BỘ MẶT VÀNG VỌT(The Yellow Face, 1893)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

BỘ MẶT VÀNG VỌT
(The Yellow Face, 1893)

Khi xuất bản những hồi ức dựa trên rất nhiều vụ án trong đó tài năng khác thường của Holmes đã biến chúng tôi thành người nghe, và rốt cuộc thành các diễn viên trong những tấn kịch lạ lùng, lẽ tự nhiên tôi kể về những vụ thành công nhiều hơn là thất bại. Đó không phải là để bảo vệ danh tiếng của anh - bởi sự thật là khi anh bị dồn vào đường cùng thì năng lực và tài ứng biến của anh càng được thể hiện một cách đáng khâm phục - mà vì khi anh thất bại thì thường là cũng không ai thành công và thế là câu chuyện sẽ bị bỏ lửng không kết thúc. Tuy nhiên, cũng có lúc ngay cả khi anh đã phạm sai lầm nhưng ngẫu nhiên sự thật vẫn được khám phá. Tôi đã ghi chép được nửa tá trường hợp như thế và trong số đó câu chuyện Nghi thức gia tộc Musgrave và chuyện mà tôi sắp kể lại đây là hai vụ điển hình.

Sherlock Holmes hiếm khi tập luyện thể lực chỉ để mà tập. Hiếm có ai vượt được anh về sức mạnh cơ bắp và anh chắc chắn là một trong những võ sĩ quyền Anh mạnh nhất trong hạng cân của mình mà tôi từng biết; nhưng anh xem việc huy động thể lực không mục đích là phí phạm năng lượng và hiếm khi nào anh chịu vận động trừ khi là vì công việc. Khi đó anh hoàn toàn sung sức và không biết mỏi mệt là gì. Việc anh duy trì thể lực trong những tình huống như thế thật đáng nể, thế nhưng chế độ dinh dưỡng của anh thường vô cùng thanh đạm, còn thói quen sinh hoạt thì giản tiện đến mức gần như khổ hạnh. Ngoại trừ một vài lần dùng cocaine, còn lại thì hầu như anh chẳng có thói xấu nào và anh chỉ quay sang ma túy để chống chọi với sự đơn điệu những khi không có vụ án nào và báo chí thì tẻ ngắt.

Một ngày đầu xuân, trong tâm trạng thư thái, anh cùng tôi đi dạo trong công viên, ở đó những búp xanh mong manh đang nhú trên hàng du và các chồi dẻ non còn đẫm nhựa vừa bung ra thành những chiếc lá. Suốt hai giờ liền chúng tôi tản bộ bên nhau, phần lớn thời gian chỉ yên lặng đúng như hai người đàn ông đã quá hiểu nhau. Khi chúng tôi trở về phố Baker thì đã gần 5 giờ.

"Xin lỗi ông", cậu bé giúp việc nói khi mở cửa. "Có một quý ông vừa đến đây để gặp ông, thưa ông."

Holmes đưa mắt nhìn tôi với vẻ trách móc. "Chúng ta đi lâu quá!" Anh nói. "Ông khách đã đi rồi à?"

"Vâng, thưa ông."

"Cháu có mời ông ta vào nhà không?"

"Thưa có, ông ta có vào."

"Thế ông ấy đợi bao lâu?"

"Nửa tiếng, thưa ông. Ông ấy rất bồn chồn, cứ đi tới đi lui mãi suốt thời gian ở đây. Cháu đứng đợi ở bên ngoài mà vẫn nghe tiếng bước chân, ông ạ. Cuối cùng thì ông ấy bước ra ngoài hành lang và kêu lên: 'Ông ta có chịu về cho không?' Ông ta nói đúng như thế, thưa ông. Cháu mới đáp rằng, 'Ông chịu khó đợi thêm một tí nữa thôi.' 'Thế thì ta sẽ ra ngoài đợi vậy, vì ta thấy hơi khó thở', ông ấy nói thế. 'Ta sẽ sớm quay lại.' Nói vậy rồi ông ta đi luôn và cháu có nói gì cũng không giữ được ông ta ở lại."

"Được rồi, cháu đã làm hết sức", Holmes nói khi chúng tôi bước vào phòng. "Dù vậy tôi vẫn thấy khó chịu, Watson ạ. Tôi đang rất cần làm việc và cứ xét cái vẻ sốt ruột của người đó thì xem ra vụ này quan trọng đây. Ái chà! Cái tẩu ở trên bàn đâu phải của anh. Hẳn là ông ta đã để quên nó ở đây. Một cái tẩu cũ, đẹp bằng gỗ thạch nam với phần ống rất tốt mà giới nghiện thuốc gọi là hổ phách đây. Tôi thắc mắc ở London có bao nhiêu cái tẩu có đót bằng hổ phách thật? Có người cho rằng nếu có một con ruồi ở bên trong thì là đồ thật. Chắc là ông ta phải bất an lắm nên mới để quên cái tẩu mà rõ ràng là ông ta rất quý!"

"Sao anh biết là ông ta quý nó?" Tôi hỏi.

"À, tôi ước lượng giá ban đầu của nó là bảy shilling sáu xu. Còn bây giờ thì anh xem, nó đã được sửa lại hai chỗ, một lần ở phần gỗ và một lần ở phần hổ phách. Như anh thấy, mỗi chỗ vá đều được bịt bạc này chắc chắn tốn tiền hơn giá cái tẩu. Người này chịu sửa lại cái tẩu chứ không mua một cái mới ngang giá thì hẳn là ông ta phải quý nó lắm."

"Còn chi tiết nào khác không?" Tôi hỏi vì Holmes đang xoay cái tẩu trong tay và chăm chú nhìn nó với vẻ trầm ngâm rất đặc biệt của mình.

Anh giơ cái tẩu lên và dùng ngón tay trỏ thon dài gõ nhẹ vào nó như một giáo sư đang giảng về một cái xương.

"Đôi khi những chiếc tẩu cũng rất đáng chú ý", anh nói. "Có lẽ ngoài đồng hồ và dây giày ra thì chẳng vật nào thể hiện cá tính chủ nhân bằng tẩu thuốc. Thế nhưng, những dấu hiệu ở đây thì không rõ nét mà cũng không quan trọng cho lắm. Người chủ của nó chắc chắn là một người cơ bắp rắn chắc, thuận tay trái, có hàm răng rất tốt, có thói cẩu thả và không cần tiết kiệm."

Bạn tôi cứ thao thao tuôn ra các thông tin nhưng tôi nhận thấy anh vẫn đưa mắt nhìn sang để xem tôi có theo kịp lập luận của anh hay không.

"Anh nghĩ rằng ông ta sống phong lưu vì sở dụng một cái tẩu trị giá bảy shilling à?" Tôi hỏi.

"Đây là loại thuốc trộn Grosvenor có giá tám xu một ounce", Holmes trả lời và gõ nhẹ chút thuốc ra lòng bàn tay. "Ông ta có thể hút loại thuốc hảo hạng bằng nửa giá loại này, thế nghĩa là ông ta không cần tiết kiệm."

"Còn gì nữa không?"

"Ông ta có thói quen châm tẩu thuốc bằng đèn. Anh có thể thấy là nó bị ám đen ở một bên. Tất nhiên là nếu châm bằng diêm thì không thể có vết như thế. Người ta việc gì phải giữ diêm lệch về một bên chiếc tẩu? Nhưng anh không thể nào châm tẩu bằng đèn mà giữ cho phần bầu của nó không bị ám. Và tất cả đều nằm về phía bên phải của cái tẩu. Do đó tôi suy ra là ông ta thuận tay trái. Anh thử đưa cái tẩu của mình lại gần ngọn đèn và sẽ thấy một người thuận tay phải như anh thì tự nhiên sẽ đưa bên trái cái tẩu vào sát ngọn lửa. Có thể đôi khi anh làm ngược lại nhưng điều đó là không thường xuyên. Cái tẩu này luôn được cầm về một bên như thế. Còn nữa, ông ta thường cắn vào đót hổ phách. Để làm được như thế phải là một người khỏe mạnh, cơ bắp rắn chắc và có hàm răng tốt. Nhưng nếu như tôi không lầm thì đã nghe thấy tiếng ông ta đang bước lên cầu thang, vậy là ta sắp được tìm hiểu điều gì đó thú vị hơn chiếc tẩu thuốc của ông ta."

Ngay sau đó cánh cửa phòng mở ra và một người đàn ông trẻ tuổi cao ráo bước vào. Anh ta ăn mặc tề chỉnh nhưng khá giản dị trong bộ comlê xám đậm và cầm mũ dạ rộng vành màu nâu. Tôi ước chừng anh ta khoảng ba mươi tuổi, dù thực tế, anh ta lớn tuổi hơn.

"Xin các ông thứ lỗi", anh ta nói với vẻ hơi ngượng ngập, "lẽ ra tôi phải gõ cửa. Vâng, tất nhiên là tôi nên gõ cửa. Vấn đề là tôi hơi lo lắng và mong các ông hãy hiểu rằng đó là nguyên nhân." Anh ta đưa tay vuốt trán như một người đang bị choáng váng rồi buông phịch người xuống ghế.

"Tôi có thể thấy là ông đã mất ngủ một, hai đêm rồi", Holmes nói với vẻ ân cần, dễ chịu. "Điều đó làm cho thần kinh của ta mệt mỏi hơn là công việc và thậm chí còn hơn cả vui thú. Tôi có thể giúp được gì cho ông?"

"Tôi cần đến lời khuyên của ông, thưa ông. Tôi không biết mình nên làm gì và dường như đời tôi đã tan nát."

"Ông muốn thuê tôi làm thám tử tư vấn chăng?"

"Không chỉ thế. Tôi muốn được một người khôn ngoan sáng suốt, một người từng trải như ông cho ý kiến. Tôi muốn biết tiếp theo mình nên làm gì. Tôi cầu Chúa rằng ông có thể chỉ bảo tôi."

Anh ta nói từng đoạn ngắn, đanh, đứt quãng, và tôi có cảm giác là nội việc nói ra cũng rất đau đớn đối với người đàn ông này và suốt từ đầu đến giờ anh ta đã phải dùng ý chí để áp chế mong muốn của mình.

"Đây là chuyện rất tế nhị", anh ta nói. "Người ta thường không muốn đem những việc trong nhà ra kể cho người lạ nghe. Thật là tồi tệ khi phải bàn luận về hành vi của vợ mình với hai người đàn ông mà trước đây tôi chưa hề gặp. Phải làm việc đó thì thật kinh khủng. Nhưng tôi đã chịu đựng hết nổi rồi và cần được một lời khuyên."

"Ông Grant Munro thân mến", Holmes mở lời.

Vị khách của chúng tôi bật dậy khỏi ghế. "Cái gì!" Anh ta kêu lên, "ông biết tên tôi à?"

"Nếu ông muốn giữ kín lai lịch", Holmes mỉm cười nói, "thì tôi nghĩ ông không nên viết tên mình lên lớp vải lót mũ hoặc là nên xoay chóp mũ về phía người đang nói chuyện cùng. Tôi định nói rằng trong căn phòng này bạn tôi và tôi đã được nghe kể biết bao bí mật lạ lùng và chúng tôi đã có may mắn đem lại sự bình yên cho nhiều tâm hồn phiền muộn. Tôi tin rằng chúng tôi cũng có thể làm được như thế cho ông. Tôi xin phép nhắc ông rằng thời gian rất là quý giá, mong ông hãy sớm cho tôi biết các điểm chính trong câu chuyện của ông, được chứ?"

Vị khách của chúng tôi lại đưa tay vuốt trán như thể nói ra là việc vô cùng khó khăn đối với anh ta. Từ các cử chỉ và biểu hiện tôi có thể thấy rằng anh ta là một người kín đáo, tự chủ và có đôi chút kiêu hãnh, thường che giấu những vết thương lòng hơn là bộc lộ chúng ra. Rồi đột nhiên, anh ta vung mạnh bàn tay nắm chặt như vứt bỏ hết sự dè dặt và bắt đầu kể.

"Sự việc là thế này, thưa ông Holmes", anh ta nói. "Tôi đã lập gia đình được ba năm. Trong thời gian đó, tôi và vợ tôi yêu nhau say đắm và sống bên nhau thật hạnh phúc như những đôi vợ chồng mới cưới khác. Chúng tôi không hề có một bất đồng nào cả dù là trong ý nghĩ hay lời nói và cả hành động. Vậy mà kể từ thứ hai vừa rồi, đột nhiên lại xuất hiện một hàng rào ngăn cách giữa hai chúng tôi và tôi nhận thấy có điều gì đó trong cuộc đời và trong suy nghĩ của nàng mà tôi chẳng biết gì cả, tựa như nàng là một phụ nữ đi ngang qua tôi ngoài đường. Chúng tôi thành ra xa cách và tôi muốn biết tại sao.

Tôi muốn nhấn mạnh với ông một điều trước khi tôi kể tiếp, ông Holmes ạ. Đó là Effie yêu tôi. Xin đừng nghi ngờ điều đó. Nàng yêu tôi bằng trọn vẹn con tim lẫn tâm hồn và chưa bao giờ tình cảm ấy sâu đậm như hiện tại. Tôi biết điều đó. Tôi cảm nhận được nó. Tôi không muốn tranh luận về điều đó. Một người đàn ông có thể dễ dàng biết là mình đang được một người phụ nữ thương yêu. Thế nhưng cái điều bí mật đó lại chắn ngay chính giữa và chúng tôi không bao giờ có thể quay lại như cũ trừ phi làm sáng tỏ được điều ấy!"

"Xin vui lòng cho tôi biết chuyện, ông Munro", Holmes nói với vẻ hơi sốt ruột.

"Tôi sẽ kể cho ông những gì tôi biết về đời tư của Effie. Khi tôi gặp nàng lần đầu tiên thì nàng đã là một góa phụ dù hãy còn rất trẻ - mới hai mươi lăm. Lúc đó nàng là bà Hebron. Nàng đến nước Mỹ khi hãy còn nhỏ và sống ở thành phố Atlanta là nơi mà nàng đã cưới ông Hebron, một luật sư có sự nghiệp vững vàng. Họ có một đứa con nhưng dịch sốt vàng da đã bùng phát trong vùng và cả người chồng lẫn đứa con đều chết vì căn bệnh ấy. Tôi đã thấy giấy chứng tử của ông ta. Sự kiện đó khiến cho nàng kinh sợ nước Mỹ và trở về ở cùng với một bà dì không chồng không con tại Pinner trong vùng Middlesex. Nhân tiện tôi có thể nói là chồng nàng đã để lại cho nàng một cuộc sống dư dật và nàng có một số vốn vào khoảng bốn ngàn năm trăm bảng mà ông ta đã đầu tư rất khôn khéo khiến cho nó sinh lợi khoảng bảy phần trăm. Lúc chúng tôi gặp nhau ở Pinner thì nàng chỉ mới sống ở đó được sáu tháng; chúng tôi yêu nhau và vài tuần sau thì làm đám cưới.

Tôi là một thương nhân buôn hoa bia và vì tôi có thu nhập bảy đến tám trăm bảng, chúng tôi sống khá phong lưu và thuê một căn biệt thự đẹp đẽ ở Norbury với giá tám mươi bảng mỗi năm. Nơi chúng tôi ở rất đậm màu thôn dã dù khá gần thành phố. Có một quán trọ và hai ngôi nhà nữa nằm phía trên nhà chúng tôi một chút, và một căn nhà thôn dã nằm đơn độc ở phía bên kia cánh đồng đối diện với nhà chúng tôi, ngoài ra chẳng còn nhà cửa nào khác cho đến khi đi được nửa quãng đường tới nhà ga. Công việc khiến tôi phải lên thành phố vào vài mùa nhất định trong năm nhưng đến mùa hè thì tôi rảnh rỗi hơn và những lúc đó hai vợ chồng tôi sống hạnh phúc như mộng trong ngôi nhà thôn quê của mình. Xin khẳng định với ông rằng chẳng hề có uẩn khúc gì giữa hai chúng tôi cho đến khi sự việc đáng nguyền rủa đó xảy ra.

Có một chuyện tôi phải nói cho ông biết trước khi kể tiếp. Khi chúng tôi cưới nhau, vợ tôi chuyển giao toàn bộ tài sản của nàng cho tôi - điều đó có phần ngược lại với ý muốn của tôi vì tôi sợ là tình hình sẽ rất khó khăn nếu công việc kinh doanh của tôi thất bại. Thế nhưng, nàng muốn thế và ý định đó đã được thực hiện. Thế rồi cách đây sáu tuần nàng nói:

'Jack này, khi anh nhận tiền của em, anh có nói rằng khi nào em cần bao nhiêu tiền thì cứ việc báo anh biết.'

'Chắc chắn rồi', tôi đáp. 'Tất cả đều là của em mà.'

'Vậy thì', nàng nói, 'em cần một trăm bảng.'

Tôi hơi ngạc nhiên về số tiền đó vì tôi cứ nghĩ đơn giản chỉ là mua một bộ áo váy mới hay thứ gì đó mà nàng mong muốn.

'Để làm gì vậy?' Tôi hỏi.

'Ồ', nàng trả lời với vẻ khôi hài, 'anh đã bảo em rằng anh chỉ là ông chủ nhà băng của em mà nhà băng thì đâu bao giờ lại hỏi.'

'Nếu em muốn thì tất nhiên là em sẽ nhận được tiền', tôi nói.

'Vâng, em thực sự muốn mà.'

'Và em không nói cho anh biết em cần số tiền đó để làm gì?'

'Một ngày nào đó, có lẽ thế, nhưng không phải lúc này, Jack ạ.'

Vậy là tôi đành phải chấp nhận dù đó là lần đầu tiên có một bí mật xuất hiện giữa hai chúng tôi. Tôi viết cho nàng một tấm chi phiếu và cũng không bao giờ nghĩ về chuyện đó nữa. Cũng có thể là không có mối liên quan nào giữa việc đó với điều sẽ xảy ra về sau nhưng tôi cho rằng cứ nên thuật lại thì hơn.

Như tôi vừa kể với ông rằng có một căn nhà thôn dã nằm không xa nhà của chúng tôi. Chỉ có một cánh đồng giữa nhà tôi và căn nhà đó nhưng để đến được đó thì phải đi ra ngoài đường rồi rẽ vào một lối mòn. Ngay phía sau căn nhà đó là những lùm linh sam rất đẹp và tôi thường đi dạo qua đó vì cây cối luôn gần gũi thân thiết với ta. Căn nhà đã bị bỏ trống suốt tám tháng nay và thật đáng tiếc vì nó là một căn nhà hai tầng rất đẹp với hàng hiên kiểu cổ và cành lá kim ngân bao quanh. Đã nhiều lần tôi đứng ngắm và nghĩ thầm căn nhà này sẽ là một tổ ấm xinh xắn. Thế rồi, chiều thứ hai vừa rồi khi tôi đi dạo tới đó thì gặp một chiếc xe tải trống chạy ngược lại trên con đường mòn và thấy một đống thảm cùng với đồ đạc nằm trên bãi cỏ cạnh hiên nhà. Rõ ràng là căn nhà đã có người thuê. Tôi bước ngang qua và tự hỏi không biết những người mới đến sống cạnh chúng tôi là người thế nào. Và khi tôi ngó vào thì đột nhiên nhận ra có một khuôn mặt đang nhìn tôi từ một trong những ô cửa sổ ở tầng trên.

Tôi không trông rõ khuôn mặt ấy, ông Holmes ạ, nhưng dường như nó gây cho tôi một cảm giác ớn lạnh dọc sống lưng. Vì tôi đứng hơi xa nên không nhìn ra những đường nét của bộ mặt đó nhưng nó có gì không tự nhiên và phi nhân tính. Điều đó gây ấn tượng mạnh cho tôi nên tôi bước ngay tới để nhìn gần hơn kẻ đang theo dõi mình. Nhưng khi tôi dợm bước tới thì bộ mặt đó đột nhiên biến mất, nhanh đến nỗi như bị ai đó kéo mạnh vào trong bóng tối của căn phòng. Tôi đứng đó đến năm phút để suy nghĩ về sự việc và cố gắng phân tích cảm giác của mình. Tôi không thể xác định được bộ mặt đó là của đàn ông hay đàn bà. Nó cách tôi quá xa để nhận ra. Nhưng chính màu sắc của khuôn mặt mới gây cho tôi ấn tượng mạnh nhất. Nó vàng vọt thâm ngoét với những đường nét bất động và đơ cứng trông cực kì quái đản. Lúc đó tôi hoang mang đến nỗi quyết định tìm hiểu thêm đôi chút về những người hàng xóm mới đến ở ngôi nhà này. Tôi bước lại gần và gõ cửa, ngay lập tức một người phụ nữ cao gầy có vẻ mặt cay nghiệt, gớm ghiếc mở cửa.

'Ông cần gì?' Bà ta hỏi, giọng phương Bắc.

'Tôi là hàng xóm của bà, ở phía đằng kia,' tôi đáp và hất đầu về phía nhà mình. 'Tôi thấy bà mới dọn đến nên nghĩ có thể giúp được gì chăng...'

'À, chúng tôi sẽ nhờ đến ông khi nào cần', bà ta nói thế rồi đóng sầm cửa trước mặt tôi. Cảm thấy bực mình vì bị từ chối một cách thô lỗ, tôi quay lưng đi về nhà. Suốt buổi tối hôm đó dù cho tôi cố gắng nghĩ đến những chuyện khác nhưng đầu óc tôi vẫn cứ quay về bóng ma bên cửa sổ và thái độ thô lỗ của người đàn bà đó. Tôi quyết định không nói gì với vợ mình về bộ mặt đó vì nàng hay lo lắng, lại rất dễ bị căng thẳng và tôi không muốn nàng phải chia sẻ với tôi cảm giác khó chịu này. Tuy nhiên trước khi đi ngủ, tôi cũng kể cho nàng nghe là căn nhà thôn dã đó giờ đã có người ở, nhưng nàng không nói gì.

Bình thường thì tôi ngủ rất say. Trong gia đình mọi người vẫn đùa là không chuyện gì có thể đánh thức tôi dậy trong đêm. Song thế nào mà trong cái đêm đặc biệt đó, không biết có phải do chút xốn xang vì chuyện buổi chiều hay không mà tôi ngủ tỉnh hơn bình thường rất nhiều. Trong khi đang mơ màng thì tôi lờ mờ nhận thấy có điều gì đó đang diễn ra trong phòng, rồi dần dần tôi nhận ra vợ mình đã mặc quần áo xong, đang khoác vội chiếc áo choàng và đội mũ. Môi tôi vừa hé ra định lầm bầm vài tiếng ngái ngủ biểu lộ sự ngạc nhiên hay phàn nàn về sự ăn vận không hợp lúc này, thì đột nhiên đôi mắt mở hé của tôi dừng lại trên khuôn mặt nàng đang được ngọn nến chiếu sáng và sự ngạc nhiên khiến tôi lặng người đi. Nàng có những biểu hiện mà từ trước đến giờ tôi chưa từng thấy, thậm chí tôi còn nghĩ là không thể có ở nàng. Trông nàng tái nhợt và thở dồn dập, mắt liếc về phía giường trong khi thắt đai chiếc áo choàng để xem liệu có đánh thức tôi dậy. Rồi khi đã chắc là tôi vẫn đang ngủ, nàng lặng lẽ lẻn ra khỏi phòng và ngay sau đó tôi nghe tiếng cót két chói tai chỉ có thể được phát ra từ bản lề của cánh cửa trước. Tôi ngồi dậy và gõ tay vào thành giường để chắc rằng mình tỉnh chứ không mơ. Sau đó tôi lấy đồng hồ từ dưới gối ra. Lúc đó là 3 giờ sáng. Vào giờ này thì vợ tôi có thể làm cái quỷ gì ngoài đường chứ? Tôi ngồi đó khoảng hai mươi phút suy nghĩ nát óc về việc này và cố gắng tìm ra một lời giải thích hợp lí. Càng nghĩ tôi càng thấy việc đó kì lạ và phi lí. Trong khi vẫn còn đang bối rối về vấn đề đó thì tôi nghe tiếng cánh cửa nhẹ nhàng khép lại và tiếng chân nàng trên cầu thang.

'Nãy giờ em đi đâu thế, Effie?' Tôi hỏi khi nàng bước vào.

Nàng giật nẩy người, kêu lên hốt hoảng khi nghe tôi hỏi và phản ứng đó còn làm cho tôi buồn phiền hơn cả vì nó toát lên vẻ tội lỗi khôn tả. Vợ tôi vốn luôn thành thật và cởi mở, vậy mà giờ đây nàng lại lén lút đi vào phòng mình, thảng thốt kêu lên và co rúm lại khi chồng nàng hỏi chuyện, những điều đó làm tôi rùng mình ớn lạnh.

'Anh đã thức rồi à, Jack?' Nàng nói to kèm tiếng cười mang vẻ lo lắng. 'Vậy mà em cứ tưởng là không điều gì có thể làm anh thức giấc.'

'Em đã đi đâu?' Tôi hỏi, dằn giọng hơn.

'Em không lấy làm lạ khi thấy anh ngạc nhiên', nàng nói và tôi có thể thấy mấy ngón tay nàng run rẩy khi cởi đai áo choàng. 'Tại sao, vì em nhớ là từ trước đến giờ mình chưa bao giờ làm thế. Sự thật là em cảm thấy khó thở và rất thèm được hít chút không khí trong lành. Em thật sự nghĩ rằng mình sẽ ngất xỉu nếu không ra ngoài. Em đứng ở cửa vài phút và giờ thì em đã thấy khỏe lại.'

Trong suốt thời gian kể tôi nghe chuyện đó nàng chẳng hề nhìn về phía tôi và giọng nói của nàng hoàn toàn khác với bình thường. Tôi thấy rõ những gì nàng nói đều là giả dối. Tôi không trả lời mà chỉ quay mặt vào tường, đau đớn trong lòng với hàng ngàn nỗi nghi ngờ giằng xé. Vợ tôi đang giấu tôi chuyên gì? Nàng đã đến đâu trong chuyến đi dạo kì lạ vừa rồi? Tôi cảm thấy rằng chỉ đến khi biết được điều đó thì tâm hồn tôi mới được bình yên, thế nhưng tôi lại lưỡng lự không muốn hỏi nàng nữa sau khi đã nghe lời giải thích dối trá của nàng. Suốt đêm đó tôi cứ trở mình trằn trọc nghĩ ra hết giả thuyết này đến lời giải thích nọ mà chẳng đâu vào đâu.

Ngày hôm đó lẽ ra tôi phải lên khu City nhưng vì tâm trí tôi rồi bời nên chẳng còn đầu óc nào tập trung cho công việc. Vợ tôi có vẻ cũng lo lắng như tôi và qua những ánh mắt dò hỏi mà nàng cứ hướng về mình, tôi có thể nhận thấy rằng nàng cũng hiểu là tôi không tin vào lời giải thích và nàng không còn biết phải làm gì. Suốt bữa điểm tâm, chúng tôi gần như không nói với nhau lời nào và ăn xong tôi liền bước ra ngoài đi dạo với hi vọng là không khí mát mẻ buổi sáng sẽ giúp tôi nghĩ ra vấn đề.

Tôi đi đến tận khu Crystal Place và ở đó một giờ đồng hồ rồi trở lại Norbury lúc 1 giờ trưa. Tình cờ tôi lại đi ngang qua căn nhà thôn dã và dừng lại một lúc để nhìn lên mấy khung cửa sổ để xem có thoáng trông thấy bộ mặt lạ lùng đã nhìn tôi hôm qua hay không. Khi tôi đứng đó, thì, ông Holmes ạ, ông hãy thử hình dung tôi ngạc nhiên biết bao khi bất chợt cánh cửa bật mở và tôi trông thấy vợ mình từ trong đó bước ra. Tôi lặng người vì kinh ngạc khi nhìn thấy nàng; nhưng cảm xúc của tôi chẳng là gì so với những gì bộc lộ trên mặt nàng khi bốn mắt chúng tôi gặp nhau. Trong một khoảnh khắc có vẻ như nàng muốn lùi trở lại vào bên trong căn nhà; và rồi nhận ra là có trốn cũng vô ích, nàng tiến lên phía trước với một khuôn mặt trắng bệch và đôi mắt khiếp đảm tương phản với nụ cười trên môi.

'À, Jack,' nàng nói, 'em vừa mới vào nhà này để xem có thể giúp được gì cho những người hàng xóm mới của ta không. Sao anh lại nhìn em như thế hả Jack? Anh không giận em đấy chứ?'

'Vậy là,' tôi nói, 'đây là nơi cô đã đến tối qua.'

'Anh nói gì thế?' Nàng kêu lên.

'Cô đã đến đây. Tôi dám chắc như thế. Những người này là ai mà cô lại thăm viếng vào cái giờ kì cục thế?'

'Lúc trước em chưa hề đến đây.'

'Làm sao cô có thể nói với tôi cái điều mà chính cô cũng biết là dối trá?' Tôi hét to. 'Chính giọng nói của cô cũng thay đổi khi cô nói. Từ bao giờ cô bắt đầu giấu giếm bí mật với tôi vậy? Tôi sẽ đi vào căn nhà này và sẽ điều tra cho tường tận vấn đề.'

'Không, đừng mà anh Jack, vì Chúa!'

Nàng nói gấp gáp, vẻ xúc động không kìm nén được. Rồi, khi tôi bước lại gần cánh cửa, nàng nắm lấy tay áo tôi và kéo tôi ngược trở lại với sức mạnh bất ngờ. 'Em xin anh đừng làm thế, Jack', nàng khóc nức nở. 'Em thề rằng một ngày nào đó sẽ kể hết cho anh nghe nhưng nếu anh bước vào ngôi nhà này bây giờ thì chỉ sinh ra đau khổ mà thôi.' Sau đó, mặc cho tôi cố sức đẩy nàng ra, nàng vẫn bám chặt lấy tôi van xin điên cuồng. 'Hãy tin em, Jack!' Nàng khóc to. 'Hãy tin em một lần này thôi. Anh sẽ không bao giờ phải hối tiếc vì điều đó. Anh biết là em không giấu anh điều gì trừ phi là có lợi cho anh. Cả cuộc đời chúng ta phụ thuộc vào việc này. Nếu anh đi về nhà cùng em thì mọi chuyện đều tốt đẹp. Nếu anh nhất quyết xông vào ngôi nhà này thì giữa chúng ta chẳng còn gì nữa.'

Trong thái độ của nàng có một vẻ thành khẩn pha lẫn tuyệt vọng khiến cho lời nói của nàng đã làm tôi dừng lại và tôi phân vân đứng trước cửa.

'Tôi sẽ tin cô với một điều kiện, và chỉ một điều kiện duy nhất', cuối cùng tôi lên tiếng. 'Đó là chuyện này phải kết thúc ngay từ bây giờ. Cô cứ giữ bí mật của mình nhưng phải hứa với tôi là sẽ không còn những chuyến thăm viếng nửa đêm, không làm gì giấu giếm tôi. Tôi sẵn lòng quên đi những gì đã xảy ra nếu cô hứa rằng sau này chúng không tái diễn nữa.'

'Em biết chắc rằng anh sẽ tin em mà,' nàng kêu lên và thở phào nhẹ nhõm. 'Mọi chuyện sẽ như anh mong muốn. Ta đi nào, đi về nhà thôi.'

Nàng nắm lấy tay áo dẫn tôi ra khỏi ngôi nhà đó. Khi chúng tôi bước đi, tôi liếc nhìn lại và trông thấy bộ mặt vàng vọt xám ngoét như chết đó đang quan sát chúng tôi qua khung cửa sổ tầng trên. Liệu có mối liên hệ nào giữa con người ấy và vợ tôi hay không? Hay người đàn bà thô lỗ cộc cằn mà tôi nhìn thấy hôm trước có liên quan thế nào với nàng? Đó là một vấn đề lạ lùng và tôi biết rằng chừng nào chưa giải quyết được nó thì đầu óc tôi chẳng thể thoải mái.

Suốt hai ngày sau đó tôi đều ở nhà và có vẻ như vợ tôi chịu tuân thủ lời cam kết vì tôi thấy nàng không hề bước ra khỏi nhà. Thế nhưng, đến ngày thứ ba thì tôi có nhiều bằng chứng cho thấy lời hứa trang trọng hôm trước không đủ sức giữ nàng thoát được ảnh hưởng của bí mật nọ nên nó đã kéo nàng ra khỏi người chồng và cam kết của mình.

Hôm đó tôi đi lên thành phố nhưng quay trở lại bằng chuyến tàu lúc 2 giờ 40 thay vì chuyến 3 giờ 36 như thường lệ. Khi tôi bước vào nhà thì chị người hầu chạy vào sảnh với vẻ luống cuống.

'Bà chủ đâu rồi?' Tôi hỏi.

'Tôi nghĩ bà đã ra ngoài đi dạo,' chị ta trả lời.

Ngay lập tức nghi ngờ nảy sinh trong đầu tôi. Tôi vội vã chạy lên tầng trên để chắc rằng nàng không có nhà. Khi ở trên lầu, tôi vô tình nhìn qua một trong mấy cánh cửa sổ thì trông thấy chị người hầu vừa mới nói chuyện với tôi lúc nãy đang chạy băng qua cánh đồng về phía căn nhà nọ. Tất nhiên tôi hiểu ra tất cả. Vợ tôi đã đi đến đó và nhờ chị người hầu đến báo cho nàng biết nếu tôi trở về. Tức điên người, tôi chạy ào xuống nhà và hối hả băng ngang cánh đồng, nhất quyết sẽ kết thúc vấn đề này cho dứt điểm. Tôi nhìn thấy vợ tôi và chị người hầu đang vội vã chạy ngược trở lại trên con đường mòn nhưng tôi không dừng lại để nói chuyện với họ. Điều bí mật đang phủ bóng đen lên cuộc đời tôi nằm trong căn nhà thôn dã đó. Tôi thề cho dù có thế nào thì nó sẽ không còn là bí mật nữa. Thậm chí khi đã đến căn nhà tôi không gõ cửa mà chỉ xoay tay nắm rồi chạy xộc vào hành lang. Tầng một hoàn toàn tĩnh lặng. Ấm nước đang reo trong bếp và một con mèo đen to nằm cuộn tròn trong cái giỏ nhưng không hề thấy bóng dáng của người phụ nữ mà tôi từng gặp. Tôi chạy vào một căn phòng khác, nhưng nó cũng trống trơn. Thế là tôi lao lên cầu thang và chỉ thấy hai căn phòng khác của tầng trên cũng bỏ trống. Trong cả căn nhà chẳng có lấy một bóng người. Đồ đạc và tranh ảnh đều thuộc loại phổ thông và bình thường, chỉ trừ căn phòng qua cửa sổ tôi đã nhìn thấy khuôn mặt lạ lùng. Nó được trang bị tiện nghi và trang nhã, thế rồi tất cả những mối nghi ngờ của tôi chợt bùng lên thành một ngọn lửa sôi sục và cay đắng khi tôi trông thấy trên mặt lò sưởi có bày một tấm ảnh toàn thân của vợ tôi, mới chụp từ ba tháng trước theo đề nghị của tôi.

Tôi nán lại đủ lâu để chắc chắn rằng căn nhà hoàn toàn trống vắng. Rồi tôi rời đi, cảm thấy tim mình nặng trĩu, một cảm giác mà tôi chưa từng biết. Vợ tôi đã bước ra tiền sảnh khi tôi đi vào nhà mình nhưng tôi đang quá đau khổ và giận dữ nên không buồn nói gì mà chỉ gạt nàng sang một bên để về thư phòng. Thế nhưng, nàng đã kịp vào theo trước khi tôi có thể đóng cửa.

'Jack, em xin lỗi vì đã không giữ được lời hứa', nàng nói, 'nhưng nếu anh hiểu được toàn bộ hoàn cảnh thì chắc là anh sẽ tha thứ cho em.'

'Vậy thì cô hãy kể cho tôi nghe hết mọi chuyện,' tôi nói.

'Không thể được, Jack, em không thể nào kể được,' nàng khóc.

'Khi nào cô còn chưa nói cho tôi biết ai đang sống trong căn nhà đó và cô đã tặng bức hình của mình cho ai thì không thể nào có sự tin tưởng giữa chúng ta với nhau', tôi nói và bỏ nàng lại, đi khỏi nhà.

Đó là chuyện ngày hôm qua, ông Holmes ạ, và tôi không gặp nàng từ đó đến giờ, cũng không biết gì thêm về câu chuyện kì lạ này. Đó là bóng đen đầu tiên xen vào giữa vợ chồng tôi và nó làm tôi bàng hoàng đến nỗi không biết nên làm gì. Thình lình sáng nay một ý nghĩ nảy ra trong đầu tôi rằng ông chính là người sẽ cho tôi lời khuyên, vì thế tôi vội vã đến gặp ông và giao phó hết vào tay ông mà chẳng hề dè dặt. Nếu có điểm nào tôi tường thuật chưa được rõ xin ông cứ hỏi lại. Nhưng, điều quan trọng hơn hết, xin ông hãy nhanh chóng chỉ bảo tôi nên làm gì vì điều bí mật này đã quá sức chịu đựng của tôi."

Cả Holmes và tôi cùng lắng nghe hết sức chăm chú câu chuyện khác thường này qua lời kể rời rạc, đứt quãng của người đàn ông đang bị những cảm xúc mạnh mẽ chi phối. Bạn tôi ngồi yên một lúc, cằm tựa lên bàn tay và đắm chìm trong suy nghĩ.

"Ông hãy cho biết", cuối cùng thì anh lên tiếng, "ông có thể thề rằng khuôn mặt mà ông nhìn thấy ở cửa sổ là mặt của một người đàn ông?"

"Mỗi lần tôi nhìn thấy nó thì đều cách khá xa do đó không thể nói chắc."

"Tuy vậy, có vẻ như nó gây cho ông một ấn tượng khó chịu."

"Dường như nó có màu sắc không tự nhiên với những đường nét cứng nhắc rất kì lạ. Khi tôi tiến lại gần thì nó đột ngột biến mất."

"Bà nhà hỏi xin ông một trăm bảng cách đây bao lâu?"

"Gần hai tháng."

"Ông đã bao giờ nhìn thấy bức hình nào của người chồng trước của bà ấy chưa?"

"Chưa. Một trận hỏa hoạn lớn đã xảy ra ở Atlanta ngay sau cái chết của ông ấy và tất cả mọi thứ giấy tờ của vợ tôi đều đã bị thiêu hủy."

"Vậy mà bà ấy còn giữ được tờ chứng tử. Ông nói rằng ông đã nhìn thấy nó."

"Phải, nàng đã xin một bản sao sau vụ cháy."

"Ông đã từng gặp bất cứ ai quen biết bà ấy ở Mỹ chưa?"

"Chưa."

"Bà ấy có bao giờ nói đến việc về thăm lại nơi đó không?"

"Không."

"Hoặc là nhận được thư từ bên đó?"

"Không."

"Cảm ơn ông. Giờ thì tôi muốn suy nghĩ một chút về vấn đề. Nếu hiện giờ căn nhà thôn dã đó đã bị bỏ trống hẳn thì có thể chúng ta sẽ gặp một chút khó khăn. Còn ngược lại, tôi nghĩ khả năng này cao hơn, tức là những người sống trong đó đã được cảnh báo là ông sắp đến và ngày hôm qua họ đã rời khỏi nhà trước khi ông bước vào, thế thì bây giờ có thể họ đã quay trở về và chúng ta sẽ dễ dàng làm sáng tỏ mọi việc. Vậy, tôi khuyên ông hãy quay về Norbury và tiếp tục quan sát các cửa sổ của căn nhà đó. Nếu ông tin chắc rằng có người ở thì đừng xông vào mà hãy đánh điện cho bạn tôi và tôi. Nhận được điện, chúng tôi sẽ đến gặp ông trong vòng một giờ và chúng ta sẽ nhanh chóng tìm ra nguyên nhân sâu xa của sự việc."

"Thế nếu như nó vẫn còn trống thì sao?"

"Nếu vậy, ngày mai tôi sẽ đến và cùng ông thảo luận. Tạm biệt, và hãy nhớ điều quan trọng nhất là đừng lo nghĩ cho đến khi biết chắc nguyên nhân."

"Watson này, tôi e rằng đây là một vụ tồi tệ", bạn tôi nói sau khi đã tiễn Grant Munro ra cửa. "Anh nghĩ sao về việc này?"

"Có vẻ không hay ho", tôi đáp.

"Phải. Nếu tôi không lầm thì đây là một vụ tống tiền."

"Ai là kẻ tống tiền?"

"Chắc chắn là kẻ sống trong căn phòng tiện nghi duy nhất của ngôi nhà và là kẻ đặt bức hình của người vợ trên lò sưởi. Thật sự là, Watson ạ, có điều gì đó rất hấp dẫn về khuôn mặt xám ngoét ở cửa sổ và tôi sẽ không bỏ qua chuyện này đâu."

"Anh đã có giả thuyết nào rồi à?"

"Phải, chỉ là một giả thuyết tạm thời thôi. Nhưng tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu nó không đúng. Ông chồng trước của người phụ nữ này đang sống trong căn nhà đó."

"Sao anh lại nghĩ thế?"

"Thì ta còn cách nào khác để giải thích tại sao cô ta lại lo lắng đến mức điên cuồng, không để người chồng sau bước vào căn nhà đó? Tôi xin diễn giải các tình tiết như sau: Người phụ nữ này đã lấy chồng ở Mỹ. Người chồng này trở nên đáng ghét hoặc ta có thể giả định là ông ta mắc phải một căn bệnh đáng sợ nào đó, chẳng hạn bị hủi hay mất trí? Rốt cuộc thì cô ta quay về Anh để bỏ trốn ông ta, thay đổi tên họ và bắt đầu cuộc đời lại từ đầu, như cô ta nghĩ. Cô ta lấy chồng được ba năm và tin rằng địa vị của mình đã hoàn toàn vững chắc nên đã đưa cho người chồng mới xem một bản khai tử giả là của chồng trước, thì đột nhiên chỗ ở mới của cô ta bị người chồng trước, hay ta có thể giả sử là do một người đàn bà bất lương nào đó có quan hệ gắn bó với người chồng bệnh tật này, phát hiện ra. Họ viết thư cho cô ta, đe dọa sẽ đến và vạch trần mọi chuyện. Cô ta xin chồng một trăm bảng và cố gắng mua chuộc bọn họ. Tuy nhiên, họ vẫn cứ đến và khi người chồng tình cờ kể cho vợ nghe là có những người mới dọn đến căn nhà thôn dã, cô ta biết rằng đó chính là những người đang bám theo mình. Cô đợi đến khi chồng ngủ say bèn vội vã tới đó, cố gắng thuyết phục bọn chúng để cô ta được yên. Không thành công, sáng hôm sau cô ta quay trở lại đó và khi bước ra khỏi nhà thì bị người chồng nhìn thấy như anh ta đã kể cho chúng ta nghe. Cô ta hứa với chồng là sẽ không đến đó nữa nhưng hai ngày sau vì mối hi vọng có thể dứt bỏ được những kẻ hàng xóm đáng sợ này trở nên mạnh mẽ hơn nên cô ta thử thêm một lần nữa, đem theo bức hình có lẽ là theo đòi hỏi của chúng. Trong khi đang nói chuyện thì chị người hầu chạy đến báo cho biết là người chồng đã trở về, nghe thế người vợ biết rằng anh ta sẽ đi thẳng đến căn nhà, bèn giục những người sống trong đó thoát ra bằng lối cửa sau, có lẽ là ra phía mấy lùm linh sam mọc gần đó như đã được nói đến. Vì thế mà anh ta thấy căn nhà trống vắng. Tuy nhiên, tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu tối nay anh chồng đến đó thăm dò mà vẫn không có ai ở đó. Anh nghĩ sao về ý kiến của tôi?"

"Tất cả đều là phỏng đoán."

"Nhưng ít ra nó cũng phù hợp với mọi dữ kiện. Khi ta biết thêm các thông tin mới không khớp với giả thuyết này thì vẫn còn đủ thời gian để xem xét lại. Từ giờ cho đến khi nhận được tin nhắn của anh bạn ở Norbury thì chúng ta không thể làm gì hơn."

Nhưng chúng tôi không phải đợi lâu. Chúng tôi vừa dùng xong bữa trà thì bức điện đã đến - Ngôi nhà vẫn có người, nội dung bức điện như sau: Lại nhìn thấy khuôn mặt ở cửa sổ. Sẽ đợi chuyến tàu 7 giờ và không làm gì chừng nào ông chưa đến.

Khi chúng tôi xuống tàu thì anh ta đang đợi trên sân ga và dưới ánh sáng của ngọn đèn ở nhà ga chúng tôi có thể thấy anh rất nhợt nhạt và đang run lên vì kích động.

"Họ vẫn còn ở đó, ông Holmes ạ", anh ta nói và bấu lấy tay áo bạn tôi. "Tôi trông thấy ánh sáng trong căn nhà khi tôi đi ngang qua. Chúng ta sẽ giải quyết dứt điểm việc này một lần cho xong."

"Vậy kế hoạch của ông ra sao?" Holmes hỏi khi chúng tôi bước vào con đường tối đen có cây cối mọc hai bên.

"Tôi sẽ xông vào và tận mắt nhìn xem ai đang ở trong nhà. Tôi mong rằng cả hai ông sẽ có mặt ở đó để làm nhân chứng."

"Ông nhất định làm thế, dù vợ ông đã cảnh báo rằng không nên đụng đến bí mật ấy?"

"Phải, tôi quyết tâm rồi."

"Được, tôi nghĩ rằng ông có lí. Dù sự thật là gì thì cũng hay hơn là cứ mãi nghi ngờ. Tốt hơn là chúng ta tới đó ngay. Tất nhiên là về mặt pháp lí thì rõ ràng chúng ta sắp sửa hành động sai quấy; nhưng tôi nghĩ rằng điều đó cũng đáng làm."

Đêm hôm ấy trời tối đen và một cơn mưa nhỏ bắt đầu rơi khi chúng tôi từ đường lớn rẽ vào một lối mòn hẹp có nhiều vết bánh xe lún sâu và hàng giậu rậm rạp ở hai bên đường. Tuy nhiên, ông Grant Munro vẫn nóng ruột lao về phía trước và chúng tôi đành cố hết sức loạng choạng theo sau.

"Kia là ánh đèn nhà tôi", anh ta thì thầm và đưa tay chỉ về một tia sáng le lói giữa đám cây. "Và đây là căn nhà mà chúng ta sắp sửa xông vào."

Khi anh ta nói đến đó thì chúng tôi đến lối rẽ của con đường mòn và trông thấy một căn nhà nằm sát bên. Một dải sáng vàng hắt lên nền đất đen phía trước cho thấy cánh cửa chỉ khép hờ và một khung cửa sổ ở tầng trên hãy còn sáng đèn. Khi ngước nhìn lên, chúng tôi trông thấy một bóng đen di chuyển dọc theo rèm cửa.

"Chính là nó đấy!" Grant Munro hét lên. "Chính các ông cũng thấy là có người ở đó. Hãy theo tôi và chúng ta sẽ sớm biết tất cả."

Chúng tôi tiến đến cánh cửa nhưng thình lình từ trong bóng tối một phụ nữ tiến vào vùng sáng vàng phát ra từ ngọn đèn. Tôi không thấy rõ mặt nhưng hai cánh tay cô đưa ra như van lơn.

"Vì Chúa, đừng mà Jack!" Cô ta kêu lên. "Em đã linh cảm rằng tối nay anh sẽ đến. Hãy nghĩ lại đi, anh thân yêu! Xin anh hãy tin em thêm một lần nữa và anh sẽ không bao giờ phải hối hận vì điều đó."

"Tôi đã tin cô lâu quá rồi, Effie", anh ta quát lên với vẻ cương quyết. "Hãy buông tôi ra! Tôi phải vào đó. Các bạn tôi và tôi sẽ giải quyết vấn đề này một lần cho xong!" Anh ta gạt cô ta qua một bên và chúng tôi bước sát theo sau. Khi anh ta đẩy cánh cửa mở tung ra thì một bà già chạy đến trước mặt anh và cố gắng chắn ngang lối vào nhưng anh ta đã xô bà ta ra sau, rồi ngay sau đó chúng tôi bước lên cầu thang. Grant Munro chạy vào căn phòng có ánh đèn ở trên lầu và chúng tôi tiến vào ngay sát gót.

Đó là một căn phòng ấm cúng và đầy đủ tiện nghi với hai cây nến đang thắp sáng trên bàn và hai cây khác trên mặt lò sưởi. Ở góc phòng, dường như có một bé gái đang cúi xuống bàn. Lúc chúng tôi bước vào thì khuôn mặt của cô bé đang quay sang hướng khác nhưng cũng có thể thấy bé đang mặc một chiếc váy đỏ và đeo đôi găng dài màu trắng. Khi cô bé quay qua, tôi buột miệng thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên và kinh hoàng. Khuôn mặt của bé có sắc xám ngoét vô cùng kì lạ và những đường nét thì hoàn toàn không chút biểu cảm. Ngay lập tức bí ẩn đã được giải thích. Holmes bật cười, đưa tay ra sau tai cô bé và một cái mặt nạ bị lột ra: Một bé gái da đen như than với hai hàm răng trắng sáng đang phô hết vẻ thích thú trước những khuôn mặt sửng sốt của chúng tôi. Tôi bật cười vì bị lây sự vui vẻ của cô bé; nhưng Grant Munro thì đứng nhìn chòng chọc, một bàn tay tóm chặt lấy cổ họng.

"Chúa ơi!" Anh ta kêu lên. "Thế này là thế nào?"

"Em sẽ giải thích cho anh biết", người phụ nữ nói to và lao vào phòng với vẻ mặt kiêu hãnh pha lẫn nghiêm trang. "Cho dù em không muốn nhưng anh cứ buộc em phải nói và giờ cả hai chúng ta phải cùng dàn xếp sự việc sao cho ổn thỏa nhất. Chồng trước của em đã chết ở Atlanta nhưng con em hãy còn sống."

"Con của em?"

Cô ta rút từ trong ngực áo ra một cái mặt dây chuyền lớn bằng bạc. "Anh chưa bao giờ nhìn thấy bên trong mặt dây chuyền này."

"Anh tưởng rằng cái đó không mở được."

Cô bấm vào một cái lò xo và nắp trước mặt dây chuyền bật mở. Bên trong có bức chân dung của một người đàn ông trông rất đẹp trai và thông minh nhưng trong khuôn mặt có những nét không thể nào lầm được về dòng giống châu Phi.

"Đây là John Hebron ở Atlanta", người phụ nữ giải thích, "và là người đàn ông cao quý nhất trên đời. Em đã tách khỏi chủng tộc mình để cưới anh ấy nhưng trong thời gian chung sống em chưa hề có phút giây nào hối tiếc về điều đó. Điều không may cho vợ chồng em là đứa con duy nhất lại giống bên nội nhiều hơn. Những chuyện như thế vẫn thường xảy ra trong các cuộc hôn nhân khác chủng tộc và bé Lucy còn đen hơn cha nó nhiều. Nhưng cho dù màu da có đen hay trắng thì con bé vẫn là con gái bé nhỏ yêu dấu của em." Nghe thế, cô bé chạy băng qua phòng và rúc vào váy của người phụ nữ. "Khi em để bé lại nước Mỹ," cô nói tiếp, "chỉ tại vì nó quá yếu và sự thay đổi có thể gây nhiều bất lợi cho bé. Em đã giao phó bé cho bà giúp việc trung thành người Scotland vẫn phục vụ vợ chồng em ngày trước. Không một giây phút nào em nghĩ đến việc từ bỏ nó. Nhưng khi tình cờ gặp anh, Jack ạ, em biết là em đã yêu anh và em không dám nói cho anh biết về đứa con này. Xin Chúa tha thứ! Em sợ sẽ mất anh và vì thế không đủ can đảm để kể anh nghe sự thật. Em buộc phải chọn lựa giữa anh và con, và vì quá yếu mềm, em đã ngoảnh mặt với đứa con bé bỏng. Trong suốt ba năm em đã giấu kín anh về sự tồn tại của bé nhưng em vẫn nhận được tin tức từ người vú nuôi và biết rằng mọi chuyện vẫn ổn. Thế nhưng, cuối cùng thì mong muốn được gặp bé một lần nữa trở nên quá mạnh. Em đã cố kìm nén nhưng thất bại. Mặc dù biết là rất liều lĩnh nhưng em vẫn quyết định đón bé sang đây dù chỉ vài tuần. Em đã gửi một trăm bảng cho người vú nuôi và chỉ dẫn cho bà về căn nhà này để bà có thể đến ở như một người hàng xóm mà vẫn không để lộ ra mối quan hệ giữa em và con bé. Em còn thận trọng đến mức đã ra lệnh cho bà giữ rịt con bé trong nhà vào ban ngày và luôn che mặt cùng hai tay của nó để cho lỡ có ai nhìn thấy nó bên cửa sổ cũng sẽ không đi đưa chuyện rằng: Có một đứa trẻ da đen trong vùng. Giá mà em bớt cẩn trọng đi một chút thì có lẽ em đã khôn ngoan hơn, nhưng em đã gần như phát điên vì lo sợ anh phát hiện ra sự thật

Chính anh là người đã báo cho em biết ngôi nhà này đã có người đến ở. Lẽ ra em nên đợi đến sáng hãy đến thăm con, nhưng em không sao ngủ được do quá vui mừng nên cuối cùng em đã lẻn ra ngoài vì biết rằng anh thường ngủ rất say. Nhưng anh đã nhìn thấy em ra khỏi nhà và đó là nguồn cơn của những rắc rối sau này. Đến ngày hôm sau thì anh hoàn toàn có thể lật tẩy bí mật của em, nhưng anh đã cao thượng mà kiềm chế mình không xông vào nhà. Thế nhưng, ba ngày sau đó, người vú nuôi và con bé chỉ vừa kịp thoát ra khỏi nhà bằng lối cửa sau khi anh ập vào đến cổng. Và đến tối nay, cuối cùng anh cũng đã biết hết mọi chuyện, vậy em muốn hỏi anh là sẽ định thế nào về quan hệ của chúng ta, đứa bé và em?" Cô ta đan hai bàn tay vào nhau và chờ đợi câu trả lời.

Mười phút dài dằng dặc trôi qua trước khi Grant Munro phá vỡ bầu không khí yên lặng và tôi nhớ mãi lúc anh ta đưa ra câu trả lời. Anh bế đứa bé lên, hôn nó và vẫn ôm nó trong tay, anh chìa bàn tay kia ra với vợ mình và quay bước về phía cửa.

"Chúng ta có thể bàn về chuyện này thoải mái hơn khi ở nhà", anh ta nói. "Anh không tốt bụng lắm, Effie ạ, nhưng anh nghĩ rằng mình khá hơn so với những gì mà em nghĩ đấy."

Holmes và tôi bước theo họ trên con đường mòn và bạn tôi kéo tay áo tôi lại khi chúng tôi ra đến đường lớn.

"Tôi nghĩ rằng", anh nói, "ở London chúng ta sẽ có ích hơn là ở Norbury này!"

Rồi anh không nói thêm một lời nào nữa về chuyện này cho đến tận khuya khi anh cầm nến đi về phòng ngủ.

"Watson này", anh nói, "nếu có khi nào anh cảm thấy là tôi hơi quá tự phụ vào năng lực của mình hoặc tỏ ra lơ là với một vụ án, xin anh hãy nói nhỏ vào tai tôi cái tên 'Norbury', tôi sẽ biết ơn anh nhiều lắm."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro