Chương 28

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

第28章 – Chương 28

兽人离不开肉,不管是雄性兽人还是雌性兽人,尤其是雄性兽人。不吃肉,雄性兽人就没有力气去猎食,他们会变得没有精神,会虚弱,会被猎物或敌人轻易杀死。与其说白月的严寒是雌性难以熬过去的原因,那白月时期肉食的短缺 [duǎnquē] 就是雄性兽人要面临 [miànlín] 的艰难了。

Thú nhân không thể sống thiếu thịt, cho dù là thú nhân giống đực hay giống cái, nhất là thú nhân giống đực. Không ăn thịt, thú nhân giống đực sẽ không có sức để đi săn thú, bọn họ sẽ không có sinh lực, trở nên gầy yếu, sẽ bị con mồi hoặc kẻ dịch giết chết dễ dàng. Nếu nói cái rét khắc nghiệt của bạch nguyệt là nguyên nhân giống cái không thể sống sót, vậy thì tình trạng thiếu thịt trong kì bạch nguyệt chính là khó khăn mà giống đực phải đối mặt.

红月很快就要过去了,然后就是黄月,四个月后,黄月变成白月,一年中最寒冷最漫长的时节就要来临。一大早,巴赫尔和部落里的壮劳力们就又出去打猎了。他们今天的任务是带回食草的活物。除了还在熟睡的幼崽外,大部分雌性和所有留守在部落中的雄性们都已经起来了。每个茅屋前烟雾 [yānwù] 缭绕 [liáorào],有的是在准备早饭,有的是在处理毛皮或是食物。

Kì hồng nguyệt sắp qua rồi, sau đó chính là hoàng nguyệt, bốn tháng sau đó, hoàng nguyệt sẽ biến thành bạch nguyệt. Khoảng thời gian lạnh lẽo nhất trong năm sắp đến. Một buổi sáng sớm, Bacher và những thú nhân mạnh mẽ trong bộ lạc lại đi săn. Nhiệm vụ hôm nay của họ là phải bắt động vật ăn cỏ còn sống đem về. Trừ các ấu tể còn đang say giấc nồng, phần lớn giống cái và những giống đực ở lại bảo vệ bộ lạc đã thức dậy rồi. Trước mỗi căn nhà cỏ đều có khói bếp lượn lờ, có người thì chuẩn bị đồ ăn sáng, có người thì đang xử lí da thú hoặc con mồi.

康丁坐在大茅屋中他惯常坐着的那个位置沉思。正门栅栏上的兽皮取了,不过还是遮蔽 [zhēbì] 的状态。光线透过栅栏的缝隙射入大茅屋中,在康丁的身上留下斑斓 [bānlán] 交错 [jiāocuò] 的光印。他在沉思,虽然只和赵云霄相处了不到一天,康丁已能看出他身上的奇异之处。原本虚弱的连床都起不来的伴侣只是吃了云霄做的两顿饭就好了许多,还有那条风干得硬邦邦的肉腿带着奇特 [qítè] 的香味,不像他们风干的肉常常都带着腐坏的气味。

Trong gian nhà cỏ lớn, Kandin ngồi ở nơi mình vẫn hay ngồi, trầm tư suy nghĩ. Da thú trên hàng rào cửa chính đã lấy xuống rồi, nhưng hàng rào vẫn đóng kín. Ánh sáng xuyên qua khe hở hàng rào chiếu vào gian nhà cỏ, trên người Kandin lưu lại những vệt sáng giao thoa rực rỡ. Ông trầm tư, tuy mới ở cùng Triệu Vân Tiêu chưa tới một ngày, nhưng Kandin đã nhìn ra được cậu có cái gì đó rất lạ. Bầu bạn vốn đang ốm liệt giường chỉ ăn hai bữa cơm Vân Tiêu nấu đã khỏe hơn nhiều, còn có đùi thú phơi khô cứng rắn mang hương vị lạ lùng, không giống như thịt mà họ phơi khô thường có mùi hư thối.

康丁越想越觉得应该把云霄留在部落里,他有种感觉,这个雌性能为他们的部落带来很多变化。如果云霄能和巴赫尔结为伴侣那就最好不过。可是一想到吉桑的态度,康丁就很为难。他是族长,他要考虑部落的安全,要考虑部落的延续,他有他必须去做和不得不做的事情。他知道云霄很喜欢图佐,可图佐是被诅咒的,也许分开的时间长了,云霄会忘了图佐,喜欢上巴赫尔。或者,当云霄能听懂他们的话,了解了图佐的情况后就愿意留在部落了。

Càng nghĩ, Kandin càng cảm thấy phải giữ Vân Tiêu lại bộ lạc, ông có cảm giác, giống cái này có thể tạo ra rất nhiều thay đổi cho bộ lạc của họ. Nếu Vân Tiêu có thể kết thành bạn đời với Bacher thì là tốt nhất. Nhưng chỉ cần nghĩ tới thái độ của Jisan, Kandin lại thấy khó xử. Ông là tộc trưởng, ông phải suy xét tới sự an toàn của bộ lạc, phải nghĩ cách để bộ lạc kéo dài, có những việc ông cần làm và không thể không làm. Ông biết Vân Tiêu rất thích Tuzo, nhưng Tuzo đã bị nguyền rủa, có lẽ chia cách lâu rồi, Vân Tiêu mới quên Tuzo đi, rồi thích Bacher. Hoặc là, nếu Vân Tiêu có thể hiểu họ nói gì, biết được tình cảnh của Tuzo thì cậu ấy sẽ bằng lòng ở lại bộ lạc.

栅栏的门发出响动,康丁立刻扭头,然后迅速站了起来。起床的吉桑做了个小声的手势,轻轻走出来,把栅栏挪回原位,然后轻声说:"云霄还在睡。"

Hàng rào phát ra tiếng động, Kandin lập tức quay đầu lại, nhanh chóng đứng lên. Jisan thức dậy, làm động tác nói nhỏ thôi, nhẹ nhàng đi ra ngoài, kéo hàng rào về chỗ cũ, khẽ nói: "Vân Tiêu vẫn đang ngủ."

康丁立刻道: "我给你做饭,饿了吧?"

Kandin nói ngay: "Anh nấu cơm cho em, em đói chưa?"

吉桑却问:"你吃了吗?"

Jisan hỏi lại: "Anh đã ăn gì chưa?"

"吃了昨晚的烤肉。"

"Ăn thịt nướng tối qua rồi."

吉桑拉着康丁进了巴赫尔的房间,这才说:"昨天云霄给我喝的水都是热的,吃的也是软软的食物,我的肚子一晚上都没有疼,一觉就睡到刚才了。我觉得我肚子疼很可能是喝的水和吃的食物不对。"

Jisan kéo Kandin vào phòng Bacher rồi mới nói: "Tối qua Vân Tiêu cho em uống nước ấm, ăn thức ăn mềm, cả tối bụng em không đau nữa, ngủ một giấc là tới sáng. Em cảm thấy bụng mình đau có thể là do uống nước và ăn thức ăn không đúng."

康丁点点头:"我觉得也是。你问问他给你煮的那个白糊糊是用什么煮的,我让巴赫尔去找。"

Kandin gật đầu: "Anh cũng cảm thấy vậy. Em hỏi cậu ấy xem món trắng sền sệt cậu ấy nấu bằng cái gì, để anh bảo Bacher đi tìm."

吉桑不确定地说:"我昨天看到他拿出来了,好像是石果的果肉。"

Jisan không chắc chắn lắm, nói: "Hôm qua em thấy cậu ấy lấy ra, hình như là ruột của thạch quả."

"石果的果肉?" 康丁吃惊,"石果的果肉怎么可能做成糊糊?"对兽人来说,石果的果肉非常难吃。看云火一开始根本就不吃就知道了。

"Ruột của thạch quả?" Kandin kinh ngạc, "Ruột của thạch quả làm thế nào mà nấu ra được món sền sệt đó?" Đối với thú nhân mà nói, ruột của thạch quả cực kì khó ăn. Nhìn Vân Hỏa mới đầu cũng không ăn là biết ngay.

吉桑疑惑地说:"我看着像,我也很好奇云霄是用什么做的,我今天会问问他。云霄做饭很好吃,我想和他学习,然后做给你和巴赫尔吃。"

Jisan hoài nghi, nói: "Em thấy giống lắm, em cũng tò mò Vân Tiêu nấu bằng cái gì, hôm nay em sẽ hỏi thằng bé. Triệu Vân Tiêu nấu ngon lắm, em cũng muốn học theo, sau này có thể nấu cho anh và Bacher ăn."

康丁摸上吉桑的脸,说:"我不需要你给我做饭,我只要你不再疼,不再难受。"

Kandin xoa mặt Jisan, nói: "Anh không cần em phải nấu cho anh ăn, anh chỉ cần em không đau bụng nữa, không buồn bã nữa."

吉桑的眼眶红了,他是埋怨康丁不假,可是不能否认康丁很爱他,很在乎他。吉桑的脸康丁粗糙的手掌上磨蹭,哑声说:"辛苦你了,康丁,自从我病了之后,这个家什么都忙不到你。"

Vành mắt Jisan đỏ lên, ông oán giận Kandin không phải là giả, nhưng không thể phủ nhận rằng Kandin rất yêu ông, rất để tâm đến ông. Gương mặt Jisan cọ vào lòng bàn tay thô ráp của Kandin, giọng khàn đặc nói: "Anh vất vả rồi, Kandin, từ khi em bị bệnh đến giờ, việc trong nhà cái gì cũng đến tay anh."

"我只要你能一直在我身边。" 康丁抱住吉桑,抱紧,"我是族长,有些事我必须去做。对不起,吉桑,我不能让图佐回来。"

"Anh chỉ muốn em mãi mãi ở bên anh." Kandin ôm thật chặt lấy Jisan, "Anh là tộc trưởng, có những việc anh buộc phải làm. Xin lỗi em, Jisan, anh không thể để Tuzo quay lại."

吉桑咬住了嘴,只要一到这个话题,他们总是无法再说下去。但这次吉桑没有朝康丁发脾气,而是说:"云霄很怕部落的族人,尤其是雄性,让他和我们住在一起吧,我好照顾他。"

Jisan cắn môi, chỉ cần nhắc đến vấn đề này, họ không thể nói tiếp được nữa. Nhưng lần này Jisan không tức giận với Kandin nữa mà chỉ nói: "Vân Tiêu rất sợ tộc nhân trong bộ lạc, đặc biệt là giống đực, để cậu ấy ở lại với chúng ta đi, em sẽ chăm sóc tốt cho cậu ấy."

康丁为难地说:"瓦拉让云霄和梅伦住在一起,梅伦方便教他部落的语言。"

Kandin khó xử, nói: "Valla muốn để Vân Tiêu ở chung với Mellen, Mellen dễ dạy ngôn ngữ của bộ lạc cho cậu ấy hơn."

吉桑放开康丁,立刻不高兴了:"乌特已经有梅伦了,瓦拉还要云霄做什么?"

Jisan buông Kandin ra, lập tức cảm thấy không vui: "Utre đã có Mellen rồi, Valla còn muốn Vân Tiêu làm gì nữa?"

康丁赶忙说:"那是昨天说好的,瓦拉也是为了让云霄尽快熟悉部落才让梅伦照顾他。"

Kandin vội vàng nói: "Đây là hôm qua mọi người cũng thảo luận, Valla yêu cầu Mellen chăm sóc Vân Tiêu để cậu ấy làm quen với bộ lạc càng sớm càng tốt."

"不需要。" 吉桑断然 [duànrán] 拒绝,"我现在好多了,可以照顾云霄,而且你该知道云霄不喜欢瓦拉。还有,"吉桑压低声音,"如果让瓦拉发现云霄有那么多金石,有那么多珍贵的东西,瓦拉会怎么做?他会把云霄的私产变成部落的公产,我绝不允许!"

"Không cần." Jisan quả quyết từ chối, "Em đã đỡ hơn nhiều rồi, có thể chăm sóc được cho Vân Tiêu, mà anh cũng phải biết là Vân Tiêu không thích Valla, còn nữa," Jisan đè thấp giọng xuống, "nếu để Valla phát hiện ra Vân Tiêu có nhiều kim thạch như thế, có nhiều đồ vật quý giá như thế, Valla sẽ làm gì? Ông ta sẽ biến tài sản riêng của Vân Tiêu thành đồ của công trong bộ lạc, em tuyệt đối không cho phép điều đó xảy ra!"

康丁之所以回来为的也是这件事,但他是族长,不能直接去跟瓦拉说要自己的伴侣来照顾云霄。他说:"你让云霄藏好他的金石。至于瓦拉那边,还是让云霄自己决定吧。如果他不愿意住在瓦拉那里,我让巴赫尔搬到克亚 [Kè yà] 那边去住,云霄住巴赫尔的茅屋。"

Sở dĩ Kandin quay về cũng là vì chuyện này, nhưng ông là tộc trưởng, không thể đến trước mặt Valla nói thẳng là bạn đời của mình muốn tự chăm sóc Vân Tiêu. Ông nói: "Em bảo Vân Tiêu cất kĩ kim thạch đi. Còn về phần Valla, cứ để Vân Tiêu tự quyết định đi. Nếu cậu ấy không muốn ở chỗ Valla, anh sẽ bảo Bacher qua ở nhà Kea, Vân Tiêu sẽ ở phòng Bacher."

吉桑说:"让云霄住我们这间吧,我们搬到巴赫尔那间住。"

Jisan nói: "Để Vân Tiêu ở phòng của chúng ta đi, mình sẽ dọn qua ở phòng Bacher."

康丁无所谓,道:"先看看云霄愿不愿意吧。"

Kandin thấy chẳng có vấn đề gì, nói: "Để xem Vân Tiêu có bằng lòng không trước đã."

吉桑没说什么,不过他有自信云霄一定愿意跟他住。康丁接着又犹豫地说:"你问问云霄图佐是不是遇到过青皮兽。"

Jisan không nói gì nữa, nhưng ông tin Vân Tiêu nhất định muốn ở lại với ông. Kandin vẫn do dự, nói: "Em hỏi thử Vân Tiêu xem, Tuzo có gặp phải thanh bì thú không?"

"青皮兽?" 吉桑不解。

"Thanh bì thú?" Jisan không hiểu lắm.

康丁低声道:"利尔说图佐身上的幻兽衣很象是青皮兽的兽皮做成的。"

Kandin nhẹ giọng nói: "Lear nói bộ huyễn thú y trên người Tuzo giống như làm từ da thanh bì thú."

"什么?!"

"Cái gì?!"

康丁摀住了吉桑的嘴,更压低声音:"如果图佐的幻兽衣真的是青皮兽的皮,那云霄戴着的圆珠很可能就是青皮兽的兽珠,也许他们还有青皮兽的兽骨。"

Kandin che miệng Jisan lại, càng đè giọng mình xuống: "Nếu huyễn thú y của Tuzo thực sự là da thanh bì thú, vậy thì hạt châu Vân Tiêu đeo rất có thể chính là thú châu của thanh bì thú, có lẽ họ còn có cả xương của thanh bì thú."

吉桑拉下康丁的手,咬了咬嘴,说:"我会去问。但你要对我发誓,如果真的是青皮兽,你不许告诉瓦拉,不许告诉任何人!更不许拿走云霄的兽珠!如果你那样做了,我会带着云霄离开部落,永远离开!"

Jisan kéo tay Kandin ra, cắn môi, nói: "Em sẽ hỏi. Nhưng anh phải thề với em, nếu như thực sự là thanh bì thú, anh không được phép nói với Valla, không được nói với bất kì ai! Càng không được phép lấy thú châu của Vân Tiêu! Nếu anh làm như vậy, em sẽ đưa Vân Tiêu rời khỏi bộ lạc, mãi mãi rời khỏi bộ lạc!"

康丁急忙说:"我不会那么做的,除非云霄自己拿出来。"

Kandin vội vàng nói: "Anh sẽ không làm như vậy đâu, trừ khi Vân Tiêu tự mình đưa cho anh."

"你不许去找他!谁也不许!" 吉桑如保护幼崽的雌性,严肃极了,"我太了解瓦拉了。他会去找云霄,会骗云霄拿出来。康丁,不要再让我痛苦了。我保护不了图佐,但我一定要保护云霄,我不会让任何人欺负他、欺骗他!"

"Anh không được phép tìm cậu ấy để đòi! Ai cũng không được phép làm thế!" Jisan giống như một giống cái bảo vệ ấu tể của mình, cực kì nghiêm khắc, "Em quá hiểu Valla rồi. Ông ta sẽ tìm Vân Tiêu, rồi lừa Vân Tiêu giao thú châu ra. Kandin, đừng để em phải đau lòng nữa. Em đã không bảo vệ được Tuzo, nhưng em nhất định sẽ bảo vệ Vân Tiêu. Em sẽ không để bất cứ ai bắt nạt hay lừa dối thằng bé."

康丁连连点头:"我不会告诉瓦拉,不会告诉任何人,也不会去找云霄,我向兽神发誓。"

Kandin gật đầu liên tục: "Anh sẽ không nói với Valla, không nói với ai cả, cũng không tới tìm Vân Tiêu, anh xin thề với thần thú."

在康丁的抚摸下,吉桑激动的情绪平静下来,然后说:"云霄现在不懂我们的话,问也问不出的,等他能听懂之后吧。"

Được Kandin vuốt ve an ủi, tâm lí kích động của Jisan cũng bình tĩnh lại, nói: "Bây giờ Vân Tiêu chưa hiểu lời chúng ta nói, có hỏi cũng không hỏi ra được cái gì, đợi khi nào cậu ấy nghe hiểu rồi hẵng tính."

"好。"

"Được."

吉桑的身体开始恢复,康丁生怕他又病倒,这种时候能顺着他就顺着他。

Sức khỏe của Jisan bắt đầu bình phục, Kandin sợ ông lại đổ bệnh, những lúc thế này cần thuận theo ý em ấy thì phải thuận theo.

康丁还是没有让吉桑动手,他给吉桑煮了一点肉汤。本来他也想给吉桑做蛋羹的,但实在是不会,吉桑昨晚虽然看过赵云霄怎么做了,但最终他还是选择了喝肉汤。蛋羹做坏了不要紧 [bùyàojǐn],他怕浪费了蛋。等他再认真跟云霄学习一次再自己做。

Kandin cũng không để Jisan phải động tay vào, ông nấu cho Jisan một ít canh thịt. Vốn ông cũng muốn làm trứng hấp cho Jisan, nhưng ông không biết làm, tối qua tuy Jisan nhìn thấy Triệu Vân Tiêu nấu như thế nào, nhưng cuối cùng ông vẫn chọn ăn canh thịt. Trứng hấp làm hỏng rồi nói làm không sao cả nhưng ông vẫn sợ lãng phí trứng. Đợi khi nào ông cẩn thận học Vân Tiêu một lần nữa rồi sẽ tự mình làm.

康丁没有给吉桑喝一点凉水。吉桑也只喝了两碗肉汤,他的肚子还是不能接受大块的肉。吉桑起床了,康丁就出去了。喝完肉汤的吉桑跟赵云霄学习,刷牙洗脸,还很小心地用了一点点香皂。用的时候,吉桑拿着香皂闻了好半天。

Kandin không để Jisan uống nước lạnh nữa. Jisan cũng chỉ uống hai bát canh thịt, bụng ông vẫn không chịu được ăn miếng thịt lớn. Jisan dậy rồi, Kandin cũng đi ra ngoài. Ăn canh thịt xong, Jisan cũng học theo Triệu Vân Tiêu, đánh răng rửa mặt, còn cẩn thận dùng một chút xà phòng. Khi dùng, ông còn cầm miếng xà phòng ngửi chán chê.

洗完脸后,吉桑悄悄摸回房间,拿出那个很珍贵的骨头瓶,打开塞着的淡绿色的石头,他用指头抠 [kōu] 出一点点,抹在脸上。吉桑幸福地闭上眼睛,心情愉快地嗅 [xiù] 闻这馨香。云霄是图佐的伴侣,是他的外子(儿媳妇),他绝对不会把云霄送到瓦拉那里去。

Rửa mặt xong, Jisan khẽ quay về phòng, cầm lọ xương quý giá trên tay, mở cái nắp đá màu xanh nhạt ra, ông dùng đầu ngón tay chấm một chút, xoa lên mặt. Jisan hạnh phúc nhắm mắt lại, tâm trạng vui vẻ ngửi mùi hương thơm ngát. Vân Tiêu là bạn đời của Tuzo, là con dâu ông (vợ con trai). Ông tuyệt đối không để Vân Tiêu qua nhà Valla.

握紧手里的骨瓶,吉桑忍住眼里的悲伤。图佐,阿爸会为你守护好云霄,直到你来接他的那一天。阿爸相信,你和云霄在一起才会体会到什么是幸福,体会到,你从来没有过的幸福。

Nắm chặt lọ xương trong tay, Jisan nén nhịn nỗi khổ đau trong mắt. Tuzo, a ba sẽ bảo vệ Vân Tiêu của con thật tốt, cho đến ngày con tới đưa thằng bé đi. A ba luôn tin, con và Vân Tiêu chung sống mới có thể cảm thấy hạnh phúc, cảm nhận được, niềm hạnh phúc trước giờ con chưa từng có được.

赵云霄醒来的时候下意识地喊:"云火......"闭着眼睛往旁边蹭,没有蹭到应有的一片毛茸 [máorōngrōng] 或坚实的胸膛 [xiōngtáng],赵云霄睁开眼睛,然后愣住。几秒钟后,他拉高被子蒙住头,呜咽声起。他想起来了,他和云火分开了。

Triệu Vân Tiêu tỉnh lại, vô thức gọi: "Vân Hỏa..." Mắt nhắm tịt, sờ sang bên cạnh lại không sờ thấy bộ ngực vững chãi lông xù, Triệu Vân Tiêu mở bừng mắt, rồi ngây ra. Mất vài giây, cậu kéo chăn trùm qua đầu, khóc nức nở. Cậu nhớ ra rồi, cậu đã bị chia cách khỏi Vân Hỏa.

"云霄?" 守在外面等着云霄起来的吉桑听到了他的哭泣 [kūqì],拉开栅栏。赵云霄掀开被子,委屈极了:"我想云火,我想图佐。"

"Vân Tiêu?" Jisan đang ngồi bên ngoài chờ Vân Tiêu tỉnh dậy thì nghe thấy tiếng khóc thút thít, kéo hàng rào ra. Triệu Vân Tiêu kéo chăn ra, cực kì ấm ức: "Cháu nhớ Vân Hỏa, cháu nhớ Tuzo."

图佐,是赵云霄和吉桑最容易沟通的一个名字。来到床边跪坐下,吉桑疼爱地给赵云霄擦眼泪,抚摸他柔软的头发:"不要哭,我的孩子,我向兽神发誓我会把你送回图佐的身边。"

Tuzo, đó là cái tên gắn kết Triệu Vân Tiêu và Jisan lại với nhau. Ngồi xổm bên giường, Jisan đau lòng lau nước mắt cho Triệu Vân Tiêu, xoa mái tóc mềm mại của cậu: "Đừng khóc, con của ta, ta xin thề với thần thú, ta sẽ đưa con về bên cạnh Tuzo."

吉桑的抚摸和温柔的语调 [yǔdiào] 就好似"妈妈"那样,赵云霄保住吉桑的腰,在他的怀里喊:"图佐......我想图佐......"

Những cái vuốt ve và giọng nói dịu dàng của Jisan giống như của "mẹ" vậy, Triệu Vân Tiêu ôm lấy lưng Jisan, ở trong lòng ông nói khẽ: "Tuzo... Cháu nhớ Tuzo..."

"你会和他重聚的,会的,会重聚 [chóngjù] 的。" 吉桑轻拍赵云霄,做出一位阿爸的承诺 [chéngnuò]。

"Rồi cháu sẽ gặp lại nó, chắc chắn, sẽ gặp lại thôi." Jisan nhẹ vỗ về Triệu Vân Tiêu, nói ra lời hứa của một người a ba.

吉桑给了赵云霄很大的安慰,虽然他听不懂吉桑在说什么。但吉桑的语调和抚摸让他感受到了其中的关怀 [guānhuái],真心的、不同于父亲,更象是母亲或是中性人爷爷才能带给他的那种令他心安的关怀。赵云霄更愿意相信吉桑就是中性人,更或许就是生下云火的人。这一认知,令他在这种孤独的时刻更加贪恋 [tānliàn] 依赖吉桑,尽管吉桑因为久病而格外的瘦弱。

Jisan đã cho cậu rất nhiều lời an ủi, tuy rằng cậu không hiểu Jisan đang nói gì. Nhưng giọng nói của Jisan và sự vỗ về đó làm cậu cảm nhận được sự quan tâm chân thành, không giống với cha, mà giống như mẹ hay ông nội người trung tính hơn, những người có thể mang lại sự quan tâm săn sóc khiến cậu cảm thấy an tâm. Triệu Vân Tiêu càng muốn tin rằng Jisan chính là người trung tính, hay chính là người đã sinh ra Vân Hỏa. Nhận thức được điều này, cậu càng mong muốn được ỷ lại vào Jisan trong thời khắc cô độc này, dù cho Jisan vì ốm quá lâu mà cực kì gầy yếu.

在吉桑的温柔安抚中,赵云霄从他的怀里退开,擦干眼泪,然后抹去吉桑脸上的泪水,努力朝吉桑露出一抹笑容:"我没事了,吉桑,谢谢你。"

Dưới sự an ủi dịu dàng của Jisan, Triệu Vân Tiêu lùi khỏi vòng tay ông, lau nước mắt mình, rồi lau nước mắt trên mặt Jisan, cố gắng cười cho Jisan xem: "Cháu không sao, Jisan, cảm ơn chú."

吉桑又抱了抱云霄,并非常疼爱地在他的额头上亲了一口,这是雌性长辈对雌性后辈最疼爱的表现。这个吻温暖了云霄,令他几乎又差点流泪。

Jisan lại ôm lấy Vân Tiêu, cực kì đau lòng, thơm lên trán cậu một cái, đây là cử chỉ yêu thương nhất của giống cái lớn tuổi với giống cái nhỏ tuổi hơn. Cái thơm này đã sưởi ấm lòng Vân Tiêu, làm cậu suýt nữa lại rơi lệ.

"吉桑,谢谢你。"

"Jisan, cảm ơn chú."

吉桑拍拍云霄,站了起来,云霄掀开被子,也准备起来了。

Jisan vỗ vỗ Vân Tiêu rồi đứng dậy, Vân Tiêu kéo chăn ra, cũng chuẩn bị dậy luôn.

"我在外面等你。"

"Ta ở ngoài chờ cháu."

尽管两人互相不懂对方的语言,但并不影响双方的沟通。有时候,声音和肢体语言也可以用来交流。吉桑出去了,并拉好了栅栏。赵云霄深吸了几口气,告诉自己不要气馁 [qìněi],要坚持下去。换好衣服,赵云霄拿着他的脸盆和香皂走出房间。吉桑看到他出来立刻提来一个陶罐,并示意云霄放下脸盆。

Cho dù hai người không hiểu ngôn ngữ của nhau, nhưng điều đó không ảnh hưởng tới việc hai bên hiểu ý nhau. Có những lúc, giọng nói và ngôn ngữ hình thể cũng có thể dùng để giao tiếp. Jisan ra ngoài, kéo hàng rào lại. Triệu Vân Tiêu hít thở thật sâu, dặn lòng không được nản chí, phải tiếp tục kiên trì. Thay quần áo xong, Triệu Vân Tiêu cầm chậu rửa mặt và xà phòng ra ngoài. Jisan thấy cậu đi ra thì xách một bình gốm lại, ra hiệu để Vân Tiêu đặt chậu rửa mặt xuống.

云霄把脸盆放在吉桑的脚边,吉桑把陶罐里的水倒在脸盆里,热气散出,陶罐里竟然是热水。这是吉桑专门为赵云霄准备的,他知道赵云霄习惯用热水。云霄很感动,尽管他与吉桑只相处了一天,但他发现这里的人更习惯用凉水、生水,他能猜到这是吉桑特别为他准备的。

Vân Tiêu đặt chậu xuống cạnh chân Jisan, Jisan đổ nước trong bình gốm vào chậu rửa mặt, hơi nóng bốc lên. Hóa ra trong bình gốm là nước nóng. Đây là nước Jisan chuẩn bị riêng cho Triệu Vân Tiêu, ông biết Triệu Vân Tiêu quen dùng nước nóng. Vân Tiêu rất cảm động, dù cậu và Jisan mới ở chung có một ngày, nhưng cậu phát hiện ra người ở đây quen dùng nước lạnh, nước lã hơn, cậu có thể đoán được là Jisan chuẩn bị nước này để cho mình.

吉桑试了试水温,又舀了一碗凉水。结婚之后,在遇到云火之前,赵云霄在家庭中更多的是扮演 [bànyǎn] 着照顾人的角色 [jué sè]。因为他已经结婚了,不能总是呆在父亲的身边,而林明远每天忙着工作,也不可能多么尽心地照顾他。可是来到这里,先是云火把他照顾得妥妥贴贴,现在又是吉桑。

Jisan thử nhiệt độ nước, lại múc thêm một bát nước lạnh. Sau khi kết hôn, trước khi gặp được Vân Hỏa, trong gia đình, Triệu Vân Tiêu luôn đóng vai trò người chăm sóc, vì cậu đã kết hôn rồi, không thể cứ luôn nán lại bên cha mình, mà mỗi ngày Lâm Minh Viễn đều bận rộn công việc, cũng không thể tận tâm chăm sóc cho cậu. Nhưng khi đến đây, trước thì được Vân Hỏa chăm sóc kĩ càng, giờ lại có Jisan nữa.

赵云霄的眼圈红了又红。在吉桑温柔的注视下,他洗了脸,刷了牙。不让吉桑动手,赵云霄端着脸盆出去把水到了。家家户户的人基本上都在屋外,赵云霄低着头避开众多的注视,很快返回屋内。收好脸盆,抹了脸,赵云霄开始做早餐。不过从阳光的阴影上看,已经快中午了。

Viền mắt Triệu Vân Tiêu đỏ lên. Dưới ánh nhìn dịu dàng của Jisan, cậu rửa mặt, đánh răng. Không để Jisan phải động tay vào, Triệu Vân Tiêu nhấc chậu rửa mặt đi đổ nước. Người người nhà nhà hầu như đều đang ở bên ngoài nhà họ, Triệu Vân Tiêu cúi đầu né tránh ánh mắt đám đông, nhanh nhanh chóng chóng quay về phòng. Cất chậu đi, xoa mặt, Triệu Vân Tiêu bắt đầu nấu bữa sáng. Nhưng nhìn bóng mặt trời, sắp trưa tới nơi rồi.

吉桑态度很坚决地拿给赵云霄一块新鲜的肉,赵云霄无法拒绝吉桑,不得不收下,其实云火给他打包的食物起码够他吃一个月,他的食量并不大。巴赫尔等外出打猎的兽人们中午是不回来吃饭的。吉桑只要准备他和康丁的午饭就够了。食物更多的只是为了填饱肚子,吉桑拿出昨天分配给他们的生下的肉,准备烤肉。云霄做饭很好吃,他不认为自己烤出来的肉会让云霄有食欲。

Jisan giữ thái độ cương quyết đưa cho Triệu Vân Tiêu một miếng thịt tươi nguyên, Triệu Vân Tiêu không có cách nào từ chối Jisan cả, đành phải cầm lấy, chứ thực ra đồ ăn Vân Hỏa đóng gói cho cậu đủ để ăn tối thiểu là một tháng, sức ăn của cậu không lớn. Nhóm người Bacher đi săn thú buổi trưa sẽ không trở về ăn cơm. Jisan chỉ cần chuẩn bị cơm trưa cho mình và Kandin là đủ rồi. Thức ăn chỉ để làm no bụng, Jisan lấy thịt còn lại từ hôm qua được chia cho họ và chuẩn bị nướng. Vân Tiêu nấu ăn rất ngon, ông không cho rằng món thịt nướng của ông có thể khiến Vân Tiêu thèm ăn.

赵云霄不管吉桑做什么,不过他会负责吉桑的那份,吉桑的胃很脆弱 [cuìruò],也依然很虚弱。看吉桑走两步就会喘一喘就能看出,而且吉桑真的是太瘦了。

Triệu Vân Tiêu không để ý Jisan định làm gì, nhưng cậu sẽ đảm nhiệm cả suất ăn của Jisan, dạ dày Jisan rất yếu, hơn nữa bản thân ông cũng yếu ớt. Nhìn Jisan cứ đi hai bước lại thở gấp là biết, hơn nữa Jisan cũng gầy quá.

"吉桑。" 赵云霄叫了一声。吉桑看过去。赵云霄在他昨晚搭的那个灶火旁边。他指指灶火,在指指他自己和吉桑,说:"我们两个一起吃。"

"Jisan." Triệu Vân Tiêu gọi một tiếng. Jisan quay lại nhìn, Triệu Vân Tiêu đang ngồi cạnh cái bếp cậu vừa đắp tối qua. Cậu chỉ vào cái bếp, rồi lại chỉ vào mình và Jisan, nói: "Hai chúng ta cùng ăn đi."

怕吉桑不明白,他又指指吉桑,再指指自己,然后做了个吃饭的动作。吉桑看明白了,他笑了,却是摇摇头。他指指云霄,也做了个吃的动作,意思是让云霄自己吃,不用管他。

Sợ rằng Jisan không hiểu, cậu lại chỉ Jisan, chỉ mình nữa, rồi làm động tác ăn cơm. Jisan hiểu rồi, ông cười, nhưng vẫn lắc đầu. Ông chỉ Vân Tiêu, cũng làm động tác ăn, ý là Vân Tiêu tự ăn cơm đi, không cần để ý đến ông.

这回摇头的是云霄,他拿起吉桑给他的那块鲜肉起身走到吉桑跟前把肉放在了地上。意思是你不吃我做的,我就不要这块肉。吉桑被云霄弄得哭笑不得,但很幸福很感动。他点点头,答应了,其实,他很喜欢吃云霄做的饭。

Lần này người lắc đầu là Vân Tiêu, cậu cầm miếng thịt tươi ban nãy Jisan đưa cho mình, đi tới trước mặt Jisan, để miếng thịt trên mặt đất. Ý của cậu là, chú không ăn đồ cháu nấu, cháu sẽ không lấy miếng thịt này nữa. Jisan bị hành động của Vân Tiêu làm cho dở khóc dở cười, nhưng vừa hạnh phúc vừa cảm động. Ông gật đầu, đồng ý, thực ra, ông rất thích đồ ăn Vân Tiêu nấu.

吉桑答应了,赵云霄很高兴地又拿起了那块肉。不过吉桑还是把他要烤的肉放到了烤架上,康丁中午吃不完的可以留到晚上继续吃。

Jisan đồng ý rồi, Triệu Vân Tiêu rất vui vẻ cầm lấy miếng thịt kia. Nhưng Jisan vẫn đặt thịt ông cần nướng lên giá nướng, buổi trưa Kandin ăn không hết thì để lại đến tối ăn tiếp.







Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro