VỤ BÍ ẨN Ở THUNG LŨNG BOSCOME(The Boscombe Valley Mystery, 1891)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Một buổi sáng, khi hai vợ chồng tôi đang dùng điểm tâm thì cô hầu gái đem vào một bức điện tín. Bức điện do Sherlock Holmes gửi với nội dung như sau:

Anh có rảnh vài ngày không? Vừa nhận điện tín từ miền Tây nước Anh về tấn thảm kịch ở thung lũng Boscombe. Rất vui nếu có anh đi cùng. Khí hậu và phong cảnh rất tuyệt. Sẽ rời Paddington lúc 11 giờ 15.

"Ý anh thế nào, anh yêu?" Vợ tôi đưa mắt liếc nhìn tôi và hỏi. "Anh sẽ đi chứ?"

"Anh thật sự chưa biết nên trả lời thế nào. Hiện tại anh đang có rất nhiều việc phải làm."

"Ồ, Anstruther sẽ làm thay anh. Dạo gần đây trông anh xanh xao quá. Em nghĩ rằng việc thay đổi không khí sẽ có lợi cho anh, vì tại anh vẫn luôn rất hứng thú với những vụ án của Sherlock Holmes kia mà."

"Nếu không nhận lời thì anh sẽ là kẻ vô ơn, bởi xét ra thì anh đã được hưởng lợi nhờ một trong những vụ đó," tôi trả lời. "Nhưng nếu đi thì anh phải chuẩn bị hành lí ngay lập tức vì chỉ còn có nửa giờ nữa thôi."

Kinh nghiệm từ cuộc sống nay đây mai đó ở Afghanistan ít ra cũng giúp tôi thành một người luôn nhanh chóng và sẵn sàng cho những chuyến đi. Các nhu cầu của tôi không nhiều và cũng đơn giản, vì thế mà chưa đến giờ hẹn tôi và hành lí đã yên vị trong một cỗ xe lọc cọc chạy về hướng nhà ga Paddington. Sherlock Holmes đang đi tới đi lui trên sân ga, chiếc áo khoác du lịch xám dài với chiếc mũ vải ôm sát đầu càng làm cho dáng người của anh thêm cao gầy.

"Anh đến thì thật tốt biết mấy, Watson ạ", anh nói. "Có được một người mà tôi hoàn toàn tin cậy đi cùng là quan trọng lắm. Lúc nào cũng thế, lực lượng hỗ trợ ở địa phương nếu không vô dụng thì cũng đầy thành kiến. Nếu anh vừa lòng với hai chỗ ngồi ở góc thì tôi đi lấy về đây."

Chúng tôi có được một khoang riêng nhưng lại bị ngập trong hàng chồng báo mà Holmes mang theo. Anh lục lọi và đọc chúng, thỉnh thoảng lại ghi chép và trầm tư cho đến khi chúng tôi đi qua Reading. Đột nhiên anh vo tròn chúng lại thành một cuộn to tướng và ném lên giá.

"Anh đã nghe tin gì về vụ này chưa?" Anh hỏi.

"Chưa nghe gì cả. Mấy hôm nay tôi chẳng đọc tờ báo nào."

"Báo chí London cũng không đưa tin đầy đủ cho lắm. Tôi vừa xem qua tất cả những tờ báo mới ra để nắm vững các chi tiết. Từ những gì tôi thu thập được thì có vẻ như đây là một trong những vụ án đơn giản nhưng lại vô cùng khó khăn."

"Nghe có vẻ nghịch lí quá!"

"Nhưng lại hết sức đúng đắn. Sự khác thường luôn là một đầu mối. Một tội ác càng tầm thường và không có gì đặc biệt thì lại càng khó hiểu. Tuy nhiên, trong vụ này thì người ta đã khởi tố một vụ án cực kì bất lợi cho con trai người bị sát hại."

"Vậy đó là một vụ giết người à?"

"Phải, người ta phỏng đoán thế. Tôi thì không bao giờ khẳng định điều gì trước khi có cơ hội đích thân xem xét sự việc. Tôi sẽ giải thích ngắn gọn tình hình cho anh nghe trong chừng mực mà tôi hiểu:

Thung lũng Boscombe là một vùng quê nằm không xa thị trấn Ross của hạt Herefordshire. Điền chủ lớn nhất vùng đó là một ông có tên John Turner; ông ta đã kiếm được nhiều tiền ở Úc và mới trở về quê cũ được vài năm. Một trong những trang trại của ông ta, trại Hatherley, được ông Charles McCarthy thuê, ông này trước đây cũng từng sống ở Úc. Hai người quen biết nhau ở thuộc địa, vì thế chẳng lạ lùng gì khi trở về định cư họ vẫn giữ mối quan hệ rất thân thiết. Rõ ràng là ông Turner giàu có hơn, còn ông McCarthy chỉ là người thuê đất, nhưng cả hai vẫn có vẻ hoàn toàn bình đẳng với nhau vì họ thường đi chung với nhau. Ông McCarthy có một cậu con trai mười tám tuổi, còn ông Turner chỉ có một cô con gái duy nhất cũng trạc tuổi cậu ta, và cả hai ông đều góa vợ. Có vẻ như họ tránh giao du với những gia đình người Anh hàng xóm và sống ẩn dật, dù cả hai cha con McCarthy đều rất thích thể thao và thường xuất hiện ở những buổi đua ngựa trong vùng. Ông McCarthy có hai người giúp việc - một người đàn ông và một cô gái. Ông Turner thì có rất nhiều gia nhân, ít ra cũng phải nửa tá. Đó là những gì tôi có thể thu thập được về hai gia đình trên. Giờ thì nói về các sự việc.

Vào ngày mồng 3 tháng 6, tức hôm thứ hai vừa rồi, ông McCarthy ra khỏi nhà ở Hatherley vào khoảng 3 giờ chiều và đi bộ đến hồ Boscombe, đó là một cái hồ nhỏ hình thành do sự mở rộng của một con suối chảy dọc thung lũng Boscombe. Trước đó, vào buổi sáng, ông ta đã ra thị trấn Ross cùng với ông giúp việc và nói với người này là ông ta phải đi gấp vì có một cái hẹn rất quan trọng lúc 3 giờ. Kể từ cuộc hẹn đó, không ai thấy ông ta còn sống trở về. Hồ Boscombe nằm cách trang trại Hatherley một phần tư dặm, và có hai người đã nhìn thấy ông ta băng qua khu đất này. Một người là một bà già không thấy nhắc đến tên tuổi, còn người kia là William Crowder - người coi khu săn bắn làm việc cho ông Turner. Cả hai nhân chứng đều khai là ông McCarthy đi một mình. Người coi khu săn bắn còn nói thêm là khoảng vài phút sau khi trông thấy ông McCarthy đi ngang qua thì anh ta nhìn thấy con trai của ông ta, anh James McCarthy, cũng đi đường ấy và kẹp một khẩu súng dưới nách. Theo sự khẳng định chắc nịch của người này, vào lúc đó, người cha vẫn còn trong tầm mắt, còn anh con trai thì đi theo ông ta. Nhân chứng cũng không nghĩ ngợi gì thêm về việc đó cho đến chiều tối hôm ấy, khi anh ta nghe kể về tấn bi kịch đã xảy ra.

Sau khi hai cha con nhà McCarthy đi khuất tầm mắt của người gác khu săn bắn William Crowder, thì lại có người nhìn thấy họ. Quanh hồ Boscombe, cây cối mọc rậm rạp, chỉ có một vạt cỏ và lau sậy nhỏ hẹp ven mép hồ. Patience Moran, một bé gái mười bốn tuổi, là con gái người gác cổng của điền trang Thung lũng Boscombe, lúc đó đang hái hoa trong một khu rừng. Cô bé nói rằng khi ở đó đã nhìn thấy ông McCarthy và người con trai đứng ở bìa rừng, sát hồ nước, có vẻ như họ đang cãi nhau dữ dội. Cô bé nghe thấy tiếng người cha chì chiết con trai và cô nhìn thấy anh ta vung tay lên như muốn đánh cha mình. Sự hung bạo của họ khiến cô bé sợ hãi đến nỗi chạy ngay về nhà kể cho mẹ nghe chuyện hai cha con McCarthy đang cãi nhau bên hồ Boscombe và cô sợ là họ sẽ đánh nhau. Cô chưa kịp kể gì nhiều thì đã thấy anh con trai nhà McCarthy chạy đến chòi gác báo rằng anh ta thấy cha mình chết trong rừng và nhờ người gác cổng giúp đỡ. Anh ta rất hoảng loạn, không còn khẩu súng và chiếc mũ, bàn tay phải và ống tay áo dính vết máu hãy còn mới. Khi đi theo anh ta, người ta tìm thấy xác chết nằm sõng soài trên bãi cỏ cạnh hồ, đầu bị đập nhiều cú liên tiếp bằng một thứ vũ khí nặng và cùn. Những vết thương như vậy rất có thể là do báng súng của anh con trai gây ra, và cái báng súng đó được tìm thấy trên cỏ chỉ cách thi thể có vài bước chân. Trong hoàn cảnh đó, chàng trai trẻ bị bắt ngay lập tức và bị kết tội 'giết người có chủ đích', tại cuộc thẩm tra chính thức hôm thứ ba, đến hôm thứ tư thì anh ta bị đưa ra tòa sơ thẩm ở Ross và các thẩm phán đã chuyển vụ án này lên Tòa đại hình. Đó là những sự kiện chính trong vụ này khi nó được đưa ra trước Pháp y viên và tòa án vi cảnh."

"Tôi khó mà hình dung ra một vụ án nào có bằng chứng rõ ràng đến thế", tôi nhận xét. "Chưa bao giờ các chứng cứ gián tiếp lại chỉ thẳng vào một thủ phạm như trong vụ này."

"Chứng cứ gián tiếp là một thứ rất phức tạp", Holmes đáp với vẻ trầm tư. "Nó có thể chỉ thẳng đến một điều nào đó nhưng nếu anh thay đổi góc nhìn một chút anh có thể thấy nó lại hướng thẳng tới một điều hoàn toàn khác. Tuy vậy, cũng phải thừa nhận rằng các tình tiết trong vụ án này có vẻ rất bất lợi cho chàng trai trẻ, và rất có thể anh ta chính là thủ phạm. Thế nhưng có vài người sống quanh vùng, trong số đó có cô Turner, con gái ông chủ điền trang, lại tin tưởng rằng anh ta vô tội, và họ đã thuê ông Lestrade người mà anh có thể vẫn còn nhớ là có liên quan đến Cuộc điều tra màu đỏ để làm rõ vụ án. Ông Lestrade cảm thấy khó xử nên đã chuyển vụ này cho tôi, vì thế mới có hai quý ông trong độ tuổi trung niên phải lao về miền Tây với vận tốc năm mươi dặm một giờ, thay vì thanh thản nghỉ ngơi ở nhà mình sau bữa điểm tâm."

"Tôi e rằng", tôi nói, "các dữ kiện đã quá rõ nên anh sẽ thấy khó mà thu được gì từ vụ này."

"Không có gì dễ lừa gạt người ta bằng một dữ kiện rõ ràng", anh trả lời rồi cười phá lên. "Ngoài ra, biết đâu chúng ta lại có cơ may tìm ra những dữ kiện rõ ràng khác mà đối với ông Lestrade lại chẳng rõ ràng chút nào. Anh biết tôi quá rõ nên sẽ không nghĩ là tôi khoác lác khi nói rằng tôi sẽ xác nhận hoặc bác bỏ giả thuyết của ông ta bằng những cách thức mà ông ta không đủ khả năng sử dụng, hoặc thậm chí còn không hiểu nổi. Lấy ngay ví dụ đầu tiên nhé, tôi biết rất rõ là trong phòng ngủ của anh, cửa sổ nằm bên tay phải, tuy thế tôi vẫn nghi ngờ không biết ông Lestrade có nhận ra một điều hiển nhiên như thế hay không."

"Làm sao mà..."

"Bạn thân mến của tôi, tôi hiểu anh rất rõ. Tôi biết anh có tính gọn gàng, ngăn nắp kiểu nhà binh. Sáng nào anh cũng cạo râu, và vào mùa này thì anh cạo râu dưới ánh sáng mặt trời; nhưng vì càng về phía bên trái thì anh lại càng để sót nhiều chỗ, cho đến góc hàm thì khá là cẩu thả, cho nên rõ ràng phía đó không được chiếu sáng bằng bên này. Tôi không thể nào tưởng tượng ra một người như anh lại có thể vừa lòng với kết quả như thế khi ngắm mình trong gương với ánh sáng rọi đều khắp. Tôi chỉ lấy đó làm một ví dụ nhỏ về sự quan sát và suy luận. Đó là métier của tôi, và có thể nó cũng giúp được đôi chút trong việc điều tra trước mắt. Có một vài điểm nhỏ đã được làm sáng tỏ trong cuộc điều tra đáng để ta phải suy nghĩ."

"Đó là những điểm nào?"

"Có vẻ như việc bắt giữ anh ta không được thực hiện ngay mà là sau khi anh ta đã quay về trang trại Hatherley. Khi viên thanh tra của sở cảnh sát thông báo rằng anh ta bị bắt, chàng trai cho biết anh ta không ngạc nhiên khi nghe thế và anh ta đáng bị như vậy. Lời tuyên bố này của anh ta đã xóa đi chút nghi ngờ còn sót lại trong suy nghĩ của ban hội thẩm pháp y."

"Đó là một lời thú tội", tôi thốt lên.

"Không phải thế, tiếp sau đó là một lời tuyên bố vô tội."

"Sau một chuỗi những sự kiện đáng nguyền rủa như thế ít ra đó cũng là một lời tuyên bố đáng ngờ."

"Ngược lại là khác", Holmes nói, "đó là dấu vết sáng sủa nhất mà hiện giờ tôi có thể thấy được trong đám mây mù. Cho dù anh ta có vô tội đến đâu chăng nữa, anh ta cũng không thể ngu ngốc đến mức không nhận ra là hoàn cảnh đang rất bất lợi cho mình. Nếu anh ta tỏ ra ngạc nhiên hay giả vờ phẫn nộ khi bị bắt thì tôi sẽ coi đó là một chi tiết rất đáng ngờ bởi vì trong trường hợp này, sự ngạc nhiên hoặc giận dữ đều không tự nhiên mà lại có vẻ là lối hành xử làm bộ làm tịch của kẻ có mưu đồ. Việc anh ta thẳng thắn chấp nhận tình huống cho thấy anh ta hoặc là một người vô tội hoặc là một người rất tự chủ và kiên quyết. Anh ta nói mình đáng bị như thế cũng chẳng phải là bất thường nếu anh xem xét tình huống anh ta đứng bên thi thể của cha mình, và rõ ràng là vào chính ngày hôm đó anh ta đã quên mất bổn phận làm con khi nói chuyện với ông ta, thậm chí, theo lời kể của cô bé đã đưa ra bằng chứng rất quan trọng, anh ta lại còn vung tay lên như định đánh ông ta. Theo tôi, sự tự trách móc và ăn năn hối lỗi thể hiện trong tuyên bố của anh ta là những dấu hiệu của một tâm hồn trong sạch hơn là một lương tâm tội lỗi."

Tôi lắc đầu. "Đã có nhiều người bị treo cổ với bằng chứng còn mong manh hơn thế", tôi nhận xét.

"Đúng vậy. Và rất nhiều người đã bị treo cổ oan uổng."

"Thế còn lời khai của chàng trai trẻ thì sao?"

"Tôi e rằng nó không được lạc quan cho lắm đối với những người ủng hộ cậu ta, dù trong đó có một vài điểm gợi cho ta thấy đôi điều. Anh hãy xem ở đây và tự đọc đi."

Anh lấy ra trong đống báo một tờ báo địa phương Herefordshire và sau khi lật tìm đến đúng trang, anh chỉ cho tôi đoạn chàng trai trẻ bất hạnh trình bày lại những gì đã xảy ra. Tôi ngồi xuống một góc toa tàu và cẩn thận đọc bài báo. Nội dung của nó như sau:

James McCarthy, con trai duy nhất của người đã chết, được triệu tập và khai như sau: Tôi rời khỏi nhà trong ba ngày để đi Bristol và vừa trở về sáng hôm thứ hai vừa rồi, ngày mồng 3. Khi tôi về đến nhà thì cha tôi đi vắng và tôi được cô hầu gái cho biết là ông đã đi xe ngựa đến thị trấn Ross cùng với John Cobb, người quản ngựa. Chỉ một lát sau, tôi nghe tiếng bánh xe độc mã của ông vang lên trong sân, và qua cửa sổ phòng mình, tôi nhìn thấy ông bước xuống xe và vội vã rời sân dù tôi không biết là ông đi về hướng nào. Tôi bèn lấy súng và đi về phía hồ Boscombe với ý định thăm thú vùng đất có nhiều hang thỏ ở bờ bên kia. Trên đường đi, tôi gặp William Crowder, người coi khu săn bắn, như ông ta có nói trong lời khai của mình; nhưng ông ta lại lầm tưởng là tôi đi theo cha tôi. Tôi không hề hay biết là cha mình đang đi phía trước. Khi còn cách hồ khoảng một trăm yard, tôi nghe thấy tiếng kêu "Cooee", đó là tín hiệu thường dùng giữa hai cha con tôi, tôi bèn rảo bước về phía trước và thấy ông đang đứng bên hồ. Ông có vẻ rất ngạc nhiên khi thấy tôi và hỏi tôi với giọng hơi bực dọc là tôi làm gì ở đây. Cuộc đối thoại sau đó dần trở nên gay gắt và suýt nữa đến mức đánh nhau vì cha tôi là một người rất nóng nảy. Nhận thấy cơn giận dữ của ông trở nên không kiềm chế được, tôi bỏ ông lại đó và quay trở về trang trại Hatherley. Tuy nhiên, chưa đi được hơn một trăm năm mươi yard, tôi nghe thấy tiếng thét rất đáng sợ ở phía sau nên đã chạy ngược trở lại. Tôi nhìn thấy cha tôi nằm hấp hối trên mặt đất, đầu bị thương rất nặng. Tôi buông khẩu súng xuống và ôm lấy ông nhưng ông gần như đã chết. Tôi quỳ gối bên cạnh ông trong vài phút rồi chạy tới chỗ gần nhất là nhà của người gác cổng làm việc cho ông Turner để nhờ giúp đỡ. Khi quay lại, tôi không nhìn thấy ai ở gần cha tôi cả và tôi không hiểu làm thế nào mà ông bị thương. Cha tôi không phải người bình thường, ông có tính cách hơi lạnh lùng và có phần đáng sợ nhưng theo tôi được biết thì ông thực sự không có kẻ thù nào. Ngoài ra, tôi không còn biết gì thêm.

PHÁP Y VIÊN: Trước khi chết, cha anh có nói gì với anh hay không?

NGƯỜI KHAI: Ông lẩm bẩm một vài từ, nhưng tôi chỉ nghe được hình như là về một con chuột.

PHÁP Y VIÊN: Anh hiểu gì về điều đó như thế nào?

NGƯỜI KHAI: Nó chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi. Tôi cho rằng lúc đó cha tôi đã mê sảng.

PHÁP Y VIÊN: Nguyên nhân của lần cãi nhau cuối cùng giữa hai cha con anh là gì?

NGƯỜI KHAI: Tôi không muốn trả lời câu hỏi này.

PHÁP Y VIÊN: Tôi e rằng mình phải ép anh nói ra.

NGƯỜI KHAI: Thực sự là tôi không nói cho ông biết được. Tôi có thể cam đoan với ông là điều đó chẳng liên quan gì đến tấn thảm kịch sau đó.

PHÁP Y VIÊN: Điều này sẽ do tòa quyết định. Tôi không cần phải nhắc cho anh nhớ là việc anh từ chối trả lời sẽ rất bất lợi cho anh trong bất kì phiên tòa nào có thể sau này.

NGƯỜI KHAI: Tôi vẫn phải từ chối.

PHÁP Y VIÊN: Theo tôi hiểu thì tiếng kêu "Cooee" là một tín hiệu chung giữa anh và cha anh?

NGƯỜI KHAI: Đúng vậy.

PHÁP Y VIÊN: Thế thì, làm sao ông ta lại kêu lên trước khi nhìn thấy anh, thậm chí ông ta còn chưa biết là anh đã trở về từ Bristol?

NGƯỜI KHAI (rất bối rối): Tôi không biết.

MỘT THÀNH VIÊN BAN HỘI THẨM: Anh không nhận thấy điều gì đáng ngờ khi anh quay trở lại vì nghe thấy tiếng thét và nhìn thấy cha anh bị thương chí tử ư?

NGƯỜI KHAI: Không có gì rõ ràng.

PHÁP Y VIÊN: Ý anh là gì?

NGƯỜI KHAI: Tôi quá bối rối và lo lắng khi chạy vào khoảng rừng trống nên không thể nghĩ đến điều gì khác ngoại trừ cha tôi. Tuy nhiên, tôi có một cảm giác mơ hồ là khi tôi chạy về phía trước thì có một vật gì đó nằm trên mặt đất phía bên trái. Tôi nhớ hình như vật đó màu xám, có vẻ là một cái áo khoác hoặc một cái áo choàng len kẻ ô. Khi tôi đứng dậy từ chỗ cha tôi nằm và nhìn quanh quất để tìm thì nó không còn ở đấy nữa.

PHÁP Y VIÊN: Ý anh là nó đã biến mất trước khi anh đi tìm người giúp đỡ?

NGƯỜI KHAI: Vâng, nó đã biến mất.

PHÁP Y VIÊN: Anh không thể khẳng định vật đó là gì?

NGƯỜI KHAI: Vâng, tôi chỉ cảm thấy ở đó có một vật gì đó.

PHÁP Y VIÊN: Cách thi thể bao xa?

NGƯỜI KHAI: Khoảng hơn mười yard.

PHÁP Y VIÊN: Và cách bìa rừng bao xa?

NGƯỜI KHAI: Cũng khoảng đó.

PHÁP Y VIÊN: Vậy nếu nó được đem đi thì phải là trong khi anh đang đứng cách nó chỉ khoảng hơn mười yard?

NGƯỜI KHAI: Vâng, nhưng khi đó tôi đang đứng quay lưng lại.

Cuộc thẩm vấn kết thúc tại đây.

"Tôi nhận thấy rằng", tôi nói khi Holmes nhìn xuống bài báo. "Trong phần kết luận của mình, pháp y viên đã nhận định khá nghiêm khắc về chàng trai McCarthy. Ông ta nhấn mạnh, và cũng có phần có lí vào sự vô lí trong việc cha anh ta dùng tín hiệu để gọi con trai mình trước khi trông thấy anh ta, và chuyện người con từ chối tiết lộ các chi tiết trong cuộc đối thoại với cha mình, và cả lời khai kì quặc về những lời cha anh ta nói trước khi chết. Như lời ông ta nhận xét, tất cả các chi tiết trên đều rất bất lợi cho người con trai."

Holmes khẽ cười một mình và duỗi dài người trên chiếc ghế nệm. "Cả anh và pháp y viên đều cố gắng", anh nói, "chọn ra những điểm rõ ràng là bất lợi cho chàng trai nhất. Anh không thấy rằng lúc thì anh khen ngợi anh ta vì đã tưởng tượng quá nhiều, lúc thì lại chê là quá ít hay sao? Quá ít là khi anh ta không thể bịa ra một nguyên nhân cho cuộc cãi vả để giành được sự đồng cảm của bồi thẩm đoàn; còn quá nhiều là khi từ nhận thức nội tại anh ta phát biểu ra một điều gì đó outré như là nạn nhân lẩm bẩm về một con chuột trước khi chết và chi tiết mảnh vải biến mất. Không đâu, thưa quý ông, tôi sẽ tiếp cận vụ này từ quan điểm là những gì chàng trai trẻ nói đều là sự thật, và chúng ta sẽ thấy cái giả thuyết này sẽ dẫn chúng ta đến đâu. Giờ thì tôi sẽ đọc quyển thơ bỏ túi của Petrarch và sẽ không nói thêm một lời nào nữa về vụ án này cho đến khi chúng ta đến hiện trường. Chúng ta sẽ ăn trưa tại Swindon và tôi cho rằng chúng ta sẽ đến đó trong hai mươi phút nữa."

Cuối cùng thì chúng tôi cũng đến thị trấn Ross nhỏ bé lúc gần 4 giờ, sau khi vượt qua thung lũng Stroud xinh đẹp và vùng quê Severn rộng rãi, sạch sẽ. Một người đàn ông gầy còm giống y như một con chồn với vẻ ranh mãnh và láu cá đang đứng đợi chúng tôi ở sân ga, cho dù chiếc áo khoác ngoài màu nâu nhạt và đôi xà cạp da ông ta đang đi hòa lẫn vào khung cảnh mộc mạc xung quanh, tôi vẫn dễ dàng nhận ra đó là Lestrade của Sở Cảnh sát London. Cùng với ông ta, hai chúng tôi đi xe ngựa đến khách sạn Hereford Arms nơi có một phòng đã được đặt sẵn cho chúng tôi.

"Tôi đã thuê một cỗ xe", Lestrade nói khi chúng tôi đang nhâm nhi tách trà. "Tôi hiểu bản tính năng động của ông, và ông sẽ không cảm thấy thoải mái chừng nào còn chưa ra đến hiện trường."

"Quả là một lời khen rất thú vị", Holmes đáp. "Vấn đề này hoàn toàn phụ thuộc vào áp suất khí quyển."

Lestrade có vẻ giật mình. "Tôi không hiểu rõ", ông ta nói.

"Hôm nay phong vũ biểu chỉ bao nhiêu? Tôi thấy là hai mươi chín. Trời lặng gió và cũng chẳng có một đám mây. Ở đây, tôi có một hộp thuốc lá đầy ắp đang cần người hút và một cái ghế dài vô cùng thoải mái so với một khách sạn nông thôn tầm thường. Tôi không nghĩ là mình cần đổi một cỗ xe ngựa vào tối nay."

Lestrade cười với vẻ dễ dãi. "Chắc chắn là ông đã có kết luận riêng dựa vào các thông tin trên báo chí", ông ta nói. "Vụ này đã rõ như ban ngày, và ta càng xem xét thì nó lại càng rõ ràng hơn. Nhưng tất nhiên là ta không thể nào từ chối một phụ nữ, mà lại là một phụ nữ rất quả quyết chứ! Cô ta đã nghe nói về ông và muốn nghe ý kiến của ông, dù tôi đã nói đi nói lại với cô ta rằng ông còn có thể làm được điều gì nữa khi chẳng còn gì mà tôi chưa làm cả. Chao ôi! Xe của cô ta đã đến trước cửa rồi kìa."

Ông ta còn chưa kịp dứt lời thì một thiếu nữ đáng yêu bậc nhất mà tôi từng thấy đã chạy ào vào. Đôi mắt tím của cô sáng ngời, đôi môi hơi hé mở, hai gò má nhuộm sắc hồng, mọi vẻ rụt rè theo lẽ thường tình đã bị sự kích động và lo lắng át đi.

"Ôi, ông Sherlock Holmes!"

Cô kêu lên, mắt lần lượt nhìn từ người này sang người khác trong nhóm chúng tôi, và rồi với trực giác nhanh nhạy của phụ nữ, cô chăm chú nhìn vào người bạn đồng hành của tôi.

"Tôi rất mừng là ông đã đến. Tôi đánh xe xuống đây để nói với ông thế này. Tôi biết là James không làm chuyện đó. Tôi biết thế và tôi muốn ông cũng nghĩ như vậy khi bắt đầu công việc điều tra. Đừng bao giờ nghi ngờ điều đó. Chúng tôi đã quen biết nhau từ khi còn bé và tôi biết những khuyết điểm của anh ấy rõ hơn bất cứ ai khác; anh ấy nhân từ đến nỗi không nỡ làm đau một con ruồi. Một lời buộc tội như thế là rất vô lí đối với bất kì ai thật sự hiểu rõ anh ấy."

"Tôi hi vọng chúng tôi sẽ minh oan được cho anh ta, thưa cô." Sherlock Holmes nói. "Cô có thể tin tưởng là tôi sẽ làm hết sức mình."

"Nhưng hẳn là ông đã đọc lời khai rồi? Ông đã có kết luận nào chưa? Ông có nhìn thấy kẽ hở nào hay sơ sót nào không? Bản thân ông cũng tin là anh ấy vô tội chứ?"

"Tôi nghĩ là rất có thể."

"Đấy, đấy!" Cô kêu lên, nghênh mặt nhìn Lestrade với ý thách thức, "Ông đã nghe rồi chứ! Ông ấy đem lại cho tôi niềm hi vọng."

Lestrade nhún vai. "Tôi e rằng người đồng nghiệp của tôi đã hơi vội vã khi đưa ra kết luận", ông ta nói.

"Nhưng mà ông ấy nói đúng. Ôi, tôi biết là ông ấy có lí. Chẳng đời nào James làm thế. Còn về vụ cãi cọ của anh ấy với cha mình, tôi dám chắc lí do anh ấy không tiết lộ với pháp y viên là vì có liên quan đến tôi."

"Như thế nào?" Holmes hỏi.

"Bây giờ là lúc tôi phải kể hết ra. James và cha anh ấy có nhiều bất đồng về tôi. Ông McCarthy rất nóng lòng muốn chúng tôi lấy nhau. James và tôi cũng thương yêu nhau như hai anh em; nhưng tất nhiên là anh ấy hãy còn trẻ và chưa có nhiều kinh nghiệm sống, và... và... nghĩa là, anh ấy chưa muốn cưới vợ. Vì thế mà họ cãi nhau, và lần đó, tôi chắc cũng là vì nguyên nhân này."

"Thế còn cha cô?" Holmes hỏi. "Ông ấy có tán thành một cuộc hôn nhân như thế không?"

"Không, cha tôi cũng phản đối. Chỉ có mỗi ông McCarthy là ủng hộ." Một nét ửng đỏ lan nhanh trên khuôn mặt tươi trẻ của cô khi Holmes chiếu vào cô một ánh nhìn dò hỏi sắc bén.

"Xin cảm ơn cô về thông tin này", anh nói. "Sáng mai tôi ghé qua nhà gặp cha cô được không?"

"Tôi e là bác sĩ sẽ không đồng ý."

"Bác sĩ ư?"

"Vâng, thế ông chưa nghe gì sao? Người cha tội nghiệp của tôi cứ đau bệnh suốt mấy năm gần đây, nhưng chính sự việc vừa rồi đã làm ông hoàn toàn ngã quỵ. Ông phải nằm liệt giường, bác sĩ Willow nói rằng ông bị suy nhược và hệ thần kinh đã bị kiệt quệ. Ông McCarthy là người duy nhất từng quen biết cha tôi vào thời xa xưa ở Victoria."

"Ha! Ở Victoria! Rất quan trọng đây."

"Vâng, ở khu mỏ."

"Đúng thế, ở những mỏ vàng, là nơi mà theo như tôi được biết, ông Turner đã trở nên giàu có."

"Vâng, đúng vậy."

"Cảm ơn cô, cô Turner. Cô giúp tôi nhiều quá!"

"Sáng mai nếu có tin tức mới, xin ông vui lòng cho tôi biết. Chắc là ông sẽ đến nhà tù để gặp James. Ồ, nếu ông đến đó, xin hãy nói cho anh ấy biết rằng tôi tin anh ấy vô tội."

"Tôi sẽ nói, thưa cô Turner."

"Giờ thì tôi phải về nhà vì cha tôi rất yếu và ông sẽ nhớ tôi lắm nếu tôi không ở cạnh ông. Tạm biệt, cầu mong Thượng Đế phù hộ cho công việc của ông." Cô vội vã bước ra khỏi phòng cũng hấp tấp như khi bước vào và chúng tôi nghe tiếng bánh xe khua lọc cọc xuôi theo con đường.

"Tôi thật xấu hổ vì ông đấy, Holmes", Lestrade nói với vẻ trịch thượng sau vài phút im lặng. "Tại sao ông lại nhen lên hi vọng trong khi lẽ ra phải dập tắt nó? Tôi không phải loại người mềm yếu nhưng tôi phải nói rằng làm như thế là tàn nhẫn."

"Tôi nghĩ rằng tôi đã tìm ra cách để minh oan cho James McCarthy", Holmes nói. "Ông đã xin được lệnh để vào tù gặp anh ta rồi chứ?"

"Có, nhưng chỉ dành cho ông và tôi thôi."

"Vậy thì tôi phải xem lại ý định về việc ra ngoài. Chúng ta vẫn còn đủ thời gian để ngồi xe lửa đến Hereford và gặp anh ta vào tối nay chứ?"

"Tha hồ."

"Thế thì đi thôi. Watson này, tôi e rằng anh sẽ thấy rất buồn tẻ, nhưng tôi chỉ ra ngoài vài giờ thôi."

Tôi đi cùng họ ra ga và sau đó lang thang qua những con đường của thị trấn nhỏ, cuối cùng thì trở về khách sạn, nằm lên một chiếc ghế dài và cố gắng giải khuây bằng cách đọc một cuốn tiểu thuyết rẻ tiền. Tuy nhiên, nội dung đơn giản của câu chuyện quả là nghèo nàn so với bí ẩn sâu xa mà chúng tôi đang dò dẫm, và tâm trí tôi cứ liên tục vẩn vơ từ diễn biến trong truyện đến sự kiện ngoài đời, thế là cuối cùng tôi quăng quyển sách vào góc phòng và tập trung hoàn toàn vào việc xem xét các sự việc đã xảy ra trong ngày. Giả sử câu chuyện của chàng trai trẻ bất hạnh hoàn toàn đúng sự thật thì sự việc khủng khiếp nào, cái tai họa bất ngờ và dị thường nào có thể đã xảy ra trong khoảng thời gian từ lúc anh ta đi khỏi chỗ cha mình đến khoảnh khắc anh ta bị tiếng thét của ông ta kéo trở lại nên đã vội vã lao về phía bãi lầy? Hẳn đó là một thứ gì rất kinh hoàng và chết chóc. Nó là cái gì? Có thể tình trạng của các vết thương sẽ tiết lộ đôi điều với bản năng y khoa của tôi chăng? Tôi bấm chuông và yêu cầu đem đến một tờ tuần báo của hạt có đăng nguyên văn bản báo cáo về cuộc điều tra. Trong phần kết luận của phẫu thuật viên có ghi rõ, một phần ba của xương đỉnh bên trái và nửa bên trái của xương chẩm đã bị vỡ nát bởi một cú đánh mạnh bằng một loại vũ khí cùn. Tôi đánh dấu vị trí đó trên đầu mình. Rõ ràng một cú đánh như thế phải được thực hiện từ phía sau. Điều này có lợi cho bị cáo trong chừng mực nào đó vì khi bị trông thấy đang cãi cọ thì anh ta đứng đối mặt với cha mình. Tuy vậy, chi tiết này cũng không được thuyết phục cho lắm vì có thể người cha đã quay lưng lại trước khi cú đánh giáng xuống. Nhưng dù sao cũng đáng để lưu ý Holmes về điểm này. Rồi còn tiếng lẩm bẩm lạ kì về con chuột trước khi ông ta chết, điều đó có thể có ý nghĩa gì? Không thể nào là một lời nói lung tung khi mê sảng. Một người sắp chết do bị đánh bất ngờ thì thường không mê sảng. Không phải thế, có lẽ là ông ta gắng giải thích mình bị mất mạng do đâu thì đúng hơn. Nhưng, nếu thế thì nó chỉ ra điều gì? Tôi cố vắt óc suy nghĩ những mong tìm ra một lời giải thích hợp lí. Lại còn tình tiết mảnh vải xám mà chàng trai McCarthy nhìn thấy. Nếu như đó là sự thật thì chắc hẳn trong lúc bỏ chạy, kẻ giết người đã làm rơi một thứ gì đó trong y phục của hắn, có lẽ là cái áo khoác ngoài, và đã bạo gan quay trở lại để đem nó đi vào khoảnh khắc người con trai đang quỳ xuống, quay lưng lại và chỉ cách đó chưa đầy hai chục bước chân. Quả là một chuỗi những điều bí ẩn và toàn bộ câu chuyện mới khó tin làm sao! Tôi không ngạc nhiên về ý kiến của Lestrade, tuy vậy, tôi rất tin tưởng vào sự sáng suốt của Sherlock Holmes nên không thể đánh mất hi vọng khi mỗi sự kiện mới phát hiện lại càng có vẻ củng cố lòng tin của anh rằng chàng trai McCarthy vô tội.

***

Sherlock Holmes trở về lúc đã khuya. Anh về một mình vì Lestrade nghỉ lại trong căn phòng thuê ở thị trấn.

"Phong vũ biểu hãy còn chỉ rất cao", anh nhận xét khi ngồi xuống. "Mong rằng trời đừng mưa trước khi chúng ta có thể đến được hiện trường. Nhưng mà một công việc hay ho như thế này thì ta nên thực hiện khi đang nhiệt tình, khỏe khoắn nhất, nên tôi không muốn làm khi hãy còn mệt nhoài sau một chuyến đi dài. Tôi đã gặp anh chàng McCarthy rồi."

"Và anh có rút ra được điều gì từ anh ta không?"

"Chẳng có gì."

"Anh ta có nhen nhóm được chút ánh sáng nào không?"

"Hoàn toàn không. Trước đó thì tôi còn nghĩ là anh ta biết ai là thủ phạm và đang bao che kẻ đó, nhưng giờ thì tôi tin rằng anh ta cũng bối rối như mọi người. Anh ta trông thì sáng sủa đấy nhưng không nhanh trí cho lắm và tôi nghĩ rằng anh ta là người có tâm địa tốt."

"Tôi không thể nào khen ngợi khiếu thẩm mĩ của anh ta", tôi nhận xét, "nếu quả thật anh ta không muốn làm đám cưới với một cô gái duyên dáng như cô Turner."

"À, về vấn đề đó thì lại có một câu chuyện khá đau lòng. Chàng trai này yêu cô ta điên cuồng, nhưng hai năm trước, khi anh ta hãy còn là một chú bé mới lớn và trước khi thực sự quen biết cô ta, vì cô ta đã đi học ở một trường nội trú suốt năm năm, không biết cậu ngốc đã làm gì mà bị rơi vào nanh vuốt của một cô ả phục vụ trong quán rượu ở Bristol và cưới cô ả tại một phòng đăng kí kết hôn. Không ai hay biết chút gì về việc này, nhưng anh có thể hình dung ra nỗi buồn bực của anh ta khi bị quở trách vì không làm điều mà chính anh ta hằng mong muốn dẫu có phải hi sinh cả đôi mắt mình, nhưng anh ta biết rằng việc đó là hoàn toàn bất khả thi. Sự cùng quẫn khiến anh ta vung tay lên trong lần gặp mặt cuối cùng của cha con họ khi người cha thúc giục anh ta cầu hôn cô Turner. Mặt khác, anh ta không tự trang trải được cuộc sống của mình, mà cha anh ta nghe đâu lại là một người rất cứng rắn, nếu biết sự thật thì chắc chắn ông ta sẽ từ con ngay. Anh ta đã sống cùng người vợ phục vụ quán rượu trong ba ngày ở Bristol vừa rồi và người cha không biết là anh ta đã đi đâu. Hãy ghi nhớ điểm này. Quan trọng đấy. Tuy vậy, trong cái rủi có cái may, vì qua báo chí, cô phục vụ đó biết được tin anh ta đang gặp rắc rối nghiêm trọng và có thể sẽ bị treo cổ, thế là cô ả dứt khoát bỏ anh ta và còn viết cho anh ta một lá thư nói rằng mình đã có một người chồng ở Bermuda Dockyard, vì thế giữa họ thật sự chẳng có gì ràng buộc nhau. Tôi nghĩ là mẩu tin nho nhỏ này hẳn sẽ an ủi được anh chàng McCarthy sau nhưng gì anh ta đã phải chịu đựng."

"Nhưng nếu anh ta vô tội thì ai đã gây ra chuyện đó?"

"À! Ai hả? Tôi sẽ đặc biệt lưu ý anh hai điểm. Một là người đã chết có một cuộc hẹn với ai đó ở bên hồ và người hẹn gặp đó không thể nào là con trai của ông ta được, vì anh con trai đang vắng nhà và ông ta càng không biết là đến khi nào anh ta mới trở về. Điểm thứ hai là nạn nhân có kêu lên 'Cooee!' trước khi ông ta nhận ra là con trai mình đã quay về. Đấy là hai điểm cốt yếu của vụ án này. Giờ thì chúng ta hãy bàn về George Meredith, nếu anh muốn, và chúng ta sẽ gác lại tất cả những vấn đề lặt vặt đến mai."

Trời không mưa như Holmes đã dự đoán, và bình minh hiện ra rạng rỡ, không một gợn mây. Lúc 9 giờ, Lestrade đưa một cỗ xe đến và chúng tôi khởi hành tới trang trại Hatherley và hồ Boscombe.

"Sáng nay có tin quan trọng", Lestrade thông báo. "Nghe nói là ông Turner ở dinh thự bị bệnh nặng đến nỗi không còn hi vọng cứu chữa."

"Tôi đoán ông ấy hẳn đã già lắm?" Holmes nói.

"Khoảng sáu mươi thôi, nhưng thể chất của ông ta đã bị kiệt quệ trong thời gian sống xa quê và lâu nay sức khỏe của ông ta cứ suy sụp dần. Vụ án mạng này đã ảnh hưởng xấu đến ông ta. Ông ta là bạn lưu niên của McCarthy và còn là một ân nhân nữa, vì tôi nghe nói ông ta đã miễn tiền thuê trang trại Hatherley cho McCarthy."

"Thật vậy sao? Thật đáng quan tâm đây", Holmes nói.

"Ồ, vâng! Ông ta còn giúp đỡ McCarthy bằng cả trăm cách khác nữa. Tất cả mọi người sống ở đây đều ca ngợi lòng tốt của ông ta đối với McCarthy."

"Thật không đấy! Ông không thấy kì lạ khi McCarthy, người có vẻ chẳng khá giả gì cho lắm và còn chịu ơn ông Turner nhiều đến thế, lại dám nói đến chuyện xin cưới con gái của ông Turner, là người có thể sẽ thừa kế cả điền trang, cho con trai ông ta, lại còn có thái độ rất tự tin cứ như đó chỉ là một vụ cầu hôn bình thường và tất cả mọi người khác đều phải đồng ý? Chuyện này còn kì lạ hơn nữa vì chúng ta biết rằng bản thân ông Turner phản đối kế hoạch này. Cô con gái đã kể cho chúng ta nghe rất rõ ràng, ông không suy luận ra điều gì từ chuyện đó sao?"

"Lại đến tiết mục suy luận rồi đây", Lestrade nói và nháy mắt với tôi. "Tôi thấy xử lí các dữ kiện thực tế không thôi đã là khó rồi, ông Holmes ạ, huống hồ lại còn bị cuốn theo mớ giả thuyết và các ý tưởng huyễn hoặc."

"Ông nói đúng đấy", Holmes nói với vẻ từ tốn, "quả là ông khó mà xử lí được các dữ kiện thực tế."

"Dù sao đi nữa, tôi đã hiểu được một thực tế mà có vẻ như ông coi là khó nắm bắt", Lestrade đáp lại với đôi chút kích động.

"Đó là..."

"Là McCarthy cha bị chính tay con trai mình giết và mọi giả thuyết trái ngược với điều đó chỉ là chút ánh trăng mờ nhạt."

"Vâng, ánh trăng thì vẫn còn sáng hơn là sương mù", Holmes đáp lại rồi phá lên cười. "Nhưng này, nếu tôi không lầm thì có phải trang trại Hatherley ở đằng kia, phía bên tay trái không?"

"Phải, đúng là nó."

Đó là một tòa nhà hai tầng rộng lớn, ấm cúng, mái lợp đá phiến với những mảng địa y lớn màu vàng bám trên những bức tường xám. Tuy nhiên, những tấm rèm buông rủ và những ống khói im lìm khiến cho ngôi nhà có vẻ đau buồn như thể nỗi kinh hoàng hãy còn đè nặng lên nó. Chúng tôi gọi cửa và theo yêu cầu của Holmes, một người hầu gái đã cho chúng tôi xem đôi ghệt mà ông chủ của cô mang khi chết, và cả đôi ghệt của người con, dù đó không phải là đôi mà anh ta đã mang vào hôm đó. Sau khi đã đo hai đôi ghệt rất cẩn thận từ bảy hoặc tám điểm khác nhau, Holmes muốn được dẫn ra sân, rồi tất cả chúng tôi đi theo con đường mòn quanh co dẫn đến hồ Boscombe.

Sherlock Holmes hoàn toàn thay đổi khi anh hăm hở đánh hơi con mồi trong những vụ như thế này. Những ai chỉ biết đến nhà suy luận và nhà tư duy trầm lặng ở phố Baker sẽ không thể nào nhận ra anh. Mặt anh đỏ bừng và sa sầm. Cặp lông mày nhíu lại thành hai đường đen nhánh, đôi mắt sáng quắc như ánh thép. Mặt anh cúi thấp, vai khom lại, đôi môi mím chặt và những mạch máu nổi lên như dây chão trên cái cổ dài gân guốc. Hai cánh mũi của anh như nở rộng ra với sự thèm khát giống hệt con thú đang say mồi. Và anh tập trung toàn bộ tinh thần vào vấn đề trước mặt đến nỗi không buồn nghe một câu hỏi hay một lời nhận xét nào đó, hoặc chỉ thốt ra một tiếng càu nhàu bực bội để đáp lại. Lặng lẽ và thoăn thoắt, anh tiến theo lối mòn, băng qua những đồng cỏ và cánh rừng dẫn đến hồ Boscombe. Mặt đất nơi đây lầy lội, ẩm ướt, giống như cả vùng này, và hãy còn lưu lại nhiều vết chân cả trên đường đi lẫn trong những đám cỏ thấp mọc ở hai bên vệ đường. Đôi lúc Holmes bước vội lên, có khi lại dừng hẳn lại, và có một lần anh còn đi chệch ra đồng cỏ một quãng. Lestrade và tôi theo sau anh, ông ta thì thờ ơ và có vẻ khinh khỉnh trong khi tôi quan sát bạn mình với sự thích thú xuất phát từ niềm tin chắc chắn rằng mỗi một hành động của anh đều hướng đến một mục đích rõ rệt.

Hồ Boscombe là một vũng nhỏ, xung quanh mọc đầy lau sậy, đường kính khoảng năm mươi yard, nằm ở ranh giới giữa trang trại Hatherley và khu đất riêng thuộc về ông Turner giàu có. Cao vượt lên đám cây cối tiếp giáp với bờ hồ phía bên kia, chúng tôi có thể thấy những đỉnh tháp nhọn màu đỏ nhô lên đánh dấu lãnh địa của người chủ điền trang giàu có. Bên bờ hồ phía trang trại Hatherley cây cối mọc dày và có một dải cỏ hẹp ướt sũng nước bề ngang khoảng hai mươi sải chân nằm giữa bìa rừng và đám sậy viền quanh hồ. Lestrade chỉ cho chúng tôi vị trí chính xác nơi tử thi được tìm thấy, và vì đất chỗ đó rất ẩm nên tôi có thể thấy rõ những dấu vết cú ngã của nạn nhân còn để lại. Về phần Holmes thì từ khuôn mặt háo hức và đôi mắt chăm chú của anh, tôi thấy rằng anh còn nhận ra được rất nhiều những chi tiết khác nữa từ đám cỏ bị giẫm nát. Anh chạy quanh như một con chó đánh hơi được mùi của con mồi, rồi trở lại là người bạn đồng hành của tôi.

"Ban nãy ông lội xuống hồ nước để làm gì thế, Lestrade?" Anh hỏi.

"Tôi tìm kiếm với một cái cào. Tôi nghĩ rằng có thể có một thứ vũ khí hoặc là những dấu vết khác. Nhưng làm thế quái nào..."

"Ồ!" Anh tặc lưỡi. "Tôi không có thời gian! Dấu chân trái của ông với những vòng xoắn hướng vào trong in đầy khắp nơi. Đến một con chuột chũi cũng có thể nhìn thấy, và đến đây thì nó biến mất trong đám sậy. Ồ, mọi chuyện lẽ ra sẽ rất đơn giản nếu tôi kịp có mặt ở đây trước khi cả đoàn người xô đến như một đàn bò rừng và giẫm nát khắp nơi. Đây là chỗ nhóm người cùng đi với người gác cổng đã đến, và họ đã làm mất tất cả dấu vết trong khoảng sáu đến tám foot rưỡi xung quanh tử thi. Nhưng chỗ này là ba vệt dấu giày của cùng một người." Anh rút ra một cái kính lúp rồi nằm lên tấm vải không thấm nước để quan sát rõ hơn, miệng không ngừng nói nhưng có vẻ như là nói với chính anh hơn là cho chúng tôi nghe. "Đây là những dấu chân của anh chàng McCarthy. Anh ta đi tốc độ thường hai lần còn một lần thì chạy nhanh vì thế mà phần đế giày in sâu hơn và vết gót giày thì gần như không nhìn thấy, điều này chứng thực cho lời khai của anh ta. Anh ta chạy đến khi nhìn thấy cha mình nằm gục trên mặt đất. Còn đây là dấu chân của người cha khi ông ta đi tới đi lui. Cái gì thế này? Đây là dấu vết đầu báng súng khi người con trai đứng lắng nghe. Còn đây nữa? Ha ha! Xem chúng ta tìm được gì nào? Vết nhón chân! Vết nhón chân! Mũi vuông, rất lạ, một đôi giày khá hiếm! Chúng đến, rồi đi, rồi quay trở lại - tất nhiên là vì chiếc áo khoác. Xem nào, chúng từ đâu đến nhỉ?" Anh chạy ngược chạy xuôi, đôi khi bị mất dấu, rồi lại thấy cho đến khi chúng tôi đi qua bìa rừng và đứng dưới bóng một cây sồi to cao, là cây lớn nhất trong vùng. Holmes lần theo đến phía bên kia thân cây và lại nằm sấp xuống rồi khẽ thốt lên một tiếng kêu hài lòng. Anh nằm đó suốt một lúc lâu, lật giở từng phiến lá và những nhánh cây khô, thu thập thứ gì đó mà tôi thấy hình như là bụi đất rồi cho vào một cái phong bì và dùng kính lúp săm soi không chỉ mặt đất mà thậm chí cả vỏ cây trong tầm với. Một hòn đá nhọn nằm trên đám rêu cũng bị anh xem xét rồi giữ lại. Sau đó, anh đi theo một lối mòn băng qua rừng cho đến khi ra đến đường cái, ở đây mọi dấu vết đều biến mất.

"Đây là một vụ khá lí thú", anh nhận xét khi đã quay lại phong thái tự nhiên của mình. "Tôi đoán là căn nhà màu xám bên tay phải hẳn là nhà của người gác cổng. Tôi định vào đó nói chuyện vài câu với Moran và có thể sẽ ghi chép một chút. Sau khi xong việc thì chúng ta có thể đánh xe về để ăn trưa. Các ông cứ đi bộ ra xe trước và tôi sẽ đến ngay."

Khoảng mười phút sau, chúng tôi lên xe ngựa và đi về thị trấn Ross, Holmes hãy còn cầm theo hòn đá mà anh đã nhặt trong rừng.

"Có thể là ông sẽ quan tâm đến cái này, ông Lestrade", anh nhận xét khi chìa hòn đá ra. "Nó là hung khí sát nhân đấy."

"Tôi không thấy dấu vết nào cả."

"Không hề có."

"Vậy làm sao ông biết được?"

"Bên dưới nó có cỏ mọc. Nó mới ở đó có vài ngày thôi. Không có dấu hiệu chỉ rõ nó được nhặt lên từ đâu. Hòn đá này rất khớp với những vết thương. Không thấy dấu vết của bất kì loại vũ khí nào khác."

"Vậy còn kẻ giết người?"

"Đó là một người cao lớn, thuận tay trái, chân phải đi khập khiễng, đi ghệt săn đế dày và mặc áo khoác xám, hút xì gà Ấn Độ, có dùng ống đót và đem theo một con dao nhíp cùn trong túi. Còn vài dấu hiệu nữa nhưng bấy nhiêu cũng đủ để giúp chúng ta tìm ra hung thủ."

Lestrade cười phá lên. "Tôi e rằng mình vẫn còn là người hay nghi ngờ", ông ta nói. "Giả thuyết nào chẳng hay nhưng chúng ta sẽ phải đối đầu với một hội đồng xét xử minh mẫn của nước Anh."

"Nous verrons," Holmes bình tĩnh đáp. "Ông làm việc theo phương pháp của ông còn tôi cũng có cách riêng của mình. Chiều nay tôi sẽ bận rộn và có thể sẽ quay về London bằng chuyến tàu tối."

"Và bỏ lửng vụ án của ông?"

"Không, vụ này xong rồi."

"Nhưng còn điều bí ẩn?"

"Đã giải đáp."

"Vậy ai là thủ phạm?"

"Là người mà tôi đã mô tả."

"Nhưng hắn là ai?"

"Chắc chắn là việc tìm ra hắn chẳng khó khăn gì. Vùng này cũng không đông dân cho lắm."

Lestrade nhún vai. "Tôi là một người thực tế", ông ta nói, "và tôi thật sự không thể đảm trách việc đi khắp vùng để tìm kiếm một người thuận tay trái và bị tật một bên chân. Tôi sẽ trở thành trò cười cho Sở Cảnh sát London."

"Được thôi", Holmes điềm đạm nói. "Tôi đã cho ông cơ hội. Đã đến chỗ trọ của ông rồi đấy. Tạm biệt. Tôi sẽ gửi cho ông mấy dòng trước khi rời khỏi đây."

Sau khi đưa Lestrade về nhà trọ, chúng tôi về khách sạn nơi bữa ăn trưa đã được dọn sẵn trên bàn. Holmes vẫn yên lặng và mải mê suy nghĩ, trên mặt hiện rõ nét đau buồn như một người đang trong tình huống khó xử.

"Nghe này, Watson", anh nói khi bàn ăn đã được dọn sạch, "anh hãy ngồi vào cái ghế này và để tôi giải thích một chút. Tôi không biết mình nên làm gì và rất cần đến lời khuyên của anh. Hãy châm một điếu xì gà và để tôi trình bày chi tiết."

"Xin anh cứ nói."

"Thế này, khi xem xét vụ án thì có hai điều trong lời kể của McCarthy con gây ấn tượng ngay tức khắc cho cả hai chúng ta dù với tôi thì chúng có lợi cho anh ta còn với anh thì ngược lại. Điểm thứ nhất là theo lời kể của anh ta, người cha đã kêu 'Cooee!' trước khi nhìn thấy anh ta. Điểm còn lại là trước khi chết ông ta đã nói gì đó về một con chuột, ông ta lẩm bẩm vài tiếng, anh hiểu chứ, nhưng đó là những gì mà người con trai nghe được. Công việc tìm kiếm của chúng ta phải khởi phát từ hai điểm kể trên và chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách xem như những gì chàng trai đó nói đều hoàn toàn đúng."

"Thế thì cái tiếng kêu 'Cooee! đó có nghĩa là gì?"

"Rõ ràng tiếng kêu đó không phải dành cho anh con trai. Người cha vẫn tưởng là anh con trai hãy còn ở Bristol. Anh ta chỉ tình cờ nghe thấy thôi, Tiếng kêu 'Cooee'là để gọi người mà ông ta đã hẹn gặp. Nhưng 'Cooee' là một tiếng kêu rất riêng của người Úc và được dùng giữa những người Úc với nhau. Vậy là ta có được điều giả định rất chắc chắn rằng người mà ông McCarthy đang đợi ở hồ Boscombe phải là một ai đó đã từng sống ở Úc."

"Thế còn về con chuột thì sao?"

Sherlock Holmes lấy từ trong túi ra một tờ giấy được gấp lại và trải nó lên mặt bàn. "Đây là bản đồ vùng thuộc địa Victoria". anh nói. "Tối qua tôi đã đánh điện tín đến Bristol yêu cầu họ gửi đến." Anh đè tay lên một phần tấm bản đồ. "Anh đọc thấy chữ gì?"

"Arat", tôi đọc lên.

"Còn chữ này?" Anh nhấc tay ra.

"Ballarat."

"Đúng thế. Đó là từ nạn nhân đã thốt ra mà con trai ông ta chỉ nghe được có hai âm cuối. Ông ta đã gắng sức nói ra tên của kẻ giết người gì gì đó, Ballarat."

"Thật đáng kinh ngạc!" Tôi kêu lên.

"Rõ ràng là thế. Và bây giờ, anh xem đây. Tôi đã giới hạn phạm vi đáng kể rồi nhé. Nếu ta cho rằng lời khai của người con là đúng thì việc xác định ai sở hữu chiếc áo khoác màu xám chắc chắn là điểm thứ ba. Giờ thì chúng ta đã vượt ra khỏi sự mù mờ để có ý niệm rõ ràng về một người Úc đến từ Ballarat với một cái áo khoác màu xám."

"Chắc chắn rồi."

"Và là một người sống ở vùng này vì chỉ có thể đến hồ bằng cách đi qua trang trại hoặc là từ điền trang, người từ nơi khác đến thì hiếm khi nào lang thang tới tận đó."

"Đúng thế."

"Tiếp theo là cuộc khám nghiệm của chúng ta hôm nay. Khi xem xét khu đất, tôi đã tìm thấy những chi tiết lặt vặt và đã nói cho gã ngốc Lestrade biết những nét ngoại hình đặc trưng của thủ phạm."

"Nhưng làm thế nào mà anh thu thập được chúng?"

"Anh đã biết phương pháp làm việc của tôi rồi đấy. Đó là dựa trên sự quan sát những điều vặt vãnh."

"Về chiều cao của hắn, tôi biết anh có thể ước chừng dựa vào chiều dài của bước chân. Đôi ghệt của hắn nữa, cũng có thể đoán được từ các dấu chân."

"Phải, đó là đôi ghệt rất lạ kì."

"Nhưng còn chi tiết đi khập khiễng thì sao?"

"Vết chân phải của hắn luôn mờ hơn vết chân trái. Hắn dồn ít trọng lượng hơn vào bên đó. Tại sao? Vì hắn đi khập khiễng, hắn bị thọt."

"Thế còn việc thuận tay trái?"

"Chính anh đã ngạc nhiên về tình trạng vết thương được phẫu thuật viên ghi chép lại tại cuộc điều tra. Cú đánh được giáng trực tiếp từ phía sau nhưng lại ở bên trái. Đấy, làm thế nào để thực hiện được trừ phi người ra đòn là một kẻ thuận tay trái? Hắn đã đứng sau gốc cây trong khi người cha nói chuyện vớí con trai. Thậm chí hắn còn hút thuốc ở đó nữa. Tôi tìm thấy tàn của một điếu xì gà, kiến thức đặc biệt về các loại tàn thuốc lá đã cho phép tôi khẳng định đó là một điếu xì gà Ấn Độ. Như anh biết đấy, tôi đã chú ý đến đề tài này và đã viết một chuyên khảo ngắn về tàn thuốc của một trăm bốn mươi loại tẩu, xì gà và thuốc lá. Sau khi tìm thấy tàn thuốc, tôi bèn nhìn xung quanh và phát hiện ra một mẩu thuốc mà hắn vứt lên đám rêu. Đó là một điếu xì gà Ấn Độ, loại được cuốn ở Rotterdam."

"Còn về cái đót thì sao?"

"Tôi có thể thấy là mẩu thuốc trước đó không bị ngậm trong miệng. Vậy là hắn có dùng đót, đầu mẩu thuốc bị cắt chứ không phải bị cắn rời, nhưng vết cắt không sắc gọn, từ đó tôi suy ra là hắn có một con dao đã cùn."

"Holmes này", tôi nói, "anh đã chăng lưới xung quanh con người này và hắn sẽ không thể nào thoát ra được, anh cũng đã cứu mạng một người vô tội giống như đã cắt sợi dây đang treo cổ anh ta. Tôi đã thấy tất cả những điểm này đều chỉ về một hướng. Thủ phạm chính là..."

***

"Ông John Turner", người phục vụ hô to khi mở cánh cửa phòng khách nơi chúng tôi đang ngồi và đưa một người khách vào.

Người đàn ông vừa bước vào là một người lạ có vóc dáng rất ấn tượng. Bước chân chậm chạp, khập khiễng và vai còng tạo cho ông ta vẻ lọm khọm già yếu, tuy thế những đường nét thô cứng, hằn sâu vẻ lởm chởm trên khuôn mặt, hai cánh tay và đôi chân lực lưỡng cho thấy ông ta có một sức mạnh khác thường cả về thể chất lẫn tính cách. Bộ râu rối bù, mái tóc hoa râm và đôi lòng mày rậm rủ xuống tạo ra một vẻ oai vệ và quyền thế, vậy nhưng mặt ông ta xanh xao, còn đôi môi và hai cánh mũi thì lại có chút tím tái. Mới nhìn thôi tôi cũng biết là ông ta đang bị một căn bệnh kinh niên hết sức trầm trọng.

"Xin mời ông ngồi xuống chiếc trường kỉ này", Holmes nhẹ nhàng nói. "Hẳn là ông đã nhận được bức thư của tôi?"

"Phải, người gác cổng đã đem nó đến cho tôi. Ông nói rằng ông mong muốn gặp tôi ở đây để tránh tai tiếng."

"Tôi nghĩ rằng thiên hạ sẽ bàn tán nếu như tôi đến gặp ông ở dinh thự."

"Và tại sao ông lại muốn gặp tôi?" Ông ta nhìn bạn tôi, vẻ tuyệt vọng ánh lên trong đôi mắt mệt mỏi như thể câu hỏi của ông ta đã được trả lời.

"Phải", Holmes nói như đáp lại ánh mắt chứ không phải câu hỏi của ông ta. "Vấn đề là thế đấy. Tôi đã biết hết mọi chuyện về McCarthy."

Ông già úp mặt vào hai bàn tay. "Lạy Chúa cứu giúp!" Ông ta kêu lên. "Nhưng tôi sẽ không để cho chàng trai trẻ bị tổn hại. Tôi thề với ông là tôi sẽ nói ra hết nếu anh ta gặp bất lợi trong phiên tòa đại hình."

"Tôi rất mừng khi nghe ông nói thế", Holmes nghiêm trang nói.

"Nếu không vì đứa con gái yêu quý của tôi thì tôi đã nói ra hết rồi, điều ấy sẽ làm tan vỡ tim nó - nó sẽ đau khổ biết bao khi nghe tin tôi bị bắt."

"Có thể cũng không đến nỗi đó đâu," Holmes nói.

"Sao cơ?"

"Tôi không phải người của chính quyền. Tôi hiểu rằng chính con gái ông yêu cầu tôi có mặt ở đây và tôi hành động vì quyền lợi của cô ấy. Tuy nhiên, chàng trai trẻ McCarthy cần được phóng thích."

"Tôi nay cũng gần đất xa trời", ông Turner nói. "Tôi đã bị bệnh tiểu đường nhiều năm nay. Bác sĩ nói không biết tôi có qua được tháng này hay không. Dẫu sao tôi vẫn muốn chết dưới mái nhà của mình hơn là ở trong tù."

Holmes đứng dậy và đến ngồi ở bàn, tay cầm bút và đặt một xấp giấy trước mặt. "Ông hãy nói hết sự thật cho chúng tôi nghe", anh bảo, "tôi sẽ ghi nhanh các sự kiện. Ông sẽ kí vào và ông Watson đây sẽ là người làm chứng. Sau đó, trong tình huống xấu nhất, tôi có thể đưa ra lời thú tội của ông để cứu chàng trai McCarthy. Tôi hứa là sẽ chỉ dùng đến nó khi tuyệt đối cần thiết."

"Thế cũng được", ông già nói, "vấn đề là không biết tôi có sống được đến ngày xử án hay không, vì thế điều đó cũng chẳng quan trọng lắm với tôi, nhưng tôi muốn tránh cho Alice cú sốc. Giờ thì tôi sẽ nói rõ mọi chuyện cho ông nghe, sự việc diễn ra đã lâu nhưng tôi sẽ kể nhanh thôi. Ông không biết rõ người đã chết đâu, McCarthy ấy. Hắn là một con quỷ đội lốt người. Tôi khẳng định với ông điều đó. Cầu Chúa phù hộ cho ông đừng sa vào nanh vuốt của một kẻ như hắn. Hắn đã khống chế tôi suốt hai mươi năm và phá nát cuộc đời tôi. Trước hết, tôi sẽ kể cho ông nghe vì sao mà tôi rơi vào tay hắn.

Chuyện xảy ra vào đầu những năm 1860 trong thời kì đào vàng. Lúc đó tôi hãy còn trẻ, nóng nảy và nông nổi, sẵn sàng bắt tay vào làm bất cứ điều gì; tôi cặp kè với đám bạn xấu, vùi đầu vào rượu chè, không gặp may với khu mỏ của mình, lẩn trốn nơi bờ bụi, nói tóm lại tôi đã trở thành thứ người mà ông có thể gọi là cướp đường. Bọn tôi có sáu người và chúng tôi sống hoang dại, phóng đãng, thỉnh thoảng cướp ở một nhà ga, hoặc là chặn các chuyến xe đang trên đường tới khu mỏ. Biệt danh của tôi là 'Black Jack vùng Ballarat' và băng đảng của chúng tôi đến nay vẫn còn được nhắc đến ở vùng thuộc địa với cái tên Băng cướp Ballarat.

Một ngày nọ, một đoàn hộ tống xe chở vàng đi từ Ballarat đến Melbourne, chúng tôi phục kích và tấn công, có sáu kị binh và nhóm chúng tôi có sáu người, vì vậy tình thế rất gay go nhưng ngay từ loạt đạn đầu tiên chúng tôi đã bắn ngã bốn người trong số họ. Tuy vậy, ba đứa trong bọn tôi cũng bị chết trước khi chúng tôi cướp được số vàng. Tôi gí khẩu súng lục vào đầu của tên đánh xe, cũng chính là gã McCarthy ấy đấy. Giá mà ngày đó đức Chúa trời để cho tôi bắn chết hắn, nhưng tôi đã tha cho hắn dù tôi thấy đôi mắt ti hí độc ác của hắn chằm chằm nhìn vào mặt tôi như muốn ghi nhớ từng nét một.

Chúng tôi trốn đi cùng với số vàng, trở thành những người giàu có và quay về Anh mà không bị nghi ngờ. Tại đây, tôi cắt đứt quan hệ với đám bạn cũ và quyết định sẽ sống một cuộc đời êm ả và đứng đắn. Tôi đã mua điền trang này đúng lúc nó đang được rao bán và quyết tâm bỏ tiền ra làm một số việc thiện để chuộc lại cái cách mà tôi đã kiếm được tiền. Sau đó tôi lập gia đình và dù vợ tôi mất sớm nhưng cũng kịp để lại cho tôi Alice, đứa con gái nhỏ đáng yêu. Ngay từ khi còn nhỏ, bàn tay bé xíu của nó đã dẫn dắt tôi vào con đường sáng như thể chưa từng có điều gì xấu xa. Tóm lại, tôi đã cải tà quy chính vì cố gắng hết sức để bù đắp lại những lỗi lầm trong quá khứ. Tất cả đều diễn ra tốt đẹp cho đến khi McCarthy bíu chặt lấy tôi.

Một ngày nọ, tôi đi lên thị trấn để lo một vụ đầu tư và gặp hắn ở phố Regent trong tình trạng tả tơi, rách rưới. 'Thế là ta lại gặp nhau, Jack', hắn nói và nắm lấy cánh tay tôi, 'chúng tôi sẽ thân thiết với anh như người một nhà. Chỉ có hai cha con tôi và anh có thể lo liệu cho chúng tôi. Nếu không thì anh cứ liệu chừng, Anh quốc là một đất nước tôn trọng pháp luật và đâu đâu cũng có cảnh sát.'

Thế rồi, cha con hắn đi về miền Tây, chẳng còn cách nào để thoát khỏi bọn họ và ở đó, cả hai đã sống trên mảnh đất tốt nhất của tôi mà không phải trả một đồng tiền thuê đất suốt từ đấy đến nay. Tôi không thể nào yên tâm, thư thái, hay lãng quên được; quay đi đâu tôi cũng thấy bộ mặt nham hiểm với nụ cười nhăn nhở của hắn sát bên cạnh. Tình cảnh còn tệ hơn nữa khi Alice lớn lên, vì hắn nhanh chóng nhận biết điều mà tôi lo sợ hơn cả cảnh sát, đó chính là con bé biết được quá khứ của cha mình. Hắn muốn gì là phải được đáp ứng và bất kể thứ gì tôi cũng sẵn sàng cho hắn - đất đai, tiền bạc, nhà cửa - cho đến khi hắn đòi một thứ mà tôi không thể nào chấp nhận được. Hắn muốn Alice.

Như ông thấy đấy, con trai hắn đã trưởng thành, con gái tôi cũng đã lớn khôn, và vì ai cũng biết sức khỏe của tôi không được tốt nên có vẻ như thượng sách đối với hắn là làm sao để thằng con trai hưởng trọn sản nghiệp của tôi. Nhưng về điểm này thì tôi rất cứng rắn. Tôi sẽ không để cho dòng máu đáng nguyền rủa của hắn hòa vào dòng máu của tôi, không phải vì tôi ghét bỏ gì đứa con trai mà vì dòng máu của cha nó trong người nó, thế đã là đủ lắm rồi. Tôi rất cương quyết. McCarthy đe dọa. Tôi chấp hắn làm điều tệ hại nhất. Chúng tôi hẹn gặp nhau tại hồ nước nằm giữa điền trang của tôi và trang trại của hắn để trao đổi mọi chuyện. Khi tôi đến đó thì thấy hắn đang nói chuyện với con hắn, vì thế tôi hút một điếu xì gà và đứng sau một thân cây, đợi đến khi hắn chỉ còn lại một mình. Nhưng khi tôi nghe thấy hắn nói chuyện thì mọi cảm giác kinh tởm và cay đắng dâng lên đến mức cực điểm. Hắn đang thúc giục con trai hắn hỏi cưới con gái tôi mà chẳng thèm bận tâm xem con bé nghĩ gì, như thể con tôi là một ả điếm ngoài đường vậy. Tôi giận đến phát điên khi nghĩ rằng tất cả mọi thứ tôi yêu quý đều sẽ rơi vào tay một gã như thế. Tôi có thể bẻ gãy tình trạng gông xiềng này hay không? Tôi đã gần đất xa trời rồi và cũng chẳng còn hi vọng. Dù đầu óc hãy còn minh mẫn và tay chân vẫn khá khỏe mạnh, tôi biết rằng số phận của mình đã bị định đoạt. Nhưng còn quá khứ và con gái của tôi! Cả hai sẽ được cứu thoát nếu tôi bịt được cái mõm dơ bẩn đó. Và tôi đã làm điều đó, ông Holmes ạ. Nếu có phải làm lại tôi cũng sẵn sàng. Tôi đã phạm sai lầm hết sức trầm trọng trong quá khứ và đã phải chuộc lại lỗi lầm đó bằng cả một đời bị đọa đày khổ sở. Nhưng ý nghĩ con gái mình cũng sẽ bị vướng vào những cạm bẫy như thế khiến tôi khó có thể chịu đựng. Tôi đánh gục hắn mà lòng không chút hối hận như thể vừa đập chết một con thú bẩn thỉu và độc ác. Tiếng thét của hắn vọng đến tai đứa con trai, nhưng tôi đã kịp lẩn vào rừng, rồi lại phải quay trở lại để nhặt cái áo khoác mà mình đã làm rơi trong lúc bỏ chạy. Thưa ông, đó là sự thật về tất cả những gì đã xảy ra."

"Tôi không phải là người phán xét ông", Holmes nói khi ông già kí vào tờ khai đã được viết xong. "Tôi mong sao chúng tôi không bao giờ bị lâm vào một cảnh ngộ như thế."

"Tôi cũng mong thế, thưa ông. Ông định làm gì nữa?"

"Không làm gì cả. Trong tình hình sức khỏe của ông hiện nay, hẳn ông cũng nhận thức được là ông sẽ sớm phải trả lời về hành động của mình tại một tòa án cao hơn tòa đại hình. Tôi sẽ giữ tờ cung khai của ông và buộc phải dùng đến nó trong trường hợp McCarthy bị kết án. Nếu không, tờ giấy này sẽ chẳng bao giờ bị ai nhìn thấy, cho dù ông còn sống hoặc đã chết thì bí mật của ông vẫn được chúng tôi cất giữ an toàn."

"Thế thì xin tạm biệt", ông già trịnh trọng nói. "Chiếc giường các ông nằm lúc lâm chung sẽ êm ái hơn khi các ông nghĩ về sự thanh thản mà các ông đã đem lại cho tôi." Cả thân hình to lớn lảo đảo và run rẩy, ông già lẩy bẩy, chậm chạp bước ra khỏi phòng.

"Cầu Chúa phù hộ chúng ta!" Holmes nói sau một khoảng lặng dài. "Vì sao số phận cứ đùa cợt với những phận người nhỏ nhoi, đáng thương và vô phúc như thế? Tôi chưa bao giờ nghe kể về một vụ nào như vậy mà không nghĩ đến lời của Baxter và tự dặn mình thế này: Nếu không có ân đức của Chúa thì Sherlock Holmes cũng đi tong."

Tại tòa đại hình, dưới sức thuyết phục của nhiều lời phản bác được Holmes đưa ra và trình lên luật sư bào chữa, James McCarthy được tuyên bố trắng án. Ông Turner còn sống được thêm bảy tháng nữa sau cuộc trò chuyện với chúng tôi, nhưng giờ ông ta đã qua đời; và có nhiều khả năng là chàng trai và cô gái có thể sống hạnh phúc bên nhau mà không hay biết gì về đám mây u ám từng lơ lửng trên quá khứ hai người cha của họ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro