TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

I. Tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc

1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng

a. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công cuả cách mạng

Theo HCM, để đánh bại đế quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu chỉ có tinh thần yêu nước chưa đủ mà cần phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc bền vững. Vì vậy, trong tư tưởng HCM đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng.

Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân cần phải có chính sách và phương pháp phù hợp với từng đối tượng, trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, đại đoàn kết dân tộc phải luôn luôn được nhận thức là vấn đề sống còn, quyết định thành bại của cách mạng.

Vai trò của khối đại đoàn kết:

ØĐoàn kết làm ra sức mạnh

ØĐoàn kết là then chốt của thành công

ØĐoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công.

b. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng của dân tộc

Đoàn kết là sức mạnh, là mạch nguồn của mọi thắng lợi. Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực.

Ngày 3.3.1951, HCM thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “ Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gốm trong 8 chữ: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc.”. Vì vậy, Người luôn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần lời dạy:  “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng. Bởi lẽ, cách mạng muốn thành công nếu chỉ có đường lối đúng chưa đủ mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng, thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc.

2. Nội dung của đại đoàn kết dân tộc

a.Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân

Đứng trên lập trường giai cấp công nhân và quan điểm quần chúng, HCM đã đề cập vấn đề Dân và nhân dân một cách rõ ràng, toàn diện.

Trong tư tưởng HCM, Dân và nhân dân vừa được hiểu với tư cách là mỗi con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng  nhân dân, họ là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết dân tộc thực chất là khối đại đoàn kết toàn dân.

HCM cho rằng: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài…Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; Ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà; Ai có tài, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết”. Vì vậy, Người chỉ rõ, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp- dân tộc để tập hợp lực lượng và Người đã định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình cách mạng Việt Nam từ CMDTDCND đến CMXHCN.

b. Thực hiện đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc; đồng thời phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người

Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc, truyền thống này được xây dựng, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước và đã trở thành cội nguồn sức mạnh của dân tộc, trong cuộc đấu tranh chống mọi thiên tai địch hoạ, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.

Theo HCM, trong mỗi con người ai cũng có mặt tốt, mặt xấu…cho nên, vì lợi ích cách mạng, cần phải có lòng khoan dung độ lượng, trân trọng phần thiện ở mỗi con người.

Người cho rằng: “Trong mấy triệu người…dòng dõi tổ tiên ta. Vậy ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận thấy rằng đã là con lạc cháu hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường ta phải dùng tình nhân ái mà cảm hại họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”.

Để thực hành đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Vì vậy, nguyên tắc tối cao của Người là yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân, tiếp nối truyền thống dân tộc “ nước lấy dân làm gốc”.

3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc

a. Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thông nhất

Đại đoàn hết dân tộc trong tư tưởng HCM  là một chiến lược cách mạng và trở thành khẩu hiệu của toàn Đảng, toàn dân tộc. Và nó biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.

Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước. Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ và yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, cương lĩnh và điều lệ của Mặt trận dân tộc thống nhất có những nét khác nhau và tên gọi của Mặt trận dân tộc thống nhất cũng khác nhau:

+ Hội đồng phản đế đồng minh (1930)

+ Mặt trận dân chủ (1936)

+ Mặt trận nhân dân phản đế (1939)

+ Mặt trận Việt Minh (1941)

+ Mặt trận Liên Việt (1946)

+ Mặt trận dân tộc GPMNVN (1960)

+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ( 1955à 1976)

Song chỉ là sự phấn đấu vì mục tiêu là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân.

b. Một số nguyên tắc cơ bản của Mặt trận dân tộc thống nhất

- Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công- nông- trí, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.

- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.

II. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC THỂ HIỆN QUYỀN LÀ CHỦ VÀ LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN

- Xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ luôn là quan điểm nhất quán, xuyên suốt trong lập trường tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ ... Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”.

- Dân chủ là “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Dân chủ ở nước ta là dân chủ gián tiếp theo hình thức đại diện.

1. Nhà nước của dân

- Quan điểm nhất quán của HCM là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc thuộc về nhân dân.Quan điểm trên được thể hiện qua hai bản Hiến pháp mà Người đã lãnh đạo soạn thảo trong 24 năm làm Chủ tịch nước là Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959.

- Nhân dân làm chủ Nhà nước tức là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước. Nhân dân có bầu ra các đại biểu, uỷ quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; đồng thời, nhân dân cũng có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

- Người cũng nêu lên quan điểm Dân là chủdân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Do đó, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước.

Trong nhà nước của dân, người dân được hưỏng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa uỷ quyền của dân, chỉ là công bộc của dân.

2. Nhà nước do dân

- Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ.Nhà nước đó do nhân dân lựa chọn bầu ra, do dân ủng hộ, đóng thuế để hoạt động... Do đó khi cơ quan nhà nước không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi miễn nó. Tuy nhiên, quyền lợi, quyền hạn của nhân dân bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ của người công dân.

- Hồ Chí Minh quan niệm phải xây dựng Nhà nước Việt Nam mới hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước do nhân dân tạo ra và quản lý ở chỗ:

+ Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.

+ Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ.

+ Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành pháp nhà nước cao nhất, thực hiện các nghị quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật.

+ Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí của dân.

3. Nhà nước vì dân

- Nhà nước vì dân là nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ lợi ích nào khác. Đồng thời, cán bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân thừa uỷ quyền và cũng là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân.

Nhà nước đó là một nhà nước trong sạch, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Phải làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở và được học hành. Cán bộ nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh.

Cán bộ thì phải trung thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm chính..., là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với dân, trọng dụng hiền tài... Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài. Cán bộ là đầy tớ của dân chứ không phải là làm quan phát tài.

III. QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA BẢN CHẤT GIAI CẤP CÔNG  NHÂN VỚI TÍNH NHÂN DÂN VÀ TÍNH DÂN TỘC CỦA NHÀ NƯỚC

1. Về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước

Nhà nước là một phạm trù lịch sử, là sản phẩm của một xã hội có giai cấp, luôn mang bản chất của một giai cấp nhất định, không có Nhà nước nào phi giai cấp và không có Nhà nước nào đứng trên giai cấp..

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân đồng thời cũng mang bản chất giai cấp công nhân vì:

Một là, Nhà nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Điều này được thể hiện:

- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất của giai cấp công nhân; bởi nòng cốt của nhân dân là liên minh giữa 3 giai cấp: công nhân - nông dân - trí thức, trong đó giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Bên cạnh đó, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Những phương thức đó là những quan điểm, chủ trương, đường lối thông qua tổ chức Đảng và đảng viên của mình trong Quốc hội, Chính phủ, các ngành, các cấp của Nhà nước... được thể chế thành pháp luật, chính sách, kế hoạch của Nhà nước. Đồng thời, Đảng cũng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.

- Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp:

+ Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.

+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước.

+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.

Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng XHCN của sự phát triển đất nước.

Ba là, bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta còn thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ.

2. Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước

Hồ Chí Minh là người giải quyết thành công mối quan hệ giữa các vấn đề giai cấp - dân tộc trong xây dựng Nhà nước Việt Nam mới; đồng thời, đã giải quyết hài hoà, thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc.

+ Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài với sự hy sinh xương máu của bao thế hệ người Việt Nam từ quá trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc gian khổ.

+ Tính thống nhất còn thể hiện ở việc Nhà nước bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm cơ bản.

+ Nhà nước ta vừa ra đời đã đảm nhiệm vai trò lịch sử là tổ chức toàn dân kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới.

IV. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CÓ HIỆU LỰC PHÁP LÝ MẠNH MẼ

1. Xây dựng một Nhà nước hợp pháp, hợp hiến

- Sau khi giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới khai sinh nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngay sau đó, Người đề nghị Tổng tuyển cử càng sớm càng tốt để lập ra Quốc hội rồi sau đó cử ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy nhà nước.

- Cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 thắng lợi, Quốc hội của nước Việt Nam mới được thành lập. Đây là chính phủ hợp hiến đầu tiên do nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại.

2. Hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống

Quản lý Nhà nước là quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác, nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng Luật, bằng Hiến pháp.

Trong nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật luôn đi đôi với nhau, đảm bảo cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Mọi quyền dân chủ phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật. Xây dựng một nền pháp chế XHCN đảm bảo việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm của Hồ Chí Minh.

Vì vậy, mọi công dân phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật. Đồng thời, công tác giáo dục luật cho mọi người là cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý, đảm bảo quyền và nghĩa vụ công dân

V. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH, HOẠT ĐỘNG CÓ HIỆU QUẢ

1. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài

- Để tiến tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ, yêu cầu của đội ngũ cán bộ phải có đức và tài trong đó đức là gốc, đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý và có hiệu quả.

Đồng thời, Người cũng đưa ra những yêu cầu cụ thể là:

+ Tuyệt đối trung thành với cách mạng.

+ Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.

+ Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.

+ Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản.

+ Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước.

Để đảm bảo công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người ký sắc lệnh ban hành Quy chế công chức. Công chức theo chế độ chức nghiệp, vì vậy phải qua thi tuyển công chức để bổ nhiệm vào ngạch, bậc hành chính.

2. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước

- Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân không bao giờ tách rời với việc làm cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh.

Để làm được điều đó, cần xác định đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội có thể kết hợp cho nhau, do đó cần tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức: vừa phải nhấn mạnh vai trò của luật pháp, đồng thời tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân nhất là giáo dục đạo đức.

- Đồng thời, phải đề cao việc khắc phục những biểu hiện tiêu cực xảy ra trong quá trình tổ chức hoạt động của Nhà nước.

Những biểu hiện tiêu cực cần phải lưu ý để khắc phục trong quá trình Nhà nước hoạt động, như: đặc quyền, đặc lợi; tham ô, lãng phí quan liêu;“Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”...

3. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng

- HCM đã kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đời sống xã hội.

Người đề cao sức mạnh và hiệu quả của luật pháp. Một mặt dựa vào tính nghiêm minh của thi hành pháp luật, mặt khác dựa vào sự gương mẫu, trong sạch về đạo đức của người cầm quyền. Do đó, không thể nói đến một Nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu quả nếu không kiên quyết, thường xuyên đẩy mạnh cuộc đấu tranh để ngăn chặn tận gốc những nguyên nhân gây ra nạn tham ô, lãng phí, quan liêu.

KẾT LUẬN

a. Nhà nước phải bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, đòi hỏi phải:

+ Bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực

+ Quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật  và đưa Hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống

+ Bảo đảm mọi người được bình đẳng trước pháp luật, xử phạt nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật

+ Chú ý thực hiện các  quy tắc dân chủ trong cộng đồng dân cư tùy theo điều kiện từng vùng, miễn là không trái với pháp luật.

b. Kiện toàn bộ máy hành chính Nhà nước

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực này đòi hỏi phải:

+ Đẩy mạnh cải cách nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, phục vụ đắc lực và có hiệu  quả đối với nhân dân.

+ Kiên quyết khắc phục thói quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà, sách nhiễu, tham nhũng, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, sa sút về phẩn chất đạo đức cách mạng, năng lực thực hành nhiệm vụ công chức kém cỏi

+ Thực hiện cải cách thủ tục hành chính, đề cao trách nhiệm cá nhân trong  việc giải quyết các khiếu kiện của công dân theo đúng quy định  của pháp luật;

+ Thực hiện chuẩn hóa, sắp xếp lại đội ngũ công chức có đức, có tài, tinh thông  chuyên môn, nghiệp vụ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải được tiến hành thường xuyên, bảo đảm chất lượng.

c. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, đối với Nhà nước

Công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng gắn liền với tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Đây là trách nhiệm cực kỳ quan trọng của Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện ở những nội dung sau:

- Lãnh đạo nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng và phát huy vai trò quản lý của Nhà nước.

- Đổi mới phương thức lãnh đạo  của Đảng đối với nhà nước: lãnh đạo bằng đường lối, bằng tổ chức, bằng vai trò tiên phong, gương mẫu đi đầu, bằng công tác kiểm tra.

- Đảng không làm thay công việc quản lý của Nhà nước, Đảng lãnh đạo thống nhât công tác cán bộ trong hệ thống chính trị trên cơ sở bảo đảm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước theo luật định

 Bản chất, tính chất của Nhà nước gắn liền với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, do đó sự trong sạch, vững mạnh của Đảng CSVN là yếu tố quyết định cho thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro