tthcm9

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

* Cơ sở hình thành tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc

- Truyền thống đoàn kết của dân tộc.

- Tư tưởng của nhân loại về đoàn kết.

- Tiếp thu lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về đoàn kết

1. Vị trí, vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng

a. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng

- Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược, nó là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.

- Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc phải luôn luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.

- Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chân lý:

+ “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta” (7; 392).

+ “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”, “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi” (11, 154, 22).

+ Đoàn kết là điểm mẹ. “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt” (8; 392).

+ “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công” (10, 607).

b. Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng

- Hồ Chí Minh khẳng định đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu hàng đầu của Đảng, mục tiêu đó phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng.

Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3 tháng 3 năm 1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc” (6, 183).

Để thực hiện mục tiêu này, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm quần chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng…

“Dễ trăm lần không dân cũng chịu

Khó vạn lần dân liệu cũng xong”

- Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Bởi cách mạng muốn thành công phải có lực lượng cách mạng, để có được lực lượng cách mạng phải thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, khi tập hợp được khối đại đoàn kết toàn dân mới tạo ra được sức mạnh của tập thể.

- Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng đại đoàn kết dân tộc. Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.

2. Nội dung của đại đoàn kết dân tộc

a. Thực hiện đoàn kết toàn dân

- Đại đoàn kết toàn dân tộc có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi người dân Việt Nam yêu nước vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.

+ Khái niệm “Dân” theo quan niệm của Hồ Chí Minh đưa ra một cách hết sức toàn diện. Dân bao gồm tất cả mọi người, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý tộc…Như vậy, dân và nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa được hiểu với tư cách là mỗi con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân.

- Như vậy khối đại đoàn kết toàn dân tộc là rất rộng lớn vì vậy người còn chỉ rõ muốn xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc nền tảng đó chính là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.

“Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”.

b. Cơ sở để thực hiện đoàn kết toàn dân

-  Thực hiện đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc.

 Để xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, phải kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam.

- Thực hiện đại đoàn kết toàn dân còn phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người.

+ Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu…cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lòng khoan dung độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhở nhất ở mỗi con người mới có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.

+ Người cho rằng ngay đối với những người lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ, mà hoàn toàn không định kiến, khoét sâu cách biệt. Người lấy hình tượng năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài, nhưng tất cả năm ngón đều thuộc về một bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết rộng rãi. Thậm chí đối với những người trước đây đã chống chúng ta, nhưng nay không chống nữa, khối đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn mở cửa đón tiếp họ.

-       Để thực hành đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân.

Sở dĩ Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm như trên là vì Người có lòng tin ở nhân dân, tin rằng trong mỗi người, “ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước ấy có khi bị bụi bậm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri con người thì lòng yêu nước lại bộc lộ.

Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc “nước lấy dân làm gốc”, “chở thuyền và làm lật thuyền cũng là dân”, đồng thời quán triệt quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.

3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc

a. Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất

- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành chiến lược của cách mạng, nó phải được xây dựng nên thành một tổ chức vững mạnh. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.

- Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và các nhân yêu nước, nơi tập hợp mọi con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn bao gồm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở đâu, làm nghề gì, địa vị ra sao…nếu như một lòng hướng về Tổ quốc Việt Nam , đều được coi là thành viên của Mặt trận.

- Tuỳ theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng, cương lĩnh và điều lệ của Mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những nét khác nhau, tên gọi của Mặt trận dân tộc thống nhất theo đó, cũng có thể khác nhau.

Những tên gọi của Mặt trận qua các thời kỳ:

+ Hội phản đế đồng minh (1930)

+ Mặt trận dân chủ (1936)

+ Mặt trận nhân dân phản đế (1939)

+ Mặt trận Việt Minh (1941)

+ Mặt trận Liên Việt (1946)

+ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960)

+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955, 1976 – nay)

b. Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất

- Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công – nông – trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

+ Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, nơi quy tụ mọi con dân nước Việt. Song, đó không phải là một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự phát của quần chúng nhân dân, mà là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên minh công – nông – trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

+ Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất” (10; 18). Người chỉ rõ rằng, sở dĩ phải lấy liên minh công – nông làm nền tảng “Vì họ là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết, mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn mọi tầng lớp khác” (8; 214).

+ Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất và liên minh công - nông luôn được Người xem xét trong mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp, Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, sức mạnh của khối liên minh công – nông – trí càng được tăng cường; ngược lại, liên minh công – nông – trí thức càng được tăng cường. Mặt trận dân tộc thống nhất càng vững chắc, càng có sức mạnh mà không một kẻ thù nào có thể phá vỡ.

+ Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song nó chỉ có thể được củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo đảm cho Mặt trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn. Bởi vì chỉ có chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể đánh giá đúng đựoc vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, mới vạch ra được đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn để lôi kéo, tập hợp quần chúng vào khối đại đoàn kết trong Mặt trận. Không có Mặt trận, Đảng không có lực lượng, không thể thực hiện được những nhiệm vụ cách mạng; ngược lại, không có sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận không thể hình thành, phát triển và không có phương hướng hoạt động đúng đắn. Do vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo mặt trận.

- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.

+ Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, song khối đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự thống nhất cao độ về mục tiêu và lợi ích. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chỉ có thể thực hiện đoàn kết khi có chung một mục đích, một số phận. Nếu không suy nghĩ như nhau, nếu không có chung một mục đích, chung một số phận thì dù có kêu gọi đoàn kết thế nào đi nữa, đoàn kết vẫn không thể có được. Do đó mặt trận dân tộc thống nhất hoạt động phải đảm bảo lợi ích tối cao của dân tộc và những quyền lợi của các tầng lớp nhân dân.

+ Lợi ích tối cao của dân tộc cũng như quyền lợi của các tầng lớp nhân dân là: độc lập, tự do, hạnh phúc.

-  Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.

+ Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của cả dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất phải theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.

+ Nguyên tắc hiệp thương dân chủ là: Tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải được đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặt dân chủ hình thức.

+ Để thực hiện nguyên tắc này phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt…Phải làm cho tất cả các thành viên trong Mặt trận đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết. Những lợi ích riêng chính đáng phù hợp với lợi ích chung của đất nước và dân tộc phải được tôn trọng. Ngược lại, những lợi ích bộ phận không phù hợp sẽ dần dần được giải quyết cũng với tiến trình chung của cách mạng.

+ Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong Mặt trận dân tộc thống nhất sẽ góp phần củng cố sự bền chặt, tạo được sự đồng thuận và nhất trí cao.

- Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro

#tthcm