Chương VII

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

He stares at me with those murky eyes.

They stare at me with those murky eyes.

Omen không nhớ mình đã rời khỏi nơi đó bằng cách nào. Đầu gã lùng bùng, kẹt cứng với những suy nghĩ hỗn loạn như thể một chiếc máy tính bị văng mất linh kiện quan trọng. Gã nhớ tên gã thanh tra, Zephys, kẻ mà mới tháng trước gã còn khẩn khoản cầu xin hãy tìm ra y, chỉ để giờ này tìm ra được sự thật là hắn cũng là một người dân của trấn Noctem. Một kẻ đồng lõa. Một kẻ có lẽ cũng đã nhúng tay vào vụ mất tích của Mganga, và lý do hai tháng qua không thể tìm được dù là một góc áo y hẳn cũng có góp công của hắn. Omen nghiến chặt răng khi nghĩ về nụ cười như một vết rạch trên gương mặt chẳng khác nào tượng sáp của hắn, biết đâu ngay lúc đó, khi những lời hứa hẹn dối trá của Zephys thoát ra từ đầu đôi môi tái nhợt cũng là lúc Mganga bị kéo tuột vào trong bóng tối. Có lẽ ngay từ ban đầu chẳng có con quái vật, chẳng có bóng tối, chẳng có có bất kỳ thứ tà ma ngoại đạo nào tồn tại, mà thứ kinh khủng duy nhất chỉ là bàn tay con người. Mganga biến mất chẳng vì bất kỳ con quái vật dưới vực sâu nào cả, mà chính những người dân ở nơi y gọi là quê nhà đẩy xuống bóng tối thăm thẳm, trở thành một con cừu hiến tế cho cơn điên loạn ích kỷ của một tập thể đã mất trí. Biết đâu đấy, ừ, biết đâu đấy. Cho đến giờ mọi thông tin gã tìm ra đều đang chỉ về hướng đó. Một cơn đau đầu đâm thẳng vào đại não Omen khiến gã phải nhíu mày, nhắm chặt mắt lại vì những đốm màu mờ ảo xông vào tầm mắt. Phải cả phút sau nó mới rút đi và gã mở mắt ra được, nắng buổi ban trưa chiếu gay gắt xuống đỉnh đầu của thanh niên tóc trắng, nhưng gã vẫn thấy rất lạnh, mồ hôi chảy đầy lưng áo gã, da gà hằn lên quanh cánh tay đầy sẹo.

Địa Ngục trống rỗng, ác ma tại nhân gian.

Bình tĩnh nào, gã tự trấn an bản thân có lẽ là lần thứ năm mươi trong ngày, mọi chuyện vẫn chưa có gì rõ ràng cả, lỡ đâu đó chỉ là ngẫu nhiên, lỡ đâu gã thanh tra chỉ vô tình phụ trách vụ án đó? Nhưng ngay bản thân Omen cũng thấy lời an ủi đó khiên cưỡng cỡ nào.

Gã không muốn tin vào điều đó, vì nếu phỏng đoán khủng khiếp của gã là đúng, thì Mganga tuyệt đối không còn cơ hội sống sót.

Tiếng chim khàn khàn ríu rít vang lên rất to ngay trên đầu gã, khiến Omen giật mình ngước lên nhìn. Trên cành cây khô quắt queo và đen đúa như được làm từ than đã cháy rụi chòi ra từ một con ngõ, là ba con chim ác là. Bụng và vai chúng trắng toát như lông chim bồ câu, trong khi phần còn lại từ cái đầu nhỏ xíu cho đến chóp đuôi thì đen tuyền như loài quạ, ánh sắc xanh lục, vàng đồng, và tía. Cảm giác gai người cuộn xoắn trong bao tử Omen khi gã nghĩ rằng chúng đang nhìn chằm chằm mình bằng những đôi mắt đen láy không có tròng kia, ba cái mỏi xíu xiu hướng về gã, đóng rồi mở khi những tiếng chim kêu khào khào giống hệt như khi ta cầm một mảnh giấy nhám chà lên mặt gỗ vang lên đều đặn đến bất thường. Có lẽ chỉ là gã tưởng tượng ra thôi, nhưng cái suy nghĩ kỳ dị hoang đường ấy một khi đã nổi lên thì cứ không ngừng râm ran dưới da gã, bám chặt vào trong từng nơ ron thần kinh, cho đến khi Omen bắt đầu thật sự tin rằng mình đã bị nỗi sợ làm mụ mị đầu óc đến mức phát hoảng trước vài con chim bé nhỏ cách gã mấy chục mét. Gã nuốt khan, nhìn về hướng những con chim vẫn đang đậu trên cành, chúng gần như không di chuyển, thêm một điều kỳ lạ nữa, đầu chúng không ngọ nguậy, lông đuôi cũng chẳng cử động, trông giống ba bức tượng hình chim được ai đặt lên cây hơn là những sinh vật sống thực sự, nếu không kể đến tiếng hót khàn khàn đến khó chịu thoát ra từ miệng chúng. Omen chỉ giữ được tầm mắt mình trên người chúng chưa đến ba mươi giây, rồi một nỗi sợ hãi bất chợt chính gã cũng không hiểu nổi chiếm lĩnh đầu óc gã, khiến gã vội vàng lảng đi ngay, miệng gã đắng ghét, khô rang, máu giần giật trong tai và thái dương.

Cái thị trấn này, Omen chửi thề trong lòng, khiến gã ớn lạnh.

Omen đột nhiên nhớ về một kỷ niệm không mấy vui vẻ.

Con quái vật của gã đã lâu lắm rồi không còn chơi trò này, nhưng nó vẫn là thứ mà gã căm ghét nhất, có thể khiến Omen rùng mình ớn lạnh chỉ nội bằng việc nghĩ tới nó. Hồi nhỏ, nhỏ xíu, khi mà hầu hết ký ức hồi đó đã tan rã khỏi trí nhớ gã, thì điều Omen vẫn nhớ như in là những cơn ác mộng luôn vần vò gã mỗi đêm. Omen hồi đó rất ghét đi ngủ, thường gã sẽ làm mọi cách để giữ mình tỉnh táo đến tận một hai giờ sáng, trước khi quá mệt mỏi mà thiếp đi. Những lúc như vậy gã sẽ luôn mơ là mình bị nhốt vào một khoảng không gian chật hẹp, chật đến nỗi gã phải nằm cuộn mình lại trong tư thế bào thai, cứ mỗi khi nào Omen muốn động đậy dù chỉ một chút, dù chỉ là nhúc nhích chân muốn duỗi ra, cử động vai, hay dùng những ngón tay lần sờ vách tường trước mặt, là bề mặt thô nhám của nó sẽ cào vào da thịt gã, đau như thể ta ngã dúi dụi trên nền đường xi măng và vụn đá găm vào đầu gối. Cái hộp đó chật lắm, chật kinh khủng, chật đến mức Omen không thể thở được, tưởng rằng không gian đó ngày càng co lại, đè ép lên ngay cả khuôn ngực phập phồng của gã, đẩy ra hết toàn bộ dưỡng khí mà gã cố sức hít vào trong phổi. Tối đen và tĩnh lặng, Omen bị mắc kẹt trong một chiếc hộp xíu xiu, cứ phải nằm trong một tư thế cuộn tròn không chút dễ chịu, chịu đựng đá dăm ma sát lên da thịt mình, không nghe được bất kỳ âm thanh gì ngoại trừ tiếng thở và tiếng tim đập của bản thân, chờ đợi bình minh đến. Mỗi đêm như vậy, mỗi đêm, một cuộc tra tấn tàn bạo và nhẫn tâm đổ xuống đầu một đứa trẻ non nớt, ăn mòn lý trí của nó từng chút một, đến mức việc mà gã vẫn còn chưa phát điên, không thể là gì ngoài một phép màu.

"Này! Không gọi gì thì đi dùm đi!"

Omen giật mình bởi tiếng quát ngay sát bên tai, mất hai giây định thần để nhận ra mình đã vô tình ngồi xuống một trong những cái bàn làm từ sắt đã rỉ và tróc sơn loang lổ đến mức không còn biết nổi màu nguyên bản xếp tràn ra tận mép đường của một quán cà phê. Đứng trước mặt gã là một người phụ nữ to béo, mái tóc bạc cuộn chặt thành búi trên đỉnh đầu, lấp lánh dầu dưới ánh nắng gay gắt của trưa tháng Năm, trên người choàng một chiếc tạp dề màu trắng đã ngả sang cháo lòng, có một vết bẩn đen to tướng ở góc dưới trái. Nỗi ác cảm ập vào mặt Omen như một cái tát, mạnh y hệt cái hồi gã trông thấy tay tài xế xe bus cùng hai hành khách quái dị, bất ngờ và đau điếng khiến gã theo phản xạ gập người nôn khan bữa sáng đã nhợn lên đến tận họng của mình, may mà kiềm lại được vào phút cuối cùng. Gã xoa cái gáy đã dựng hết tóc lên, cưỡng ép những thớ cơ trên mặt vặn xoắn thành một nụ cười.

"À, dạ. Vậy cho cháu một cốc cà phê đen đá ạ."

Người đàn bà hừ lạnh một tiếng trước khi quay đi, bỏ lại Omen thần người ngồi ở trên ghế. Gã nhìn theo bóng lưng khòng khòng của bà, một nỗi căm ghét khó hiểu trào lên từ dưới đáy lòng khiến trong một phút giây hoang đường, gã đã những muốn đẩy bà ta một cái cho ngã đập đầu vào tường xi măng. Y hệt như khi gã nhìn thấy ba kẻ lạ kỳ ở bến xe Kazell. Một cảm giác khó chịu, thù địch không cách nào giải nghĩa được, như khi ta nhìn thấy một con gián bò lên trên bệ bếp, chỉ muốn ngay tức khắc cầm chiếc dép lên đập cho nó chết, để nó không bao giờ xuất hiện lại trong tầm mắt của mình được nữa. Omen giật mình tỉnh lại khi tâm trí gã chỉ vừa lướt qua ý nghĩ ấy, nhận ra mình đã vô thức sờ lên ống đựng kiếm từ bao giờ. Gã ngay lập tức rút tay lại như phải bỏng, tự thấy kinh tởm chính mình vì đã có suy nghĩ như vậy.

Omen lầm bầm tiếng cảm ơn trong họng khi người đàn bà quay trở lại, không dám ngước lên nhìn bà ta. Ngay cả bàn tay mập mạp, đen đúa đẩy cốc cà phê ra trước mặt gã, trông núc ních như mấy khúc xúc xích bị mốc đen ăn đến tận lõi, với những cái móng lởm chởm và đầy cặn đất, cũng khiến gã phải nghiến chặt răng. Một tiếng thở phào nhẹ nhõm thoát ra khỏi môi Omen khi gã cuối cùng cũng nghe được tiếng cánh cửa quán cà phê đóng lại sau lưng, bấy giờ gã mới ngước lên, cả người đổ ra sau nửa nằm nửa ngồi trên lưng ghế. Ba con chim ác là nãy giờ đã có thêm bốn đồng loại gia nhập, bảy con chim đậu hết ba cành cây lớn, những tiếng chim đêm khào khào vẫn đều đặn vang lên như một dàn đồng ca khác thường. Theo thói quen, Omen nhấc cái cốc lên, nhưng khi cái cốc ngang gần mũi và mùi cà phê nồng nàn ập vào, gã mới dùng lại, nhận ra mình đã vô thức thả lỏng cảnh giác. Gã chỉ gọi để đối phó thôi, chứ gã đâu có muốn uống đâu. Nói chính xác hơn, gã không muốn động vào bất cứ thứ gì có thể đã bị động tay động chân vào ở đây. Quá nguy hiểm. Omen thở dài đặt lại nó xuống mặt bàn, lơ đãng khuấy chất lỏng đen đặc, lòng suy tính về bước đi tiếp theo. Sẽ khó đây, gã thấy con đường phía trước càng lúc càng hẹp, thậm chí còn có cả nguy cơ thành ngõ cụt. Omen là ai, Omen chẳng là ai cả, gã không phải cảnh sát, không có quyền hạn khẩu cung hay lục soát nhà, cũng chẳng phải thám tử, có những kỹ năng nghiệp vụ thần kỳ, gã chỉ là một tên sinh viên năm cuối không thể bình thường hơn, cố gắng đi tìm sự thật về sự biến mất của người yêu khi đã chẳng còn lại ai mong muốn làm điều đó.

Thật mệt mỏi.

"Nếu em là anh, em sẽ uống cốc cà phê đó. Nó là thứ gần với đồ có thể uống được nhất trong số những thứ nước nhão nhoẹt họ bán quanh đây."

Nghe tiếng nói vang lên bên tai, Omen giật mình quay phắt lại về hướng kẻ vừa lên tiếng.

Trong một khoảnh khắc, gã đã tưởng mình trông thấy Mganga.

Nhưng rồi Omen tỉnh táo lại ngay, không để nỗi thương nhớ và cái nắng gay gắt của trời tháng Năm làm mờ đi con mắt của mình nữa. Thanh niên đứng ngay sau gã đúng là có hơi hao hao Mganga thật, nhưng khi nhìn kỹ lại thì cậu cũng chẳng giống y đến thế, cậu ta có tóc đen, mắt đen, với những đường nét châu Á rất đặc trưng, nếu hai người đứng cạnh nhau thì hoàn toàn có thể phân biệt chỉ qua cái liếc mắt đầu tiên. Cậu ta mặc sơ mi bên trong áo len mỏng nâu sẫm, quần kaki nhạt màu, trông hiền lành và ngoan ngoãn, có hơi nóng so với thời tiết ngoài trời bây giờ. Không biết cậu đã đứng sau lưng gã từ bao giờ, hai tay đút túi quần, đầu hơi nghiêng, đôi mắt hạnh to, tròn cong cong khi cậu cười, khóe môi nhếch thành một đường cong tiêu chuẩn.

"Cậu biết tôi?" Omen cảnh giác. "Cậu là ai?"

"Hiện tại thì gần như cả trấn đều biết anh." Cậu khúc khích cười, đến gần gã hơn, gần đến mức Omen cảm thấy bị xâm phạm. Bóng cậu đổ dài, phủ lên đến tận ngực gã. "Họ biết có một kẻ lạ mặt đang dò hỏi thông tin về anh Mganga và cái vực."

Mặt Omen lập tức sầm xuống. Biết ngay mà, thời gian đầu gã không nghĩ sự việc lại tồi tệ cỡ ấy nên đi hỏi lung tung hết cả, đám dân trấn rỉ tai nhau hết rồi, hơn ai hết gã hiểu rõ trong một không gian khép kín nhỏ như thế này, thông tin có thể bay nhanh đến mức nào, trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã tường, ấy là còn chưa kể gã là một kẻ lạ mặt từ bên ngoài đến hết sức khả nghi. Ngược lại nếu hành tung của Omen còn chưa bay khắp trấn, gã còn thấy nghi ngờ. Nhưng sự cũng đã rồi, giờ con đường gã phải đi còn khó khăn hơn gấp bội.

"Anh nghĩ rằng anh Mganga bị những người dân của trấn Noctem hiến tế cho một nghi lễ tà giáo nào đó, và rồi ngụy tạo thành một vụ mất tích có đúng không?"

Omen không nghĩ rằng cậu trai lại thẳng thừng nói toẹt ra cái phỏng đoán kinh khủng mà gã đang nghĩ đến như vậy, vô thức nhìn quanh, nhưng không có ai đứng đủ gần để nghe được cuộc trò chuyện của họ cả. Đúng, suy đoán của gã có cơ sở, nhất là từ cuộc hội thoại với bà chủ cửa hàng tạp hóa. Cái cách khi bà ta nói "cậu ta đã trở về nơi cậu ta phải trở về", và đề cập đến một cái giá rất đắt mà bọn họ phải trả để có một cuộc sống yên bình...Có thứ gì còn đắt giá hơn cả mạng người? Mắt bà ta long lên sòng sọc khi gã nói rằng mình là người yêu của y, như thể việc cứu Mganga là tội ác khủng khiếp nào đó vậy. Cũng đúng thôi, nếu đứng trên lập trường của những kẻ hiến tế, thì việc cứu kẻ bị chọn và phá hỏng buổi lễ không khác gì một hành động đe dọa cả, nó xâm hại nghiêm trọng đến đức tin và lợi ích của những kẻ đó, còn gây ra sự tức giận lớn hơn bình thường rất nhiều. Những kẻ cuồng tín. Thậm chí không thấy tội lỗi khi gây ra cái chết cho một người vô tội.

"Cậu là ai?" Gã lặp lại, nhìn vào đôi mắt của người đối diện. Giờ gã mới để ý, mắt cậu ta rất to, đến mức hơi kỳ dị, như thể phần lớn thời gian cậu ta đều cố gắng mở mắt to hết sức vậy. Đôi đồng tử đen thẫm chiếu vào gã trong một cái nhìn lom lom rất không thoải mái.

"Em là em họ của người mà anh tìm kiếm, anh Mganga. Anh có thể gọi em là Mục Dạ Tước, bố em người Trung nên tên em mới vậy." Dạ Tước ngồi xuống ghế đối diện gã, nghiêng người chống tay lên mặt bàn, vui vẻ giới thiệu.

"Mục đích của cậu là gì? Và tại sao tôi nên tin cậu?" Gã thử lẩm bẩm cái tên của thanh niên đối diện trong miệng, đúng là khó phát âm thật.

"Bởi vì á..." Dạ Tước nghiêng người về phía Omen, gần đến mức gã thoáng ngửi được mùi giấy cũ trên người cậu, và một mùi tanh ngọt bí ẩn nào đó mà gã không nhớ ra được là mình đã thấy ở đâu. "Hiện tại ở trong trấn, em là người duy nhất tình nguyện cung cấp thông tin về anh Mganga cho anh."

Dù rất không muốn, Omen phải thừa nhận là cậu ta nói đúng. Nhà Wyatt chỉ là trường hợp may mắn khi người bà còn chưa biết chuyện, còn giờ thì có đi đâu hỏi nhiều khả năng cũng sẽ gặp phải cách phản ứng mãnh liệt như bà chủ cửa hàng tạp hóa. Thân phận của gã quá đặc biệt, gã là một kẻ ngoại lai, và những tập thể nhỏ khép kín như thế này ghét nhất là những kẻ xâm phạm. Và nếu họ là đồng lõa của một tội ác, thì không đời nào, không đời nào mà họ hé răng dù chỉ một chữ cả.

"Điều kiện của cậu là gì?"

"Bởi vì em cũng muốn cứu anh ấy." Dạ Tước đứng dậy khỏi ghế, cầm lấy cốc cà phê chưa hề được đụng tới của Omen lên nhấp một ngụm. "Trước tiên chúng ta đến cái vực nhé. Em sẽ dẫn đường, cứ thoải mái đi sau em nếu anh muốn."

Omen không thích ánh mắt của Mục Dạ Tước. Cái nhìn của cậu ta thẳng thừng, chằm chằm, trống rỗng và như kéo dài cả ngàn thước về mãi chân trời phía xa. Cái nhìn đó như một thứ vỏ khô của lũ côn trùng đã thoát xác, đùng đục và không chứa bất kỳ thứ tình cảm gì, không lấp lánh dưới nắng cho dù có là giữa buổi ban trưa.

Một lời mời nguy hiểm, từ một con người nguy hiểm

Tay Omen gõ trên mặt bàn han rỉ.

Gã là một kẻ tự tử thụ động. Rất lâu về trước, Omen đã cùng bạn tình cờ bước vào một quán bar ngầm bất hợp pháp, và bị những kẻ lạ mặt ở đó kéo vào chơi cò quay Nga. Nhìn có vẻ bọn họ cũng chỉ đùa thôi, nhưng gã lại đồng ý chơi thật. Và để làm câu chuyện còn tồi tệ hơn, khi tên to con tóc vàng đưa cho gã khẩu súng lục ổ quay, Omen thay vì bắn một phát khi nòng súng chĩa vào thái dương, gã bắn ba phát, và sau đó sống sót một cách thần kỳ trong những tiếng hò reo giễu cợt của đám đông trong quán bar cùng gương mặt trắng bệch của người bạn ngồi bên cạnh. Sau khi thoát khỏi bàn tay của tử thần, gã nhận ra mình không thấy hoảng sợ, không thấy sung sướng, thậm chí không thấy cả nhẹ nhõm, chỉ là một nỗi chán chường vô tận khi gã nhìn vào khẩu súng trên tay, trái tim Omen thậm chí không đập loạn nhịp khi nòng súng kim loại lạnh ngắt chạm vào thái dương, nơi mỗi lần bóp cò đều có thể là cái chết. Gã không nghĩ quá nhiều về việc liệu viên đạn đồng có bay ra khỏi đường ống bằng thép chỉ to bằng ngón tay gã kia không, Omen không nghĩ quá nhiều về cuộc đời mà mình sắp vứt bỏ vào tay tên đàn ông cầm lưỡi hái, gã chỉ nghĩ, thôi cứ nhấn đại đi cho xong, và bóp cò. Ba lần.

Omen là một kẻ tự tử thụ động, gã luôn vô thức dấn mình vào những tình thế nguy hiểm, chỉ để xem nó có thể tồi tệ đến mức nào.

Có một chuyện mà đến ngay cả bạn của gã lẫn những kẻ ở quán bar cũng không biết, đó là khi vừa hoàn thành xong ba phát súng, Omen đã mở ổ đạn ra để kiểm tra, và phát hiện đáng lẽ phát bắn giữa phải có đạn, đáng lẽ gã đã mất mạng từ lần bóp cò thứ hai, nhưng vì một lý do nào đó, do kẹt đạn, đạn tịt hay cái gì, mà Omen đã bình an vô sự vượt qua đến tận phát thứ ba.

Ngay từ khoảnh khắc đó, Omen đã nhận ra có một thứ gì đó, một thứ không thể dùng khoa học bình thường để giải nghĩa, không muốn gã chết.

Gã nhìn xuống hai bàn tay mình, những vệt khói đen sậm đã lan đến tận mu bàn tay, chồng chéo và ngoằn ngoèo, phập phồng như những mạch máu dưới da. Những cái móng tay sáng nay hãy còn bình thường, giờ đen ngòm như thể gã đã nhúng tay vào chậu mực vậy.

Omen có một linh cảm mãnh liệt rằng, mình sẽ không chết vào hôm nay.

Gã đứng dậy, nói với Dạ Tước. "Dẫn đường đi."

Cậu trai châu Á đã cảnh báo rằng quãng đường họ đi sẽ rất dài, và đúng là nó dài thật. Dạ Tước dẫn gã rời khỏi đường lớn, vào những cung đường nhỏ hơn, chật hẹp hơn, xuống cấp hơn, len qua những căn nhà ở trung tâm thị trấn, rồi dấu vết của sự suy tàn và bỏ hoang, như những thứ mà gã đã thấy ở rìa trấn xuất hiện trở lại, khi họ đi xa khỏi phần bụng của con quái vật. Omen nhìn thấy những ngôi nhà không còn người ở, rêu xanh và mốc đã ăn mòn bốn bức tường như những con vi sinh vật trên xác một kẻ khổng lồ, những ngưỡng cửa trống hoác và những ô cửa sổ chỉ còn lại khung, cỏ dại mọc đến tận đầu gối gã khi đã lâu lắm rồi chẳng còn ai dọn. Thi thoảng họ đi ngang qua một căn nhà đổ sập, phần còn lại của nó giống một chiếc hộp các tông bị người ta thô lỗ xé ra rồi vứt chỏng chơ ở đó, cuối cùng lại thành ổ cho lũ chuột, rắn, sóc và những con quạ. Dần dần gã không còn nhận ra nổi sự tồn tại của con đường nữa, mà chỉ đơn thuần đi lách qua, hoặc trèo lên trên những đống gạch vụn, né những thanh sắt han rỉ nhọn hoắt chỉa lên trời như răng nanh của mặt đất, băng qua những cái cây đã nuốt trọn những dấu vết phai màu của nền văn minh loài người. Không biết tại sao, dù cho Omen không bắt được bất kỳ vệt màu đen ẩn sắc xanh và tía nào, những tiếng kêu khàn khàn của lũ chim ác là vẫn bám theo gã, dai dẳng không kém gì thứ mùi khó chịu của thị trấn lại xộc lên sực nức khi hai người đi xa dần khỏi trung tâm. Đã hơn một lần gã phải ghé mắt nhìn lại đằng sau lưng, chỉ để chắc chắn rằng không có một đôi mắt bé xíu đùng đục nào nhìn mình chăm chăm từ trên những cành cây khô rang xơ xác.

Bọn họ tốn mất nửa tiếng chỉ để rời khỏi thị trấn trước khi tiến vào khu rừng. Cung đường ngày càng khó đi hơn, con đường mòn tạo thành hoàn toàn bằng việc người ta cứ đi qua mãi đã gần như không còn thấy được nữa, khu rừng đang ở thời gian xanh tươi nhất trong năm không có chỗ dành cho loài người. Thú thực là Omen đã thoáng cảm thấy may mắn khi đi vào bóng râm của những tán cây cao vút, mọc san sát nhau, cuối cùng cũng thoát được cái nắng gay gắt chiếu thẳng một góc vuông 90 độ xuống đỉnh đầu của trời tháng Năm. Không khí giàu oxi khiến gã dễ thở hơn một chút, nhưng độ ẩm cao thì lại đi cùng cảm giác bí bách và nhớp nháp, chân Omen đã mấy lần trượt trên lớp rêu đẫm sương dưới mặt đất và thảm lá mục, gã phải thường xuyên bám vào thân cây làm điểm tựa, chẳng mấy chốc tay cũng đã đầy vụn vỏ cây và địa y mềm nhũn, đôi giày thể thao cũng dần bị ngấm ẩm, cảm giác dính dấp lan cả vào lớp tất len. Những tán lá xòe rộng ngăn cản hầu hết ánh nắng mặt trời, dù đang là giữa trưa nhưng trong rừng trời vẫn sùm sụp, chỉ vừa đủ để nhìn rõ đường. Đi đường rừng mệt hơn đi đường thành phố nhiều, dù mới đi có mười lăm phút mà gã cảm thấy mệt gấp đôi quãng đường nửa tiếng trước đó để rời khỏi Noctem. Khu rừng này chắc đã già lắm rồi, hầu hết những cái cây mà bọn họ đi qua đều to lớn, sần sùi, già cỗi, một mình gã không làm sao ôm hết nổi, vẻ hiểm ác của những kẻ sống quá lâu cứ lẩn lút bên dưới vô số cành cây quăn queo tỏa ra từ mọi hướng, có khi sà cả xuống đất, đầu cành bé xíu mắc vào quai balo của Omen như muốn níu gã lại. Khu rừng gần như yên ắng, chỉ thi thoảng có tiếng rúc rích vang ra từ trong những hốc cây hay trên cành của lũ chim mà Omen không nhìn thấy bóng dáng, hay tiếng sột soạt của những loài động vật nhỏ sống ở tầng thấp nhất của khu rừng.

Trong lúc Omen mệt đến mức thở ra bằng tai, gò má Dạ Tước chỉ hơi ửng lên một chút và lấm tấm mồ hôi làm tóc bết vào thái dương. Cậu ta giữ đúng lời hứa của mình, đi phía trước cách gã tầm ba bước chân, phơi bày toàn bộ tấm lưng không có gì che chắn và cái gáy trắng phau yếu ớt thấp thoáng dưới đuôi tóc đen lòa xòa, dễ dàng gục xuống chỉ với một lần tấn công duy nhất của Omen. Gã đã từng nghĩ đây là một cái bẫy khi cậu ta quá dễ dàng giao cho mình điểm yếu như vậy, suốt thời gian hai người luồn lách qua những con ngõ hẹp của Noctem, gã đã dỏng tai lên nghe, tay không lúc nào rời ống đựng kiếm, sẵn sàng rút thanh thép sắc nhọn đó ra khi bắt được một âm thanh dù là nhỏ nhất của một cuộc phục kích. Nhưng không có gì cả, chỉ có duy nhất tiếng gió thổi qua những khung cửa sổ toang hoác dội vào màng nhĩ Omen. Ngay cả khu rừng cũng yên lặng. Dạ Tước có kể cho gã nghe về vụ lũ quét mười ba năm trước đã cuốn phăng một nửa Noctem, đó là lý do nửa trái thị trấn trông tàn tạ và rách nát hơn hẳn như vậy khi hai người họ đi ngang một dãy nhà đổ nát, rồi câu chuyện cứ như vậy cụt ngủn tại đó. Omen không hỏi gì nữa, và Dạ Tước cũng không lên tiếng, bọn họ cứ lầm lũi kẻ trước người sau băng xuyên qua khu rừng.

Cuối cùng, Dạ Tước phá tan bầu không khí yên lặng.

"Đến rồi."

Omen vén cành cây chắn ngang tầm mắt mình, cuối cùng cũng được nhìn tận mắt cái miệng của con quái vật đã nuốt chửng người gã yêu.

Gã chậm rãi đến gần mép vực, cẩn thận giữ khoảng cách với người đồng hành bí ẩn của mình, luôn chắc chắn rằng mình có thể trông thấy hai tay của cậu ra, trước khi liếc nhanh xuống bóng tối thăm thẳm phía dưới chân. Như gã đã ấn tượng từ trước, đây không thể là cái khe hiển hiện trên bản đồ ứng dụng trong điện thoại, hình vẽ của nó rất mảnh, rất nhỏ, có lẽ chỉ là một cái khe do đất đá sụt lún hình thành, chứ không phải cái vực sâu hun hút trước mắt đây. Gã thấy hai bên vách đá xuất hiện vô số vết nứt nhỏ được gió núi táp bùn đất lên lấp đầy, mọc lên từng dải thực vật chen chúc, từ cây bụi đến những cây thân gỗ mọc cong một đường vuông góc, chứng minh cho sức sống mãnh liệt của thiên nhiên. Có những vết nứt lớn hơn, chưa bị đất bùn che phủ thì trông như như vết thương há ngoác miệng do bị rìu của ai bổ vào, lại có những chỗ nứt toác như thể bị chẻ ra, một đứa trẻ con bé xíu hoàn toàn có thể lọt vào đấy nếu rơi đúng chỗ. Omen rùng mình khi nhận ra hướng của những vết nứt, dù chúng lớn hay nhỏ, đều có xu hướng nằm dọc, thẳng thớm đến kỳ lạ, như thể vết móng vuốt của một sinh vật nào đó để lại trong nỗ lực bò lên từ bóng tối sâu thẳm. Khe núi càng xuống sâu sương mù càng dày đặc, không thể nhìn thấy đáy, ánh sáng cũng mất hút dưới cái miệng há ngoác tối tăm.

Gã nhìn vào trong bóng tối sâu thẳm, nhớ lại vào những ngày rất xưa, mình cũng đã từng bị vây trong một cái hộp đen chật hẹp. Một cái hộp đen kín mít, nơi thời gian không phải một dòng sông, mà nó là đá, im ắng, vĩnh cửu, bất động, nó không được tính bằng giây, bằng mặt trời mọc lên rồi lại lặn xuống, bằng những ngôi sao ẩn rồi lại hiện, mà bằng tiếng thở của Omen, cùng với tiếng tim đập dội vào mạch máu trên thái dương. Gã không nghe, không ngửi, không thấy, không nếm, không cảm nhận. Chỉ duy nhất hai thứ tiếng đều đặn ấy níu gã lại với sự sống, để Omen biết rằng mình còn tồn tại.

Thình thịch...Thình thịch...Thình thịch...

Hít vào...Thở ra...Hít vào...Thở ra...

Lặp đi lặp lại như vậy, cho đến vĩnh hằng.

"Tại sao..." Omen nghe tiếng nói của mình lạo xạo trong cổ họng như những mảnh thủy tinh vỡ. "Tại sao nó lại lớn như vậy? Rõ ràng trên bản đồ hiển thị nó chỉ là một cái khe hẹp thôi."

Gã quay sang phía Dạ Tước, bất ngờ khi thấy cậu ta cũng đang nhìn mình. Không biết cậu đã nhìn từ bao giờ, đôi đồng tử đen láy đến nỗi không nhìn rõ được con ngươi khiến ánh nhìn lom lom càng thêm phần đùng đục, như đang nhìn xuống một cái hố tối tăm. Cái nhìn khiến da gà da vịt Omen nổi lên đầy hai cánh tay, gần như xâm phạm, khiến gã vô thức sợ hãi thanh niên đang đứng trước mặt.

"Đúng, ban đầu nó chỉ là một cái khe hẹp thôi. Chứ anh nghĩ làm sao một đứa trẻ con ngã xuống đó mà có thể bình an vô sự chứ, ngoài việc cái khe đó chỉ sâu cỡ năm sáu mét, cùng lắm là mười mét." Vẻ mặt của Dạ Tước trông hao hao bà của Wyatt khi khuyên gã đừng đến gần cái vực, một sự kinh tởm, căm ghét hòa lẫn với sợ hãi. "Nhưng nó lớn lên. Đến ngay cả bây giờ đây, sự cắn nuốt và phát triển của nó vẫn không dừng lại. Nó tìm kiếm con mồi, và nó sẽ bất chấp tất cả cho tới khi được thỏa mãn."

Omen bước đến gần cậu trai tóc đen. Cậu thấp lắm, giống như anh họ cậu, chỉ tầm một mét sáu mươi, gã phải cúi xuống nếu muốn nhìn vào mắt Dạ Tước. Chúng tối tăm quá.

"Vậy thì Mganga liên quan gì tới việc này?"

Gã biết câu trả lời trước cả khi nó thoát khỏi môi cậu.

"Anh Mganga chính là đứa trẻ ngã xuống vực năm xưa, là khởi nguồn của tất cả mọi chuyện. Cái vực ám anh ấy, nhất quyết không buông tha cho dù anh ấy lựa chọn chạy trốn."

Không ai thoát được nó cả, dù họ đi thật xa, thật xa. Sẽ luôn có lúc nào đó, họ phải quay về đây, chết cùng với nó như cách họ đã sinh ra.

Giọng của người đàn bà khắc khổ vang vọng trong tâm trí gã, Omen không nhận ra mình đã nắm chặt lấy vai Dạ Tước, bàn tay đầy vết chai của gã bấm sâu vào da thịt cậu, chặt đến phát đau, khiến cậu rúm người lại, nhưng khuôn mặt tròn và đôi mắt như hai hạt hạnh nhân vẫn nhìn thẳng vào gã, lom lom, dài dại, gần với mắt một con robot hơn là một con người.

"Vậy đó là lý do em ấy phải biến mất?" Gã khàn giọng. "Chỉ vì thế thôi? Bởi vì Mganga đã ngã xuống vực hồi bé, là đối tượng mà thức chết tiệt dưới kia thèm khát, nên em ấy xứng đáng bị đẩy xuống dưới đó một lần nữa? Để bảo vệ các người? Để các người được tiếp tục sống dưới ánh mặt trời?"

Gã nhớ lại ánh mắt long sòng sọc của người đàn bà ở tiệm tạp hóa, bật cười giễu cợt, nhưng chính gã cũng nhận ra giọng nói mình đang run rẩy.

"Đừng có rao giảng việc các người đã phải trả giá đắt thế nào với tôi. Tôi không quan tâm cái chó chết gì mà mấy người đang ấp ủ, đó không phải là nơi em ấy nên trở về, không ai xứng đáng phải làm vật hiến tế cả. Em ấy không phải vật hy sinh!"

Dạ Tước chạm lên má Omen, đầu ngón tay cậu tức khắc dính đầy nước mắt. Lúc đó gã mới nhận ra là mình đang khóc. Khuôn mặt của cậu dịu đi, trông gần giống những lúc khi y nhìn gã một cách đáng ngại.

"Bình tĩnh lại, Omen, em cùng phe với anh mà. Những người dân đó đúng là đã gián tiếp, hoặc trực tiếp, ai mà biết được, đẩy anh ấy xuống. Nhưng nỗi sợ của họ còn đến từ một lý do khác."

"Họ sợ vì không biết bao giờ sẽ đến lượt mình."

Đến tận bây giờ gã mới nhận ra, tay Dạ Tước lạnh buốt như nước tuyết tan.

"Đã có rất nhiều người bỏ lại đồ đạc ở miệng vực rồi mất tích. Và Mganga là trường hợp đầu tiên."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro