Chương 68: Đế Phách cao chót vót (Một)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Mò Mẫm

Đế Phách, Quốc đô của Khánh Quốc, là nơi tập hợp của ba con sông, khí thế hào hùng, được so cùng với Nhân Phong của Cảnh Quốc, Vân Đỉnh của nguyên Ngu Quốc được xưng là tam đại danh đô, phồn hoa như gấm, sung túc như biển.

Quốc quân Phong Đình của Khánh Quốc, biết dùng người, trị pháp nghiêm, có hùng tâm giữ được cơ nghiệp tổ tiên, thức ăn ngon, mỹ nhân đẹp, có đức độ, dân gian khen chê mỗi thứ một nửa. Mấy đời cơ nghiệp của tiên hoàng nắm trong tay hắn đã hơi có phát triển. Lần này mang binh đi Cảnh Quốc, tích góp lương thảo của thiên hạ, khuynh đảo binh lực toàn quốc, ý đồ khuếch trương rất rõ ràng.

Chinh chiến nửa năm, Cảnh Quốc liên tiếp bại lui, một vùng lãnh thổ rộng lớn đều bị Khánh Quốc nắm vào tay, nếu không ngoài suy đoán, sang năm nhất định có thể đại thắng.

Dọc theo đường đi tới Đế Phách, Mặc Phi được nghe Tê Túc giới thiệu về tục lệ và thế cục biến hóa hôm nay của Khánh Quốc.

Không thể không nói Tê Túc rất có tài ăn nói, mặc dù nàng không có thiện cảm với kẻ này nhưng cũng nghe ra một chút hứng thú, cơ hồ quên đi sự buồn tẻ trên đường, bất giác cũng đã tới Đế Phách.

Tê Túc đưa Mặc Phi đến một trang viên lớn, tấm biển trên cửa ghi Phương Tường uyển. Cảnh vật trong uyển thanh tịnh và đẹp đẽ, không lộng lẫy trang hoàng mà tương đối lịch sự tao nhã.

“Sau này Phù Đồ cứ yên tâm ở trong viện này đi.” Tê Túc chỉ vào một viện tử, cười nói.

Mặc Phi chậm rãi đi vào, tiếng động loảng xoảng trên chân khe khẽ vang lên, không hiểu sao đột nhiên nàng lại nhớ tới Tống Huy Tông*. Lúc trước, khi ông bị quân Kim giam cầm, nhốt vào thành trì của ngũ quốc, có phải cũng có thứ cảm thụ giống nàng bây giờ không? Mờ mịt, mất mát, cô độc. Dù cho nơi ở trước mắt có đẹp đẽ đến đâu cũng chỉ là một cái lồng giam. Sau khi bước vào, nàng có còn cơ hội giành lại tự do hay không?

Tê Túc có vẻ nhận thấy được điều gì, nhẹ giọng nói: “Phù Đồ tiên sinh, lúc trước tại hạ có nhiều chỗ thất lễ, không mong được tiên sinh tha thứ ngay nhưng sau này, tại hạ nhất định sẽ hết sức toàn tâm toàn ý mà chờ đợi.”

Mặc Phi thản nhiên nhìn thoáng qua, nói: “Đừng nói nhiều lời, trước khi xích chân còn chưa cởi bỏ, lời nói của Tê Túc ngươi đều là giả dối, không đáng tin.”

Tê Túc chỉ có thể cười cười bất đắc dĩ, quay đầu dặn dò người hầu dốc lòng chăm sóc rồi vội vàng rời đi.

Nghĩ rằng vừa về nước, chuyện tình cần hắn xử lý còn rất nhiều, chỉ sợ sau mấy ngày sẽ chẳng đến quấy rầy Mặc Phi, nàng cũng vui vẻ thanh nhàn.

Trong phòng bố trí thanh nhã, bàn ghế trạm trổ, bình phong thêu hoa, lư hương đồng đen, màn trúc rủ rèm châu.

Mở cửa sổ ra, bên ngoài cửa sổ là một hồ nước màu ngọc bích, xa xa có hành lang quanh co, lâu đình, lầu các nhấp nhô, tinh tế xen vào nhau, cây xanh lượn vòng, hương hoa tươi mát, quả thật là phong cảnh đẹp.
Khóe mắt bỗng nhín thấy bên cạnh còn có một gian phòng, Mặc Phi tò mò đi vào mới phát hiện đây chính là nơi cất chứa nhạc khí, bên trong đặt đàn cổ, chuông nhạc khánh ngọc, huân[1], sáo trúc, v.v… còn có rất nhiều nhạc cụ không biết tên.
[1] Huân: cái huyên bằng đất (nhạc khí cổ bằng đất hình quả trứng có sáu lỗ).

Ánh mắt Mặc Phi hơi tỏa sáng, trước kia nàng chưa từng cẩn thận nghiên cứu nhạc khí của thời đại này, bây giờ xem ra lại có chút vui sướng không hiểu. Nàng lần lượt xem từng thứ một, thỉnh thoảng còn gảy gảy mấy cái, cuối cùng nàng cầm lấy thứ duy nhất mà nàng biết sử dụng là cây sáo, nhìn thân sáo trong suốt long lanh, tạo hình tinh tế, hai đầu còn nạm viền vàng, vô cùng xinh đẹp, thật là yêu thích không muốn buông tay. Nàng không nhịn được nâng đến bên miệng, đang lúc muốn thổi một khúc, bỗng nghĩ tới tình cảnh bây giờ, khẽ thở dài, lại thả trở về.
Đi ra khỏi gian nhạc khí, chỉ thấy một nô tì đang quỳ phủ phục ở trong phòng.

Mặc Phi hỏi: “Ngươi tên gì?”

Người nô tì nhẹ nhàng dập đầu, trả lời: “Tiểu nô tên Đề Nhi, phụng mệnh của chủ nhân, đặc biệt tới hầu hạ công tử.”

“Đã biết.” Mặc Phi nói: “Ngươi đứng lên đi, chuẩn bị thức ăn cho ta, ta đói rồi.”

“Vâng.” Nô tì Đề Nhi lại dập đầu, chậm rãi lui ra ngoài.

Mặc Phi lại khẽ thở một hơi dài…

“Thế nào? Thế nào?” Đề Nhi mới vừa đi ra không xa đã bị mấy nữ tử đồng dạng giữ chặt lại, một người trong đó vội vàng hỏi: “Vị nam tử mà chủ nhân mang về, rốt cuộc là như thế nào?”

Đề Nhi bất đắc dĩ nói: “Ta cũng không biết, vị công tử kia chỉ nói với ta có mấy câu, nghe giọng nói có phần ôn nhã, tướng mạo cũng vô cùng tuấn tú.”

“Đây chính là nam tử đầu tiên mà chủ nhân mang vào Phương Tường uyển, người này chắc chắn phải được chủ nhân coi trọng.”

Đề Nhi do dự, nói: “Khó mà nói, vị công tử này… Ừm, chân bị đeo xiềng xích.”

“Cái gì?” Chúng nữ tử kinh ngạc nói: “Chẳng lẽ là tù nô? Nhưng làm sao chủ nhân có thể mang tù nô đến Phương Tường uyển được? Lại còn sắp xếp cho ở trong một viện tử tốt như vậy nữa?”

“Ta cũng không biết.” Đề Nhi lắc đầu.

“Hay là… Hay là chủ nhân cũng bắt đầu thích nam…”

“Đừng nói bậy.” Đề Nhi ngắt lời nói: “Chủ nhân có phần kính trọng vị công tử này, mặc dù không biết vì nguyên nhân gì mà chân bị đeo xích, nhưng mà chúng ta không thể bình luận bừa được.”

Chúng nữ tử hiểu rõ gật đầu, có điều vẻ mặt vẫn tò mò không thôi.

“Được rồi, ta phải đi chuẩn bị đồ ăn cho vị công tử kia, mấy người cũng giải tán đi, tuy nói chủ nhân đối xử nhân hậu với người dưới, nhưng chúng ta cũng không thể tùy ý làm bậy, chuyện của vị công tử kia đừng có nói lung tung.”

“Dạ, Đề Nhi tỷ tỷ.” Chúng nữ tử vui cười giải tán.

Mặc Phi tự nhiên không biết mình đã khiến cho toàn bộ Phương Tường uyển chú ý, đây là tư trạch của Tê Túc, cơ hồ không có người ngoài tiến vào, bởi vì nơi này có một người cực kì quan trọng, đó chính là mẹ của hắn. Cho nên Mặc Phi tiến vào khiến cho mọi người trên dưới trong uyển đều vô cùng kinh ngạc.

Ban đêm, Đề Nhi đưa tới hơn mười bộ y phục và một số đồ dùng hàng ngày cho Mặc Phi, còn lại các loại khí cụ, phàm là có thể sử dụng được, đều chuẩn bị đầy đủ hết.

Mặc Phi chỉ thản nhiên nhìn thoáng qua, không nói nhiều lời. Tắm rửa xong, nàng sớm thay y phục rồi đi vào giấc ngủ.

“Chủ nhân, cái rương này có đặt ở trong phòng ngài hay không?” Người hầu nâng một cái rương tinh xảo tiến vào bẩm báo.

Tê Túc nhìn thoáng qua, nói: “Đặt lên bàn, ta tự mình xử lý.”

“Vâng.” Người hầu đặt đồ lên bàn rồi lui ra ngoài.

Tê Túc lôi ra một cái chìa khóa, mở rương ra, bên trong đựng đồ vật mang theo bên mình của hắn cùng với… chuôi dao kia của Phù Đồ.

Hắn lại lấy chuôi dao ra nhìn, trong đầu hồi tưởng lại dáng vẻ múa đao ngày ấy của Phù Đồ, nhìn như cử trọng nhược khinh[1], lại nhanh như thiểm điện, thật sự là khó có thể tưởng tượng nổi thân hình văn nhược kia của “Hắn” lại thi triển được võ nghệ cao siêu như thế.
[1] Cử trọng nhược khinh: nâng vật nặng dễ dàng như vật nhẹ.

Điều này khiến cho hắn không thể không đề phòng mà lấy xiềng xích trói buộc “Hắn”, có điều vật này mang trên người Phù Đồ, thật là chướng mắt.

Lắc đầu, Tê Túc đặt chuôi dao ở trên giá sách, sau đó sửa sang lại một số đồ vật khác, nhìn sắc trời, hắn chậm rãi rời khỏi thư phòng.

Ngay vào lúc hắn rời đi không lâu, chuôi dao trên giá sách bỗng hiện ra ánh đỏ lập lòe. Sau đó từ giữa chuôi dao lan ra một luồng sương đen, sương đen không ngừng bốc lên rồi chậm rãi khuếch tán, cho đến khi trào ra khỏi thư phòng, xâm nhập vào trong bóng đêm…

Mặc Phi đang ngủ say bỗng mở mắt, Ngọc phù trên cổ đang mơ hồ nóng lên, trong ngực cũng bị đè nén.

Oán khí thật lớn!

Mặc Phi bỗng ngồi dậy, xuống giường đi ra gian ngoài, mở cửa sổ nhìn phía xa, chỉ thấy bầu trời sao như bị một màn sương đen bao phủ, thoạt nhìn mông mông lung lung, cảm giác oán hận tràn ngập vô cùng quen thuộc.

“Trạm Nghệ?” Mặc Phi nhẹ giọng gọi.

Hắn, ở ngay gần đây, ở ngay gần đây. Giọng nói của Trạm Nghệ tràn đầy giận dữ.

Hắn? Mặc Phi phản ứng lại, nhất định là hậu nhân của kẻ thù diệt tộc Trạm Nghệ.

Cuối cùng ta cũng tìm được hậu nhân của tên ác đồ bị tộc ta nguyền rủa nhiều thế hệ rồi!

“Ngươi biết là ai không?” Mặc Phi nhíu mày hỏi.

Oán khí trên người Trạm Nghệ ngày càng nồng đậm, nhớ ngày đó ở bình nguyên Tử Vong, chính luồng oán khí này đã khiến cho vật sống không thể sinh tồn. Vốn cứ tưởng là lực lượng tụ tập của mấy ngàn oán linh, không ngờ chỉ một mình Trạm Nghệ đã có oán lực nồng đậm như vậy.

Không biết, nhưng ta có thể cảm giác được, hắn đã cách ta không xa, ta muốn tìm hắn, mang ta đi tìm hắn!

“Tìm thế nào? Đế Phách này có phạm vi mấy ngàn dặm, muốn tìm một người hoàn toàn không biết, cũng không dễ dàng.”

Chỉ cần ở trong vòng trăm trượng, ta có thể biết kẻ nọ là ai!

“Ngươi cứ bình tĩnh trước đã, muốn tìm cũng cần thời gian, chúng ta từ từ nghĩ cách.”

Ta không muốn đợi nữa, ta muốn lập tức đi giết hắn!

“Mấy trăm năm cũng đã đợi rồi, sao có mấy ngày mà lại không đợi được nữa?”

Thù hận mấy trăm năm, cô độc mấy trăm năm, hối hận mấy trăm năm… Trên lưng gánh theo tội nghiệt chính là nguyên nhân ta vẫn còn tồn tại trên đời này, là để báo thù. Nay kẻ thù ở ngay trước mắt, một khắc cũng bị giày vò! Cưu Vinh, Vưu Vinh! Ta tuyệt sẽ không tha thứ cho ngươi!

Mặc Phi lui từng bước, oán khí tận trời khiến cho trái tim của nàng không nhịn được mà đập nhanh. Nàng có Ngọc phù phòng thân, cho nên có thể thoát được, nhưng những người bình thường ở phụ cận lại không hề có sức chống cự, nếu còn tiếp tục như vậy, nơi mà oán khí lan tới sẽ nhuộm đỏ màu máu.

Hai tay Mặc Phi chụm lại, bắt đầu niệm Tâm kinh, niệm mấy đoạn nhưng cuối cùng vẫn không thể nhập tâm được. Bây giờ ngay cả lòng nàng cũng không thể yên tĩnh, làm sao có thể trấn an oán linh đang xao động này?

Đưa tay sờ Ngọc phù, Mặc Phi hơi phiền não. Đúng lúc này, nàng bỗng nhiên nhớ tới một thứ, trong lòng khẽ rung động, nàng xoay người đi đến gian phòng cách bên, lấy cây sáo ban ngày đã nhìn thấy ra.

“Trạm Nghệ, xin hãy bình tĩnh lại, mối thù của ngươi rồi cũng sẽ có lúc được báo, đừng tăng thêm tội nghiệt cho mình nữa.” Nói xong, Mặc Phi đặt cây sáo đến bên miệng, chậm rãi thổi ra một khúc An Hồn.

Âm điệu đầu tiên của cây sáo vừa phát ra đã khiến cho Mặc Phi hơi kinh ngạc, âm thanh của nó réo rắt mà uyên thâm, tựa như sóng gợn trên mặt hồ, nháy mắt đã lan ra.

Tiếng sáo uyển chuyển du dương, chậm rãi hòa nhập vào trong màn đêm, trái tim Mặc Phi cũng theo đó mà tĩnh lặng lại. Kí ức khi cùng thầy học thổi sáo lúc xưa như một màn bạc diễn ra trước mắt, mang theo sự ưu thương và vui sướng thản nhiên, xâm nhập vào lòng nàng…

Lúc này Ngọc phù lóe ra ánh sáng nhàn nhạt, tiếng sáo vốn bình thường lại dường như mang theo Phật âm, chậm rãi tỏa ra bốn phía.

Ở giữa không trung, Trạm Nghệ nghe thấy âm thanh này thì không khỏi an tĩnh lại, oán khí lập loè tận trời cuối cùng đã dần dần tan rã.

Tiếng sáo dừng lại, sương đen che lấp màn đêm cũng dần dần thu hẹp, biến thành bóng dáng của một người.

 Ai… không trung vọng đến một tiếng thở dài.

“Đừng vội, tâm nguyện của ngươi sẽ nhanh chóng đạt được thôi, chỉ cần đợi mấy ngày nữa là được.

Bây giờ linh hồn của ta trú trong thân dao, không thể rời xa, Phù Đồ phải giúp ta.

Mặc Phi trầm ngâm một lát, nói: “Chuôi dao bị Tê Túc lấy đi, nhưng ta sẽ nghĩ cách, Trạm Nghệ ngươi yên tâm.”

 Chỉ mong, chỉ mong… Những lời này còn chưa nói xong, Trạm Nghệ đã dần dần biến mất ở bên trong bầu trời đêm.

Lúc này Mặc Phi không biết rằng, Trạm Nghệ đột nhiên bốc phát đã khiến cho khu vực mấy trăm thước xung quanh Phương Tường uyển bị ảnh hưởng. Người ngủ thì liên tục gặp ác mộng, người thức thì buồn bực muốn nôn. Nếu như kéo dài thêm một thời gian nữa, sẽ tái diễn lại tràng cảnh giết chóc giống như ngày đó ở bình nguyên Tử Vong, toàn bộ người nhiễm đều sẽ phát điên mà chết.

Cũng may tiếng sáo của Mặc Phi vang lên đúng lúc, chậm rãi trấn an luồng oán khí này, khiến cho mấy trăm người tránh được một kiếp nạn.

Ngày hôm sau, khi người người đàm luận đều cảm thấy khó tin, đặc biệt, tiếng sáo tiến tới từ xa xôi lại càng khiến cho mọi người hiếu kỳ…

Chú thích thêm:

Tống Huy Tông: Tống Huy Tông tên là Triệu Cát, sinh năm Nhâm Ngọ 1082 và mất năm Ất Hợi 1135. Triệu Cát là con thứ 11 của vua Tống Thần Tông (1048-1085). Triệu Cát là người có cá tính đặc biệt, cầm kỳ, thi họa, thứ gì cũng giỏi, nhưng ông lại chìm đắm trong hoan lạc, hưởng thụ chẳng còn biết trời đất là gì. Năm 1100, vua Tông Triết Tông (1077-1100) qua đời nhưng không có con trai nối dõi, và để tìm người kế vị, các quan đại thần buộc phải chọn trong đám con cháu của vua Tống Thần Tông. Lúc đó, Hoàng thái hậu đang buông rèm nhiếp chính, sẵn có lòng quý mến Triệu Cát nên một mực kiên trì chọn Triệu Cát lên nối ngôi. Vì vậy, Triệu Cát được lên làm vua, thường được gọi là Tống Huy Tông.

Trong việc trị nước, Tống Huy Tông đả kích những quần thần trung thực và dũng khí, cho thu thêm thuế gấp bội. Ông công khai tước đoạt ruộng đất của nhân dân, cho bán quan mua tước để lấy tiền. Bọn quan lại, địa chủ được Tống Huy Tông dung túng, ra sức vơ vét của dân, khiến cho nhân dân trăm họ rơi vào cảnh lầm than, kinh tế chính trị-xã hội thời Bắc Tống đã gần bên vực thẳm.

Ngay từ khi còn nhỏ, Tống Huy Tông đã ham chơi suốt ngày, đến khi lên ngôi Hoàng đế ông lại càng ham chơi hơn, và trò chơi của vị vua này cũng thật ly kỳ quái dị, gọi là “hoa thạch cương”. Tống Huy Tông cho người đi khắp nơi sưu tập nhiều thứ gọi là “kỳ hoa dị thạch”. Ngoài ra, ông còn chế tạo, sưu tầm nhiều thứ trò chơi quý hiếm cũng gây tốn kém không biết bao nhiêu nhân vật lực của nhân dân, do đó ở nhiều nơi nhân dân đã nổi dậy khởi nghĩa. Trong thời gian nghĩa quân nổi dậy, Tống Huy Tông từng hạ lệnh việc bãi bỏ việc sưu tập “hoa thạch cương” nhưng đến khi dẹp được quân khởi nghĩa thì Tống Huy Tông lại quay trở lại với ý thích quái đản của mình và ra lệnh khôi phục “hoa thạch cương”. Không chỉ ham chơi, Tống Huy Tông còn là người rất mê tín, vị Hoàng đế này cho rằng trên trời dưới đất có vô vàn thứ thần tiên quái thánh, và bản thân Tống Huy Tông rất tin thời Đạo giáo, tự phong mình là “Đạo quân Hoàng đế”.

Vị Hoàng đế này rất thích được người khác suy tôn là “Đạo quân” hay “Đạo quân Hoàng đế”. Tống Huy Tông muốn mình là chủ của một nước, đồng thời muốn uy quyền phải được rải khắp gầm trời.

Vấn đề ăn mặc của Hoàng đế này cũng thật nực cười, nửa người nửa tiên, đi đâu cũng có hàng trăm người là đạo sĩ “tiền hô hậu ủng”. Vị vua này còn nói đã tận mắt nhìn thấy những lâu đài điện các ở trong mây hay có nhiều đạo lưu đồng tử nét mặt ngời ngời, tay cầm tờ xí phù hiệu thấp thoáng trong mây…

Bên cạnh việc điều hành triều chính với sự ủng hộ cho những người theo phái cải cách, vị vua này còn là một thủ lĩnh văn hóa với việc dành nhiều thời gian ca tụng nghệ thuật. Ông cũng là người sưu tầm hội họa, thư pháp và đồ cổ từ các thời đại trước đó ở Trung Quốc, cho xây dựng các bộ sưu tập lớn cho niềm đam mê của mình. Ông cũng tự sáng tác những bài thơ cho mình, được biết đến như là một họa sĩ luôn khao khát và cống hiến, ông đã tạo ra kiểu thư pháp riêng cho mình, quan tâm tới kiến trúc và thiết kế vườn, thậm chí còn viết viết chuyên luận về y học và Đạo giáo. Ông cho tập hợp một nhóm tùy tùng gồm các họa sĩ, nhà thư pháp cung đình trong hàn lâm, thư họa viện, trước đó đã được kiểm tra trong các kỳ thi để làm quan tại triều và thực hiện cải cách đối với âm nhạc cung đình. Giống như những người có học thức khác ở thời đại của ông, thì ông là nhân vật rất đa năng. Tuy nhiên, thời gian trị vì của ông lại không được lâu dài bởi các quyết định thiếu chính xác trong chính sách đối ngoại, và sự kết thúc thời kỳ trị vì của ông cũng đánh dấu một thời kỳ đầy thảm họa cho nhà Tống. Ông đã trọng dụng Sái Kinh, Đồng Quán, Cao Cầu những người có thể được coi là đã góp phần to lớn làm nhà Bắc Tống sụp đổ.

Tống Huy Tông cũng là một nghệ sĩ thực thụ, Ông bỏ bê quân đội nên nhà Tống ngày càng trở nên suy yếu hơn. Khi người Nữ Chân ở Mãn Châu thành lập nhà Kim (1115-1234) và tấn công vương quốc Liêu ở phía Bắc nhà Tống vào năm 1120 thì triều đình nhà Tống đã liên minh với nhà Kim để tấn công nhà Liêu từ phía Nam. Điều này đã thành công trong việc tiêu diệt nhà Liêu, một kẻ thù lâu đời của nhà Tống. Tuy nhiên, nhà Kim lúc này đã ở sát biên giới phía Bắc nhà Tống.

Không hài lòng với sự sát nhập Vương quốc Liêu cùng việc đánh giá đúng đắn về sự suy yếu của nhà Tống nên nhà Kim nhanh chóng tuyên bố chiến tranh với cựu đồng minh, vào năm 1126, Quân đội nhà Kim đã vượt sông Hoàng Hà tiến sát với Biện Kinh (Khai Phong), Kinh đô nhà Bắc Tống. Quá hoảng sợ, Huy Tông đã thoái vị ngày 18/1/1126 để nhường ngôi cho con trai trưởng Triệu Hoàn (tức Hoàng đế Tống Khâm Tông).

Vượt qua các bức tường thành khai phong là nhiệm vụ khó khăn đối với kỵ binh nhà Kim, và điều này cùng với sự kháng cự mãnh liệt của một số tướng lĩnh, quan lại và quân đội nhà Tống, những người chưa hoàn toàn đánh mất nhuệ khí như Huy Tông, nên nhà Kim buộc phải dỡ bỏ việc bao vây thành Khai Phong và quay trở về phương Bắc. Tuy nhiên, nhà Tống buộc phải ký hòa ước nhục nhã với nhà Kim, đồng ý chi trả mọi khoản chi phí rất tốn kém và phải triều cống cho nhà Kim mỗi năm. Quân Kim ra điều kiện giảng hòa hết sức khắc nghiệt, như mỗi năm nhà Tống phải nộp cho nhà Kim 5 triệu lạng vàng, 50 triệu lạng bạc, 1 triệu tấm lụa, 1 vạn con bò, ngựa. Đồng thời nhà Tống phải cắt nhường cho nhà Kim 3 trấn ở phía Bắc Hoàng Hà, và vua Tống Huy Tống năm đó đã 44 tuổi phải gọi vua Kim Thái Tông lúc đó 51 tuổi bằng bác, sau đó quân Kim rút về Bắc.

Tháng 9/1126, quân nhà Kim tấn công Bắc Tống lần thứ hai và bắt toàn bộ triều đình Bắc Tống gồm Thái Thượng Hoàng, Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông, Hoàng Hậu, cung phi, Thái Tử, tôn thất quan lại… tất cả hơn 3000 người đem về phương Bắc. Toàn bộ lụa là, vàng bạc châu báu, sổ sách ở kinh đô bị cướp sạch. Triều đình nhà Bắc Tống đến năm 1127 đã chính thức bị diệt vong, còn về bản thân vua Tống Huy Tông sau khi bị bắt về nước Kim, bị giam lỏng ở đó gần 10 năm trời. Năm 1135 Tống Huy Tông bị bệnh mất khi 53 tuổi. Đến năm 1141, giữa nhà Nam Tống và nhà Kim ký hòa ước, nhà Kim đồng ý đưa quan tài Tống Huy Tông về Nam Tống.

Hơn 20 năm làm vua, chỉ lo ăn chơi hưởng lạc và có sở thích là sưu tập hoa thạch cương và thích được người khác suy tôn là “Đạo quân Hoàng đế”, thì cuối cùng cũng để lại vết nhơ trong lịch sử Trung Quốc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro