Chương 6: Tạm biệt

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

TEL AVIV, ISRAEL

Sally đang chuẩn bị đồ dùng của mình để trở lại trường học, ngày mai là đầu tuần và trước đó cô còn có vài đơn hàng cần giao. Bà Murphy ở gần ngã rẽ có gọi một suất shakshouka¹ cỡ lớn để làm bữa sáng cho cả nhà. Rabbi² Levi Siegel – người đang ở một mình trong căn nhà nhỏ gần Hội đường – đã gọi một suất ăn sáng toàn rau củ. Cụ Oliva Grande với mái tóc bạc không sót một sợi, những chiếc răng cửa đã rụng đi hoàn toàn không thể tiêu thụ thức ăn như một người trưởng thành khỏe mạnh, cô cháu gái năm tuổi đã gọi hai phần cháo cá để hai bà cháu có thể cùng nhau dùng bữa. Lúc cô bé gọi điện cho cô, dù không được để tâm lắm nhưng cô bé vẫn nói không ngừng về lý do cô bé muốn ăn cháo cá và về hàm răng đang rụng dần của cụ Olivia.

Sally gói các phần ăn vào những hộp bã mía, chia vào từng túi nhựa. Cô gái nhỏ với dáng người ốm o tay xách nách mang những cái túi bước ra khỏi cửa quán. Cô đặt toàn bộ chúng vào giỏ của chiếc xe đạp cũ kỹ, rỉ sét – phương tiện di chuyển duy nhất trong nhà cô ngoại trừ chân người. Bà ngoại Arella đang nấu ăn, giao xong hàng về là vừa kịp giờ cao điểm, cô sẽ có thể vào phụ bà bán quán.

Cô đạp xe trên đường phố dần đông bóng người. Cô sống ở một khu nhỏ, con đường ở đây eo hẹp, gồ ghề, hoàn toàn khác xa với cung đường to lớn nơi phố xa ngoài kia. Cô rẽ vào một con hẻm chật chội trong khu, đạp xe đến cuối đường. Một căn nhà được xây chen chúc ở ngõ cụt với cánh cửa gỗ cũ mục, bản lề cửa sổ dường như sắp rớt xuống đất, tường nhà còn chẳng được sơn màu đàng hoàng mà chỉ được quét xi măng một cách cẩu thả. Sally xuống xe, đưa tay gõ cửa trong khi đang lo sợ nó sẽ rơi xuống.

– Ra liền, ra liền! Ế!

Ba cậu nhóc đội trên đầu những chiếc nón Kippah³, một đứa màu đỏ, một đứa màu xanh dương, một đứa màu đen. Ba đứa nhóc khi vừa thấy cô đã trợn tròn mắt, chúng chau mày, thằng bé cao nhất bước tới:

– Là chị à?

Chúng biết cô. Rõ ràng. Thông qua những lời đồn đó.

Cậu nhóc thấp bé nhất – đội nón đỏ – trốn đằng sau lưng anh nó, nhìn chăm chăm vào cô. Thằng bé còn lại – đội nón xanh dương – gọi vọng vào trong nhà:

– Bà! Ông! Có người lạ!

Chưa đầy mười giây, cặp vợ chồng già Murphy đã đến trước cửa. Bà Murphy thì đẩy ba đứa cháu vào trong nhà, ông Murphy thì chống hông, khó chịu bảo với vợ:

– Gái⁴ à! Em mua đồ ở đó à?

Bà Murphy vội búi tóc, vội đáp:

– Vâng, có sao đâu chứ! Quán đấy bán ngon lắm!

Vừa dứt câu bà ấy đã vội ra nhận thức ăn từ tay cô.

– Cảm ơn cháu nhiều lắm, gái!

Sally chỉ gật đầu. Bà ấy thanh toán tiền và cô nhanh chóng rời đi. Sẽ không hay lắm nếu tiếp tục nán lại ở nơi có những ánh mắt phán xét chĩa về phía mình.

Sally rời khỏi con hẻm, rời khỏi khu. Cô hướng tới một Hội đường Do Thái giáo⁵ gần đó. Chuyển sang một làn đường mới, cô cảm nhận rõ được sự khác biệt. Nó không gồ ghề, chật hẹp khó đi như con đường ở khu, nó phẳng, sạch, rộng rãi gấp ba lần.

Có một ngôi nhà nhỏ xinh ngay cạnh Hội đường, một ông cụ già khòm đang khom lưng tưới nước cho những khóm hoa.

– Chào thầy!

Sally cất tiếng chào với vị Rabbi già. Ông ấy trưng khuôn mặt hớn hở khi thấy bóng người. Làn da nhăn nheo lại càng thêm nhăn khi có thêm một nụ cười tít cả mắt, người vội vàng đứng thẳng, mắt nhìn về hướng cô.

– Ai đấy?

Ông ấy hỏi, vẻ mặt vẫn niềm nở.

– Con giao thức ăn đây!

– Ồ ồ! Tới liền.

Vị Rabbi già bước tới, mở cánh cửa cổng chỉ cao tới hông. Ông chắp tay sau lưng, vẻ mặt tận hưởng khi ngửi được hương thơm của món bánh Pita⁶ trong hộp.

Cô đưa tận tay bốn hộp thức ăn cho Rabbi Levi Siegel, gồm bánh mì Pita, sốt Hummus, salad và một vài trái Sabra⁷.

Rabbi Siegel mất một lúc để vào trong nhà lấy tiền thanh toán.

Cô để ý thấy chiếc giày cũ kĩ ông ấy đặt trên sàn, cô chắc chắn sau bữa sáng ông ấy sẽ đến Hội đường, đó là thói quen sinh tử của ông mà không một người nào trong khu có thể không biết. Cô còn nhớ rõ, chính ông Siegel là vị Rabbi thường xuyên chỉ đám nhỏ trong khu đọc Kinh Torah⁸, trong đó từng có cô. Sally nghĩ thầm, nếu ông ấy nhớ được chắc sẽ cảm thấy công sức của mình trước đây giờ như nước đổ lá khoai, cô thậm chí chẳng buồn đọc một chữ trong Kinh, chẳng thèm mặc trang phục Do Thái, cũng không hề đoái hoài đến Kosher⁹.

Cô đã không còn đặt đức tin ở Chúa. Đối với cô, Chúa chẳng qua chỉ là một sự tồn tại vô định hình trong tiềm thức con người. Ai cũng dạy cô phải cảm ơn Chúa vì tất cả, nhưng sao lạ quá, cô không nghĩ bản thân phải cảm tạ Chúa trời vì đã cho phép người đời dè bỉu cô bởi một nguyên do mà chính cô cũng không rõ, cảm tạ vì bản thân vì sinh ra đã không thấy mặt ba mẹ đâu, cảm ơn vì bản thân đang chứng kiến cảnh bà mình mang trong mình căn bệnh ung thư. Nếu đọc Kinh Torah có thể khiến khối u trong phổi bà cô biến mất thì cô sẽ tin Người, sẽ nguyện một đời điên cuồng sùng Đạo. Nhưng... khó quá. Niềm tin đó biến mất rồi. Hoặc nó chưa bao giờ tồn tại.

Cô nhanh chóng giao nốt phần hai phần cháo của bà cháu cụ Olivia. Nhà của cụ ở đối diện chợ trong khu – nơi nườm nườm xe cộ qua lại. Sally phải len lỏi, luồn lách lắm mới thành công chạy vào trong sân nhà cụ. Đúng là đất chật người đông. Người ra mở cửa là cô cháu gái Yael. Cô bé với mái tóc đen xoăn xù chạy ùa ra, ríu rít chào đón cô:

– Á a! Cuối cùng chị cũng tới! Em đói meo rồi! Bao nhiêu tiền vậy, Gái?

Cô đặt hai phần cháo vào cái bàn đẩy mà cô bé đưa ra.

– Mười sáu shekels¹⁰.

Cô bé lục lọi túi vải của mình rồi đưa cho cô một đồng một shekel, một đồng năm shekels và một đồng mười shekels.

Cô trở về nhanh mà không để tâm đến cô bé năm tuổi đó.

Sally về nhà với bà, tiếp tục một ngày bận rộn đến chiều tối. Quán hôm nay đông khách quá!

Năm giờ chiều, Sally đang bỏ hết tập vở vào trong cặp, cô sắp phải rời nhà. Trường có quy định những học sinh về thăm nhà vào cuối tuần phải trở về trước sáu giờ rưỡi tối Chủ nhật. Cô không muốn vì vài ba lỗi lầm nhỏ nhặt mà khiến công sức học tập, tranh giành học bổng để vào trường của cô đổ sông đổ bể.

Sau mười phút chuẩn bị, cô đã xong rồi. Đeo chiếc cặp nặng hơn năm ký lô trên vai, cô bé chuẩn bị rời nhà.

Sally đóng cửa phòng ngủ của mình, cô bước vào nhà bếp – nơi có bà ngoại Arella đang ngồi đọc Kinh Ketuvim¹¹. Bà vẫn như thói quen, mặc một bộ trang phục truyền thống Do Thái: váy, áo cánh và tạp dề, trong lúc đọc kinh. Mắt bà dõi theo từng con chữ trên trang giấy, hai bàn tay nâng niu cuốn Kinh, miệng không ngừng phát ra tiếng.

Cô từ từ tiến lại gần bà, chạm vào vai bà mà lay nhẹ. Bà Arella hơi bất ngờ, nhưng vẫn nở một nụ cười đáp lại cháu gái.

– Sao vậy cháu?

– Ngoại nghỉ đi! Đừng ngồi đọc nữa!

Bà Arella cười, những nếp nhăn trên mặt bà chen chúc nhau, đẩy cho những vết chân chim lộ diện rõ hơn.

– Đừng thế mà cháu yêu! Ta chuyên tâm nghiền ngẫm Tanakh¹², một lòng cảm tạ Chúa, rồi phước lành sẽ đến với bà cháu ta.

Sally chỉ gật đầu. Cô không biết nên trả lời thế nào.

Bà Arella nhìn thấy chiếc cặp của cháu gái, như nhận ra điều gì đó, bà vội vã gấp cuốn Kinh Thánh trên tay.

– Cháu về trường? Đến giờ chưa?

Bà lồm cồm ngồi dậy với sự giúp đỡ của cháu gái. Bà nhanh chóng cất gọn cuốn sách lên trên kệ, loay hoay tìm thứ gì đó.

– Đây rồi! Xem nào... Quá năm giờ. Cháu phải về thật rồi...

Vẻ mặt bà Arella lộ rõ sự thất vọng khi nhìn vào màn hình của chiếc điện thoại "cục gạch", nhưng rồi như nhớ ra điều gì đó, bà gấp gáp đi về phía tủ bếp, lấy ra một túi giấy. Bà vội vàng cho vào đó những cái bánh knafeh¹³ và hamantash¹⁴ vàng ươm. Bà mở tủ lạnh, lấy ra một hộp sữa chua hy lạp được đậy kín, bà bỏ chúng vào hộp giấy nốt rồi đưa tất cả cho Sally.

– Cháu yêu! Đây! Ăn uống cho đầy đủ nhé! Học chăm vào!

Bà vừa nói vừa vuốt ve mái tóc xoăn nhẹ của cô. Ánh mắt bà trìu mến hơn bao giờ hết.

Sally nắm lấy bàn tay đang đặt lên mái tóc mình, cô thủ thỉ:

– Ngoại nhớ giữ sức! Đừng có làm nhiều quá! Thấy mệt trong người thì nhờ bác Day-Lewis đưa đến bệnh viện nhé!

Bác hàng xóm nhà cô là một người bán rau củ, ngày nào cũng phải đi lấy hàng nên trong nhà luôn có một chiếc xe máy. Bác Day-Lewis chuyên chở những cụ già trong khu đến bệnh viện, phòng khám mà không nhận một xu tiền công nào, thành ra được khá nhiều người yêu quý. Dù bác ấy cũng không ưa Sally là bao nhưng cô vẫn thấy biết ơn bác ta vì ít nhiều đã thay cô để ý đến người bà đang mang bệnh của mình.

Bà Arella cùng Sally đi ra cửa quán. Trước khi rời nhà, cô dặn dò bà ngoại một lần nữa:

– Ngoại nghe con! Đừng làm nhiều quá! Con lo được mà...

– Ngoại biết rồi. Con đi nhanh, trễ giờ mất.

Thâm tâm cô gào thét, nó muốn ở lại cùng bà. Nhưng cô đành rời gót bước đi. Đợi khi bà ngoại Arella đã trở vào trong, cô lấy hết sức, chạy như bay. Cô chạy thật nhanh, cuối cùng dừng lại trước một phòng khám lớn các khu không xa, cô vẫn thường đưa bà đến đây khám.

Nơi này trông khang trang và sạch sẽ, nằm trong khu vực nô nức của thành phố Tel Aviv, trái ngược hoàn toàn với cái khu lụp xụp, chật chội vì những căn nhà bé xíu len lỏi để tồn tại. Sally bước vào trong đó. Phòng khám có tông màu trắng chủ đạo và một mùi rất đặc trưng. Cô nhanh chóng bỏ qua việc ngắm nhìn nó. Chạy thẳng đến chỗ vị bác sĩ đang ngồi đọc báo. Phòng khám vắng khách nên trông ông ta thong thả hơn hẳn.

– Bệnh nhân Arella Neham ạ.

Cô nói với giọng điệu gấp gáp. Da cô rất dễ tiết mồ hôi. Chỉ mới chạy một đoạn, tóc cô đã ướt, dính cả vào trán, vào cổ. Với thể chất không mấy khỏe mạnh, cô bé thở hồng hộc chỉ vì vài bước chạy nhanh.

Ông bác sĩ mái tóc đỏ, nhìn cô một lúc rồi lục lọi chiếc tủ sau lưng. Ông ta cầm ra một xấp giấy khám bệnh rồi đưa cho Sally.

– Xem cho kĩ vào, Gái ạ!

Cô gật đầu vội rồi chạy ào ra ngoài, thẳng tiến trở về trường EMIS.

Mất cả hơn cả tiếng đồng hồ để cô có thể bước vào trong ký túc xá nữ. Trường cô nằm trong thành phố Tel Aviv trong khi khu cô ở lại cách đó quá xa. Vừa ngả lưng xuống chiếc nệm không quá êm ái của trường, Sally đã nghe được tiếng hát quen thuộc. Là Charlotte. Cô bé lại ngồi dậy.

– I love you, babeeeeee!

Căn phòng im bặt trong hai giây.

– Oh my God! Torres! Cuối cùng em cũng về!

Charlotte chạy ùa vào từ cửa phòng, ôm choàng lấy cô, vừa nói vừa liên tục hôn vào hai bên má Sally. Đến khi cô bé dùng tay đẩy ra, cô nàng mới buông.

– Em có biết chị nhớ em lắm không? Sao nào? Về thăm bà vui chứ?

– Ừm... Cũng vui.

Cô trả lời qua loa cho xong. Charlotte cũng không hỏi thêm nữa mà bắt đầu kể về chuyến đi tham quan bảo tàng Mỹ thuật ở trung tâm thành phố.

Đang kể giữa chừng, bỗng cô nàng đưa cho cô gói đồ gì đó.

– Nhà trường gửi cho em này! Bóc ra đi!

Cô làm theo. Trong đó là phần thưởng của hai cuộc thi mà trước đó cô đã giành được giải Nhất của Quận. Bao gồm tiền và cả sách, vở, giấy khen, quần áo.

– Ôi! Thích thế! Torres giỏi thế!

Charlotte ở bên cạnh không ngớt lời khen dành cho cô. Cô không đáp lại, chỉ cười.

Lại một buổi tối nhàm chán trôi qua, Sally vẫn học còn Charlotte vẫn luyện vẽ. Cho đến khuya, Charlotte không thể trụ tiếp được nữa, đành đắp chăn đi ngủ, chỉ còn Sally vẫn miệt mài.

Sau khi Sally ngưng cắm cúi vào sách vở, ngẩng đầu lên đã thấy Charlotte say giấc, cuộn mình ngủ. Cô lặng lẽ đến bên cặp của mình, kéo khóa thật nhẹ, lấy từ trong đó ra những giấy tờ mà ông bác sĩ đã đưa cho cô.

Không thể đợi thêm, Sally chui xuống gầm bàn, co ro người, mắt vừa lướt theo từng dòng chữ, tay vừa dò theo. Cô lật sang trang mới, những con chữ đập vào mắt khiến cô bất giác chau mày, hơi thở dần mạnh hơn. Đến nhìn thấy tờ cuối cùng, cô gần như buông thõng tất cả.

Bác sĩ chẩn đoán khối u trong phổi bad cô đã phát triển lớn hơn, ước tính đã được hơn ba centimet. Bà cô sức khỏe vốn không tốt gì, nếu cứ để lâu, khối u tiếp tục phát triển, e rằng bà cô không thể có sức mà chữa trị.

Chỉ nghĩ đến đây, tay cô bất chợt túm chặt lấy ống quần. Cô sợ. Sợ mất bà. Cô sợ một ngày nào đó cô sẽ chẳng còn ai thân thích. Cô sợ. Sợ bà đi mất. Cô sợ bà sẽ phải chịu đau, chịu khổ. Cô vẫn còn ám ảnh khung cảnh bà nằm trên giường bệnh, gương mặt cắt không còn giọt máu, tay chân xanh xao, hô hấp một cách khó nhọc. Nhưng cô vẫn còn đang bất lực. Chẳng biết làm sao để giúp bà trị bệnh. Cảm giác tội lỗi cứ thế ký sinh, ăn mòn tâm trí cô.

Nhích vào sâu hơn trong gầm bàn, cô đưa tay ôm lấy khuôn mặt mình, những giọt nước mắt cứ thế rơi. Bất lực. Sợ hãi. Tội lỗi. Cô mệt rồi. Cứ thế, đôi mi cô ướt nhòe thâu đêm.

NEW YORK, THE USA

Serpens thức dậy sau, chào đón anh là bầu không khí tĩnh lặng. Căn phòng không một bóng người, không một tiếng động. Anh vuốt mặt, đưa tay vò mái tóc vàng pha bạch kim vẫn còn đang rối tung, biểu cảm lờ đờ vì còn đang ngái ngủ.

Mất một lúc để anh có thể rời khỏi giường với tình trạng tỉnh táo. Đưa tay chộp lấy bộ quần áo chuẩn bị sẵn từ trước, anh vào phòng tắm thay nó.

Nhìn vào chính bản thân mình trong gương, mười vạn câu hỏi thi nhau đấm đá trong đầu anh. Rốt cuộc tối qua anh đã ngủ kiểu gì để bây giờ tóc có thể dựng đứng lên như vậy? Anh ngủ kiểu gì mà để dấu móng tay hằn lên cả mặt thế kia? Ngơ ngác nhìn vào gương, lẳng lặng đưa tay sờ lên những tàn tích đó. Có Chúa mới biết câu trả lời.

Anh ở lì trong phòng tắm cả gần nửa tiếng chỉ để chỉnh đốn lại mái tóc của mình. Việc luôn phải trở nên chỉn chu hết sức có thể trước ống kính của phòng viên khiến anh luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh mà bản thân bắt buộc phải xây dựng.

Anh rời khỏi phòng. Hôm nay anh mặc một chiếc áo sơ mi trắng, quần âu đen rộng rãi.

Serpens đi thẳng xuống phòng ăn. Đợi anh ở dưới đó chỉ có duy nhất lão quản gia Campbell đang đi đi lại lại liếc ngang liếc dọc. Vừa nghe thấy tiếng bước chân của anh, lão ta đã vội vàng đứng nghiêm chỉnh lại, cúi đầu chào.

– Chào buổi sáng cậu chủ!

Anh không đáp lại ông ta, chỉ hỏi:

– Mẹ tôi chưa xuống à?

– Vâng, chưa thưa cậu.

Anh ngưng một lúc rồi bảo với ông ta:

– Chuẩn bị bữa sáng.

– Vâng, thưa cậu.

Lão ta nhanh chóng rời đi.

Thay vì dừng chân ở đây. Anh ghé vào thư phòng. Vừa bước vào cửa, anh đã có thể nhìn thấy bóng dáng bà Helen ở trong đó. Bà ấy trên tay cầm một tách trà, tay còn lại đang giữ lấy một trang sách, mắt liên tục dõi theo dòng chữ. Nhận thức được sự hiện diện của con trai, bà Helen thôi chăm chú đọc sách, bà nhìn con mình với một ánh mắt chào đón.

– Buổi sáng tốt lành, mẹ!

– Ồ! Buổi sáng tốt lành, con trai!

Vừa nói dứt lời, một con mèo Ragdoll từ đâu nhảy vọt lên người bà ấy.Nó dụi cơ thể lông lá của nó vào tay phu nhân Walton trước khi nằm lọt thỏm trong vòng tay nâng niu đó. Nó có một đôi mắt xanh tuyệt đẹp, long lanh như hai giọt sương, nhưng nó có vẻ không biết cách sử dụng đôi mắt của mình cho lắm khi liếc anh. Serpens lườm lại nó. Toàn thân được bao bọc bởi bộ lông màu trắng sáng tuyệt đẹp. Lưỡi không ngừng liếm láp lông trên hai chân trước. Nó giương mắt nhìn anh trong một giây rồi quay phắt đi, cứ như anh là người vô hình. Nó ghét anh rồi!

– Ôi! Cục cưng, con yêu à! Mặt mũi hầm hầm như thế nên con không thích đúng không nè?

Bà Helen nói bằng chất giọng ngọt ngào. Nhưng không phải với đứa con trai duy nhất của mình, mà là với con mèo cưng của bà.

Mặt của Serpens lại càng trông "khó ở" hơn, chán nản nhìn mẹ mình vuốt ve con mèo, luôn miệng trách anh vì đã làm "con yêu" của bà phật ý. Thế quái nào anh lại trở thành con ghẻ trong chính ngôi nhà của mình? Quỷ tha ma bắt thế nào anh lại là người có lỗi trong khi con mèo đó tỏ thái độ trước? Thầm rủa trong lòng. Trật tự trong nhà đảo lộn hết cả rồi! Nhưng anh chợt nhận ra, trật tự trong nhà này vốn là như vậy, nên anh không rủa nữa.

Serpens cười nhẹ. Ít ra sáng hôm nay không khí gia đình dường như đã trở nên tích cực hơn. Mẹ anh vui. Vậy là ổn. Bà ấy tạm thời không để tâm đến ba anh. Dù gì người có mâu thuẫn với ông Titus trong gia đình ba thành viên này không chỉ có mỗi phu nhân Walton. Không nghĩ nhiều, đỡ mệt.

Bà Helen vừa bồng con mèo trên tay, vừa tiến đến, kiễng chân muốn lấy một cuốn sách ở trên cao. Serpens nhanh bước đến giúp đỡ mẹ mình. Anh không chỉ lấy cuốn sách mà còn muốn giúp mẹ giữ con thú cưng to tướng. Nhưng có vẻ nó với anh không hoà thuận lắm. Nó không tác động vật lý lên anh. Nhưng lại nhìn chằm chằm như thể anh là tội phạm truy nã. Sau hai giây kiên nhẫn giữ nó, anh đã quyết định ném nó xuống sàn.

– Ôi ôi! Con yêu của mẹ! Có sao không, Allie?

Bà Helen vội bế "con yêu" của bà lên, vuốt ve bộ lông của nó và ân cần hỏi han. Mặc cho con trai ruột thịt của bà đang bất lực đứng nhìn.

– Con chịu thua rồi đó!

Serpens thở dài, nhưng anh không buồn, mẹ anh vốn đã vậy và anh thích điều đó.

Bà Helen đọc sách trong khi con mèo lông trắng nằm trên bàn ve vẩy đuôi. Thỉnh thoảng nó lườm anh rồi lại quay phắt đi.

Serpens không để ý lắm những tiểu tiết như vậy. Anh lựa cho mình một cuốn sách rồi ngồi xuống ghế và đọc. Thư phòng cứ thế rơi vào im lặng.

Khoảng hai mươi phút sau, tiếng gõ cửa của quản gia đã làm những người trong phòng ngẩng đầu khỏi trang sách.

– Mời phu nhân và cậu chủ xuống dùng bữa!

Hai mẹ con anh xuống phòng ăn, con mèo Allie lẽo đẽo theo sau chân chủ nhân. Nó chán nản vì hành lang khá dài, nó dùng móng vuốt cào ống quần của anh. Serpens đáp trả lại nó bằng một cú đá nhẹ và anh bị mẹ càm ràm suốt cả quãng đường.

Ngồi vào bàn ăn cùng nhau. Bữa sáng hôm nay vẫn ngon lành như mọi ngày. Suốt buổi, Serpens vào mẹ không trò chuyện nhiều, cả hai đều đắm chìm trong thế giới của mình với những suy nghĩ riêng.

Kết thúc bữa sáng bằng việc trở về phòng của cả hai mẹ con. Bà Helen chắc chắn sẽ làm việc và đọc sách. Còn Serpens. Anh phải chuẩn bị đồ, trưa nay anh sẽ lên đường trở về Harvard.

Anh vẫn quay cuồng với công việc và sách vở. Dự án của công ty lại chất chồng như núi, xong cái này sẽ có cái khác được giao, chưa kể còn đủ loại báo cáo, hồ sơ. Bài luận ở trường vẫn còn đang đợi anh hoàn thành chúng. Ngày nào cũng như ngày nấy, vừa từ trường về nhà, chẳng dành được nhiều thì giờ nghỉ ngơi anh đã phải vội lao vào bàn. Dần dà, anh nới lỏng bản thân mình khỏi những đam mê. Anh không còn đắm chìm hàng giờ trong những kiến thức lý thú của khoa học. Anh vẫn đọc sách nhưng dần cảm thấy nó vô vị. Anh vẫn học nhưng đang để chúng nghiền nát anh, chúng không còn là ước mơ mà thay vào đó là áp lực. Anh vẫn sống nhưng dần quên mất mục đích cuối cùng là gì. Sự tiêu cực đang dìm anh xuống.

Hôm qua anh đã có một hành động khá mạo hiểm: dành cả buổi tối cho mẹ mình. Hậu quả mà anh phải đón nhận đó là sự gấp rút trong công việc và bài vở. Nhưng không sao, đối với anh đó là một món hời, anh đã biết được tình trạng hiện tại của mẹ anh, còn bắt tay với bà ấy để đối phó với người chồng tội lỗi.

Bà Helen đang ở trong thư phòng, vừa đọc xong một cuốn sách. Bà rất có hứng thú với các thể loại như lịch sử, thần thoại, tiểu thuyết huyền bí hoặc về những vấn đề xã hội như bình đẳng giới, phân biệt chủng tộc,... hoặc gần gũi với bà hơn, đó là thời trang.

Vì ngay từ khi còn nhỏ, bà đã được tiếp xúc với truyền thống đọc sách của gia đình, sau khi kết hôn, gia đình chồng cũng có truyền thống tương tự nên cho đến bây giờ bà vẫn có một niềm yêu thích không nguôi dành cho những trang sách.

Phu nhân Walton rời khỏi thư phòng, con mèo cái Allie vẫn quấn quýt bên từng bước đi của bà. Bà đến nhà bếp. Hầu hết những người làm ở đây đều đang ở một căn phòng riêng dành cho họ. Trong khoảng thời gian này, bà sẽ làm bánh. Bề ngoài lúc nào cũng là một quý bà độc lập, thông minh, một người của công việc và xã hội. Chẳng ai nghĩ rằng bà sẽ có sở thích mà người ngoài nhìn vào sẽ thấy chẳng khác nào một người nội trợ. Mang tạp dề vào, bà bắt đầu làm bánh.

Serpens vẫn còn cắm đầu cắm cổ vào bàn. Công việc đã hoàn thành được kha khá, anh sắp làm xong rồi. Còn hai tiếng nữa là đến lúc anh rời nhà. Vẫn đủ thời gian để anh làm nốt nó. Anh trì hoãn tiến độ dự án để giảm lượng công việc cho mình, thật sự rất ích kỷ. Anh ý thức được việc này sẽ ảnh hưởng đến những gì. Đây cũng không phải biện pháp lâu dài. Đã đến lúc anh phải kết thúc dự án.

Trong lúc anh đang miệt mài, tiếng mở cửa khiến anh phải ngừng lại:

– Ơ mẹ!

Bà Helen đang bê một chiếc bánh tart hoa quả. Chiếc bánh vẫn còn phảng phất mùi thơm và hơi nóng. Gương mặt của bà thì lấm mồ hôi, đặc biệt là phần gò má. Chứng tỏ vừa mới làm xong chiếc bánh bà đã mang lên đây ngay để khoe với con trai mình.

Bà Helen lon ton chạy về phía bàn của Serpens, đặt ngay chiếc bánh xuống bàn, hồ hởi nói:

– Rắn con! Mẹ mới làm bánh nè! Con thử trước đi.

Serpens rời mắt khỏi đống giấy tờ, chuyển hướng sang chiếc bánh của mẹ. Thứ đập vào mắt anh không phải là hoa quả đầy ụ trên mặt bánh mà là những vết cháy đen ở phần vỏ bánh.

– Mẹ hỏa thiêu nó à?

Anh châm chọc mẹ mình, biết trước bà sẽ phản ứng lại.

Bà Helen đứng thẳng lưng, một tay chống hông một tay gõ gõ lên mặt bàn.

– Đúng rồi! Mẹ còn có thể hỏa thiêu luôn cả rắn nữa.

Bà Helen nở một nụ cười đắc thắng vì đã làm cho Serpens á khẩu.

– Ăn thử đi!

Bà rút ra con dao nhỏ đã mang theo từ trước, cắt chiếc bánh ra thành bốn phần. Bà không ăn ngay mà để Serpens thử trước. Anh nhai chậm, cảm nhận hương vị của chiếc bánh.

– Sao? Ngon không, con?

– Khá ngon! Nhưng tội quá nó bị hoả thiêu mất rồi.

Anh bị mẹ vả cho một phát đau điếng vào vai. Nhưng lại nhếch mép khoái chí vì trò đùa dai của mình đã thành công chọc tức mẹ.

– Con được lắm!

– Quý phu nhân đây đã quá lời rồi!

Bà Helen lại vả cho anh một phát nữa.

– Nhưng thật lòng thì mẹ làm ngon lắm! Ngon nhất trên đời!

Anh cuối cùng cũng nói ra. Nhưng sự thật, không chỉ món bánh tart hoa quả, mà bất cứ món ăn nào bà ấy nấu, đối với anh đều ngon nhất trên đời. Mẹ đi làm xa, con đi học ở nơi chẳng gần, hai mẹ con chỉ gặp nhau ở dịp cuối tuần, anh luôn trân trọng từng khoảnh khắc ở bên cạnh bà. Bà vẫn luôn là người duy nhất cho anh cảm nhận được tình thương gia đình. Món bánh ngon nhất trên đời của bà khiến tâm trạng anh có vẻ tốt hơn.

– Cảm ơn, Rắn con của mẹ!

Đôi khi bà Helen quên mất rằng, cậu con trai của mình đã mười bảy tuổi, dường như bà không hề mang trong mình khái niệm về tuổi tác của Serpens. Đối với bà, anh vẫn chỉ mãi là một đứa con.

Khoảng thời gian còn lại của hai mẹ con trôi qua êm ả. Những lời dặn dò ân cần, lâu lâu lại là những câu từ châm chọc. Cuối tuần một lần nữa trôi qua.

Đầu giờ chiều, tài xế đã đậu xe ngay trước cổng, đồ đạc anh đều đã chuẩn bị xong, công việc, bài vở đều hoàn tất. Chỉ còn chào tạm biệt mẹ nữa thôi. Serpens đi đến trước cửa phòng mẹ mình, nhẹ nhàng gõ cửa. Không có tiếng đáp lại, anh gõ lần hai. Vẫn vậy. Serpens chầm chậm mở cửa.

Vừa bước vào phòng, anh nhìn thấy bà Helen đang ngồi ngủ quên trên chiếc ghế dựa, kế bên là chiếc máy nghe nhạc vẫn đang bật, trên tay bà cầm chắc một tờ giấy. Anh rón rén lại gần, rút tờ giấy ra khỏi tay mẹ, tránh làm bà thức giấc. Anh từ từ mở tờ giấy ra. Đó là thời gian biểu của anh – thứ đã nói lên sự nghẹt thở của anh vì quá nhiều thứ. Trên giấy là những dòng ghi chép, gạch xóa, tính làm sao để lịch trình của anh có thêm thời gian trống. Một chiếc bút bi rớt ở trên sàn. Anh nhặt nó lên, đặt trên bàn. Serpens cẩn thận đặt mẹ mình lên giường ngủ. Nhẹ nhàng hết sức khi gỡ dây buộc tóc cho bà. Chậm rãi kéo chăn đắp cho bà ấy, lặng lẽ chỉnh nhiệt độ điều hòa. Anh cất tờ thời gian biểu vào túi áo, bà ấy không cần lo cho anh. Anh thấy mình vẫn ổn. Có thật là vậy không?

Anh dịu dàng đặt một nụ hôn lên tay bà ấy. Nắm chặt bàn tay bà, anh nói:

– Tạm biệt mẹ! Đừng lo cho con quá! Con ổn mà!

Xong câu nói đấy, anh rời đi. Chỉ còn bà Helen ở nhà, cùng những lời dặn dò mà con trai đã gửi lại cho những người giúp việc để chăm sóc bà. Chỉ vậy thôi, anh trở lại Harvard. Vòng lặp điên cuồng của một tuần lại bắt đầu.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro