CON TÀU GLORIA SCOTT(The Gloria Scott, 1893)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Vào một đêm đông, khi chúng tôi đang ngồi hai bên lò sưởi thì anh bạn Sherlock Holmes nói, "Tôi có một ít giấy tờ mà tôi thật sự nghĩ rằng đáng để anh xem qua, Watson ạ. Đó là những tài liệu về vụ án lạ lùng liên quan đến con tàu Gloria Scott, và đây là lá thư đã khiến cho thẩm phán Peace Trevor phải chết vì kinh hoàng khi đọc nó."

Anh lấy từ ngăn kéo ra một cuộn giấy đã ngả màu, tháo dây buộc rồi trao cho tôi một lá thư ngắn viết nguệch ngoạc trên nửa tờ giấy màu xám:

Kết quả là cuộc săn tới rồi. Quản rừng Hudson báo cáo đã sẵn sàng khai hỏa, bắn hết gà lôi. Mau đừng để thoát con nào đi mất.

Khi ngước lên sau khi đọc xong lá thư bí ẩn này, tôi thấy Holmes đang cười thầm về biểu hiện trên mặt tôi.

"Trông anh có vẻ hơi bối rối", anh nói

"Tôi không thể nào hiểu được làm sao một bức thư như thế này lại có thể khiến cho ai đó phải kinh hoàng. Đối với tôi thì nó có phần lố bịch."

"Đúng thế. Nhưng sự thực là vì nó mà người đọc, một người đàn ông đứng tuổi khỏe mạnh, tráng kiện đã bị hạ gục ngay tại chỗ như thể bị giáng cho một báng súng."

"Anh làm tôi tò mò đấy", tôi nói. "Nhưng sao vừa lúc nãy anh lại bảo là tôi nên xem xét vụ án này vì những lí do vô cùng đặc biệt?"

"Bởi vì đó là vụ đầu tiên mà tôi tham gia."

Trước đây tôi vẫn thường cố gắng gợi cho bạn mình nói ra bước ngoặt đầu tiên khiến anh chuyển sang công việc nghiên cứu tội phạm nhưng chẳng bao giờ thấy anh trong tâm trạng cởi mở. Lúc này anh ngồi trên ghế bành, người hơi chúi ra trước và trải các tài liệu kia lên đùi. Rồi anh châm tẩu thuốc và yên lặng một hồi, vừa hút thuốc vừa lật những trang giấy.

"Hẳn là anh chưa bao giờ nghe tôi kể về Victor Trevor?" Anh nói. "Anh ấy là người bạn duy nhất của tôi trong suốt hai năm đầu đại học. Tôi không phải là người hay giao du kết bạn, Watson ạ, chỉ thích ru rú trong nhà và phát triển các phương pháp tư duy nho nhỏ của mình, vì vậy mà tôi ít giao thiệp với các bạn đồng khóa. Ngoài đấu kiếm và quyền Anh tôi cũng ít các sở thích thể thao, rồi sau tôi chọn ngành học khác hoàn toàn so với các sinh viên khác, do đó chúng tôi chẳng có điểm nào chung. Trevor là người duy nhất tôi quen và chúng tôi chỉ biết nhau sau sự cố con chó sục bun của anh ấy ngoặm cứng vào mắt cá chân tôi khi tôi trên đường đến nhà thờ. Đó là một cách kết bạn chẳng mấy thú vị nhưng hiệu quả. Vì cái gót chân bị thương mà tôi phải nằm một chỗ đến mười ngày nhưng Trevor vẫn thường xuyên đến thăm hỏi. Đầu tiên thì chỉ chuyện trò khoảng một phút, nhưng sau đó thì những cuộc viếng thăm kéo dài hơn và trước khi tôi bình phục thì chúng tôi đã trở thành hai người bạn thân. Anh ấy là một chàng trai cường tráng và sôi nổi, tràn đầy năng lượng và sức sống, trái ngược với tôi gần như mọi mặt, nhưng chúng tôi cũng có một số điểm chung, và chúng tôi thân nhau khi tôi phát hiện ra rằng cũng giống như tôi, anh ấy chẳng có người bạn nào. Cuối cùng thì anh ấy mời tôi đến thăm nhà cha anh ở Donnithorpe, vùng Norfolk và tôi đã đón nhận lòng mến khách của anh bằng cách về đó một tháng trong kì nghỉ dài.

Ông lão Trevor rõ là một người giàu có và chu đáo, một thẩm phán hòa giảiđồng thời cũng là một điền chủ. Donnithorpe là một ngôi làng nhỏ nằm ở ngay phía bắc Langmere, trong vùng Broads. Ngôi nhà ấy có tường gạch, rầm xà bằng gỗ sồi, xây rộng rãi theo kiểu cổ, có một con đường lớn lát đá vôi rất đẹp dẫn thẳng đến nhà. Ở đó có bãi săn vịt trời lí tưởng, có nơi câu cá rất tốt, một thư viện tuy nhỏ nhưng chọn lọc, theo như tôi được biết, do một người chủ cũ để lại, và một đầu bếp tạm ổn, nên ai không tận hưởng được kì nghỉ dài một tháng ở đây thì hẳn là một người khó tính. Ông cụ Trevor đã góa vợ và bạn tôi là con trai duy nhất. Tôi nghe nói là còn có một cô con gái nữa nhưng đã chết vì bệnh bạch hầu trong một lần đến Birmingham chơi. Ông Trevor là người thú vị. Ông ấy không phải người có văn hóa cao nhưng lại có sức mạnh đáng nể cả về thể chất lẫn tinh thần. Ông ấy chẳng biết mấy về sách vở nhưng đã đi đây đi đó và trải nghiệm nhiều. Và ông vẫn còn nhớ tất cả những gì mình đã học hỏi được. Về vóc dáng thì ông ấy là một người lực lưỡng, chắc nịch, tóc dày đã hoa râm, gương mặt sạm nâu dãi dầu sương gió, mắt xanh hơi dữ tợn. Tuy nhiên, ông lại nổi tiếng khắp vùng về lòng tốt, sự nhân hậu và được ghi nhận là một thẩm phán với những bản án khoan dung.

Một tối nọ, khi tôi về đó chưa lâu, chúng tôi đang ngồi uống rượu vang đỏ sau bữa tối thì anh Trevor bắt đầu nói về những thói quen quan sát và suy luận mà tôi đã lập thành một hệ thống, dù rằng lúc đó tôi chưa đánh giá được vai trò của chúng trong cuộc đời mình. Rõ ràng là ông bố nghĩ rằng con mình đã phóng đại lên khi mô tả một vài thành tích nho nhỏ mà tôi đã thực hiện.

'Này, Holmes', ông vừa cười vui vẻ vừa nói. 'Nếu như cháu có thể suy đoán được điều gì từ ta, thì ta cũng là một đối tượng thú vị đấy.'

'Cháu sợ không được nhiều cho lắm,' tôi đáp, 'chỉ có thể đoán rằng trong vòng mười hai tháng trở lại đây bác đang lo lắng về một vụ tấn công mang tính cá nhân.'

Nụ cười tan dần trên môi ông lão và ông hết sức ngạc nhiên nhìn tôi chăm chú.

'Ồ, thế mà lại đúng', quay sang phía con trai mình, ông nói. 'Con biết không, Victor, khi cha cùng các đồng nghiệp giải tán đám săn trộm, chúng thề là sẽ cho bọn ta biết mùi lưỡi dao của chúng và đúng là ngài Edward Holby đã bị tấn công. Từ lúc đó, cha lúc nào cũng chú tâm đề phòng, nhưng cha không hiểu sao các con lại biết chuyện này!'

'Bác có một cây gậy rất đẹp', tôi trả lời. 'Căn cứ theo hàng chữ khắc trên gậy mà cháu nhìn thấy thì bác mới có nó khoảng một năm. Nhưng bác đã dụng công khoan một lỗ ở đầu gậy và đổ chì vào đó để biến nó thành một thứ vũ khí đáng sợ. Cháu suy ra rằng nếu không vì lo ngại một mối nguy hiểm nào đó thì bác đã chẳng phải đề phòng đến thế.'

'Còn gì nữa không?' Ông mỉm cười hỏi tiếp.

'Khi còn trẻ bác đã tập quyền Anh khá thường xuyên.'

'Lại nói đúng nữa. Làm sao mà cháu biết nhỉ? Có phải vì mũi của ta bị đấm hơi vẹo chăng?'

'Không,' tôi đáp. 'Đó là vì tai của bác. Chúng bị bẹt và dày lên rất khác thường, đó là những dấu hiệu của một võ sĩ quyền Anh.'

'Còn gì nữa?'

'Bác đã đào xới đất rất nhiều, dựa vào những vết chai.'

'Tất cả tiền bạc của ta đều từ các mỏ vàng.'

'Bác từng sống ở New Zealand.'

'Cũng đúng.'

'Đã đi Nhật Bản.'

'Hoàn toàn đúng.'

'Và bác từng có quan hệ rất thân thiết với một người có tên viết tắt là J. A và sau đó bác lại muốn quên hẳn người đó đi.'

Ông lão Trevor từ từ đứng dậy và dán chặt đôi mắt to xanh vào mặt tôi với một cái nhìn trừng trừng man dại, rồi đổ nhào ra trước, mặt gục vào đám vỏ hạt rải rác trên tấm khăn trải bàn, và ngất xỉu. Anh có thể hình dung, Watson ạ, là cả con trai ông ta và tôi hoảng sợ đến mức nào. Tuy nhiên, cơn choáng của ông ấy không kéo dài vì khi chúng tôi mở cổ áo cho ông và lấy nước từ chậu rửa tay vẩy lên mặt, ông thở hắt một hai hơi rồi ngồi lên.

'À, các cậu trai', ông nói và cố nặn một nụ cười, 'ta hi vọng rằng đã không làm các con sợ. Dù trông khỏe mạnh thế này, nhưng ta có một khiếm khuyết ở tim và nó dễ dàng hạ gục ta. Holmes này, ta không biết bằng cách nào mà cháu biết được những điều đó, nhưng dường như với ta thì tất cả các thám tử cả ngoài đời lẫn trong truyện đều chỉ là trẻ ranh khi đem so với cháu. Đó là công việc của đời cháu đấy, chàng trai, và cháu có thể tin lời một người đã có chút từng trải.'

Và lời khuyên ấy, cùng lời khen mào đầu có phần phóng đại năng lực của tôi, Watson ạ, không biết anh có tin không, chính là cơ sở đầu tiên khiến tôi cảm thấy có thể lập nghiệp từ những gì mà cho đến lúc đó chỉ đơn thuần là thú vui. Tuy nhiên, vào thời điểm ấy, tôi quá lo lắng đến bệnh tình đột ngột của chủ nhà nên không còn đầu óc nào nghĩ đến những chuyện khác.

'Cháu hi vọng là đã không nói điều gì khiến bác đau lòng?' Tôi nói. 'Tất nhiên là cháu đã chạm đến một điều khá là tế nhị.'

'Ta có thể hỏi làm thế nào mà cháu biết được chuyện đó không? Và cháu biết đến mức độ nào?' Lúc này thì ông đã nói với vẻ đùa cợt nhưng trong đáy mắt hãy còn phảng phất nét kinh hoàng.

'Chuyện đó vốn dĩ đơn giản', tôi trả lời. 'Khi bác xắn tay áo lên để kéo con cá vào thuyền cháu nhìn thấy hai chữ J.A được xăm ở mặt trong khuỷu tay. Những chữ này vẫn còn đọc được nhưng vì trông chúng đã mờ đi và phần da xung quanh bợt màu, nên có thể thấy rất rõ là bác đã cố gắng xóa chúng. Vậy có thể hiểu đã có lúc những chữ cái viết tắt ấy rất thân thuộc với bác và rồi sau đó bác lại muốn quên chúng đi.'

'Đôi mắt cháu mới tinh tường làm sao!' Ông reo lên với vẻ nhẹ nhõm. 'Đúng như những gì cháu nói. Nhưng thôi, ta đừng nhắc đến chuyện đó nữa. Trong tất cả các hồn ma thì bóng ma của những người tình xưa là đáng sợ nhất. Hãy đi vào phòng bi-a và làm một điếu xì gà thư giãn.'

Kể từ ngày hôm đó, mặc dù vẫn thân mật, nhưng đã có đôi chút nghi ngờ trong cách ông lão cư xử với tôi. Ngay cả con trai của ông cũng nhận xét thế này: 'Anh đã khiến ông già sốc đến nỗi', anh nói tiếp, 'ông cụ sẽ chẳng bao giờ còn dám chắc là anh biết chuyện gì hay không biết chuyện gì.'

Tôi biết chắc ông cụ không định tỏ ra như thế, nhưng nó đã hằn sâu trong tâm trí ông đến nỗi lộ ra trong từng hành động. Cuối cùng thì tôi tin rằng tôi đã gây lo lắng cho ông nên nghĩ mình cần kết thúc chuyến thăm này. Thế nhưng, vào đúng hôm trước ngày tôi đi thì xảy ra một việc mà sau này mới thấy là quan trọng. Trong lúc cả ba chúng tôi đang ngồi trên ghế trong vườn, sưởi nắng và ngắm nhìn phong cảnh vùng Broads trải dài trước mắt thì một người hầu bước vào cho biết có một người đàn ông đang ở trước cửa muốn gặp ông Trevor.

'Tên ông ta là gì?' Ông chủ nhà hỏi.

'Ông ấy không chịu nói.'

'Thế thì ông ta muốn gì?'

'Ông ấy nói rằng ông chủ biết ông ấy và ông ấy chỉ muốn nói chuyện một chút thôi.'

'Đưa ông ta vào đây.'

Chỉ một lúc sau đã thấy một người đàn ông quắt queo xuất hiện với điệu bộ khép nép và có dáng đi kéo lê chân. Gã mặc áo khoác không cài khuy có một vết nhựa đường ở tay áo, áo sơmi kẻ ô hai màu đỏ và đen, quần bằng vải thô và đi một đôi ghệt nặng nề rách nát. Mặt gã gầy gò và nâu sạm trông có vẻ xảo trá, miệng lúc nào cũng cười để lộ những chiếc răng vàng ệch lô nhô, còn hai bàn tay nhăn nheo của gã thì luôn nắm hờ, rất đặc trưng của thủy thủ. Khi gã lù rù đi qua bãi cỏ, tôi nghe như ông Trevor nấc nhẹ một tiếng trong cổ họng và bật dậy khỏi ghế để chạy vào nhà. Chỉ một thoáng sau ông đã quay trở ra và tôi ngửi thấy mùi rượu mạnh nồng nặc khi ông đi ngang qua tôi.

'Sao, anh bạn', ông cất tiếng hỏi, 'tôi có thể làm được gì cho anh đây?'

Gã thủy thủ đứng nhìn ông qua đôi mắt nheo lại và mặt vẫn hiện lên điệu cười trễ nải.

'Anh không nhận ra tôi sao?' Gã hỏi lại.

'Trời ơi, khốn khổ thân tôi, anh chính là Hudson', ông Trevor nói với giọng ngạc nhiên.

'Là Hudson đây, anh ạ,' gã thủy thủ nói tiếp. 'Ôi trời, đã hơn ba mươi năm không gặp rồi. Anh thì có nhà cửa còn tôi thì vẫn phải bốc thịt muối từ thùng tônô.'

'Đâu nào, anh sẽ thấy là tôi vẫn chưa quên những ngày xưa ấy'. Ông Trevor kêu lên và bước lại gần gã thủy thủ rồi nói nhỏ một câu gì đó, rồi ông lại cao giọng, 'Hãy đi vào nhà bếp và anh sẽ có đồ ăn và thức uống. Chắc chắn là tôi sẽ tìm cho anh một công việc.'

'Cảm ơn, ông bạn', gã đáp và đưa tay sờ mớ tóc trước trán. 'Tôi vừa mới xong hai năm làm trên một con tàu chở hàng chạy tám hải lí một giờ lúc nào cũng thiếu người, nên giờ tôi chỉ muốn nghỉ ngơi. Tôi nghĩ có lẽ mình sẽ ở với Beddoes hoặc là với anh.'

'Vậy à!' Ông Trevor kêu lên. 'Anh biết Beddoes sống ở đâu sao?'

'Chúa phù hộ cho anh, bạn bè cũ ở đâu tôi đều biết hết', gã nói cùng với một nụ cười nham hiểm rồi lù rù đi theo cô hầu xuống bếp. Ông Trevor lẩm bẩm điều gì đó với chúng tôi về việc từng làm chung trên một con tàu với người kia hồi đào vàng và sau đó, để chúng tôi lại trên bãi cỏ, ông đi vào nhà. Một giờ sau, khi chúng tôi bước vào thì thấy ông đã say bí tỉ nằm dài trên chiếc trường kỉ trong phòng ăn. Toàn bộ sự việc để lại trong tôi một ấn tượng rất xấu và ngày hôm sau tôi rời Donnithorpe đi mà chẳng thấy có lỗi gì vì tôi thấy rằng sự hiện diện của tôi chắc chắn sẽ làm cho bạn mình ngượng nghịu.

Tất cả những sự việc trên xảy ra trong tháng đầu của kì nghỉ dài. Tôi về nhà mình ở London và nghiên cứu vài thí nghiệm hóa hữu cơ trong bảy tuần. Thế nhưng, vào một ngày đã qua độ giữa thu và kì nghỉ cũng gần hết thì tôi nhận được một bức điện từ bạn tôi nài nỉ tôi quay trở lại Donnithorpe và bảo rằng anh đang rất cần đến lời khuyên và sự trợ giúp của tôi. Tất nhiên là tôi bỏ ngang tất cả và lại lên đường đi miền bắc.

Anh ấy đón tôi ở sân ga bằng một cỗ xe ngựa hai bánh và chỉ thoáng qua tôi thấy ngay anh ấy đã phải trải qua hai tháng rất cam go. Anh gầy đi và tiều tụy, điệu bộ vui vẻ sôi nổi rất đặc trưng của anh đã biến mất.

'Cha tôi đang hấp hối', lời đầu tiên anh nói khi gặp tôi.

'Không thể nào!' Tôi kêu lên. 'Có chuyện gì vậy?'

'Bị đột quỵ. Vì một cú sốc thần kinh. Cả ngày hôm nay thần chết cứ cận kề bên cha tôi. Tôi không biết là ông có còn sống để gặp ta hay không.'

Watson ạ, hẳn là anh cũng hiểu, tôi đã choáng váng vì tin tức bất ngờ ấy.

'Nguyên nhân là gì?' Tôi hỏi.

'À, đó mới là điều cần nói. Lên xe đi rồi chúng ta sẽ nói về chuyện đó trên đường đi. Anh còn nhớ gã đàn ông đã xuất hiện vào buổi chiều hôm trước khi anh đi chứ?'

'Nhớ rất rõ.'

'Anh có biết kẻ mà cha con tôi đã cho vào nhà hôm ấy là ai không?'

'Tôi không biết!'

'Đó là một con quỷ, Holmes,' anh kêu lên.

Tôi ngạc nhiên chăm chú nhìn anh.

'Phải, hắn chính là một con quỷ. Kể từ giờ phút đó chúng tôi chẳng được một giờ nào bình yên - không một chút nào. Cũng từ chiều hôm đó ông già chẳng bao giờ ngẩng cao đầu và giờ thì cuộc sống ấy đã nghiền nát cha tôi, ông lên cơn đau tim, tất cả đều là do tên Hudson đáng nguyền rủa này!'

'Hắn có quyền năng gì mà ghê gớm thế?'

'À, đó là điều mà dù có phải tốn kém bao nhiêu tôi cũng muốn biết. Làm thế nào mà ông già tử tế, nhân hậu lại có thể sa vào nanh vuốt của một tên vô lại như thế! Nhưng tôi rất mừng là anh đã đến, Holmes ạ. Tôi rất tin tưởng ở sự đánh giá và tài suy xét của anh, tôi biết rằng anh sẽ cho tôi những lời khuyên tốt nhất.'

Xe chúng tôi phóng đi trên con đường quê bằng phẳng mang sắc trắng và trước mặt chúng tôi là cả một vùng sông hồ trải dài lấp lánh trong sắc đỏ của mặt trời đang lặn. Từ khoảnh rừng nằm phía bên trái tôi có thể nhìn thấy những ống khói cao và cái cột cờ cho biết đó là nhà ở của người điền chủ.

'Cha tôi cho hắn coi sóc vườn tược', bạn tôi nói tiếp. 'Và sau, vì công việc đó chưa vừa ý hắn, ông lại nâng hắn lên làm quản gia. Ngôi nhà như được phó thác hoàn toàn cho hắn, hắn sục sạo khắp nơi và tha hồ làm những gì hắn muốn. Mấy cô hầu than phiền về thói rượu chè và cách ăn nói thô bỉ của gã. Cha tôi bèn tăng lương cho tất cả bọn họ để bù đắp cho sự khó chịu đó. Hắn còn lấy thuyền và khẩu súng tốt nhất của cha tôi để tự ban cho mình những chuyến đi săn ngắn ngày. Hắn làm tất cả những việc ấy với vẻ mặt giễu cợt, đểu cáng và xấc láo khiến tôi muốn đập cho hắn đến hai mươi trận nếu như hắn cỡ tuổi tôi. Tôi nói anh nghe, Holmes ạ, tôi đã phải tự kiềm chế và giờ thì tôi tự hỏi rằng nếu tôi tự do làm theo ý mình một chút thì có phải là khôn ngoan hơn không. Mọi chuyện cứ càng lúc càng xấu đi với chúng tôi, và tên súc vật Hudson đó ngày càng quá quắt, đến nỗi rốt cuộc, một ngày nọ, tôi đã túm lấy vai hắn và tống ra khỏi phòng khi hắn đối đáp hỗn xược với cha tôi ngay trước mặt tôi. Hắn lủi đi, mặt lộ vẻ căm giận và cặp mắt hiểm độc toát lên sự đe dọa còn hơn cả miệng lưỡi của hắn. Tôi không biết sau đó đã xảy ra chuyện gì giữa hắn và người cha tội nghiệp của tôi nhưng ngày hôm sau thì cha tôi đến gặp tôi và hỏi tôi liệu có chịu xin lỗi Hudson hay không. Hẳn là anh cũng có thể hình dung được, tôi từ chối và hỏi lại cha tôi làm sao ông có thể để cho một kẻ đê tiện như thế lộng hành với chính ông và gia đình của ông.

'À, con trai,' ông đáp, 'tất cả những chuyện này rất nên nói ra, nhưng con không hiểu tình huống của cha hiện giờ ra sao đâu. Nhưng rồi một ngày kia con sẽ biết, Victor ạ. Cha sẽ cho con biết, cho dù có thế nào. Con sẽ không nghĩ xấu về người cha tội nghiệp của con chứ, con trai?'

Trông cha tôi rất xúc động, sau đó ông nhốt mình trong thư phòng cả ngày, qua khung cửa sổ tôi có thể thấy ông luôn tay viết lách. Buổi tối hôm đó diễn ra một việc có vẻ như giải tỏa cho tôi rất nhiều, vì Hudson nói rằng hắn sắp sửa ra đi. Hắn bước vào phòng ăn khi chúng tôi đang ngồi lại sau bữa tối và bằng giọng ngà ngà say, hắn lí nhí cho chúng tôi biết ý định của hắn.

'Tôi đã ở Norfolk đủ rồi,' hắn nói. 'Tôi sẽ đi xuống Hampshire để gặp Beddoes. Anh ta cũng sẽ vui mừng được gặp lại tôi giống như anh vậy, tôi dám chắc như thế.'

'Dù có như thế nào tôi cũng mong là anh đừng bỏ đi, Hudson,' cha tôi nói với vẻ rụt rè khiến tôi giận sôi lên.

'Tôi vẫn chưa được xin lỗi,' hắn hờn dỗi nói và đưa mắt liếc về phía tôi.

'Victor, con hãy thừa nhận là đã cư xử thô lỗ với con người đáng trọng này,' cha tôi quay sang tôi nói.

'Ngược lại là đằng khác, con nghĩ rằng cả hai cha con ta đã tỏ ra vô cùng nhẫn nại đối với hắn,' tôi trả lời.

'À, kiên nhẫn, đúng không?' Hắn gầm gừ. 'Rất tốt, anh bạn. Rồi ta sẽ xem!'

Hắn lù rù bước ra khỏi phòng và nửa giờ sau thì bỏ đi, để lại cha tôi trong tâm trạng lo lắng rất tội nghiệp.

Đêm nào cũng thế, tôi cứ nghe tiếng ông đi đi lại lại trong phòng và đúng vào lúc ông vừa mới tự tin trở lại thì cuối cùng bị giáng một đòn.'

'Chuyện xảy ra thế nào?' Tôi nóng ruột hỏi.

'Theo một cách vô cùng kì lạ. Tối hôm qua cha tôi nhận được một bức thư mang dấu bưu điện Fordingham? Ông đọc nó xong thì dùng hai tay đập lên đầu, rồi bắt đầu chạy vòng vòng quanh phòng như bị mất trí. Cuối cùng khi tôi kéo ông lại đặt nằm lên trường kỉ thì miệng và hai mí mắt của ông đã bị méo xệch sang một bên và tôi nhận ra cha mình bị đột quỵ. Bác sĩ Fordham được mời đến ngay lập tức. Chúng tôi đặt cha tôi lên giường nhưng ông đã bị liệt, không còn chút dấu hiệu nào của sự tỉnh táo và tôi sợ rằng khi ta về tới nhà có lẽ ông đã không còn.'

'Anh làm tôi sợ quá, Trevor!' Tôi kêu lên. 'Vậy thì bức thư đó nói gì mà lại gây ra hậu quả khủng khiếp đến thế?'

'Chẳng có gì đặc biệt. Chính thế mới khó hiểu. Nội dung tin nhắn rất là ngớ ngẩn và chẳng có gì đáng chú ý. Ôi, lạy Chúa, đây chính là điều mà tôi lo sợ!'

Khi anh ấy nói đến đó thì xe chúng tôi đã quẹo qua chỗ rẽ của con đường và trong ánh chiều gần tàn chúng tôi thấy tất cả rèm cửa đều đã được buông xuống. Lúc xe phóng nhanh đến sát cửa, nét mặt bạn tôi co rúm lại vì đau buồn, một người mặc quần áo đen bước ra từ ngưỡng cửa.

'Cha tôi đi từ lúc nào thế bác sĩ?' Trevor hỏi.

'Gần như ngay lúc anh vừa đi.'

'Ông có tỉnh lại không?'

'Có tỉnh một lúc trước khi tắt thở.'

'Ông có nhắn gì lại cho tôi không?'

'Chỉ nói rằng giấy tờ nằm trong ngăn kéo sau của chiếc tủ Nhật Bản.'

Bạn tôi cùng với ông bác sĩ lên cầu thang để đi đến phòng người chết trong khi tôi ở lại thư phòng, lật đi lật lại toàn bộ vấn đề trong đầu và chưa bao giờ cảm thấy buồn như thế. Quá khứ của ông lão Trevor ra sao, một võ sĩ quyền Anh, một nhà du hành, một người đào vàng và vì sao mà ông lại để tên thủy thủ có vẻ mặt ác nghiệt ấy điều khiển? Và nữa, tại sao ông lại ngất xỉu khi nghe những lời ám chỉ về những chữ viết tắt đã bị xóa gần mờ trên cánh tay và chết vì khiếp sợ khi nhận được một lá thư từ Fordingham? Rồi tôi nhớ ra rằng Fordingham nằm ở Hampshire và ông Beddoes, người mà tên thủy thủ đã đến thăm và có lẽ để đe dọa, cũng được đề cập là đang sống ở Hampshire. Vậy thì, bức thư đó có thể là do Hudson gửi đi để báo cho biết hắn đã tiết lộ điều bí mật tội lỗi có vẻ như từng xảy ra, hoặc là do ông Beddoes gửi nhằm cảnh báo một đồng đạo cũ rằng một sự tiết lộ sắp sửa xảy ra. Đến giờ thì mọi chuyện có vẻ đã rõ ràng. Nhưng nếu như thế thì tại sao lá thư đó lại có nội dung vớ vẩn và quái gở như người con trai đã miêu tả? Chắc là anh ấy đã hiểu sai. Nếu vậy thì nó hẳn là một thứ mật mã tinh vi ẩn chứa nội dung gì đó dưới vẻ ngoài. Tôi phải xem lá thư đó. Nếu nó có một ý nghĩa ẩn giấu nào đó, tôi tự tin là mình có thể tìm ra. Suốt một giờ liền tôi ngồi suy nghĩ về điều ấy trong bóng tối mãi đến khi một cô người hầu mặt đầm đìa nước mắt bưng đến một ngọn đèn và Trevor cũng bước vào ngay sau cô ta, nhợt nhạt nhưng điềm tĩnh, tay nắm chặt những tờ giấy hiện đang nằm trên đùi tôi đây.

Anh ngồi xuống trước mặt tôi, kéo ngọn đèn ra phía mép bàn và trao cho tôi một lá thư ngắn viết trên tờ giấy màu xám mà anh đã đọc.

Kết quả là cuộc săn tới rồi. Quản rừng Hudson báo cáo đã sẵn sàng khai hỏa, bắn hết gà lôi. Mau đừng để thoát con nào đi mất.

Tôi dám nói rằng lần đầu đọc lá thư này trông mặt tôi cũng bối rối giống hệt anh bây giờ. Sau đó tôi đọc lại thật kĩ. Đúng như tôi đã nghĩ, lá thư này phải có một ẩn ý nào đó đằng sau sự kết hợp từ ngữ kì lạ ấy. Có thể một số cụm từ như gà lôikhai hỏa đã được ấn định sẵn ý nghĩa gì đó rồi chăng? Nhưng nếu thế thì chỉ có thể võ đoán chứ không có cách nào suy luận được ý nghĩa của thông điệp. Tuy nhiên, tôi không muốn tin vào khả năng này, vả lại từ Hudson trong đó cho thấy dường như thông điệp này có chủ đề đúng như tôi dự đoán và là do Beddoes gửi đi chứ không phải tên thủy thủ. Tôi thử đọc ngược những cụm từ gà lôi hết nhưng chẳng gợi lên điều gì. Sau đó, tôi thử áp dụng quy luật cứ bỏ cách một chữ lại lấy một chữ, nhưng kết là săn hay quả cuộc tới đều không hứa hẹn đem lại kết quả. Thế rồi, trong khoảnh khắc, lời giải của câu đố vụt hiện ra, và tôi nhận thấy rằng nếu chỉ lấy chữ đầu ở từng cụm ba chữ liền nhau thì khi ghép lại, ta được một thông điệp rất có thể đã đẩy ông lão Trevor vào bước đường cùng. Nội dung thông điệp hết sức ngắn gọn, đó là một lời cảnh báo mà bấy giờ tôi đã đọc lên cho bạn tôi nghe: Kết cuộc rồi. Hudson đã khai hết. Mau thoát đi.

Victor Trevor vùi mặt vào hai bàn tay run rẩy. 'Tôi nghĩ là đúng thế rồi', anh nói. 'Điều này còn tệ hơn cả cái chết vì đó là sự nhục nhã. Nhưng những từ quản rừnggà lôi có nghĩa gì?'

'Nó không có nghĩa gì trong thông điệp, nhưng lại mang nhiều ý nghĩa với chúng ta nếu không có phương tiện nào khác để tìm ra người gửi. Anh thấy rằng, ban đầu người này viết thông điệp ra trước Kết... cuộc... rồi... cho đến hết. Sau đó để hoàn chỉnh cái mật mã sắp sẵn này, ông ta điền thêm vào mỗi chỗ trống hai từ bất kì. Lẽ tự nhiên là ông ta sẽ dùng những từ nào xuất hiện trong đầu trước tiên và nếu trong số đó có nhiều từ liên quan đến săn bắn thì anh có thể khá chắc rằng người viết này là một người ham săn bắn. Anh có biết gì về ông Beddoes này không?'

'Ồ, anh nhắc tôi mới nhớ', anh nói, 'người cha tội nghiệp của tôi vẫn thường được ông ấy mời đến săn ở khu săn bắn của ông ta vào mùa thu.'

'Thế thì không còn nghi ngờ gì nữa, bức thư này do ông ta gửi đến', tôi nói. 'Chúng ta chỉ còn việc tìm ra bí mật mà có vẻ như tên thủy thủ Hudson đã lợi dụng để đe dọa hai người giàu có và đáng kính này.'

'Chao ôi, anh Holmes, tôi e rằng đó là một tội lỗi đáng xấu hổ!' Bạn tôi kêu lên. 'Nhưng tôi sẽ không giấu giếm điều gì với anh. Đây là lời kể do chính tay cha tôi viết ra khi ông biết rằng mối nguy từ Hudson sắp đến. Tôi tìm thấy mấy tờ giấy này trong chiếc tủ Nhật Bản theo lời cha tôi dặn bác sĩ. Anh hãy cầm lấy và đọc lên cho tôi nghe vì tôi chẳng còn đủ sức lực cũng như lòng can đảm để mà tự đọc.'

Đây chính là những tờ giấy anh ấy trao cho tôi, Watson ạ và tôi sẽ đọc chúng cho anh nghe như đã từng đọc lên cho anh ấy trong thư phòng cũ đêm đó. Như anh đã thấy, phía bên ngoài xấp giấy có ghi: Một số chi tiết về chuyến hải trình của con tàu Gloria Scott, từ khi khởi hành ở cảng Falmouth vào ngày 8 tháng 10 năm 1855, cho đến khi bị nổ tung tại 15° 20' vĩ độ Bắc, 25° 14' kinh độ Tây vào ngày 6 tháng 11.Nó được viết với hình thức một bức thư và có nội dung như sau:

Con rất thương yêu của cha, vì sự ô nhục đang đến dần và bắt đầu làm u tối những năm cuối cùng của đời cha, cha có thể viết ra với tất cả sự thật và lòng trung thực rằng điều làm cha đau đớn trong tim không phải vì sự sợ hãi luật pháp hay lo mất địa vị trong hạt, cũng không phải vì sợ sụp đổ hình ảnh trong mắt những ai đã quen biết cha mà chính là ý nghĩ rằng con sẽ phải hổ thẹn vì cha - đứa con luôn yêu thương cha và xưa nay hiếm khi có lí do để không kính trọng cha, cha hi vọng thế. Nhưng nếu tai họa lâu nay vẫn đe dọa cha giáng xuống, thì cha mong rằng con hãy đọc lá thư này, để chính cha cho con biết cha đáng phải chịu tội đến mức nào. Còn ngược lại, nếu mọi chuyện đều diễn tiến tốt lành (cầu Chúa vạn năng phù hộ!) thì nếu tình cờ mà lá thư này vẫn chưa bị hủy và lọt vào tay con thì cha xin con, vì những điều thiêng liêng, vì kí ức với người mẹ thân yêu của con và vì tình thương yêu giữa cha con ta, hãy ném nó vào lửa và đừng bao giờ bận tâm đến nó nữa.

Vậy nếu con đã đọc đến dòng này, cha biết rằng tội lỗi của mình đã bị phơi bày và cha đã bị giải đi, hoặc khả năng cao hơn là cha đã chết vì con biết là cha vốn yếu tim. Dù sao thì cố che giấu cũng không còn ích gì nữa, và từng lời cha kể đều là sự thật và cha xin thề như thế, cha mong con sẽ tha thứ.

Con thân yêu, họ của cha không phải là Trevor. Lúc còn trẻ, cha mang tên James Armitage, giờ thì con có thể hiểu được cú sốc của cha cách đây vài tuần khi người bạn học của con nói với cha những lời tựa như ám chỉ rằng cậu ấy đã nắm được bí mật của cha. Khi còn là Armitage, cha vào làm việc cho một nhà băng ở London và cũng dưới cái tên này cha đã bị buộc tội phạm pháp và bị kết án phát vãng. Đừng vội lên án cha, con ạ. Có một món nợ danh dự, cứ tạm gọi như vậy, mà cha phải trả và cha đã mượn tạm số tiền vốn không phải của cha để trả vì tin chắc rằng mình có thể hoàn lại trước khi người ta phát hiện ra là đã mất số tiền đó. Thế nhưng cha gặp phải vận rủi. Số tiền mà cha dự định sẽ thu được chẳng bao giờ đến tay cha, và một đợt kiểm toán trước thời hạn đã khiến khoản thâm hụt bị lộ. Trường hợp này có thể được xử nhẹ nhưng vì ba mươi năm trước luật pháp nghiêm khắc hơn bây giờ, nên vào ngày sinh nhật thứ hai mươi ba, cha đã bị xiềng như một trọng phạm cùng với ba mươi bảy tù nhân khác dưới hầm con tàu ba buồm Gloria Scott hướng tới nước Úc.

Đó là năm 1855 khi cuộc chiến tranh Crimea bước vào giai đoạn khốc liệt và phần lớn những con tàu chờ tù cũ đều được trưng dụng để chuyên chở ở Hắc Hải. Do đó, chính quyền buộc phải dùng đến những tàu thuyền không phù hợp và nhỏ hơn để chở tù nhân. Trước đó Gloria Scott là tàu buôn trà Trung Quốc nhưng nó là tàu mũi nặng, thân bè kiểu cũ đã bị những con tàu buồm mới bấy giờ qua mặt. Tàu có trọng tải năm trăm tấn và ngoài ba mươi tám tên tù còn có thủy thủ đoàn gồm hai mươi sáu người, mười tám lính, một thuyền trưởng, ba thuyền phó, một viên y sĩ, một cha tuyên úy và bốn cai ngục. Tổng cộng có tất cả gần một trăm sinh mạng trên con tàu khi nó căng buồm khởi hành từ Falmouth.

Những bức vách ngăn giữa các xà lim nhốt tù khá mỏng manh chứ không được làm bằng gỗ sồi dày dặn như vẫn thường thấy ở các tàu chở tù. Người tù kế bên cha, ở phía cuối tàu, là một người mà cha đã đặc biệt chú ý khi cả bọn được giải xuống cầu tàu. Đó là một gã trai trẻ với khuôn mặt sáng sủa không để râu, mũi thanh và dài, cằm khá nhọn. Đầu anh ta ngẩng cao ngạo nghễ, dáng đi kiêu hãnh và nổi bật hơn cả là chiều cao vượt trội. Cha nghĩ rằng cả bọn chẳng có ai đứng cao đến vai anh ta và cha dám chắc là chiều cao của anh ta phải gần đến sáu foot rưỡi. Thật lạ khi giữa những bộ mặt buồn thảm và mệt mỏi lại thấy một gương mặt cương quyết tràn đầy năng lượng. Đối với cha thì hình ảnh đó như là một ngọn lửa giữa cơn bão tuyết. Thế rồi cha rất vui khi biết anh ta ở trong xà lim kế bên và còn mừng hơn nữa khi vào nửa đêm, nghe thấy một tiếng thì thầm bên tai và nhận ra anh ta đã xoay xở đục được một lỗ trên tấm ván ngăn hai buồng giam.

'Chào anh bạn!' Anh ta cất tiếng. 'Anh tên gì, vì tội gì mà phải ở đây?'

Cha trả lời anh ta và cũng hỏi lại anh ta như thế.

'Tôi tên Jack Prendergast', anh ta nói, 'và thề có Chúa, anh sẽ biết đường tôn kính tên tôi trước khi xong việc với tôi đấy.'

Cha nhớ là đã nghe nói về vụ án của anh ta, một vụ đã gây chấn động ghê gớm khắp cả nước trước khi cha bị bắt ít lâu. Anh ta xuất thân từ một gia đình tử tế, nhưng lắm tài nhiều tật. Bằng những cách thức lừa đảo tinh vi, anh ta đã chiếm được số tiền khổng lồ của những thương gia hàng đầu London.

'Ha, ha! Anh còn nhớ vụ án của tôi cơ à!' Anh ta tự hào nói.

'Còn nhớ rất rõ là khác.'

'Thế thì hẳn là anh còn nhớ một chi tiết kì lạ trong vụ đó chứ?'

'Chi tiết nào?'

'Tôi đã có gần hai lăm vạn, đúng không?'

'Thấy nói là như thế.'

'Nhưng chẳng ai thu hồi được đồng nào cả, đúng không?'

'Đúng.'

'Đấy, anh nghĩ xem chúng đang ở đâu?' Anh ta hỏi cha.

'Tôi chịu', cha đáp.

'Ngay giữa ngón trỏ và ngón cái của tôi đây này', anh ta kêu lên. 'Lạy Chúa! Số đồng bảng tôi sở hữu còn hơn cả số tóc trên đầu anh. Anh bạn ạ, nếu anh có tiền lại biết cách sử dụng và rải chúng ra thì anh có thể làm được bất cứ chuyện gì. Anh nghĩ mà xem một người có thể làm bất cứ chuyện gì lại chịu mài đũng quần trong cái hầm hôi hám của chiếc quan tài đầy chuột bọ, ẩm mốc trên con tàu buôn hàng Trung Hoa này sao! Không đâu, thưa ngài, một người như thế sẽ tự lo cho hắn và cả bạn bè của hắn. Anh cứ tin là thế! Hãy cứ bám lấy hắn và anh có thể tạ ơn Chúa là hắn sẽ dẫn anh ra khỏi đây!'

Đó là kiểu nói năng của anh ta, ban đầu cha nghĩ những lời lẽ đó chẳng có ý gì nhưng một lát sau, khi đã thử thách cha và bắt cha phải thề thốt thật long trọng thì anh ta mới cho cha biết là quả thật có một âm mưu chiếm con tàu. Mười hai tù nhân đã ấp ủ mưu đồ đó từ trước khi lên tàu, Prendergast chính là chủ mưu và tiền của anh ta là động lực.

'Tôi có một cộng sự', anh ta nói, 'một gã tốt hiếm thấy, trung thành như báng gắn với nòng. Hắn lại có tiền, và anh có biết hiện giờ hắn đang ở đâu không? Chính là cha tuyên úy, là cha tuyên úy đấy nhé, chứ không phải thằng cha vơ chú váo nào! Hắn ta lên tàu, khoác áo choàng đen và giấy tờ đàng hoàng, trong hòm có đủ tiền để mua cả con tàu. Thủy thủ đoàn cũng là người của hắn, cả thân xác lẫn linh hồn. Hắn đã bỏ một khoản tiền lớn mua cả bọn kèm chiết khấu và đã trả tiền trước cả khi bọn chúng kí giao kèo. Hắn còn mua chuộc hai cai ngục và thuyền phó Mereer, và còn định mua cả thuyền trưởng nếu tay đó đáng tiền!'

'Chúng ta sẽ làm gì?' Cha hỏi.

'Anh nghĩ sao chứ?' Anh ta nói tiếp. 'Ta sẽ nhuộm đỏ áo vài tên lính còn hơn cả thợ may!'

'Nhưng bọn chúng có vũ trang', cha thắc mắc.

'Thì chúng ta sẽ có chứ, chú em. Mỗi thằng bọn mình sẽ được phát một cặp súng lục, lại có bọn thủy thủ chống lưng vậy nếu không cướp được con tàu này thì cứ tống cả bọn chúng ta vào trường nữ sinh đi cho rồi. Tối nay anh hãy nói chuyện với đứa ở ngăn bên trái xem hắn có đáng tin hay không!'

Cha cứ y lời anh ta mà làm và nhận ra người ở ngăn bên kia là một chàng trai trẻ cũng có hoàn cảnh rất giống cha, phạm tội giả mạo giấy tờ. Tên anh ta là Evans nhưng sau đổi tên khác cũng như cha vậy, và nay đã là một người giàu có và thành đạt ở miền nam nước Anh. Anh ta cũng sẵn sàng dự phần vào âm mưu này vì đó là cách duy nhất để tự cứu mình, cứ thế cho đến khi bọn cha sắp vượt qua vịnh thì chỉ còn có hai người tù không tham gia vào bí mật này. Một trong hai người đó thì nhu nhược nên bọn cha không dám tin tưởng vào anh ta, còn người kia đang bị bệnh vàng da và không giúp gì được.

Quả là ngay từ lúc đầu chẳng có điều gì ngăn trở bọn cha chiếm tàu. Thủy thủ đoàn là một đám lưu manh được tuyển lựa riêng cho công việc này. Cha tuyên úy giả mạo thì đi vào các buồng giam để khích lệ bọn cha, cầm theo một cái túi đen trông như chứa đầy Kinh Thánh và đến thăm tù nhân thường xuyên đến nỗi sang ngày thứ ba thì mỗi người bọn cha đã giấu dưới chân giường một cái giũa, một cặp súng lục, nửa pound thuốc súng và hai mươi viên đạn. Hai trong số các cai ngục là người của Prendergast và viên thuyền phó thứ nhì là trợ thủ đắc lực của anh ta. Viên thuyền trưởng, hai thuyền phó, hai cai ngục, đại úy hải quân Martin cùng mười tám lính của ông ta và viên y sĩ nữa là tất cả những người thuộc về phe kia. Tuy nhiên, để cho chắc ăn, bọn cha quyết định sẽ không lơ là đề phòng và sẽ đột ngột tấn công vào ban đêm. Vậy mà, sự việc lại xảy ra sớm hơn dự định.

Một chiều nọ, vào khoảng tuần thứ ba sau khi nhổ neo, viên y sĩ đi xuống khám bệnh cho một tù nhân bị ốm và khi đặt tay xuống dưới giường thì ông ta sờ thấy súng. Nếu cứ giữ yên lặng thì ông ta đã có thể khiến cho toàn bộ âm mưu bị bại lộ, nhưng ông ta lại nhát gan nên đã bật ra một tiếng kêu ngạc nhiên và tái xanh mặt mày khiến cho người tù hiểu ra ngay lập tức và tóm lấy ông ta. Trước khi viên y sĩ kịp báo động thì ông ta đã bị bịt miệng và trói chặt vào giường. Vì ông ta đã mở khóa cánh cửa dẫn lên boong nên bọn cha vội vã vượt ra. Hai lính gác bị bắn gục và một hạ sĩ chạy đến xem chuyện gì xảy ra cũng chịu chung số phận. Còn hai người lính nữa đang đứng ở cửa cabin hạng nhất và súng hỏa mai của họ có vẻ như không được nạp đạn vì họ chẳng hề bắn vào bọn cha, thế là họ cũng bị bắn ngã khi đang cố gắng lắp lưỡi lê vào nòng súng. Sau đó bọn cha lao vào cabin thuyền trưởng, nhưng khi vừa mới đẩy cửa phòng thì có một tiếng nổ từ bên trong và trông thấy ông ta nằm đó, óc văng lên tấm hải đồ Đại Tây Dương ghim trên bàn, trong khi cha tuyên úy hãy còn đứng bên, tay cầm một khẩu súng lục đang bốc khói. Cả hai thuyền phó đã bị thủy thủ đoàn bắt giữ và có vẻ như toàn bộ sự việc đã được giải quyết xong.

Cabin hạng nhất nằm sát bên cabin thuyền trường, bọn cha tụ tập lại đó và buông người xuống ghế trò chuyện rôm rả với nhau vì ai cũng như phát điên với cảm giác được tự do trở lại. Khắp dọc tường đều có những ngăn tủ và Wilson, cha tuyên úy giả, đập vỡ một ngăn và lấy ra một tá rượu sherry nâu. Bọn cha phạt ngang cổ chai, trút rượu vào các cốc và còn đang mải nốc cạn thì chỉ trong một khoảnh khắc bất ngờ tiếng súng hỏa mai dội vào tai mọi người và trong phòng tràn ngập khói súng đến nỗi không thể nhìn thấy gì phía bên kia bàn. Khi khói tan thì khắp phòng đều tan hoang. Wilson và tám người khác đang quằn quại nằm đè lèn nhau trên sàn nhà, máu và rượu chảy tràn lan trên mặt bàn đến giờ vẫn còn làm cho cha buồn nôn khi nhớ lại. Cảnh tượng ấy làm cho bọn cha sợ hãi đến nỗi cha nghĩ rằng cả bọn sẽ đầu hàng nếu không có Prendergast. Anh ta rống lên như một con bò đực và xông ra cửa, những người còn sống sót thì bám sát theo. Bọn cha chạy ra và trông thấy viên đại úy hải quân cùng với mười thuộc hạ đang đứng ở nóc cabin. Những cánh cửa lật ở nóc đã được mở hé ra và họ bắn vào bọn cha qua các khe này. Bọn cha xông lên trước khi họ kịp nạp đạn song họ vẫn kháng cự mãnh liệt, nhưng bên cha đông hơn và chỉ trong năm phút là trận chiến đã kết thúc. Lạy Chúa! Cảnh tượng trên tàu còn kinh khủng hơn một lò sát sinh! Prendergast như một con quỷ điên cuồng cứ nhấc từng người lính lên như thể họ chỉ là con nít và quẳng họ qua mạn tàu bất kể họ còn sống hay đã chết. Có một trung sĩ dù trọng thương nhưng vẫn cố bơi một lúc thật lâu cho đến khi có người thấy tội nghiệp mới bắn một phát vào sọ anh ta. Khi cuộc chiến đã kết thúc, bên phía địch chỉ còn lại hai cai ngục, hai thuyền phó và viên y sĩ.

Bọn cha tranh cãi rất găng về số phận của những người này. Rất nhiều người vui mừng vì đã giành lại được tự do và không muốn giết chóc. Việc hạ gục những người lính có súng hỏa mai trong tay là một chuyện, còn cứ đứng yên thản nhiên nhìn người khác bị giết lại là chuyện khác. Tám người bọn cha gồm có năm tù nhân và ba thủy thủ đều nói rằng không muốn chứng kiến điều đó. Nhưng không ai có thể lay chuyển được Prendergast và những người theo phe hắn. Muốn an toàn thì cả bọn chỉ có một cách là dọn dẹp cho sạch sẽ, hắn nói, và không để sót một cái lưỡi nào còn ngo ngoe được để làm nhân chứng. Những người không đồng tình như cha đã suýt phải chịu chung số phận với các tù nhân nhưng đến phút cuối thì hắn lại nói rằng nếu muốn thì bọn cha có thể lấy một chiếc xuồng và thoát đi. Bọn cha chớp lấy cơ hội này vì đã chán ngán những điều tàn bạo lắm rồi và việc giết chóc này còn tồi tệ hơn cả những gì đã làm trước đó. Chúng cấp cho bọn cha mỗi người một bộ quần áo thủy thủ, một thùng nước, một thùng thịt muối và một thùng bánh quy cùng một cái la bàn. Prendergast quẳng cho bọn cha một tấm hải đồ và dặn phải nói rằng mình là những thủy thủ bị chìm tàu ở 15° vĩ độ Bắc và 25° kinh độ Tây, sau đó hắn cắt dây néo và thả cho bọn cha trôi đi.

Giờ thì cha sắp kể đến phần đáng kinh ngạc nhất đây, con yêu. Trong khi nổi dậy, đám thủy thủ đã thu buồm lại, nhưng bây giờ khi bọn cha rời tàu thì họ lại căng nó lên và vì gió thổi nhẹ từ phía bắc và phía đông nên con tàu bắt đầu từ từ rời xa bọn cha. Chiếc xuồng của bọn cha cứ nhấp nhô lên xuống theo những đợt sóng êm dài, và Evans cùng cha là hai người có học hơn cả nên ngồi ở chỗ dây lèo để xác định vị trí và lên kế hoạch nên đi về phía bờ biển nào. Đó là một vấn đề đòi hỏi phải chính xác vì mũi de Verds cách bọn cha khoảng năm trăm dặm nằm về phía bắc và bờ biển châu Phi thì cách bảy trăm dặm về phía đông. Xét mọi mặt thì vì gió lại đang thổi vòng lên phía bắc nên bọn cha nghĩ rằng đi về Sierra Leone là tốt nhất và đã quay đầu về hướng đó. Lúc đó con tàu đã gần khuất dạng về phía mạn phải xuồng của bọn cha. Thình lình, khi bọn cha nhìn về phía nó thì trông thấy một đám khói đen dày đặc bốc lên từ đó và lơ lửng như một cái cây quái dị trên đường chân trời. Chỉ vài giây sau một tiếng nổ như sấm dội vào tai bọn cha và khi đám khói dần tan thì chẳng còn nhìn thấy dấu vết của con tàu Gloria Scott đâu cả. Ngay lập tức bọn cha quay xuồng lại và chèo cật lực về vị trí đó, nơi có đám khói hãy còn chưa tan trên mặt nước đánh dấu địa điểm xảy ra tấn thảm kịch.

Phải mất cả giờ bọn cha mới đến được con tàu, lúc đầu cả bọn sợ rằng mình đã đến quá trễ, không còn kịp cứu được một ai. Một chiếc xuồng vỡ, vài chiếc thùng cùng những mảnh cột buồm dập dềnh trên sóng cho biết nơi con tàu bị đắm; nhưng không có dấu vết nào của sự sống và khi bọn cha thất vọng quay trở lại thì nghe thấy một tiếng kêu cứu và nhìn thấy ở đằng xa có một mảnh thân tàu với một người đang nằm vắt ngang bên trên. Khi bọn cha kéo anh ta lên xuồng thì nhận ra đó là một thủy thủ trẻ tên là Hudson, anh ta đã bị bỏng và kiệt sức đến nỗi phải đến sáng hôm sau mới có thể kể lại được điều gì đã xảy ra với con tàu.

Có vẻ như sau khi bọn cha rời đi thì Prendergast và đồng bọn tiếp tục ra tay sát hại năm người còn lại. Hai cai ngục bị bắn và bị ném xuống biển, viên thuyền phó thứ ba cũng cùng chung số phận. Sau đó, Prendergast đi xuống hầm tàu và tự tay cắt cổ viên y sĩ bất hạnh. Chỉ còn mỗi thuyền phó thứ nhất, vốn là một người gan dạ và nhanh nhẹn, còn sống sót. Khi thấy tên tù cầm con dao đẫm máu tiến lại gần, ông ta bèn giật tung mớ dây trói mà không biết bằng cách nào đã nới lỏng được, chạy xuống boong tàu rồi phóng vào hầm tàu. Một tá tù nhân lăm lăm súng trong tay xuống tìm ông ta và trông thấy ông ta cầm một hộp diêm đang ngồi cạnh một thùng thuốc súng đã mở, vốn chỉ là một trong số hàng trăm thùng được chuyên chở trên tàu, và thề rằng sẽ cho nổ tung tất cả nếu bị tấn công. Chỉ một giây sau thì vụ nổ xảy ra, nhưng Hudson nghĩ rằng nguyên nhân là một viên đạn lạc mà một tên trong đám tù bắn ra chứ không phải hộp diêm của ông thuyền phó. Dù sao thì đó cũng là kết cục của con tàu Gloria Scott cùng đám đê tiện đang nắm quyền chỉ huy nó.

Con thân yêu, cha đã kể ngắn gọn với con câu chuyện về sự kiện kinh khủng mà cha đã dính líu vào. Đến ngày hôm sau thì bọn cha được chiếc tàu hai buồm Hotspur đang trên đường đi Úc vớt lên và thuyền trưởng con tàu này dễ dàng tin rằng bọn cha là những người sống sót từ một con tàu chở khách bị đắm. Con tàu chở hàng Gloria Scott thì được bộ Hải quân ghi chép lại là đã mất tích trên biển và từ đó đến nay chưa hề rỉ ra một lời nào về số phận thực sự của nó. Sau chuyến hải hành tuyệt vời, con tàu Hotspur cập bến và bọn cha lên bờ ở Sydney, tại đó Evans và cha thay đổi họ tên và tìm đường đến các mỏ vàng, giữa đám giang hồ tứ chiếng ở đó, bọn cha dễ dàng rũ bỏ lai lịch quá khứ của mình.

Phần còn lại của câu chuyện chắc cha không cần thuật lại. Bọn cha giàu lên, đi đó đây, trở về nước Anh trong vai những thực dân giàu có và mua sắm điền trang ở nông thôn. Hơn hai mươi năm qua, bọn cha đã trải qua một cuộc sống bình yên, hữu ích và hi vọng rằng dĩ vãng của mình đã được vùi sâu. Do đó, con hãy tưởng tượng mà xem cảm giác của cha ra sao khi tên thủy thủ tìm đến nhà ta và ngay lập tức cha đã nhận ra hắn chính là kẻ đã được cứu vớt từ con tàu đắm. Bằng cách nào đó hắn đã lần theo dấu vết bọn cha và quyết tâm lợi dụng sự sợ hãi của bọn cha. Giờ thì con đã hiểu tại sao cha phải cố gắng hòa hoãn với hắn, và trong chừng mực nào đó con sẽ thông cảm cho cha về nỗi sợ hãi đã chiếm trọn con người cha vì hắn đã bỏ cha để tìm đến nạn nhân khác kèm theo những lời đe dọa.

Phần bên dưới nét chữ run rẩy nên rất khó đọc:

Beddoes đã dùng mật mã báo cho cha biết rằng H. đã khai báo tất cả. Cầu Chúa nhân từ hãy tha thứ cho linh hồn chúng con!

"Đó là câu chuyện tôi đã đọc cho chàng thanh niên Trevor nghe vào đêm đó và tôi cho rằng trong những hoàn cảnh như thế, đây là một câu chuyện bi thương, Watson ạ. Chàng trai ấy đã vì câu chuyện này mà tan nát cõi lòng và đi sang vùng trồng chè Terai, tôi nghe nói là anh ấy rất phát đạt ở đó. Còn về tên thủy thủ và Beddoes thì chẳng có tin gì về họ nữa từ sau cái ngày bức thư cảnh báo được viết ra. Cả hai đều biến mất hoàn toàn. Cảnh sát không nhận được cáo buộc vì thế có lẽ cụ Trevor đã lầm tưởng rằng lời đe dọa đã biến thành hành động. Có người thấy Hudson lẩn trốn đâu đó và cảnh sát tin rằng hắn đã giết Beddoes rồi bỏ trốn. Còn về phần mình thì tôi tin rằng sự thật hoàn toàn ngược lại. Tôi nghĩ rất có thể là khi bị dồn vào chân tường và tin rằng mình đã bị bán đứng, Beddoes liền ra tay khử Hudson để trả thù rồi bỏ trốn ra nước ngoài với toàn bộ số tiền của ông ta. Diễn biến vụ này là thế, bác sĩ ạ, nếu anh định đưa nó vào bộ sưu tập thì tôi tin là các tình tiết ấy sẽ rất vinh dự được giúp ích cho anh."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro