Rối loạn nhân cách chống đối xã hội (ASPD)Theo

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Rối loạn nhân cách chống đối xã hội được đặc trưng bởi một hình thái của việc không quan tâm đến hậu quả và quyền lợi của người khác. Chẩn đoán theo tiêu chuẩn lâm sàng. Điều trị có thể bao gồm điều trị nhận thức hành vi, thuốc an thần kinh và thuốc chống trầm cảm.

(Xem thêm .)

Người có rối loạn nhân cách chống đối xã hội có hành động trái pháp luật, lừa dối, bóc lột, liều lĩnh vì lợi ích hoặc sự thích thú cá nhân và không hối hận; họ có thể làm như sau:

· Bào chữa hoặc hợp lý hóa hành vi của họ (ví dụ, suy nghĩ rằng kẻ thua cuộc xứng đáng bị như vậy, bảo vệ vị trí số một của bản thân)

· Đổ lỗi cho nạn nhân là ngu xuẩn hay bất lực

· Thờ ơ với những ảnh hưởng có hại và mang tính bóc lột trong hành động của họ đối với người khác

Tỷ lệ được báo cáo là thay đổi nhưng có lẽ tỉ lệ khoảng 1 đến 3,6% dân số chung. Rối loạn này phổ biến ở nam giới hơn phụ nữ (6:1), và có yếu tố di truyền cao. Tỷ lệ giảm theo độ tuổi, cho thấy theo thời gian bệnh nhân có thể học hỏi thêm giúp thay đổi hành vi không thích nghi của họ và cố gắng xây dựng một cuộc sống.

Bệnh lý đồng diễn là phổ biến. Hầu hết bệnh nhân cũng có (và khoảng một nửa trong số những người có rối loạn sử dụng chất đáp ứng các tiêu chí về rối loạn nhân cách chống đối xã hội). Bệnh nhân có rối loạn nhân cách chống đối xã hội thường có , , hoặc là .

Nguyên nhân

Cả hai yếu tố di truyền và môi trường (ví dụ, lạm dụng trong thời thơ ấu) đều góp phần vào sự phát triển của rối loạn nhân cách chống đối xã hội. Một cơ chế có thể là sự hiếu chiến mang tính xung động, liên quan đến chức năng vận chuyển serotonin bất thường. Không quan tâm đến sự đau đớn của người khác trong thời thơ ấu có liên quan với hành vi chống đối xã hội vào giai đoạn sau của thời kì thanh thiếu niên.

Rối loạn nhân cách chống đối xã hội phổ biến hơn trong số những họ hàng bậc 1 của bệnh nhân so với trong dân số chung. Nguy cơ phát triển rối loạn này tăng lên ở cả trẻ được nhận nuôi và cả trẻ là con đẻ của cha mẹ có rối loạn.

Nếu kèm theo rối loạn tăng động/giảm chú ý phát triển trước 10 tuổi, nguy cơ phát triển rối loạn nhân cách chống đối xã hội trong giai đoạn trưởng thành sẽ tăng lên. Nguy cơ rối loạn hành vi phát triển thành rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể tăng lên khi cha mẹ lạm dụng hoặc bỏ bê đứa trẻ hoặc không nhất quán trong kỷ luật hoặc trong cách làm cha mẹ (ví dụ chuyển từ sự ấm áp và hỗ trợ thành sự lạnh lùng và phê bình).

Triệu chứng và Dấu hiệu

Bệnh nhân có rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể biểu hiện sự coi thường người khác và pháp luật bằng cách phá hủy tài sản, quấy rối người khác hoặc ăn cắp. Họ có thể lừa dối, bóc lột, lừa đảo hoặc thao túng con người để có được thứ chúng muốn (ví dụ như tiền, quyền lực, tình dục). Họ có thể sử dụng một bí danh.

Những bệnh nhân này bốc đồng, không có kế hoạch trước và không xem xét tới hậu quả hoặc sự an toàn của bản thân hoặc người khác. Do đó, họ có thể đột nhiên thay đổi công việc, nhà cửa, hoặc các mối quan hệ. Họ có thể tăng tốc khi lái xe và lái xe trong khi đang say, đôi khi dẫn đến tai nạn. Họ có thể sử dụng quá nhiều rượu hoặc dùng ma túy bất hợp pháp có thể gây ra những hậu quả có hại.

Bệnh nhân có rối loạn nhân cách chống đối xã hội thường không có trách nhiệm về mặt xã hội và tài chính. Họ có thể thay đổi công việc mà không có kế hoạch cho một công việc khác. Họ không thể kiếm được việc làm khi có cơ hội. Họ có thể không thanh toán hóa đơn của họ, không trả tiền vay, hoặc không trả tiền cấp dưỡng nuôi con.

Những bệnh nhân này thường dễ bị khiêu khích và kích động thể chất; họ có thể bắt đầu đánh nhau hoặc lạm dụng vợ/chồng hoặc bạn tình. Trong mối quan hệ tình dục, họ có thể thiếu trách nhiệm và bóc lột bạn tình và không thể duy trì một vợ một chồng.

Không có sự hối hận cho những hành động. Bệnh nhân có rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể hợp lý hóa hành động của họ bằng cách đổ lỗi cho những người mà họ làm tổn thương (ví dụ như họ xứng đáng bị như vậy) hoặc cho cuộc sống (ví dụ, không công bằng). Họ quyết định không để bị đẩy ra xung quanh và làm những gì họ nghĩ là tốt nhất cho mình bằng bất kỳ giá nào.

Những bệnh nhân này không đồng cảm với người khác và có thể khinh thường hoặc thờ ơ với những cảm xúc, quyền lợi và đau khổ của người khác.

Bệnh nhân có rối loạn nhân cách chống đối xã hội thường có đánh giá cao về bản thân và có thể rất ngoan cố, tự tin hoặc kiêu ngạo. Họ có thể quyến rũ, ba hoa, và nhanh nhẹn trong lời nói nhằm nỗ lực đạt được những gì họ muốn.

Chẩn đoán

· Tiêu chuẩn lâm sàng (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Tái bản lần thứ năm [DSM-5])

Đối với chẩn đoán rối loạn nhân cách chống đối xã hội, bệnh nhân phải có sự coi thường dai dẳng các quyền lợi của người khác, như được biểu hiện bằng ≥ 3 trong số các điểm sau:

· Không quan tâm đến luật pháp, được thể hiện bằng cách liên tục thực hiện các hành vi bị bắt giữ

· Lừa dối, được thể hiện bằng cách nói dối lặp đi lặp lại, sử dụng các bí danh, hoặc chỉ huy người khác để đạt được lợi ích hoặc sự thích thú cá nhân

· Hành động bốc đồng hoặc không có kế hoạch trước

· Dễ dàng bị khiêu khích hoặc kích động, được thể hiện bởi việc liên tục đánh nhau hoặc tấn công người khác

· Không quan tâm đến sự an toàn của họ hoặc sự an toàn của người khác

· Liên tục hành động vô trách nhiệm, được thể hiện bằng cách bỏ việc mà không có kế hoạch cho một công việc khác hoặc không thanh toán hóa đơn

· Không cảm thấy hối hận, được biểu hiện bởi sự thờ ơ hoặc hợp lý hóa việc gây tổn thương hoặc ngược đãi người khác

Ngoài ra, bệnh nhân phải có bằng chứng chứng minh rằng một rối loạn hành vi đã xuất hiện từ 15 tuổi. Rối loạn nhân cách chống đối xã hội được chẩn đoán chỉ ở người ≥ 18 tuổi.

Chẩn đoán phân biệt

Rối loạn nhân cách chống đối xã hội nên được phân biệt với những rối loạn sau:

· : Xác định liệu sự bốc đồng và thiếu trách nhiệm là do rối loạn sử dụng chất hoặc do rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể là một việc khó khăn nhưng có thể dựa trên việc xem xét lại tiền sử của bệnh nhân, bao gồm cả tiền sử từ nhỏ, để kiểm tra giai đoạn không sử dụng chất. Đôi khi rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể được chẩn đoán dễ dàng hơn sau khi rối loạn sử dụng chất đồng thời được điều trị, nhưng rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể được chẩn đoán ngay cả khi có biểu hiện của rối loạn sử dụng chất.

· : Rối loạn hành vi có một khuôn mẫu phổ biến tương tự của việc vi phạm các chuẩn mực và quy tắc xã hội, nhưng rối loạn hành vi phải có mặt trước tuổi 15.

· : Bệnh nhân đều có sự tương tự về tính khai thác và thiếu sự đồng cảm, nhưng họ không có khuynh hướng hung hăng và lừa dối như xảy ra trong rối loạn nhân cách chống đối xã hội.

· : Bệnh nhân có sự tương tự về sự thao túng nhưng làm như vậy để được nuôi dưỡng hơn là nhận được những gì họ muốn (ví dụ, tiền, quyền lực) như xảy ra trong rối loạn nhân cách chống đối xã hội.

Điều trị

· Trong một số trường hợp, liệu pháp nhận thức-hành vi và thuốc chỉnh khí sắc và thuốc chống trầm cảm

Không có bằng chứng nào cho thấy bất kỳ điều trị cụ thể nào dẫn tới sự cải thiện lâu dài. Do đó, điều trị nhằm đạt được một số mục tiêu ngắn hạn khác, chẳng hạn như tránh các hậu quả pháp lý, thay vì thay đổi bệnh nhân. Quản lý ngẫu nhiên (ví dụ, lấy đi hay giữ lại những gì bệnh nhân muốn tùy thuộc vào hành vi của họ) được chỉ định.

Những bệnh nhân với xung động nổi bật và cảm xúc không ổn định có thể có lợi với điều trị bằng liệu pháp nhận thức hành vi hoặc thuốc (ví dụ lithium, valproat, SSRIs). Thuốc an thần kinh có thể hữu ích, nhưng ít có bằng chứng cho việc sử dụng thuốc này.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro