GÃ ĐÀN ÔNG MÉO MIỆNG(The Man with the Twisted Lip, 1891)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Isa Whitney, em ruột của Elias Whitney quá cố, tiến sĩ thần học, hiệu trưởng trường thần học St. George, là người nghiện thuốc phiện rất nặng. Theo tôi biết thì anh ta bị nhiễm thói hư này do một cơn bốc đồng ngu xuẩn hồi còn là sinh viên; chỉ vì đọc văn miêu tả của De Quincey về những giấc mơ và cảm giác của ông ta mà chàng sinh viên trẻ tuổi đã cố tình tẩm cồn thuốc phiện vào thuốc lá để tạo ra hiệu ứng tương tự. Cũng như bao người khác, anh ta nhận ra thói quen này dễ nhiễm chứ không dễ bỏ, và nhiều năm sau anh ta vẫn tiếp tục làm nô lệ cho ma túy, là đối tượng mà bạn bè và người thân vừa khiếp sợ vừa thương hại. Lúc này tôi vẫn có thể hình dung ra Whitney với bộ mặt vàng vọt, ốm yếu, hai mí mắt sụp xuống và đồng tử co lại như đầu kim, toàn thân co ro trên ghế, một phế nhân suy đồi đã có thời là người ưu tú.

Vào một đêm tháng 6 năm 1889, chuông cửa nhà tôi rung lên vào cái giờ mà người ta bắt đầu ngáp và liếc nhìn đồng hồ. Tôi bật dậy khỏi ghế còn vợ tôi thì buông mớ đồ đang khâu vá dở xuống và hơi nhăn mặt vì khó chịu.

"Lại có bệnh nhân!" Nàng nói. "Thế này thì anh lại sắp sửa phải đi rồi!"

Tôi rên rỉ vì vừa mới trở về sau một ngày mệt nhọc.

Chúng tôi nghe tiếng cánh cửa mở ra, tiếng người nói vội vã, rồi đến tiếng bước chân hối hả trên sàn nhà lót vải sơn. Cánh cửa phòng chúng tôi mở tung và một phụ nữ mặc y phục sẫm màu với tấm mạng che mặt màu đen bước vào.

"Anh chị thứ lỗi cho tôi vì đến vào giờ muộn thế này", cô ta cất tiếng, rồi đột nhiên mất bình tĩnh mà chạy ào tới, choàng hai cánh tay quanh cổ vợ tôi và thổn thức khóc trên vai nàng, "Ôi, tôi đang gặp rắc rối to!" Cô ta nức nở nói, "tôi rất cần được cứu giúp."

"Sao nào", vợ tôi nói và vén tấm mạng của cô ta lên. "Kate Whitney đây mà. Chị làm tôi giật mình đấy Kate! Tôi không nhận ra chị khi chị mới bước vào."

"Tôi không biết mình phải làm gì, vì thế tôi chạy thẳng đến đây." Lúc nào cũng vậy, những người đang trong cơn hoạn nạn luôn tìm đến vợ tôi như những con chim lao về phía ngọn hải đăng.

"Rất vui vì chị đã đến. Nào, chị phải uống ít rượu vang và nhấp chút nước rồi ngồi xuống thật thoải mái để kể hết cho vợ chồng tôi nghe. Hay là để anh James lên phòng ngủ đã?"

"Ồ, không cần đâu! Tôi cũng cần đến lời khuyên về sự giúp đỡ của bác sĩ. Đó là chuyện về Isa. Anh ấy đã vắng nhà hai ngày nay. Tôi lo cho anh ấy quá!"

Đây không phải là lần đầu tiên cô ta kể về những rắc rối của chồng mình cho tôi nghe với tư cách là bác sĩ, còn vợ tôi là bạn học cũ. Vợ chồng tôi an ủi và dỗ dành cô ta bằng mọi lời lẽ mà mình có thể nghĩ ra. Cô có biết chồng mình đang ở đâu không? Liệu chúng tôi có cách nào đưa anh ta về với cô?

Có vẻ như là có. Theo nguồn tin chắc chắn nhất mà cô ta có được thì cách đây không lâu, khi lên cơn nghiện, anh ta đã tới một tiệm hút ở rìa phía đông của khu City. Trước giờ những cuộc vui trác táng của anh ta chỉ gói gọn trong một ngày và anh ta luôn trở về vào buổi tối trong tình trạng rúm ró và kiệt sức. Nhưng lần này thì cơn mê đã ám anh ta bốn mươi tám giờ rồi và chắc chắn là anh ta hãy còn nằm ở đó, giữa đám rác rưởi của các ụ tàu, hít thở bầu không khí ô nhiễm hoặc mê man ngủ cho đến khi thuốc hết tác dụng. Sẽ tìm thấy anh ta, cô ta đoán chắc, tại quán Bar of Gold trong con hẻm Upper Swandam. Nhưng cô ta sẽ làm gì? Một phụ nữ trẻ và nhút nhát sao có thể đi vào một nơi như thế và kéo chồng mình ra khỏi đám vô lại đang vây quanh anh ta?

Tình hình là như thế, và tất nhiên chỉ có một cách giải quyết. Sao tôi có thể thoái thác việc hộ tống cô ta đến nơi đó chứ? Nhưng mà, nghĩ kĩ lại, cô ta có cần đến đó hay không? Tôi là bác sĩ tư vấn cho Isa Whitney và với tư cách đó thì tôi có sức ảnh hưởng đối với anh ta. Tôi cũng có thể xoay xở dễ dàng hơn nếu đến đó một mình. Thế là tôi hứa với cô ta rằng sẽ đưa anh ta về nhà bằng xe ngựa trong vòng hai giờ đồng hồ nếu như quả thật anh ta đang ở địa chỉ mà cô ta đưa cho tôi. Và mười phút sau tôi đã rời bỏ cái ghế bành cùng căn phòng khách ấm cúng của mình, lên một cỗ xe ngựa phóng nhanh về phía đông để làm một nhiệm vụ mà lúc đó tôi cho là kì lạ, nhưng phải đến sau này tôi mới thấy hết tính chất kì lạ của chuyến đi đó.

Giai đoạn đầu của cuộc phiêu lưu chẳng có gì khó khăn. Hẻm Upper Swandam là một lối đi gớm ghiếc nằm khuất sau những cầu tàu cao dọc bờ bắc của con sông đến tận phía đông cầu London. Nằm giữa một cửa hàng bán quần áo may sẵn rẻ tiền và một tiệm rượu là dãy bậc thang dốc đứng dẫn xuống một khoảng trống tối đen trông như một miệng hang, đó chính là cái tiệm hút mà tôi cần tìm. Dặn xe đứng đợi xong, tôi bước xuống những bậc thềm đã mòn trũng ở chính giữa bởi bước chân qua lại liên tục của những con nghiện, và nhờ ánh sáng lập lòe của ngọn đèn dầu treo trên cửa mà tôi nhìn thấy cái then cài rồi lần bước vào một căn phòng dài và thấp, dày đặc khói thuốc phiện màu nâu với những chiếc giường gỗ kê trên thềm nhà giống như trong khoang của một chiếc tàu di dân.

Xuyên qua bóng tối ảm đạm, có thể lờ mờ nhìn thấy những thân hình đang nằm trong các tư thế vô cùng kì dị, vai thõng xuống, chân co lên, đầu ngửa ra sau và cằm chĩa lên trên, đây đó một vài con mắt u ám lờ đờ hướng về phía người mới bước vào. Từ những cái bóng đen sẫm đó le lói một vài đốm sáng đỏ lúc tỏ lúc mờ khi thuốc phiện được đốt bùng lên hay lụi đi trong cái nõ của những chiếc ống điếu bằng kim loại. Hầu hết đều nằm yên không nói gì nhưng cũng có một số huyên thuyên một mình và một số khác thì nói chuyện với nhau bằng giọng nghe lạ lùng, trầm thấp và đều đều. Tiếng nói chuyện rộ lên từng đợt rồi đột nhiên nhỏ dần và lặng hẳn, mỗi người lẩm nhẩm theo ý riêng của mình và không mấy quan tâm đến lời của người kế bên. Ở đầu kia của căn phòng là một lò than nhỏ đang cháy đỏ, cạnh đó, trên chiếc ghế đẩu ba chân bằng gỗ, một ông già cao gầy đang ngồi chống cằm, mắt chăm chú nhìn vào lò lửa.

Khi tôi bước vào, một người hầu Mã Lai có nước da vàng bủng vội vã đem đến cho tôi một chiếc ống điếu và một liều thuốc phiện rồi ra hiệu mời tôi đến một chiếc giường còn trống.

"Cảm ơn. Tôi không ở lại đâu." tôi nói. "Có bạn tôi là ông Isa Whitney ở đây, tôi muốn nói chuyện với ông ta."

Có tiếng người cử động và kêu lên ở phía bên phải. Cố nhìn xuyên qua bóng tối lờ mờ, tôi trông thấy Whitney mặt mày tái mét và phờ phạc, tóc tai rối bù đang chăm chú nhìn tôi.

"Lạy Chúa! Watson đây mà", anh ta nói. Trông anh ta rất thảm hại trong tình trạng say thuốc, các dây thần kinh đều bị kích động. "Này Watson, mấy giờ rồi?"

"Gần 11 giờ đêm."

"Ngày nào?"

"Thứ sáu, 19 tháng 6."

"Trời đất ơi! Tôi cứ nghĩ mới là thứ tư chứ. Hôm nay là thứ tư mà. Anh hù dọa bạn bè như thế để làm gì?" Anh ta gục mặt lên hai cánh tay và bắt đầu rưng rức khóc nức nở.

"Tôi đã nói với anh hôm nay là thứ sáu, anh bạn. Vợ anh đợi anh đã hai ngày rồi. Lẽ ra anh phải thấy xấu hổ về mình chứ!"

"Tôi đang xấu hổ lắm. Nhưng anh nhầm rồi đấy Watson, vì tôi mới đến đây, vài giờ thôi, hút có ba, bốn tẩu - tôi quên mất là bao nhiêu rồi. Nhưng giờ thì tôi sẽ đi về nhà cùng anh. Tôi không muốn Kate phải lo lắng - Kate bé nhỏ tội nghiệp. Đưa tay cho tôi vịn nào. Anh có xe chứ?"

"Có, đang đợi đấy."

"Vậy thì chúng ta lên xe thôi. Nhưng hẳn là tôi còn nợ họ. Anh xem tôi còn nợ bao nhiêu Watson. Tôi thấy khó chịu quá. Tôi chẳng thể tự làm được gì cả."

Tôi bước xuống lối đi hẹp giữa hai dãy giường, nín thở để tránh hít phải mùi khói thuốc phiện khó chịu làm cho đầu óc như bị trì độn đi và đưa mắt nhìn quanh để tìm chủ tiệm hút. Khi đi ngang qua người đàn ông cao gầy đang ngồi bên lò than, tôi bỗng cảm thấy vạt áo của mình bị giật một cái và một giọng trầm thì thào, "Cứ tiếp tục đi ngang qua tôi rồi hãy quay lại nhìn." Lời nói đó được rót vào tai tôi hết sức rõ ràng. Tôi liếc xuống. Nó chỉ có thể phát ra từ ông già đang ở gần tôi, thế nhưng ông ta vẫn đang ngồi yên với vẻ chăm chú, rất gầy gò, rất nhăn nheo, lưng còng xuống vì tuổi tác, một cái ống điếu để hút thuốc phiện đung đưa giữa hai đầu gối như thể mấy ngón tay mệt mỏi của ông ta vừa buông nó xuống. Tôi tiến lên hai bước và quay lại nhìn. Phải cố gắng lắm tôi mới ngăn mình không bật ra một tiếng kêu kinh ngạc. Ông ta đã quay lưng lại nên ngoài tôi ra chẳng ai có thể nhìn thấy. Gương mặt ông ta căng lên, những nếp nhăn biến mất, đôi mắt mờ đục đã lấy lại vẻ lấp lánh và kia, ngồi cạnh lò lửa và đang nhe răng cười trước vẻ ngạc nhiên của tôi chính là Sherlock Holmes chứ không phải ai khác. Anh khẽ ra hiệu bảo tôi lại gần và khi anh quay nửa mặt về phía những người khác thì ngay lập tức anh lại quay về bộ dạng một ông lão già yếu, lẩy bẩy, môi run run.

"Holmes!" Tôi thì thầm, "anh đang làm trò khỉ gì trong cái tổ quỷ này thế?"

"Nói khẽ thôi", anh đáp, "tai tôi thính vô cùng. Nếu anh vui lòng tống khứ cái gã bạn mê mụ của anh đi thì tôi sẽ rất vui được nói chuyện với anh một lát."

"Tôi có một cỗ xe đang đợi bên ngoài."

"Vậy thì vui lòng để hắn ta về nhà bằng cỗ xe đó. Anh có thể tin rằng hắn sẽ được an toàn vì với điệu bộ hết sức rũ rượi đó, hắn chẳng thể vướng vào rắc rối nào nữa đâu. Tôi cũng khuyên anh nhờ người xà ích nhắn vài chữ cho vợ anh để báo rằng anh đang ở cùng tôi. Nếu anh đợi ở bên ngoài thì năm phút nữa tôi sẽ gặp anh."

Thật khó mà từ chối bất cứ yêu cầu nào của Sherlock Holmes vì lúc nào anh cũng nói năng dứt khoát với thái độ trầm tĩnh mà như ra lệnh. Dẫu sao, tôi cảm thấy một khi Whitney đã bị nhốt vào cỗ xe thì nhiệm vụ của tôi hầu như đã hoàn thành; vả lại, tôi thật không ao ước gì hơn là được hợp sức với người bạn của mình trong một chuyến phiêu lưu kì lạ vốn là điều bình thường trong cuộc sống của anh. Trong vài phút tôi đã viết xong bức thư, trả tiền cho Whitney, dìu anh ta ra xe và dõi theo chiếc xe đưa anh ta vào màn đêm. Chỉ một loáng sau, một thân hình lụ khụ bước ra từ tiệm hút và tôi cùng Sherlock Holmes đi xuôi con phố. Suốt quãng hai con phố đầu, anh còng lưng lê bước, chân cà nhắc. Thế rồi, sau khi liếc nhanh xung quanh, anh vươn thẳng người và bật ra một tràng cười ngặt nghẽo.

"Watson này", anh nói, "hẳn là anh đã tưởng tượng rằng ngoài việc tiêm cocaine và đủ mọi tật xấu khác mà anh ban cho tôi dưới con mắt thầy thuốc tôi lại còn thêm tội hút thuốc phiện nữa."

"Tất nhiên là tôi rất ngạc nhiên khi thấy anh ở tiệm hút."

"Cũng không ngạc nhiên hơn tôi khi nhìn thấy anh."

"Tôi đến đó để tìm một người bạn."

"Còn tôi thì tìm một kẻ thù."

"Một kẻ thù?"

"Phải, một trong những kẻ thù tự nhiên của tôi, hoặc là, tôi nên nói thế này, con mồi tự nhiên của tôi. Watson này, nói ngắn gọn thì tôi đang tiến hành một cuộc điều tra rất khác thường, và tôi hi vọng sẽ tìm được manh mối trong những lời nói lan man, rời rạc của đám nghiện này như tôi đã từng tìm được trước đây. Nếu mà tôi bị phát hiện trong cái ổ chuột đó thì tính mạng chẳng còn kéo dài thêm được một giờ vì trước đây tôi từng lợi dụng nó vì mục đích riêng của mình và tên côn đồ người Ấn quản lí tiệm hút đã thề là sẽ trả thù tôi. Có một cái cửa sập ở phía sau căn nhà đó, gần góc Paul's Wharf, và nó có thể kể cho ta nghe những câu chuyện kì lạ về các thứ vẫn được chuyển qua đó vào những đêm không trăng."

"Sao? Ý anh không phải là xác chết đấy chứ?"

"Đấy, chính là những xác chết đấy, Watson à. Chúng ta sẽ giàu to nếu có một ngàn bảng tương ứng với một hồn ma tội nghiệp đã chết rũ trong cái tiệm hút đó. Đây là cái bẫy giết người gớm ghiếc nhất suốt đoạn bờ sông này và tôi e rằng Neville St. Clair đã bước vào đó rồi không bao giờ trở ra được nữa. Nhưng ta sẽ đặt bẫy ở đấy." Anh đưa hai ngón trỏ vào giữa hai hàm răng rồi huýt sáo lanh lảnh - tín hiệu này được đáp lại bằng một tiếng huýt sáo tương tự phát ra từ đằng xa, liền sau đó là tiếng bánh xe khua lạch cạch và tiếng vó ngựa gõ lóc cóc.

"Này Watson", Holmes nói khi một cỗ xe độc mã xuyên qua bóng tối tiến tới chỗ chúng tôi, đèn hai bên xe rọi ra luồng ánh sáng vàng rực, "anh sẽ đi với tôi chứ?"

"Nếu như tôi có thể giúp được gì."

"Ồ, một cộng sự tin cẩn luôn luôn có giá trị, và một người ghi chép sự kiện lại càng hữu ích. Căn phòng của tôi tại biệt thự Tuyết Tùng là phòng giường đôi."

"Biệt thự Tuyết Tùng?"

"Phải, đó là nhà của ông St. Clair. Tôi ở đó trong khi tiến hành điều tra."

"Thế nó nằm ở đâu?"

"Gần làng Lee, ở hạt Kent. Ta còn phải ngồi xe thêm bảy dặm nữa."

"Nhưng tôi vẫn còn chưa hiểu gì cả."

"Tất nhiên rồi. Anh sẽ biết hết ngay thôi. Nhảy lên xe đi. Được rồi, John; chúng tôi sẽ không cần đến anh nữa. Đây là đồng nửa crown. Đến gặp tôi lúc 11 giờ ngày mai nhé! Buông đầu con ngựa ra đi. Chào anh nhé!"

Anh vung roi vụt nhẹ vào con ngựa và chúng tôi lao đi qua những con đường âm u và hoang vắng dài vô tận, mở rộng dẫn ra cho đến khi chúng tôi phóng qua một cây cầu có hàng chấn song rộng bắc qua con sông nước đục lờ chảy chậm rì bên dưới. Ở bờ bên kia là những đống gạch và vôi vữa bỏ hoang trông thật ảm đạm, thỉnh thoảng mới có tiếng bước chân nặng nề và đều đặn của một cảnh sát hay tiếng hát và tiếng hò hét của vài đám nhậu khuya khuấy động sự yên tĩnh của chốn này. Một đám mây xám xịt lừ đừ trôi ngang qua bầu trời và đây đó một vài ngôi sao nhấp nháy lờ mờ hiện ra qua những khe hở giữa các đám mây. Holmes lặng lẽ đánh xe, đầu cúi gằm như đang chìm đắm trong suy nghĩ, còn tôi ngồi bên cạnh, lòng tò mò muốn biết cuộc truy lùng mới có vẻ rất khó khăn này là gì, tuy vậy tôi không dám cắt ngang dòng suy tưởng của anh. Chúng tôi đã đi được vài dặm và bắt đầu đến vành đai khu biệt thự ở ngoại ô thì anh bỗng lắc người, nhún vai và châm tẩu thuốc với dáng vẻ của một người đang hài lòng rằng mình đang làm điều khả dĩ nhất. "Anh có khả năng giữ yên lặng rất tuyệt vời đấy Watson", anh nói. "Chính vì vậy mà anh là một người bạn đồng hành vô giá. Nói thật đấy, có ai đó để cùng trò chuyện thật tuyệt biết mấy, vì những điều tôi ngẫm ngợi trong đầu, không được vui vẻ cho lắm. Tôi đang tự hỏi là tối nay nên nói gì với người phụ nữ nhỏ bé kia khi gặp bà ta ở cổng."

"Anh quên mất là tôi chẳng biết tí gì về việc đó."

"Tôi có vừa đủ thì giờ để kể cho anh nghe tình tiết của vụ này trước khi chúng ta đến Lee. Câu chuyện có vẻ cực kì đơn giản, tuy vậy không hiểu sao tôi chưa thể thu thập được gì. Chắc chắn là phải có một sợi chỉ xuyên suốt, thế nhưng tôi vẫn không thể nắm được đầu mối trong tay. Để tôi kể rõ ràng và gãy gọn cho anh nghe về vụ này, Watson, biết đâu anh có thể nhìn thấy một tia sáng trong khi đối với tôi mọi thứ hãy còn tôi mù."

"Thế thì anh hãy kể đi!"

"Vài năm trước đây, cụ thể hơn là vào tháng 5 năm 1884, một người có vẻ nhiều tiền tên là Neville St. Clair đã đến Lee. Ông ta mua một căn biệt thự to rộng, bài trí khu đất rất đẹp và sống một cuộc sống sung túc. Dần dà, ông ta kết thân với những người hàng xóm và đến năm 1887 thì kết hôn với con gái của một người ủ rượu bia trong vùng và nay đã có hai con. Ông ta không có nghề nghiệp cụ thể nhưng có lợi tức ở một số công ty và thường lên thành phố vào buổi sáng và về nhà trên chuyến tàu 5 giờ 14 phút chiều từ phố Cannon. Ông St. Clair năm nay ba mươi bảy tuổi, tính tình điềm đạm, là một người chồng tốt, một người cha rất thương con và được lòng tất cả những ai quen biết ông ta. Tôi có thể nói thêm rằng tổng số nợ của ông ta vào thời điểm này, theo như chúng tôi có thể xác định, là tám mươi tám bảng mười shilling, trong khi ông ta có số dư tài khoản ở nhà băng Capital & Counties là hai trăm hai mươi bảng. Vì thế mà chẳng có lí do gì để cho rằng ông ta phải băn khoăn lo nghĩ về tiền bạc. Hôm thứ hai vừa rồi, ông Neville St. Clair lên thành phố sớm hơn thường lệ, trước khi đi ông ta còn bảo là có hai việc quan trọng phải làm và sẽ đem về cho cậu con trai nhỏ một hộp đồ chơi xếp hình. Tình cờ làm sao, cũng vào ngày hôm đó, khi ông ta mới đi chưa được bao lâu thì vợ ông ta nhận được một bức điện với nội dung là một gói bưu kiện nhỏ có giá trị đáng kể đúng như bà ta dự kiến hiện đang chờ bà đến nhận tại văn phòng của Công ty Vận tải Aberdeen. Nếu biết rõ London thì anh sẽ biết rằng văn phòng của công ty này nằm trên phố Presno, tách ra từ hẻm Upper Swandam là nơi anh đã gặp tôi tối nay. Dùng bữa trưa xong thì bà St. Clair bắt đầu lên khu City, mua sắm vài thứ rồi đi đến văn phòng của công ty vận tải, nhận gói bưu kiện xong thì vừa đúng 4 giờ 35 phút, bà ta đi qua hẻm Swandam để trở lại sân ga. Anh theo kịp lời tôi kể chứ?"

"Rất rõ ràng."

"Nếu anh còn nhớ thì hôm thứ hai vừa rồi là một ngày cực kì nóng bức, bà St. Clair bước đi chậm rãi, mắt nhìn quanh với hi vọng sẽ tìm thấy một chiếc xe ngựa vì bà ta không thích khu vực mà mình đang đi qua cho lắm. Trong khi đang đi xuôi theo con hẻm Swandam thì bà ta chợt nghe thấy một tiếng kêu hay một tiếng hét, bà ta giật mình đến lạnh toát sống lưng khi thấy chồng mình đang nhìn xuống và theo bà ta thì có vẻ như ông ta đang vẫy tay ra hiệu cho bà ta từ cửa sổ tầng ba. Cánh cửa sổ đang mở và bà ta trông thấy rõ mặt chồng mình, theo lời bà ta tả lại thì trông ông ta có vẻ lo lắng cực độ. Ông ta vẫy tay điên cuồng và rồi biến mất khỏi khung cửa sổ đột ngột như thể bị một lực khôn cưỡng kéo mạnh từ đằng sau. Một điểm kì lạ đập vào đôi mắt phụ nữ sắc bén của bà ta là chồng bà ta vẫn mặc chiếc áo khoác sẫm màu như khi ra khỏi nhà nhưng không còn đeo cổ cồn lẫn cà vạt. Tin chắc rằng đã có điều gì không hay xảy ra với chồng mình, bà ta hối hả lao xuống mấy bậc thềm - căn nhà đó chính là cái tiệm hút mà anh đã gặp tôi đêm nay - và sau khi chạy băng qua sảnh, bà ta định leo lên cầu thang. Thế nhưng, tại chân cầu thang bà ta gặp phải tên vô lại người Ấn mà tôi đã nhắc đến, hắn đẩy bà ta lại và với sự trợ giúp của một gã người Đan Mạch có vẻ là một phụ tá ở đó, hắn đã xô bà ta ra đường. Lòng tràn ngập nghi ngờ, bực bội lẫn sợ hãi, bà ta đâm bổ xuống con hẻm và nhờ một vận may hiếm có, bà ta đã gặp được một nhóm cảnh binh ở phố Fresno cùng một viên thanh tra, tất cả đều đang trên đường đến khu vực tuần tra. Viên thanh tra và hai người cảnh binh hộ tống bà ta quay lại, bất chấp sự chống đối của gã chủ nhà, họ vẫn xông được vào căn phòng mà ông St. Clair đã xuất hiện lần cuối. Không còn dấu vết gì của ông ta ở đó. Trên thực tế thì họ chẳng nhìn thấy ai trên khắp tầng lầu ngoại trừ một người xấu xí, tàn tật trông rất gớm ghiếc có vẻ như là người sống ở đó. Cả hắn lẫn gã người Ấn đều ra sức thề thốt rằng suốt buổi chiều hôm đó không hề có ai khác ở trong gian tiền phòng. Chúng phủ nhận quả quyết đến nỗi viên thanh tra hơi do dự và khi ông ta sắp tin rằng bà St. Clair đã nhìn lầm thì bà bỗng kêu lên một tiếng và lao về phía cái hộp nhỏ bằng gỗ thông nằm trên bàn và tháo tung nắp ra. Từ trong hộp văng ra những khối đồ chơi xếp hình của trẻ con. Đó là món quà mà chồng bà đã hứa sẽ đem về nhà.

Phát hiện này cùng với vẻ bối rối lộ rõ ở gã què khiến cho viên thanh tra nhận ra mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Mấy căn phòng được khám xét cẩn thận và mọi kết quả đều chỉ ra một tội ác đáng ghê sợ. Gian tiền phòng được trang bị đầy đủ như một căn phòng khách và dẫn vào một phòng ngủ nhỏ trông xuống phía sau một cầu tàu. Giữa cầu tàu và cửa sổ phòng ngủ là một dải đất hẹp vốn khô ráo khi triều xuống nhưng khi nước lên thì nó bị ngập trong nước ít nhất cũng bốn foot rưỡi. Cửa sổ phòng ngủ thì rộng và được mở ra từ bên dưới. Khi khám xét, người ta tìm thấy các vết máu trên bậu cửa sổ và vài giọt rớt xuống sàn gỗ của phòng ngủ. Tất cả quần áo của ông Neville St. Clair bị nhét vào phía sau một tấm rèm cửa của gian tiền phòng, ngoại trừ chiếc áo khoác. Đôi ghệt, đôi tất, chiếc mũ và cái đồng hồ của ông ta đều ở đó. Không hề có vết tích bạo hành trên bất kì món đồ nào và cũng không tìm thấy dấu vết nào của ông Neville St. Clair. Chắc chắn là ông ta đã biến mất qua đường cửa sổ vì người ta không thể tìm thấy bất cứ lối thoát nào khác, và những vết máu trên bậu cửa cho thấy khả năng ông ta có thể tự cứu mình bằng cách bơi đi là rất thấp vì con nước đang lên rất cao vào thời điểm xảy ra thảm kịch.

Giờ thì ta sẽ nói về những kẻ bất lương dường như có liên quan trực tiếp đến vụ này. Gã người Ấn là một tên từng có nhiều tiền sự cực kì ghê gớm, thế nhưng theo lời kể của bà St. Clair thì người ta thấy hắn đứng ở chân cầu thang khi chồng bà ta xuất hiện ở cửa sổ chỉ trong vài giây ngắn ngủi, vì thế cùng lắm hắn cũng chỉ là kẻ tòng phạm trong tội ác này. Hắn luôn miệng cãi là chẳng biết gì và quả quyết rằng hắn không hề hay biết về những việc làm của tên Hugh Boone, là người thuê phòng trọ của hắn, cũng như không sao giải thích được lí do mớ quần áo của người đàn ông bị mất tích xuất hiện ở đó.

Đó là tất cả những gì ta biết về gã quản lí người Ấn. Giờ đến lượt cái gã tàn tật xấu xí sống ở tầng ba của tiệm hút và chắc chắn là người cuối cùng nhìn thấy Neville St. Clair. Tên hắn là Hugh Boone và bộ mặt gớm ghiếc của hắn rất quen thuộc với bất kì ai thường ghé đến khu City. Hắn là một tên ăn mày chuyên nghiệp dù hắn giả vờ bán diêm để lách luật. Đi xuôi xuống phố Threadneedle một chút, nhìn sang bên trái, có lẽ anh cũng để ý thấy có một hốc tường nhỏ. Ngày nào hắn cũng đến đó ngồi khoanh chân, bày mớ diêm loe hoe trong lòng, và vì trông hắn rất thảm thương nên tiền bố thí cứ rơi như mưa vào cái mũ da bẩn thỉu nằm ngay cạnh hắn trên vỉa hè. Tôi đã quan sát hắn không chỉ một lần trước khi nghĩ đến chuyện làm quen với hắn với tư cách đồng nghiệp và tôi rất ngạc nhiên với số tiền mà hắn thu được chỉ trong một thời gian ngắn. Anh thấy đấy, bề ngoài của hắn rất khác thường nên không ai đi ngang qua mà không chú ý đến hắn. Mớ tóc đỏ bù xù, khuôn mặt tái nhợt bị biến dạng vì một vết sẹo khủng khiếp, chính vì vết sẹo đó mà da hắn co lại kéo mép ngoài của môi trên lên, cái cằm giống cằm chó bun và hai con mắt sẫm màu rất sắc bén tạo ra sự tương phản kì lạ với màu tóc, tất cả đều làm cho hắn nổi bật hẳn lên giữa đám ăn mày bình thường, đã thế hắn còn có tài hóm hỉnh, lúc nào cũng sẵn sàng đáp trả bất cứ lời trêu chọc nào của khách qua đường. Giờ thì ta đã biết hắn trọ ở tiệm hút và cũng là người cuối cùng nhìn thấy quý ông mà ta đang tìm kiếm."

"Nhưng đó là một người tàn tật!" Tôi thốt lên. "Làm sao hắn có thể đơn thương độc mã đối phó với một người đàn ông đang độ sung sức?"

"Nói là què quặt nhưng thật ra hắn chỉ bị khập khiễng thôi; còn về các mặt khác thì hắn hoàn toàn khỏe mạnh và ăn uống đầy đủ. Kinh nghiệm nghề nghiệp hẳn đã cho anh biết rằng nhược điểm ở một chân thường được bù đắp bởi sức khỏe hơn người ở những cơ quan khác."

"Xin anh hãy kể tiếp."

"Bà St. Clair đã ngất đi khi nhìn thấy vết máu trên cửa sổ và được cảnh sát đưa về nhà vì sự hiện diện của bà ta cũng không giúp được gì cho họ trong việc điều tra. Thanh tra Barton - người chịu trách nhiệm về vụ này - đã khám xét rất kĩ lưỡng căn nhà nhưng cũng không tìm thấy bất cứ điều gì có thể làm sáng tỏ vấn đề. Người ta đã phạm phải một sai lầm khi không bắt giữ Boone ngay lập tức vì hắn đã có được vài phút để trao đổi với tên bạn người Ấn Độ, nhưng sơ suất này đã được khắc phục nhanh chóng; hắn đã bị tóm và lục soát nhưng cũng chẳng tìm ra được điều gì có thể buộc tội hắn. Quả thật là có vài vết máu trên tay áo bên phải của hắn nhưng hắn đã chỉ ra ngay ngón áp út bị đứt ở chỗ giáp móng tay, và giải thích rằng vết máu từ đó mà ra, lại còn nói thêm là trước đó không lâu hắn có đứng bên cửa sổ nên chắc chắn là những vết máu quan sát được ở đó cũng bị dây ra từ ngón tay bị đứt. Hắn một mực không nhận là đã trông thấy ông Neville St. Clair và thề rằng cũng giống như cảnh sát, hắn hoàn toàn không biết gì về mớ quần áo ở trong phòng của hắn. Còn về việc bà St. Clair khẳng định rằng bà ta đã trông thấy chồng mình đứng bên cửa sổ thì hắn tuyên bố là nhất định bà ta bị điên hoặc đang nằm mơ. Hắn phản đối ầm ĩ khi bị giải tới đồn cảnh sát, trong khi viên thanh tra vẫn ở lại căn nhà với hi vọng là nước triều rút xuống có thể đem lại dấu vết mới. Và đúng thế thật, dù rằng vật được phát hiện trên bãi bùn không hẳn là thứ mà họ đã lo ngại. Chỉ có chiếc áo khoác của ông Neville St. Clair hiện ra khi nước rút đi chứ không phải xác ông ta. Và anh thử nghĩ xem họ đã thấy gì trong túi áo?"

"Tôi không thể tưởng tượng ra."

"Tôi không nghĩ là anh có thể đoán được. Mỗi túi áo đều được nhét đầy những đồng xu và đồng nửa xu - bốn trăm hai mươi mốt đồng xu và hai trăm bảy mươi đồng nửa xu. Thảo nào mà nó không bị nước triều cuốn đi. Nhưng một xác chết thì lại là vấn đề khác. Giữa bến tàu và tiệm hút có một dòng nước xoáy mạnh. Có vẻ như chiếc áo được dằn nặng thì nằm lại còn cái xác bị lột trần thì đã bị cuốn ra sông."

"Nhưng theo như tôi hiểu thì toàn bộ những món quần áo khác lại được tìm thấy ở trong phòng. Chẳng lẽ xác chết chỉ được mặc có mỗi chiếc áo khoác?"

"Không phải thế, nhưng bề ngoài các dữ kiện có vẻ tương đối ăn khớp. Giả sử gã Boone đó đã xô Neville St. Clair qua cửa sổ mà không ai nhìn thấy. Rồi hắn sẽ làm gì? Tất nhiên là ngay lập tức hắn phải nghĩ đến việc thủ tiêu mớ quần áo có thể làm cho tội lỗi của hắn bị bại lộ. Hắn đã lột được chiếc áo khoác ra và khi sắp sửa ném nó ra ngoài thì hắn chợt nghĩ rằng cái áo sẽ nổi lên chứ không chìm. Hắn chẳng còn bao nhiêu thì giờ vì đã nghe thấy tiếng xô đẩy ở dưới cầu thang khi người vợ tìm cách đi lên và có lẽ hắn cũng được gã tòng phạm người Ấn thông báo là cảnh sát đang đến. Không thể bỏ phí một giây phút nào. Hắn vội vã chạy đến một chỗ giấu của bí mật nào đó, là nơi mà hắn đã tích lũy thành quả của nghề ăn xin và nhét tất cả những đồng xu mà hắn kịp chụp lấy vào các túi của chiếc áo khoác để cầm chắc là nó sẽ chìm xuống. Hắn ném nó qua cửa sổ và đã định làm như thế với những món quần áo kia nếu như không nghe thấy tiếng bước chân hối hả bên dưới và chỉ kịp đóng cánh cửa sổ lại khi cảnh sát xuất hiện."

"Nghe có vẻ hợp lí lắm."

"Vâng, chúng ta sẽ tạm đưa ra giả thuyết như vậy trong khi chưa có giả thuyết nào tốt hơn. Tên Boone đã bị bắt và giải đến đồn cảnh sát, như tôi đã nói với anh, thế nhưng xưa nay chưa từng có tiền án gì cả. Hắn đã hành nghề ăn mày chuyên nghiệp nhiều năm nhưng cuộc sống riêng thì có vẻ rất lặng lẽ và trong sạch. Thế là tình hình ngưng trệ ở đó và vẫn còn nhiều câu hỏi cần phải được giải đáp - Neville St. Clair làm gì ở tiệm hút, điều gì đã xảy ra với ông ta ở đó, bây giờ ông ta đang ở đâu và Hugh Boone đã làm gì trong vụ việc ông ta mất tích - tất cả những câu hỏi này cho đến giờ vẫn chưa có lời giải. Phải thú nhận là trong số những vụ mà tôi đã giải quyết, tôi không thể nào nhớ ra có vụ nào mà lúc đầu thì trông rất đơn giản nhưng hóa ra lại ẩn chứa nhiều khó khăn đến vậy."

Trong khi Sherlock Holmes trình bày chi tiết chuỗi sự kiện kì lạ này, chúng tôi đã phóng nhanh qua vùng ngoại ô thành phố. Những căn nhà cuối cùng nằm rải rác ven đường đã khuất dạng, lúc này hai bên đường xe chạy là những bờ giậu kiểu nông thôn. Khi anh vừa dứt lời thì chúng tôi đã đi qua hai ngôi làng thưa thớt vẫn còn vài ngọn đèn le lói qua cửa sổ.

"Chúng ta đã đến ngoại vi của làng Lee", người bạn đồng hành của tôi giải thích. "Chúng ta đã đi qua ba hạt của nước Anh trong chuyến xe ngắn ngủi này, bắt đầu từ Middlesex, ngang qua một góc của Surrey và kết thúc tại Kent. Anh nhìn thấy ánh đèn giữa rặng cây kia chứ. Đó là biệt thự Tuyết Tùng và ngồi bên ngọn đèn là người phụ nữ mà tôi ngờ rằng đã nóng lòng dỏng tai chờ nghe tiếng vó ngựa lộc cộc của xe chúng ta."

"Nhưng tại sao anh không chỉ đạo vụ này từ phố Baker?" Tôi hỏi.

"Vì có nhiều câu hỏi cần phải được thẩm vấn ngay tại đây. Bà St. Clair đã rất tử tế dành hai căn phòng cho tôi tùy nghi sử dụng và anh có thể yên tâm rằng bà ta sẽ rất hoan hỉ đón tiếp người bạn và đồng sự của tôi. Watson này, tôi ngại gặp mặt bà ta khi chưa có tin tức gì của chồng bà ta. Chúng ta đến nơi rồi. Dừng lại đây, dừng lại nào!"

Chúng tôi ghìm ngựa lại trước một ngôi biệt thự to lớn ở giữa khuôn viên. Một cậu bé giữ ngựa chạy đến trước đầu ngựa, tôi nhảy xuống xe và bước theo Holmes trên con đường nhỏ rải sỏi quanh co dẫn đến ngôi nhà. Khi chúng tôi đến gần, cánh cửa mở tung ra và một người phụ nữ tóc vàng nhỏ nhắn đang đứng bên cạnh cửa trong y phục bằng lụa mousseline có bèo nhún bằng vải chiffon màu hồng viền quanh cổ và hai cổ tay. Dáng hình bà ta nổi bật trong luồng ánh sáng hắt ra từ bên trong, một tay đặt lên cửa, tay kia giơ lên nửa chừng vẻ nôn nóng, thân hình hơi nghiêng về phía trước, đầu và mặt nhô ra với đôi mắt ngóng đợi và đôi môi hé mở như dò hỏi.

"Sao?" Bà ta kêu lên. "Thế nào rồi?" Chợt nhận ra chúng tôi có hai người, bà ta thốt lên một tiếng reo hi vọng nhưng rồi tiếng reo chùng xuống thành tiếng rên khi bà ta trông thấy người bạn đồng hành của tôi lắc đầu và nhún vai.

"Không có tin vui?"

"Không."

"Không có tin buồn?"

"Không."

"Tạ ơn Chúa. Nhưng hãy vào nhà đã nào. Hẳn là các ông mệt mỏi lắm rồi vì đã trải qua một ngày dài."

"Đây là bạn tôi, bác sĩ Watson. Anh ấy đã giúp tôi rất nhiều trong một số lần phá án và nhờ vào một sự tình cờ may mắn mà tôi có thể được anh ấy đi cùng và phối hợp với anh ấy trong cuộc điều tra này."

"Tôi rất vui khi được gặp ông", bà ta nói và nồng nhiệt bóp tay tôi. "Tai họa giáng xuống đầu chúng tôi đột ngột quá, nếu chúng tôi tiếp đón có gì thiếu sót mong ông niệm tình bỏ qua cho."

"Thưa bà", tôi đáp, "tôi là người lính quen dãi dầu và cho dù không phải thế thì tôi cũng thấy rất rõ rằng bà không có gì phải xin lỗi cả. Nếu như tôi có thể giúp gì cho bà hoặc cho bạn tôi đây thì quả thật là tôi rất vui."

"Ông Sherlock Holmes này", bà ta nói khi chúng tôi bước vào căn phòng ăn đèn thắp sáng trưng, trên bàn đã dọn sẵn một bữa ăn nhẹ, "tôi rất muốn hỏi thẳng ông một vài câu và tôi xin ông hãy trả lời thẳng thắn."

"Chắc chắn rồi, thưa bà."

"Ông đừng quá lo lắng về cảm xúc của tôi. Tôi không dễ bị kích động, cũng không hay bị ngất xỉu. Đơn giản là tôi chỉ muốn nghe ý kiến thật lòng của ông."

"Về điều gì?"

"Trong thâm tâm, ông có nghĩ rằng anh Neville hãy còn sống không?"

Sherlock Holmes có vẻ bối rối vì câu hỏi này.

"Xin ông hãy nói thật tình!" Bà ta vẫn đứng trên thảm, đôi mắt sắc bén nhìn xoáy vào Holmes lúc ấy đang ngả lưng vào chiếc ghế mây.

"Thành thật mà nói thì tôi không nghĩ thế."

"Ông cho rằng anh ấy đã chết?"

"Tôi nghĩ thế."

"Bị giết?"

"Tôi không nói thế. Có lẽ là..."

"Vậy thì anh ấy chết vào hôm nào?"

"Ngày thứ hai."

"Thế thì thưa ông Holmes, xin ông vui lòng giải thích làm thế nào mà hôm nay tôi lại nhận được một lá thư của anh ấy."

Sherlock Holmes bật dậy khỏi chiếc ghế như thể bị điện giật

"Sao!" Anh gầm lên.

"Phải, ngay hôm nay." Bà ta đứng đó, mỉm cười, tay chìa ra một mảnh giấy nhỏ.

"Tôi có thể xem chứ?"

"Chắc chắn rồi."

Anh vồ lấy tờ giấy từ tay bà ta với vẻ háo hức và sau khi trải nó lên mặt bàn, anh kéo ngọn đèn lại và chăm chú xem xét nó. Tôi cũng đứng dậy và nhìn chằm chằm vào nó qua vai anh. Phong bì bằng giấy rất thô và được đóng dấu bưu điện ở Gravesend, ngày gửi là hôm nay hay đúng hơn là hôm qua, vì lúc bấy giờ đã qua nửa đêm khá lâu rồi.

"Nét chữ rất xấu", Holmes thì thầm. "Chắc chắn là không phải chữ viết của ông nhà, thưa bà."

"Không phải, nhưng trong bức thư thì đúng."

"Tôi cũng nhận thấy rằng ai đó ghi phong bì đã dừng bút để hỏi lại địa chỉ."

"Sao ông có thể nói vậy?"

"Bà xem, màu mực ở phần tên người nhận có màu đen tuyền vì nó tự khô đi, còn phần còn lại thì có màu hơi xám cho thấy người viết đã dùng đến giấy thấm. Nếu cả tên người nhận và địa chỉ được viết một mạch rồi thấm mực thì sẽ không có chữ nào có màu đen đậm. Người này đã viết phần tên rồi dừng lại một lúc trước khi viết tiếp phần địa chỉ, điều này chỉ có thể nói lên rằng ông ta không biết rõ địa chỉ. Tất nhiên đó chỉ là chuyện vặt, nhưng không có gì quan trọng bằng các chi tiết vặt vãnh. Giờ thì ta hãy xem đến bức thư. À! Có một vật gì đính kèm!"

"Vâng, có một chiếc nhẫn. Là chiếc nhẫn đóng dấu của anh ấy."

"Và bà chắc rằng đây chính là chữ viết của ông nhà?"

"Là một trong những kiểu chữ viết của anh ấy."

"Là một?"

"Đây là kiểu chữ anh ấy viết trong lúc vội vã. Nó không giống với cách viết bình thường của anh ấy, thế nhưng tôi vẫn nhận ra."

"Em thân yêu, đừng lo sợ nhé! Mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Có một sai sót trầm trọng có thể phải mất một thời gian để sửa chữa. Hãy kiên nhẫn đợi nhé! Neville. - Được viết bằng bút chì trên trang gát của một cuốn sách khổ tám, không có hoa văn in chìm. Hừm! Được gửi vào ngày hôm nay từ Gravesend, người gửi có ngón tay cái bẩn. A! Và mép phong bì được dán bằng keo, nếu tôi không nhầm thì người này có nhai thuốc lá. Và bà dám chắc đây chính là chữ viết của ông nhà?"

"Vâng. Chính anh Neville đã viết những chữ này."

"Và chúng được gửi đi trong ngày hôm nay từ Gravesend. Vâng, thưa bà St. Clair, đám mây đã được soi sáng dù rằng tôi không dám nói là cơn nguy hiểm đã qua."

"Nhưng chắc chắn là anh ấy vẫn còn sống, thưa ông Holmes."

"Trừ phi đây là một sự giả mạo khôn ngoan để lừa chúng ta đi theo dấu hiệu giả. Xét cho cùng thì chiếc nhẫn chẳng chứng minh được điều gì. Nó có thể bị tước đoạt từ tay ông ấy."

"Không, không phải thế, đó chính là nét chữ của anh ấy mà."

"Rất đúng. Tuy nhiên, nó có thể đã được viết vào hôm thứ hai và đến hôm nay mới được gửi đi."

"Có thể như thế!"

"Nếu vậy thì, có thể rất nhiều chuyện đã xảy ra từ hôm đó đến nay?"

"Ồ, đừng làm tôi ngã lòng, ông Holmes. Tôi biết rằng mọi chuyện vẫn tốt đẹp với anh ấy. Giữa chúng tôi có sự đồng cảm rất mãnh liệt nên nếu có điều rủi ro xảy đến với anh ấy thì tôi sẽ biết ngay. Vào đúng ngày tôi gặp anh ấy lần cuối, anh ấy bị đứt tay trong phòng ngủ và tôi thì đang ở trong phòng ăn, thế mà tôi chạy vụt lên cầu thang ngay tức khắc vì tin chắc rằng có chuyện gì đó đã xảy ra. Ông nghĩ rằng tôi có thể cảm ứng được một chuyện vặt vãnh như thế mà lại thờ ơ với cái chết của anh ấy hay sao?"

"Tôi đã từng gặp rất nhiều sự việc nên phải thừa nhận rằng linh cảm của phụ nữ có thể có giá trị hơn cả kết luận của một nhà suy luận giỏi phân tích. Dĩ nhiên bức thư này là một bằng chứng rất chắc chắn ủng hộ cho quan điểm của bà. Nhưng nếu ông nhà hãy còn sống và có thể viết được thư từ thì tại sao ông ấy vẫn chưa về gặp bà?"

"Tôi không thể hình dung ra. Chuyện này đúng là không sao hiểu nổi."

"Hôm thứ hai ông ấy không nói gì trước khi đi chứ?"

"Không."

"Và bà đã ngạc nhiên khi thấy ông ấy ở hẻm Swandam?"

"Hết sức kinh ngạc."

"Cánh cửa sổ để mở?"

"Vâng."

"Vậy thì ông nhà có thể gọi bà?"

"Có thể chứ."

"Vậy mà theo tôi hiểu thì ông ấy chỉ thốt ra một tiếng kêu ú ớ?"

"Vâng."

"Một tiếng kêu cứu, bà có nghĩ thế không?"

"Phải. Anh ấy vẫy tay."

"Nhưng đó cũng có thể là tiếng kêu kinh ngạc. Sự ngạc nhiên khi bất ngờ trông thấy bà có thể khiến cho ông ấy giơ hai tay lên?"

"Cũng có thể lắm."

"Và bà cho rằng ông ấy bị kéo ra sau?"

"Anh ấy biến mất rất đột ngột."

"Có thể ông ấy nhảy ngược ra sau. Bà không nhìn thấy ai khác ở trong phòng chứ?"

"Không, nhưng cái gã gớm ghiếc kia thú nhận là đã có mặt ở đó và tên Ấn thì đứng ở chân cầu thang."

"Đúng vậy. Lúc bà nhìn thấy chồng bà thì ông ấy vẫn mặc bộ quần áo bình thường phải không?"

"Nhưng không đeo cổ cồn hay cà vạt. Tôi trông thấy rõ cái cổ trần của anh ấy."

"Có bao giờ ông nhà nói về hẻm Swandam không?"

"Chưa bao giờ."

"Có khi nào bà nhìn thấy những dấu hiệu cho thấy ông ấy hút thuốc phiện không?"

"Không bao giờ."

"Cảm ơn bà St. Clair. Đó là những điểm chính mà tôi muốn được làm rõ. Giờ thì chúng tôi sẽ ăn nhẹ một chút và sau đó thì đi nghỉ vì có thể ngày mai chúng tôi sẽ rất bận rộn."

Một phòng ngủ rất rộng và tiện nghi có giường đôi đã được dành riêng cho chúng tôi, và tôi nhanh chóng chui vào trong chăn vì đã quá mệt mỏi sau một đêm đầy bất ngờ. Thế nhưng Sherlock Holmes là người mà khi có một vấn đề chưa giải quyết được đè nặng tâm trí thì anh có thể dành hàng ngày, thậm chí hàng tuần không nghỉ ngơi để cân nhắc, lật đi lật lại vấn đề, sắp xếp lại các dữ kiện, xem xét nó dưới từng góc nhìn cho đến khi đã hiểu cặn kẽ hoặc tin chắc rằng các dữ liệu của mình vẫn còn chưa đầy đủ. Chẳng mấy chốc tôi đã thấy rõ là anh đang chuẩn bị sẵn sàng để thức suốt đêm. Anh cởi áo khoác và gilet ra, mặc vào một chiếc áo choàng ngủ rộng màu xanh da trời rồi đi quanh phòng, thu nhặt mấy cái gối ở trên giường và những chiếc đệm lót từ ghế dài và ghế bành. Anh sắp xếp chúng thành một loại trường kỉ kiểu phương Đông rồi ngồi xếp bằng trên đó, trước mặt để một ounce thuốc lá sợi và một hộp diêm. Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn, tôi thấy anh ngồi đó, miệng ngậm cái tẩu cũ bằng gỗ thạch nam, đôi mắt lơ đãng nhìn lên góc trần nhà, làn khói xanh uốn éo tỏa ra từ người anh, yên lặng và bất động, và ánh sáng chiếu rọi lên nét mặt sắc cạnh như chim ưng của anh. Anh ngồi yên như thế khi tôi chìm dần vào giấc ngủ và vẫn còn ngồi yên khi một tiếng kêu thình lình đánh thức tôi dậy và tôi thấy ánh nắng mùa hè đã chiếu sáng khắp phòng.

Cái tẩu thuốc hãy còn trên môi anh, làn khói vẫn đang uốn éo bay lên và căn phòng thì dày đặc khói thuốc nhưng đống thuốc lá sợi mà tôi nhìn thấy vào đêm hôm trước chẳng còn sót lại sợi nào.

"Anh dậy rồi hả, Watson?" Anh lên tiếng hỏi.

"Rồi."

"Đã sẵn sàng ngồi xe đi dạo buổi sáng chưa?"

"Tất nhiên."

"Thế thì mặc quần áo vào đi. Chưa ai dậy cả, nhưng tôi biết chỗ ngủ của cậu bé giữ ngựa và hành lí của chúng ta sẽ sớm được chuyển ra." Anh vừa nói vừa lặng lẽ cười với chính mình, hai mắt sáng lấp lánh và trông anh như đã hóa thành một người hoàn toàn khác so với con người trầm tư suy nghĩ đêm hôm trước.

Trong lúc mặc quần áo, tôi liếc nhìn đồng hồ. Không có gì lạ khi vẫn chưa ai thức giấc. Mới 4 giờ 25 phút. Tôi vừa mới ăn mặc chỉnh tề xong thì Holmes đã trở lại, thông báo rằng cậu bé giữ ngựa đang thắng ngựa vào xe.

"Tôi muốn kiểm tra một giả thuyết nhỏ", anh nói khi đang kéo đôi ghệt lên. "Tôi nghĩ thế này, Watson ạ, anh đang đứng trước mặt một trong những kẻ ngốc nghếch nhất Âu châu. Tôi đáng bị đá văng từ đây đến Charing Cross. Nhưng tôi nghĩ rằng giờ thì tôi đã nắm chắc trong tay chiếc chìa khóa của vụ này."

"Vậy nó đang ở đâu?" Tôi mỉm cười hỏi.

"Nó đang nằm trong nhà tắm", anh đáp. "Ồ, vâng, tôi không nói đùa đâu", anh nói tiếp khi nhìn thấy ánh mắt hoài nghi của tôi. "Tôi vừa mới đến đó để lấy nó ra rồi cho vào cái vali hai ngăn này. Đi nào, anh bạn, và chúng ta sẽ thấy nó có vừa khít với ổ khóa hay không."

Chúng tôi lần mò xuống cầu thang thật khẽ khàng và bước ra ngoài trong ánh nắng rực rỡ của buổi bình minh. Con ngựa và hành lí của chúng tôi đã đứng sẵn trên đường, cậu bé giữ ngựa quần áo còn xộc xệch đang đợi bên đầu ngựa. Cả hai chúng tôi nhảy lên xe và phóng vụt đi xuôi theo đường London. Một vài chiếc xe bò vùng quê đang lăn bánh, chở rau quả về phía thủ đô nhưng những dãy biệt thự hai bên đường hãy còn yên lặng và vô hồn như một thành phố đang chìm trong mơ.

"Trong vụ này có vài điểm lạ lùng", Holmes nói trong khi quất roi cho ngựa phi nước đại. "Phải thú nhận là tôi đã mù tịt nhưng học khôn thì muộn còn hơn không."

Khi lên đến thị trấn, những người thức dậy sớm nhất cũng mới chỉ ngái ngủ nhìn ra cửa sổ khi xe chúng tôi đi ngang qua mấy con phố ở phía hạt Surrey. Lúc ngang qua đường Cầu Waterloo, chúng tôi băng qua sông và chạy nhanh lên phố Wellington, quay ngoặt về bên phải và dừng lại ở phố Bow. Sherlock Holmes là người quen với lực lượng cảnh sát và hai cảnh binh đang đứng ở cửa giơ tay chào anh. Một người giữ đầu con ngựa trong khi người kia đưa chúng tôi vào.

"Ai đang trực vậy?" Holmes hỏi.

"Thanh tra Bradstreet, thưa ông."

"A, chào Bradstreet, ông khỏe chứ?" Một sĩ quan cao lớn, tráng kiện đội mũ kêpi và mặc áo khoác ngắn có dải khuy bắt ngang vừa bước xuống hành lang có lát đá. "Tôi muốn nói riêng với ông, ông Bradstreet."

"Được chứ, ông Holmes. Mời ông vào phòng tôi".

Đó là một căn phòng nhỏ bài trí kiểu văn phòng với một cuốn sổ cái to tướng nằm trên bàn và một cái điện thoại nhô ra trên tường. Viên thanh tra ngồi vào bàn.

"Tôi có thể giúp được gì cho ông, ông Holmes?"

"Tôi đến là vì gã ăn mày, gã Boone đấy, cái gã bị bắt là có liên quan đến vụ ông Neville St. Clair ở Lee mất tích."

"Phải. Hắn được giải lên đây và bị tạm giam để tra hỏi thêm."

"Tôi có nghe nói vậy. Hiện ông còn giữ hắn ở đây chứ?"

"Trong nhà giam."

"Hắn có ổn không?"

"Ồ, hắn chẳng gây phiền toái gì cả. Nhưng người hắn dơ bẩn lắm."

"Bẩn à?"

"Phải, dù đã cố gắng hết sức nhưng chúng tôi cũng chỉ bắt được hắn rửa tay, còn mặt hắn vẫn đen như mặt thợ hàn vậy. Vâng, khi nào giải quyết xong vụ của hắn thì hắn sẽ phải tắm thường xuyên theo chế độ nhà tù; ông mà trông thấy hắn thì chắc ông cũng sẽ đồng ý với tôi."

"Tôi rất muốn gặp hắn."

"Thế à? Chuyện này dễ thôi. Mời đi lối này. Ông có thể để túi xách lại đây."

"Không sao, tôi nghĩ rằng tôi sẽ cần đến nó."

"Tốt thôi. Xin mời đi lối này."

Ông ta dẫn chúng tôi đi dọc theo một hành lang, mở một cánh cửa có cài then, đi xuống cầu thang quanh co và đưa chúng tôi đến một hành lang quét vôi trắng, hai bên là những dãy cửa.

"Hắn ở trong phòng thứ ba, bên tay phải", viên thanh tra nói. "Đây rồi!" Ông ta khẽ khàng đẩy một tấm ván ở phần trên cánh cửa và liếc nhìn vào. "Hắn đang ngủ", ông ta thông báo. "Ông có thể quan sát hắn."

Cả hai chúng tôi ghé mắt vào tấm lưới sắt. Gã tù nhân đang ngủ say, nằm quay mặt về phía chúng tôi, hắn thở rất chậm và nặng nề. Đó là một người tầm thước, quần áo tồi tàn phù hợp với nghề của hắn, một chiếc áo màu lộ ra qua những lỗ thủng của cái áo khoác rách tả tơi. Đúng như lời của ông thanh tra, hắn dơ dáy kinh khủng nhưng lớp cáu ghét trên mặt hắn cũng không che giấu được vẻ xấu xí đáng sợ của bộ mặt đó. Một vết sẹo cũ nổi thành lằn rộng chạy xéo qua mặt từ mắt đến cằm, và vết sẹo co lại đã kéo một bên môi trên, vì thế mà ba cái răng bị phô ra khiến vẻ mặt lúc nào cũng như đang quạu quọ. Một mớ tóc rối bù màu đỏ rất chói rủ xuống ngang mắt và trán.

"Hắn đẹp trai nhỉ?" Ông thanh tra nói.

"Chắc chắn là hắn cần được tắm", Holmes nhận xét. "Tôi cũng hình dung được là hắn có thể phải rửa ráy nên đã mạn phép đem theo những thứ này." Vừa nói, anh vừa mở cái vali hai ngăn và lấy ra một miếng xốp bọt biển to trước sự kinh ngạc của tôi.

"Ha ha! Ông quả là khôi hài", viên thanh tra cười tủm tỉm.

"Giờ thì nếu ông vui lòng mở cánh cửa này thật nhẹ nhàng, chúng ta sẽ nhanh chóng chỉnh trang cho hắn có một hình hài đứng đắn hơn."

"Phải, tại sao lại không nhỉ", viên thanh tra nói. "Trông hắn không xứng đáng với nhà lao phố Bow, đúng không?" Ông ta tra chiếc chìa khóa vào ổ và chúng tôi bước vào xà lim thật nhẹ nhàng. Kẻ đang ngủ trở mình rồi lại chìm vào giấc ngủ sâu. Holmes cúi người xuống bình nước, thấm ướt miếng bọt biển rồi chùi mạnh hai lần ngang dọc trên mặt tù nhân.

"Xin được giới thiệu với các ông", anh nói to, "đây là ông Neville St. Clair ở làng Lee, hạt Kent."

Trong đời tôi chưa bao giờ được trông thấy một cảnh tượng như thế. Khuôn mặt của người đàn ông bị tróc ra dưới miếng bọt biển như một mảnh vỏ bong ra khỏi thân cây. Màu da nâu bẩn thỉu biến mất. Cả vết sẹo gớm ghiếc nổi bật vắt ngang mặt và cái môi méo tạo ra vẻ mặt đáng ghét của hắn cũng chẳng còn tăm tích! Một cú giật mạnh kéo theo mớ tóc đỏ rối bù và giờ đây, ngồi trên giường là một người đàn ông khá đẹp trai, mặt tai tái đượm buồn, mái tóc đen và làn da nhẵn nhụi đang dụi mắt và nhìn quanh phòng với vẻ ngái ngủ, hoang mang. Rồi, bất chợt nhận ra là mình đang bị quan sát, anh ta hét lên một tiếng và buông mình nằm xuống, úp mặt vào gối.

"Ôi trời!" Viên thanh tra kêu lên. "Đúng rồi, chính là người mất tích! Tôi biết mặt ông ta từ tấm ảnh."

Gã tù nhân quay đầu lại với vẻ bất cần của một kẻ đã phó mặc mình cho số phận. "Cứ cho là vậy đi", hắn nói. "Hãy cho biết tôi bị cáo buộc về tội gì nào?"

"Tội thủ tiêu ông Neville St... Ồ, khoan đã, ông không thể bị kết tội đó trừ phi họ coi đây là một vụ tự sát bất thành", ông thanh tra vừa nói vừa cười toe toét. "Ấy, tôi đã tham gia lực lượng hai mươi bảy năm nhưng đây quả là trường hợp đặc biệt."

"Nếu tôi chính là ông Neville St. Clair thì rõ ràng là tôi chẳng phạm phải tội ác nào cả và vì thế, tôi đã bị giam giữ trái phép."

"Không phạm phải tội ác nào nhưng ông đã phạm phải một lỗi lầm to lớn", Holmes nói. "Lẽ ra ông nên tin tưởng vợ mình hơn."

"Vấn đề không phải là vợ tôi mà là các con tôi", người tù rên rỉ. "Lạy Chúa xin hãy cứu giúp con, tôi không thể nào để cho chúng phải xấu hổ vì cha mình. Chúa ơi! Thật là tai tiếng! Tôi có thể làm gì đây?"

Sherlock Holmes ngồi xuống bên cạnh giường và ân cần vỗ vào vai anh ta. "Nếu để cho tòa án làm sáng tỏ vụ này", anh nói, "thì tất nhiên là ông khó mà tránh được việc phải xuất hiện trước công chúng. Ngược lại, nếu ông thuyết phục được cơ quan cảnh sát rằng không có ai kiện tụng ông thì tôi thấy chẳng có lí gì chuyện này lại đến tai báo chí. Nhưng tôi đoán chắc rằng thanh tra Bradstreet sẽ ghi chép lại tất cả những gì ông kể ra với chúng tôi và sẽ đệ trình lên các cơ quan có thẩm quyền thích đáng. Khi đó vụ này sẽ không bao giờ phải đưa ra tòa."

"Cầu Chúa phù hộ cho ông!" Người tù xúc động kêu lên. "Chẳng thà tôi chịu bị bắt giam hay thậm chí bị hành hình còn hơn là để điều bí mật khốn khổ này trở thành vết nhục gia đình cho các con tôi. Các ông là những người đầu tiên được nghe kể câu chuyện của tôi.

Cha tôi là một thầy giáo ở Chesterfield, tại đó tôi đã được tiếp nhận một nền giáo dục tuyệt vời. Khi còn trẻ, tôi thường ngao du đó đây, làm diễn viên, và cuối cùng trở thành phóng viên cho một tờ báo phát hành buổi chiều ở London. Một ngày kia, biên tập viên muốn có một loạt bài về đề tài ăn xin ở thủ đô và tôi tình nguyện cung cấp những bài báo ấy. Đó là khởi điểm cho mọi chuyến phiêu lưu của tôi. Để thu thập các dữ kiện cần thiết cho bài báo, tôi chỉ có một cách là thử ngồi xin tiền như một gã ăn mày nghiệp dư. Tất nhiên, khi còn là diễn viên, tôi đã học mọi bí quyết về hóa trang và khá nổi tiếng trong hậu trường về kĩ năng này. Thế là tôi áp dụng ngay các kiến thức đó. Tôi vẽ mặt và để làm cho mình trông đáng thương hại hết mức có thể, tôi đã tạo ra một vết sẹo và làm cho một bên môi trở nên méo mó bằng một miếng thạch cao nhỏ màu da người. Rồi với một mái tóc đỏ và bộ quần áo phù hợp, tôi ngồi ở khu thương mại của thành phố, bề ngoài làm ra vẻ là một người bán diêm nhưng thực chất là một kẻ ăn mày. Tôi hành nghề trong suốt bảy giờ và khi trở về nhà vào buổi tối, tôi rất ngạc nhiên khi thấy mình thu được không dưới hai mươi sáu shilling và bốn xu. Tôi viết mấy bài báo rồi quên dần chuyện này đi cho đến một thời gian sau, tôi phải bảo lãnh cho hóa đơn của một người bạn và bị nhận một trát đòi hai mươi lăm bảng. Đang không biết kiếm đâu ra tiền để trả thì tôi chợt nảy ra một ý tưởng. Tôi xin chủ nợ cho khất hai tuần, xin các sếp cho nghỉ phép và dành toàn bộ khoảng thời gian ấy để xin tiền ở khu City dưới lốt hóa trang. Trong mười ngày tôi đã có đủ tiền và trả dứt món nợ.

Thế đấy, các ông có thể thấy tôi đã cảm thấy khó khăn thế nào khi phải bám víu lấy một công việc nặng nhọc với mức lương hai bảng mỗi tuần trong khi tôi biết rằng mình có thể kiếm được bấy nhiêu tiền chỉ trong một ngày bằng cách bôi bẩn lên mặt, đặt cái mũ lên nền đất và ngôi yên một chỗ. Đó là cuộc đấu tranh lâu dài giữa lòng kiêu hãnh và tiền bạc, nhưng cuối cùng thì đồng crown đã chiến thắng và tôi bỏ hẳn nghề phóng viên để ra ngồi ngày này sang ngày khác ở cái góc mà tôi đã chọn ngay từ hôm đầu, khơi gợi lòng thương hại bằng bộ mặt gớm ghiếc và nhét đầy những đồng xu vào túi. Chỉ có một người biết được bí mật của tôi. Hắn là chủ của cái tiệm hút rẻ tiền mà tôi vẫn thường thuê ở hẻm Swandam; mỗi buổi sáng tôi lại xuất hiện trong điệu bộ một tên ăn mày bẩn thỉu và chiều xuống thì trở về để hóa thân thành một người ăn mặc bảnh bao dạo phố. Gã người Ấn được tôi trả tiền thuê phòng hậu hĩ vì thế tôi biết rằng bí mật của tôi sẽ được hắn giữ kín.

Chỉ một thời gian ngắn sau đó, tôi nhận ra mình đã dành dụm được một số tiền đáng kể. Tôi không có ý nói là mọi người ăn xin trên những con phố của London đều có thể kiếm được bảy trăm bảng một năm - mà chừng đó còn kém hơn mức thu nhập trung bình của tôi - nhưng tôi có những thế mạnh đặc biệt nhờ kĩ năng hóa trang và cả năng khiếu ứng đối lanh lẹ, những lợi điểm này ngày càng được cải thiện trong quá trình hành nghề và giúp tôi trở thành một nhân vật nổi bật trong khu City. Suốt cả ngày, một dòng suối tiền xu, có khi là những đồng bạc, cứ tuôn trào lên tôi và chỉ có những ngày tệ hại nhất tôi mới không kiếm đủ hai bảng.

Khi trở nên giàu có hơn thì tôi cũng có thêm nhiều tham vọng, tôi mua một căn nhà ở vùng nông thôn và cuối cùng là cưới vợ mà không bị ai nghi ngờ về nghề nghiệp thật sự của mình. Người vợ yêu dấu của tôi cho rằng tôi có một công việc kinh doanh ở khu City. Nàng không biết nhiều lắm về việc đó. Hôm thứ hai vừa rồi, khi đã kết thúc một ngày kiếm tiền và đang thay quần áo trong căn phòng nằm bên trên tiệm hút thì tôi chợt nhìn ra ngoài cửa sổ và với sự kinh hoàng pha lẫn ngạc nhiên, tôi trông thấy vợ tôi đang đứng bên kia đường và chăm chú nhìn về phía tôi. Tôi thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc rồi đưa tay lên che mặt và chạy vội đến chỗ người thân tín của mình, gã Ấn, để khẩn khoản nhờ hắn ngăn không cho bất cứ ai lên gặp tôi. Tôi nghe tiếng vợ mình dưới chân cầu thang nhưng tôi biết rằng nàng sẽ không thể lên được. Tôi bèn nhanh chóng cởi bỏ y phục và thay sang bộ quần áo ăn mày, vẽ màu lên mặt và đội bộ tóc giả lên. Ngay cả vợ tôi cũng bị lớp hóa trang hoàn hảo ấy qua mắt. Nhưng rồi tôi chợt nghĩ rằng người ta có thể sẽ lục soát căn phòng và mớ quần áo sẽ tố cáo tôi. Tôi bèn mở tung cửa sổ và do mạnh tay quá nên vết đứt tay ban sáng trong phòng ngủ lại bị toác ra. Rồi tôi chụp lấy cái áo khoác đã được dằn nặng bằng những đồng xu mà tôi vừa mới cho vào túi áo từ chiếc túi da đựng số tiền mình kiếm được trong ngày. Tôi ném mạnh chiếc áo qua cửa sổ và nó biến mất dưới dòng sông Thames. Những món quần áo khác cũng sắp sửa được ném theo thì ngay lúc đó có tiếng mấy tay cảnh sát hối hả chạy lên cầu thang và phải thú nhận rằng tôi nhẹ hẳn người khi không bị nhận diện là ông Neville St. Clair mà lại bị bắt giam vì tình nghi là đã sát hại ông ta. Tôi không biết phải giải thích gì thêm nữa. Tôi đã quyết định sẽ duy trì lớp hóa trang càng lâu càng tốt, vì thế mới giữ mãi bộ mặt dơ bẩn. Vì biết rằng vợ tôi sẽ vô cùng lo lắng, tôi đã nhân lúc cảnh sát không để ý, cởi chiếc nhẫn ra và trao cho gã Ấn kèm theo vài dòng chữ nguệch ngoạc cho nàng biết là không có gì đáng lo cả."

"Bức thư đó mới đến tay bà nhà hôm qua", Holmes nói.

"Trời ơi! Nàng đã phải lo sợ suốt cả tuần!"

"Vì cảnh sát theo dõi tên Ấn", thanh tra Bradstreet giải thích, "nên cũng dễ hiểu là hắn khó lòng gửi được lá thư đó mà không bị để ý. Có thể hắn đã giao nó cho một thủy thủ nào đó là khách hàng của hắn và gã này đã quên phắt lá thư mất mấy ngày."

"Đúng thế", Holmes nói và gật đầu tán thành. "Tôi không nghi ngờ gì về việc đó. Nhưng đã có khi nào ông bị phạt vì hành nghề ăn xin chưa?"

"Đã nhiều lần rồi, nhưng phạt thì có nghĩa lí gì đối với tôi?"

"Nhưng giờ thì phải chấm dứt ngay", ông Bradstreet nói. "Nếu muốn để cảnh sát bỏ qua chuyện này thì cái tên Hugh Boone phải biến mất nghe chưa?"

"Tôi xin thề bằng những lời thề trang trọng nhất mà một người có thể viện dẫn."

"Nếu thế thì tôi cho rằng không còn việc gì phải làm nữa. Nhưng nếu ông để mình bị phát hiện thêm một lần nữa thì mọi chuyện sẽ bị phanh phui. Ông Holmes này, quả thật là chúng tôi rất biết ơn ông vì đã làm sáng tỏ vụ án này. Ước gì tôi biết được bằng cách nào mà ông đạt được kết quả ấy."

"Tôi đạt được kết quả là nhờ", anh bạn tôi đáp, "ngồi lên năm cái gối và hút hết cả một ounce thuốc lá. Này Watson, tôi cho là nếu khởi hành tới phố Baker ngay thì chúng ta có thể về kịp để ăn điểm tâm đấy."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro