CON CHÓ CỦA DÒNG HỌ BASKERVILLE (THE HOUND OF THE BASKERVILLES, 1902)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1. Ông Sherlock Holmes

Sherlock Holmes thường ngủ dậy rất muộn trừ những lúc họa hoằn thức trắng đêm, vậy mà sáng hôm ấy anh đã ngồi ở bàn điểm tâm khi tôi bước vào phòng khách. Tôi đứng lại trên tấm thảm và nhặt lên cây gậy mà vị khách nào đến đêm trước đã bỏ lại. Đó là một cây gậy đẹp bằng gỗ dày, đầu trên phình tròn ra, kiểu gậy Penang. Ngay dưới cán gậy là một dải băng rộng gần một inch bằng bạc. Bên trên có khắc dòng chữ Tặng James Mortimer, MRCS, từ những người bạn ở CCH, cùng với số năm 1884. Đó đúng là loại gậy mà một bác sĩ gia đình cổ hủ thường dùng - đàng hoàng, chắc chắn và đáng tin cậy.

"Watson đấy à, anh nghĩ sao về cái gậy?"

Holmes đang ngồi quay lưng với tôi, và tôi cũng không để lộ cho anh biết mình vừa làm gì.

"Làm sao anh biết tôi đang xem cái gậy? Anh có mắt sau gáy hả?"

"Chí ít là ngay trước mặt tôi có một bình cà phê vỏ bạc bóng loáng", anh nói. "Nhưng này, Watson, anh nghĩ gì về cái gậy của vị khách đã đến nhà ta? Do chúng ta chẳng may không gặp được vị khách và không biết người đó đến đây vì việc gì, nên cái kỉ vật tình cờ này lại đâm ra quan trọng. Hãy cho tôi biết sau khi xem xét cây gậy, anh đoán chủ nhân của nó là người thế nào."

Cố gắng làm theo đúng các phương pháp của bạn mình, tôi nói, "Qua mấy chữ tắt MRCS tôi biết ông Mortimer này là bác sĩ. Một bác sĩ đứng tuổi, thành đạt, được kính trọng vì những người quen biết ông ta đã tặng cái gậy này để tỏ lòng cảm kích."

"Hay!" Holmes nói. "Xuất sắc!"

"Tôi cũng nghĩ có nhiều khả năng ông ta là bác sĩ ở vùng quê nên thường xuyên đi bộ đến nhà bệnh nhân."

"Tại sao chứ?"

"Vì cây gậy này, ban đầu vốn rất đẹp, nhưng lại bị va đập nhiều tới mức tôi khó mà cho rằng nó là của một bác sĩ ở thành phố. Vỏ sắt dày bịt mũi gậy đã mòn nhẵn, nên rõ ràng là người này đã chống gậy đi bộ rất nhiều."

"Hết sức có lí!" Holmes nói.

"Thêm nữa, còn mấy chữ 'những người bạn ở CCH!' Tôi đoán HHunt, chắc là một hội săn bắn địa phương nào đó, có lẽ các hội viên đã được ông bác sĩ chữa trị và vì thế họ tặng ông ta món quà nhỏ này để đền đáp."

"Quả là xuất sắc vượt bậc, Watson ơi", Holmes đẩy lùi ghế ra sau và châm một điếu thuốc. "Tôi buộc phải nói rằng trong mọi câu chuyện mà anh đã có lòng tốt viết về những thành tích nhỏ bé của tôi, anh có thói quen đánh giá thấp năng lực của chính mình. Có thể bản thân anh không tỏa sáng nhưng anh chính là chất truyền dẫn ánh sáng. Có người tuy không được trời phú tài năng nhưng lại có năng lực kích thích tài năng. Anh bạn thân mến ơi, xin thề là tôi mang nợ anh rất nhiều."

Chưa bao giờ tôi nghe Holmes nói nhiệt tình đến thế và phải thú nhận là những lời ấy khiến tôi hể hả lắm, bởi tôi vẫn hay ấm ức chuyện anh cứ dửng dưng trước sự ngưỡng mộ của tôi và những việc tôi đã dốc sức làm để quảng bá các phương pháp của anh. Tôi cũng hãnh diện khi thấy mình đã thông thạo các phương pháp này đủ để vận dụng theo một cách nào đó khiến anh hài lòng. Bấy giờ anh đón cây gậy từ tay tôi và xem xét bằng mắt thường mất vài phút. Rồi với nét mặt thích thú, anh đặt điếu thuốc xuống, mang cây gậy ra phía cửa sổ và lấy thấu kính ra săm soi lần nữa.

"Đơn giản nhưng thú vị", anh nói khi quay lại chỗ ngồi ưa thích ở góc trường kỉ. "Trên cây gậy chắc chắn có một vài dấu hiệu. Đó là cơ sở cho chúng ta suy luận."

"Tôi có bỏ sót gì không?" Tôi hỏi với vẻ ta đây. "Chắc tôi không bỏ sót một chi tiết quan trọng nào đấy chứ?"

"Watson ơi, tôi e là phần lớn các kết luận của anh đều sai lầm. Khi tôi nói anh đã kích thích tôi thì thật tình ý tôi là: Nhờ nhận ra những lập luận sai lầm của anh mà có khi tôi đi đến giả thuyết đúng. Trong trường hợp này anh không hoàn toàn sai. Người này chắc chắn là một bác sĩ vùng quê. Và ông ta đi bộ rất nhiều."

"Thế thì tôi đúng."

"Tới đó thôi."

"Nhưng còn gì nữa đâu."

"Không, không, Watson ơi, đâu chỉ có thế... mà còn nhiều nữa. Chẳng hạn, tôi có thể đưa giả thuyết rằng món quà dành cho một bác sĩ dễ thường là do người ở bệnh viện tặng chứ không phải hội săn bắn. Nếu coi chữ H này là Hospital thì hai chữ tất CC đằng trước khiến tôi nghĩ ngay đến tên bệnh viện Charing Cross."

"Có thể là anh đúng."

"Xác suất cao thiên về hướng đó. Và nếu chấp nhận giả thuyết này thì ta lại có cơ sở mới để bắt đầu hình dung ra vị khách không quen biết này."

"À, thì cứ cho rằng CCH là viết tắt của Charing Cross Hospital đi, ta suy luận được gì thêm nữa nào?"

"Bản thân mấy chữ đó không gợi ra điều gì sao? Anh biết phương pháp của tôi rồi. Thử áp dụng đi!"

"Tôi chỉ có thể nghĩ đến một kết luận hiển nhiên là người này đã hành nghề ở thành phố trước khi về vùng quê."

"Tôi nghĩ chúng ta có thể đánh bạo mà suy luận xa hơn thế một chút. Hãy xem xét theo hướng này. Một món quà như thế nhiều khả năng sẽ được tặng vào dịp nào? Khi nào các bằng hữu chung tay tặng ông ta một kỉ vật chứng tỏ thiện cảm như thế? Rõ ràng là dịp bác sĩ Mortimer dừng công tác ở bệnh viện để bắt đâu hành nghề tư. Chúng ta biết đã có một món quà. Chúng ta tin rằng người này đã chuyển từ một bệnh viện thành phố về vùng quê hành nghề. Vậy nếu ta cho rằng món quà này đã được tặng nhân dịp đó thì cũng đâu phải là suy luận quá xa?"

"Đúng là rất có khả năng đó."

"Đấy, anh sẽ nhận ra ông ta không thể nào ở trong đội ngũ cốt cán của bệnh viện được, vì chỉ có ai đã đứng vững trong nghề ở London mới có thể giữ một vị trí như thế, và một người như thế thì ai lại muốn về vùng quê. Vậy người này có vai trò gì? Nếu đã làm việc trong bệnh viện mà không phải bác sĩ cốt cán thì chỉ có thể là bác sĩ nội trú - tức là chỉ hơn sinh viên y khoa năm cuối một chút. Và ông ta đã rời khỏi đó cách đây năm năm, theo số khắc trên cây gậy. Như vậy ông bác sĩ gia đình tuổi trung niên của anh biến mất tiêu, anh Watson thân mến, và hiện ra một anh chàng tuổi dưới ba mươi, dễ mến, không tham vọng, đãng trí, và có một con chó cưng mà tôi có thể mô tả đại khái là lớn hơn giống terrier và nhỏ hơn giống mastiff."

Tôi bật cười tỏ vẻ hoài nghi trong khi Sherlock Holmes ngả người ra trường kỉ và phả mấy vòng khói chập chờn lên trần nhà.

"Về phần sau thì tôi không có cách nào để kiểm chứng những gì anh bảo", tôi nói, "nhưng muốn tìm hiểu đôi điều về sự nghiệp và tuổi tác của người này thì không đến nỗi khó." Tôi lấy cuốn Danh bạ Y khoa trên kệ sách nhỏ chứa sách chuyên môn của mình xuống và tra tìm cái tên đó. Có vài người họ Mortimer nhưng chỉ có một người có thể là vị khách của chúng tôi. Tôi đọc to lí lịch của anh ta:

Mortimer, James, MRCS, 1882, Grimpen, Dartmoor, Devon. Bác sĩ ngoại khoa nội trú, từ 1882 đến 1884, ở Charing Cross Hospital. Đạt giải thường Jackson về Bệnh lí học so sánh, với luận văn có nhan đề 'Bệnh tật có di truyền không?' Hội viên danh dự Hội Bệnh lí học Thụy Điển. Tác giả các bài viết 'Một số biến dị có tính di truyền' (Tạp chí Lancet, 1882), 'Chúng ta có tiến bộ không?' (Chuyên san Psychology, tháng 3/1883). Nhân viên y tế phụ trách các giáo phận Grimpen, Thorsley, và High Barrow.

"Không hề có hội săn bắn địa phương nào cả, Watson à", Holmes nói, kèm một nụ cười láu lỉnh, "nhưng có một bác sĩ vùng quê, đúng như nhận xét rất chính xác của anh. Tôi nghĩ là những suy luận của tôi đã được chứng minh rồi đó. Còn về các tính từ, nếu tôi nhớ không lầm thì tôi đã nói là dễ mến, không tham vọng, và đãng trí. Theo kinh nghiệm của tôi, chỉ những người dễ mến trên đời này mới được nhận những quà tặng như thế, chỉ có người không tham vọng mới từ bỏ sự nghiệp ở London để về vùng quê, và chỉ có người đãng trí mới bỏ quên cây gậy mà không lưu lại danh thiếp của mình sau khi đã chờ đợi trong phòng người ta cả tiếng đồng hồ."

"Còn con chó?"

"Nó có thói quen mang cây gậy theo sau ông chủ. Cây gậy này nặng nên nó phải cắn chặt ngay chính giữa, và các dấu răng của nó rất rõ. Theo khoảng cách giữa các vết răng, tôi cho rằng nếu là giống chó săn nhỏ terrier thì hàm con chó này quá lớn, còn nếu là giống chó mastiff giữ nhà thì lại quá nhỏ. Đây có thể là... A, đúng rồi, đích thị là một con chó spaniel lông xoăn."

Anh đã đứng dậy và đi qua đi lại trong khi nói. Đúng lúc ấy thì anh dừng bước bên ô cửa sổ. Giọng anh có vẻ ăn chắc tới mức tôi phải ngạc nhiên ngước nhìn.

"Anh bạn ơi, sao anh có thể đoán chắc như vậy được?"

"Vì một lí do hết sức đơn giản là tôi nhìn thấy chính con chó đó ngay ngưỡng cửa nhà mình, và đây là tiếng nhấn chuông của người chủ. Cứ ở đó, xin anh, Watson. Người này là đồng nghiệp với anh, nên sự có mặt của anh biết đâu lại có ích cho tôi. Bây giờ là khoảnh khắc kịch tính của định mệnh đó, Watson, khi anh nghe trên cầu thang có tiếng bước chân đang đi thẳng vào cuộc đời anh mà không hề biết là lành hay dữ. Ông bác sĩ James Mortimer, con người của khoa học kia, cần gì ở chuyên gia tội phạm Sherlock Holmes này? Xin mời vào!"

Bề ngoài của vị khách khiến tôi ngạc nhiên bởi tôi đã dự kiến sẽ gặp một bác sĩ vùng quê điển hình. Người này gầy ốm, rất cao, mũi dài và khoằm nhô ra giữa hai con mắt xám sắc sảo, nằm sát nhau và ánh ngời lên đằng sau cặp mắt kính gọng vàng. Anh ta ăn mặc đúng kiểu bác sĩ nhưng khá luộm thuộm vì áo măng tô trông bẩn thỉu còn quần đã sờn cũ. Dù còn trẻ, cái lưng dài của anh ta đã khòm, khi đi anh ta chúi đầu ra phía trước và dáng điệu toát lên vẻ chăm chú hiền lành. Vừa bước vào anh ta đã đưa mắt nhìn cây gậy trên tay Holmes và chạy ào tới, đồng thời reo lên mừng rỡ.

"May quá", anh ta nói. "Tôi không chắc là mình đã bỏ quên nó ở đây hay ở Văn phòng Vận tải. Không đời nào tôi chịu mất cây gậy này."

"Một tặng vật, phải không?" Holmes nói.

"Vâng, thưa ông."

"Của bệnh viện Charing Cross?"

"Của mấy người bạn ở đó tặng nhân dịp đám cưới tôi."

"Chà, chà, thật tệ!" Holmes vừa nói vừa lắc đầu.

"Sao lại tệ chứ?" Bác sĩ Mortimer chớp mắt nhìn qua cặp kính, có phần sửng sốt.

"Chẳng là ông vừa đảo lộn những suy luận lặt vặt của chúng tôi ấy mà. Ông vừa nói đám cưới, phải vậy không?"

"Vâng, thưa ông. Tôi đã lập gia đình nên rời bệnh viện, và từ bỏ luôn mọi hi vọng hành nghề tham vấn. Tôi cũng cần xây dựng gia đình riêng chứ."

"Không sao, không sao, chúng tôi suy luận cũng không sai gì mấy đâu", Holmes nói. "Thế thì bác sĩ Mortimer..."

"Ồ, đừng gọi là bác sĩ, thưa ông... chỉ là MRCS thôi."

"Và là một người có tư duy chính xác, hiển nhiên rồi."

"Một kẻ học đòi khoa học, thưa ông Holmes, kẻ nhặt nhạnh những vỏ sò bên bờ đại dương bao la của những điều chưa biết tới. Chắc là tôi đang thưa chuyện với ông Sherlock Holmes chứ không phải với..."

"Đúng rồi, còn anh bạn tôi đây là bác sĩ Watson."

"Hân hạnh được gặp ông, thưa ông. Tôi đã nghe tên ông đi kèm với danh tiếng của bạn ông. Thưa ông Holmes, ông quả thật đã khiến tôi hết sức chú ý. Tôi thật không ngờ lại được thấy một cái sọ dài hay vùng trên ổ mắt nổi rõ như thế. Ông có phản đối không nếu tôi dùng ngón tay lần theo đường khớp dọc xương đỉnh của ông? Thưa ông, chừng nào chưa có được vật nguyên mẫu thì một mô hình đúc khuôn theo sọ của ông sẽ là niềm vinh dự cho bất kì bảo tàng nhân chủng học nào. Tôi không có ý tỏ ra thất thố, nhưng thú thật là tôi thèm muốn cái sọ của ông."

Sherlock Holmes khoát tay về phía chiếc ghế, mời người khách lạ ngồi, "tôi thấy ông quả là người say sưa với mạch tư tưởng của mình, thưa ông, cũng giống như tôi vậy", anh nói. "Nhìn ngón trỏ của ông là tôi biết ông thích hút thuốc vấn. Xin cứ hút, đừng có ngại."

Người khách rút ra một mẩu giấy, ít thuốc lá sợi và cuộn thành một điếu với thao tác thuần thục đáng ngạc nhiên. Những ngón tay dài, run run của anh ta vừa lẹ làng vừa máy động không ngừng như những sợi râu của một con côn trùng. Holmes im lặng nhưng những cái liếc mắt rất nhanh của anh cho tôi thấy sự quan tâm dành cho vị khách hiếu kì này. Cuối cùng anh lên tiếng, "Thưa ông, chắc ông đã quá bộ đến đây tối qua và bây giờ không chỉ vì mục đích xem xét hộp sọ của tôi đấy chứ?"

"Không đâu, thưa ông, mặc dù tôi rất vui vì đã có cơ hội làm việc đó. Tôi đến gặp ông, ông Holmes, vì tôi tự biết mình là người thiếu thực tiễn và vì tôi bất ngờ phải đương đầu với một vấn đề hết sức dị thường và nghiêm trọng. Khi tôi nhận ra ông là chuyên gia giỏi thứ nhì Âu châu này..."

"Không sai, thưa ông! Cho phép tôi được biết ai hân hạnh là người giỏi nhất ạ?" Holmes hỏi có phần khó chịu.

"Với một người có đầu óc khoa học chính xác thì công trình của Monsieur Bertillon hẳn là phải gây chú ý mạnh mẽ."

"Vậy thì nhờ ông ta tư vấn có phải tốt hơn không?"

"Thưa ông, tôi đã nói là với một người có đầu óc khoa học chính xác mà. Nhưng về thực tiễn thì phải thừa nhận là không ai bằng ông. Thưa ông, không lẽ tôi vừa vô ý..."

"Có chút xíu thôi", Holmes nói. "Bác sĩ Mortimer này, tôi nghĩ tốt nhất là ông không nên rườm rà nữa mà hãy vui lòng nói thẳng vào bản chất đích xác của vấn đề mà ông cần tôi giúp đỡ."

2. Lời nguyền dòng họ Baskerville

"Trong túi tôi đây có một văn bản", bác sĩ James Mortimer nói.

"Tôi đã để ý thấy khi ông bước vào phòng", Holmes nói. "Đó là một bản viết tay lâu đời. Từ đầu thế kỉ mười tám, trừ phi đó là giả mạo."

"Làm sao ông biết được, thưa ông?"

"Suốt thời gian ông nói chuyện nãy giờ, ông đã để nó thòi ra chừng một, hai inch nên tôi đã kịp xem xét. Xem một văn bản mà không xác định được niên đại với sai số xấp xỉ mười năm thì hẳn là một chuyên gia kém cỏi. Có thể ông đã đọc chuyên khảo của tôi về đề tài này. Tôi ước chừng tài liệu đó có từ năm 1730."

"Năm chính xác là 1742", bác sĩ James Mortimer rút tờ giấy trong túi áo trước ngực ra. "Ngài Charles Baskerville đã trao cho tôi giữ gìn văn bản của dòng họ này; cái chết bi thảm đột ngột của ngài cách đây chừng ba tháng đã làm xôn xao cả vùng Devonshire. Có thể nói tôi vừa là bạn thân vừa là người chăm sóc sức khỏe của ngài. Thưa ông, ngài Charles là người kiên quyết, khôn ngoan, thực tế, và không giàu óc tưởng tượng như tôi đây. Thế mà ngài lại coi trọng văn bản này hết sức, và trong thâm tâm đã chuẩn bị đón nhận một kết cục đúng như những gì đã xảy đến trong thực tế."

Holmes đón lấy tờ giấy viết tay và đặt trên đầu gối, vuốt cho phẳng.

"Này Watson, anh nhìn xem cách viết chữ s dài xen kẽ với chữ s ngắn này. Đó là một trong nhiều dấu hiệu đã giúp tôi xác định niên đại."

Qua vai anh, tôi nhìn vào tờ giấy cũ vàng và những chữ viết đã phai mờ. Đầu trang giấy ghi: Lâu đài Baskervill, và bên dưới là mấy chữ số lớn, nguệch ngoạc: 1742.

"Trông như một văn bản xác nhận."

"Đúng, đó là văn bản xác nhận một truyền thuyết lưu truyền trong dòng họ Baskerville."

"Nhưng tôi cứ tưởng là ông cần tôi tư vấn về chuyện gì mới mẻ và thực tế hơn chứ?"

"Hết sức mới mẻ. Một vấn đề hết sức cấp bách, thực tế, cần phải quyết định trong vòng hai mươi bốn giờ. Nhưng văn bản này ngắn và có liên quan mật thiết với sự việc đó. Tôi xin phép đọc cho quý vị nghe."

Holmes ngả lưng ra ghế, chụm các đầu ngón tay vào nhau, và nhắm mắt lại với vẻ nhẫn nại. Bác sĩ Mortimer xoay tờ giấy về phía ánh sáng rồi bằng giọng sang sảng, rành mạch, anh ta đọc câu chuyện lạ lùng, xa xưa sau đây:

Chuyện về nguồn gốc con chó của dòng họ Baskerville đến nay đã có nhiều dị bản, nhưng vì ta là hậu duệ trực hệ từ đời Hugo Baskerville, và vì ta đã nghe chuyện này từ thân phụ, người lại được nghe từ đấng nghiêm đường, ta ghi thành di văn này với lòng tin hoàn toàn rằng chuyện đã xảy ra đúng như ta chấp bút ở đây. Này các con trai, ta mong các con tin rằng Công Lí trừng phạt tội lỗi nhưng cũng có thể độ lượng khoan hồng cho tội lỗi, rằng không có lời nguyền nào nặng nề đến độ không rửa sạch được bằng nguyện cầu và ăn năn. Hãy ghi nhớ chuyện này không phải để sợ hãi những hậu quả của quá khứ, mà là để cẩn trọng trong tương lai, để những mê cuồng tai ác đã khiến dòng họ này khổ đau khôn xiết sẽ không còn được buông thả mà hủy hoại chúng ta nữa.

Chuyện kể rằng vào thời Đại Phiến Loạn (thời này đã được Chúa công Clarendon thông thái viết thành pho sử kí mà ta mong mỏi các con sẽ quan tâm), thái ấp Baskerville này thuộc về một người cũng mang tên Hugo trong dòng họ, và đó rành rành là một kẻ ngông cuồng, vô đạo, báng bổ thần thánh. Láng giềng của hắn có lẽ đã miễn thứ điều này vì vùng đất này chưa hề sinh ra vị thánh nào, nhưng tính khí độc ác và phóng đãng đã khiến hắn khét tiếng khắp miền Tây. Run rủi sao tên Hugo này lại đem lòng yêu (nếu quả thực có thể gọi sự si mê đen tối dường ấy bằng một cái tên tươi sáng dường ấy) con gái một điền chủ có ruộng đất gần kề địa phận Baskerville. Song thiếu nữ kia, vốn ý tứ và tiết hạnh, luôn né tránh vì nàng sợ hãi tai tiếng của hắn. Thế rồi vào một ngày lễ Michaelmas, biết rõ cha và các anh của cô gái vắng nhà, gã Hugo này cùng năm, sáu bằng hữu ác ôn và lêu lổng lẻn xuống điền trang kia bắt cóc nàng đi. Chúng đưa nàng về lâu đài và khóa chặt trong một phòng trên lầu, trong lúc Hugo và bè bạn ngồi vào bàn chè chén như thường lệ. Lúc ấy, người thiếu nữ đáng thương trên lầu hẳn phải hãi hùng vì tiếng ca hát, hò hét và những tràng chửi thề kinh khiếp từ dưới nhà vọng lên, bởi thiên hạ bảo rằng khi rượu vào thì Hugo Baskerville buông ra toàn những lời tội vạ. Cuối cùng trong cơn khiếp đảm, nàng đã làm điều mà ngay cả một nam tử can trường hay khỏe mạnh nhất cũng phải e dè. Nhờ bám víu vào đám dây leo thường xuân phủ trên bức tường phía nam (mà nay vẫn còn đó), nàng leo từ mái nhà xuống đất và băng qua truông theo hướng về nhà, tức điền trang của cha nàng cách lâu đài ba dặm lí.

Một lúc sau, Hugo bỗng dưng rời bỏ khách khứa đem thức uống - có lẽ cả những điều tồi tệ hơn - lên cho tù nhân của hắn thì thấy chiếc lồng trống không, còn con chim đã bay thoát. Thấy vậy hắn như phát cuồng liền nhào xuống cầu thang lao vào phòng, nhảy phắt lên chiếc bàn lớn, đá văng hết chai lọ, chén bát, và gào thét trước đám bạn bè rằng đêm nay nếu không đuổi bắt được cô thôn nữ này thì hắn sẽ dâng cả hồn lẫn xác cho quỷ dữ. Và trong khi đám trác táng kia còn đang sửng sốt trước cơn thịnh nộ của hắn, một tên độc ác hơn cả, hoặc say hơn cả, bèn thét bảo mọi người nên thả đàn chó săn ra truy đuổi cô gái. Nghe thế Hugo chạy ra khỏi nhà, quát tháo đám mã phu thắng yên cương cho ngựa của hắn và mở chuồng thả đàn chó ra. Cho bầy chó săn đánh hơi chiếc khăn tay của cô gái xong hắn xua chúng đi, thế là cả đàn sủa vang phóng qua truông dưới ánh trăng.

Bấy giờ, đám trác táng kia đứng há hốc mồm ra một lúc, khó hiểu chuyện gì đã diễn ra gấp gáp đến vậy. Nhưng rồi đầu óc mê muội của chúng cũng nhận ra bản chất của hành động sắp diễn ra trên truông. Mọi thứ liền náo loạn cả lên, người đòi súng, kẻ cần ngựa, đứa khác lại muốn thêm ve rượu. Nhưng cuối cùng khi tâm thần bấn loạn đã phần nào trấn tỉnh lại, cả bọn mười ba tên bắt đầu lên ngựa đuổi theo. Dưới ánh trăng sáng vằng vặc, bọn chúng dàn hàng ngang quất ngựa phi nhanh, truy theo con đường người thiếu nữ ấy phải đi nếu muốn về nhà. Chúng đi được chừng một, hai dặm thì gặp một người chăn cừu ban đêm trên truông và quát tháo hỏi xem người này có nhìn thấy đoàn săn đi trước không. Chuyện kể lại rằng người chăn cừu sợ khiếp vía đến độ nói chẳng nên lời, nhưng rốt cuộc cũng cho biết ông ta đã thấy người thiếu nữ bất hạnh bị đàn chó săn theo dấu. Ông ta nói: "Nhưng chưa hết, tôi còn thấy Hugo Baskerville cưỡi con hắc mã băng qua, đằng sau là một con quỷ chó của địa ngục âm thầm chạy theo, lạy Chúa phù hộ cho con dừng bao giờ bị nó bám gót." Nghe thế đám điền chủ bét nhè kia chửi rủa người chăn cừu rồi phóng ngựa đi tiếp. Nhưng ngay sau đó, bọn chúng cũng sởn gai ốc khi nghe tiếng vó câu phi nước đại trên truông rồi thấy một con ngựa đen, mõm sùi bọt trắng phóng qua, dây cương kéo lê còn yên ngựa thì trống. Sau đó đám trác táng kia cưỡi ngựa nép sát vào nhau vì cả bọn đều khiếp đảm, nhưng chúng vẫn đi tiếp qua truông, giá thử chỉ có một mình thì chắc đứa nào cũng chỉ chực quay đầu ngựa trở lui. Cứ cưỡi ngựa chầm chậm như thế, cuối cùng chúng cũng gặp bầy chó săn. Bầy chó toàn những con thuần chủng nổi tiếng dũng mãnh, thế mà lúc này lại xúm xít rên rỉ bên một bờ dốc trũng trên truông, con thì muốn lỉnh đi, con thì xù lông căng mắt nhìn xuống đáy trũng trước mặt.

Đám người kia dừng ngựa, như các con có thể đoán biết, cả lũ đã tỉnh táo hơn lúc xuất phát. Chẳng đứa nào chịu tiến xa thêm, ngoại trừ ba tên bạo gan nhất, hoặc có lẽ là say rượu nhất trong đám, tiếp tục cưỡi ngựa lần xuống triền đất trũng. Nơi triền dốc mở ra thành một vạt rộng có hai tảng đá lớn, nay vẫn còn sừng sững mà cổ nhân đã dựng ở đó từ thuở nào. Trăng soi vằng vặc trên trảng đất trống và ngay chính giữa là người thiếu nữ bất hạnh nằm im lìm nơi đã sa chân, nàng đã chết vì hãi hùng và kiệt quệ. Song không phải xác nàng cũng không phải xác Hugo Baskerville nằm kế bên, khiến ba kẻ chè chén bạt mạng kia dựng tóc gáy, mà chính là cảnh tượng một con thú đen sì, to lớn, hình thù như con chó săn nhưng lớn hơn bất cứ con chó săn nào mà mắt phàm từng thấy, đang chỗm lên xác Hugo, mà cắn xé cuống họng hắn ta. Bọn kia đứng nhìn con quái vật cắn đứt lìa cổ Hugo Baskerville, rồi khi thấy nó ngoảnh lại, mắt đỏ rực, hàm răng nhễu máu thì cả ba thét lên kinh hoàng phi ngựa trối chết, vừa chạy vừa gào rú vượt qua truông. Nghe nói một tên đã chết ngay trong đêm đó vì quá kinh hãi những gì đã chứng kiến, hai tên kia suy sụp tinh thần đến hết đời.

Hỡi các con trai của ta, đó là sự tích con quỷ chó hiện hình, tương truyền đã gieo tai họa vô cùng ác nghiệt cho dòng họ này kể từ đấy. Ta ghi lại thành di văn này bởi vì điều gì được biết rõ thì đỡ gây khiếp sợ hơn là chỉ nghe lời bóng gió hay phỏng đoán. Không thể phủ nhận rằng nhiều người trong dòng họ này đã chết bất hạnh - cái chết đột ngột, đẫm máu và bí ẩn. Thế nhưng chúng ta hãy trông cậy rằng ân đức vô bờ của Thượng Đế sẽ không trừng phạt mãi mãi những kẻ vô tội sau ba hay bốn thế hệ như Thánh Kinh đã răn đe. Hỡi các con trai, bằng di văn này ta phó thác các con cho đấng Thượng Đế ấy, và ta khuyên các con hãy cẩn trọng mà đừng băng qua truông vào những giờ tăm tối khi quyền lực của quỷ dữ dâng cao.

{Hugo Baskerville chấp bút gửi các con trai Rodger và John, với huấn thị không được nói gì với em gái Elizabeth.}

Khi bác sĩ Mortimer đọc xong câu chuyện dị thường này, anh ta đẩy kính lên trán rồi chăm chú nhìn Sherlock Holmes. Nhà thám tử ngáp dài và thảy mẩu thuốc lá còn lại vào lò sưởi.

"Rồi sao?" Anh hỏi.

"Ông không thấy chuyện này đáng quan tâm ư?"

"Đối với người sưu tầm truyện cổ tích thì đáng đấy."

Bác sĩ Mortimer rút trong túi ra một tờ nhật báo đã gập lại.

"Vậy thì thưa ông Holmes, xin trình bày với ông một chuyện xảy ra gần đây hơn. Đây là nhật báo Devon County Chronicle số ra ngày 14 tháng 5 năm nay. Trong này có thuật vắn tắt những dữ kiện được suy luận từ cái chết của ngài Charles Baskerville xảy ra trước đó vài ngày."

Anh bạn tôi hơi nhỏm ra trước và nét mặt trở nên chăm chú. Vị khách của chúng tôi chỉnh lại kính rồi bắt đầu đọc:

Sự ra đi đột ngột của ngài Charles Baskerville, thường được nhắc đến với tư cách ứng viên đảng Tự Do có nhiều khả năng đắc cử ở vùng Trung Devon trong cuộc tuyển cử tới, đã gây ra không khí đau buồn bao trùm toàn địa hạt. Tuy ngài Charles cư ngụ ở lâu đài Baskerville chưa lâu, song tính cách hòa nhã và rộng lượng hết mực của ngài đã chiếm được cảm tình và sự kính trọng của bất cứ ai có dịp tiếp xúc. Trong thời buổi tầng lớp giàu xổi đang lên, quả là đáng mừng khi biết một dòng họ lâu đời trong hạt đã có thời suy vi do tai ương bây giờ lại có con cháu gây dựng được sản nghiệp và quay về khôi phục lại vinh quang gia tộc. Như mọi người đều biết, ngài Charles đã kiếm được những khoản tiền lớn nhờ đầu tư ở Nam Phi. Không lao theo thời cơ cho đến khi vận may đảo chiều, ngài đã sáng suốt chuyển hết những khoản thu được thành hiện kim và mang về Anh quốc. Ngài Charles mới về cư ngụ ở lâu đài Baskerville từ hai năm trước, vậy mà dư luận đã bàn tán về những kế hoạch tái thiết và cải tổ lớn lao của ngài, tuy giờ đây tất cả đã phải tạm ngưng sau khi ngài qua đời. Vì không có con cái, sinh thời ngài Charles từng công khai ý nguyện chừng nào còn sống ngài sẽ làm cho cả vùng nông thôn này được hưởng lợi từ sản nghiệp của mình, do đó mà nhiều người còn có lí do riêng để thương tiếc nhà quý tộc đã sớm ra đi. Những khoản quyên góp hào phóng của ngài cho các hội từ thiện trong vùng đã thường xuyên được đưa tin trên bổn báo.

Cuộc điều tra về cái chết của ngài Charles tuy chưa làm sáng tỏ hoàn toàn các sự việc có liên quan, nhưng ít nhất cũng đã xua tan những tin đồn có nguồn gốc mê tín dị đoan. Không có lí do gì để hồ nghi trong vụ này có âm mưu tội ác, hoặc cho rằng cái chết có nguyên nhân phi tự nhiên. Ngài Charles góa vợ, và có thể nói rằng lối suy nghĩ của ngài hơi lập dị. Tuy giàu có, ngài vẫn sống theo sở thích riêng và gia nhân của ngài ở lâu đài Baskerville chỉ có hai vợ chồng Barrymore, người chồng làm quản gia, còn người vợ lo việc nội trợ. Theo lời khai của họ, mà nhiều bằng hữu đã chứng thực, sức khỏe của ngài Charles gần đây đã suy yếu, và nhất là có liên quan đến bệnh tim, với những biểu hiện như sắc da thay đổi, khó thở và những đợt suy nhược thần kinh trầm trọng. Bác sĩ James Mortimer, bạn kiêm bác sĩ của người quá cố, cũng có lời khai tương tự.

Các tình tiết trong vụ này rất đơn giản. Hằng đêm trước khi đi ngủ, ngài Charles có lệ đi bách bộ trên con đường trồng cây thủy tùng nổi tiếng của lâu đài Baskerville. Vợ chồng Barrymore đã làm chứng rằng đó là thói quen của ngài. Hôm mùng 4 tháng 5, ngài Charles tuyên bố sẽ lên đường đi London vào ngày hôm sau và đã lệnh cho Barrymore chuẩn bị hành trang. Hôm ấy ngài ra ngoài bách bộ ban đêm như thường lệ, và trong khi đi dạo ngài có thói quen hút thuốc. Ngài không trở về. Lúc 12 giờ, Barrymore thấy cửa vẫn còn mở nên báo động và thắp đèn đi tìm chủ. Hôm ấy trời ẩm và dấu chân của ngài Charles hằn rõ trên lối đi. Ở quãng giữa con đường đi dạo có một cánh cổng mở ra truông. Có dấu hiệu cho thấy ngài Charles đã đứng đây một lúc. Sau đó ngài đi tiếp theo con đường này, và người ta đã phát hiện thi thể ngài ở cuối đường. Có một tình tiết đến nay vẫn chưa có lời giải thích, đó là Barrymore khai rằng các dấu chân của ông chủ đã biến đổi từ lúc đi qua cánh cổng thông với truông và từ đó trở đi hình như ngài đã nhón gót đi bằng mũi chân. Một lái buôn ngựa người digan tên là Murphy vào lúc đó đang ở trên truông cách đó không xa, nhưng người này thú nhận là lúc đó đang say nên không đáng tin lắm. Người này khai có nghe tiếng la hét nhưng không biết ở hướng nào. Trên thi thể ngài Charles không có dấu hiệu bị tấn công và mặc dù theo lời khai của vị bác sĩ riêng, diện mạo của người quá cố đã biến dạng tới mức không thể tin nổi - đến nỗi lúc đầu bác sĩ Mortimer đã không tin xác chết trước mặt chính là người bạn và bệnh nhân của mình - song hiện tượng biến dạng này được giải thích là một triệu chứng không hiếm gặp trong những trường hợp nghẹt thở và chết vì trụy tim. Cách lí giải này phù hợp với kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy người chết mắc bệnh tim mãn tính, và ban bồi thẩm pháp y đã cung cấp bản giám định theo các chứng cứ y khoa. Kết luận này là có lợi bởi rõ ràng điều tối quan trọng là người thừa kế của ngài Charles có thể an cư tại lâu đài và tiếp tục những công việc tốt đẹp đã bị gián đoạn do hoàn cảnh bi đát này. Giả sử kết quả giám định pháp y không dập tắt được những chuyện hoang đường mà người ta rỉ tai nhau thì e khó có ai chịu sống tại lâu đài Baskerville. Được biết người có huyết thống gần nhất với ngài Charles Baskerville là con của em trai ngài, ông Henry Baskerville, nếu ông này còn sống. Theo tin mới nhất, quý ông trẻ tuổi này đã sang Mỹ châu sinh sống, và người ta đang xúc tiến nhiều cuộc tìm kiếm để thông báo cho người thừa kế biết vận may của mình.

Bác sĩ Mortimer gấp tờ báo và cho vào túi. "Đó là những tin tức đã được công bố về cái chết của ngài Charles Baskerville, thưa ông Holmes."

"Tôi phải cảm ơn ông", Sherlock Holmes nói, "vì đã khiến tôi lưu tâm đến một vụ chắc chắn có nhiều điểm đáng chú ý. Vào lúc đó, tôi có xem một số bình luận trên nhật báo nhưng lại quá bận rộn với vụ mất bảo ngọc Vatican, và vì nóng lòng phụng mệnh Đức giáo hoàng nên tôi đành bỏ qua vài vụ đáng quan tâm ở Anh quốc. Ông nói bài báo này gồm tất cả những chi tiết được công bố?"

"Đúng thế."

"Vậy thì hãy cho tôi biết những chi tiết chưa công bố."

Holmes lại ngả lưng ra ghế, chụm các đầu ngón tay vào nhau, và khoác lên vẻ mặt vô cảm như một quan tòa.

Bác sĩ Mortimer có vẻ vô cùng xúc động. Anh ta nói, "Làm thế nghĩa là tôi phải nói những điều chưa giãi bày với bất kì ai. Động cơ của tôi khi không khai báo với ban bồi thẩm pháp y là thế này: Đã là con người của khoa học thì nên tránh đặt mình vào một vị trí có vẻ như công khai bảo chứng cho một chuyện mê tín trong dân gian. Tôi còn một động cơ nữa như tờ báo đã viết, chắc chắn sẽ không ai đến ở lâu đài Baskerville nếu có bất cứ chuyện gì làm tăng thêm tiếng tăm vốn đã kinh hoàng của nó. Vì cả hai lí do đó, tôi thấy mình đã suy xét đúng khi không nói hết những gì mình biết, vì có nói cũng chẳng đem lại lợi ích thiết thực gì. Nhưng với ông thì không có lí do gì mà tôi lại không hoàn toàn thành thật.

Trên truông có rất ít người cư trú, và những ai sống gần nhau thường tự họp với nhau. Vì lí do đó tôi rất hay gặp ngài Charles Baskerville. Không kể ông Frankland ở lâu đài Lafter, và nhà tự nhiên học Stapleton, thì trong vòng mấy dặm chẳng ai có học thức. Ngài Charles đã về hưu nhưng tình cờ chứng bệnh của ngài là duyên cớ kéo chúng tôi lại gần nhau, và mối quan tâm chung về khoa học đã khiến chúng tôi thành bạn. Ngài đã mang từ Nam Phi về nhiều thông tin khoa học, và rất nhiều buổi chiều lí thú chúng tôi đã cùng nhau đàm đạo về cơ thể học so sánh giữa giống người Bushman và người Hottentot. Trong mấy tháng vừa qua, càng ngày tôi càng thấy rõ là hệ thần kinh của ngài Charles đã căng thẳng tới tột độ. Ngài quá tin vào cái truyền thuyết mà tôi vừa đọc cho quý vị nghe; tin tới mức không gì có thể xui khiến ngài bước ra truông vào ban đêm, ngay cả trên đất đai thuộc sở hữu của mình. Ông Holmes à, có thể ông không tin được đâu nhưng chính ngài Charles đã thực lòng tin chắc rằng có một định mệnh khủng khiếp bao trùm dòng họ của ngài, và rõ ràng là những câu chuyện lưu truyền từ các bậc tổ phụ mà ngài tìm được không đem lại chút gì tươi sáng. Ngài cứ luôn bị ám ảnh rằng có một thế lực ma quái nào đó hiện diện quanh đây, và hơn một lần ngài đã hỏi tôi là trong những chuyến thăm bệnh đêm hôm có bao giờ tôi bắt gặp một sinh vật kì lạ hoặc nghe thấy tiếng tru của một con chó săn nào không. Nhiều lần ngài hỏi tôi về tiếng chó tru và lúc nào, nghe giọng ngài cũng run rẩy vì kích động. Tôi còn nhớ rõ lần đánh xe lên nhà ngài vào buổi chiều khoảng ba tuần trước sự cố định mệnh đó. Tình cờ ngài đang đứng ngay cửa tiền sảnh. Tôi vừa từ xe ngựa bước xuống và đứng trước mặt ngài thì thấy ngài trân trân nhìn sững qua vai tôi, vẻ mặt kinh hoàng tột độ. Tôi quay ngoắt lại và chỉ kịp thoáng thấy một vật gì đó mà tôi cho là một con bê lớn màu đen đang chạy băng qua đầu con đường vào nhà. Ngài hốt hoảng và kích động tới mức tôi buộc phải đi tới tận chỗ con thú xuất hiện lúc nãy và nhìn quanh tìm kiếm. Nhưng nó đã đi mất và biến cố ấy đã gây ấn tượng hết sức tồi tệ cho tinh thần ngài Charles. Tôi ở lại với ngài suốt buổi tối và chính vào dịp đó ngài đã giao cho tôi cất giữ bản di văn mà tôi đã đọc lúc đầu, cũng là để giải thích cho cảm xúc ngài đã bộc lộ. Tôi kể lại câu chuyện nhỏ này vì khi xét đến cái bi kịch diễn ra về sau thì nó đâm ra quan trọng, nhưng ngay lúc ấy tôi lại cho đó chỉ là chuyện hoàn toàn vặt vãnh và sự kích động của ngài Charles là vô căn cứ.

Chính vì nghe lời khuyên của tôi mà ngài Charles định đi London. Tôi biết ngài đã mắc bệnh tim, và nỗi lo lắng thường trực ở nơi đang sống rõ ràng có tác động nghiêm trọng đến sức khỏe của ngài, cho dù nguyên nhân có hoang đường đến đâu. Tôi nghĩ chỉ cần về thành phố sống vài tháng với nhiều trò tiêu khiển, khi trở lại ngài sẽ biến thành con người mới. Ông Stapleton, một người bạn chung của chúng tôi, cũng rất lo ngại cho tình trạng sức khỏe của ngài Charles và cũng có quan điểm như tôi. Thế mà ngay phút chót thì xảy ra tai họa khủng khiếp này.

Vào cái đêm ngài Charles chết, ông quản gia Barrymore, người phát hiện ra sự việc, cho anh mã phu Perkins phi ngựa tới báo tin cho tôi, và vì tôi vốn thức khuya nên chỉ trong vòng một giờ sau khi xảy ra chuyện là tôi đã tới lâu đài Baskerville. Tôi đã kiểm tra và làm chứng mọi chi tiết được nêu trong cuộc thẩm tra. Tôi đã lần theo các dấu chân trên lối đi trồng cây thủy tùng, tôi đã thấy vị trí ở cái cổng thông ra truông, nơi dường như ngài Charles đã đứng chờ gì đó, tôi để ý thấy sự thay đối hình dạng của các dấu chân kể từ điểm đó, tôi nhận biết là không có dấu chân nào khác ngoại trừ dấu chân của Barrymore trên mặt đất mềm, và cuối cùng tôi cẩn thận kiểm tra xác chết, trước khi tôi đến vẫn chưa có ai đụng vào. Ngài Charles nằm sấp, hai tay dang ra, ngón tay cắm ngập xuống đất, và mặt co rút biến dạng vì một cảm xúc dữ dội tới mức tôi không dám tin đó là diện mạo của ngài. Chắc chắn là không hề có bất kì thương tích nào trên cơ thể. Nhưng ở cuộc thẩm tra, có một điều Barrymore đã khai không đúng. Ông ta bảo rằng không hề có dấu vết nào trên mặt sỏi ở quanh xác chết. Ông ta không thấy gì cả. Nhưng tôi thấy cách xa đó một chút, nhưng rất rõ và rất mới..."

"Dấu chân?"

"Dấu chân."

"Đàn ông hay đàn bà?"

Bác sĩ Mortimer nhìn chúng tôi giây lát với ánh mắt lạ lùng, rồi hạ giọng trả lời như thầm thì.

"Thưa ông Holmes, đó là những dấu chân của một con chó săn khổng lồ!"

3. Nan đề

Thú thật là những lời ấy khiến tôi rợn cả người. Giọng của vị bác sĩ bộc lộ sự hồi hộp, cho thấy chính anh ta cũng xúc động sâu sắc trước câu chuyện đã thuật lại với chúng tôi. Holmes phấn khích nhổm tới trước và mắt ánh lên một cái nhìn sắc lạnh thường thấy khi anh tập trung chú ý.

"Ông đã nhìn thấy?"

"Rõ ràng như tôi thấy ông."

"Và ông không nói gì hết?"

"Nói thì có ích gì?"

"Sao không ai nhìn thấy cả?"

"Những dấu vết ấy cách xác chết chừng hai mươi yard và chẳng ai để ý. Chắc tôi cũng chẳng để ý nếu như không biết truyền thuyết đó từ trước."

"Trên truông có nhiều chó chăn cừu không?"

"Chắc chắn rồi, nhưng đây không phải chó chăn cừu."

"Ông bảo nó rất to lớn?"

"Khổng lồ."

"Nhưng nó không đến gần xác chết?"

"Không."

"Đêm ấy thời tiết thế nào?"

"Ẩm và lạnh."

"Nhưng đúng là không có mưa à?"

"Không."

"Con đường đi dạo thì sao?"

"Hai bên có hàng thủy tùng lâu năm, cao chừng mười hai foot và mọc ken dày nên không thể chui qua được. Lối đi ở ngay chính giữa, rộng khoảng tám foot."

"Thế giữa lối đi và hàng cây có gì không?"

"Có, ở hai bên đều có bờ cỏ rộng chừng sáu foot."

"Ông nói hàng cây thủy tùng ấy chỉ có một chỗ thông ra ngoài là cánh cổng?"

"Đúng, cái cổng rào nhỏ ấy thông ra truông."

"Còn chỗ nào khác đi ra không?"

"Không hề."

"Như vậy muốn tới được lối đi giữa hai hàng thủy tùng ta phải từ nhà đi ra hoặc từ cổng rào đó đi vào?"

"Còn một ngả nữa đi qua căn nhà hóng mát ở cuối con đường đó."

"Thế ngài Charles đã đi tới đó chưa?"

"Chưa, ngài nằm cách đó chừng năm mươi yard."

"Này, bác sĩ Mortimer, ông nói đi, điều này quan trọng đấy: Những dấu vết ông nhìn thấy nằm trên lối đi chứ không phải trên cỏ?"

"Không dấu vết nào in trên cỏ."

"Chúng nằm trên lối đi cùng phía với cổng rào phải không?"

"Đúng, chúng nằm bên rìa lối đi cùng phía với cánh cổng thông ra truông."

"Ông khiến tôi quan tâm hết sức. Một điểm nữa. Cổng rào ấy có đóng không?"

"Đóng và khóa bằng ổ khóa."

"Cổng cao chừng nào?"

"Chừng bốn foot."

"Thế thì ai cũng trèo qua được?"

"Đúng."

"Vậy bên cổng rào này ông có thấy dấu vết gì không?"

"Chẳng có gì đặc biệt."

"Trời ơi! Không ai kiểm tra ư?"

"Có chứ, chính tôi kiểm tra mà."

"Mà chẳng thấy gì?"

"Rất là khó hiểu. Rõ ràng là ngài Charles đã đứng ở đó chừng năm, mười phút"

"Làm sao ông biết?"

"Vì dưới đất có hai vết tàn thuốc từ điếu xì gà của ngài."

"Xuất sắc! Watson này, đây đúng là một người cùng hội cùng thuyền rất hợp với chúng ta. Nhưng còn dấu chân?"

"Ngài Charles lưu lại dấu chân khắp khoảnh đất rải sỏi ấy. Tôi không nhận ra dấu nào khác."

Sherlock Holmes vò đầu gối tỏ vẻ nôn nóng. Anh nói to, "Giá mà tôi ở đó! Rõ ràng đây là một vụ hấp dẫn lạ thường và mở ra vô số cơ hội cho nhà điều tra có đầu óc khoa học. Trang sách bằng sỏi mà tôi đã có thể đọc ra được rất nhiều điều bây giờ đã bị gió mưa xóa nhòa và bị đám nông dân tọc mạch giẫm đạp. Ôi, bác sĩ Mortimer ơi là bác sĩ Mortimer, nghĩ mà coi, sao ông không gọi tôi đến sớm hơn chứ! Ông thật là đáng trách lắm."

"Ông Holmes, làm sao tôi có thể gọi ông đến mà không tiết lộ những chuyện này cho thiên hạ biết, và tôi đã nói các lí do khiến tôi không muốn như thế rồi. Hơn nữa, hơn nữa..."

"Sao ông ngần ngừ?"

"Có một lĩnh vực mà ngay cả những thám tử nhạy bén và giàu kinh nghiệm nhất cũng bất lực."

"Ý ông muốn nói đây là chuyện siêu nhiên?"

"Tôi không khẳng định như vậy."

"Không, nhưng hiển nhiên là ông nghĩ thế."

"Ông Holmes à, kể từ sau bi kịch đó tôi đã nghe được một số chuyện khó có thể lí giải cho hợp với trật tự đã an bài của Tự Nhiên"

"Cụ thể?"

"Tôi biết được là trước khi xảy ra biến cố khủng khiếp đó, nhiều người đã nhìn thấy trên truông một con vật giống như con quỷ của dòng họ Baskerville, và đó không thể nào là một sinh vật mà khoa học đã biết tới. Ai cũng đồng tình bảo đó là một con vật to lớn, phát sáng, ghê rợn và ma quái. Tôi đã kiểm chứng lời kể của một dân quê cứng vía, một thợ đóng móng ngựa, và một nông dân ở truông, người nào cũng kể về con vật ma quỷ khủng khiếp ấy giống y như tương truyền về con quỷ chó của địa ngục. Tôi xin quả quyết rằng nỗi sợ hãi đang bao trùm cả địa hạt và không một người nào dám băng qua truông vào ban đêm."

"Thế một người được đào tạo về khoa học như ông lại tin đây là chuyện siêu nhiên sao?"

"Tôi không biết phải tin điều gì nữa."

Holmes nhún vai. "Cho tới nay tôi chỉ điều tra trong phạm vi trần thế. Nói một cách khiêm tốn, tôi đã từng chống lại điều ác, nhưng đối đầu với chính Ác Quỷ thì chắc tôi không kham nổi. Thế nhưng ông phải thừa nhận rằng những dấu chân ấy là hữu hình."

"Con chó nguyên bản trong truyền thuyết cũng là hữu hình nên mới cắn đứt cổ họng người ta, nhưng nó cũng chính là ma quỷ."

"Tôi thấy ông đã ngả hẳn sang các thuyết siêu nhiên rồi đó. Nhưng thôi, nói tôi nghe đi, bác sĩ Mortimer. Nếu ông cứ khăng khăng quan điểm đó thì ông đến nhờ tôi tư vấn làm gì? Ông vừa bảo là có điều tra về cái chết của ngài Charles cũng vô ích, thế mà ông lại muốn tôi làm việc đó."

"Tôi đâu có nói tôi muốn ông làm việc đó."

"Thế tôi giúp ông bằng cách nào đây?"

"Bằng cách khuyên tôi nên làm gì với ngài Henry Baskerville", bác sĩ Mortimer nhìn đồng hồ, "ngài ấy sẽ đến ga Waterloo đúng một giờ mười lăm phút nữa."

"Người thừa kế đấy ư?"

"Đúng. Khi ngài Charles mất, chúng tôi đã tìm kiếm chàng quý tộc này và biết được ngài ấy đang lập trang trại ở Canada. Chúng tôi nghe nói đây là người ưu tú về mọi phương diện. Hiện tôi phát ngôn không phải với tư cách bác sĩ mà là người được ủy thác và thực thi di chúc của ngài Charles."

"Không còn người nào khác có quyền thừa hưởng, tôi chắc vậy?"

"Không. Duy chỉ có một người thân thích khác chúng tôi dò ra được là Rodger Baskerville, em út trong ba anh em trai mà ngài Charles xấu số kia là anh cả. Người thứ hai đã mất sớm chính là cha của ngài Henry này. Người thứ ba, Rodger, là kẻ hư hỏng trong gia đình, ông ta có tính cách của dòng dõi Baskerville hống hách ngày xưa và người ta bảo là hiện thân của gã Hugo thời trước, ông ta từng làm náo loạn cả Anh quốc rồi bỏ trốn sang Trung Mỹ và chết bên đó năm 1876 vì bệnh sốt vàng da. Henry là người cuối cùng của dòng họ Baskerville. Một giờ năm phút nữa là tôi phải đón ngài ấy ở ga Waterloo. Sáng nay tôi nhận được điện tín nói rằng ngài ấy đã đến Southampton. Đấy, ông Holmes, ông khuyên tôi phải làm gì với ngài ấy bây giờ?"

"Sao không để ngài ấy về ngôi nhà của dòng họ?"

"Lẽ tự nhiên là thế, phải không? Thế nhưng hãy thử nghĩ xem, ai trong nhà Baskerville về đó cũng gặp số phận ác nghiệt. Tôi đoán chắc rằng nếu ngài Charles có thể trăng trối với tôi trước khi chết thì ngài ắt hẳn đã dặn dò tôi đừng có đưa người cuối cùng của dòng họ và là người thừa kế gia sản về cái nơi kinh khủng đó. Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng sự thịnh vượng của cả một vùng quê bần cùng, ảm đạm kia lại trông chờ vào sự có mặt của ngài ấy. Mọi công chuyện tốt đẹp mà ngài Charles đã làm sẽ tan thành cát bụi nếu không có người nào về sống ở lâu đài. Tôi e là mình không được vô tư bởi chính tôi cũng có lợi ích trong chuyện này, cho nên tôi mới thuật hết mọi chuyện với ông để nhờ chỉ bảo."

Holmes tư lự một hồi lâu rồi lên tiếng, "Nói một cách dễ hiểu, vấn đề là thế này. Theo ông thì có một thế lực ma quỷ nào đó khiến vùng Dartmoor trở thành nơi cư ngụ không an toàn cho người nhà Baskerville, phải vậy không?"

"Ít nhất thì tôi có thể đánh bạo nói rằng có vài chứng cứ khiến tôi cho là thế."

"Chính xác. Nhưng nếu giả thuyết siêu nhiên của ông là đúng thì dẫu có ở London các ma lực vẫn có thể hãm hại chàng trai này dễ dàng như ở hạt Devonshire. Ác quỷ mà chỉ có quyền năng giới hạn trong một địa phương nhỏ như kiểu hội đồng giáo xứ thì đúng là phi lí."

"Thưa ông Holmes, nếu ông tiếp xúc trực tiếp với những chuyện như vậy thì có lẽ ông đã không bàn về vấn đề này một cách cợt nhả như thế. Vậy theo như tôi hiểu thì ông cho rằng người này dù có ở Devonshire hay ở London cũng vẫn an toàn. Năm mươi phút nữa ngài ấy sẽ đến. Ông sẽ khuyên bảo điều gì?"

"Thưa ông, tôi khuyên ông đón xe ngựa, mang con chó spaniel đang cào cửa nhà tôi đi, và tiến thẳng tới ga Waterloo đón ngài Henry Baskerville."

"Rồi sau đó?"

"Sau đó ông không được nói gì với ngài ấy cho đến khi tôi có kết luận về vấn đề này."

"Ông mất bao lâu để kết luận?"

"Hai mươi tư giờ. Vào 10 giờ sáng mai, thưa bác sĩ Mortimer, tôi sẽ hết sức cảm ơn ông nếu ông quay lại đây gặp tôi, và nếu ông đưa ngài Henry Baskerville đi cùng thì rất có ích cho các kế hoạch tương lai của tôi."

"Tôi sẽ làm như ông bảo, thưa ông Holmes."

Vị khách ghi nguệch ngoạc luôn giờ hẹn vào măng sét rồi hấp tấp bỏ đi với điệu bộ lạ lùng, vừa lơ đãng vừa chăm chú. Holmes ngăn anh ta lại ở đầu cầu thang.

"Xin hỏi một câu nữa, bác sĩ Mortimer. Ông nói là trước khi ngài Charles chết, nhiều người đã trông thấy con quỷ đó trên truông?"

"Có ba người thấy."

"Sau đó có ai thấy nữa không?"

"Tôi không nghe ai nói gì nữa."

"Cảm ơn ông. Chúc buổi sáng tốt lành."

Holmes quay lại chỗ ngồi với vẻ mãn ý ngấm ngầm chứng tỏ anh có công việc tâm đắc đang chờ đợi.

"Anh có ra ngoài không, Watson?"

"Nếu giúp được anh tôi sẽ ở lại."

"Chưa đâu, anh bạn thân mến, tới giờ phút hành động tôi mới cần anh giúp sức. Nhưng đây là chuyện hay ho, thật sự độc đáo theo nhiều góc nhìn. Phiền anh qua cửa hiệu của Bradley, bảo ông ấy cho mang lên đây một pound thuốc lá sợi loại nặng nhất nhé? Cảm ơn anh. Và tôi cũng rất cảm kích nếu anh vui lòng đi luôn tới tối hãy về. Như vậy tôi sẽ được sung sướng nghiền ngẫm cái nan đề cực kì thú vị được giao cho chúng ta sáng nay."

Tôi biết rằng sự cô độc và biệt lập rất cần thiết cho anh bạn tôi trong những giờ phút tập trung cao độ để cân nhắc từng manh mối chứng cứ, xây dựng nhiều giả thuyết theo phương hướng khác nhau, đối chiếu các giả thuyết đó, và xác định đâu là điểm trọng yếu, đâu là tiểu tiết. Vì thế tôi đến câu lạc bộ tiêu khiển suốt ngày, mãi đến tối mới quay về phố Baker. Lúc tôi trở lại phòng khách thì đã gần 9 giờ. Vừa mở cửa ra tôi tưởng có hỏa hoạn vì gian phòng mù mịt khói tới mức làm lu mờ cả ngọn đèn sáng trên bàn. Nhưng lúc bước vào thì nỗi sợ của tôi đã được trấn an bởi mùi khói cay nồng của thuốc lá nặng xộc vào mũi làm tôi ho sặc sụa. Qua làn khói mù, tôi lờ mờ nhận ra hình dáng Holmes mặc áo choàng ngủ đang thu mình trong ghế bành, trên môi là tẩu thuốc bằng đất nung màu đen. Chung quanh anh vương vãi mấy cuộn giấy.

"Bị cảm à, Watson?"

"Không, tại bầu không khí độc hại ở đây thì có."

"Giờ anh nói tôi mới để ý, chắc là hơi mù mịt."

"Quá mù mịt ấy chứ. Không thể chịu nổi."

"Vậy mở cửa sổ ra đi! Chắc là cả ngày nay anh la cà ở câu lạc bộ."

"Holmes ơi là Holmes!"

"Tôi nói đúng không?"

"Còn phải hỏi, nhưng sao anh biết?"

Anh bật cười trước vẻ mặt ngỡ ngàng của tôi.

"Anh có cái vẻ ngô nghê đến là hay, Watson ạ, cho nên tôi rất khoái mượn anh để tập tành chút khả năng nho nhỏ của mình tuy có hơi thiệt cho anh. Một quý ông ra ngoài trong một ngày mưa nhớp nháp nhưng buổi tối về nhà mà giày mũ vẫn còn bóng loáng. Vậy thì suốt cả ngày anh ta phải ở một chỗ cố định nào đó. Anh ta không có nhiều bạn bè thân thiết. Vậy thì anh ta có thể ở chỗ nào? Không hiển nhiên sao?"

"Chà, hiển nhiên thật đấy."

"Trên đời này đầy những chuyện hiển nhiên mà chẳng có ai buồn quan sát mảy may. Thế theo anh thì tôi đã đi đâu?"

"Cũng ở một chỗ cố định."

"Trái lại, tôi đã đến Devonshire."

"Bằng linh hồn chắc?"

"Chính xác. Thân xác tôi vẫn ở trên chiếc ghế bành này và tôi rất tiếc phải lưu ý rằng khi tôi vắng mặt, nó đã tiêu thụ hết hai bình cà phê lớn và một lượng thuốc lá nhiều khôn xiết. Sau khi anh đi, tôi nhờ người ra hiệu Stamford mua tấm bản đồ Ordnance của khu vực có vùng truông ấy và linh hồn tôi đã lượn lờ ở đó cả ngày. Tôi tự khen mình đã tìm ra đường đi lối lại."

"Một tấm bản đồ lớn, chắc là thế rồi?"

"Rất lớn."

Anh giở ra một phần và đặt tấm bản đồ trên đầu gối.

"Anh xem, đây là khu vực chúng ta quan tâm. Ngay chính giữa là lâu đài Baskerville."

"Có khu rừng bao quanh?"

"Chính xác. Tôi hình dung con đường thủy tùng, mặc dù không có tên ở đây, nhưng hẳn là chạy dọc theo đường này và như anh đã biết, phía bên phải con đường là truông. Cụm nhà cửa nhỏ bé ở chỗ này là làng Grimpen, nơi bác sĩ Mortimer của chúng ta đóng bản doanh. Anh thấy đó, trong vòng bán kính năm dặm chỉ có nhà ở thưa thớt. Còn đây là lâu đài Lafter mà bác sĩ có nhắc tới. Có một căn nhà đánh dấu ở đây, có thể là nơi ở của nhà tự nhiên học Stapleton, nếu tôi nhớ đúng. Đây là hai nông trại trên truông, High Tor và Foulmire. Rồi cách đó mười bốn dặm là nhà ngục lớn Princetown. Ở giữa và bao quanh những điểm rải rác này là vùng truông hiu quạnh. Vậy đây là sân khấu nơi thảm kịch đã diễn ra và là nơi chúng ta có thể góp sức dựng lại vở kịch ấy."

"Chắc nơi này phải hoang vu lắm."

"Đúng, bối cảnh ấy quả là thích hợp. Nếu ác quỷ thật sự muốn nhúng tay vào cõi người..."

"Vậy là chính anh cũng thiên về cách lí giải siêu nhiên."

"Tay sai của ác quỷ có thể là con người bằng xương bằng thịt, phải không nào? Có hai câu hỏi đang chờ đợi chúng ta ngay khởi điểm. Thứ nhất, ở đây có tội ác nào không; thứ hai, tội ác đó là gì và được thực hiện ra sao? Tất nhiên nếu bác sĩ Mortimer đoán đúng và chúng ta đang đương đầu với những quyền năng nằm ngoài các quy luật thông thường của Tự Nhiên thì coi như cuộc điều tra của chúng ta kết thúc. Nhưng chúng ta buộc phải xét hết mọi giả thuyết khác trước khi quay lại giả thuyết này. Tôi nghĩ ta nên đóng cửa sổ lại, nếu anh không phiền. Kể cũng lạ, nhưng tôi thấy bầu không khí cô đặc sẽ giúp ích cho việc cô đúc ý tưởng. Tôi chưa cực đoan tới mức chui vào hộp kín mà nghĩ, nhưng đó là kết luận hợp lí theo những gì tôi tin chắc. Anh có nghiền ngẫm vụ này không?"

"Có, cả ngày nay tôi cứ nghĩ mãi."

"Theo anh thì sao nào?"

"Chuyện này đúng là gây hoang mang."

"Rõ ràng nó có bản sắc riêng. Có nhiều điểm độc đáo. Chẳng hạn, sự thay đổi ở các dấu chân. Theo anh thì sao?"

"Mortimer nói người này đã đi nhón gót suốt quãng đường còn lại."

"Anh ta chỉ lặp lại lời thằng ngu xuẩn nào đó đã nói ở cuộc thẩm tra. Vì cớ gì mà người ta phải đi nhón gót trên đường chứ?"

"Không phải vậy thì sao?"

"Ông ta đã chạy, Watson ạ, chạy trong tuyệt vọng, chạy thục mạng, chạy đến vỡ tim và ngã sấp mặt chết."

"Sao phải chạy?"

"Vấn đề nằm ở chỗ đó, có nhiều dấu hiệu cho thấy người này đã phát cuồng vì sợ hãi trước khi bỏ chạy?

"Làm sao anh lại cho là thế?"

"Tôi giả định nguyên nhân khiến ông ấy sợ hãi đã tiến đến từ phía truông. Nếu như thế, và rất có khả năng như thế, thì chỉ có người sợ đến mất khôn mới chạy ra xa mà không quay về nhà. Nếu lời khai của người digan kia là sự thật thì ngài Charles đã vừa la hét cầu cứu vừa chạy về hướng mà khó lòng có sự cứu giúp nhất. Thêm nữa, ông ấy đã chờ đợi ai đêm hôm đó, và tại sao lại chờ đợi người đó trên con đường thủy tùng chứ không chờ trong nhà?"

"Anh nghĩ ông ấy chờ đợi ai sao?"

"Người này đã già yếu. Chuyện ông ấy đi tản bộ buổi tối thì ta có thể hiểu được nhưng đêm đó xấu trời, đất lại ẩm ướt. Đã thế ông ta còn đứng lại năm, mười phút, như Mortimer đã suy luận từ tàn xì gà bằng óc thực tế đột xuất của anh ta, liệu điều đó có tự nhiên không?"

"Nhưng tối nào ông ấy cũng đi dạo mà."

"Nhưng tôi nghĩ không có lí tối nào ông ấy cũng đứng chờ ở cánh cổng thông ra truông. Trái lại, rõ ràng là ông ấy đã tránh đến gần truông. Đêm đó ông ấy chờ ở cổng, lại đúng ngay cái đêm trước khi lên đường đi London. Sự việc bắt đầu rõ nét đây, Watson à. Mọi thứ đã mạch lạc hơn. Phiền anh lấy cho tôi cây vĩ cầm, và chúng ta tạm hoãn mọi suy nghĩ về chuyện này cho đến khi có hân hạnh gặp gỡ bác sĩ Mortimer và ngài Henry Baskerville vào sáng mai."

4. Ngài Henry Baskerville

Bàn điểm tâm của chúng tôi được thu dọn sớm và Holmes vẫn mặc áo choàng ngủ mà chờ khách. Các thân chủ rất đúng giờ vì đồng hồ vừa đổ chuông đến hồi thứ mười thì bác sĩ Mortimer đã xuất hiện, theo sau là vị nam tước trẻ. Đó là một người nhỏ con, nhanh nhẹn, chừng ba mươi tuổi, rất cường tráng, đôi mắt đen dưới cặp mày rậm, gương mặt cương quyết và hiếu thắng. Anh ta mặc bộ comlê bằng vải len nhuộm màu hung và có nước da sạm nắng của một người đã sống chủ yếu ở nơi nắng gió, nhưng ánh mắt điềm tĩnh và phong thái tự tin trầm lặng lại cho thấy tính cách quý phái.

"Đây là ngài Henry Baskerville", bác sĩ Mortimer nói.

"Ồ, vâng, thưa ông Sherlock Holmes", nam tước lên tiếng, "có chuyện lạ này, nếu người bạn tôi đây không đề nghị đến gặp ông sáng nay thì có lẽ tôi cũng phải tự đến. Tôi biết ông chuyên tháo gỡ những bí ẩn nho nhỏ và sáng nay tôi đã gặp một chuyện tương tự nằm ngoài khả năng tự tháo gỡ của mình."

"Xin mời ngồi, thưa ngài Henry. Ý ngài muốn nói là từ khi đến London chính ngài đã kinh qua điều gì đó khác thường chăng?"

"Không có gì quan trọng lắm đâu, ông Holmes. Rất có thể chỉ là trò bông đùa. Chính là bức thư tôi nhận được sáng nay, nếu có thể gọi đó là một bức thư."

Anh ta đặt một phong bì trên bàn và tất cả chúng tôi đều cúi xuống xem. Phong bì làm bằng loại giấy thường, màu xám. Địa chỉ đề: Ngài Henry Baskerville, Khách sạn Northumberland, bằng kiểu chữ in, nét bút vụng về, dấu bưu cục đề Charing Crossvà ngày gửi là tối hôm trước.

"Có ai biết ngài sẽ đến khách sạn Northumberland không?" Holmes hỏi, ánh mắt sắc sảo nhìn thẳng vào vị khách.

"Không ai có thể biết được. Chúng tôi chỉ quyết định sau khi tôi gặp bác sĩ Mortimer."

"Nhưng bác sĩ Mortimer chắc chắn đã ghé tới đó trước rồi chứ?"

"Không, trước đấy tôi ở chỗ một người bạn", vị bác sĩ nói "Không có cách gì biết được là chúng tôi định về khách sạn đó."

"Hừm! Xem ra có ai đó quan tâm rất sâu sắc đến việc đi lại của quý vị rồi."

Holmes lấy từ trong phong bì ấy ra nửa tờ giấy khổ lớn được gấp làm tư. Anh giở ra và vuốt phẳng trên mặt bàn. Giữa mẩu giấy là một câu duy nhất ghép bằng những từ in sẵn dán nối với nhau. Nội dung là: Nếu xét mạng sống hay lí trí còn giá trị thì tránh xa khỏi truông. Chỉ có từ truông là được viết bằng mực.

"Đấy, thưa ông Holmes", ngài Henry Baskerville nói, "theo ông thì cái đó có ý nghĩa gì mới được chứ, và ai mà lại quan tâm đến chuyện của tôi quá vậy?"

"Thế ông thấy chuyện này thế nào, bác sĩ Mortimer? Ông hẳn phải thừa nhận rằng ở đây tuyệt đối không có gì là siêu nhiên chứ?"

"Đúng, thưa ông, nhưng rất có thể ai đó làm như vậy vì tin rằng vụ này là siêu nhiên."

"Vụ gì thế?" Ngài Henry gắt hỏi. "Dường như các quý ông đây đều biết về việc riêng của tôi nhiều hơn cả chính tôi."

"Thưa ngài Henry, chúng tôi sẽ cho ngài biết rõ mọi chuyện trước khi ngài rời khỏi đây. Xin hứa với ngài như thế", Sherlock Holmes nói. "Còn bây giờ xin phép ngài cho chúng tôi được tập trung vào văn bản rất thú vị này, bức thư này nhất định phải được chắp ghép và gửi đi tối hôm qua. Anh có tờ báo Times số hôm qua không, Watson?"

"Có đây, ở góc phòng."

"Phiền anh lấy cho tôi, xin lấy trang trong, nơi đăng mấy bài xã luận đó!" Anh đảo mắt thật nhanh qua trang báo, nhìn lướt dọc theo các cột báo. "Bài lớn về tự do thương mại đây này. Cho phép tôi đọc quý vị nghe một đoạn trích: Ta có thể lầm tưởng rằng ngành thương mại hay công nghiệp của ta sẽ được bảo trợ nếu còn lá bùa hộ mạng thuế quan, nhưng xét theo lí trí thì về lâu dài những chế định luật pháp như thế lại khiến sự thịnh vượng tránh xa khỏi đất nước này, làm giảm giá trị hàng nhập khẩu và hạ thấp điều kiện sống ở đảo quốc chúng ta.

Anh thấy sao, Watson?" Holmes nói to, giọng khoái trá, hai bàn tay xoa vào nhau có vẻ hài lòng. "Anh không thấy đó là một ý tưởng đáng phục sao?"

Bác sĩ Mortimer nhìn Holmes chăm chú như nhìn một con bệnh, còn ngài Henry Baskerville hướng đôi mắt đen bối rối sang phía tôi. Nam tước nói, "Tôi không am hiểu mấy về thuế quan và những chuyện tương tự, nhưng có vẻ như chúng ta đã đi lạc đề trong khi đang bàn về bức thư này."

"Trái lại, thưa ngài Henry, tôi nghĩ chúng ta đã lần ra dấu vết rồi. Anh bạn Watson đây hiểu rõ các phương pháp của tôi hơn ngài, nhưng tôi e rằng ngay cả anh ấy cũng chưa thấy được tầm quan trọng của câu tôi vừa đọc lên."

"Đúng, thú thật là tôi chẳng thấy liên quan gì."

"Watson thân mến ơi, thế nhưng mối liên quan lại hết sức mật thiết vì những chữ trong bức thư đã được tách ra từ chính câu đó: 'Hay,' 'nếu', 'còn', 'mạng', 'xét', 'lí trí,' 'thì', 'tránh xa khỏi', 'này', 'giá trị', 'sống'. Bây giờ quý vị đã thấy những từ này lấy ở đâu ra chưa?"

"Trời đất, ông nói đúng! Ôi, thật là tài tình!" Ngài Henry kêu lên. "Không thể hồ nghi gì nữa vì các từ 'tránh xa khỏi' được cắt liền thành một mảnh. Chà chà, giờ thì đã rõ!"

"Ôi, ông Holmes, thật tình là chuyện này vượt xa sức tưởng tượng của tôi", bác sĩ Mortimer vừa nói vừa kinh ngạc nhìn anh bạn tôi. "Ai nói mấy chữ này cắt ra từ nhật báo thì tôi còn hiểu được, nhưng ông lại chỉ đích danh tờ báo rồi lại bảo là từ bài xã luận, thì quả là điều phi thường nhất tôi từng gặp. Sao ông biết được?"

"Bác sĩ ơi, ông phân biệt được sọ người Phi châu với sọ người Eskimo chứ?"

"Hẳn rồi."

"Nhưng bằng cách nào?"

"Vì đó là sở thích đặc biệt của tôi. Sự khác biệt rất hiển nhiên. Đỉnh hố mắt, góc cạnh gương mặt, đường cong hàm trên, rồi thì..."

"Còn đây là sở thích đặc biệt của tôi, và sự khác biệt cũng hiển nhiên như thế. Trong mắt tôi, kiểu sắp chữ chỉ cỡ bourgeois của một bài báo trên tờ Times và kiểu in nhếch nhác của một tờ báo ba xu buổi chiều có sự khác biệt lớn cũng giống như hai cái sọ người Phi châu và Eskimo của ông. Phân biệt kiểu chữ in là một trong những lĩnh vực kiến thức sơ đẳng nhất đối với một chuyên gia về hình sự, mặc dù phải thú nhận rằng khi còn trẻ tôi đã có lần nhầm lẫn giữa tờ Leeds Mercury với tờ Westem Morning News. Nhưng kiểu sắp chữ của tờ Times thì không lẫn vào đâu được, và những từ này không thể cắt ra từ nhật báo nào khác. Vì thông điệp được chắp ghép ngày hôm qua cho nên xác suất lớn nhất là ta sẽ tìm ra mấy từ đó trong số báo hôm qua."

"Thế thì, thưa ông Holmes", ngài Henry Baskerville nói, "theo như tôi hiểu ý ông thì ai đó đã cắt lời nhắn này ra bằng một cái kéo..."

"Kéo cắt móng tay", Holmes nói. "Ngài có thể thấy đó là một loại kéo có lưỡi rất ngắn vì người cắt phải bập hai nhát ở mẩu chữ 'tránh xa khỏi'."

"Đúng thế thật. Vậy có người đã cắt lời nhắn này ra bằng một cái kéo lưỡi ngắn rồi dán bằng hồ..."

"Keo", Holmes nói.

"Bằng keo vào tờ giấy này. Nhưng tôi muốn biết tại sao từ 'truông' lại viết tay?"

"Bởi người này không tìm ra từ đó in trong tờ báo."

"À, tất nhiên rồi, vậy thì đã rõ. Thế từ lời nhắn này ông còn suy ra điều gì nữa, ông Holmes?"

"Có một vài dấu hiệu, thế nhưng người này đã hết sức cẩn thận xóa bỏ mọi manh mối. Ngài xem, địa chỉ được ghi bằng kiểu chữ in viết rất thô. Nhưng tờ Times lại hiếm khi lọt vào tay những người vô học, cho nên chúng ta có thể xem như tác giả bức thư này là một người có học thức muốn giả vờ là kẻ ít học, và việc người này cố tình che giấu chữ viết cho thấy tuồng chữ đó có thể là quen thuộc, hoặc sẽ bị ngài nhận ra. Thêm nữa, ngài sẽ thấy các từ này không được dán ngay hàng thẳng lối, mà có một số từ nhô cao hơn các từ khác. Ví dụ từ 'sống' nằm lệch hẳn ra. Đó có thể là do bất cẩn hoặc có thể là người cắt dán đã lo lắng và hấp tấp. Nói chung tôi thiên về hướng thứ hai, vì vấn đề này rõ ràng là quan trọng và người tạo ra bức thư như thế không thể nào lại là kẻ bất cẩn. Nếu người này hấp tấp thì lại một câu hỏi thú vị được đặt ra là tại sao phải hấp tấp, bởi vì thư chỉ cần gửi từ sáng sớm thì thế nào cũng đến tay ngài Henry trước khi ngài rời khách sạn. Người soạn thư này sợ bị ngăn cản chăng, và ai ngăn cản?"

"Bây giờ chúng ta đã dấn vào phạm vi đoán mò rồi đó", bác sĩ Mortimer nói.

"Nói đúng hơn là vào phạm vi so sánh các xác suất và lựa chọn trường hợp có xác suất cao nhất. Đây là việc vận dụng óc tưởng tượng một cách khoa học nhưng luôn có căn cứ cụ thể để làm cơ sở cho phỏng đoán. Đó, ông sẽ bảo là đoán mò, nhưng tôi gần như chắc chắn rằng địa chỉ này được ghi ra trong một khách sạn."

"Làm sao ông nói vậy được hở trời?"

"Nếu xem xét kĩ ông sẽ thấy cả bút lẫn mực đều gây khó khăn cho người viết. Ngòi bút đã cào vào giấy hai lần chỉ trong một từ và ba lần bút hết mực chỉ trong một dòng địa chỉ ngắn, cho thấy trong lọ còn rất ít mực. Đó, người ta hiếm khi để bút hay lọ mực của mình rơi vào tình trạng như thế, và cùng lúc hai thứ đều có vấn đề thì lại càng hiếm. Nhưng ông biết đấy, bút mực của khách sạn lại thường như thế. Vâng, tôi có thể nói không chút ngần ngại rằng nếu chúng ta kiểm tra giỏ giấy vụn ở các khách sạn quanh khu Charing Cross cho đến khi nào tìm ra phần còn lại của tờ Times đã bị cắt thì có thể tóm được ngay kẻ đã gửi lời nhắn kì lạ này. Ô là la! Ô là la! Gì thế này?"

Anh giơ tờ giấy có dán những từ cắt trong báo lên ngang tầm mắt, chỉ cách một, hai inch.

"Sao?"

"Không có gì", anh nói rồi hạ tờ giấy xuống. "Đây là nửa tờ giấy trắng tinh, thậm chí không hề có một dấu in chìm nào. Tôi nghĩ chúng ta đã khai thác hết mọi thông tin có thể biết được từ bức thư lạ lùng này, còn bây giờ, thưa ngài Henry, từ lúc đến London ngài có gặp chuyện gì khác đáng chú ý không?"

"Ồ, không, ông Holmes à. Tôi nghĩ là không."

"Ngài không để ý thấy có ai theo dõi mình ư?"

"Dường như tôi đã bước vào giữa một cuốn tiểu thuyết rẻ tiền", nam tước nói. "Sao lại có ai muốn theo dõi tôi hở trời?"

"Rồi chúng ta sẽ nói đến lí do. Trước khi bàn tới chuyện đó, ngài không có gì khác để thuật lại với chúng tôi sao?"

"Chà, còn tùy ông xem chuyện như thế nào mới đáng thuật lại."

"Tôi nghĩ bất cứ điều gì khác với lệ thường đều đáng thuật lại."

Ngài Henry mỉm cười. "Tôi vẫn chưa biết gì nhiều về sinh hoạt ở Anh quốc vì gần như cả đời tôi sống ở Hoa Kì và Canada. Nhưng tôi hi vọng chuyện mất một chiếc ghệt không phải là lệ thường ở xứ này."

"Ngài mất một chiếc ghệt ư?"

"Thưa ngài", bác sĩ Mortimer kêu lên, "nó chỉ lẫn đâu đó thôi. Khi về khách sạn ngài sẽ tìm ra mà. Làm phiền ông Holmes vì những điều vặt vãnh như thế liệu có ích gì chứ?"

"À, thì ông ấy hỏi tôi có chuyện gì khác với lệ thường mà."

"Chính xác", Holmes nói, "cho dù sự việc có vẻ ngớ ngẩn đến đâu đi nữa. Ngài nói ngài bị mất một chiếc ghệt phải không?"

"Chà, chắc là để lẫn. Đêm qua tôi để cả đôi ngoài cửa phòng thế mà tới sáng chỉ còn một chiếc. Tôi đã hỏi thằng cha đánh giày nhưng chẳng biết được gì cả. Điều tệ nhất là tôi vừa mua đôi ghệt ấy tối hôm qua ở phố Strand, và chưa kịp mang lần nào."

"Nếu chưa hề mang sao ngài lại đưa đi đánh giày?"

"Đó là đôi ghệt bằng da thuộc và chưa được đánh xi lần nào. Vì thế tôi mới để ra ngoài."

"Vậy theo tôi hiểu thì khi vừa đến London ngày hôm qua ngài liền ra phố và mua một đôi ghệt?"

"Tôi mua sắm nhiều thứ. Bác sĩ Mortimer đây đi loanh quanh cùng tôi. Ông thấy đấy, nếu tôi phải làm điền chủ ở miệt dưới đó thì tôi phải phục sức cho đúng cách, có thể tôi đã quen thói ăn mặc hơi cẩu thả theo kiểu miền Tây bên Mỹ châu rồi. Trong nhiều món hàng, tôi có mua đôi ghệt da nâu này, mất sáu đôla và chưa kịp xỏ chân vào thì đã bị đánh cắp mất một chiếc."

"Kể cũng lạ, lấy cắp có một chiếc thì ích gì", Sherlock Holmes nói. "Thú thật là tôi cũng nghĩ như bác sĩ Mortimer, sẽ sớm tìm ra chiếc ghệt thất lạc thôi."

"Thế thì thưa các ông", nam tước nói bằng giọng dứt khoát, "có vẻ như tôi nói những chuyện nhỏ nhặt mà tôi biết thế là đủ rồi. Giờ đến lúc quý vị phải giữ lời hứa cho tôi biết tường tận những gì đang chờ đợi tất cả chúng ta."

"Yêu cầu của ngài rất chính đáng", Holmes đáp lại. "Bác sĩ Mortimer này, tôi nghĩ không có gì hay bằng ông thuật lại câu chuyện đó đúng như ông đã kể với chúng tôi."

Nghe khích lệ như thế, con người của khoa học kia rút mấy tờ giấy trong túi ra và trình bày toàn bộ sự việc giống như buổi sáng hôm trước. Ngài Henry Baskerville lắng nghe hết sức chăm chú, thỉnh thoảng lại kêu lên ngạc nhiên. Khi câu chuyện dài đã kết thúc, anh ta mới nói, "Chà, dường như tôi đã ngẫu nhiên thừa hưởng một mối thù. Chuyện về con quỷ chó này, đúng là tôi đã nghe kể từ hồi còn quấn tã. Đó là câu chuyện hay ho của dòng tộc này, mặc dù trước giờ tôi chưa hề nghĩ là phải nhìn nhận nó một cách nghiêm túc. Nhưng về cái chết của bác tôi, ồ, mọi thứ dường như sôi sục trong đầu và tôi chưa thể nào hiểu thấu. Hình như các ông cũng chưa kết luận được vụ này cần cảnh sát hay cần mục sư thì phải?"

"Đúng là thế."

"Giờ lại thêm chuyện bức thư gửi đến khách sạn cho tôi nữa. Tôi chắc là chi tiết đó cũng ăn nhập với chuyện này."

"Hình như có người biết nhiều hơn chúng ta về tình hình trên truông", bác sĩ Mortimer nói.

"Thêm nữa", Holmes nói, "bức thư này cho thấy người đó không có ác ý đối với ngài, bởi vì họ đã báo cho ngài biết trước nguy hiểm."

"Hay biết đâu họ lại muốn đạt mục đích là dọa cho tôi sợ mà tránh xa."

"À, tất nhiên cũng có thể như vậy lắm. Tôi hết sức cảm ơn ông đó, bác sĩ Mortimer, ông đã đem đến cho tôi một nan đề có vài hướng giải đáp rất hấp dẫn. Nhưng vấn đề thiết thực mà bây giờ chúng ta phải quyết định, thưa ngài Henry, là ngài có nên tới lâu đài Baskerville hay không."

"Sao lại không chứ?"

"Có vẻ sẽ gặp nguy hiểm đó."

"Ông muốn nói tới nguy hiểm do ma quỷ của dòng họ này hay là do con người?"

"Chà, đó là điều chúng tôi phải tìm hiểu cho ra."

"Dù kết quả ra sao tôi chỉ có một câu trả lời. Không có ma quỷ nào cả, ông Holmes ạ, và không có người nào trên đời này ngăn tôi trở về quê hương được, ông có thể xem đó là câu trả lời cuối cùng của tôi." Cặp lông mày rậm của nam tước nhíu lại và gương mặt anh ta đỏ ửng lên khi nói. Rõ ràng là tính khí nóng này của dòng họ Baskerville vẫn chưa mất đi trong người đại diện cuối cùng này. "Vả lại tôi chưa có thời gian để suy nghĩ kĩ chuyện quý vị đã kể", anh ta nói tiếp. "Thật khó khăn khi vừa phải tìm hiểu vấn đề lớn thế này vừa phải quyết định ngay một lúc. Tôi cần một giờ yên tĩnh một mình để cân nhắc. À, thế này nhé, ông Holmes, bây giờ là 11 giờ rưỡi rồi và tôi sẽ quay về khách sạn ngay. Chắc là ông và bạn ông, bác sĩ Watson, có thể đến dùng bữa trưa cùng chúng tôi lúc 2 giờ. Khi đó chắc tôi có thể trình bày suy nghĩ của mình với các ông rõ ràng hơn."

"Thế có tiện cho anh không, Watson?"

"Hẳn rồi."

"Vậy thì ngài cứ đợi chúng tôi. Tôi gọi xe ngựa cho ngài nhé?"

"Tôi thích đi bộ hơn, vì chuyện này làm tôi khá bối rối."

"Tôi xin được hân hạnh tản bộ cùng ngài", người đồng hành của ngài Henry nói.

"Vậy chúng ta sẽ gặp lại lúc 2 giờ. Au revoir và chúc buổi sáng tốt lành!" Chúng tôi nghe tiếng bước chân của hai vị khách xuống lầu và tiếng cửa chính đóng sầm lại. Trong chớp nhoáng, Holmes đã từ một kẻ mơ màng uể oải biến thành một người năng động.

"Đội mũ mang giày mau, Watson! Không được chậm trễ!"

Anh vẫn còn mặc áo choàng ngủ khi lao vào phòng, thế mà chỉ mấy giây sau đã khoác áo măngtô quay trở ra. Chúng tôi cùng vội vã xuống cầu thang và ào ra đường. Mortimer và Baskerville vẫn còn trong tầm mắt, cách chưa đầy hai trăm yard, theo hướng phố Oxford. "Có cần tôi chạy tới bảo họ dừng lại không?"

"Không đời nào, anh bạn Watson ơi. Có anh đi cùng là tôi hài lòng rồi. Hai người bạn của chúng ta thật sáng suốt, buổi sáng đẹp trời thế này mà đi dạo thì tuyệt."

Anh dấn bước nhanh dần cho đến khi khoảng cách giữa chúng tôi và hai vị khách chỉ còn phân nửa. Rồi vẫn theo sau trong khoảng trăm yard, chúng tôi sang phố Oxford rồi đi tiếp đến phố Regent. Có một lần hai vị khách kia dừng bước nhìn chăm chú vào một ô cửa bày hàng, Holmes cũng làm theo. Liền sau đó, anh bật ra một tiếng kêu hài lòng, và theo ánh mắt hăm hở của anh, tôi thấy một cỗ xe ngựa nhỏ có một khách ngồi bên trong đang dừng bên kia đường bây giờ lại từ từ lăn bánh đi tiếp.

"Người ta cần tìm đó, Watson! Đi theo! Nếu không làm được gì hơn thì cũng phải nhìn hắn cho rõ."

Đúng lúc đó tôi thấy một bộ râu quai nón đen rậm và một đôi mắt soi mói ngoảnh về phía chúng tôi qua cửa sổ bên hông cỗ xe ngựa. Cửa xe liền sập lại, có tiếng quát tháo xà ích, rồi chiếc xe ngựa phóng như điên theo phố Regent. Holmes nôn nóng nhìn quanh tìm một xe ngựa khác nhưng không thấy chiếc nào vắng khách. Anh bèn chạy ào đi cố đuổi theo giữa luồng xe cộ nhưng khoảng cách quá xa và cỗ xe ngựa kia đã mất dạng.

"Thế đấy!" Holmes thốt lên chua chát khi quay lại từ dòng xe cộ, miệng thở hổn hển và mặt tái nhợt vì bực tức. "Sao đã gặp vận rủi lại còn xoay xở kém thế này? Watson ơi là Watson, nếu anh là người trung thực thì phải ghi lại cả chuyện này để thấy không phải lúc nào tôi cũng thành công!"

"Người đó là ai?"

"Chẳng biết được gì."

"Một kẻ do thám?"

"À, theo những gì chúng ta biết thì rõ ràng Baskerville đã bị ai đó theo dõi rất chặt từ khi anh ta đến thành phố này. Nếu không thì làm sao lại có người biết chuyện anh ta nghỉ lại khách sạn Northumberland nhanh thế được? Nếu họ bám theo Baskerville từ ngày đầu thì tôi cho rằng ngày thứ hai họ cũng theo dõi anh ta. Chắc lúc nãy anh cũng để ý là có hai lần tôi đi ra phía cửa sổ trong lúc bác sĩ Mortimer kể lại truyền thuyết đó."

"Có, tôi còn nhớ."

"Lúc đó tôi tìm xem có kẻ nào tha thẩn dưới đường không nhưng chẳng thấy gì. Chúng ta đang đương đầu với một kẻ tinh ranh đó, Watson. Vụ này hết sức bí ẩn, tuy tôi vẫn chưa dám chắc thế lực ta đã gặp là thiện hay ác, nhưng tôi vẫn luôn thấy có sức mạnh và mưu đồ. Khi hai ông bạn kia ra về, tôi liền đi theo ngay với hi vọng phát hiện ra kẻ giấu mặt theo dõi họ. Hắn ta quả là quỷ quyệt nên đã không chọn cách đi bộ mà thuê riêng một chiếc xe ngựa để có thể tha thẩn theo sau hay phóng nhanh qua mặt họ mà không gây chú ý. Cách làm của hắn còn có một lợi thế nữa là nếu hai người kia đón xe ngựa thì hắn đã có sẵn xe để bám theo. Tuy nhiên, cách này có một bất lợi rành rành."

"Hắn ta phải tiếp xúc với người xà ích."

"Chính xác."

"Thật đáng tiếc là chúng ta không biết số xe!"

"Watson ơi, anh nghĩ thế thật đấy à? Vừa rồi tôi có vụng về nhưng đâu đến nỗi bỏ sót chi tiết đó. Tên do thám kia thuê xe sỗ 2704. Nhưng lúc này chi tiết đó chẳng có ích gì."

"Làm sao anh có thể xoay xở khá hơn được nữa."

"Khi quan sát chiếc xe ngựa, lẽ ra tôi phải quay lại ngay và đi theo hướng khác. Sau đó tôi có thể thoải mái thuê một chiếc xe thứ hai và bám theo chiếc xe đầu ở một khoảng cách thích hợp, hoặc tốt hơn nữa là đi thẳng đến khách sạn Northumberland rồi chờ ở đó. Khi kẻ giấu mặt kia theo Baskerville về khách sạn thì chúng ta đã có cơ hội chơi trò gậy ông đập lưng ông để theo dõi xem hắn ta đi về đâu. Nhưng thực tế thì do hăm hở lộ liễu, chúng ta đã tự làm lộ tông tích, vậy là đối phương đã tận dụng sơ hở đó một cách nhanh nhạy phi thường và chuồn mất không tăm tích."

Trong khi trò chuyện, chúng tôi cứ từ tốn tản bộ dọc phố Regent, còn Mortimer và người đồng hành đi trước đã khuất dạng từ lâu. Holmes nói, "Giờ mà đi theo họ cũng chẳng có ích gì nữa. Kẻ giấu mặt kia đã bỏ đi và sẽ không quay lại đâu. Chúng ta phải xem mình còn lá bài gì trong tay và phải chơi dứt khoát. Anh có chắc đã nhìn thấy rõ mặt người ngồi trong chiếc xe đó chứ?"

"Tôi chỉ dám chắc là nhìn thấy rõ bộ râu."

"Thì tôi cũng vậy, theo tôi đó nhất định là râu giả. Với một kẻ khôn ranh đang làm một việc tinh vi thì bộ râu ấy chẳng có công dụng gì ngoài che giấu diện mạo. Vào đây đi, Watson!"

Anh rẽ vào một văn phòng điện tín của khu này và được người quản lí chào đón niềm nở.

"A, Wilson, hóa ra anh vẫn chưa quên cái chuyện vặt mà tôi được may mắn giúp anh?"

"Làm sao quên được, thưa ông. Ông đã cứu vãn danh dự cho tôi, và có lẽ cả mạng sống của tôi nữa."

"Anh lại quá lời rồi, anh bạn thân mến à. Wilson này, tôi nhớ hình như trong số các cậu nhỏ làm công cho anh, có một chú bé tên là Cartwright đã tỏ ra được việc trong quá trình điều tra hồi đó."

"Đúng rồi, thưa ông, nó vẫn còn làm ở đây."

"Anh cho gọi nó ra đây nhé? Cảm ơn anh! Và tôi muốn đổi tờ năm bảng Anh này thành tiền lẻ."

Theo lệnh của người quản lí, một chú bé mười bốn tuổi, mặt mày sáng sủa, nhanh nhẹn xuất hiện, chú đứng nhìn nhà thám tử lừng danh với vẻ tôn kính hết mực. Holmes nói, "Cho tôi mượn cuốn Danh bạ Khách sạn. Cảm ơn! Này, Cartwright, ở đây có tên hai mươi ba khách sạn, tất cả đều ở khu vực lân cận Charing Cross, thấy chưa?"

"Dạ thấy."

"Cháu phải lần lượt ghé từng khách sạn này."

"Dạ."

"Cứ tới đâu thì đầu tiên cháu phải cho người gác cổng bên ngoài một shilling. Đây là hai mươi ba shilling."

"Dạ."

"Cháu phải bảo người đó là cháu cần xem qua số giấy loại của ngày hôm trước. Cứ nói là có một điện tín quan trọng đã giao nhầm và cháu đang cần tìm lại bức điện đó. Hiểu không?"

"Dạ hiểu."

"Nhưng thật sự cái mà cháu phải tìm là một trang giữa của tờ báo Times có nhiều chỗ thủng bị cắt bằng kéo. Đây là tờ báo Times. Trang đó đây này. Cháu dễ dàng nhận ra mà, phải không?"

"Dạ phải."

"Ở mỗi nơi, người gác cổng sẽ gọi anh bồi ở đại sảnh, cháu cũng cho người này một shilling nhé. Đây là hai mươi ba shilling nữa. Sau đó có khả năng là cháu sẽ thấy ở hai mươi ba khách sạn thì có đến hai mươi nơi là giấy loại của ngày hôm trước đã bị đốt hay thải đi rồi. Trong ba trường hợp còn lại cháu sẽ thấy một đống giấy và phải tìm cho ra trang báo Times này nằm trong đó. Khả năng tìm được là rất thấp. Ta thêm mười shilling nữa phòng hờ có chuyện cần. Trước tối nay phải gửi điện tín về phố Baker báo lại cho ta biết. Còn bây giờ, Watson ơi, chuyện còn lại là chúng ta phải gửi điện dò tìm tông tích người xà ích của chiếc xe ngựa số 2704, rồi ghé vào một phòng triển lãm tranh trên phố Bond cho qua thời gian chờ đến giờ hẹn ở khách sạn."

5. Ba manh mối đứt đoạn

Sherlock Holmes có khả năng tách bạch suy nghĩ rất đáng nể. Suốt hai giờ liền, có vẻ như anh đã quên hẳn công việc kì lạ mà chúng tôi đã can dự vào và hoàn toàn say sưa với những bức tranh của các họa sĩ bậc thầy hiện đại người Bỉ. Từ khi chúng tôi rời phòng triển lãm cho tới lúc đặt chân tới khách sạn Northumberland, anh toàn nói chuyện mĩ thuật, lĩnh vực mà anh chỉ hiểu biết sơ sơ.

"Ngài Henry Baskerville đang chờ quý ông trên lầu", nhân viên trực nói. "Ngài bảo tôi là nếu quý ông đến đây thì đưa lên gặp ngay."

"Phiền anh cho phép tôi xem qua sổ đăng kí lưu trú được không?" Holmes hỏi.

"Xin cứ thoải mái."

Cuốn sổ cho thấy có hai cái tên đã được ghi thêm sau tên Baskerville. Một là Theophilus Johnson và gia đình, tới từ Newcastle; một là bà Oldmore và người hầu gái, đến từ High Lodge, Alton.

"Nhất định đây phải là ông Johnson mà tôi quen", Holmes nói với nhân viên. "Ông này là luật sư, tóc hoa râm và chân đi cà nhắc phải không?"

"Dạ không phải, ông Johnson này là chủ mỏ than, một quý ông rất nhanh nhẹn, trạc tuổi ông đấy ạ."

"Có chắc là anh không lầm về nghề nghiệp của ông ta đấy chứ?"

"Dạ không! Ông ấy quen ở khách sạn này nhiều năm rồi và chúng tôi đâu có lạ gì."

"A, vậy thì rõ rồi. Còn bà Oldmore nữa, hình như tôi nhớ cái tên này. Xin lỗi vì tò mò, nhưng thường thì nghĩ đến người quen này lại nhớ đến người quen khác."

"Đây là một quý bà đau yếu, thưa ông. Chồng bà ấy nguyên là thị trưởng Gloucester. Lần nào đến đây bà ấy cũng trọ ở chỗ chúng tôi."

"Cảm ơn anh, vậy đúng là tôi không quen biết bà ta. Watson này", anh hạ giọng nói với tôi khi cả hai cùng đi lên lầu, "với những câu hỏi đó chúng ta đã xác định được dữ kiện tối quan trọng. Chúng ta giờ đã biết những người hết sức quan tâm đến nam tước đã không trú ngụ ở khách sạn này. Vậy có nghĩa là dù rất sốt sắng theo dõi Baskerville, như chúng ta đã biết, họ cũng không kém phần sốt sắng muốn tránh mặt anh ta. Đó, chi tiết này mới đúng là có nhiều ngụ ý."

"Ngụ ý gì chứ?"

"Nó ngụ ý... ôi, anh bạn thân mến, có chuyện gì thế hở trời?" Chúng tôi vừa mới vòng qua đầu cầu thang thì đã chạm trán ngài Henry Baskerville. Gương mặt anh ta bừng bừng tức giận, và trên tay đang cầm một chiếc ghệt cũ, đầy bụi bặm. Anh ta tức tối không thốt nên lời, mãi sau mới xổ ra một tràng từ ngữ rặt thổ âm miền Tây Mỹ châu, nghe nặng hơn hẳn âm điệu mà chúng tôi đã nghe ban sáng. Anh ta to tiếng, "Coi bộ cái khách sạn này tưởng tôi là thằng ngu chắc. Tụi bay khôn hồn thì đừng có chọn lầm người mà giỡn mặt. Đồ khốn, thằng nhãi đó mà không tìm ra chiếc ghệt thất lạc thì cái khách sạn này sẽ biết tay tôi. Ồ, ông Holmes, giỡn chơi chút xíu tôi còn chịu được chứ như thế này thật là quá lắm."

"Ngài vẫn còn tìm chiếc ghệt à?"

"Đúng thế, thưa ông, và phải tìm cho ra."

"Nhưng có đúng hồi sáng ngài bảo đó là chiếc ghệt mới màu nâu phải không?"

"Đúng thế, thưa ông. Còn bây giờ lại là chiếc ghệt cũ màu đen."

"Sao? Không phải ý ngài nói là...?"

"Ý tôi muốn nói đúng như vậy đấy. Trên đời này tôi chỉ có ba đôi ghệt mà thôi; đôi mới màu nâu, đôi cũ màu đen, và một đôi bằng da bóng tôi đang mang đây này. Tối hôm qua chúng nó lấy mất một chiếc ghệt nâu của tôi, hôm nay lại thó mất một chiếc ghệt đen nữa. Này anh kia, tìm ra chưa? Nói nghe coi, chứ đừng có đứng trố mắt ra đó!"

Một anh bồi người Đức bối rối vừa ló mặt tới, "Dạ chưa, tôi đã dò hỏi khắp khách sạn rồi nhưng không ai biết gì cả ạ."

"À, nếu đến chiều mà không tìm ra chiếc ghệt thì ta sẽ gặp người quản lí và nói thẳng là ta đi luôn khỏi khách sạn này?"

"Sẽ tìm ra mà, thưa ngài... Nếu ngài nhẫn nại một chút, tôi xin hứa với ngài là sẽ tìm ra."

"Nhớ lấy, ta sẽ không để bị lấy mất thứ gì ở cái ổ trộm cắp này nữa đâu. Chà, chà, ông Holmes, xin lỗi đã làm phiền ông vì chuyện vặt vãnh thế này..."

"Tôi nghĩ chuyện này rất đáng quan tâm chứ."

"Ồ, xem ra ông quả là coi trọng chuyện này."

"Thế ngài giải thích làm sao?"

"Tôi không có ý giải thích gì cả. Đây đúng là chuyện bực mình nhất, kì quặc nhất tôi từng gặp."

"Có lẽ là kì quặc nhất." Holmes trầm ngâm nói.

"Thế ông nghĩ sao về chuyện này?"

"À, thú thật là tôi cũng chưa hiểu được. Chuyện của ngài rất phức tạp, ngài Henry ạ. Khi kết nối việc này với cái chết của ngài Charles, tôi không dám nói là trong cả năm trăm vụ quan trọng tôi từng giải quyết lại có vụ nào kì bí như thế. Nhưng chúng ta đã có trong tay nhiều manh mối, và khả năng là một manh mối nào đó sẽ dẫn ta đến sự thật. Chúng ta có thể phí thời gian theo lầm dấu vết, nhưng sớm hay muộn chúng ta cũng sẽ lần ra đúng hướng."

Chúng tôi cùng thư thả ăn bữa trưa mà không ai nói gì nhiều về công chuyện, qua đó mọi người cảm thấy gần gũi nhau hơn. Mãi đến khi chúng tôi đã đi vào phòng khách riêng, Holmes mới hỏi nam tước về ý định của anh ta.

"Về lâu đài Baskerville."

"Khi nào?"

"Vào cuối tuần này"

"Nhìn chung quyết định của ngài là sáng suốt", Holmes nói. "Tôi có thừa bằng chứng là ngài đang bị theo dõi ở London và trong hàng triệu người ở thành phố này thì khó lòng tìm ra những kẻ đó là ai và mục đích của chúng là gì. Nếu có ác ý thì chúng có thể gây nguy hiểm cho ngài, và chúng tôi sẽ bất lực không ngăn chặn được. Bác sĩ Mortimer này, ông không biết là sáng nay hai vị đã bị theo dõi khi từ nhà chúng tôi đi ra à?"

"Theo dõi!" Bác sĩ Mortimer giật bắn người. "Mà ai làm việc ấy?"

"Rất tiếc đó là điều tôi không thể cho ông biết. Trong số láng giềng hay người quen biết của ông ở Dartmoor có người nào có râu quai nón đen không?"

"Không, à để xem... À, có. Barrymore, người quản gia của ngài Charles để râu quai nón đen."

"A! Thế Barrymore đang ở đâu?"

"Ông ta đang lo công việc ở lâu đài."

"Tốt nhất chúng ta phải biết đích xác ông ta có thật sự ở đó không hay liệu ông ta có thể đang ở London không."

"Làm sao biết được?"

"Đưa cho tôi một đơn điện tín. Đã sẵn sàng đón ngài Henry chưa. Nội dung thế là đủ. Ghi tên người nhận là ông Barrymore, lâu đài Baskerville. Bưu cục nào gần nhất nhỉ? Grimpen. Rất tốt, chúng ta sẽ gửi bức điện thứ hai cho bưu cục trưởng Grimpen. Điện tín gửi ông Barrymore phải được giao tận tay. Nếu người nhận đi vắng, vui lòng trả lại điện tín cho ngài Henry Baskerville, khách sạn Northumberland. Như vậy đến chiều chúng ta sẽ biết ngay Barrymore có mặt ở Devonshire hay không."

"Ra thế", Baskerville nói. "À, bác sĩ Mortimer, tiện thể cho tôi hỏi ông Barrymore này là ai vậy?"

"Ông ta là con của người quản gia cũ đã qua đời. Tới nay nhà họ đã bốn đời chăm lo cho lâu đài. Theo như tôi biết, hai vợ chồng ông ta đều là người đáng kính trọng không kém bất kì ai trong địa hạt Devonshire."

"Như vậy thì cũng hiển nhiên là", Baskerville nói, "miễn sao không có ai trong gia tộc sống ở lâu đài thì họ sẽ có một dinh cơ hết sức khang trang và không phải làm lụng gì cả."

"Quả thế thật."

"Di chúc của ngài Charles có cho Barrymore thừa hưởng gì không?" Holmes hỏi

"Hai vợ chồng ông ta mỗi người được năm trăm bảng Anh."

"À! Họ có biết mình sẽ được nhận khoản tiền đó không?"

"Có, ngài Charles rất thích nói về những điều khoản trong di chúc của mình."

"Rất hấp dẫn."

Bác sĩ Mortimer nói, "Tôi mong là ông không ngờ vực tất cả những ai được nhận một khoản tài sản của ngài Charles, bởi vì tôi cũng được ngài để lại cho một nghìn bảng Anh."

"Thật thế ư! Còn ai được nữa?"

"Có nhiều khoản lặt vặt để lại cho người này người kia, và một số tiền lớn cho các hội từ thiện công cộng. Toàn bộ phần còn lại dành cho ngài Henry."

"Vậy phần còn lại là bao nhiêu?"

"Bảy trăm bốn mươi nghìn bảng Anh."

Holmes nhướng mày ngạc nhiên. Anh nói, "Tôi không ngờ là vụ này có liên quan đến một số tiền khổng lồ như thế."

"Ngài Charles nổi tiếng giàu có nhưng chúng tôi không hề biết là giàu cỡ nào cho đến khi kiểm kê số chứng khoán của ngài. Tổng giá trị tài sản cũng gần tới một triệu bảng."

"Trời ơi! Đó là phần thưởng khiến người ta sẵn sàng chơi một canh bạc liều lĩnh. Một câu hỏi nữa, bác sĩ Mortimer. Giả sử vị nam tước trẻ đây có mệnh hệ nào, xin ngài thứ lỗi cho giả thuyết khó chịu này, thì ai sẽ thừa kế cả gia sản?"

"Vì em trai của ngài Charles là Rodger Baskerville đã chết mà không có vợ con, tài sản đó sẽ được giao cho gia đình Desmond là bà con xa. James Desmond là một mục sư cao niên ở Westmoreland."

"Cảm ơn ông, những chi tiết này hết sức đáng chú ý. Thế ông gặp ông James Desmond bao giờ chưa?"

"Rồi, ông ta có ghé thăm ngài Charles một lần. Ông ta có diện mạo đáng kính và đời sống rất thánh thiện. Tôi nhớ ông ta đã từ chối nhận phần chia gia tài của ngài Charles mặc dù chính ngài Charles cố khăng khăng nài ép."

"Nếu vậy thì con người có sở thích bình dị này sẽ thừa kế hàng ngàn bảng Anh của ngài Charles."

"Ông ta sẽ là người thừa hưởng phần đất đai theo quy định về quyền thừa kế. Ông ta cũng sẽ thừa hưởng phần tiền bạc trừ phi người sở hữu hiện nay có di chúc muốn làm khác đi, tất nhiên là người sở hữu hiện nay có toàn quyền với gia tài ấy."

"Thế ngài đã làm di chúc chưa, ngài Henry?"

"Chưa làm, ông Holmes à. Tôi không có thời gian vì chỉ mới hôm qua thôi tôi mới biết những việc liên quan. Nhưng dù sao đi nữa tôi thấy rằng tiền bạc nên đi kèm tước phong và đất đai. Đó là quan điểm của ông bác xấu số của tôi. Làm sao chủ nhân mới có thể khôi phục vinh quang của dòng họ Baskerville nếu không có đủ tiền bạc để duy trì dinh cơ? Nhà, đất và tiền phải đi với nhau."

"Đúng thế. À, ngài Henry, tôi đồng tình với ngài về quyết định sáng suốt là trở về Devonshire ngay không trì hoãn. Tôi chỉ đòi hỏi một điều kiện. Ngài nhất định không được đi một mình."

"Bác sĩ Mortimer sẽ về cùng với tôi."

"Nhưng bác sĩ Mortimer còn có công việc phải lo toan, và nhà ông ấy cách chỗ ngài nhiều dặm. Dù có tận tình hết mức thì vẫn có lúc ông ấy không giúp đỡ ngài được. Không, ngài Henry, ngài phải có một người tin cẩn đi cùng, một người sẽ luôn ở bên cạnh ngài."

"Đích thân ông cùng đi được chăng, ông Holmes?"

"Nếu xảy ra chuyện cần kíp thì tôi sẽ cố gắng có mặt tại chỗ; nhưng mong ngài hiểu cho, tôi hành nghề cố vấn trên phạm vi rộng và liên tục nhận được những thỉnh cầu từ mọi nơi, tôi không thể nào vắng mặt ở London trong thời gian không xác định được. Ngay lúc này đây, một trong những tên tuổi khả kính nhất Anh quốc đang bị một kẻ tống tiền bôi nhọ, và chỉ có tôi mới ngăn chặn nổi một vụ tai tiếng thảm họa. Ngài thấy đấy, làm sao tôi bỏ đi Dartmoor được."

"Thế ông tiến cử ai được chăng?"

Holmes đặt bàn tay lên cánh tay tôi.

"Nếu anh bạn tôi chịu đảm nhận việc này thì không có ai đáng quý hơn có thể sát cánh với ngài trong cảnh ngặt nghèo. Tôi xin khẳng định hết sức chắc chắn."

Đề nghị bất ngờ này khiến tôi sửng sốt nhưng tôi chưa kịp đáp lời thì Baskerville đã chộp lấy bàn tay tôi lắc thật nồng nhiệt Anh ta nói, "Ôi quý hóa quá, bác sĩ Watson. Ông hiểu rõ hoàn cảnh của tôi và ông cũng biết về vụ này không kém gì tôi. Ông mà về lâu đài Baskerville giúp tôi lo liệu thì tôi sẽ không bao giờ quên ơn."

Viễn cảnh phiêu lưu bao giờ cũng hấp dẫn, và tôi thêm phần hãnh diện vì những lời khen ngợi của Holmes và vì thịnh tình mà vị nam tước này dành cho tôi như một bạn đồng hành.

"Tôi xin hân hạnh tháp tùng", tôi nói. "Tôi hiện không biết làm sao có thể tận dụng thời gian của mình hay hơn thế."

"Và anh nhớ tường trình cặn kẽ cho tôi đấy", Holmes nói. "Khi có chuyện cần kíp, mà chắc chắn sẽ có, tôi sẽ hướng dẫn cho anh hành động. Tôi chắc là tất cả sẽ sẵn sàng lên đường vào thứ bảy chứ?"

"Vậy có tiện không, bác sĩ Watson?"

"Hẳn rồi."

"Thế thì thứ bảy, trừ phi có thay đổi gì khác, chúng ta sẽ gặp nhau trên chuyến tàu 10 giờ 30 ở ga Paddington."

Chúng tôi vừa đứng dậy cáo từ thì Baskerville bỗng reo lên một tiếng đắc thắng rồi lao tới một góc phòng và kéo dưới gầm tủ ra một chiếc ghệt màu nâu.

"Chiếc ghệt thất lạc của tôi đây này!" Anh ta nói to.

"Mong sao mọi khó khăn của chúng ta cũng tan biến dễ dàng như thế!" Sherlock Holmes nói.

"Nhưng chuyện này kì lạ quá", bác sĩ Mortimer lên tiếng. "Trước bữa trưa tôi đã lục khắp phòng này rồi."

"Tôi cũng vậy", Baskerville nói. "Từng li không sót."

"Chắc chắn là hồi nãy đâu có chiếc ghệt nào dưới đó."

"Nếu vậy hẳn là người phục vụ đã đặt ở đó trong khi chúng ta ăn trưa."

Anh bồi người Đức được gọi tới nhưng lại thú nhận chẳng hề biết chuyện này, mà có hỏi ai cũng chẳng rõ gì hơn. Lại thêm một bí ẩn nữa tiếp nối một chuỗi những bí ẩn nho nhỏ xảy ra liền tù tì mà bề ngoài có vẻ vu vơ. Tạm bỏ qua toàn bộ câu chuyện kinh hoàng về cái chết của ngài Charles, chúng tôi đã gặp hàng loạt biến cố không thể giải thích được chỉ trong vòng hai ngày, bao gồm bức thư ghép từ chữ trên báo, tên do thám râu đen trong xe ngựa, mất chiếc ghệt mới màu nâu, mất chiếc ghệt cũ màu đen, và giờ tới chiếc ghệt mới màu nâu xuất hiện trở lại.

Holmes ngồi im lặng trong xe ngựa trên đường về phố Baker, nhìn đôi mày chau và nét mặt căng thẳng của anh, tôi biết trong tâm trí anh cũng như tôi, đang cố hình dung ra một giả thuyết nào đó khớp với những tình tiết kì quái và có vẻ chẳng liên quan gì tới nhau này. Cả buổi trưa và sang buổi chiều, anh cứ ngồi đăm chiêu trong khói thuốc. Ngay trước bữa ăn tối có hai bức điện tín được mang tới. Bức đầu tiên là: Vừa biết tin Barrymore vẫn có mặt ở lâu đài Baskerville. Bức thứ hai: Đã ghé hai mươi ba khách sạn như chỉ dẫn nhưng rất tiếc phải báo là không tìm ra trang nhật báo Times bị cắt thủng. Cartwright.

"Thế là hai manh mối tiêu tùng, Watson. Không có gì kích thích cho bằng một vụ án mà mọi thứ đều bất lợi. Chúng ta phải dò tìm dấu vết khác thôi."

"Chúng ta vẫn còn người xà ích đánh xe cho tên do thám."

"Chính xác. Tôi đã gửi điện hỏi tên và địa chỉ của người này ở Sở Trước bạ. Tôi sẽ không lấy làm lạ nếu như đây là tin phúc đáp."

Tuy nhiên, tiếng chuông cửa không chỉ đem lại tin phúc đáp mà còn hơn thế, vì cảnh cửa xịch mở và một người bộ dạng thô lỗ bước vào - chính người xà ích đó chứ không ai khác.

"Tôi được tổng văn phòng báo cho biết là một quý ông ở địa chỉ này đã hỏi thông tin về xe ngựa số 2740", anh ta nói. "Tôi đã đánh xe này suốt bảy năm rồi và chưa hề bị ai than phiền. Tôi từ bãi xe đến thẳng đây để hỏi tận mặt xem ông ta thán gì tôi."

"Tôi chẳng có chuyện gì ta thán anh cả, anh bạn tốt ơi", Holmes đáp. "Trái lại, tôi sẽ cho anh một đồng nửa sovereign nếu anh trả lời rõ ràng những câu hỏi của tôi."

"A, hôm nay quả là một ngày tốt số", người xà ích ngoác miệng cười. "Thế ông muốn hỏi gì, thưa ông?"

"Trước tiên là họ tên và địa chỉ của anh, phòng khi tôi cần gặp lại."

"John Clayton, số 3 phố Turpey, khu Borough. Xe ngựa của tôi đậu ở bãi Shipleyh Yard, gần ga Waterloo."

Sherlock Holmes ghi lại thông tin này. "Này Clayton, anh hãy kể tôi nghe về hành khách đã đến và theo dõi ngôi nhà này lúc 10 giờ sáng nay, sau đó đi theo hai quý ông dọc phố Regent."

Người kia tỏ vẻ ngạc nhiên và hơi lúng túng. Anh ta nói, "Chà, tôi có kể ông nghe cũng chẳng ích gì vì coi bộ ông đã biết hết những điều tôi biết. Sự thật là quý ông đó tự xưng là thám tử và dặn tôi không được nói gì về ông ấy với bất kì ai."

"Anh bạn thân mến ơi, đây là chuyện rất quan trọng, và có thể anh sẽ lâm vào tình cảnh khó khăn nếu anh định giấu giếm tôi bất cứ chuyện gì. Anh nói người khách đó bảo ông ta là thám tử à?"

"Dạ đúng vậy."

"Ông ta nói thế khi nào?"

"Khi ông ấy rời xe tôi."

"Ông ta có nói gì thêm nữa không?"

"Ông ấy có xưng tên."

"Ồ, có xưng tên à?" Holmes liếc mắt nhìn tôi vẻ đắc thắng. "Thật là khinh suất. Thế ông ấy xưng tên gì?"

"Tên ông ấy", người xà ích nói, "...là Sherlock Holmes."

Chưa bao giờ tôi thấy vẻ mặt anh bạn tôi lại sửng sốt như khi nghe câu trả lời này của người xà ích. Anh ngồi im ngỡ ngàng mất một lát. Rồi anh bật cười vui vẻ nói, "Ghi điểm rồi Watson, một cú ghi điểm không thể chối cãi! Tôi cảm nhận được một đường kiếm cũng mau lẹ và biến ảo như đường kiếm của mình. Hắn đã đâm trúng tôi một cú đẹp mắt. Vậy tên ông ta là Sherlock Holmes phải không?"

"Dạ vâng, đó là tên của quý ông ấy?"

"Xuất sắc! Hãy cho tôi biết anh đón ông ta ở đâu và mọi chuyện đã xảy ra."

"Ông ấy vẫy xe tôi lúc 9 rưỡi sáng ở quảng trường Trafalgar. Ông ấy xưng là thám tử và đề nghị cho tôi hai đồng guinea nếu nguyên một ngày tôi làm đúng những gì ông ấy muốn và không thắc mắc hỏi han gì hết. Tôi mừng quá nên đồng ý ngay. Đầu tiên tôi cho xe đi tới khách sạn Northumberland và chờ ở đó cho tới khi hai quý ông kia đi ra và họ đón xe ngựa từ bãi xe khách. Chúng tôi đi theo xe của họ cho tới khi dừng lại đâu đó gần đây."

"Ngay cửa nhà này", Hohnes nói.

"Chà, tôi không chắc là thế, nhưng tôi dám nói là vị khách của tôi đã biết cả. Chúng tôi dừng xe khoảng giữa phố này và chờ một tiếng rưỡi. Sau đó hai quý ông nọ đi bộ qua chỗ chúng tôi và chúng tôi đi theo dọc phố Baker, và theo..."

"Tôi biết", Holmes nói.

"Cho tới khi đi được ba phần tư phố Regent. Lúc đó vị khách của tôi kéo sập cửa sổ lại rồi quát bảo tôi phóng xe chạy hết tốc lực tới ga Waterloo ngay. Tôi quất ngựa chạy thục mạng và chưa đầy mười phút đã đến nơi. Ông ấy trả tôi hai đồng guinea như đã hứa rồi đi vào nhà ga. Đến lúc đi, ông ấy mới ngoảnh lại và nói: 'Chắc anh sẽ lấy làm thích thú khi biết mình vừa được đánh xe cho ông Sherlock Holmes.' Vì thế tôi mới biết tên ông ấy."

"Ra thế. Rồi anh không còn gặp ông ta nữa à?"

"Ông ấy vào trong ga rồi thì tôi không gặp lại nữa."

"Vậy anh mô tả nhân dạng ông Sherlock Holmes được không?"

Người xà ích gãi đầu. "Chà, quý ông này thật không dễ mô tả chút nào. Tôi đoán ông ấy chừng bốn mươi tuổi, chiều cao trung bình, thấp hơn ông chừng hai, ba inch gì đó, thưa ông. Ông ấy ăn mặc có vẻ sang, râu quai nón đen, tỉa bằng phía dưới, và mặt trắng. Tôi không chắc là có thể nói gì hơn nữa."

"Mắt ông ta màu gì?"

"Ồ, tôi không nói được."

"Anh không còn nhớ gì khác sao?"

"Dạ không, thưa ông."

"Được rồi, tiền thưởng cho anh đây. Anh sẽ được nửa sovereign nữa nếu có thể cho biết thêm bất kì thông tin nào khác. Xin chào nhé!"

"Xin chào, và cảm ơn ông!"

John Clayton khoái trá ra về, còn Holmes quay sang tôi nhún vai, mỉm cười thiểu não.

"Thế là đứt luôn manh mối thứ ba, và chúng ta lại quay về điểm khởi đầu", anh nói. "Tên khốn kia láu cá thật! Hắn biết số nhà của chúng ta, biết ngài Henry Baskerville nhờ tôi tư vấn, phát hiện ra tôi là ai trên phố Regent, đoán được tôi đã thấy số xe và sẽ tìm ra được người xà ích, nên để lại lời nhắn táo tợn này. Watson ơi, nói thật với anh, lần này chúng ta đã có đối thủ ngang sức ngang tài rồi đó. Tôi đã thất bại ở London. Chỉ mong là anh may mắn hơn tôi ở Devonshire. Nhưng tôi thật không yên tâm về chuyện này."

"Là chuyện gì chứ?"

"Chuyện cử anh đi. Vụ này rất đáng sợ, Watson, rất nguy hiểm, và càng biết nhiều về nó thì tôi càng có linh cảm không hay. Vâng, anh muốn cười thì cứ việc, anh bạn thân mến à, nhưng xin lấy danh dự mà nói với anh là tôi sẽ rất vui mừng khi anh bình an vô sự quay về phố Baker."

6. Lâu đài Baskerville

Đến đúng ngày hẹn, ngài Henry Baskerville và bác sĩ Mortimer đã sẵn sàng, và chúng tôi lên đường đi Devonshire như đã thu xếp. Sherlock Holmes tiễn tôi đến nhà ga và cho tôi những lời hướng dẫn, căn dặn cuối cùng trước lúc chia tay.

"Tôi sẽ không làm lung lạc suy nghĩ của anh bằng những giả thuyết hay mối hoài nghi bóng gió nào hết, Watson à," anh nói. "Tôi chỉ muốn anh báo lại mọi sự việc sao cho đầy đủ nhất còn chuyện lập giả thuyết cứ để tôi lo."

"Loại sự việc nào?" Tôi hỏi.

"Bất cứ điều gì có vẻ liên quan tới vụ này cho dù rất gián tiếp, và đặc biệt là những mối quan hệ giữa ngài Baskerville trẻ với các láng giềng, hoặc bất kì chi tiết mới nào liên quan đến cái chết của ngài Charles. Trong mấy ngày qua, chính tôi cũng đã tìm hiểu nhưng tôi e là chưa có kết quả gì. Chỉ có một điều chắc chắn là ông James Desmond, người thừa kế tiếp theo, là một bậc cao niên tính tình rất hòa ái cho nên những trò thâm hiểm này không thể nào phát xuất từ ông ấy. Thật sự tôi nghĩ rằng chúng ta có thể loại trừ ông ấy khỏi những trù tính của chúng ta. Còn lại là những người sống chung quanh ngài Henry Baskerville trên truông."

"Sa thải luôn hai vợ chồng Barrymore ngay từ đầu có phải hơn không?"

"Hoàn toàn không. Không còn sai lầm nào nghiêm trọng hơn. Nếu họ vô tội thì làm thế là bất công tàn nhẫn, còn nếu họ có tội thì chúng ta lại mất hết cơ hội vạch trần. Không, không được, cứ giữ họ trong danh sách tình nghi. Còn người mã phu ở lâu đài nữa, nếu tôi nhớ không lầm. Rồi hai nông dân trên truông, ông bạn bác sĩ Mortimer thì tôi tin là hoàn toàn lương thiện, nhưng vợ của Mortimer thì chúng ta chưa hề biết gì cả. Còn nhà tự nhiên học Stapleton và em gái ông ta, nghe đâu là một phụ nữ rất quyến rũ. Ông Frankland ở lâu đài Lafter cũng là một ẩn số, rồi thêm một, hai người láng giềng nữa. Đó là những người mà anh phải để ý thật kĩ."

"Tôi sẽ cố hết sức."

"Chắc anh có mang súng chứ?"

"Có, tôi nghĩ nên mang theo thì hơn."

"Chắc chắn rồi. Hãy giữ khẩu súng lục cận kề anh suốt ngày đêm, và đừng bao giờ lơ là cảnh giác."

Hai ông bạn kia đã đặt riêng một toa hạng nhất và chờ sẵn ở sân ga.

"Không, chúng tôi không có tin tức gì cả", bác sĩ Mortimer trả lời câu hỏi của bạn tôi. "Tôi có thể cam đoan là suốt hai ngày qua chúng tôi không bị theo dõi. Hễ đi ra ngoài là chúng tôi quan sát kĩ càng và không ai có thể tránh được sự chú ý của chúng tôi."

"Chắc là hai vị luôn đi cùng nhau chứ?"

"Chỉ có chiều hôm qua thì không. Mỗi khi lên thành phố tôi thường bỏ ra một ngày chỉ để tiêu khiển, cho nên tôi dành thời gian ở Bảo tàng Hiệp hội Bác sĩ ngoại khoa."

"Còn tôi đi nhìn ngắm dân tình ở công viên", Baskerville nói. "Nhưng chúng tôi không hề gặp rắc rối gì hết."

"Dù sao vẫn là khinh suất", Holmes vừa nói vừa lắc đầu, nét mặt vô cùng nghiêm nghị. "Ngài Henry ơi, tôi xin ngài đừng đi đâu một mình. Nếu ngài làm thế rủi xảy ra chuyện dữ thì khốn. Ngài tìm được chiếc ghệt kia chưa?"

"Chưa, thưa ông, mất luôn rồi."

"Thực vậy rồi. Thật là hấp dẫn đấy. Thôi, tạm biệt nhé", anh nói thêm khi đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh trên sân ga. "Xin nhớ cho, ngài Henry, một câu trong truyền thuyết xa xưa mà bác sĩ Mortimer đã đọc cho chúng ta nghe: Đừng băng qua truông vào những giờ tăm tối khi quyền lực của quỷ dữ dâng cao."

Tôi ngoái nhìn lại khi đoàn tàu đã bỏ xa sân ga phía sau và vẫn thấy cái bóng cao gầy, khắc khổ của Holmes đứng bất động nhìn chăm chăm theo chúng tôi

Chuyến đi mau chóng và thoải mái, tôi tranh thủ thời gian đó để kết thân với hai người đồng hành và chơi với con chó của bác sĩ Mortimer. Chỉ trong vài giờ chóng vánh, mặt đất đã chuyến màu từ nâu sang đỏ, gạch nhường chỗ cho đá hoa cương, và những con bò màu hung gặm cỏ trên những cánh đồng rào giậu bốn bề, nơi cây cỏ sum suê báo hiệu một vùng khí hậu dẫu ẩm ướt hơn nhưng lại tốt tươi hơn. Vị nam tước trẻ háo hức nhìn ra cửa sổ và reo lên hân hoan khi nhận ra những nét quen thuộc của cảnh trí miền Devon. Anh ta nói, "Từ khi rời chốn này tôi đã đến rất nhiều nơi trên thế giới, bác sĩ Watson ạ, nhưng tôi chưa thấy đâu sánh được nơi đây."

"Tôi chưa hề gặp người dân Devonshire nào mà không tha thiết với xứ này", tôi nhận xét.

"Điều đó không chỉ tùy thuộc vào vùng đất mà còn tùy thuộc vào dòng giống của người ta nữa", bác sĩ Mortimer nói. "Nhìn qua người bạn của chúng ta đây thì thấy ngay kiểu đầu tròn của tộc Celt, chứa đựng trong đó nhiệt tình và tính gắn bó của người Celt. Đầu của ngài Charles tội nghiệp thuộc loại rất hiếm thấy, mang đặc điểm nửa Gael nửa Ivemi. Nhưng lần cuối cùng ngài nhìn thấy lâu đài Baskerville chắc là lúc còn nhỏ lắm phải không?"

"Lúc cha tôi mất tôi mới có mười mấy tuổi và chưa bao giờ nhìn thấy lâu đài, vì cha tôi sống trong một ngôi nhà nhỏ ở vùng duyên hải miền Nam. Từ đó tôi đi thẳng sang Mỹ châu ở với một người bạn của gia đình. Lâu đài này đối với tôi cũng mới lạ hệt như với bác sĩ Watson, và tôi hết sức nôn nóng muốn nhìn thấy vùng truông đó."

"Thật à? Thế thì ước muốn của ngài sẽ thành hiện thực ngay, vì nhác trông đã thấy vùng truông ấy kia kìa", bác sĩ Mortimer vừa nói vừa chỉ tay ra ngoài cửa sổ toa tàu.

Sau những ô ruộng xanh tươi và một dải rừng cong dưới thấp, từ xa nhô lên một ngọn đồi xám u buồn, đỉnh đồi nham nhở lạ lùng, xa mờ và hư ảo như một cảnh tượng hoang đường trong mơ. Baskerville ngồi lặng hồi lâu, mắt dán chặt về hướng đó, và nhìn nét mặt háo hức của nam tước tôi nhận ra hình ảnh ấy có ý nghĩa với anh ta biết bao khi lần đầu tiên anh nhìn thấy chốn lạ kì nơi dòng họ anh đã ngự trị từ lâu và để lại dấu ấn quá sâu đậm. Baskerville ngồi trong góc một toa tàu buồn tẻ, mặc bộ comlê bằng vải tuýt và giọng đặc thổ âm Mỹ, thế nhưng càng nhìn khuôn mặt ngăm đen đầy biểu cảm của anh ta, tôi càng nhận rõ hơn bao giờ hết đây đích thực là hậu duệ của một dòng dõi quý tộc lâu đời, hiếu chiến và đầy quyền uy. Nét kiêu hãnh, can trường và sức manh lộ rõ qua đôi mày rậm, hai cánh mũi nhạy, và đôi mắt to màu nâu nhạt của anh ta. Nếu vùng truông đáng sợ đó đang dành sẵn cho chúng tôi một cuộc điều tra gian lao và nguy hiểm thì ít ra tôi có thể chấp nhận mạo hiểm vì người đồng đội này và tin tưởng rằng anh ta sẽ dũng cảm cùng chung mạo hiểm với tôi.

Đoàn tàu dừng ở một ga nhỏ ven đường và tất cả chúng tôi bước xuống. Bên ngoài, phía sau hàng rào thâm thấp sơn trắng, một cỗ xe song mã không mui loại nhỏ đã chờ sẵn. Việc chúng tôi tới đây rõ ràng là một sự kiện lớn vì ông trưởng ga và đám nhân viên đã bu tới giúp khuân vác hành lí. Đây là một vùng quê bình dị, hiền hòa nhưng tôi ngạc nhiên khi thấy đứng bên cổng ga là hai người có dáng quân nhân mặc đồng phục sẫm màu đang tì người trên hai khẩu súng trường và quan sát chăm chú khi chúng tôi đi ngang qua. Người xà ích - một anh chàng thấp bé, người gân guốc, mặt lạnh lùng - chào đón ngài Henry Baskerville và chỉ mấy phút sau chúng tôi đã được cỗ xe đưa đi vun vút trên con đường rộng màu trắng. Đồng cỏ trập trùng uốn lượn hai bên đường và những ngôi nhà cũ kĩ có đầu hồi lấp ló giữa những tán lá xanh um tùm, nhưng đằng sau vùng quê yên bình ngập nắng là vùng truông ảm đạm in lên nền trời một đường cong dài, đen thẫm, đây đó bị đứt quãng bởi những ngọn đồi nham nhở và hắc ám.

Xe ngựa ngoặt sang một đường rẽ và chúng tôi cứ vòng vèo lên dốc, băng qua những lối mòn đã trũng sâu sau bao thế kỉ dưới bánh xe, hai bờ đất cao hai bên bám đầy rêu đẫm ướt và những bụi dương xỉ lưỡi hươu mọng nước. Đám dương xỉ ngả màu đồng và bụi mâm xôi lốm đốm sáng lên trong ánh chiều tà. Xe vẫn lên dốc, chúng tôi băng qua một chiếc cầu hẹp bằng đá hoa cương và đi men theo một con suối ngầu bọt ầm ầm đổ xuống xối xả giữa những tảng đá xám. Cả con đường lẫn dòng suối chạy vòng qua một khe núi mọc đầy những cây sồi và linh sam còi cọc. Tới mỗi khúc quanh, Baskerville lại thốt lên một tiếng reo mừng, hăm hở nhìn quanh và hỏi vô số chuyện. Trong mắt anh ta tất cả đều tươi đẹp, nhưng với tôi cả vùng quê này đều nhuốm vẻ u sầu, với dấu hiệu rõ rệt của một năm đang tàn. Lá vàng phủ ngập các đường mòn và rung rinh phía trên đầu chúng tôi. Tiếng lọc cọc của bánh xe im bặt khi lăn trên những vạt rau cải thối rữa - với tôi đó dường như là những tặng vật buồn mà Tự Nhiên đã ném ra trước cỗ xe đưa người thừa kế của dòng họ Baskerville trở về.

"Ô, kìa!" Bác sĩ Mortimer kêu to. "Có chuyện gì thế?"

Trước mặt chúng tôi là một triền dốc đầy bụi thạch nam, mũi đất ngoài cùng của truông. Đứng trên đỉnh, rõ ràng và vững chắc như một pho tượng kị sĩ đặt trên bệ, là một người lính cưỡi ngựa, lạnh lùng và nghiêm nghị, súng trường gác trên tay trong tư thế sẵn sàng. Người lính đang quan sát con đường mà chúng tôi vừa đi qua.

"Ái chà! Cái gì thế, Perkins?" Bác sĩ Mortimer hỏi.

"Có một tù nhân đã trốn khỏi ngục Princetown, thưa ông", người xà ích của chúng tôi quay lại nói. "Y trốn ra được ba ngày rồi, và toán cai ngục theo dõi mọi con đường và nhà ga nhưng vẫn chưa tìm ra dấu vết. Nông dân sống ở đây không thích chuyện này đâu, thưa ông, và đó là sự thực."

"À, theo tôi biết thì họ sẽ được thưởng năm bảng Anh nếu có thể báo tin."

"Dạ đúng, nhưng khả năng kiếm được năm bảng chẳng đáng gì so với khả năng bị cắt cổ. Thưa ông, tên này chẳng phải tù nhân bình thường. Hắn là kẻ dám làm mọi chuyện."

"Ai vậy?"

"Là Selden, tên sát nhân ở Notting Hill."

Tôi nhớ rõ vụ này vì đó là vụ Holmes rất chú ý do tính chất dã man lạ lùng của tội ác và sự tàn bạo vô cớ trong mọi hành động của tên sát nhân. Dù hành vi hết sức hung ác, y vẫn thoát án tử hình và được giảm án do người ta ngờ rằng y có vấn đề về thần kinh. Cỗ xe của chúng tôi đã lên tới đỉnh một con dốc và ngay phía trước là vùng truông trải rộng mênh mông, rải rác những mỏm và ụ đá lởm chởm, u cục. Một luồng gió lạnh từ đó ùa tới khiến chúng tôi run lẩy bẩy. Đâu đó quanh đây, trên truông hoang vu này, kẻ tàn ác kia đang ẩn nấp, náu mình trong hang như một con thú dữ, lòng đầy ác tâm chống lại cả giống loài đã khai trừ y. Chỉ còn thiếu có thế là hoàn chỉnh ấn tượng hãi hùng vốn đã toát lên từ miền đất hoang cằn cỗi, luồng gió ớn lạnh, và bầu trời đang sụp tối. Ngay cả Baskerville cũng không lên tiếng nữa và kéo áo choàng sát vào người.

Chúng tôi đã bỏ lại sau lưng miền quê phì nhiêu phía dưới kia. Lúc này ngoái nhìn lại, chúng tôi thấy những tia nắng chếch của buổi chiều tà đang biến các dòng suối thành những dải vàng óng, sáng rực trên nền đất đỏ mới cày xới và miệt rừng ngổn ngang trải rộng. Con đường trước mặt chúng tôi càng lúc càng ảm đạm và hoang vu hơn, băng qua những triền dốc mênh mông màu nâu đỏ, điểm xuyết những tảng đá khổng lồ. Thỉnh thoảng chúng tôi đi ngang qua một căn nhà nhỏ trên truông, mái và vách bằng đá, không hề trồng cây leo để làm dịu bớt những đường nét thô kệch. Rồi đột nhiên, chúng tôi nhìn xuống một thung lũng như miệng chén, mọc nham nhở những cây sồi và linh sam còi cọc, thân vặn vẹo cong oằn vì bao năm phải hứng chịu cơn thịnh nộ của bão tố. Cao vượt lên đám cây cối ấy là hai ngọn tháp cao và hẹp. Người xà ích trỏ cây roi về hướng đó và nói, "Lâu đài Baskerville đấy."

Vị chủ nhân đã đứng lên và đang nhìn đăm đăm về phía ấy, mắt sáng ngời, hai má đỏ bừng. Mấy phút sau chúng tôi đã đến cổng ngoài, hai cánh cổng bằng sắt uốn trang trí hoa văn kì dị và rối rắm, hai bên là những cột trụ đã dầu dãi nắng mưa và loang lổ địa y, trên cùng là hai biểu tượng đầu heo rừng của nhà Baskerville. Ngôi nhà gác cổng chỉ còn là một đống hoang tàn bằng đá hoa cương và những rui kèo trơ trụi, nhưng đối diện đó là một ngôi nhà mới đang xây dở, thành quả đầu tiên từ số vàng mà ngài Charles mang về từ Nam Phi. Qua cổng, chúng tôi vào lối đi chính, bánh xe lặng lẽ lăn trên lớp lá rụng, những cây cổ thụ vươn nhánh đan thành một đường hầm âm u trên đầu chúng tôi. Baskerville rùng mình khi nhìn theo lối đi tối tăm hun hút về phía ngôi nhà sáng lờ mờ như một bóng ma ở phía cuối đường.

"Con đường ấy đây ư?" Nam tước hạ giọng hỏi khẽ.

"Không phải đâu, con đường dạo trồng thủy tùng ở phía bên kia."

Người thừa kế trẻ tuổi ấy nhìn quanh với nét mặt ủ ê. "Ở một nơi như thế này, thảo nào bác tôi toàn cảm thấy chuyện bất an rình rập", anh ta nói. "Thế này thì ai mà chẳng sợ. Tôi sẽ cho mắc một dãy đèn điện trên này trong vòng sáu tháng tới, và các ông sẽ không còn nhận ra nơi này khi đã có một ngọn đèn Swan & Edison công suất bằng cả ngàn ngọn nến lắp ngay trước cửa đại sảnh."

Con đường mở ra thành một bãi cỏ rộng và trước mặt chúng tôi là tòa dinh thự ấy. Trong ánh chiều lịm tắt tôi có thể nhận ra ngay chính giữa là một khối nhà đồ sộ có hiên trước nhô ra. Những dây leo thường xuân phủ kín mặt tiền như một bức mành âm u chỉ chừa lại đôi chỗ trống cho một ô cửa sổ hay gia huy. Phía trên khối nhà chính giữa này là một tháp đôi cổ kính, có nhiều lỗ châu mai và lỗ thông gió. Bên phải và trái hai ngọn tháp là hai cánh lâu đài xây bằng đá hoa cương đen có vẻ tân thời hơn. Ánh sáng tù mù rọi chiếu qua những ô cửa sổ có chấn song nặng nề, và một cột khói đen duy nhất bốc lên từ hàng ống khói vươn cao trên mái nhà dốc.

"Chào mừng, ngài Henry! Mừng ngài đã về lâu đài Baskerville!" Một người đàn ông cao gầy từ trong bóng tối hàng hiên bước ra mở cửa xe ngựa. Bóng một phụ nữ in đậm trên nền ánh sáng màu vàng của đại sảnh. Bà ta đi ra giúp người đàn ông chuyển hành lí của chúng tôi xuống.

"Tôi đi về nhà luôn, chắc ngài không phiền chứ, ngài Henry?" Bác sĩ Mortimer nói. "Vợ tôi đang mong."

"Ông phải ở lại dùng bữa tối đã chứ?"

"Không được, tôi phải đi. Chắc còn nhiều việc đang chờ đợi tôi. Tôi cũng muốn nán lại đưa ngài đi xem qua tòa nhà này nhưng Barrymore làm người hướng dẫn còn tốt hơn tôi. Tạm biệt, và nếu cần đến tôi thì dù ngày hay đêm xin ngài cũng đừng ngần ngại."

Tiếng bánh xe nhỏ dần trên lối đi trong khi ngài Henry và tôi quay vào đại sảnh, cánh cửa nặng nề đóng sập sau lưng chúng tôi nghe vang rền. Chúng tôi thấy mình đứng trong một gian phòng bề thế, trần cao và nhiều rui kèo làm bằng những thanh gỗ sồi lâu năm đã đen thẫm. Trong cái lò sưởi đồ sộ kiểu cổ, sau mấy vỉ sắt cao, củi cháy reo tanh tách giòn tan. Ngài Henry và tôi hơ tay bên lò sưởi vì cả hai đều tê cóng sau chuyến xe dài. Rồi chúng tôi nhìn quanh xem xét ô cửa sổ hẹp, cao, gắn kính màu cũ, những tấm ván sồi ốp tường, những cái đầu hươu và gia huy treo trên vách; tất cả đều lờ mờ tối tăm trong ánh sáng âm u của ngọn đèn đặt ở giữa phòng.

"Giống y như tôi đã tưởng tượng", ngài Henry nói. "Đích thị đây là hình ảnh mái nhà xưa của dòng họ chứ còn gì nữa? Thử nghĩ coi, đây chính là lâu đài mà tổ tiên tôi đã sống suốt năm trăm năm qua. Nghĩ thế bỗng thấy nơi này thật tôn nghiêm."

Gương mặt ngăm đen của nam tước sáng ngời lên vẻ hăng hái như trẻ con trong lúc nhìn ngắm chung quanh. Ánh sáng rọi thẳng vào nơi anh ta đang đứng nhưng bóng tối lại kéo thành vệt dài trên các bức tường và giăng mắc trên đầu như một bức màn đen. Ông Barrymore đã quay trở lại sau khi mang hành lí của chúng tôi lên phòng ngủ. Bây giờ ông đứng trước mặt chúng tôi với phong thái điềm tĩnh của một gia nhân thạo việc, ông có dung mạo đặc biệt, cao gầy, điển trai, bộ râu quai nón đen tỉa vuông vức và nét mặt nổi bật dù nước da hơi tái.

"Ngài có muốn dùng bữa tối ngay bây giờ không, thưa ngài?"

"Có sẵn rồi ư?"

"Chỉ vài phút nữa thôi, thưa ngài. Ở trên phòng quý ngài đã có sẵn nước nóng. Thưa ngài Henry, vợ chồng tôi rất vui được ở lại đây cùng ngài cho đến khi nào ngài thu xếp xong, nhưng xin ngài hiểu cho trong hoàn cảnh mới, tòa nhà này sẽ cần nhiều gia nhân hơn."

"Hoàn cảnh gì chứ?"

"Thưa ngài, tôi chỉ muốn nói là ngài Charles sống rất ẩn dật và chúng tôi có thể chăm lo hết mọi việc cần thiết. Nhưng ngài đương nhiên sẽ muốn có nhiều người bầu bạn hơn, cho nên ngài sẽ cần thay đổi gia nhân trong nhà."

"Ý ông muốn nói là hai vợ chồng ông muốn thôi việc ư?"

"Chỉ khi nào điều đó không gây bất tiện cho ngài thôi, thưa ngài."

"Nhưng gia đình ông đã gắn bó với chúng tôi nhiều đời rồi, không phải vậy sao? Tôi sẽ lấy làm tiếc nếu như vừa về đây đã phải cắt đứt một mối quan hệ lâu đời của gia tộc."

Dường như tôi nhận ra vài dấu hiệu cảm xúc trên gương mặt của người quản gia.

"Tôi cũng nghĩ như thế, thưa ngài, và vợ tôi cũng vậy. Nhưng thưa ngài, thú thật là cả hai chúng tôi rất quyến luyến ngài Charles và cái chết của ngài ấy đã khiến chúng tôi bàng hoàng, khiến mọi vật chung quanh đều gợi nỗi thương tâm cho chúng tôi. Tôi e là ở lâu đài Baskerville này chúng tôi sẽ không bao giờ thấy bình tâm trở lại."

"Thế ông định làm gì?"

"Thưa ngài, tôi tin chắc là chúng tôi sẽ tự tạo dựng được việc làm ăn. Ngài Charles hào phóng đã tạo điều kiện cho chúng tôi về mặt này. Còn bây giờ, thưa ngài, tốt nhất là tôi nên đưa ngài đi xem qua phòng ốc."

Một cầu thang đôi dẫn lên một bao lơn hình vuông có lan can ở khoảng trên gian đại sảnh cổ xưa. Từ tâm điểm này có hai hành lang dài vươn ra đến hết chiều dài tòa nhà, thông với cửa vào tất cả các phòng ngủ. Phòng của tôi thuộc cùng một cánh với phòng của Baskerville và gần như liền kề. Các phòng này trông có vẻ hiện đại hơn phần trung tâm của tòa nhà, và giấy dán tường màu sáng cùng nhiều ngọn nến đã góp phần xua tan ấn tượng u ám đã đè nặng tâm trí tôi từ khi tới đây. Nhưng phòng ăn thông với tiền sảnh lại tối tăm ảm đạm. Đó là một phòng dài có bậc thềm phân chia trên dưới, bục cao hơn dành cho gia đình chủ nhân còn bên dưới dành cho gia nhân. Ở đầu phòng, trên cao là một bao lơn dành cho nhạc công. Trên đầu chúng tôi là những thanh xà nhà đen đúa và cao hơn nữa là trần nhà ám khói. Nếu có những hàng đuốc rực sáng và màu sắc cùng không khí vui nhộn thô phác của một yến tiệc thời xưa thì gian phòng này hẳn đã bớt u ám; nhưng lúc này đây, khi chỉ có hai người mặc đồ đen ngồi trong quầng sáng nho nhỏ hắt ra từ ngọn đèn có chóa, thì giọng nói bỗng thành ra nhỏ lại còn tinh thần thì chùng xuống. Một hàng chân dung tổ tiên lờ mờ, mặc đủ kiểu trang phục từ hiệp sĩ thời Trung cổ cho tới công tử thời Nhiếp chính nhìn xuống và đe dọa chúng tôi bằng sự hiện diện câm lặng. Chúng tôi trò chuyện ít, riêng tôi còn thấy vui mừng khi bữa ăn kết thúc và cả hai có thể lui vào phòng chơi bi-a hiện đại để hút một điếu thuốc.

"Nói thật là nơi này chẳng vui thú gì lắm", ngài Henry nói. "Tôi chắc là sẽ quen dần nhưng hiện thời tôi cảm thấy hơi lạc lõng. Thảo nào bác tôi luôn bồn chồn hoảng hốt khi sống một mình trong ngôi nhà như thế này. Tuy vậy, nếu hợp ý ông thì tối nay chúng ta sẽ nghỉ sớm, có lẽ đến sáng mọi thứ sẽ có vẻ tươi sáng hơn."

Trước khi lên giường, tôi kéo rèm cửa sổ qua một bên và đứng nhìn ra ngoài. Chỗ này trông ra bãi cỏ ngay trước cửa tiền sảnh. Đằng xa, hai cái cây khô oằn mình đu đưa và rên rỉ trong cơn gió mạnh dần. Trăng bán nguyệt chiếu xuyên qua kẽ hở giữa những đám mây đang trôi nhanh. Trong ánh sáng lạnh lẽo ấy tôi nhìn thấy phía sau mấy bụi cây là một bờ đá nhấp nhô đứt quãng và vòng cung trải dài tít tắp của dải truông u sầu. Tôi kéo màn lại, tự nhủ cái ấn tượng sau chót này cũng phù hợp với những gì mình đã cảm nhận. Thế nhưng đó vẫn chưa hẳn là ấn tượng cuối cùng.

Tôi mệt rã rời nhưng vẫn thao thức, trăn trở mãi, chỉ mong giấc ngủ tới mà không được. Xa xa văng vẳng tiếng đồng hồ đổ chuông cứ mười lăm phút một hồi, ngoài ra chỉ còn sự im lặng chết chóc bao trùm cả tòa nhà cổ xưa này. Rồi bất chợt, ngay giữa đêm khuya vắng lặng, vọng đến tai tôi một âm thanh rõ rệt, ngân dài, và không thể nào nhầm lẫn. Đó là tiếng khóc thổn thức của một người đàn bà, tiếng nấc nghẹn của ai đó bị giằng xé bởi một nỗi đau khổ khôn nguôi. Tôi ngồi trên giường chăm chú lắng nghe. Âm thanh ấy chỉ có thể ở gần đây và chắc chắn là ngay trong nhà này. Suốt nửa giờ tôi chờ đợi trong trạng thái thần kinh căng thẳng, nhưng không còn nghe gì nữa ngoại trừ tiếng chuông đồng hồ và tiếng xào xạc của lá thường xuân bám trên tường.

7. Anh em nhà Stapleton

Vẻ đẹp đầy sức sống của buổi sáng hôm sau đã xóa nhòa ấn tượng ảm đạm, u tối đè nặng tâm trí chúng tôi sau trải nghiệm đầu tiên ở lâu đài Baskerville. Lúc ngài Henry và tôi ngồi dùng điểm tâm, ánh nắng tràn vào qua những ô cửa sổ cao có chấn song, hắt vào phòng những mảng ánh sáng nhuốm màu của tấm gia huy trên cửa kính. Những tấm ván ốp tường sậm nâu ánh rực lên màu đồng dưới những tia nắng vàng, thật khó nhận ra đây chính là gian phòng mà tối hôm trước đã khiến cõi lòng hai chúng tôi u ám.

"Tôi nghĩ đó là tại chúng ta chứ không phải tòa nhà này!" Nam tước nói. "Chúng ta đã mệt mỏi vì chuyến tàu và lạnh cóng trên xe ngựa nên tới đây nhìn đâu cũng thấy buồn bã. Giờ chúng ta đã khỏe khoắn rồi thì mọi thứ đều tươi vui trở lại."

"Nhưng không hẳn là hoang tưởng cả đâu", tôi đáp. "Chẳng hạn đêm qua ngài có tình cờ nghe tiếng ai đó, hình như là phụ nữ, khóc thổn thức chăng?"

"Lạ nhỉ? Đúng là khi đang ngủ lơ mơ tôi có nghe thấy một âm thanh đại loại như thế. Tôi chờ một hồi nhưng không nghe thấy nữa nên tôi kết luận đó chỉ là nằm mơ."

"Tôi nghe rõ ràng, và tôi chắc chắn đó là tiếng khóc của phụ nữ."

"Ta phải hỏi ngay chuyện này." Anh ta rung chuông gọi Barrymore và hỏi xem người quản gia có biết vì sao lại có âm thanh mà chúng tôi đã nghe. Tôi thấy dường như gương mặt trắng của Barrymore càng tái đi khi nghe câu hỏi của chủ nhân.

"Trong nhà này chỉ có hai phụ nữ thôi, thưa ngài Henry", ông ta đáp. "Một người là cô hầu nhà bếp, ngủ ở cánh bên kia. Người còn lại là vợ tôi, và tôi xin đảm bảo đó không phải là tiếng khóc của bà ấy."

Nhưng người quản gia đã nói dối vì tình cờ sau bữa điểm tâm tôi gặp bà Barrymore trong hành lang khi ánh nắng chiếu thẳng vào mặt bà ta. Bà là người phốp pháp, nét mặt thô kệch, ít biểu cảm và khóe miệng lộ rõ vẻ nghiêm nghị. Nhưng đôi mắt đỏ liếc nhìn tôi dưới đôi mí mắt sưng húp đã tố cáo hết. Như vậy chính bà ta đã khóc đêm qua, và nếu thế thì chồng bà phải biết. Thế mà ông ta lại liều lĩnh bảo là không phải. Sao lại nói dối chứ? Và tại sao bà ta khóc nức nở như vậy? Chưa kể việc này thì người đàn ông râu đen, điển trai, mặt trắng ấy đã có sẵn vẻ bí ẩn và mờ ám rồi. Chính Barrymore là người đầu tiên phát hiện thi thể ngài Charles, và chúng tôi chỉ có lời khai của ông ta về hoàn cảnh dẫn đến cái chết của ông già. Rốt cuộc, có lẽ nào kẻ chúng tôi nhìn thấy trong chiếc xe ngựa ở phố Regent lại chính là Barrymore? Hai bộ râu trông rất giống nhau. Theo mô tả của người xà ích thì tên do thám kia có phần thấp hơn, nhưng nhận định kiểu ấy rất dễ sai lầm. Làm cách nào tôi có thể xác định dứt khoát điều này? Hiển nhiên việc đầu tiên là gặp bưu cục trưởng Grimpen hỏi xem bức điện tín kiểm tra kia có được giao tận tay Barrymore không. Dù câu trả lời là gì đi nữa thì ít ra tôi cũng có chuyện để tường trình với Sherlock Holmes.

Sau bữa điểm tâm, ngài Henry có vô số giấy tờ cần phải kiểm tra nên thời gian này rất tiện cho tôi dạo quanh. Sau khi thư thả tản bộ bốn dặm đường men theo rìa truông, tôi tới một ngôi làng nhỏ ảm đạm chỉ có hai ngôi nhà lớn cao vượt lên so với những nhà còn lại, hóa ra đó là một lữ quán và tư gia của bác sĩ Mortimer. Bưu cục trưởng, cũng là chủ tiệm tạp hóa trong làng, nhớ rất rõ bức điện.

"Chắc chắn mà, thưa ông", ông ta nói. "Tôi đã cho giao bức điện ấy tới ông Barrymore đúng như chỉ dẫn."

"Thế ai giao?"

"Thằng con tôi đây này. James, tuần trước con đã giao bức điện cho ông Barrymore ở lâu đài phải không?"

"Dạ, con giao, thưa cha."

"Có giao tận tay ông ấy không?" Tôi hỏi.

"Dạ lúc đó ông ấy đang ở trên gác xép nên cháu không giao tận tay được, cháu đưa cho chính bà Barrymore và bà hứa sẽ chuyển ngay?"

"Thế cháu có thấy ông Barrymore không?"

"Dạ không, cháu đã nói là ông ấy ở trên gác xép mà."

"Nếu không thấy, làm sao cháu biết ông ấy ở trên gác xép?"

"Ơ hay, bà vợ nhất định phải biết ông ta ở đâu chứ", giọng ông bưu cục trưởng gắt gỏng, "ông ta không nhận được bức điện à? Nếu có nhầm lẫn gì thì người than phiền phải là ông Barrymore mới đúng."

Có dò hỏi thêm cũng chẳng ích gì nhưng rõ ràng là tuy đã dùng đến mưu mẹo của Holmes, chúng tôi vẫn không có bằng chứng xác thực rằng Barrymore đã không ở London suốt thời gian đó. Giả sử ông ta đã đến London, giả sử người cuối cùng đã gặp ngài Charles lúc còn sống cũng chính là kẻ đầu tiên theo dõi người thừa kế mới khi vị này vừa về Anh quốc. Vậy thì sao? Hắn là tay sai của người khác hay chính hắn có mưu đồ nham hiểm gì đây? Gây đau khổ cho gia đình Baskerville thì hắn được lợi gì? Tôi nghĩ tới lời cảnh báo kì lạ cắt ra từ bài báo trên tờ Times. Chính hắn làm việc đó hay lẽ nào có ai khác muốn chống lại mưu đồ của hắn? Chỉ có thể hình dung ra động cơ duy nhất như ngài Henry đã nêu là: Nếu dòng tộc này sợ hãi bỏ đi thì vợ chồng Barrymore sẽ được yên vị trong một cơ ngơi tiện nghi của lâu đài. Nhưng chắc chắn giả thuyết đó hoàn toàn không đủ để lý giải cho những kế hoạch bí mật và tinh vi dường như đang dệt nên một tấm lưới vô hình bao quanh vị nam tước trẻ. Chính Holmes đã nói trong hàng loạt cuộc điều tra gay cấn của anh, chưa có vụ nào phức tạp cho bằng vụ này. Trong lúc dạo bước trên con đường vắng vẻ, u buồn này, tôi thầm mong anh bạn tôi sẽ nhanh chóng thoát khỏi những việc đang bận bịu để về đây gánh vác trách nhiệm nặng nề này thay tôi.

Đột nhiên suy nghĩ của tôi bị cắt ngang vì tiếng bước chân chạy theo và tiếng ai đó gọi tên tôi. Quay lại, tôi tưởng sẽ gặp bác sĩ Mortimer, ngờ đâu người chạy theo tôi lại là một người xa lạ. Người này nhỏ con, mảnh khảnh, mày râu nhẵn nhụi, mặt choắt, vẻ mặt đứng đắn, tóc vàng nhạt, tuổi áng chừng giữa ba mươi và bốn mươi, mặc bộ comlê xám và đội mũ rơm. Vai anh ta đeo một hộp thiếc đựng mẫu sưu tầm thực vật và trên tay là chiếc vợt bắt bướm.

"Xin thứ lỗi cho tôi mạo muội đoán mò, chắc ông là bác sĩ Watson", anh ta vừa nói vừa thở hổn hển đi tới chỗ tôi. "Trên truông này, chúng tôi là dân nhà quê và không câu nệ phép tắc giới thiệu. Có lẽ ông đã biết tên tôi qua người bạn chung Mortimer. Tôi là Stapleton ở điền trang Merripit."

"Nhìn cái vợt và chiếc hộp của ông là đủ biết", tôi nói, "và tôi biết ông Stapleton là nhà tự nhiên học. Nhưng làm sao ông nhận ra tôi?"

"Tôi đã ghé nhà Mortimer và Mortimer đã chỉ cho tôi biết khi ông đi ngang cửa sổ phòng khám của anh ấy. Vì đi cùng đường với ông nên tôi nghĩ là nên chạy theo và tự giới thiệu. Tôi chắc là ngài Henry không hề hấn gì sau chuyến hành trình chứ?"

"Ngài ấy vẫn khỏe, cảm ơn ông."

"Chúng tôi ai cũng lo là sau cái chết bi thảm của ngài Charles thì vị tân nam tước sẽ không chịu về đây sống. Đòi hỏi một người giàu có phải chôn chân ở một nơi như thế này thật quá đáng, nhưng tôi không nói chắc ông cũng hiểu điều đó có ý nghĩa rất lớn với vùng quê này. Chắc ngài Henry không sợ những điều mê tín trong chuyện này chứ?"

"Tôi cho là không đâu."

"Hẳn ông phải biết truyền thuyết về con quỷ chó ám dòng họ đó chứ?"

"Tôi có nghe."

"Những nông dân quanh đây sao mà cả tin đến lạ! Khối người sẵn sàng thề là đã thấy một con vật như thế trên truông." Stapleton vừa nói vừa cười nhưng ánh mắt lại cho thấy dường như anh ta coi chuyện này nghiêm túc hơn thế. "Câu chuyện đó đã in sâu vào óc tưởng tượng của ngài Charles và tôi tin chắc là nó đã đưa đến kết cục bi đát của ông già."

"Nhưng bằng cách nào?"

"Thần kinh của ngài Charles căng thẳng tới mức bất kì con chó nào xuất hiện cũng có thể tác động tai hại đến trái tim yếu ớt của ngài. Tôi hình dung là vào đêm cuối cùng ở con đường thủy tùng, ngài Charles thực sự đã thấy cái gì đó đại loại như thế. Chính tôi đây cũng lo sợ có thể xảy ra tai họa gì đó bởi tôi rất mến ngài ấy và tôi biết ngài bị bệnh tim."

"Làm sao ông biết?"

"Anh bạn Mortimer kể tôi nghe."

"Thế thì theo ông, một con chó nào đó đã đuổi theo ngài Charles và kết quả là ngài đã chết vì hoảng sợ?"

"Ông có cách giải thích nào hợp lí hơn chăng?"

"Tôi không có kết luận nào cả."

"Thế còn ông Sherlock Holmes?"

Câu hỏi đó khiến tôi sửng sốt một lúc nhưng nhìn gương mặt điềm tĩnh và đôi mắt chăm chú của Stapleton, tôi thấy anh ta không hề có ý gây ngạc nhiên cho tôi.

"Giả vờ như không biết ông cũng bằng thừa, thưa bác sĩ Watson", anh ta nói. "Những ghi chép của ông về nhà thám tử đã tới tay chúng tôi ở đây, và ông không thể nào ca tụng ông Sherlock Holmes mà không khiến người khác biết tới chính mình. Khi Mortimer cho tôi biết tên ông, anh ấy không thể phủ nhận lai lịch của ông. Nếu ông có mặt ở đây thì tức là chính ông Sherlock Holmes cũng đang quan tâm đến vụ này, và đương nhiên tôi tò mò muốn biết ý kiến của nhà thám tử."

"E là tôi không thể trả lời câu hỏi đó."

"Xin hỏi chúng tôi có được hân hạnh đón tiếp ông ấy không?"

"Hiện thời anh ấy không thể rời khỏi thành phố. Anh ấy còn đang quan tâm đến nhiều vụ khác."

"Tiếc quá! Biết đâu ông ấy có thể làm sáng tỏ vụ việc quá sức bí ẩn đối với chúng tôi. Nhưng còn những việc ông cần tìm hiểu, nếu như tôi có thể giúp gì, ông chỉ cần gọi một tiếng. Nếu tôi được biết sơ qua những nghi ngờ của ông, hoặc cách ông muốn điều tra vụ này, biết đâu tôi cũng có thể giúp hay cung cấp tin tức cho ông ngay bây giờ."

"Cam đoan với ông là tôi chỉ xuống đây thăm nhà bạn tôi, ngài Henry, và tôi không cần giúp đỡ gì cả."

"Tuyệt thật!" Stapleton nói. "Ông thận trọng và dè dặt là hoàn toàn đúng. Tôi thật đáng trách vì đã đường đột vô lí, và xin hứa với ông là tôi sẽ không nhắc đến chuyện này nữa."

Chúng tôi đã đi tới một lối mòn hẹp đầy cỏ rẽ khỏi con lộ chính và chạy ngoằn ngoèo băng qua truông. Một ngọn đồi dốc đứng rải rác những khối đá tảng nằm ở phía bên phải, ngày xưa đã bị xẻ để khai thác đá hoa cương. Mặt đổi hướng về phía chúng tôi là một vách đá đen, có những bụi dương xỉ và mâm xôi mọc từ các hốc đá. Phía xa bốc lên một làn khói xám.

"Đi một quãng không xa nữa theo đường này là tới điền trang Merripit", anh ta nói. "Xin ông dành cho một giờ để tôi được hân hạnh giới thiệu ông với em gái tôi."

Ý nghĩ đầu tiên của tôi là mình nên ở bên cạnh ngài Henry. Nhưng rồi tôi nhớ đến đống giấy tờ và biên lai bề bộn trên bàn làm việc của nam tước. Rõ ràng là tôi không thể giúp gì cho việc đó. Và Holmes đã dặn riêng tôi cần phải tìm hiểu những người láng giềng trên truông này. Tôi nhận lời mời của Stapleton và cả hai cùng rẽ sang con đường nhỏ.

"Truông này là chốn kì thú", anh ta vừa nói vừa nhìn quanh, ngắm những triền cỏ nhấp nhô như những đợt sóng cuộn màu xanh lá, mà trên đỉnh sóng là những chỏm đá hoa cương lởm chởm nhô cao. "Ông sẽ không bao giờ chán vùng truông này. Ông không thể nào biết hết những bí mật kì diệu ẩn chứa nơi đây. Thật bao la, thật cằn cỗi, và thật huyền bí."

"Vậy chắc ông biết rõ lắm?"

"Tôi mới sống ở đây có hai năm. Người ở đây thường gọi tôi là dân mới. Chúng tôi đến đây không bao lâu sau khi ngài Charles trở về. Nhưng sở thích của tôi đã đưa tôi đi khảo sát hết mọi nơi trong vùng, và tôi nghĩ là ít ai biết rõ nơi đây hơn tôi."

"Khó biết lắm sao?"

"Rất khó. Ví dụ nhé, ông nhìn khu đất bằng lớn về phía bắc kia kìa, chỗ có mấy ngọn đồi lạ lùng mọc lên đó. Theo ông, ở đó có gì đáng chú ý nào?"

"Một chỗ rất hay để phi ngựa."

"Đương nhiên ông sẽ nghĩ như thế và ý nghĩ đó lâu nay đã làm vài người mất mạng rồi. Ông có thấy những đốm xanh tươi rải rác khắp khu vực đó không?"

"Có, trông có vẻ tươi tốt hơn phần còn lại."

Stapleton cười to rồi nói, "Đó chính là bãi lầy Grimpen. Dấn sai một bước là người hay vật đi đời như chơi. Mới hôm qua tôi đã thấy một con ngựa lùn tha thẩn vào trong đó. Nó không bao giờ trở ra được nữa. Tôi nhìn thấy đầu nó trồi lên khỏi vũng sình một lúc rồi cuối cùng bị hút xuống dưới bùn. Băng qua đó ngay cả vào mùa khô cũng đã nguy hiểm, nhưng sau những cơn mưa mùa thu như thế này thì đó là chốn kinh khủng. Ấy thế mà tôi có thể tìm đường đi tới giữa bãi lầy và sống sót quay về. Trời đất ơi! Lại thêm một con ngựa khốn nạn nữa kìa!"

Một vật gì màu nâu đang ngọ nguậy, tròng trành giữa đám cói màu xanh lục. Rồi một cần cổ dài khổ sở quằn quại bất thần ngóng lên và một tiếng kêu dễ sợ vang động khắp truông vắng. Tôi ớn lạnh vì khiếp đảm nhưng người bạn đường dường như thần kinh vững hơn tôi, "Nó xong đời rồi!" Stapleton nói. "Bãi lầy đã nuốt chửng nó. Hai ngày chết hai con ngựa, và có lẽ còn nhiều hơn nữa, vì vào mùa khô lũ ngựa đã quen tới đây và không hề nhận biết sự khác biệt cho đến khi bị sa lầy. Nơi đó rất nguy hiểm, bãi lầy Grimpen ghê gớm."

"Vậy mà ông báo ông đi vào đó được?"

"Đúng, có một, hai lối đi nhỏ mà một người nhanh nhẹn có thể đi qua. Tôi đã phát hiện ra mà."

"Nhưng tại sao ông lại muốn đi vào nơi kinh khủng như vậy chứ?"

"À, ông thấy mấy ngọn đồi phía bên kia không? Thực tế đó là những hòn đảo bị cô lập bốn bề giữa bãi lầy bất khả xâm phạm đó, bãi lầy đã dần bao quanh chúng qua nhiều năm. Đó là nơi có những loài cây cỏ và bướm rất hiếm, miễn là ông biết cách tới được."

"Có ngày tôi sẽ thử vận may xem."

Stapleton sững sờ nhìn tôi.

"Hãy vì Chúa mà từ bỏ những ý tưởng như thế đi", anh ta nói. "Ông mà mất mạng là tôi có tội đó. Tôi cam đoan là ông sẽ không có cơ may sống sót trở về, dù là mong manh nhất. Tôi quay lại được là nhờ nhớ rõ những mốc chỉ đường phức tạp."

"Ô, kìa!" Tôi kêu lên. "Cái gì thế?"

Một tiếng rên rĩ trầm trầm, ngân dài, buồn khôn tả, vang vọng khắp truông. Tiếng rên tràn ngập không gian thế nhưng lại không thể xác định nơi phát xuất. Ban đầu đó chỉ là tiếng rên khe khẽ, rồi vang dần thành tiếng gầm gào, rồi lại lắng xuống thành tiếng rên khẽ từng chập thê lương như trước. Stapleton nhìn tôi với vẻ mặt ngỡ ngàng.

"Truông này thật kì lạ!" Anh ta nói.

"Nhưng tiếng gì thế?"

"Đám nông dân nói đó là tiếng con quỷ chó của dòng họ Baskerville đòi mồi. Trước đây tôi có nghe thấy một hai lần, nhưng chưa bao giờ rõ như thế này?"

Lòng sợ hãi tái tê, tôi nhìn khu đất bằng bao la, loang lổ những vạt cỏ bấc xanh lục. Không có động tĩnh gì trên khoảng mênh mông này, ngoại trừ hai con quạ kêu chao chát trên mỏm đá sau lưng chúng tôi.

"Ông là người có học mà cũng tin những chuyện vớ vẩn đó à?" Tôi nói. "Theo ông thì cái gì tạo ra âm thanh hết sức lạ lùng đó?"

"Bãi lầy đôi lúc cũng phát ra những tiếng động kì quặc. Khi bùn sình lắng xuống, hay khi nước dâng lên, hay đại loại thế."

"Không, không phải, đây là tiếng của sinh vật."

"À, có lẽ thế. Có bao giờ ông nghe tiếng vạc kêu chưa?"

"Chưa, chưa hề."

"Đó là loài chim rất hiếm, có thể coi là đã tuyệt chủng ở Anh quốc, nhưng mọi thứ đều có thể xảy ra trên truông này. Đúng, tôi sẽ không ngạc nhiên nếu phát hiện âm thanh chúng ta vừa nghe thấy chính là tiếng kêu của những con vạc bãi lầy cuối cùng."

"Đó là thứ lạ lùng, quái gở nhất tôi từng nghe trong đời."

"Vâng, chốn này nói chung cũng khá kì lạ. Hãy nhìn phía sườn đồi đằng xa kia. Theo ông những cái đó là gì nào?"

Khắp triền đồi dốc đứng có những tảng đá xám xếp vòng tròn, ít nhất phải tới hai chục đám.

"Cái gì thế? Chuồng cừu ư?"

"Không, đó là những ngôi nhà của các vị tổ tiên chúng ta. Người tiền sử từng sống khá đông đúc trên truông này, và từ bấy tới giờ không có ai sống ở đó nữa nên chúng ta thấy mọi thứ vẫn còn lại y nguyên như lúc họ bỏ chốn này. Đó là những túp nhà không còn mái. Thậm chí nếu tò mò đi vào trong, ông còn thấy được cả bếp lò và giường nằm của người tiền sử."

"Nhưng đây rõ ràng là cả một thành phố. Họ sống vào thời nào?"

"Thời kì Đồ Đá Mới, không rõ niên đại."

"Thế họ sống bằng cách nào?"

"Họ cho gia súc ăn cỏ trên những triền dốc này, và học cách đào đất lấy thiếc khi gươm bằng đồng thiếc bắt đầu thay thế cho rìu đá. Hãy nhìn cái hào lớn ở ngọn đồi đối diện kia. Đó là vết tích của họ. Đúng, ông sẽ tìm ra nhiều điểm lạ lùng quanh truông này đấy, bác sĩ Watson. Ồ, xin lỗi một tí nhé! Kia nhất định là một con Cyclopides."

Một con ngài hay con bướm gì đó vừa vỗ cánh bay ngang đường chúng tôi đi và Stapleton liền chạy đuổi theo với tốc độ và sức lực phi thường. Tôi bắt đầu lo sợ khi nó bay thẳng về phía bãi lầy đáng sợ và người bạn mới quen không hề ngừng bước mà cứ nhảy từ đám cỏ này sang đám cỏ khác đuổi theo, chiếc vợt màu xanh lá cây phất phơ trên không. Bộ đồ màu xám và những bước nhảy giật, không thẳng mà theo hình chữ chi của Stapleton càng khiến anh ta trông giống một loài bướm khổng lồ nào đó. Tôi đang đứng quan sát cuộc rượt đuổi, trong lòng vừa thán phục sự nhanh nhẹn phi thường của Stapleton vừa lo sợ lỡ anh ta sa chân vào cái bãi lầy phản trắc kia, thì nghe có tiếng bước chân. Quay lại, tôi thấy một phụ nữ đang tiến gần tới chỗ tôi trên con đường mòn. Cô ta đi từ hướng có làn khói tức là vị trí của điền trang Merripit, nhưng vì đi qua chỗ trũng của truông nên bị che khuất, mãi đến khi cô tới thật gần tôi mới trông thấy.

Không hồ nghi gì nữa, đây chính là cô Stapleton mà tôi đã nghe nhắc đến, vì trên truông này ít có bóng dáng phụ nữ thuộc bất kì tầng lớp nào, và tôi nhớ đã nghe ai đó mô tả cô là một mĩ nhân. Người phụ nữ đang đến gần tôi chắc chắn là người đẹp và lại đẹp hết sức lạ thường. Hai anh em nhà này không thể nào tương phản hơn, bởi ông anh có màu da bình thường, tóc vàng, mắt xám, còn cô này lại có nước da sậm hơn mọi phụ nữ da ngăm mà tôi đã gặp ở Anh quốc - dáng người cô cao, mảnh mai, trang nhã. Cô ta có gương mặt kiêu hãnh, thanh tú, và cân đối tới mức đâm ra lạnh lùng nếu không nhờ khóe miệng gợi cảm và đôi mắt huyền nồng nhiệt. Với thân hình hoàn hảo và trang phục tao nhã, cô ta đúng là một bóng ma kì lạ hiện hình trên con đường vắng giữa truông này. Khi tôi quay lại cô còn đang mải nhìn về phía người anh rồi cô rảo bước lại chỗ tôi. Tôi đã cất mũ lên chào và định lên tiếng giải thích nhưng lời cô nói bỗng khiến toàn bộ suy nghĩ của tôi chuyển sang hướng khác.

"Đi đi!" Cô thốt lên. "Về London ngay đi."

Tôi chỉ biết đứng ngây người ngạc nhiên nhìn cô. Cô quắc mắt nhìn tôi và nóng nảy giậm chân trên mặt đất.

"Sao tôi phải đi chứ?" Tôi hỏi.

"Tôi không giải thích được", cô nói bằng giọng khe khẽ, thiết tha, nghe hơi nhịu và lạ tai. "Nhưng vì Chúa hãy làm theo lời tôi. Đi đi và đừng bao giờ đặt chân đến truông này nữa."

"Nhưng tôi vừa mới tới đây mà."

"Ông ơi là ông!" Cô kêu to. "Ông không phân biệt được đâu là lời cảnh báo có ích cho ông sao? Về London đi! Ngay tối nay! Tránh xa nơi này bằng mọi giá! Suỵt, anh tôi quay lại kìa! Đừng nói gì về điều tôi vừa nói. Phiền ông hái giúp tôi đóa hoa lan sau đám cỏ đuôi ngựa đằng kia, được không? Trên truông có đủ loại lan, mặc dù ông tới đây mùa này thì đã hơi muộn, không thấy hết vẻ đẹp của nó đâu."

Stapleton đã bỏ cuộc săn đuổi và quay về chỗ chúng tôi, miệng thở hổn hển, mặt đỏ bừng vì gắng sức.

"A, Beryl!" Anh ta lên tiếng và tôi thấy dường như giọng điệu chào hỏi này không được thân mật lắm.

"Ồ, Jack, anh ướt đẫm mồ hôi kìa."

"Ừ, anh đuổi theo một con bướm Cyclopides. Loài này rất hiếm và ít gặp vào cuối thu. Tiếc là anh không bắt được nó!" Anh ta nói với giọng thờ ơ nhưng đôi mắt nhỏ sáng quắc kia không ngừng liếc từ cô em gái sang tôi. "Tôi thấy hai người đã làm quen với nhau rồi phải không?"

"Dạ, em vừa nói với ngài Henry là mùa này đã muộn, ông ấy không thấy hết vẻ đẹp của truông được."

"Sao, cô tưởng đây là ai chứ?"

"Em nghĩ đây hẳn là ngài Henry Baskerville."

"Không, không", tôi lên tiếng. "Tôi chỉ là một thường dân hèn mọn, bạn của ngài nam tước. Tôi là bác sĩ Watson."

Gương mặt biểu cảm của cô ửng hồng lên vì bực bội. Cô nói, "Hóa ra nãy giờ chúng ta nói chuyện mà không hiểu nhau."

"Ủa, hai người làm gì đã trò chuyện được mấy", người anh lại nói với ánh mắt ngờ vực như trước

"Em nói chuyện cứ như bác sĩ Watson sẽ sống ở đây chứ không phải khách ghé qua", cô gái đáp. "Mùa hoa lan nở sớm hay muộn cũng chẳng quan trọng gì với bác sĩ đây. Nhưng chắc là ông sẽ ghé thăm điền trang Merripit chứ?"

Chúng tôi đi bộ một quãng ngắn là đến, một ngôi nhà lạnh lẽo trên truông, đây từng là trang trại của một người nuôi gia súc vào thời thịnh vượng xa xưa, giờ đã được tu sửa thành nhà ở theo kiểu tân thời. Quanh nhà có vườn cây ăn quả, nhưng cũng giống như mọi nơi trên truông, cây cối đều còi cọc héo hon và toàn bộ nơi này toát lên vẻ u sầu tàn tạ. Một lão gia nhân nhăn nheo lạ lùng, áo quần thâm đen, có lẽ là người trông nom ngôi nhà này, đón chúng tôi vào. Tuy nhiên, bên trong lại là những gian phòng lớn được bày biện tao nhã, dường như tôi nhận ra ở đó khiếu thẩm mĩ của cô em gái. Khi từ cửa sổ nhìn ra ngoài truông lổn nhổn toàn đá hoa cương nhấp nhô bất tận đến chân trời, tôi không thể không tự hỏi điều gì đã khiến người đàn ông học thức cao và người đàn bà xinh đẹp kia đến sống ở một nơi như vậy.

"Chọn chỗ này cũng kì cục, phải không?" Stapleton nói như thể đọc được ý nghĩ của tôi. "Thế mà chúng tôi lại tự xoay xở được để sống khá sung sướng đấy. Phải vậy không, Beryl?"

"Rất sung sướng", cô em nói nhưng giọng điệu chẳng thuyết phục chút nào.

"Tôi từng dạy tại một trường học ở miền bắc", Stapleton nói. "Công việc đó đối với một người tính khi như tôi thì máy móc và nhàm chán, nhưng tôi lại rất thích cái đặc quyền được sống cùng đám trẻ, góp phần nhào nặn những đầu óc non nớt đó, và để lại dấu ấn với chúng bằng chính những lí tưởng và cá tính của mình. Tuy vậy số phận không chiều lòng chúng tôi. Một bệnh dịch nghiêm trọng bùng phát trong trường và có ba học sinh chết. Nhà trường không trụ lại được sau tai họa đó và hầu hết vốn liếng của tôi mất sạch không thể cứu vãn. Nếu không vì tiếc nuối cái tình thân thiết gắn bó với bọn trẻ thì tôi đã mừng vui vì chuyện rủi ro này rồi; do đam mê thực vật và động vật học, ở đây tôi có thể tha hồ nghiên cứu, còn em gái tôi cũng gắn bó với thiên nhiên như tôi vậy. Bác sĩ Watson ơi, nhìn nét mặt ông khi đứng bên cửa sổ quan sát truông là tôi biết ngay ông nghĩ đến chuyện này."

"Đúng là tôi chợt nghĩ rằng chốn này có phần buồn chán, có lẽ với ông thì đỡ hơn, nhưng với em gái ông thì khác."

"Không, không, tôi chẳng bao giờ thấy buồn chán cả", cô vội nói.

"Chúng tôi có sách vở, có nhiều việc nghiên cứu, và có những láng giềng thú vị. Bác sĩ Mortimer là người thông thái nhất trong lĩnh vực của anh ta. Ngài Charles tội nghiệp cũng là một người bạn đáng hâm mộ. Chúng tôi quen thân và tiếc nhớ ngài ấy không sao nói hết. Theo ông thì liệu có đường đột chăng nếu chiều nay tôi ghé qua lâu đài làm quen với ngài Henry?" Stapleton nói.

"Tôi chắc chắn là nam tước sẽ rất hoan hỉ."

"Vậy có lẽ nhờ ông nói trước là tôi muốn ghé thăm. Biết đâu trong khả năng khiêm nhường của mình, chúng tôi có thể làm gì đó để giúp nam tước thấy thoải mái hơn, cho đến khi nào ngài ấy quen thuộc với môi trường mới. Bác sĩ Watson này, ông lên lầu xem bộ sưu tập côn trùng cánh vảy của tôi nhé? Tôi nghĩ đây là bộ sưu tập đầy đủ nhất ở vùng tây nam Anh quốc này. Đến lúc ông xem xong thì cũng vừa kịp ăn trưa đó."

Nhưng tôi đã nóng lòng muốn quay về với trọng trách của mình. Vẻ thê lương của truông, cái chết của con ngựa bất hạnh, âm thanh quái đản được gán cho truyền thuyết ác nghiệt của dòng họ Baskerville, tất cả khiến suy nghĩ của tôi nhuốm màu buồn thảm. Thêm vào những ấn tượng có phần mơ hồ đó là lời cảnh báo dứt khoát và rõ ràng của cô Stapleton với cung cách khẩn thiết tới mức tôi biết chắc rằng nó ẩn chứa một nguyên do hệ trọng và sâu xa. Dù họ hết lời nài ép tôi ở lại ăn trưa, tôi vẫn từ chối và lên đường trở về ngay, theo lối mòn cỏ mọc đã đi lúc trước.

Tuy nhiên, chắc hẳn có một đường tắt mà ai am tường địa hình ở đây mới biết, bởi lẽ tôi chưa kịp ra tới con lộ chính thì đã sửng sốt nhận ra cô Stapleton đang ngồi trên một tảng đá bên đường. Cô chống một tay bên hông, gương mặt ửng hồng xinh đẹp vì gắng sức.

"Tôi đã chạy một mạch để đón đầu ông đó, bác sĩ Watson", cô nói. "Thậm chí tôi không kịp đội mũ nón gì. Tôi không được nán lại lâu kẻo anh tôi thấy vắng. Tôi muốn nói với ông rằng tôi rất tiếc đã phạm sai lầm ngu xuẩn khi tưởng ông là ngài Henry. Xin hãy quên những gì tôi đã nói vì nó không liên quan gì tới ông cả."

"Nhưng tôi không thể quên, thưa cô Stapleton", tôi nói. "Tôi là bạn của ngài Henry và sự bình an của ngài ấy là mối quan tâm mật thiết của tôi. Hãy cho tôi biết lí do cô nôn nóng muốn ngài Henry quay lại London đến thế."

"Cái thói tùy hứng của phụ nữ thôi mà, bác sĩ Watson. Khi nào biết rõ tôi hơn, ông sẽ hiểu rằng có những thứ tôi nói hay làm mà không thể nói rõ lí do."

"Không, không phải. Tôi còn nhớ giọng cô nói đầy xúc động. Tôi còn nhớ ánh mắt cô. Xin cô, xin làm ơn nói thật đi, cô Stapleton, vì từ khi tới đây tôi luôn nhận ra có nhiều điều ám muội bao quanh tôi. Cuộc sống đã trở nên giống như bãi lầy Grimpen kia, đâu đâu cũng là những cạm bẫy màu xanh nơi người ta có thể bị sa lầy nếu không có ai chỉ đường. Xin hãy cho tôi biết ý cô muốn nói và tôi hứa sẽ chuyển lời cảnh báo của cô đến ngài Henry."

Một thoáng do dự lướt qua gương mặt cô ta, nhưng rồi ánh mắt cô lạnh lùng trở lại khi đáp lời.

"Ông cả nghĩ quá đấy, bác sĩ Watson", cô nói. "Anh tôi và tôi rất bàng hoàng vì cái chết của ngài Charles. Chúng tôi rất thân thiết với ngài vì ngài thích tản bộ qua truông đến chơi nhà chúng tôi. Ngài Charles bị lời nguyền đã đe dọa cả dòng họ ám ảnh sâu sắc, nên khi thảm kịch xảy ra tôi đương nhiên cảm thấy những nỗi sợ hãi mà ngài ấy nói ra ắt phải có cơ sở. Cho nên tôi cũng lo lắng khi thêm một thành viên nữa trong gia tộc đó về đây sống, và tôi nghĩ nên báo trước cho người đó về nguy cơ sẽ gặp phải. Ý tôi chỉ có vậy thôi."

"Nhưng nguy cơ gì?"

"Ông biết chuyện con chó chứ?"

"Tôi không tin chuyện vô lí như thế."

"Nhưng tôi tin. Nếu ông có chút ảnh hưởng đối với ngài Henry thì hãy đưa ngài rời khỏi cái chốn đã luôn gây tai họa cho dòng họ của ngài ấy. Thế giới rộng lớn mà. Cớ gì ngài ấy lại muốn sống ở nơi nguy hiểm này chứ?"

"Bởi vì đây chính là nơi nguy hiểm. Đó là bản tính của ngài Henry. Tôi e rằng nếu cô không thể cho tôi biết thông tin rõ ràng hơn thì chẳng có cách gì khiến nam tước bỏ đi được đâu."

"Tôi không thể nói điều gì rõ ràng, bởi chính tôi cũng không biết điều gì rõ ràng cả."

"Tôi xin hỏi thêm một câu, thưa cô Stapleton. Nếu như lúc nãy cô chỉ có ý như thế, thì tại sao cô lại không muốn anh cô nghe thấy? Có gì khiến anh cô hay bất cứ ai phải phật ý đâu."

"Anh tôi rất mong có người về sống ở lâu đài vì anh ấy cho rằng thế là tốt cho đám dân nghèo trên truông. Anh ấy sẽ rất tức giận nếu biết tôi đã nói điều gì có thể khiến ngài Henry bỏ đi. Nhưng bây giờ tôi đã xong bổn phận của mình và sẽ không nói thêm nữa. Tôi phải quay về kẻo anh tôi không thấy mặt lại nghi ngờ tôi đi gặp ông. Tạm biệt!"

Cô ta quay lưng và mấy phút sau đã mất hút giữa những tảng đá ngổn ngang. Còn tôi trong lòng chất chứa bao nỗi lo sợ mơ hồ, lại tiếp tục quãng đường trở về lâu đài Baskerville.

8. Bản tường trình đầu tiên của bác sĩ Watson

Từ đây, tôi sẽ tường thuật diễn tiến các sự kiện bằng cách chép lại những bức thư mà chính tôi đã gửi cho Sherlock Holmes, hiện đang nằm trên bàn ngay trước mặt. Ngoại trừ một trang đã thất lạc, còn lại tất cả vẫn còn nguyên trạng như đã viết và thể hiện cảm xúc cùng những mối ngờ vực của tôi vào thời điểm đó chính xác hơn trí nhớ, mặc dù tôi vẫn còn nhớ như in những biến cố thê thảm đã xảy ra.

Lâu đài Baskerville, ngày 13 tháng 10

HOLMES THÂN MẾN!

Những bức thư và điện tín trước của tôi đã thông báo kịp thời với anh mọi chuyện xảy ra ở cái xó xỉnh bị Chúa bỏ rơi này. Càng ở đây lâu càng thấy thấm thía cái hồn của truông, cả sự mênh mông lẫn vẻ mê hoặc gớm ghê của nó. Mỗi khi ra giữa truông thì mọi dấu vết của Anh quốc hiện đại đều bị bỏ lại phía sau, anh sẽ thấy khắp nơi là nhà ở và công trình của người tiền sử. Đi đâu anh cũng thấy tứ phía toàn nhà cửa của giống người đã bị quên lãng ấy, cùng các phần mộ và khối cự thạch khổng lồ được cho là vết tích những đền đài của họ. Nhìn những căn nhà đá xám xịt trên các triền đồi sứt sẹo là anh quên luôn thời đại của mình, giả sử anh có gặp một người lông lá trần truồng bò ra từ khung cửa thấp lè tè và lắp một mũi tên đá vào cung, thì anh sẽ thấy con người đó xuất hiện ở nơi này còn hợp lẽ tự nhiên hơn chính anh. Điều kì lạ là họ đã sống rất đông đúc trên vùng đất bao đời nay luôn cằn cỗi vô cùng. Không phải là nhà cổ học nhưng tôi có thể hình dung đó là một tộc người không hiếu chiến và luôn bị sách nhiễu nên buộc phải chấp nhận ngụ cư ở nơi không ai khác thèm chiếm giữ. Tuy nhiên, những chuyện này không thuộc về nhiệm vụ mà anh đã giao cho tôi và có lẽ không đáng quan tâm đối với tư duy thực tế của anh. Tôi vẫn còn nhớ anh hoàn toàn dửng dưng về vấn đề trái đất xoay quanh mặt trời hay mặt trời xoay quanh trái đất. Vì thế tôi sẽ quay lại những dữ kiện liên quan đến ngài Henry Baskerville.

Mấy ngày qua anh không nhận được bản tường trình nào là vì cho tới hôm nay chẳng có chuyện gì quan trọng để báo cả. Rồi một sự việc rất đáng ngạc nhiên đã xảy ra, chuyện này tôi sẽ thuật lại ngay đây. Nhưng trước hết, tôi phải cho anh biết vài yếu tố khác về tình hình ở đây. Trong đó có một yếu tố mà đến giờ tôi ít nhắc tới, chính là tên tù vượt ngục trên truông. Bây giờ đã có lí do vững chắc để tin rằng y đã đi khỏi đây, quả là cất được gánh nặng cho những gia đình lẻ loi trong khu vực. Nửa tháng đã trôi qua từ khi tên này đào tẩu, suốt thời gian đó chẳng ai nhìn thấy hay nghe tin tức gì. Rõ ràng khó mà tin là y có thể cầm cự trên truông bấy lâu nay. Tất nhiên, nếu nói đến chỗ ẩn náu thì ắt hẳn y không hề gặp khó khăn gì. Bất kì căn nhà đá tiền sử nào cũng có thể làm nơi trú ẩn cho y. Nhưng ở đó chẳng có gì để ăn trừ phi y bắt trộm và giết cừu ngoài đồng. Cho nên chúng tôi nghĩ rằng y đã đi khỏi đây và những nông dân sống ở nơi hẻo lánh nhờ thế mà được an giấc.

Ở lâu đài chúng tôi có bốn người đàn ông khỏe mạnh có thể tự vệ, nhưng thú thật nhiều lúc tôi đã lo lắng khi nghĩ đến anh em nhà Stapleton. Họ sống cách xa mọi nguồn trợ giúp nhiều dặm. Nhà chỉ có một người hầu gái, một lão gia nhân, và anh em họ, mà anh ta không phải người khỏe mạnh lắm. Họ sẽ không đủ sức kháng cự một kẻ cùng đường như tên tội phạm Notting Hill này nếu y toan đột nhập vào nhà. Cả ngài Henry lẫn tôi đều ái ngại cho hoàn cảnh của họ và đã đề nghị cho anh mã phu Perkins sang ngủ bên nhà đó nhưng Stapleton không nghe. Thật ra, người bạn của chúng ta, vị nam tước trẻ, đã bắt đầu để mắt đến giai nhân láng giềng. Chuyện đó cũng chẳng lạ chỉ vì thời gian ở cái chốn hiu quạnh này quá thừa thãi với một người năng động như ngài Henry còn cô ta lại là một giai nhân quyến rũ. Ở cô có nét gì đó ngoại lai và nồng nhiệt, hết sức trái ngược với người anh lạnh lùng, ít cảm xúc. Thế nhưng người anh lại giống như một lò lửa ngấm ngầm. Nhất định anh ta có ảnh hưởng rất mạnh đối với cô em, bởi tôi đã thấy cô không ngừng liếc nhìn anh mình mỗi khi trò chuyện cứ như đang đợi anh ta tỏ ý tán thành những gì cô nói. Tôi tin là người anh tử tế với cô em. Trong mắt anh ta ánh lên vẻ lãnh đạm còn đôi môi mỏng mím chặt, thường gắn với bản tính cương quyết và có thể hơi khắc nghiệt. Anh sẽ thấy người này là một mẫu nghiên cứu thú vị. Anh ta đến thăm Baskerville ngay ngày đầu tiên, và sáng hôm sau đưa cả hai chúng tôi đi xem chỗ được cho là cội nguồn của truyền thuyết về gã Hugo độc ác. Đó là một chuyến du ngoạn vài dặm đường băng qua truông tới một nơi hết sức buồn thảm, có lẽ câu chuyện được gợi cảm hứng từ đó cũng nên. Chúng tôi tới một thung lũng ngắn giữa mấy mỏm đá lởm chởm, mở ra một trảng cỏ xanh điểm xuyết những bụi cây bông trắng. Ở giữa nhô lên hai tảng đá lớn, phần chóp đã bị bào mòn và mài nhọn, trông như hai cái răng nanh khổng lồ của một con quái thú. Cảnh tượng hoàn toàn phù hợp với mô tả trong truyền thuyết bi thảm ấy. Ngài Henry hết sức quan tâm và nhiều lần hỏi Stapleton xem anh ta có thực sự tin rằng liệu thế lực siêu nhiên có khả năng can thiệp vào việc của con người không. Ngài Henry làm ra vẻ chỉ hỏi bâng quơ nhưng rõ ràng là rất tha thiết muốn biết. Stapleton lại trả lời dè dặt, nhưng dễ thấy rằng anh ta không nói hết và không bày tỏ hết quan điểm của mình để tránh gây xúc động cho nam tước. Stapleton kể cho chúng tôi nghe những trường hợp tương tự, trong đó nhiều dòng họ bị yêu ma ám, và anh ta khiến chúng tôi có cảm giác rằng anh ta đồng tình với cách nhìn nhận của số đông về vấn đề này.

Trên đường về chúng tôi ghé điền trang Merripit ăn trưa và tại đây ngài Henry đã làm quen với cô em Stapleton. Ngay từ phút đầu gặp mặt, nam tước có vẻ như đã bị cô ta hớp hồn, và nếu cảm tình không xuất phát từ cả hai phía thì chắc tôi đã lầm to. Trên đường tản bộ về nhà, ngài Henry cứ nhắc đến cô ta mãi và từ đó ngày nào chúng tôi cũng gặp hai anh em nhà Stapleton. Họ đã ăn tối ở đây tối nay và đã bàn chuyện mời chúng tôi đến nhà họ tuần tới. Tưởng đâu Stapleton phải rất hoan nghênh nếu họ thành đôi, thế nhưng nhiều lần tôi đã bắt gặp thái độ phản đối quyết liệt hiện trên nét mặt anh ta khi ngài Henry tỏ ra quan tâm đến cô em gái. Stapleton gắn bó với cô em lắm, tất nhiên, và không có cô ta thì Stapleton sẽ sống rất cô đơn, nhưng nếu anh ta cản trở một cuộc hôn nhân xán lạn như thế thì có vẻ ích kỉ quá. Dù vậy, tôi chắc chắn rằng anh ta không muốn tình thân thiết này chín muồi thành tình yêu, và nhiều lần tôi để ý thấy anh ta ra sức ngăn chặn không cho hai người này gặp gỡ riêng tư. Tiện thể nói luôn, việc anh dặn dò tôi đừng bao giờ để ngài Henry đi ra ngoài một mình sẽ càng khó thực hiện nếu ngoài những gian nan vốn có bây giờ lại phát sinh thêm chuyện yêu đương. Nếu tôi cứ khăng khăng làm đúng lời anh thì chẳng mấy chốc cảm tình nam tước dành cho tôi sẽ bị sứt mẻ.

Hôm kia - chính xác là thứ năm - bác sĩ Mortimer ăn trưa với chúng tôi. Anh ta vừa khai quật một gò đất ở Long Down và tìm được một cái sọ người tiền sử khiến anh ta mừng khôn xiết. Thật chẳng có ai say mê như anh ta! Sau đó anh em Stapleton đến, và thể theo yêu cầu của ngài Henry, vị bác sĩ tốt tính kia dẫn tất cả ra con đường thủy tùng để cho chúng tôi hình dung chính xác chuyện đã xảy ra như thế nào trong đêm định mệnh ấy. Đó là một lối đi tối tăm, hun hút giữa hai hàng giậu thủy tùng xén ngọn cao như hai bức tường, hai bên có bờ cỏ hẹp. Ở đầu kia là một căn nhà hóng mát cũ đã tàn tạ. Ở khoảng giữa con đường là cánh cổng gỗ mở ra truông, nơi ông già quý tộc để lại tàn xì gà. Đó là một cánh cổng bằng gỗ sơn trắng có khóa. Phía sau là truông rộng mênh mông. Tôi còn nhớ giả thuyết của anh về chuyện này nên cố mường tượng tất cả diễn tiến. Khi ông già đứng đây, ông đã thấy cái gì đó băng qua truông, khiến ông khiếp hãi đến mức quẫn trí và bỏ chạy, chạy đến chết chỉ vì kiệt lực và kinh hoàng. Ông già đã chạy trốn trên con đường hun hút, tối tăm như đường hầm này đây. Trốn cái gì? Một con chó chăn cừu trên truông? Hay là một con quỷ chó, đen ngòm, im lặng và kinh khiếp? Con người có nhúng tay vào chuyện này không? Phải chăng ông Barrymore kia đã biết nhiều chuyện mà không chịu nói hết? Tất cả đều mông lung và mập mờ, nhưng đằng sau luôn hiện diện bóng tối âm u của tội ác.

Tôi đã gặp một người láng giềng nữa sau khi gửi anh lá thư trước. Đó là ông Frankland ở lâu đài Lafter, cách chỗ chúng tôi chừng bốn dặm về phía nam. Ông ta đã cao tuổi, mặt đỏ, tóc bạc, tính tình nóng nảy. Đam mê của Frankland chính là luật pháp Anh quốc và ông ta đã tiêu cả một gia tài vào chuyện kiện tụng, ông ta tranh chấp chỉ để cho vui và sẵn sàng hầu tòa bất kể ở bên nguyên hay bên bị, cho nên không có gì ngạc nhiên là ông ta đã tiêu tốn khối tiền vào thú tiêu khiển đó. Có khi ông ta chặn lối đi chung và thách giáo xứ khiến ông ta phải mở ra. Có khi chính tay ông ta lại phá toang cổng nhà người khác và tuyên bố từ thời xa xưa đã có con đường qua đó, lại còn thách gia chủ kiện ông xâm phạm. Frankland rất uyên bác về quyền lợi chung và các quyền liên quan đến thái ấp từ thuở xưa, và ông ta vận dụng kiến thức của mình lúc thì làm lợi cho dân làng Fernworthy, lúc thì gây hại cho họ, cho nên tùy thuộc vào công trạng mới nhất mà ông ta được công kênh mừng chiến thắng trên đường làng hoặc bị đốt hình nộm nguyền rủa. Nghe đâu ông ta hiện đang phải đảm đương bảy vụ kiện, xong hết mấy vụ này hẳn số tài sản còn lại của ông ta cũng cạn sạch, hết đường khiêu khích và sẽ trở nên vô hại trong tương lai. Ngoài chuyện kiện tụng ra, Frankland có vẻ là người nhân hậu, tử tế, và tôi nhắc đến ông ta chỉ vì anh đã căn dặn kĩ là tôi phải mô tả những người sống quanh đây. Frankland là một nhà thiên văn nghiệp dư và có một kính viễn vọng rất tốt. Dạo này ông ta đang bận làm một việc kì cục là nằm trên mái nhà suốt ngày, lia ống kính khắp truông, hòng phát hiện ra tên tù vượt ngục. Nếu ông ta cứ dồn hết sức lực vào việc này thì mọi chuyện đều tốt đẹp, nhưng có tin đồn Frankland định kiện bác sĩ Mortimer vì tội đào mồ mà không có sự đồng ý của họ hàng người quá cố bởi vì ông bác sĩ đã đào được một cái sọ người từ thời Đồ Đá Mới trong gò đất ở Long Down. Nhờ có Frankland mà cuộc sống của chúng tôi bớt đơn điệu và được chút chuyện hài hước để giải khuây mà chúng tôi rất thiếu.

Và bây giờ, sau khi đã kể cho anh các thông tin mới nhất về tên tù vượt ngục, anh em nhà Stapleton, bác sĩ Mortimer, và ông Frankland ở lâu đài Lafter, tôi sẽ kết thúc bằng chuyện quan trọng nhất để anh biết thêm về vợ chồng Barrymore và đặc biệt là diễn biến đáng ngạc nhiên tối hôm qua.

Trước tiên là chuyện bức điện tín mà anh đã gửi từ London để kiểm tra xem Barrymore có mặt ở đây không. Tôi đã giải thích là lời xác nhận của ông bưu cục trưởng cho thấy cách kiểm tra đó vô giá trị và chúng ta không có bằng chứng nào khác liên quan. Tôi nói với ngài Henry chuyện đó và nam tước, vốn quen kiểu bộc trực, lập tức gọi Barrymore lên hỏi xem ông ta có đích thân nhận bức điện ấy không. Barrymore xác nhận là có.

"Thằng bé đó đưa tận tay ông à?" Ngài Henry hỏi.

Barrymore có vẻ ngạc nhiên, rồi ngẫm nghĩ một hồi mới nói, "Dạ không. Lúc đó tôi đang ở trong nhà kho, vợ tôi mang điện tín lên cho tôi."

"Thế chính ông trả lời điện tín à?"

"Dạ không. Tôi bảo vợ tôi phải trả lời ra sao và bà ấy xuống nhà viết ra."

Đến tối thì chính Barrymore nhắc lại chuyện này. "Thưa ngài Henry, tôi không hiểu rõ mục đích của việc ngài truy vấn sáng nay. Tôi chắc những câu hỏi đó không có hàm ý là tôi đã làm điều gì khiến ngài không còn tin cậy tôi nữa, phải không ạ?"

Ngài Henry phải trấn an là không phải thế và làm cho Barrymore nguôi ngoai bằng cách cho ông ta một phần đáng kể số quần áo cũ của mình, vì tất cả những trang phục mới từ London đã được gửi đến. Còn tôi lại chú ý nhiều tới bà Barrymore. Bà là người nghiêm nghị, cứng cỏi, rất kín đáo, hết sức đáng trọng, và có phần hơi khắc khổ. Ta khó lòng hình dung ra người nào ít biểu lộ cảm xúc hơn thế. Nhưng như tôi đã thuật lại với anh, đêm đầu tiên ở đây, tôi đã nghe bà ta khóc nức nở đến là thảm thiết, từ đó tôi đã nhiều lần để ý thấy dấu nước mắt hoen trên mặt bà ta. Một nỗi đau khổ sâu sắc nào đó đang vò xé trong lòng con người này. Có lúc tôi tự hỏi phải chăng bà ta bị ám ảnh bởi một kí ức tội lỗi, có lúc tôi lại nghi ngờ Barrymore là một tên bạo chúa trong gia đình. Tôi luôn cảm thấy có điều gì đó lạ thường và mờ ám trong tính cách của ông quản gia, nhưng chuyện bất ngờ đêm qua càng khiến tôi hồ nghi tột độ.

Thế nhưng chuyện này lại có vẻ nhỏ nhặt. Anh biết tôi ngủ không say và vì phải đề cao cảnh giác trong ngôi nhà này nên tôi càng thính ngủ hơn bao giờ hết. Đêm qua, khoảng 2 giờ sáng, tôi tỉnh giấc khi nghe có tiếng chân rón rén đi ngang phòng mình. Tôi ra khỏi giường, mở hé cửa nhìn ra. Một bóng đen đổ dài đang di chuyển dọc hành lang. Đó là bóng một người đang đi nhẹ bước, tay cầm một cây nến. Người này mặc áo sơmi và quần dài nhưng đi chân trần. Tôi chỉ thấy được bóng dáng nhưng tầm vóc ấy cho tôi biết người này chính là Barrymore. Ông ta đi rất chậm và dè dặt, dáng điệu toát ra vẻ gì đó tội lỗi và lén lút khôn tả. Tôi đã cho anh biết hành lang này bị bao lơn phía trên đại sảnh chen vào giữa, nhưng nó lại kéo dài sang cánh bên kia. Tôi chờ đến khi Barrymore khuất dạng liền đi theo. Khi tôi đi qua bao lơn thì ông ta đã đến cuối hành lang bên kia và từ ánh sáng lờ mờ rọi qua cánh cửa mở, tôi biết ông ta đã đi vào một căn phòng nào đó. Vì tất cả các phòng bên này đều không có đồ đạc và không có người ở cho nên hành vi của ông ta càng thêm phần bí ẩn. Tôi lẻn vào hành lang ấy, cố hết sức không gây tiếng động và nhìn lén vào phòng. Barrymore đang lom khom bên cửa sổ và giơ ngọn nến vào sát cửa kính. Gương mặt trông nghiêng hơi quay về phía tôi và dường như căng thẳng vì trông đợi trong lúc ông ta nhìn đăm đăm ra vùng truông đen tối. Suốt mấy phút ông ta cứ chăm chú quan sát như thế. Rồi ông ta thốt lên một tiếng lẩm bẩm khe khẽ và dập tắt ánh nến với cử chỉ nôn nóng. Lập tức tôi quay về phòng mình và liền sau đó tôi lại nghe tiếng bước chân rón rén băng qua lần nữa. Một lúc lâu sau, khi đã lơ mơ ngủ, tôi lại nghe tiếng chìa khóa xoay trong ổ đâu đây, nhưng tôi không thể nói được nơi nó phát ra. Tôi không biết nguyên do của những việc ấy, nhưng trong ngôi nhà u ám này nhất định có một bí mật mà sớm hay muộn chúng ta sẽ phải tìm hiểu ngọn ngành. Tôi không quấy rầy anh với những giả thuyết của mình vì anh đã yêu cầu chỉ cung cấp dữ kiện mà thôi. Sáng nay tôi đã nói chuyện rất lâu với ngài Henry và chúng tôi đã lập một kế hoạch hành động căn cứ vào những gì tôi theo dõi được đêm qua. Bây giờ tôi chưa nói về kế hoạch này đâu, nhưng chắc nó sẽ làm bản tường trình kế tiếp thêm phần hấp dẫn.

9. Ánh sáng trên đồng hoang
(Bản tường trình thứ hai của bác sĩ Watson)

Lâu đài Baskerville, ngày 15 tháng 10

HOLMES THÂN MẾN!

Nếu như tôi chưa cung cấp được nhiều thông tin trong những ngày đầu làm nhiệm vụ thì giờ đây anh hẳn phải công nhận rằng tôi đã bù đắp lại thời gian đã mất, và các sự việc ở đây đang diễn ra dồn dập, liên tiếp. Trong bản tường trình vừa qua, tôi đã dành phần cuối để nói về tình tiết quan trọng nhất là việc Barrymore đến chỗ ô cửa sổ, còn bây giờ tôi đã có hẳn một loạt sự kiện sẽ khiến anh ngạc nhiên lắm, không thì tôi lầm to. Mọi việc đã thay đổi theo chiều hướng mà tôi không thể ngờ. Trong vòng bốn mươi tám giờ qua, có thể nói tình hình đã sáng tỏ hơn nhưng cũng có thể nói là phức tạp hơn. Nhưng tôi sẽ tường thuật hết để anh tự đánh giá.

Trước bữa điểm tâm vào buổi sáng sau phát hiện tình cờ về Barrymore, tôi đi vào hành lang đó và xem xét căn phòng mà đêm trước người quản gia đã vào. Tôi để ý thấy cửa sổ hướng tây nơi ông ta đã đứng quan sát hết sức chăm chú có một điểm khác biệt với mọi cửa sổ khác trong nhà, đó là vị trí gần nhất để nhìn ra truông. Có một khoảng trống giữa hai cây lớn nên từ chỗ này có thể nhìn thẳng ra truông, còn nhìn qua các cửa sổ khác thì chỉ thấy lờ mờ đằng xa. Vì thế, nhất định Barrymore phải trông chờ cái gì hoặc ai đó trên truông. Đêm ấy trời tối đen nên tôi khó lòng hình dung ông ta đã mong ngóng ai. Tôi đã nảy ra ý nghĩ là ắt phải có chuyện tình ái dan díu đang diễn ra. Điều này có thể giải thích cho hành vi lén lút của ông ta cũng như trạng thái bất an của người vợ. Barrymore là người điển trai, thừa sức chiếm đoạt trái tim của một thôn nữ, do đó giả thuyết này cũng phần nào có lí. Tiếng mở khóa tôi đã nghe sau khi quay về phòng có thể là khi ông ta đi ra ngoài hẹn hò bí mật. Sáng ra tôi đã thầm suy luận như vậy và không giấu gì anh hướng nghi vấn của tôi, tuy kết quả đã cho thấy tất cả đều rất xa thực tế. Nhưng dù nguyên do đích thực trong hành tung của Barrymore là gì, tôi vẫn thấy khó lòng giữ im lặng cho tới khi lí giải được. Sau bữa điểm tâm, tôi liền đến phòng làm việc của nam tước và kể hết những gì đã thấy. Anh ta ít ngạc nhiên hơn tôi tưởng.

"Tôi biết chuyện Barrymore nhiều đêm đi lại trong nhà và đã định hỏi ông ta chuyện đó", ngài Henry nói. "Tôi đã hai, ba lần nghe tiếng chân trong hành lang, đi tới rồi quay về, vào khoảng cái giờ mà ông nói đó."

"Có thể đêm nào ông ta cũng đi tới đúng cái cửa sổ đó", tôi phỏng đoán.

"Chắc là thế. Nếu vậy, chúng ta có thể theo dõi xem ông ta đang làm gì. Không biết ông bạn Holmes sẽ làm gì nếu có mặt ở đây?"

"Tôi chắc anh ấy cũng sẽ làm đúng như ngài đang đề nghị", tôi nói. "Anh ấy sẽ theo dõi Barrymore xem ông ta làm gì."

"Vậy thì chúng ta sẽ cùng theo dõi."

"Nhưng thế thì ông ta nghe thấy mất."

"Ông ta khá nặng tai, và đằng nào ta cũng phải thử xem. Đêm nay chúng ta hãy cùng thức trong phòng tôi và chờ tới khi ông ta đi ngang qua." Ngài Henry xoa tay thích chí, rõ ràng là xem chuyện phiêu lưu này như một cách giải khuây cho cuộc sống có phần lặng lẽ ở nơi này.

Nam tước có liên lạc với kiến trúc sư đã thiết kế các đồ án cho ngài Charles và với một nhà thầu khoán ở London, cho nên chúng ta có thể trông chờ những thay đổi lớn sẽ sớm bắt đầu ở đây. Có những hãng trấn thiết và trang trí nội thất từ tận Plymouth đã cho người đến đây, và hiển nhiên là người bạn của chúng ta có nhiều ý tưởng lớn cũng như điều kiện để khôi phục vinh quang dòng tộc mà không tiếc công sức hay tiền của. Khi tòa nhà này đã được tu sửa và trấn thiết xong, anh ta chỉ thiếu một phu nhân nữa là trọn vẹn. Nói riêng với anh, có nhiều dấu hiệu khá rõ ràng cho thấy vị trí ấy sẽ không còn thiếu vắng nếu như người phụ nữ ấy bằng lòng, bởi tôi hiếm khi thấy ai si mê như vị nam tước si mê người đẹp láng giềng, cô Stapleton. Những tưởng trong hoàn cảnh này, con đường tình chân chính sẽ bằng phẳng nhưng hóa ra không phải thế. Chẳng hạn như hôm nay, nó đã gặp phải một chướng ngại rất bất ngờ khiến người bạn của chúng ta hết sức bối rối và phật ý.

Sau cuộc trò chuyện về Barrymore mà tôi vừa kể, ngài Henry đội mũ chuẩn bị ra ngoài. Tất nhiên tôi cũng làm theo.

"Ủa, ông cũng đi cùng sao, Watson?" Nam tước vừa hỏi vừa nhìn tôi với ánh mắt là lạ.

"Còn tùy xem ngài có đi ra truông hay không", tôi đáp.

"Có, tôi ra đó."

"Chà, ngài biết rõ tôi đã được căn dặn thế nào rồi. Rất tiếc tôi phải xen vào, nhưng ngài đã nghe Holmes hết sức khẩn thiết bảo tôi không được xa rời ngài, và đặc biệt là ngài không nên ra ngoài truông một mình."

Ngài Henry đặt tay lên vai tôi và cười ha hả. "Ông bạn thân mến ơi", anh ta nói, "ông Holmes thông tuệ của chúng ta đâu có tiên liệu được một số việc đã xảy ra từ khi tôi đến truông này. Ông có hiểu tôi không? Tôi tin chắc không đời nào ông lại muốn làm kẻ phá bĩnh. Tôi phải đi một mình."

Tôi bị đặt vào tình thế cực kì khó xử. Tôi bối rối không biết phải nói gì, làm gì, và tôi chưa kịp quyết định thì anh ta đã cầm gậy đi mất. Nhưng khi tôi suy nghĩ lại thì lương tâm cứ dằn vặt không yên vì đã để cho nam tước rời khỏi tầm mắt tôi bất luận lí do là gì. Tôi mường tượng mình sẽ thấy sao nếu phải quay về gặp anh và thú nhận rằng rủi ro đã xảy ra do tôi bất tuân lời anh căn dặn. Cam đoan với anh hai má tôi đã đỏ bừng xấu hổ với ý nghĩ đó. Lúc này đuổi theo anh ta cũng còn kịp cho nên tôi lập tức lên đường theo hướng điền trang Merripit. Tôi hấp tấp chạy hết sức trên đường mà đến tận chỗ lối mòn rẽ ra truông vẫn chẳng thấy bóng dáng ngài Henry đâu. Đến đây, sợ đi sai hướng, tôi trèo lên một ngọn đồi để có thể nhìn bao quát xuống - chính là ngọn đồi đã bị xẻ thành mỏ đá âm u kia. Từ vị trí này tôi nhìn thấy nam tước ngay. Ngài Henry đang ở trên lối mòn ra truông cách chỗ tôi chừng một phần tư dặm, và bên anh ta có một bóng hồng, chỉ có thể là cô Stapleton. Rõ ràng là giữa hai người đã có ước định từ trước và cuộc gặp này là một cuộc hẹn hò. Họ vừa thong dong tản bộ vừa trò chuyện say sưa, tôi thấy cô ta vung tay rất nhanh như thể đang nói gì đó rất khẩn thiết, trong khi nam tước lắng nghe chăm chú, đôi lần lắc đầu tỏ vẻ bất đồng quyết liệt. Tôi đứng giữa những tảng đá nhìn họ, rất hoang mang không biết phải làm gì. Đi theo họ và chen ngang vào cuộc trò chuyện riêng tư này thì thô lỗ quá, thế nhưng nhiệm vụ của tôi là không được để nam tước khuất khỏi tầm mắt một lúc nào. Phải do thám bạn mình đúng là một công việc đáng ghét. Dù vậy, tôi không còn cách nào khác hơn là quan sát nam tước từ trên đồi và sau này sẽ xoa dịu lương tâm bằng cách thú nhận với anh ta. Thực tình nếu có mối nguy hiểm bất ngờ đe dọa nam tước thì tôi cũng chẳng làm được gì do ở quá xa, nhưng tôi tin chắc anh sẽ đồng ý với tôi rằng tình huống này rất khó xử và tôi không thể làm khác.

Người bạn của chúng ta, ngài Henry, cùng quý cô kia đã dừng bước trên đường và đang đứng nói chuyện mải mê, thì đột nhiên tôi nhận ra mình không phải là chứng nhân duy nhất của cuộc gặp gỡ này. Một vệt màu xanh lá cây rập rờn bỗng lọt vào mắt tôi và đưa mắt nhìn sang, tôi thấy vật đó gắn trên một cây gậy và người cầm nó đang đi trên mặt đất gồ ghề. Chính là Stapleton với cây vợt bắt bướm của anh ta. Stapleton ở gần hai người kia hơn tôi, và anh ta hình như đang đi về phía họ. Ngay lúc đó ngài Henry thình lình kéo cô Stapleton sát lại gần. Cánh tay nam tước vòng qua lưng người phụ nữ nhưng có vẻ cô ta đang cố giằng ra và ngoảnh mặt đi tránh né. Nam tước cúi đầu áp vào mặt cô Stapleton, còn cô ta giơ cao một cánh tay như phản đối. Liền sau đó tôi thấy hai người buông nhau ra, hấp tấp quay lại nhìn quanh. Nguyên nhân của sự gián đoạn đó chính là Stapleton. Anh ta đang chạy hộc tốc tới chỗ họ, cái vợt kì cục đung đưa sau lưng. Anh ta khoa tay múa chân và cứ như đang nhảy lên vì kích động trước mặt đôi tình nhân. Quả là một cảnh tượng tôi không sao hình dung nổi, nhưng tôi thấy Stapleton dường như đang lăng mạ ngài Henry, vị nam tước giải thích gì đó và đâm ra càng tức giận khi người kia không chịu chấp nhận.

Còn người phụ nữ chỉ đứng một bên im lặng kiêu kì. Cuối cùng Stapleton quay gót, vẫy tay ra hiệu cho cô em một cách dứt khoát, còn cô gái chỉ do dự liếc nhìn ngài Henry rồi bỏ đi cùng anh trai. Cử chỉ tức giận của nhà tự nhiên học cho thấy anh ta không hài lòng về cô em. Nam tước đứng nhìn theo họ một lúc rồi từ từ đi ngược lại con đường cũ, đầu cúi gằm, trông đầy thất vọng.

Tôi không sao hiểu được chuyện vừa diễn ra nhưng tôi thấy hổ thẹn ghê gớm vì đã chứng kiến một cảnh tượng hết sức riêng tư mà bạn mình không biết. Cho nên tôi chạy xuống và đón nam tước ở chân đồi. Mặt anh ta còn đỏ bừng tức tối và trán nhăn lại như không còn biết phải làm gì.

"Ồ kìa, Watson! Ông ở đâu hiện ra thế?" Ngài Henry nói. "Đừng nói là ông cứ bất chấp mà đi theo tôi đấy!"

Tôi nói rõ tất cả cho anh ta biết: Nào là tôi không thể ngồi ở nhà, nào là tôi đã đi theo, và tôi đã nhìn thấy chuyện vừa xảy ra. Nam tước quắc mắt nhìn tôi hồi lâu nhưng sự thành thật của tôi đã hóa giải cơn thịnh nộ của anh ta, cuối cùng anh chàng bật ra một tiếng cười khá thiểu não.

"Cứ tưởng giữa chốn đồng cỏ này là nơi an toàn cho một người cần sự riêng tư", anh ta nói, "nhưng trời ơi, hóa ra cả xứ này đã ra đây xem tôi diễn trò ve vãn, đã thế lại còn ve vãn rất tồi! Thế ông ngồi ở đâu xem diễn kịch vậy?"

"Tôi ở trên đỉnh đồi kia."

"Vậy là hàng ghế chót, hả? Nhưng anh cô ấy thì ở ngay hàng ghế đầu. Ông có thấy hắn sấn sổ tới chỗ chúng tôi không?"

"Có, có thấy."

"Có bao giờ ông nghĩ là hắn khùng không, ông anh của cô ấy đó?"

"Tôi chưa từng nghĩ thế."

"Tôi cũng không dám nghĩ thế. Lúc nào tôi cũng thấy hắn tỉnh táo cho tới hôm nay, nhưng tôi xin đảm bảo rằng hoặc hắn hoặc tôi phải có một kẻ bị điên. Nhưng tôi thì có vấn đề gì chứ? Ông đã sống bên tôi mấy tuần rồi, Watson. Cứ nói thẳng ra đi! Có lí gì tôi lại không thể trở thành người chồng tốt đối với người phụ nữ tôi yêu?"

"Tôi thấy chẳng có vấn đề gì."

"Hắn không thể phản đối tôi vì địa vị của cải, vậy thì nhất định hắn phải oán ghét chính bản thân tôi. Mà ghét tôi vì lẽ gì? Trong đời tôi chưa hề làm hại ai bao giờ. Thế mà hắn gần như không cho tôi động đến đầu ngón tay cô ấy."

"Anh ta nói thế à?"

"Thế đấy, và còn nhiều nữa. Watson này, nói thật với ông, tôi chỉ mới quen cô ấy có mấy tuần thôi nhưng ngay từ lần gặp đầu tiên tôi đã cảm thấy cô ấy được dành cho tôi, và cả cô ấy cũng rất vui sướng khi ở bên tôi, xin thề với ông đó. Ánh mắt người phụ nữ còn nhiều ý nghĩa hơn là lời nói. Nhưng hắn không bao giờ cho chúng tôi gặp gỡ riêng tư và chỉ có hôm nay là lần đầu tiên tôi có cơ hội nói vài lời với riêng cô ấy. Cô ấy sẵn lòng gặp tôi nhưng khi mở lời thì chẳng nói gì đến tình cảm, và cũng chẳng để tôi nói về chuyện ấy. Cô ấy cứ nhắc đi nhắc lại rằng đây là chốn nguy hiểm, và tôi phải đi khỏi đây thì cô ấy mới hài lòng. Tôi nói vì tôi đã gặp cô ấy nên tôi càng không muốn đi, và nếu quả thực cô ấy muốn tôi ra đi thì chỉ có một cách là cô ấy thu xếp đi cùng tôi. Nói thế xong tôi bèn hết lời ngỏ ý cầu hôn nhưng cô ấy chưa kịp đáp lại thì người anh ở đâu chạy tới, bộ dạng như thằng điên. Hắn tái mặt đi vì thịnh nộ, đôi mắt sáng màu như tóe lửa giận. 'Mi đang giờ trò gì với cô ấy? Sao mi dám bày tỏ với cô ấy những thứ tình cảm mà cô ấy ghê tởm? Bộ mi tưởng là nam tước rồi muốn làm gì thì làm sao?' Nếu hắn không phải là anh cô ấy thì tôi đã có cách trả lời hay hơn rồi. Vì nể tình nên tôi nói với hắn là tình cảm tôi dành cho em gái hắn không có gì khiến tôi phải hổ thẹn, và tôi hi vọng sẽ được hân hạnh cưới cô ấy làm vợ. Nói thế dường như càng khiến sự việc xấu thêm, thế là tôi cũng nổi nóng, và lời qua tiếng lại gay gắt với hắn, có lẽ không được phải phép lắm, vì có cô ấy đứng đó. Kết cục là hắn bỏ đi cùng với cô em, như ông đã thấy, còn tôi bối rối không biết làm sao. Watson, ông thử giải thích cho tôi hiểu đi, tôi sẽ mang ơn ông lắm."

Tôi thử vài cách lí giải nhưng thực tế chính tôi cũng hoàn toàn bối rối. Tước vị, gia sản, tuổi tác, tính cách và dung mạo người bạn của chúng ta đều rất được, và tôi chẳng thấy anh ta có khiếm khuyết nào, trừ phi tính đến cái định mệnh đen tối ám ảnh dòng tộc anh ta. Việc anh ta bị cự tuyệt thẳng thừng như thế mà không xét đến ý muốn của chính cô gái, và cô ta lại chấp nhận hoàn cảnh ấy không chút phản kháng quả là hết sức đáng kinh ngạc. Tuy nhiên, chúng tôi khỏi phải ước đoán gì nhiều vì ngay chiều hôm đó chính Stapleton đã đến tận nơi giải thích. Anh ta đến xin lỗi vì hành động lỗ mãng ban sáng, và sau một cuộc gặp riêng rất lâu với ngài Henry trong phòng làm việc của nam tước, bất hòa đã được hàn gắn và bằng chứng là thứ sáu tới chúng tôi sẽ ăn tối ở điền trang Merripit.

"Tôi không nói là anh ta hết điên khùng", ngài Henry nói. "Tôi không thể quên được ánh mắt của anh ta khi chạy tới chỗ tôi sáng nay, nhưng phải thừa nhận là không ai biết cách xin lỗi hay ho hơn con người này."

"Anh ta có giải thích gì về cách cư xử ấy không?"

"Cô em gái là tất cả đối với anh ta, Stapleton nói thế. Điều này cũng tự nhiên thôi và tôi lấy làm mừng là anh ta biết được giá trị của cô ấy. Họ luôn ở bên nhau và theo Stapleton kể thì anh ta hết sức cô đơn, chỉ có cô em bầu bạn, cho nên ý nghĩ phải mất cô em thực tình là kinh khủng, ý nghĩ ấy khiến anh ta kinh hãi đến mức không còn biết mình đã nói gì hay làm gì. Stapleton rất hối tiếc về chuyện đã xảy ra và nhận rằng anh ta thật ngu xuẩn và ích kỉ biết bao nên mới mơ tưởng rằng có thể giữ riết một mĩ nhân như cô em gái bên cạnh mình suốt đời. Nếu phải để cô ấy đi lấy chồng, anh ta mong cô ấy kết hôn với láng giềng như tôi đây còn hơn là bất kì ai khác. Dẫu sao đây vẫn là một điều bất hạnh đối với Stapleton và anh ta cần một thời gian tự chuẩn bị để đón nhận thực tế này. Về phần anh ta, Stapleton sẽ không phản đối nếu như tôi hứa để cho chuyện này tạm lắng xuống trong vòng ba tháng và trong thời gian đó chỉ xây dựng tình bạn với cô ấy mà đừng đòi hỏi tình yêu. Tôi đã hứa như thế và vấn đề giải quyết xong."

Vậy là một trong những bí ẩn nho nhỏ của chúng ta đã được sáng tỏ. Trong cái bãi lầy chúng ta đang lóp ngóp may còn có chỗ chạm được tới đáy cũng là đáng kể rồi. Giờ chúng ta đã biết tại sao Stapleton lại không tán thành người cầu hôn em gái anh ta, dẫu là một người hết sức thích hợp như ngài Henry. Và bây giờ tôi xin chuyển sang một manh mối khác mà tôi đã tháo gỡ từ cuộn chỉ rối bời này, bí mật về tiếng khóc nức nở trong đêm, về gương mặt hoen lệ của bà Barrymore, về chuyện ông quản gia lén lút tới chỗ ô cửa sổ mắt cáo ở hướng tây. Hãy chúc mừng tôi đi, Holmes thân mến, và hãy nói là tôi, trong vai trò đại diện, đã không phụ lòng anh và anh không uổng phí niềm tin phó thác khi phái tôi về đây. Chỉ nhờ công một đêm hành động, tất cả những điều đó đã sáng tỏ hết.

Tôi vừa nói 'chỉ nhờ công một đêm hành động' nhưng thực tế là hai, bởi đêm đầu tiên chúng tôi không thu được kết quả gì. Tôi thức cùng ngài Henry trong phòng anh ta cho đến 3 giờ sáng nhưng không thấy âm thanh nào như đã từng nghe, ngoại trừ tiếng chuông đồng hồ trên cầu thang. Đó là một đêm ngồi canh buồn bã và kết cục là cả hai chúng tôi đều ngủ gục trên ghế. May mà chúng tôi không nản lòng và quyết tâm thử lại lần nữa. Đêm kế tiếp chúng tôi vặn nhỏ đèn và ngồi im lặng hút thuốc. Thời giờ trôi qua chậm chạp khôn tả, nhưng chúng tôi chờ được là nhờ vào sự chủ tâm nhẫn nại giống như tâm trạng của người thợ săn khi canh chừng cái bẫy mà anh ta mong con thú sa vào. Đồng hồ gióng một, rồi hai hồi chuông, chúng tôi đang định bỏ cuộc lần thứ hai trong vô vọng thì ngay sau đó cả hai đều bật dậy trên ghế và mọi giác quan mệt mỏi liền tỉnh táo trở lại. Có tiếng bước chân cọt kẹt trên hành lang lát ván. Chúng tôi nghe tiếng chân hết sức rón rén đi ngang qua phòng cho tới khi lịm tắt ngoài xa. Sau đó nam tước nhẹ nhàng mở cửa và chúng tôi bèn bám theo. Người kia đã đi vòng qua bên kia bao lơn và hành lang đã chìm trong bóng tối. Chúng tôi chỉ thoáng nhìn thấy bóng người cao lớn, râu đen, vai khòng, nhón chân đi dọc hành lang. Đoạn Barrymore vào đúng cửa phòng lần trước, ánh nến soi rõ khung cửa trong bóng tối và hắt một luồng sáng vàng vọt lẻ loi vào hành lang âm u. Chúng tôi thận trọng lê bước tới đó, dò dẫm từng tấm ván sàn trước khi mạnh dạn đặt hết trọng lượng thân mình lên bàn chân. Chúng tôi đã cẩn thận bỏ hết giày ghệt lại trong phòng, nhưng những tấm ván cũ kĩ vẫn cứ kẽo kẹt, răng rắc dưới bước chân chúng tôi. Có lúc tưởng như ông ta không thể không nghe tiếng chúng tôi đang tới gần. Tuy nhiên, may sao ông ta nặng tai và hoàn toàn chú tâm vào việc đang làm. Khi tới cửa phòng và lén nhìn vào, chúng tôi thấy ông ta đứng khom người bên cửa sổ, cây nến trong tay, gương mặt tái chăm chú tì vào ô cửa kính, đúng như tôi thấy hai đêm trước.

Chúng tôi không bàn tính trước cách hành động nhưng nam tước là người tin rằng cách tự nhiên nhất luôn là cách trực tiếp nhất. Ngài Henry đi thẳng vào phòng đó, thế là Barrymore vừa thảng thốt bật lên một tiếng thở mạnh vừa nhảy dựng lên khỏi cửa sổ, đứng trước mặt chúng tôi, mặt xám ngoét, người run cầm cập. Đôi mắt đen trân trối trên gương mặt trắng như mặt nạ của Barrymore tràn đầy nỗi khiếp sợ và sửng sốt khi ông ta hết nhìn ngài Henry lại nhìn tôi.

"Ông làm gì ở đây thế, Barrymore?"

"Dạ không có gì." Ông ta bị kích động tới mức nói không nên lời, bàn tay cầm nến run rẩy khiến những cái bóng cứ nhảy nhót đong đưa. "Cái cửa sổ, thưa ngài. Ban đêm tôi đi quanh xem cửa nẻo đóng chặt chưa."

"Trên tầng hai này à?"

"Vâng ạ, tất cả cửa sổ."

"Này, Barrymore," ngài Henry nghiêm giọng nói, "chúng tôi đã nhất quyết là ông phải nói hết sự thật. Không sớm thì muộn ông cũng phải nói. Để khỏi mất công, ông hãy nói ngay bây giờ! Không được nói dối! Ông đang làm gì ở cửa sổ đó?"

Người quản gia bất lực nhìn chúng tôi, hai bàn tay cứ vặn vẹo như một người trong tình cảnh khổ sở và nghi ngại cùng cực.

"Tôi không làm gì có hại, thưa ngài. Tôi chỉ gí cây nến vào cửa sổ."

"Thế tại sao ông lại gí cây nến vào cửa sổ chứ?"

"Xin đừng hỏi, thưa ngài Henry, xin đừng hỏi! Tôi xin thề với ngài là đây không phải bí mật của tôi, nên tôi không thể nói ra. Nếu chuyện này không liên can tới ai ngoài chính bản thân tôi thì tôi không dám giấu ngài đâu."

Một ý tưởng bất chợt nảy ra trong trí, tôi lấy ngọn nến từ bàn tay run lẩy bẩy của người quản gia.

"Nhất định ông ta đang dùng cái này làm tín hiệu", tôi nói. "Ta hãy thử xem có hồi đáp gì không."

Tôi đưa cây nến tới cửa sổ như ông ta đã làm và chăm chú nhìn đêm tối bên ngoài. Tôi chỉ có thể lờ mờ nhận ra những hàng cây đen kịt bên ngoài và khoảng truông nhạt màu hơn, vì mặt trăng đã ẩn sau mây. Rồi tôi kêu lên mừng rỡ vì một đốm sáng vàng bé tí thình lình hiện ra trong màn đêm và tỏa sáng đều đặn ở ngay chính giữa cái khoảnh vuông màu đen đóng khung trong cửa sổ.

"Kia kìa!" Tôi kêu lên.

"Không, không, thưa ngài, chẳng có gì, chẳng có gì hết mà!" Người quản gia nói chen vào. "Xin cam đoan với ngài là..."

"Dịch chuyển ngọn nến ngang qua cửa sổ đi, Watson!" Nam tước nói to. "Kìa, ánh sáng kia cũng dịch chuyển theo! Thế đấy, đồ ranh ma, ông còn chối là không phải tín hiệu nữa không? Nói đi nào! Kẻ thông đồng với ông ở ngoài kia là ai, và mưu đồ gì đang diễn ra?"

Nét mặt Barrymore bỗng lộ rõ vẻ thách thức. "Đây là chuyện của tôi chứ không phải của ngài. Tôi không nói đâu."

"Vậy thì ông phải thôi việc ngay lập tức."

"Rất tốt, thưa ngài. Nếu phải thế thì đành thế."

"Và ông phải nhục nhã mà đi. Trời ơi, thật đáng hổ thẹn cho ông. Dòng họ nhà ông đã sống chung với chúng tôi dưới mái nhà này hơn trăm năm rồi, thế mà bây giờ không ngờ ông lại có mưu đồ ám muội phản lại tôi."

"Không đâu, thưa ngài, không ai phản lại ngài hết!"

Đó là giọng phụ nữ và bà Barrymore, mặt còn tái xanh và khiếp đảm hơn cả ông chồng, đã đứng ngay cửa phòng. Thân hình sồ sề mặc váy và choàng khăn của bà nom đến là hài hước nếu như gương mặt không lộ vẻ xúc động mãnh liệt.

"Ta phải đi thôi, Eliza. Thế là hết. Bà thu xếp đồ đạc được rồi", người quản gia nói.

"Ôi, John ơi, sao tôi lại lôi ông vào chuyện này hở, John? Lỗi tại tôi, thưa ngài Henry, do tôi cả. Ông ấy hành động cũng chỉ vì tôi và do tôi khẩn cầu."

"Nói hết đi! Thế là thế nào?"

"Thằng em bất hạnh của tôi đang chết đói ngoài truông. Chúng tôi không thể để nó bỏ mạng ngay trước cổng nhà mình. Ngọn nến này là tín hiệu cho nó biết đồ ăn đã có sẵn cho nó, còn ánh nến của nó ngoài kia cho biết vị trí để đưa đồ ăn đến."

"Thế em trai bà là..."

"Tên tù vượt ngục, thưa ngài... Selden, tên tội phạm."

"Đó là sự thật, thưa ngài", Barrymore nói. "Tôi đã nói chuyện này không phải bí mật của tôi nên tôi không thể nói ra. Nhưng giờ ngài đã nghe rồi thì sẽ thấy không có mưu mô nào phản lại ngài cả."

Vậy là điều này đã lí giải được những chuyến đi lén lút ban đêm của ông ta và ngọn nến ở cửa sổ. Ngài Henry và tôi ngỡ ngàng nhìn người đàn bà kia. Lẽ nào con người khả kính đến mức lãnh đạm này lại có chung dòng máu với một trong những tên tội phạm khét tiếng nhất nước?

"Đúng vậy, thưa ngài, tôi là người họ Selden, và nó là em trai tôi. Khi nó còn nhỏ chúng tôi đã cưng chiều quá mức và nó muốn gì được nấy, tới mức nó nghĩ thế giới này phải chiều chuộng nó và nó muốn làm gì thì làm. Rồi lớn lên nó giao du với bạn bè xấu rồi đâm ra hung ác tới mức mẹ tôi đau khổ mà chết và nó lôi tuột danh dự gia đình xuống bùn nhơ. Hết tội này tới tội khác, nó cứ chìm lún càng lúc càng sâu và chỉ có Chúa nhân từ mới cứu được nó khỏi đoạn đầu đài. Nhưng thưa ngài, với tôi thì nó luôn là thằng nhỏ tóc xoăn mà tôi đã ẵm bồng và chơi đùa như mọi người chị trên đời. Chính vì thế mà nó vượt ngục, thưa ngài. Nó biết tôi sống ở đây và chúng tôi không thể không giúp đỡ nó. Khi nó lê thân tới đây một đêm nọ, kiệt sức và đói khát trong lúc toán cai ngục đang đuổi theo sát gót, chúng tôi phải làm sao đây? Chúng tôi cho nó vào nhà, cho nó ăn uống và chăm sóc. Rồi ngài trở về, thưa ngài, và em tôi nghĩ chừng nào cuộc truy lùng huyên náo còn chưa chấm dứt thì ở ngoài truông sẽ an toàn hơn bất kì đâu, cho nên nó trốn ở đó. Nhưng cứ hai đêm một lần, để biết chắc nó còn ở ngoài đó, chúng tôi đặt một ngọn nến ở cửa sổ, và nếu có tín hiệu đáp lại thì chồng tôi sẽ mang đồ ăn ra. Ngày nào chúng tôi cũng mong nó đi khuất cho rồi nhưng nó còn ở đây thì chúng tôi đâu thể bỏ mặc được. Đó là toàn bộ sự thật, và tôi là một người Cơ Đốc lương thiện, thưa ngài, nếu chuyện này đáng trách thì lỗi không phải do chồng tôi mà là tại tôi, ông ấy làm mọi chuyện chỉ vì tôi mà thôi."

Lời người đàn bà này thốt ra đầy khẩn thiết và có sức thuyết phục người nghe.

"Đúng vậy không, Barrymore?"

"Dạ đúng, thưa ngài Henry. Không sai một lời nào."

"Hừm, tôi không thể trách ông vì đã tận tình giúp vợ mình. Hãy quên những gì tôi đã nói. Về phòng đi, cả hai người, rồi sáng mai chúng ta sẽ nói thêm về chuyện này."

Khi vợ chồng Barrymore đi rồi, chúng tôi nhìn ra cửa sổ lần nữa. Ngài Henry đã mở toang cánh cửa và gió đêm lạnh quật vào mặt chúng tôi. Xa xa trong không gian đen ngòm, đốm màu vàng bé tí kia vẫn leo lét sáng.

"Sao hắn gan vậy chứ", ngài Henry nói.

"Chắc chỉ có chỗ này mới nhìn thấy ánh đèn đó."

"Chắc là vậy. Theo ông thì từ đây đến đó bao xa?"

"Tôi nghĩ là ở gần mỏm Đá xẻ."

"Chỉ một, hai dặm là cùng."

"Không đến đâu."

"À, chỗ đó không xa được vì Barrymore phải mang thức ăn tới. Mà tên côn đồ kia thì đang chờ bên ngọn nến. Trời ơi, Watson, tôi phải ra đó bắt tên này!"

Chính ý tưởng đó cũng nảy ra trong trí tôi. Đâu phải vợ chồng Barrymore chủ động tiết lộ chuyện riêng của họ với chúng tôi. Phải ép họ mới chịu nói ra bí mật. Tên tù vượt ngục kia là mối nguy cho cộng đồng, một kẻ vô lại bất trị mà chẳng ai thương hại hay bênh vực. Chúng tôi chỉ làm đúng nghĩa vụ của mình nếu nhân cơ hội này tống y trở lại nơi y không thể gây hại cho ai. Với bản tính cục súc và tàn bạo của y, nếu chúng tôi không ra tay thì sẽ có người khác phải trả giá. Chẳng hạn như anh em nhà Stapleton, láng giềng của chúng tôi, đêm nào cũng có thể bị y tấn công, và có lẽ chính vì suy nghĩ đó mà ngài Henry hết sức nhiệt huyết với cuộc mạo hiểm sắp tới.

"Tôi sẽ đi cùng", tôi nói.

"Vậy thì ông lấy súng và mang giày đi. Chúng ta tiến hành càng sớm càng tốt vì tên kia có thể dập tắt nến bỏ đi mất."

Năm phút sau chúng tôi đã ra khỏi nhà và khởi hành. Cả hai hấp tấp băng qua những bụi cây tối tăm trong tiếng rên xiết u hoài của gió thu và tiếng lá rơi xào xạc. Không khí ban đêm nồng mùi lá cỏ mục nát, ẩm ướt. Thỉnh thoảng vầng trăng hé sáng một thoáng nhưng mây đang kéo tới che kín trời và chúng tôi vừa ra tới truông thì trời bắt đầu đổ mưa. Ánh sáng vẫn lờ mờ hiện phía trước.

"Ngài có vũ khí gì không?" Tôi hỏi.

"Tôi có cái roi đi săn."

"Chúng ta phải áp sát hắn thật nhanh, vì nghe nói hắn liều mạng lắm. Phải tấn công bất ngờ và khống chế hoàn toàn trước khi hắn kịp chống cự."

"Watson à," nam tước nói, "ông Holmes sẽ nói gì về chuyện này nhỉ? Về chuyện 'những giờ tăm tối khi quyền lực của quỷ dữ dâng cao' đó?"

Như thể trả lời cho nam tước, từ truông tăm tối mênh mông thình lình vang lên một tiếng rú kì lạ mà tôi đã từng nghe ở vùng ven bãi lầy Grimpen. Âm thanh ấy theo gió lan tỏa trong đêm tĩnh mịch, ban đầu là tiếng trầm trầm ngân dài cao dần thành tiếng tru rồi lại lắng xuống như tiếng rên bi thiết và lịm tắt. Tràng âm thanh ấy còn vang lên mấy lần nữa, làm cả bầu không khí kinh động theo tiếng vang man rợ và đầy uy hiếp. Nam tước tóm chặt tay áo tôi và gương mặt anh ta tái nhợt thấy rõ trong bóng tối.

"Lạy Chúa, tiếng gì thế, Watson?"

"Tôi không biết. Đó là một âm thanh của truông này. Tôi đã từng nghe thấy một lần rồi."

Âm thanh ấy đã tắt hẳn và im lặng tuyệt đối bao trùm chúng tôi. Cả hai căng tai nghe ngóng nhưng không còn nghe thấy gì nữa. Nam tước nói, "Watson, đó là tiếng tru của chó săn."

Máu trong huyết quản tôi bỗng lạnh buốt, vì tôi nghe giọng nói đứt quãng của nam tước lộ rõ nỗi kinh hoàng đột ngột vừa xâm chiếm anh ta.

"Họ gọi đó là tiếng gì thế?" Ngài Henry hỏi.

"Ai?"

"Dân chúng vùng này."

"Ồ, họ toàn là người dốt nát mà. Ngài bận tâm đến họ làm gì?"

"Cứ nói đi, Watson. Họ bảo đó là tiếng gì thế?"

Tôi do dự nhưng rồi không thể tránh né câu hỏi. "Họ nói đó là tiếng con quỷ chó của dòng họ Baskerville."

Ngài Henry rên rỉ rồi im lặng một lúc lâu mới nói, "Tôi nghĩ đó là tiếng chó săn tru, nhưng dường như cách đây nhiều dặm, phía ngoài xa kia."

"Khó xác định tiếng đó từ đâu tới."

"Nó cứ vang vọng theo làn gió. Bãi lầy Grimpen ở hướng kia phải không?"

"Đúng rồi."

"Nó vang từ đó. Này, Watson, ông cũng nghĩ đó là tiếng chó săn chứ gì? Tôi không phải trẻ con. Ông cứ nói thật đi, không e ngại gì hết."

"Khi tôi nghe thấy lần trước thì có Stapleton ở đó. Anh ta nói đó có thể là tiếng kêu của một loài chim lạ."

"Không, không phải, tiếng chó săn đó. Lạy Chúa, đâu là sự thật trong chuyện này? Có lẽ nào tôi thực sự đang bị một mối hiểm nguy mờ ám đe dọa? Ông không tin điều đó, phải vậy không, Watson?"

"Không đâu."

"Cười cợt về chuyện đó ở London thì đã đành một nhẽ, nhưng đứng ngoài truông trong bóng tối mà nghe tiếng gào rống như vừa rồi lại là chuyện khác. Còn ông bác tôi nữa! Chỗ bác ấy nằm chết có dấu chân của một con chó săn. Tất cả đều ăn khớp. Đừng nghĩ tôi nhát gan, Watson, nhưng âm thanh đó làm máu tôi đông lạnh hết đây này. Thử sờ bàn tay tôi đi!"

Tay anh ta lạnh toát như một khối đá cẩm thạch.

"Ngày mai rồi ngài sẽ bình thường lại thôi."

"Tôi không nghĩ là sẽ quên được tiếng tru ấy. Theo ông bây giờ chúng ta phải làm gì?"

"Quay về chăng?"

"Trời đất, không được, chúng ta ra đây để tóm tên tù kia thì phải làm cho xong. Chúng ta truy đuối tên tù, và rất có thể là có một con quỷ chó lại đang truy đuổi chúng ta. Đi nào! Chúng ta sẽ xem thử bao nhiêu quỷ dữ đã xổ hết ra truông này hay chưa."

Chúng tôi chậm chạp lần mò trong bóng tối giữa bốn bề những ngọn đồi nham nhở đen ngòm, trước mặt vẫn là đốm vàng sáng lờ mờ kia. Không có gì lừa mị cho bằng tầm xa của một nguồn sáng trong đêm tối như hũ nút, cái ánh leo lét kia có lúc dường như xa tít tận chân trời có lúc lại cứ như chỉ cách chúng tôi vài yard. Nhưng rốt cuộc chúng tôi cũng biết được nó phát ra từ đâu và chắc chắn là đã đến rất gần. Một ngọn nến cháy gần tàn được cắm trong một hốc đá chắn kín ba phía để tránh gió thổi tắt và không ai thấy được trừ phi nhìn từ hướng lâu đài Baskerville. Một tảng đá hoa cương lớn che chắn trước mặt chúng tôi, cả hai chúng tôi lom khom nấp sau tảng đá, chăm chú nhìn về phía ánh sáng báo hiệu. Thật lạ lùng khi nhìn thấy ngọn nến lẻ loi này thắp sáng giữa truông, chung quanh không hề có dấu hiệu nào của sự sống, chỉ có một đốm lửa vàng hắt ánh sáng chập chờn lên một phần hốc đá bao lấy nó,

"Giờ phải làm gì?" Ngài Henry thì thào.

"Chờ ở đây. Hắn phải ở gần cây nến này. Thử nhìn quanh xem có thấy bóng dáng hắn không."

Chưa dứt lời, cả hai chúng tôi đã thấy y. Phía trên mấy tảng đá có cái hốc đặt cây nến nhô lên một bộ mặt vàng khè hung ác, bộ mặt thú gớm ghiếc, chằng chịt sẹo và in dấu những dục vọng đê hèn. Bộ mặt ấy lấm bẩn bùn sình, râu ria tua tủa, tóc tai dính bết lại, trông cứ như mặt người tiền sử từng sinh sống trong những hang động trên các sườn đồi này. Ánh nến bên dưới hắt lên đôi mắt nhỏ, xảo quyệt đang chằm chằm xuyên vào bóng tối bằng cái nhìn hung tợn láo liên như một con thú xảo trá và hoang dại vừa nghe thấy bước thợ săn. Rõ ràng đã có điều gì đó khiến y sinh nghi. Có thể là Barrymore có tín hiệu riêng để báo động mà chúng tôi không biết, hoặc tên này thấy tình hình bất ổn vì lí do khác, nhưng trên nét mặt hung ác của y tôi thấy rõ sự sợ hãi. Y có thể dập tắt ngọn nến và biến vào đêm đen bất cứ lúc nào. Thế là tôi lao tới, ngài Henry cũng lao theo. Cùng lúc đó tên phạm nhân kia hét lên một tiếng chửi rủa, một hòn đá từ tay y phóng tới nện vào tảng đá lớn che chắn chúng tôi và vỡ vụn. Tôi thoáng thấy thân hình lực lưỡng, thấp đậm của tên tù khi y nhảy bật dậy bỏ chạy. May sao lúc đó mặt trăng hé sáng qua khe mây soi đường. Chúng tôi phóng qua đỉnh đồi, và phía bên kia là tên tù đang chạy thục mạng, nhảy thoăn thoắt qua những tảng đá nhanh nhẹn như một con sơn dương. Một phát súng lục tầm xa may mắn của tôi có thể bắn què chân hắn, nhưng tôi mang súng theo chỉ để tự vệ nếu bị tấn công chứ không phải để bắn một kẻ không vũ khí đang chạy trốn.

Cả hai chúng tôi đều chạy nhanh và có thể lực khá tốt, nhưng chẳng mấy chốc chúng tôi nhận ra không thể nào đuổi kịp y. Dưới ánh trăng chúng tôi còn trông thấy tên tù một lúc lâu cho đến khi y chỉ còn là một chấm nhỏ đang di chuyển mau lẹ giữa những tảng đá trên triền đồi ngoài kia. Chúng tôi chạy mãi cho tới lúc hết hơi sức nhưng khoảng cách giữa chúng tôi và y càng lúc càng cách xa hơn. Cuối cùng chúng tôi đành dừng chân, ngồi xuống hai tảng đá thở hổn hển trong lúc nhìn theo tên tù đang khuất dạng phía xa tít. Đúng ngay lúc đó lại xảy ra một chuyện hết sức bất ngờ và kì quặc. Chúng tôi vừa rời khỏi mấy tảng đá đang ngồi, định đi về nhà sau khi đã từ bỏ cuộc đuổi bắt vô vọng. Trăng đã xuống thấp về phía bên phải và đỉnh nhọn lởm chởm của mỏm đá hoa cương in hình lên vành dưới của vầng trăng bạc. Ngay chỗ đó hiện rõ như một pho tượng gỗ mun đen tuyền, trên nền sáng ấy là bóng một người đứng trên mỏm đá. Đừng nghĩ đó là ảo ảnh, Holmes ơi. Cam đoan với anh là trong đời chưa bao giờ tôi nhìn thấy cái gì rõ ràng hơn thế. Theo tôi phán đoán, bóng đen đó là một người đàn ông cao gầy. Y đứng hơi giạng chân, hai tay khoanh lại, đầu cúi xuống như đang nghiền ngẫm về sự hoang vu bao la của vùng đất than bùn và đá rắn trải dài trước mặt. Rất có thể y chính là hồn thiêng của nơi khủng khiếp này. Đó không phải tên tù. Bóng người này cách rất xa nơi tên tù đã khuất dạng. Hơn nữa, dáng người này cao hơn. Kêu lên một tiếng kinh ngạc, tôi chỉ cho ngài Henry thấy bóng đen ấy nhưng ngay lúc tôi tóm lấy cánh tay nam tước thì cái bóng đã biến mất. Vẫn còn đó đỉnh nhọn của mỏm đá hoa cương in lên nửa dưới vầng trăng, nhưng trên đỉnh không còn dấu vết gì của bóng người bất động, im lìm kia nữa. Tôi muốn đi theo hướng đó và tìm kiếm ở mỏm đá nhưng khoảng cách quá xa. Nam tước vẫn còn bị chấn động tinh thần vì tiếng tru gào gợi nhớ cái truyền thuyết ác nghiệt của dòng họ, và anh ta không còn hứng thú lao vào một cuộc mạo hiểm mới. Anh ta không trông thấy bóng người cô độc trên mỏm đá nên không có cái cảm giác kích động mà sự xuất hiện kì lạ cùng phong thái uy nghi của người kia đã gieo vào tâm trí tôi.

"Lính cai ngục, chắc chắn rồi", ngài Henry nói. "Truông này đầy lính cai ngục từ khi tên tù trốn thoát."

Chà, có thể nam tước nói đúng nhưng tôi muốn có thêm chứng cứ. Hôm nay chúng tôi định báo với những người ở nhà ngục Princetown để họ biết cần tìm tên tù vượt ngục ở đâu, nhưng quả thực đáng tiếc là chúng tôi đã không lập được chiến công bắt giữ hắn để giao nộp. Đó là những biến cố của đêm hôm qua, Holmes thân mến, và anh phải thừa nhận là tôi đã hỗ trợ anh rất đắc lực bằng bản tường trình này. Hiển nhiên là phần lớn những gì tôi thuật lại không hoàn toàn liên quan, nhưng tôi vẫn thấy nên cho anh biết mọi chuyện để anh tự chọn lựa những thông tin hữu ích nhất có thể giúp anh tìm ra kết luận. Hẳn là công việc của chúng ta cũng có chút tiến triển. Xét đến chuyện vợ chồng Barrymore, chúng ta đã tìm ra động cơ trong hành vi của họ, và điều này cũng làm tình hình sáng tỏ thêm nhiều. Nhưng với những bí ẩn và những kẻ trú ngụ kì quặc, vùng truông này vẫn không bớt phần bí hiểm. Biết đâu trong bản tường trình kế tiếp tôi lại làm sáng tỏ được điều này. Tốt hơn là anh nên về đây với chúng tôi. Dù sao trong khoảng vài ngày tới anh cũng sẽ nhận được bản tường trình mới của tôi.

10. Trích nhật kí bác sĩ Watson

Ở những chương trước, tôi có thể lấy nguyên xi các bản tường trình gửi cho Sherlock Holmes trong những ngày đầu để thuật chuyện. Nhưng bây giờ đã tới lúc tôi buộc phải bỏ phương pháp này và quay lại trông cậy vào hồi tưởng với sự trợ giúp là sổ nhật kí tôi ghi chép trong thời gian đó. Vài đoạn trích từ nhật kí sẽ đưa tôi quay lại những cảnh tượng đã in sâu vào kí ức của tôi. Vì thế tôi sẽ tiếp tục từ buổi sáng sau cuộc truy bắt tên tù vượt ngục không thành và những biến cố lạ lùng khác trên vùng truông này.

Ngày 16 tháng 10

Một ngày sương mù ảm đạm với mưa phùn. Ngôi nhà này lọt thỏm giữa bốn bề mây trập trùng, thỉnh thoảng mây tan hé lộ những đường cong nhấp nhô buồn tẻ của truông, các sườn đồi phủ màn sương mỏng, màu bạc và những tảng đã xa xa sáng lên ở những chỗ nắng chiếu rọi vào bề mặt ướt át. Cảm giác thê lương tràn ngập. Nam tước rơi vào tâm trạng u ám trái ngược với sự phấn khích đêm trước. Tôi cũng thấy nặng trĩu trong lòng một cảm giác nguy hiểm cận kề - mối nguy hiểm luôn hiện hữu và càng đáng sợ hơn vì không thể xác định rõ.

Mà cảm giác đó nào phải vô cớ? Thử nghĩ mà xem, cả chuỗi biến cố đều chỉ ra rằng có một thế lực hung hiểm nào đó đang hoạt động quanh chúng tôi. Người chủ trước của lâu đài chết trong hoàn cảnh giống hệt như trong truyền thuyết của dòng họ, rồi lời kể của những người nông dân về một sinh vật lạ xuất hiện trên truông cũng trùng khớp với nhau. Chính tai tôi đã hai lần nghe được cái âm thanh giống tiếng chó tru gào xa xa. Thật phi lí, thật khó tin rằng âm thanh đó lại nằm ngoài các quy luật tự nhiên bình thường. Làm sao tin nổi một con chó ma quái lại có dấu chân hữu hình và gầm rú vang động không gian? Stapleton có thể tin một chuyện dị đoan như thế, Mortimer cũng vậy, nhưng nếu tôi có một phẩm chất duy nhất trên đời thì đó chính là sự tỉnh táo và không gì có thể khiến tôi cũng tin như họ. Tin vào chuyện mê tín dị đoan tức là hạ mình xuống ngang hàng với đám nông dân thấp kém kia, những kẻ chưa chịu bằng lòng với chuyện con quỷ chó mà lại còn mô tả đó là một con thú mắt mũi tóe lửa hỏa ngục. Holmes không đời nào nghe theo những chuyện hoang đường như thế, và tôi là người đại diện cho anh. Nhưng sự thật là sự thật, tôi đã hai lần nghe tiếng tru ấy trên truông. Giả sử đúng là có một con chó săn khổng lồ đang chạy rông ngoài đó thì mọi chuyện sẽ sáng tỏ ngay. Nhưng một con vật như vậy sẽ ẩn náu ở đâu, tìm thức ăn ở đâu, tới từ đâu, và tại sao chẳng có ai trông thấy nó vào ban ngày? Phải thừa nhận rằng những cách lí giải tự nhiên cũng đều gặp bế tắc như cách lí giải siêu nhiên. Và ngoài con chó ra, còn có nhân tố con người đã xuất hiện ở London, kẻ do thám trong xe ngựa, và bức thư cảnh báo ngài Henry đừng trở về truông này. Ít ra chuyện đó là thực, nhưng những hành vi đó có thể xem là của một người bạn muốn bảo vệ nam tước hay là của một kẻ thù địch đều được. Người bạn hay kẻ thù đó giờ đang ở đâu? Hắn ta còn ở lại London hay đã theo chúng tôi về đây? Lẽ nào... lẽ nào đó chính là bóng người kì lạ tôi đã thấy trên mỏm đá?

Đúng là tôi chỉ thoáng nhìn thấy hắn, thế nhưng tôi sẵn sàng thề đó là sự thật. Hắn ta chắc chắn không phải là một người tôi từng gặp ở đây, vì tôi đã gặp hết mọi láng giềng quanh đây rồi. Dáng người ấy cao hơn Stapleton, gầy hơn ông Frankland. Có khả năng đó là Barrymore nhưng chúng tôi đã bảo ông ta lui về phòng và tôi chắc chắn là ông ta không thể nào đi theo. Vậy thì ở đây chúng tôi đang bị một người lạ bám sát cũng như đã bị người lạ bám sát ở London. Chúng tôi chưa bao giờ thoát khỏi hắn. Nếu tóm được kẻ đó thì cuối cùng chúng tôi có thể chấm dứt mọi bế tắc. Giờ đây tôi phải dồn hết sức lực cho mục đích này thôi.

Ý định bốc đồng đầu tiên là cho ngài Henry biết mọi kế hoạch của tôi. Ý định thứ hai khôn ngoan hơn là tôi nên thực hiện một mình và càng ít ai biết càng tốt. Nam tước đang trong tâm trạng nặng nề, tinh thần anh ta đã bị kinh động lạ thường vì thứ âm thanh nọ. Tôi không muốn nói gì khiến anh ta phải lo lắng thêm, nhưng tôi sẽ tự tìm cách để đạt mục đích của mình.

Sáng nay sau bữa điểm tâm chúng tôi đã gặp một chuyện nhỏ. Barrymore xin phép gặp riêng ngài Henry và hai người rút vào phòng làm việc của nam tước nói chuyện một lúc. Ngồi trong phòng chơi bi-a, tôi nhiều lần nghe họ cao giọng và đoán biết ngay họ đang bàn vấn đề gì. Một lát sau, nam tước mở cửa gọi tôi vào.

"Barrymore cho là ông ấy có quyền kêu ca", ngài Henry nói. "Ông ấy nghĩ hai chúng ta truy bắt em vợ của ông ấy là bất công vì ông ấy đã tự nguyện nói hết bí mật cho chúng ta biết."

Ông quản gia đứng trước mặt chúng tôi, tuy mặt tái xanh nhưng rất bình tĩnh. "Có thể tôi đã nói năng quá nóng nảy, thưa ngài", Barrymore nói, "nếu thế thì tôi xin ngài thứ lỗi cho. Tuy vậy, tôi cũng rất ngạc nhiên khi nghe tiếng hai quý ngài đi về sáng nay và biết hai ngài đã đuổi theo Selden. Cái thằng khốn khổ đó đã phải chống chọi với quá nhiều chuyện rồi, đâu cần tôi phải báo người truy bắt nó thêm nữa."

"Nếu quả thực ông tự nguyện nói ra thì chuyện đã khác rồi", nam tước nói. "Phải ép đến khi không còn cách nào khác ông mới cho chúng tôi biết, hay đúng hơn là vợ ông mới cho chúng tôi biết."

"Tôi không ngờ ngài lại lợi dụng chuyện đó, thưa ngài Henry, thực tình là tôi không ngờ."

"Kẻ đó là mối nguy cho mọi người. Có nhiều nhà rải rác khắp truông này, và hắn ta không từ bất cứ chuyện gì. Chỉ cần nhìn thấy bản mặt của hắn là đủ biết. Ví dụ như nhà ông Stapleton đấy, nhà đó chẳng có ai bảo vệ, trừ mỗi mình ông ta. Chừng nào tên này còn chưa vào xà lim thì không ai được an toàn cả."

"Nó sẽ không đột nhập vào bất cứ nhà nào, thưa ngài. Tôi xin thề danh dự với ngài. Mà nó cũng sẽ không bao giờ gây rắc rối cho bất kì ai ở nước này nữa. Cam đoan với ngài, thưa ngài Henry, chỉ trong vài hôm nữa thôi, khi mọi chuyện cần thiết đã thu xếp xong, nó sẽ lên đường sang Nam Mỹ. Hãy vì Chúa, thưa ngài, tôi van ngài đừng báo cho cảnh sát biết nó vẫn còn ở ngoài truông. Họ đã không còn truy tìm ở đó nữa, và nó có thể ẩn náu chờ tới khi chuyến tàu sẵn sàng. Ngài mà đi báo thì cả tôi lẫn vợ tôi cũng gặp rắc rối luôn. Thưa ngài, tôi van xin ngài đừng nói gì với cảnh sát hết."

"Ý ông thế nào, Watson?"

Tôi nhún vai. "Nếu hắn an toàn thoát khỏi nước này thì sẽ giảm được một gánh nặng cho dân đóng thuế."

"Nhưng nhỡ hắn cướp bóc của ai đó trước khi ra đi thì sao?"

"Nó sẽ không làm chuyện rồ dại vậy đâu, thưa ngài. Chúng tôi đã tiếp tế đủ hết những gì nó muốn. Giờ mà nó lại phạm tội thì khác gì lạy ông tôi ở bụi này."

"Đúng thế thật", ngài Henry nói. "Này, Barrymore..."

"Chúa ban phúc cho ngài, và tôi đội ơn ngài vô cùng, thưa ngài! Nó mà bị bắt lần nữa thì vợ tôi chỉ có chết mà thôi."

"Hình như chúng ta đang tiếp tay cho tội ác phải không, Watson? Nhưng nghe chuyện này tôi không đành lòng khai báo với nhà chức trách nữa, cứ coi như kết thúc cho xong. Thôi được, Barrymore, ông có thể lui."

Ấp úng mấy lời cảm ơn xong, người quản gia đã quay đi nhưng rồi lại ngần ngừ và quay lại. "Ngài thật tốt với chúng tôi, thưa ngài, tôi chỉ mong làm hết sức để đáp đền. Tôi có biết một chuyện, thưa ngài Henry, lẽ ra tôi nên nói từ trước nhưng rất lâu sau cuộc thẩm tra tôi mới biết chuyện này. Tôi không hé răng với bất kì ai. Nó có liên quan đến cái chết của ngài Charles tội nghiệp."

Cả nam tước và tôi đều đứng bật dậy.

"Ông biết nguyên do cái chết đó à?"

"Dạ không, tôi không biết."

"Thế chuyện gì?"

"Tôi biết tại sao ngài Charles đứng ở cổng vào giờ đó. Ngài ấy đi gặp một phụ nữ."

"Gặp một phụ nữ? Thật sao?"

"Dạ, đúng vậy."

"Người phụ nữ đó là ai?"

"Tôi không biết tên, thưa ngài, tôi chỉ biết mấy chữ tắt họ tên. Đó là L. L."

"Làm sao ông biết chuyện này, Barrymore?"

"Ồ, thưa ngài Henry, sáng hôm đó bác của ngài có nhận một bức thư. Ngài Charles thường nhận rất nhiều thư vì ngài ấy là người mà ai cũng biết và nổi tiếng là từ tâm, cho nên ai gặp khó khăn cũng đều muốn giãi bày với ngài ấy. Nhưng sáng hôm đó, tình cờ là chỉ có một bức thư cho nên tôi để ý. Thư gửi từ Coombe Tracey và địa chỉ viết bằng nét chữ phụ nữ."

"Rồi sao?"

"Dạ, thưa ngài. Tôi không hề nghĩ tới chuyện đó nữa và lẽ ra đã quên luôn nếu như vợ tôi không nói. Mãi tới mấy tuần trước, khi bà ấy lau dọn phòng làm việc của ngài Charles - từ ngày ngài ấy mất không ai đụng đến phòng này - và vợ tôi thấy tàn tro của một lá thư bị đốt cháy ở phía sau vỉ lò sưởi. Phần lớn bức thư đã cháy ra tro, chỉ còn một mẩu nhỏ xíu ở cuối trang giấy là còn chưa rã nát, vẫn còn đọc được chữ dù mực đã chuyển sang màu xám trên giấy cháy đen. Có lẽ đó là đoạn tái bút cuối thư, viết như sau: Vì ngài là bậc trượng phu, xin vui lòng đốt lá thư này và chờ ở cổng vào khoảng 10 giờ. Bên dưới là chữ kí tắt L. L."

"Ông còn giữ mẩu thư đó không?"

"Dạ không, nó vụn nát hết khi chúng tôi lấy ra."

"Ngài Charles đã nhận được bức thư nào khác có tuồng chữ như vậy chưa?"

"Dạ thưa ngài, tôi không để ý đến thư từ của ngài ấy. Chắc tôi cũng không để ý đến bức thư này nếu như hôm đó không ngẫu nhiên chỉ có một bức thư."

"Thế ông không hề biết L. L là ai sao?"

"Dạ không. Tôi cũng mù tịt, thưa ngài. Nhưng tôi nghĩ nếu chúng ta tìm ra người phụ nữ đó thì sẽ biết rõ hơn về cái chết của ngài Charles."

"Này Barrymore, tôi không hiểu vì sao ông lại có thể giấu giếm một thông tin quan trọng như thế được chứ."

"Ồ, thưa ngài, lúc ấy chính chúng tôi cũng vừa gặp chuyện rắc rối. Vả lại, thưa ngài, vợ chồng tôi đều rất quý mến ngài Charles, vì ngài ấy đối đãi với chúng tôi tốt biết bao. Lôi chuyện này ra cũng chẳng có ích gì cho ông chủ tội nghiệp, lại liên quan đến một phụ nữ nữa thì càng phải thận trọng. Ngay cả những người tốt nhất trong chúng ta."

"Ông cho là có thể ảnh hưởng đến thanh danh bác tôi sao?"

"À, thưa ngài, tôi cho rằng trong chuyện này chẳng có gì tốt đẹp. Nhưng vì ngài tử tế với vợ chồng tôi và tôi thấy nếu không nói hết với ngài thì hóa ra tôi đã cư xử không phải."

"Tốt lắm, Barrymore, ông đi được rồi." Khi người quản gia đi khỏi, ngài Henry quay sang tôi. "Thế đấy, Watson, ông nghĩ sao về tình tiết mới này?"

"Coi bộ nó làm cho chuyện bí ẩn này càng thêm bí ẩn."

"Tôi cũng nghĩ thế. Nhưng chỉ cần chúng ta tìm ra dấu vết của L. L thì toàn bộ vụ này sẽ sáng tỏ. Chúng ta đã biết tới đó. Chúng ta biết là có người nắm được sự thật, chỉ cần chúng ta tìm ra cô ta nữa mà thôi, ông nghĩ chúng ta nên làm gì đây?"

"Báo ngay cho Holmes biết mọi chuyện. Như vậy anh ấy sẽ có manh mối để tìm kiếm. Tôi tin anh ấy sẽ về đây sau khi biết chuyện này."

Tôi lập tức về phòng và thảo ngay một bản tường trình về cuộc trò chuyện sáng nay để gửi cho Holmes. Tôi thấy rõ ràng gần đây Holmes rất bận rộn vì những bức thư gửi từ phố Baker đến thường thưa thớt và vắn tắt, không hề có ý kiến gì về thông tin tôi đã cung cấp và hầu như không đề cập đến nhiệm vụ của tôi. Chắc chắn vụ án tống tiền kia đã thu hút hết năng lực của anh. Thế nhưng yếu tố mới mẻ này nhất định sẽ phải khiến anh lưu ý và gợi lại mối quan tâm. Ước gì có Holmes ở đây.

Ngày 17 tháng 10

Suốt ngày hôm nay trời mưa như trút, mưa tuôn rào rào trên lớp lá thường xuân và chảy ròng ròng từ các mái đua. Tôi nghĩ đến tên tội phạm đang ở ngoài truông lạnh lẽo, thê lương, không chốn nương thân. Tội cho hắn! Dù hắn có tội lỗi gì đi nữa thì khốn khổ nhường đó cũng đủ để chuộc tội rồi. Và tôi nghĩ đến một người khác - gương mặt trong xe ngựa, bóng đen xuất hiện trong đêm trăng. Kẻ theo dõi bí mật, người của bóng đêm, hắn có ở ngoài truông ngập mưa kia không? Đến chiều tôi khoác áo mưa đi bộ một quãng dài trên truông sũng nước, lòng tràn ngập những tưởng tượng u ám, trong khi mưa quật vào mặt và gió hú bên tai tôi. Cầu Chúa phù hộ những ai giờ này còn lang thang vào bãi lầy khổng lồ kia vì ngay cả khu đất rắn cao ráo này cũng đã nhão nhoét thành bãi sình. Tôi tới mỏm đá đen nơi kẻ theo dõi cô độc kia đã đứng, và trên đỉnh cao nham nhở ấy chính tôi cũng nhìn xuống vùng truông cằn cỗi buồn thảm phía dưới. Gió mưa quăng quật khắp mặt đất đỏ nâu, những đám mây trĩu nặng màu chì buông chùng trên cảnh vật, giăng mắc ngang những triền đồi quái dị kia như những vòng hoa tang xám ngoét ở lòng chảo xa xa bên trái, lờ mờ trong màn mưa mù là hai ngọn tháp nhỏ của lâu đài Baskerville vươn cao trên các tàng cây. Đó là dấu hiệu duy nhất của sự sống con người mà tôi nhìn thấy, nếu không kể tới những căn nhà đá tiền sử nhan nhản trên các sườn đồi. Không hề thấy dấu vết gì của kẻ cô độc đã đứng ngay chỗ này hai đêm trước.

Khi lội bộ về, tôi gặp bác sĩ Mortimer ngồi trong xe độc mã trên con đường mòn gập ghềnh ngoài truông chạy dài từ tận nông trại xa xôi nhất ở Foulmire tới đây. Anh ta rất ân cần với chúng tôi và không ngày nào không ghé qua lâu đài thăm hỏi. Vị bác sĩ khăng khăng buộc tôi phải lên xe và cho tôi quá giang về nhà. Tôi thấy Mortimer hết sức lo lắng về chuyện con chó nhỏ giống spaniel của anh ta biến mất. Nó đã tha thẩn trên truông và đến giờ vẫn chưa về. Tuy hết lời an ủi Mortimer, trong lòng tôi lại nghĩ đến con ngựa lùn trên bãi lầy Grimpen và tôi không tin là anh ta sẽ còn gặp lại con chó nhỏ ấy nữa.

"À này, Mortimer", tôi nói trong lúc cỗ xe nhồi lắc trên đường gập ghềnh, "trong phạm vi đi được bằng xe ngựa này chắc ít có ai mà ông không quen biết phải không?"

"Hầu như không, chắc thế."

"Vậy ông biết người phụ nữ nào có tên viết tắt là L. L không?"

Mortimer ngẫm nghĩ một hồi rồi nói, "Không. Có mấy người dân digan và lao công thì tôi không biết, nhưng trong giới nông dân hay điền chủ thì không có ai có tên viết tắt như vậy đâu. Khoan đã", sau một lúc ngừng lời anh ta nói tiếp, "có một người tên Laura Lyons, viết tắt là L. L đó, nhưng bà ta ở tận Coombe Tracey cơ."

"Bà ấy là ai thế?" Tôi hỏi.

"Con gái của ông già Frankland đó."

"Cái gì? Ông già Frankland lập dị ấy à?"

"Chính xác. Bà ta lấy chồng là một họa sĩ họ Lyons, hắn đến truông này để vẽ kí họa. Hóa ra đó là một gã đê tiện và đã bỏ bà ta. Theo tôi biết thì lỗi lầm không hẳn chỉ ở một phía. Ông già Frankland đã từ con gái luôn vì lấy chồng mà không có sự đồng ý của ông và có lẽ vì vài nguyên do khác nữa. Cho nên dù sống với cha hay với chồng, bà ta đều không lấy gì làm sung sướng cả."

"Thế bà ta sống ra sao?"

"Tôi chắc lão Frankland có cho bà ta một khoản tiền sống qua ngày, nhưng không thể dồi dào, vì những chuyện riêng của ông già cũng đã rối rắm lắm rồi. Dẫu bà ta có đáng chê trách đi nữa thì mọi người cũng đâu thể để cho bà tuyệt vọng mà sa ngã. Chuyện của bà ta đồn lan ra và nhiều người ở đây đã giúp đỡ chút ít để bà ta có thể kiếm sống lương thiện. Như Stapleton này, rồi ngài Charles nữa. Tôi đây cũng góp một khoản tiền nhỏ. Để giúp bà ta gây dựng nghề đánh máy chữ ấy mà."

Mortimer muốn biết tôi tìm hiểu nhằm mục đích gì nhưng tôi cố thỏa mãn óc tò mò của anh ta mà không tiết lộ gì hết, vì chúng tôi không nên tin bất kì ai. Sáng mai tôi sẽ tìm đường tới Coombe Tracey và nếu gặp được bà Laura Lyons khả nghi này thì tức là tôi đã tiến được một bước dài trong chuyện làm sáng tỏ một sự việc có liên quan đến chuỗi bí ẩn này. Chắc chắn tôi đã tinh ranh hơn xưa, vì khi Mortimer cứ hỏi dồn thì tôi thản nhiên vờ hỏi anh ta xem cái sọ của ông Frankland thuộc loại nào, và thế là suốt chặng đường còn lại tôi chỉ toàn được nghe những chuyện chuyên môn nghiên cứu sọ người. Tôi sống với Sherlock Holmes suốt mấy năm nay quả không đến nỗi uổng phí.

Chỉ còn một sự việc khác đáng ghi lại trong cái ngày giông tố u sầu này. Đó là cuộc trò chuyện của tôi với Barrymore mới rồi, nhờ thế tôi đã có thêm một lá bài tẩy để đánh khi đến lúc.

Mortimer đã ở lại ăn tối và sau đó anh ta cùng nam tước chơi bài écarté. Người quản gia mang cà phê vào thư phòng cho tôi và nhân cơ hội này tôi hỏi ông ta mấy câu. "Này, người em yêu quý của vợ chồng ông đã đi chưa hay còn trốn ngoài kia?"

"Tôi không biết, thưa ông. Cầu trời nó đi cho rồi vì nó chỉ toàn mang rắc rối tới đây. Từ khi tôi mang đồ ăn ra cho nó lần cuối, cách đây ba ngày, tôi chưa thấy có tin gì của nó nữa."

"Nhưng lúc đó ông có gặp hắn không?"

"Dạ không, nhưng lần sau tôi ra thì không thấy đồ ăn đâu nữa."

"Vậy chắc chắn hắn còn ở đó?"

"Thưa ông, chắc là thế, trừ phi người kia lấy mất đồ ăn."

Cốc cà phê tôi chưa kịp đưa lên môi đã dừng sững lại, tôi ngồi ngây ra nhìn Barrymore. "Ông bảo còn một người khác nữa sao?"

"Dạ vâng, ngoài truông còn một người nữa."

"Ông có gặp người đó không?"

"Dạ không."

"Thế làm sao ông biết là hắn ở đó chứ?"

"Selden cho tôi biết, thưa ông, khoảng tuần trước hoặc hơn. Người đó cũng ẩn náu, nhưng theo như tôi biết thì không phải là tù nhân. Tôi không thích chuyện này, bác sĩ Watson à, nói thật đó, thưa ông, tôi không thích đâu." Barrymore nói, giọng đột nhiên trở nên khẩn thiết

"Nghe tôi này, Barrymore! Tôi không hề quan tâm đến chuyện nào khác ngoại trừ chuyện của ông chủ ông. Mục đích tôi đến đây chỉ là để giúp nam tước. Nói thật đi nào, ông không thích chuyện gì chứ?"

Barrymore ngần ngừ một lúc như hối tiếc vì cảm xúc bột phát của mình, hoặc là ông ta thấy khó diễn đạt tâm tư.

"Chuyện đang diễn ra đó, thưa ông." Mãi sau ông ta mới thốt nên lời, vừa nói vừa khoát tay về phía ô cửa sổ hướng ra truông đang bị mưa quất tới tấp. "Có chuyện gì tồi tệ đâu đây, có kẻ đang ấp ủ âm mưu đen tối, tôi thề đó! Tôi sẽ rất mừng nếu thấy ngài Henry quay trở lại London, thưa ông!"

"Nhưng điều gì khiến ông hoảng sợ chứ?"

"Cứ nghĩ tới cái chết của ngài Charles mà xem! Dù pháp y viên có nói gì thì chuyện đó cũng rất đáng ngại. Lại còn những âm thanh trên truông ban đêm nữa. Không một người nào dám băng qua truông sau khi mặt trời lặn nữa, có cho tiền cũng không. Nghĩ tới kẻ lạ mặt đang ẩn náu ngoài kia, theo dõi và chờ đợi! Chờ đợi gì chứ? Chuyện này có ý nghĩa gì? Nó chẳng có ý nghĩa gì tốt đẹp cho bất kì ai mang họ Baskerville, tôi chỉ mong sao được thoát khỏi đây vào cái ngày mà các gia nhân mới của ngài Henry đến nhận việc ở lâu đài."

"Nhưng còn kẻ lạ mặt?" Tôi nói. "Ông có thể cho tôi biết gì về hắn không? Selden đã nói gì? Em vợ ông có biết kẻ đó trốn ở đâu hay đang làm gì không?"

"Nó có gặp người đó một hai lần nhưng người này rất bí ẩn và không bộc lộ gì hết. Lúc đầu nó tưởng người này là cảnh sát nhưng sau đó nó biết người này có ý đồ riêng tư gì đó. Theo như nó nhìn nhận thì người này thuộc tầng lớp trên, nhưng hắn ta đang làm chuyện gì thì Selden không sao đoán được."

"Thế người đó có nói là đang ở đâu không?"

"Trong những cái nhà trên sườn đồi, những căn nhà đá mà người thượng cổ từng sống."

"Thế hắn lấy gì mà ăn?"

"Selden biết được là người này có một thằng nhỏ phục vụ mang cho hắn mọi thứ cần thiết. Tôi dám chắc là thằng nhỏ tới Coombe Tracey mua các thứ đó cho người lạ."

"Rất tốt, Barrymore. Lúc khác chúng ta sẽ bàn thêm về chuyện này." Khi ông quản gia đã đi rồi, tôi tới bên ô cửa sổ tối om và qua ô kính nhòe nhoẹt tôi nhìn những đám mây trôi dạt và bóng những tàng cây bị gió lay giật. Đêm nay, ở trong nhà đã thấy mưa gió như thế thì trong căn nhà đá ngoài truông kia còn giông tố đến đâu? Căm hờn chi mà khiến một người phải rình mò ở chốn này vào một thời điểm như vậy chứ! Và hắn có mục đích khẩn thiết sâu xa gì mà phải cam chịu gian nan nhường ấy! Căn nhà đá ngoài truông kia dường như chứa đựng cốt lõi của vấn đề đã khiến tôi lao tâm khổ tứ. Tôi thề rằng nội trong ngày mai tôi phải làm tất cả những gì sức người làm được để đi tới tận tâm điểm bí mật đó.

11. Người trên mỏm đá

Sau những trích đoạn từ nhật kí của tôi trong chương trước là đến ngày 18 tháng 10 khi những diễn biến kì lạ trong vụ này bắt đầu đẩy nhanh tốc độ tới kết cục khủng khiếp. Các biến cố trong mấy ngày kế tiếp đã ghi khắc vào trí nhớ và tôi có thể kể mà không cần xem lại những ghi chép lúc đó. Tôi sẽ bắt đầu từ chuyện xảy ra sau cái ngày xác định được hai dữ kiện hết sức quan trọng: Một là chuyện bà Laura Lyons ở Coombe Tracey đã viết thư cho ngài Charles Baskerville để hẹn gặp vào đúng địa điểm lẫn thời điểm vị này bỏ mạng, hai là có người thấy một kẻ ẩn náu trong những căn nhà đá trên sườn đồi ngoài truông. Có hai dữ kiện này trong tay mà tôi còn không thể làm sáng tỏ hơn những chỗ mù mịt này thì ắt là do tôi kém trí tuệ hoặc thiếu can trường.

Tối hôm trước tôi không có cơ hội nói với ngài Henry những gì đã biết về bà Lyons vì bác sĩ Mortimer ở lại chơi bài với nam tước tới khuya. Nhưng trong bữa điểm tâm, tôi đã báo cho ngài Henry phát hiện của mình và hỏi xem anh ta có muốn cùng đi đến Coombe Tracey không. Thoạt tiên nam tước rất hăm hở muốn đi nhưng rồi nghĩ lại cả hai đều thấy rằng tôi đi một mình có lẽ sẽ tốt hơn. Chuyến đi này càng long trọng thì chúng tôi càng thu thập được ít thông tin. Cho nên dù lương tâm không khỏi day dứt, tôi cũng đành để ngài Henry ở nhà và lên xe bắt đầu cuộc truy tìm mới.

Khi đến Coombe Tracey, tôi bảo Perkins chăm lo cho mấy con ngựa còn tôi đi dò la tung tích người phụ nữ cần chất vấn. Tôi dễ dàng tìm ra nhà bà ta ở ngay trung tâm và được bài trí đẹp. Một người hầu gái không hề khách sáo đưa tôi vào trong, và khi tôi bước vào phòng khách, một phụ nữ đang ngồi sau chiếc máy đánh chữ Remington đứng ngay dậy, nở nụ cười chào đón. Tuy nhiên, nét mặt bà ta sa sẩm khi thấy tôi là khách lạ, đoạn bà ta ngồi xuống hỏi tôi đến làm gì. Ấn tượng đầu tiên của tôi về bà Lyons là một nhan sắc kiều diễm. Đôi mắt và mái tóc đều cùng một màu nâu sậm và đôi má, tuy khá nhiều tàn nhang, song lại ửng lên vẻ tươi tắn tuyệt mĩ, tựa như sắc hồng kiêu sa lẫn khuất bên trong một đóa hồng vàng. Tôi xin nhắc lại, ấn tượng đầu tiên chính là niềm ngưỡng mộ. Nhưng ấn tượng kế tiếp lại là sự phản tỉnh. Có điểm gì đó không ổn trên gương mặt, một biểu cảm hơi thô, vẻ nghiệt ngã có lẽ toát lên trong ánh mắt, hay một khóe môi chùng, khiến dung nhan ấy không được hoàn mĩ. Nhưng tất nhiên đấy là sau này nghĩ lại tôi mới thấy. Chứ ngay lúc ấy tôi chỉ nhận ra mình đang diện kiến một giai nhân kiều diễm và bà ta đang hỏi tôi lí do đến đây. Tới khi đó tôi mới hiểu hết nhiệm vụ của mình tế nhị đến chừng nào.

"Tôi có hân hạnh được quen biết ông thân sinh của bà", tôi nói. Đó là một lời giới thiệu vụng về, và người phụ nữ này buộc tôi phải nhận ra điều đó.

"Giữa cha tôi với tôi chẳng có gì liên quan", bà ta nói. "Tôi không nợ gì ông ta, và bạn của ông ta không phải là bạn của tôi. Nếu không nhờ ngài Charles Baskerville quá cố và những người hảo tâm khác thì tôi hẳn đã chết đói vì sự chăm lo của cha tôi rồi."

"Tôi đến gặp bà chính vì chuyện của ngài Charles Baskerville quá cố."

Những đốm tàn nhang trên mặt người phụ nữ bỗng nổi bật lên.

"Tôi có thể nói gì đây?" Bà ta hỏi, ngón tay bồn chồn mân mê các phím máy đánh chữ.

"Bà có quen biết ngài Charles phải không?"

"Tôi đã nói là tôi mang ơn lòng tốt của ngài ấy nhiều lắm. Nếu như tôi có thể tự nuôi thân thì phần lớn là nhờ ngài ấy đã quan tâm đến hoàn cảnh bất hạnh của tôi."

"Bà đã thư từ qua lại với ngài ấy phải không?"

Người phụ nữ kia ngước nhìn lên ngay, đôi mắt nâu tóe lửa giận. Bà hỏi gắt gỏng, "ông hỏi với mục đích gì?"

"Mục đích là tránh một vụ tai tiếng công khai. Tốt nhất tôi nên hỏi ở đây hơn là để cho chuyện này vượt ngoài tầm kiểm soát của chúng ta."

Bà ta im lặng, mặt vẫn còn tái xanh. Sau cùng bà nhìn lên với thái độ thách thức bất cần. "Được, tôi sẽ trả lời", bà ta nói, "ông muốn hỏi gì?"

"Bà có thư từ qua lại với ngài Charles không?"

"Chắc chắn là tôi có viết thư một đôi lần để cảm tạ sự hào phóng và tế nhị của ngài ấy."

"Bà còn nhớ ngày tháng viết các bức thư đó không?"

"Không."

"Có bao giờ bà gặp gỡ ngài Charles không?"

"Có, một đôi lần, khi ngài ấy đến Coombe Tracey. Ông ấy là người rất kín đáo và thích làm việc thiện mà không cho ai biết."

"Nếu như bà ít gặp gỡ và ít thư từ như vậy, làm sao ngài Charles biết rõ chuyện của bà để giúp đỡ như bà đã nói?"

Bà ta đáp trả câu hỏi bắt chẹt của tôi hết sức mau lẹ. "Có một vài người biết chuyện buồn của tôi và đã hợp sức giúp tôi. Một trong số đó là ông Stapleton, láng giềng và bạn thân của ngài Charles. Ông Stapleton hết sức tử tế và thông qua ông ấy mà ngài Charles biết chuyện của tôi."

Tôi đã biết ngài Charles Baskerville từng nhờ Stapleton làm đại diện trong nhiều hoạt động từ thiện cho nên lời người phụ nữ này có vẻ đáng tin.

"Có bao giờ bà viết thư cho ngài Charles yêu cầu ngài ấy gặp bà không?" Tôi hỏi tiếp.

Bà Lyons lại đỏ mặt tức tối.

"Đây đích thị là một câu hỏi rất lạ lùng đó, thưa ông."

"Rất tiếc, thưa bà, tôi phải lặp lại câu hỏi đó."

"Vậy thì tôi trả lời là không hề có."

"Đúng cái ngày ngài Charles tạ thế cũng không ư?"

Trước mắt tôi, gương mặt đỏ bừng kia lập tức tái nhợt như xác chết Tôi thấy hai vành môi khô phác thành một tù 'Không' mà không sao bật ra thành tiếng được.

"Chắc chắn trí nhớ đã dối gạt bà", tôi nói. "Tôi thậm chí còn có thể trích một câu trong lá thư của bà. Thư viết: Vì ngài là bậc trượng phu, xin vui lòng đốt lá thư này và chờ ở cổng vào khoảng 10 giờ."

Tôi tưởng bà Lyons sắp ngất xỉu nhưng bà ta đã trấn tĩnh được bằng một nỗ lực phi thường. Bà ta thốt lên, "Lẽ nào trên đời này không có bậc trượng phu?"

"Bà nói vậy là oan cho ngài Charles rồi. Ngài ấy quả thực đã đốt lá thư đó. Nhưng có khi thư đã đốt mà vẫn đọc được chữ. Bà có thừa nhận là bà viết lá thư đó không?"

"Đúng, tôi viết đấy", bà ta nói to và tuôn ra một tràng như thể trút hết cõi lòng. "Chính tôi viết đấy. Việc gì tôi phải chối? Tôi không có lí do gì phải xấu hổ vì chuyện đó. Tôi mong ngài ấy giúp. Tôi tin là nếu gặp ngài Charles thì tôi có thể được ngài ấy giúp đỡ, cho nên tôi viết thư xin gặp."

"Sao lại gặp vào giờ ấy?"

"Vì khi đó tôi mới biết ngài Charles sẽ đi London vào hôm sau và có thể vắng mặt nhiều tháng trời. Có nhiều lí do khiến tôi không thể đến gặp sớm hơn."

"Nhưng tại sao lại hẹn gặp ngoài vườn mà không ghé vào nhà?"

"Ông cho rằng một phụ nữ có thể đi một mình vào giờ đó đến nhà một người đàn ông độc thân sao?"

"Thế chuyện gì đã xảy ra khi bà tới đó?"

"Tôi không hề tới."

"Bà Lyons!"

"Đúng! Xin thề với ông bằng tất cả những gì thiêng liêng nhất. Tôi không hề tới đó. Có chuyện ngăn trở nên tôi không đi."

"Chuyện gì thế?"

"Đó là chuyện riêng, tôi không nói được."

"Vậy bà thừa nhận là có hẹn gặp ngài Charles vào đúng cái giờ và nơi ngài ấy đã chết, nhưng bà lại khăng khăng là bà đã không đến gặp."

"Đó là sự thật"

Tôi không ngừng chất vấn bà ta nhưng không thể biết gì hơn sau chi tiết đó.

"Bà Lyons", tôi vừa nói vừa đứng lên sau cuộc chất vấn kéo dài mà chẳng đi đến đâu, "bà đang gánh trách nhiệm rất lớn và tự đặt mình vào một vị trí rất sai lầm vì không chịu nói hết những gì bà biết. Nếu tôi phải nhờ đến cảnh sát thì bà sẽ rơi vào tình thế hết sức bất lợi. Nếu bà thật sự vô can thì vì sao ngay từ đầu bà lại chối là không gửi thư cho ngài Charles vào đúng ngày hôm đó chứ?"

"Vì tôi sợ mình có thể bị quy kết không đúng qua chuyện đó và có thể dính líu vào một vụ tai tiếng."

"Thế tại sao bà cứ khẩn khoản muốn ngài Charles phải hủy lá thư đó đi?"

"Nếu ông đã đọc lá thư thì hẳn ông phải biết."

"Tôi không nói là tôi đã đọc trọn lá thư."

"Thì ông đã trích một đoạn đấy thôi."

"Tôi trích đoạn tái bút. Như tôi đã nói, lá thư ấy bị đốt rồi và không thể đọc được toàn bộ. Tôi hỏi bà một lần nữa là tại sao bà cứ khẩn khoản muốn ngài Charles phải hủy lá thư đã nhận được vào đúng ngày ngài ấy chết."

"Đó là chuyện rất riêng tư."

"Chính vì thế bà càng nên tránh một cuộc điều tra công khai."

"Vậy thì tôi nói. Nếu như ông đã nghe qua chuyện bất hạnh của tôi thì ông sẽ biết tôi đã kết hôn thiếu suy nghĩ và có lí do để hối tiếc."

"Tôi có nghe nhiều rồi."

"Tôi bị một người chồng mà tôi ghê tởm hành hạ triền miên. Luật pháp lại đứng về phía hắn ta nên ngày nào tôi cũng có nguy cơ bị hắn ép phải quay lại chung sống. Vào lúc viết lá thư ấy cho ngài Charles, tôi vừa biết mình có hi vọng được tự do nếu như tôi có thể đáp ứng một khoản chi phí nhất định. Điều này rất có ý nghĩa đối với tôi: Được yên tâm, vui sống, lòng tự trọng... tất cả. Tôi biết ngài Charles là người rộng rãi và tôi nghĩ nếu ngài ấy nghe chuyện đó từ chính miệng tôi kể ra thì ngài ấy sẽ giúp."

"Thế sao bà lại không tới như đã hẹn?"

"Vì trước đó tôi lại nhận được sự giúp đỡ từ một nguồn khác."

"Sao bà không viết thư giải thích rõ với ngài Charles?"

"Tôi cũng định làm đúng như thế nhưng sáng hôm sau thì nhật báo đã đăng tin ngài ấy qua đời."

Câu chuyện của người phụ nữ này hết sức chặt chẽ và mọi câu hỏi của tôi đều không làm nó lung lay được. Tôi chỉ có thể kiểm chứng bằng cách tìm hiểu xem có thực là bà ta đã xúc tiến chuyện ra tòa li dị với người chồng vào thời gian xảy ra thảm kịch ấy không. Chắc bà ta không dám khẳng định là đã không tới lâu đài Baskerville nếu thực sự có tới, vì muốn đến đó bà ta phải đi bằng xe ngựa và không thể nào quay lại Coombe Tracey trước khi trời rạng sáng. Không thể che giấu một chuyến đi xa như thế. Do đó có khả năng là bà ta nói thật, hay chí ít là một phần sự thật. Tôi ra về chán nản và hoang mang. Một lần nữa tôi lại đâm đầu vào ngõ cụt hệt như mọi ngã đường trước đó tôi đã thử để tiến gần tới mục tiêu. Nhưng càng nhớ lại nét mặt và thái độ của người phụ nữ ấy, tôi càng thấy bà ta vẫn đang giấu giếm điều gì đó. Tại sao bà ta tái mét đi như vậy? Tại sao bà ta cứ chối quanh cho đến khi bị tôi dồn ép mới chịu thừa nhận? Tại sao bà ta dè dặt khi nhắc đến thời điểm xảy ra thảm kịch? Nhất định lí do của chuyện này không thể nào vô tư như bà ta muốn tôi tin. Lúc này tôi không thể tiến xa hơn theo hướng đó mà phải quay sang manh mối khác - cần phải tìm hiểu điều bí ẩn trong những căn nhà đá trên truông.

Và đó lại là hướng mông lung nhất. Tôi nhận ra điều đó khi lên xe quay về và để ý thấy hết triền đồi này sang triền đồi khác đâu đâu cũng có dấu tích của người thượng cổ. Chỉ dẫn duy nhất của Barrymore là kẻ lạ mặt ấy sống trong một căn nhà bỏ hoang ngoài đó, nhưng có tới hàng trăm cái như thế rải rác khắp chiều dài và chiều rộng của truông. Nhưng tôi lại có kinh nghiệm riêng làm kim chỉ nam vì tôi đã thấy chính kẻ ấy đứng trên đỉnh mỏm đá đen. Như vậy đó sẽ là tâm điểm cuộc tìm kiếm của tôi. Từ đó tôi sẽ thăm dò từng căn nhà một trên truông cho tới khi nào tìm ra đúng chỗ. Nếu gặp kẻ đó bên trong tôi sẽ buộc y phải nói ra, cùng lắm là lấy họng súng uy hiếp, để xem y là ai và tại sao lại theo dõi chúng tôi suốt bao lâu nay. Y có thể lẩn trốn trong đám đông trên phố Regent, nhưng trên vùng truông hiu quạnh này thì y có chạy đằng trời. Mặt khác, nếu tôi tìm ra căn nhà ẩn náu nhưng kẻ chiếm ngụ không có mặt thì tôi phải ở đó, dù có thức trắng đêm canh chừng, đến khi nào y quay lại. Holmes đã không tóm được tên này ở London. Nếu ở đây tôi làm được việc mà bậc thầy của mình đã thất bại thì quả là một chiến công hiển hách.

Trong cuộc truy tìm này đã bao lần vận may chối bỏ chúng tôi, nhưng rốt cuộc lần này nó lại đến với tôi. Và sứ giả của vận may không phải ai khác mà lại là ông già Frankland, mặt đỏ hồng, tóc mai xám bạc, đang đứng ngoài cổng vườn nhà trên con đường cái tôi đang đi.

"Xin chào, bác sĩ Watson", ông già kêu to với vẻ phấn chấn hiếm thấy, "anh phải cho lũ ngựa dưỡng sức và vào đây uống một li chúc mừng tôi mới được."

Tôi chưa bao giờ có thiện cảm với già Frankland sau nhũng gì đã nghe kể về cách ông cư xử với con gái, nhưng tôi đang nóng lòng muốn tống Perkins và cỗ xe về nhà nên đây là cơ hội tốt. Tôi xuống xe và nhắn lại với ngài Henry là tôi sẽ đi bộ về kịp giờ ăn tối. Sau đó tôi theo Frankland vào phòng ăn nhà ông.

"Đúng là ngày trọng đại của tôi, anh ạ, một ngày huy hoàng của đời tôi", ông già vừa nói to vừa cười khúc khích. "Tôi đã thắng một cú đúp. Tôi muốn dạy cho dân xứ này biết rằng luật pháp là luật pháp, và ở đây có một người không sợ viện dẫn luật. Tôi đã xác lập lối đi công cộng xuyên qua bãi cỏ của lão Middleton, cắt thẳng qua đó luôn, anh ạ, cách cửa chính nhà lão ta chưa đầy một trăm yard. Anh thấy sao? Chúng ta sẽ dạy cho bọn quyền thế biết là chúng không được chà đạp lên quyền lợi của thường dân, lũ chết tiệt này! Và tôi đã chặn luôn khu rừng mà dân Fernworthy vẫn dùng làm nơi dã ngoại. Hình như cái bọn trời đánh thánh vật đó tưởng rằng nơi ấy không hề có ai sở hữu, và chúng cứ vứt giấy rác, chai lọ bừa bãi khắp nơi. Cả hai vụ kiện đều đã được phân xử, bác sĩ Watson ạ, và phần thắng thuộc về tôi. Tôi chưa có ngày nào được như hôm nay kể từ hồi tôi kiện được ngài John Morland tội xâm phạm vì lão ta săn bắn trong khu đất riêng của mình."

"Nhưng sao ông làm được chứ?"

"Cứ tra tìm trong sách đi, anh ạ. Đọc sách thì biết hết, vụ Frankland kiện Moriand ở tòa án Queen's Bench đó. Vụ đó tôi mất đứt 200 bảng nhưng lại thắng kiện."

"Thế ông có được hưởng lợi gì không?"

"Không, anh ạ, chẳng có gì. Tôi tự hào mà nói rằng tôi không hề có lợi lộc gì trong chuyện này. Tôi hành động hoàn toàn vì ý thức công dân. Chẳng hạn, tôi tin chắc đêm nay dân làng Fernworthy sẽ lôi hình nộm tôi ra đốt. Lần trước bọn ấy cũng làm thế và tôi đã nói với cảnh sát là họ phải chấm dứt những trò diễn nhục nhã đó đi. Sở cảnh sát địa hạt này thật đáng phỉ báng, anh ạ, tôi vẫn chưa được bảo vệ một cách xứng đáng. Vụ Frankland kiện Nữ hoàng rồi sẽ lôi chuyện này ra trước công chúng. Tôi đã bảo rằng họ sẽ có dịp phải hối tiếc vì đã đối xử với tôi như thế, và lời tôi nói đã thành sự thật."

"Sao lại thế?" Tôi hỏi.

Ông già liền lộ ra vẻ ranh mãnh. "Vì tôi có thể cho họ biết điều họ đang thèm khát, nhưng tôi không đời nào giúp bọn nhãi nhép ấy đâu."

Nãy giờ tôi vẫn tìm cớ để thoát khỏi những chuyện tầm phào của ông già, nhưng lúc này tôi lại muốn nghe nữa. Tôi biết rõ tính khí trái khoáy của ông già nên thừa hiểu chỉ cần tôi tỏ ra quan tâm hơi lộ liễu một chút thì chắc chắn ông ta sẽ không tâm sự gì nữa.

"Chuyện săn trộm chứ gì?" Tôi hỏi với vẻ thờ ơ.

"Ha ha, anh bạn ơi, quan trọng hơn thế nhiều! Anh nghĩ sao nếu đó là chuyện tên tù vượt ngục trên truông?"

Tôi trố mắt. "Ý ông nói là ông biết tên tù ở đâu à?" Tôi hỏi.

"Có thể tôi không biết đích xác thằng đó ở đâu nhưng tôi tin chắc mình có thể giúp cảnh sát tóm được nó. Có bao giờ anh nghĩ rằng muốn bắt thằng đó thì phải tìm xem nó lấy đồ ăn ở đâu và từ đó mà lần ra không?"

Rõ ràng là ông già đã chạm đến gần sự thật tới mức đáng ngại. Tôi nói, "Hẳn rồi, nhưng làm sao ông biết tên tù ở ngoài truông?"

"Tôi biết vì chính mắt tôi thấy người đem thức ăn đến cho tên tù đó."

Tôi thấy lo ngại cho Barrymore. Lọt vào tầm ngắm của lão già lắm điều, lại còn ưa hiềm thù này thì to chuyện mất rồi. Nhưng câu kế tiếp của già Frankland đã cất đi gánh nặng trong lòng tôi.

"Anh không ngờ được đâu, người đem đồ ăn tới cho tên tù là một thằng nhóc. Ngày nào tôi cũng nhìn thấy nó qua kính viễn vọng đặt trên mái nhà. Nó đi cùng một đường vào cùng một giờ, nếu không phải để gặp tên tù kia thì còn ai vào đây nữa?"

Đúng là gặp may rồi! Thế nhưng tôi vẫn cố nén để không tỏ ra chú ý. Một đứa nhỏ! Barrymore cũng đã nói kẻ lạ mặt kia được một đứa nhỏ tiếp tế. Frankland đã tình cờ phát hiện ra dấu vết của thằng bé đó chứ không phải của tên tù. Nếu có thể gợi cho ông ta nói ra hết thì tôi sẽ đỡ mất công truy tìm mệt mỏi mất thời gian. Nhưng thái độ hồ nghi và dửng dưng là những lá bài chắc ăn nhất của tôi.

"Tôi nghĩ rất có thể đó chỉ là con trai một người chăn cừu mang bữa ăn tối ra cho cha nó ngoài truông."

Chỉ cần trái ý một chút cũng đủ khiến ông già độc đoán này nổi nóng. Ông ta gườm gườm nhìn tôi và hàng tóc mai xám bạc hai bên dựng lên tua tủa như bộ ria của một con mèo nóng nảy.

"Anh nói mới hay chứ!" Ông ta chỉ tay ra phía truông. "Anh có thấy mỏm đá đen đằng kia không? Đấy, anh có thấy phía dưới chỉ là quả đồi đầy bụi gai không? Đó là nơi nhiều đá nhất trong cả truông này. Chẳng lẽ dân chăn cừu lại đóng trại ở đấy chắc? Ý kiến của anh ngớ ngẩn không gì bằng, anh à."

Tôi ngoan ngoãn đáp lại là tôi đã nói mà không biết hết mọi việc, vẻ phục tùng của tôi khiến ông ta hài lòng và càng nói nhiều hơn.

"Anh này, anh có thể tin chắc là tôi đã nói thì phải có cơ sở rất vững chắc. Tôi đã nhiều lần thấy thằng nhỏ đó mang theo một cái gói. Hằng ngày, có khi hai lần trong một ngày, tôi đã... Ồ, khoan, bác sĩ Watson. Mắt tôi nhìn lầm hay là có cái gì di chuyển trên sườn đồi kia?"

Tuy cách xa nhiều dặm, tôi vẫn nhìn thấy rõ một đốm đen nổi bật trên nền xám xanh ảm đạm. Frankland vừa chạy lên lầu vừa kêu to, "Lên đây, anh lên đây! Anh sẽ thấy tận mắt và tự đi mà suy xét lấy!"

Trên mái nhà lợp bằng phẳng là chiếc kính viễn vọng đặt trên giá ba chân. Frankland nhìn vào và reo lên mừng rỡ, "Mau lên, bác sĩ Watson, kẻo nó băng qua bên kia đồi mất!"

Không thể lầm được, đúng là một thằng nhãi con với cái bọc quảy trên vai, đang chậm chạp lê bước lên đồi. Khi nó lên tới đỉnh, tôi nhìn thấy bóng dáng nhếch nhác, rách rưới ấy in rõ trên nền trời xanh lạnh lẽo trong giây lát. Nó nhìn quanh với vẻ lén lút vụng trộm như thể lo sợ có ai đi theo. Sau đó nó khuất dạng về bên kia đồi.

"Đấy! Tôi nói đúng không?"

"Hoàn toàn đúng, có một thằng nhỏ hình như đang làm chuyện gì bí mật."

"Và chuyện bí mật đó là gì thì ngay cả một tên cảnh binh địa hạt cũng có thể đoán được. Nhưng tôi sẽ không hé răng với họ, và tôi yêu cầu anh cũng phải giữ bí mật đó, bác sĩ Watson. Không hé răng! Anh hiểu chứ?"

"Xin tuân theo ý ông."

"Họ đã đối xử với tôi rất đáng hổ thẹn, đáng hổ thẹn lắm. Khi sự thật bị phơi bày trong vụ Frankland kiện Nữ hoàng, tôi dám chắc sẽ gây ra một cơn phẫn nộ chấn động cả nước này. Không gì có thể khiến tôi giúp đỡ bọn cảnh sát đó. Chúng nó muốn thiêu sống tôi chứ không phải chỉ bêu hình nộm của tôi trên cọc mà đốt thôi đâu. Anh không định đi về đấy chứ! Phải giúp tôi uống cạn bình rượu để mừng dịp trọng đại này đã!"

Nhưng tôi khước từ mọi lời nài nỉ của ông già và can ông ta bỏ ý định tiễn tôi về đến tận nhà. Tôi cứ theo lộ chính mà đi tới khi khuất tầm mắt Frankland liền đổi hướng băng qua truông, đi thẳng tới ngọn đồi đá nơi thằng bé hồi nãy đã khuất dạng. Tất cả đều thuận lợi, và tôi thề rằng không thể vì mệt mỏi hay nản chí mà bỏ lỡ cơ may hiếm có này.

Khi tôi lên tới đỉnh đồi mặt trời đã bắt đầu lặn, những nền dốc dài phía dưới một bên nhuốm màu lục pha ráng vàng còn một bên đã ngả bóng màu xám. Một màn sương mù giăng la đà phía đường chân trời xa tít tắp, từ đó nhô lên hình dáng kì quái của các mỏm đá Belliver và Vixen. Trên dải đất rộng mênh mông ấy không hề có một âm thanh hay chuyển động nào. Một cánh chim lớn màu xám - mỏ nhát hay mòng bay vút lên bầu trời xanh. Giữa vòm trời mênh mông và vùng đất hoang vu phía dưới dường như chỉ có hai sinh vật là nó và tôi. Cảnh tượng cằn cỗi, cảm giác cô độc, và nhiệm vụ vừa kì bí vừa cấp bách của tôi, tất cả đều khiến cõi lòng tôi ớn lạnh. Chẳng hề thấy bóng thằng nhỏ kia đâu. Nhưng bên dưới, trong một khe sâu giữa những ngọn đồi có mấy căn nhà đá cổ xưa quây tròn lại, và ngay chính giữa là một căn vẫn còn lại phần mái đủ che chắn nắng mưa. Vừa nhìn thấy nó tìm tôi đã đập rộn lên. Nhất định đây chính là hang ổ của kẻ lạ mặt kia. Cuối cùng tôi đã đặt chân đến ngưỡng cửa nơi trú ẩn của y - bí mật của y đang nằm trong tầm tay tôi.

Tôi đến gần căn nhà đó, chân bước thận trọng như Stapleton khi cầm vợt tiến gần một cánh bướm đang đậu, tôi tự thấy hài lòng khi nhận ra chỗ này quả thực đã được dùng làm nơi trú ngụ. Một lối mòn lờ mờ giữa những tảng đá dẫn tới một lỗ hổng đổ nát dùng làm cửa ra vào. Bên trong im lặng như tờ. Kẻ lạ mặt kia có thể đang nấp ở đó hoặc đang rình mò ngoài truông. Thần kinh tôi râm ran cảm giác mạo hiểm. Vứt điếu thuốc lá qua một bên, tay nắm chặt khẩu súng lục, tôi đi thật nhanh tới cửa và nhìn vào: Trống trơn. Nhưng có nhiều dấu hiệu cho thấy tôi đã không theo lầm dấu vết. Chắc chắn kẻ đó đã sống ở đây. Mấy tấm chăn cuộn tròn trong tấm áo mưa đặt ngay trên phiến đá từng là chỗ ngủ của người thời Đồ Đá Mới. Tro bếp lửa vun thành đống trong một vỉ lò thô sơ. Bên cạnh là mấy đồ dùng nấu ăn và một xô chứa lưng lửng nước. Một đống rác toàn lon thiếc rỗng cho thấy nơi này đã có người cư ngụ một thời gian dài, và khi mắt đã quen với ánh sáng lốm đốm chập chờn, tôi nhận ra một cái chén nhỏ và chai rượu mạnh đã vơi một nửa đặt ở trong góc. Ngay giữa căn nhà là một khối đá bằng phẳng dùng làm bàn, bên trên đặt một gói vải nhỏ - không nghi ngờ gì nữa, chính là cái gói trên vai thằng nhỏ tôi đã thấy qua kính viễn vọng. Trong gói có một ổ bánh mì, một hộp thịt và hai lon mứt đào. Khi đặt mấy món đó xuống sau khi xem xét, tim tôi đập dồn khi thấy bên dưới là một tờ giấy có chữ viết. Tôi cầm lên và đọc dòng chữ viết tháu bằng nét bút chì nguệch ngoạc: Bác sĩ Watson đã tới Coombe Tracey.

Tôi cầm tờ giấy trong tay mà đứng lặng cả phút, suy nghĩ về ý nghĩa của thông điệp ngắn ngủn đó. Như vậy kẻ bí hiểm này đang bám theo chính tôi chứ không phải ngài Henry. Hắn ta không đích thân theo dõi mà sai một bộ hạ - có lẽ là thằng nhỏ kia - do thám tôi và đây là báo cáo của nó. Rất có thể là từ khi tôi đến truông này, mọi đường đi nước bước của tôi đều bị theo dõi và báo cáo lại. Lúc nào tôi cũng linh cảm thấy có một thế lực vô hình, một tấm lưới tinh vi được giăng ra tài tình và kín đáo, nó chỉ quây hờ lấy chúng tôi để đến đúng thời khắc cao trào chúng tôi mới nhận ra mình đã vướng vào cạm bẫy.

Nếu đã có một báo cáo thì phải có nhiều cái khác, cho nên tôi nhìn quanh nhà tìm kiếm. Tuy nhiên không hề thấy dấu vết nào, và tôi cũng không phát hiện được gì có thể nói lên bản chất hay ý đồ của kẻ đang sống ở nơi kì dị này, chỉ biết người này hẳn phải quen sống kham khổ và chẳng bận tâm đến tiện nghi sinh hoạt. Khi nhớ tới những trận mưa dầm và nhìn mái nhà hở hoác, tôi biết người này phải có một mục đích kiên định và mạnh mẽ lắm mới có thể trụ lại nơi khắc nghiệt này. Hắn ta là kẻ thù ác hiểm của chúng tôi, hay ngẫu nhiên lại là đấng thiên thần hộ mệnh? Tôi thề sẽ không rời khỏi căn nhà này chừng nào còn chưa biết rõ. Bên ngoài mặt trời đã xuống thấp và trời tây đã chói rực ánh đỏ, ánh vàng. Nắng chiều phản chiếu trên những vũng nước tít tắp giữa bãi lầy Grimpen hất ánh sáng lên những vạt đất đỏ nâu. Hai ngọn tháp của lâu đài Baskerville và một làn khói mờ xa xa đánh dấu vị trí của làng Grimpen. Ở giữa hai chỗ ấy, phía sau ngọn đồi, chính là ngôi nhà của anh em Stapleton. Tất cả đều tươi vui và yên lành trong ánh chiều vàng, thế nhưng nhìn cảnh vật ấy lòng tôi không hòa chung sự bình an của tự nhiên mà chỉ thấy xốn xang một nỗi khiếp sợ và cảm giác mông lung về cuộc đối mặt mỗi lúc một gần kề. Trong trạng thái thần kinh bất an nhưng mục đích thì dứt khoát, tôi ngồi trong hốc tối của căn nhà, nhẫn nại chờ kẻ chiếm ngụ quay về.

Rốt cuộc tôi cũng nghe tiếng hắn. Từ xa vang lên tiếng gót giày nện khô đanh vào một hòn đá. Rồi một tiếng nữa, và một tiếng nữa, càng lúc càng gần thêm. Tôi thu mình vào góc tối nhất và lên cò khẩu súng trong túi, quyết tâm không lộ diện cho đến khi có cơ hội nhìn rõ kẻ lạ mặt kia. Tiếng chân lặng im một lúc, cho biết kẻ đó đã ngừng bước. Rồi tiếng chân lại tiến gần và một bóng người chắn ngang lối vào căn nhà.

"Một buổi chiều tuyệt vời, Watson thân mến", một giọng rất quen cất lời. "Tôi nghĩ anh ra ngoài này sẽ thoải mái hơn là ở trong đó."

12. Cái chết trên truông

Tôi ngồi yên sửng sốt hồi lâu, không thể tin vào tai mình nữa. Rồi tôi sực tỉnh và thấy mình đã có thể lên tiếng, đồng thời cất được một gánh nặng trách nhiệm đè trĩu tâm tư. Cái giọng điệu châm biếm, sắc sảo, lạnh lùng đó chỉ có thể là của một người duy nhất trên đời này.

"Holmes!" Tôi kêu lên. "Holmes!"

"Ra đi", anh nói, "và xin anh cẩn thận với khẩu súng đấy."

Tôi lom khom chui qua ngưỡng cửa thô sơ ấy và kia là Holmes đang ngồi trên một tảng đá bên ngoài, đôi mắt xám lấp lánh vẻ thích thú khi quan sát nét mặt ngỡ ngàng của tôi. Anh gầy và hốc hác nhưng tỉnh táo và nhạy bén, gương mặt lanh lợi đã thô sạm vì nắng gió. Khoác trên người bộ comlê bằng vải tuýt và đội mũ vải, trông Holmes như một du khách trên truông, và với thói quen sạch sẽ như mèo, Holmes vẫn cạo râu nhẵn nhụi và ăn mặc tinh tươm như đang ở phố Baker.

"Trong đời tôi chưa hề mong gặp ai đến thế", tôi vừa nói vừa siết chặt bàn tay anh.

"Và cũng chưa bao giờ ngạc nhiên đến thế chứ gì?"

"À, phải thú thật là vậy."

"Cam đoan là không chỉ có mỗi mình anh ngạc nhiên đâu. Tôi không ngờ anh lại tìm ra chỗ trú ẩn tạm thời này của tôi, càng không nghĩ là anh đang ở trong đó, cho tới khi chỉ còn cách cửa chừng hai mươi bước."

"Chắc anh thấy dấu chân tôi?"

"Không phải, Watson, e là tôi không dám chắc sẽ nhận ra dấu chân của anh trong bao dấu chân trên đời này. Nếu như anh thật sự có ý định đánh lừa tôi thì anh phải đổi hiệu thuốc lá khác đi, bởi khi tôi thấy mẩu đuôi thuốc lá mác Bradley, phố Oxford thì tôi biết ngay anh bạn Watson đang ở đâu đây. Anh sẽ thấy mẩu thuốc ấy bên lối mòn này. Chắc chắn anh đã ném xuống đó đúng lúc cao trào anh xông vào căn nhà trống trơn này."

"Chính xác."

"Tôi cũng nghĩ vậy, và bởi biết rõ tính gan lì đáng phục của anh, tôi tin chắc anh đang ngồi mai phục, vũ khí trong tay, chờ người trú ngụ ở đây quay lại. Thế anh nghĩ tôi là tên tội phạm thật đấy à?"

"Tôi không biết người ở trong này là ai, nhưng tôi đã quyết tâm làm cho ra lẽ."

"Xuất sắc, Watson! Nhưng làm sao anh xác định được vị trí? Có lẽ anh đã thấy tôi vào cái đêm truy bắt tên tù đó, khi tôi khinh suất để cho mặt trăng rọi chiếu từ phía sau."

"Đúng, lần đó tôi đã thấy anh."

"Và chắc anh đã lục soát hết mọi căn nhà đá cho tới khi đến đây chứ gì?"

"Không phải, thằng nhỏ tiếp tế cho anh đã bị phát hiện và nhờ nó mà tôi biết hướng tìm kiếm."

"Vậy thì đúng là do ông già có kính viễn vọng rồi. Lúc đầu thấy ánh sáng lóe lên từ thấu kính tôi không luận ra nổi đó là cái gì." Anh đứng lên và nhìn vào trong nhà. "À, tôi thấy Cartwright đã mang đồ tiếp tế tới rồi. Tờ giấy gì thế? Hóa ra anh đã tới Coombe Tracey rồi sao?"

"Rồi."

"Để gặp bà Laura Lyons?"

"Chính xác."

"Hay quá! Rõ ràng chúng ta đã điều tra theo cùng một hướng, và khi gộp các kết quả lại, tôi nghĩ chúng ta sẽ biết khá đầy đủ về vụ này."

"Chà, thấy anh ở đây là tôi mừng lắm lắm bởi tôi sắp không chịu nổi trách nhiệm và sự bí ẩn nữa rồi. Nhưng làm thế quái nào anh lại đến đây hở trời, và anh làm gì lâu nay? Tôi cứ tưởng anh đang ở phố Baker giải quyết vụ tống tiền chứ?"

"Thì chính tôi muốn anh tưởng thế."

"Hóa ra anh sử dụng tôi mà lại không tin cậy tôi!" Tôi nói to, giọng cay đắng. "Tôi cứ nghĩ mình đáng được đối xử tốt hơn, Holmes à."

"Anh bạn thân mến ơi, trong vụ này anh đóng vai trò hết sức quý giá đối với tôi như trong bao vụ khác, xin anh bỏ qua cho nếu có vẻ như tôi đã lừa phỉnh anh. Thực ra, tôi làm vậy một phần cũng vì sự an toàn của anh và chính vì lường được mối nguy hiểm mà anh sẽ gặp phải nên tôi mới đích thân xuống đây xem xét vụ này. Nếu như tôi ở cùng một chỗ với ngài Henry và anh thì chắc chắn quan điểm của tôi cũng sẽ giống anh, và sự có mặt của tôi sẽ khiến đối thủ đáng gờm kia cảnh giác đề phòng. Còn như thế này thì tôi có thể tự do đi lại, không bị giới hạn như là sống trong lâu đài, và trong chuyện này tôi vẫn là một ẩn số, đợi đến lúc quyết định mới phát huy hết sức mạnh."

"Nhưng sao anh không cho tôi biết?"

"Cho anh biết cũng chẳng ích gì và có thể khiến tôi bị phát hiện. Có thể anh muốn nói với tôi chuyện gì đó, hoặc vì lòng tốt anh sẽ mang ra đây cho tôi ít vật dụng tiện nghi và sẽ gặp rủi ro không cần thiết. Tôi đã đưa Cartwright theo, anh còn nhớ thằng nhóc ở văn phòng điện tín không? Lâu nay nó lo liệu những nhu cầu đơn giản của tôi: Một ổ bánh mì, một chiếc cổ cồn sạch sẽ. Tôi còn muốn gì hơn? Có nó là có thêm một đôi mắt tinh tường và một đôi chân nhanh nhẹn, cả hai đều quý."

"Thế thì những bản tường trình của tôi đều uổng phí hết à!" Giọng tôi run run khi nhớ lại bao công lao khó nhọc lẫn niềm tự hào khi viết ra chúng. Holmes lấy trong túi áo ra một bó giấy tờ.

"Các bản tường trình của anh đây, anh bạn thân mến, xin cam đoan với anh là tôi đã đọc rất kĩ. Tôi đã thu xếp rất chu đáo để những bản tường trình này được giao đến tay tôi chỉ chậm trễ một ngày thôi. Tôi hết lời ngợi khen nhiệt huyết và trí tuệ mà anh đã chứng tỏ trong một vụ đặc biệt khó khăn như thế này."

Tôi vẫn còn khá bất bình vì bị Holmes lừa gạt nhưng những lời khen nồng nhiệt của anh đã khiến tôi nguôi giận. Trong thâm tâm tôi cũng thấy rằng anh nói đúng và việc tôi không biết đến sự hiện diện của anh trên truông này quả thực là tốt cho mục đích chung.

"Vậy có phải hay hơn không?" Anh nói khi thấy mặt tôi đã hết sa sẩm. "Bây giờ hãy cho tôi biết kết quả chuyến gặp gỡ bà Laura Lyons đi, việc anh tới đó gặp bà ta rất dễ đoán vì tôi cũng đã nhận ra bà ta là người duy nhất ở Coombe Tracey có thể có ích cho chúng ta trong vụ này. Nếu hôm nay anh không đi thì rất có thể ngày mai tôi cũng tới đó thôi."

Mặt trời đã lặn và hoàng hôn đang dần ngự trị trên truông. Trời chuyển lạnh và hai chúng tôi rút vào trong căn nhà đá cho ấm. Ngồi với nhau trong ánh chạng vạng, tôi kể cho Holmes nghe về cuộc đối thoại với người phụ nữ ấy. Anh quan tâm tới mức có mấy chỗ anh đòi tôi thuật lại đến hai lần. Khi tôi kể xong chuyện anh mới nói, "Đây là manh mối quan trọng nhất. Nó lấp vào cái khoảng trống mà lâu nay tôi không sao khắc phục được trong vụ án cực kì phức tạp này. Có lẽ anh cũng nhận ra mối quan hệ rất thân thiết giữa người phụ nữ này với gã Stapleton chứ?"

"Tôi đâu thấy quan hệ thân thiết nào?"

"Chuyện đó thì khỏi phải nghi ngờ. Họ có gặp gỡ, họ có thư từ qua lại, giữa họ có sự tương thông hoàn toàn. Đó chính là vũ khí hết sức lợi hại đang nằm trong tay ta. Giá như tôi có thể lợi dụng nó để li gián vợ hắn thì..."

"Vợ Stapleton?"

"Giờ tôi sẽ cho anh biết vài thông tin để đáp lại những gì anh vừa cho biết. Người phụ nữ ai cũng tưởng là em gái của Stapleton thực tế lại chính là vợ hắn đấy!"

"Trời đất ơi! Holmes, anh có chắc không? Làm sao Stapleton có thể cho phép ngài Henry có tình ý với vợ hắn chứ?"

"Chuyện ngài Henry có tình ý cũng chẳng gây hại cho ai ngoại trừ chính ngài Henry. Hắn đã rất cẩn thận không để cho ngài Henry có cơ hội tỏ tình, như anh đã thấy đó. Tôi nhắc lại người phụ nữ ấy là vợ hắn chứ không phải em gái hắn."

"Nhưng sao phải bày trò gian dối phức tạp vậy?"

"Bởi vì hắn đã tiên liệu rằng trong vai trò một phụ nữ độc thân cô ta sẽ có ích cho hắn hơn nhiều."

Những linh cảm không nói ra, những mối ngờ vực mơ hồ của tôi đột nhiên định hình và dồn cả vào nhà tự nhiên học. Trong con người mặt lạnh da tái ấy, với chiếc mũ rơm và cây vợt bắt bướm, tôi dường như đã thấy điều gì đáng sợ - một kẻ mưu mô và kiên trì vô hạn, mang bộ mặt tươi cười và lòng dạ kẻ sát nhân.

"Vậy thì chính hắn là địch thủ của chúng ta, là kẻ theo dõi chúng ta ở London phải không?"

"Giả thuyết của tôi là thế."

"Còn bức thư cảnh báo, hẳn là vợ hắn gửi!"

"Chính xác."

Một mưu đồ đáng sợ, nửa đã hiển lộ, nửa chỉ là phỏng đoán, lờ mờ hiện ra sau bức màn tăm tối đã bao quanh tôi bấy lâu.

"Nhưng anh có chắc không, Holmes? Làm sao anh biết người đàn bà đó là vợ hắn?"

"Bởi vì Stapleton đã sơ ý quên mất vai trò của mình và đã kể cho anh nghe một chuyện có thật về đời mình ngay lần gặp đầu tiên, và tôi dám chắc chính hắn đã không ít lần hối tiếc về chuyện đó. Trước kia hắn đúng là hiệu trưởng một trường ở miền bắc. Đó, không có gì dễ truy ra cho bằng tung tích một hiệu trưởng. Có nhiều cơ quan học vụ có thể giúp ta xác định bất kì ai đã từng ở trong ngành này. Tôi mất công điều tra một chút là tìm ra một trường tư thục đã gặp phải tai ương, và người chủ, lúc đó hắn mang tên khác, đã biến mất cùng vợ. Các mô tả nhân dạng đều trùng khớp. Khi tôi biết người hiệu trưởng mất tích đó rất say mê ngành côn trùng học thì việc xác minh đã hoàn tất."

Bức màn tăm tối đang vén dần nhưng nhiều điều vẫn còn chìm trong bóng tối. Tôi hỏi, "Nếu người đàn bà đó quả thực là vợ hắn thì bà Laura Lyons kia liên quan gì?"

"Chính anh đã làm sáng tỏ vấn đề đó trong quá trình điều tra. Cuộc tiếp xúc của anh với bà Laura Lyons đã làm sáng tỏ được mối liên quan này. Tôi không biết chuyện bà ta có kế hoạch li dị ông chồng. Vậy thì, nếu tưởng rằng Stapleton còn độc thân, chắc chắn bà ta hi vọng sẽ trở thành vợ hắn."

"Và khi đã biết mình bị lừa gạt?"

"A ha, đó là lúc bà Laura Lyons sẽ có ích cho chúng ta. Nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta, cả anh và tôi, là sáng mai phải đi gặp bà ta. Watson ơi, anh không thấy là anh đã bỏ bê phận sự khá lâu rồi sao? Vị trí của anh là phải ở lâu đài Baskerville mà."

Những vệt ráng đỏ cuối cùng đã phai nhòa ở phía tây và bóng tối đã phủ khắp truông. Vài đốm sao mờ nhạt đang le lói trên bầu trời tím ngắt.

"Cho tôi hỏi một câu nữa thôi, Holmes", tôi vừa nói vừa đứng lên. "Giữa anh và tôi đâu cần giữ bí mật. Tất cả những điều này có ý nghĩa gì? Hắn có mục đích gì cơ chứ?"

Giọng Holmes chùng xuống khi trả lời tôi, "Giết người, Watson à, giết người có chủ ý, nhẫn tâm và tinh vi. Đừng hỏi tôi chi tiết. Tôi đang giăng bẫy hắn, trong khi hắn giăng bẫy ngài Henry, và nhờ công anh, hắn ta hầu như đã nằm trong tay tôi. Chỉ có một nguy cơ duy nhất đang đe dọa chúng ta thôi. Đó là hắn có thể ra tay trước khi chúng ta sẵn sàng. Một ngày nữa, hai ngày là cùng, tôi sẽ có đủ chứng cứ, nhưng từ giờ tới đó anh phải theo sát ngài Henry như một bà mẹ trông chừng đứa con ốm. Hôm nay anh có nhiệm vụ chính đáng, song tôi vẫn ước giá mà anh đừng bỏ nam tước lại một mình. Nghe kìa!"

Một tiếng rú kinh hoàng, một tiếng thét kéo dài hãi hùng và bi đát xé tan sự tĩnh mịch của truông. Tiếng gào đáng sợ ấy khiến máu trong huyết quản tôi muốn đóng băng.

"Ôi, lạy Chúa!" Tôi thốt lên. "Cái gì thế? Vậy là sao?"

Holmes đã đứng phắt dậy và tôi thấy cái bóng đen nhanh nhẹn của anh hiện trên ngưỡng cửa căn nhà đá, hai vai khom xuống, đầu nghển ra, mắt chăm chú dõi vào bóng tối.

"Suỵt!" Anh thì thầm. "Suỵt!"

Tiếng gào ấy vang động là vì tính chất dữ dội của nó, song nó phát ra từ đâu đó xa tít tận phía bình nguyên âm u. Bây giờ nó như xói vào tai chúng tôi, gần hơn, vang hơn, và khẩn thiết hơn trước.

"Ở đâu vậy?" Holmes thì thào, và qua giọng nói hồi hộp của một người sắt đá như anh, tôi biết anh cũng chấn động cả tâm can. "Ở đâu vậy, Watson?"

"Kia kìa, tôi nghĩ vậy", tôi chỉ tay vào màn đêm.

"Không, phía kia!"

Một lần nữa tiếng gào đau đớn ấy xé tan đêm lặng, nó càng vang động và đến gần hơn bao giờ hết. Và có một âm thanh mới hòa lẫn vào đó, một tiếng trầm rền vang ngân như tiếng nhạc nhưng đầy uy hiếp, cứ dâng lên rồi lắng xuống như tiếng sóng biển rì rầm.

"Con chó đấy!" Holmes kêu lên. "Đi mau, Watson, mau! Cầu trời cho ta còn kịp!"

Anh bắt đầu chạy thoăn thoắt trên truông, và tôi theo bén gót. Nhưng đúng lúc ấy từ đâu đó giữa mặt đất gập ghềnh ngay trước mặt chúng tôi vang lên một tiếng thét tuyệt vọng cuối cùng, tiếp đó là một tiếng uỵch nặng nề, mờ đục. Chúng tôi dừng lại lắng nghe. Không còn tiếng động gì khác phá vỡ sự im lìm quánh đặc của một đêm lặng gió. Tôi thấy Holmes đưa tay lên trán như một người quẫn trí. Anh giậm chân xuống đất.

"Hắn thắng chúng ta rồi, Watson. Ta đã quá chậm trễ."

"Không thể, không đời nào!"

"Tôi thật ngu ngốc mới không chịu ra tay. Còn anh, Watson, anh đã thấy hậu quả của việc bỏ bê trách nhiệm chưa! Nhưng nếu điều tồi tệ nhất xảy ra thì xin thề là ta sẽ trả món nợ này!"

Chúng tôi cắm đầu chạy trong màn đêm âm u, phóng bừa qua các tảng đá lớn, lao qua những bụi kim tước, hộc tốc lên đồi rồi băng xuống dốc, theo hướng phát ra những âm thanh kinh khiếp ban nãy. Trên mỗi gò đất Holmes lại nôn nóng nhìn quanh, nhưng bóng tối trên truông đã dày đặc và không có gì chuyển động trên mặt đất thê lương này.

"Anh có thấy gì không?"

"Không thấy gì."

"Nhưng nghe kìa, tiếng gì đó?"

Một tiếng rên xiết vẳng đến tai chúng tôi. Lại là ở phía bên trái! Bên đó có một bờ đá, tận cùng là vách đá dựng đứng phía trên một triền dốc đầy đá. Trên bề mặt lởm chởm có một vật thể đen sì, không rõ hình thù xòe rộng. Lúc chúng tôi chạy tới, những đường nét mơ hồ kia dần dần hiện rõ hình hài. Đó là một người nằm sấp mặt xuống đất, cái đầu gập chúi xuống một góc đáng sợ, hai vai thu lại và thân hình gập cong như đang làm động tác nhào lộn. Tư thế ấy kì dị tới mức khiến tôi không thể nhận ra ngay tiếng rên xiết kia là do chính kẻ ấy vừa trút ra trước khi lìa đời. Lúc này không còn một tiếng thì thào, sột soạt nào phát ra từ cái thân hình đen ngòm mà chúng tôi đang khom người nhìn nữa. Holmes đặt tay lên cái hình hài ấy rồi rụt phắt về kèm một tiếng kêu kinh hãi. Ánh sáng lập lòe của que diêm anh vừa quẹt soi trên mấy ngón tay vấy máu của anh và hắt vào vũng máu ghê rợn đang chầm chậm loang ra từ cái sọ vỡ nát của nạn nhân. Ánh diêm còn cho thấy một điều khác khiến cả hai chúng tôi thất kinh hồn vía - thi thể của ngài Henry Baskerville!

Không ai trong chúng tôi có thể quên được bộ comlê vải tuýt màu hung đặc biệt ấy - chính bộ đồ vị nam tước đã mặc trong buổi sáng đầu tiên gặp mặt ở phố Baker. Chúng tôi cố nhìn cho rõ bộ đồ ấy một lần nữa rồi que diêm chập chờn tắt ngóm, cùng lúc ấy hi vọng cũng tan biến trong lòng chúng tôi. Holmes thốt lên một tiếng nghẹn ngào, mặt tái nhợt thấy rõ trong bóng tối.

"Đồ súc sinh! Đồ súc sinh!" Tôi siết chặt hai bàn tay kêu lên. "Ôi, Holmes ơi, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho mình vì đã phó mặc anh ta cho số phận."

"Tôi còn đáng trách hơn anh, Watson ơi. Để có chứng cứ đầy đủ và trọn vẹn, tôi đã thí mạng thân chủ của mình. Đây là đòn đau nhất mà tôi gặp phải trong sự nghiệp. Nhưng nào ngờ, tôi nào ngờ anh ta lại liều mạng một mình đi ra truông bất kể tôi đã hết lời khuyên ngăn như vậy chứ?"

"Chúng ta đã nghe thấy tiếng thét của anh ta. Chúa ơi, tiếng thét mới kinh hoàng làm sao! Vậy mà không thể cứu anh ta được! Con chó hung ác đã xua anh ta tới chỗ chết đâu rồi? Ngay bây giờ có thể nó còn ẩn nấp giữa những tảng đá này. Còn Stapleton, hắn ở đâu? Hắn sẽ phải chịu tội vì việc này."

"Đúng vậy. Tôi sẽ lo chuyện đó. Cả bác lẫn cháu đều đã bị sát hại, một người kinh hãi mà chết chỉ vì nhìn thấy con vật ông ta cho là ma quỷ, một người bị đẩy đến chỗ chết khi đang điên cuồng chạy trốn. Nhưng bây giờ ta phải chứng minh được mối liên quan giữa tên đó với con thú này. Ngoại trừ những gì đã nghe thấy, chúng ta không thể chứng minh sự tồn tại của con thú, bởi vì ngài Henry rõ ràng đã chết vì té ngã. Nhưng xin thề là dù hắn ta có xảo quyệt tới đâu, nhất định tôi sẽ trị được hắn nội trong ngày mai!"

Đứng hai bên thi thể nát bấy ấy, chúng tôi đau xót ngập lòng vì thảm họa bất ngờ vô phương cứu vãn này đã khiến mọi công sức khó nhọc và kiên trì của cả hai đi tới một kết cục thảm hại. Vừa lúc ấy, trăng mọc, chúng tôi trèo lên đầu dốc đá, nơi người bạn đáng thương kia đã ngã xuống, và từ mỏm đá này chúng tôi đảo mắt nhìn khắp truông âm u, nửa ánh bạc nửa tối tăm. Xa xa nhiều dặm, về hướng Grimpen, một ánh đèn vàng duy nhất vẫn tỏa sáng đều đặn. Ánh sáng ấy chỉ có thể phát ra từ ngôi nhà lẻ loi của vợ chồng Stapleton. Tôi buông lời nguyền rủa cay đắng, vừa nhìn theo hướng đó vừa vung cao nắm đấm.

"Sao chúng ta không bắt hắn ngay đi?"

"Chứng cứ chưa đầy đủ. Tên này cảnh giác và xảo quyệt vô cùng. Những gì ta biết khó có thể kiểm chứng được. Nếu đi sai một bước thì tên ác nhân ấy có thể thoát khỏi tay ta mất."

"Chúng ta làm gì được đây?"

"Ngày mai sẽ có rất nhiều việc. Còn tối nay chúng ta chỉ có thể lo hậu sự cho người bạn tội nghiệp này."

Chúng tôi cùng nhau lần mò xuống triền dốc và lại gần thi thể, một khối đen thù lù trên nền đá sáng bạc dưới ánh trăng. Tư thế vẹo vọ đau đớn của cái xác khiến lòng tôi quặn thắt và nước mắt tuôn trào.

"Phải gọi người giúp sức, Holmes ơi! Chúng ta không thể khiêng anh ta suốt quãng đường về tới lâu đài... Trời đất, anh có điên không?"

Holmes vừa rú lên một tiếng và khom xuống bên xác chết. Rồi anh nhảy lên, cười ầm và nắm chặt tay tôi mà lắc. Lẽ nào đây là anh bạn nghiêm nghị, cẩn trọng của tôi? Đúng là có lửa cháy ngầm bên trong con người anh!

"Bộ râu! Bộ râu! Người này có râu!"

"Bộ râu?"

"Đây không phải nam tước... mà là, Ồ, là láng giềng của tôi, tên tù vượt ngục!"

Chúng tôi vội vàng lật ngửa xác chết, và bộ râu còn đang nhỏ máu kia chĩa ngược lên vầng trăng vằng vặc tỏa ánh sáng lạnh lẽo. Nhìn cái trán dồ và đôi mắt thú tính trũng sâu kia thì không còn nghi ngờ gì nữa. Đích thị là bộ mặt đã nhô lên trên tảng đá trừng mắt nhìn tôi trong ánh nến lần trước - bộ mặt của Selden, tên tội phạm. Và trong phút chốc tất cả đều đã rõ. Tôi còn nhớ nam tước có kể là đã cho Barrymore số quần áo cũ, Barrymore đã cho Selden số quần áo đó để giúp y đào tẩu. Giày, áo, mũ - toàn là đồ của ngài Henry. Thảm kịch này vẫn còn đầy bí ẩn nhưng ít ra người chết cũng đáng tội chết theo luật pháp nước này. Tôi cho Holmes biết quan điểm của mình, trong lòng mừng quýnh và biết ơn khôn tả.

"Như thế chính bộ đồ đã gây họa sát thân cho kẻ đáng thương này", anh nói. "Vậy là rõ, con chó săn đã được cho đánh hơi một món đồ nào đó của ngài Henry, chính là chiếc ghệt bị lấy trộm trong khách sạn chứ còn gì nữa, và thế là nó truy đuổi theo dấu vết tên tù. Nhưng còn một điều rất kì lạ nữa! Làm sao trong bóng tối Selden lại biết có con chó săn đang đuổi theo mình chứ?"

"Chắc là hắn nghe tiếng."

"Một kẻ gan lì như tên tội nhân này dù có nghe tiếng chó săn trên truông thì cũng không đến mức kinh hoàng tột độ mà gào thét kêu cứu lên như thế vì nếu thế hắn có nguy cơ bị bắt lại vào tù. Xét theo tiếng la hét thì chắc chắn hắn đã chạy một quãng xa sau khi biết con thú đó đuổi theo mình. Làm sao hắn biết được?"

"Với tôi, điều còn bí ẩn hơn thế là tại sao con chó săn này, giả sử mọi phỏng đoán của chúng ta đều đúng, lại..."

"Tôi không giả sử gì hết."

"Vậy thì tại sao con chó săn này được thả ra tối nay? Tôi nghĩ không phải lúc nào nó cũng chạy rông trên truông. Stapleton sẽ không thả chó ra trừ phi hắn có lí do để tin rằng ngài Henry sẽ ở đó."

"Trong hai điều nan giải này thì câu hỏi của tôi khó trả lời hơn nhiều, bởi vì tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ rất sớm có đáp án cho anh, còn thắc mắc của tôi có thể mãi mãi là bí ẩn. Vấn đề bây giờ là chúng ta phải làm gì với xác của tên tù khốn khổ này đây? Không thể để mặc ở đây cho cáo moi quạ mổ được."

"Tôi nghĩ chúng ta nên đưa tạm cái xác vào một căn nhà đá cho tới khi báo được với nhà chức trách."

"Chính xác. Chắc chắn là anh và tôi đủ sức khiêng được tới đó... Ô kìa, Watson, cái gì thế này? Chính là hắn ta, thật hay ho mà cũng thật trơ tráo! Không được nói gì để lộ mối nghi ngờ của anh, đừng nói gì, nếu không kế hoạch của tôi tan tành mất."

Một bóng người đang băng qua truông tới gần chúng tôi, và chúng tôi nhận ra ánh đỏ cháy lờ mờ của một điếu xì gà. Trăng soi bóng hắn và tôi thấy rõ vóc dáng nhanh nhẹn và bước đi thong thả của nhà tự nhiên học. Hắn ta dừng bước khi thấy chúng tôi, rồi lại đi tiếp.

"Kìa, bác sĩ Watson, có phải ông đấy không? Tôi thật không thể ngờ lại gặp chính ông trên truông vào lúc đêm hôm này. Ôi, trời đất, gì thế này? Có ai bị thương à? Đừng, đừng nói với tôi đó là ngài Henry, người bạn của chúng ta!"

Hắn hấp tấp đi qua mặt tôi và khom xuống nhìn người chết. Tôi nghe tiếng hắn hít mạnh một hơi và điếu xì gà rơi khỏi mấy ngón tay hắn.

"Ai... ai thế?" Hắn lắp bắp.

"Đó là Selden, tên tù vượt ngục Princetown."

Stapleton ngoảnh bộ mặt dễ sợ về phía chúng tôi, nhưng bằng một nỗ lực phi thường hắn đã chế ngự được cả nỗi kinh ngạc lẫn thất vọng trong lòng. Hắn nhìn chòng chọc từ Holmes sang tôi.

"Trời ơi, kinh khủng quá! Làm sao hắn chết?"

"Hình như tên tù gãy cổ vì ngã từ bờ đá này xuống. Anh bạn tôi và tôi đang tản bộ trên đồng hoang thì nghe tiếng thét."

"Tôi cũng nghe tiếng thét. Thành ra tôi mới ra đây. Tôi thấy lo lắng cho ngài Henry."

"Sao lại liên quan gì đến ngài Henry?" Tôi không thể không hỏi.

"Vì tôi đã đề nghị nam tước qua nhà tôi. Khi ngài ấy không đến tôi đã lấy làm lạ, và đương nhiên tôi lo sợ cho sự an toàn của ngài ấy khi nghe tiếng thét ngoài truông. À này", ánh mắt sác bén của hắn lại đảo nhanh từ tôi sang Holmes, "các ông có nghe gì khác ngoài tiếng thét đó không?"

"Không", Holmes lên tiếng, "còn ông?"

"Không."

"Thế thì ý ông muốn nói gì?"

"Ồ, các ông biết câu chuyện đám nông dân thường kể về một con chó săn ma quái hay đại loại như thế mà. Họ nói ban đêm thường nghe tiếng nó tru trên truông. Tôi đang tự hỏi tối nay không biết có âm thanh gì như thế chăng."

"Chúng tôi chẳng hề nghe tiếng gì như thế cả", tôi đáp.

"Thế ông có giả thuyết gì về cái chết của kẻ khốn khổ này?"

"Tôi tin chắc tên này đã phát cuồng vì lo sợ và dãi nắng dầm mưa. Hắn lao ra truông trong tình trạng điên loạn và cuối cùng ngã xuống đây gãy cổ."

"Có vẻ đó là giả thuyết hợp lí nhất", Stapleton nói, rồi thở hắt ra một cái dường như là thở phào nhẹ nhõm. "Thế còn ông nghĩ sao, ông Sherlock Holmes?"

Bạn tôi cúi đầu tỏ ý khen ngợi. "Ông quả là tinh ý," Holmes nói.

"Chúng tôi ở quanh vùng này đều mong ngóng ông kể từ khi bác sĩ Watson về đây. Ông đến vừa kịp lúc chứng kiến một thảm kịch."

"Đúng là thảm kịch thật. Tôi tin cách lí giải của bạn tôi đây đã đáp ứng mọi dữ kiện. Tôi sẽ mang theo một kí ức khó chịu về London."

"Ủa, mai ông về rồi ư?"

"Tôi định là thế."

"Tôi hi vọng chuyến đi của ông đã làm sáng tỏ được những biến cố đã khiến chúng tôi hoang mang rồi chứ?"

Holmes nhún vai.

"Đâu phải lúc nào người ta cũng thành công được như mong muốn. Một người điều tra cần sự thật chứ đâu cần truyền thuyết hay tin đồn. Vụ này không có chứng cứ gì thỏa đáng cả."

Bạn tôi nói với thái độ thẳng thắn và hết sức dửng dưng. Stapleton vẫn nhìn anh chằm chằm. Rồi hắn quay sang tôi

"Tôi đã định đề nghị khiêng kẻ khốn khổ này về nhà tôi nhưng như thế thì em gái tôi sẽ sợ khiếp vía, cho nên tôi thấy cũng không hợp lí lắm. Tôi nghĩ nếu chúng ta tìm cái gì đậy kín mặt hắn lại thì hắn sẽ yên ổn tới sáng."

Và việc này được sắp xếp như thế. Khước từ lời mời ghé chơi nhà của Stapleton, Holmes và tôi lên đường tới lâu đài Baskerville, để mặc nhà tự nhiên học quay về một mình. Ngoái nhìn lại, chúng tôi thấy bóng người kia chầm chậm băng qua truông rộng lớn, sau lưng hắn là một vệt đen trên triền dốc sáng trăng ghi dấu đoạn kết kinh hoàng của kẻ đang nằm đó.

"Rốt cuộc cũng đụng độ với hắn", Holmes nói khi chúng tôi cùng băng qua truông. "Tên này đúng là thần kinh thép! Hắn giữ được bình tĩnh như thế đúng là quá giỏi, lẽ ra hắn phải chết điếng khi thấy mưu mô của mình đã giết lầm nạn nhân. Ở London tôi đã nói rồi, Watson, và bây giờ tôi nhắc lại, chưa bao giờ chúng ta có một đối thủ ngang tài ngang sức như tên này."

"Tôi rất tiếc là hắn đã bắt gặp anh."

"Lúc đầu tôi cũng thấy vậy. Nhưng không có cách gì tránh được."

"Giờ hắn đã biết anh ở đây rồi, anh nghĩ điều này có ảnh hưởng gì đến kế hoạch của hắn không?"

"Có thể hắn sẽ thận trọng hơn, hoặc cũng có thể hắn sẽ bị hối thúc phải thực hiện ngay những biện pháp cùng đường. Giống như mọi tên tội phạm khôn ngoan, hắn có thể tự tin quá mức vào sự khôn ngoan của mình và cho rằng hắn đã lừa gạt được chúng ta."

"Sao ta không bắt giữ hắn ngay đi?"

"Watson thân mến, anh bẩm sinh là con người hành động. Bản năng của anh luôn muốn làm chuyện gì mạnh mẽ. Nhưng cứ cho rằng tối nay chúng ta bắt hắn, vậy thì ta được ích lợi quái gì cơ chứ? Chúng ta không thể nào chứng minh hắn có tội. Đó chính là chỗ lắt léo quỷ quyệt trong vụ này! Nếu hắn giở trò thông qua nhân tố con người thì ta có thể thu được lời khai, còn nếu ta lôi con chó khổng lồ này ra ánh sáng thì cũng không thể tròng dây vào cổ chủ nhân con chó."

"Rõ ràng ta có chứng cứ."

"Chẳng có một chút gì, chỉ toàn ước đoán với giả thuyết. Chúng ta sẽ bị cười thối mũi nếu đem một câu chuyện và chứng cứ như thế ra trước tòa."

"Còn cái chết của ngài Charles?"

"Người ta biết ông ấy chết mà trên người không hề có vết thương nào. Anh và tôi biết ông ấy chết chỉ vì quá kinh hoàng, và chúng ta biết cái gì khiến ông ấy kinh hoàng, nhưng làm sao có thể khiến mười hai viên bồi thẩm vô cảm biết được? Dấu hiệu nào cho biết đó là con chó? Vết răng cắn đâu? Tất nhiên chúng ta biết chó săn không cắn xác chết và ngài Charles đã chết trước khi con chó đuổi kịp. Nhưng phải chứng minh được hết mọi điều ấy và chúng ta không đủ bằng cứ để làm chuyện đó."

"Vậy tối nay thì sao?"

"Tối nay cũng chẳng có bằng cứ. Thêm nữa, không có mối liên quan trực tiếp giữa con chó săn với cái chết của tên tù vượt ngục. Chúng ta không hề thấy con chó. Chúng ta có nghe tiếng nó, nhưng không thể chứng minh là nó đã đuổi theo tên tù. Hoàn toàn thiếu động cơ. Không đâu, anh bạn thân mến, chúng ta đành chấp nhận thực tế là tạm thời chúng ta còn chưa có vụ án nào cả, và việc chứng minh các yếu tố cấu thành tội phạm cũng đáng để ta liều mạng."

"Thế anh định làm thế bằng cách nào?"

"Tôi hết sức hi vọng là bà Laura Lyons có thể trợ giúp đắc lực cho chúng ta khi bà ấy hiểu ra vai trò của mình trong vụ việc này. Và tôi còn một kế hoạch nữa. Ngày mai sẽ không thiếu chuyện hiểm ác đâu, nhưng tôi hi vọng là trong vòng ngày mai rốt cuộc ta sẽ giành được thế thượng phong."

Tôi không thể khiến anh tiết lộ gì hơn nữa và anh cứ vừa đi vừa đắm chìm trong suy nghĩ cho đến tận cổng vào lâu đài Baskerville.

"Anh vào nhà không?"

"Vào chứ, tôi thấy chẳng có lí do gì để ẩn náu nữa. Nhưng tôi dặn anh, Watson. Không được nói gì về con chó săn với ngài Henry cả. Cứ để nam tước tin rằng Selden chết vì cái nguyên do Stapleton muốn chúng ta tin. Nam tước sẽ thoải mái tinh thần hơn trước thử thách mà ngày mai anh ta sẽ phải kinh qua, khi đến hẹn ăn tối bên nhà Stapleton, nếu tôi nhớ đúng những gì anh đã thông báo."

"Tôi cũng đi mà."

"Vậy thì anh phải tìm cách thoái thác để cho nam tước đi một mình thôi. Chuyện đó cũng dễ dàn xếp. Còn bây giờ, nếu không kịp ăn tối thì tôi nghĩ cả hai chúng ta đều sẵn sàng ăn khuya."

13. Giăng lưới

Gặp Sherlock Holmes, trông ngài Henry hài lòng hơn là ngạc nhiên bởi mấy ngày qua nam tước đã mong ngóng những biến cố vừa xảy ra sẽ khiến nhà thám tử rời London về đây. Tuy nhiên, nam tước nhướng mày lấy làm lạ khi thấy anh bạn tôi không hề có hành lí gì mà cũng chẳng giải thích lí do. Ngài Henry và tôi thay nhau cung cấp các thứ cần dùng cho Holmes, và rồi trong bữa ăn muộn màng hai chúng tôi giải thích cho nam tước hiểu những tình huống đã gặp và chỉ nói những gì muốn cho anh ta biết. Nhưng trước đó tôi phải làm cái nhiệm vụ khó chịu là báo tin cho Barrymore cùng vợ ông ta. Với người quản gia, tin dữ này có thể cất được gánh nặng bất an trong lòng nhưng vợ ông ta thì kéo tạp dề lên che mặt khóc nức nở. Với cả thế giới, tên tù có thể là một kẻ súc sinh tàn bạo, độc ác, nhưng với bà Barrymore hắn vẫn luôn là cậu em nhỏ ngang ngạnh mà bà đã bế ẵm thuở nào. Ai mà không có lấy một người phụ nữ thương tiếc cho mình thì có chăng là quỷ sứ.

"Tôi cứ ru rú trong nhà suốt cả ngày từ khi Watson ra đi lúc sáng," nam tước nói. "Tôi nghĩ mình xứng đáng được ghi công vì đã giữ lời hứa. Nếu tôi chẳng thề là không ra ngoài một mình thì biết đâu tôi đã có một buổi tối sôi nổi vì Stapleton đã nhắn tin mời tôi qua."

"Tôi tin chắc nếu ngài đi thì đã có một tối sôi nổi hơn nhiều", Holmes lạnh lùng nói. "Nhân tiện xin nói thêm, chắc ngài không lấy gì làm cảm kích chuyện chúng tôi đã thương tiếc mãi vì cứ tưởng ngài ngã gãy cổ."

Ngài Henry trố mắt, "Sao lại thế?"

"Kẻ khốn khổ đó mặc áo quần của ngài. Tôi e là gia nhân của ngài sẽ gặp rắc rối vì đã lấy áo quần của ngài đem cho tên tù đó."

"Không đâu. Theo tôi biết thì trên đó không có dấu hiệu gì."

"Vậy thì may mắn cho ông ta, thực tế là may mắn cho tất cả quý vị vì trong chuyện này mọi người đều vi phạm luật pháp. Ở cương vị một thám tử có lương tâm, tôi không biết bổn phận đầu tiên của mình là có nên bắt hết cả nhà này không. Các bản tường trình của Watson là những tài liệu buộc tội hùng hồn nhất."

"Nhưng còn vụ của tôi thì sao?" Nam tước hỏi. "Ông đã tháo gỡ được gì từ mớ bòng bong này chưa? Tôi thấy từ khi về đây cả Watson và tôi đều chưa hiểu thêm được gì nhiều."

"Tôi nghĩ chẳng bao lâu nữa tôi sẽ có đủ điều kiện để giải thích cho ngài rõ ngọn ngành. Đây là một vụ hết sức phức tạp và vô cùng khó khăn. Còn nhiều điểm chúng tôi chưa làm sáng tỏ được, nhưng rồi sẽ rõ hết thôi."

"Chúng tôi đã gặp một chuyện, chắc chắn là Watson kể với ông rồi. Chúng tôi đã nghe thấy tiếng chó săn trên truông, nên tôi có thể thề rằng chuyện này không hẳn là mê tín vu vơ. Lúc còn ở miền Tây, tôi từng có kinh nghiệm về các loài chó nên nghe tiếng là tôi biết. Nếu như ông có thể khóa mõm con chó đó và xích nó lại thì tôi dám nói ông là nhà thám tử vĩ đại nhất xưa nay."

"Tôi nghĩ mình có thể khóa mõm và xích con chó đó nếu ngài sẵn lòng giúp đỡ."

"Ông muốn tôi làm gì tôi cũng làm."

"Rất tốt, tôi sẽ yêu cầu ngài cứ làm đúng lời tôi mà đừng thắc mắc lí do."

"Sẽ làm đúng như ông muốn."

"Nếu được như vậy thì tôi nghĩ có nhiều cơ hội là vấn đề của chúng ta sẽ được giải quyết nhanh chóng. Tôi tin chắc là..."

Anh đột ngột im bặt và nhìn trân trối vào khoảng không bên trên đầu tôi. Bóng đèn rọi vào mặt Holmes, anh ngồi chăm chú, bất động tới mức trông anh như một pho tượng cổ điển sắc sảo, hiện thân của sự mẫn tiệp và hi vọng.

"Chuyện gì thế?" Ngài Henry và tôi đồng thanh hỏi.

Khi Holmes nhìn xuống, tôi nhận ra anh đang cố nén một cảm xúc nào đó trong lòng. Nét mặt vẫn điềm tĩnh nhưng ánh mắt lại sáng lên hiềm hân hoan thích thú.

"Xin thứ lỗi cho sự hâm mộ của một người sành sỏi", anh vừa nói vừa khoát tay về phía dãy chân dung treo kín bức tường đối diện. "Watson cứ cho là tôi chẳng biết gì về mĩ thuật nhưng chẳng qua là anh ấy ghen tị bởi quan điểm của chúng tôi về vấn đề này khác hẳn nhau. Chà, loạt tranh chân dung này quả là rất tuyệt."

"Chà, nghe ông nói thế tôi rất vui", ngài Henry vừa nói vừa nhìn bạn tôi với vẻ hơi ngạc nhiên. "Tôi không muốn làm ra vẻ sành sỏi mấy thứ này, và tôi đánh giá ngựa hay bò thì tốt hơn là nhận xét về tranh. Tôi không ngờ ông lại có thời gian cho những thứ này đấy."

"Mắt tôi thấy cái gì hay là tôi biết nó hay, và bây giờ tôi thấy cái hay ở đây. Kia là một bức của Kneller, tôi xin thề đó, cái bức vẽ giai nhân mặc áo lụa xanh đằng kia ấy, còn nhà quý tộc bệ vệ đội tóc giả này hẳn phải là một bức Reynolds. Chắc toàn là chân dung dòng họ phải không?"

"Tất cả đấy."

"Ngài có biết hết tên từng người không?"

"Barrymore đã kèm cặp tôi, và tôi nghĩ mình đã thuộc làu bài học này."

"Thế nhà quý tộc cầm kính viễn vọng là ai?"

"Đó là thiếu tướng Baskerville, đã phục vụ dưới trướng Rodney ở vùng biển Tây Ấn. Người mặc áo xanh cầm cuộn giấy là ngài William Baskerville, chủ tịch Hạ Nghị viện dưới thời Pitt."

"Còn người kị sĩ đối diện tôi đây, người mặc áo nhung đen có ren đó?"

"À, ông có quyền biết về người này. Đó chính là nguyên nhân của mọi phiền lụy, là Hugo độc ác, người khởi đầu truyền thuyết con quỷ chó của dòng họ Baskerville. Chúng ta không thể nào quên được người này."

Tôi nhìn bức chân dung ấy với vẻ chăm chú và hơi ngạc nhiên.

"Trời đất!" Holmes kêu lên. "Trông người này có vẻ hiền lành, trầm lặng quá, nhưng tôi dám nói trong đôi mắt này có nét hung ác lẩn khuất. Tôi cứ hình dung ông ta phải là một người cường tráng hơn và có vẻ lưu manh cơ chứ."

"Không phải hồ nghi về tính xác thực, vì phía sau bức tranh có ghi tên và năm 1647."

Holmes hỏi thêm về vài bức khác nhưng bức chân dung của kẻ trác táng xa xưa kia dường như mê hoặc anh vì ánh mắt Holmes cứ dán chặt vào đó suốt bữa ăn. Mãi một lúc sau, khi ngài Henry đã lui về phòng riêng, tôi mới hiểu được suy nghĩ của anh. Tay cầm cây nến để thắp trong phòng ngủ, Holmes kéo tôi quay lại phòng ăn lớn và giơ cao nguồn sáng ấy gần bức chân dung ố màu thời gian treo trên tường.

"Anh có thấy gì không?"

Tôi nhìn chiếc mũ rộng vành gắn lông chim, những lọn tóc xoăn, cái cổ áo viền ren trắng, gương mặt thẳng đơ, hà khắc ở chính giữa. Đó không phải là một diện mạo cục súc nhưng nghiêm nghị, lạnh lùng và dữ tợn, với đôi môi mỏng mím chặt và đôi mắt cố chấp, nhẫn tâm.

"Có giống người nào anh biết không?"

"Cái cằm có nét giống ngài Henry."

"Có lẽ chỉ hao hao thôi. Nhưng chờ chút!" Anh đứng lên ghế rồi tay trái cầm nến, tay phải cong lại che khuất cái mũ rộng vành và những lọn tóc xoăn dài trên bức tranh.

"Trời ơi!" Tôi thốt lên bàng hoàng, lồ lộ trên bức tranh là bộ mặt của Stapleton.

"À, giờ thì anh thấy rồi. Mắt tôi đã được rèn luyện để phân tích diện mạo chứ không bận tâm đến những vật trang sức đi kèm. Tố chất đầu tiên của một nhà điều tra tội phạm là phải biết nhìn xuyên qua lớp cải trang."

"Nhưng thật kì lạ, đây chẳng khác gì chân dung của hắn."

"Đúng, đây là một trường hợp hồi tổ lí thú, cả về nhân dạng lẫn tâm tính. Chỉ cần nghiên cứu các bức chân dung dòng họ cũng đủ khiến người ta phải tin vào thuyết đầu thai. Tên này là người của dòng họ Baskerville, hiển nhiên rồi."

"Với mưu đồ giành của thừa kế."

"Chính xác. Bức tranh này đã tình cờ cung cấp cho chúng ta một trong những mắt xích còn thiếu rành rành. Tóm được hắn rồi, Watson, chúng ta tóm được rồi, tôi dám thề là trước tối mai hắn sẽ run rẩy bất lực trong mảnh lưới của chúng ta giống như những con bướm mà hắn bắt. Một kim ghim, một nút chai, một tấm bìa ghi tên, là chúng ta có thể thêm hắn vào bộ sưu tập bướm phố Baker!"

Anh bật ra một tràng cười hiếm thấy khi bước xuống ghế. Tôi không thường nghe anh cười thành tiếng, và những lúc như thế tiếng cười ấy luôn là điềm dữ cho ai đó.

Sáng hôm sau tôi dậy sớm nhưng Holmes còn dậy sớm hơn, tôi còn đang thay đồ thì đã thấy anh từ dưới con đường chạy xe đi lên.

"À, chúng ta sẽ bận bịu cả ngày hôm nay đấy", anh vừa nói vừa xoa tay hứng khởi vì được hành động. "Lưới đã giăng sẵn, và sắp bắt đầu kéo lên được rồi. Trong vòng đêm nay chúng ta sẽ biết mình có bắt được con cá măng lớn mặt choắt đó không, hay sẽ để nó lọt lưới."

"Anh đã ra truông rồi sao?"

"Tôi đã gửi tường trình về cái chết của Selden từ Grimpen tới Princetown. Tôi có thể bảo đảm là không ai sẽ bị rắc rối vì chuyện này cả. Tôi cũng đã liên lạc với thằng bé Cartwright trung thành, chắc chắn nó sẽ héo hon gầy mòn mà chết ngay ngưỡng cửa căn nhà đá ấy như một con chó bên mộ chủ nếu như tôi không trấn an nó rằng tôi vẫn an toàn."

"Rồi sẽ làm gì kế tiếp?"

"Gặp ngài Henry. A, anh ta kìa!"

"Xin chào ông Holmes", nam tước nói. "Trông ông như một tướng lĩnh đang bày trận với tham mưu trưởng vậy."

"Tình thế đúng là vậy đó. Watson đang chờ chỉ thị."

"Tôi cũng vậy."

"Rất tốt. Theo tôi biết thì ngài đã hẹn dùng bữa với những người bạn nhà Stapleton tối nay."

"Tôi mong có ông đi cùng. Họ là những người rất hiếu khách và tôi tin chắc là được gặp ông họ sẽ rất mừng."

"E rằng Watson và tôi phải về London."

"Về London?"

"Vâng, tôi nghĩ ngay thời điểm này chúng tôi về đó sẽ được việc hơn."

Mặt nam tước dài thượt ra thấy rõ. "Tôi cứ hi vọng là ông sẽ giúp tôi lo liệu cho xong việc này. Lâu đài và truông này không phải là nơi dễ chịu khi người ta cô độc."

"Nam tước thân mến ơi, ngài phải tin tưởng tôi hoàn toàn và làm đúng những gì tôi bảo. Ngài có thể nói với những người bạn kia là lẽ ra chúng tôi đã hoan hỉ đi cùng ngài nhưng có việc cấp bách buộc chúng tôi phải về thành phố. Chúng tôi hi vọng sẽ sớm quay lại Devonshire. Ngài nhớ nhắn với họ như thế nhé?"

"Nếu ông cứ khăng khăng muốn thế."

"Không có cách nào khác, tôi cam đoan với ngài."

Nhìn đôi mày chau u ám, tôi biết nam tước tổn thương sâu sắc vì anh ta xem như chúng tôi đang trốn tránh trách nhiệm. Anh ta lạnh lùng hỏi, "Quý vị muốn đi lúc nào?"

"Ngay sau bữa điểm tâm. Chúng tôi sẽ đi xe đến Coombe Tracey nhưng Watson sẽ để đồ lại đây làm tin để ngài biết chắc là anh ấy sẽ quay lại. Watson, anh phải viết mấy lời cho Stapleton nói là rất tiếc không đến được."

"Tôi cũng rất muốn đi London cùng các ông", nam tước nói. "Tại sao tôi phải ở đây một mình chứ?"

"Bởi vì đây là trạm gác của ngài. Bởi vì ngài đã cam kết làm đúng như tôi bảo, và tôi bảo ngài ở lại đây."

"Thế thì được rồi, tôi ở lại."

"Một chỉ thị nữa! Tôi muốn ngài đi xe đến điền trang Merripit. Nhưng tới nơi thì cho xe quay về và bảo mọi người là ngài muốn đi bộ về nhà."

"Đi bộ qua truông?"

"Đúng."

"Nhưng ông vẫn căn dặn tôi đừng làm thế cơ mà."

"Lần này ngài làm thế cũng không hại gì. Nếu không hoàn toàn tin cậy vào khí phách của ngài thì tôi đã chẳng đề nghị như vậy, nhưng ngài nhất thiết phải làm đúng như thế."

"Thế thì tôi làm theo."

"Và để giữ sinh mạng, ngài đừng băng qua truông theo bất kì hướng nào ngoại trừ con đường thẳng từ điền trang Merripit tới lộ chính Grimpen, tức là đường về nhà theo lệ thường của ngài."

"Tôi sẽ làm đúng như ông dặn."

"Rất tốt. Tôi mong được lên đường càng sớm càng tốt sau bữa điểm tâm để kịp tới London vào buổi trưa."

Tôi rất sửng sốt trước chương trình này mặc dù tôi còn nhớ Holmes đã nói với Stapleton đêm trước rằng chuyến đi của anh sẽ kết thúc vào hôm sau. Nhưng tôi không ngờ Holmes lại muốn tôi về cùng mà tôi cũng chẳng hiểu tại sao cả hai lại phải vắng mặt ngay cái thời điểm anh đã tuyên bố là có tính quyết định. Tuy nhiên chẳng có cách gì ngoài phục tùng tuyệt đối, thế là chúng tôi chào từ biệt người bạn rầu rĩ kia và mấy giờ sau đã có mặt ở nhà ga Coombe Tracey và cho xe ngựa quay về đường cũ. Một thằng bé đang chờ trên sân ga.

"Ông có lệnh gì không ạ?"

"Cháu sẽ đi chuyến tàu này về thành phố, Cartwright. Đến nơi cháu lấy tên ta gửi điện tín ngay cho ngài Henry Baskerville, nói là nếu ông ấy tìm thấy cuốn sổ tay ta đã đánh rơi thì xin gửi bảo đảm về phố Baker."

"Dạ vâng."

"Bây giờ tới bưu cục nhà ga xem có điện tín gửi cho ta không."

Thằng bé quay lại với một bức điện, Holmes xem qua rồi đưa cho tôi đọc. Nội dung là: Đã nhận điện tín. Sẽ mang theo trát câu lưu. Đến ga lúc 4 giờ 40. Lestrade.

"Đây là phúc đáp bức điện tôi gửi sáng nay. Tôi cho rằng ông ta là người giỏi nhất trong đám cảnh sát, và ta có thể cần đến sự trợ giúp của người này. Còn bây giờ, Watson, tôi nghĩ tốt nhất là ta tranh thủ thời gian ghé thăm người quen của anh, bà Laura Lyons."

Kế hoạch hành động của anh đang dần dần rõ nét. Holmes sẽ sử dụng nam tước để làm cho Stapleton tin rằng hai chúng tôi đã thực sự đi rồi trong khi chúng tôi sẽ quay lại đúng vào lúc cần đến sự có mặt của mình nhất. Nếu như ngài Henry kể cho vợ chồng Stapleton nghe về bức điện gửi từ London thì ắt hẳn nó sẽ xóa tan những ngờ vực cuối cùng trong tâm trí họ. Tôi dường như đã thấy được cái lưới đang dần quây lấy con cá măng mặt choắt đó.

Bà Laura Lyons đang ở nơi làm việc và Sherlock Holmes mở đầu cuộc gặp gỡ một cách thẳng thừng khiến bà ta kinh ngạc không ít.

"Tôi đang điều tra các tình tiết liên quan đến cái chết của ngài Charles Baskerville quá cố", anh nói. "Anh bạn tôi đây, bác sĩ Watson, đã cho tôi biết những gì bà đã nói ra lẫn những gì bà còn giấu giếm trong sự việc này."

"Tôi giấu giếm gì chứ?" Bà ta hỏi với vẻ thách thức.

"Bà đã thừa nhận là có yêu cầu ngài Charles có mặt ở cánh cổng đó vào lúc 10 giờ. Chúng tôi biết đó là thời điểm và địa điểm xảy ra cái chết của ngài ấy. Bà đã giấu giếm mối liên quan giữa hai việc này."

"Chẳng có gì liên quan hết."

"Nếu thế thì sự trùng hợp ngẫu nhiên quả rất lạ thường. Nhưng tôi tin là cuối cùng chúng tôi cũng xác định được mối liên quan này. Tôi muốn hoàn toàn thẳng thắn với bà, thưa bà Lyons. Chúng tôi xem đây là vụ giết người và chứng cứ có thể liên can không chỉ đến anh bạn Stapleton của bà mà còn dính líu tới cả vợ anh ta nữa."

Người phụ nữ kia đứng phắt dậy. "Vợ anh ta!" Bà Lyons kêu lên.

"Điều đó không còn là bí mật nữa. Người được cho là cô em gái thực tế lại chính là vợ anh ta."

Bà ta đã ngồi xuống chỗ cũ. Hai bàn tay bà ghì chặt vào thành ghế và tôi thấy những móng tay hồng biến thành màu trắng vì nắm tay siết chặt.

"Vợ anh ta!" Bà lặp lại. "Vợ anh ta! Anh ta đâu có vợ!"

Sherlock Holmes nhún vai.

"Chứng minh đi! Chứng minh đi! Nếu ông chứng minh được thì...!" Ánh mắt bà ta lóe lên dữ dội còn bộc lộ nhiều hơn mọi lời nói.

"Tôi đã chuẩn bị khi đến đây", Holmes vừa nói vừa rút trong túi ra nhiều giấy tờ. "Đây là ảnh chụp cặp vợ chồng này ở York bốn năm trước. Đằng sau có ghi tên 'ông bà Vandeleur' nhưng bà sẽ dễ dàng nhận ra anh ta và cả chị ta nữa, nếu như bà đã biết mặt chị ta. Còn đây là bản bản mô tả nhân dạng của những người làm chứng đáng tin cậy về ông bà Vandeleur, vào thời đó hai người này điều hành trường tư thục St. Oliver. Bà đọc đi và xem thử còn hồ nghi gì về nhân thân của họ không?"

Bà ta đọc lướt qua rồi ngước nhìn chúng tôi với vẻ mặt lầm lì, chai đá của một người đàn bà tuyệt vọng.

"Thưa ông Holmes", bà ta nói, "người đàn ông này đã cầu hôn tôi với điều kiện là tôi phải li dị chồng. Hắn ta đã dối gạt tôi, tên khốn đó, dối gạt cả trăm phương nghìn cách. Hắn chưa nói với tôi được một lời thành thực nào cả. Nhưng tại sao, tại sao? Tôi cứ tưởng tất cả đều là vì bản thân tôi. Nhưng giờ tôi biết mình chỉ là một công cụ trong tay hắn. Tại sao tôi phải trung thành với hắn chứ, hắn có hề trung thành với tôi đâu? Tại sao tôi phải bảo vệ hắn khỏi những hậu quả mà hành vi ác độc của hắn đã gây ra chứ? Giờ ông cứ hỏi tùy ý, tôi sẽ không giấu giếm bất cứ điều gì. Chỉ có một điều tôi xin thề với ông, là khi viết lá thư ấy tôi không mảy may ngờ rằng nó sẽ phương hại gì đến quý ngài vốn là người bạn từ tâm nhất của tôi."

"Tôi tin bà hoàn toàn, thưa bà", Sherlock Holmes nói. "Phải thuật lại những sự việc đó hẳn bà rất đau lòng, và có lẽ để cho bà thấy dễ chịu hơn tôi sẽ nói những gì đã xảy ra, bà chỉ cần nói xem tôi có sai lầm ở chỗ nào không. Việc gửi bức thư đó là do Stapleton gợi ý cho bà chăng?"

"Hắn đọc cho tôi viết."

"Tôi chắc lí do hắn đưa ra là bà sẽ được ngài Charles giúp đỡ về khoản phí tổn pháp lí liên quan đến chuyện li dị của bà?"

"Đúng vậy."

"Và thế là sau khi bà đã gửi bức thư đó đi thì hắn lại can ngăn để bà thất hẹn."

"Hắn bảo chuyện đó làm tổn thương lòng tự trọng của hắn khi để người đàn ông khác giúp tiền cho một mục đích như vậy, và tuy nghèo nhưng hắn sẽ dâng tới đồng xu cuối cùng để phá bỏ những chướng ngại chia cắt giữa hắn và tôi."

"Hắn ta tỏ ra là một người rất chí khí. Và rồi bà không biết gì nữa cho tới khi đọc tin tức trên báo về cái chết đó?"

"Vâng."

"Và hắn buộc bà phải thề không được nói gì hết về cái hẹn của bà với ngài Charles?"

"Đúng vậy. Hắn bảo đó là một cái chết rất bí ẩn, và tôi chắc chắn sẽ bị tình nghi nếu sự việc lộ ra. Hắn dọa cho tôi sợ để tôi giữ im lặng."

"Hẳn rồi. Nhưng bà có nghi ngờ gì không?"

Bà ta do dự rồi cúi nhìn xuống.

"Tôi đã đoán biết", bà nói. "Nhưng nếu hắn giữ lời với tôi thì tôi cũng sẽ giữ im lặng."

"Nói chung, tôi nghĩ là bà đã may mắn thoát nạn", Sherlock Holmes nói. "Bà đã bắt thóp được hắn và hắn cũng biết, thế mà bà vẫn còn sống. Suốt mấy tháng trời bà đã mấp mé bên rìa vực thẳm. Chúng tôi phải chúc bà một buổi sáng tốt lành thôi, bà Lyons, và rất có thể sắp tới chúng tôi còn tìm đến bà nữa đấy."

"Chứng cứ vụ này đã gần đầy đủ, và bao khó khăn trước mặt chúng ta đang lần lượt được tháo gỡ", Holmes nói khi chúng tôi đứng chờ chuyến tàu tốc hành từ thành phố đến. "Tôi sẽ sớm có cơ sở để xây dựng một câu chuyện liền mạch về một trong những tội ác li kì, lạ lùng nhất thời nay. Những người nghiên cứu tội phạm học sẽ còn nhớ các tình huống tương tự ở Godno bên Tiểu Nga vào năm 1866, và tất nhiên cả những vụ sát hại nhà Anderson ở North Carolina, nhưng vụ này lại có nhiều đặc điểm hoàn toàn khác biệt. Ngay cả lúc này đây chúng ta cũng chưa hề có chứng cứ rõ ràng để buộc tội tên xảo trá đó. Nhưng tối nay trước khi đi ngủ mà mọi chuyện còn chưa sáng tỏ hết thì mới là lạ đấy."

Chuyến tàu tốc hành London đang gầm rú tiến vào ga, một người nhỏ con, rắn rỏi như một con chó bun nhảy ra khỏi toa hạng nhất. Ba chúng tôi bắt tay chào nhau và trong cung cách kính nể mà Lestrade nhìn Holmes, tôi lập tức nhận ra ông ta đã học hỏi được rất nhiều kể từ những ngày đầu hai người hợp tác. Tôi còn nhớ rõ dạo ấy con người thực tiễn này đã tỏ thái độ khinh khỉnh ra sao trước những giả thuyết của tay thám tử ưa lập luận.

"Tốt đẹp cả chứ?" Lestrade hỏi.

"Nhiều năm rồi mới có chuyện lớn thế này", Holmes nói. "Chúng ta còn hai tiếng đồng hồ mới tới lúc cần khởi sự. Tôi nghĩ chúng ta có thể tranh thủ tìm chút gì ăn chiều và sau đó, Lestrade, bọn tôi sẽ tống khứ sương mù London ra khỏi cuống họng ông bằng cách cho ông hít thở khí trời trong lành ban đêm của vùng Dartmoor... Chưa bao giờ tới đó ư? À, được, thế thì tôi nghĩ ông sẽ không quên được chuyến thăm đầu tiên này đâu."

14. Con chó của dòng họ Baskerville

Một trong những khuyết điểm của Sherlock Holmes, nếu quả thực có thể gọi là khuyết điểm, là anh rất ghét tiết lộ toàn bộ kế hoạch của mình với bất kì ai chừng nào mọi việc chưa hoàn thành. Chắc chắn điều đó phần nào là do cá tính độc đoán, thích nổi trội và gây ngạc nhiên cho người chung quanh. Mặt khác, tính cẩn trọng nghề nghiệp cũng thôi thúc anh không bao giờ phó mặc cho may rủi. Tuy nhiên, điều này lại rất khó chịu đối với những ai giúp việc cho anh. Tôi đã từng khổ sở vì lẽ đó nhưng chưa bao giờ khổ cho bằng chuyến xe lê thê trong bóng tối ngày hôm ấy. Thử thách lớn lao đang ở trước mặt; rốt cuộc chúng tôi cũng sắp đến bước chốt hạ, thế mà Holmes cũng chẳng nói gì và tôi chỉ có thể đoán mò phương hướng hành động của anh thôi. Tôi càng hồi hộp ngóng chờ khi rốt cuộc đã thấy luồng gió lạnh phả vào mặt và những khoảng trống thâm u hai bên con đường hẹp cho biết chúng tôi đã quay lại truông. Mỗi nhịp vó câu và mỗi vòng bánh xe lại đưa chúng tôi đến gần hơn cao trào mạo hiểm tột cùng.

E ngại vì có người xà ích trên cỗ xe chạy thuê cho nên chúng tôi đành nói những chuyện vặt vãnh trong khi tinh thần căng thẳng vì xúc động và hồi hộp. Sau cả chặng đường phải kiềm chế đến nỗi mất tự nhiên, tôi thấy nhẹ cả người khi cỗ xe chạy qua nhà ông già Frankland và tôi biết chúng tôi đang tiến gần tới lâu đài và nơi hành sự. Chúng tôi không cho xe chạy thẳng tới cổng vào mà xuống xe gần đó. Sau khi trả tiền cho người xà ích và bảo ông ta đánh xe về Coombe Tracey ngay, chúng tôi bắt đầu đi bộ về phía điền trang Merripit.

"Ông có mang vũ khí không, Lestrade?"

Viên thanh tra nhỏ con mỉm cười.

"Tôi mà còn mặc quần thì ắt là có túi, và đã có túi thì phải thủ sẵn cái gì trong đó chứ."

"Tốt! Anh bạn tôi và tôi cũng đã sẵn sàng cho những tình huống khẩn cấp."

"Ông rất kín miệng về vụ này đó, ông Holmes. Thế bây giờ làm gì đây?"

"Cứ chờ đợi."

"Nói thật là chỗ này coi bộ không thích thú mấy", Lestrade vừa nói vừa rùng mình nhìn quanh những triền đồi âm u và vùng sương mù bao la trùm lên bãi lầy Grimpen. "Tôi thấy nhà ai sáng đèn ở đằng trước kia."

"Đó là điền trang Merripit và đích đến của chuyến đi này. Tôi phải yêu cầu ông đi bộ thật êm và chỉ nói thầm."

Chúng tôi cẩn thận di chuyển theo đường mòn, tưởng sẽ đi thẳng đến ngôi nhà đó, nhưng khi còn cách chừng hai trăm yard thì Holmes ngăn chúng tôi lại.

"Tới đây được rồi", anh nói. "Những tảng đá phía bên phải là chỗ nấp rất kín đáo."

"Chúng ta phải chờ ở đây sao?"

"Đúng, đây sẽ là một trận địa mai phục nho nhỏ. Vào trong cái hốc này đi, Lestrade. Anh đã vào nhà đó rồi phải không, Watson? Anh có thể cho biết vị trí các phòng không? Mấy cái cửa sổ có chấn song ở đầu này là phòng nào?"

"Tôi nghĩ đó là mấy cửa sổ nhà bếp."

"Còn đằng kia, cái cửa sổ sáng rực đó?"

"Chắc chắn đó là phòng ăn."

"Các rèm cửa đều kéo lên cả. Anh biết rõ địa thế ở đây nhất. Hãy kín đáo tới đó xem họ đang làm gì, nhưng vì Chúa, đừng để họ biết là ta đang theo dõi!"

Tôi rón rén đi theo đường mòn và nấp sau bức tường thấp bao quanh vườn cây còi cọc của điền trang. Men theo bóng của bức tường, tôi lần tới một chỗ có thể nhìn thẳng vào cửa sổ không buông rèm. Trong phòng chỉ có hai người, ngài Henry và Stapleton. Họ ngồi hai bên chiếc bàn tròn, từ vị trí đang quan sát tôi chỉ nhìn thấy họ từ mặt bên. Cả hai đang hút xì gà, trước mặt là cà phê và rượu vang. Stapleton đang nói gì đó rất hăng hái nhưng nam tước trông có vẻ tái mặt và lo lắng. Chắc hẳn ý nghĩ phải một mình đi bộ qua vùng truông báo điềm dữ này đang đè nặng trong tâm trí ngài Henry.

Trong lúc tôi quan sát, Stapleton đứng dậy rời phòng, còn ngài Henry lại rót đầy li rồi ngả lưng ra ghế hút xì gà. Tôi nghe tiếng cửa cọt kẹt rồi tiếng giày lạo xạo trên sỏi. Có tiếng bước chân di chuyển theo lối đi phía bên kia bức tường tôi đang nấp. Nhìn qua tường, tôi thấy nhà tự nhiên học dừng lại trước một nhà phụ ở góc vườn. Có tiếng chìa khóa xoay trong ổ và khi hắn ta đi vào thì từ bên trong vẳng ra tiếng gì đó giằng co rất lạ. Stapleton chỉ ở bên trong chừng một phút rồi tôi lại nghe tiếng chìa khóa vặn một lần nữa và hắn đi qua chỗ tôi trở vào nhà. Tôi thấy hắn quay lại ngồi với vị khách còn tôi kín đáo trở về nơi Holmes và Lestrade đang đợi nghe những gì tôi đã thấy.

"Anh nói là không có người đàn bà kia trong phòng ư, Watson?" Holmes hỏi khi tôi báo cáo xong.

"Đúng."

"Vậy thì bà ta đâu rồi, vì mọi phòng khác đều không có ánh đèn, ngoại trừ nhà bếp?"

"Tôi không biết được bà ta ở đâu."

Tôi đã nói ở trên rằng có một màn sương trắng dày bao trùm bãi lầy Grimpen. Màn sương ấy bây giờ đang từ từ trôi về phía chúng tôi và tích tụ dần thành một lớp mịt mù buông thấp nhưng càng lúc càng dày đặc. Dưới ánh trăng, màn sương đục mờ ấy sáng lên như một thềm băng bao la, trên bề mặt nhô lên những tảng đá thực chất là đỉnh của những mỏm đồi xa xa. Holmes đang quay về hướng đó và anh làu bàu sốt ruột trong lúc theo dõi màn sương lừ đừ trôi dạt tới.

"Nó đang di chuyển về hướng chúng ta, Watson."

"Có gì nghiêm trọng chứ?"

"Rất nghiêm trọng, thực sự nghiêm trọng, điều duy nhất trên đời này có thể xáo trộn kế hoạch của tôi. Giờ thì hắn ta sắp ra tay. Đã 10 giờ rồi. Thành công của chúng ta và thậm chí sinh mạng của ngài Henry tùy thuộc vào việc nam tước phải đi ra trước khi sương mù bao phủ đường về."

Trời đêm trên đỉnh đầu trong trẻo và quang đãng. Những vì sao sáng rỡ và lạnh lẽo, trong khi nửa vành trăng tắm ánh sáng dịu chập chờn lên toàn cảnh. Trước mặt chúng tôi là khối đen thâm u của ngôi nhà, mái nhà và những ống khói tua tủa in bóng nổi bật trên nền trời dát ánh trăng bạc. Những sọc ánh sáng vàng rực từ các khung cửa sổ bên dưới hắt xuống vườn cây và truông. Một ánh đèn đột nhiên tắt ngóm. Lão gia nhân đã rời nhà bếp. Chỉ còn lại ngọn đèn trong phòng khách, nơi gã chủ nhà mưu sát và vị khách không hay biết gì vẫn còn hút xì gà tán gẫu.

Từng phút một, màn sương trắng đục đã bao trùm phân nửa truông cứ trôi dạt về phía ngôi nhà, gần thêm, gần thêm. Những dải sa mù mỏng manh đầu tiên đang lượn lờ qua những ô cửa sổ sáng đèn vàng, phần tường bao quanh vườn cây ở đầu kia đã chìm khuất trong sương và những bóng cây nổi bật trên màn hơi nước trắng đục cuồn cuộn. Trong lúc chúng tôi nhìn, những dải mù sương đã trườn quanh các góc ngôi nhà và từ từ cuộn thành mảng dày đặc chỉ còn thấy tầng trên và mái nhà bềnh bồng nhô lên như một con tàu kì dị trên mặt biển âm u. Holmes cứ nóng nảy đập tay xuống tảng đá trước mặt và giậm chân sốt ruột.

"Nếu trong mười lăm phút nữa anh ta không ra thì con đường này sẽ bị sương phủ kín. Chỉ nửa giờ nữa thôi là ta không thấy nổi bàn tay mình nữa."

"Chúng ta có nên lùi xa ra và tìm chỗ cao hơn không?"

"Đúng đó, tôi cũng nghĩ thế."

Thế là trong khi mảng sương mù kia trôi tới, chúng tôi cứ lùi lại cho tới khi cách ngôi nhà chừng nửa dặm, và biển sương trắng dày đặc dát ánh trăng bạc bên trên vẫn lan tràn chầm chậm, không ngừng.

"Chúng ta đi quá xa rồi", Holmes nói, "Không thể liều để cho nam tước bị đuổi kịp trước khi tới được chỗ chúng ta. Bằng mọi giá ta phải trụ lại đây." Anh quỳ mọp xuống và áp tai sát đất nghe ngóng. "Tạ ơn Chúa, hình như tôi đã nghe tiếng chân anh ta đang tới."

Tiếng những bước chân hối hả phá tan sự tĩnh mịch của truông. Thu mình giữa những khối đá, chúng tôi nhìn trân trân vào mảng trắng dát bạc trước mặt. Tiếng chân lớn dần và bước ra từ trong màn sương là người chúng tôi mong chờ. Ngài Henry ngơ ngác nhìn quanh khi thấy mình đi vào vùng trời đêm quang đãng sáng sao. Đoạn anh ta bước nhanh theo đường mòn, đi qua rất gần nơi cả bọn ẩn náu, rồi đi tiếp lên con dốc dài sau lưng chúng tôi. Trong lúc rảo bước, nam tước liên tục đảo mắt nhìn hai bên như một người đang hết sức lo sợ.

"Suỵt!" Holmes thốt lên và tôi nghe tiếng lên cò súng đánh cách. "Coi chừng! Nó đang tới!"

Có tiếng chạy khẽ, đều đều, khô khốc vang lên, từ đâu đó trong lòng biển sương đang cuộn tới. Màn sương chỉ còn cách chỗ chúng tôi mai phục chừng năm mươi yard và cả ba căng mắt quan sát, không biết điều khủng khiếp gì sẽ hiện ra từ giữa biển mù kia. Tôi ở kề bên Holmes và liếc nhìn anh một thoáng. Mặt anh tái nhợt nhưng hăm hở, ánh mắt sáng rực dưới trăng. Nhưng thình lình đôi mắt ấy lồi ra nhìn không chớp và miệng anh há hốc sững sờ. Cùng lúc đó Lestrade thét lên một tiếng hãi hùng và gục mặt xuống đất. Tôi đứng phắt dậy, bàn tay từ từ siết chặt súng, đầu óc tê liệt bởi cái hình thù ghê rợn từ trong màn sương âm u lao vọt về phía chúng tôi. Một con chó săn, một con chó săn khổng lồ đen như than, nhưng không phải loại mà mắt phàm từng thấy. Cái mồm há hoác tóe ra lửa, hai mắt lóe sáng gườm gườm, mõm, cổ, và ức viền ánh lửa lập lòe. Ngay cả trong cơn mê sảng, một bộ óc rối loạn cũng không tưởng nổi một cảnh tượng ghê rợn hơn, kinh khủng hơn, ma quái hơn cái hình thù hắc ám và bộ mặt khát máu đang xé màn sương lao tới.

Con vật đen ngòm to lớn kia phóng đi bằng những cú vọt dài trên đường mòn, đuổi riết theo bước chân nam tước. Quá bàng hoàng trước bóng ma hiện hình ấy, chúng tôi để cho con thú chạy qua rồi mới kịp định thần lại. Holmes và tôi đồng loạt nổ súng, con thú kia tru lên một tiếng kinh khiếp, chứng tỏ ít nhất một viên đạn đã trúng đích. Nhưng nó không dừng lại mà vẫn cứ lao vọt tới. Xa xa trên đường mòn chúng tôi thấy ngài Henry ngoái nhìn lại, mặt trắng bệch trong ánh trăng, hai tay giơ cao khiếp đảm, trố mắt bất lực nhìn con thú khủng khiếp kia đang rượt đuổi mình.

Nhưng tiếng tru đau đớn của con chó đã làm tiêu tan mọi nỗi sợ hãi của chúng tôi. Nếu nó bị thương thì nó có thể chết, và nếu chúng tôi gây thương tích cho nó được thì chúng tôi sẽ giết nó được. Trong đời tôi chưa từng thấy ai chạy nhanh như Holmes đêm đó. Tôi thường được khen là chạy nhanh nhưng vẫn bị tụt lại sau Holmes một quãng trong khi viên thanh tra nhỏ con bị tụt lại sau tôi cũng bằng chừng ấy. Khi lao theo lối mòn trước mặt, chúng tôi nghe thấy tiếng gào thét liên hồi của ngài Henry và tiếng gầm rống của con chó săn. Tôi chạy tới chỉ vừa kịp lúc chứng kiến con thú ấy nhảy chồm lên nạn nhân, xô anh ta ngã lăn xuống đất, và nhe nanh nhằm phập vào cổ họng. Nhưng cùng lúc đó, Holmes đã xả hết năm viên đạn súng lục vào mạng sườn con thú. Sau một tiếng tru hấp hối cuối cùng và một cú táp hung tợn vào không khí, con thú bật ngửa ra, bốn chân giãy giụa loạn xạ rồi buông thõng sang một bên. Tôi cúi xuống, thở hổn hển, gí khẩu súng vào cái đầu gớm ghiếc còn sáng lập lòe đó, nhưng có bóp cò cũng vô nghĩa. Con chó săn khổng lồ đã chết. Ngài Henry nằm bất tỉnh trên mặt đất. Chúng tôi giật tung cổ áo nam tước ra và Holmes thốt lên một lời tạ ơn khi thấy không có vết thương nào và ngài Henry đã được giải cứu kịp thời.

Hai mí mắt nam tước đã khẽ cựa và anh ta đang gắng gượng cử động. Lestrade nhét ve rượu nhỏ của mình vào giữa hai hàm răng ngài Henry, và hai con mắt khiếp đảm mở ra nhìn chúng tôi.

"Lạy Chúa!" Nam tước thều thào. "Chuyện gì thế? Chuyện gì thế hở trời?"

"Nó chết rồi, dù nó là cái gì đi nữa", Holmes nói. "Chúng tôi đã kết liễu vĩnh viễn con quỷ của dòng họ này."

Chỉ xét đến kích thước và sức mạnh không thôi, con vật đang nằm dài trước mặt chúng tôi đã đủ khủng khiếp rồi. Đó không phải là một con chó săn tai cụp thuần chủng, cũng không phải giống mastiff thuần chủng, mà hình như lai giữa hai giống đó - dữ tợn, man dại và đồ sộ như một con sư tử nhỏ. Ngay cả lúc này, khi đã nằm chết bất động, cái hàm khổng lồ của nó dường như vẫn còn nhễu ra ánh lửa xanh xanh và hai con mắt nhỏ, hung dữ, trũng sâu vẫn còn lửa viền quanh. Tôi quệt tay lên cái mõm chó phát sáng ấy và khi đưa tay lên, mấy đầu ngón tay tôi cũng phát sáng lờ mờ trong bóng tối.

"Có chất phốt pho", tôi nói.

"Một cách pha chế tinh vi", Holmes vừa nói vừa khịt mũi ngửi cái xác con thú. "Không có mùi gì có thể gây rối loạn khả năng đánh hơi của con chó. Chúng tôi hết sức xin lỗi ngài, thưa ngài Henry, vì đã đặt ngài vào tình cảnh đáng sợ này. Tôi đã dự liệu sẽ gặp một con chó nhưng đâu ngờ lại gặp một sinh vật thế này. Vả lại sương mù đã khiến chúng tôi không có nhiều thời gian ngăn chặn nó."

"Ông đã cứu mạng tôi."

"Sau khi đã đẩy ngài vào nguy hiểm. Ngài còn sức đứng dậy không?"

"Cho tôi thêm một ngụm rượu mạnh nữa thì tôi làm gì cũng được... Thế! Rồi, nhờ ông đỡ tôi ngồi dậy. Bây giờ ông định làm gì?"

"Để ngài lại đây. Tối nay ngài không còn sức mạo hiểm nữa đâu. Nếu ngài chịu khó chờ, một người trong chúng tôi sẽ đi cùng ngài về lâu đài."

Ngài Henry gượng đứng lên nhưng mặt vẫn còn tái nhợt như xác chết và tay chân run lẩy bẩy. Chúng tôi dìu nam tước đến một tảng đá và anh ta ngồi đó rùng mình, vùi mặt vào hai lòng bàn tay.

"Bây giờ chúng ta phải đi thôi", Holmes nói. "Phải giải quyết những việc còn lại và từng giây từng phút đều quan trọng. Chúng ta đã có bằng chứng rồi, bây giờ chỉ cần bắt thủ phạm."

"Tôi cá một ngàn ăn một là không tìm thấy hắn ở trong nhà đó đâu", ngài Henry nói khi chúng tôi quay lại đường cũ. "Mấy phát súng đó nhất định đã báo cho hắn biết mưu đồ đã hỏng."

"Chúng ta ở khá xa, và màn sương mù có thể đã hãm bớt tiếng nổ."

"Hắn phải đi theo để gọi con chó về, các ông cứ tin chắc vậy đi. Không, giờ này thì hắn biến rồi! Nhưng cứ lục soát khắp nhà cho chắc ăn."

Cửa chính đã mở toang, thế là cả ba lao vào và hấp tấp đi từ phòng này sang phòng khác trước sự kinh ngạc của lão gia nhân run rẩy đã chạm trán chúng tôi trong hành lang. Không có phòng nào sáng đèn ngoại trừ phòng ăn nhưng Holmes vớ lấy ngọn đèn và tìm kiếm khắp nhà không chừa chỗ nào. Chẳng hề thấy bóng dáng kẻ chúng tôi đang truy lùng đâu cả. Nhưng ở tầng trên, một trong các phòng ngủ bị khóa cửa.

"Có người ở trong", Lestrade kêu lên. "Tôi nghe thấy tiếng xê dịch. Mở cánh cửa này ra!"

Một tiếng rên rỉ, loạt xoạt khe khẽ từ trong vẳng ra. Holmes co chân đạp thẳng vào cửa ngay trên ổ khóa và cánh cửa bật mở. Súng trong tay, cả ba chúng tôi xông vào. Nhưng bên trong không hề có dấu hiệu gì của tên hung thủ cùng đường lì lợm mà chúng tôi tưởng sẽ thấy. Thay vào đó, chúng tôi đối mặt với một vật thể kì lạ và bất ngờ tới mức chỉ biết đứng lặng trố mắt nhìn hồi lâu.

Gian phòng này đã được bài trí lại thành một bảo tàng nho nhỏ, bốn bức tường xếp hàng dài những hộp lắp mặt kính chứa đầy các bộ sưu tập bướm đủ loại theo hệ thống vốn là thú vui của kẻ nguy hiểm và tinh vi này. Ngay giữa phòng có một cột chống có lẽ đã được chèn thêm vào để đỡ thanh rầm bằng gỗ cũ kĩ, đã bị mọt ăn chạy suốt chiều dài mái nhà. Có ai đó bị trói vào cây cột này, bị bịt miệng, toàn thân quấn chặt trong mấy lớp chăn kín mít tới mức không thể nhận ra ngay đó là đàn ông hay đàn bà. Một chiếc khăn tắm quấn quanh cổ người đó và buộc chặt ra sau cột nhà. Một chiếc khăn khác che kín phần dưới mặt chỉ để lộ ra hai con mắt đen - đôi mắt đầy đau khổ, tủi nhục và một mối hoài nghi chán nản - đang trân trối nhìn chúng tôi. Ngay sau đó chúng tôi tháo khăn bịt miệng, gỡ hết dây trói, và bà Stapleton ngã khuỵu xuống sàn trước mắt chúng tôi. Khi mái đầu kiều diễm của bà gục xuống ngực, tôi nhìn thấy một lằn roi quất đỏ bầm trên cổ.

"Đồ súc sinh!" Holmes kêu lên. "Này, Lestrade, chai rượu đâu! Đỡ bà ta lên ghế! Bà ta đã ngất đi vì bị ngược đãi và kiệt quệ."

Bà ta lại mở mắt ra.

"Ông ấy an toàn chứ?" Bà ta hỏi, "ông ấy có thoát được không?"

"Hắn không thoát khỏi tay chúng tôi đâu, thưa bà."

"Không, không, tôi không hỏi về chồng tôi. Ngài Henry đó? Ông ấy an toàn chứ?"

"An toàn."

"Còn con chó?"

"Chết rồi."

Bà ta thở hắt ra một hơi dài toại nguyện.

"Tạ ơn Chúa! Tạ ơn Chúa! Ôi, tên tàn bạo đó! Xem hắn đối xử với tôi thế này đây!" Bà ta kéo tay áo, chìa hai cánh tay ra và chúng tôi kinh hãi khi thấy toàn những vết thâm tím. "Nhưng không sao cả, không sao! Hắn chỉ muốn hành hạ và áp bức tinh thần tôi thôi. Tôi chịu đựng được hết, dù bị ngược đãi, cô độc, dù sống cả đời dối gạt, miễn là tôi có thể bấu víu vào hi vọng có được tình yêu của hắn, nhưng bây giờ thì tôi biết ngay cả trên phương diện đó, tôi cũng chỉ là kẻ bị hắn lừa bịp và lợi dụng." Bà ta vừa nói vừa bật khóc nức nở.

"Bà không việc gì phải đối xử tốt với hắn, thưa bà", Holmes nói. "Hãy cho tôi biết phải tìm hắn ở đâu. Nếu như bà từng giúp hắn làm chuyện ác thì bây giờ hãy giúp chúng tôi để chuộc lỗi."

"Chỉ có một nơi duy nhất hắn có thể lẩn trốn", bà ta đáp. "Đó là mỏ thiếc cũ trên cù lao ngay giữa bãi lầy. Đó chính là nơi hắn nhốt con chó săn và cũng là nơi hắn đã chuẩn bị trước để làm chỗ ẩn náu khi cần. Chắc chắn hắn phải chạy ra đó."

Màn sương mù trắng đục dâng kín ô cửa sổ. Holmes đưa ngọn đèn lại gần. "Nhìn đi", anh nói. "Đêm nay không ai có thể theo dấu hắn vào bãi lầy Grimpen được đâu."

Bà ta bật cười rồi vỗ tay. Đôi mắt và hàm răng sáng ngời lên vẻ mừng vui hoang dại. "Hắn có thể tìm đường vào nhưng không bao giờ ra được", bà ta nói to. "Làm sao hắn nhìn thấy được các cọc chỉ đường trong đêm nay chứ? Hắn và tôi, chúng tôi đã cùng cắm mốc, đánh dấu cái lối nhỏ xuyên qua bãi lầy đó. Ôi, giá như hôm nay tôi có thể nhổ hết những cái cọc ấy. Được thế thì các ông đã nắm toàn quyền sinh sát đối với hắn rồi."

Chúng tôi thấy rõ chừng nào sương mù chưa tan thì mọi cuộc truy đuổi đều vô ích. Tạm thời để Lestrade đóng tại ngôi nhà này, Holmes và tôi quay lại với nam tước để cùng về lâu đài Baskerville. Chúng tôi không thể giấu ngài Henry chuyện vợ chồng Stapleton nữa, nhưng khi biết sự thật về người phụ nữ mình đã trót yêu thương, nam tước đã dũng cảm chấp nhận nghịch cảnh. Tuy nhiên, cú sốc sau một đêm đầy mạo hiểm đã khiến ngài Henry suy nhược thần kinh và trời chưa kịp sáng thì nam tước đã nằm mê sảng trong cơn sốt cao, phải nhờ đến bác sĩ Mortimer chăm sóc. Hai người đã trù tính sẽ cùng nhau du lịch vòng quanh thế giới cho đến khi nào ngài Henry lấy lại phong độ khỏe mạnh, sôi nổi vốn có trước khi trở thành chủ nhân của dinh cơ đen đủi này.

Tôi xin kể nhanh phần kết của câu chuyện kì lạ mà tôi đã gắng thuật lại sao cho độc giả hình dung được những nỗi sợ hãi đen tối cùng những ước đoán mông lung đã bao trùm cuộc sống của chúng tôi suốt bao lâu và kết thúc một cách vô cùng bi thảm. Buổi sáng sau khi con chó săn đã chết, sương mù tan biến và bà Stapleton dẫn chúng tôi đến nơi vợ chồng họ đã tìm ra lối đi xuyên bãi lầy. Nhìn thấy sự hăm hở và vui mừng của bà ta khi đưa chúng tôi lần theo dấu vết người chồng, có thể nhận ra nỗi kinh hoàng mà người đàn bà này đã phải chịu. Chúng tôi để bà ta đứng lại trên doi đất than bùn rắn chắc đâm ra bãi lầy trải rộng. Từ cuối doi đất, những cọc nhỏ cắm rải rác đánh dấu một lối đi ngoằn ngoèo từ bụi cây này sang bụi cây khác giữa những hố nước nổi váng bọt xanh lục và những bãi sình hôi thối ngăn bước kẻ lạ. Lau sậy hôi tanh và những loài cây thủy sinh nhẫy nhớt, um tùm bốc mùi thối rữa nồng nặc và phả lên mặt chúng tôi một màn chướng khí nặng nề, chỉ cần một bước sảy chân là chúng tôi có thể bị lún sâu đến tận đùi trong bãi lầy tròng trành, đen đúa, khe khẽ gợn thành những đợt sóng tỏa lan ra nhiều yard quanh bàn chân chúng tôi. Bãi lầy tóm riết lấy bàn chân chúng tôi, và khi lỡ bước ngập trong sình thì tưởng chừng như có một bàn tay hiểm độc cố ý kéo chúng tôi lún xuống lớp bùn sâu bẩn thỉu. Chỉ có một lần chúng tôi thấy được một dấu vết cho biết trước đó đã có người đi qua con đường hiểm nghèo này. Từ giữa một bụi cói bỗng ngoi lên trên mặt sình lầy một vật đen đen. Bùn ngập tới hông Holmes khi anh bước tách khỏi đường đi để tóm lấy vật đó, và nếu không có chúng tôi ở lại để kéo anh lên thì có lẽ không bao giờ anh có thể đặt chân trở lại nền đất cứng được nữa. Anh giơ lên cao một chiếc ghệt cũ kĩ màu đen. Mặt da phía trong có in chữ: 'Meyers, Toronto'.

"Cũng đáng để tắm bùn đấy chứ", anh nói. "Đây là chiếc ghệt thất lạc của ngài Henry."

"Stapleton đã vứt ở đây khi hắn chạy trốn."

"Chính xác. Hắn vẫn cầm chiếc ghệt này trong tay sau khi cho con chó săn ngửi để đánh hơi theo dấu. Hắn chạy trốn khi biết mưu đồ đã hỏng, tay vẫn còn cầm chiếc ghệt. Và trên đường chạy trốn hắn đã quẳng nó đi ngay chỗ này. Chúng ta biết được là ít nhất tới đây hắn vẫn an toàn."

Nhưng ngoài ra chúng tôi không biết chắc được gì hơn, tuy có thể phỏng đoán phần nhiều. Không có cơ hội tìm ra dấu chân trên bãi lầy vì bùn sình dâng lên nhanh chóng xóa tan mọi vết tích, nhưng cuối cùng, khi chúng tôi tới được phần đất rắn chắc hơn bên kia bãi lầy thì mọi người đều hăm hở tìm kiếm. Không hề thấy bất cứ dấu chân nào dù là mờ nhạt nhất. Nếu mặt đất này nói lên sự thật thì Stapleton đã không tới được hòn đảo ẩn náu cho dù đêm trước hắn đã gắng sức tìm đến đó trong màn sương. Đâu đó giữa lòng bãi lầy Grimpen, nằm sâu dưới lớp bùn sình hôi thối của bãi lầy khổng lồ, kẻ tàn ác nhẫn tâm này đã bị chôn vùi vĩnh viễn.

Trên cù lao giữa bãi lầy, chúng tôi tìm thấy nhiều vết tích nơi hắn nhốt con thú đồng lõa. Một bánh xe động lực khổng lồ và hầm lò bị rác rưởi phủ lấp một phần cho biết vị trí của một khu mỏ hoang phế. Cạnh đó là tàn tích đổ nát của những túp lều thợ mỏ, những người chắc chắn đã phải bỏ đi vì mùi hôi thối của bãi lầy bao quanh. Trong một túp lều có một bộ xích cùng nhiều xương xẩu bị gặm mòn cho biết nơi nhốt con chó săn. Nằm trong đám đổ nát ấy là một bộ xương còn dính một mảng lông rối màu nâu.

"Bộ xương chó!" Holmes nói. "Lạy Chúa, một con chó spaniel lông xoăn. Tội nghiệp Mortimer sẽ không bao giờ gặp lại con chó cưng của mình nữa. Chà, tôi không rõ nơi này còn chứa đựng bí mật gì mà chúng ta chưa tìm hiểu chăng. Hắn có thể giấu con chó săn, nhưng hắn không thể bắt nó im tiếng, và vì thế mà ngay cả ban ngày cũng nghe được những tiếng tru dễ sợ kia. Khi cấp bách hắn có thể nhốt con chó trong nhà phụ ở Merripit, nhưng làm thế luôn luôn rủi ro, và đúng đến cái ngày hắn quyết định sẽ hoàn tất mọi âm mưu thì hắn mới nhốt chó ở đó. Chất bột nhão trong hộp thiếc này chắc chắn là hỗn hợp phát sáng mà hắn dùng để bôi phết lên con thú đó. Tất nhiên là hắn nảy ra ý tưởng làm thế dựa trên truyền thuyết con quỷ chó của dòng họ, nhằm làm cho ngài Charles kinh hãi mà chết. Thảo nào tên tù khốn nạn kia vừa chạy vừa gào thét, ngay cả ông bạn nam tước cũng vậy, và chính chúng ta đây nếu ở vào tình huống tương tự hẳn cũng như thế, khi nhìn thấy một con thú kinh khủng nhường ấy lao qua truông trong bóng tối đuổi theo mình. Quả là một mưu kế quỷ quyệt, bởi vì ngoài khả năng đẩy nạn nhân tới chỗ chết, liệu có người nông dân nào dám liều mạng tìm hiểu khi nhìn thấy một cảnh tượng như thế giữa truông, đúng như nhiều người đã gặp? Tôi đã nói ở London rồi, Watson, và bây giờ tôi lặp lại ở đây, rằng chưa bao giờ chúng ta góp sức truy bắt kẻ nào nguy hiểm như kẻ đang nằm dưới sâu kia." Anh vung cánh tay dài về phía bãi lầy khổng lồ loang lổ những mảng màu xanh lục rộng tít tắp đến khi hòa lẫn vào những triền đồi nâu đỏ của truông.

15. Hồi tưởng

Một đêm sương giá cuối tháng 11, Holmes và tôi ngồi hai bên lò sưởi cháy rực trong phòng khách ở phố Baker. Kể từ sau kết cục bi đát của chuyến đi Devonshire, anh đã bận rộn với hai vụ hết sức quan trọng. Trong vụ thứ nhất anh đã vạch trần hành vi đồi bại của đại tá Upwood liên quan đến chuyện bài bạc tai tiếng chấn động ở Câu lạc bộ Nonpareil. Còn trong vụ thứ hai anh đã minh oan cho quý bà Montpensier người Pháp thoát khỏi nguy cơ bị khép tội sát nhân vì có liên quan đến cái chết của con riêng của chồng là quý cô Carere, người ta còn nhớ là sáu tháng sau đó, cô gái này được phát hiện vẫn còn sống và đã lấy chồng ở New York. Holmes đang vô cùng phấn chấn vì đã gặt hái thành công liên tiếp trong hàng loạt vụ án khó khăn và quan trọng, cho nên tôi dễ dàng khơi gợi cho anh nói đến các chi tiết bí ẩn của vụ Baskerville.

Tôi đã nhẫn nại chờ đợi cơ hội này vì tôi hiểu anh sẽ không đời nào cho phép các vụ việc chồng chéo lên nhau, và bộ óc suy luận rạch ròi của anh không được sao nhãng công việc hiện tại để nghiền ngẫm những kí ức đã qua. Tuy nhiên, ngài Henry và bác sĩ Mortimer đã đến London trên đường du lịch dài ngày nhằm cải thiện tình trạng suy nhược thần kinh của nam tước. Họ vừa đến thăm chúng tôi chiều hôm đó cho nên gợi lại đề tài này âu cũng là lẽ tự nhiên.

"Từ góc nhìn của kẻ tự xưng là Stapleton, toàn bộ diễn biến vụ này vốn đơn giản và rõ ràng", Holmes nói, "nhưng đối với những người không biết được động cơ của hắn ngay từ đầu mà chỉ biết một phần sự thật, thì mọi việc đúng là hết sức phức tạp. Tôi có thuận lợi được nói chuyện hai lần với bà Stapleton nên bây giờ vụ này sáng tỏ tới mức không còn gì bí mật đối với chúng ta nữa. Anh sẽ thấy vài ghi chép của tôi ở mục B trong hệ thống danh mục vụ án."

"Chắc anh cũng vui lòng cho tôi biết sơ qua trình tự diễn biến theo trí nhớ chứ?"

"Hẳn rồi, nhưng tôi không bảo đảm là nhớ hết mọi chi tiết trong đầu. Điều kì lạ là khi tập trung trí óc cao độ thì những chuyện gì đã qua đều bị xóa sạch. Trong quá trình biện hộ, luật sư có thể tranh cãi tay đôi về một lĩnh vực nào đó với một chuyên gia nhưng chỉ một, hai tuần sau khi xét xử ở tòa là anh ta sẽ quên hết các chi tiết. Cho nên các vụ án tôi giải quyết cứ tuần tự thay thế nhau, và vụ quý cô Carere đã xóa nhòa những hồi ức về vụ lâu đài Baskerville. Ngày mai tôi sẽ lại tiếp nhận một vụ nho nhỏ nào đó và nó sẽ trục xuất luôn cả quý cô người Pháp lẫn tên Upwood tai tiếng ra khỏi trí nhớ. Nhưng về vụ con chó, tôi sẽ cố trình bày với anh diễn biến chính xác hết mức có thể, và nếu như tôi có lỡ quên chi tiết nào thì anh có thể nhắc lại.

Kết quả điều tra của tôi cho thấy rõ ràng là những bức chân dung dòng họ không biết dối trá, và tên này quả đúng là người dòng tộc Baskerville. Hắn là con của Rodger Baskerville, em trai ngài Charles, người em đã trốn sang Nam Mỹ đế tránh tiếng xấu và ai cũng cho là sống độc thân cho tới chết. Thực ra người này đã lập gia đình và có độc một đứa con, chính là kẻ hung ác đó, và họ thật của hắn cũng chính là họ của cha mình. Hắn đã thành hôn với cô Beryl Garcia, một kiều nữ ở Costa Rica, và sau khi đã biển thủ một khoản tiền công khố đáng kể, hắn đổi tên thành Vandeieur rồi tẩu thoát sang Anh quốc, và mở một trường tư thục ở phía đông Yorkshire. Hắn ta thử sức trong lĩnh vực làm ăn này là vì tình cờ quen được một giáo viên mắc bệnh lao trong chuyến hải hành về quê hương, và hắn ta đã lợi dụng năng lực của người này để mở trường. Thế nhưng Fraser, tức người giáo viên nọ, qua đời và ngôi trường tuy đã khởi đầu tốt đẹp mau chóng rơi vào tình trạng tai tiếng và cuối cùng phải đóng cửa. Vợ chồng Vandeleur thấy tốt nhất là nên đổi tên thành Stapleton và hắn ta mang phần tài sản còn lại cùng các kế hoạch tương lai và sở thích côn trùng học về miền nam Anh quốc. Khi tới Bảo tàng Anh quốc, tôi biết hắn là một chuyên gia được công nhận về lĩnh vực này, và cái tên Vandeleur đã mãi mãi gắn liền với một loại bướm đêm mà hắn là người đầu tiên phát hiện và mô tả thời còn ở Yorkshire.

Bây giờ chúng ta sẽ đề cập tới quãng đời của hắn đã khiến chúng ta hao tổn biết bao tâm trí. Tên này hiển nhiên đã tìm hiểu và biết rằng chỉ có hai mạng người cản trở hắn giành món tài sản to tát kia. Khi hắn về Devonshire, tôi cho là kế hoạch của hắn còn hết sức mù mờ, nhưng ngay từ đầu hắn đã có ý đồ xấu xa, lộ rõ qua việc hắn cho vợ giả làm em gái. Rõ ràng hắn đã có ý định dùng vợ làm mồi nhử mặc dù lúc đó có thể hắn vẫn chưa biết chắc phải bày mưu tính kế cụ thể ra sao. Mục đích của hắn là chiếm tài sản và hắn sẵn sàng dùng mọi công cụ hay chấp nhận mọi mạo hiểm để đạt mục đích. Hành động đầu tiên là định cư càng gần ngôi nhà của tổ tiên càng tốt, và thứ hai là vun vén mối thân tình với ngài Charles Baskerville cùng các láng giềng. Chính vị nam tước già ấy đã cho hắn biết truyền thuyết quỷ chó của dòng họ và thế là tự dọn sẵn đường chết cho mình. Còn Stapleton, từ giờ tôi sẽ gọi hắn bằng cái tên đó, hắn biết ông già đau tim nặng và chỉ cần kinh hoảng cũng đủ chết. Đa phần những điều hắn biết là qua bác sĩ Mortimer. Hắn cũng nghe nói là ngài Charles vốn mê tín và rất coi trọng truyền thuyết ác nghiệt kia. Đầu óc mưu mô của hắn lập tức nảy ra cách đẩy ông nam tước vào chỗ chết nhưng lại khiến người ta khó lòng truy ra kẻ sát nhân đích thực

Nghĩ ra ý tưởng đó rồi, Stapleton tiến hành với sự tinh vi đáng nể. Một kẻ mưu mô bình thường ắt đã bằng lòng ra tay với một con chó săn man rợ. Việc dùng phương tiện nhân tạo để biến con thú ấy thành ma quỷ là một sáng kiến thiên tài của hắn. Stapleton mua con chó đó ở London từ hãng buôn Ross & Mangies ở đường Fulham. Đó là con chó khỏe nhất, hung dữ nhất của mấy tay buôn này. Hắn mang con chó theo chuyến tàu North Devon và đi bộ một quãng đường xa qua truông để trở về mà không gây chú ý. Trong những chuyến săn côn trùng, hắn đã biết đường đi xuyên bãi lầy Grimpen và vì thế đã tìm được chỗ ẩn náu an toàn cho con thú. Tại đó, hắn nhốt chó vào cũi rồi chờ thời cơ. Nhưng thời cơ còn lâu mới đến. Không thể nào dụ dỗ ông già quý tộc đó ra khỏi nhà vào ban đêm. Nhiều lần Stapleton đã ẩn nấp quanh đó cùng con chó săn nhưng chỉ uổng công. Chính trong những lần truy lùng thất bại ấy thì hắn, hay đúng hơn là đồng phạm của hắn, đã bị mấy nông dân bắt gặp và thế là cái truyền thuyết về con quỷ chó lại càng được củng cố. Stapleton đã hi vọng vợ hắn có thể dụ dỗ ngài Charles vào chỗ chết nhưng bà ta đột nhiên tỏ ra bất phục tùng. Bà ta không muốn lôi kéo ông già quý tộc kia vào chuyện luyến ái để nộp mạng ông cho kẻ thù địch kia. Những lời đe dọa, và rất tiếc phải nói là cả những cú đấm, cũng không thể lay chuyển người vợ. Bà ta một mực không chịu tham dự vào việc đó và suốt một thời gian dài mưu đồ của Stapleton lâm vào bế tắc.

Trong hoàn cảnh nan giải, Stapleton tình cờ tìm ra lối thoát khi ngài Charles, người đã có tình thân với hắn, nhờ hắn làm đại diện cho một việc từ thiện của ông liên quan đến người đàn bà bất hạnh Laura Lyons. Bằng cách đóng vai một người đàn ông độc thân, Stapleton dễ dàng chi phối bà Lyons hoàn toàn và khiến bà này tin rằng nếu bà được tòa cho li dị chồng thì hắn sẽ cưới bà ta. Những trù hoạch của Stapleton đột nhiên gặp khó khăn khi hắn biết ngài Charles sắp rời khỏi lâu đài theo lời khuyên của bác sĩ Mortimer, tuy hắn buộc phải giả vờ đồng tình. Stapleton phải hành động tức khắc kẻo nạn nhân thoát khỏi tầm kiểm soát của hắn. Vì thế hắn ép bà Lyons viết bức thư đó, van nài ông già cho gặp mặt vào buổi tối trước khi lên đường đi London. Sau đó, bằng mồm mép, Stapleton đã ngăn bà ta đến chỗ hẹn để hắn có được cái cơ hội chờ đợi bấy lâu.

Từ Coombe Tracey đi xe ngựa về, hắn kịp thời đưa con chó săn ra, phết phốt pho lên mình con thú, và đưa nó đến gần cánh cổng nơi hắn dự kiến sẽ gặp ông già đang chờ đợi. Được chủ ra hiệu, con chó nhảy vọt qua cổng rào và đuổi theo vị nam tước bất hạnh, còn ông già thì vừa chạy vừa la hét trên con đường thủy tùng. Trên lối đi cây phủ âm u đó mà thấy một con thú khổng lồ đen ngòm, mõm rực cháy, mắt tóe lửa, lao theo nạn nhân, thì đúng là một cảnh tượng kinh khiếp. Ông già gục chết ở cuối con đường vì đau tim và khiếp đảm. Con chó săn chỉ chạy trên bờ cỏ trong khi nam tước chạy dưới đường nên người ta chỉ thấy dấu chân ông già. Khi thấy ông già nằm im, con chó có lẽ đã đến gần đánh hơi nhưng thấy ông đã chết thì lại bỏ đi. Chính lúc đó nó đã để lại dấu chân mà bác sĩ Mortimer đã nhìn thấy. Con chó săn được chủ gọi và nhanh chóng trở về hang ổ ở bãi lầy Grimpen, để lại một bí mật làm nhà chức trách hoang mang, cả vùng quê sợ hãi, và cuối cùng đưa vụ này vào tầm ngắm của chúng ta.

Cái chết của ngài Charles Baskerville là thế đấy. Đúng là hết sức nham hiểm vì hầu như không thể có chứng cứ buộc tội kẻ sát nhân đích thực. Đồng phạm duy nhất của hắn là một con vật không bao giờ tố cáo hắn được, còn tính chất khó hiểu, kì dị của sự việc chỉ càng làm cho âm mưu này thêm hữu hiệu. Chỉ có cả hai người đàn bà liên quan đến vụ này, bà Stapleton và bà Laura Lyons, nghi ngờ hắn mà thôi. Bà Stapleton biết chồng mình có mưu đồ nhằm vào ông già và cũng biết sự tồn tại của con chó săn. Bà Lyons chẳng hề biết mấy chuyện đó, nhưng lại nhớ rất rõ là cái chết xảy ra đúng thời điểm cuộc hẹn gặp đã bị hủy bỏ mà chỉ có Stapleton biết việc này. Tuy nhiên, cả hai người đàn bà đều bị hắn chi phối và hắn chẳng có gì phải lo sợ về họ. Mục đích của hắn đã thực hiện thành công một nửa, nhưng phần còn lại còn khó khăn hơn.

Có khả năng là lúc đầu Stapleton không hay biết có một người thừa kế ở Canada. Tuy vậy, hắn nhanh chóng biết được qua người bạn là bác sĩ Mortimer, và hắn đã nghe ông bác sĩ cho biết hết mọi chi tiết về lịch trình của Henry Baskerville. Ý tưởng đầu tiên của Stapleton là có thể cho anh chàng xa lạ từ Canada này chết luôn tại London chứ không chờ đến khi về tới Devonshire. Stapleton không còn tin vợ mình kể từ khi bà ta không chịu giúp hắn gài bẫy ông già, và Stapleton cũng không dám để vợ lọt ra ngoài tầm mắt quá lâu vì sợ là sẽ không còn chi phối được bà ta nữa. Chính vì thế hắn đưa vợ cùng đi London. Tôi tìm ra chỗ hai vợ chồng đã trọ là khách sạn Mexborough trên phố Craven, thực tế đó là một trong những nơi tôi đã cho người đến tìm chứng cứ. Tại đây Stapleton nhốt vợ trong phòng còn hắn đeo râu cải trang theo dõi bác sĩ Mortimer đến phố Baker và sau đó ra ga rồi tới khách sạn Northumberland. Người vợ đã lờ mờ đoán được kế hoạch của chồng nhưng bà ta lại rất sợ hắn, nỗi sợ thành hình do bị ngược đãi, sợ tới mức không dám viết thư cảnh báo cho người mà bà biết là đang lâm nguy. Nếu lá thư ấy rơi vào tay Stapleton thì cả tính mạng của bà ta cũng khó bảo toàn. Rốt cuộc, như đã biết, bà ta dùng cách cắt những từ thích hợp trong nhật báo ra để ghép thành lời nhắn và ghi địa chỉ trên phong bì bằng nét chữ giả. Thư đến tay ngài Henry và là lần đầu nam tước được cảnh báo về nguy cơ đang đe dọa.

Stapleton bắt buộc phải có được một món nào đó trong số trang phục của ngài Henry để trong trường hợp phải dùng đến con chó thì hắn luôn có phương tiện cho nó đánh hơi truy tìm. Với tính nhanh nhạy và táo bạo điển hình, hắn tiến hành ngay, và ta có thể tin chắc rằng một tên bồi đánh giày hay cô hầu phòng khách sạn đã được đút lót hậu hĩnh để giúp hắn trong mưu mô này. Nhưng tình cờ là chiếc ghệt đầu tiên lấy cắp cho Stapleton lại là chiếc mới tinh nên chẳng có ích gì cho ý đồ của hắn. Sau đó hắn cho người trả lại chiếc ghệt đó và lấy chiếc khác, đó là tình tiết gợi ý cho tôi nhiều nhất, nó chứng minh một cách thuyết phục rằng chúng ta đang đương đầu với một con chó săn thực sự, và không một giả thuyết nào khác có thể lí giải vì sao kẻ này nôn nóng lấy chiếc ghệt cũ mà lại dửng dưng với chiếc ghệt mới như vậy. Tình tiết càng kì quặc thì lại càng đáng xem xét kĩ, và có khi một chi tiết tưởng chừng làm vấn đề thêm rối rắm lại là mấu chốt giải thích mọi chuyện khi được cân nhắc thích đáng và xử lí một cách khoa học.

Sáng hôm sau hai ông bạn kia đến chỗ chúng ta, họ luôn luôn bị Stapleton ngồi trên xe ngựa theo dõi. Vì Stapleton biết rõ nơi chúng ta ở và nhân dạng của tôi, và xét theo lối hành xử nói chung của hắn, tôi thiên về nhận định rằng tiền sử phạm tội của Stapleton không chỉ giới hạn trong một vụ Baskerville thôi đâu. Hắn khiến tôi nhớ là trong vòng ba năm qua đã có bốn vụ trộm lớn ở miền tây nhưng không vụ nào bắt được tội phạm. Vụ cuối cùng ở lữ quán Folkestone vào tháng 5 nổi tiếng vì người bồi phòng ở đó bị giết hại nhẫn tâm bằng súng lục khi thình lình bắt gặp tên đạo chích bịt mặt lẻ loi ấy. Tôi ngờ rằng Stapleton đã bù đắp nguồn tài chính hao mòn của mình bằng cách đó, và hắn đã là một kẻ nguy hiểm liều lĩnh nhiều năm rồi. Chúng ta đã có minh chứng cho tài ứng biến cực kì ranh ma của Stapleton vào buổi sáng mà hắn chạy thoát chúng ta rất dễ dàng, và sự táo gan của hắn khi mạo xưng danh tính của tôi với người xà ích. Kể từ lúc đó, hắn biết tôi đã đảm trách vụ này ở London và vì thế không còn cơ hội gì cho hắn ở đây nữa. Hắn quay về Dartmoor chờ nam tước trở về."

"Khoan đã!" Tôi lên tiếng. "Chắc chắn anh đã kể lại chính xác diễn biến sự việc, nhưng có một điểm anh lại không giải thích. Còn con chó săn khi chủ nó đi London thì sao?"

"Tôi có quan tâm đến chuyện đó và tất nhiên điều này là quan trọng. Nhất định Stapleton phải có người tin cẩn nào đó, mặc dù hắn không thể tiết lộ kế hoạch để cho người đó bắt thóp được mình, ở điền trang Merripit có một lão gia nhân tên là Anthony. Mối quan hệ giữa lão với nhà Stapleton có thể truy ngược về trước nhiều năm, từ cái thời mở trường tư thục, do đó lão ta hẳn phải biết ông bà chủ của lão thật ra là vợ chồng. Lão ta đã biến mất và đào tẩu khỏi Anh quốc. Ngay tên Anthony cũng là một cái tên ít thông dụng ở xứ này, trong khi Antonio lại là cái tên phổ biến ở tất cả các nước nói tiếng Tây Ban Nha hay các nước thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ. Người này, giống như chính bà Stapleton, nói tiếng Anh giỏi nhưng giọng hơi lơ lớ nghe rất lạ. Chính tôi đã nhìn thấy lão ta băng qua bãi lầy Grimpen theo con đường Stapleton đã đánh dấu. Do đó rất có khả năng là khi chủ nhân đi vắng, chính lão ta chăm lo cho con chó săn, mặc dù có thể lão chẳng hề biết mục đích nuôi con vật ấy là gì.

Sau đó vợ chồng Stapleton quay về Devonshire, rồi ngài Henry và anh cũng về. Nhân đây cũng nói thêm về suy nghĩ của tôi lúc đó. Chắc anh còn nhớ khi tôi xem xét tờ giấy có dòng chữ cắt dán từ nhật báo, tôi đã kiểm tra thật kĩ để tìm các dấu in chìm. Lúc đó tôi giơ tờ giấy lên thật gần, chỉ cách mắt chừng vài inch và nhận ra mùi nước hoa phảng phất hương nhài trắng. Có bảy mươi lăm loại mùi nước hoa và một chuyên gia tội phạm cần có khả năng phân biệt được từng mùi, và trong kinh nghiệm của tôi, đã có hơn một vụ được giải quyết nhờ việc nhận biết tức khắc các mùi này. Mùi nước hoa cho thấy có một phụ nữ trong vụ này, và chính nó đã hướng suy nghĩ của tôi về phía vợ chồng Stapleton. Vì thế tôi đã biết chắc về con chó săn và phán đoán được tội ác ngay cả trước khi chúng ta đi về miền tây. Ý đồ của tôi là theo dõi Stapleton. Tuy nhiên, tôi không thể đi cùng anh vì nếu thế hắn sẽ hết sức đề phòng. Cho nên tôi lừa gạt hết mọi người, kể cả anh, và tôi bí mật về đó trong khi mọi người tưởng tôi còn ở London. Tôi không đến nỗi phải chịu cực khổ như anh đã tưởng tượng đâu, vả lại không bao giờ được để những tiểu tiết ấy cản trở việc điều tra. Phần lớn thời gian tôi trú ngụ ở Coombe Tracey và chỉ sử dụng căn nhà đá trên đồng hoang khi cần đến gần nơi hành động. Cartwright đi cùng tôi về đó và trong cái vỏ ngụy trang dân quê, thằng bé đã trợ giúp tôi rất nhiều. Nhờ nó mà tôi có thức ăn và áo quần sạch sẽ. Khi tôi theo dõi Stapleton thì Cartwright theo dõi anh, do đó tôi có thể kiểm soát hết tình hình.

Tôi đã bảo anh là các bản tường trình của anh đến tay tôi rất nhanh, chúng được chuyển đi tức khắc từ phố Baker đến Coombe Tracey. Những bản tường trình đó hết sức hữu ích và đặc biệt là chi tiết ngẫu nhiên có thật về lai lịch của Stapleton. Nhờ đó tôi xác định được tung tích của người đàn ông và người đàn bà đó để cuối cùng biết đích xác những gì cần phải làm. Vụ này phức tạp lên đáng kể khi phát sinh chuyện tên tù vượt ngục và quan hệ của tên này với vợ chồng Barrymore. Việc này anh đã làm sáng tỏ một cách rất hữu hiệu, tuy rằng tôi cũng đã suy ra kết luận tương tự dựa vào những gì quan sát được. Đến khi anh phát hiện ra tôi trên truông thì tôi đã biết đầy đủ mọi chuyện, nhưng tôi không có một bằng chứng nào để trình trước bồi thẩm đoàn. Ngay cả mưu toan của Stapleton nhằm sát hại ngài Henry đêm đó nhưng kết cục lại là cái chết của tên tù bất hạnh cũng không có ích gì cho ta trong việc chứng minh Stapleton giết người. Dường như không còn cách nào khác ngoại trừ bắt hắn tại trận, và muốn làm thế ta phải tạo ra mồi nhử bằng cách để cho ngài Henry đi một mình, không có ai bảo vệ. Chúng ta đã làm đúng như thế, và phải trả giá là để cho thân chủ của mình khiếp đảm kinh hồn, chúng ta mới tìm ra đủ chứng cứ và đẩy Stapleton vào chỗ tiêu vong. Phải thú nhận là lẽ ra trong khả năng kiểm soát của mình, tôi không nên đẩy ngài Henry vào tình thế đó, nhưng ta không thể biết trước cái cảnh tượng khủng khiếp đến sững sờ khi gặp con thú, và cũng không thể tiên liệu được màn sương mù lại giúp con chó lao tới chúng ta mau lẹ như vậy. Chúng ta đã đạt được mục đích, còn về cái giá phải trả thì cả bác sĩ chuyên khoa lẫn bác sĩ Mortimer đều quả quyết là ngài Henry chỉ bị khủng hoảng tạm thời. Một chuyến du lịch dài ngày sẽ giúp anh bạn của chúng ta không những hồi phục thần kinh suy nhược mà còn giải tỏa được những tổn thương tình cảm nữa. Ngài Henry đã yêu người phụ nữ kia chân thành sâu sắc, và đối với nam tước điều đau buồn nhất trong chuyện ám muội này là chính người phụ nữ đó lại lừa dối anh ta.

Phần còn lại chỉ cần làm rõ vai trò của người phụ nữ này. Chắc chắn Stapleton đã buộc vợ mình phải khuất phục, và bà ta cam chịu có thể do tình yêu hay do sợ hãi, mà cũng có thể là vì cả hai lí do, bởi hai cảm xúc đó không hề xung khắc. Chí ít là nó đã phát huy hiệu quả. Theo lệnh Stapleton, người vợ bằng lòng đóng vai trò em gái, mặc dù hắn đã nhận ra khả năng chi phối của mình là có hạn khi cố ép buộc vợ làm đồng phạm trực tiếp giúp hắn giết người. Vợ hắn sẵn sàng báo nguy cho ngài Henry bằng những cách không gây hại cho chồng, và nhiều lần bà ta đã làm như thế. Dường như chính Stapleton cũng biết ghen tuông và khi thấy nam tước tán tỉnh người đẹp, mặc dù chuyện đó nằm trong mưu đồ, hắn vẫn không thể không can thiệp bằng một trận lôi đình phơi bày bản chất hung hăng mà phong thái bề ngoài giỏi kiềm chế của hắn đã khéo che giấu. Hắn khuyến khích ngài Henry kết thân để anh ta thường xuyên lui tới điền trang Merripit và không sớm thì muộn hắn sẽ có được cái cơ hội hằng mong muốn. Thế nhưng vào ngày quyết định đó người vợ lại đột nhiên chống lại chồng. Bà ta đã biết chuyện gì đó về cái chết của tên tù và biết con chó săn đang được giấu trong căn nhà phụ ngoài vườn đúng vào buổi tối mà ngài Henry sẽ đến dùng bữa. Bà ta trách cứ chồng về những mưu toan tội ác, rồi một cảnh tượng thịnh nộ diễn ra và đây là lần đầu tiên Stapleton để lộ cho vợ biết bà ta có tình địch. Lòng chung thủy của người vợ lập tức biến thành oán ghét cay đắng và Stapleton nhận ra bà ta thể nào cũng phản bội hắn. Thế là Stapleton trói vợ lại để bà ta không có cơ hội báo động cho ngài Henry, và chắc chắn hắn đã hi vọng rằng khi cả vùng quê này gán cái chết của nam tước cho lời nguyền dòng họ thì hắn có thể thuyết phục bà ta chấp nhận việc đã rồi và tiếp tục giữ kín những gì đã biết. Trong chuyện này tôi nghĩ rằng dù sự việc có diễn ra thế nào đi nữa thì hắn cũng đã tính sai nước cờ, và dẫu không có chúng ta ở đó thì định mệnh của hắn cũng đã được an bài. Một người phụ nữ mang dòng máu Tây Ban Nha không dễ dàng tha thứ một sự xúc phạm như thế. Vậy đó, Watson thân mến, không xem lại các ghi chép thì tôi không thể tường thuật vụ án kì lạ này cặn kẽ hơn. Tôi không rõ có còn điểm nào quan trọng mà chưa được giải thích chăng?"

"Hắn ta không thể hi vọng dùng con chó săn giả ma quỷ để dọa cho ngài Henry khiếp đảm mà chết như đã làm với ông bác."

"Con thú ấy rất hung tợn và đã bị bỏ đói. Nếu nó không khiến cho nạn nhân thất kinh mà chết thì ít nhất cũng làm tê liệt sức kháng cự của nạn nhân."

"Hẳn rồi. Chỉ còn một điều khó hiểu thôi. Nếu Stapleton được quyền thừa tự thì làm sao hắn giải thích được việc bấy lâu nay, một người thừa kế như hắn lại sống âm thầm dưới một tên họ khác kế bên cái di sản đó? Làm sao hắn có thể đòi hưởng gia tài mà không gây nghi ngờ và hiếu kì chứ?"

"Điều đó quả là rất khó, e rằng anh đã đòi hỏi hơi quá khi muốn tôi giải đáp cho anh. Quá khứ và hiện tại đều nằm trong phạm vi điều tra của tôi, nhưng hỏi tôi chuyện người ta có thể làm gì trong tương lai thì thật khó trả lời. Bà Stapleton đã nghe chồng bàn vấn đề này nhiều lần rồi. Có ba khả năng giải quyết. Hắn có thể đòi quyền hưởng gia tài từ Nam Mỹ bằng cách xác nhận lai lịch với đại diện chính quyền Anh ở đó, và vì thế có thể sở hữu tài sản này mà không phải trở về nước. Hoặc hắn có thể đội một cái lốt ngụy trang phức tạp nào đó trong khoảng thời gian ngắn mà hắn cần phải có mặt ở London để xúc tiến thủ tục thừa kế. Cũng có thể hắn sẽ cho một kẻ đồng lõa thay mặt với đủ bằng chứng và giấy tờ để người này nhận gia tài đó và hắn sẽ được chia một phần tài sản theo tỉ lệ. Qua những gì đã biết về hắn, ta có thể tin chắc là nếu trừ khử được ngài Henry, tên này sẽ có cách vượt qua trở ngại ấy. Vậy đó, Watson thân mến, chúng ta đã làm việc rất gay go suốt mấy tuần nay, tôi nghĩ là riêng buổi tối nay chúng ta có thể để tâm trí vào những chuyện khác thú vị hơn. Tôi đã đặt một lô cho vở Les Huguenots đấy. Anh đã nghe giọng ca de Reszkechưa? Cảm phiền anh sửa soạn trong nửa giờ nữa, rồi chúng ta sẽ ghé tiệm Marcini ăn tối trên đường đi có được không?"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro