Chương 30

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ngô Tà vốn không định xuống, nhưng ở vào tình cảnh này không xuống cũng không xong, đành thở dài một hơi, học theo động tác của Bàn Tử, co chân nhảy lên bậc đá kia. Bậc đá chỉ dài hơn nửa mét, hình như được xẻ ra từ một khối thanh cương nham nguyên vẹn, một đầu gắn vào thành ao, một đầu lơ lửng giữa không trung.

Ngô Tà quan sát mà vẫn chưa bước đi, Asahina đi theo phía sau cho nên khuôn mặt bé đã đập vào tấm lưng của người phía trước, được người phía sau là Trương Khởi Linh đỡ lại.

" Cậu... tôi... Aaaa." Ngô Tà quay người lại chưa nói xong, đã bị Asahina đập xuống dưới. Cứ tưởng rằng y sẽ được hôn thắm thiết với đất mẹ, thù A Kim và A Hàn nhảy xuống nắm lấy hai bên người Ngô Tà tiếp đất an toàn.

" Tiểu Ngô Tà, xin lỗi nhá, tôi chỉ là phản xạ thôi." Asahina vừa cười vừa cúi đầu 45°nói xin lỗi, nhưng ai cũng nhìn ra tiểu tâm tư nhỏ của cô. Eo nhỏ của cô bị một đôi tay tự nhiên đặt lên, cô hoan hỉ vô cùng ,nhưng rồi nghe anh nói với giọng trầm thấp nhẹ nhàng:" Tiểu Nại, đừng nghịch."

Asahina uẩn khúc, rõ ràng Ngô Tà bất ngờ đứng lại mà, hơn nữa y rất giống Lý Dịch Phong và Hầu Minh Hạo, cô sao nỡ để y té chứ chỉ doạ mà thôi. Ngô Tà không để tâm, xua xua tay nói. " Không sao, do tôi đứng lại đột ngột."

Mọi người đi tiếp tục đi lại trở Bàn Tử, Bàn Tử chỉ vào thành ao nói: “Đây, Tiểu Ngô cậu nhìn xem, mẹ nó nếu đây không phải tiếng Tây thì tôi đem chữ Vương viết ngược lại cho rồi!*”

*Sở dĩ nói thế vì Bàn Tử họ Vương, câu này ý là “nếu tôi nói sai thì đổi họ cho rồi” í. Cơ mà chữ vương (王) thì viết xuôi viết ngược kiểu gì vẫn là chữ vương, cho nên có thể coi câu thề của anh Vương này như cá trê chui ống. •v•"

Nhìn qua thì thấy quả thực thành ao bị người ta dùng đục gõ thành mấy chữ cái, dấu vết trông không mới cũng không cũ. Bàn Tử thấy Ngô Tà bắt đầu ngây ra, mới vỗ vai y một cái thật mạnh: “Sao, cậu nói đi chứ, tôi nói có sai chỗ nào không?”

Ngô Tà vội gật gù: “Phải rồi phải rồi, để tôi giải thích cho, mẹ nó đây chính xác là tiếng Anh.”

Bàn Tử đắc ý vỗ đùi: “Tôi vẫn thắc mắc tại sao lại có chuyện lạ lùng thế, chúng ta đã đi khắp cái đấu rách nát này mà chẳng tìm được thứ gì ra hồn, thì ra đã có mấy vị anh em tốt người nước ngoài nhanh chân đến trước. Lại nhớ năm nào liên quân tám nước* ghé chơi, cũng không nỡ để lại thứ gì cho chúng ta; lần này thì khỏi nói, chắc đã bị vơ vét sạch sẽ rồi.”

Liên Quân Tám Nước*: Ý Bàn Tử nhắc tới sự kiện liên quân tám nước phương Tây là Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Ý, Nhật, Nga và đế quốc Áo-Hung tiến đánh Bắc Kinh năm 1900 để chống lại sự nổi dậy của phong trào Nghĩa Hòa Đoàn.

Ngô Tà đáp: “Không thể phán bừa là người nước ngoài, người Trung Quốc cũng viết được tiếng Tây đó thôi. Lại nói đến khắc chữ, khắc chữ Tây nhanh hơn khắc tiếng Trung nhiều, mấy kí tự này toàn là chữ viết tắt, tôi nghĩ đó có thể là kí hiệu dùng để đánh dấu. Anh xem nét khắc của người này rất ẩu, chỉ sợ khi chạy xuống đây anh ta đã gặp phải chuyện gì cấp bách, cũng có thể đang bị người khác thúc giục; anh ta muốn đánh dấu lại cho người đến sau biết nên mới khắc những chữ cái này.”

Bàn Tử nói: “Cậu nói cũng có lý, nhưng nếu thế thì bọn họ mò xuống đây làm gì? Hay dưới này có bảo bối?”

Bàn Tử đuối lý ra sức lải nhải: “Dù sao chúng ta vẫn còn nhiều thời gian, chi bằng xuống đó xem chơi, không chừng còn tìm được đồ đồng đen làm công cụ, chẳng phải là một công đôi việc hay sao?”

Bên kia lãi nhãi nói bên này cũng không kém, Asahina kéo kéo cánh tay Trương Khởi Linh,anh nhìn cô nhẹ giọng hỏi:" Làm sao?"

"Tiểu Trương Câm, Anh nhớ thử xem nơi này có quen không?"

Trương Khởi Linh nghe cô hỏi, rồi quan sát kĩ càng xung quanh một các triệt để, rồi suy tư một lúc lâu, bỗng trong đầu loé lên mấy hình chạy ngang qua, anh nhíu mày đáp: “Hình như anh đã từng đến nơi này!”

Nói rồi Trương Khởi Linh nắm tay Asahina vội vàng vội vã leo xuống dưới nhưng cũng xem xét về tình trạng bị ngã, bốn người còn lại thấy đã có manh mối để tìm ra chân tướng sự việc, dĩ nhiên không thể bỏ qua, vội vàng đuổi theo.

Sương mù từ dưới ao không ngừng bốc lên, mới xuống được mười bậc thang đã lạc vào màn sương mù dày đặc, tầm nhìn nhanh chóng thu hẹp. Ban đầu người đi sau còn thấy được bóng lưng của người đi trước, tiến thêm vài bước thì phía trước chỉ còn thấy ánh đèn pin mờ mờ. khoảng cách từ mặt ao đến đáy ao cũng không lớn lắm.

Nước ở đáy ao cũng không rút đi hết, mực nước còn cao gần đến bắp chân, thảo nào lúc trước nhìn xuống không thấy rõ ràng cho lắm. Mọi người quan sát xung quanh một chút, thì ra nơi đây gần như nằm giữa đám sương mù, tầm nhìn lại càng hạn chế.

Ngô Tà men theo vách ao đi được vài bước, chợt nghe A Kim gọi từ phía bên trái: “Cậu chú ý bên dưới nhé, chỗ này toàn là cửa thoát nước, cẩn thận kẻo giẫm vào.”

Ngô Tà lấy chân dò thử, quả nhiên trước sau đều có những cái hố lớn bằng miệng bát, xem ra đi đứng trong này phải hết sức cẩn thận mới được. Lúc này Bàn Tử đi trước vẫy vẫy đèn pin từ phía sau lớp sương mù ra hiệu cho ba người bám theo hắn.

Đi qua quãng đó rồi, thoáng nhìn lại, thì ra là bốn con khỉ đá cao hơn nửa người ngồi trên bệ đá, mặt quay bốn phía, không biết đang cầu nguyện cái gì. Đây gọi là Định Hải Thạch Hầu, thường đặt dưới ao, dùng để trừ tà, thứ này xuất hiện ở đây cũng là chuyện thường, đi thêm vài bước, chỉ thấy ở giữa bốn con khỉ đá đặt một tấm bia đá Thanh cương cao tới hai mét. Trương Khởi Linh một tay phải vẫn đang chiếu đèn pin vào tấm bia, cẩn thận quan sát còn tay trái vẫn nắm lấy tay Asahina, cô cũng dùng đèn pin gọi xung quanh xem xét.

Ngô Tà lại gần, hỏi Trương Khởi Linh: “Thế nào, anh xem qua mấy thứ này rồi, có nhớ thêm được gì nữa không?”

Anh chỉ chỉ tảng đá phía trước tấm bia, mọi người nhìn theo, thấy bên trên có khắc mấy hàng chữ Khải (một loại chữ Trung Quốc) nhỏ.

A Hàn là con dân nước Hàn Quốc, A Kim là người Ai Cập, Bàn Tử thì khỏi bàn không biết chữ nào, còn Asahina Maki biết kịch bản chứ mấy cái chữ đó đầu thai học lại chứ sao? Trương Khởi Linh cũng đọc được, thế nên trọng trách rơi vào Ngô Tà: “Mấy hàng chữ kia cho chúng ta biết chủ nhân ngôi mộ này có xây dựng một Thiên cung, cánh cửa dẫn đến Thiên cung nằm ngay trong tấm bia đá này, nếu gặp người có duyên cánh cửa này sẽ mở ra, anh đi qua đó là lên đến trời.”

Bàn Tử nhìn tấm bia đá, sốt ruột: “Có cái cửa khỉ gió nào đâu.”

Ngô Tà đáp: “Những lời này cũng giống như kinh Phật, mỗi người đều có cách lý giải khác nhau, ý ông ta cũng không phải là trong tấm bia này thực sự có một cánh cửa, mà có thể là nội dung khắc trên bia đá ẩn chứa bí mật nào đó.”

Bàn Tử đáp lại: “Mẹ nó, cậu nói trên tấm bia này có ‘nội dung’ ấy hả, đến một chữ tôi còn chẳng đọc nổi!”

Ngô Tà cũng bắt đầu phát bực: “Trong này nói có duyên thì cửa mới mở, anh không có duyên với Thiên cung, đương nhiên không thấy gì rồi.”

Bàn Tử trề môi, thở dài rồi cúi người xuống kiểm tra phần chìm dưới nước, vừa mò mẫm vừa lẩm bẩm: “Không có duyên phận với Thiên cung cũng chẳng sao, tôi chỉ cần có duyên có phận với minh khí là được rồi.”

Ngô Tà quay sang Trương Khởi Linh lại thấy tay anh chàng lạnh lùng này vẫn còn nắm tay con gái nhà ngườ ta, mà sắc mặt của hắn trông hơi tệ, chỉ nhìn chằm chằm vào tấm bia giống như đang tìm kiếm thứ gì đó.

Bỗng Bàn Tử vỗ vỗ tay, y nhìn sang thì thấy hắn vớt lên một cái kính lặn, nói: “Xem ra đã có nhiều người tới đây.”

Ngô Tà qua bên đó nói với hắn: “Lúc chú Ba tôi thoát ra ngoài, trên người không có thiết bị lặn, mấy cái này có thể là của ông ấy. Anh xem thử có bình dưỡng khí không.”

Lời vừa dứt, Bàn Tử đã lôi từ dưới nước lên một cái bình khí móp méo, hắn dùng thử, dường như không được lại ném xuống nước, hậm hực nói: “Mấy thứ dưới này đều hỏng hết cả, uổng công tôi từ tuốt trên đó chạy xuống, hóa ra là mừng hụt. Tôi thấy chúng ta nên nhanh chóng đi lên thôi, ai biết được khi nào nước lại dâng lên, đợi đến lúc đó có bay cũng chẳng kịp.”

Đột nhiên không thấy bóng dáng của Trương Khởi Linh và Asahina Maki đâu nên Bàn Tử, A Kim và A Hàn cứ đi tìm quanh, bởi lẽ sương mù tuy dày che đi tầm nhìn nhưng nơi này cũng không quá rộng. Họ đi hai vòng, cuối cùng phát hiện hai người đang ngồi trong một góc tường ao ngơ ngác nhìn về phía trước. Ba người phát hiện thấy ánh mắt Trương Khởi Linh có gì đó bất thường, gần như đã mất đi sự trầm tĩnh vốn có, chỉ còn chất chứa nỗi tuyệt vọng đến trống rỗng; thoạt nhìn trông anh giống như một người đã chết.

Mà kế bên là Asahina đang nhìn đâm chiêu vào người ngồi cạnh bên, vẻ mặt của cô như đang tìm tòi nghiên cứu thứ gì đó mới lạ. Đừng hiểu lầm, cô chỉ là đang nhìn Tiểu Trương Câm bổ sung kí ức mà thôi, biểu cảm trên khuôn mặt điển trai kết hợp hài hoà giữa hai nam thần Hoa Ngữ Dương Dương và Thành Nghị, nhìn mlem mlem quá đi, khục khục, xíu nữa thành hoa si rồi.

Mọi người vội hỏi:" Chuyện gì đã xảy ra."

Trương Khởi Linh ngẩng lên nhìn lướt qua họ, rồi lại nhìn đoá hoa si mỹ nhân ngồi cạnh mình, vẻ mặt thay đổi không ngừng lúc ngây ngốc lúc thì quỷ dị lúc thì thì bình tĩnh. Trương Khởi Linh vươn tay chọc chọc eo Asahina ý bảo cô nghiêm chỉnh lại đi, ánh mắt anh nhìn cô có chút phức tạp.

Sau đó Trương Khởi Linh bắt đầu kể giọng anh nhỏ đến mức gần như không thể nghe thấy: “Chuyện hai mươi năm trước, tôi nhớ ra rồi…”

~~~ Hai mươi năm trước một đám người tổ chức khảo cổ chuyến thám hiểm Tây Sa, một giáo sư khảo cổ giảng dạy cho họ gửi một cô bé tầm 15 tuổi, vai đeo một thanh kiếm Nhật màu đỏ đi cùng, lão giáo sư khảo cổ còn dặn dò không cần quá quan tâm đến cô bé, suốt quảng đường đi cô bé cứ như người vô hình. Dưới đáy biển sâu không nghe tiếng cuồng phong gào thét trên mặt biển, nhưng vẫn cảm nhận được bầu không khí ngột ngạt trước khi cơn bão kéo đến.

Trương Khởi Linh lẳng lặng ngồi trong góc phòng nhìn bạn bè mình tranh nhau nghiên cứu mấy món đồ sứ men xanh trên mặt đất. Những thứ đồ sứ đó với anh chẳng có chút hấp dẫn nào, trái lại mấy người bạn học nhìn qua có vẻ lớn tuổi hơn anh lại bị thu hút hoàn toàn.

Bọn họ truyền tay nhau xem, còn muốn sao chép lại hoa văn trên đó, rồi thảo luận ý nghĩa của những hình vẽ trên mặt sứ. Lúc này đột nhiên có người kêu lên: “Mọi người mau đến xem! Dưới mấy món đồ sứ này có gì lạ lắm!”

Người vừa lên tiếng là Hoắc Linh, cô gái nhỏ tuổi nhất trong ba thành viên nữ của đội khảo cổ, cha mẹ là cán bộ cao cấp, vốn được nuông chiều từ bé, rất thích tỏ vẻ ngạc nhiên để thu hút sự chú ý của người khác. Trương Khởi Linh nghe tiếng cô nàng chỉ thấy nhức đầu, thế nhưng kiểu nữ sinh như cô ta ở trong đoàn lại được yêu thích, một câu nũng nịu là kéo được vài người sang bên đó.

Mấy nam sinh tranh nhau thể hiện, hy vọng có thể chứng tỏ được học vấn của mình trước mặt Hoắc Linh, nhao nhao nói: “Có gì kỳ lạ? Đưa tôi xem nào.”

Hoắc Linh đưa món đồ sứ ra cho bọn họ xem, một người nhìn thoáng qua, nói: “Cái này tôi biết, đây gọi là Diêu Hào, ký hiệu của lò gốm nơi sản xuất ra món đồ này.”

Một người khác lập tức phản bác: “Không đúng, Diêu Hào của lò gốm vào thời Minh không giống thế này, đây có thể là phủ hào được khắc trên đồ vật, cho biết thân phận của chủ nhân!”

Người kia muốn giữ thể diện, nóng mặt cãi: “Phủ hào khắc trên đồ vật thường có đến bốn chữ, ở đây chỉ có một, còn nhìn lạ hoắc, điều cậu nói lại càng vô lý.”

Hai người đã quen ăn nói văn hoa, nói qua nói lại một hồi là thành đấu khẩu, còn có xu thế chuyển sang động thủ động cước. Hoắc Linh đã quá quen với cảnh này, chỉ biết thở dài. Bỗng cô ta thấy Trương Khởi Linh lãnh đạm ngồi trong góc, hình như chẳng thèm để ý tới mình, trong lòng bực bội, lập tức bước lại gần đưa cái bình sứ Thanh Hoa cổ dài trong tay ra trước mặt anh, khẽ cười, nói: “Tiểu Trương, anh xem giúp tôi đây là cái gì?”

Trương Khởi Linh căn bản không thèm để ý tới cô ta, thản nhiên liếc qua một cái, còn chưa nhìn rõ đó là thứ gì đã quay đi, đáp: “Không biết.”

Hoắc Linh biến sắc. Cô ta xưa nay hiếm khi ở trước mặt con trai mà bị dội cho gáo nước lạnh như vầy, trong lòng không khỏi cảm thấy khó chịu: “Tiểu Trương, anh đừng có mà qua quít cho xong chuyện, xem cho kỹ rồi hãy trả lời tôi!”, nói rồi đem cái bình đó nhét vào tay Trương Khởi Linh.

Trương Khởi Linh thở dài, không còn cách nào khác đành phải cầm lấy. Hoắc Linh đắc ý chỉ cho anh xem, thì ra mặt dưới cái bình sứ Thanh Hoa cổ dài ấy có khắc một văn tự rất đặc biệt.

Trương Khởi Linh chưa từng thấy văn tự này bao giờ, bất giác ngây người. Thông thường bên dưới đồ sứ đều là Diêu Hào của nơi làm ra nó, nhưng ký hiệu này sờ lên lại có cảm giác sần sùi, hình như không phải của bất kỳ lò gốm nào, mà là một con số.

Anh tiện tay lấy một món khác, quả nhiên cũng có ký hiệu nhưng không giống với cái anh vừa xem. Đến đây bỗng mơ hồ cảm thấy đồ sứ ở đây không phải chỉ là đồ tùy táng đơn thuần.

Hoắc Linh thấy sắc mặt anh biến đổi, thầm nghĩ tên đầu gỗ này rốt cuộc cũng biết được gì đó, liền hỏi: “Tiểu Trương, thế nào, đây rốt cuộc là cái gì?”

Trương Khởi Linh phớt lờ cô ta, anh cầm mấy món đồ sứ khác lên xem, liên tiếp hơn mười cái, phát hiện bên dưới mỗi cái đều có ký hiệu khác nhau, hơn nữa những ký hiệu này đều biến đổi theo quy luật, hình như chúng được sắp xếp theo một trật tự nào đó.

Tại sao phải đánh số thứ tự cho mấy món đồ sứ này, chẳng lẽ trật tự sắp xếp của chúng nghiêm ngặt đến vậy sao? Hay là, nếu không sắp xếp theo đúng thứ tự này sẽ không đạt được mục đích gì đó? Vô vàn suy nghĩ lóe lên trong đầu Trương Khởi Linh khiến anh không khỏi cẩn thận xem xét tỉ mỉ từng cái một.

Anh xem một cái khác, lại càng ngạc nhiên, bởi vì hoa văn vẽ trên đó không tả cảnh xuân canh, không phải đình viện, mà là hình ảnh thợ thủ công đang chạm khắc một bức tượng đá khổng lồ, vào thời đó hình ảnh này bị cho là dung tục, vậy tại sao người ta lại đem vẽ nó lên đồ sứ?

Trương Khởi Linh xem xét một lượt, dần phát hiện ra một vài manh mối. Những bức tranh trên sứ này nếu nằm đơn lẻ thì không có gì đặc biệt, nhưng một khi quan sát theo đúng trật tự, anh sẽ thấy ngay những hình ảnh đó có liên quan mật thiết, hình như là miêu tả quá trình xây dựng một công trình khổng lồ.

Lúc này tất cả mọi người đều bị hành động kỳ lạ của anh thu hút, đám nam sinh không biết anh đang bày trò gì, chỉ biết ngơ ngác đứng xem.

Trương Khởi Linh chẳng thèm để ý tới mấy người đó, anh không xem hết một lượt rồi đi thẳng đến chỗ bình hoa xinh xắn có hai quai ở cuối dãy, cầm lên nhìn kỹ, trong lòng khẽ động. Chỉ thấy trên cái bình hai quai cuối cùng này là quang cảnh cả công trình khi đã hoàn thành.

Đó là một công trình không thể dùng ngôn từ để mô tả, cung điện lơ lửng giữa trời, bên dưới là mây mù che phủ; những người xây cung điện đứng trên mặt đất ngước nhìn lên trời; trên một ngọn núi cạnh đó, có một đạo giả đang dương dương tự đắc mỉm cười.

Hình vẽ trên cái bình hai quai nho nhỏ này không thể diễn tả hết sự hùng vĩ đồ sộ của công trình, nhưng Trương Khởi Linh vẫn cảm nhận được một cơn kích động không cách nào kìm nén, bởi anh đã biết thứ mà anh tìm được là gì.

Gần như có thể kết luận, nội dung miêu tả trên đó chính là quá trình Quỷ thủ thần tượng Uông Tàng Hải đầu thời Minh thiết kế và xây dựng nên Vân Đỉnh Thiên Cung!

Truyền thuyết về cung điện lửng lơ giữa trời này đã sớm xuất hiện trong dân gian thời Minh, khi đó người ta giải thích là Uông Tàng Hải đã sử dụng một con diều thật lớn cùng với vô số tơ vàng để tạo thành cung điện giả lộng lẫy huyền ảo giữa không trung nhằm lấy lòng Chu Nguyên Chương.

Nhưng nếu truyền thuyết là thật thì những hình ảnh này miêu tả cái gì? Còn nếu truyền thuyết không có thật, vậy phải chăng những bức tranh trên sứ muốn chứng minh Uông Tàng Hải đã thật sự xây dựng được một tòa cung điện lơ lửng giữa không trung? Truyền thuyết và sự thật, đâu là thực đâu là giả, Trương Khởi Linh bắt đầu cảm thấy mờ mịt.

Trương Khởi Linh suy nghĩ một hồi cũng không tìm ra được manh mối gì, mới đem việc này nói với nhóm bạn vẫn còn đang đứng lơ ngơ nãy giờ. Những người này dĩ nhiên không tin, vội bắt chước anh xem xét từng món đồ sứ một, cả đám không khỏi trợn mắt há mồm. Đây không những là chuyện có một không hai trong lịch sử Trung Quốc mà còn là một bước đột phá không tưởng.

Hoắc Linh kia vừa thấy phát hiện của mình lại dẫn đến một khám phá trọng đại như thế, không khỏi mừng rỡ, lập tức định hôn một phát lên mặt Trương Khởi Linh nhưng có một đôi tay ở đâu che cái miệng của cô ta lại đẩy đi. Giọng nói non nót ngọt ngào của trẻ vị thành niên vang lên:" Bà chị không biết xấu hổ."

Mọi người nhìn đứa bé đột nhiên xuất hiện liền la lên:" Aaaaa... quỷ..."

" Các người đều là quỷ." Sau đó mọi người bình tĩnh lại nhớ đến cô bé này là ai, cả bọn đỏ mặt tím tai, vì ngại vì ngượng.

Hoắc Linh tức giận đùng đùng, một cô sẽ không bao giờ thích nghe người khác kêu bằng bà chị hay bà cô, quát với cô bé:" Tôi chỉ là quá phấn khích thôi."

" Nha cũng không che giấu được tâm tư chiếm tiện nghi của người khác."

Hoắc Linh tức giận nhưng không thể phát tiết với đứa bé gái nhỏ hơn mình, làm mắt đi lòng của đám thanh niên trẻ ở đây, chỉ có thể lập đi lập lại một từ:" Nhóc...nhóc..."

Trương Khởi Linh lờ tít cô ta, hình như anh không biết mà cũng không muốn biết ai đã hôn mình cũng không quan tâm có hôn được hay không, đi thẳng một mạch đến chỗ Văn Cẩm, đề nghị lập tức vào tìm kiếm bên trong hậu điện. Anh cho rằng muốn có nhiều manh mối hơn, tất phải tìm trong quan tài. (vãi anh, anh thấu triệt tinh thần chỉ có đàn ông quá đấy =)), chị nhắc định nghe xong chơi chết anh cho xem.)

Văn Cẩm vốn là người phụ trách của cả đoàn, cô nàng thấy làm như vậy quá nguy hiểm, vội can anh lại: “Không được, tuyệt đối không được, không có người tiên phong dẫn dắt, chúng ta không thể tự mình đi vào cổ mộ!”

Trương Khởi Linh thấy cô nàng không đồng ý, cũng không nói nhiều, lẳng lặng thu thập trang bị cá nhân rồi đi về phía hành lang, cô bé thấy người mình giúp đi đâu đó cũng đi theo. Văn Cẩm khá là cứng rắn, thấy anh coi mình như không khí thì không hài lòng chút nào, muốn ra tay dạy dỗ anh một phen. Dù sao ở sở nghiên cứu cô ta cũng hay giở ra vài chiêu công phu để nắn gân mấy tên nhóc cứng đầu không biết nghe lời.

Nghĩ đến đây cô ta bất ngờ ra tay, định bắt lấy khớp cổ tay mảnh mai của Trương Khởi Linh, thế này gọi là Khóa Mạch Môn, nếu khống chế được mạch môn thì có thể lấy bốn lạng chống nghìn cân. Sức lực một cô gái tuy không lớn, nhưng chỉ cần hơi mạnh tay một chút cũng đủ làm cho một anh chàng như Trương Khởi Linh đau đến mức phải lên tiếng cầu xin.

Mấy anh chàng kia đều đã nếm qua chiêu này của Văn Cẩm, không khỏi cười thầm, chờ xem Trương Khởi Linh bị đem ra làm trò cười.

Chiêu này của Văn Cẩm trăm lần như một đều thành công, người không học võ khó mà đề phòng, nhưng lần này cô ta lại chụp không trúng, trong lòng không khỏi kinh hãi. Bỗng Trương Khởi Linh quay lại, thản nhiên nói: “Cô yên tâm, tôi có thể tự lo cho mình!”

Văn Cẩm cười nhạt: “Anh muốn tự lo cho mình? Tiểu Trương, trong viện nghiên cứu anh nổi tiếng vô tổ chức vô kỷ luật, nhưng đây là cổ mộ, dù anh không lo cho bản thân mình thì cũng phải lo cho sự an toàn của mọi người chứ. Hơn nữa cô bé đó lại đi theo anh kìa.”

Trương Khởi Linh gật đầu, nhưng lại nói: “Tôi xem xét một chút rồi sẽ trở về ngay.”

Cô bé cười cờt đáp:" Còn tôi hả? Bà thím tôi tự lo cho bản thân được, cả quảng đường đi các người có kia quên mất có đứa bé gái như tôi đâu, các người lại đánh không lại tôi. Thôi đi đây!"

Văn Cẩm giận đỏ mặt, thầm than sao mà đau đầu thế này chứ. Giọng điệu anh không nóng cũng không lạnh khiến cô ta không sao nổi nóng được, còn có cô bé đó là họ thất trách thật nhưng cũng chưa biết tình huống thế nào cũnh không thể cho họ đi, đành bước tới giữ chặt lấy hai người lại, nói: “Không được, dù thế nào đi nữa anh và cô bé cũng không được đi, nhóm chúng ta đã mất một người rồi, anh bảo khi về tôi biết phải ăn nói thế nào với mọi người trong viện?”

Trương Khởi Linh dường như bắt đầu sốt ruột, quay lại, lạnh lùng nhìn cô ta, nói: “Buông tay ra.”

Văn Cẩm vô cùng kiên quyết nhìn anh, nghĩ rằng bất cứ tên con trai nào thấy một cô gái đáng yêu nhìn mình bằng ánh mắt như vậy thì cũng đều thỏa hiệp. Nào ngờ Trương Khởi Linh lại đột nhiên trừng mắt, trong tích tắc như biến thành ác quỷ, Văn Cẩm bị dọa cho bủn rủn tay chân, bị anh gạt tay ra.

Khi cô ta nhìn lại, ánh mắt Trương Khởi Linh đã trở về với vẻ bình thản đến nỗi không tài nào nhìn ra cảm xúc trong đó. Anh gật đầu một cái với cô ta, còn nói: “Cám ơn!”

Những người còn lại nhìn thấy cảnh này lại tưởng Văn Cẩm đã đồng ý yêu cầu của hắn, đều tỏ ra không phục. Con người vốn là như vậy, chỉ cần một người phá luật, những người còn lại sẽ hùa nhau làm theo. Mấy người kia thấy Trương Khởi Linh bước vào hành lang, phần thì sợ anh giành hết công trạng, phần lại nổi lên tính hiếu kỳ, nhao nhao lên chạy theo sau.

Văn Cẩm dù sao cũng chỉ là một cô gái, cô ta biết ngay khi bàn tay mình bị gạt xuống, cô ta cũng đã mất đi khả năng khống chế đối với mọi người trong nhóm. Chuyện đến nước này, trừ khi trong tay có khẩu súng, không thì chẳng có cách nào ngăn cản nổi mấy gã choai choai này.

Tính tình Ngô Tam Tĩnh lại không tốt, nếu lúc này mà gọi lão dậy, với tính khí của lão hẳn sẽ vì sĩ diện mà gây gổ với Trương Khởi Linh một trận tưng bừng, tình hình có lẽ sẽ càng khó cứu vãn. Sau khi đã cân nhắc lợi hại, cô ta quyết định tự mình dẫn cả nhóm vào hậu điện xem xét rồi nhanh chóng trở lại. Với kinh nghiệm đổ đấu nhiều năm của cô ta, nếu đây chỉ là một ngôi mộ bình thường thì tất nhiên là không có vấn đề gì.

Chuyện tiếp theo sau đó cũng gần giống như những chuyện bọn họ đã trải qua, về phần đám người bọn họ vượt qua được hành lang trùng điệp cơ quan như thế nào, rồi phát hiện được bậc thang trong ao ra sao, sau đó xuống đến đáy ao vân vân gì đó dù cũng rất ư là khúc chiết ly kỳ nhưng không phải là chuyện quan trọng đáng nhắc lại. Thời điểm Trương Khởi Linh kể lại cũng chính là câu đầu tiên vừa nãy anh nói, những sự việc quan trọng chỉ bắt đầu từ khi cả nhóm bọn họ xuống được đến đáy ao ngập nước và nhìn thấy tấm bia đá không có chữ nào kia.

Cảnh tượng dưới đáy ao quả thực vô cùng kỳ dị, ánh đèn pin chiếu vào lớp sương mù dày đặc thỉnh thoảng lại biến thành đủ mọi vẻ mặt khiến cho người ta sinh ra cảm giác sợ hãi. Đến khi xuống được bậc thang đá cuối cùng, cả nhóm lại trở nên đoàn kết, không dám thở mạnh, dẫn dắt nhau đi trong sương mù, trong lòng thấp thỏm lo sợ có thứ gì đó đột nhiên xông tới.

Hoắc Linh thấy Trương Khởi Linh không sợ hãi chút nào, trong khi mấy đàn anh trong viện ngày thường oai phong lẫm liệt mà bây giờ đều thập thập thò thò rúc hết ra sau lưng anh, không khỏi nảy sinh chút cảm tình, liền nói với mấy nam sinh kia: “Nhìn mấy người các anh xem, so ra đều lớn hơn Tiểu Trương đến mấy tuổi, vậy mà đến một góc của người ta cũng không bằng, có xấu hổ không chứ!”

Mấy người kia tuổi còn khá trẻ, mà lẽ thường ngựa non háu đá, bị Hoắc Linh nói khích như thế đều hăng tiết lên chẳng thèm quan tâm sống chết nữa, tranh nhau vượt lên phía trước Trương Khởi Linh. Không gian trong ao không rộng, mấy tên đó đi được mấy bước thấy không có chuyện gì, cũng vững dạ hơn, lại càng dấn sâu vào trong màn sương. Mới đi được vài bước, đột nhiên người dẫn đầu hét to: “Trong này có quái vật!”, vừa hét vừa chạy ngược về.

Tiếng hét này thiếu điều hù cả đám sợ đến tè ra quần, mấy người đi sau chưa thấy gì mà da đầu đã tê rần, cũng chạy ngược trở về. Trương Khởi Linh không thèm quan tâm đến bọn họ, dẫn vài người tiếp tục tiến vào mới thấy thứ được gọi là quái vật kia chính là Định Hải Thạch Hầu.

Đồng thời họ cũng thấy được mấy con Định Hải Thạch Hầu còn lại cùng tấm bia đá không có chữ kia.

Trong nháy mắt, mọi người đều cảm thấy chấn động mãnh liệt, tuy những thứ ở đây không hề đồ sộ, nhưng trong mắt họ lại vô cùng ý nghĩa. Tất cả những thứ có trong cổ mộ này đã đánh đổ quan niệm ngàn năm không đổi trong sách giáo khoa Trung Quốc về mồ mả, có giá trị khảo cổ vô cùng lớn.

Ngay cả Văn Cẩm cũng kinh ngạc không thốt nên lời, cô ta lẩm bẩm: “Trời ạ, những thứ này thật không thể tin nổi, nói không chừng nơi đây sẽ trở thành cột mốc quan trọng trong ngành khảo cổ Trung Quốc.”

Sau nỗi khiếp sợ chính là niềm vui vô hạn, với niên đại của những thứ này, đây sẽ là một phát hiện trọng đại đồng thời cũng là cơ hội vô cùng ý nghĩa. Nếu công bố rộng rãi phát hiện này, ai ai cũng sẽ phải biết đến tên tuổi bọn họ, nghĩ đến đây, người thì cười ngây ngô hệt như tên ngốc, người thì phấn khởi vô cùng, tất cả đều không kiềm chế nổi mà bắt đầu nhảy cẫng lên.

Lúc đó, kẻ khởi xướng chuyện này là Trương Khởi Linh lại nhíu mày, vốn cẩn thận hơn những người khác, đã sớm thấy được cổ văn khắc trên tấm bia đá.

“Thử bi vu hữu duyến giả, tức hiện thiên cung môn, nhập chi, khả đắc tiên cảnh dã.” (Tấm bia này nếu gặp người có duyên, sẽ hiện ra Thiên cung môn, vào đó có thể đến được cõi tiên.)

Câu này khiến anh chấn động, gợi ra những suy tưởng sâu xa. Do vậy anh không hề bị ảnh hưởng bởi sự ồn ào của những người xung quanh, chìm sâu vào trầm tư.

Theo như anh nghĩ, văn tự thế này không thể vô duyên vô cớ được khắc ở đây. Có câu vật tất có chỗ dùng, chủ nhân ngôi mộ này đem mấy thứ này bày ra ở đây hẳn phải có dụng ý.

Trong tấm bia này có lối thông với Thiên Cung môn, rốt cuộc là ở đâu? Như thế nào mới được xem là hữu duyên đây? Trương Khởi Linh đứng trước tấm bia đá dò xét từng tấc một, nhưng bia đá chỉ là bia đá, không bất kỳ cơ quan hay dấu vết nào của văn tự in chìm.

Mấy người kia sau một hồi náo loạn cũng dần tỉnh táo lại, Văn Cẩm thấy cũng đã khá trễ, cứ tiếp tục nán lại ở đây thì không hay lắm liền đề nghị cả nhóm quay về. Mấy người kia vui vẻ cũng đủ rồi, học hỏi cũng đã xong, bắt đầu ổn định lại, cười cười nói nói đi về phía bậc thang. Văn Cẩm điểm danh từng người một trong đoàn, cuối cùng phát hiện ra Trương Khởi Linh và cô bé mờ nhạt vẫn chưa quay lại.

Trương Khởi Linh đầu tiên thì không chịu phục tùng, cứ khăng khăng muốn đến hậu điện, bây giờ lại không chịu quay về cùng mọi người, nghĩ đến đây Văn Cẩm cực kỳ tức giận, nhưng là người phụ trách, cô ta không thể mặc kệ anh. Cô đành thông báo với cả nhóm, sau đó tất cả lại quay trở vào trong đám sương mù.

Bọn họ đi được mấy bước, thấy Trương Khởi Linh còn đang ngồi trước tấm bia đá nghiên cứu gì đó, Văn Cẩm không khỏi tức giận kêu lên: “Anh còn không đi! Rốt cuộc là định gây rối đến…?”

Nói chưa dứt lời, Hoắc Linh bỗng níu chặt tay cô ta bảo cô ta đừng nói nữa. Văn Cẩm bực mình, nhìn sang những người khác thì thấy nét mặt bọn họ có vẻ sợ hãi, thật khó hiểu.

Hoắc Linh thấy cô ta không có phản ứng gì, vội chỉ vào trong đám sương mù, Văn Cẩm nhìn theo tay cô nàng thì thấy sâu trong đó, cách Trương Khởi Linh không đến hai mét, xuất hiện một bóng người cực lớn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro