Chương 4: Chút tranh chấp nhỏ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

TEL AVIV, ISRAEL

Sau khi kết thúc giờ học ở trường, Sally uể oải rảo bước về ký túc xá. Cô bé đã quá mệt để có thể tiếp tục làm bất cứ điều gì khác, cô chỉ muốn nằm ngủ một giấc thôi.

Sally vừa vào được phòng đã nhanh chóng để ngay chiếc cặp lên bàn học, không thèm thay bộ đồng phục mình đang mặc trên người mà nằm ngay lên giường. Cô chìm vào giấc ngủ trong chưa đầy hai phút.

Charlotte hôm nay không về phòng, cô nàng ở lại học vẽ thêm giờ. Sắp tới cô nàng sẽ tham gia một cuộc thi vẽ cấp Quận. Cô nàng là đại diện của trường nên sẽ cố hết sức để trường EMIS có giải. Mặc dù đã chiến thắng khá nhiều giải thưởng hội họa nhưng cô nàng chưa bao giờ chủ quan. Ngày nào thấy cô nàng đã quá giờ học nhưng không về ký túc xá thì chắc chắn là ở lại luyện vẽ hoặc là đi từ chối lời tỏ tình của anh chàng nào đó thôi.

Đã quá giờ ăn tối nhưng Charlotte vẫn chưa về, Sally vẫn còn đang ngái ngủ sau khi thức dậy. Cô bé với khuôn mặt lờ đờ đi thay một bộ trang phục mới, áo thun rộng thùng thình và một chiếc quần dài đến mắt cá chân. Cô bé rửa mặt rồi chán nản đi về phía bàn học. Trên bàn có một phần thức ăn được gói ghém cẩn thận trong hộp xốp, có thịt cừu và một ít salad. Sally hiếu kỳ nhìn xung quanh cái hộp, có một tờ giấy nhỏ ở dưới đáy của nó. Trên đó có một dòng chữ mà chỉ cần nhìn thoáng qua cô có thể biết ngay ai là người viết nó. "Em ăn trước đi! Chị về trễ.". Có một hình mặt cười được vẽ ở góc phải tờ giấy. Cô chắc trăm phần trăm, tờ giấy này là của Charlotte.

Sally cười nhẹ rồi nhanh chóng ăn hết bữa tối. Cô bé không ngần ngại ngồi ngay vào bàn học sau khi đã dọn dẹp xong căn phòng. Sally sẽ học trong khoảng một tiếng. Nếu so với các bạn khác trong lớp, thời gian học của cô ít hơn hẳn, không phải do cô lười mà là do khả năng tập trung cũng như năng lực của cô vốn đã vượt trội nên đó là điều hiển nhiên.

Sally lấy những cuốn vở Toán của mình ra từ trên kệ, ôm chúng vào trong người, rồi... chui xuống gầm bàn. Cô bắt đầu học. Vì ở dưới đó khá tối, cô bé lại bị cận nhẹ, theo lời bác sĩ thì khoảng nửa độ, một chiếc đèn là vật dụng cần thiết vào lúc này. Cô thường dùng đèn của Charlotte vì cô nàng đó cho phép và cũng rất thoải mái, không phàn nàn gì. Hôm nay cũng vậy, cô lấy đèn bàn của cô gái tóc nâu cùng phòng, bật nó sáng lên.

Sally khom lưng, mặt cúi sát trang vở. Cô bé cứ hí hoáy viết mà chẳng màng đến thế giới ngoài kia. Việc thường xuyên bị cô lập, kèm theo tính cách lạnh lùng của mình đã khiến cô chỉ có thể học một mình mà không có sự đồng hành của bất kỳ một người bạn nào khác. Cô bé ưa thích cách học khi không có ai cạnh bên, cô ghét ánh mắt của người khác, cô thích ở một mình. Một ngày, ngoài thời gian làm thí nghiệm, dọn dẹp phòng hay học trên lớp, cô dường như dành toàn bộ thì giờ cho việc học các môn Khoa học tự nhiên. Thường sẽ là giải đề Toán hoặc học thêm kiến thức về hóa sinh chẳng hạn. Dù gì ước mơ của cô cũng chính là trở thành một nhà khoa học.

Cô bé học liên tù tì suốt một tiếng đồng hồ, sự tập trung của cô bé là thứ gì đó rất khó bị phá vỡ. Những con chữ dần lấp đầy trang vở, mực trong bút cũng đang cạn dần. Vì không đủ tiền để mua một cái máy tính cầm tay như các học sinh khác, Sally chỉ đành luyện cách tính nhẩm, trong cái rủi có cái may, nhờ vậy mà đầu óc cô lúc nào cũng nhanh nhạy hơn người.

Sally thích cái cách làn gió êm dịu lướt qua mái tóc cô sau khi bước vào từ ô cửa sổ, thích cái cách chúng làm đôi tai và chóp mũi cô đỏ lên. Cô không giỏi chịu lạnh, dù chỉ là hơi mát cũng đủ khiến vai cô khẽ run.

Sau khi hoàn thành hết bài vở trên lớp, Sally dọn dẹp sách vở thật gọn gàng. Cô mang ra cuốn sổ tay bìa da màu đen, bên trong là vô số những thông tin liên quan đến các thí nghiệm, những lần thực hành của cô. Thứ này lưu trữ biết bao nỗi niềm đam mê mà cô đã đặt vào. Chính nó đã đồng hành cùng cô bé đến tận khuya, trên chiếc bàn thí nghiệm nhỏ.

Sáng hôm sau, Sally thức dậy thật sớm. Hôm nay là cuối tuần, cô hoàn toàn được phép xin nghỉ để trở về nhà, về thăm người bà yêu quý của cô. Cô bé mặc một chiếc áo màu thun màu xanh lá đậm, một chiếc quần dài che đi mắt cá chân. Cô đeo một cái túi to chứa sách vở và đồ thí nghiệm của mình. Cô bé rời khỏi ký túc xá vào cái lúc mà hầu hết các nữ sinh đều đang say giấc – sáu giờ sáng. Cô không ra khỏi trường ngay mà ghé qua nhà ăn. Để tiết kiệm tiền, gần như mọi bữa sáng của cô luôn diễn ra tại đây. Ở trường thường ăn theo hình thức buffet nên thỉnh thoảng cô có thể "gian lận" thêm một chút thức ăn.

Sau khi ăn sáng, cô rời khỏi trường, thẳng bước về nhà. Như mọi khi, ánh mắt người dân trên đường dành cho cô không mang chút thiện ý nào. Phán xét. Khinh bỉ. Kỳ thị. Từ lâu, cô đã không còn cảm thấy lạ với nó nữa rồi. Thậm chí, nó đã trở thành một phần trong cuộc sống của cô bé. Sally đôi lần tự hỏi, không có những ánh mắt đó, cô có cảm thấy thiếu thốn gì không?

Cô đi ngang qua một con hẻm vắng vẻ, trái hoàn toàn với vẻ hoa lệ của Tel Aviv ngoài kia. Có một thằng nhóc da đen từ đâu ra đi tới, sau lưng nó là một đứa nhóc người Do Thái đang ôm trong vòng tay vài mẩu giấy. Hai thằng nhóc đó với vẻ mặt kiêu căng, chúng to tiếng với Sally:

– Ê bà chị! Bữa nay sao rồi? Được gặp bà mẹ kinh tởm của chị chưa?

Vừa kết thúc câu nói, thằng nhóc Do Thái đã ném một mẩu giấy mà nó có về phía cô. Thằng nhóc da đen đứng đó thấy vậy, khanh khách cười.

– Sao? Xứng với bà chị lắm đó! Khỏi cảm ơn!

Nó huênh hoang nói. Sally không thèm để tâm đến nó làm gì. Cô cá chắc trong mảnh giấy đó là mấy hình vẽ chế giễu hoặc mấy câu chữ chửi rủa cô. Vì lẽ đó, chẳng cần bận tâm nhiều làm gì, cô mặc kệ hai đứa nhóc, thẳng thừng đi tiếp.

– Gì đây? Về thăm bà già đó hả?

Thằng nhóc da đen hùng hổ bước tới gần Sally. Hai tay nó chống hông, mặt nghênh nghênh cố ý gây chuyện, mắt nó láo liên nhìn cô. Cô thấy rõ, nó nhìn cô từ đầu đến chân, nhìn xong, nó còn đảo mắt tỏ vẻ khinh bỉ.

– Thật kinh tởm!

Nó bĩu môi. Nhìn vẻ ngoài của nó, Sally đoán chắc nó và gia đình là dân nhập cư trái phép vào Israel từ Châu Phi. Ở gần đây có cả một khu như vậy, có lẽ nó cũng ở đó.

– Bà già đó sắp đi đời đến nơi mà còn bán buôn. Bảo bả đốt quán đi nhá!

Thằng nhóc người Do Thái mặc sơ mi xanh hét lớn, như muốn cho thấy bản thân "oai" như thế nào với mọi người bằng việc sỉ nhục cô.

Thằng bạn của nó, thằng nhóc người Châu Phi lên tiếng hùa theo:

– Tại quán của bà già đó mà nhà tôi chẳng bán được gì. Hứ! Bảo bả dẫn đứa như chị biến đi sớm sớm nhá!

Sally đứng yên trên đường, mặt cô đỏ bừng lên vì tức giận. Cô đáng lẽ đã rời đi, nhưng cô vẫn quay trở lại, đối mặt với chúng nó. Cô ghét chúng nó, hận chúng nó. Chúng nhắc về mẹ cô, cô bỏ qua. Chúng sỉ vả cô, cô chấp nhận, vì quá quen rồi. Nhưng chúng rủa bà cô, cô phải chống trả. Cô bé thương bà. Thương bà ngoại lắm! Cô không chấp nhận việc bà mình bị chúng nó coi thường như thế.

Sally dừng bước khi chỉ còn cách chúng nó nửa mét. Mặt cô vẫn còn đỏ, hai bàn tay cô nắm chặt, mày chau lại. Đôi mắt cô có màu xanh lục bảo, những giờ nó còn pha thêm sắc màu của sự giận dữ. Cô dán ánh nhìn căm phẫn lên hai đứa nhóc.

– Chà chà! Bà chị đây nổi giận thật rồi kìa!

Thằng nhóc người Do Thái chế nhạo, rồi cùng bạn nó cười một cách lỗ mãng. Thằng nhóc da đen bước lên phía trước, bước đi của nó nói lên con người phách lối của nó. Thằng nhóc đó ngạo mạn dùng tay đẩy mạnh vai cô làm cô lảo đảo. Hai đứa nó lại bật cười.

Sally lấy lại thăng bằng. Cô đáp trả, dùng hai tay đẩy mạnh tên nhóc đó. Nhưng nó không ngã. Ngược lại còn tỏ vẻ vênh váo hơn.

– Các người biết gì mà nói.

Cô nhìn chúng bằng ánh mắt căm phẫn, nói với chúng bằng chất giọng bình thản một cách giả tạo. Cô nóng lòng để nhào vào đánh chúng thật đau, nhưng cô nhắm bản thân không đủ sức. Cô nói với chúng một lần nữa, cao độ giọng nói vẫn ổn định:

– Các người biết gì mà nói về bà tôi.

Thằng nhóc người Do Thái từ đằng sau bước tới, vẻ mặt cau có vì sự phản kháng của Sally. Nó hỗn hào nói với cô:

– Bọn này thích thế đấy! Làm sao à?

Giọng điệu của nó rõ khiêu khích. Thay vì bỏ đi như mọi khi sau vài câu bỡn cợt, hôm nay chúng bỗng "dai" hơn. Hai đứa nó tiếp tục trêu ngươi:

– Bà già nhà mày sắp chết đến nơi rồi đó, lo mà về đi chứ đứng đây làm gì?

Giọng cười chúng nó chói tai đến nỗi, Sally chỉ muốn đấm cho chúng nó mỗi đứa chục cái. Nhưng cô biết bản thân không đủ sức, nên thôi.

– Bảo bả dẹp tiệm đi! Tại bả mà mẹ tao chẳng bán được gì.

Chúng nó lấn tới, cô giận dữ chống lại.

– Chúng mày vốn dĩ không nên có miệng. Nên câm đi!

Vẻ mặt hai đứa nhóc cứng đờ khi nghe cô nói câu đó. Thằng nhóc da đen bắt đầu vung tay định đẩy cô lần nữa, nhưng lần này Sally đã may mắn tránh được.

– Bà chị hôm nay mạnh miệng thế!

Thằng nhóc bạn nó cố ý ném giấy vào cô, cô chịu được. Lấy lại bình tĩnh, cô suy nghĩ thật kỹ, cô không đủ sức để đánh lại hai đứa nó, người dân sống gần con hẻm này càng lúc càng hoạt động nhộn nhịp hơn, chi bằng tìm xem hai đứa nó có thù oán gì với người dân khu này không.

Sally lùi bước dần, cố ý kéo chúng ra khỏi con hẻm, để người dân khu này có thể thấy rõ hơn. Sau một lúc lục lọi trí nhớ của mình, cô nhận ra, thằng nhóc da đen này là đứa đã trộm mất ba cái máy chơi điện tử ở cửa hàng Mèo Con Mất Đuôi của bà Katz khó ở – hàng xóm nhà cô – khiến bà ta qua quán nhà nó hò hét một trận làm khách ở đó chả dám ngồi xuống ghế. Đến tận hôm nay bà Katz vẫn chưa tóm được nó dù rất muốn. Ba cái máy chơi điện tử của bà ta cũng mất trắng vì mẹ thằng nhóc nhất quyết không chịu đền bù. Hai quán cũng thù ghét nhau từ đó. Cứ mỗi lần có dịp là không sai vào đâu được, chủ quán này nhất định phải nói xấu, bêu rếu về quán kia. Mặc cho mặt hàng họ bán chẳng liên quan gì đến nhau, nhưng bào mòn lượng khách của quán kia đã trở thành sở thích của họ.

Sally nghĩ thầm. Nếu cô gọi được bà Katz đến đây chắc sẽ có chuyện hay để dân tình vào hóng. Mỗi lần nghe ai nhắc đến từ "ăn trộm" là bà ấy sẽ tức tốc lao ra khỏi nhà với một chiếc dép trên tay. Cô suy tính, quán bà Katz mở cửa cả ngày, chỗ đó lại cách đây không xa – chưa tới mười mét – nếu cô hét lớn, và kịp giữ nó lại cho đến khi bà ấy tới, thì chúng nó toi đời. Cô từ từ dẫn dụ hai đứa nhóc:

– Các người thì biết gì! Im đi!

– Không thích im đấy! Làm được gì à? Con khùng như mày biết điều thì im.

Thằng nhóc Do Thái thách thức. Cô cố ý giữ áo chúng nó lại, chúng chẳng nhận ra. Mặc kệ chúng buông lời sỉ vả, cô hít một hơi sâu, siết chặt lớp vải áo của chúng, hét lớn nhất có thể:

– BÀ KATZ ƠI! THẰNG ĂN TRỘM NÓ ĐÂY NÈ! QUỶ THA MA BẮT NHÀ NÓ!

Tiếng hét của cô lớn đến mức làm kinh động cả khu này. Mấy người đi đường giật bắn cả mình, có người còn suýt tông vào thùng rác vì mắt cứ nhìn cô và chúng nó quay mòng mòng cùng nhau.

Sally nhanh trí dùng hai tay nắm đầu hai tên đó, ít ra làm vậy chúng cũng khó đánh cô hơn. Nhưng cô nhanh chóng bị chúng đáp trả, sức cô không thể đọ lại hai đứa con trai.

May thay, bà Katz đã phóng ra từ trong cửa hàng, tay cầm theo chiếc dép màu hồng. Bà ta chạy ra gần con đường đất nhỏ, nói lớn:

– ĐÂU? THẰNG NHÃI ĐÓ ĐÂU?

Người đi đường chỉ điểm cho bà Katz ngay tức khắc. Sally chắc chắn nó toi đời rồi. Vừa đến nới, bà Katz đã dùng hai tay kéo tai hai nhóc con đó, kéo chúng ra khỏi Sally. Bà ta để thằng bé Do Thái sang một bên kèm theo câu nói dữ tợn:

– Mày ở yên đây! Tao tính chuyện với mày sau.

Không rõ nó có dại dột rước họa vào thân bằng việc đụng đến bà Katz đây như bạn nó không, điều này không nằm trong phạm vi quan tâm của Sally. Cô chỉnh trang đầu tóc, hả hê nhìn chúng nó đối diện với người đàn bà hung dữ có tiếng trong khu.

– Mày nè! Mày khá lắm! Tao cho mày thấy!

Mỗi lần nói xong một câu, bà Katz đều dùng chiếc dép hồng đánh cho thằng nhóc da đen đó một cái rõ đau. Còn phát ra tiếng "bốp". Thằng nhỏ thì cứ khóc lóc, năn nỉ bà ta tha cho. Nhưng nào có dễ vậy. Bà ấy còn bắt nó phải cúi đầu xin lỗi, khai ra đám bạn chuyên trộm đồ cùng nó. Và thế là xong, thằng nhóc đó không chỉ trộm mỗi máy chơi điện tử mà còn ăn cắp cả ví tiền, đồ dùng của nhiều người trong khu. Lần này bà Katz cùng mấy người trong khu chắc chắn không để yên cho nó.

– Tao nói với mày nhá Kelvin! Đừng có mà giở trò lần nữa! Tao cho mày lên trời.

Thì ra tên nó là Kelvin. Nói rồi, bà đưa nó cho một chú bán hàng cao to đang hóng chuyện, bà ấy nhờ vả gì đó, có lẽ là đưa nó đến chỗ cảnh sát.

Sally đứng tựa vào vách tường, khoanh tay, thỏa mãn nhìn kẻ gây sự bị người khác xử lý. Đáng lắm! Cô sẽ không lo chuyện bao đồng kiểu này, nếu nó biết tôn trọng bà ngoại cô. Cô tự thấy tốn của mình cả mười lăm phút cho chuyện không đâu. Không quan tâm số phận thằng nhóc còn lại sẽ ra sao khi rơi vào tay bà Katz, cô quay lưng bỏ đi, không nhìn lại một lần nào.

NEW YORK, THE USA

Hôm nay là Chủ nhật, Serpens không có lịch học ở trường Đại học. Hôm nay anh về nhà. Serpens đang ở New York, trong chính căn nhà anh đã sống khi còn bé tí. Nói đúng hơn thì đây là một dinh thự. Nó thậm chí còn có tên riêng, là Poterna. Dinh thự hoành tráng rộng đến hơn 4.000 mét vuông, được xây dựng bằng gỗ từ những cây linh sam trăm tuổi và những vật liệu tự nhiên từ vùng Tây Bắc Thái Bình Dương. Tòa dinh thự được bao bọc bởi hàng hàng, lớp lớp những cây xanh to lớn và những chậu cây kiểng đắt giá. Hệ thống bảo vệ tự động và các thiết bị công nghệ của Poterna khiến người khác khi lần đầu nhìn thấy nhất định phải trầm trồ. Đối với người ngoài, có thể tòa dinh thự Poterna là một nơi trên cả tuyệt vời. Nhưng đối với anh, nó lại rất tẻ nhạt.

Serpens đã ngồi ì trên giường được hơn một tiếng đồng hồ vì công việc đang rối như mớ bòng bong. Anh đã cố trì hoãn tiến độ của một dự án, để tránh nhận thêm dự án mới, mặc dù cách này khá ích kỷ nhưng anh đang kiệt sức và dần tiêu cực để có thể quan tâm nhiều hơn. Anh cũng rất mệt mỏi với chính đội nhóm của mình. Anh đồng ý các thành viên trong tổ đều rất giỏi, nếu so với những người bình thường. Nhưng đối với anh, tốc độ tiếp thu thông tin của họ như tốc độ di chuyển của một con lười vậy. Chính xác là chẳng khác gì một con lười. Có thể là do họ yếu kém, hoặc do anh quá thông minh, thông minh vượt trội hơn họ. Anh tự nhận thức được vậy. Có vẻ hơi tự cao.

Serpens đứng dậy, rảo bước qua lại và vươn vai để thả lỏng cho cái lưng đau nhức của mình. Từ buổi tối mấy hôm trước, anh nhận ra cơ thể mình đang có dấu hiệu suy nhược, có thể do anh đã làm việc, học tập quá sức. Anh cũng nhận thấy tinh thần xuống dốc rõ rệt. Cảm giác bỗng dưng bị trọng lực kéo xuống đáy vực thẳm lúc nào cũng kí sinh trong đầu óc anh. Cũng có khả năng là do nghĩ quá nhiều, nhưng anh cũng cho rằng bản thân đang mắc một căn bệnh tâm lý nào đó. Anh không tin một người có tâm lý bình thường lại suốt ngày nghĩ đến chuyện tiêu cực, nào là tự tử, bị ám sát, bị đột quỵ,... giống như anh được. Nhưng anh vẫn chưa đi khám bác sĩ. Nếu đi khám bác sĩ ở gần đây hoặc đến tư vấn tâm lý ở trường thể nào cũng có tai mắt của ba mẹ anh. Anh không muốn họ biết, nhỡ đâu anh có chuyện gì...

Anh đi xuống tầng trệt – nơi có ông quản gia lúc nào cũng trực sẵn ở đó. Chưa đi hết cầu thang, anh đã nhìn thấy bóng dáng của ông lão đó. Lão quản gia nhà anh là một người đàn ông góa vợ đã ngoài bảy mươi. Lão ta tên Parvus Vetius Campbell, đã làm việc tại nơi này được hơn ba thập kỷ. Lão Campbell có khuôn mặt hốc hác, hai mí mắt gần như dính lại với nhau, mái tóc bạc trắng và đôi môi chưa bao giờ ngừng mấp máy như thể lão đang liên tục rủa mắng ai đó. Mà cũng có thể lão đang học thuộc "bài ca mắng nhiếc" của lão, vì không một ngày nào mà các cô giúp việc không bị lão mắng xa xả vào mặt, lão chỉ cố ra oai thôi.

Vừa thấy anh xuất hiện trên cầu thang, lão Campbell đã nhanh chóng bước đến chào hỏi:

– Chào buổi sáng cậu chủ!

Serpens phớt lờ câu nói của lão ta. Anh tiến đến bàn ăn, ngồi ngay ngắn. Lão ta, như một thói quen, nhanh chóng lấy ra các đĩa thức ăn đã chuẩn bị sẵn. Hầu như hôm nào anh về nhà cũng vậy, các đầu bếp và người giúp việc sẽ được thông báo trước. Sáng sớm, các đầu bếp sẽ đến và chuẩn bị bữa sáng cho anh, còn những người giúp việc sẽ phải dọn dẹp mọi ngóc ngách trong dinh thự. Sau khi xong việc, ai về nhà nấy, đến trưa và tối, các đầu bếp sẽ trở lại.

Bữa sáng thịnh soạn được bày biện ra bàn. Thông thường đối với người Mỹ, bữa sáng sẽ là những món đơn giản như bánh mì nướng quết bơ hay ngũ cốc sữa tươi. Nhưng với anh lại khác, anh chọn một bữa sáng đầy đủ dinh dưỡng thay vì một bữa ăn nhanh.

Anh thưởng thức bữa sáng của mình trong khi ông quản gia đang thông báo tình hình của ba mẹ anh – ông bà chủ của dinh thự này. Hai người họ, một người đang có cuộc gặp mặt với các đối tác kinh doanh, một người đi dự chương trình biểu diễn thời trang ở Ý. Suy cho cùng, anh nghe cũng chữ được chữ mất, anh đã quá quen với việc trong nhà chỉ có duy nhất một chiếc ghế ăn không bị trống.

Sau khi ăn xong, Serpens trở lại về phòng của mình. Anh tự nhốt mình trong phòng, tiếp tục dấn thân vào sự hỗn độn công việc.

Thứ níu kéo lấy anh suốt hai tiếng đồng hồ sau đó vẫn là công việc và bài vở. Nhưng anh cuối cùng cũng khiến chúng phải tạm buông anh. Đã đến lúc anh nghỉ ngơi rồi! Nếu là trước kia, anh sẽ làm việc, học hành, thí nghiệm như điên đến quên cả giờ giấc. Nhưng giờ anh cảm thấy, bản thân đã yếu hơn, cả về thể chất lẫn tinh thần, anh cần phải vực dậy nó.

Serpens đến một căn phòng ở cuối hành lang. Căn phòng đó không rộng như phòng ngủ của anh nhưng cũng không phải kiểu chật chội gì. Nó được bày trí nội thất theo phong cách cổ điển. Ở giữa phòng là một chiếc đàn dương cầm màu đen sang trọng, trên những kệ quanh đó đặt kha khá những cây vĩ cầm, có Fiddle, vĩ cầm năm dây, vĩ cầm Baroque, vĩ cầm cổ điển, vĩ cầm hiện đại, còn có cả trung vĩ cầm và đại vĩ cầm nữa.

Serpens lúc còn bé, hầu như ngày nào cũng vào phòng nhạc cụ này chơi cho thỏa thích, nhưng dần dần, tờ giấy lịch trình của anh ngày càng được lấp kín, anh không còn đủ thời gian dành cho nó nữa. Hôm nay là một bữa hiếm hoi anh bước vào căn phòng này trong năm.

Anh chọn một cây vĩ cầm, đứng ở giữa phòng, cạnh chiếc đàn dương cầm. Mái tóc loà xoà trước trán của anh lúc này toát lên sự cuốn hút rất lạ. Vẻ mặt u sầu, đôi mắt như được phủ lên một màn sương che đi bóng tối trong nó. Vẻ đẹp của anh càng trở nên khó tả, cùng với cây vĩ cầm.

Serpens bắt đầu đàn. Từng âm thanh vang lên, tiếng nhạc nhẹ nhàng, êm dịu nhưng giai điệu lại buồn da diết. Âm điệu du dương tựa như sự rực rỡ của đời mình – thứ duy nhất mà thế giới thấy được ở anh. Đan xen trong từng nốt nhạc là một nỗi buồn. Nỗi buồn chỉ mình anh thấu. Một nỗi buồn không rõ nguyên do.

Đến khi bản nhạc kết thúc, anh vẫn cầm chắc cây đàn vĩ cầm trên tay, đôi mắt trống rỗng dán chặt xuống nền nhà. Cho đến khi tiếng chuông của ông quản gia vang lên, thái độ anh mới thay đổi rõ rệt.

– Chuyện gì?

Anh vừa mở cửa phòng đã hỏi ngay lập tức. Lão Campbell giật thót tim vì chuyện đấy. Tay lão run nhẹ khi đưa cho anh chiếc điện thoại.

– Cậu chủ, ông chủ vừa gọi cho cậu đấy ạ!

Lão Campbell nói, mặt tái hơn bình thường. Serpens kiểm tra lịch sử cuộc gọi. Ba anh đã gọi liên tục ba cuộc. Chắc có điều gì ly kỳ lắm!

– Đi đi.

Anh đuổi lão quản gia đi. Trở vào trong phòng, khóa chặt cửa, anh không gọi lại, mà chờ cuộc gọi tiếp theo từ ba mình. Chưa đầy mười giây sau, tiếng chuông điện thoại đã reo lên.

Anh bắt máy, nhưng không nói gì. Ông Titus – ba anh – ngay tức khắc đã hỏi một câu mà quên luôn cả lời chào hỏi:

– Serpens, con ở nhà mình đúng không?

– Dạ.

Anh đáp một cách hời hợt.

– Ở một mình?

Một câu hỏi cộc lốc.

– Dạ.

– Vậy được.

Serpens có thể nghe được tiếng ông thở dài.

– Chuyện gì, ba?

Từng câu nói của anh lộ rõ sự thiếu tự nhiên.

– Ba cần nói với con chuyện này. Rất quan trọng.

Ông dần nói chậm hơn, gằn từng tiếng.

– Ừm...

– Công ty sắp tổ chức từ thiện ở một khu nhỏ. Tại Israel.

Anh im lặng. Ông nói tiếp:

– Ta sẽ xây dựng một cơ sở của trung tâm toán học tại đó. Lần trước, với hoàn cảnh tương tự, cơ sở tại Haifa phát triển ngoài sức mong đợi. Công ty nhỏ của ta đề xuất ý kiến tiếp tục mở rộng cơ sở...

Ba anh, ngoài việc sở hữu một tập đoàn công nghệ lớn còn có trong tay không công ty lớn, nhỏ khác.

– Nhưng chuyện không dễ dàng lắm! Địa điểm thuận lợi nhất lại là khu vực sinh sống của một số người dân ở đó. Một lần từ thiện hoặc giúp đỡ gì đó có thể lấy được ít nhiều lòng tin của họ, việc thuyết phục di dời có thể đơn giản hơn.

– Ba muốn con đi...

Anh suy đoán.

– Ừ. Lịch trình ba gửi con sau. Với cả, tiện thể, con cũng nên xây dựng hình ảnh tốt. Đừng có mãi thu mình kiểu đó, ba không thích mấy lời đồn vớ vẩn kia đâu.

Lần này anh im lặng. Ông Titus lấn tới:

– Đừng có mà giở trò cản trở gì ở đây! Mấy dự án kia con vẫn chưa xong đâu.

Anh vuốt sống mũi trước khi trả lời:

– Còn phụ thuộc vào tốc độ của thành viên trong tổ. Đâu phải muốn nhanh là được.

– Con biết mục đích ba đưa con vào tổ như vậy là để đẩy nhanh quá trình. Thế nào con nói kiểu đấy được? Ai không được thì con cứ báo cáo, kẻ chậm trễ thì tốt hơn hết nên được loại trừ khỏi tập thể.

Ông tiếp tục quở trách. Làm theo cách của ông cũng được. Nhưng anh không muốn như vậy. Vốn dĩ công việc đã quá nhiều, lấn át luôn cả việc học của anh. Thuận theo ý ông là rước thêm dự án về tổ. Công việc nhiều quá, không chỉ anh mà các thành viên khác đều có dấu hiệu trì hoãn dự án lại, anh và họ dần kiệt sức. Rất may những dự án này không giới hạn thời gian.

Không bàn chuyện công việc nữa, ông Titus bỗng hỏi con trai:

– Con biết lịch trình của mẹ con hôm nay không?

Chuyện ba hỏi thăm về mẹ, đối với Serpens, đó là một thứ hiếm có khó tìm. Anh khá ngạc nhiên.

– Ba hỏi làm gì?

Ông Titus có vẻ hơi lưỡng lự.

– Chỉ chút việc nhỏ thôi.

Serpens biết. Anh thừa biết ba mẹ anh không hòa thuận từ lâu. Nay ba anh bỗng dưng hỏi lịch trình của mẹ, chắc chắn có việc gì đó mờ ám. Chuyện gia đình anh chưa bao giờ đơn giản.

– Con biết đúng không? Nói cho ba nhanh!

Ông bất chợt hối thúc, giọng nói lộ rõ vẻ tức giận.

– Sao ba không đi hỏi quản gia ấy? Hỏi con làm gì?

Ông Titus hằn học nói:

– Nó không đúng. Nó không khớp với vị trí của bà ấy. Bà ấy bảo hôm nay đi dự buổi biểu diễn thời trang và lúc này đang ở ngôi nhà tại Venice, Ý. Nhưng làm gì có ma nào trong ngôi nhà đó.

Serpens khó chịu với ba mình, ông ta bỗng nổi cáu vô cớ.

– Mà ba hỏi làm gì? Mẹ ở đâu thì ảnh hưởng đến ba lắm à? Công việc của hai người có liên quan gì đâu?

Anh tra hỏi liên tục. Ông Titus ở phía bên kia đầu dây thì cứng đờ người. Thứ ông lo không phải an nguy của vợ, mà là bí mật của ông.

– Thôi đi!

Ông Titus chỉ nói vậy, sau đó cúp máy.

Serpens không quan tâm đến ba mình lắm. Anh và ông ấy đã không hòa thuận từ thuở nào.

Anh cất cây đàn vĩ cầm về vị trí cũ, còn bản thân nhốt mình trong phòng nhạc. Một bản nhạc được mở lên, anh lặng nghe nó.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro