CÁC ĐIỀN CHỦ Ở REIGATE(The Reigate Puzzle, 1893)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chuyện xảy ra vào khoảng thời gian trước khi sức khỏe của bạn tôi, Sherlock Holmes, hồi phục sau cơn kiệt lực do làm việc quá sức vào mùa xuân năm 1887. Toàn bộ vụ việc của Công ty Nederland Sumatra và những mưu đồ của nam tước Maupertuis hãy còn nóng hổi trong trí nhớ của công chúng và có liên quan quá mật thiết với giới chính trị và tài chính nên không phù hợp cho loạt hồi ức này. Tuy nhiên, vụ này lại gián tiếp dẫn đến một vụ án kì lạ và phức tạp mà qua đó bạn tôi có cơ hội thể hiện giá trị của một loại vũ khí mới trong số nhiều vũ khí mà anh sử dụng để chiến đấu chống tội phạm.

Khi xem lại những ghi chép của mình, tôi thấy vào ngày 14 tháng 4 có nhận được một bức điện từ Lyon báo tin rằng Holmes đang ốm liệt giường tại khách sạn Dulong. Chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ tôi đã có mặt trong phòng bệnh của anh và yên lòng hơn khi thấy các triệu chứng không có gì nghiêm trọng. Tuy nhiên, ngay cả thể chất rắn rỏi của anh cũng bị suy nhược dưới áp lực của một cuộc điều tra kéo dài những hơn hai tháng và trong suốt thời gian đó không ngày nào anh làm việc dưới mười lăm giờ và hơn một lần, như anh xác nhận với tôi, đã đeo đuổi công việc suốt năm ngày liên tục. Ngay cả kết quả thắng lợi của công việc cũng không thể cứu anh khỏi hậu quả của đợt dốc sức kinh khủng đến thế và vào lúc cả Âu châu đang nhắc đến tên anh, khi phòng anh ngập điện chúc mừng đến mắt cá chân theo đúng nghĩa đen, thì tôi thấy anh đang lâm vào tình trạng suy nhược tồi tệ nhất. Dù biết mình đã thành công trong khi cảnh sát của ba quốc gia thất bại và đã cao tay hơn kẻ lừa đảo tài ba nhất Âu châu về mọi mặt, anh cũng không đủ phấn chấn để ra khỏi cơn suy nhược thần kinh.

Ba ngày sau, chúng tôi cùng trở về phố Baker, nhưng rõ ràng là thay đổi không khí sẽ tốt hơn nhiều cho bạn tôi và ý tưởng về vùng nông thôn một tuần lễ để hưởng không khí mùa xuân cũng rất hấp dẫn đối với tôi. Anh bạn cũ của tôi, đại tá Hayter, là người đã từng được tôi chăm sóc khi còn ở Afghanistan, giờ đã kiếm được một căn nhà gần thị trấn Reigate ở hạt Surrey, vẫn thường mời tôi đến thăm. Lần gần đây nhất anh có nói rằng, nếu bạn tôi cùng đi thì anh ấy rất vui lòng đón tiếp. Cũng cần đến đôi chút khéo léo trong lúc thuyết phục nhưng khi Holmes hiểu rằng chủ nhà là một người độc thân và anh sẽ được hoàn toàn tự do, anh cũng đồng ý với kế hoạch của tôi và một tuần sau khi từ Lyon trở về London, chúng tôi đã ở dưới mái nhà của đại tá Hayter.

Đại tá Hayter là một cựu quân nhân dễ mến, từng trải và chẳng mấy chốc, như tôi đã đoán, anh ấy nhận ra rằng giữa mình và Holmes có nhiều điểm chung. Vào buổi tối hôm chúng tôi mới đến, sau khi dùng cơm, chúng tôi ngồi trong phòng treo súng của đại tá sau bữa tối, Holmes nằm dài trên chiếc trường kỉ trong khi Hayter và tôi xem xét bộ sưu tập nhỏ những thứ vũ khí phương Đông của anh ta.

"À, nhân tiện đây", bất chợt anh ta nói, "tôi nghĩ là mình sẽ đem lên lầu một trong những khẩu súng này để đề phòng trường hợp có báo động."

"Báo động à!" Tôi hỏi.

"Phải, mới đây trong vùng này vừa xảy ra một vụ. Ông lão Acton, một trong những người có vai vế của hạt chúng tôi đã bị trộm đột nhập vào nhà hôm thứ hai vừa rồi. Cũng chẳng có tổn thất gì nhiều nhưng bọn trộm thì vẫn chưa bị tóm."

"Không có manh mối gì sao?" Holmes hỏi và đưa mắt nhìn đại tá.

"Chưa có gì. Nhưng vụ trộm này chỉ nhỏ thôi, một trong những vụ phạm tội vụn vặt ở nông thôn chúng tôi, chẳng đáng để anh quan tâm, anh Holmes ạ, sau sự kiện vĩ đại tầm cỡ quốc tế vừa rồi."

Holmes phẩy tay như muốn xua đi lời ca tụng dù nụ cười trên môi anh cho thấy nó đã làm anh hài lòng.

"Vụ trộm ấy có chi tiết nào đáng chú ý không?"

"Tôi cho là không. Bọn trộm lục tung cả thư viện mà chỉ thu được vài thứ chẳng bõ công. Toàn bộ căn phòng bị đảo lộn, các ngăn kéo thì bị giật tung ra và báo chí bị lục lọi, hậu quả là một tập trường ca Homer do Pope dịch, hai giá đỡ nến mạ bạc, một cái chặn giấy bằng ngà, một cái phong vũ biểu bằng gỗ sồi và một cuộn dây bện là tất cả những thứ bị mất."

"Nhặt nhạnh gì mà lạ vậy!" Tôi buột kêu lên.

"Ồ, rõ ràng là những tên đó đã vớ lấy bất cứ thứ gì có thể lấy đi." Holmes lẩm bẩm từ chiếc trường kỉ. "Lẽ ra cảnh sát hạt nên tìm hiểu thêm về chuyện này", anh nói. "À, thật rõ ràng là..."

Nhưng tôi đã giơ một ngón tay lên cảnh báo. "Anh đến đây là để nghỉ ngơi, anh bạn thân mến. Vì Chúa, đừng có vướng thêm vào vụ nào khi mà anh vẫn còn bị suy nhược thần kinh."

Holmes nhún vai và liếc sang đại tá với vẻ cam chịu khôi hài rồi câu chuyện chuyển sang những đề tài ít nguy hiểm hơn. Thế nhưng số phận đã định rằng tất cả những khuyến cáo của tôi chẳng có giá trị gì vì đến sáng hôm sau thì vụ này tự tìm đến chúng tôi theo cái cách không thể làm ngơ được, và chuyến nghỉ ngơi ở vùng quê của chúng tôi đã chuyển sang một hướng mà chẳng ai trong chúng tôi có thể đoán trước. Khi chúng tôi còn đang dùng bữa điểm tâm thì người quản gia của đại tá lao vào mà quên hết các phép tắc.

"Ông đã nghe tin gì chưa, thưa ông?" Anh ta hổn hển nói. "Ở nhà Cunningham, thưa ông!"

"Trộm à!" Đại tá kêu lên, tay vẫn đang giơ tách cà phê.

"Án mạng!"

Đại tá huýt sáo. "Trời đất!" Anh ta kêu lên. "Ai bị giết vậy? Ông thẩm phán hay là cậu con trai?"

"Cả hai vẫn còn sống, thưa ông. Nạn nhân là William, người xà ích. Bị bắn ngay giữa tim, thưa ông. Và chết ngay tức khắc."

"Vậy ai đã bắn anh ta?"

"Tên trộm, thưa ông. Hắn biến đi chớp nhoáng và hoàn toàn không để lại dấu vết gì. Hắn vừa phá cửa sổ phòng để thực phẩm thì William bước đến gần và đã bỏ mạng khi bảo vệ tài sản cho chủ."

"Lúc đó là mấy giờ?"

"Vào đêm qua, thưa ông, lúc gần nửa đêm."

"Hả, thế thì lát nữa chúng tôi sẽ sang đó", đại tá nói và điềm tĩnh quay lại bữa điểm tâm. "Vụ này thật tồi tệ", anh ta nói thêm khi người quản gia đã đi khỏi. "Ông lão Cunningham là nhân vật quan trọng ở vùng này, và cũng là một người rất tử tế. Chắc ông cụ đau buồn lắm vì người xà ích đã làm việc cho ông ta nhiều năm và là một người hầu rất tốt. Rõ ràng cũng lại cái đám bất lương đã đột nhập vào nhà Acton."

"Và lấy đi những thứ rất khác thường", Holmes lên tiếng với vẻ tư lự.

"Chính xác như vậy."

"Hừm! Đây có thể là vụ đơn giản nhất trần đời, nhưng theo đánh giá ban đầu nó có chút kì lạ phải không? Một băng trộm ra tay ở vùng nông thôn theo lẽ thường sẽ phải thay đổi địa bàn hoạt động chứ không cạy cửa hai nhà trong cùng một khu vực chỉ trong vòng có vài ngày. Tối hôm qua, khi anh nói đến việc đề phòng thì tôi đã thoáng nghĩ rằng có lẽ vùng này là xứ cuối cùng trên nước Anh bị bọn trộm nhòm ngó, xem ra tôi vẫn còn phải học hỏi nhiều nữa."

"Tôi tin đây chỉ là một tên trộm trong vùng", đại tá nói. "Nếu vậy thì tất nhiên là hắn phải mò đến nhà Acton và Cunningham vì đó đúng là những nhà lớn nhất ở đây."

"Và giàu nhất phải không?"

"À, trước đây thì thế, nhưng họ vướng vào một vụ kiện kéo dài mấy năm nay đã rút cạn tiền bạc của cả hai bên, tôi nghĩ thế. Ông lão Acton kiện đòi một nửa đất đai nhà Cunningham, còn các luật sư thì vồ chặt lấy vụ này?"

"Nếu đó là một tên trộm trong vùng thì việc tìm bắt hắn cũng chẳng khó khăn cho lắm", Holmes vừa nói vừa ngáp. "Thôi được rồi, Watson, tôi không định can thiệp vào vụ này đâu."

"Thanh tra Forrester đến, thưa ông", người quản gia thông báo khi mở cửa.

Viên sĩ quan bước vào phòng, anh ta hãy còn trẻ, trông mặt lanh lợi và nhiệt tình. "Xin chào đại tá", anh ta lên tiếng, "hi vọng rằng tôi không làm phiền các vị, nhưng chúng tôi được biết là ông Holmes ở phố Baker đang ở đây."

Đại tá phất tay về phía bạn tôi và viên thanh tra cúi đầu chào.

"Chúng tôi nghĩ rằng có lẽ ông sẽ sẵn sàng quá bộ sang bên đó, thưa ông Holmes."

"Số phận chống lại anh rồi, Watson ạ", anh vừa nói vừa cười. "Chúng tôi đang tán chuyện về vụ án thì ông đến, thanh tra ạ. Có lẽ ông có thể cho chúng tôi biết một vài chi tiết chăng." Khi nhìn thấy anh ngả người ra trên ghế với cái tư thế quen thuộc thì tôi biết mình cũng đành bó tay.

"Chúng tôi không tìm được dấu vết nào trong vụ nhà Acton. Nhưng vụ mới đây thì chúng tôi có nhiều thứ để tiến hành và không nghi ngờ gì nữa, cả hai vụ đều do cùng một thủ phạm gây ra. Có người đã nhìn thấy thủ phạm."

"Ồ!"

"Vâng, thưa ông. Nhưng hắn chuồn đi nhanh như nai sau khi nổ súng bắn hạ anh William Kirwan tội nghiệp, ông cụ Cunningham nhìn thấy hắn từ cửa sổ phòng ngủ và anh Alec Cunningham thì trông thấy hắn từ hành lang sau. Lúc nghe thấy tiếng kêu là 11 giờ 45 phút. Ông Cunningham vừa mới vào giường còn Alec thì đang hút tẩu và đã mặc áo ngủ. Cả hai đều nghe thấy tiếng người xà ích William kêu cứu và anh Alec chạy xuống để xem chuyện gì xảy ra. Cánh cửa sau đã mở và khi anh ta chạy đến chân cầu thang thì nhìn thấy hai người đàn ông đang vật lộn với nhau ở bên ngoài. Một người nổ súng, người kia gục xuống và kẻ sát nhân băng qua vườn rồi lao qua hàng rào. Ông lão Cunningham nhìn ra từ cửa sổ phòng ngủ của mình có trông thấy hắn chạy đến con đường nhưng rồi khuất khỏi tầm nhìn ngay lập tức. Anh Alec thì dừng lại để xem có thể cứu chữa cho người hấp hối được không, vì thế nên tên bất lương sổng mất. Ngoài chi tiết là hắn có vóc người tầm thước và mặc quần áo màu sẫm ra thì chúng tôi không có thêm manh mối nào khác; nhưng chúng tôi đang tiến hành điều tra rất gắt gao và nếu hắn là người lạ thì chúng tôi sẽ nhanh chóng tìm ra."

"Lúc đó William làm gì ở đấy? Anh ta có kịp trăng trối điều gì không?"

"Không một lời nào. Anh ta sống cùng với bà mẹ ở căn nhà phía ngoài và vì anh ta là một người làm rất trung thành nên chúng tôi cho rằng anh ta đã đi lên ngôi nhà với ý định xem thử mọi chuyện có ổn không. Đương nhiên là vụ trộm nhà Acton đã khiến cho mọi người phải đề phòng. Chắc chắn là tên trộm chỉ vừa mới phá cửa - ổ khóa đã bị phá - thì bị William bắt gặp."

"William có nói gì với mẹ trước khi đi không?"

"Bà cụ rất già và bị lãng tai, chúng tôi chẳng hỏi được gì từ bà ta cả. Cú sốc đã làm cho bà ta mụ người đi nhưng tôi hiểu rằng trước đây bà ta cũng chưa bao giờ tỉnh táo cả. Tuy nhiên, có một chi tiết rất quan trọng. Các ông xem đây!"

Anh ta lấy ra từ một cuốn sổ ghi chép một mẩu giấy nhỏ đã bị xé và đặt nó lên trên đùi. "Mẩu giấy này được tìm thấy giữa ngón trỏ và ngón cái của người chết. Có vẻ như đây là một phần của một tờ giấy lớn hơn. Các ông sẽ thấy rằng thời gian được ghi trong đó chính là thời điểm mà anh chàng xấu số gặp phải tử thần. Các ông xem có lẽ kẻ sát nhân đã xé mất phần còn lại khỏi tay anh ta hoặc có thể là anh ta đã giật được phần này từ tay hắn. Xem ra nội dung của mẩu giấy này giống như một cuộc hẹn."

Holmes cầm mẩu giấy lên, bản sao của nó như sau:

"Cứ tạm cho rằng đây là một cuộc hẹn", người thanh tra nói tiếp, "thì tất nhiên giả thuyết hợp lí là gã William Kirwan này - dù được tiếng là người lương thiện - có thể đã cấu kết với kẻ trộm. Có thể hắn gặp tên trộm ở đó, thậm chí có thể đã giúp phá cửa và rồi sau đó xảy ra bất hòa giữa chúng."

"Những chữ viết này vô cùng thú vị", Holmes nói sau khi đã tập trung cao độ xem xét mẩu giấy. "Tình hình phức tạp hơn tôi tưởng nhiều." Anh gục đầu vào hai bàn tay, trong khi đó viên thanh tra mỉm cười trước tác động mà vụ án gây ra đối với vị chuyên gia nổi tiếng của London.

"Nhận xét cuối cùng của ông", ngay lập tức, Holmes lên tiếng, "về khả năng có sự thông đồng giữa kẻ trộm và tên người hầu, và đây là giấy hẹn của chúng, quả là một giả thuyết tài tình và hoàn toàn có thể xảy ra. Nhưng chữ viết có thể cho ta thấy..." Anh lại gục đầu vào lòng bàn tay và suy nghĩ rất lung trong tư thế đó suốt vài phút. Khi anh ngẩng mặt lên thì tôi kinh ngạc khi nhìn thấy gò má anh đỏ bừng còn hai mắt sáng quắc như trước khi bị suy nhược. Anh đứng bật dậy với tất cả nguồn năng lượng ngày trước của mình.

"Tôi đề nghị thế này", anh nói, "tôi muốn được xem xét qua các chi tiết của vụ này. Có vài điều trong đó khiến tối hứng thú vô cùng. Đại tá này, nếu anh đồng ý, tôi xin phép tạm rời anh và anh bạn Watson để đi một vòng cùng với ông thanh tra đây kiểm chứng một vài suy nghĩ của tôi. Tôi sẽ quay lại với các anh trong nửa giờ nữa."

Và một tiếng rưỡi sau, người thanh tra quay lại một mình. "Ông Holmes đang tản bộ trên cánh đồng ngoài kia", anh ta cho biết. "Ông ấy muốn rằng cả bốn chúng ta cùng đi đến ngôi nhà đó."

"Đến nhà ông Cunningham à?"

"Vâng, thưa ông."

"Để làm gì chứ?"

Viên thanh tra nhún vai. "Tôi cũng không hiểu rõ lắm, thưa ông. Nói riêng thôi nhé, tôi nghĩ rằng ông Holmes vẫn chưa khỏi ốm. Ông ấy hành động kì lạ lắm và trông ông ấy rất kích động."

"Tôi nghĩ rằng ông không cần phải lo lắng nhiều", tôi nói. "Tôi vẫn thường thấy ẩn trong sự điên rồ là phương pháp của anh ấy."

"Nhưng người ta cũng có thể nói trong phương pháp của ông ấy có sự điên rồ", viên thanh tra lẩm bẩm. "Nhưng vì ông ấy cứ giục như bị lửa đốt vậy, ông đại tá ạ, nên tốt nhất là ta sang đó ngay nếu như các ông đã sẵn sàng."

Chúng tôi thấy Holmes đang đi đi lại lại trên cánh đồng, cằm gục xuống và hai tay thì đút túi quần.

"Vấn đề càng lúc càng lí thú đây", anh nói. "Watson này, chuyến đi chơi vùng nông thôn của anh thành công xuất sắc đấy. Tôi được hưởng một buổi sáng thật thú vị."

"Theo như tôi hiểu thì anh đã đến hiện trường của vụ án", đại tá lên tiếng hỏi.

"Phải, ông thanh tra và tôi đã cùng nhau điều tra thực địa."

"Có thu được gì không?"

"À, chúng tôi thấy được vài điều rất thú vị. Trên đường đi tôi sẽ kể cho ông nghe chúng tôi đã làm được những gì. Trước hết là, chúng tôi đã xem thi thể của người đàn ông bất hạnh. Chắc chắn là anh ta đã chết vì một phát đạn súng lục như trong biên bản."

"Vậy là ông đã nghi ngờ về điều đó chăng?"

"Ồ, dù sao cũng nên kiểm tra mọi thứ chứ. Cuộc khám nghiệm của chúng tôi chẳng vô ích chút nào. Sau đó chúng tôi đã thẩm vấn ông cụ Cunningham và con trai ông ta là những người có thể chỉ chính xác nơi mà kẻ sát nhân đã lao qua hàng rào khi hắn bỏ chạy. Điều đó thực sự rất quan trọng."

"Tất nhiên rồi."

"Sau đó chúng tôi gặp qua bà mẹ của anh chàng tội nghiệp. Thế nhưng chúng tôi không lấy được chút thông tin nào từ bà cụ, bà ấy đã già yếu quá rồi."

"Vậy cuộc điều tra của anh thu được kết quả ra sao?"

"Tôi tin chắc rằng tội ác trong vụ này rất đặc biệt. Có lẽ chuyến đi này của chúng ta có thể giúp cho vụ án được sáng tỏ hơn. Ông thanh tra này, tôi nghĩ rằng cả hai chúng ta đều đồng ý rằng mẩu giấy trong tay nạn nhân có ghi đúng cái giờ mà anh ta chết vô cùng quan trọng."

"Chắc nó sẽ cho ta manh mối gì đó, ông Holmes."

"Đúng là đã có manh mối. Ai đã viết nó thì cũng là người đã khiến cho William Kirwan phải bước ra khỏi giường vào giờ đó. Nhưng phần còn lại của tờ giấy ấy đâu?"

"Tôi đã khám xét mặt đất rất kĩ lưỡng với hi vọng sẽ tìm ra nó", viên thanh tra đáp.

"Nó đã bị xé ra khỏi bàn tay của người chết. Vì sao ai đó lại lo lắng muốn lấy nó? Bởi vì nó buộc tội hắn ta. Và hắn sẽ làm gì với mảnh giấy đó? Khả dĩ nhất là sẽ nhét vào túi mà không để ý một góc của tờ giấy hãy còn nằm lại trong bàn tay nắm chặt của cái xác. Nếu chúng ta có thể tìm được phần còn lại của tờ giấy đó thì rõ ràng là ta đã có thể tiến được một bước dài trên đường giải quyết bí mật này."

"Phải, nhưng làm thế nào mà lần được đến túi kẻ tội phạm trước khi bắt được hắn?"

"Đấy, đấy, thế mới đáng để nghiền ngẫm vấn đề. Vả lại còn một điểm khác nữa. Tờ giấy này được gửi đến William. Người viết ra lời nhắn đã không thể tận tay đưa nó cho anh ta, vì nếu thế đương nhiên hắn chỉ việc nói luôn nội dung lời nhắn. Vậy thì ai đã chuyển tờ giấy này? Hay là nó đã được gửi tới bằng đường bưu điện?"

"Tôi đã điều tra", thanh tra lên tiếng. "Chiều qua William đã nhận được một lá thư từ bưu điện. Phong bì do anh ta xé."

"Rất tuyệt!" Holmes reo lên và vỗ vào lưng anh ta. "Ông đã gặp người đưa thư. Được làm việc với ông thật là thích. Nào, căn nhà của người xà ích đây rồi, thưa đại tá, mời anh đi ra đây và tôi sẽ chỉ cho anh xem hiện trường của vụ án."

Chúng tôi đi qua một căn nhà xinh xắn là nơi người bị giết từng sống và bước lên một con đường rộng hai bên trồng sồi dẫn đến một tòa nhà cổ kính đẹp đẽ xây theo phong cách thời nữ hoàng Anne có khắc ngày xảy ra trận đánh Malplaquet phía trên cửa. Holmes và người thanh tra dẫn chúng tôi đi vòng qua nhà đến cánh cửa phụ nằm bên một dải vườn có hàng rào ngăn cách với con đường. Một viên cảnh sát đang đứng bên cánh cửa vào nhà bếp.

"Hãy mở cửa ra, anh cảnh sát", Holmes yêu cầu. "Nào, đây là các bậc thang nơi anh Cunningham đứng và nhìn thấy hai người đàn ông đang vật lộn với nhau ở ngay chỗ chúng ta đang đứng đây. Còn ông cụ Cunningham thì ở cái cửa sổ đằng kia - cái thứ nhì bên trái - và nhìn thấy hắn bỏ chạy ngay bên trái bụi cây đó. Sau đó anh Alec chạy ra và quỳ xuống bên cạnh người bị thương. Mặt đất rất cứng, như các ông thấy, và không có dấu vết nào mách bảo cho chúng ta."

Khi anh đang nói thì có hai người đàn ông đi vòng qua góc nhà và dọc theo lối đi trong vườn. Một người lớn tuổi với gương mặt cương nghị đầy những nếp nhăn sâu và quầng mắt nặng trĩu; người kia là một chàng trai trẻ hăng hái, mặt mũi tươi tỉnh và y phục lòe loẹt trông trái ngược đến ngạc nhiên với công chuyện đã mang chúng tôi tới đây.

"Sao, hãy còn giậm chân tại chỗ à?" Anh ta nói với Holmes. "Tôi cứ nghĩ là người London các ông thì chẳng bao giờ lầm lẫn chứ. Xem ra ông cũng không nhanh nhẹn cho lắm."

"À, anh phải cho chúng tôi đôi chút thời gian chứ", Holmes vui vẻ đáp.

"Ông sẽ cần đến nhiều thời gian đấy", chàng trai Alec Cunningham nói. "Sao nào, tôi thấy ta chẳng có chút manh mối nào cả."

"Có một manh mối duy nhất", viên thanh tra đáp. "Chúng tôi nghĩ chỉ cần tìm thấy... Lạy Chúa, ông Holmes! Có chuyện gì thế?"

Trên gương mặt anh bạn tội nghiệp của tôi đột nhiên có biểu hiện rất đáng sợ. Hai mắt anh trợn ngược lên, nét mặt co thắt lại vì đau đớn và thốt ra một tiếng rên dù đã cố nén lại rồi anh ngã sấp xuống đất. Kinh hoảng trước sự đột ngột và mức độ nghiêm trọng của cơn đau, chúng tôi khiêng anh vào bếp, để anh ngả người trên một chiếc ghế rộng và thở hổn hển đến vài phút. Cuối cùng, anh cũng gượng dậy được và xin mọi người thứ lỗi cho sự ốm yếu của mình với vẻ mặt ngượng ngập.

"Anh Watson đây sẽ nói cho các ông biết là tôi chỉ vừa mới hồi phục sau một đợt ốm nặng", anh giải thích. "Nên tôi dễ bị những cơn chấn động thần kinh đột ngột thế này."

"Hay là để tôi cho lấy xe ngựa đưa ông về nhà?" Ông cụ Cunningham hỏi.

"Không sao, vì tôi cũng đã đến đây rồi nên tôi muốn xác minh rõ một điểm. Chúng ta có thể kiểm tra điều đó rất dễ dàng."

"Điều gì vậy?"

"Tôi cảm thấy rất có thể là anh chàng William tội nghiệp xuất hiện không phải trước mà là sau khi kẻ trộm đột nhập vào nhà. Nhưng có vẻ như các ông lại mặc định rằng kẻ trộm đã phá khóa cửa nhưng chưa vào nhà."

"Tôi nghĩ rằng điều ấy đã khá rõ rồi", ông lão Cunningham trầm giọng. "Ấy, lúc đó Alec, con trai tôi, hãy còn chưa vào giường và chắc chắn là nó đã nghe thấy tiếng động nếu ai đó đi lại trong nhà."

"Khi đó anh Alec đang ngồi ở đâu?"

"Tôi đang hút thuốc trong phòng thay đồ."

"Cửa sổ nào là của phòng đó?"

"Cái cuối cùng ở bên trái, kế bên phòng của cha tôi."

"Hẳn là đèn trong buồng của cả hai ông hãy còn thắp sáng?"

"Chắc chắn là thế."

"Ở đây có vài điểm bất thường", Holmes mỉm cười nói. "Chẳng phải lạ sao khi một tên trộm - và lại là một tên trộm đã có kinh nghiệm - lại ngang nhiên đột nhập vào một căn nhà mà qua ánh đèn hắn có thể thấy cả hai người trong nhà hãy còn thức? Hắn phải là một kẻ rất to gan."

"À, tất nhiên rồi, nếu trường hợp này không kì lạ thì việc gì chúng tôi phải nhờ cậy đến ông để làm sáng tỏ", Alec lên tiếng. "Nhưng còn việc ông cho rằng hắn đã vào trộm trong nhà trước khi bị William chặn lại thì tôi nghĩ ý đó thật là ngớ ngẩn. Nếu vậy thì chúng tôi đã phải thấy nhà cửa bị lục tung lên và có vài món đồ bị hắn lấy rồi chứ?"

"Điều đó còn tùy thuộc vào việc những món đồ đó là gì", Holmes trả lời. "Ông phải nhớ rằng chúng ta đang đối đầu với một tên trộm vô cùng lập dị và có vẻ như có kiểu kiếm chác riêng. Hãy nhớ lại xem, ví dụ như một lô những thứ kì quặc mà hắn đã lấy trộm ở nhà ông Acton - có những gì nhỉ? Một cuộn dây, một cái chặn giấy và tôi không rõ hắn còn lấy những của khỉ gì nữa."

"Thôi thì chúng tôi cứ phó thác cả cho ông, ông Holmes ạ", ông lão Cunningham xen vào. "Chắc chắn là bất cứ điều gì mà ông hay là ông thanh tra đây yêu cầu đều sẽ được thực hiện."

"Trước tiên", Holmes nói, "tôi muốn ông treo thưởng - trích từ tiền túi của ông, vì có thể phía cảnh sát cần đôi chút thời gian trước khi họ thống nhất về khoản tiền mà trong những chuyện như thế này thì họ không quyết định nhanh chóng được. Tôi đã thảo sẵn nội dung đây, nếu các ông đồng ý thì mời kí vào. Tôi nghĩ chắc năm mươi bảng là đủ rồi."

"Tôi sẵn sàng thưởng năm trăm bảng luôn", ông thẩm phán nói rồi cầm lấy mảnh giấy và cây bút chì mà Holmes đưa. "Nhưng văn bản này chưa chính xác", ông ta nói thêm trong khi đọc lướt qua tờ giấy.

"Tôi viết hơi vội."

"Ông xem này, câu đầu ông viết: 'Xét vì, vào khoảng một giờ kém mười lăm sáng thứ ba đã xảy ra một vụ đột nhập... vân... vân.' Phải là mười hai giờ kém mười lăm mới đúng thực tế."

Tôi cảm thấy đau lòng trước sự nhầm lẫn này vì tôi biết Holmes sẽ rất buồn nếu phạm phải sai lầm như thế. Đặc tính của anh là luôn nắm chính xác các dữ kiện thực tế nhưng đợt ốm vừa xong đã tác động đến anh và sự cố nhỏ này cũng đủ cho tôi nhận thấy là còn lâu anh mới hồi phục được hoàn toàn. Rõ ràng là anh có hơi lúng túng một chút, trong khi viên thanh tra thì nhướng mày còn Alec Cunningham bật lên cười ha hả. Tuy nhiên, ông lão lịch sự chỉ sửa lại chỗ bị sai và trao tờ giấy lại cho Holmes.

"Hãy đưa in càng sớm càng tốt", ông ta nói. "Tôi nghĩ rằng ý kiến của ông rất hay."

Holmes cẩn thận kẹp mảnh giấy vào trong cuốn sổ tay của mình.

"Và bây giờ", anh tiếp tục, "ta hãy cùng đi xem xét khắp nhà để chắc chắn là cuối cùng thì tên trộm có phần bất thường này đã không lấy đi thứ gì cả."

Trước khi bước vào, Holmes kiểm tra cánh cửa bị cạy phá. Rõ ràng là đã có người ấn mạnh một cái đục hoặc một con dao cứng vào và ổ khóa đã bị cạy bật ra. Chúng tôi có thể thấy được những dấu vết trên mặt gỗ là nơi vật đó được tì vào.

"Vậy là các ông không dùng thanh chắn cửa?" Anh hỏi.

"Chúng tôi chẳng bao giờ cần đến thứ đó."

"Các ông không nuôi chó?"

"Có, nhưng nó bị xích ở phía bên kia nhà."

"Những người giúp việc đi ngủ vào lúc mấy giờ?"

"Khoảng 10 giờ."

"Tôi đoán rằng William cũng thường đi ngủ vào giờ ấy."

"Vâng."

"Điều lạ lùng là vào đúng đêm ấy anh ta lại thức khuya đến thế. Nào, tôi sẽ rất hân hạnh nếu ông vui lòng dẫn đường đi xem nhà, thưa ông Cunningham."

Một lối đi lát đá, có một nhánh dẫn ra khu bếp, nối tiếp với một cầu thang gỗ dẫn thẳng đến tầng hai của ngôi nhà. Trên hành lang, phía đối diện là chiếc cầu thang thứ nhì được trang trí nhiều hơn đi lên từ tiền sảnh. Đầu hành lang là một phòng khách và vài phòng ngủ, trong đó có phòng của ông lão Cunningham và phòng của con trai ông. Holmes bước chậm rãi và ghi nhớ cấu trúc của tòa nhà. Nhìn vẻ mặt của anh, tôi có thể đoán được là anh đang lần theo một dấu vết quan trọng, tuy vậy tôi vẫn không tài nào hình dung được những suy luận đang dẫn anh theo hướng nào.

"Ông Holmes thân mến", ông cụ Cunningham nói với vẻ hơi sốt ruột, "rõ ràng là chuyện này chẳng cần thiết chút nào. Đằng kia là phòng của tôi ở đầu cầu thang và sau đó là phòng con trai tôi. Ông cứ tự mình mà suy xét xem có lẽ nào tên trộm lại lên đến đây mà chúng tôi không hay biết gì sao."

"Tôi nghĩ rằng ông cần phải đi một vòng ở bên ngoài và hít thở khí trời trong lành", người con trai ông cụ nói với một nụ cười ác ý.

"Tuy vậy tôi vẫn muốn các ông chiều ý mình thêm chút nữa. Chẳng hạn như, tôi muốn xem từ cửa sổ của các phòng ngủ có thể nhìn ra phía trước nhà được bao xa. Tôi đoán căn phòng này là phòng ngủ của con trai ông", anh đẩy cánh cửa mở ra, "và kia hẳn là phòng thay đồ mà anh ấy đã ngồi hút thuốc khi có tiếng kêu cứu. Thế cánh cửa sổ này mở ra đâu?" Anh bước ngang qua phòng ngủ, đẩy cửa ra và nhìn khắp gian phòng nhỏ kế cận.

"Tôi hi vọng rằng ông đã hài lòng rồi chứ?" Ông Cunningham bẳn gắt hỏi.

"Xin cảm ơn, tôi nghĩ rằng mình đã xem hết những gì mình muốn."

"Nếu thực sự cần thì chúng ta có thể sang phòng tôi."

"Nếu ông không phiền."

Ông thẩm phán nhún vai và dẫn đường đến phòng của mình, một căn phòng được bài trí đơn giản và bình thường. Khi chúng tôi đi ra phía cửa sổ thì Holmes bước chậm lại để chỉ còn anh và tôi tụt lại sau cùng. Gần bên chân giường có đặt một đĩa cam và một bình nước. Khi chúng tôi đi qua đó, trước sự ngạc nhiên đến sững sờ của tôi, Holmes nhoài người qua trước mặt tôi và cố ý hất cho tất cả đổ xuống đất. Chiếc bình thủy tỉnh vỡ thành trăm mảnh, còn trái cây lăn vào các góc phòng.

"Anh đã gây chuyện rồi, Watson", anh thản nhiên nói. "Anh làm bẩn cả tấm thảm đấy!"

Tôi cúi xuống vì bối rối và bắt đầu nhặt mấy quả cam, trong lòng hiểu rằng vì một lí do nào đó mà bạn tôi muốn tôi gánh hộ lỗi lầm này. Những người khác cũng nhặt giúp và dựng chiếc bàn trở lại.

"Ái chà!" Viên thanh tra kêu lên. "Ông ấy đã biến đi đâu rồi?"

Holmes đã biến mất.

"Các ông cứ đợi ở đây", Alec Cunningham lên tiếng. "Tôi thấy gã này mất trí rồi. Cha, hãy đi với con, xem hắn biến đi đâu."

Họ bước vội ra khỏi phòng bỏ lại viên thanh tra, đại tá và tôi đứng nhìn nhau.

"Thật đấy, tôi cũng đồng ý với ông Alec", viên thanh tra nói. "Có lẽ đó là do ảnh hưởng của bệnh, nhưng tôi thấy có vẻ như..."

Anh ta bị ngắt lời bởi một tiếng hét bất ngờ: "Cứu! Cứu tôi với! Có kẻ giết người!" Tôi rùng mình khi nhận ra đó là giọng của bạn mình. Tôi phóng như điên ra khỏi phòng để chạy ra hành lang. Tiếng hét giờ đã chìm xuống thành một tiếng kêu khàn khàn không rõ vang lên từ căn phòng mà chúng tôi đã ghé qua đầu tiên. Tôi xông vào và chạy đến phòng thay đồ ở mé bên kia. Hai cha con nhà Cunningham đang khom người đè Sherlock Holmes xuống sàn, gã con trai bóp cổ anh bằng cả hai tay còn ông già hình như đang bẻ vặn cổ tay anh. Ngay lập tức cả ba chúng tôi kéo họ ra, và Holmes loạng choạng đứng lên, mặt mũi xanh lét và rõ ràng là đã đuối sức.

"Hãy bắt hai kẻ này, ông thanh tra", anh hổn hển nói.

"Vì tội gì?"

"Tội sát hại xà ích của họ, anh William Kirwan."

Viên thanh tra bối rối nhìn chằm chặp vào anh. "Ồ, này ông Holmes", mãi sau anh ta mới nói được, "tôi tin rằng ông không có ý..."

"Này, anh bạn, hãy nhìn mặt chúng mà xem!" Holmes sẵng giọng kêu to.

Chắc chắn là chưa bao giờ tôi nhìn thấy sự thú tội bộc lộ rõ nét như thế trên gương mặt con người, ông lão đờ đẫn và sững sờ với vẻ ủ dột nặng nề trên khuôn mặt cương nghị. Người con trai thì ngược lại, đã đánh rơi hết phong thái vui vẻ, hăng hái đặc trưng, chỉ còn vẻ hung hăng như thú dữ toát ra từ đôi mắt tối sầm và làm biến dạng những đường nét đẹp đẽ trên khuôn mặt hắn. Viên thanh tra không nói gì mà bước lại cửa rồi huýt một tiếng còi. Hai cảnh binh liền xuất hiện theo hiệu lệnh.

"Tôi không còn chọn lựa nào khác, ông Cunningham ạ" anh ta nói. "Tôi mong rằng tật cả chỉ là nhầm lẫn, nhưng ông có thể thấy rằng... A, anh dám? Bỏ xuống!" Anh ta vung tay lên và khẩu súng lục mà gã con trai đang định bóp cò rơi đánh cạch xuống sàn.

"Hãy giữ lấy nó", Holmes nói và nhẹ nhàng đặt chân lên khẩu súng, "các ông sẽ thấy khi ra trước tòa thì nó rất có ích. Nhưng đây mới chính là thứ mà chúng ta cần." Anh giơ lên một mảnh giấy nhỏ nhàu nát.

"Phần còn lại của tờ giấy!" Viên thanh tra reo lên.

"Chính nó."

"Nhưng nó ở đâu vậy?"

"Tại nơi mà tôi biết chắc là phải thấy. Tôi sẽ kể lại rõ ràng toàn bộ sự việc cho ông nghe ngay bây giờ. Đại tá này, tôi nghĩ rằng giờ thì anh và Watson có thể quay về nhà và tôi sẽ trở lại với hai người chậm lắm là một giờ nữa thôi. Ông thanh tra và tôi phải trao đổi vài lời với các phạm nhân, nhưng chắc chắn tôi sẽ về kịp bữa trưa."

***

Sherlock Holmes giữ đúng lời, vì khoảng 1 giờ anh đã quay lại với chúng tôi trong phòng hút thuốc của đại tá. Anh đi cùng một người đàn ông đứng tuổi, vóc người nhỏ và giới thiệu với tôi đó là ông Acton, chủ nhân của ngôi nhà bị trộm đầu tiên.

"Tôi muốn ông Acton hiện diện ở đây trong khi tôi giải thích vụ việc nhỏ nhặt này với các anh", Holmes nói, "vì lẽ tự nhiên là ông ấy rất quan tâm tới các tình tiết này. Đại tá thân mến, tôi e rằng anh chắc phải hối hận lắm vì đã rước con hải âu báo bão là tôi về nhà."

"Ngược lại thì có", đại tá nồng nhiệt trả lời. "Được theo dõi các phương pháp làm việc của anh đối với tôi là một đặc ân. Tôi phải thú nhận rằng chúng vượt quá cả kì vọng của tôi và tôi hoàn toàn không thể nào lí giải nổi kết quả mà anh đạt được. Tôi vẫn chưa nhìn ra chút manh mối nào."

"Tôi e rằng lời giải thích của tôi có thể làm cho anh thất vọng, nhưng tôi có thói quen không che giấu các phương pháp của mình, cho dù là với anh bạn Watson của tôi hay bất kì ai quan tâm đến chúng. Nhưng, tôi hãy còn choáng vì bị tấn công ở phòng thay đồ lúc nãy, nên tôi nghĩ rằng phải tự cho mình một chút rượu mạnh của anh, đại tá ạ. Dạo gần đây sức lực của tôi bị thử thách hơi nhiều."

"Tôi mong rằng anh sẽ không bị cơn chấn động thần kinh nào như vừa rồi nữa."

Sherlock Holmes vui vẻ cười. "Từ từ rồi chúng ta sẽ nói đến chuyện đó", anh nói. "Tôi sẽ trình bày vụ án cho các anh theo trình tự, để các anh thấy những điểm khác nhau đã dẫn tôi đến quyết định. Xin cứ cắt ngang lời tôi nếu các anh thấy có suy luận nào chưa hoàn toàn rõ. Trong nghệ thuật điều tra thì phần quan trọng nhất là khả năng nhận biết trong một mớ dữ kiện, cái gì là cốt yếu và cái gì là phụ. Nếu không năng lượng và sự chú ý của anh sẽ bị phung phí thay vì được tập trung vào đúng chỗ. Đây, trong trường hợp này thì ngay từ đầu tôi đã chẳng mảy may nghi ngờ về việc chìa khóa của toàn bộ vấn đề chắc chắn phải được tìm ra từ mẩu giấy trong tay người chết. Trước khi đi sâu vào chi tiết này, tôi xin các anh chú ý rằng: Nếu như những gì Alec Cunningham thuật lại là đúng và nếu kẻ trộm đã bỏ trốn ngay lập tức sau khi bắn chết anh William Kirwan, thì rõ ràng hắn không thể là người đã giật mảnh giấy từ tay người chết. Mà nếu như không phải hắn thì chắc chắn phải là Alec Cunningham, vì vào lúc ông già đi xuống cầu thang thì đã có vài gia nhân tụ tập ở hiện trường. Điểm này thì đơn giản thôi nhưng viên thanh tra lại bỏ sót vì ngay từ đầu cuộc điều tra anh ta đã mặc định rằng những nhân vật vai vế trong hạt này không dính dáng gì đến vụ này. Đó, tôi có một nguyên tắc là đừng bao giờ có bất kì một định kiến nào và chỉ tuyệt đối đi theo sự dẫn lối của thực tế, vì thế, từ đầu cuộc điều tra tôi đã hơi nghi ngờ về vai trò của anh chàng Alec Cunningham. Và thế là tôi xem xét thật kĩ lưỡng phần góc tờ giấy mà viên thanh tra đưa cho chúng ta xem. Ngay tức khắc tôi đã thấy rõ rằng nó là một phần của một tài liệu rất đáng chú ý. Đây, góc giấy ấy đây. Giờ thì các anh có nhận thấy điều gì đáng chú ý trong đó không?"

"Trông nét chữ có vẻ không đều", đại tá nhận xét

"Ngài đại tá thân mến", Holmes kêu lên, "rõ rành rành là nó đã được hai người thay nhau viết ra từng chữ. Xin các anh lưu ý đến nét khỏe khoắn của chữ 't' ở các từ 'at''to' và so sánh với nét ẻo lả của chữ 't' ở những từ 'quarter''twelve' thì các anh sẽ nhận ra vấn đề ngay tức khắc. Chỉ cần phân tích sơ qua bốn chữ này cũng có thể tự tin khẳng định rằng chữ 'Learn''maybe' do người có nét chữ khỏe hơn viết, còn chữ 'what' thì do người có nét chữ yếu hơn viết ra."

"Trời ơi, rõ như ban ngày vậy!" Đại tá reo lên. "Vì cái quái gì mà hai người lại cùng viết một bức thư như thế?"

"Rõ ràng là một việc xấu xa và một trong hai người đã không tin tưởng vào người kia nên đã nhất quyết rằng mỗi người đều phải dự phần như nhau cho dù có làm gì. Đấy, trong hai người này thì rõ ràng là người đã viết chữ 'at''to' chính là kẻ đầu trò."

"Làm sao mà anh biết được?"

"Chỉ riêng đặc điểm của hai nét chữ đã có thể giúp ta suy ra điều đó. Nhưng ta vẫn còn những lí do vững chắc hơn để củng cố nhận định này. Nếu anh chú ý kiểm tra mẩu giấy này thì anh sẽ đi đến kết luận rằng người có nét chữ khỏe hơn đã viết ra tất cả những chữ của phần mình trước và chừa chỗ trống cho người kia điền vào sau. Những khoảng trống này không phải lúc nào cũng đủ chỗ và anh có thể thấy rằng người thứ nhì chỉ có một chỗ rất hẹp để viết chen chữ 'quarter' của hắn vào giữa chữ 'at' và chữ 'to', điều này cho thấy chữ 'to' đã được viết ra trước. Rõ ràng là người đã viết các chữ của phần mình trước chính là kẻ chủ mưu."

"Tuyệt vời!" Ông Acton reo lên.

"Chỉ mới sơ sơ thôi", Holmes nói. "Nhưng giờ thì ta đi đến một điểm quan trọng. Có thể các anh không biết rằng việc suy ra độ tuổi của một người từ nét chữ của họ đã được các chuyên gia nâng lên đến mức chính xác đáng kể. Trong những trường hợp bình thường, ta có thể xác định được độ tuổi của một người trong khoảng chênh lệch mười năm với độ tin cậy khá cao. Tôi nói những trường hợp bình thường là vì sức khỏe kém và nhược điểm về thể chất sinh ra những dấu hiệu của tuổi già, ngay cả khi anh ta hãy còn trẻ tuổi. Trong trường hợp này, ta hãy nhìn vào nét chữ đậm, rắn rỏi của một người và vẻ yếu ớt ở nét chữ của người kia, những chữ 't' đã bắt đầu mất đi nét ngang nhưng vẫn đọc được, thì ta có thể nói rằng một người là đàn ông hãy còn trẻ và người kia thì nhiều tuổi nhưng vẫn chưa thực sự già yếu."

"Rất tuyệt!" Ông Acton lại reo lên.

"Thế nhưng hãy còn một điểm khác tế nhị hơn và còn đáng chú ý hơn. Có vài điểm tương đồng giữa hai nét chữ này, chúng do những người có cùng huyết thống viết ra. Có lẽ rõ nhất đối với các anh là ở chữ 'ε' kiểu Hi Lạp nhưng đối với tôi thì có rất nhiều điểm nhỏ đều chỉ ra điều ấy. Tôi đã đoán chắc là có thể nhận ra lề thói gia đình từ hai nét chữ này. Tất nhiên là tôi chỉ đưa ra cho các anh thấy những kết quả chính của việc xem xét mẩu giấy. Còn có đến hai mươi ba kết quả suy luận nữa có giá trị với các chuyên gia hơn là các anh. Tất cả đều khiến cho tôi có ấn tượng rõ hơn là chính cha con nhà Cunningham đã viết ra bức thư này.

Đến đây thì tất nhiên bước kế tiếp của tôi là xem xét các chi tiết của vụ án và xem thử chúng giúp ta được đến đâu. Tôi cùng với viên thanh tra đến ngôi nhà và đã quan sát tất cả những gì cần phải thấy. Vết thương trên tử thi, mà tôi có thể xác định với độ tin cậy tuyệt đối, là được bắn ra từ một khẩu súng ở khoảng cách độ bốn yard. Không thấy vết sạm đen của thuốc súng trên quần áo. Vì thế, rõ ràng là Alec Cunningham đã nói dối khi khai là súng đã nổ khi hai người đang vật lộn. Hơn nữa, cả hai cha con họ đều khai giống nhau về nơi mà tên trộm đã trốn thoát ra đường cái. Thế nhưng, ở chỗ ấy ngẫu nhiên sao lại có một cái rãnh khá rộng và dưới đáy còn ướt. Vì không thấy dấu giày nào gần cái rãnh này, tôi tuyệt đối tin chắc rằng không chỉ cha con nhà Cunningham nói dối mà chẳng hề có một người lạ nào ở hiện trường.

Và giờ thì tôi phải xem xét động cơ của hành động gây án kì lạ này. Để hiểu được điều này, trước tiên tôi cố gắng lí giải nguyên nhân vụ trộm bất thường ở nhà ông Acton. Từ vài điều mà đại tá đã nói với chúng ta, tôi biết rằng có một vụ kiện đang diễn ra giữa ông Acton và nhà Cunningham. Tất nhiên là trong đầu tôi nảy ra ngay lập tức ý nghĩ rằng họ đã đột nhập vào thư viện của ông với ý đồ chiếm một tài liệu nào đó có thể là quan trọng trong vụ kiện."

"Đúng vậy", ông Acton nói. "Không nghi ngờ gì về ý đồ của bọn họ. Tôi có quyền sở hữu cực kì minh bạch đối với phân nửa đất đai hiện tại của họ và chỉ cần họ tìm thấy một giấy tờ thôi - may sao nó được cất trong tủ sắt của luật sư của tôi - thì hiển nhiên là họ sẽ phá được vụ kiện."

"Các ông thấy đấy", Holmes mỉm cười nói. "Đó là một hành động nguy hiểm và liều lĩnh mà tôi có thể nhận ra ảnh hưởng của gã Alec. Khi không tìm được gì, họ cố tình đánh lạc hướng nghi ngờ bằng cách làm cho nó có vẻ là một vụ trộm bình thường. Vì thế mà họ vớ bừa bất cứ thứ gì. Điều đó thì hoàn toàn rõ nhưng còn nhiều điểm hãy còn mơ hồ. Thứ mà tôi mong muốn hơn hết là phần bị mất của mẩu giấy này. Tôi dám chắc rằng Alec đã xé nó ra khỏi tay của người chết và gần như chắc chắn hắn phải nhét nó vào trong túi áo choàng ngủ. Ngoài ra liệu hắn còn có thể để nó ở chỗ nào khác? Câu hỏi duy nhất là không biết mảnh giấy có còn nằm yên đó hay không. Cũng đáng để bỏ công tìm hiểu và vì mục đích đó mà tất cả chúng ta đều đi đến ngôi nhà của họ. Chắc là các ông hãy còn nhớ, cha con Cunningham đã ra đón chúng ta ở bên ngoài cửa bếp. Tất nhiên điều quan trọng nhất là không được để họ nhớ ra mảnh giấy đó vì nếu không thì dĩ nhiên là họ sẽ hủy nó ngay lập tức. Khi viên thanh tra sắp sửa đề cập tới tầm quan trọng của mảnh giấy thì nhờ một sự ngẫu nhiên may mắn nhất trên đời, tôi lăn đùng ra vì choáng và nhờ thế mà cuộc đối thoại chuyển hướng."

"Lạy Chúa!" Đại tá kêu lên rồi cười phá lên. "Ý anh là chúng tôi đã lo lắng không đâu và cơn choáng ngất của anh chỉ là giả mạo thôi ư?"

"Đứng về góc độ chuyên môn mà nói thì cú xỉu đó được thực hiện rất tài tình", tôi kêu to và sửng sốt nhìn con người luôn làm tôi phải kinh ngạc với những chiêu ứng biến mới của anh.

"Đó là một ngón nghề rất hữu dụng", anh trả lời. "Khi tỉnh lại, bằng một chút tài xoay xở, tôi đã khiến cho ông già Cunningham phải viết ra chữ 'mười hai', nhờ thế mà tôi có thể so sánh nó với chữ 'mười hai' trong tờ giấy."

"Ồ, tôi mới khờ làm sao!" Tôi buột miệng thốt lên.

"Lúc đó tôi có thể thấy là anh rất ái ngại cho sự kém cỏi của tôi", Holmes nói rồi cười phá lên. "Xin lỗi vì đã gây cho anh nỗi xót xa mà tôi biết là anh đã phải chịu đựng. Sau đó chúng ta cùng đi lên lầu rồi bước vào phòng và trông thấy chiếc áo choàng ngủ được treo ở phía sau cánh cửa, tôi đã cố tình làm đổ chiếc bàn để thu hút sự chú ý của họ một lúc rồi lén quay trở lại để lục soát túi áo đó. Tuy nhiên, tôi vừa lấy được mảnh giấy từ túi áo, như đã đoán, thì hai cha con nhà Cunningham xông vào và chắc hẳn đã giết tôi ngay tại chỗ nếu các anh không kịp thời đến cứu. Tuy thế, đến giờ tôi hãy còn cảm thấy như cổ họng mình đang bị gã trai trẻ đó siết chặt còn cha hắn bẻ quặt cổ tay tôi để giật lấy mảnh giấy. Họ nhận ra rằng chắc chắn là tôi đã biết hết tất cả về mảnh giấy, và như các anh thấy đấy, tình thế đột ngột thay đổi từ an toàn tuyệt đối chuyển sang hoàn toàn tuyệt vọng đã làm cho họ trở nên hết sức liều lĩnh.

Sau đó tôi có nói chuyện đôi chút với ông Cunningham về động cơ của tội ác. Ông ấy khá hợp tác, còn gã con trai đúng là một con quỷ, và nếu hắn lấy lại được khẩu súng, chắc hắn sẵn sàng bắn vỡ sọ chính mình hoặc ai đó. Khi ông Cunningham nhận thấy trong vụ án này mọi thứ đều chống lại mình, ông ta mất hết can đảm và thú nhận tất cả. Có vẻ như William đã bí mật theo dõi hai ông chủ vào cái đêm họ đột nhập nhà ông Acton và do đó đã nắm được họ trong tay, rồi sau đó, anh ta đã đe dọa tiết lộ để tống tiền cha con họ. Tuy nhiên, giở trò đó với Alec thì lại rất nguy hiểm. Rõ ràng là hắn đã rất thông minh khi nhìn ra trong nỗi sợ hãi về vụ trộm đang làm náo động cả vùng nông thôn này một cơ hội hợp lí để loại trừ con người gây lo lắng cho hắn. Thế là William bị giăng bẫy và bị bắn chết, và nếu họ lấy được toàn bộ mảnh giấy rồi để ý một chút đến mấy chi tiết phụ nữa thì rất có thể là chẳng bao giờ bị nghi ngờ."

"Thế còn nội dung của lá thư?" Tôi hỏi.

Sherlock Holmes đặt trước mặt chúng tôi mảnh giấy mới được chắp thêm vào.

"Đây chính là thứ mà tôi vẫn mong đợi", anh nói. "Tất nhiên là chúng ta vẫn chưa biết được những mối quan hệ giữa Alec Cunningham, William Kirwan và Annie Morrison là gì. Kết quả cho thấy là cái bẫy đã được đặt mồi một cách khéo léo. Tôi dám chắc là các anh rất vui mừng khi nhận thấy cách viết những chữ 'y' rất đặc trưng của ông Cunningham. Những chữ 'i' bị thiếu dấu chấm trong nét chữ của ông lão cũng rất đặc trưng. Anh Watson này, tôi nghĩ rằng kì nghỉ êm ả của chúng ta ở nông thôn đã thành công xuất sắc và chắc chắn ngày mai, tôi sẽ quay về phố Baker với thể trạng mạnh khỏe hơn."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro