọi đó là phạm tội." McMurdo đáp.

"Phạm tội là cái chắc!" Morris kêu lên, giọng run rẩy vì tức giận. "Nếu anh có thể gọi bằng bất cứ cái tên nào khác thì anh thật nông cạn. Chuyện tối qua không phải là phạm tội ư, khi một ông già đáng tuổi cha anh bị đánh đập cho tới khi mái đầu bạc tóe máu? Nếu không phải là phạm tội thì anh gọi chuyện đó là cái gì chứ?"

"Nhiều người sẽ gọi đó là chiến tranh," McMurdo nói, "một cuộc chiến giữa hai giai cấp bằng mọi phương thức, do đó bên nào cũng cố hết sức ra tay."

"À, thế khi gia nhập Huynh đệ Tự do ở Chicago anh có nghĩ tới chuyện như thế không?"

"Không, tôi phải thừa nhận là không."

"Tôi cũng không nghĩ thế khi gia nhập ở Philadelphia. Đó chỉ là một tổ chức phúc lợi và là nơi gặp gỡ bạn bè cùng hội. Rồi tôi nghe nói đến nơi này... Cái giây phút lần đầu tiên tôi nghe tới địa danh này đúng là oan nghiệt! Tôi tới đây những mong có cuộc sống tốt đẹp hơn! Lạy Chúa! Cuộc sống tốt hơn! Vợ tôi với ba đứa con cùng đi theo. Tôi mở một tiệm quần áo ở Market Square và làm ăn phát đạt. Mọi người kháo nhau tôi là thành viên Huynh đệ Tự do và tôi buộc phải gia nhập chi hội nơi đây, giống như anh tối qua. Trên cánh tay tôi cũng có cái dấu hiệu ô nhục đó, nhưng trong tim tôi hằn sâu những điều còn tệ hại hơn. Tôi thấy mình đã sa vào tổ chức của một tên ác ôn kinh tởm và bị trói buộc trong một mạng lưới tội ác. Tôi biết làm sao? Mọi lời tôi nói ra mong làm mọi chuyện tốt đẹp hơn đều bị xem là phản nghịch, giống như tối qua đấy. Tôi không thể đi nơi khác vì tất cả những gì tôi có trên đời này chính là cửa tiệm đó. Nếu tôi rời bỏ hội đoàn thì chắc chắn chúng sẽ giết tôi, và có Chúa mới biết vợ con tôi rồi sẽ ra sao. Ôi, anh ơi, thật kinh khủng... kinh khủng lắm!"

Ông ta đưa hai tay che mặt, thân hình run rẩy theo những tiếng nấc nghẹn ngào. McMurdo nhún vai.

"Ông quá mềm yếu," anh nói. "Ông không phải loại người phù hợp cho công việc như thế."

"Tôi có lương tâm và có tín ngưỡng, nhưng chúng đã biến tôi thành một tên tội phạm giống chúng. Tôi đã được giao làm một việc. Nếu tôi không nhận thì tôi biết chắc chuyện gì sẽ tới với mình. Có thể tôi hèn nhát. Có thể nghĩ tới cảnh mẹ góa con côi khốn khổ khiến tôi hèn nhát. Dù sao tôi cũng đã tham gia. Tôi nghĩ chuyện đó sẽ ám ảnh tôi suốt đời.

Đêm đó bọn tôi tới một căn nhà nằm đơn độc trong khu đồng cỏ ngoài kia, cách đây hai mươi dặm. Chúng bảo tôi canh cửa, giống như cậu tối qua. Chúng không tin tôi làm được việc khác. Bọn chúng vào trong. Khi chúng đi ra, đứa nào hai bàn tay cũng đẫm máu. Lúc chúng tôi bỏ đi, một đứa trẻ trong nhà khóc thét đằng sau. Thằng bé chừng năm tuổi ấy đã chứng kiến cảnh cha nó bị giết chết. Tôi suýt ngất vì cảnh tượng khủng khiếp đó, nhưng vẫn phải làm bộ bạo dạn tươi cười, vì tôi biết chắc nếu không làm thế thì ngôi nhà kế tiếp chúng sẽ tới với bàn tay đẫm máu chính là nhà tôi, và đứa trẻ thét gào gọi cha sẽ chính là thằng Fred con tôi.

Nhưng tôi từ đó đã trở thành tội phạm, kẻ đồng phạm trong vụ giết người, mãi mãi lầm lạc ở kiếp này và cả kiếp sau. Tôi là con chiên ngoan đạo nhưng linh mục không còn buồn đếm xỉa đến tôi kể từ ngày biết tôi thuộc băng Scowrer và tôi bị rút phép thông công. Hoàn cảnh của tôi là vậy đó. Và tôi thấy anh cũng đi theo con đường ấy, tôi muốn hỏi: Anh có biết nó sẽ dẫn đến đâu không? Anh có sẵn sàng trở thành một tên sát nhân máu lạnh, hay có biết chúng ta có thể làm gì để ngăn chặn chuyện này không?"

"Thế ông định làm gì?" McMurdo đột ngột hỏi. "Ông định tố cáo sao?"

"Chúa ơi!" Morris kêu lên. "Chỉ nghĩ thôi cũng đủ khiến tôi mất mạng rồi."

"Hiểu rồi," McMurdo nói. "Tôi nghĩ ông là người yếu đuối và thích làm to chuyện."

"Làm to chuyện! Cứ chờ đến lúc anh sống ở đây lâu hơn đi. Hãy nhìn xuống thung lũng kia! Hãy nhìn đám khói mù từ hàng trăm ống khói bay lên, che phủ nơi đó đi! Tôi nói cho anh biết đám khói mù đe dọa tính mạng con người che phủ trên đầu dân cư nơi đây còn dày đặc và nặng trĩu hơn đó. Đây là Thung lũng Kinh hoàng, Thung lũng Sát nhân. Nỗi kinh hãi canh cánh trong lòng người dân ở đây suốt ngày đêm. Cứ chờ đi, anh bạn, rồi chính anh sẽ biết."

"Chà, khi nào tôi chứng kiến nhiều chuyện hơn thì tôi sẽ cho ông biết tôi nghĩ gì," McMurdo nói. "Điều rõ ràng nhất hiện thời là ông không phải người thích hợp ở đây, và ông nên bán hết cơ nghiệp để ra đi sớm chừng nào thì tốt cho ông chừng đó, cho dù phải bán với giá rẻ mạt. Những gì ông nói tôi sẽ giữ kín, nhưng thề có Chúa, nếu tôi mà biết ông đi tố cáo thì..."

"Không, không có đâu!" Morris khổ sở kêu lên.

"Thôi, cứ như vậy đi. Tôi ghi nhớ những gì ông nói và có thể sẽ có lúc tôi quay lại vấn đề này. Tôi nghĩ ông chỉ có ý tốt khi nói chuyện như thế với tôi. Bây giờ tôi về nhà đây."

"Một lời trước khi anh đi," Morris nói. "Có thể người ta đã thấy anh gặp tôi. Có thể họ sẽ muốn biết chúng ta đã nói chuyện gì."

"À! Trù tính cẩn thận đó."

"Tôi đã đề nghị anh tới bán hàng cho cửa hiệu của tôi."

"Và tôi từ chối. Đó là công chuyện của chúng ta. Thôi, tạm biệt nhé, người anh em Morris, chúc mọi việc sẽ tốt đẹp cho ông trong tương lai."

Ngay chiều hôm đó, lúc McMurdo tư lự ngồi hút thuốc bên lò sưởi trong phòng khách thì cửa bật mở và thân hình hộ pháp của thủ lĩnh McGinty choán hết khung cửa. Ông ta chào bằng mật lệnh rồi ngồi đối diện chàng trai, nhìn chằm chặp một hồi lâu và được đáp lại bằng một cái nhìn chằm chặp tương tự.

"Tôi thường ít khi ghé thăm ai, người anh em McMurdo," sau cùng ông ta lên tiếng. "Tôi nghĩ là do tôi quá bận rộn tiếp người khác ghé thăm mình. Nhưng tôi thấy cần phải phá lệ để tới đây gặp anh tận nhà."

"Thật hân hạnh quá, thưa ông Hội đồng," McMurdo vừa vui vẻ đáp lời vừa lấy chai whisky trong tủ ra. "Đúng là một vinh dự mà tôi không dám nghĩ tới."

"Cánh tay thế nào rồi?" Thủ lĩnh hỏi.

McMurdo nhăn mặt. "À, tôi vẫn chưa quên chuyện đó," anh nói, "nhưng xứng đáng."

"Đúng vậy," người kia đáp, "xứng đáng với ai trung thành đến cùng và có ích cho chi hội này. Thế sáng nay anh nói gì với người anh em Morris trên đồi Miller thế?"

Câu hỏi thốt ra đột ngột tới mức nếu anh không có sẵn câu trả lời là không thể yên thân. McMurdo cười phá lên vui vẻ.

"Morris đâu có biết là tôi có thể kiếm sống tại nhà. Mà làm sao Morris biết được vì ông ta nào có hiểu loại người như tôi. Nhưng ông ta là một anh già tốt bụng đấy. Ông ta cứ tưởng tôi vô công rồi nghề nên muốn giúp bằng cách thuê tôi làm anh nhân viên bán hàng cho tiệm quần áo của ông ta."

"Ủa, vậy sao?"

"Vâng, vậy đấy."

"Và anh từ chối?"

"Hẳn rồi. Chỉ cần bốn giờ làm việc trong phòng ngủ thôi là tôi đã kiếm được gấp chục lần mức lương đó rồi."

"Đúng thế thật. Nhưng anh đừng có giao du nhiều với Morris đấy."

"Sao lại không?"

"À, bởi vì tôi đã bảo thế. Hầu hết mọi người ở vùng này biết vậy là đủ rồi."

"Có thể đủ cho hầu hết mọi người, nhưng không đủ cho tôi, thưa ông Hội đồng," McMurdo bạo dạn nói. "Nếu ông là người giỏi nhìn người khác thì ông nhận thấy điều đó rồi."

Tên hộ pháp da ngăm kia trừng mắt nhìn anh, và bàn tay lông lá trong một thoáng siết chặt lấy chiếc li cứ như thể định choảng nó vào đầu người đối diện. Rồi ông ta cười sằng sặc, ầm ĩ rất giả tạo.

"Anh đúng là một thằng kì quặc," McGinty nói. "Thôi, nếu anh muốn biết lí do thì tôi nói cho biết. Morris có nói xấu chi hội với anh không?"

"Không."

"Cũng không nói xấu tôi?"

"Không."

"À, đó là vì hắn không dám tin tưởng anh. Nhưng hắn không phải là huynh đệ trung thành đâu. Bọn tôi biết thừa. Cho nên bọn tôi luôn để ý và chờ dịp để cảnh cáo hắn. Tôi nghĩ dịp đó chắc sắp tới rồi. Trong bầy đàn của chúng ta không có chỗ cho một con chiên ghẻ. Nhưng nếu anh bạn giao du với một kẻ bất trung thì bọn tôi không thể nghĩ anh là người trung tín được. Hiểu chưa?"

"Không đời nào tôi giao du với ông ta, bởi tôi có ưa gì ông ta đâu," McMurdo đáp. "Còn chuyện không trung thành à? Nếu không phải là ông, bất kì ai mà nói với tôi như thế thì hắn không sống nổi lâu đâu."

"Thôi, vậy đủ rồi," McGinty nói và uống cạn li. "Tôi đến đây chỉ để nói với anh một lời kịp thời, và nói xong rồi đó."

"Tôi muốn biết," McMurdo nói, "làm sao ông biết tôi có nói chuyện với Morris?"

McGinty cười to rồi đáp, "Việc của tôi là phải biết hết chuyện trong thị trấn này. Tôi nghĩ anh tốt nhất cũng nên rõ rằng mọi điều nói ra đều đến tai tôi. Vậy đó, hết thời gian rồi, và tôi chỉ..."

Nhưng lời cáo biệt của ông ta bị ngắt ngang hết sức đột ngột. Ầm một tiếng, cánh cửa bật tung và ba bộ mặt đằng đằng sát khí trừng mắt nhìn họ dưới vành mũ két cảnh sát. McMurdo đứng phắt dậy rút súng ra nhưng rồi ngừng nửa chừng khi nhận thấy hai khẩu súng trường Winchester đang chĩa thẳng vào đầu mình. Một người mặc cảnh phục tiến vào phòng, súng lục trên tay, đó là đại úy Marvin từng ở Chicago và bây giờ thuộc lực lượng cảnh sát khu mỏ. Anh ta lắc đầu cười khẩy với McMurdo.

"Tôi nghĩ anh gặp rắc rối rồi đây, thưa ngài McMurdo lưu manh xứ Chicago," anh ta nói. "Tật xấu khó bỏ phải không? Lấy mũ nón rồi đi theo chúng tôi."

"Rồi anh sẽ phải hối tiếc vì việc này, đại úy Marvin," McGinty nói. "Tôi muốn biết anh là ai mà dám đột nhập vào nhà người ta và hà hiếp những người lương thiện tuân thủ luật pháp vậy chứ?"

"Đừng xen vào việc này, ông Hội đồng McGinty," viên cảnh sát nói. "Chúng tôi không bắt ông mà bắt tên McMurdo này. Bổn phận của ông là giúp đỡ chứ không phải ngăn cản chúng tôi thi hành công vụ."

"Người này là bạn tôi và tôi bảo đảm cho tư cách của anh ta," vị thủ lĩnh nói.

"Ông McGinty, ai cũng nói là rồi sẽ có ngày ông phải chịu trách nhiệm cho tư cách của chính ông," viên đại úy đáp. "Còn tên McMurdo này đã là dân lưu manh trước khi hắn tới đây, và vẫn tiếp tục lưu manh. Các cảnh binh, hãy yểm trợ tôi trong khi tôi tước vũ khí của hắn."

"Súng tôi đây," McMurdo bình tĩnh nói. "Đại úy Marvin, có lẽ nếu chỉ mình anh và tôi mặt đối mặt thì anh không dễ dàng bắt tôi như thế đâu."

"Trát bắt người của anh đâu?" McGinty hỏi. "Chúa ơi! Khi những đứa như anh làm cảnh sát thì người dân Vermissa thà sống bên Nga còn hơn. Đúng là cái thói lộng hành của tụi tư bản, và tôi chắc là chưa hết chuyện đâu."

"Ông cứ làm những gì ông cho là nhiệm vụ của mình theo cách tốt nhất ông có thể đi, ông Hội đồng. Còn chúng tôi lo việc của chúng tôi."

"Tôi bị buộc tội gì?" McMurdo hỏi.

"Tội đồng lõa hành hung ông chủ bút Stanger ở tòa báo Herald. May cho anh là không phải là tội giết người đấy."

"À à," McGinty vừa cười vừa cao giọng, "nếu các anh bắt người này chỉ vì thế thì nên thôi ngay cho khỏi phí công sức. Người này hôm qua ngồi với tôi ở quán rượu của tôi chơi bài đến tận nửa đêm, và tôi có thể gọi cả chục người nữa ra làm chứng."

"Đó là việc của ông, và tôi nghĩ ông có thể lo liệu chuyện đó ở tòa án vào ngày mai. Còn bây giờ, McMurdo, đi theo chúng tôi và phải đi cho đàng hoàng nếu không muốn ăn một báng súng vào đầu. Ông tránh ra, ông McGinty, tôi báo trước với ông là tôi không chấp nhận mọi ngăn cản khi tôi đang làm nhiệm vụ."

Vẻ mặt của viên đại úy kiên quyết tới mức cả McMurdo lẫn thủ lĩnh của anh đành phải chấp nhận tình thế. Vị thủ lĩnh cố thì thầm vài lời với phạm nhân trước khi chia tay.

"Thế còn..." ông ta bật ngón tay cái lên ra chiều ám chỉ cái khuôn đúc tiền.

"Ổn cả," McMurdo thì thầm, anh đã nghĩ ra một chỗ cất giấu an toàn dưới sàn nhà.

"Tạm biệt anh nhé," vị thủ lĩnh vừa nói vừa bắt tay chào. "Tôi sẽ gặp luật sư Reilly và đích thân tôi sẽ lo liệu chuyện bào chữa. Tin tôi đi, chúng không giữ anh lâu được đâu."

"Tôi không dám chắc như thế đâu," Marvin nói. "Hai anh kia, canh chừng phạm nhân, hắn giở trò gì cứ bắn bỏ. Tôi sẽ lục soát căn phòng này trước khi ra đi."

Anh ta tiến hành việc đó nhưng rõ ràng là không tìm thấy vết tích của vật cất giấu kia. Khi đi xuống, anh ta cùng hai cảnh binh áp giải McMurdo về tổng hành dinh. Trời đã tối, một trận bão tuyết rét buốt đang ập tới nên đường xá hầu như vắng tanh, chỉ có vài kẻ nhàn tản đi theo nhóm người này và nhờ tuyết rơi che phủ tầm nhìn nên họ thêm bạo dạn rủa sả phạm nhân.

"Hành hình tên cường đạo khốn kiếp đó!" Họ la lên. "Xử tử nó đi!" Họ cười reo chế nhạo khi anh bị lôi vào đồn cảnh sát. Sau một cuộc xét hỏi chính thức ngắn ngủi của viên thanh tra chịu trách nhiệm, anh bị tống vào xà lim chung. Ở đây anh gặp Baldwin cùng ba tên tội phạm khác của đêm trước, tất cả đều bị bắt hồi chiều và đang chờ xử án vào sáng hôm sau.

Nhưng cánh tay dài của Huynh đệ Tự do vẫn vươn tới tận bên trong thành trì luật pháp này. Đến gần khuya, một cai ngục xuất hiện với một bó đệm rơm cho tù nhân ngủ, hắn ta lôi trong đó ra hai chai whisky, mấy chiếc cốc, và một cỗ bài. Cả đám trải qua một đêm hoạt náo chẳng hề có chút lo lắng nào về phiên xét xử sáng mai.

Như những gì chứng kiến thì đúng là chúng chẳng việc gì phải lo. Xét theo các chứng cứ, thẩm phán không thể giữ chúng lại để chờ chuyển lên tòa cấp cao hơn. Một mặt, đám thợ sắp chữ và thợ đứng máy in buộc phải thừa nhận là ánh sáng lúc đó tù mù, và bản thân họ quá sợ hãi nên khó lòng nhận dạng chính xác những kẻ tấn công, nhưng họ tin rằng trong số đó có mặt những bị cáo này. Khi tay luật sư giảo ngôn được McGinty nhờ cậy đứng ra xét hỏi thì chứng cứ đám thợ này đưa ra càng thêm mơ hồ. Còn người bị hại khai rằng ông ta quá sốc với màn tấn công bất ngờ đó nên không thể nói gì hơn ngoài việc kẻ hành hung đầu tiên có ria mép. Ông nói thêm rằng ông biết chúng thuộc đám băng Scowrer bởi vì ông không có thù oán với ai trong cộng đồng này, và cho biết đã từng bị hăm dọa vì dám viết những bài xã luận thẳng thắn. Mặt khác, sáu công dân - bao gồm cả một chức sắc cấp cao của thị trấn là ông Hội đồng McGinty - đều đứng ra làm chứng quả quyết và thống nhất rằng ai cũng thấy những bị cáo đây đã đánh bài ở Nhà Hội đoàn cho tới một thời điểm muộn hơn nhiều so với thời điểm xảy ra vụ bạo hành.

Không cần phải nói, cả đám đều được tha bổng với một tuyên bố gần như là lời xin lỗi từ phía quan tòa vì những bắt bớ phiền phức đã xảy ra, cùng với một lời chỉ trích bóng gió dành cho đại úy Marvin và các cảnh sát vì đã sốt sắng quá đáng.

Phán quyết đó được chào đón bằng một tràng vỗ tay vang rền tòa án, trong số người tán thưởng ấy McMurdo nhận ra nhiều khuôn mặt quen. Các huynh đệ chi hội vui vẻ vẫy tay chào. Nhưng nhiều thường dân chỉ ngồi mím chặt môi, ánh mắt u sầu khi đám được tha kia đi hàng một rời khỏi ghế bị cáo. Lúc chúng đi ngang qua, một thường dân dự phiên tòa ấy - một người nhỏ con, râu đen, vẻ mặt cương quyết - đã bộc lộ hết suy nghĩ của bản thân và của những người đồng tình thành một lời nguyền rủa.

"Đồ sát nhân khốn nạn!" Ông ta lên tiếng. "Rồi bọn tao sẽ xử chúng mày!"

12. Tuyệt vọng

Nếu có điều gì đẩy nhanh sự nổi tiếng của Jack McMurdo trong hội thì đó chính là việc anh bị bắt rồi được tha bổng. Chuyện một kẻ ngay trong đêm vừa được kết nạp xong liền gây án và phải ra hầu tòa đúng là một kỉ lục mới trong lịch sử hội đoàn này. McMurdo vốn đã nổi tiếng là một người bạn vui tính, một tay chè chén hoạt náo, và đồng thời là một người nóng tính không chấp nhận bất cứ sự xúc phạm nào cho dù từ chính thủ lĩnh đầy quyền uy. Nhưng ngoài ra, McMurdo còn khiến người cùng hội có ấn tượng rằng trong cả bọn, không có bộ óc nào có thể nghĩ ra những kế hoạch tàn bạo như anh, hoặc không có bàn tay nào tiến hành kế hoạch đó được như anh.

"Nó là thằng sinh ra để làm chuyện thu dọn sạch sẽ," những kẻ thâm niên trong hội bảo nhau và chờ đến dịp họ có thể phái anh hành sự. McGinty đã có thừa thủ hạ, nhưng ông ta nhận ra đây mới là kẻ cực kì có năng lực. Ông ta có cảm tưởng như mình đang xích một con chó săn hung tợn. Đã có sẵn bọn chó tạp chủng làm những việc nhỏ, nhưng rồi sẽ có ngày ông thả cho con thú này săn mồi. Vài thành viên trong chi hội, trong đó có Baldwin, uất ức vì kẻ xa lạ này được cất nhắc nhanh chóng và vì thế mà oán ghét McMurdo, nhưng chúng không dám làm gì, vì anh dễ dàng cười vui như thế nào thì cũng sẵn sàng vung nắm đấm như thế đó.

Nhưng nếu McMurdo ngày càng được lòng người cùng hội thì ở một chuyện khác, mỗi lúc một hệ trọng hơn đối với anh, anh lại thất bại. Cha của Ettie Shafter không muốn dính líu tới anh nữa và cũng cấm luôn anh đến nhà. Riêng Ettie vì quá si tình nên không thể bỏ anh nhưng trong tâm cô luôn biết trước hậu quả của một cuộc hôn nhân với người được coi là tội phạm. Sau một đêm mất ngủ, một sáng nọ cô quyết định gặp anh, có lẽ là lần cuối cùng, và cố hết sức lôi kéo McMurdo ra khỏi những ảnh hưởng xấu xa đang nhấn chìm anh. Vì anh vẫn thường nài nỉ, cô đến nhà và đi vào căn phòng anh dùng làm phòng khách. Anh đang ngồi ở bàn, quay lưng lại và trước mặt là một lá thư. Một ngẫu hứng nghịch ngợm của thiếu nữ bỗng thôi thúc cô gái mới mười chín tuổi ấy. Anh không hay biết khi cô đẩy cửa vào. Lúc đó cô rón rén đi tới và nhẹ nhàng đặt bàn tay lên bờ vai đang cúi xuống của anh.

Nếu cô muốn làm anh giật mình thì cô đã thành công, nhưng rồi chính cô lại giật mình. Xoay phắt lại nhanh như một con hổ, anh vung bàn tay phải chộp ngay cổ họng cô. Cùng lúc đó bàn tay kia vò nát tờ giấy trên bàn. Rồi anh sửng người trố mắt nhìn. Và nỗi ngạc nhiên vui sướng thế chỗ cho sự tàn bạo đang làm biến dạng cả gương mặt kia - sự tàn bạo khiến cô gái phải thoái lui kinh hãi như muốn tránh xa một điều kinh khủng chưa bao giờ xuất hiện trong cuộc sống ôn hòa của mình.

"Em!" Anh vừa nói vừa quệt mồ hôi trán. "Ôi, em yêu! Ai ngờ em đến thăm mà anh lại tính bóp cổ em thế kia! Đến đây nào, em yêu," và anh dang rộng hai cánh tay, "hãy để anh bù đắp cho em."

Nhưng cô vẫn chưa hoàn hồn sau khi bất ngờ nhìn thấy nỗi sợ hãi đầy tội lỗi trên nét mặt anh. Bản năng của người phụ nữ mách bảo cho cô biết đó không chỉ là nỗi sợ của một người giật mình. Tội lỗi... chính là thế... tội lỗi và sợ hãi!

"Anh làm sao thế, Jack?" Cô kêu lên. "Sao anh lại sợ hãi em thế? Ôi, Jack, nếu lương tâm anh thanh thản thì anh không nhìn em như thế đâu!"

"Hẳn rồi, anh đang suy nghĩ nhiều chuyện, và khi em nhón bước thật nhẹ tới thì..."

"Không, không chỉ như thế thôi đâu, Jack." Rồi nỗi ngờ vực đột nhiên xâm chiếm cô. "Hãy cho em xem lá thư anh đang viết."

"Ồ, Ettie. Không được đâu."

Nỗi hồ nghi của cô trở thành những điều chắc chắn.

"Viết thư cho người phụ nữ khác," cô nói to. "Em biết mà! Nếu không thì tại sao anh phải giấu em? Có phải anh viết thư cho vợ anh không? Làm sao em biết được anh chưa có gia đình chứ! Anh, một kẻ xa lạ, ai mà biết được?"

"Anh chưa lập gia đình, Ettie. Nghe anh đi, xin thề đó! Anh chỉ có mỗi mình em trên đời này. Anh xin thề trước thánh giá Đấng Jesus!"

Mặt McMurdo tái nhợt với niềm chân thành tha thiết tới mức cô không thể không tin anh. Cô nói, "À, vậy thì sao anh không cho em xem lá thư?"

"Anh sẽ cho em biết, em yêu," anh nói. "Anh đã thề không được để lộ ra, và cũng như dù anh không hề muốn bội ước với em thì anh cũng phải giữ kín lá thư này vì đã hứa với những người đó. Đây là việc của chi hội, và đó là bí mật kể cả đối với em. Nếu anh hốt hoảng khi có bàn tay đụng vào người thì em phải hiểu là anh tưởng đó là bàn tay của một thanh tra cảnh sát thì sao?"

Cô cảm nhận được anh đang nói thật. Anh ôm cô trong vòng tay và hôn cho cô quên hết sợ hãi lần ngờ vực.

"Hãy ngồi bên cạnh anh đi. Một nữ hoàng như em không đáng phải khổ sở như thế, nhưng giờ gã tình nhân tội nghiệp của em chỉ có thể làm được đến thế thôi. Anh nghĩ rồi anh ta sẽ cung phụng em tốt hơn. Bây giờ em đã an lòng chưa nào?"

"Làm sao an lòng được, Jack, khi em biết anh là một tên trong băng đảng tội phạm, khi em không biết bao giờ sẽ nghe tin anh phải ra tòa vì tội giết người? Một khách trọ ở nhà em hôm qua đã gọi anh là McMurdo Ác Ôn đó. Em nghe mà lòng đau như dao cắt."

"Ồ, những lời khó chịu chẳng làm chết ai."

"Nhưng đó là sự thật."

"Chà, em yêu, không tệ hại như em nghĩ đâu. Bọn anh là những người nghèo đang cố đòi quyền lợi theo cách của mình."

Ettie vòng tay ôm quanh cổ người yêu.

"Hãy từ bỏ đi, Jack! Hãy vì em, vì Chúa, mà từ bỏ đi! Em đến đây hôm nay để xin anh điều đó. Ôi, Jack ơi... em sẵn sàng qùy xuống cầu xin anh đó! Em sẽ quỳ ở đây van nài cho tới khi nào anh từ bỏ mới thôi!"

McMurdo nâng cô dậy và ôm đầu cô vào ngực anh vỗ về.

"Ôi, em yêu, rõ ràng em không hiểu mình đang yêu cầu điều gì đâu. Làm sao anh từ bỏ được khi làm vậy là vi phạm lời thề và bỏ rơi đồng đội? Nếu em biết hoàn cảnh của anh thì em sẽ không bao giờ đòi hỏi anh như vậy. Hơn nữa, dẫu có muốn thì anh biết làm sao đây? Em cho rằng chi hội này sẽ để cho một người tự do ra đi cùng với mọi bí mật của họ sao?"

"Em đã nghĩ đến chuyện đó, Jack. Em trù tính hết rồi. Cha đã dành dụm được ít tiền. Cha đã quá chán ngán chốn này, nơi cuộc sống bị băng đảng ấy làm nhuốm màu lo sợ. Cha sẵn sàng bỏ đi. Chúng ta sẽ cùng nhau trốn đi Philadelphia hay New York, nơi ta sẽ an toàn thoát khỏi bọn chúng."

McMurdo bật cười. "Cánh tay chi hội dài lắm. Em tưởng ở đây nó không với tới Philadelphia hay New York được sao?"

"À, thế thì về miền Tây, hay sang Anh quốc, sang Đức quê của cha em... tới bất kì nơi đâu xa cách Thung lũng Kinh hoàng này!"

McMurdo nghĩ tới người cùng hội Morris.

"Đây là lần thứ hai anh nghe gọi thung lũng này như thế," anh nói. "Quả thực nhiều người ở đây không chịu nổi cái bóng đen nặng nề đang hao trùm nơi đây."

"Nó đè nặng cả cuộc sống không phút nào yên. Anh nghĩ là Ted Baldwin rồi sẽ bỏ qua cho chúng ta sao? Nếu như hắn ta không e sợ anh thì anh thử nghĩ xem chúng ta có cơ may nào không? Giá mà anh nhìn thấy cái ánh mắt đen tối, đói khát ấy khi hắn nhìn em!"

"Thề với Chúa! Anh mà bắt gặp thì sẽ dạy cho nó biết đàng hoàng hơn! Nhưng nghe này, em yêu! Anh không thể rời khỏi đây. Không thể... ý anh đã quyết. Nhưng nếu em để cho anh tự mình lo liệu thì anh sẽ cố tìm cách ra đi trong danh dự."

"Chuyện này làm gì có danh dự."

"À, à, đó là cách nhìn nhận của em. Nhưng nếu em cho anh sáu tháng, anh sẽ cố gắng để có thể ra đi mà không phải xấu hổ khi nhìn mặt mọi người."

Cô gái thốt một tiếng cười mừng rỡ.

"Sáu tháng!" Cô kêu lên. "Anh hứa đấy nhé?"

"Chà, có thể là bảy hay tám tháng. Nhưng trong vòng một năm là cùng, chúng ta sẽ rời khỏi thung lũng này."

Ettie chỉ có được mỗi lời hứa đó, nhưng vậy cũng đáng kể rồi. Ít nhất thì trong tương lai mịt mù trước mắt cô cũng có một tia sáng xa xăm soi lối. Cô quay về nhà, lòng hân hoan hơn bao giờ hết kể từ khi Jack McMurdo bước vào cuộc đời cô.

Cứ tưởng đâu là thành viên, mọi chuyện của hội đoàn anh đều được biết; nhưng McMurdo nhanh chóng khám phá ra tổ chức này còn rộng lớn và phức tạp hơn chi hội đơn giản này nhiều. Ngay cả thủ lĩnh McGinty cũng không biết nhiều chuyện bởi vì còn một chức sắc cấp cao hơn: Ủy viên Địa hạt sống ở Hobson's Patch phía cuối tuyến đường tàu lửa, người có quyền kiểm soát nhiều chi hội khác nhau và luôn sử dụng cái quyền đó một cách độc đoán và bất ngờ. McMurdo gặp hắn chỉ có một lần - một tên gian manh, tóc xám, người loắt choắt như chuột có tướng đi rón rén và mắt láo liên đầy ác hiểm. Hắn tên là Evans Pott và ngay cả thủ lĩnh khét tiếng của Vermissa cũng phải ghê tởm và e sợ hắn chẳng khác gì Danton khổng lồ phải ghê sợ Robespierre nhỏ bé nhưng nguy hiểm.

Một ngày nọ, người lâu nay ở trọ chung với McMurdo là Scanlan nhận được thư của McGinty. Trong đó có kèm một bức thư khác của Evans Pott cho biết hắn ta sẽ phái đến hai thủ hạ đắc lực là Lawler và Andrews, hai tên đã được chỉ thị hành sự ở vùng này, nhưng thư không hề cho biết chi tiết nào về đối tượng vì lí do bí mật. Evans Pott yêu cầu Hội chủ McGinty lo liệu chỗ ăn ở và các tiện nghi thích hợp cho hai tên này cho đến đến lúc ra tay. Thư của McGinty nói thêm rằng không ai có thể giữ bí mật được nếu có khách trú ngụ tại tửu điếm Nhà Hội đoàn cho nên ông ta yêu cầu McMurdo và Scanlan thu xếp cho hai người lạ này ở chung nhà trọ vài ngày.

Ngay tối đó, hai người kia đến, mỗi tên mang theo một vali nhỏ. Lawler lớn tuổi hơn, sắc sảo, lặng lẽ, khép mình, mặc áo choàng dài màu đen - cái áo này cùng với mũ dạ mềm và bộ râu đốm bạc khiến hắn trông giống như một nhà truyền đạo lang bạt. Tên Andrews đi cùng chỉ là một thằng nhóc mới lớn, mặt vui tươi và có vẻ thật thà, phong thái hồ hởi như người đi nghỉ mát và muốn tận hưởng từng giây phút thư nhàn. Cả hai đều kiêng rượu và cư xử mọi bề như những thành viên mẫu mực của hội đoàn, chỉ trừ một điều đơn giản họ là những tên sát nhân đã thường xuyên tự chứng tỏ mình là tay sai đắc lực nhất cho tổ chức sát nhân này. Lawler đã thực hiện mười bốn phi vụ như vậy, còn Andrews đã làm ba vụ.

McMurdo thấy hai tên này lại rất sẵn lòng nói về những chiến công trong quá khứ, những chuyện mà chúng thuật lại với vẻ kiêu hãnh có pha chút ngượng ngập của những người đã phục vụ tốt và không vụ lợi vì cộng đồng. Tuy nhiên, chúng lại kín miệng về công việc ngay trước mắt.

"Họ chọn chúng tôi vì cả tôi lẫn thằng nhóc này đều không uống rượu," Lawler giải thích. "Họ trông cậy vì bọn tôi không nói nhiều quá mức cần thiết. Hai anh đừng có phật ý làm chi, nhưng đó là mệnh lệnh của Ủy viên Địa hạt mà bọn tôi phải tuân theo."

"Hẳn rồi, chúng ta ai cũng thế mà," Scanlan, bạn của McMurdo, nói khi cả bốn cùng nhau ăn tối.

"Đúng vậy đó, chúng tôi có thể nói tới sáng về vụ giết tên Charlie Williams hay Simon Bird, hay bất kì vụ nào đã xong. Nhưng còn vụ này chưa xong thì không nói gì hết."

"Ở vùng này có năm, sáu tên mà tôi cũng muốn xử," McMurdo nói kèm theo tiếng chửi thề. "Chắc không phải là bọn anh tính xử tên Jack Knox ở Ironhill. Tôi thì rất muốn cho hắn lĩnh đủ."

"Không, không phải tên đó."

"Hay thằng Herman Strauss?"

"Cũng không phải."

"Chà, anh không nói thì bọn tôi cũng đành chịu, nhưng tôi rất muốn biết đó."

Lawler mỉm cười lắc đầu. Không thể khai thác gì ở hắn.

Bất chấp sự kín tiếng của hai vị khách, Scanlan và McMurdo vẫn quyết tâm có mặt ở chỗ mà họ gọi là 'cuộc vui'. Thế nên vào mờ sáng một ngày nọ, khi McMurdo nghe tiếng hai tên kia rón rén xuống cầu thang thì anh đánh thức Scanlan và cả hai hấp tấp mặc áo quần. Lúc vận đồ xong họ đã thấy hai tên kia lẻn ra ngoài rồi, cửa chính còn để mở. Trời chưa rạng sáng, dưới ánh đèn họ thấy hai bóng người đang đi trên đường cách một khoảng xa. Họ thận trọng đi theo, bước chân không tiếng động trên lớp tuyết dày

Nhà trọ ở gần rìa thị trấn và chẳng bao lâu họ đã đến giao lộ bên ngoài địa phận. Ở đây có ba người đang chờ sẵn, Lawler và Andrews trò chuyện ngắn gọn, sôi nổi với những người này. Rồi cả bọn cùng đi. Rõ ràng đây là việc quan trọng cần quân số đông. Ở chỗ này có nhiều đường mòn dẫn vào các khu mỏ khác nhau. Đám người lạ đi theo đường đến mỏ Crow Hill, một khu khai thác lớn nằm trong tay những người có thế lực, dưới quyền điều hành của giám đốc Josiah H. Dunn người New England gan dạ và mạnh bạo, nên có khả năng duy trì trật tự và kỉ cương suốt Triều đại Khủng bố này.

Trời đã hừng đông và một đoàn công nhân, đi lẻ tẻ hay thành nhóm, đang chậm chạp lần mò trên đường mòn tăm tối ấy. McMurdo và Scanlan tản bộ cùng đám công nhân, mắt luôn theo dõi toán người kia. Sương mù dày đặc bao trùm họ và từ giữa màn sương đột ngột rú lên một tiếng còi của máy hơi nước. Đó là còi hụ báo hiệu mười phút trước khi các buồng thang máy hạ xuống hầm và một ngày lao lực bắt đầu.

Khi đến khoảng đất trống quanh ống thông hơi hầm mỏ, họ thấy cả trăm người thợ đang chờ đợi, vừa giậm chân vừa thổi phù phù các đầu ngón tay cho đỡ rét buốt. Những kẻ lạ mặt kia đứng thành một nhóm nhỏ dưới bóng nhà đặt máy cái. Scanlan và McMurdo trèo lên một đống xỉ than để nhìn rõ toàn cảnh bên dưới. Họ thấy viên kĩ sư mỏ - một người Scotland to lớn râu xồm tên là Menzies - từ trong nhà đặt máy đi ra và huýt còi cho hạ buồng thang máy xuống.

Cùng lúc đó, một thanh niên thân hình lòng không, mặt mày nhẵn nhụi, đàng hoàng, bước hăm hở về phía đầu hầm lò. Lúc đi tới, ánh mắt anh ta bắt gặp nhóm người đứng im lìm bất động dưới nhà đặt máy. Bọn này đã kéo mũ nón sụp xuống và dựng cổ áo lên che mặt. Trong một thoáng, cái linh cảm chết chóc đã thò bàn tay lạnh buốt bóp vào tim người giám đốc. Liền sau đó anh ta gạt bỏ nỗi sợ và chỉ còn biết trách nhiệm của mình đối với những kẻ lạ mặt xâm nhập.

"Các người là ai?" Anh ta vừa hỏi vừa đi tới. "Các người lảng vảng ở đây làm gì?"

Không ai trả lời, chỉ có thằng nhãi Andrews bước tới bắn ngay vào bụng anh ta. Hàng trăm thợ mỏ đứng ngây người bất lực tựa hồ tê liệt cả. Vị giám đốc đưa hai bàn tay ôm chặt vết thương, người gập xuống. Rồi anh ta loạng choạng bước đi nhưng một tên sát nhân khác đã bắn tiếp, nạn nhân ngã vật sang một bên, chòi đạp cào cấu trên đống xỉ than. Menzies, người kĩ sư Scotland, thét lên một tiếng phẫn nộ trước cảnh tượng ấy và chộp lấy một thanh sắt vặn ốc lao tới bọn giết người để rồi lĩnh trọn hai viên đạn vào mặt, chết gục ngay dưới chân chúng.

Một số thợ mỏ ùa lên phía trước, và những tiếng kêu thương xót lẫn giận dữ nghẹn ngào vang lên. Bọn lạ mặt kia xả hết mấy ổ đạn súng lục trên đầu đám đông khiến họ hốt hoảng giải tán, nhiều người hộc tốc chạy về nhà ở tận Vermissa. Khi vài người thợ can đảm nhất tụ họp nhau lại và quay về khu mỏ thì băng sát nhân kia đã biến mất trong màn sương sớm, không một nhân chứng nào có thể nhìn rõ nhân dạng của những kẻ đã gây ra hai cái chết ngay trước mắt cả trăm người chứng kiến.

Scanlan và McMurdo cũng quay về. Scanlan có phần ủ rũ bởi đây là vụ giết người đầu tiên anh ta thấy tận mắt và rõ ràng là chuyện này chẳng vui thú như anh đã lầm tưởng. Tiếng gào thét kinh khủng của cô vợ người giám đốc bị giết ấy cứ đeo đuổi khi hai người hấp tấp trở lại thị trấn. McMurdo cứ im lặng suy nghĩ nhưng không tỏ ra cảm thông với sự yếu lòng của bạn mình.

"Hẳn rồi, giống như chiến tranh thôi," anh cứ lặp đi lặp lại. "Đây chỉ là cuộc chiến giữa ta và họ, và chúng ta phải đánh trả ở đâu có cơ may chiến thắng."

Phòng họp ở Nhà Hội đoàn đêm đó hết sức tưng bừng, không chỉ vì vụ sát hại giám đốc và kĩ sư ở mỏ Crow Hill - một vụ sẽ buộc doanh nghiệp ấy phải gia nhập hàng ngũ công ty bị khủng bố và tống tiền trong vùng - mà còn vì một chiến công ở nơi xa do chính người của chi hội này thực hiện.

Hóa ra khi Ủy viên Địa hạt phái năm người sang Vermissa hành sự thì hắn ta cũng đòi hỏi Vermissa phải bí mật chọn ba người của mình phái sang khu vực Gilmerton để giết ông William Hales ở mỏ Stake Royal - một trong những chủ mỏ danh tiếng nhất ở đó, người ai cũng tin rằng không hề có kẻ thù nào trên đời bởi vì ông ta là một người chủ hết sức mẫu mực. Tuy nhiên William Hales luôn khăng khăng đòi hỏi công nhân phải làm việc hiệu quả và do đó đã sa thải mấy người thợ say sưa lười nhác nhưng lại là thành viên của tổ chức có thế lực này. Những cáo thị vẽ hình quan tài treo trước cửa nhà đã không làm ông ta nao núng và thế là trong một đất nước văn minh tự do, William Hales đã nhận án tử.

Việc xử tử đã được tiến hành thích đáng. Ted Baldwin, kẻ đang ườn người trong chiếc ghế danh dự cạnh bên Hội chủ, chính là đứa cầm đầu nhóm sát nhân này. Bộ mặt đỏ gay, đôi mắt lờ đờ ngầu máu cho thấy hắn đã trải qua một đêm trắng rượu chè. Hắn và hai đồng bọn đêm trước đã ở trong vùng núi. Cả ba đều nhếch nhác và dãi dầu sương gió. Nhưng không có người hùng nào xông pha nguy hiểm trở về lại có thể được đồng bọn nghênh đón nồng nhiệt cho bằng bọn chúng.

Chuyện được kể đi kể lại giữa những tiếng la ó khoái trá và những tràng cười ầm ĩ. Chúng đã án ngữ trên đỉnh đồi dốc đứng, nơi ngựa buộc phải đi bước một, chờ tới lúc nạn nhân đánh xe về nhà khi chiều xuống. William Hales mặc áo lông dày cộm để chống lạnh giá nên không móc súng ra kịp. Chúng lôi ông ta ra khỏi xe và bắn không ngừng. Ông ta đã gào rú xin tha mạng. Bọn chúng bây giờ cứ nhại lại tiếng gào ấy để mua vui cho cả chi hội.

"Hãy nghe lại xem hắn tru tréo ra sao nhé," chúng hét lên.

Chẳng đứa nào quen biết người chết, nhưng chuyện giết người nào cũng luôn đầy kịch tính, và chúng đã chứng tỏ cho quân cường đạo ở Gilmerton biết rằng đám Vermissa là bọn đáng tin cậy. Chỉ có một trở ngại là trong lúc chúng xả hết đạn của mấy khẩu súng vào cái xác im lìm kia thì có hai vợ chồng đánh xe lên núi. Chúng đã tính bắn luôn cả hai người này nhưng hai vợ chồng ấy là kẻ vô hại và không liên quan gì đến khu mỏ, cho nên được ra lệnh đi tiếp và câm miệng nếu không muốn gặp phải chuyện dữ. Và thế là cái xác lỗ chỗ vết đạn được bỏ lại đó như một đòn cảnh cáo dành cho những chủ mỏ lì lợm, rồi ba tên sát nhân hối hả đi sâu vào vùng núi nơi địa hình hoang sơ kéo dài đến tận các lò nung quặng và những đống xỉ than. Bây giờ chúng ở đây, an toàn lành lặn, việc đã làm trót lọt, hai tai đầy những lời tán dương của đồng bọn.

Đó là một ngày quan trọng của quân cường đạo. Bóng tối bao trùm thung lũng này thậm chí còn dày đặc hơn. Nhưng cũng giống như một vị tướng lĩnh khôn ngoan chọn lựa thời điểm thắng lợi để tăng cường hiệu quả khiến quân thù sau thảm họa này không còn kịp bình tâm nữa, thủ lĩnh McGinty sau khi xem xét địa điểm hoạt động của mình bằng cặp mắt suy tư ác hiểm đã nghĩ ra một vụ tấn công mới để triệt hạ những kẻ chống đối. Ngay đêm đó, khi cả đám say sưa kia giải tán, ông ta nắm cánh tay McMurdo và kéo anh vào gian phòng hai người đã có cuộc trò chuyện riêng lần đầu tiên.

"Nghe đây, chàng trai," ông ta nói. "Cuối cùng tôi đã có công chuyện xứng đáng với anh. Anh sẽ được toàn quyền thực hiện."

"Ông nói thế tôi lấy làm hãnh diện quá," McMurdo đáp.

"Anh có thể lấy thêm hai người cùng làm, Manders và Reilly. Hai đứa đó đã được báo trước rồi. Ở khu này bọn ta sẽ không bao giờ dẹp yên chừng nào chưa xử được thằng Chester Wilcox, anh mà hạ được hắn thì mọi chi hội ở các mỏ than đều mang ơn anh đấy."

"Tôi sẽ cố hết sức vậy. Hắn ta là ai, hắn ở đâu thế?"

McGinty nhấc điếu xì gà hút dở luôn thường trực bên khóe mép và bắt đầu vẽ phác một họa đồ trên tờ giấy xé từ sổ tay.

"Hắn ta là tổng đốc công của Công ty Iron Dike. Một tên lì lợm, từng là trung sĩ cầm cờ thời chiến tranh ngày xưa, dạn dày trận mạc. Bọn ta đã tính xử hắn hai lần nhưng đều không gặp may và vì vụ đó mà Jim Carnaway chết. Bây giờ tới lượt cậu đảm trách. Đây là nhà hắn... hoàn toàn lẻ loi ngay giao lộ Iron Dike, giống như cậu thấy trên bản đồ này... không hề có căn nhà nào khác trong tầm nghe tiếng súng. Làm ban ngày chẳng ăn thua đâu. Hắn có súng và bắn rất nhanh, rất chính xác, chẳng cần thắc mắc gì hết. Nhưng ban đêm... chà, hắn ở đó với vợ, ba đứa con, và một bà giúp việc. Anh không được chọn lựa. Xử hết hoặc không xử ai cả. Nếu như anh có một bao thuốc nổ đặt ở cửa chính với dây cháy chậm thì..."

"Tên này đã làm gì?"

"Tôi đã bảo anh là hắn bắn chết Jim Carnaway rồi mà?"

"Tại sao hắn bắn anh ta chứ?"

"Anh mắc cái chứng gì thế hả? Carnaway lảng vảng quanh nhà hắn vào ban đêm và hắn bắn. Thế là đủ cho tôi với anh ra tay rồi. Anh phải xử cho đẹp chuyện này."

"Có hai người đàn bà và lũ trẻ nít. Xử luôn họ à?"

"Phải thế thôi... chứ làm sao hạ tên đó đây?"

"Vậy thì quá nặng đối với những người đó vì họ có làm gì đâu."

"Anh bạn nói năng kiểu gì mà ngu ngốc vậy? Muốn né việc à?"

"Bình tĩnh, ông Hội đồng, bình tĩnh! Tôi đã nói hay làm gì mà ông nghĩ là tôi muốn tránh né mệnh lệnh của Hội chủ chi hội này chứ? Đúng hay sai là tùy ông định đoạt."

"Vậy anh làm không?"

"Tất nhiên là tôi làm."

"Khi nào?"

"À, tốt nhất là ông cho tôi một hoặc hai đêm để tôi quan sát căn nhà đó rồi lên kế hoạch. Sau đó..."

"Được lắm," McGinty vừa nói vừa bắt tay. "Tôi giao phó hết cho anh. Ngày anh mang tin vui về sẽ là một ngày trọng đại đấy. Đó sẽ là đòn cuối cùng buộc tất cả chúng nó phải quỳ gối xuống."

McMurdo bỏ nhiều thời gian suy nghĩ rất kĩ về nhiệm vụ bất ngờ được giao phó. Căn nhà lẻ loi mà Chester Wilcox đang sống nằm cách thung lũng gần nhất chừng năm dặm. Ngay đêm đó anh một mình lên đường chuẩn bị cho âm mưu này. Mãi đến sáng anh mới do thám xong và quay về. Hôm sau anh nói chuyện với các phụ tá Manders và Reilly; hai tên trẻ tuổi liều mạng này nghe bàn việc giết người mà cứ mừng rỡ như được đi săn nai.

Hai đêm sau, cả ba gặp nhau bên ngoài thị trấn, tất cả đều có súng, một người mang theo một bao đầy loại thuốc nổ thường dùng trong các mỏ đá. Lúc họ đến ngôi nhà hiu quạnh đó thì đã 2 giờ sáng. Đêm ấy lộng gió, những đám mây lác đác trôi nhanh qua vầng trăng khuyết. Đã được báo trước phải đề phòng lũ chó săn nên cả ba di chuyển thận trọng, súng lục lên đạn lăm lăm trong tay. Nhưng không có âm thanh nào ngoại trừ tiếng gió rít và không có chuyển động nào ngoại trừ tiếng cành cây đòng đưa trên đầu.

McMurdo đứng nghe ngóng trước cửa căn nhà lẻ loi ấy nhưng bên trong im lặng như tờ. Rồi anh đặt bao thuốc nổ ngay cửa, dùng dao khoét thủng một lỗ, và nối dây mồi. Khi dây mồi đã được châm lửa, anh và hai tên đồng bọn chạy thục mạng và đã tránh thật xa, an toàn trong một rãnh trú ẩn trước khi nghe một tiếng nổ kinh động và sau đó là tiếng ầm ầm trầm đục của ngôi nhà sụp đổ, báo cho họ biết công việc đã xong. Trong lịch sử đẫm máu của hội đoàn này chưa hề có vụ nào được thực hiện sạch sẽ dường ấy.

Nhưng tiếc thay! Công việc tổ chức tốt như thế và tiến hành táo bạo như thế nào ngờ tất cả đều uổng công! Nhìn thấy số phận của nhiều nạn nhân trước đó và biết mình sẽ là mục tiêu triệt hạ, Chester Wilcox đã cùng gia đình bỏ nhà đi trước một ngày, tới một khu vực an toàn, kín đáo hơn có một đội cảnh vệ túc trực canh phòng. Thuốc nổ chỉ phá sập một căn nhà trống và viên cựu trung sĩ cầm cờ dữ tợn thời chiến vẫn đang huấn luyện kỉ luật làm việc cho đám thợ mỏ Iron Dike.

"Để hắn cho tôi," McMurdo nói. "Hắn là của tôi và nhất định tôi phải hạ hắn cho dù phải chờ đợi cả năm nữa."

Cả chi hội ngỏ lời cảm ơn và tin tưởng nên chuyện này tạm thời kết thúc ở đó. Mấy tuần sau, khi báo chí đăng tin Wilcox đã bị bắn chết trong một cuộc phục kích thì ai cũng biết một điều bí mật là McMurdo vẫn tiếp tục làm công việc dang dở của mình.

Đó là cách hoạt động của hội Huynh đệ Tự do, và đó là những việc làm của băng Scowrer để bành trướng quyền thống trị bằng bạo lực trên khắp khu vực giàu có rộng lớn vốn bấy lâu nay bị quấy nhiễu triền miên vì sự hiện diện kinh hoàng của chúng. Tại sao những trang sách này lại phải ô uế thêm bằng nhiều tội ác nữa? Chẳng lẽ tôi kể chưa đủ về bọn người này và phương thức của chúng hay sao? Những việc làm của chúng đã được ghi vào sử sách và có nhiều hồ sơ mà ta có thể tìm hiểu chi tiết. Qua đó ta có thể biết về vụ bắn chết hai cảnh sát Hunt và Evans vì họ đã dám bắt giam hai thành viên hội đoàn -một vụ mưu sát hai mục tiêu đã được hoạch định ở chi hội Vermissa và được thi hành tàn bạo để xử hai người bất lực đã bị tước vũ khí này. Qua đó ta có thể biết về vụ bắn chết bà Larbey khi đang chăm sóc ông chồng bị đánh gần chết theo lệnh của thủ lĩnh McGinty. Vụ giết chết ông già Jenkins, rồi liền sau đó là em trai ông, vụ xẻo thịt James Murdoch, vụ nổ tan xác cả nhà Staphouse, và vụ sát hại gia đình Stendal hết thảy đều xảy ra liên tiếp trong cùng một mùa hè khủng khiếp.

Bóng tối âm u bao trùm Thung lũng Kinh hoàng. Mùa xuân đã đến cùng suối reo hoa nở. Mọi sinh vật của Tạo Hóa bị trói buộc quá lâu trong vòng cương tỏa sắt đá đều ôm ấp hi vọng, nhưng không hề thấy hi vọng nào dành cho những con người đang sống dưới ách khủng bố này. Chưa bao giờ đám mây bao trùm họ lại tối tăm và tuyệt vọng như vào đầu mùa hè năm 1875.

13. Nguy khốn

Triều đại Khủng bố đã bước vào giai đoạn thịnh trị. Được bổ nhiệm làm phó chấp hành với triển vọng sẽ kế vị Hội chủ một ngày nào đó, McMurdo giờ đã là người hết sức cần thiết cho các cuộc họp hội đoàn tới mức không có chuyện gì tiến hành mà không có anh trợ giúp hay cố vấn. Nhưng anh càng nổi tiếng với đám Huynh đệ Tự do thì những cái nhìn cau có mà anh đón nhận trên đường phố Vermissa càng hắc ám hơn. Bất chấp khủng bố, dân chúng dần dần bạo dạn họp nhau chống đối lại những kẻ áp bức. Nhiều tin đồn đã tới tai hội đoàn về những cuộc họp bí mật ở tòa soạn Herald và về chuyện phân phát vũ khí giữa những thường dân tuân thủ luật pháp. Song McGinty cùng đồng bọn không âu lo với những báo cáo ấy. Bọn chúng đông đảo, đồng lòng và dồi dào vũ khí. Đối thủ của chúng lại manh mún và không có quyền lực. Giống như đã xảy ra trước đây, tất cả rồi cũng sẽ kết thúc bằng những lời bàn tán vu vơ và cùng lắm là vài vụ bắt giam không có hiệu quả. McGinty, McMurdo và mọi kẻ bạo dạn hơn đều cho là thế.

Hôm ấy, một tối thứ bảy vào tháng 5. Thứ bảy luôn là buổi tối của chi hội và McMurdo chuẩn bị rời nhà để tham dự thì Morris, người nhát gan cùng hội, đến tìm gặp. Trán ông ta nhăn lại vì lo lắng, còn gương mặt hiền từ thì hốc hác phờ phạc.

"Tôi có thể nói chuyện thoải mái với anh được không, anh McMurdo?"

"Hẳn rồi."

"Tôi không thể quên là mình từng tâm sự với anh và anh đã giữ kín mọi chuyện, cho dù chính Hội chủ đã tìm gặp anh dò hỏi."

"Nếu ông đã tin tưởng tôi thì phải vậy thôi chứ sao? Nhưng không có nghĩa là tôi đồng tình với ông."

"Tôi hiểu rõ mà. Nhưng anh là người mà tôi có thể nói chuyện an toàn. Tôi có chuyện bí mật đây," ông ta đặt tay lên ngực, "và tôi đang lo muốn chết. Tôi ước gì chuyện này đến với ai cũng được nhưng chừa tôi ra. Tôi mà nói ra là mất mạng ngay nhưng không nói thì tất cả chúng ta đều chết. Xin Chúa cứu giúp, tôi thật rối trí vì nó!"

McMurdo nghiêm nghị quan sát Morris. Ông ta đang run lẩy bẩy toàn thân. Anh rót ít rượu ra li và đưa cho ông ta.

"Đây là thuốc chữa cho những người như ông," anh nói. "Bây giờ nói tôi nghe đi."

Morris uống và gương mặt tái nhợt bắt đầu có sắc hồng trở lại.

"Tôi có thể nói gọn trong một câu," ông ta lên tiếng. "Cảnh sát đang truy nã chúng ta."

McMurdo trố mắt ngạc nhiên. Anh bảo, "Này, ông có khùng chưa? Chẳng lẽ ở chỗ này không có đầy cảnh sát với thanh tra đó sao? Mà chúng làm gì ta được chứ?"

"Không, không phải người ở khu vực này. Đúng như anh nói, những người ở đây thì chúng ta biết hết và họ chẳng làm được trò gì. Nhưng anh có bao giờ nghe nói đến lực lượng Pinkerton chưa?"

"Tôi có đọc báo, thấy nhắc đến vài người thuộc bọn này."

"Chà, hãy tin tôi đi, nếu họ săn lùng anh thì anh chẳng làm gì được đâu. Đó không phải là chuyện làm chiếu lệ của chính quyền. Đây là chuyện hợp đồng hết sức nghiêm chỉnh, họ sẽ nỗ lực tới cùng và dùng trăm phương ngàn kế cho đến khi nào đạt mục đích. Nếu có một người của Pinkerton dính sâu vào chuyện này thì chúng ta bị tiêu cả lũ."

"Chúng ta phải giết hắn."

"Ôi, ý nghĩ đầu tiên của anh là thế sao? Vậy là phải báo với chi hội. Tôi đã bảo, nói ra là có người mất mạng mà."

"Hẳn rồi, nhưng mất mạng thì sao chứ? Chuyện giết người đâu có gì lạ ở vùng này?"

"Đúng là vậy thật, nhưng tôi có muốn chỉ điểm để người đó bị giết đâu. Thế nhưng chính cái mạng của chúng ta cũng có thể gặp nguy hiểm. Chúa ơi, tôi biết làm sao bây giờ?"

Ông ta cứ lắc lư khổ sở vì do dự. Nhưng lời Morris khiến McMurdo xúc động ghê gớm. Dễ thấy rằng anh đông cảm với quan điểm của Morris về nguy cơ ấy và cần phải đương đầu. Anh chộp lấy bờ vai Morris lay mạnh.

"Nghe này," anh nói to, gần như muốn hét lên trong cơn xúc động, "ông cứ ngồi đó than vãn như mụ già khóc đám ma chồng cũng chẳng ích gì đâu. Hãy nói cụ thể xem. Tên đó là ai? Hắn ở đâu? Làm sao ông biết chuyện này? Vì cớ gì ông lại đến tìm tôi?"

"Tôi tìm anh vì anh là người duy nhất có thể cho tôi lời khuyên. Tôi đã nói với anh là tôi có một cửa tiệm ở miền Đông trước khi tới đây. Tôi vẫn còn nhiều bạn tốt ở đó và có một người làm ở phòng điện tín. Hôm qua tôi nhận được thư của người đó. Cái phần ở đầu thư đó. Anh tự đọc lấy."

McMurdo đọc được nội dung sau:

Các huynh đệ Scowrer ở chỗ anh thế nào rồi? Chúng tôi đọc được nhiều tin tức về họ trên báo chí. Tôi mong nghe tin anh đã lâu rồi. Năm tập đoàn lớn và hai công tỵ hỏa xa coi trọng chuyện này. Chúng sẽ làm tới nơi tôi chốn đấy, và bảo đảm với anh là chúng sẽ lần tới đó! Chúng đã thâm nhập rất sâu rồi. Thừa lệnh chúng, lực lượng Pinkerton đã nhận đảm trách và người giỏi nhất của cánh này là Birdy Edwards đang tiến hành. Cần phải dừng công việc ở đó ngay.

"Bây giờ đọc đoạn tái bút đi."

Tất nhiên những gì tôi cho anh hay là tôi biết qua công việc, cho nên chỉ có thế thôi. Đó chỉ là một mật mã kì cục trong vô số nội dung tương tự mà hằng ngày chúng tôi phải xử lí và không thể hiểu được ý nghĩa.

McMurdo ngồi im lặng hồi lâu, lá thư cầm hờ trong tay. Mây mù đã tạm thời rẽ ra và trước mặt anh là vực thẳm.

"Có ai biết chuyện này không?" Anh hỏi.

"Tôi không nói với ai cả."

"Nhưng người này, bạn của ông đấy, ông ta có quen biết ai khác nữa để có thể viết thư kể chuyện này cho họ biết không?"

"À, tôi dám chắc là bạn tôi còn quen biết vài người nữa."

"Cũng là người cùng hội?"

"Có thể vậy lắm."

"Tôi hỏi là vì rất có khả năng bạn ông sẽ mô tả với ai đó về nhân dạng của tên Birdy Edwards này... như vậy chúng ta có thể truy lùng hắn."

"Chà, cũng có thể. Nhưng tôi không nghĩ là bạn tôi biết người đó. Anh ta chỉ thuật lại tin tức mà anh ta biết được nhờ công việc. Làm sao anh ta biết được tay Pinkerton này là ai chứ?"

McMurdo giật bắn người, kêu to, "Lạy Chúa! Tôi biết hắn rồi. Tôi mà không biết thì đúng là ngu ngốc. Chúa ơi! Nhưng may cho chúng ta quá! Chúng ta sẽ xử hắn trước khi hắn kịp gây hại. Nghe này, Morris, cứ để vụ này tôi lo cho nhé?"

"Còn phải hỏi, tôi chỉ mong có chừng đó."

"Để tôi lo. Ông cứ tránh xa và để mặc tôi. Thậm chí tôi cũng sẽ không nêu tên ông ra. Tôi sẽ tự chịu trách nhiệm hết, cứ như bức thư này được gửi cho tôi vậy. Ông thấy vậy được chưa?"

"Thật đúng ý tôi."

"Vậy thì cứ như thế, còn ông cứ rụt đầu nằm yên đi. Bây giờ tôi ghé chi hội và chúng tôi sẽ sớm làm cho tay Pinkerton đó phải hối tiếc."

"Anh không giết người này đấy chứ?"

"Ông bạn Morris ơi, ông biết càng ít thì lương tâm của ông càng thanh thản và ông ngủ càng ngon giấc. Đừng có hỏi gì hết, cứ để mọi chuyện tự giải quyết. Giờ đã có tôi lo liệu rồi."

Morris lắc đầu buồn bã khi ra về. Ông ta rên rỉ, "Tôi có cảm tưởng như tay mình đã dính máu người này."

"Dù sao thì tự vệ cũng không phải là cố sát," McMurdo vừa nói vừa cười ác hiểm. "Hoặc là hắn, hoặc là chúng ta. Tôi nghĩ nếu để tên này ở lâu trong thung lũng thì hắn sẽ diệt sạch chúng ta. Ôi, người anh em Morris, rồi chúng tôi sẽ phải bầu ông làm Hội chủ mất thôi vì chính ông đã cứu cả chi hội."

Thế nhưng qua cử chỉ, McMurdo rõ ràng xem chuyện có kẻ thâm nhập mới mẻ này còn nghiêm trọng hơn những gì anh nói ra lời. Có thể đó là do lương tâm tội lỗi của anh, có thể do danh tiếng của tổ chức Pinkerton, cũng có thể là vì biết được các công ty lớn giàu có đã cùng nhau quyết tiêu diệt cho kì được băng Scowrer; nhưng dù với lí do nào thì anh cũng hành động như một người sẵn sàng cho những điều tồi tệ nhất. Mọi giấy tờ có thể làm chứng cớ buộc tội đều bị tiêu hủy hết trước khi anh rời khỏi nhà. Hủy xong McMurdo mới thở phào nhẹ nhõm vì dường như khi đó anh mới thấy an toàn. Thế nhưng mối nguy ấy hẳn vẫn còn trĩu nặng trong tâm trí bởi trên đường đến chi hội, anh lại tạt vào nhà ông già Shafter. Nhà này đã cấm cửa anh nhưng khi anh gõ vào cửa sổ thì Ettie ra ngoài gặp, vẻ bạt mạng của dân Ireland đã không còn lấp lánh trong mắt người cô yêu. Trên gương mặt nghiêm nghị của anh, cô chỉ thấy sự nguy khốn.

"Có chuyện gì thế?" Cô kêu lên. "Ôi Jack, anh đang gặp nguy hiểm sao?"

"Đúng thế, em yêu, nhưng không nguy hiểm lắm đâu. Dù sao chúng ta cũng nên hành động trước khi chuyện thêm tệ."

"Hành động?"

"Anh từng hứa là có ngày anh sẽ ra đi. Anh nghĩ đã đến lúc rồi. Tối nay anh có tin báo, một tin xấu, và anh biết sắp có rắc rối."

"Cảnh sát ư?"

"À, người của Pinkerton. Nhưng tất nhiên em đâu có biết được đó là ai, em yêu, mà cũng không thể hiểu điều đó có ý nghĩa gì với những kẻ như anh. Anh đã dấn quá sâu, và anh phải thoát ra thật nhanh. Em có nói nếu anh đi thì em theo cùng."

"Ôi, Jack, đây là chuyện thoát thân của anh mà!"

"Anh là người thành thật trong một số chuyện, Ettie. Có đánh đổi cả thế giới này anh cũng không chịu làm đau một sợi tóc xinh đẹp của em, và cũng không bao giờ lôi kéo em dù chỉ một li ra khỏi cái ngai vàng cao vời mà anh luôn ngưỡng mộ. Em có tin anh không?"

Cô đặt bàn tay mình trong tay anh, không nói một lời.

"Được, thế thì hãy nghe những gì anh nói, và làm như anh bảo, vì đó là con đường duy nhất cho chúng ta. Sẽ có chuyện xảy ra ở thung lũng này. Anh đã cảm nhận được từ trong thâm tâm. Rồi nhiều người phải tự lo lấy thân họ. Anh là một trong số đó. Nếu anh ra đi, dù ngày hay đêm, em phải đi cùng anh!"

"Em sẽ đi sau anh, Jack."

"Không, không được, em phải đi cùng anh. Nếu như thung lũng này ngăn anh quay lại, làm sao anh có thể bỏ em lại đây, và có thể khi phải lẩn trốn cảnh sát anh không có cơ hội nhắn tin thì sao? Em phải đi với anh. Ở chốn cũ anh có biết một phụ nữ tốt bụng, anh sẽ để em ở đó cho đến khi nào chúng ta có thể cưới nhau. Em có đi không?"

"Có, Jack, em sẽ đi."

"Chúa ban phước cho em vì đã tin anh! Nếu anh lừa gạt em thì anh chính là đồ quỷ sứ. Bây giờ hãy nhớ, Ettie, sẽ có người đến nhắn tin và khi được tin em phải bỏ hết mọi thứ, đi ngay tới phòng chờ ở nhà ga và ở đó đợi anh đến đón."

"Dù ngày hay đêm, được báo là em đi ngay, Jack."

Giờ đã an tâm phần nào khi việc chuẩn bị tẩu thoát đã bắt đầu, McMurdo tiếp tục đi tới chi hội. Mọi người đã tụ tập và chỉ bằng những khẩu lệnh đối đáp phức tạp anh mới vượt qua được các toán bảo vệ dày đặc vòng trong vòng ngoài. Anh đi vào giữa những tiếng xôn xao vui mừng chào đón. Gian phòng rộng đã đông đúc, qua màn khói thuốc mù mịt anh nhìn thấy mái tóc đen dài bù rối của Hội chủ, nét mặt tàn bạo đầy ác cảm của Baldwin, bộ mặt diều hâu của viên thư kí Harraway, cùng hơn chục người khác trong nhóm chỉ huy chi hội. Anh mừng là họ đều tề tựu đầy đủ để hội ý về tin tức anh sẽ thông báo.

"Thật là vui khi thấy anh, người anh em!" Vị chủ tọa kêu to. "Hôm nay có chuyện cần người khôn ngoan phân xử đây."

"Chuyện Lander và Egan," người bên cạnh giải thích khi anh ngồi vào chỗ. "Cả hai đều đòi nhận tiền thưởng của chi hội về vụ bắn chết lão già Crabbe ở Stylestown, nhưng ai mà biết được đứa nào nã đạn chứ?"

McMurdo đứng dậy và giơ tay. Nét mặt của anh khiến cả cử tọa đều phải chú ý. Mọi người im lặng chờ nghe.

"Kính thưa Hội chủ," anh nghiêm trọng nói, "tôi có yêu cầu khẩn cấp!"

"Người anh em McMurdo có yêu cầu khẩn cấp," McGinty nói. "Anh ta được hưởng quyền ưu tiên theo luật lệ chi hội. Người anh em, chúng tôi lắng nghe đây."

McMurdo lấy lá thư trong túi ra.

"Thưa Hội chủ và các huynh đệ," anh nói, "hôm nay tôi thà là người báo tin xấu cho tất cả cùng biết và bàn bạc còn hơn là để chúng ta phải lĩnh một đòn bất ngờ sẽ tiêu diệt hết mọi người. Tôi được tin là các tập đoàn giàu có nhất và quyền lực nhất tiểu bang này đã đoàn kết lại quyết diệt chúng ta, và ngay lúc này một tay thám tử Pinkerton, tên là Birdy Edwards, đang hoạt động trong thung lũng này, thu thập mọi bằng chứng có thể đưa nhiều người trong chúng ta lên giá treo cổ và tống mọi người trong phòng này vào xà lim. Đó là tình hình mà tôi yêu cầu khẩn cấp bàn bạc."

Sự im lìm chết chóc bao trùm gian phòng. Cuối cùng vị chủ tọa lên tiếng. "Có bằng chứng gì không, người anh em McMurdo?" Ông ta hỏi.

"Bằng chứng nằm trong lá thư tôi cầm trong tay," McMurdo nói. Anh đọc to đoạn quan trọng ấy rồi nói tiếp, "Vì vấn đề danh dự nên tôi không thể nói thêm chi tiết nào về bức thư này mà cũng không thể giao nó cho chi hội, nhưng tôi cam đoan rằng trong thư chẳng có gì ảnh hưởng đến quyền lợi của chi hội cả. Tôi vừa hay tin là trình báo với chi hội ngay."

"Thưa Hội chủ, cho tôi được nói," một huynh đệ lớn tuổi lên tiếng, "Tôi có nghe nói tới tên Birdy Edwards, và hắn có tiếng là người giỏi nhất của Pinkerton."

"Có ai biết mặt tên này không?" McGinty hỏi.

"Có," McMurdo nói. "Tôi biết."

Khắp phòng ồ lên tiếng xì xào ngạc nhiên.

"Tôi tin là chúng ta sẽ nắm chắc hắn trong lòng bàn tay," anh nói tiếp kèm theo một nụ cười đắc chí trên môi. "Nếu chúng ta hành động nhanh và khôn ngoan thì có thể kết thúc sớm chuyện này. Nếu có được sự tin cậy và giúp đỡ của các huynh đệ thì chẳng có gì phải sợ cả."

"Thế thì sợ gì chứ? Hắn biết được gì về công việc của chúng ta chứ?"

"Thưa ông Hội đồng, có thể nói như vậy nếu ai ai cũng vững vàng như ông. Nhưng tên này có tiền muôn bạc vạn của các nhà tư bản hỗ trợ. Ông có cho rằng trong tất cả các chi hội của chúng ta đều không có huynh đệ nào yếu lòng đến độ bị mua chuộc được chăng? Hắn sẽ biết được các bí mật của chúng ta... có thể hắn đã biết rồi đó. Chỉ có duy nhất một cách cứu vãn chắc chắn."

"Là không cho tên đó ra khỏi thung lũng này," Baldwin nói.

McMurdo gật đầu. "Anh thật chí lí, người anh em Baldwin," anh nói. "Anh và tôi từng có bất đồng nhưng tối nay anh nói chí phải."

"Thế hắn ở đâu? Làm sao chúng ta tìm ra hắn?"

"Kính thưa Hội chủ," McMurdo nghiêm túc nói, "tôi muốn nói rằng chuyện này hết sức hệ trọng với chúng ta nên không thể bàn bạc công khai trước cả chi hội. Thề có Chúa là tôi không nghi ngờ bất kì ai ở đây, nhưng chỉ cần một lời đồn đãi lọt tới tai người này thôi thì mọi cơ may chúng ta tóm được hắn đều tiêu tan. Tôi xin chi hội chọn ra một ủy ban đáng tin cậy, gồm đích thân Hội chủ đây, cho phép tôi đề cử như thế, và người anh em Baldwin cùng năm người nữa. Sau đó tôi sẽ nói hết những gì tôi biết và những gì tôi thấy cần phải làm."

Đề nghị này được chấp thuận ngay và một ủy ban được chọn ra. Ngoài vị chủ tọa và Baldwin còn có viên thư kí mặt diều hâu Harraway, tên sát nhân tàn bạo trẻ tuổi Cormac Hổ Báo, viên thủ quỹ Carter, và hai anh em Willaby vốn táo tợn liều mạng bất chấp thủ đoạn.

Màn thù tạc thông lệ của chi hội tối nay chóng vánh và chán chường vì tinh thần mọi người đều u ám; lần đầu tiên nhiều người ở đó bắt đầu thấy đám mây báo thù của Luật Pháp trôi qua bầu trời tĩnh lặng đã bao bọc chúng lâu nay. Những nỗi kinh hoàng mà chúng giáng xuống đầu người khác vốn đã là một phần hết sức mật thiết với cuộc sống ổn định của chúng, tới mức ý nghĩ về chuyện bị trừng phạt đã trở nên xa vời, và bây giờ lại hóa ra đáng sợ khi điều đó bỗng dưng cận kề. Bọn chúng giải tán sớm và để nhóm chỉ huy hội ý.

"Rồi, McMurdo!" McGinty lên tiếng khi chỉ còn lại ủy ban khẩn cấp. Bảy người ngồi im trên ghế.

"Lúc nãy tôi nói có biết tên Birdy Edwards này," McMurdo giải thích. "Tôi không cần nói thì mọi người cũng biết là hắn ta dùng tên khác khi mò tới đây. Hắn gan dạ nhưng không điên rồ. Hắn lấy tên là Steve Wilson và đang trọ ở Hobson's Patch."

"Làm sao anh biết?"

"Bởi vì tôi đã tình cờ nói chuyện với hắn. Lúc đó tôi không nghĩ ngợi gì mà cũng không hề nghi ngại nếu như không có lá thư này, nhưng bây giờ tôi chắc chắn đó chính là hắn. Tôi gặp hắn trên chuyến tàu hỏa hôm thứ tư... Ai mà ngờ được chứ! Hắn tự xưng là phóng viên. Lúc đó tôi tin lời hắn. Hắn muốn tìm hiểu mọi chuyện về băng Scowrer và những chuyện mà hắn gọi là 'lộng hành' cho một tờ báo ở New York. Hắn hỏi tôi đủ thứ để moi thông tin. Tất nhiên là tôi không để lộ gì hết. Hắn nói: 'Tôi sẵn sàng trả tiền và trả hậu hĩnh nếu như có được những tin tức đúng ý chủ bút.' Tôi nói mấy điều tôi nghĩ sẽ khiến hắn hài lòng nhất và hắn trả cho tôi hai mươi đôla. Hắn nói: 'Tôi sẽ trả anh gấp mười lần nếu như anh có thể tìm cho tôi những thông tin tôi cần'."

"Thế lúc đó anh nói gì?"

"Toàn những chuyện tôi bịa ra."

"Làm sao anh biết hắn không phải là nhà báo?"

"Để tôi kể đã. Hắn xuống tàu ở Hobson's Patch, tôi cũng vậy. Sau đó tôi tình cờ ghé vào phòng điện tín thì hắn cũng vừa ở đó ra. Nhân viên điện tín nói với tôi sau khi hắn đi rồi: 'Anh xem này, lẽ ra tôi phải tính tiền gấp đôi mới đúng.' Tôi nói: 'Chắc là nên như vậy.' Hắn ta đã điền kín phiếu gửi điện tín với những nội dung không sao hiểu nổi, cứ bí hiểm như là chữ Tàu vậy. Nhân viên điện tín nói: 'Ngày nào người đó cũng gửi đi một tờ như thế này.' Tôi nói: 'À, đó là tin đặc biệt cho tờ báo của anh ta và chắc là anh ta sợ người khác biết được.' Nhân viên điện tín cũng nghĩ như vậy và vào lúc đó tôi cũng nghĩ sự việc chỉ có thế, nhưng giờ thì tôi nghĩ khác."

"Lạy Chúa, tôi tin anh nói đúng," McGinty nói. "Nhưng theo anh thì chúng ta phải làm sao đây?"

"Sao không xuống đó xử hắn ngay cho rồi?" Có người đề nghị.

"Đúng, càng sớm càng tốt."

"Tôi sẽ đi làm chuyện đó liền nếu như tôi biết tìm hắn ở đâu," McMurdo nói. "Hắn ở Hobson's Patch nhưng tôi đâu biết hắn ở nhà trọ nào. Nhưng tôi có cách này, nếu mọi người đồng ý."

"Sao, cách gì thế?"

"Sáng mai tôi sẽ đi Hobson's Patch. Tôi sẽ hỏi nhân viên điện tín về chỗ ở của tên này. Tôi nghĩ là sẽ tìm ra. Sau đó, tôi sẽ bảo tên này rằng chính tôi cũng là người của Huynh đệ Tự do. Tôi sẽ ra giá để bán cho hắn mọi bí mật của chi hội. Tôi dám cá là hắn sẽ chộp lấy ngay. Tôi sẽ bảo hắn các giấy tờ nằm ở nhà tôi và tôi có thể mất mạng nếu để hắn tới nhà cùng bằng hữu của hắn. Hắn sẽ bùi tai. Tôi sẽ hẹn hắn đến nhà tôi vào 10 giờ tối để xem hết mọi thứ. Nhất định hắn sẽ mò tới."

"Rồi sao?"

"Phần còn lại mọi người có thể trù liệu lấy. Nhà của bà góa phụ MacNamara rất vắng vẻ. Bà già này rất trung thành và tai thì điếc đặc. Trong nhà chỉ có tôi và Scanlan ở trọ. Nếu tôi thuyết phục được Scanlan giữ bí mật, và tôi sẽ cho biết sau là có làm được chuyện đó không, thì cả bảy vị đây sẽ đến nhà tôi lúc 9 giờ. Chúng ta sẽ để cho tên đó vào nhà. Nếu như hắn có thể ra về toàn mạng thì... chà, hắn có thể rêu rao cho đến hết đời về vận may của Birdy Edwards."

"Nhất định bọn Pinkerton sẽ phải tuyển người thay thế thôi. Cứ như vậy đi, McMurdo. 9 giờ tối mai bọn tôi sẽ tới chỗ anh. Thằng đó mà vào nhà rồi thì anh cứ để chuyện còn lại bọn tôi lo."

14. Giăng bẫy

Đúng như McMurdo nói, căn nhà anh ở trọ rất vắng vẻ và thích hợp cho chính cái mưu đồ tội ác nọ. Nó nằm ngay ngoài cùng thị trấn và khuất xa đường lộ. Trong những trường hợp khác, lũ cường đạo chỉ cần đối mặt với mục tiêu và xả hết đạn như thường lệ; nhưng lần này chúng cần phải tìm hiểu xem kẻ thù đã biết được những gì, làm sao hắn biết, và đã thông báo gì với đám người thuê hắn.

Có khả năng là chúng đã quá chậm trễ và mọi chuyện đã xong. Nếu đúng như thế, ít nhất băng đảng này có thể trả thù kẻ đã gây chuyện. Nhưng chúng vẫn nuôi hi vọng tay thám tử kia chưa thu thập được tin tức quan trọng, hoặc theo như chúng nghĩ là kẻ đó đã không phí công ghi lại và chuyển đi những tin tức vặt vãnh mà McMurdo xác nhận là đã cung cấp. Tuy nhiên, chúng muốn chính miệng tay thám tử phun ra tất cả. Một khi tóm được, chúng sẽ tìm cách buộc hắn ta phải nói. Đây không phải là lần đầu tiên chúng xử lí một nhân chứng cứng đầu.

McMurdo đến Hobson's Patch như đã bàn tính trước. Cảnh sát có vẻ đặc biệt quan tâm đến anh vào sáng hôm đó, và đại úy Marvin - người tự cho là đã biết anh hồi ở Chicago - đến bắt chuyện khi anh chờ ở nhà ga. McMurdo quay đi không muốn trò chuyện với anh ta. Đến chiều xong nhiệm vụ, McMurdo trở về gặp McGinty ở Nhà Hội đoàn.

"Hắn sẽ đến," anh báo.

"Tốt!" McGinty nói. Tên hộ pháp hôm nay mặc sơmi, mớ dây chuyền và huy hiệu sáng lóa vắt ngang chiếc áo gilê lụng thụng và cái ghim kim cương lấp lánh đằng sau chòm râu tua tủa. Rượu và chính trị đã giúp cho vị thủ lĩnh này nhiều tiền lắm quyền. Cho nên, cái viễn cảnh tù tội hay giá treo cổ hiển hiện trước mắt từ đêm hôm qua lại càng thêm dễ sợ.

"Theo anh thì hắn biết được nhiều chuyện không?" McGinty lo lắng hỏi.

McMurdo lắc đầu buồn bã.

"Hắn tới đây lâu rồi... chí ít cũng sáu tuần. Tôi chắc chắn hắn không tới đây để tìm vận may đâu. Nếu như suốt thời gian qua hắn đã mua chuộc người của ta bằng tiền của các tập đoàn hỏa xa, tôi nghĩ là hắn đã có kết quả, và đã chuyển hết thông tin đi rồi."

"Ở chi hội này chẳng có ai yếu hèn cả," McGinty to tiếng. "Ai ai cũng trung thành, tất cả như một. A, lạy Chúa! Có thằng Morris đáng tởm kia. Thằng đó thì sao? Nếu có đứa nào bán đứng chúng ta thì phải là thằng này. Ngay trước tối nay tôi sẽ sai vài đứa tới cho nó một trận nhừ tử để xem nó có khai ra điều gì không?"

"À, làm thế cũng chẳng hại gì," McMurdo đáp. "Tôi không phủ nhận là có chút cảm tình với Morris và sẽ lấy làm tiếc nếu ông ta bị thương tổn. Có một hai lần ông ta có nói chuyện chi hội với tôi, và dù ông ta có thể không nhìn nhận vấn đề giống như ông hay tôi nhưng chắc không phải là phường chỉ điểm đâu. Nhưng tôi không có quyền ngăn cản ông xử Morris."

"Tôi sẽ xử thằng già khốn kiếp đó!" McGinty vừa nói vừa chửi thề. "Tôi đã để ý tới nó cả năm nay rồi."

"Ồ, chuyện đó thì ông biết rõ," McMurdo đáp. "Nhưng ông có làm gì thì cũng phải chờ mai đã, bởi vì chúng ta không được gây chú ý cho tới khi nào giải quyết xong vụ Pinkerton. Ngày nào chứ ngày hôm nay thì chúng ta không thể đánh động bọn cảnh sát được."

"Người anh em nói đúng," McGinty nói. "Và bọn ta sẽ moi từ chính miệng Birdy Edwards là ai đã cung cấp tin tức cho hắn, trước khi cắt cổ thằng thám tử này. Thế hắn có nghi ngờ cạm bẫy gì không?"

McMurdo cười to.

"Tôi nghĩ là tôi đã chọc đúng nhược điểm của hắn," anh nói. "Nếu như hắn có thể bám theo dấu vết chính xác của băng Scowrer thì hắn sẵn sàng theo xuống tận hỏa ngục. Tôi đã nhận tiền của hắn," McMurdo cười nhăn nhở khi anh chìa ra một bó giấy bạc, "và sẽ nhận nhiều hơn nữa khi hắn đã xem hết các giấy tờ của tôi."

"Giấy tờ gì?"

"À, làm gì có giấy tờ nào. Nhưng tôi sẽ nhồi cho hắn các tài liệu về thể chế và luật lệ và thủ tục kết nạp thành viên. Hắn muốn trước khi ra đi thì phải tìm hiểu mọi chuyện đến tận cùng."

"Được, hắn đã đến tận cùng rồi đó," McGinty quả quyết nói. "Thế hắn có hỏi tại sao anh không mang giấy tờ đến cho hắn không?"

"Tôi mà mang theo được những thứ ấy sao, tôi là kẻ bị tình nghi mà, và ngay hôm nay ở nhà ga tên đại úy Marvin lại tính kiếm chuyện với tôi."

"À, tôi có biết việc đó," McGinty nói. "Tôi nghĩ vụ này rồi sẽ khiến anh khó khăn đó. Bọn tôi có thể bỏ xác tên này xuống một ống thông hơi hầm mỏ nào đó khi xử hắn xong, nhưng cho dù có làm gì thì cũng không giấu được chuyện hắn ta đang sống ở Hobson's Patch và hôm nay anh đã đi tới đó."

McMurdo nhún vai.

"Nếu chúng ta xử lí thích đáng thì không ai có thể chứng minh được chuyện giết người," anh nói. "Không ai được nhìn thấy hắn tới nhà tôi vào buổi tối, và tôi sẽ lo liệu cho không ai nhìn thấy hắn đi ra. Hãy nghe tôi, ông Hội đồng, tôi sẽ trình bày kế hoạch của tôi với ông và yêu cầu ông thu xếp cho mọi người làm theo. Mọi người phải đến sớm. Hắn ta sẽ có mặt lúc 10 giờ. Hắn sẽ gõ cửa ba tiếng và tôi sẽ ra mở cửa. Sau đó tôi sẽ đóng cửa lại. Và hắn thuộc về chúng ta."

"Thật dễ dàng và đơn giản."

"Vâng, nhưng bước kế tiếp cần phải cân nhắc. Hắn là kẻ khó xơi đấy. Hắn có súng ống đầy đủ. Tôi đã lừa được hắn rồi nhưng có khả năng là hắn sẽ đề phòng. Thử nghĩ xem hắn sẽ phản ứng thế nào nếu tôi đưa hắn vào một căn phòng có bảy người ngồi chực sẵn trong khi hắn cứ tưởng chỉ gặp mình tôi. Chắc chắn sẽ có súng nổ và sẽ có người ăn đạn."

"Đúng thế thật."

"Và tiếng nổ sẽ kéo hết cả đám cớm khốn kiếp trong thị trấn ào tới ngay."

"Anh có lí."

"Tôi tính như thế này. Tất cả sẽ ở trong phòng lớn, cái phòng mà ông đã gặp tôi trò chuyện lần trước ấy. Tôi sẽ mở cửa chính cho hắn, đưa vào phòng khách nhỏ cạnh bên và để hắn ngồi đó chờ tôi đi lấy giấy tờ. Như thế tôi sẽ có cơ hội thông báo tình hình với ông. Sau đó tôi sẽ quay lại chỗ hắn với mớ giấy tờ giả. Trong khi hắn đọc, tôi sẽ nhào vào hắn giữ chặt tay súng. Mọi người sẽ nghe tôi hô hoán và xông ra. Càng nhanh càng tốt bởi vì hắn cũng khỏe ngang tôi, và có thể tôi sẽ khó khống chế được hắn. Nhưng tôi nghĩ tôi có thể ôm chặt hắn cho tới lúc mọi người chạy tới."

"Kế hoạch hay đấy," McGinty nói. "Chi hội phải mang ơn anh rất nhiều. Tôi nghĩ khi tôi rời khỏi cái ghế hội chủ thì tôi biết phải tiến cử ai thay thế rồi."

"Ồ, ông Hội đồng, tôi được kết nạp chưa bao lâu mà," McMurdo nói nhưng vẻ mặt anh cho biết anh nghĩ gì về lời khen ngợi của Hội chủ.

Khi về tới nhà, anh bắt tay vào chuẩn bị cho buổi tối ác liệt sắp đến. Trước tiên anh lau chùi, tra dầu, và nạp đạn cho khẩu súng lục Smith & Wesson. Kế đó, anh xem xét căn phòng sẽ giăng bẫy tay thám tử kia. Đó là một gian phòng lớn, chính giữa có một chiếc bàn gỗ dài và một bên là lò sưởi lớn. Ở hai phía còn lại là nhiều cửa sổ không hề lắp cửa chớp mà chỉ có rèm mỏng che phủ. McMurdo chuyên chú kiểm tra các cửa sổ này. Chắc chắn anh cũng nhận thấy căn phòng này rất lộ liễu cho một cuộc họp bí mật. Tuy nhiên, điều đó không quan trọng lắm vì căn nhà nằm cách xa đường lộ. Sau cùng, anh bàn chuyện với người cùng trọ. Tuy cùng băng Scowrer, Scanlan lại vô hại vì anh ta quá yếu ớt nên không dám chống lại ý kiến của người cùng hội, nhưng lại thầm khiếp đảm trước những việc làm đẫm máu mà có khi anh ta buộc phải dự phần. McMurdo cho anh ta biết vắn tắt kế hoạch.

"Nếu tôi là anh, Mike Scanlan, tôi sẽ đi vắng một đêm, tránh xa chuyện này. Trước khi trời sáng ở đây sẽ có đổ máu đó."

"Được, cứ như vậy đi, Mac," Scanlan đáp. "Tôi không thiếu ý chí mà chỉ thiếu gan dạ thôi. Lúc tôi thấy giám đốc Dunn bị bắn gục ở mỏ than ngoài kia thì tôi không chịu nổi. Tôi không phải người thích hợp như anh hay McGinty. Nếu chi hội không nghĩ gì xấu cho tôi thì tôi sẽ làm theo lời anh và để anh một mình tối nay."

Bọn chúng đến sớm như đã trù tính. Nhìn bề ngoài chúng là những công dân đáng kính, ăn mặc sang trọng tươm tất, nhưng nếu quan sát từng gương mặt thì nhìn những cái miệng mím chặt và ánh mắt tàn bạo kia, người biết suy xét sẽ thấy chẳng có tia hi vọng nào cho Birdy Edwards. Không một người nào trong phòng này mà bàn tay chưa từng đỏ máu ít nhất chục lần. Chúng đã trơ lì với chuyện giết người chẳng khác gì tên đồ tể giết cừu. Đương nhiên đứng đầu về cả nhân dạng lẫn tội lỗi chính là tay thủ lĩnh kinh khủng kia. Tên thư kí Harraway là một kẻ gầy còm, cay nghiệt, cổ dài trơ xương và tay chân luôn co giật, bồn chồn. Hắn có lòng trung thực tuyệt đối với những vấn đề tài chính của chi hội và không hề có khái niệm gì về công bằng hay lương thiện đối với bất kì ai khác. Thủ quỹ Carter là một gã trung niên, vẻ mặt vô cảm, hơi sưng sỉa, và nước da vàng ệch. Tên này giỏi tổ chức và gần như mọi cuộc bạo hành đều do bộ óc mưu mô của hắn trù tính chi tiết. Hai anh em Willaby là những tay động thủ, hai tên trẻ tuổi cao lêu nghêu có bản mặt lì lợm. Trong khi đó, tên đồng bọn Cormac Hổ Báo - một tên trẻ tuổi to con, da ngăm - lại khiến người cùng hội e sợ hơn nữa vì tính dã man của hắn. Đêm ấy bọn chúng tụ tập dưới mái nhà McMurdo để giết tay thám tử Pinkerton.

Chủ nhà đã bày whisky ra bàn và chúng nhanh chóng nốc đầy rượu để lấy tinh thần làm việc. Baldwin và Cormac đã ngà ngà say và rượu mạnh khiến chúng bộc lộ hết bản tính dã man. Cormac giơ hai tay trên lò sưởi một lát - lò đã được đốt lên vì ban đêm vào mùa này còn rét.

"Đủ nóng rồi," hắn nói kèm theo tiếng chửi thề.

"À," Baldwin hiểu ngay ý định của tên kia. "Nếu trói hắn vào đó thì ta sẽ khiến nó khai ra hết sự thật."

"Hắn sẽ phải khai hết sự thật, đừng lo," McMurdo nói. McMurdo đúng là có thần kinh thép vì cho dù toàn bộ vụ này sẽ quy tội hết cho anh, nhưng phong thái của con người này vẫn lạnh lùng, thản nhiên như không. Những tên kia đều nhận ra điều đó và khen ngợi anh.

"Anh sẽ xử lí thằng đó," vị thủ lĩnh nói với vẻ tán thành. "Không được để hắn đề phòng gì hết chừng nào tay anh chưa siết được cổ hắn. Thật tiếc là mấy cửa sổ ở đây không có gắn cửa chớp."

McMurdo đi tới từng cửa sổ khép chặt các tấm rèm lại.

"Chắc chắn là bây giờ không ai có thể theo dõi chúng ta được."

"Biết đâu nó sẽ không tới. Biết đâu nó đánh hơi được nguy hiểm," tên thư kí nói.

"Hắn sẽ đến, đừng lo," McMurdo đáp. "Chúng ta nôn nóng muốn gặp hắn như thế nào thì hắn cũng nôn nóng muốn tới đây như thế. Nghe kìa!"

Cả bọn ngồi im như tượng sáp, mấy người tay còn cầm li rượu chưa kịp đưa lên môi. Từ cửa chính vang tới ba tiếng gõ lớn.

"Suỵt!" McMurdo giơ tay ra hiệu thận trọng. Một cái nhìn mừng rỡ hiện trên mặt cả bọn và những bàn tay hờm sẵn trên vũ khí.

"Đừng gây tiếng động, liệu hồn!" McMurdo nói khẽ khi anh rời phòng, cẩn thận đóng cửa lại sau lưng.

Đám sát nhân chờ đợi, căng tai nghe ngóng. Chúng đếm từng bước chân McMurdo đi ra hành lang. Rồi chúng nghe tiếng anh mở cửa ngoài. Có mấy tiếng chào hỏi. Rồi chúng nhận ra tiếng bước chân lạ đi vào trong và một giọng không quen. Liền sau đó có tiếng cửa đóng sập lại và chìa khóa xoay trong ổ. Con mồi của chúng đã an toàn vào bẫy. Cormac Hổ Báo cười nghe ghê tai, và thủ lĩnh McGinty đưa tay bụm miệng hắn lại.

"Im nào, đồ ngu!" Ông ta thì thào. "Mày làm hỏng việc hết bây giờ!"

Ở phòng bên có tiếng trò chuyện khe khẽ. Câu chuyện dường như bất tận. Rồi cửa phòng mở ra và McMurdo xuất hiện, ngón tay đặt trên môi. Anh đi đến đầu bàn và nhìn cả bọn. Anh thể hiện một sự thay đổi khó hiểu. Anh bây giờ mang phong thái của người có trọng trách phải thi hành. Gương mặt cương quyết sắt đá. Ánh mắt sau đôi mắt kính bừng bừng một niềm phấn khích mãnh liệt. Anh hiển nhiên đã trở thành thủ lĩnh của cả bọn. Chúng chăm chú nhìn anh, nhưng anh không nói gì, vẫn với ánh mắt kì lạ ấy, anh nhìn từ người này sang người khác.

"Sao?" Cuối cùng thủ lĩnh McGinty kêu lên. "Nó tới chưa? Thằng Birdy Edwards tới chưa?"

"Rồi," McMurdo chậm rãi đáp. "Birdy Edwards ở đây. Tôi là Birdy Edwards!"

Sau lời nói ngắn gọn đó là mười giây im lặng như tờ, tưởng chừng như gian phòng này trống rỗng. Tiếng ấm nước sôi trên lò réo lanh lảnh trong tai. Bảy gương mặt tái nhợt kia hướng về người đang chế ngự chúng, tất cả đều bất động trong nỗi hãi hùng tột độ. Rồi với tiếng kính vỡ vụn bất ngờ, một hàng tua tủa những nòng súng trường sáng loáng chọc qua các cửa sổ, giật tung những tấm rèm khỏi móc treo.

Trước cảnh tượng đó, thủ lĩnh McGinty hét lên một tiếng như con gấu bị thương rồi lao tới cánh cửa khép hờ. McGinty được đón tiếp bằng một họng súng lục chĩa thẳng vào mặt, phía sau nó là đôi mắt xanh nghiêm nghị của đại úy Marvin, cảnh sát vùng mỏ. Tên thủ lĩnh lùi lại và ngồi phịch xuống chỗ cũ.

"Ông ở đây thì an toàn hơn, ông Hội đồng," tiếng nói của người mà chúng từng biết dưới cái tên McMurdo vang lên. "Còn anh, Baldwin, nếu anh không buông súng thì đừng hòng thoát chết. Buông tay xuống, còn không thì thề có Chúa... Được, vậy được rồi. Có bốn mươi tay súng đang bao vây căn nhà này, và các người có thể tự nghĩ xem mình còn cơ hội nào không. Tước súng của chúng đi, Marvin!"

Dưới sự đe dọa của những họng súng trường kia thì lũ cường đạo không thể nào kháng cự. Cả bọn bị tước vũ khí. Cáu kỉnh, lúng túng và ngỡ ngàng, chúng vẫn ngồi quanh chiếc bàn.

"Tôi muốn nói với các người đôi lời trước khi chia tay," người đã giăng bẫy chúng lên tiếng. "Tôi nghĩ chúng ta sẽ không gặp lại nhau cho tới ngày tôi ra làm chứng tại tòa. Tôi sẽ cho các người đôi điều suy ngẫm từ giờ đến đó. Bây giờ các người đã biết tôi là ai. Cuối cùng tôi cũng có thể lật ngửa bài. Tôi là Birdy Edwards của Pinkerton. Tôi đã được chọn để phá tan băng đảng của các người. Tôi phải chơi một canh bạc nguy hiểm, khó khăn. Không một ai, không một người nào, kể cả người thân yêu nhất, biết tôi đang chơi canh bạc đó. Chỉ có đại úy Marvin đây và những người tuyển dụng tôi biết mà thôi. Nhưng tối nay, canh bạc đã kết thúc, và tôi là người thắng cuộc!"

Bảy bộ mặt tê tái kia ngước nhìn anh. Trong ánh mắt chúng là một nỗi căm thù hừng hực. Anh cảm nhận được sự đe dọa khôn nguôi.

"Có thể các người cho rằng canh bạc này chưa chấm dứt. À, tôi chấp nhận khả năng đó. Dẫu sao thì một số người ở đây sẽ không có thêm cơ hội nào nữa, ngoài các người ra còn sáu mươi kẻ khác sẽ vào tù tối nay. Nói thật, khi được giao công việc này tôi không hề tin là có một tổ chức nào như hội đoàn của các người. Tôi nghĩ đó chỉ là chuyện bịa trên báo chí và tôi sẽ chứng minh như thế. Người ta bảo tôi tổ chức này có liên quan đến hội Huynh đệ Tự do cho nên tôi tới Chicago và được kết nạp. Lúc đó tôi càng tin chắc hơn bao giờ hết rằng đó chỉ là chuyện bịa bởi vì tôi thấy tổ chức này chẳng có hại gì, mà lại còn rất tốt nữa.

Dù vậy, tôi vẫn phải tiến hành công việc và tôi đến khu thung lũng mỏ than này. Khi đến đây tôi mới biết mình lầm và chuyện này quả thật không phải tiểu thuyết ba xu. Thế là tôi ở lại để tìm hiểu. Tôi chưa hề giết người ở Chicago. Trong đời tôi chưa hề đúc tiền giả. Những đồng tiền tôi đưa cho các người toàn là tiền thật cả nhưng chưa bao giờ tôi chi tiền một cách có ích như thế. Tôi biết cách tạo thiện cảm với các người cho nên tôi giả vờ như đang bị luật pháp truy nã. Mọi việc diễn tiến đúng như tôi nghĩ.

Thế là tôi gia nhập cái chi hội ghê gớm của các người, và tham gia các cuộc họp. Có thể dân chúng sẽ nói tôi cũng tồi tệ như các người. Họ muốn nói gì thì nói, miễn là tôi bắt được cả băng. Nhưng sự thật là gì? Vào cái đêm tôi gia nhập, các người hành hung ông già Stanger. Tôi không thể báo trước cho ông ta vì không có thời gian, nhưng tôi đã chặn tay anh lại đấy, Baldwin, khi anh định giết ông già. Nếu như tôi có xướng ra chuyện gì thì cũng là để củng cố vị trí của tôi trong hội đoàn các người, đó là những chuyện mà tôi biết mình có thể ngăn chặn. Tôi không cứu được Dunn và Menzies vì tôi không biết đủ thông tin, nhưng tôi đã đưa những kẻ giết hai người đó bị lên giá treo cổ. Tôi đã báo trước cho Chester Wilcox nên khi tôi cho nổ tung căn nhà thì ông ta và người nhà đã trốn cả rồi. Nhiều phi vụ tôi không thể ngăn chặn nhưng nếu các người nhớ lại và suy nghĩ thì sẽ thấy rất thường xuyên mục tiêu của các người trở về nhà bằng con đường khác, hoặc đang ở dưới thị trấn khi các người tới nhà tìm giết, hoặc ở lì trong nhà khi các người tưởng nạn nhân sẽ đi ra ngoài; đó là do tôi sắp đặt hết."

"Đồ phản bội khốn khiếp!" McGinty rít lên qua hàm răng nghiến chặt.

"À, John McGinty, ông muốn gọi tôi như thế cho đỡ tức cũng được. Ông và lũ như ông là kẻ thù của Chúa và dân chúng vùng này. Cần phải có người chen giữa ông và những con người tội nghiệp bị ông khống chế.

Chỉ có một cách duy nhất để làm điều đó, và tôi đã làm. Ông bảo tôi phản bội nhưng sẽ có hàng ngàn người xem tôi là kẻ xuống tận hỏa ngục để giải thoát cho họ. Tôi đã có ba tháng trong hỏa ngục. Cho dù người ta có cho tôi ngụp lặn trong kho bạc ở Washington tôi cũng không hề muốn sống lại ba tháng vừa qua. Nhưng tôi phải trụ lại cho tới khi nắm hết tất cả, từng người, từng bí mật, trong tay. Lẽ ra tôi còn nán lại thêm nếu như tôi không biết bí mật của mình đã bị lộ. Chỉ cần một lá thư gửi tới thị trấn này cũng đủ tiết lộ cho các người biết hết. Thế là tôi phải hành động và hành động thật nhanh.

Tôi không còn gì để nói nữa, chỉ trừ một điều là khi nào tới lúc nhắm mắt xuôi tay thì tôi sẽ chết thanh thản hơn khi nghĩ tới công việc tôi đã làm ở thung lũng này. Này Marvin, tôi không làm anh mất thời giờ nữa. Đưa bọn chúng đi và kết thúc vụ này."

Cũng cần kể thêm đôi chút. Scanlan đã được giao một phong thư dán kín với lời dặn phải mang đến địa chỉ của cô Ettie Shafter, một nhiệm vụ mà anh ta nhận với một cái nháy mắt và nụ cười thông hiểu.

Lúc mờ sáng, một phụ nữ xinh đẹp và một người đàn ông khăn áo quấn kín lên một chuyến tàu đặc biệt do công ty hỏa xa điều tới và chạy hết tốc lực ra khỏi miền đất nguy hiểm đó. Đó là lần cuối cùng cả Ettie lẫn người cô yêu còn đặt chân trên Thung lũng Kinh hoàng. Mười ngày sau họ thành hôn ở Chicago, với ông già Jacob Shafter là người làm chứng cho đám cưới.

Vụ xử băng Scowrer được tổ chức cách xa nơi những kẻ trung thành với chúng có thể khủng bố những người bảo vệ luật pháp. Chúng đã vùng vẫy vô ích. Tiền bạc của chi hội - vốn là của chiếm đoạt bằng cách tống tiền toàn bộ vùng quê này - có chi tiêu như nước để cứu chúng cũng vô ích. Mọi mưu chước của đám luật sư biện hộ đều không lay chuyển được những tuyên bố bình thản, mạch lạc, lạnh lùng của một người đã biết tường tận cuộc đời của chúng, tổ chức của chúng, và tội ác của chúng. Rốt cuộc sau bao nhiêu năm, chúng đã bị đánh tan tác. Mây mù vĩnh viễn tan biến khỏi thung lũng.

McGinty kết thúc số phận trên giá treo cổ, khúm núm khóc lóc khi tới giờ phút cuối cùng. Tám tên thủ hạ cao cấp của hắn cũng cùng chung số phận. Hơn năm mươi tên khác lĩnh đủ loại mức án tù. Công việc của Birdy Edwards đã hoàn tất.

Thế nhưng, đúng như anh đoán, canh bạc chưa kết thúc. Còn phải chơi thêm ván bài nữa, rồi ván nữa chưa thôi. Chính tên Ted Baldwin đã thoát được giá treo cổ, hai anh em Willaby cũng thế, và nhiều tên khác trong số hung ác nhất băng đảng này cũng thoát. Suốt mười năm, chúng biệt tích khỏi thế giới, rồi tới một ngày khi bọn chúng được tự do trở lại - ngày mà Edwards, người biết quá rõ những tên trong hội, chắc chắn rằng cuộc sống bình an của mình đã kết thúc. Chúng đã cùng thề nguyện với những gì chúng cho là thiêng liêng nhất rằng sẽ lấy máu anh để trả thù cho đồng bọn. Và chúng quyết giữ lời thế ấy không sai!

Edwards đã bị săn lùng từ Chicago, sau hai lần bọn chúng suýt thành công thì anh tin mình sẽ không thoát khỏi lần thứ ba. Từ Chicago, anh đổi họ tên chuyển tới California và ở đó cuộc sống hạnh phúc của anh có lúc lụi tàn khi Ettie Edwards qua đời. Một lần nữa anh suýt chết, và một lần nữa dưới cái tên Douglas anh lại làm việc trong một hẻm núi quạnh hiu, nơi anh đã tích góp được một gia sản cùng với người bạn hùn hạp Barker. Cuối cùng anh lại được báo trước là bọn chó săn kia lại truy lùng lần nữa, và anh chỉ trốn thoát - vừa kịp lúc - sang Anh quốc. Và từ đó John Douglas xuất hiện, tục huyền với một người bạn đời xứng đáng, và sống suốt năm năm ở Sussex như một quý tộc vùng quê, nhưng quãng đời ấy đã kết thúc bằng những biến cố kì lạ mà chúng ta đã biết.

Lời bạt

Tòa vi cảnh đã xét xử xong, vụ án John Douglas được chuyển lên tòa án cấp cao hơn. Ở tòa địa phương, Douglas được tha bổng vì lí do tự vệ.

Holmes viết thư cho vợ ông ta: "Hãy đưa ông ấy rời khỏi Anh quốc bằng mọi giá. Ở đây có những thế lực có thể còn nguy hiểm hơn những kẻ ông ấy vừa thoát khỏi. Chồng bà không hề được an toàn ở Anh quốc ."

Hai tháng đã trôi qua, và chúng tôi gần như đã không còn quan tâm đến vụ này nữa. Rồi một buổi sáng có một lá thư bí ẩn tuồn vào hộp thư. Bức thư kì lạ này viết: "Khổ rồi, ông Holmes. Khổ rồi!" Không hề có địa chỉ hay chữ kí. Tôi bật cười trước lời nhắn quái gở ấy nhưng Holmes lại tỏ ra nghiêm trọng khác thường.

"Ác độc, Watson!" Anh thốt lên rồi ngồi rất lâu với vầng trán cau có.

Đến khuya hôm qua, bà Hudson chủ nhà lên báo tin có một quý ông muốn gặp ông Holmes, nói có chuyện cực kì quan trọng. Theo bén gót bà chủ nhà là Cecil Barker, ông bạn ở điền trang Birlstone có hào nước bao quanh. Gương mặt ông ta hốc hác bơ phờ.

"Tôi vừa hay tin dữ... tin kinh khủng, ông Holmes," ông ta nói.

"Tôi cũng lo như thế," Holmes nói.

"Ông chưa nhận được điện tín sao?"

"Người nhận được điện tín đã gửi thư cho tôi."

"Tội nghiệp Douglas. Họ bảo tôi anh ấy tên là Edwards nhưng với tôi anh ấy luôn là Jack Douglas ở Benito Canyon. Tôi đã cho ông hay là vợ chồng họ cùng đi Nam Phi trên con tàu Palmyra cách đây ba tuần."

"Chính xác."

"Tối qua tàu đã đến Cape Town. Sáng nay tôi nhận được điện tín của bà Douglas báo là: Jack đã rơi qua mạn tàu trong cơn bão ngoài khơi đảo St. Helena. Không ai biết tai nạn xảy ra như thế nào - Ivy Douglas."

"A! Chuyện là thế à?" Holmes trầm ngâm nói. "Chà, tôi chắc chắn đó là một vụ dàn cảnh rất khéo."

"Ý ông là chẳng hề có tai nạn nào cả?"

"Không hề có."

"Anh ấy bị sát hại?"

"Chính xác!"

"Tôi cũng nghĩ thế. Bọn Scowrer kinh khủng ấy, cái đám cường đạo bám dai như đỉa đáng nguyền rủa ấy..."

"Không, không phải đâu, thưa ông," Holmes nói. "Có bàn tay bậc thầy ở đây. Không phải là mấy khẩu súng săn cưa nòng hay súng lục vụng về nữa. Chỉ cần nhìn nét cọ là ta có thể nhận ra một bậc thầy cổ điển. Tôi nhìn là biết ngay đây là chuyện của Moriarty. Tội ác này do London gây ra chứ không phải từ Mỹ."

"Nhưng động cơ gì chứ?"

"Vì chuyện này được thực hiện bởi một kẻ không chấp nhận thất bại, một kẻ mà toàn bộ vai trò độc đáo của hắn tùy thuộc vào sự thành công của mọi việc hắn làm. Một bộ óc lớn và một tổ chức khổng lồ đã tập trung vào việc tiêu diệt một người. Giống như dùng búa máy mà đập hạt dẻ vậy, một sự phí phạm năng lượng đến nực cười, nhưng dù sao thì hạt dẻ cũng bị nghiền nát rất hiệu quả."

"Nhưng kẻ đó làm sao lại dính dáng đến chuyện này chứ?"

"Tôi chỉ có thể nói rằng những tin tức đầu tiên có liên quan mà chúng tôi biết được là từ một trong những tay lâu la của hắn. Người Mỹ đúng là khôn ngoan. Khi có việc phải làm ở Anh quốc thì như nhiều tên tội phạm ngoại quốc vẫn làm, chúng sẽ liên kết với tay đầu sỏ này. Kể từ lúc đó coi như nạn nhân của chúng đã tới số. Đầu tiên hắn sẽ bằng lòng sử dụng guồng máy của mình để tìm cho ra nạn nhân của chúng. Sau đó hắn sẽ chỉ dẫn cách xử lí vấn đề như thế nào. Cuối cùng, khi hắn đọc được những phóng sự về thất bại của bọn tay sai thì đích thân hắn sẽ ra tay với thủ pháp bậc thầy. Lúc ở điền trang Birlstone, ông đã nghe tôi cảnh báo với người này là nguy hiểm sắp tới còn ghê gớm hơn những gì đã qua. Tôi nói có đúng không?"

Barker tự đấm vào đầu mình trong cơn thịnh nộ bất lực. "Ông bảo tôi rằng chúng ta đành chịu thua sao? Ông bảo tôi rằng không ai có thể sánh được với tên chúa tể ác ôn này sao?"

"Không, tôi không nói thế," Holmes đáp, ánh mắt anh dường như đang nhìn thấy tương lai. "Tôi không nói là không thể thắng hắn. Nhưng ông phải cho tôi thời gian... ông phải cho tôi thời gian!"

Tất cả chúng tôi ngồi im lặng hồi lâu trong khi đôi mắt tiên tri kia vẫn cố xuyên thấu viễn cảnh mờ mịt ấy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro