82-end

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 82

Vương Nguyệt Minh chết rồi.

Chiếm cứ Lưỡng Giang, thao túng Cán thương, không quan không tước, một thư sinh nghèo què chân mà vẫn có thể đùa bỡn quan trường Lưỡng Giang, từ quan lớn cho đến quan cửu phẩm tép riu đều bị hắn sai sử, hô mưa gọi gió, quyền lợi mạnh mẽ còn hơn cả Nguyên Thú đế.

Nếu như có thể có được cuộc sống như Vương Nguyệt Minh, thật ra cũng đáng giá.

Đến cuối cùng, trước khi chết Vương Nguyệt Minh đã vừa lòng thoả ý rồi hay vẫn không cam lòng, Chu Tử Thư không biết được, y chỉ đứng nhìn thi thể của Vương Nguyệt Minh, cầm trong tay hộp gỗ mà hắn đưa cho, những lời mà Vương Nguyệt Minh nói lúc nãy vẫn còn quanh quẩn trong đầu.

Đến Lưỡng Giang gần một năm, ngoài mặt là y đấu pháp cùng Cán thương, thực ra là giao thủ với Vương Nguyệt Minh.

Nếu như không phải vì cơ thể yếu đuối, bệnh ốm đến nỗi không thể tự thân hành động, có lẽ người mà y đối mặt phải là một Vương Nguyệt Minh hai chân khỏe mạnh, nếu là như thế y có thể thắng được mấy trận, liệu rằng y có chết dưới những mưu tính của hắn không, chẳng thể biết được.

Nhất niệm khởi, nhất niệm diệt, nhất ẩm nhất trác, đều là nhân quả.

Tiểu đồng muốn đẩy xe lăn của Vương Nguyệt Minh đi, bị ám vệ ngăn lại: "Chưa có sự cho phép của tiểu Chu đại nhân, phạm nhân có chết rồi cũng không thể đưa đi."

Tiểu đồng nhìn Chu Tử Thư nói: "Tam gia bảo, ngươi sẽ không giữ lại thi thể của ông ấy."

Lời này vừa được thốt lên, Chu Tử Thư lần nữa sâu sắc cảm nhận được rằng quả nhiên Vương Nguyệt Minh liệu sự như thần, đoán được chính xác lòng người.

Nếu như Khâm sai đến đây, chỉ sợ rằng Lục hoàng tử quen thói vũ nhục thi thể sẽ mang theo cái xác này trở về phục mệnh, hoặc là sẽ bêu đầu thị chúng, hoặc là tiên thi* để răn đe.

(*) Tiên thi: dùng roi đánh thi thể

Nhưng người tới là Chu Tử Thư, đối với y, để lại đầu người không mang lại hiệu quả và lợi ích gì, y cũng không muốn dùng một cỗ thi thể để chơi trò giết gà dọa khỉ.

Chu Tử Thư: "Để hắn đi đi."

Tiểu đồng đẩy xe lăn ra khỏi nhà thủy tạ, khi đi đến cửa thì quay đầu lại nói: "Tam gia nói, lời này là để cảm ơn ngươi đã cho ông ấy toàn thây, tốt nhất bây giờ ngươi mau chóng đến mỏ đá một chuyến đi." Chu Tử Thư nhíu mày, lòng sinh nghi hoặc.

Tiểu đồng: "Sổ sách trong tay ngươi tuy có chứng cứ phạm tội liên quan đến việc Xương Bình cấu kết với Cán thương nhưng không đủ để phán tử hình, việc khai thác ở mỏ đá và thông đồng với Nha hàng buôn người đều nhờ có Tam gia cản tay Xương Bình công chúa, gây khó dễ từ những khâu quan trọng nhất, trù tính để bà ta rơi vào cạm bẫy, nhưng bà ta cũng biết ở chỗ Tam gia không có bằng chứng để giết mình."

Nói đến đây, sắc mặt Chu Tử Thư thay đổi, đã hiểu được Vương Nguyệt Minh muốn dẫn dắt y đến điều gì.

"Mau!" Chu Tử Thư quay đầu nói với Ngụy bá và ám vệ: "Một người lập tức đến gặp Khâm sai, bảo hắn mang binh tới bao vây mỏ đá, một người theo ta đến mỏ đá ngoài thành cứu người —— Xương Bình muốn giết người diệt khẩu!!"

***

Giờ hợi, quân Kinh Bắc trèo đèo lội suối, lặng lẽ không tiếng động tiến vào phủ Hồng Châu, đi đến quán trọ nơi Khâm sai dừng chân, một nửa theo Yến đô úy đi truy bắt Sơn Kiềm, nửa còn lại theo Cung Chiêu Vấn bao vây phủ Xương Bình công chúa.

Cùng lúc đó, Soái sứ Giang Đông Hồ Hòa Nghi cũng mang theo một tiểu đội kỵ binh, phụng mệnh tiến về mỏ đá ngoại ô phủ Hồng Châu, Lý Đức Thọ nổi cơn tam bành bước đi đầu.

Quan phủ các phủ, các huyện ở Lưỡng Giang, phàm là những kẻ có tham dự lừa gạt buôn dân, thay đổi tiện tịch cùng với Nha hàng chỉ mới nghe phong thanh thông tin từ Lưỡng Giang nay đều nhận được thư mật từ phủ Hồng Châu, nói rằng Khâm sai đã điều tra nghe ngóng, biết được đầu đuôi mọi chuyện, phải mau chóng giải quyết hết những chứng cứ phạm tội rõ rành rành trong tay.

"Thế lớn đã mất, giết người diệt khẩu, nhổ cỏ tận gốc!"

Quan lại lòng dạ tàn ác không nói hai lời đã lệnh cho người đi giải quyết những người còn chưa bị bán đi, quan lại có lòng tham và Nha thương không nỡ thì cắn răng gắng gượng, cảm thấy trong tay mình chính là bằng chứng tiện tịch được thay đổi theo quy trình hợp pháp, đừng nói chi Khâm sai, có là Thánh thượng cũng không thể trị tội bọn họ.

Tất nhiên cũng có kẻ nhát gan sợ phiền phức, không dám hành động, giữ chặt chứng cứ trong tay vờ làm đà điểu, thầm nghĩ bản thân dựa vào quốc pháp là sẽ không phải rơi vào cảnh xét nhà diệt tộc.

***

Ám vệ ra roi thúc ngựa chạy tới quán trọ của Khâm sai, nhảy xuống ngựa xông thẳng vào trong, thoáng cái thương đao kề cổ, hắn phản ứng nhanh lấy lệnh bài ra nói: "Đô úy tòng ngũ phẩm thiết kỵ Đường Hà Tây Bắc, kiện lên Khâm sai, có người muốn diệt khẩu mấy trăm người ở mỏ đá ngoại ô, xin hãy phái binh trợ giúp."

Binh sĩ nhận lấy lệnh bài, đưa cho thượng sai xác nhận là thật, thượng sai kia mới nói: "Khâm sai đã đến phủ công chúa, ngươi ở đây chờ một lát đi, ta sẽ lệnh cho người đến phủ công chúa xin chỉ thị." Ám vệ lo lắng: "Không thể tiền trảm hậu tấu sao?"

Thượng sai: "Quân lệnh như núi, không lệnh không làm, xin hãy thông cảm cho."

Ám vệ cũng là quân nhân, tất nhiên là hiểu rõ đạo lý kia, trong lòng lo lắng không thôi nhưng cũng không thể làm gì, chỉ đành phải chờ đợi.

***

Trong số những quan lại theo tới xử lí Quản Văn Tân, có một người là quan huyện dưới quyền phủ Hồng Châu sở hữu một bất động sản trong phủ, đó là một biệt viện kiểu Tô Châu lâm viên.

Sau khi đốt cháy Nha môn, quan huyện liền mời Sơn Kiềm, Đường đề hình và các quan lại khác đến biệt viện nghỉ ngơi lấy lại sức, ở đó một đêm, đến khi trời vừa hửng sáng sẽ rời khỏi phủ Hồng Châu.

Sơn Kiềm đã gặp mặt Xương Bình về gật đầu, những người khác không ai không đồng ý.

Trong biệt viên có dựng sẵn gánh hát và đội ca múa, còn có không ít sấu mã mua về từ chỗ Nha thương, bọn họ cũng được sắp xếp ra đây rót rượu. Trung đình lộ thiên nối liền với sân khấu kịch, đối diện bàn tiệc, nến đỏ được đốt lên, giọt nến nhiễu xuống chất chồng, mãi đến khi trăng lên giữa trời rồi vẫn còn sáng trưng đèn đuốc, ca múa không ngơi nghỉ.

Khâm sai ở trong phủ, doanh binh không có chiếu chỉ không thể ở lâu tại một nơi, thế là từ trước khi trời tối đã bị phái đi hơn nửa, chỉ để lại hơn trăm người ở lại trông coi biệt viện.

Giờ hợi ba khắc, trong biệt viện truyền ra tiếng nhạc và tiếng ăn uống linh đình không rõ ràng lắm, một hàng kỵ binh bỗng nhiên xuất hiện ở cửa chính, thương dài đao ngắn nhắm thẳng vào doanh binh Giang Tây, Yến đô úy đứng đầu rút ấn tín quan phòng ra quát lớn: "Khâm sai phá án, người không phận sự mau lui xuống!"

Doanh binh thấy thế, không ai dám tiến lên ngăn cản, nhìn ngó lẫn nhau một lát rồi đều buông thương giáo xuống. Trong cửa có người cảnh giác, lập tức chạy như bay vào đình viện nơi tiệc rượu say sưa, vì chạy quá nhanh mà té thẳng đến trước chân Sơn Kiềm.

Sơn Kiềm nửa tỉnh nửa say ôm một ca nữ, thấy vậy bèn trêu chọc: "Làm gì thế, gặp phải quỷ hay là thấy đàn bà mà chân run vậy?"

"Khâm sai tới bắt người rồi!"

"!" Sơn Kiềm bừng tỉnh, đẩy ca nữ ra: "Ngươi không nhìn lầm chứ?"

"Không biết là binh từ đâu điều tới đốt đuốc vây quanh biệt việt, khí thế rất lớn, người dẫn đầu còn cầm theo ấn tín quan phòng xông vào nữa!"

Sơn Kiềm không hề sợ hãi: "Không căn không cớ, cũng dám đến bắt người!"

"Chỉ bằng việc các người cùng một giuộc, lừa hại người vô tội, giết chết Quản Văn Tân thôi, đã đủ để bắt người chưa!"

Yến đô úy bước đi như bay, liệt kê từng tội lỗi một, Sơn Kiềm ngạc nhiên trừng lớn hai mắt, Đường đề hình đã đánh rơi chén rượu trong tay xuống, âm thanh lách cách vang lên khi đồ vật chạm đất giống như hòn đá rơi xuống nước làm sóng gợn vào bờ, người gian tà nhưng lại nhát gan bấy giờ đã mềm nhũn hai chân, té đập mông xuống đất.

Sơn Kiềm vẫn còn có thể bình tĩnh đối mặt: "Bổn quan thật sự không hiểu cùng một giuộc mà ngươi nói là gì, lừa hại người vô tội là gì, nếu chỉ vì đêm nay bổn quan vì tình nghĩa không thể chối từ mà đáp ứng lời mời, sắp xếp đến tham gia buổi tiệc cùng chư vị đồng liêu, tham hoan tham vui... Thì đúng thật là bổn quan tắc trách, tiệc vui đãi khách xa hoa lãng phí này không nên xuất hiện trong giới quan sứ Lưỡng Giang, lại càng không nên do ta phổ biến. Sáng sớm ngày mai, bổn quan sẽ tự chép sổ vạch tội mình, có phạt có trách cũng phải do Thánh thượng định đoạt. Nhưng ta không thể nhận tội lừa hại người vô tội này!"

Không cho Yến đô úy cơ hội đáp lời, Sơn Kiềm cố gắng rũ sạch: "Lừa hại người vô tội gì? Bổn quan quản binh quyền một tỉnh, đuổi bắt đạo tặc, dẹp yên ổ cướp là chức trách, cũng thường xuyên đụng phải cường đạo giả nhân giả nghĩa khóc lóc kêu oan, mắng ta giết người vô tội, kêu bọn họ có thể lấy được chứng cứ bản thân trong sạch ra đây, nếu như ta giết lầm một người, muốn chặt đầu ta tại đây ta cũng tuyệt không kêu oan! Đương nhiên, cho đến giờ chẳng có ai đưa ra được bằng chứng trong sạch cả, cái đầu của bổn quan vẫn còn giữ lại được. Nhưng không ngờ Khâm sai gặp được người kêu oan, có phải là những cường đạo đó hay không, chẳng lẽ chỉ đôi ba câu nói thôi mà dễ dàng tin tưởng bọn chúng như vậy sao? Còn chuyện bức chết Quản Văn Tân... Quản Văn Tân chết rồi à?"

Gã quay đầu lại hỏi: "Quản Văn Tân chết rồi sao? Thời gian trước ta có đến thăm phủ hắn, thấy hắn sinh khí dồi dào, trông không giống như người sắp chết."

Phát vận sứ Thủy Hồng Lãng: "Không nghe nói, lẽ nào là đột tử?"

Đường đề hình giật nhẹ môi phụ họa: "Ta nhớ mang máng Quản tri phủ thân thể khỏe mạnh, không phải đột tử đâu."

Thủy Hồng Lãng: "Nghe nói mấy ngày gần đây Quản tri phủ truy tra đại án gì đấy, nói không chừng là bận bịu hết ngày dài lại đêm thâu, mệt nhọc quá độ, hao tâm tổn sức quá nên mới đột tử."

"Là như vậy sao?" Sơn Kiềm lộ vẻ mặt ngạc nhiên, có phần quan tâm hỏi han: "Nếu thật là vì dân cúc cung tận tụy thì triều đình phải ngợi khen thôi, chẳng qua Khâm sai nói ta bức sát Quản đại nhân, ta tuyệt đối không dám nhận tội... Có phải là hiểu lầm chuyện gì rồi không?"

Yến đô úy lặng lẽ nhìn bọn họ kẻ xướng người họa, chỉ nói: "Lúc chư vị bức sát Quản Văn Tân, có lẽ là cho chuyên tâm quá, không để ý xung quanh, không biết khi đó Khâm sai cũng ở đấy, đã tận mắt nhìn các ngươi mỗi người một câu ép Quản Văn Tân bước từ ngoài sáng vào trong tối, hãm hại Dương thị, hơn nữa tận mắt nhìn thấy Sơn soái sứ sử dụng cái tay nào —— " Hắn mạnh mẽ bắt lấy cánh tay phải của Sơn Kiềm, gằn từng chữ: "Bẻ gãy cổ Quản Văn Tân!"

"——!"

Ai nấy đều sợ đến hồn phi phách tán, Đường đề hình hoa mắt chóng mặt, bỗng nhiên ngã xuống đất ngất xỉu. Thủy Hồng Lãng nuốt nước bọt, cúi đầu lui về sau muốn chạy, bị doanh binh cản đường không cho đi.

Đầu tiên Sơn Kiềm không dám tin, gã nhìn chằm chằm vào mặt Yến đô úy để chứng thực lời bịa đặt, nhưng chỉ nhìn thấy ánh mắt cực kì lạnh lẽo và tràn ngập sự mỉa mai, lòng gã liền biết mọi chuyện đã bại lộ, lại nhìn người đứng bên cạnh rõ ràng là Đô thống doanh binh Kinh Bắc, cũng đoán được Khâm sai đã điều binh mã Kinh Bắc từ phương bắc đến rồi.

Đại sự đi tong.

Trong đầu Sơn Kiềm hiện lên bốn chữ lớn, trái bình tĩnh hòa nhã bỏ cuộc không giãy nãy nữa: "Là ta coi thường Khâm sai." Sau đó hỏi: "Xin hỏi Khâm sai là người nơi nào?"

Yến đô úy: "Nắm giữ quân Ký Châu, huân thượng Khinh xa đô úy, thụ chính tứ phẩm Trung Vũ tướng quân, Lục hoàng tử Đại Cảnh!"

Trên mặt Sơn Kiềm thoáng qua một chút ngạc nhiên, lập tức cười to: "Thua trong tay Thái tử Đại Cảnh, vinh hạnh cho Sơn mỗ đây."

"Càn rỡ!" Yến đô úy nghiêm nghị quát lớn: "Sắp chết đến nơi mà còn lắm mồm lắm miệng, chia rẽ tình huynh đệ của Đông cung và Lục hoàng tử, làm lung lay xã tắc, nguy hại đến sự ổn định triều cục, dụng ý độc ác! Đánh gãy chân gã cho ta!" Ánh mắt hung tợn đảo qua một đám quan lại vào doanh binh Kinh Bắc bên người, lạnh lùng buông lời: "Để ta xem ai còn dám nhắc đến hai chữ Thái tử nữa!"

Những người bắt gặp ánh mắt kia nhao nhao cúi đầu, suy nghĩ hỗn loạn, mãi cho đến khi tiếng kêu thảm thiết của Sơn Kiềm phá vỡ sự yên tĩnh, bọn họ mới hãi hùng khiếp vía, không dám tiếp tục suy nghĩ lung tung nữa.

Sơn Kiềm cũng coi như là hán tử, bị đánh gãy hai chân trong trạng thái sống cũng chỉ kêu thảm một tiếng, sau đó cắn chặt răng không phát ra tiếng nào nữa, gắng nhịn đau đớn kịch liệt ập tới. Yến đô úy vung tay lên: "Bắt hết tất cả lại!"

***

Phủ Xương Bình công chúa.

Binh mã giơ đuốc vây quanh phủ công chúa, cửa trước cửa sau đều có quan binh trấn giữ, doanh binh chia ra hai hàng chừa một con đường giữa, Cung Chiêu Vấn cưỡi ngựa cao to xuất hiện, bên cạnh có người đến hỏi có cần phá nát cửa chính phủ công chúa hay không.

"Tốt xấu gì cũng là đích trưởng công chúa đại cảnh, là cô cô ruột của bổn vương, thôi thì cũng nên cho vài phần tình mọn." Cung Chiêu Vấn: "Đến gõ cửa đi."

Doanh binh nghe lệnh, chạy lên trước gõ cửa.

Người bên trong đã nhìn ra khe cửa thấy một lượng binh mã đồ sộ bên ngoài, sợ tới mức chạy ngã tới ngã lui đến bẩm báo với Xương Bình.

Xương Bình nghe vậy thì bật cười: "Đến rồi à. Mời vào đi." Bà ta vỗ vỗ đùi, hát cùng một đoạn trong vở kịch: "Đêm tuyết cầm đuốc soi sách thẩm án, vì lê dân ta làm sao dám trốn tránh cầu bình an..."

Cung Chiêu Vấn xuống ngựa, vòng qua sân trước của gian nhà chính, đi vào ban công của thủy tạ ở sân sau, cách một hồ nước, phía trước là sân khấu kịch, người trên ấy đang biểu diễn vở kịch mới nổi ở Lưỡng Giang, nội dung lời hát kể về một quan tứ phẩm phán sai án oan, giết người vô tội, cuối cùng bình định lập lại trật tự, đại nghĩa diệt thân, giết em vợ họ cũng là kẻ chủ mưu, phán tội lưu vong cho ái thê tương nhu dĩ mạt, sau đó tự vẫn trên công đường, máu tươi nhuộm ô sa, trả lại công bằng cho dân (***).

Xương Bình nghe thấy tiếng động, rót một chén trà ngon: "Ngồi đi." Ngẩng đầu nhìn lên, bà đánh giá Cung Chiêu Vấn: "Khoảng thời gian ta bị lưu đày đến Lưỡng Giang, ngươi mới vừa sinh ra, đây cũng là lần đầu tiên cô cháu ta gặp nhau."

Cung Chiêu Vấn vén vạt áo lên ngồi xuống: "Trái lại ta hy vọng cả đời không cần phải đến gặp ngài, chí ít không phải dùng thân phận Khâm sai."

Xương Bình: "Cũng do cô cô có lỗi."

Cung Chiêu Vấn thưởng thức trà ngon một hai trăm lượng vàng, nhìn bốn phía xung quanh đều có thể thấy được lụa Hương Vân giá ngàn vàng, càng không cần phải nhắc tới rèm bằng châu ngọc, thảm dệt kim và bàn gỗ trắc, phủ hoàng tử của hắn còn chẳng xa hoa bằng phủ của một công chúa bị giáng chức nữa.

Hắn có hơi khó hiểu: "Hoàng tổ phụ và phụ hoàng đối xử với cô cô không tệ, thân mang tội vẫn có thể ở lại Lưỡng Giang hưởng hết vinh hoa, tùy tiện lấy một góc phủ công chúa ra mà xem có phủ đô nào ở kinh đô xứng xưng là xa hoa lãng phí chứ... Tiểu Lục nghĩ mãi mà không rõ ngài còn bất mãn vì điều gì? Ngài còn muốn cái gì nữa?"

Xương Bình cười xem kịch, không chút căng thẳng vì bị hỏi tội, đến cả Cung Chiêu Vấn cũng không biết đến tột cùng là bà ta lấy sức ở đâu ra, lẽ nào thật sự không sợ chết à?

"Ngươi hỏi ta bất mãn vì cái gì? Ta cũng muốn biết vì sao các người đều cảm thấy ta sống như vậy là đủ tốt? Vì sao đều cảm thấy Thái hậu và Hoàng đế đối xử với ta không tệ? Cô rõ ràng là đích trưởng công chúa dưới một người trên vạn người, năm đó thịnh sủng, đến cả Bát hoàng huynh còn chẳng bằng ta nữa! Ngươi cho rằng trà một hai trăm lượng vàng này là trà ngon sao? Ở phủ công chúa năm đó, nó còn chẳng so sánh nổi với nước rửa chân! Nhìn lụa Hương Vân đi, nhìn rèm ngọc Nam Hải đi, chẳng qua là mấy thứ đồ chơi nhỏ chất đầy trong kho phủ mà thôi —— triều Đại Cảnh ta nơi nơi giàu có, ta là người trong cung, là đích trưởng công chúa duy nhất, vạn dân thiên hạ nên cung phụng ta mới đúng! Chẳng qua là một nữ tử bình dân chỉ được cái danh tài nữ, là một thiếp thất sinh con mà thôi, ta hạ độc giết chết thì đã sao? Quyền sinh sát nằm trong tay, chính là quyền lợi từ khi cô sinh ra đã có được!"

Dù sinh ra trong hoàng quyền, lớn lên dưới hoàng quyền, Cung Chiêu Vấn bị tư tưởng hơn người một bậc ăn sâu bén rễ vẫn ngạc nhiên vì suy nghĩ nô dịch vạn dân, xem mạng người như cỏ rác của Xương Bình.

"Thiên tử phạm pháp, cũng cùng tội với thứ dân."

Xương Bình cười lạnh: "Các ngươi tự hỏi lòng mình đi, ngươi có tin không? Đám hoàng tử vương tôn các ngươi đều là chim ưng cánh lớn, dã tâm bừng bừng, bị quyền thừa kế và địa vị giật dây, hãy nhìn cái ghế chí cao vô thượng kia đi, các ngươi tranh đoạt nó, cho nên mới phải kết bè kết phái, nội bộ lục đục, minh tranh ám đấu... Trong lúc đấu đá ấy có nghĩ đến chuyện giết uổng bao nhiêu mạng người vô tội hay không? Ngươi hưởng thụ những gì mà lão Tam kinh doanh có được bao năm nay, tiêu xài tiền bạc và quan hệ mà nó kiếm được sau án gian lận trường thi Giang Nam, giúp đỡ ngươi cắm rễ ở quân Ký Châu, để rồi ngươi có được thân phận Khâm sai đến Lưỡng Giang, đến trước mặt ta giương oai diễu võ, liệu có nghĩ đến mạng của những học sinh vô tội trong mấy năm gần đây không? Bao nhiêu bá tánh tốn mười năm hai mươi năm, không dễ dàng gì mới có thể nuôi dưỡng ra được một học sinh mang về vinh quang cho môn mi, kết quả lại chết thảm dưới những trận chiến tranh quyền đoạt vị của các ngươi như một con kiến? Ngươi có giúp bọn họ kêu oan không? Ngươi nói Thiên tử phạm pháp cũng cùng tội với thứ dân, vậy sao bây giờ ngươi không đi chết đi?"

Cung Chiêu Vấn siết chặt chén trà, có một loại cảm xúc thẹn quá hóa giận khó hiểu nhen nhóm, lại sinh lòng trào phúng và chán ghét bởi vì Xương Bình quá sức liều mạng.

"Xảo biện." Cung Chiêu Vấn: "Hoàng quyền đấu tranh, quan trường rắc tối, từ xưa đến nay chưa từng ngừng lại, ta không thể khuyên người khác hướng thiện, cũng không hề có đủ lòng tốt để chịu đựng bản tính xấu xa của người khác. Học sinh tham gia khoa khảo là để làm quan, nhưng bản chất vẫn là mưu cầu quyền lợi, đã tham dự vào, tất nhiên nhất định phải gánh chịu nguy hiểm, đây là sự lựa chọn của bọn họ, cũng là kết cục mà họ sẽ phải chấp nhận, nhân quả không hề liên quan trực tiếp đến ta. Theo pháp lệnh quốc gia, quy định buộc tội cơ bản nhất chính là làm điều phi pháp, không có luật người xấu hưởng lợi chính là tội phạm. Ta không phạm pháp, sao có thể nói là cùng tội?"

Cung Chiêu Vấn chạm vào chén trà, ngẩng đầu nhìn về phía Xương Bình: "Ngược lại là cô cô vì thân mà phạm phép, chỉ sợ là thiên đao vạn quả cũng không đủ để dẹp yên phẫn nộ trong lòng dân."

Xương Bình như nghĩ ngợi điều gì đó: "Ngươi thông minh hơn Thái tử."

Cung Chiêu Vấn: "Thái tử chính chắn thận trọng, nhìn xa trông rộng, phải là người giỏi giang hơn mới đúng, tiểu Lục có tài đức gì để mà sánh bằng Thái tử chứ? Cô cô đừng để sự thiên vị mê hoặc bản thân, phải vứt khả năng phán đoán đi mới tốt."

Xương Bình cười vô cùng sảng khoái: "Ngươi vẫn cẩn thận hơn nó, không hổ là sự lựa chọn mà hoàng huynh vừa ý."

Giọng điệu Cung Chiêu Vấn vẫn rất bình tĩnh: "Cô cô nói cẩn thận."

Xương Bình nhìn về phía sân khấu kịch, giọng nói cũng bình tĩnh: "Nhưng mà tiểu Lục à, ngươi không thể giết ta được."

Cung Chiêu Vấn nhíu mày, còn chưa mở miệng đã có người đi vào, ghé tai nói mấy câu, sắc mặt của hắn lập tức thay đổi, quay đầu trừng mắt nhìn Xương Bình, dường như vô cùng kinh ngạc vì lòng dạ quá độc ác của bà ta.

Cái gọi là không độc không phải trượng phu có thể so sánh với bà ta, thậm chí ít hơn hẳn ba phần.

Cung Chiêu Vấn đưa tay, thấp giọng nói một câu: "Mang một tuyến doanh binh đến..." Mắt nhìn Xương Bình, hắn nói: "Đến tiếp viện."

Người kia gật đầu, rời khỏi phủ công chúa chạy về quán trọ hồi âm cho ám vệ đang thỉnh cầu trợ giúp, nhanh chóng dẫn một tuyến doanh binh đi về phía mỏ đá.

Xương Bình treo nụ cười trên môi: "Là Chu Tử Thư à?"

Cung Chiêu Vấn khiêm tốn thỉnh giáo: "Vì sao cô cô nhìn ra là Chu Tử Thư?"

Sau khi Chu Tử Thư nhận lại Xương Bình xong thì hiền lành rụt trở về, đến cả vụ án của Dương thị cũng đẩy ra, cũng chỉ mới vừa nãy khi doanh binh đến báo Xương Bình định diệt khẩu mỏ đá, nhắc người cầu sự giúp đỡ là Chu Tử Thư, Cung Chiêu Vấn mới giật mình vì hắn đã đánh giá y quá thấp, hắn còn chẳng để ý đến những chi tiết nhỏ này nữa.

Xương Bình: "Bình Bác Điển giết ba tên Triều thương, lý do là vì trông thấy Triều thương nói chuyện với Chu Tử Thư, tiết lộ những hoạt động ngầm của Nha hàng, có người đến nói là ngươi tới Nha môn báo án, phát hiện ba thi thể bị chôn ở gần mỏ đá, còn nhắc đến chuyện có một thằng nhóc nhỏ cầm theo ngọc giác Hoàng Long của lão Thập ra mặt cứu ngươi. Ta bèn nghĩ, sao đến lão Thập cũng bị kéo vào rồi? Ngoại trừ ngươi ra, còn ai biết rõ Quản Văn Tân là môn sinh của lão Thập cơ chứ?"

Tìm khắp Hồng Châu này, chỉ còn lại một mình Chu Tử Thư thôi.

"Hứa cho chức quan nhị phẩm, xúi giục Quản Văn Tân tra án Dương thị và

Triều thương, truy tới tận mỏ đá, lợi dụng đó để quét sạch quan trường Lưỡng Giang và phủ công chúa ta... Chủ mưu đằng sau nhìn như là ngươi, thực ra khắp nơi đều có bóng dáng Chu Tử Thư bay nhảy." Xương Bình nhìn Cung Chiêu Vấn cười cợt: "Tiểu Lục, ngươi tự xưng là chim hoàng yến, lại không ngờ Chu Tử Thư cứ đi tới đi lui trước mặt ngươi, dẫn dắt ngươi đi về phía trước, nó mới là con chim hoàng yến kia kìa."

Đã là người bề trên có chút kiêu ngạo thì sẽ không thể chịu đựng được việc mình bị kẻ dưới lừa gạt dắt mũi, nhất là Cung Chiêu Vấn, người được ngấm ngầm thừa nhận là Thái tử.

Cung Chiêu Vấn vô cảm đáp: "Danh xứng với thực, luận công bất luận tích, trở thành thần tử dùng tốt là được."

Xương Bình cười giễu không ngừng được.

Mà lúc này, phần kịch trên sân khấu đã đang diễn đến đoạn quan tứ phẩm bị tội phạm chân chính và ái thê không biết rõ tình thế lừa dối, phán sai người vô tội, áp giải người bị hại ra pháp trường, đầu người rơi xuống đất, người thân của nạn nhân đập đầu vào cột tự sát muốn trừng trị tham quan ô lại, bấy giờ quan tứ phẩm mới tỉnh táo nhận ra, bản thân đã phán sai án tử rồi.

Thoáng chốc gió lốc đánh tới như yêu ma, đất trời đổi sắc.

"Máu đào tung tóe nhuộm thẫm ô sa ta... Xem mạng người như cỏ rác, giết lầm thiện lương..."

Cung Chiêu Vấn nhìn về phía bóng đêm, mây đen ùn ụt kéo tới, mưa giông nổi lên, Lưỡng Giang thay áo mới rồi.

***

Quan binh Quân Châu, Phủ Châu, Kiền Châu Giang Tây, và Giang Ninh, Tuyên Châu, Tín Châu Giang Đông hành động, hoặc là xông vào ruộng muối, hoặc là bãi gỗ, mỏ đá, diệt khẩu hết người sống đang ngủ say, sau đó phóng hỏa thiêu sạch, làm ra hiện trường vụ cháy.

Bởi vì là địa phương cách xa quần chúng, mãi đến khi lửa lớn đã nuốt sạch mọi thứ rồi mà vẫn chẳng có ai phát hiện. Cùng lúc đó, mỏ đá ngoại ô phủ Hồng Châu.

Hồ Hòa Nghi mang một tuyến doanh binh tới kết hợp với Lý Đắc Thọ xông vào mỏ đá, đốc công bước đi ra trước: "Kẻ nào dám xông vào nơi đây?" Sau khi lanh mắt phát hiện Lý Đắc Thọ thì vội vàng cười xòa nói: "Hóa ra là Lý tổng quản đấy à, đêm khuya đến đây thăm hỏi vì chuyện gì thế ạ?" Lý Đắc Thọ bước đến: "Ta làm cái gì cũng cần nói cho ngươi biết sao?"

Đốc công tự vả miệng mình: "Xem tiểu nhân hồ đồ này! Tổng quản cần tiểu nhân làm gì thì cứ việc phân phó."

"Đúng là có chuyện cần ngươi giúp đây." Lý Đắc Thọ đến gần, đốc công bày ra tư thế lắng nghe, một giây sau thì cổ bị bóp lấy, còn chưa kịp nhận ra đã tắt thở. "Hy vọng ngươi có thể ngậm chặt cái miệng, xuống đến âm tào địa phủ rồi cũng đừng có trách cứ điện hạ."

Lý Đắc Thọ nhìn về phía mỏ đá bị đêm tối tĩnh lặng bao phủ, phất tay lạnh lùng nói: "Không được để lại người sống!"

Doanh binh nghe lệnh, xông vào mỏ đá vừa giết người vừa phóng hỏa, thoáng chốc ánh lửa ngút trời, tiếng kêu rên vang lên liên hồi, không ít người choàng tỉnh, tránh được thế lửa hung hãn và doanh binh đang truy đuổi, cuối cùng cũng chạy tới được cửa ra, cho rằng đường sống ngay trước mắt rồi lại đột nhiên bị Hồ Hòa Nghi rút đao chặn ngang chém người thành hai nửa.

Đồng bạn phía sau tránh được thấy vậy lo sợ không yên, lao nhao xoay người chạy đi bốn phía nhưng lại bị các doanh binh khác để mắt tới.

Bọn họ là người tay không tấc sắt, doanh binh dù đánh tay hay dùng vũ khí đều có thể đánh thắng, khiến cho người ta tuyệt vọng hơn nữa chính là lửa càng lúc càng cháy lớn, giống như muốn đốt cháy rụi rồi chôn vùi tất cả những vết bẩn nơi đây để không ai có thể nhận ra được nữa.

Hồ Hòa Nghi xách đao chạy theo những người đang chạy trối chết, Lý Đắc Thọ đứng chắp tay, canh giữ ngay cửa chính, không ai có thể đào thoát khỏi lão ta.

***

Cưỡi ngựa phi nước đại đến mỏ đá, từ đằng xa đã nhìn thấy ánh lửa dữ tợn, trong lòng Chu Tử Thư biết chẳng lành, cuối cùng cũng tìm đến cửa liền thấy ngọn lửa hừng hực đã lan tràn đến cả khe núi, cây xanh đất đá đều phát ra tiếng kêu đau đớn trong biển lửa mạnh mẽ, xen lẫn với tiếng khóc than thảm thiết của mọi người như những con thú bị nhốt, rồi chỉ một giây sau thôi, những âm thanh đó hoàn toàn dừng lại rồi im bặt.

Ánh mắt Chu Tử Thư bị ngọn lửa nuốt chửng, thiêu đốt từ tim đến toàn thân y, rồi khi nhìn thấy Lý Đắc Thọ chắp tay canh giữ ở cửa, ngọn lửa ấy lập tức "phụt" một tiếng đốt cháy đến đại não.

Tuấn mã hí vang, vó trước giơ cao, Chu Tử Thư kỹ thuật không tốt mạnh mẽ ghìm ngựa, ngựa còn chưa đứng vững mà đã nhanh chóng nhảy xuống, chạy ào về phía trước.

"Đến đúng lúc lắm." Lý Đắc Thọ nhìn thấy Chu Tử Thư thì lập tức đi đến, "Chuyện đã đến nước này rồi, cũng không cần phải lo ngại tiểu quận vương nữa. Chết trong hỏa hoạn bùng lên vì trời hanh vật khô, ai có thể trách mắng điện hạ chứ?"

Nói xong bèn bổ một chưởng về phía Chu Tử Thư, bị Ngụy bá đón đầu chặn lại.

"Thanh toán ân oán hai mươi năm trước của hai ta đã, rồi hãy bàn đến cái khác."

"Ngươi?"

Lý Đắc Thọ đã chẳng còn nhớ Ngụy bá nữa rồi.

"Có còn nhớ tẩy tủy đan hai mươi năm trước hay không?"

Lý Đắc Thọ đột ngột nhớ ra: "Ngươi vẫn chưa chết sao?" Rồi lão lập tức nhìn về phía Chu Tử Thư phía sau ông, ánh sáng lóe lên trong đầu, sắc mặt đột nhiên thay đổi: "Các ngươi đã biết chân tướng thân phận từ trước rồi à? Vậy thì càng không thể giữ các ngươi lại!"

Nói xong, hai người ngươi tới ta lui so chiêu, chiêu thức của Lý Đắc Thọ nham hiểm, nhưng chiêu của Ngụy bá từng rơi xuống tầng lớp thấp nhất, về sau lăn lộn trong giang hồ hiểm ác cũng tàn nhẫn không kém.

Chỉ một lúc sau, Ngụy bá và Lý Đắc Thọ đã ngang tài ngang sức.

Chu Tử Thư nhân cơ hội này bước vào trong mỏ đá, chạm mặt một chàng trai gầy nhỏ, mặt mũi tràn đầy sự hoảng sợ, trên người còn có dấu vết bị cháy xém, hắn lầm tưởng Chu Tử Thư và những người giết bọn hắn là cùng một bọn, hai mắt đỏ quạch, dùng mảnh đá vỡ mang theo thù hận xông đến.

Chu Tử Thư sẽ không phí lời khuyên nhủ người nọ bình tĩnh vào lúc này mà nhanh chóng né sang bên cạnh.

Y đã theo Ngụy bá học mấy chiêu, sau đó lúc rảnh rỗi lại nhờ Cung Tuấn nắm tay dạy vài động tác vật lộn, đối phó với một hai người bình thường vẫn dư sức.

Chu Tử Thư nghiêng người tránh chàng trai kia ra, đưa sống bàn tay lên chuẩn bị chắn lại, nhưng chỉ một giây sau thôi, tiếng da thịt bị đâm rách đã vang lên nặng nề, máu tươi nóng hổi phụt lên không trung, còn có vài giọt tung tóe văng lên mặt của Chu Tử Thư nữa.

Chu Tử Thư trố mắt ngạc nhiên, sống bàn tay dừng lại giữa chừng, chàng trai vì hoảng sợ trước bóng tối của cái chết mà mất đi lý trí bị hoàn thủ đao quân dụng cắm vào lưng, lúc ngã xuống trở mình, chết rồi mà hai mắt vẫn mở trừng trừng như nhìn y, cũng giống như nhìn vào đêm trống bao la rộng lớn.

"Sao Chu đại nhân lại xuất hiện trong ổ cường đạo sơn phỉ này thế kia?" Hồ Hòa Nghi rút đao ra, hỏi tỉnh rụi.

Chu Tử Thư quay đầu: "Cường đạo sơn phỉ?" Y nhìn về phía khe núi bị lửa lớn cắn nuốt, chừng trăm tên doanh binh bước ra khỏi lửa dữ, trên mặt vẫn còn sót lại niềm hưng phấn sau khi giết người, mình mẩy dính đầy máu tươi.

Bọn họ đến gần báo cáo: "Báo Soái sứ, trùm thổ phỉ và ba trăm mười lăm cường đạo đều đã đền tội!"

Một tiếng động lớn vang lên, tháp gỗ cao ba trượng được dựng lên dùng cho khai thác đã bị lửa thiêu mất nền móng ở cách đó không xa sụp đổ ầm ầm, mà thế lửa hung mãnh đã lan tràn đến cửa chính mỏ đá.

Chu Tử Thư vẫn thất thần, lúc Hồ Hòa Nghi chậm rãi tới gần giơ hoàn thủ đao lên muốn diệt khẩu, sau lưng bỗng truyền đến tiếng sầm sập của thiết kỵ, gã vô thức quay đầu nhìn lại, chỉ thấy bụi cuốn mù mịt. ánh lửa như rồng rắn, chừng ngàn doanh binh từ xa đến gần, chỉ trong chớp mắt đã đến ngay trước mặt.

"Doanh binh Kinh Bắc phụng chỉ Khâm sai đến đây cứu viện, bất cứ ai cản trở công vụ, giết chết không luận tội!" Khâm sai?!

Tim Hồ Hòa Nghi thít lại, bấy giờ đã rời khỏi chỗ Chu Tử Thư, nói với Đô thống doanh binh Kinh Bắc vừa xuống ngựa: "Ta là Soái sứ Giang Đông Hồ Hòa Nghi, đi qua kiểm tra phát hiện mỏ đá này thật ra là một ổ sơn phỉ cùng hung cực ác, vì vậy nên đã dẫn người diệt cướp ngay trong đêm, không biết Khâm sai đến đây là để chấp hành công vụ gì?"

Có một người nhảy ra từ bên cạnh Đô thống doanh binh Kinh Bắc, ám vệ của Chu Tử Thư vừa mới bay ra ngoài giúp Ngụy bá đánh Lý Đắc Thọ.

Đô thống doanh binh Kinh Bắc ngoài miệng cười nhưng lòng thì không quét mắt liếc Hồ Hòa Nghi, cũng không vạch trần gã là một Soái sứ Giang Đông mà lại vượt quyền chạy đến nhúng tay vào việc của Giang Tây làm gì, bước thẳng đến chỗ Chu Tử Thư nói: "Tiểu Chu đại nhân, Khâm sai nói ta đến đây để ngài tùy ý phân công."

Chu Tử Thư chỉ vào lửa lớn phía trước nói: "Cứu hỏa, cứu người."

Đô thống doanh binh Kinh Bắc nhìn ngọn lửa lớn ngập trời, do dự nói: "Lửa lớn như vậy, chỉ e là không còn người sống nữa —— " Lời khuyên nhủ đang trên môi, lia đến hai mắt tràn ngập tia máu đỏ bừng của Chu Tử Thư thì đột nhiên im bặt.

"Cứu hỏa, cứu người, muốn ta nói đến lần thứ ba phải không?"

Đô thống doanh binh Kinh Bắc trông thấy bộ dáng Chu Tử Thư có vẻ bình tĩnh nhưng lại giống như có thể bùng nổ bất cứ lúc nào thì tỏ vẻ hơi thấp thỏm và kinh sợ, chỉ chần chừ vài giây rồi giơ tay hạ lệnh: "Các tướng sĩ nghe lệnh, mau đến dập lửa, cứu người quan trọng!"

Chúng tướng sĩ nghe lệnh chuẩn bị cứu hỏa, bầu trời đột nhiên đánh xuống một tia sét sáng như ban ngày rạch ngang đêm đen, mà cũng đúng vào lúc này, tiếng sấm bỗng gầm vang lên đinh tai nhức óc, một giọt, rồi hai giọt mưa to như hạt đậu rơi xuống đất, giọt nước rơi nhanh và thưa thớt đến nỗi không thấm vào đâu, nhưng gió đã bắt đầu gào thét qua khe núi.

Chu Tử Thư lạnh lùng nhìn Lý Đắc Thọ bị thương nặng, ống tay áo bay phấp phới, vài lọn tóc bị thổi tung, dây lụa buộc tóc cũng phiêu lãng theo gió.

Dù bị Ngụy bá và ám vệ vây đánh và phải chịu vết thương ngoài da tưởng chừng như nghiêm trọng lắm, khí thế giết chóc vẫn bao quanh người lão, trong khi ám vệ và Ngụy bá đã bị nội ngoại thương nặng hơn nhiều.

"Đưa cung tên cho ta."

Doanh binh đưa cung tên tới, Chu Tử Thư cầm cung, mò trong ngực áo lấy mê hồn dược và kịch độc mà trước đây Ngụy bá lo y bị Lý Đắc Thọ ám hại đã tìm bạn giang hồ vơ vét cho ra, trét hết lên đầu mũi tên, dựng thẳng trường cung, nhắm ngay thân hình chuyển động không cố định của Lý Đắc Thọ.

Muốn kỹ thuật đánh bạc xuất sắc thì tay phải nhanh, mắt phải tinh, tuy căn cơ của Chu Tử Thư vốn không tốt, nhưng học chơi mấy chiêu võ thôi mà đã trông ra dáng lắm rồi, dù sao thì thuở thiếu thời cũng từng nghĩ tới chuyện cầm kiếm ra giang hồ, vậy nên một phần nhờ tay ổn mắt sáng, y hợp học thuật bắn cung nhất.

Những khi nhàn rỗi, Cung Tuấn đã dạy y thuật xạ kích không trượt một tên, cũng từng dạy y cách để bắng trúng vật thể đang chuyển động, còn dạy cho y cưỡi ngựa bắn cung, càng lúc độ khó càng cao, mãi đến khi hắn đi Tây Bắc đánh trận, tiễn thuật của Chu Tử Thư mới bị chững lại.

Thời gian tạm dừng không dài, sờ lên cung tên một cái thì tâm đã lại sáng.

Lý Đắc Thọ di chuyển nhanh đến mức tưởng như hóa thành ảo ảnh dần khuếch đại và trở nên rõ ràng trong mắt của kẻ đi săn Chu Tử Thư, trường cung căng cứng, tên đã lên dây, vút một tiếng xé toạc không khí, mũi tên xuyên qua bả vai Lý Đắc Thọ cắm sâu vào khe nham thạch, đuôi tên màu trắng không ngừng rung rinh.

Kịch độc và thuốc mê nhanh chóng lan tràn thấm vào miệng vết thương, động tác của Lý Đắc Thọ thoáng cái chậm dần, ngay lập tức bị ám vệ và Ngụy bá bắt lấy chỗ sơ hở, một người đạp vào ngực, một người khóa cổ, tiếp đó đánh gãy hai tay hai chân, phối hợp nhịp nhàng, nước chảy mây trôi vô cùng liền mạch.

Chỉ trước sau vài nhịp thở, cơn mưa to đột nhiên đùng đoàng đổ xuống xối xả, gió cuốn mây tan, đất đá bay mù trời, quỷ lửa hung tàn nhanh chóng thua trận, dần dà để lộ ra dáng vẻ bị thiêu đốt đến trơ trọi, mà doanh binh qua lại trong mưa to, lôi từng thi thể ra khỏi tàn lửa, nhanh chóng lấp kín bãi đất trống.

Trong cơn mưa trút nước không chỗ nấp, Chu Tử Thư lặng người nhìn từng thi thể được xếp xuống mặt đất, có tráng niên, có thanh niên, còn có cả những đứa trẻ tầm tuổi Khuông Phù Nguy, hoặc là cuộn tròn người lại, rõ ràng là người còn sống bị thiêu chết, hoặc là tứ chi cứng ngắc, chứng tỏ đã chết trước khi bị lửa thiêu.

Y đếm được ba trăm mười lăm cái xác người, lửa giận trong lòng bắt đầu bùng cháy, càng cháy càng mãnh liệt, dù cho cơn mưa kia có tầm tã đến đâu cũng không dập tắt nổi.

Hồ Hòa Nghi nhìn thấy chẳng còn ai sống sót thì nhẹ nhàng thở ra, thả lỏng nói: "Sự cấp tòng quyền, đám sơn phỉ này gian xảo tàn nhẫn, xử chết muộn chỉ e là sẽ mang họa về sau, bổn quan truy tra bọn họ đã lâu, sợ giải quyết chậm trễ xảy ra chuyện lớn bèn tự tiện hành động, không báo tin cho Tri phủ địa phương biết, sau này bổn quan sẽ tự nói rõ nguyên do, làm thế nào phạt ra sao cũng được. Đúng rồi, còn có Lý đô tri Lý Đắc Thọ nữa, lão cũng đến diệt cướp giống như ta, tiểu Chu đại nhân vừa đến đã nhào vào đánh giết, còn bắn lão bị thương nữa —— chắc là hiểu lầm mà thôi, tiểu Chu địa nhân tốt bụng, xin hãy mau chóng thả Lý đô tri ra, sau đó thì tự mình đến phủ công chúa nói xin lỗi đi thôi..."

Chu Tử Thư quay đầu liếc một cái, bấy giờ Hồ Hòa Nghi mới khựng lại, bỗng nhận ra hắn tự nhiên lại sợ hãi trước một tên quan văn, không khỏi thẹn quá hóa giận.

Lý Đắc Thọ lại phun ra một búng máu nữa, phối hợp với Hồ Hòa Nghi: "Lão nô gặp được binh mã của Hồ đại nhân ở trên đường, nghe nói là diệt cướp, bởi vì tình nghĩa giữa điện hạ và Hồ đại nhân khắng khít cho nên mới muốn giúp đỡ một tay, lúc giết sơn phỉ lại bị Chu đại nhân trông thấy... Khụ! Có điều lão nô không trách Chu đại nhân, đều là... Đều là hiểu lầm thôi."

Đô thống doanh binh Kinh Bắc có hơi đồng tình nhìn về phía Chu Tử Thư, tất nhiên hắn biết trong đó có điều kì lạ, chỉ là không có chứng cứ, Hồ Hòa Nghi và Lý Đắc Thọ cắn chết cũng cứ bảo là diệt cướp, Chu Tử Thư cũng đâu còn cách nào khác. "Tiểu Chu đại nhân —— "

Hắn muốn khuyên Chu Tử Thư nhịn một chút, lại thấy Chu Tử Thư bước đến trước mặt Lý Đắc Thọ đã bị đánh gãy chân tay, giật lấy hoàn thủ đao trong tay ám vệ, đột ngột giơ cao khỏi đỉnh đầu.

Răng rắc! Ầm ầm! Sấm sét nổ vang ——

Giơ tay chém xuống, máu tươi văng xa ba mét.

==

(***) Chú thích

"Máu đào tung tóe nhuộm thẫm ô sa ta... Xem mạng người như cỏ rác, giết lầm thiện lương..."

Lấy từ dự kịch triều Minh <Huyết tiễn ô sa>

Đôi nét chuyện xưa: Bối cảnh Bắc Tống

Chủ hiệu châu báu Giáp thất lạc con gái, lúc đi tìm con đã đến một huyện nào đó dừng chân rồi tìm nơi ngủ trọ, huyện lệnh ép ông bán vòng tay là bảo vật gia truyền nhưng bị từ chối, nửa đêm đến trộm vòng, giết người diệt khẩu rồi hợp sức với quan huyện vu hãm cho ông chủ quán trọ.

(Vợ của ông chủ quán trọ tức giận đến chết, huyện lệnh thì ép ông chủ nhận tội, nếu ông không nhận thì bắt con gái của ông nhận, ông chủ bất đắc dĩ phải nhận tội.)

Tuần phủ Ất nhận tra án này, vợ của hắn và quan huyện là anh em họ.

Quan huyện tặng vòng tay, lừa gạt vợ tuần phủ nhét chứng cung giả vào trong hồ sơ của tuần phủ.

Khi tuần phủ thẩm vấn ông chủ, mặc dù cảm thấy lạ nhưng ông chủ đã nhận tội, các chi tiết đều chính xác (ông chủ chẻ củi bị chặt đứt ngón cái, hung thủ bị chủ hiệu châu báu cắn đứt ngón cái).

Trùng hợp hơn nữa nha hoàn mà vợ tuần phủ thu nhận là con gái của chủ hiệu châu báu Giáp, biết cha chết thảm, nàng khóc cầu công đạo, vô cùng đáng thương, thế là tuần phủ phán quyết tội tử hình cho ông chủ quán trọ.

Vụ án kết thúc, tuần phủ mới phát hiện ra vòng tay của vợ mình, hỏi một chút thì biết được là do quan huyện tặng, vừa khéo cô gái mồ côi kia nhận ra chiếc vòng tay này chính là bảo vật gia truyền của nhà mình.

Tuần phủ nhận ra có điều không đúng, lại thẩm vấn lần nữa, cuối cùng tra ra manh mối.

Nhưng huyện lệnh nói, người thu hối lộ là vợ tuần phủ, người phán xử sai là chính tuần phủ,

Nếu như trị tội, hắn và vợ hắn đều có tội như nhau.

Tuần phủ yêu vợ, trái phải gian nan khó xử, mặc dù người vợ cũng bị lừa, nhưng quả thực đã hại chết người, hắn vốn còn định lấy lý do nàng bị lừa để được nhận đặc xá.

Kết quả con gái của ông chủ quán trọ đến cáo quan, căm phẫn không chịu nỗi, giận dữ mắng mỏ tuần phủ, sau đó đập đầu vào cột trên công đường (không chết).

Tuần phủ áy náy vô cùng, cuối cùng vẫn làm theo lẽ công bằng, phán tử hình hung thủ là quan huyện, phán vợ mình tội lưu vong, còn bản thân hắn thì tự vẫn ngay tại chỗ.

Thay đổi bất ngờ, nhưng lại vô cùng đặc sắc!

Chương 83

Mưa Lưỡng Giang dường như cũng quét qua phủ kinh đô, bóng đêm đen đặc bị tia chớp rạch ngang, khiến cho người đang trong mộng cũng phải choàng tỉnh dậy.

Tạ thị vịn mép giường, mồ hôi lạnh thấm ướt người, bà ôm chặt lấy trái tim quặn đau thở hổn hển, rời giường đến bên cạnh bàn rót nước uống, sau khi thở đều rồi mới mặc quần áo vào, phủ thêm áo choàng và mũ trùm, cầm lấy một chiếc đèn lồng lặng lẽ không tiếng động rời khỏi phòng.

Bóng dáng của bà vừa biến mất, Chu Bá Ung đã lập tức mở mắt ra, nhìn về phía cửa phòng.

Một khoảng thời gian trước, Tạ thị đột nhiên điều động một nhóm ám vệ nuôi dưỡng trong phủ đến không biết để làm gì, ngày hôm sau thì có tin Ngô ma ma bên cạnh tứ lang đã xin nghỉ về quê.

Chỉ nói là có việc, lúc đi cũng vội vàng, thậm chí còn chưa kịp từ biệt tứ lang nữa.

Trong lòng Chu Bá Ung biết không bình thường, nhưng ông tin lời Tạ thị nói cho nên để mặc bà xử lí, chỉ là sau đó, bà thường xuyên ngủ mơ sợ hãi mà tỉnh giấc, sau khi tỉnh lại liền rời khỏi chủ viện, một hai canh giờ sau mới quay về.

Ông cố dằn lòng muốn hỏi xuống, đợi đến khi Tạ thị chủ động mở miệng, nhưng đến những ngày gần đây Tạ thị càng lúc càng kì lạ.

Không hề quan tâm đến đại lang và tam lang thì thôi, bà thậm chí chẳng đoái hoài gì đến tứ lang, ngay cả khi tứ lang đọc sách quá mệt mỏi ốm nhẹ một trận, bà cũng chỉ phái người sang hỏi một hai câu rồi thôi, thái độ lạnh lùng này vô cùng bất thường.

Chút kiên nhẫn cuối cùng của Chu Bá Ung đã không còn nữa, đêm nay ông đi theo sau lưng Tạ thị, tận mắt nhìn thấy bà bước vào địa lao Chu phủ, chứng kiến cảnh tượng Ngô ma ma bị khóa sắt móc chặt vào xương bả vai, cũng không cảm thấy ngạc nhiên mấy với những dấu tra tấn trên người bà ta.

Tạ Lang Hoàn ấm áp lương thiện, không làm ác hại người không có nghĩa rằng bà là một người phụ nữ lòng dạ mềm yếu, bằng không sao có thể sống sót qua tay nữ nhân như Xương Bình?

Bà chính là người đầu gối tay ấp với Chu Bá Ung, bản tính như thế nào, đương nhiên là ông biết rõ.

Tạ thị bảo hai ám vệ trong phủ ở bên cạnh chờ mệnh lệnh, còn mình thì ngồi đối diện với Ngô ma ma, bỏ hương liệu xua tan mùi máu tanh vào trong lư hương, nhóm lửa rồi nhìn say sưa một hồi, mãi lâu sau mới mở miệng hỏi: "Biết rõ vì sao ta cứ luôn xuất hiện trước mặt ngươi vào lúc nửa đêm hay không?"

Ngô ma ma suy yếu đáp: "Lão nô... Thật sự không biết điều phu nhân nói là, là gì... Cũng không biết... Đến cùng là người muốn... Muốn hỏi cái gì."

Tạ thị thở dài, sắc mặt u sầu: "Vì ta lại nằm mơ. Mơ về hai mươi năm trước, Chu lang đề tên bảng vàng, tam nguyên cập đệ, chấn động Lưỡng Giang, nổi danh kinh đô, mệnh phụ và cả các cô nương khuê phòng ở kinh đô này đều nhìn ta bằng ánh mắt ngưỡng mộ, ngưỡng mộ ta nhà ở ven hồ hưởng trước ánh trăng, ghen ghét không biết ta có tài đức gì mà tìm được chồng tốt... Các nàng không hề biết năm đó là Chu Bá Ung quấn quít không rời cầu ta gả cho ông ấy, Tạ Lang Hoàn ta đây, Tạ thị cửu nương có tài thơ văn, tướng mạo xinh đẹp, những người đàn ông từng qua cửa cầu hôn ta, không phải không có người xuất sắc hơn Chu Bá Ung! Tạ Lang Hoàn không hề không xứng với Chu Bá Ung!"

Ngô ma ma lẳng lặng nhìn bà: "Phu nhân tài mạo vẹn toàn..."

Bà ta ho kịch liệt, nôn ra máu, dù vậy cũng không thể khiến Tạ thị thông cảm cho.

Tạ thị tự nhiên nói: "Chu lang cao trung, nước lên thuyền lên, hai tộc Chu Tạ đều vui vẻ, làm sao mà ta không vui? Đến cả cô gái xinh đẹp như Xương Bình cũng tới trước mặt ta thề thốt rằng đó chỉ là tình thế bắt buộc, cảm giác bất thường và nguy cơ trong ta đều bị niềm vui đánh bại, Nhưng niềm vui sướng đó không duy trì được lâu, nhanh chóng bị thay thế bằng những bữa tiệc nặng nề kéo đến càng lúc càng nhiều, những chuyện xấu xa ở hậu trạch, Xương Bình dẫn đầu cô lập, làm khó dễ mệnh phụ, giông gió nổi lên khắp nơi, bị chính đấu của triều đình đánh cho liên tục bại lui, chỉ cần bước nhầm một bước là cả nhà sẽ rơi đầu. Ta bị ép đến mức không thở nổi."

Đông cung liên tục bước vào thế khó, Chu Bá Ung như đi trên băng mỏng, Xương Bình công chúa không ngừng bày ra cạm bẫy trí mạng, lại thêm tiên đế ép sát từng bước, còn có tính mạng hai tộc Chu Tạ treo trên người một mình Chu Bá Ung, phu thê đồng thể, làm sao Tạ thị có thể tránh khỏi tranh đấu?

Suốt năm năm trời, biếm thê làm thiếp, suýt nữa mạng cũng chẳng còn, đã phải đề phòng Xương Bình công chúa, lại còn phải đề phòng thêm tiên đế tuổi càng già càng điên cuồng, mỗi lần nghe được quan lại nào trong phủ kinh đô bị sao nhà diệt tộc, bà đều sẽ gặp ác mộng.

Cơn ác mộng kia quá dài.

Dài đến nỗi đã hai mươi lăm năm trôi qua rồi, bà vẫn còn bị nhốt ở bên trong không tài nào thoát ra được.

Mà Xương Bình công chúa, kẻ gây tai họa bây giờ lại tiếp tục dấy lên trong bà một cơn ác mộng không thể tỉnh lại khác, Tạ thị nghĩ rằng có lẽ một ngày nào đó bà sẽ chết trong giấc mộng mị dai dẳng vô vọng này.

Tạ thị không nói tiếp nữa, dường như đang đắm chìm trong suy nghĩ cô độc của mình, Chu Bá Ung đứng nghe đột nhiên cảm thấy nghẹt thở một lúc, tim đau nhói lên, có vẻ đây là lần đầu tiên cảm thụ trực quan bóng tối đau khổ mà Tạ thị chưa bao giờ có thể chạy thoát khỏi.

Thê tử trong ấn tượng của ông vừa thông minh ấm áp lại khoan dung, luôn luôn lấy đại cục làm trọng, trong nhà có thể lo việc bếp núc, bên ngoài có thể thoải mái ứng phó với các mệnh phụ lấy lòng hoặc làm khó, cũng đã từng có thể thoát thân khỏi tay tiên đế.

Bà sẽ chỉ khóc lên những lúc tứ lang bệnh đến nối suýt chết, sẽ chỉ tỏ vẻ mình yếu đuối những lúc choàng tỉnh vì ác mộng, chứ chưa từng nói rằng bà sợ hãi Xương Bình biết bao nhiêu.

Chu Bá Ung chưa từng nhìn thấy một Tạ thị như đêm nay, trông bà ấy yếu ớt đến nỗi chỉ cần đụng vào một cái là sẽ vỡ tan thành ngàn mảnh nhỏ ngay.

"Ngươi không nói, ta cũng biết rồi."

Tạ thị tự lẩm bẩm câu này, sau đó lại im lặng một khoảng thời gian dài.

Mãi cho đến khi hương liệu khử mùi máu tươi đã tàn hết, Tạ thị mới như tỉnh khỏi cơn mộng, phất tay lệnh cho người đưa Ngô ma ma xuống, sau đó xoay người rời khỏi địa lao.

Bà vừa đi, Chu Bá Ung đã xuất hiện trước mặt Ngô ma ma, nhìn từ trên cao xuống hỏi: "Ngươi đã làm gì, mới chọc đến phu nhân lạnh lùng hạ sát thủ như thế?"

***

Đêm trăng đại mạc.

Quân Tây Bắc liên tục thắng trận, đối diện với việc quân đội Đại Hạ uể oải suy sụp không đánh cũng bại, Quốc quân Đại Hạ bèn phái người đến đàm phán hòa bình. Cung Tuấn gạt bỏ điều kiện bồi thường ba Chu lượng bạc trắng, cắt nhường năm tòa thành và chuộc lại tù binh rồi vung tay mặc kệ, chi tiết còn lại giao cho quân sư và đám người cữu cữu xử lí.

Còn hắn thì vội vàng chạy đi gom góm mấy đồ vật nhỏ nhỏ thú vị ở hoang mạc Tây Bắc, đặc biệt học thêm vài trò hay để chọc vui người khác, nếu như không nhờ Thôi quốc công ra sức ngăn cản, chỉ sợ hắn sẽ bay luôn vào bầy ngựa hoang thuần phục mã vương, đợi khải hoàn hồi triều chạy đến chỗ Chu Tử Thư khoe khoang.

Nhất định tiểu lang sẽ rất thích, ánh mắt sùng bái thán phục lại rơi trên người hắn, Cung Tuấn rất hưởng thụ cảm giác này.

Bầu trời đêm rộng lớn vô ngần, Cung Tuấn nằm trên lưng ngựa uống rượu, đối nguyệt tương tư, mặc kệ con ngựa đưa hắn đi đâu thì đưa.

Tiếng la ầm ĩ của Thôi phó quan từ xa vọng tới: "Tướng quân —— huynh* ở đâu rồi? Chúng ta phải về doanh thôi —— "

(*) Nào giờ má Mộc toàn để cậu Thôi gọi anh Cung là ngài (), bây giờ để là nên mình cũng đổi xưng hô lun nha.

Cung Tuấn hừ một tiếng, tùy tiện nắm mảnh vải che lên mặt, giả chết tạm thời không nghe thấy.

Tiếc rằng hắn chỉ có thể tự lừa dối mình, chứ Thôi phó quan không có mù, nhanh chóng phát hiện ra bóng dáng Cung Tuấn rồi chạy đến, gã ghìm ngựa dừng lại rồi thúc giục: "A gia và cha đều bảo huynh mau đến gặp sứ giả Đại Hạ kia kìa."

Cung Tuấn: "Đồng ý điều kiện ta đưa ra không?"

Thôi phó quan thành thật đáp: "Vẫn còn đang thương lượng."

Cung Tuấn: "Bảo gã cút đi." Làm phiền hắn nhung nhớ tiểu lang, đáng bị thiên lôi đánh lắm.

Thôi phó quan trầm tư một lát, cuối cùng cũng tỉnh ngộ: "Tướng quân, không phải là ngài đang tương tư đấy chứ?" Mặc dù trước đây tính tình hắn kém thật, hờ hững lạnh lùng còn cực kì quái gở, nhưng thật ra cũng không nóng nảy đến mức này, thỉnh thoảng còn có hơi sầu muộn.

Cung Tuấn ngẩng đầu nhìn: "Não ngươi to ra rồi đấy à?"

Thôi phó quan phản xạ có điều kiện: "Nói gì đó!"

Hai người nhìn nhau, ánh mắt của Cung Tuấn rất bình tĩnh, Thôi phó quan sững sờ nhìn ra được sỉ nhục từ trong đó, ngay lập tức thấy tủi thân, muốn nói gã không đọc sách là vì lười, chứ không phải ngốc thật, lại cảm thấy nếu như nói ra chắc sẽ bị Cung Tuấn kì thị trắng trợn hơn nữa.

Thôi phó quan: "Ngài mau về đi, trở về giải quyết xong chuyện đàm phán hòa bình là chẳng phải có thể tranh thủ chút thời gian rời Tây Bắc đi gặp tiểu Chu đại nhân sao? Không phải ngài thường than thở Lưỡng Giang hung hiểm, sợ tiểu Chu đại nhân ngã xuống ở đấy ư?" Nói đến đây, gã thuận tiện quan tâm một chút: "Mà nói mới nhớ, thư gửi về cũng đã từ tận đầu năm rồi, sau đó vẫn chưa gửi thêm thư gì nữa à?"

Sau đó chiến tranh không ngừng nghỉ, chẳng có cách nào thư từ qua lại được.

Lời này chọc vào tim Cung Tuấn, hắn nhàn nhạt liếc Thôi phó quan một cái, bắt lấy dây cương ngựa nhanh chóng về doanh.

***

Phủ công chúa.

Sấm sét vang đội, gió lớn mưa to, nhưng không có ai hô dừng, vở kịch vẫn phải tiếp tục diễn ra, lời ca nặng nề xuyên qua màn mưa mơ hồ truyền tới: "Giết hung... Dẫu có phanh thây... Trừng phạt ngươi..."

Từ ngữ đứt quãng, lúc ẩn lúc hiện, căn bản không thể nghe rõ, nhưng Xương Bình đã nghe qua vô số lần, đến cả nhịp điệu cũng nhớ kĩ như in, vừa nhịp nhịp ngón tay vừa hát theo: "Giết hung phạm, tế oan hồn... Dẫu có phanh thây xé xác ta thành trăm ngàn vạn mảnh, ta cũng phải trả lại công bằng cho nỗi oan thấu trời này của ngươi."

Phụt một tiếng bật cười lên, Xương Bình tràn đầy hứng thú hỏi: "Ngươi có biết vì sao cô cô lại thích vở kịch Huyết Tiễn Ô Sa này không?"

Cung Chiêu Vấn: "Xin lắng tai nghe."

Xương Bình: "Ta cảm thấy lừa mình dối người rất thú vị."

Cung Chiêu Vấn thoáng hiểu ra ý bà ta, quan tứ phẩm ttrong vở kịch cả đời liêm chính, vì bị kẻ khác hãm hại mà giết lầm người vô tội, cho nên mới tự vẫn trước công đường, cũng là bảo vệ công đạo thiên lý của pháp bất a quý, nhưng điều ấy chỉ tồn tại trong hí khúc, tồn tại trong suy nghĩ chủ quan dưới ngòi bút của của thư sinh nghèo túng, vĩnh viễn không thể tồn tại trong đời thật.

Đối với Xương Bình mà nói, dùng vở kịch này để châm chọc rất hiệu quả, cho nên bà ta rất thích vở diễn này, lần nào xem cũng có thể giễu cợt một phen.

Đến cả Cung Chiêu Vấn cũng không có cách nào cãi lại, hắn cũng không tin trên đời này có người nguyện lấy cái chết của mình ra để bảo vệ công đạo thiên lý cho dân chúng thấp cổ bé họng.

Ca từ bi thương bị màn mưa che lấp, mơ hồ, ngắt quãng, cuối cùng cũng hát đến hồi kết.

Xương Bình cởi vòng ngọc ra: "Thưởng đi." Sau đó nhìn Cung Chiêu Vấn:

"Ngươi thấy phủ công chúa của ta thế nào?"

Cung Chiêu Vấn: "Vô cùng xa hoa."

Xương Bình cười: "So với số bạc kiếm được bao năm qua ở Lưỡng Giang, chẳng qua cũng chỉ là hạt cát trong sa mạc mà thôi, không đáng kể." Mặt mày Cung Chiêu Vấn bất động, trái tim khẽ run rẩy.

"Chẳng lẽ cô cô muốn dùng bạc dự trữ được những năm này để hối lộ chất nhi* sao?"

(*) Chất nhi (侄儿): Cháu

"Ha ha ha..." Xương Bình ôm bụng cười to: "Tiểu Lục à, dù cho ta có giao bạc ra, ngươi cũng sẽ đưa khoản bạc này vào nội khố, dùng nó làm nước cờ đầu để tranh đoạt vị trí Thái tử của ngươi mà thôi, nhưng mà —— " Lời nói xoay chuyển, giống như cười mà lại chẳng phải cười: "Tiểu Lục, ngươi thử đi một vòng trong kho phủ của cô cô đi, hoặc là đào sâu ba thước đất phủ công chúa này, ngươi cũng không tìm được một thỏi vàng thỏi bạc nào cả đâu."

Cung Chiêu Vấn thật sự sai người đi đào ba thước đất phủ công chúa, hai canh giờ trôi qua, người quay về phục mệnh đều nói bên trong kho phủ chỉ có bạc vụn và kim châu dùng để ban thưởng, duy chỉ không có núi vàng núi bạc như trong tưởng tượng.

Xương Bình công chúa nhàn hạ dựa vào thành ghế, trên mặt lộ ra vẻ nhìn thấu tất cả.

Sự bình tĩnh của Cung Chiêu Vấn dần dần bị Xương Bình công chúa không hề sợ hãi đánh nát, hắn nhíu mày, nửa tin nửa ngờ: "Cô cô dời bạc đi hết rồi sao?" Xương Bình chỉ cười không nói.

Lo lắng trong lòng Cung Chiêu Vấn càng khuếch càng to, khi hắn đang chuẩn bị đặt câu hỏi, thì có người đến báo, nói là Tào ty sứ Giang Tây Chu Tử Thư cầu kiến. "Chu vào đây."

Vừa nãy từ trong lời nói của Xương Bình đoán ra được người mượn binh là Chu Tử Thư, trong chớp mắt, cuối cùng Cung Chiêu Vấn cũng nghĩ ra được vì sao những lúc Nghiên Băng xuất hiện đều luôn trùng hợp như vậy, vì sao từng bước từng bước đều như đang giúp đỡ hắn, thôi thúc hắn tra án, thì ra người giật dây là Chu Tử Thư.

Điều này không có nghĩa là Cung Chiêu Vấn sẽ biết ơn Chu Tử Thư, mà nó sẽ chỉ khiến cho hắn sinh ra cảm giác bài xích và buồn nôn vì bị lừa gạt mà thôi.

Có điều Chu Tử Thư là người có thể dùng, dùng rất tốt, dù y là đứa con duy nhất của Xương Bình, nhưng tướng mạo và tài hoa đều giống như Chu Bá Ung, không lý nào mà Xương Bình không yêu chuộng y hơn được.

Giữa lúc suy nghĩ, mưa rơi càng lúc càng lớn, tựa như muốn phá vỡ cả đất trời, sen trong hồ bị vùi dập rũ nát, gốc liễu gần hồ cũng khom lưng thấp đến độ tưởng chừng như đã dán sát xuống mặt hồ.

Giữa màn mưa mù mịt, Cung Chiêu Vấn thoáng thấy bóng dáng Chu Tử Thư từ xa bước đến gần, hắn quay đầu nhìn sang, không khỏi sửng sốt. người nọ một thân áo xanh, cả người ướt đẫm, mấy lọn tóc đen dán sát gò má, màu da trắng nõn như tuyết còn môi lại hơi đỏ, sắc thái đen trắng đỏ kết hợp mạnh mẽ đánh vào thị giác, đi tới giữa đất trời giống hệt như yêu thú vừa xuống núi, trong mắt cất giấu ngọn lửa âm u lạnh lẽo nhìn chằm chằm thế tục hồng trần này.

Ánh mắt Xương Bình cũng chạm đến chỗ Chu Tử Thư, lập tức chuyển thành lạnh lùng, nhưng nhìn thấy dáng vẻ y chật vật như vậy lại cảm thấy rất khoái trá.

"Bà đang tìm Lý Đắc Thọ à?" Chu Tử Thư đi đến trước mặt Xương Bình, đứng cách tầm bốn mét, đột nhiên ném túi vải màu đen đang xách trên tay xuống, "Lão ở đây này."

Túi vải lăn đến bên chân Xương Bình, nút dây thừng lỏng lẻo, một cái đầu người tái nhợt không nhắm mắt ló ra.

Đồng tử Xương Bình co rút mạnh mẽ, cơ thể vô thức nghiêng về phía trước, đột nhiên nắm chặt tay vịn, gân xanh trên mu bàn tay nổi lên, gò má căng chặt, hồi lâu mới ngẩng đầu nhìn chằm chằm Chu Tử Thư: "Lão là thái giám mà tiên đế ban cho ta, bảo vệ cô ba mươi năm, tuyệt đối trung thành, đất trời chứng giám. Hôm nay ngươi không nói ra được một lý do giết lão, dù ngươi là có con ta, cô cũng muốn ngươi phải đền mạng!"

Cung Chiêu Vấn nghe vậy thì cau mày, cảm thấy kỳ lạ, chỉ là một lão nô mà thôi, sao có thể hơn cả con ruột chứ?

Chu Tử Thư rút khăn tay ra lau tay trái dính máu bẩn, giọng điệu bình tĩnh nói: "Lý Đắc Thọ và Soái sứ Giang Đông Hồ Hòa Nghi mượn danh giết sơn phỉ, sát hại ba trăm mười lăm mạng người, cấu kết quan thương Lưỡng Giang, tư thông thủy vận, lừa bán lương nhân, còn giết người diệt khẩu, không từ việc ác, bổn quan đã tra sự thật, phẫn nộ giết chết, ngày mai còn phải treo đầu lão lên pháp trường, công khai tội ác mà lão làm ra... Xin hỏi, có phải là điện hạ đang chuẩn bị bênh vực ác nô hay không đấy?"

Xương Bình hỏi lại một câu: "Ngươi lấy đâu ra bằng chứng chứng minh Lý Đắc Thọ phạm phải những tội ác này?"

Chu Tử Thư lấy chụp đèn xuống, nhóm lửa khăn tay, lạnh lùng nhìn thế lửa nhanh chóng nuốt trọn chiếc khăn đến đầu ngón tay mới ném đi, nghiêng người ngạo nghễ nhìn Xương Bình: "Bổn quan tận mắt nhìn thấy."

Xương Bình: "Ai biết được có phải ngươi trả thù vì lòng riêng hay không?"

Chu Tử Thư: "Mọi người đều biết bổn quan và bà đã tiêu tan hiềm khích ngày trước, mẫu tử tình thâm, đánh giết Lý Đắc Thọ cũng bởi vì tội ác của lão ngập trời, còn có ý định mưu hại bổn quan. Chính mắt bổn quan và một ngàn doanh binh Kinh Bắc nhìn thấy, chứng cứ phạm tội vô cùng chính xác, không thể bàn cãi. Bổn quan nộ sát Lý Đắc Thọ, một vì tội ác của lão chồng chất, hai là vì đại nghĩa diệt thân, không sợ quyền quý, người đời sẽ chỉ khen ngợi ta công chính liêm minh, chứ không phải là vì tình riêng mà làm việc trái pháp luật."

Xương Bình dùng ánh mắt căm tức nhìn Chu Tử Thư, khóe môi ngậm chặt nụ cười lạnh lẽo mỉa mai: "Dù Lý Đắc Thọ có tội, thì theo luật cũng phải thẩm vấn luận ngục trước, cầm chứng cung tới, đưa lên Hình bộ, sau đó mới tiếp tục giải quyết, từ khi nào đến phiên ngươi được tự ý hành quyết rồi?"

Chu Tử Thư: "E là điện hạ không biết, khi ta nhậm chức Tào ty sứ Giang Tây, Thánh thượng đã đồng ý cho ta tùy cơ ứng biến, tiền trảm hậu tấu, hoàng quyền đặc cách!"

"Tức cười!" Xương Bình quát lớn: "Tiền trảm hậu tấu, hoàng quyền đặc cách luôn là quyền lợi của Khâm sai, từ lúc nào Tào ty sứ được sử dụng những quyền này? Ngươi nói bệ hạ cho phép ngươi tiền trảm hậu tấu, vậy ngươi có thánh chỉ không? Nếu như là khẩu dụ, vậy thì ta không chấp nhận!"

Chu Tử Thư tiến về phía trước hai bước: "Có biết Tam gia không?"

Xương Bình: "Đã từng nghe đến."

Chu Tử Thư: "Không chỉ dừng ở nghe đến đâu, mà là đã tương giao quá sâu rồi. Hắn chia đều kinh doanh thủy vận với bà, lường gạt quan trường Lưỡng Giang, mua bán lương nhân... Hai bên từng đấu thắng lẫn nhau, từng hãm hại nhau, cũng từng bắt tay hợp tác, từng khoản một đều đã được ghi chép lại kì càng trong sổ sách mà Vương Nguyệt Minh đưa cho ta, chỉ bằng những chứng cứ phạm tội này thôi, bổn quan cũng có thể giết bà rồi tiền trảm hậu tấu!" Sổ sách?

Ấn đường Cung Chiêu Vấn giật lên.

Chu Tử Thư: "Truy tìm về nguồn gốc, luôn có quan lại bản chất nhu nhược có thể cung cấp chứng cứ bà giết người vô tội, chiếm đoạt tiền thuế, không cần nhiều, chỉ cần một hai tội chứng thôi là đủ rồi."

Xương Bình bật cười, sống lưng cứng ngắc mềm nhũn xuống, chậm rãi dựa vào thành ghế, cái đầu của Lý Đắc Thọ dưới chân đã chẳng còn đủ làm bà ta hoảng sợ nữa rồi.

"Nếu như sự tự tin trong lòng ngươi nghĩ và ngoài miệng ngươi nói giống nhau, thì cũng không cần phải đứng trước mặt ta nói tới nói lui nữa, mà hãy làm như cách ngươi giết Lý Đắc Thọ ấy, chặt đầu ta xuống đi." Xương Bình kề sống bàn tay lên cổ, cười lên vô cùng xinh đẹp, "Tiền trảm hậu tấu, hoàng quyền đặc cách ư? Chỉ tiếc rằng tâm tư ngươi thừa biết, bằng chứng trong tay Vương Nguyệt Minh không thể giết ta. Thứ duy nhất có thể xử tử ta à... Cháy hết sạch rồi, còn nhân chứng duy nhất —— "

Bà ta duỗi dài ngón trỏ, chỉ vào cái đầu của Lý Đắc Thọ: "Đã bị chính tay ngươi giết chết rồi."

"Chúng ta thử cược xem, cược ta có thể dưới trời trước người giết bà hay không." Chu Tử Thư vô cảm nói: "Bốn tỉnh ba mươi tám phủ có trên trăm ngàn quan lại, ta gọi từng kẻ đến tra khảo, hỏi không ra thì giết! Giết một người răn trăm người! Ta không tin mình không hỏi ra nổi một chứng cứ phạm tội để có thể giết bà!"

Xương Bình chống cằm: "Tiểu Lục à, đại án Lưỡng Giang không phải là chức trách của Khâm sai sao?"

Cung Chiêu Vấn bị Chu Tử Thư xoay vần, không có nghĩa là hắn sẵn lòng để Xương Bình lôi kéo ra để đối phó với Chu Tử Thư, nếu như vừa nãy không nói chuyện một phen, có lẽ hắn sẽ đuổi Chu Tử Thư đi, nhưng hiện tại hắn có nghi ngờ quan trọng hơn rồi.

"Cô cô, hay là ngài nói cho ta biết bạc để dành được những năm nay đều đã giấu ở đâu đi, bằng không chất nhi cũng chẳng có cách nào bảo vệ ngài cả —— mỏ đá thuộc sản nghiệp trên danh nghĩa của Lý Đắc Thọ, chỗ quan phủ còn có ghi chép, ba trăm mười lăm mạng người và cả việc Hồ Hòa Nghi tự tiện rời khỏi đại doanh Giang Đông, tính đi tính lại đều không khỏi có liên quan đến ngài."

Xương Bình phì cười: "Quả nhiên là anh hùng xuất thiếu niên." Bà nheo mắt lại, nhìn Cung Chiêu Vấn giống như có thể xuyên qua hắn nhìn về kinh đô xa xôi, "Thời gian hoàng huynh đăng cơ, loạn trong giặc ngoài, thiên tai hại nhân họa giáng xuống không ngừng, triều đình không có người để dùng. Năm Nguyên Thú thứ hai, Đại Hạ cử binh xâm phạm, mùa đông cùng năm, Đột Quyết phát động chiến tranh, đến năm Nguyên Thú thứ ba, một vùng Sơn Đông bùng nổ lũ lụt Hoàng Hà, năm đó Hàng Châu cũng gặp đại hạn... Khi đó triều Đại Cảnh bấp bênh, khó khăn nối tiếp khó khăn, đánh trận cần tiền bạc và lương thực, giúp nạn thiên tai cũng cần tiền bạc và lương thực, nhưng quốc khố, nội khố đều thiếu thốn nghiêm trọng, cốt bởi tiên đế tuổi già xa hoa dâm dật, tiền trong khố tiêu hết sạch sẽ bèn tham ô tiền trong quốc khố, còn giao toàn quyền quản lý quốc khố của Hộ bộ sứ cho Bát hoàng huynh nữa."

"Tĩnh vương kia và hoàng huynh vốn không hợp nhau, chiếm đoạt tiền thuế dùng để lôi kéo triều thần, bồi dưỡng tư binh đều là chuyện trong dự liệu. Hoàng huynh khúm núm khép nép đi vay tiền, đến cuối cùng thiếu nợ một khoảng khổng lồ... Hoàng đế của cải khắp nơi lại đi thiếu tiền thần tử, đúng là làm trò cười cho thiên hạ mà!"

"Cho dù đã đẩy ngã được Bát hoàng huynh thì vẫn không có tiền! Thiên tai có ngừng lại chỉ vì quốc khố không còn tiền hay không? Đại quân Đại Hạ, Đột Quyết có ngừng tiếp cận chỉ vì triều ta sạch tiền hay không? Chu Tử Thư, quan trường tham ô mục nát, a dua nịnh hót trong mắt ngươi chẳng có giá trị gì, nhưng ngươi đã từng nhìn thấy triều đình tối tăm mù mịt, gặp trên đường chỉ biết đưa mắt ngó của hai mươi năm trước chưa? Cung Chiêu Vấn, ngươi nghĩ rằng vì sao chỉ trong vòng năm năm ngắn ngủi thôi mà ngươi đã có thể leo lên được vị trí tướng quân rồi? Những công tích ngươi kiếm được từ trên chiến trường, có trận chiến nào ngoài ấy không cần hao tốn thuốc trị thương, lương thảo, đồ sắt, tuấn mã... Có cái gì mà không cần dùng đến tiền? Không có những thứ này, ngươi đã chết trên chiến trường từ lâu rồi, làm gì còn có cơ hội ngồi trước mặt chất vấn ta?"

Sắc mặt Cung Chiêu Vấn chợt biến, mơ hồ đoán được bạc trong phủ công chúa đã đi đâu.

Cánh tay xuôi bên người Chu Tử Thư khẽ run, dù mùa hè rất oi bức nhưng y cảm thấy mình như rơi xuống hầm băng vậy.

Nụ cười của Xương Bình tươi rói, diễm lệ mà tàn nhẫn.

"Bạc đi đâu rồi? Hả? Các ngươi nói đi, bạc đã đi đâu rồi?"

Cuồng phong than khóc, mưa rơi như trút nước, sân khấu kịch ở đối diện hồ lại cất lên vở kịch Huyết Tiễn Ô Sa, tiếng khóc thảm thương của dân chúng vô tội vang lên, xen lẫn với câu hỏi của Dương thị, câu hỏi của Khuông Phù Nguy cũng đã từng vì một mỏ đá mà cả nhà bị giết, dường như xếp tầng lên nhau, cùng lúc vàng lên bên tai Chu Tử Thư.

Nàng nói: "Dân phụ, có oan."

Cậu hỏi: "Công chúa phạm pháp, huynh có dám giết không?"

Trên sân khấu hát: "Ta xem mạng người như cỏ rác, giết lầm thiện lương, ắt phải gánh chịu tội lỗi ngập trời này..."

"Quốc khố không có tiền thì mượn từ nội khố, nhưng nội khố cũng thiếu thốn nghiêm trọng giống như vậy thì tiền từ đâu ra đây? Tiền trong túi Hoàng đế là từ đâu ra đây?" Xương Bình chống ngón trỏ lên ngực mình, nhìn chằm chằm vào Chu Tử Thư: "Ta kiếm, ta cho, hai mươi năm thiên hạ an ổn là nhờ ta phí hết tâm tư suốt hai mươi năm ở Lưỡng Giang này, là do ta vật lộn với đám cẩu quan tiện thương kia mà kiếm ra được đấy!"

"Một thân công chúa ta mang tội bị giáng chức đến Hồng Châu, không quyền không thế, các ngươi thử nghĩ xem vì sao ta có được địa vị hô mưa gọi gió giữa đám quan thương Hồng Châu này cho đến tận nay? Hửm? Có phải là vẫn luôn cảm thấy ta độc hại Tạ thị và bào thai trong bụng nàng ta, chỉ bị giáng chức đến địa phương béo bở này không phải là trừng phạt, mà là đặc xá, ân điển đúng không? Có phải đã quên rằng thân tộc, môn sinh của Chu Bá Ung đều đang ở Lưỡng Giang rồi không?"

"Chu lang thật sự muốn ta chết mà!"

Xương Bình cười đến điên cuồng, chỉ vào phủ công chúa trang hoàng xa hoa nói: "Có biết phủ công chúa hai mươi năm trước là cái dạng gì không? Chính là quỷ trạch nổi danh phủ Hồng Châu đấy. Các ngươi nói ta giết hại người vô tội, bóc lột bá tánh, chiếm đoạt bạc thuế, là tội nặng mất đầu, nhưng đồ sắt và lương thảo dùng cho Đại Cảnh đánh trận, tiền bạc cứu trợ sau thiên tai nhân họa đã cứu được bao nhiêu người biết không? Ai sẽ đến lập bia trường sinh cho ta? Ai sẽ đến nói cảm ơn ta một câu?"

"Cho nên Chu Tử Thư à, ngươi không thể giết ta được." Xương Bình dùng ánh mắt tràn ngập trào phúng và ác ý mãnh liệt nhìn sang, "Giết ta, người trong thiên hạ rồi sẽ biết được tiền tham từ Lưỡng Giang chảy đi nơi nào, sẽ biết được quân vương một nước cũng chỉ là một kẻ buôn người thu lợi mà thôi." Đây là một mối đe dọa không hề khiến cho Xương Bình sợ hãi.

Cung Chiêu Vấn mặt không đổi sắc, thật ra đã kinh hồn bạt vía, lòng muốn lùi bước, trong phút chốc đầu hiện lên rất nhiều nghi hoặc, Nguyên Thú đế muốn xử lí Xương Bình và Lưỡng Giang thế nào? Vì sao lại khăng khăng phái hắn đến đây? Hắn phải làm như thế nào mới có thể giải quyết quan trường Lưỡng Giang một cách êm đẹp mà vẫn an toàn trở ra?

Liên lụy đến bí mật của đế vương, dù hắn có là hoàng tử, cũng có khả năng rơi vào kết cục tan xương nát thịt.

"Buôn bán lương nhân, lạm sát người vô tội là chứng cứ có thể đụng rơi đầu ta, nhưng thứ cứu được ta, cũng chính là những chứng cứ phạm tội này." Xương Bình vô cùng hả dạ.

Bà dùng địa vị đế cơ, lưu lạc Lưỡng Ginag, thay Hoàng đế bán mạng, kiếm tiền cho quốc khố, nội khố, sao hoàng huynh của bà được vạn dân ca tụng một câu minh quân, còn bà chỉ là ruồi nhặng bu quanh mà thôi?

"Có biết vì sao Vương Nguyệt Minh lại giao chứng cứ phạm tội cho ngươi không? Bởi vì hắn nhìn ra được, lúc trước là hắn liên hợp với quan thương Lưỡng Giang chèn ép ta, khiến ta không thể không tham dự vào hoạt động lừa bán lương nhân của Nha hàng, ta biết hắn muốn mượn việc này làm chứng cứ phạm tội để giết ta. Ngươi nghĩ rằng Vương Nguyệt Minh giao tất cả chứng cứ cho ngươi là vì tán thưởng ngươi, coi trọng ngươi hay sao? Hắn chỉ muốn vứt vấn đề khó nhọc đòi mạng này cho ngươi mà thôi!"

Xương Bình chỉ thẳng vào Chu Tử Thư, thoải mái nói: "Ngươi tự nhìn bản thân mình xem ngươi đáng ghét biết bao nhiêu? Mà trước khi chết Vương Nguyệt Minh vẫn còn muốn bày trò chơi ngươi! Giết ta, mặt mũi của Hoàng đế và triều đình đều bị một mình ngươi kéo xuống hết, đến lúc đó mất sạch lòng dân, giang sơn vụn vỡ thì tất cả đều là tội của mình ngươi! Không giết ta, mọi người có thể tiếp tục giả câm giả điếc chôn vùi hết những nhơ nhuốc bẩn thỉu lại quan trường Lưỡng Giang này, tiếp tục duy trì thái bình thịnh thế, ngươi vẫn là thanh thiên đại lão gia trong mắt bá tánh..." Bà ta gằn từng chữ, trong mắt là sự hưng phấn không thể khống chế được: "Khoác vào thân lớp vỏ thanh thiên cương trực công chính sạch sẽ, tiếp tục làm Chu đại nhân thanh cao không nhiễm bụi trần, biến thành chính những tham quan nịnh nọt, dối trá mà ngươi đã từng giết chết!"

Cung Chiêu Vấn hãi hùng khiếp vía, không khỏi xúc động, đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, nghĩ thôi cũng đã thấy ngạt thở rồi.

Một số ít người sống dựa vào niềm tin, cũng nguyện chết vì niềm tin, đối với hắn mà nói, hoàng quyền tranh đấu, quan trường thỏa hiệp không phải là ranh giới cuối cùng, không cần phải do dự nhiều vẫn có thể đưa ra sự lựa chọn có lợi nhất cho bản thân mình, nhưng đối với Chu Tử Thư, đó có lẽ là tính ngưỡng mà y sẵn sàng chịu chết vì nó.

Với Cung Chiêu Vấn, hắn thà chết trận nơi sa trường chứ không muốn phản bội triều đình và những tướng sĩ cùng vào sinh ra tử với mình, đó là ranh giới cuối cùng trong lòng hắn.

Còn với Chu Tử Thư, bảo vệ công lý, vì dân chờ lệnh, chính là ranh giới cuối cùng mà y tuyệt đối không lùi bước.

Cắt đứt ranh giới cuối cùng, không thua gì cắt nhường thành trì, nhục nước mất chủ quyền, chết không nhắm mắt.

Hắn nhìn về phía Chu Tử Thư, muốn biết y sẽ làm gì tiếp theo.

Tình cảnh lưỡng nan, tiến tới hoặc lui bước đều là kết cục thịt nát xương tan, ngươi sẽ lựa chọn như thế nào?

Chu Tử Thư nhếch môi, mặt không biểu cảm, một lọn tóc đen đẫm nước dán sát gò má, y cụp mắt, lông mi nhẹ nhàng run rẩy, rồi đột nhiên nâng lên, giống như bươm bướm vỗ cánh bay đi.

"Có người hỏi ta, công chúa phạm pháp, ta có dám giết hay không." Xương Bình cười giễu.

"Ta nói cho hắn biết, quốc pháp cho chém, thì ta dám giết."

Xương Bình cười càng ngông cuồng hơn: "Ta chờ ngươi, đến hủy hoại thái bình thịnh thế của Đại Cảnh này!"

Chu Tử Thư không đáp lại nữa, xoay người rời đi, để lại tiếng cười hát cuồng vọng của Xương Bình phía sau: "Giết hung phạm, tế oan hồn... Dẫu có phanh thây xé xác ta thành trăm ngàn vạn mảnh —— "

Âm thanh sắc nhọn, giống như một lưỡi dao tràn đầy ý hận đâm vào túi da, cay độc ác nghiệt xé mở cái gọi là mạng người như cỏ rác bên dưới thái bình thịnh thế, và cái gọi là công đạo của thế gian dưới sự thống trị của vương triều phong kiến.

"Cũng phải trả lại công bằng cho nỗi oan thấu trời này của ngươi!"

***

Chu Tử Thư vô tri vô giác bước đi trong mưa to, Cung Chiêu Vấn cầm ô đuổi theo, che khuất mưa gió trên đỉnh đầu y, muốn nói lại thôi.

"Mặc dù lật lại bản án thì quan lại Lưỡng Giang bị dính rất nhiều, nhưng thực ra tội nặng chém đầu, cũng không có mấy người. Bổn vương hứa với ngươi, những tham quan ô lại phạm tội giết người, dù có là quan lớn như Sơn Kiềm hay Hồ Hòa Nghi, ta cũng sẽ nghiêm trị xử phạt, tuyệt đối không nương tay!" "Vậy ba trăm mười lăm mạng người mà Xương Bình vừa lấy đi thì sao?"

"Ta biết ngươi bất bình không phục, nhưng chỉ vì công đạo cho vài người mà hủy hoại cuộc sống thái bình mà người trong thiên hạ không dễ gì mới có được, có đáng không? Đúng, Xương Bình đã phạm pháp, là tội giết người, nhưng đó cũng chính là vì bị Vương Nguyệt Minh đã bày mưu cùng Nha hàng đẩy xuống cái bẫy này, bà ta cũng là vì Đại Cảnh, vì triều đình và bá tánh nên mới nhảy xuống hố sâu. Có thể dùng công bù đắp tội, vì sao bà ấy không thể? Trải qua đại án này, thế lớn của quan trường Lưỡng Giang tất sẽ về trong tay phụ hoàng, sau đó Chu Xương Bình về kinh đô giam lại, làm như vậy còn thống khổ hơn so với việc trực tiếp giết bà ấy."

Chu Tử Thư gật đầu: "Đem mấy tên tham quan ô lại ra chặt đầu, chấn nhiếp những quan lại khác, rồi lại đặc xá tha cho, vừa ban ân huệ vừa đe dọa, lấy được lòng người. Hoàng đế giật lại được thủy hải vận phương nam và quan trường Lưỡng Giang nghe lời mà ông ấy mong cầu, quốc khố lại giàu có lên, ngươi lấy được chiến tích hoàn mỹ mà mình muốn, phong quang hồi triều, Xương Bình cũng đạt được tâm nguyện về kinh, quan lại may mắn thoát chết có được cơ hội sống sót... Ai ai cũng được lợi từ đại án Lưỡng Giang này, đến cả chiến tích của ta cũng đẹp không ai bì nổi, tất cả mọi người đều được như mong muốn, hài lòng tàn cuộc, sau đó thì sao?"

Cung Chiêu Vấn không nói nên lời, có lẽ vì sắc mặt của Chu Tử Thư, hoặc là do ánh mắt của y toát ra một loại bình tĩnh khiến cho lòng người rung động bất an.

"Sau đó tiếp tục ngoài mặt quân thần tương hòa, lại trị trong sạch, mạch nước ngầm vẫn chảy trôi bên dưới, thời gian cứ thế trôi đi, điềm báo thịnh thế lại đến gần ngay trước mắt..."

Cánh tay giấu trong tay áo của Chu Tử Thư đang run rẩy.

"Còn những người vô tội chết oan kia phải làm sao đây?"

"Ai sẽ đến giải oan cho bọn họ?"

Cung Chiêu Vấn lên tiếng đáp: "Thế gian này cũng chẳng phải là không đen thì trắng..."

"Vấn đề không nằm ở không đen thì trắng." Chu Tử Thư không muốn nhiều lời, chỉ ngẩng đầu nhìn hắn, chắp tay nói: "Thần cầu Khâm sai, hãy cho ta mượn Thượng phương bảo kiếm."

==

Min:Em Cá đin lên ùi 🐟 mượn kiếm để đi xử trảm, kẻ xấu đều phải nhận quả báo, và cuối cùng là chồng chồng tiểu quận vương sắp gặp lại nhau rồi áaa 😽

Tác giả có để một đoạn giải thích nội dung truyện, mình sẽ edit và bổ sung sau nhé 🌸

Chương 84

Ngoại trừ ấn tín quan phòng dùng để làm chứng, Khâm sai còn có thể điều binh mã, có cả thượng phương kiếm được phép tiền trảm hậu tấu.

Cung Chiêu Vấn từ chối: "Bổn vương không truy cứu ngươi khoảng thời gian trước đã lấy ta làm bè máng, ngươi cũng đừng tiếp tục quản vụ án Lưỡng Giang như trước đây nữa. Đã lui thì phải lui cho sạch sẽ, đừng dây đưa lằng nhằng."

Chu Tử Thư: "Chuyện đã đến nước này, ngươi cũng vẫn còn chưa nghĩ đến chuyện không chiếm được gì sao. Nếu như không nghiêm túc giải quyết vụ án thì chúng ta khó mà khống chế quan trường Lưỡng Giang này được, cũng không thể khiến nó trở thành hậu thuẫn đắc lực của ngươi. Còn nếu như nghiêm túc xử lí, làm cách nào để ngươi nắm chắc được chuẩn mực để khiến cho bệ hạ thỏa mãn, mà bản thân ngươi vẫn có thể bình an vô sự trở ra đây?"

Cung Chiêu Vấn trầm mặt xuống: "Ngươi —— "

Chu Tử Thư ngắt lời hắn: "Giao cho ta đi."

Cung Chiêu Vấn hơi ngạc nhiên, lưỡng lự trước lời này.

Chu Tử Thư: "Quan triều đều biết ngoài mặt ta là Tào ty sứ Giang Tây, thực tế ta phụng mệnh đến Lưỡng Giang tra án, nếu không phải bệ hạ cố ý, làm sao có thể nhấn mạnh với ta một câu tùy cơ ứng biến? Vạch trần Nha hàng lạm sát người vô tội, quan thương Lưỡng Giang cấu kết, tận mắt chứng kiến Sơn Kiềm bất chấp vương pháp giết chết chết Tri phủ ngũ phẩm, cũng chính ngươi, bản thân ngươi còn vì vậy mà bị giam gông đứng, đây đều là chiến tích thật, không ai có thể xen vào, cho dù ngươi không tự mình ra mặt, cũng không ai có thể hái quả trong tay ngươi xuống." Cung Chiêu Vấn có vẻ động lòng.

Chu Tử Thư: "Ngươi chỉ cần đẩy ta lên phía trước làm một thanh đao, giả câm giả điếc một phen, cùng lắm là bị một chiết tử vạch tội, không đau không ngứa, trên triều còn có rất nhiều người sẵn lòng ra mặt mở lời vì ngươi... Đã có thể bình an trở ra, lại không sợ công trạng bị cướp, còn có thể giải quyết hoàn hảo đại án Lưỡng Giang, chẳng phải một công ba chuyện hay sao?"

Cung Chiêu Vấn: "Dù sao ta cũng là Khâm sai chủ thẩm đại án Lưỡng Giang, bị ngươi đảo khách thành chủ, có phần không thể tưởng tượng nổi."

Chu Tử Thư: "Dù sao thì cũng tốt hơn là tình hình đâm lao phải theo lao như bây giờ nhiều, hay điện hạ có cách gì khác tốt hơn không? Thời gian nào có đợi người đâu, động tĩnh ở Lưỡng Giang rồi sẽ nhanh chóng truyền về kinh đô, ngươi cũng đã lâu không xuất hiện, Đông cung sẽ sớm đoán ra được ngươi đang ở Lưỡng Giang, chẳng lẽ bọn họ sẽ không nhân lúc ngươi đang do dự mà động tay động chân hay sao?"

Cung Chiêu Vấn bị thuyết phục: "Ngươi muốn mượn thượng phương kiếm để làm gì?"

Chu Tử Thư giương mắt lên: "Còn có thể làm gì nữa? Cáo mượn oai hùm, định tội kết án thôi."

Cung Chiêu Vấn suy nghĩ một chút rồi cũng gật đầu, dù sao cũng chỉ là quá trình thẩm vấn bình thường, Chu Tử Thư chính là thanh đao tốt trong tay phụ hoàng, ai mà không muón dùng chứ?

Huống chi còn là do Chu Tử Thư tự đề cử mình, y thật sự tra án rất giỏi.

Hắn gọi Yến đô úy đến: "Đưa y đi lấy thượng phương kiếm đi." Dừng lại mấy hơi, hắn lại hỏi: "Ngươi có còn cần gì nữa không?" "Có thể cho phép ta sai sử binh mã nữa thì càng tốt."

"Chuẩn."

"Gọi nghi phạm có liên quan đến Hồng Châu thẩm vấn, e là cũng cần danh nghĩa của Khâm sai."

"... Chuẩn."

"Tạ điện hạ." Chu Tử Thư chắp tay, "Thần cáo lui."

Nói xong thì lui về phía sau, mắt thấy Chu Tử Thư lại bước trở về trong màn mưa xối như thác đổ, Cung Chiêu Vấn nhanh tay nhét ô giấy dầu vào trong tay y.

"Đã muốn trở thành thanh đao tốt thì phải chú ý cơ thể hơn, đừng để bị bệnh."

Chu Tử Thư không từ chối, che ô giấy dầu hòa vào màn mưa mịt mù, bóng dáng nhanh chóng biến mất không thấy đâu.

Cung Chiêu Vấn đứng chắp tay trong hành lang dài trú mưa, nét mặt lạnh lùng nhìn ra bầu trời tối tăm mịt mờ, Yến đô úy quay về phục mệnh lặng lẽ tới gần, lập tức bị phát hiện.

"Không tự mình đưa người về phủ sao?"

"Bên cạnh tiểu Chu đại nhân có cao thủ, đã từ chối khéo ti chức rồi."

"Về sau Chu Tử Thư có bất kì hành động gì, các ngươi không cần phải quá chủ động phối hợp nhưng cũng không cần ngăn cản, cứ làm theo hết đi. Nếu như y có phân phó gì, cứ việc nghe theo là được."

Sắc trời u ám, đến giờ thìn thì lẽ ra trời phải sáng rồi mới đúng, nhưng cơn mưa to này bao trọn đất trời, giống như sẽ mãi mãi chẳng rời đi vậy.

"Thật ra ta cũng không thể dễ dàng tha thứ cho những việc làm tàn ác của Xương Bình."

Hắn là hoàng tử, có dã tâm, muốn có được vị trí Thái tử nhưng bản thân lại quá tầm thường, cho nên khi gặp chuyện hắn cần cân nhắc thiệt hại trước, công lý thiện ác đặt sang một bên, đó là thói quen mà hắn đã khắc sâu vào bản chất của mình, cũng chẳng phải là chỉ có một mình hắn như thế.

Nhìn ra thiên hạ mà xem, có thể tìm được bao nhiêu Chu Tử Thư chứ?

Nhưng Cung Chiêu Vấn không phải là người không chuộng nghĩa khí.

Xương Bình bị mắc kẹt trong suy luận của chính mình, thứ đóng gói bà ta thành hình tượng anh hùng chịu khổ, nhưng Tam ty và cả triều văn võ đâu phải hạng bất tài, thuế thủy vận bốn kênh kinh đô là một khoản với con số không nhỏ, huống chi mấy năm gần đây quân Ký Châu lại cắt giảm quân tư lần nữa, cũng chẳng hao phí bao nhiêu tiền.

Lại nói phủ công chúa xa hoa đến độ mỗi khe gạch hở đều được mạ vàng, phô trương lãng phí đến nhường này, Xương Bình còn dám nói bạc kiếm được không dùng cho riêng bản thân bà ta sao?

Khoảng thời gian đầu khi phụ hoàng đăng cơ, triều Đại Cảnh bấp bênh, có thể đã thực sự dựa vào Xương Bình, nhưng mà không từ thủ đoạn, lạm sát người vô tội, xem thường triều đình đều là tội ác mà bà không thể phủ nhận. Tuy không có cách nào dễ dàng tha thứ, nhưng lại không giết bà ta được.

"Bổn vương vẫn phải tìm cách giữ lại cái mạng cho bà ta." Cung Chiêu Vấn tự lẩm bẩm, khá là bất đắc dĩ.

***

Lúc đuổi bắt Lý Đắc Thọ, Ngụy bá và ám vệ đã bị thương, hiện đang nghỉ ngơi trong phủ, người đến đón Chu Tử Thư là Ngũ đô ngu và Nghiên Băng.

Chu Tử Thư ngồi tựa vào sát góc buồng xe ngựa, ôm thượng phương bảo kiếm trong lòng, thất thần nhìn màn mưa to qua cửa sổ xe.

Nghiên Băng cầm khăn sạch đến, đau lòng quấn lên người Chu Tử Thư, thấp giọng nói: "Trong xe có quần áo khô, ngũ lang thay đồ đi."

Chu Tử Thư đè tay Nghiên Băng lại, gọi Ngũ đô ngu vào hỏi: "Thủy Hồng

Lãng, Sơn Kiềm và Đề hình Giang Tây bị bắt cả rồi phải không?"

Ngũ đô ngu: "Đều đang bị nhốt trong đại lao Nha môn."

"Chẳng phải Nha môn bị đốt rồi à?"

"Cứu hỏa kịp thời, cháy không nghiêm trọng lắm."

Chu Tử Thư im lặng hồi lâu mới nói: "Chứng cứ phạm tội mà Vương Nguyệt Minh đưa cho ta có ghi chép lại tên các quan lại thu hối lộ trong bốn tỉnh ba mươi tám phủ này, từ quan lớn đến quan nhỏ, từ Tào ty, Phát vận ty đến Nha môn các phủ, mấy đêm trước ta đã sao chép lại một bản, ngươi mang binh đi bắt người, cứ đến tìm Khâm sai mà mượn. Ngoài ra thông cáo cho bá tánh Hồng Châu biết, giờ thìn ba khắc năm ngày nữa, bổn quan thay mặt Khâm sai tra hỏi quan trường Đông Nam."

"Tuân lệnh."

***

Năng lực và hiệu suất làm việc của Ngũ đô ngu rất cao, cầm lấy bản sao lên đường ngay trong đêm, trong tình hình không thiếu nhân thủ, lần lượt Chu chín trăm mười tám quan lại phạm án từ bốn tỉnh ba mươi tám phủ đến phủ Hồng Châu.

Nha môn Hồng Châu.

Một nhóm quan lại quỳ ở sân trước Nha môn, phía trước là bảng hiệu 'gương sáng treo cao', thượng phương kiếm màu vàng sáng chói được gác bên dưới tấm bảng, phía sau là hai mặt trống kêu oan, trên đỉnh đầu là ánh mặt trời chói chang.

Thời tiết tháng năm, tháng sáu ở phương nam rất kì lạ, mới buổi sáng đây vẫn còn mưa to, đến giữa trưa mặt trời đỏ chói đã hun người đến nỗi chóng mặt hoa mắt, không khí oi bức không một ngọn gió, bầu trời ở phía đông đã bị mây đen giăng kín, nhưng trời tây lại xanh trong không gợn mây, phân biệt thật sự rất rõ ràng.

Ve sầu trên cây kêu to, đám quan lại quỳ dưới đất hơn một canh giờ, trên người còn mặc quan phục dày cộm không chịu nổi nữa, sắc môi trắng bệch, không ngừng lau mồ hôi lạnh trên trán.

Khâm sai không xuất hiện, chỉ để một thanh thượng phương kiếm ở đấy, nhưng chẳng có ai dám di chuyển.

Mãi đến khi có người không chịu nổi nữa ngã xuống đất, bị doanh binh tạt cho một chậu nước lạnh cho tỉnh lại, toàn thân ướt đẫm trông chật vật không chịu nổi, Sơn Kiềm đầu tóc bù xù mới cười lạnh lên tiếng trước: "Khâm sai muốn bắt người thì cứ bắt, muốn thẩm vấn thì cứ thẩm vấn, sao lại sỉ nhục người ta như vậy? Đều là môn sinh của Thiên tử, đường đường là cử tử từng tham gia hội khảo, gặp quan còn chẳng cần quỳ, sao có thể để cho Khâm sai sỉ nhục như vậy được?"

"Đều là súc sinh không bằng cầm thú mà còn đòi cao quý hơn ai đây?"

Đột nhiên có một giọng nói vang lên chen vào, Sơn Kiềm ngẩng đầu nhìn lên, ngạc nhiên vì người đến không phải là Khâm sai, mà là Chu Tử Thư.

"Ngươi là chủ thẩm?" Sơn Kiềm cười giễu, "Đến cả ngươi cũng ngồi không yên à, nhân cơ hội này kiếm công theo vua sao?"

Chu Tử Thư chắp tay đứng trước mặt Sơn Kiềm, cụp mắt nhìn gã: "An phủ sứ Giang Tây Sơn Kiềm Sơn đại nhân, từ khi ngươi đi nhậm chức đến nay đã bốn năm, thu tiền Cán thương, xem như không thấy tội ác Cán thương liên hợp với Phát vận ty sử dụng thuyền hàng để buôn lậu, giải quyết qua loa cho xong chuyện, ăn không ngồi rồi, mắt điếc tai ngơ trước hành vi bắt tay che giấu mỏ muối tư nhân thuộc sở hữu của dân chúng thấp cổ bé họng, giết cả nhà người khác, bêu xấu Dương thị, gây nên án oan sâu như biển của quan huyện dưới quyền và diêm thương. Ngươi sợ sự việc đã bại lộ, dùng quyền mưu lợi riêng, cực lực ngăn cản Tri phủ Cát Châu và Tri phủ Hồng Châu lật lại bản án của Dương thị, sau đó hợp lực giết chết Quản Văn Tân. Tội ác ngập trời, phải chém! Phải chém!"

Hai má Sơn Kiềm căng chặt, bày ra dáng vẻ đại trượng phu không sợ chết.

"Sơn Kiềm, ngươi có nhận tội hay không?"

"Thẳng làm vua thua làm giặc, Sơn Kiềm ta không phải hạng người tham sống sợ chết, muốn giết thì cứ giết!"

Chu Tử Thư cúi người nhìn Sơn Kiềm chằm chằm: "Tội mà ngươi phạm phái đủ để sao nhà diệt tộc —— "

Sơn Kiềm biến sắc, hung dữ nhìn Chu Tử Thư: "Chẳng liên quan gì đến thân tộc của ta cả! Ta cũng là người giỏi xử án luận ngục, tự biết tội ta phạm phải căn bản không thể gây họa đến người nhà, ngươi bớt hù dọa đi!"

"Ta là quan chủ thẩm, ta nói có thể là có thể, ta nói vô tội thì bọn họ mới có thể miễn bị truy bắt chứ! Hoặc là ói chứng cứ ngươi và Xương Bình công chúa cấu kết mưu hại người vô tội, cả việc tham ô hối lộ ra, bản quan sẽ đảm bảo để người nhà ngươi được an toàn, hoặc là dựa vào chỗ hiểm để mà chống cự, chờ ba đời cửu tộc nhà ngươi đều bị lôi đến đây chịu tra khảo, xuống địa phủ rồi hãy cáo trạng Chu Tử Thư ta, dù sao thì bổn quan cũng chẳng thiếu ngươi cái gì!"

Sơn Kiềm nhìn Chu Tử Thư mà căm tức, ánh mắt lạnh lùng của y không mảy may đổi sắc, lạnh đến mức làm cho phòng tuyến tâm lý của gã liên tục vỡ nát.

"Được, ta viết, tội của ta thì để mình ta gánh chịu, nếu như ngươi dám vì lòng riêng mà bội ước, dù ta có làm quỷ cũng sẽ bò lên dương gian này để lấy mạng ngươi!"

Chu Tử Thư: "Ngươi đâu, bày sẵn mực bút."

Thẩm vấn Sơn Kiềm xong, đến lượt Thủy Hồng Lãng.

Thủy Hồng Lãng không chịu nhận tội, khăng khăng bảo gã không liên quan gì đến Cán thương, càng không liên quan gì đến vụ án của Dương thị, lúc Sơn Kiềm giết Quản Văn Tân, mặc dù gã có đứng xem nhưng thật ta đó là do bị lừa, gã cũng từng đửng a khuyên can, nhưng đám người Sơn Kiềm lại không chịu nghe.

"Cùng lắm là ta thấy chết không cứu, biết chuyện không báo mà thôi, tội của ta không đáng chết!"

Chu Tử Thư lấy sổ sách Vương Nguyệt Minh cho y ra, đọc từng dòng số liệu tham ô nhận hối lộ của Thủy Hồng Lãng mấy năm nay.

Y còn chưa đọc xong, tấm lưng của Thủy Hồng Lãng đã thụp xuống, nửa người trên ngã rạp ra đất, mềm nhũn không tài nào động đậy nổi.

"Chỉ mới vậy thôi đã không nghe nổi nữa rồi à? Ngươi cũng chột dạ, cũng biết tội tham tiền của mình cũng đủ để chặt mười cái đầu chứ?" Chu Tử Thư hừ lạnh, khi Thủy Hồng Lãng đang run rẩy vươn tay níu lấy vạt áo y cầu tình, y liền tung chân đá văng người nọ ra, đi đến chỗ Đường đề hình đang run lẩy bẩy ở bên cạnh.

Chưa chờ đến lúc y mở miệng tra hỏi, Đường đề hình đã trợn mắt, tự dọa mình ngất trước.

Chu Tử Thư: "Ăn hối lộ trái pháp luật, buộc tội người vô tội, cấu kết quan thương, giết lầm thiện lương, hồ đồ ngu xuẩn, làm Đề hình được tới nước này, chỉ sợ là oan tình tỉnh Giang Tây này còn nhiều hơn cả bùn cát Cán Giang nữa! Bổn quan cũng không thiếu nợ gì ngươi, giết quách cho xong việc!"

Bên cạnh có ba sư gia đang viết bản cung, một người trong đó ngẩng đầu nhìn Đường đề hình một chút, không nói nhiều, suy nghĩ vài giây rồi nhanh tay hạ bút, nhanh chóng hoàn thành phần tội trạng của Đường đề hình. Nha dịch cầm tội trạng, lôi ngón tay cái của Đường đề hình ra ký tên.

Kế tiếp là Soái sứ Quảng Đông, đã từng là Đề hình sứ Giang Tây, tự biết sự tình đã lộ, sắc mặt lão xám xịt, cũng không giãy giụa, chỉ lấy mũ quan xuống, cởi quan bào ra, để lộ ra bên tóc mai màu hoa râm, run rẩy dập đầu nói: "Tội thần phán sai án oan ruộng muối Cát Châu, tự nguyện nhận tội đền tội." Ánh mắt Chu Tử Thư lạnh băng, mặc vô cảm tiếp tục đi về phía trước.

"Hồ Hòa Nghi."

Hồ Hòa Nghi ngẩng đầu ưỡn ngực như không phục, bởi vì lúc đến không chịu quỳ xuống nên gã đã bị đánh gãy một chân, lúc này dù lưng có ưỡn thẳng thì trông cũng hơi lệch.

"Ba trăm mười lăm mạng người ở mỏ đá đều là tội của mình ta, không liên quan gì đến Xương Bình công chúa cả!"

"Trong sổ sách của quan phủ vẫn còn ghi chép lại mỏ đá được đăng kí dựa trên danh nghĩa của Lý Đắc Thọ, ngày hôm đó Lý Đắc Thọ cũng ở chỗ đấy, ngươi có chối bỏ được không?"

"Đại nhân có điều không biết, bởi vì bổn quan luyến mộ Xương Bình điện hạ đã lâu, Lý Đắc Thọ kia lấy cớ dùng mỏ đá lừa gạt ta làm liên lụy đến điện hạ, chờ đến khi ta giết hết người rồi mới nhận ra mình bị lừa. Đại trượng phu ai làm nấy chịu, bổn quan đã phạm phải tội tày trời, nên giết chết nên lóc thịt, tất nhiên muốn làm gì cũng được, nhưng không liên quan gì đến người ngoài thì chính là không liên quan, đại nhân chớ ôm lòng riêng mà trả thù, oan uổng người vô tội!"

"Ngươi không sợ liên lụy đến gia quyến sao?"

Hồ Hòa Nghi nhắm mắt: "Ta đã lăn lộn trong quan trường hai mươi năm, nói rằng trong tay không có gì không sạch sẽ thì ai mà tin? Đến ta còn chẳng tin mà! Trong quan trường trên hối lộ dưới, tiền bạc qua lại vốn chính là chuyện bình thường, đến bệ hạ cũng không dám yêu cầu một triều đình sạch sẽ sáng trong. Ta làm quan giúp việc cho người khác, nhận được thứ tốt, đem chia cho gia tộc thân quyến, bọn họ cũng mượn thanh thế của ta để hưởng thụ vinh hoa phú quý mà người thường không có được, tất nhiên sẽ phải nghĩ đến việc nếu như ta xảy ra chuyện thì bọn họ cũng phải cùng gánh chịu. Bọn họ có chuẩn bị tâm lý, không cần đại nhân hao tâm tổn trí lo nghĩ, làm gì thì làm phán sao thì phán."

Chu Tử Thư mỉa mai: "Tính ra ngươi cũng là người thật lòng thật dạ với Xương Bình."

Hồ Hòa Nghi không đáp.

"Hưởng quyền cao lộc hậu mà triều đình ban cho lại không làm chuyện thực, tự huyễn hoặc mình, lấy tính mạng ba trăm mười lăm người và người thân trong nhà ra để bảo vệ tình yêu ích kỷ đến buồn nôn của ngươi, mắng ngươi là heo chó giống như là sỉ nhục heo chó vậy!"

Bây giờ, bất kể là lời mắng chửi gì đối với Hồ Hòa Nghi cũng không thể khiến cho gã đau ngứa, người này tham quyền hám danh, đến cả những việc gã thay Xương Bình làm cũng đều tính toán lợi ích đạt được, cuối cùng còn thật sự vui lòng vì Xương Bình được ăn cả ngã về không. Đáng tiếc sự ích kỉ đó làm cho người ta mắc ói.

Ngoại trừ đám người Hồ Hòa Nghi, Chu Tử Thư còn thẩm vấn thêm sáu người nữa, đó đều là những quan lại đã giết uổng mạng người, chứng cứ phạm tội vô cùng chính xác, không cách nào bào chữa được, có kẻ xác nhận Xương Bình, có kẻ xác nhận Cán thương, chỉ có Hồ Hòa Nghi cắn chết là không thừa nhận chuyện có liên quan đến Xương Bình.

"Bản khai đã viết xong chưa?"

Có một sư gia trong đó tiến lên nói: "Đều lăn tay cả rồi, đợi sao chép lại một phần nữa là có thể đưa thẳng lên Hình bộ."

"Ừm." Chu Tử Thư đứng sừng sững trước mặt một đám quan lại, im lặng không nói, bầu không khí như ngưng đọng lại.

Những quan lại còn chưa được hỏi tới nơm nớp lo sợ nuốt nước bọt, mồ hôi nhỏ vào trong mắt cũng không dám xoa, không đoán ra được người mà Chu Tử Thư muốn thẩm vấn tiếp theo là ai, cũng không biết vì sao đột nhiên y lại hỏi đến bản khai, lẽ nào không thẩm vấn nữa?

Yến đô úy tiến lên hỏi: "Đại nhân?"

Hắn cứ nghĩ là Chu Tử Thư muốn thu thập chứng cứ phạm tội của Xương Bình công chúa nhờ vào việc thấm án hỏi tội, nhưng theo ý của Lục hoàng tử thì dường như hắn không muốn giết Xương Bình, có lẽ là kiêng dè Thái hậu và Thánh thượng, chỉ tiếc cho Chu Tử Thư đã phải tốn công tốn sức.

"Mây đen dày đặc, yến tước bay thấp, e là trời lại sắp mưa nữa rồi." Ngụ ý, thúc giục hắn tranh thủ thời gian tiếp tục thẩm vấn.

"Tạm thời không hỏi nữa, nghỉ hai canh giờ đi."

Chu Tử Thư vừa dứt lời, những quan lại chưa bị vặn hỏi đều cùng lúc thở phào nhẹ nhõm, có thể kéo được đến lúc nào thì hay lúc ấy.

"Trói đám ác quan Sơn Kiềm, Hồ Hòa Nghi, Thủy Hồng Lãng, Đường Thủ

Thiên tội lỗi chồng chất này lại, chấp thuận định tội, đẩy ra đây, đối diện với hai mặt trống kêu oan và hai tượng đá giải trãi* trước cửa Nha môn —— "

(*) Giải trãi (tiếng Trung: 獬豸, bính âm: xièzhì, tiếng Hàn: haetae: 해태, hay haitai hay haechi) là một sinh vật thần thoại trong nền văn hóa Á Đông (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam), nó là sinh vật biểu tượng cho công lý là linh thú được tôn sùng là thần công lý và gắn với hành pháp.

Yến đô úy chắp tay chuẩn bị nghe lệnh, Sơn Kiềm và Hồ Hòa Nghi không có phản ứng gì, Đường đề hình đã ngất xỉu, đám người Thủy Hồng Lãng nín thở, quả tim bị treo cao lên, nghĩ rằng Chu Tử Thư muốn cho bọn họ khoác gông đeo xích chân, ra đường diễu hành thị chúng, nhận hết mọi vũ nhục.

Đến cả Yến đô úy cũng nghĩ như vậy.

"Chém!"

"—— "

"!"

Đám quan lại và Thủy Hồng Lãng co rúm cả người, đến cả Sơn Kiềm và Hồ Hòa Nghi đã cam chịu số phận từ sớm cũng nhìn chằm chằm Chu Tử Thư không dám tin, dường như đang hỏi vì sao ngươi dám làm như vậy?

Yến đô úy ngỡ ngàng khó hiểu: "Đại nhân, sau khi phạm nhân khai chứng cung định án xong theo lý phải giam lại cho Hình bộ thẩm tra, chờ châu phê* xong mới đưa đi chém đầu, có phải ngài nói nhầm rồi không?"

(*) Châu phê (朱批): phê bằng bút đỏ

Chu Tử Thư: "Còn trẽ thế mà đã lãng tai à? Không nghe rõ? Được, bổn quan lặp lại lần nữa, trói bọn họ lại, lôi từng kẻ ra ngoài chém đầu răn chúng! Không cần giải ra pháp trường, ở ngay cửa Nha môn này đây, ngay trước bá tánh, ngay trước trống kêu oan và tượng đá giải trãi luận đúng sai, chặt hết đầu của đám người này xuống cho bổn quan!

Yến đô úy nhìn thấy sát ý dâng lên từ trong mắt Chu Tử Thư tràn ra ngoài, sợ đến mức vô thức gật đầu: "Ti chức tuân lệnh." Xoay người đưa tay lệnh cho tướng sĩ kéo người ra cửa Nha môn.

Thủy Hồng Lãng sợ đến mức cúi lạy sát đất: "Tha mạng, tha mạng đi đại nhân, ta oan quá... " Mãi đến khi gã bị kéo ra đằng xa vẫn còn nghe thấy tiếng kêu rên thê lương: "Ta oan quá —— "

Sơn Kiềm và Hồ Hòa Nghi bị gãy chân ngửa mặt lên trời cười điên cuồng, kẻ trước người sau cuồng loạn tiếp lời: "Bọn ta thân làm quan, dù cho trong tay Khâm sai có bản khai nhận tội của bọn ta thì cũng phải đưa đến Hình bộ, báo lên quân vương, chờ châu phê xong mới có thể choàng xích vào người, chém đầu răn chúng —— Chu Tử Thư! Ngươi là cái thá gì? Một không là Khâm sai, hai không mang Hoàng mệnh, chẳng phải ngươi không có quyền tiền trảm hậu tấu hay sao? Chẳng qua chỉ là cáo mượn oai hùm, mang thế lộng quyền, lấy chuyện công trả thù riêng mà thôi!"

"Ngươi giết được đám người bọn ta, không giết được người ngươi thật sự muốn giết!"

"Tư hình xử quyết, bất chấp vương pháp, Chu Tử Thư, ngươi là muốn tranh quyền với Thiên tử —— ngươi muốn tạo phản —— "

"Chu Tử Thư, ngươi cũng chẳng sạch sẽ gì, ngươi có dám nói rằng ngươi giết bọn ta không phải vì bị tư tình làm mờ mắt hay không? Nếu như ngươi thật sự cương trực công chính thì hãy giao cho quốc pháp xử quyết, chẳng qua là ngươi chỉ bị chọc giận mặc kệ oán hận gây chuyện, mượn phẫn uất của dân thường để thỏa mãn khoái cảm có được quyền sinh sát trong tay mà thôi!"

"Ha ha ha... Sơn Kiềm ta ở điện Diêm Vương chờ ngươi, chờ ngươi bưng một tay đầy máu dơ bẩn cùng theo xuống nơi địa ngục này!"

Khung cảnh trở nên im ắng, các quan lại nhát gan đã bị dọa ngất, đến cả Yến đô úy sống sót từ chiến trường chém giết liên miên cũng bị bầu không khí này làm cho bối rối, trái lại sắc mặt Chu Tử Thư vẫn thong dong, hắn không khỏi kính nể từ tận đáy lòng.

Xuất phát từ chức trách, hắn vừa định khuyên can, nhưng ngoài Nha môn đã xuất hiện vấn đề.

Mười hai người bị đẩy ra ngoài đều mặc quan bào, nhỏ nhất cũng là quan tòng tứ phẩm, có lẽ đây là lần duy nhất đám doanh binh bọn họ được đứng gần quan lớn, bản năng khiến bọn họ sợ hãi đại quan thượng sai, mà Chu Tử Thư lại không phải Khâm sai, không có quyền tiền trảm hậu tấu, lúc này còn bị Sơn Kiềm và Hồ Hòa Nghi kẻ xướng người họa hăm dọa, hắn sợ Chu Tử Thư làm việc thiên tư trái pháp luật, trộm giết phạm nhân, nói không chừng đến lúc đó trách tội xuống sẽ liên lụy đến bọn họ nữa.

Trong số đó còn có bốn quan lớn, tiến thêm bước nữa đã thành Tể tướng rồi, có cho bọn họ gan hùm gan báo cũng không dám chặt đầu.

Vì vậy, không ai dám hành động cả.

Yến đô úy nhẹ nhàng thở ra, báo chuyện này cho Chu Tử Thư biết, sẵn tiện khuyên nhủ: "Đám người Sơn Kiềm đều giết người, giấy trắng mực đen, bằng chứng vô cùng xác thực, đại nhân không cần phải lo lắng bệ hạ sẽ đặc xá bọn họ

—— "

Lời còn chưa dứt, hắn đã thấy Chu Tử Thư vào công đường rút thượng phương kiếm, đi thẳng ra ngoài Nha môn, giơ cao kiếm trong tay lên, vừa chuẩn xác vừa lưu loát hệt như cách y chém đầu Lý Đắc Thọ xuống, đột ngột không kịp đề phòng, chém đứt đầu Hồ Hòa Nghi.

Máu tươi nóng hổi trong nháy mắt văng ra, nhuộm đỏ đầu tượng đá giải trãi sạch sẽ trước cửa.

——

Hoàn toàn yên tĩnh.

Chu Tử Thư ngẩng đầu nhìn lên, đồng tử đen đặc trên làn da trắng sứ, trên khóe mắt dính ba giọt máu bị văng lên. "Có cần bổn quan làm mẫu lần thứ hai không?" Im lặng như tờ, không ai trả lời.

Yến đô úy mấp máy môi hai lần mà chẳng thốt ra được lời nào, chỉ là lòng kính nể Chu Tử Thư đã biến thành kính sợ.

Chu Tử Thư kéo kiếm lên, vẫy ráo máu dính vào lưỡi kiếm, vẫn đứng ở cửa Nha môn, nhìn chằm chằm doanh binh hành hình, mười hai cái đầu nhanh chóng lăn lông lốc xuống mặt đất, nét mặt hoặc là dừng lại ở nỗi sợ, hoặc là ngạc nhiên, cũng có kẻ trợn mắt không phục, mà hai tượng đã giải trãi cùng với bậc thềm trước cửa Nha môn đều đã dày đặc máu tươi, đến cả mặt trống kêu oan cũng dính đầy máu.

Giọng nói của Yến đô úy có hơi run rẩy: "Đại nhân, chém xong rồi."

Chu Tử Thư: "Xếp đầu bọn họ lại, tìm mấy cây gậy trúc, treo lên trước cửa phủ công chúa." Yến đô úy: "Cái này..."

Chu Tử Thư: "Ta không thích lặp lại mệnh lệnh lần thứ hai, bây giờ ngươi lại chất vấn ta lần nữa, nếu như không thể làm được việc cơ bản nhất là nghe lệnh hành sự thì về bên cạnh chủ tử của ngươi nói hắn thay người khác đến đây."

Yến đô úy run sợ, vội vàng cúi đầu chắp tay: "Ti chức biết sai, không dám tiếp tục phạm lỗi, ta sẽ lập tức lệnh cho người làm ngay."

***

Bầu trời âm u, mây đen ở phía đông đã nuốt dần khoảng trời trong xanh ở phía tây, gió cũng dần nổi lên, trước mắt có vẻ như lại có một trận mưa to rửa sạch đại địa sắp đổ xuống rồi.

Yến đô úy điều một chiếc xe ba gác dừng trước cửa phủ công chúa, trên xe gác mười hai cái lồng trúc, bên trong là đầu vừa rời khỏi cổ, đi phía trước xe là thanh niên Chu Tử Thư một thân thanh y, sống lưng thẳng tắp như tre trúc.

Tuy rằng không phải chưa từng thấy bêu đầu thị chúng khi hai quân giao chiến, nhưng đó là với kẻ địch hận thấu xương tủy.

Mà đầu trên xe ba gác này đều là công khanh đại thần hô mưa gọi gió của bốn tỉnh, những kẻ mà người bình thường đuổi theo không kịp, e là cả đời cũng không thể gặp được mặt, kết quả rơi đầu chôn xác nơi xứ lạ, còn bị treo lên cây trúc thị chúng.

Treo thì cứ treo thôi, cũng không phải không có đại thần bị tịch thu nhà.

Chỉ là đầu của người ta thì bị treo ở pháp trường, tiểu Chu đại nhân thì lại to gan lớn mật, đem treo ở cửa phủ công chúa, tại sao giữa mẹ con họ lại có mối thù lớn đến như thế nhỉ?

Chu Tử Thư: "Đi mời Xương Bình công chúa mở cửa ra đi."

Lúc này Yến đô úy không giả vờ ngớ ngẩn nữa, lệnh cho người phá nát cửa chính phủ công chúa, nô bộc nha hoàn bên trong nhà vội vàng chạy ra ngoài cản người, những ngươi nhìn thấy đầu người bị treo cao lên ở phía sau sợ tới mức liên tục hét lên, lui lại từng bước, không dám bước tiếp về phía trước nữa.

Chu Tử Thư không sợ tử sĩ theo dõi trong tối, nhanh chân bước tới, quen lối bước lên ban công thủy tạ mà Xương Bình công chúa thường ngủ lại, chỗ này xây rất cao, trông ra được xa, vừa khéo có thể nhìn thấy được gậy trúc dựng lên ở ngoài cửa phủ công chúa.

Trên cây trúc treo đầu người mặt mày dữ tợn, có thể nhìn thấy rất rõ ràng.

Xương Bình công chúa ngồi nghệch ra trên ghế, thế lớn đã mất, hơn nữa tâm phúc đắc lực bên cạnh nếu không phải đã mất tích thì cũng đã bỏ mạng, còn bị mười mấy cái đầu người hù dọa đến mức tâm trạng mịt mờ, tinh thần héo rũ, hào quang chói mắt của mọi khi đã mất đi, sắc mặt trắng bệch, lộ ra dáng vẻ vị tướng suy bại.

Bà nhìn chằm chằm Chu Tử Thư đang bước lên bậc thang nói: "Ngươi điên rồi?"

Bà ta túm chặt lấy lan can, vì dùng sức mạnh nên móng tay thoa sơn bị gãy rời, nhưng đau đớn thấu xương giờ phút này cũng không tài nào lay chuyển được thù hận tràn ngập của bà đối với Chu Tử Thư.

"Chu Tử Thư, ngươi điên rồi có phải không? Ngươi tới đây làm gì? Cô hỏi ngươi tới làm gì?"

"Ta đến kể cho bà nghe, giết chết một người quyền cao chức trọng thoải mái biết bao nhiêu, giơ tay chém xuống, cùm cụp —— đầu rơi nhanh như chớp nháy, mắt còn chẳng kịp nhắm lại, thì ra quan to công khanh cao cao tại thượng và bá tánh ti tiện như sâu bọ trong mắt các người cũng giống hệt nhau mà thôi, đều là con người mà thôi... Đã nhìn thấy chưa? Chết không nhắm mắt, đang nhìn chằm chằm vào bà đấy."

Xương Bình cười lạnh, sắc mặt điên cuồng: "Ngươi nghĩ rằng ta sẽ bị mấy cái đầu người này dọa sợ sao? Chu Tử Thư, ngươi bị kích thích đến điên rồi đúng không? Hả? Không phải ngươi sẽ khờ dại cho rằng mấy cái đầu người này có thể làm cho lương tâm ta bất an, khiến ta phải cúi đầu nhận tội đấy chứ?"

"Không phải mấy cái." Chu Tử Thư bước đến phía sau lưng Xương Bình, đứng từ góc độ của bà ta nhìn về phía đầu người treo cao phía xa, "Nhóm đầu tiên giết mười, nhóm thứ hai giết hai mươi, nhóm thứ ba giết ba mươi... Từ giờ trở đi, bà cứ ngồi ở đây, ngủ ở đây, ăn cũng ở đây đi, ở đâu nhìn những cái đầu không nhắm mắt kia, phải nhớ bà vốn nên giống như bọn họ, bêu đầu thị chúng, để cho vạn người phỉ nhổ!"

Trong nháy mắt Xương Bình như mất đi bình tĩnh, thấp giọng quát lên: "Chu Tử Thư, ngươi dám làm nhục ta! Cô vẫn là công chúa Đại Cảnh, là mẹ ruột của ngươi đấy!"

"Mẹ?" Chu Tử Thư cúi đầu nhìn bà ta, trong giọng nói bình tĩnh mang theo sự mỉa mai: "Có lẽ bà không hay, ta sinh ra đã biết rồi."

Xương Bình cứng đờ, không thể tin được: "Ngươi... Ngươi biết sao?"

Chu Tử Thư xoay người rời khỏi, không hề quay đầu lại mà chỉ lệnh cho thủ vệ: "Từ hôm nay trở đi, không cho phép Xương Bình công chúa rời khỏi đây, dù bà ta có bệnh, có chết, cũng phải chết ở chỗ này!"

***

"Giết toàn bộ rồi sao?"

Cung Chiêu Vấn ngạc nhiên.

Yến đô úy nuốt nước bọt miêu tả cảnh tượng lúc đó: "Y cầm thượng phương kiếm, giơ tay chém xuống, mắt nhìn lom lom, máu đỏ tươi nóng hổi vẩy lên bậc thềm và tượng đá trước cửa Nha môn, không biết thế nào nữa, cảnh tượng đó còn kinh hoàng hơn lúc ta chém liên hoàn trăm cái đầu địch trên chiến trường ấy."

Tâm trạng Cung Chiêu Vấn hoảng hốt, đây là lựa chọn của Chu Tử Thư sao? Y đã chuẩn bị ngọc nát đá tan rồi sao?

Nếu như mấy cái đầu người có thể dọa đến Xương Bình, thì đã không đến mức bà ta làm ác nhiều năm mà đến lúc chết vẫn không hối cãi rồi.

Rốt cục là Chu Tử Thư muốn làm gì? Lẽ nào chỉ là kế hoạch để có được thống khoái nhất thời thôi?

Yến đô úy khuyên nhủ: "Tuy nói ác quan hung lại chết không hết tội, chém đầu tại chỗ cũng đã hả lòng hả dạ rồi, nhưng mà dù cho có là Khâm sai thế thiên tuần thú muốn giết đại thần tam phẩm trở lên thì cũng đều phải xin phép Thánh thượng, cho dù có tiền trảm hậu tấu, sau này cũng sẽ nhận một bản vạch tội, cần có bằng chứng đảm bảo không liên lụy đến bản thân mình mới được. Điện hạ, để mặc Chu Tử Thư tư hình xử quyết quan Lưỡng Giang như thế, chỉ sợ là khó mà thu dọn hậu quả."

Cung Chiêu Vấn đỡ trán suy nghĩ, "Nếu như là ta giết, sau này chắc chắn sẽ bị Đông cung nắm thóp bắt bí. Nếu như đưa đến Hình bộ chờ châu chê, trong lúc đó không biết sẽ lại bày ra trò gì nữa. Chẳng bằng có người thay ta giết, huống chi chứng cứ phạm tội của đám người Sơn Kiềm này vô cùng xác thực, không có châu phê cũng đáng giết!"

Đột nhiên hắn đập bàn quát mắng: "Nếu không phải lo lắng Đông cung, ta đã giết bọn chúng từ lâu rồi!"

Yến đô úy đã biết dự định của Cung Chiêu Vấn, hắn muốn giết một đám người ở Lưỡng Giang trước khi vụ án này được trình lên điện Văn Đức, để trống đi vị trí mà hắn cần, nhưng mà hắn không muốn tự mình ra tay, chí ít là hắn không thể ra mặt giết người.

Hắn là Khâm sai, là chủ thẩm, chịu toàn bộ trách nhiệm, giết hay không giết đều là vấn đề khó, trùng hợp thay có một Chu Tử Thư cũng bị đặt kế đưa đến quan trường Lưỡng Giang, đối phương còn rất tích cực là thanh đao tốt dễ dùng, tất nhiên hợp lẽ đẩy qua cho y.

Nhất thời, Yến đô úy sinh lòng đồng cảm với Chu Tử Thư.

Người làm quan vốn phải làm tốt bổn phận thanh đao tốt trong tay đế vương, đao dùng nhiều rồi sẽ cùn, sẽ hỏng, cho nên hầu hết công khanh đại thần đều hiểu cách bo bo giữ mình, còn triều thần không biết tranh giành với nhau, nếu không phải đã chết rồi thì cũng uất ức thất bại, mai một trong góc, quan trường những năm nay còn ai sẽ chủ động chạy đến ôm chuyện chứ?

Tại sao lại có người chủ động chạy đến ôm lấy củ khoai lang nóng bỏng chết người này, chỉ vì công đạo của bá tánh thôi ư?

Yến đô úy tự nhận mình không làm được, hắn từng nghe miêu tả về những người đại nghĩa này trong mấy câu chuyện ở quán rượu, lúc ấy hắn chỉ khịt mũi xem thường, cảm thấy không hổ là thư sinh thi rớt mới có thể biên soạn được tình tiết tưng tửng giả tạo kiểu như thế.

Nhưng khi hắn tận mắt chứng kiến trên đời thật sự có loại người này, mặc dù không dám gật bừa, nhưng lại khó mà khống chế được lòng kính nể.

"Ti chức còn cần nghe Chu đại nhân sai phái không?"

"Y chỉ cái nào, các ngươi đánh cái ấy." Cung Chiêu Vấn ném ấn tính quan phòng cho Yến đô úy: "Nghe nói địa phương có một chùa hộ dân rất linh nghiệm, ta chuẩn bị đi cầu bùa bình an cho hoàng tổ mẫu và phụ hoàng, tạm thời sẽ không để ý đến chuyện vặt Lưỡng Giang." Ý chính là muốn vứt luôn đại quyền cho Chu Tử Thư.

"Điện hạ, dù sao ngài cũng là Khâm sai quản đại án Lưỡng Giang, cho dù là lý do có tiếng không có miếng, cũng không thể để cho Chu Tử Thư đại khai sát giới được, Đông cung sẽ dùng chuyện này để công kích ngài và Chu Tử Thư là đồng đảng."

Cung Chiêu Vấn trầm mặc, hắn biết rõ sau khi ủy quyền, chỉ sợ là sẽ bị Dông cung nắm thóp, nhưng mà ——

"Dù sao ta cũng là hoàng tử Đại Cảnh, Chu Tử Thư chỉ là một thần tử mà vẫn có thể vì công đạo cho bá tánh mà không sợ giết chóc, không sợ thiên uy, ta không có được dũng khí đập nồi dìm thuyền liều chết đến cùng như y, nhưng chung quy không thể đến cả chút phê bình cũng không dám gánh chịu chứ? Nếu như ta yếu đuối như vậy, còn xứng để cho các ngươi đi theo sao?"

Yến đô úy cúi đầu: "Tuân lệnh."

Trước khi ra khỏi phòng, Yến đô úy đột nhiên hiểu ra khao khát ánh sáng tốt đẹp có lẽ chính là bản tính của một số người.

Bởi vì không làm được, bởi vì khan hiếm, cho nên sẽ e ngại, khinh thường, không đồng ý, nhưng dù thế nào cũng không thể xóa bỏ được lòng ngưỡng mộ xuất phát từ bản tính tự nhiên của bọn họ.

***

Bóng đêm bao phủ, Xương Bình vốn phải nhắm mắt lại không ngủ được, trong mắt đều là tia máu đỏ, nhìn chằm chặp lồng trúc được treo trên cột cờ bên ngoài phủ công chúa.

Trước đây buổi tối không thể nhìn thấy gì, nhưng Chu Tử Thư cố tình lệnh cho người thắp sáng nến, nến phải được cháy suốt ngày lẫn đêm.

Xương Bình bị giam trong ban công, không cho bà ta đèn cầy, cũng không phái người ở lại bên người hầu hạ, dù bà ta có kêu đến đâu cũng chẳng ai xuất hiện.

Chưa từng có một khắc nào bà ta cảm thấy ban công này quá rộng lớn, quá cao, quá yên tĩnh như vậy, cũng chưa từng cảm thấy đêm nào tối tăm, lạnh lẽo và dài dằng dặc như đêm này.

Nhưng bà sẽ không nhận thua, bà không cho phép mình sợ hãi, càng không thể nào sinh lòng áy này, dù cho có phải cúi đầu trước Nguyên Thú đế cũng tuyệt đối không thua trong tay Chu Tử Thư, bà sẽ không cho Tạ thị bất kì cơ hội nào để thắng mình.

Hai mươi năm trước khi bị trục xuất khỏi kinh đô, rơi vào khốn cảnh bốn bề thọ địch, bà ta vẫn có thể chôn vùi âm mưu giết người quanh Tạ thị, đánh tan tác người nhà họ Chu, trong tuyệt cảnh như vậy mà còn có thể giết ngược lại, thậm chí là bên thắng, trước mắt chẳng qua chỉ là một đời tiện chủng bị bà hoán đổi, đùa bỡn hai mươi năm trời, làm sao có thể chiến thắng bà được? Làm sao xứng thắng bà?

Xương Bình bực dọc cười lạnh, ép mình nhìn chằm chằm vào đầu người trên cột cờ rồi tự lẩm nhẩm: "Đấu với ta à? Nếu như Cung Tinh Huy ta sợ hãi quỷ thần thì không thể đi đến hôm nay, mà đã phải chết trong đấu đá hậu cung! Chết bởi chính đấu triều đình hai mươi năm trước rồi, không thể nào sống đến tận giờ được! Quỷ ác sợ người ác, ta chính là người ác. Ông trời đã sinh ra ta trong hoàng gia, cho phép ta nắm quyền sinh sát trong tay, vì sao ta không thể dùng nó để mưu quyền mưu lợi? Quan tham quan ác trên đời có nhiều, lắm người còn tàn ác hơn cả ta, bọn họ dựa vào cái gì mà có thể thọ hết chết già, còn ta phải lấy mạng ra trả nợ?"

"Chu Tử Thư, để xem ai có thể chống đỡ đến cuối cùng!"

"Ngươi giết càng nhiều quan thì giờ chết càng gần, không quyền không thế cũng chẳng có danh mà lại giết quan Lưỡng Giang, làm sao ngươi dám hả?"

Xương Bình ngồi trên giường nằm, dán chặt mắt vào màn đêm sáng ngời, mãi đến lúc bình minh lên vẫn chưa ngủ.

***

Nha môn phủ Hồng Châu, dù trời đã vào đêm mà đèn đuốc vẫn sáng trưng.

Chu Tử Thư không biết mệt mỏi, có lúc nghỉ ngơi tầm một canh giờ, có lúc nghỉ hai canh giờ, có thể nói là ngựa không ngừng vó tra hỏi trăm quan đông nam, nhóm quan viên dưới công đường liên tục thay đổi.

Từ lúc mặt trời lặn đến khi mặt trời mọc rồi lại đến hoàng hôn, đèn đã cạn dầu, châm thêm dầu vào, hoa đèn cắt dần ngắn dần.

Mỗi lần chứng cung đưa đến tay, Yến đô úy đều sẽ hỏi Chu Tử Thư xem sẽ xử lí nhóm quan phạm tội ngã ngựa này như thế nào.

Chu Tử Thư chắp tay đứng đối diện tấm biển gương sáng treo cao, đều chỉ đáp một câu không có ngoại lệ: "Chém đầu răn chúng."

Mới đầu Yến đô úy không biểu hiện nội tâm cuộn trào sóng dữ của mình ra, chỉ nghe lệnh làm việc, đẩy một nhóm quan viên không biết là nhóm thứ bao nhiêu ra trước cửa Nha môn chém đầu, sau đó bỏ đầu vào lồng trúc, mang đến treo lên cột cờ trước cửa phủ công chúa.

Càng ngày càng giết nhiều người hơn, đến lần thứ năm trời trăng đổi chỗ, tay chân Yến đô úy đã mềm nhũn, vô cùng khiếp vía, không ai dám tiếp tục động thủ nữa.

Trong góc sân trước Nha môn chất ba mươi thanh đao chém lớn, trên thân đao nứt hỏng nhiều chỗ, đó chính là núi đao đã chém giết hai trăm quan lại chồng chất mà thành.

Lúc này đây màn mưa lại rũ xuống không ngớt, đất trời mịt mờ.

Trong cơn mưa dầm dề bao phủ tường trắng ngói xanh Giang Nam, phía xa xa có một cành ngọc lan trắng bị nước mưa đánh trụi cánh hoa nhút nhát nhô ra đầu tường, trông ngóng về phía cửa Nha môn.

Chim én bay thấp xuống, lướt qua đầu cành ngọc lan, bay xéo vào mái hiên chải chuốt bộ lông ướt đẫm, không hề ngửi thấy mùi máu tươi tràn ngập trong không khí.

Yến đô úy khuyên nhủ, giọng nói run rẩy: "Tiểu Chu đại nhân, đã giết hai trăm mười hai người rồi. Nếu như lại giết thêm nữa, hơn một nửa quan trường đông nam này đều ngã vào trong đại án này mất."

Từ xưa đến nay, ngoại trừ Hoàng đế hưng đại ngục hoặc là thần tử soán vị cướp ngôi ra, thì không có bất kì người nào đồ sát trăm quan rồi mà còn có thể bình an rút lui cả.

Chu Tử Thư không phải đang cúc cung tận tụy giúp đỡ Nguyên Thú đế, mà là đang liều mạng!

"Ngươi sợ không thể thu dọn tàn cuộc? Các ngươi đều sợ bị truy cứu sao?" Chu Tử Thư đảo mắt nhìn qua Yến đô úy và doanh binh, hắn cúi đầu xuống, không dám đáp lời.

Bật cười một tiếng, Chu Tử Thư nói: "Trời có sập xuống cũng còn bổn quan gánh, nếu bàn về tội cũng không thể bàn lên đầu các ngươi. Không cần phải lo chủ tử của các ngươi bị ta làm liên lụy, ta đã nói một mình ta gánh chịu hậu quả thì chắc chắn sẽ không vì lợi riêng mà bội ước."

"Không phải bọn ta tham sống sợ chết..." Yến đô úy thấp giọng đáp: "Chỉ là đám quan ác này đầy rẫy tội ác, đệ trình chứng cung lên Hình bộ, lên ngự tiền cũng sẽ được phê đỏ phán chết, quá trình đó không dễ phạm sai mà còn danh chính ngôn thuận, chỉ là phải chờ chút ít thời gian, đại nhân cần gì phải để tay nhuộm máu tươi, liên lụy bản thân mình mang tiếng quan ác xem thường hoàng quyền để người người lên án?"

"Để cho triều đình thẩm vấn sẽ ầm ĩ thêm một trận, tiêu tốn khoảng thời gian ít nhất cũng phải nửa năm, trong khi đợi đến lượt châu phê tiếp theo còn có thể hành động một phen, khiến cho tử tù khác hoặc dân chúng vô tội vào chịu thay gia hình tra tấn, rồi phải tốn thêm nửa năm nữa, án oan lại mọc lên như nấm, trong lúc đó đột nhiên được nhận đại xá, hổ được thả về rừng thì phải làm sao đây? Quá nhiều rủi ro, càng lúc sẽ càng rắc rối, bổn quan không đợi được." Chất vấn không ngớt làm cho Yến đô úy á khẩu không trả lời được.

Chu Tử Thư đi về phía trước hai bước, liếc nhìn đám tham quan ô lại trong màn mưa qua cửa Nha môn, rồi nói với doanh binh sợ giết người, không dám ra tay: "Phía bên trái đây là Huyện lệnh huyện Phụng Tân, nhận tiền từ tay cường hào ác bá đã bị buộc tội, nguyên đơn là tá điền bị gã treo lên xà nhà đến chết. Hắn là Huyện lệnh huyện Cao An, ỷ vào trời cao Hoàng đế xa, mặc kệ mức thuế triều đình quy định, tự tiện nâng thuế thu tiền của bá tánh, lương thực của nhà nông năm ngoái bị hắn lấy hết chín phần, trời vừa vào đông là có vô số người chết đói. Người kia là..."

Điểm mặt sáu người liên tiếp, liệt kê từng tội trạng của bọn họ, doanh binh hãy còn e ngại nhanh chóng bị lửa giận bao trùm, cánh tay chém giết mỏi nhừ chộn rộn muốn vận động.

"Pháp bất a quý, hình vô đẳng cấp, đã phạm pháp, đáng chết phải giết!" Chu Tử Thư rút thượng phương kiếm ra, vứt vỏ kiếm không quay đầu lại, cất bước xông vào màn mưa, mưa xối ào ào, gió lốc đông nam than khóc, dù vậy thì mớ âm thanh hỗn tạp ấy cũng không ngăn nỗi âm vang đanh thép của y: "Các ngươi không dám gánh trách nhiệm, bổn quan đến gánh. Các ngươi không dám chém, bổn quan ra chém. Ngày vào âm ty địa ngục muốn tính toán nợ nần thì có thể báo tên ta lên, nói với quỷ thần bao nhiêu thù hận oan trái đều cứ tính lên người ta, dù có bị ném vào cõi súc sinh hay rơi xuống mươi tám tầng địa ngục đi nữa, bổn quan cũng chịu hết!" Răng rắc! Ầm ầm!

Thoáng chốc sét đánh rầm trời, sấm vang từng cơn, mây đen cuồn cuộn như thể quỷ thần đều đang lặng im, nghiêm túc quan sát cảnh tượng này.

Khi Chu Tử Thư giơ cao thượng phương kiếm sắp sửa nhuốm máu lần nữa lên, đột nhiên có một giọng nói to rõ xen vào bên cạnh: "Đại nhân, ta chém!" Quay đầu lại nhìn, đó là một người trong số những doanh binh kia.

Doanh binh rút đao ra nói: "Đại nhân là thanh thiên cao cư miếu đường, tay dùng để cầm bút, chuyện búa rìu giết chóc vốn nên giao cho bọn ta làm. Ngài đã thay bá tánh chắn trước thiên uy lôi đình mà còn chẳng sợ thì sao bọn ta phải sợ?"

Doanh binh lúc trước lùi bước đều đã ra khỏi hàng, dùng sự im lặng và vẻ mặt kiên nghị nhìn sang Chu Tử Thư.

Yến đô úy cuộn tay lại đặt lên chuôi hoàn thủ đao bên hông, nếu như không phải hắn lo lắng, sợ rằng bầu nhiệt huyết cũng đã tràn trề, nguyện trở thành người cầm đao.

Nước mưa trượt xuống mặt Chu Tử Thư, tóc đen mắt đen, sống lưng thẳng tắp, lúc này gió dữ lại đánh tới, mưa rào to dần khiến cho nét mặt Chu Tử Thư trở nên mơ hồ, càng khó có thể phân biệt được vui buồn trong mắt y, thế là không ai biết được bây giờ trong lòng y đang nghĩ gì.

Chu Tử Thư chỉ đưa tay lên, ống tay áo công phục màu tím rộng bị nước thấm ướt nặng nề rớt xuống, màu sắc sậm dần, khiến cho cánh tay thon dài, trắng nõn như ngọc của y trông càng nổi bật hơn nữa.

Cánh tay kia vung lên phía trước, giống hệt như quan Giám trảm ném lệnh bài lập tức hành quyết.

"Chém!"

Lệnh vừa rời môi, ánh đao đã phản chiếu sấm sét nối liền trời đất, lại thêm mười mấy cái đầu người nữa rơi xuống đất.

Máu và nước mưa hòa vào thành dòng suối nhỏ, thấm ướt bậc thềm cửa và hai tượng đá giải trãi của Nha môn phủ Hồng Châu, chúng bị nhuộm đi nhuộm lại từng đợt máu tươi nóng hổi, bị phơi nắng, được cọ rửa, khe tượng đá bị nước và máu tuần hoàn xối xả thẩm thấu vào, dần biến thành màu đỏ nhạt.

Cuộc thanh trừng quan trường đông nam này diễn ra trọn tám ngày tám đêm, chém rơi tổng cộng ba trăm hai mươi lăm cái đầu người, dường như giết sạch một nửa quan trường Đông Nam, cột cờ trước cửa phủ công chúa không chống chọi được nữa, đầu rơi chất đầy dưới đất, bấy giờ người ta ngửi thấy mùi lạ thì xem nơi này là nhà ma, lui bước đi đường vòng.

Một tháng mùa mưa dầm dề liên miên khác thường hẳn so với những năm qua đã kết thúc, không đến nửa tháng sau cơn mưa tầng không đã lại sáng, mây tan sương tản, cửa mở đường thông, bầu trời trở nên trong xanh, nắng rọi chói chang, liễu rũ đầy tường trắng ngói xanh Giang Nam, ngọc lan và nhài trắng đua nhau nở rộ, khắp đường lớn hẻm nhỏ tràn ngập mùi bùn đất sau cơn mưa hòa với hương hoa, mùi vị tươi mát tản ra theo gió, gió đưa hương ra đến bến thuyền thủy vận, tỏa khắp quan đạo nối liền bốn phương, hiu hiu len lỏi vào dòng người hối hả qua đường.

Có người đi đường đến từ Giang Nam nhặt được hòn đá hoặc thanh gỗ giả làm phách gõ, giọng nói mạnh mẽ: "Lại nói về tiểu thanh thiên kia, đến Lưỡng Giang, tranh đấu cùng gian nịnh, san bằng đám ác thương, vì dân chờ lệnh, phẫn nộ chém ba trăm quan!" Cách!

Phách gõ lên nghe như tiếng Tuấn mộc, vang vọng khắp đại giang nam bắc, chấn động trên dưới triều đình.

==

Min: Đăng giờ ngặt nghèo quá hăm biết có ai vô hóng k ta =)))))))) chương này

9k3 chữ check mỏi mắt lun á kkk 🤓 chương 86 là chồng em Cá về với em rồi, mng đợi mình bão 2 chương 1 lượt lun nha hê hê ^^

Chương 85

Phủ kinh đô.

Kỵ binh mang tấu chương ngự sử Giang Nam tấu lên, sáu trăm dặm khẩn cấp về gõ mở cổng thành, nhảy xuống khỏi tuấn mã, bắt lấy cánh tay của người truyền lời nói vội: "Tào ty sứ Giang Tây Chu Tử Thư tra rõ quan trường đông nam, thẩm tra sát sao tại Nha môn Hồng Châu, chém đầu ba trăm hai mươi lăm quan lại đông nam! Máu quan trường đông nam chảy không ngừng nghỉ, mà oán hận cũng chất chồng đầy núi sông, khóc than động trời đất, nhất thời người người đều cảm thấy bất an, gặp trên đường chỉ biết đưa mắt ngó. Chữ quan (官) có hai cái miệng, có khổ cũng không dám nói."

Trong lòng người truyền lời sợ hãi, vội vàng chạy lên ngự tiền tấu bẩm.

Bàn tay run lên một cái, mực đỏ tươi đặc dính nhỏ xuống tấu chương, Nguyên Thú đế vốn bát phong bất động*, ung dung điềm tĩnh ngẩng phắt đầu lên, mặt lộ vẻ ngạc nhiên, thất thanh nói: "Ai chém ba trăm quan... "

(*) Bát phong bất động (八风不动): Trong Phật giáo, "bát phong" là chỉ tám chuyện lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, nhạc, (, , , , , , , ) bốn thuận bốn nghịch, thuận lợi thành công là lợi, thất bại là suy, vụng trộm gièm pha là hủy, ngấm ngầm tán thường là dự, khen ngợi trước mặt là xưng, chỉ trích mắng chửi thẳng mặt là cơ, đau đớn là khổ, vui sướng là lạc. Phật gia dạy, phải tu dưỡng đến độ gặp phải một "phong" nào trong "bát phong" mà tâm trạng không bị lay động mới gọi là "bát phong bất động.

Chu Tử Thư?

Y thật sự quấy lật trời Lưỡng Giang luôn sao?

Không, y không chỉ quấy lật trời mà là chọc thủng, giết sạch quan trường bốn tỉnh đông nam!

"Chiếu trở về..."

Giọng nói rất nhỏ, lời truyền ra người bên dưới nghe không rõ, nhưng đại thái giám bên cạnh thì nghe không sót một chữ, nhưng lão cũng đã bị thông tin lúc nãy làm cho hoa mắt chóng mặt, hồi lâu sau lấy lại tinh thần mới nghe thấy Nguyên Thú đế dần dần tăng cao âm lượng: "Chiếu... Chiếu Chu Tử Thư về kinh đô cho trẫm —— truyền chiếu chỉ gấp, mau chóng chiếu Chu Tử Thư về kinh, không được làm lỡ! Nếu như có kẻ dám cản, giết chết bất luận tội!"

***

Vào cung bái kiến Thái hậu xong, Khang vương thuận đường tìm đến chỗ Nguyên Thú đế đánh cờ nói chuyện trời đất suýt nữa là đụng phải quan truyền lời, khiến cho hắn lập tức thỉnh tội.

"Cấm địa hoàng cung, sao mà ngươi đi vội vàng thế? Là cấp báo từ Tây Bắc à?"

"Hồi bẩm vương gia, là sổ gấp ngự sử Giang Nam vạch tội tố cáo Tào ty sứ Giang Tây Chu Tử Thư."

"Ngự sử Giang Nam ăn no rửng mỡ tố Chu Tử Thư tội gì?" Khang vương mắng đám Ngự sử Gián quan rỗi việc suốt ngày gây khó dễ cho người khác trước như một phản xạ tự nhiên, sau đó hỏi: "Lẽ nào chuyện lương thương đình công vẫn còn chưa giải quyết xong?"

Quan truyền lời tỏ vẻ khó xử, suy nghĩ một chút rồi thật thà đáp: "Vậy là vương gia vẫn chưa biết, Chu Tử Thư kia không quyền không chiếu, chém chết ba trăm quan quan trường đông nam!"

"Nói bậy bạ gì đó?" Sắc mặt Khang vương chợt biến, "Tai ngươi không nghe nhầm đấy chứ? Miệng ngươi không có truyền bậy đấy chứ? Ngươi mà nói sai một chữ hại Chu Tử Thư bị hãm hại thì coi chừng cái đầu của ngươi!"

Quan truyền lời vội vàng giải thích: "Đại sự đã thế, ti chức có ăn gan hùm gan báo cũng không dám truyền bậy truyền bạ." Hắn nhìn quanh hai bên, thấy không có ai chú ý tới bèn tiến lên phía trước thì thầm: "Thật ra Ngự sử Giang Nam vạch tội muộn hơn một chút, hai ngày trước chủ quán rượu ở phủ kinh đô có thuê một khách thương từ Giang Nam đến tạm thời làm tiên sinh kể chuyện, kể rằng Chu đại nhân vì dân chờ lệnh, phẫn nộ chém chết ba trăm quan ác. Già trẻ trong phủ đều thích nghe những chuyện này, hôm đó trong ngoài quán đều có người, đến cả tên ăn mày cũng đứng bít chặt cửa, có đuổi thế nào cũng không đi."

"Hai ngày trước việc này đã xảy ra, vì sao ngươi không nói?"

"Còn chẳng phải vì ti chức tưởng rằng chuyện kể là chuyện hư cấu hay sao ạ? Thật sự chém chết ba trăm quan... Đúng là li kì, đừng nói chi ti chức, lúc ấy nửa số người trong quán rượu là thư sinh đều cảm thấy không thể nào, Chu đại nhân không phải là Khâm sai, không phải đại ngục, cũng không phụng chỉ tra quan trường Giang Nam, lấy quyền đâu ra để dám tư hình xử quyết mà không trình lên Hình bộ và bệ hạ trước? Chém thật... Y đang muốn tạo phản phải không?"

Khang vương không khỏi nghi ngờ, lại hỏi bệ hạ phản ứng như thế nào.

Quan truyền lời: "Tám trăm dặm khẩn cấp." Hắn vừa thì thầm vừa quan sát nét mặt của Khang vương, liên tục do dự: "Vương gia, ti chức vẫn còn cần đi xử lí công việc, ngài xem..."

Khang vương phất phất tay, bấy giờ quan truyền lời mới bước nhanh rời đi, để lại một mình ông đứng tại chỗ suy tư, đột nhiên giật mình đấm vào lòng bàn tay mình, "Nguy rồi! Gây họa lớn rồi!" Khang vương vội vàng quay đầu xuất cung hệt như con kiến bò trên chảo nóng, gửi tin tức này đi Tây Bắc trước, nghĩ tới nghĩ lui vẫn cảm thấy không ổn lắm liền nhân lúc đêm xuống đến thăm hỏi Trần phủ.

Trần Sư Đạo phủ thêm áo khoác ngoài, bình tĩnh ra mặt nói với người học sinh đang bối rối của mình: "Tốt nhất là ngươi có chuyện quan trọng thật."

Đến cả phản xạ sợ hãi ân sư mà Khang vương cũng vô thức quên mất, kể lại dăm ba câu sự việc Chu Tử Thư chém ba trăm quan: "Quan trường vốn chính là nơi thị phi trong ngươi có ta, trong ta có ngươi, chưa nói đến ba trăm quan này có quan hệ dây mơ rễ má với biết bao nhiêu người trong ngoài triều đình, lại nói y không có đặc quyền tiền trảm hậu tấu, cũng không có khẩu dụ của bệ hạ, sao có thể giết ba trăm quan? Trong đó vậy mà còn có bốn quan lớn nữa!"

Trần Sư Đạo kinh hãi im bặt, rất lâu cũng không phản ứng lại Khang vương.

Khang vương đang đắm chìm trong cảm xúc nóng nảy, không để ý thấy thái độ của ông cụ, vẫn luông miệng: "Trách ta, đều tại ta, vì sao lúc đầu ta lại thêu dệt rằng trong thánh chỉ có tùy cơ ứng biến? Vì sao lại nói tiền trảm hậu tấu, hoàng quyền đặc cách kia chứ?" Rầm!

Trần Sư Đạo vỗ mạnh lên bàn, giận dữ trừng Khang vương: "Ngươi nói với ngũ lang là được tiền trảm hậu tấu?"

"Ta..." Khang vương nuốt nước miếng, không nhịn được lùi lại, khó nén vẻ xấu hổ: "Khi ấy trong lòng ta hổ thẹn, sợ trong tay y không quyền không thế, đến địa bàn khác bị người ta bắt nạt cũng không dám trả thù, cho nên mới thêm thắt một chút —— nhưng bệ hạ ủy nhiệm ngũ lang trở thành Tào ty sứ Giang Tây với ý đồ tra Lưỡng Giang là thật, nếu như gặp phải người dựa vào nơi hiểm trở chống đối, thì đều có thể tiền trảm hậu tấu, chắc chắn người làm cữu cữu như ta ở phía sau sẽ thay y lật tẩy... Chỉ là ta thật sự không ngờ rằng y không chỉ giết một quan lớn của quan trường bốn tỉnh đông nam, mà còn dám chém liên tục ba trăm quan, dù có là Khâm sai cũng không thể làm như thế."

Trần Sư Đạo trừng mắt nhìn Khang vương, trái lại không trách cứ ông nói ngoa, trong lòng ông lão biết rõ Chu Tử Thư chém chết ba trăm quan không phải chỉ vì vài ba câu thổi phồng của Khang vương.

"Ngũ lang không phải là tiểu quan lại mới vào đời, nó có thể phân biệt thật giả trong lời nói của ngươi, quan trường là thứ nó luôn đắn đo, tiến lui đúng mực, chỗ nào nên thỏa hiệp cần nhượng bộ đều nhịn được, rất có chừng mực! Rõ ràng là thằng bé hiểu được chém giết hơn phân nửa quan trường Giang Nam sẽ mang lại hậu quả gì! Vậy nó đang làm cái gì thế kia? Nó muốn chết à! Chí hướng của nó là cái chết à!"

Trần Sư Đạo trợn mắt nói, lần đầu tiên trên khuôn mặt già nua mất đi ánh sáng quắc thước, tràn ngập mờ mịt: "Ta hiểu ngũ lang, dường như là nhìn thằng bé lớn lên, từ ngày nó chỉ mới tám, chín tuổi đã bắt đầu giao cho ta dạy dỗ rồi, ta hiểu nó, tiểu Tử Thư là người ấm ám, không thích dùng giết chóc để ngăn cản cái ác nhất, thằng bé chán ghét bất công, yêu dân như con, xử án như thần, thanh liêm như nước vô cùng thông minh, lúc đó ta đúng là hồ đồ khi đã giả thuyết nó chính là người trời xuống trần gian độ kiếp..."

"Khi đại án Hoài Nam diễn ra, thằng bé chán ghét tham quan ô lại, nhưng cũng bằng lòng bày mưu tính kế chỉ vì một vài quan lại sai phạm không đáng tội chết, khi ấy nó cứu được ba trăm quan, sao lần này lại giết ba trăm quan? Rốt cuộc là quan lại Lưỡng Giang đã làm gì mới có thể khiến cho ngũ lang phải ra tay chém chết ba trăm quan?" Lòng Trần Sư Đạo tràn đầy khúc mắc, lẩm nhẩm nói: "Ngũ lang là... Rõ ràng thằng bé có lòng dạ Bồ Tát cơ mà."

Khang vương mấp máy môi, chẳng biết vì sao mũi đột nhiên cay cay, người thầy vốn luôn nhân hậu, khôn ngoan và gian xảo ngay lúc này đã đánh mất dáng vẻ trầm tĩnh bày mưu nghĩ kế thường ngày, bấy giờ thật sự giống như ông lão tuổi thất tuần dãi dầu sương gió già nua và bất lực.

"Nghĩ cách đi, mau nghĩ cách đi thôi."

Suy cho cùng thì Trần Sư Đạo cũng không phải là ông già bình thường, nhanh chóng kiểm soát được tâm trạng, tiến vào trạng thái bình thường.

"Vấn đề cốt lõi nhất của việc chém chết ba trăm quan chính là đi quá giới hạn chưa tấu biểu bệ hạ, chưa được châu phê vượt quyền, tất nhiên trong triều có người kinh sợ trước thủ đoạn lôi đình của ngũ lang, có người vướng mắc lợi ích với Lưỡng giang, cũng có người có quan hệ với ba trăm quan bị chém chết, hơn nữa là những kẻ như Sơn Kiềm và Hồ Hòa Nghi, có thể ngồi vào vị trí quan lớn, chưa nói đến chuyện môn sinh cố lại ở khắp trong thiên hạ, thì chỉ cần một kẻ ngáng chân thôi cũng đã có thể bẫy chết ngũ lang rồi. Bọn họ nhất định sẽ bắt tay nhau, vạch tội ngũ lang không tuân theo kỷ cương, vượt quá chức phận, khiêu khích hoàng quyền quốc pháp."

Đế vương tuyệt đối sẽ không khoan nhượng trước việc bị khiêu khích quyền uy, nếu như Nguyên Thú đế còn có lòng riêng thiên vị Chu Tử Thư, thì sẽ bị lên án là gây hại cho thiên uy quốc pháp, nếu như không dừng lại kịp lúc, ngày sau khó tránh khỏi có người bắt chước dùng tiền trảm hậu tấu để đạt mục đích diệt trừ đối lập.

"Đi mời Cao đồng tri, Đỗ đạc chi... Bỏ đi, phải để lão phu tự thân đến nhà thăm hỏi mới đủ thành tâm."

Khang vương: "Ta đi cùng với ngài."

Trần Sư Đạo không phản đối, chỉ nói với ông: "Có thể khiến cho ngũ lang xuống tay giết, quan trường Lưỡng Giang kia chắc chắn là u tối không thấy ánh mặt trời, chú trọng điều tra từ chỗ ấy, nhất định phải hướng hành vi chém chết ba trăm quan theo hướng ứng quyền thông biến, nghĩ đến lợi ích to lớn. Đến cùng ta chỉ sợ ngũ lang bướng bỉnh, sợ tra được mà không thể tra... Còn có, còn có khả năng làm văn chương, nhất định phải tranh thủ nắm bắt được..."

Ông lão nhìn về phía bầu trời bên ngoài phòng, giọng nói nghiêm nghị: "Lòng dân."

***

Tiễn Trần Sư Đạo và Khang vương về, Cao đồng tri và Cao phu nhân nhìn nhau.

Cao phu nhân thương xót: "Bồ Tát đê mi, cũng có kim cương nộ mục*, chỉ sợ quan trường Lưỡng Giang là một vũng lầy sâu không thấy đáy." Bà quay đầu hỏi: "Ông định làm sao?"

(*) Nguyên văn: 金剛怒目菩薩低眉 - Kim cương nộ mục nghĩa là đồng tử Kim cương trợn mắt, hình dung cái uy thế của người, đầy vẻ phẫn nộ để hàng phục kẻ ác. Còn Bồ tát đê mi nghĩa là Bồ tát lim dim đôi mắt, miêu tả vẻ hiền từ của người để nhiếp hóa người thiện lương. Cao đồng tri cau mày cụp mắt, im lặng rất lâu.

"Xem tiếp đã. Rồi nói sau."

Cao phu nhân lắc đầu, trước nay chưa từng rơi vào khốn cục, tuổi còn trẻ mà sao đã đi đến đường cùng rồi?

***

Hơn nửa đêm, Hộ bộ Phó sứ leo tường gõ cửa phòng Đỗ Công Tiên, chưa đầy một lát sau, y phục, giày, áo khoác ngoài và bản thân Đỗ Công Tiên đã bị phu nhân của lão ném hết ra ngoài.

Đỗ Công Tiên lạnh lùng nhìn Hộ bộ Phó sứ, sau đó chắp tay ngắm trăng.

Hộ bộ Phó sứ ngượng ngùng: "Đã nhiều năm lắm rồi, vẫn như vậy à?"

Cả triều văn võ này không ai biết rằng Đạc chi sứ Tam ty nhỏ mọn nhất, cũng bỉ ổi nhất lại là ông chồng sợ vợ hai mươi năm như một ngày.

Sắc mặt Đỗ Công Tiên đầy bực tức, lười nổi giận với ông ta: "Đến vì Chu Tử Thư sao?"

Vừa vào đến chủ đề chính, Hộ bộ phó sứ đã khẩn thiết: "Lúc trước ông có phần khuyến khích Chu Tử Thư đến Lưỡng Giang, bây giờ xảy ra chuyện rồi, dù sao thì ông cũng không thể không đếm xỉa đến chứ."

Đỗ Công Tiên: "Kỳ lạ, đúng là ta có khuyến khích, nhưng mà bệ hạ đâu có nghe."

Hộ bộ phó sứ: "Ta mặc kệ, nguyên nhân chủ yếu vẫn là do ông khuyến khích trước, bệ hạ mới chú ý đến Chu Tử Thư, mới lệnh cho y đến Lưỡng Giang, mới sẽ xảy ra chuyện như bây giờ." Lão già đanh đá nhảy choai choai lên như lưu manh phường chợ: "Ta cho ông biết này Đỗ Công Tiên, người trẻ tuổi có triển vọng, vừa cương trực công chính lại còn tri kỷ tâm thiện như thể gặp đại kiếp này, ông khó mà từ tội lỗi."

Đỗ Công Tiên: "Ông nói bậy nói bạ! Đó là tri kỷ của ông... Không phải, Chu

Tử Thư người ta có xem ông là tri kỷ hay không?"

Hộ bộ Phó sứ: "Vậy ông thử nói xem ông có quản hay không?"

Đỗ Công Tiên: "Dù sao thì người cũng đã đến đó rồi, ta cần hiểu rõ tình huống rồi mới biết phải bắt tay từ chỗ nào, quản như thế nào chứ? Ông nghĩ rằng chặt đầu ba trăm quan dễ giải quyết như chặt củ cải à?"

Nghe ông nói lời này, Hộ bộ phó sứ an tâm rồi, lập tức quay đầu rời đi.

Đỗ Công Tiên: "Ông đi đâu đấy?"

Hộ bộ Phó sứ: "Mượn hơi nhà tiếp theo."

Đỗ Công Tiên: "..." Có bệnh à. "Hừ!"

***

Đông cung.

Lục phủ ngũ tạng của Ngũ hoàng tử vẫn còn đang run sợ, gã thất thần lẩm bẩm: "Mẹ ông đây, Chu Tử Thư có còn là con người không vậy? Sao y dám làm thế? Không phải đầu y hỏng thật rồi đấy chứ? Chém chết ba trăm quan... Đây chính là dùng sức một người hưng khởi đại ngục gió tanh mưa máu, y muốn như thế nào?"

Dù đã biết rõ Chu Tử Thư không bình thường, khi biết được đại án Lưỡng Giang, Ngũ hoàng tử vẫn vô cùng bàng hoàng và khó hiểu, gã thật sự hoàn toàn không có cách nào đồng tình với Chu Tử Thư, không hiểu nổi sự lựa chọn của y.

"Nếu như thu thập được bằng chứng thích hợp, phụ hoàng sẽ không nhân từ nương tay, cần gì phải đưa bản thân mình vào chỗ chết? Chu Tử Thư không phải là một người ngu xuẩn, cũng không phải là người có lòng dạ độc ác như vậy mới đúng."

Đừng thấy Ngũ hoàng tử thường xuyên ăn trái đắng từ chỗ Chu Tử Thư, đánh giá trong nội tâm hắn vẫn còn rất cao.

Sắc mặt Thái tử nghiêm nghị: "Chu Tử Thư không phải kẻ ngu, người có lòng dạ độc ác không hẳn là y."

Ngũ hoàng tử: "Nghĩa là sao?"

"Y chỉ là người đội nồi!" Giọng điệu của Thái tử âm u: "Đệ không nhận ra lão Lục đã mất tích hơn một tháng rồi sao?"

Ngũ hoàng tử nghĩ tới nghĩ lui một phen mới phát hiện: "Lão Lục là Khâm sai? Không đúng, hắn không thể bóp cổ Chu Tử Thư ép buộc y chém ba trăm quan được... Vậy vì sao Chu Tử Thư lại cam tâm tình nguyện thay lão Lục thanh lý quan trường Giang Nam? Không phải, y từ chối chiêu dụ của chúng ta, bày ra dáng vẻ cô thần*, kết quả đi một chuyến đến Lưỡng Giang thì nhập vào bè cánh của lão Lục sao?"

(*) Cô thần (孤臣): Bầy tôi trơ trọi một mình không ai giúp đỡ hoặc bị vua quên bỏ không trọng dụng nữa.

Gã thở gấp: "Chu Tử Thư không biết tốt xấu!"

Trong lòng gã rất giận, hiếm khi yêu thích một người như y, liên tục chiêu mộ, có thể sánh ngang với tam cố mao lư* rồi.

(*) Tam cố mao lư (三顾茅庐): ba lần đến mời; mời với tấm lòng chân thành

(Lưu Bị đích thân ba lần đến lều cỏ của Gia Cát Lượng để mời bằng được Gia CátLượng ra giúp, lần thứ ba mới gặp. Ý nói chân thành, khẩn khoản, năm lần bảy lượt mời cho được)

Nếu như thật sự là cô thần còn được, ai ngờ quay đầu gióng trống khua chiêng nhập vào môn đảng của phe đối địch, đặt ai trong lòng ai mới có thể cân bằng được đây?

Thái tử: "Mặc dù y không biết tốt xấu, nhưng bước chân bước lớn quá. Chém chết ba trăm quan, làm sao y dám? Y đúng là coi thường kỷ cương, coi thường triều đình, tâm như hủy dịch, tính như sài lang*! Chu Tử Thư là vì dân chờ lệnh, nộ sát ác quan, hay là chắn trước mặt lão Lục giúp hắn diệt trừ phe đối lập, cũng còn chưa biết."

(*) Tâm như hủy dịch, tính như sài lang (心如虺蜴, 性如豺狼): Câu này ý nói lòng dạ độc ác như rắn, tính tình hung dữ như sói rừng.

Phúc đến thì lòng sáng ra, Ngũ hoàng tử đáp: "Vu khống Chu Tử Thư diệt trừ phe đối lập, là vì lòng riêng, nhờ vào những chuyện liên quan tố cáo y và lão Lục kết bè kết phái, nếu như thuận lợi, nói không chừng còn có thể kéo luôn cả Cung Tuấn xuống ngựa."

"Đừng nghĩ xa như vậy. Sải chân quá dài, dễ thất bại." Thải tử nói: "Mượn Chu Tử Thư giải quyết lão Lục trước, hắn là Khâm sai, đến tận Lưỡng Giang rồi mà vẫn có thể để Chu Tử Thư cướp đi quyền lên tiếng, dù có thế nào cũng không thoát khỏi liên quan."

Ngũ hoàng tử: "Đã hiểu."

***

Chu tam lang vừa bước ra khỏi quán rượu đã hùng hùng hổ hổ chạy về nhà, đón đầu gã là Chu Trường Phong vừa tan ca trực về: "Đại ca?" Chu Trường Phong: "Nghe thượng sai của đệ nói hôm nay đệ về sớm?"

"Đệ..." Chu tam lang úp úp mở mở đáp một tiếng, chợt nhớ ra: "Hình như bây giờ cũng không phải là giờ tan ca của đại ca mà, huynh cũng về sớm sao?"

Chu Trường Phong không trả lời, bước chân không ngừng nghỉ, nhìn hướng đi thì thấy là đang đi về phía thư phòng của Chu Bá Ung, Chu tam lang dường như đã thông suốt, ánh sáng chợt lóe một cái, gã vỗ đầu mình rồi nói: "Đại ca, huynh cũng biết chuyện Chu Tử Thư nộ sát ba trăm quan ở Lưỡng Giang sao? Huynh đang đến tìm cha nhờ giúp đỡ ư?"

Chu Trường Phong đột nhiên dừng bước, Chu Ngọc Khanh cũng vội phanh lại, suýt chút nữa là đụng vào hắn.

"Đệ nói xem, cha có còn giận cá chém thớt Chu Tử Thư hay không?"

Chu tam lang cũng mù mờ: "Đệ không biết, nhưng mà lúc nãy ở bên ngoài nghe được đại án Lưỡng Giang, trong lòng đệ dã có một suy nghĩ rồi, bất kể là như thế nào đi nữa, đệ cũng phải cầu xin cha giúp đỡ. Không cần biết y là ai, là ngũ lang, hay là Chu Tử Thư, hay là con trai ruột của Xương Bình, đối với đệ, y chính là một thanh thiên vì dân giải oan, tru diệt tham quan ô lại, một người cao nghĩa như vậy, không nên chỉ vì thành kiến của bản thân mà đệ thấy chết không cứu được."

Chu Trường Phong quay đầu lạnh lùng nhìn gã: "Đệ có cứu nổi không?"

Chu tam lang đột nhiên thở ra thốt lên: "Có cứu được hay không là một chuyện khác, dù sao thì đệ cũng không thể không làm gì được." Gã kìm nén cơn giận nhanh chân bước về phía trước, lướt qua Chu Trường Phong, "Trước đây đệ chính là đứa không có tiền đồ nhất trong nhà, võ công không bằng đại ca huynh, văn chương không bằng nhị ca và tứ lang, nhưng bàn về chính khí, bàn về nghĩa hiệp, mấy người các huynh chẳng thể sánh bằng đệ đâu!"

Tuy có chút tự tâng bốc mình, nhưng Chu Ngọc Khanh giống như một hiệp khách hơn là thân phận Chu gia tam lang của gã, bình thường gã thật sự vô cùng cao thượng, chỉ tiếc hữu dũng vô mưu, dễ bị cảm xúc lôi kéo, yêu ghét cực kì rõ ràng.

Chu Trường Phong đi theo sau lưng Chu tam lang, thấp giognj nói: "Không phải ta thấy chết không cứu, mà là..." Mà là gì?

Hắn cũng không nói được, tâm trạng của hắn đang phức tạp đến nỗi không tài nào tìm được từ ngữ chính xác để mà miêu tả, khi nghe được chuyện chém chết ba trăm quan, quả thật suy nghĩ đầu tiên trong nội tâm của hắn là hoang đường, theo sau đó là không dám tin, sau khi xác nhận rồi thì chính là chấn động kéo dài đến tận bây giờ.

Đó là Chu Tử Thư sao?

Đó là Chu Tử Thư.

Là Chu Tử Thư vừa chào đời đã bị bọn họ phán tội chết, bây giờ cũng là Chu Tử Thư bức kẻ đầu sỏ từng hại cha mẹ anh em của hắn thê thảm đến bước đường cùng.

Bêu đầu thị chúng, treo trước cửa phủ công chúa, đối với Xương Bình công chúa mà nói là nỗi nhục nhã đến mức nào chứ?

Đầu óc Chu Trường Phong cũng rối bời như trái tim của hắn vậy, đến giờ đã nhiều lần suy nghĩ mơ hồ, hắn chỉ nhớ là khi vừa nghe được đại án Lưỡng Giang thì lập tức tìm người đến thay ca trực, còn chưa kịp thay công phục ra đã chạy đến gặp cha ngay.

Hai người một trước một sau bước vào chủ viện của Chu Bá Ung, cách đó không xa là Chu Ngọc Tranh vì đọc sách phiền chán nên ra hóng gió, cậu trông thấy hai người, vừa định chào hỏi đã phát hiện ra Tạ thị cũng đang bước vội vào trong, sắc mặt vô cùng khó coi, là biểu cảm mà cậu chưa từng thấy bao giờ.

Cánh tay giơ lên chào của Chu Ngọc Tranh buông xuống, vô thức âm thầm đi theo sau.

Chu Trường Phong và Chu tam lang vừa định báo ý đồ đến, cửa thư phòng đã đột ngột bị đẩy ra, Tạ thị sợ hãi xông vào, dường như không trông thấy hai con trai của mình, bà cứ nhìn chằm chằm Chu Bá Ung, rít từng chữ một qua kẽ răng.

"Cứu ngũ lang." Tạ thị chống hai cánh tay lên bàn làm việc, gân xanh trên mu bàn tay nổi lên, đầu ngón tay siết chặt lại đến nỗi trắng bệch ra, "Cứu thằng bé!" Chu Bá Ung thấy thế, sao còn có thể không rõ kia chứ?

Khi dùng hình tra khảo Ngô ma ma, đối phương cắn chặt hàm răng không chịu hé nửa chữ, tiếp tục nhấn mạnh hành động của Tạ thị đúng là điên rồ, không hỏi ra được bất kì tin tức gì hữu dụng, nhưng Ngô ma ma bị cực hình tra tấn mà vẫn còn có thể giữ được bình tĩnh để suy nghĩ, cắn chết không thay đổi lời khai, đủ để chứng minh chuyện có khúc mắc.

Chu Bá Ung hỏi ngược lại ám vệ.

Ám vệ nói khi Tạ thị tra khảo Ngô ma ma, bởi vì liên quan đến chuyện riêng nên sẽ lệnh cho bọn hắn ra khỏi địa lao, có điều thính lực của bọn hắn phi phàm, có thể nghe loáng thoáng nội dung cuộc tra khảo, thế là nói ra một vài chỗ vụn vặt mà hắn nghe được ra.

Ví như trong viện của tứ lang còn có bao nhiêu người của bọn họ, rốt cuộc là năm đó là đổi người tù khi nào, còn ai biết được chuyện này vân vân, kết hợp với thái độ kì lạ của Tạ thị gần đây, trong lòng Chu Bá Ung mơ hồ đoán ra được.

Ông muốn mở miệng hỏi Tạ thị, cũng đã từng nghĩ nếu không thì chờ đến khi

Tạ thị sẵn lòng chia sẽ lại nói đến, nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng vẫn phái người đến điều tra người bên cạnh Tạ thị, lấy được thư gửi về từ Lưỡng Giang, cũng đã nhìn thấy câu "Mắt của ngũ lang giống bé con nhất" kia.

Giống hệt như sấm sét giữa trời quang, những ngày qua Chu Bá Ung đều chưa thể trở lại bình thường, đêm đến không thể chợp mắt, cũng may sự hồi hộp bất an còn nhẹ, ông vẫn thượng hạ triều, làm việc như bình thường, chỉ là số lần thất thần đã tăng lên rất nhiều.

Lúc thất thần cũng không dám nghĩ đến, trong tiềm thức ông sợ hãi sự thật, mãi đến khi đại án Lưỡng Giang truyền đến, Tạ thị bình thường đã giống như bất cứ lúc nào cũng có thể sụp đổ đỏ mắt nghiến răng mở miệng nói muốn ông cứu ngũ lang.

Ầm một tiếng nổ vang, Chu Bá Ung không còn cách trốn tránh phải rạch nát mọi sự thật khủng bố.

Sự hiểu ngầm của hai vợ chồng khiến cho người ngoài cảm thấy khó hiểu, trong lòng Chu Trường Phong có cảnh giác, giống như có điều suy nghĩ, còn Chu tam lang hoàn toàn lọt vào trong sương mù, không thể đoán nổi chuyện gì đang xảy ra.

Trái lại sắc mặt của Chu Ngọc Tranh đứng nghe lén thì tái mét, vội vàng quay đầu rời khỏi, lệnh cho người dắt ngựa tới.

Tiểu tư dắt ngựa đến thuận miệng hỏi: "Tứ lang muốn đi đâu ạ?"

Chu Ngọc Tranh nghe vậy cúi đầu nhìn hắn một cái, tiểu tư lập tức ngậm chặt miệng, mặt hoảng sợ, nhìn thấy người và ngựa đều đã biến mất trong tậm mắt rồi mới tát mạnh đầu mình mắng: "Ai bảo ngươi lắm mồm!"

Có điều ánh mắt của tứ lang quân khi cúi đầu nhìn xuống hắn vừa lạnh lẽo vừa đáng sợ, cứ như có thể ra tay chém đứt đầu hắn bất cứ lúc nào, dù sao cũng là công tử vương tôn, tính tình thường ngày ấm áp cũng không phải là người để cho đám người làm trong nhà như bọn họ có thể tùy tiện bắt chuyện.

Tiểu tư nghĩ vậy, gật gù đắc ý rồi về chuồng ngựa.

***

Tây Bắc.

Cung Tuấn mặc thường phục, xoay mình lên ngựa, hờ hững nhìn Thôi quốc công đang chặn đường: "Tổ phụ, ông không ngăn được con đâu."

Thôi quốc công đã bảy tám mươi tuổi mà vẫn còn nhanh nhẹn khỏe mạnh như ông già năm mươi, mái tóc hoa râm, râu mép bạc phơ mọc đầy nhưng đã được cắt tỉa gọn gàng, ông cụ chỉ lẳng lặng nhìn huyết mạch duy nhất mà ái nữ đã mất sớm của mình để lại, cũng là đứa cháu ngoại duy nhất của ông, hồi lâu sau mới thở dài nói: "Chí nam nhi ở khắp bốn phương, không mưu cầu công danh thì cũng chinh chiến sa trường, nếu đã mở rộng đất biên giới, mang theo công danh, chiếm được thiên thời địa lợi nhân hòa, tại sao lại không dòm ngó ngôi báu?"

Cung Tuấn nhìn về phía mặt trời đang lặn xuống hoang mạc, ánh chiều tà nguy nga tráng lệ nhuộm đất trời đến choáng váng.

"Tổ phụ, con thích Tây Bắc giống như mẹ, thích phóng ngựa phi nước đại trên sa mạc này, đuổi theo mặt trời lặn, chờ đồng hành cùng màn đêm và trăng sao, ngồi bên lửa trại nghe thương hành Tây Vực nói về những chuyện mà bọn họ chứng kiến khi đi khắp năm sông bốn biển. Con muốn cùng tiểu lang đến những nơi đó thăm thú, đi đến khi tóc trắng xóa."

Thôi quốc công: "Lần này con đến Lưỡng Giang, không chỉ khiến cho công sức bệ hạ bỏ ra thành công cốc, mà còn tự khiến cho bản thân mình rơi vào hiểm cảnh bị vạch trần đoạt đích, tất cả mọi người đều sẽ nhìn con."

Cung Tuấn cười đáp: "Con mà không đi, rất có thể tiểu lang sẽ không sống nổi. Con khó mà tưởng tượng được, tiểu Bồ Tát lòng dạ mềm yếu của con phải bị ép thành dạng gì mới sẽ lạnh lùng hạ sát thủ cơ chứ?" Hắn nói nhỏ dần, lời nói xoay chuyển: "Năm đó bệ hạ trúng mai phục, mẹ con chết vì cứu ông ấy, mẹ chưa từng hối hận, từ đầu đến cuối đều không trách bệ hạ, không phải vì thiên tính cha con, cũng không phải quân thần tương hòa, mà là vì một mai kia người trong lòng con rơi vào trong hiểm nguy như vậy, thì lựa chọn của con và mẹ đều giống nhau."

Khuôn mặt già nua của Thôi quốc công lộ ra vẻ đau thương rất dễ thấy.

"Huống hồ," Cung Tuấn giơ roi thúc ngựa, ngựa hí vang một tiếng, vung bụi đất lên chạy như điên về phía mặt trời lặn, lời trước khi chia tay tản ra trong gió: "Dưới bệ hạ, không phải không thể thay thế được con..."

***

Đại án Lưỡng Giang ồn ào đến long trời lở đất, chiếu kinh đô tám trăm dặm khẩn cấp đến Chu đám người Chu Tử Thư về kinh, sau đó Nguyên Thú đế còn liên tục truyền thêm ba cấp chiếu nữa, còn nhắc đến việc Chu Xương Bình công chúa về.

Sau khi Chu Tử Thư chém chết ba trăm quan, Cung Chiêu Vấn cũng đã chạy từ chùa về, im lặng một thời gian dài cũng chưa thể lấy lại tinh thần.

"Ta cứ nghĩ rằng nhiều nhất cũng chỉ giết hơn mười người thôi, không ngờ y nổi trận lôi đình chém chết ba trăm người." Lòng Cung Chiêu Vấn ngổn ngang cảm xúc, "Yến đô úy, ngươi nói xem tại sao trên đời này lại có một người như Chu Tử Thư?"

Yến đô úy không trả lời, cũng không trả lời được.

Từ xưa đến này, không phải không có kiểu người như Chu Tử Thư, chỉ là rất hiếm hoi, hiếm đến mức vô cùng quý giá.

"Từ khi Đại Cảnh khai quốc đến nay, chưa bao giờ có chuyện triều đình phát ra liên tục bốn cấp chiếu." Cung Chiêu Vấn vuốt ve lòng bàn tay, lặp đi lặp lại một vài lời vô nghĩa. "Chuyến này nguy hiểm, Chu Tử Thư lành ít dữ nhiều."

Chưa bao giờ có tiền lệ, làm sao bảo vệ Chu Tử Thư được? Ai có thể bảo vệ y?

Lúc này có người đến bảo, nói là chặn được không ít thư từ phủ kinh đô gửi tới, đều là thư gửi cho Chu Tử Thư.

Cung Chiêu Vấn: "Để ta xem thử." Hắn cầm qua tay, do dự một chút nhưng lại không mở ra, phất tay nói: "Thôi, đưa sang đó đi."

***

Sau khi chém giết tham quan ác lại xong, Chu Tử Thư cởi quan bào mũ cánh chuồn ra không mặc lại nữa, rồi ở lì trong phủ không ra ngoài, bên ngoài phủ có trọng binh trấn giữ, lấy danh nghe lệnh làm việc, để tiện sai phái, thực ra là đang trông chừng và theo dõi.

Chu Tử Thư coi như làm ngơ không thấy, làm thinh không nghe, mỗi ngày đúng giờ vào bàn ăn, ăn xong thì dạo vài vòng quanh nhà, nhìn trúng một miếng đất vườn trồng hoa ở sân sau, nói là dùng để trồng trọt rất tốt.

Nghiên Băng nói trong kho củi có cuốc, muốn lập tức đi xới tung vườn hoa lên ngay.

Chu Tử Thư chỉ cười nói: "Không có thời gian trồng, thôi được rồi. Dù sao cũng đều là giống hoa quý, để lại cho người đến sau đi."

Trong lòng Nghiên Băng cực kì hoảng loạn, cậu cũng biết những chuyện xảy ra lúc trước, quan binh bọc tầng tầng lớp lớp bên ngoài, không khí im ắng của quan trường đông nam bao phủ khắp phủ Hồng Châu, kinh đô gửi truyền liền tay bốn cấp chiếu, có ngốc cũng biết con đường phía trước đầy rẫy gian nan.

Đúng ngay lúc này Ngụy bá đi vào, cầm theo một xấp thư từ kinh đô gửi tới cho Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư cầm lấy đi vào tiền thính, ném lên mặt bàn.

Nghiên Băng hỏi: "Không mở ra xem thử ạ? Nói không chừng Trần tiên sinh có thể nghĩ ra cách gì đó để cứu ngài thoát khỏi khốn cục đấy."

Chu Tử Thư hớp một ngụm nước ấm, cười xòa nói: "Ta biết bọn họ muốn nói cái gì."

Người ở phủ kinh đô không hẳn hiểu rõ Nguyên Thú đế cũng liên lụy trong đó, nhưng nhất định có thể đoán ra được Xương Bình là con cá lọt lưới của đại án Lưỡng Giang, còn là con cá to nhất.

Chuyện sau khi y chém giết người xong xuôi, đem treo đầu người lên trước cửa phủ công chúa, chắc là đã có không biết bao nhiêu là bản vạch tội rồi, ai ai cũng đều biết rõ rằng rất có thể Xương Bình khó mà bị hỏi tội, còn hành động lần này của y là đang bức sát Xương Bình.

Nhưng làm sao có thể bức sát được?

Đến cả người đa trí cận yêu như Chu Tử Thư cũng bị ép phải tự dồn mình vào đường chết, thì chỉ nghĩ thôi cũng thừa biết độ khó để xử quyết Xương Bình là rất lớn. Lưỡng Giang gây ra động tĩnh lớn như vậy, rất có thể Xương Bình còn chưa có việc gì, Chu Tử Thư y đã bị hỏi chém trước rồi.

Đoán chừng nội dung trong thư kia đều là những lời nhằm vào lợi và hại, khuyên nhủ y lui một bước, bảo vệ được mạng trước đã rồi nói.

Nghiên Băng cũng không biết có chuyện gì đang xảy ra, chỉ là trong lòng cậu khó chịu, thường ngày nếu như ngũ lang đã nói đến đây, cậu sẽ tự biết mà không tiếp tục thuyết phục nữa, nhưng mà lúc này cậu không nhịn được vượt quá bổn phận: "Xem thử một cái đi, ngũ lang, ngài xem thư, có thêm mấy người giúp đỡ ngài, chúng ta sẽ càng an toàn thêm mấy phần." Ngụy bá cũng góp lời khuyên nhủ.

Chu Tử Thư bất đắc dĩ, "Được thôi."

Y cầm lấy phong thư đầu tiên của Trần Sư Đạo, nội dung không khác mấy so với suy nghĩ của y.

"Vi sư đã từng nói quan trường không phải là nơi có thể làm bất cứ điều gì con muốn, ấy là nơi con phải biết tiến lui, cũng nên có vô số lần thoả hiệp."

"Có một số việc nên truy cứu, nhưng cũng có một số việc không nên đuổi tới ngọn nguồn, lúc nào nên tranh phải tranh, lúc nào nên nhịn thì dù có phải cắn răng nuốt máu cũng phải nhịn! Thời gian còn dài, quan trường cũng không phải là nơi có thể tranh đúng sai trong một sớm một chiều."

"Ngũ lang, con cần phải hiểu, tâm của con trong vắt sạch sẽ nhất, cũng là người tinh thông nhất."

Sau đó là thư của Khang vương, "Mặc dù không biết nội tình, nhưng có vài việc cũng có thể đoán được một hai, ngươi chớ sợ hãi, ta đã tìm nhiều người bàn bạc xem nên giải quyết khốn cục này thế này rồi. Đừng sợ, dù sao cũng luôn có nhiều cách giải quyết hơn khó khăn, ba thợ giày còn hơn Gia Cát Lượng đấy!"

"Bất kể ra sao, phải sống được thì mới có thể làm nhiều chuyện hơn."

Đỗ đạc chi: "Chịu được nhục mới thành đại nghiệp."

Cao đồng tri: "Cho lão phu nói nhiều một câu nhé, ở đời hiếm khi hồ đồ, trong quan trường không thể hồ đồ, nhưng nhất định phải giả vờ hồ đồ."

"Lão phu vẫn chờ tiểu hữu về chơi một ván cờ đây."

Có lời nhẹ nhàng, cũng có lời nghiêm khắc, hoặc là bình tĩnh... Mặc dù không nhiều, nhưng đều nhắc y nhịn một chút, lui một chút, về đến kinh đô cũng đừng tranh sai đúng cùng ai, đừng lại gây thêm thị phi nữa, trước hết cứ nhảy ra khỏi khốn cục Lưỡng Giang đã, bảo vệ được mạng rồi thì mới bàn đến việc khác.

Chu Tử Thư gấp thư lại cẩn thận, rồi lại cẩn thận thả xuống bàn, ngẩng đầu lên nhìn về phía nền trời xanh thẳm rộng lớn, trên mặt không có biểu cảm gì.

Khoảnh sân bên dưới tường trắng ngói xanh sạch gọn, yên tĩnh đến mức khiến cho lòng người phát hoảng, gió thổi qua bên tai, một bóng đen đột nhiên xuất hiện trong tầm mắt, từ xa đi đến gần, từ nhỏ biến thành to, bóng dáng ấy băng qua sân nhà vuông vức, bước vào cánh cửa tiền thính, khuôn mặt từ ngàn dặm xa xôi, gian nan vất vả hiện ra ngay trước mắt Chu Tử Thư, đang vươn tay về phía y. "Tiểu lang."

Chu Tử Thư trừng lớn mắt nhìn hắn chăm chú, mi mắt run run, thứ mạnh mẽ chống đỡ để không gì có thể mạo phạm vào từ thân thể đến linh hồn y trong phút chốc sụp đổ, dùng mắt thường cũng có thể nhìn thấy được cái xác đầy đặn lộ ra ngoài...

"Cung Tuấn, ta không làm quan nữa."

==

Tác giả muốn nói:

Đối với Tử Thư, tâm tình của y phải là: Ta cố gắng hết sức để yêu thời đại này, chung tình với thời đại này, nhưng đến cuối cùng phát hiện thì ra ta và thời đại phong kiến này vẫn luôn không hợp nhau.

Con người bị một thời đại bài trừ, hoặc là bài xích một thời đại, đều sẽ sống trong đau đớn tột cùng, Tử Thư luôn đặt nỗi đau đớn này ở chỗ sâu nhất.

PS: Đừng xem thường bé Cá nha, dù cho em có phẫn nộ đến đâu, thì cũng sẽ không thật sự làm chuyện ngu xuẩn, bởi vì em đã đồng ý với Dương thị và đứa trẻ ở mỏ đá, từ giây phút em nói rằng nếu Xương Bình phạm pháp, em cũng dám giết, thì tất cả mọi chuyện mà em làm đều chỉ có chung một mục đích là: Bức sát Xương Bình.

PSS: Có người cảm thấy Tử Thư giết nhiều quan như vậy, có vẻ có quan cũng không nên giết... Nói cách khác, bạn có thấy những quan đó cơ bản đều đã từng giết người hay chưa? Chẳng phải Yến đô úy từng nói dù có đưa án này cho Hình bộ phúc thẩm, Nguyên Thú đế cũng sẽ phán tử hình sao?

Chứng tỏ những người bị giết thật sự đáng chết.

PSSS: Cảm thấy giết ba trăm quan mà không tấu thỉnh Hoàng đế, trong lịch sử không hề xuất hiện sự việc này... Trước đây tôi cũng định viết chủ nghĩa lý tưởng ó.

"Có một số việc nên truy cứu, nhưng cũng có một số việc không nên đuổi tới ngọn nguồn, lúc nào nên tranh phải tranh, lúc nào nên nhịn thì dù có phải cắn răng nuốt máu cũng phải nhịn!" Mượn từ lời thoại Vương triều Đại Minh: Có một số việc nên truy, có một số việc không nên truy xét tới ngọn nguồn, nên tranh thì phải tranh, nên nhịn thì nhất đinh phải nhịn!

Những lời này khiến tôi nghĩ đến án tham ô nào đó không thể nói, cũng vô cùng lớn, phía sau không giải quyết được gì, đúng là không thể truy xét đến ngọn nguồn.

==

Min: Định edit xong 2 chương rồi mới up, mà thấy chị em trông ngóng đoạn lão chồng em Cá về với ẻm quá (tui cũng ngóng) nên tui lên luôn =))) với lại chương sau khá dài, tui cũng hơi bận tí nên up trước 1 chương mng đọc nhe hehe ^^

Chương 86

Khi Ngụy bá và Nghiên Băng nhìn thấy Cung Tuấn xuất hiện đã thức thời lui ra ngoài, trong tiền thính chỉ còn lại hai người Cung Tuấn và Chu Tử Thư.

Cung Tuấn ôm Chu Tử Thư vào lòng, dùng lòng bàn tay giữ lấy gáy y nhẹ nhàng vuốt ve, hùa theo y nói: "Được, đợi xong việc này, chúng ta từ chức ở ẩn, sẽ không quản mấy chuyện rách rưới của quan trường này nữa."

Chu Tử Thư nắm chặt lấy vạt áo của Cung Tuấn, đầu ngón tay trắng bệch, cố gắng thể hiện ra sự bình tĩnh qua giọng nói bị đè nén đến cực hạn: "Tay Xương Bình lấy đi vô số mạng người, bà ta không thể không chết."

Cung Tuấn: "Ta sẽ giúp tiểu lang tìm cách giết Xương Bình."

"Cách gì?" Chu Tử Thư nhìn chằm chằm vào hoa văn trên áo Cung Tuấn, cứng đờ đáp: "Trong tay ta có bằng chứng xác minh Xương Bình thu hối lộ, có bằng chứng những năm nay bà ta hoành hành ở Lưỡng Giang, giết người diệt khẩu, còn tận mắt nhìn thấy thái giám tâm phúc của bà ta là Lý Đắc Thọ hỏa thiêu mỏ đá, tàn sát ba trăm mạng người... Có những thứ này rồi, vẫn còn chưa đủ hay sao?"

Không chờ Cung Tuấn đáp lại, Chu Tử Thư đã do dự không chắc lặp lại câu hỏi: "Còn chưa đủ hay sao? Ta biết mạng đế cơ cao quý hơn người bình thường, đánh giết một hai người có có thể được khoan dung ngoài vòng pháp luật, nhưng giết mấy trăm người, tội ác ngập trời mà vẫn có thể được đặc xá ư? Cho dù có thêm cái mạng này của ta vào, đến điện Thùy Củng liều chết can gián, cũng không được sao?"

Chu Tử Thư muốn tránh khỏi vòng ôm của Cung Tuấn, muốn tìm kiếm lời phủ định hoặc không tán thành trên mặt hắn, muốn biết có phải hắn cũng cảm thấy Xương Bình công chúa đáng chết, nên giết hay không.

Nhưng bàn tay ghì chặt bả vai và sau gáy y đều quá chắc chắn, căn bản là Chu Tử Thư không thoát được, chỉ có thể nghe thấy âm thanh tâm trạng bị kiềm chế của hắn truyền từ trên đầu xuống.

"Xương Bình đáng chết, nhưng bà ta có thể chết vì sơn phỉ mai phục, chết vì ám sát, duy chỉ không thể chết vì đại án Lưỡng Giang, không thể chết ngay trong thời khắc mấu chốt này được."

"Chàng biết ư?"

Bàn tay túm lấy vạt áo của Cung Tuấn chậm rãi buông ra, Chu Tử Thư thấp giọng hỏi: "Chàng biết thế lực chèo chống Xương Bình làm xằng làm bậy ở Lưỡng Giang là gì, chàng đã biết sự thật từ lâu rồi sao? Thì ra các người đều đã biết rồi có phải không?"

Y ngừng giãy giụa, giọng nói suy sụp mờ mịt.

Từ trước đến giờ Cung Tuấn chưa từng thấy tiểu lang quân của hắn khổ sở thành như vậy, tim hắn giống như vừa bị khoét một cái lỗ to, càng khoét càng lớn ra, bị cơn gió hoang dã quét qua, thổi đến mức lòng hắn hoảng hốt lo sợ.

Cung Tuấn nhịn xuống suy nghĩ muốn thực hiện nguyện vọng của Chu Tử Thư, bàn tay táy máy sau gáy Chu Tử Thư nổi rõ gân xanh vì quá sức căng thẳng.

Hắn cố gắng dùng giọng nói ấm áp nhất để khuyên nhủ Chu Tử Thư: "Ta xin thề với tiểu lang, nhất định sẽ giết Xương Bình. Nhưng Xương Bình không thể chết vì đại án Lưỡng Giang, cá chết lưới rách, bà chết chết sẽ liên lụy đến quá nhiều bí mật, lại càng không thể chết dưới sự bức ép của em, em không thể... Cho dù em có đứng trước mặt người trong thiện hạ vạch trần Xương Bình, kéo bệ hạ vào những việc ngầm không một ai biết kia, nhiều nhất chính là giết chết Xương Bình, bệ hạ ban chiếu trị tội, sau đó thì sao? Kết cục của một thần tử xé rách mặt mũi của đế vương rồi công khai ra ngoài sẽ như thế nào? Em thậm chí không có quyền chém chết ba trăm quan trong tay, dù cả triều văn võ có giúp em cầu tình cũng vô dụng thôi, huống chi chẳng phải không có người nào không chuẩn bị công kích em."

"Một vị Hoàng đế bị chọc giận sẽ chỉ biết dùng mọi thủ đoạn để giết em, không ai gánh nổi, đến lúc đó rồi em phải làm sao?"

"Nhịn một bước, lui một bước, không phải nhận thua cũng không truy cứu nữa, càng sẽ không mặc kệ Xương Bình nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, ta có vô số thủ đoạn có thể dùng để tra tấn Xương Bình, bây giờ ta cũng có thể đến phủ công chúa lặng lẽ giết chết bà ta... Nhưng người trong thiên hạ đều sẽ cho rằng em giết chết mẹ ruột, rồi những kẻ có ý đồ công kích em sẽ được nước lấn tới bôi nhọ, thậm chí vặn vẹo việc em vì dân giải oan thành bè cánh đấu đá."

Tốc độ nói chuyện của Cung Tuấn nhanh, đường như chỉ lo Chu Tử Thư không nghe được. "Khi ta tòng quân cũng từng gặp tham quan ác lại gây bất hòa, thậm chí độc ác giam lương thảo, chịu thiệt thòi, sống chết khó nói, vẫn phải bỏ qua một phen, tiếp tục quấn lấy nhau, nhưng sau đó ta đã chặt đầu hắn trên chiến trường, không ai truy cứu không ai nói, còn được bệ hạ ngợi khen. Em xem, quân tử báo thù mười năm còn chưa muộn mà."

Chu Tử Thư im lặng không nói, rất lâu mới lên tiếng: "Ta cũng có vô số cách để giết Xương Bình, nhưng lại không có cách nào chân chính giải oan cho dân chúng chết vô tội."

"Nhưng những người qua đời trong lửa lớn, qua đời trong tay Nha hàng, qua đời trong tay tội danh thông đồng với địch phản quốc... Những người bình thường đến cuối cùng cũng chẳng thể mở miệng được, bỏ mạng oan uổng không thể nhìn thấy ánh mặt trời phải làm sao bây giờ?"

"Dù bây giờ Xương Bình chết, thì có thể thay đổi được gì đây?"

"Bà ta vẫn là đích trưởng công chúa của Đại Cảnh, thân phận tôn quý, chưa biết chừng còn có thể nhờ người chết làm lớn, loại bỏ những việc ác mà mọi người từng biết trong quá khứ, lấy lại được những gì ngày xưa bị tước đi, khôi phục phong hiệu. Ngàn năm sau đó, sách sử lưu lại tên bà ta, nói không chừng có thể vì lăng mộ công chúa quá đẹp đẽ, truy phong quá tôn quý, thậm chí chỉ cần văn bia được tu sửa và tô điểm thêm thôi cũng đã đủ khiến cho bà ta trở thành đế cơ vương triều có một không hai rồi. Đến trăm năm sau, ngàn năm sau, vô số người sẽ nhớ đến vị công chúa được nhắc tên trong lịch sử này, có ai biết đến những người bình thường chết oan kia hay không?"

Chu Tử Thư lặng lẽ đỏ hốc mắt: "Cho dù có thấp hèn như bùn cát, mang mạng tựa cỏ rác, cho dù không được lưu danh sử sách, đến miêu tả sơ lược còn chẳng có, thì chí ít họ cũng không thể bị tước đoạt quyền được khóc than một tiếng oan khuất kia chứ."

Nếu không phải tận mắt nhìn thấy trăm người bị thiêu chết ở mỏ đá, không phải lần đầu tiên chứng kiến nhìn thấy thời đại phong kiến xem thường nhân quyền, có thể nói là xem mạng người như con sâu cái kiến, không phải biết được bạc mà Xương Bình tham ô được đưa vào nội khố, hất thẳng dụng ý xấu vào mặc, có lẽ Chu Tử Thư cũng sẽ giống như Cung Tuấn và đám người Trần Sư Đạo chờ mong, trở thành một quan lại thông minh, biết tiến biết lui.

Y có thể tạm thời lui một bước, có thể nhẫn nhục mang trọng trách, có thể không vung đao vào quan trường đông nam.

Y vẫn luôn cố gắng tiếp nhận sự không hoàn mỹ của thời đại này, tiếp nhận chế độ phong kiến lạc hậu dốt nát và vương quyền tối cao của nó, cố gắng đi tìm hiểu, bao dung con người và nền văn minh của nó, bởi vì y biết rõ y không có khả năng xoay chuyển trời đất, điều duy nhất mà y có thể làm được chỉ là cố hết sức mình để tìm kiếm sự cân đối giữa thời đại đang đi qua và hiện đại trong suy nghĩ.

Thật ra thời đại này không hoàn toàn tối tăm, vẫn có người hi sinh vì đạo, cũng có chỗ phát sáng lấp lánh.

Nhưng y gặp được ánh mặt trời bình minh, quay đầu nhìn lại sau lưng thấy nhân dân tầng lớp thấp kém nhất vẫn đang giãy giụa trong bóng đêm, đã không có bản lĩnh ngăn cơn sóng dữ, cũng không thể cứu dân từ dầu sôi lửa bỏng, thì sao đến cả một công đạo cũng không cho họ được?

Cung Tuấn ôm chặt Chu Tử Thư, muốn nói với y không đáng, nói y ngốc quá, thế gian này chẳng phải không đen tức trắng, quan trường càng không phải là một nơi chỉ đơn thuần có đúng có sai, đời người vốn chính là từng cuộc thỏa hiệp không thể không lui nhường.

Nếu không cam lòng thì cứ mở một con đường khác mà đi, đạt tới mục đích là được, có rất nhiều cách báo thù rửa hận, để cho kẻ thù lấy cái chết tạ tội là được, cần chi phải câu nệ quá trình? Sao cứ nhất định phải công khai tội ác của phạm nhân ra?

Hiện tại hắn đã hiểu.

Thứ mà Chu Tử Thư quan tâm không phải là mạng của tội nhân nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật kia, mà là công đạo của người chết, là công đạo căn bản nhất mà ngàn vạn bá tánh ở tầng lớp chót kia đã bị tước đoạt thành quen...

Có oan giải oan, giết người đền mạng.

Cung Tuấn có thể đồng cảm với sự cao thượng và kiên trì của Chu Tử Thư, cũng đau lòng trước sự tốt bụng chân thành của y, nhưng đối với hắn, Chu Tử Thư còn được sống quan trọng hơn hết.

"Sẽ có lúc công đạo của bá tánh được trả lại, sẽ có cơ hội khiến cho Xương Bình thân bại danh liệt. Ta, Trần thượng thư, Cao đồng tri... Có nhiều công khanh đại thần như vậy đứng về phía em, còn có tổ phụ và Thập thúc, dẫu sao vẫn còn ta có thể trở thành át chủ bài uy hiếp bệ hạ..." Giọng điệu của Cung Tuấn bất giác mang theo ý khẩn cầu, "Đừng đối nghịch với bệ hạ, em cho bọn ta một ít thời gian thôi, nhất định có thể làm cho Xương Bình phải đền tội."

Chu Tử Thư chỉ hỏi: "Từ khi nào chàng biết Xương Bình thay bệ hạ làm việc?"

Cung Tuấn nhắm chặt hai mắt, "Ta chưa từng nhúng tay vào quan trường Lưỡng Giang, là bởi vì trước đây tìm kiếm huyết phách ngàn năm của Hoàng thương Giang Nam bị diệt môn, cho nên đã phái người âm thầm truy sát, tra được một vài thứ, mơ hồ đoán ra được chút ít liền lập tức kêu dừng, không tiếp tục tra nữa. Khi Đỗ Công Tiên khuyến khích em đến Lưỡng Giang, ta mới cảnh cáo ông ta, hy vọng em đừng đến, kết quả vẫn bị tính kế đến Lưỡng Giang. Trong lòng ta còn trông chờ vào may mắn, biết đâu em hiểu được đạo lý bo bo giữ mình như cách em đảm nhiệm Khâm sai đến Hoài Nam, có thể nhạy bén toàn thân trở ra..."

"Là do ta còn chưa hiểu em. Nội tình như thế nào, ta thực sự không rõ ràng, lúc đó rút lui nhanh quá, khi rời khỏi quân Tây Bắc, tổ phụ mới nói cho ta biết tường tận." "Hóa ra là vậy."

Cung Tuấn đã nhấn mạnh quan trường Lưỡng Giang phức tạp rất nhiều lần, vẫn luôn phản đối y đến đây, tận tâm rỉ tai bảo y phải chú ý cẩn thận đề phòng quan trường Lưỡng Giang và Nguyên Thú đế, vốn đã nhắc nhở rồi cơ mà.

Chỉ là lúc đó y không để bụng.

"Chờ đại án Lưỡng Giang này xong, tìm cơ hội giải quyết Xương Bình, em từ quan, ta trả lại binh quyền, làm một đôi vợ chồng nhàn tản, đến đại mạc, đến miếu đường cách xa giang hồ, vào trong rừng sâu núi thẳm ở ẩn... Ở đâu cũng được, tiểu lang ở bên cạnh ta là được." Cung Tuấn bật cười một tiếng, lời nói dịu dàng vô cùng: "Nếu như gặp chuyện bất bình, gặp được cẩu quan xem mạng người như cỏ rác, cũng không cần phải sợ không có quyền can thiệp, ta chỉ cần cầu bệ hạ cho một ý chỉ là xong."

Chu Tử Thư cong cong mi mắt. dường như cũng đang mặc sức nghĩ về tương lai như vậy.

Cung Tuấn không dám buông lỏng cảnh giác, cho dù trông Chu Tử Thư giống như đã bị thuyết phục rồi, không còn muốn Xương Bình đền mạng nữa, hắn biết tiểu lang thông minh nhanh nhạy nhưng cũng rất cố chấp, việc gì bản thân đã nhận định rồi thì nhất định sẽ kiên trì đến cùng.

Có vẻ Chu Tử Thư rất mệt mỏi, đổ vào trong lòng Cung Tuấn chìm vào giấc ngủ.

Cung Tuấn ôm y vào giường ngủ, ngửi thấy hơi thở ấm áp trên người Chu Tử Thư, sau đó cũng nhắm mắt lại theo đi vào giấc ngủ say.

Bởi vì đi đường dài cả ngày lẫn đêm, đến cả tuấn mã chạy ngàn dặm cũng còn có lúc được nghỉ ngơi, nhưng hắn thì dường như không hề ngủ nghỉ mà chạy thẳng đến đây, lúc ôm Chu Tử Thư đầu vẫn còn đau như muốn nứt ra, cuối cùng cũng có thể nghỉ ngơi.

Tiếng hít thở đều đều truyền đến bên tai, Chu Tử Thư đột nhiên mở mắt ra, im lặng nhìn vào khoảng không.

Y không ngủ được.

Cung Tuấn ra chiến trường gần một năm, mùi đàn hương trên cơ thể có lẽ đã bị hòa tan cùng mùi máu tươi, Chu Tử Thư như ngửi được mùi gỉ sắt tanh tưởi trong khoang mũi mình, thứ mùi ấy thoáng chốc kéo y về đến dòng máu loãng cuồn cuộn trong kí ức, khiến cho y khó mà ngủ say được.

***

Bốn cấp chiếu liên tục được ban xuống, không cho bất kì ai có cơ hội kéo dài, Cung Chiêu Vấn nhanh chóng chuẩn bị xe ngựa, chọn ngày trời nắng rồi xuất phát.

Xe ngựa nối đuôi nhau, đám người Chu Tử Thư, ám vệ tăng thêm bên người Cung Chiêu Vấn và Xương Bình cũng bị Chu về, tổng cộng có chừng ba mươi người.

Còn doanh binh Kinh Bắc thì đã lui xa Hồng Châu.

Cung Chiêu Vấn cưỡi trên ngựa to mạnh mẽ quay đầu nhìn chằm chằm Cung Tuấn bước ra cùng Chu Tử Thư, khi đối phương bước qua người thì đột nhiên gọi hắn lại: "Không phải Đường huynh nên ở Tây Bắc hay sao?"

Cung Chiêu Vấn liếc nhìn Chu Tử Thư, thoáng cái hiểu rõ: "Đến vì Chu đại nhân à." Sau đó đổi chủ đề, hỏi tiếp: "Tướng trấn quân không có chiếu chỉ không được tự ý rời biên cảnh, Đường huynh đến Lưỡng Giang là do phụ hoàng ân chuẩn à?"

Trông Chu Tử Thư xoay người lên ngựa xong, Cung Tuấn mới đáp lại Cung Chiêu Vấn: "Chờ về kinh đô, ta sẽ tự đến thỉnh tội với bệ hạ." Ngụ ý, không chiếu tự ý rời biên là tội không nhỏ.

Cung Chiêu Vấn chỉ muốn quan tâm đôi ba câu, nhìn đôi phu phu đáng thương Chu Tử Thư và Cung Tuấn, một người không thoát khỏi cảnh sống chết chẳng rõ, người còn lại tự ý rời biên cảnh cũng không tránh được trách phạt, khi phụ hoàng nổi trận lôi đình sẽ không thèm màng đến pháp quy triều đình nữa, nói không chừng còn sẽ hoài nghi Cung Tuấn có lòng tạo phản, hai người cùng bị xử lí.

Tình chân ý thiết*, đồng cam cộng khổ là thật, khốn khổ vì tình mà phạm hồ đồ cũng là thật.

(*) Tình chân ý thiết '情真意切': Chỉ tình cảm thể hiện vô cùng rõ ràng.

Trong lòng Cung Chiêu Vấn cảm thấy nuối tiếc, lại không có ý lên tiếng giúp đỡ. "Xuất phát!"

Tất cả mọi người trong đội ngũ đều mặc thường phục để xuất hành, chầm chậm uốn lượn qua những con phố ít người rời khỏi thành, ánh nắng sớm bình minh phủ xuống ngọn cây trên tường thành, khoác cho nó một chiếc áo màu vàng kim, im lặng nhìn chăm chú vào đoàn người đi xa dần.

Khi sắp bước vào quan đạo, nhìn thấy đám người nhốn nháo tụ tập trên đường, người người tấp nập trông như thể toàn bộ người trong phủ Hồng Châu này đều chạy tới đây đi chợ vậy.

Cung Chiêu Vấn: "Có chuyện gì thế?" Hỏi xong lệnh cho người lên phía trước thăm dò.

Người thăm dò nhanh chóng quay trở lại: "Khởi bẩm thượng sai, biển người phía trước đều là bá tánh từ Hồng Châu, Cát Châu, Kính Châu mộ danh đến đây."

Cung Chiêu Vấn cảm thấy thú vị: "Ngưỡng mộ người nào?"

Người thăm dò chuyển ánh mắt nhìn về phía Chu Tử Thư ở phía sau, Cung Chiêu Vấn lập tức hiểu ngay.

"Sơ tán mọi người đi, đừng cản trở quan đạo."

Người thăm dò báo: "Bá tánh tự phát đứng ở hai bên đường, không có tràn ra quan đạo."

Cung Chiêu Vấn: "Thế sao, vậy thì cứ đi tiếp đi."

Đội ngũ chậm rãi tiến lên, vòng qua con đường có dòng người đưa tiễn, ám vệ chưa từng trải qua cảnh tượng như thế này đều nín thở tập trung, nắm chặt hoàn thủ đao, mắt nhìn sáu phương tai nghe tám hướng, cảnh giác trước thích khách có thể xông ra từ đâu đó, nhưng mà hàng trăm ngàn người kia chỉ đứng yên một chỗ, im lặng nhìn bọn họ chằm chằm.

Nếu mà nói chính xác hơn, thì nơi mà tầm mắt của bọn họ tìm đến chính là một bóng dáng màu xanh nào đó trong đoàn người đang không ngừng tiến về phía trước.

Giữa đám người là Dương thị và Khuông Phù Nguy đang rướn lên để kiếm ai đó.

Khoảng thời gian Dương thị được rửa oan giải tội đã tự mình đến phủ công chúa nhìn đầu người treo cao, nàng đã khóc đến nỗi mắt bị hỏng rồi, nhưng lại giống như thật sự có thể nhìn thấy được vẻ sợ hãi của những đầu người kia lúc sắp chết, lòng phiền muộn thoáng cái mất sạch, thoải mái cười to, sau đó khóc lớn.

Buồn bã và mừng rỡ qua đi, Dương thị bệnh mấy ngày liền, không có cơ hội đến gặp Chu Tử Thư nữa.

Chuyện Chu Tử Thư giận chém ba trăm quan đã truyền khắp đại giang nam bắc, thư sinh hiểu quy củ triều đình ngồi trong các quán rượu nghe thấy. có nói hành động lần này của y là vì dân giải oan, về tình có thể hiểu được, có lẽ sẽ xử phạt nhẹ, cũng có người cho rằng, y vượt quyền làm việc, xem thường triều đình, lúc hỏi tội sẽ bị đồng lòng xử nặng.

Nhưng dù có theo quan điểm của ai đi chăng nữa thì đều có một điều kiện tiên quyết được công nhận, chính là Chu Tử Thư sẽ bị hỏi tội.

Quả nhiên, bốn cấp chiếu truyền về Giang Nam cho thấy trên dưới triều đình đều đã chú ý đến việc này rồi, sợ rằng Chu Tử Thư khó mà chối tội.

Bởi vì đại án Lưỡng Giang rất có tính kịch, bá tánh trong ngoài kinh đô không ai là không quan tâm đến, cũng không biết là ai đã tiết lộ chuyện bốn cấp chiếu, Chu Tử Thư vị dân chờ lệnh giận chém quan trường đông nam rồi bị triều định hỏi tội, sợ khó thoát khỏi cái chết, cho nên thông tin nhanh chóng truyền đi xôn xao khắp nhân gian.

Tất nhiên là Dương thị và Khuông Phù Nguy cũng đã nghe chuyện, còn thăm dò được thời gian Khâm sai lên đường về kinh, sau đó nghĩ đến việc đến quan đạo tiễn y đi một đoạn, không ngờ đến nơi mới phát hiện hai bên quan đạo đều có bá tánh tự phát mà đến.

Không cần phải mở miệng hỏi, Dương thị đã hiểu ngay vì sao bọn họ lại xuất hiện ở đây.

Vừa nhìn thấy Chu Tử Thư, Dương thị đã đột nhiên quỳ xuống, run rẩy dập đầu xuống đất vàng, quả quyết không dao động hô lên: "Thanh thiên minh giám, rửa sạch oan khuất cho ta, trả lại trong sạch cho ta, bảo vệ bá tánh Lưỡng Giang ta."

Nàng vừa dứt lời, đám người đã đồng loạt quỳ xuống, không ai lên tiếng giống như Dương thị, mà chỉ im lặng khấu đầu một cái với Chu Tử Thư.

Lúc Dương thị khẽ động, ám vệ bảo hộ từng giây từng phút đã nhào ra cản đao ngay theo phản xạ, phát hiện người người kéo nhau quỳ xuống dập đầu thì không khỏi sửng sốt, vô thức nhìn về phía Chu Tử Thư, y ở phía ngược sáng, không thể nhìn rõ sắc mặt. Cung Chiêu Vấn phất tay: "Lui đi."

Ám vệ đều giảm cánh giác xuống thu đao về, cùng lui lại một bước, nội tâm của ai cũng bị chấn động, chỉ tiếc vì chức trách nên không dám lung lay.

Khuông Phù Nguy biết rằng trong số những người đang quỳ ở đây có người thân bỏ mạng trong tay ba trăm quan bị chém đầu, ngàn dặm xa xôi đến Hồng Châu chỉ vì một lạy ngày hôm nay, cũng có người chẳng thù chẳng hận gì với ba trăm quan lại kia, chỉ đến quỳ một thanh thiên vì để trả lại công đạo cho dân mà không sợ chết.

Cậu cũng quỳ, cúi đầu nhìn đất.

Mặc dù Xương Bình công chúa bình yên vô sự, không bị hỏi tội, Khuông Phù Nguy vẫn tin rằng Chu Tử Thư sẽ thực hiện từng lời y đã hứa.

Chu Tử Thư đáng để cho người trong thiên hạ cúi đầu.

Đứng bên cạnh Khuông Phù Nguy là một lão già, chính là lão tiên sinh ngày đó viết bản khai cho bọn họ, đột nhiên ông chắp tay nói với Chu Tử Thư đang đi qua họ: "Lần này đi ngàn dặm, gió mạnh gian nan, mong quân bảo trọng!"

Chu Tử Thư cúi đầu nhìn ông, cũng thấy được Dương thị và Khuông Phù Nguy, y nở nụ cười ấm áp rồi vẫy tay chào tạm biệt bọn họ: "Đứng lên cả đi, cũng đều trở về hết đi."

Đoàn ngựa xe của ba mươi người không dài, nhưng đã tốn đến hai khắc đồng hồ mới vượt ra khỏi con đường tiễn đưa dài dằng dặc của các lão bá tánh.

Cung Chiêu Vấn trên ngựa quay đầu nhìn tường người vẫn cong quyến luyến không rời ở phía sau, thấp giọng thở dài: "Hướng về lòng dân, lại không thể làm trái ý dân, có lẽ thật sự có khả năng chạy thoát đến cửa sinh."

Bản thân Chu Tử Thư đã là kỳ tích rồi, những sự việc làm người ta ngạc nhiên xảy ra trên người y dường như cũng không còn kỳ lạ nữa.

Nếu như y có thể tránh được kiếp nạn này, nhất định sẽ trở thành danh thần thiên cổ.

Lòng Cung Chiêu Vấn hơi nóng lên, nhưng một giây sau đã đón nhận một ánh mắt sắc nhọn lướt qua, hắn chạm mắt với đôi mắt lạnh lùng của Cung Tuấn thì vội vàng quay đầu tránh đi, sau đó sửng sốt, đột nhiên cảm thấy không vui, cùng đánh giết trong chiến trường mà ra, sao khí thế có thế yếu kém hơn nhiều như vậy chứ?

Nghĩ như thế, nhưng hắn không còn quay đầu lại nhìn phía sau nữa.

***

Bởi vì nhận cấp chiếu, cho nên hành trình bị giảm bớt lại, gần như là chạy rất gấp, không chút ngơi nghỉ, mãi đến khi tới gần phủ kinh đô, thời gian không còn gấp rút nữa mới dừng chân ở một dịch trạm.

Chu Tử Thư không có nội công, vốn không chịu nổi đường xá xa xôi, nửa đường Cung Tuấn đã chạy đi mua một chiếc xe ngựa tốt, để khi nào y mệt mỏi có thể vào xe ngủ một giấc, nhưng xe ngựa xóc nảy, cơ thể vẫn không ngăn được mỏi mệt.

Không dễ gì mới được nghỉ ngơi, Chu Tử Thư bèn chui ra xe, ngồi ở trước xe ngựa nhìn người khác bận bịu, còn Cung Tuấn thì chẳng biết đi đâu rồi.

Ngoại trừ đoàn xe của bọn họ, trong dịch trạm còn có một đoàn xe khác nữa.

Đoàn xe kia có người đang dỡ hàng, không cẩn thận trượt tay, rương lớn đang nâng lên rớt xuống đất, một đống trang phục sặc sỡ diễm lệ rơi ra, một người có lẽ là Giám quan nhìn thấy lập tức xông qua quát lớn, bởi vì đó là trang phục vô cùng quý báu.

Lúc này Xương Bình bước xuống từ một chiếc xe ngựa khác, vẻ mặt mệt mỏi, trạng thái vô cùng tệ, tuy ánh mắt nhìn về phía Chu Tử Thư vẫn tràn ngập ác ý nhưng đã không còn điên cuồng lên nữa.

"Dịch trạm này cách kinh đô chỉ còn sáu mươi dặm, ngày mai là đã có thể vào kinh, ngươi đã chuẩn bị tốt tinh thần để bị giam chưa? Có từng nghĩ một ngày nào đó đầu của ngươi cũng sẽ bị treo lên gậy trúc thị chúng hay chưa?"

Chu Tử Thư dựa vào toa xe, giọng nói rất nhẹ: "Bà biết vì sao ta chém chết ba trăm quan hay không?"

Xương Bình đến gần, cũng cười nói nhỏ: "Để thỏa mãn phức cảm tăng lên khi ngươi cứu thế cứu dân, cũng để trừng trị phe đối lập, kết bè kết cánh."

Chu Tử Thư nhìn Cung Chiêu Vấn bước vào dịch trạm: "Xem ra vì giải quyết ta, mà đến cả cháu mình bà cũng sắp sửa giết luôn rồi đấy nhỉ."

Xương Bình: "Cũng do ngươi sung sướng nhất thời, tự tay đưa chuôi thóp vào trong tay ta, để cho ta có thể bắn một mũi tên trúng hai con nhạn."

Chu Tử Thư đột nhiên nhận ra: "Bà đứng cùng phe với Thái tử." Rồi y híp mắt cười nói: "Chẳng trách đi cùng nhau tới đây mà lại không gặp phải thích khách." Theo lý mà nói, Đông cung hẳn là không thể ngồi yên mới đúng, có điều trong truyện gốc có đề cập đến việc sau khi Xương Bình hồi kinh thì trở thành trợ lực rất lớn của Thái tử, quá trình này đã thay đổi vì có y, nhưng trăm sông đổ về một biển, kết quả vẫn giống nhau mà thôi.

Nụ cười của Xương Bình hơi nhạt đi, Chu Tử Thư tính toán quá sâu không để sót một chỗ tối nào, mà bây giờ y lại bình tĩnh đến lạ khiến cho bà ta ôm lòng nghi ngờ y đào một cái hố to ở trước mặt để hãm hại mình. Chu Tử Thư nghiêng người, nhỏ giọng nói: "Nhìn thấy không?"

Xương Bình nhìn theo tầm mắt của y, chỉ thấy bên đó là những hàng thương đang dỡ hàng... Không đúng, ở dịch trạm lấy đâu ra hàng thương.

Chu Tử Thư: "Tay áo hẹp cổ áo trònvà giày bó, eo buộc bảy thứ, không phải cách ăn mặc lưu hành ở vùng Trung Nguyên chúng ta. Lại nói những rương hàng được khuân xuống đằng kia, vừa nãy có rương bị rớt xuống, một món Phật y rơi ra ngoài, mặc dù đã nhanh chóng gom vào lại nhưng vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng, đó là Phật y nhiếp dẫn Phật A Di Đà lưu hành một thời ở Đại Hạ, trên ống tay áo, vạt áo của bọn họ đều có hoa văn Phật..." Y bật cười, nói tiếp: "Nghe đồn Đại Hạ là đất nước Phật giáo, toàn dân tin Phật, thì ra không phải là giả."

Xương Bình cau mày, không hiểu vì sao đột nhiên Chu Tử Thư lại nhắc tới Đại Hạ.

Có điều vì sao người Đại Hạ lại xuất hiện ở dịch trạm Đại Cảnh? Lẽ nào là vì Tây Bắc đại thắng, bên phía Đại Hạ mới phải vào kinh thương lượng và đàm phán hòa bình?

Tình hình hiện tại đang ngàn cân treo sợi tóc, có khi nào sẽ kéo dài việc tra hỏi Chu Tử Thư tội chém chết ba trăm quan hay không?

Chu Tử Thư: "Kì lạ, không phải bà quen thuộc với người Đại Hạ nhất hay sao?"

Xương Bình ngạc nhiên: "Ngươi nói bậy bạ gì đó?"

Chu Tử Thư: "Mấy năm trước bà vu oan cho thạch thương họ Khuông tội thông đồng với địch phản quốc chỉ vì họ làm ăn buôn bán với Đại Hạ, trong lòng ta nghĩ, làm quan muốn giết oan một dân lành rất dễ dàng cơ mà, cần gì phải chụp mũ cho họ tội thông đồng với địch phản quốc? Nếu như tra vào càng sâu hơn nữa, có thể tạo thành đại án, chỉ sợ không phải vừa ăn cướp vừa la làng, phản công ngược lại thôi."

Xương Bình biến sắc, không ngừng cười lạnh: "Sao, không giết ta được, cho nên đặt điều nói xấu cô tội thông đồng với Đại Hạ à? Không ngờ Chu Tử Thư ngươi cũng có một ngày bị ép đến mức vi phạm đạo nghĩa quân tử, cũng trở thành loại ác quan ô lại giết oan người khác kia rồi."

Vẻ mặt Chu Tử Thư thản nhiên: "Bà là kẻ ác, để hợp với kẻ ác, ta cũng phải trở thành kẻ ác." Y đổi sang một tư thế thoải mái hơn, đánh giá Xương Bình, "Nhắc mới nhớ, ta luôn cảm thấy kỳ lạ, bởi có rất nhiều cái cớ để giết oan người thường, sao cứ nhất định phải chụp cái tội thông đồng với địch phản quốc lên đầu một thương nhân chứ? Lý do gì thúc đẩy bà làm như thế?"

Sắc mặt Xương Bình trở nên khó coi: "Thạch thương gì? Thông đồng với địch phản quốc gì? Cô nghe không hiểu."

"Nghe không hiểu cũng không sao." Chu Tử Thư nói: "Ta cho bà biết một chuyện, ở Tây Bắc Cung Tuấn đã bắt được trưởng tử của Tể tướng Đại Hạ, tra hỏi được từ chỗ hắn ra thì mấy năm gần đây luôn có đồng tệ, bạc trắng và quặng sắt thuộc về Đại Cảnh chảy về Đại Hạ. Trước đây ta không để ý lắm, dù sao thì Đại Cảnh ta đất rộng của nhiều, lấy từ nơi nào, tuồn sang bằng con đường tắt nào, ai mà biết được? Không có manh mối thì rất khó mà tra, mãi đến khi ta biết được Vương Nguyệt Minh và Quốc sư Đại Hạ cùng là thí sinh bị rớt kì thi Đình hai mươi năm trước, đồng môn đồng khoa đồng bảng, lại có thêm sổ sách ghi chép lại chính xác chứng cứ quan thương quan trường Đông Nam cấu kết mà ông ta đưa cho ta, bao gồm cả bà, và số bạc ông ta kiếm được bao năm qua. Từ Hiền cư của Vương Nguyệt Minh bị thanh tra tịch thu, số bạc tìm ra được và số liệu ghi trong sổ sách sai lệch rất nhiều, bà đoán xem số tiền kia đã đi đâu?"

Xương Bình cau mày: "Vương Nguyệt Minh cũng học theo Tang cẩu Đại Hạ thông đồng với địch phản quốc sao?"

Nhìn chằm chằm Xương Bình, người giống như mới vừa nhận ra Vương Nguyệt Minh dám phản quốc ngay dưới mắt mình, nụ cười của Chu Tử Thư nhạt dần: "Hẳn không phải là bà không phát hiện ra cái gì đâu chứ nhỉ, sao lại giả vờ như bừng tỉnh ngộ ra thế kia? Nhắc mới nhớ, Bà đã đánh thắng Vương Nguyệt Minh nhiều lần như vậy rồi, có tham dự vào việc tư thông với Đại Hạ không? Không lục soát được gì ở phủ công chúa có phải là vì khoản tiền đó đã chảy vào Đại Hạ rồi hay không?"

Xương Bình: "Xằng bậy! Ta thấy ngươi phát điên rồi đấy!" Bà hất cằm, lạnh lùng liếc Chu Tử Thư: "Cô là công chúa Đại Cảnh, dù có thể nào đi nữa cũng không phản quốc!"

Chu Tử Thư vẫn cười, "Mấu chốt không nằm ở chỗ bà có phản quốc hay không, mà là ở chỗ bệ hạ có nguyện tin bà phản quốc hay không, người khắp thiên hạ này sẽ tin tưởng một người xem mạng sống như cỏ rác là bà hơn, hay tin tưởng một người vì bọn họ mà chém giết tham quan ác lại là ta."

Xương Bình nhìn y không rời mắt: "Ngươi biết rõ bạc trong kho phủ của ta đều đi đâu cả mà —— "

"Ai sẽ tin chứ? Bà đưa ra bằng chứng thì nhất định đó là thật sao? Nếu như đại án Lưỡng Giang cứ thế lặng lẽ không tiếng động mà kết thúc, có lẽ bệ hạ sẽ nể tình trước đây bà đã nỗ lực, còn nhìn mặt mũi Thái hậu, biết đâu sẽ bỏ qua cho bà, dù ta có làm ầm ĩ lên muốn trả lại công đạo cho người uổng mạng cũng chẳng giải quyết được gì. Nhưng mà ta lại tiền trảm hậu tấu ba trăm quan, từ vương công đại thần, cho đến dân chúng thấp cổ bé họng đều đang bàn tán về đại án Lưỡng Giang, đều nghi ngờ vì sao ta lại muốn treo những đầu người kia ở trước cửa phủ công chúa của bà, muốn biết rốt cuộc là bà đã làm gì mới kích động Chu Tử Thư ta làm nhục mẹ đẻ của mình như thế?"

Chu Tử Thư nhìn bà ta rồi bật cười, ánh mắt lướt qua bà nhìn về phía Cung Tuấn đang quay về.

Hắn nhìn thấy Xương Bình, nét mặt vô cùng nôn nóng và lo lắng, hình như rất sợ hãi Xương Bình làm tổn thương tiểu lang quân yếu ớt của hắn.

"Bây giờ ngươi cũng một thân tanh tưởi, chẳng có ai tin là ngươi vô tội đâu."

"Ý dân, lòng dân, thời khắc mấu chốt, rõ ràng các người hiểu được chúng quan trọng biết bao nhiêu, muốn sử dụng chúng để đạt được mục đích, nhưng lúc không cần thì lại tùy tiện chà đạp." Chu Tử Thư thở dài thườn thượt, nheo mắt lại, đốm sáng vụn vặt xuyên qua tán cây rơi xuống mặt y, khiến cho cảm giác mong manh vỡ vụn trên người y tăng thêm: "Ta tâm địa Bồ Tát, đúng là đã tự tay chém ba trăm quan, nhưng bằng hữu ngày xưa của ta, ân sư, bộ hạ cũ, thượng sai và các trưởng bối đều sẽ bôn ba vì ta, nhấc cao ý dân ngập trời vì ta."

Dừng một chút, y lại nhìn về phía Cung Tuấn, nụ cười trên mặt xen lẫn chút buồn bã.

"Trên dưới đương triều đã tranh chấp không hồi kết, khi ý dân sục sôi, khi bệ hạ không thể xuống đài, đột nhiên xuất hiện một đạo lý đúng đắn có thể giải quyết được bao vấn đề chồng chất, bà thử nói xem mọi người có đều sẽ vui vẻ bước xuống hay không?" Sẽ.

Chắc chắn sẽ!

Mặt mũi Xương Bình trắng bệch, ánh mắt nhìn Chu Tử Thư giống như đang nhìn một con quái vật, cánh môi mấp máy, rất lâu sau mới có thể nghe rõ lời bà ta: "Lúc trước nên bóp chết ngươi... Không nên, ta không nên bảo Lý Đắc Thọ cho ngươi ăn tẩy tủy đan."

Ánh mắt Chu Tử Thư lóe lên một vẻ ngạc nhiên, không phải do trời xui đất khiến hay sao?

"Sinh non và mang độc từ trong thai rất dễ phân biệt, thủ đoạn trộm long tráo phượng sẽ nhanh chóng bị nhìn thấu." Xương Bình quan sát kĩ sắc mặt của Chu Tử Thư, không hề tìm thấy bất kì sự kinh ngạc nào trên mặt y, "Thì ra ngươi thật sự đã biết từ khi mới sinh ra. Nói như vậy, điều ta lo lắng năm đó không hề sai."

Bà ta xích lại gần nhìn Chu Tử Thư chằm chằm, ác ý và bồn chồn trong mắt toát ra không sót lại gì: "Đúng là ta muốn nhìn Chu lang và Tạ thị kiệt sức vì ta, mà ngươi lại bình an khỏe mạnh, đem hai đứa trẻ ra so sánh sẽ càng thêm căm hận ngươi. Ta không chờ nổi muốn nhìn thấy dáng vẻ đau đớn đến không muốn sống nổi nữa của bọn họ sau khi biết được chân tướng,"

Chu Tử Thư vô cảm đáp: "Bà đúng là vô nhân tính."

Mặt Xương Bình đỏ hồng, vui vẻ lạ thường: "Cho dù ta có bại trong tay ngươi, hay là thắng, thì ngươi, cuộc đời của các người đều sẽ vì ta mà rơi vào địa ngục mà thôi. Huống chi ngươi chết hay ta chết, kết cục vẫn còn chưa định, ta vẫn còn cơ hội xoay chuyển."

Bà còn định nói tiếp gì đó, đột nhiên có một thứ gì sượt ngang qua cổ, cơn đau nhanh chóng ập tới, còn có cảm giác ẩm ướt trào ra, bà ta vô thức giơ tay lên sờ vào, máu tươi đầy tay, không khỏi sợ hãi kêu lên: "Có thích khách!"

"Thích khách gì?" Cung Tuấn bước từ phía sau đến, lạnh lùng rút nhánh cây cắm trên buồng xe ngựa ra, ngẩng đầu liếc Xương Bình: "Chất nhi nhìn thấy có con trùng độc đang bò quanh chỗ tiểu lang, nóng lòng ra tay, là chất nhi làm sai khi đã ngộ thương cô cô."

Sắc mặt Xương Bình âm u lạnh lẽo, nhưng đối diện với Cung Tuấn đổi trắng thay đen lại không nói một lời mà đi thẳng vào dịch trạm.

==

Tác giả muốn nói:

1. Bé Cá không muốn trở thành người không từ thủ đoạn, không muốn lợi dụngngười bé yêu, nhưng làm cũng đã làm rồi, bé sẽ chẳng vui vẻ nổi.

2. Chuyện bạc tuồn vào Đại Hạ coi như là tình tiết cuối cùng của truyện, sau khicản đao sẽ triển khai (Cốt truyện không dài).

3. Liên quan đến một câu hỏi trong bài trước, chính là vì sao Ngụy bá lại cho ănthuốc sai, thật ra chính là do Xương Bình cố tình bảo Lý Đắc Thọ lừa cho ăn sai.

Ngụy bá bị lừa đi lượn vòng quanh, vả lại ông ấy cũng không thường xuyên ra vào Chu phủ, cho nên không thể nhận ra.

Còn Lý Đắc Thọ là cố tình chỉ sai, lý do là trong truyện Xương Bình có nói, bà ta thật sự là người ác xấu xa từ trong máu.

Chương 87

Cung Tuấn cụp mắt: "Bà ấy bắt nạt em à?"

Chu Tử Thư cười đáp: "Bà ta ngoài mạnh trong yếu, tìm ta ra oai mà thôi."

Cung Tuấn lấy trái cây trong tay áo ra: "Vừa nãy lúc qua chợ nhìn thấy có cửa tiệm bán đào vàng và vải ta liền muốn mua, lúc đó không tiện dừng lại, cuối cùng chạy trở lại mua mới biết đã bán hết rồi, chỉ có thể mua được chút ít vậy thôi."

Đào vàng và vải đều là trái cây đúng mùa. Đào vàng trồng nhiều ở các huyện châu lân cận phủ kinh đô, còn vải thì trồng nhiều ở phía đông nam, nhờ thủy vận phát triển mạnh mẽ mà ở kinh đô đâu đâu cũng thấy, đến cảnh những tỉnh phủ quanh kinh đô cũng có cửa tiệm bán loại trái này.

Có điều cung không đủ cầu mà giá cả còn cao, Cung Tuấn cũng chỉ có thể mua được chín quả.

Chu Tử Thư vỗ vỗ chỗ ngồi bên cạnh ra hiệu Cung Tuấn ngồi xuống, cầm chùm vải qua bóc vỏ, đút cho hắn một trái trước, sau đó mới lột một trái khác ra cho mình ăn, thịt quả mọng nước lập tức tràn đầy khoang miệng, kéo theo một vài ký ức tiếc nuối từ rất lâu.

Đời trước triền miên trên giường bệnh, không thể ăn được rất nhiều thứ, nhất là những món dễ gây nóng trong người, trong đó có trái vải.

Chu Tử Thư cảm thấy rất thú vị, đời này cơ thể khỏe mạnh, nhưng vì nguyên nhân địa lý mà không thể thưởng thức vải, còn điều kiện đời trước cho phép mà cùng cơ thể lại từ chối cho y thoải mái hưởng thụ.

Sau đó bác sĩ tiết lộ cho y biết ý nghĩa của câu "nắm bắt khoảnh khắc*", Chu Tử Thư đã hiểu ra, cánh cửa khóa chặt trong lòng được nới lỏng ra đôi chút, lén lút chạy ra khỏi bệnh viện, chạy đến đường cái đông như mắc cửi, ngắm nhìn bốn phía rồi đột nhiên không hiểu sao muốn tùy tiện buông thả, xoay người nhìn lấy tiệm trái cây nằm ngay khúc giao, phía trước tiệm bày một giỏ to đựng vải màu đỏ hồng.

(*) Nguyên văn 及时行乐 – cấp thì hành nhạc: là một câu thành ngữ mang ý nghĩa "Hãy tận hưởng giây phút tuyệt vời mà ta đang có!", đôi khi có thể dịch là "Nắm bắt khoảnh khắc" hoặc "Nắm bắt thời điểm", theo nghĩa bóng là "Hãy tận hưởng giây phút mà ta đang có" hay "Đừng bao giờ hoãn lại hạnh phúc hiện tại".

Y vẫn còn nhớ hương vị ngọt ngào của vải, thế là mua nửa cân ngồi ở ven đường ăn đã đời, sau khi quay về thì phải vào phòng phẫu thuật cấp cứu.

Đó chính là lần duy nhất mà y phóng túng ở đời trước, suýt chút nữa mất mạng.

Lần duy nhất phóng túng ở kiếp này chính là chém chết ba trăm quan, sống chết khó nói.

Chứng tỏ rằng người còn được sống thì tốt hơn hết là không nên quá phóng túng.

Chu Tử Thư híp mắt cười cho ra kết luận, nhưng dù có thêm một lần nữa, y vẫn sẽ đưa ra lựa chọn giống như vậy.

Có đôi khi người ta vẫn làm những điều mà họ biết rõ rằng không thể làm, nhưng đời người luôn có những lúc mà ta sẽ phải làm một việc gì đó bất chấp hậu quả.

"Nắng chiều xinh đẹp vô cùng tận." Chu Tử Thư thở dài.

"Chớ bảo trời đã tối muộn, bởi mây màu hãy còn đây.*" Cung Tuấn đáp lại Chu Tử Thư, thả trái đào vàng đã được lột vỏ vào trong tay Chu Tử Thư, "Ăn không hết thì để lại cho ta."

(*) Nguyên văn: 莫道桑榆晚, 为霞尚满天 - Mạc đạo tang du vãn, vi hà thượng mãn thiên: Đây là câu thơ thuộc tác phẩm Thù nhạc thiên vịnh lão kiến kỳ của Lưu Vũ Tích, đại khái nói rằng là ai mà không sợ hãi và tiếc nuối khi tuổi đã về già, thân gầy lưng cong tóc bạc và đủ bệnh tật, nhưng nghĩ lại thì già rồi cũng có mặt tốt, bởi vì hiểu biết nhiều thứ và có nhiều kinh nghiệm sống, vượt qua được nỗi lo này thì sẽ cảm thấy vui vẻ, không còn phiền muộn nữa, cả bài thể hiện sự lạc quan không tiêu cực trước tuổi già và chuyện sống chết.

Chu Tử Thư vui phơi phới ăn sạch trái đào to bằng miệng chén, sau đó lột sạch chùm vải, cho Cung Tuấn ăn năm trái, rồi vươn tay ra để hắn lau sạch cho.

"Không ăn nổi bữa tối nữa."

"Đợi một chút nữa đi tới đi lui, sẽ mau đói bụng lắm."

"Vì sao tất cả mọi người đều không theo dõi ta sát sao vậy, chẳng sợ chàng bắt cóc ta chạy đi không thể giao việc được sao?"

"Nếu như ta muốn mang em chạy trốn, thì đến cả mặt em Cung Chiêu Vấn cũng không gặp nổi," Cung Tuấn lau tay Chu Tử Thư xong, ngẩng đầu nhìn y nói: "Nhưng ta không thể để em chịu tiếng đào phạm trốn lui trốn lủi, hơn nữa em cũng không muốn." "Em hiểu ta, phu quân cũng vậy mà."

Chu Tử Thư hoạt bát lên một chút, tỏ vẻ như trong lòng đã thông suốt không hề lo lắng chút nào, nhưng Cung Tuấn thấu hiểu tính cách tiểu lang quân nhà hắn, hắn biết rõ Chu Tử Thư không hề thoải mái, chỉ là hắn vẫn luôn phối hợp với y mà thôi.

Rất nhanh sau đó có người đến thúc giục bọn họ đi vào dịch trạm nghỉ ngơi, hai người cũng không làm khó mà đi theo vào.

Trong sảnh lớn dịch trạm có hai nhóm người ngồi, một là nhóm của Cung Chiêu Vấn, nhóm còn lại là của lai sứ Đại Hạ, hai bên bí mật quan sát nhưng đều nhìn không chớp mắt, phỏng đoán thân phận của đối phương, nhưng có lẽ đã đoán ra được cả rồi, bởi vì trong nhóm của lai sứ Đại Hạ có người nhác thấy Cung Tuấn bèn lộ ra sắc mặt sợ hãi, rất có thể đã từng giao thủ trên chiến trường, bị Cung Tuấn đồ sát đâm ra sợ hãi.

Bữa tối yên ổn kết thúc, không có bất kì tranh chấp nào, mọi người im lặng tản đi, di chuyển về các phòng, chỉ có điều phòng của Chu Tử Thư và Xương Bình đều có ám vệ trông coi.

Trùng hợp là phòng của hai người đều bị xếp vào sát vách phòng của lai sứ Đại Hạ, lúc bước vào phòng Chu Tử Thư và Xương Bình cùng nhìn nhau, một người tươi cười, người còn lại mặt mũi lạnh băng, ánh mắt bị cánh cửa phòng ngăn lại, toàn bộ dịch trạm bị sự yên tĩnh và bóng tối bao trùm.

***

Năm ngày trước, Đông cung.

Ngũ hoàng tử nghĩ tới nghĩ lui, kéo dài mấy ngày, cuối cùng vẫn nói với Thái tử chuyện mà Chu Ngọc Tranh đến tìm gã nói: "Ý của hắn là trong tay Xương Bình có một đội ba trăm tử sĩ có thể đánh lại vạn người, nếu như có thể lôi kéo họ đến và giữ lại được, đối với chúng ta mà nói là như hổ thêm cánh."

Thái tử bất mãn nhíu mày: "Vì sao chuyện có liên quan tới tứ lang mà đến bên giờ mới nói cho ta biết?"

Ngũ hoàng tử sửng sốt, do dự nói: "Quan hệ giữa Chu tế chấp và Xương Bình căng thẳng, ai nấy đều biết, cơ thể tứ lang yếu ớt, suýt nữa chết yểu đều là do Xương Bình ban tặng cho, ta cứ nghĩ là tứ lang phải căm hận Xương Bình nhất mới đúng..." Gã nhỏ giọng thầm thì, "Sao lại giới thiệu cho chúng ta kéo Xương Bình nhập vào đảng Đông cung? Vậy thì Chu Tử Thư treo ba trăm cái đầu ở trước cửa phủ Xương Bình, tỏ rõ rằng kiếm chỉ vào bà ta, chủ động trêu chọc Xương Bình không phải tự tìm phiền phức hay sao? Vả lại, làm sao hắn biết được Xương Bình có ba trăm tử sĩ?"

Huống chi dù ba trăm tử sĩ có lợi hại đến đâu đi nữa cũng không thể ngăn nổi thiên quân vạn mã, không đáng để mạo hiểm như vậy.

"Tứ lang sẽ không gây ra bất lợi cho chuyện của ta, cũng sẽ chẳng bắn tên không đích, hắn nói Xương Bình có ba trăm tử sỉ, có lẽ là biết được thông qua Chu tế chấp. Tứ lang biết rõ binh quyền của Đông cung thấp hơn lão Lục một nấc, cho nên mới dốc hết sức lực mưu tính cho ta, đến cả thù hận sinh tử ngày xưa cũng ném ra phía sau..."

Thái tử cảm động nói: "Tứ lang làm vậy vì ta." Nói vậy cũng có lý đấy chứ nhỉ.

Trong lòng Ngũ hoàng tử vẫn cảm thấy có gì đó là lạ, "Nhưng chúng ta không thể xác định được bên cạnh Xương Bình thật sự có ba trăm tử sĩ hay không, nếu như không có, vất vả tính toán chẳng phải sẽ thành công cốc hết hay sao?"

Thái tử: "Phái người đi thăm dò là được chứ gì."

Ngũ hoàng tử vận động suy nghĩ: "Đám người lão Lục sẽ nhanh chóng về kinh thôi, lệnh cho người giả làm thích khách đi giết Xương Bình đi."

Thái tử: "Giả vờ mà không làm thật làm sao có thể kiểm tra sự thật được? Huống chi đệ cho rằng người của lão Lục là một đám vô dụng à? Chọn mấy người tàn nhẫn rồi làm thật cho cô. Nếu như Xương Bình thật sự có ba trăm tử sĩ thì sẽ không xảy ra chuyện gì, trái lại nếu như bà ta chết, thì chết rồi là có thể giúp cho tứ lang xả giận, cũng có thể vu oan cho Chu Tử Thư và lão Lục." Ngũ hoàng tử cười: "Vậy thì đệ sẽ đi sắp xếp người ngay."

***

Thái tử phi Lư Uyển run rẩy dùng tay che miệng, thấy thị vệ đang đi tới thì nhấc váy lên im lặng rời đi, sau khi về đến nội viện, nhìn đám tỳ nữ và ma ma chạy đến quan tâm, không nhịn được liên tục nôn khan.

Ma ma thiếp thân mà nàng mang theo từ nhà mẹ đẻ tới hai mắt sáng rỡ, cứ nghĩ là nàng có thai rồi. "Mau Chu thái y đến!"

"Quay lại!"

Lư Uyển quát lớn, không còn giữ được nét dịu dàng nghiêm nghị khiến cho trong ngoài Đông cung phải sợ nữa, ma ma mà Hoàng hậu phái tới và ma ma của nàng cũng vì thế mà đều lộ vẻ hoài nghi.

Lư Uyển nhận ra, thả lỏng cơ thể rồi nở một nụ cười nhẹ nhàng tái nhợt: "Ta không sao, là do thời tiết khô nóng quá, không có khẩu vị gì nên cảm thấy buồn nôn thôi, không phải..." Gò má nàng ửng đỏ, mím môi nói: "Ta nghỉ ngơi một chút là được. Bích Hòa ở lại đây, ta nhớ thủ pháp đấm bóp của ngươi không tệ, ở lại đây giúp ta ngủ, mọi người lui ra hết đi."

Lão ma ma bên người Hoàng hậu hỏi: "Lão nô có hiểu chút ít dược lý điều hương, chi bằng ở lại đây giúp nương nương điều chế một ít hương hỗ trợ giấc ngủ?"

"Không cần. Ngươi biết ta không quen ngửi mùi hương, chỉ thích ngửi mùi hoa và trái cây thôi mà." Lư Uyển nhã nhặn từ chối, lộ ra nét mặt mệt mỏi, "Được rồi, tất cả lui ra đi, ta mệt lắm rồi."

Lão ma ma cẩn thận nhìn nét mặt của Lư Uyển, không thấy có gì khác thường mới lui ra ngoài.

Mà Lư Uyển ngoài mặt bình tĩnh bấy giờ lửa giận đã phần phật, hai bàn tay giấu trong ống tay áo phải siết chặt lại để ngăn cơ thể mình run rẩy, sau khi đám người kia rời đi, tỳ nữ tên Bích Hòa mới đỡ nàng đi nằm, chậm rãi xoa bóp huyệt thái dương đau đớn và bả vai của nàng.

Lư Uyển dần thả lỏng người ra, nhìn chằm chằm vào gốc cây thủy tiên bên bệ cửa sổ, nói: "Ngươi là người ở đâu?"

Bích Hòa: "Nô tỳ chỉ là không đành lòng nhìn nương nương chẳng hay biết gì nên mới liều chết khuyên nhủ mà thôi."

Lư Uyển cười mỉa, dù nàng có ngây thơ đến đâu cũng sẽ không tin lời Bích Hòa nói, nhưng dù cho mục đích của nàng ta có là gì, thì nàng ta cũng đã giúp nàng rồi.

"Các ngươi muốn làm gì?"

Bích Hòa: "Nương nương tính tình dịu dàng, tâm địa lại lương thiện, tài mạo song toàn còn hiếu thảo với cha mẹ người, hà tất phải treo thân mình lên một tên đàn ông đã có người trong lòng?"

"Đó là Thái tử Đại Cảnh, cẩn thận cái đầu của ngươi."

"Thái tử thôi mà." Bích Hòa nhỏ giọng nói, "Thái tử thật sự mà bệ hạ xem trọng là ai vẫn còn chưa biết được, biến số trong tương lai còn nhiều, làm sao có thể bảo đảm là Thái tử chắc chắn có thể đăng cơ? Cho dù Thái tử có lên ngôi, thì hắn sẽ đối xử tốt với cô nương người sao? Sẽ hứa cho một cô nương không thể sinh nở ngôi vị Hoàng hậu hay sao? Bởi vì cơ thể ngài yếu đuối, đến nay vẫn chưa thể sinh con nối dõi, Hoàng hậu đã ngầm chê trách rất nhiều, Thái tử lại ra mặt nói chuyện giúp người, là vì yêu thương người, hay chỉ là hắn vốn không muốn để ngài sinh con nối dõi?"

Lời này đâm thẳng vào tim Lư Uyển, nàng siết chặt lòng bàn tay, đau đớn đến mức toàn thân đều đau.

"Phu quân không yêu thương ta, ta có thể làm sao đây? Xuất giá theo chồng, vợ chồng đồng thể, vinh nhục cùng hưởng, ta phải làm sao bây giờ?"

Bích Hòa: "Cô nương à, người không quan tâm đến bản thân mình thì thôi, lẽ nào không quan tâm đến Lư tri viện luôn ư?"

Lư Uyển bỗng nhiên trừng mắt nhìn Bích Hòa: "Các ngươi dám đụng đến người nhà ta thử xem!"

Bích Hòa nhẹ nhàng vỗ mu bàn tay của Lư Uyển nói: "Cô nương, không phải bọn ta hành động, mà là người bên gối người muốn tính kế cha người, đừng quên ông ấy là Tể tướng nắm giữ binh quyền hai phủ."

Lư Uyển nhìn chằm chằm Bích Hòa, chậm rãi dời ánh mắt đi, nhắm chặt hai mắt, một lúc sau mới trả lời: "Giúp ta truyền lại lời cho cha ta."

Bích Hòa cười: "Lĩnh mệnh, cô nương."

***

Bích Hòa tìm việc để làm rồi rời khỏi Đông cung, đi đến một viện tử tương đối bí mật ở bên ngoài hoàng cung gặp ân nhân đã từng cứu nàng một mạng, báo cáo tiến độ nhiệm vụ.

"Lư Uyển bảo ta nói chuyện Thái tử và Chu gia tứ lang..." Khi nhắc đến Chu gia tứ lang, Bích Hòa do dự trong một cái chớp mắt, rồi vấn báo lại đầy đủ: "Có tư tình, còn cả chuyện Xương Bình công chúa có ba trăm tử sĩ cho Lư tri viện biết, ta phải báo lại không sót một chữ nào sao?"

"Một chữ cũng không được sót." Người ở phía sau bức bình phong nói như vậy.

Bích Hòa: "Tuân lệnh."

Chờ Bích Hòa vừa đi, ân nhân của nàng ta cũng bước ra khỏi bức bình phong, đấy rõ ràng là tâm phúc của đương kin thiên tử, một trong những Tể tướng của hai phủ Chu Bá Ung.

Chu Bá Ung vô cảm vuốt ve lòng bàn tay, có ám vệ đến đúng thời gian báo cáo hành động mỗi ngày của Chu Ngọc Tranh.

Ngoại trừ mấy ngày trước cậu lặng lẽ chạy tới phủ Ngũ hoàng tử ra, thì khoảng thời gian dư dả còn lại, Chu Ngọc Tranh đều ngoan ngoãn ngồi trong viện nhỏ của mình đọc sách, nhàm chán lặp đi lặp lại y hệt thường ngày, ám vệ không rõ vì sao Chu Bá Ung vẫn muốn hắn ngày đêm đều phải theo dõi người.

Chu Bá Ung: "Tiếp tục theo dõi."

"Vâng."

***

Quay trở lại lúc này, màn đêm đã phủ xuống dịch trạm.

Mấy cái bóng đen lướt qua ngọn cây rơi xuống nóc nhà dịch trạm, nhịp bước nhanh nhạy mà nhẹ nhàng trốn ở bên trên, Cung Chiêu Vấn, Cung Tuấn cùng với một trong những người có võ xông cao cường của nhóm lai sứ Đại Hạ đều không hẹn mà cùng mở mắt ra, nghe thấy âm thanh ấy kết thúc ở phía trên phòng của Xương Bình công chúa.

Trong căn phòng tối đen như mực, Xương Bình ngồi thẳng lưng cạnh bàn bát tiên, dùng ánh mắt lạnh lùng nhìn ánh đao trắng bạc lách vào trong phòng, chỉ mấy giây sau đã bị tử sĩ giết sạch.

Tử sĩ không thể tìm ra được thứ gì trên người bọn họ để chứng minh thân phận, Xương Bình búng ngón tay một cái, ra hiệu cho bọn họ đem thi thể đi xử lí cho sạch sẽ.

Chờ căn phòng yên tĩnh trở lại, Xương Bình mới không ngừng cười lanh: "Đều là cháu trai tốt của ta." Bà gõ bàn tự lẩm bẩm: "Là đứa cháu ngoan nào muốn nửa đường lấy mạng ta nhỉ? Cung Tuấn? Tiểu Lục? Hay là Thái tử?"

Tử sĩ đứng đầu quỳ gối trước mặt Xương Bình nói: "Người ở kinh đô đã nắm tình hình của chúng ta rồi."

Xương Bình không còn nghi ngờ gì nữa mà hiểu ra ngay, cũng không ngạc nhiên gì, "Bảo vệ tốt những người các ngươi nên bảo vệ, phái từng nhóm vào kinh đô, chờ Đông cung tìm tới, hắn có thể tìm được chỗ trọ cho các ngươi."

"Tuân lệnh." Tử sĩ đứng dầu: "Còn có một việc nữa, bên phía kinh đô có tin tức truyền đến, thiết kỵ Đường Hà nghe lệnh Cung Tuấn."

Lòng Xương Bình khẽ động, còn chưa kịp suy nghĩ sâu xa đã nghe thấy tiếng gõ cửa của Cung Chiêu Vấn: "Chất nhi nghe được vài tiếng động, lo lắng cô cô gặp nguy hiểm, cho nên mới đến kiểm tra."

Xương Bình lệnh cho tử sĩ lui đi rồi kéo cửa ra, đầu tiên nhìn thấy Cung Chiêu Vấn và một lai sứ Đại Hạ, sau đó mới nhìn về phía gian phòng nằm chếch ở đối diện của Cung Tuấn và Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư nhìn bà ta, rồi dời tầm mắt lên người lai sứ Đại Hạ, bật cười một tiếng rồi làm khẩu hình miệng nói: "Tư thông địch quốc."

Thấy Cung Chiêu Vấn trông cũng có vẻ lưỡng lự, Xương Bình càng thầm hận hơn, chỉ là trên mặt giả vờ ra vẻ bình tĩnh: "Ta không nghe thấy tiếng gì cả, ngươi nghe lầm rồi."

Xương Bình thoải mái mở rộng cửa phòng, Cung Chiêu Vấn quét mắt nhìn một lượt, không phát hiện điều gì bèn đáp lại tựa như trò chuyện: "Đêm khuya còn chưa ngủ sao?"

Xương Bình cười nhưng lại không giống đang cười: "Tới gần quê hương, khó nén nỗi nhớ tình thân."

Cung Chiêu Vấn bật cười: "Cô cô nghỉ ngơi sớm cho khỏe, bằng không ngày mai không có tinh thần, để hoàng tổ mẫu thấy chỉ sợ bà sẽ đau lòng."

Xương Bình: "Ta nhớ rồi." Lúc quay vào phòng, bà nhìn qua lai sứ Đại Hạ, sự nghi hoặc trong lòng bộc phát, đóng cửa xoay người lại rồi, bỗng nhiên nhớ lại chi tiết bị bà ta quên béng mất: "Thiết kỵ Đường Hà nghe lệnh Cung Tuấn ư?"

Bà vẫn luôn nhìn chằm chằm vào tranh đấu Thái tử ở kinh đô, không hề tính luôn cả Cung Tuấn vào trong ván cờ, thứ nhất hắn là con trai của Tĩnh vương, thứ hai là sự coi trọng mà Nguyên Thú đế biểu hiện ra thực chất đều là lợi dụng.

Cung Tuấn khi còn bé chính là hạt nhân để kiềm chế Tĩnh vương, sau mười hai tuổi đã có thể trở thành tướng tài bán mạng thay đế vương, nhận được vinh quang rực rỡ, khiến cho tất cả mọi người đều biết Cung Tuấn là tiểu bối được Nguyên Thú đế thương yêu nhất, coi trọng nhất, thực ra là phá hủy cuộc đời cháy rực của hắn, nói vứt bỏ là vứt bỏ.

Xương Bình hiểu rõ hoàng huynh ruột thịt của mình, trong lòng ông ngoại trừ hoàng quyền thì cũng chỉ có tính toán, chỉ trao sự đi dịu dàng cho Thái hậu và Thôi Thanh Như đã chết, cộng thêm Cung Tuấn với thân phận lúng túng đến cùng cực, nhưng dù có thể nào cũng không thể lấy được sự tin tưởng từ tận sâu đáy lòng của Nguyên Thú đế.

Sau đó Cung Tuấn nhận chiếu hồi kinh, trao trả binh quyền, còn cưới nam thê, càng chứng thực suy nghĩ trong tâm của Xương Bình.

Cung Tuấn vốn chỉ là đá mài đao mà Nguyên Thú đế đưa cho Thái tử mà thôi.

Nhưng giờ phút này đột nhiên lại nghĩ thông một vài chi tiết bị bỏ sót, nếu như Cung Tuấn thật sự không được trọng dụng thì đã phải bị Nguyên Thú đế xử quyết trong cùng một vụ Tĩnh vương mưu triều soán vị rồi.

Hoặc cho dù không thể giải thích rõ ràng, thì cũng nên bị ghẻ lạnh mới đúng, vì sao Tây Bắc vừa có chuyện thì lập tức đưa Cung Tuấn ra đó?

Đây chẳng phải là đã giao lại binh quyền cho hắn rồi hay sao?

Chỉ bằng mối hận Tĩnh vương đến tận xương tủy của Nguyên Thú đế thôi, dù mẹ đẻ của Cung Tuấn có là Thôi Thanh Như đi nữa cũng không thể nào lấy được sự yêu thích và tinh tưởng thật lòng từ Nguyên Thú đế. Nhưng nếu như bà nghĩ nhầm, vậy tất cả mọi người đều đoán sai sao?

Bởi vì ai cũng đều biết rõ Nguyên Thú đế chán ghét Tĩnh vương, cho nên trước đây ông càng tin tưởng Cung Tuấn, người bên ngoài càng tin rằng đó chính là bổng sát, cho nên việc Cung Tuấn bị đoạt binh quyền là việc trong dự đoán, lấy lại binh quyền chiến đấu với Đại Hạ chính là tận dụng tối đa mọi thứ, không ai đoán được mưu tính sâu xa nhất nhưng cũng bắt mắt nhất của đế vương, cũng không ai đoán được thân thế của Cung Tuấn.

Nội tâm Xương Bình như nổi trống, ngón tay run rẩy, càng suy nghĩ kĩ càng khẳng định được giả thuyết không sai, bà đã phát hiện ra được bí mật thật sự của người cao quý nhất trên đời đang ngồi trên triều đình này.

Nguyên Thú đế chuẩn bị tra rõ quan trường Lưỡng Giang, nhưng trong thời khắc mấu chốt này lại đưa Cung Tuấn vào trung tâm cuộc phân tranh đoạt đích, cũng đẩy luôn cả Chu Tử Thư vào, bổ nhiệm tiểu Lục làm Khâm sai, kéo hắn xuống nước, nếu như Chu Tử Thư không chém chết ba trăm quan, thì thứ thu hút sự chú ý của Đông cung hiện tại chính là tiểu Lục.

Cung Chiêu Vấn để lộ hành tung và ý đồ, đồng thời cảnh cáo Trung cung và Đông cung, để cho bọn họ đều cho rằng Thái tử mà lòng Nguyên Thú đế thật sự hướng về là mình, hơn nữa sau lưng tiểu Lục còn có phủ Trịnh quốc công, chỉ thể cũng đã thành công kích thích sát ý của Đông cung rồi, chỉ đợi hắn tra xong Lưỡng Giang hồi kinh sẽ điên cuồng tấn công đường về.

Hai bên chó cắn chó, đánh càng hung càng tốt.

Bất kể là bên nào thua thảm, thì một bên khác cũng sẽ tổn thất nặng nề, thu thập dễ như trở bàn tay.

Đồng thời khiến cho tiểu Lục không thể dàn xếp người mình vào quan trường

Lưỡng Giang, trái lại có lợi cho Chu Tử Thư, vừa thuận tiện cho Nguyên Thú đế tùy tâm sở dục bố trí, chừa cho Cung Tuấn một quan trường đông nam sạch sẽ không hạt bụi.

Tiện thể thu về được quân Ký Châu và phủ Trịnh quốc công mà tiểu Lục đánh mất.

Mưu kế hay, thật sự là một bàn kế tóm gọn cả lưới vô cùng xuất sắc.

Năm đó Thôi Thanh Như và hoàng huynh tình đầu ý hợp, bà còn chiều lòng gọi hai tiếng tẩu tẩu, nhưng Bát hoàng huynh cũng thích nàng ta, nữ tử qua trăm ngàn đắng cay mới cầu tới được bị ruồng bỏ, không chỉ ái thiếp diệt thê, mà còn dung túng cho hậu trạch và con cái của thiếp thất cùng mưu hại Cung Tuấn...

"Có lẽ là châu thai ám kết! Hóa ra hoàng huynh đúng thật là tính kế sâu xa vì nó."

Xương Bình cười lạnh, lòng cũng chợt buốt giá, bà ta tự xưng là kẻ ác, cũng coi như là ác một cách thẳng thắn, nhưng hoàng huynh của bà thì lòng dạ lạnh lẽo đến nỗi có thể dùng con trai ruột của mình như một quân cờ tế trời.

"Bây giờ mới phát hiện ra, cũng không tính là muộn."

Nói thì nói thế, nhưng cả người Xương Bình vẫn lạnh run lên.

Suy đoán không sai, có khả năng Chu Tử Thư không chết được, cho dù bà có tránh được cái chết sau đại án Lưỡng Giang lần này, về sau Cung Tuấn đăng cơ, cuộc sống nhất định sẽ không còn dễ dàng nữa.

Cung Chiêu Vấn cũng biết những việc ngầm mà bà làm ở Lưỡng Giang, đoán chừng sau khi đăng cơ cũng sẽ tìm cớ giết bà.

Hoàng huynh không thích Trung cung, Thái tử lại không có tài năng gì nổi bật, nếu không có Cung Tuấn thì cũng chẳng đến lượt Thái tử ngồi lên long ỷ kia.

"Đại án Lưỡng Giang vốn được tạo ra vì Cung Tuấn, trăm phương ngàn kế, chỉ còn một nước cờ thôi, không ai ngờ rằng Chu Tử Thư lại chém chết ba trăm quan, càng không ngờ Cung Tuấn sẽ chỉ vì một nam thê mà bôn ba từ Tây Bắc về. bỏ cả đại quân, bỏ luôn hoàng mệnh, không chiếu tự ý rời doanh, tội có lớn có nhỏ... Chỉ tiếc ở Tây Bắc còn có một Thôi trấn quốc canh giữ, chỉ tiếc Đại Hạ đã đầu hàng, thời cơ không tốt, nếu vì thế mà đánh thua trận... Hừ! Còn về thân thế của Cung Tuấn và dự định của hoàng huynh, chắc là Cung Tuấn cũng biết rõ rồi mới dám không sợ hãi vứt bỏ đại quân, lặng lẽ chạy đến Giang Nam, không hề che giấu ý đồ muốn giết ta." Lòng Xương Bình càng sợ sệt thì càng bình tĩnh, lá gan cũng to thêm.

"Chẳng lẽ người vừa nãy giết ta là do Cung Tuấn phái tới? Có phải Chu Tử Thư xúi giục hắn không? Vừa nãy nó cười như thế là có ý gì? Vì sao lai sứ Đại Hạ cũng xuất hiện ở trước cửa phòng ta? Có phải Cung Chiêu Vấn đã hoài nghi điều gì rồi không?"

Lời nói lúc ban ngày của Chu Tử Thư đã dọa Xương Bình sợ rồi.

Đối phương dám giết ba trăm quan, còn dám coi trời bằng vung đem những đầu người đó treo trước phủ công chúa của bà ta, còn có gì mà y không làm được chứ?

Y dám đổ oan cho bà thông đồng với địch bán nước, chẳng lẽ không cố tình lừa dối Cung Chiêu Vấn hay sao? Dựa vào sự coi trọng mà Cung Tuấn dành cho Chu Tử Thư, về sau thổi gió bên gối, làm sao biết sẽ không phạm hồ đồ?

Xương Bình siết chặt lòng bàn tay, lại thêm một đêm khó ngủ thức trắng.

***

Ngày hôm sau đúng giờ lên đường, cùng lai sứ Đại Hạ một trước một sau khởi hành.

Trên đường đi Xương Bình gọi Cung Chiêu Vấn đến bên cạnh xe ngựa của bà trò chuyện, Cung Chiêu Vấn cứ nghĩ bà ta nói chính sự, cuối cùng chỉ nói nhăng nói cuội một đống chuyện khiến hắn cảm thấy mất kiên nhẫn.

"Chất nhi còn phải trù tính chung đại án Lưỡng Giang, để có thể đối đáp với phụ hoàng và triều thần cho tốt, cáo lui trước."

"Ngươi cảm thấy Thái tử trong lòng hoàng huynh là ai?" Dột nhiên Xương Bình hỏi.

Sự bực bội trong lòng Cung Chiêu Vấn leo lên đến lông mày, "Thái tử đã được định ra từ lâu, chẳng phải cô cô ở Lưỡng Giang lâu quá rồi nên không nhạy tin đấy chứ, đợi về kinh, đến Đông cung là sẽ nhìn thấy Thái tử Đại Cảnh thôi."

Xương Bình nở nụ cười kỳ dị: "Là được định đoạt thật hay còn có tính toán khác? Thái tử vô năng, Trung cung không được sủng, trong lòng hoàng huynh thật sự không có tính toán gì khác sao?"

Cung Chiêu Vấn lạnh lùng nhìn bà ta, "Cô cô, tự tiện suy đoán thánh ý là tội rơi đầu."

Xương Bình không sợ chết đáp: "Ngươi và phủ Trịnh quốc công đều tự cho rằng mình sẽ là kẻ thắng cuộc, bởi vì hoàng huynh thể hiện ra ý đồ cất nhắc và coi trọng ngươi. Nhưng vì sao sớm không cất nhắc muộn không cất nhắc, mà lại một mực lựa chọn trả lại binh quyền cho Cung Tuấn rồi mới biểu hiện sự coi trọng? Đã coi trọng ngươi, vì sao lại hi sinh lão Tam không chút do dự, còn chặt chém loạn xạ thế lực kinh doanh nhiều năm của phủ Trịnh quốc công các ngươi?"

Mặt Cung Chiêu Vấn xuất hiện nét khác thường, nhưng trong lòng vẫn hoài nghi lo lắng.

Nụ cười của Xương Bình xinh đẹp rực rỡ: "Ngươi đoán xem, Cung Tuấn là con trai Tĩnh vương, còn mang tiếng bạo ngược, vì sao vẫn có thể được bệ hạ trọng dụng? Đừng quên, năm đó lão Tứ chỉ nói tốt cho Tĩnh vương vài lời thôi đã bị ghét bỏ rồi."

Thấy sắc mặt Cung Chiêu Vấn thả lỏng, đáy mắt toát ra vẻ hung ác, Xương Bình cười càng sung sướng hơn.

"Ngươi đoán thêm nữa xem, Cung Tuấn không có chiếu từ ý rời biên, có phải bệ hạ sẽ quát mắng hắn vài tiếng không đau không ngứa rồi bỏ qua cho hắn không? Có phải Chu Tử Thư dù chém ba trăm quan rồi vẫn được đặc xá nhờ Cung Tuấn cầu tình hay không?"

Cung Chiêu Vấn liếc Xương Bình bằng ánh mắt lạnh băng đầy thâm ý: "Cô cô đã đến nước này rồi mà vẫn có thể tìm ra khe hở để châm ngòi ly gián, đúng thật là nhân tài không được trọng dụng."

Nói xong thúc ngựa rời khỏi Xương Bình, nhưng bắt đầu liếc mắt quan sát Cung Tuấn, những chi tiết nhỏ đã lơ là trong quá khứ bây giờ không ngừng bị phóng to ra, mặc dù liên tục phủ định ngòi châm của Xương Bình, thuyết phục nội tâm lần nữa, không một đế vương nào sẽ giao lại long ỷ cho con trai ruột của huynh đệ mình, huống chi còn là huynh đệ mà ông căm hận nhất.

Nhưng mà lòng tin trọng khác hẳn với người thường mà phụ hoàng dành cho Cung Tuấn không thể dừng thoáng hiện lên trong tâm trí, trước đây mẹ hắn từng ngầm nhắc nhở phụ hoàng quá mức sủng ái Cung Tuấn, nếu không phải Thôi Thanh Như đã được Tĩnh vương cưới hỏi đàng hoàng, bà ấy cũng hoài nghi rằng phụ hoàng mới là cha ruột của Cung Tuấn.

Một án khoa khảo Giang Nam là do Cung Tuấn phụ trách, theo lý mà nói, đại ngục sau đó cũng nên để cho hắn lo liệu mới đúng, vậy mà phụ hoàng lại tìm một cái cớ tùy tiện đuổi Cung Tuấn đi.

Nhìn như qua cầu rút ván, lợi dụng hết rồi thì ném đi, thực ra là để bảo vệ hắn khỏi kết thù với triều thần.

Càng nghĩ kĩ, lòng Cung Chiêu Vấn càng lạnh lẽo.

Khi nhìn thấy cổng thành phủ kinh đô, Xương Bình mới ghé tai hắn nói: "Lúc trước ta có xem qua một vở kịch, nói về một đôi nam nữ tình đầu ý hợp, mà huynh đệ của nam tử cũng rất yêu cô gái đó, cho nên hoành đao đoạt ái, nhưng khi có được rồi lại thay lòng đổi dạ, không còn quan tâm vợ và con trai, trái lại nam tử kia rất thương yêu đứa con của em dâu mình. Ngươi nói thử xem là vì sao? Thì ra từ trước khi đại hôn, cô gái đó đã châu thai ám kết rồi."

"!"

Đồng tử Cung Chiêu Vấn thít chặt, mối nghi ngờ không nghĩ ra cuối cùng cũng được giải thích, chẳng trách sao nội tâm rung động, không nói nên lời.

Đến dịch trạm cách phủ kinh đô ba mươi dặm thì có người ngăn đội ngũ lại, yêu cầu giao Chu Tử Thư ra.

Cung Chiêu Vấn ghìm cương ngựa, nhìn Thái tử một thân thường phục cùng với xe tù và gông xiềng phía sau, trong lòng biết Thái tử đang muốn mượn Chu Tử Thư để công kích hắn, trước đây thăm dò được hành tung của bọn họ, hấp tấp chạy tới là để đưa người đến Hình bộ, sau đó nghiêm hình tra tấn, làm văn chương như thế nào đều do bọn họ định đoạt.

Chu Tử Thư vào Hình bộ một chuyến, chỉ sợ đi vào nằm ra, Thái tử nộp căn cứ xác thực lên ngự tiền có lẽ cũng sẽ khiến cho Cung Chiêu Vấn không thoát khỏi liên quan.

Nếu như là trước ngày hôm nay, Cung Chiêu Văn sẽ lên tinh thần đối phó với âm mưu của Đông Cung, nhưng bây giờ trong lòng chỉ còn lại sự mỉa mai mà thôi.

"Phụ hoàng không tước chức quan của Chu Tử Thư, y vẫn là đại thần triều đình, cho dù có muốn thẩm vấn vụ án Lưỡng Giang cũng không thể tùy tiện bắt y vào ngục, trừ phi Nhị ca có khẩu dụ của phụ hoàng."

Lời này rơi vào tai Thái tử chính là lão Lục thiên vị Chu Tử Thư, quả nhiên là hai người bọn họ đã kết đảng rồi.

"Không may, phụ hoàng lệnh cho ta chủ thẩm Chu Tử Thư tại sao không có quyền mà dám chém ba trăm quan, ta sợ chậm trễ thì sinh biến, cho nên mới đến đây trước đưa y đi Hình bộ."

Sắc mặt Cung Chiêu Vấn thay đổi, phụ hoàng đúng là giỏi tính toán, đều tiên là sắp đặt cho hắn chức Khâm sai, về giao Chu Tử Thư cho Thái tử, như thế có thể không đánh mà thắng giải quyết gọn hắn và Đông cung, dọn đường sạch sẽ cho Cung Tuấn.

Nhưng hắn và Thái tử, còn có cả Tam ca và Ngũ ca không phải cũng đều là con trai của ông ấy hay sao?

Lửa hận phừng cháy trong lòng Cung Chiêu Vấn, lệ khí tràn lan, nhưng vẫn đang tìm cách ngăn cản Chu Tử Thư bị đưa đến Hình bộ, nếu như Thái tử mà phụ hoàng vừa ý đã là Cung Tuấn, thì khó mà đảm bảo Chu Tử Thư sẽ không mượn Đông cung và đại án Lưỡng Giang trừ khử hắn.

Biết rõ Chu Tử Thư không phải là người vì tình riêng làm loạn đại nghĩa, nhưng Cung Chiêu Vấn vẫn không dám đánh cược.

"Hay là đợi đệ về phục mệnh phụ hoàng, cũng đưa Chu Tử Thư lên ngự tiền, để y tự giải thích với phụ hoàng cho thỏa đáng. Nên hỏi tội sẽ hỏi tội, nên khen ngợi sẽ khen ngợi, gọn gàng dứt khoát, đỡ phải tốn thời gian, Nhị ca huynh nói xem có phải không?"

"Không có chiếu mà dám chém ba trăm quan, chưa thiên đao vạn quả đã là đại hạnh, còn yêu cầu xa vời gì đến ngợi khen?" Thái tử cười lạnh bác bỏ câu này, nhìn chằm chằm Cung Chiêu Vấn hỏi: "Lục đệ cực lực ngăn cô mang Chu Tử Thư đi, chẳng lẽ sợ bị thẩm vấn ra tội ngầm sao?"

Cung Chiêu Vấn cười giận: "Vậy theo ý của Nhị ca, Chu Tử Thư chém chết ba trăm quan là do đệ sai khiến đấy sao?"

Thái tử: "Nhị ca nào có ý đó, nhưng mà đưa người đi Hình bộ là ý của phụ hoàng, cũng là quá trình tra hỏi, vả lại đã có đệ làm Khâm sai, Chu Tử Thư còn giết được ba trăm quan, có thế nào Lục đệ cũng không thoát khỏi liên quan, hay là hai người đệ tách nhau ra một chút đi, để cho người ngoài đỡ phải ngờ vực vô căn cứ."

Cung Chiêu Vấn vốn định phản bác, nhưng nghĩ đến Cung Tuấn thì ngậm chặt miệng, cũng không ngăn cản người của Thái tử vòng qua mình bao vây xe ngựa của Chu Tử Thư, lạnh lùng nghĩ xem tiếp theo phát triển thế nào, Cung Tuấn có dám vì Chu Tử Thư mà để lộ vị trí của mình trong lòng bệ hạ ở đây hay không.

Mà ngay lúc này, chỉ nghe được một tiếng hét thê thảm, quay đầu nhìn lại thì thấy Cấm quân vén màn xe ngựa lên chuẩn bị vào trong bắt Chu Tử Thư bị một cước đá bay xuống đất.

Sắc mặt Thái tử thay đổi, lớn tiếng quát tháo: "Lục đệ, đệ muốn tạo phản phải không?"

Cung Chiêu Vấn hờ hững đáp: "Nhị ca, huynh đã nhìn thấy rõ ràng ai là người đá chưa?"

"Bày đặt ra vẻ bí hiểm." Thái tử vung tay lên: "Kéo Chu Tử Thư xuống đây!"

Vừa mới dứt lời, một thanh hoàn thủ đao đã bay ra khỏi xa ngựa, "vụt" một tiếng sượt qua ngọc quan của Thái tử rồi cắm vào thân cây, ngọc quan nghe tiếng nứt vỡ, còn chưa đợi Thái tử chụp tội mưu phản cho Cung Chiêu Vấn, giọng nói quen thuộc đã truyền ra từ bên trong buồng xe, giọng nói vừa thiếu đòn vừa kiêu ngạo: "Lão Nhị, ngươi muốn bắt tiểu lang của ta cũng chẳng sao cả, đưa thánh chỉ bệ hạ cho ngươi đi bắt người là được."

Thái tử méo mặt, trong nháy mắt mặt mũi sa sầm, cắn răng nghiến lợi nghĩ, lại gọi hắn là lão Nhị! Trên đời này chỉ có một mình Cung Tuấn dám gọi hắn là lão Nhị thôi!

Chỉ vì trước đây Cung Tuấn ở trong cung mấy năm trời, cũng vì lớn hơn Thái tử mấy tuổi nên cứ luôn gọi hắn là lão Nhị, nhưng mà Cung Tuấn cũng đâu phải là huynh trưởng ruột của hắn đâu! Đã vậy phụ hoàng còn chẳng chịu uốn nắn nữa!

Chờ đã...

"Cung Tuấn, chẳng phải ngươi đang ở Tây Bắc sao? Hay lắm, không chiếu tự ý rời biên, đôi phu thê các ngươi một kẻ so tài một kẻ xem thường triều đình, coi khinh Thánh thượng, thật sự muốn tạo phản đây mà!"

Cung Tuấn bước ra khỏi xe ngựa, đứng ở trên cao ngạo nghễ nhìn Thái tử.

Ký ức khó quên của Thái tử lại bị mọi ra, xương cốt lặng lẽ đau nhức, không nhịn được lui lại một bước nhỏ, sau đó nghe đấy Cung Tuấn "Xùy" một tiếng chói tai, lửa giận lập tức bị nhóm lên cháy hừng hực.

"Khẩu dụ của phụ hoàng chính là bảo ta xử lý việc này, quá trình phá án của Hình bộ là phải bắt người nhốt vào lao để tra hỏi, ai dám kháng chỉ? Cung Tuấn, cô mặc kệ ngươi là ai, chỉ hỏi ngươi một câu thôi, có phải là muốn kháng chỉ hay không?"

"Khẩu dụ của bệ hạ thế nào, ta không rõ ràng, ngươi hỏi có phải ta muốn kháng chỉ hay không thì trước tiên phải lấy được thánh chỉ bắt tiểu lang nhà ta vào Hình bộ ra đây đã! Đâu ai biết được bệ hạ bảo ngươi tra hỏi vụ án hay là trực tiếp bắt người, không có thánh chỉ, không thể lấy mũ cánh chuồn trên đỉnh đầu y xuống, cũng không thể cởi quan bào của y ra, y vẫn là công khanh đại thần tam phẩm của Đại Cảnh! Hình bất thượng đại phu, ngươi không thể dùng cách đối đãi với phạm nhân để đến bắt tiểu lang! Tội còn chưa định mà đã chuẩn bị gông xiềng và xe tù, nếu như hôm nay ta không ở đây, nói không chừng tiểu lang sẽ không bước nổi ra khỏi đại lao Hình bộ của ngươi đấy!"

Cung Tuấn nhìn thấy gông và xe tù, tâm trạng đã bùng nổ, phóng nội lực tràn trề sang bên ấy đập vỡ tan thành những thứ đó, nhưng ánh mắt hung tàn vẫn dán chặt lên người Thái tử.

Thái tử chưa từng lên chiến trường lập tức run lên bần bật rồi nuốt nước bọt, lắp bắp nói: "Phụ hoàng hỏi đến, ngươi gánh nổi trách nhiệm hay không?" Cung Tuấn: "Chuyện có liên quan đến tiểu lang, một mình ta gánh hết."

"Được." Thái tử có ẩn ý*, "Chỉ mong ngươi nói được làm được."

(*) Nguyên văn: Ý hữu sở chỉ - 意有所指, có nghĩ là ngoài ý nghĩa trên bề mặt câu chữ, bên trong còn ẩn chứa một hàm nghĩa khác.

Cung Chiêu Vấn ngoài mặt bình tĩnh, sóng lòng đã cuồn cuộn mãnh liệt, Dù Cung Tuấn có không coi ai ra gì đi nữa cũng không nên tự tin nói rằng sẽ kháng chỉ không tuân, trừ phi hắn không sợ hãi.

Quay đầu nhìn lại, vừa vặn chạm đến ánh mắt của Xương Bình công chúa, phảng phất như đang nói "Nhìn xem, đó mới là phong thái Thái tử, nào có giống các ngươi cả ngày nơm nớp lo sợ mình chết vì đế vương nghi kỵ", sự lạnh lẽo và ý hận hỗn loạn trong lòng Cung Chiêu Vấn, càng lúc càng nồng đậm.

Xương Bình đùa cợt Cung Chiêu Vấn xong, nghiêng đầu liền nhìn thấy Chu Tử Thư, trái tim đột ngột co thắt lại, vẫn cảm thấy Chu Tử Thư giống âm hồn bất tán.

Đang định di chuyển tầm mắt, phát hiện Chu Tử Thư đang nhìn lệch về một hướng khác, còn nói nhỏ bên tai Cung Tuấn vài câu, ra hiệu cho hắn nhìn sang.

Cung Tuấn lập tức quay lại quan sát Xương Bình công chúa và hướng mà Chu Tử Thư chỉ tới, để lộ ra sắc mặt đã hiểu rõ.

Xương Bình giật mình, nhìn theo hướng tay của Chu Tử Thư, phát hiện lại là lai sứ Đại Hạ đêm qua xuất hiện trước cửa phòng bà ta, thế là lập tức hoảng hốt, nghĩa là sao?

Chu Tử Thư đã thì thầm lời sàm ngôn gì với Cung Tuấn? Có phải là nói xấu bà ta tư thông với Đại Hạ không?

Xương Bình càng đoán càng thấy bất an, huống chi tử sĩ không có ở bên cạnh, không thể dùng ngôn ngữ môi nói cho bà biết Chu Tử Thư đã nói cái gì.

***

Chu Tử Thư được Cung Tuấn đưa về phủ quận vương, cùng ngày, Thái tử vào hoàng cung tố cáo.

Nguyên Thú đế vừa mới nghe xong thì lập tức cầm nghiên mực trên bàn ném xuống dưới, Thái tử sợ đến nỗi quỳ xuống ngay: "Phụ hoàng bớt giận! Cung Tuấn và Chu Tử Thư một tự ý rời vị trí, hai coi thường kỷ cương, lại còn ngang nhiên kháng chỉ không tuân, đáng trị không tha! Nhi thần sẽ mang Cấm vệ đến bao vây phủ Lâm An quận vương, đuổi bắt Cung Tuấn và

Chu Tử Thư vào ngục."

"Trẫm có từng nói phải đuổi bắt Chu Tử Thư à?"

Giọng nói lạnh lẽo của Nguyên Thú đế khiến cho Thái tử sửng sốt, hắn ngẩng đầu nhìn lên, chạm vào ánh mắt lạnh lùng giống như đang nhìn thứ gì đó thấp hèn lắm thì không nhịn được trố mắt, nội tâm mờ mịt đồng thời dâng lên sự bất an mạnh mẽ và dự cảm bất thường. Sao phản ứng của phụ hoàng lại như thế này?

Thái tử nghẹn ngào: "Nhưng chẳng phải phụ hoàng lệnh cho con xử lý vụ án Chu Tử Thư không có quyền mà dám chém chết ba trăm quan hay sao?"

Nguyên Thú đế: "Trẫm bảo con hỏi cho rõ ràng, không bảo con mang binh đeo đao đi bắt người vào Hình bộ! Hình bộ của con chính là nơi như sắt thép vào trong một chuyến, bước ra đều phải lột da! Chu Tử Thư đường đường là quận vương phi, cũng là đại thần tam phẩm của trẫm, trẫm không lấy áo mũ của y xuống, hình bất thượng đại phu, nhưng con thì sao? Người vẫn còn ở tận dịch trạm cách ba mươi dặm, con đã lo lắng mang binh mang đao đến muốn bắt người về đại lao Hình bộ rồi, con không biết bây giờ dân tình đều đang thảo luận về Chu Tử Thư sao? Mà con lại giơ đuốc cầm gậy sang đó, hả? Còn mang theo xe tù và gông xiềng nữa, thế nào? Muốn để cho Chu Tử Thư diễu hành trên đường sao? Con có tin rằng hôm nay con để Chu Tử Thư diễu hành trên đường, ngày mai người đọc sách trên đời này đều sẽ truyền miệng nhau hỏi Thái tử Đại Cảnh con sao lại khinh rẻ một thanh thiên vì dân giải oan hay không? Con cho rằng không ai nhìn ra suy nghĩ của con sao? Thu hồi chút tâm tư xấu xa đó của con đi!"

Thái tử bối rối trước sự nghiêm khắc răn dạy trước đây chưa từng có, trong lòng run sợ liên tục nhận lỗi, "Nhi thần biết sai, là do nhi thần hiểu lầm suy nghĩ của phụ hoàng, nhi thần biết nên làm thế nào."

Dừng một chút, đột nhiên suy nghĩ của hắn rẽ ngoặt một cái hỏi: "Vậy có phải cũng nên hỏi tội Lâm An quận vương tự ý rời Tây Bắc hay không ạ?" Nguyên Thú đế: "Chuyện khác trẫm sẽ tự xử lý, không cần con nói nhiều."

Đầu óc Thái tử rối loạn đến hỏng rồi, cái gì mà chuyện khác? Thái tử có quyền giám quốc hỏi một câu, sao lại là nói nhiều được? Đến cả một thần tử rời khỏi vị trí mà hắn còn không hỏi được, vậy thì hắn làm Thái tử để làm gì?

Nguyên Thú đế chuyển chủ đề: "Lai sứ Đại Hạ và Đại Cảnh ta sẽ thương nghị chuyện bồi thường thắng trận, đến lúc đó cần phải trấn an lai sứ, tổ chức cung yến... Những việc này giao cho con giải quyết."

Cuối cùng trái tim Thái tử cũng yên ổn hơn một chút, chỉ là vẫn cực kì tiếc nuối vì không thể thừa cơ tấn công lão Lục.

"Cung Tuấn vừa bình định chiến loạn Tây Bắc, lập được chiến công, hơn nữa hắn tự ý rời vị trí là vì gia quyến, về tình có thể hiểu, hỏi tội vào lúc này không thích hợp, đỡ phải khiến cho các tướng sĩ cùng vào sinh ra tử thất vọng đau khổ. Về phần Chu Tử Thư..." Nguyên Thú đế im lặng hồi lâu, giọng điệu cố nén tức giận và chán nản: "Bây giờ dư tình sục sôi, bá tánh nghị luận sôi nổi, đến cả triều thần sĩ phu cũng đều không bình tĩnh, ồn ào cả người, dù cho có định đoạt thế nào đi nữa cũng sẽ chỉ rước lấy chỉ trích càng lớn từ dân tình mà thôi."

Nói đến đây thì khựng lại, Thái tử đợi rất lâu mới nghe thấy ông lên tiếng lần nữa: "Sau này hãy nói, chờ trấn an được lai sứ Đại Hạ rồi sẽ bàn về tội." Lòng Thái tử lập tức chùng xuống, cúi đầu đáp lại, bị phái rời điện Văn Đức.

Đi trên cung đạo, Thái tử càng nghĩ càng hoảng, ý của phụ hoàng là sao?

Dù là việc Cung Tuấn hay Chu Tử Thư làm cũng đều là hành vi xem thường thiên uy và triều đình, dù bọn họ đúng thật là có công với xã tắc, nhưng không thể đến một câu trách phạt cũng chẳng có được.

Ngoài miệng nói lòng dân ý dân, thật ra là muốn kéo dài thời gian, ý vốn có phải không muốn truy cứu Chu Tử Thư, là vì sợ liên lụy đến lão Lục hay sao?

Càng nghĩ càng căm hận, sắc mặt Thái tử trầm xuống, vừa bước qua một cung đã nhìn thấy Cung Chiêu Vấn ngay, đúng là nhắc Tào Tháo thì Tào Tháo đến.

"Nhị ca."

"Không nhận nổi." Thái tử nói chuyện kì lạ, "Cô sợ đắc tội Lục đệ, ngày sau gặp khó khăn cũng chẳng biết vì cớ gì."

Cung Chiêu Vấn không buồn không giận, chỉ thấp giọng hỏi: "Có phải phụ hoàng tìm cớ thoái thác việc hỏi tội Chu Tử Thư và Cung Tuấn hay không?"

Thái tử ngoài mặt cười nhưng trong lòng thì không: "Lục đệ không giả vờ huynh hữu đệ cung* nữa à? Không chờ nổi mà chạy đến đây khoe khoang với cô phụ hoàng coi trọng đệ bao nhiêu sao?"

(*) Huynh hữu đệ cung - 兄友弟恭: Anh em hòa mục thân ái tôn kính lẫn nhau.

Cung Chiêu Vấn lộ vẻ mỏi mệt, muốn nói lại thôi: "Nhị ca vẫn không hiểu sao?"

Thái tử: "Cái gì?"

Cung Chiêu Vấn cười khổ: "Chẳng qua đệ cũng chỉ là kẻ bị phụ hoàng đem ra cản đao mà thôi, che chắn tai họa cho Thái tử mà ông ấy thật sự vừa ý, thu hút hận thù của Nhị ca."

"Xằng bậy!" Thái tự khó chịu như thể bị đâm một nhát vào tim, bỗng như vặn hỏi: "Đệ muốn gắp lửa bỏ tay người sao?"

Cung Chiêu Vấn nhìn hắn chằm chằm: "Nếu như Nhị ca không tin, thì có thể đi hỏi Hoàng hậu nương nương."

Ánh mắt Thái tử nhìn hắn lạnh lẽo như băng.

Cung Chiêu Vấn chỉ hỏi một câu: "Nhị ca không hoài nghi vì sao phụ hoàng lại đối xử quá tốt với Cung Tuấn ư? Đó chính là đích trưởng duy nhất của Bát thúc mà phụ hoàng căm ghét nhất, nhớ lại xem kết cục của Tứ ca như thế nào, Nhị ca cũng nên giữ vững tâm lý đi."

Trong lòng Thái tử hồi hộp, ngoài miệng không nói, chờ Cung Chiêu Vấn đi khuất, hắn lượn một vòng rồi cất bước đến chỗ Trung cung.

***

Điện Nhân Minh, nơi ở của Trung cung.

Hoàng hậu nhỏ hơn Nguyên Thú đế hai tuổi, năm đó cũng là cô nương nổi tiếng khắp kinh đô, chỉ tiếc tháng năm vô tình, dù sống an nhàn sung sướng cũng không tránh khỏi những dấu vết tuổi già dần xuất hiện.

Móng tay thoa sơn đẹp đẽ bóp chặt trán, Hoàng hậu nghe Thái tử hỏi xong thì mở mắt ra: "Con nghe được những lời này từ đâu?"

Thái tử: "Mẫu hậu, người chỉ cần nói cho con nghe có đúng hay không thôi."

Hoàng hậu đưa mắt liếc một cái ra hiệu, tất cả mọi người đều lui hết ra ngoài, bà nắm tay Thái tử lên nói: "Con trai ta là Thái tử duy nhất của Đại Cảnh, trước đây, bây giờ và về sau đều như vậy. Cung Tuấn kia là cái thá gì? Chẳng qua chỉ là một đứa con hoang chui ra từ một mối quan hệ bất chính mà thôi."

Thái tử ngạc nhiên, trong lời nói để lộ không ít hứng thú: "Mẫu hậu, Cung Tuấn thật sự là vậy sao?'

Hoàng hậu nhắm mắt lại: "Trước khi Thôi thị được ban hôn cho, đã từng đi một đoạn cùng với phụ hoàng con."

Thái tử ngồi không yên, "Vậy Thái tử trong lòng phụ hoàng thật sự là Cung Tuấn sao? Con, con vốn chỉ là vật hy sinh chắn trước thôi sao? Lão Lục, lão Lục cũng như vậy ư?" Lòng hắn loạn, đầu óc cũng loạn, chỉ cảm thấy thật hoang đường, trước đó cứ cho rằng lão Lục cố tình tranh ngôi vị bị phụ hoàng nhìn ra nên càng trọng dụng, như thế đã đủ khiến lòng người rét lạnh rồi, không ngờ lại có thể đả thương trái tim người khác đến nhường này, "Phái lão Lục làm

Khâm sai thu thập quan trường đông nam, lại lệnh cho con đến hỏi đại án Lưỡng Giang, con cứ tưởng rằng đã có thể hái quả đào, hóa ra là muốn nhìn đám bọn con diễn trò trai cò tranh nhau, để cho Cung Tuấn sạch sẽ, thuận lợi đăng cơ!"

"Hay cho một con đường lớn khang trang, hay cho một người cha thương con."

Thái tử không nhịn được đỏ mắt, tuy hắn nhiều tâm tư nhưng kính trọng Nguyên Thú đế nhất, bất kể là đế vương hay là cha đều khiến cho hắn tôn kính không thôi, kết quả nhận được là gì?

Quân cờ? Bàn đạp?

Tâm trạng mãnh liệt khiến cho toàn thân Thái tử phát run lên, cắn răng hỏi:

"Suy cho cùng, đối với ông ấy những hoàng tử bọn con tính là gì? Chỉ mình Cung Tuấn mới xứng làm con trai của ông ấy thôi sao?"

Hoàng hậu: "Con ta đừng đau lòng, ai là người cười đến cùng vẫn còn chưa chắc chắn."

Thái tử: "Nhưng con đã thấy được nguyện vọng của phụ hoàng rồi, dường như ông ấy không định che dấu sự thiên vị dành cho Cung Tuấn."

Hoàng hậu tròn mắt, suy tư nói: "Đừng sợ, chỉ cần một ngày vị trí Thái tử của con không lung lay, thì con cứ việc thoải mái tinh thần là được. Nếu như có người dám động vào con... Thì để rồi xem!" Bà vỗ về bàn tay Thái tử, dùng thái độ từ ái hỏi: "Gần đây Uyển nhi thế nào?" Thái tử chần chừ một lúc, cúi đầu đáp: "Rất tốt."

Hoàng hậu nhìn rõ nhưng không vạch trần ra, nói một cách sâu xa: "Dù sao Lư tri viện cũng quản binh quyền, ngộ nhỡ có xảy ra chuyện gì, cũng còn cần Lư tri viện ra mặt mới có thể điều động Cấm quân Trung Ương."

Thái tử ngẩng đầu: "Mẫu hậu?"

Hoàng hậu đã đổi sang chủ đề khác: "Nghe nói mối quan hệ của con và Xương Bình không tệ? Ngày mai mẫu hậu Chu nàng vào cung, mượn cái cớ để cho hoàng tổ mẫu con gặp mặt một phen, cho bà ấy nguôi ngoai nỗi nhớ con gái suốt hai mươi năm trời. Được rồi, không còn việc gì nữa, con về cung đi." Bà sửa sang lại vạt áo của Thái tử, "Ngẩng đầu ưỡn ngực, đừng ủ rũ bơ phờ để người ta cười chê. Có mẹ ở đây, không ai có thể đoạt lấy vị trí Thái tử của con." Thái tử gật đầu, rời khỏi điện Nhân Minh.

Sau khi người đi, ý cười trên mặt Hoàng hậu lập tức biến mất, lạnh lẽo ùa tới khiến lòng người phát hoảng.

"Sao mạng lại lớn như thế? Sao năm đó không chết ở phủ Tĩnh vương đi, không chết trên chiến trường đi, đến cả cổ độc cũng không thể giết chết hắn... Bây giờ còn muốn công khai cướp đi tất cả những gì thuộc về con trai ta hay sao? Đứa con hoang vì một nam thê mà phá hủy hết biết bao công sức tính toán của bệ hạ, làm sao xứng?" Dường như cảm thấy buồn cười, Hoàng hậu nhìn về hướng điện Văn Đức tự lẩm bẩm: "Chỉ sợ chàng cũng không ngờ rằng người thừa kế mà mình tin tưởng lại có thể ngu dại vì một nam thê mà thôi, đó có tính là lấy đá đập chân mình hay không?"

Thở than một hồi, Hoàng hậu lấy lại tinh thần, Chu người đi vào, vẻ mặt lười biếng, bà dặn dò: "Đưa thiếp mời nhập cung đến chỗ Xương Bình, nói là ta rất muốn gặp nàng ấy. Đêm mai ta muốn mở một gia yến nho nhỏ ở thủy tạ phía sau điện Từ Minh, một người đến xin chỉ thị của Thái hậu đi, hỏi lão nhân gia xem có bằng lòng cho mượn thủy tạ hay không." Hai tỳ nữ trong điện nghe lệnh.

***

Lúc này tại điện Văn Đức.

Tấu chương phê chữa được một nửa, Nguyên Thú đế rốt cuộc cũng không an lòng nổi nữa bỗng dưng đập bàn, nghiêm nghị nói: "Mau chóng Chu Cung Tuấn vào cung!"

Đại thái giám vội vàng lĩnh mệnh.

***

Phủ Lâm An quận vương.

Khi đại thái giám chạy đến, phát hiện trước cửa chính có một cỗ xe ngựa kiểu dáng bình thường đang dừng sẵn, trước đó không để trong lòng, kết quả liếc mắt phát hiện người đi xuống chính là Tế chấp đương triều Chu Bá Ung, thế là vội vàng đến bái kiến.

Chu Bá Ung: "Ngươi đến phủ quận vương vì chỉ ý của bệ hạ sao?"

"Tiểu quận vương không có chiếu tự ý rời Tây Bắc, Đông cung vừa gửi chiết tử tố lên. Ngài xem, Chu Tử Thư đánh Lưỡng Giang dẫn đến một đống phiền phức còn chưa giải quyết xong, bên này tiểu quận vương đã lại gây chuyện, đến ngày mai sẽ có một đám người tấu vạch tội nữa đây. Sau đó, bệ hạ nổi giận, lệnh cho ta mau truyền Chu người vào cung. Hầy, ta thấy bây giờ phủ quận vương này bất lợi rồi... À phải, sao mà Chu tế chấp cũng ở đây thế này?"

Chu Bá Ung: "Ta đến... Đến hỏi vụ án Lưỡng Giang một chút." Đại thái giám không nghi ngờ, vụ án này ầm ĩ quá mà.

Trước khi Chu Tử Thư về kinh, không chỉ có dân gian tranh cãi ồn ào, mà trên dưới triều đình cũng phát biểu sôi nổi không ngừng, chia thành phe nói Chu Tử Thư ứng quyền thông biến, nhìn xa trông rộng, nên xử trí nhẹ nhàng, và một phe nói Chu Tử Thư xem thường kỷ cương, diệt trừ đối lập, đương nhiên phải trị nghiêm kèm xử phạt nặng, ồn ào đến đỏ mặt tía tai.

Cách đây không lâu còn có một vụ các văn thần vì chuyện này mà xắn tay áo đánh nhau ngay trước cửa cung, Môn hạ Thị trung Chương Thuyết Lệnh bị đánh rụng một cái răng ngay tại chỗ, ngày hôm sau tảo triều khóc lóc thở không ra hơi, xin Nguyên Thú đế trả cho lão một công đạo.

Nguyên Thú đế vốn đã phiền muộn trong lòng dễ nóng nảy còn gặp phải mấy kẻ kiếm chuyện, không phân sai đúng mà trách mắng cả hai bên, cũng nhờ có tin Tây Bắc đại thắng, tướng Đại Hạ đến thăm kinh đô thương nghị đàm phán hoàn bình và chuyện Chu Tử Thư chém ba trăm quan mới làm bầu không khí dịu xuống mấy phần.

Ban đầu vốn lệnh cho Hình bộ tra hỏi Chu Tử Thư, tiến triển rất thuận lợi, ai ngờ tự dưng Đông cung đâm ngang, tự tiện đi bắt người, đã vậy còn bị hỗn thế ma vương tiểu quận vương này ngăn chặn nữa.

Đại thái giám và Chu Bá Ung đầy bụng tâm sự nhất thời không nói gì, cũng may lúc này cửa mở, đại thái giám đang định vào trong thì bị Hải thúc ngăn lại. Hải thúc đưa một phong thư, cười mỉm nói: "Là thư quận vương gửi cho bệ hạ."

Đại thái giám: "Bệ hạ Chu Lâm An quận vương mau chóng vào cung diện thánh, còn thư này ấy à, bảo tiểu quận vương tự mình đưa cho bệ hạ đi."

Hải thúc: "Tiểu quận vương của bọn ta nói, đề phòng có kẻ nhân lúc hắn không ở đây bắt tiểu Chu đại nhân đi, cho nên đã quyết định một tấc không rời tiểu Chu đại nhân. Nếu muốn hỏi tội thì phải đưa cả y đi theo, còn nếu như bệ hạ sợ tiểu Chu đại nhân chạy trốn thì có thể giam tại phủ quận vương."

Đại thái giám bối rối, tiểu quận vương thật sự định chứng thực tội kháng chỉ không tuân luôn hay sao?

Lão tận tình khuyên nhủ, bị Hải thúc đáp trả dăm ba câu cản trở, cứ thế mất hết nửa canh giờ mà đến bậc cửa cũng không bước qua nổi. Về phần Chu Bá Ung thì ngược lại thừa cơ nên được mời vào.

Chỉ là đại thái giám không biết Chu Bá Ung chỉ được mời ngồi tại tiền thính, ngồi đợi được nửa canh giờ cũng bị Hải thúc cung kính mời rời phủ.

Hải thúc mỉm cười hòa nhã nói: "Xin thứ lỗi... Tiểu quận vương của bọn ta đã thuyết phục hết lời rồi, tiểu Chu đại nhân vẫn không muốn gặp ngài." Sự thật là Chu Tử Thư nào có biết Chu Bá Ung đã đến.

Trong lòng Chu Bá Ung đã rõ, khẽ gật đầu rồi không nói gì nữa, quay người rời khỏi phủ.

Khi ông bước ra ngoài phủ quận vương, Cung Tuấn đột nhiên xuất hiện ngay bên cạnh cửa chính, hai tay giấu trong tay áo rộng, lười biếng nói một câu: "Chu đại nhân đi thong thả."

Chu Bá Ung há miệng định bụng nói gì đó, nhưng lại bị Cung Tuấn chặn lại: "Dịch trạm Đô Đình Tây có một lai sứ Đại Hạ tên là Cao Di Sơn, vốn là một trong các tể tướng Đại Hạ, nhưng bởi vì chủ hòa không chủ chiến, bị Quốc sư Tang Lương Ngọc xem như cái đinh trong mắt, ép đại diện Đại Hạ đi sứ để đàm phán hòa bình. Hắn là tể tướng, biết rõ không ít bí mật, bao gồm cả việc làm sao nước Hạ có thể thu hoạch được một lược đồng sắt bạc lớn từ Đại Cảnh ta."

Chu Bá Ung cảm thấy khó hiểu, nhưng chỉ nhanh chóng gật đầu một cái, phối hợp với lời nói của Cung Tuấn.

Cung Tuấn cụp mắt, vẻ mặt lạnh lùng: "Vậy nhé, tạm biệt." Nói xong đóng cửa.

Chu Bá Ung ngây người một lúc, quay người lên xe ngựa, đột nhiên ông dừng bước, ánh mắt sắc bén quét qua bốn phía, nhìn thấy quầy xe đẩy bán hàng rong, đám trẻ con chơi đùa, còn có cả xe ngựa chầm chậm đi qua, cũng nhìn thấy có kẻ bị ông để mắt đến thì lập tức chột dạ, vội vàng bỏ chạy.

Có người theo dõi phủ quận vương, không chỉ có người của một phe.

Trong đầu Chu Bá Ung lóe lên suy nghĩ này, sau đó nghĩ đến việc vì sao Cung Tuấn lại nhắc tới lai sứ Đại Hạ? Hắn muốn ai nhìn thấy điều gì?

Ôm theo nghi ngờ bước vào buồng xe, Tạ thị lập tức bắt lấy tay ông, tràn ngập hy vọng hỏi: "Có được gặp người không?" Chu Bá Ung lắc đầu.

Tạ thị lập tức buông tay ông ra, ngồi sát lại vào trong góc, nghiêng mặt sang một bên, không muốn nhìn Chu Bá Ung, cũng chẳng muốn nói chuyện với ông.

***

Chủ viện phủ quận vương, Chu Tử Thư đang gãi cằm Hoa Tuyết, mèo mun sung sướng kêu meo meo, ảnh nắng phủ xuống người họ sinh ra một cảm giác hư ảo chớp mắt một cái là biến mất, Cung Tuấn không nhịn được ôm lấy Chu Tử Thư, vùi mặt vào cổ y hít sâu một cái giống như hít mèo.

Chu Tử Thư không hay biết gì, dè dặt hỏi: "Chàng sao thế?" Lúc nãy Hải thúc nói người trong cung tới truyền lời, chẳng lẽ là bị bắt nạt rồi?

Cung Tuấn lẩm nhẩm: "Ta nghĩ rằng nếu như ta quen biết tiểu lang sớm hơn một chút thì tốt biết mấy."

Chu Tử Thư cười: "Muốn sớm hơn bao nhiêu?"

Cung Tuấn: "Càng sớm càng tốt!" Tiếp đó hắn gật đầu khẳng định: "Tốt nhất là khi em vừa ra đời ấy."

Chu Tử Thư bật cười, "Lúc ta vừa ra đời chàng mới bao nhiêu tuổi chứ? Có thể chăm sóc tốt cho ta à?"

"Có thể." Cung Kinh Dường ra sức cọ cọ vào má Chu Tử Thư, nói mà chẳng biết xấu hổ: "Em vừa ra đời đã là của ta, một tay ta nuôi nấng vợ ta từ bé đến lớn, chờ em tròn mười lăm thì ta cưới em."

Chu Tử Thư bị tóc và gốc râu chưa cạo sạch kể từ sau khi trở về của Cung Tuấn cọ đến ngứa ngáy, không nhịn được đánh vào vai hắn: "Ta nhỏ vậy mà chàng đã nghĩ đến chuyện đó rồi à? Đồ biến thái!"

Cung Tuấn chầm chậm nhắm hai mắt không lộn xộn nữa, nhưng giọng điệu vô cùng luyến tiếc: "Đúng là đáng tiếc thật mà. Nếu như gặp được sớm một chút..." Cũng chẳng đến nỗi đau lòng chịu không nổi như bây giờ.

Chu Tử Thư ôm Cung Tuấn hỏi hắn: "Khi nào bệ hạ mới phái người tra hỏi ta?"

Cung Tuấn: "Có thể kéo dài đến đâu thì kéo, chí ít sẽ kéo được đến khi kết thúc đàm phán hòa bình với lai sứ Đại Hạ. Cho dù cuộc thương lượng có kết thúc, ta vẫn có thể bảo vệ em, và dù cho có cá chết lưới rách ta cũng không tiếc."

Chu Tử Thư bỗng nhiên siết tay ôm chặt Cung Tuấn, "Chàng bớt nói mấy từ chết chóc đi. Biết rõ trên chiến trường đao kiếm không có mắt, vậy mà chẳng sợ phạm vào điều kiêng kỵ."

Cung Tuấn: "Quan trường không đao không kiếm cũng có thể giết chết người không thấy máu, tiểu lang đã trân quý mạng của ta, thì cũng nên trân quý chính mình."

Chu Tử Thư khẽ cười thành tiếng, không nói chuyện nữa.

***

Đại thái giám kể lại chi tiết cảnh tượng lão gặp phải ở phủ Lâm An quận vương, nghe vậy, Nguyên Thú đế càng trở nên giận dữ hơn.

"Một tấc cũng không rời? Cùng nhau bị hỏi tội? Được, giỏi lắm, tình sâu nghĩa nặng phải không? Muốn làm kẻ si tình phải không? Uy hiếp trẫm, uổng công sức dốc lòng bồi dưỡng của trẫm, uổng phí một phen tâm huyết của trẫm, chỉ vì một người đàn ông mà thôi! Vì một Chu Tử Thư, nó chống lại ta như vậy sao! Trẫm là hoàng đế, trẫm là cha nó!"

Đồng tử Đại thái giám co rút nhanh, bộp một tiếng quỳ rạp xuống, cuống quít dập đầu, dập đến khi trán chảy máu cũng không dám ngừng lại.

Nguyên Thú đế không ngừng thở dốc, sát ý lạnh như băng quanh quẩn trái tim: "Vừa nãy ngươi nghe được cái gì?"

Đại thái giám: "Lão nô nghe thấy bệ hạ khẩn thiết bởi trái tim ngài đẫm máu và nước mắt vì bị tiểu quận vương phụ lòng, dù sao thì bệ hạ cũng là người nuôi tiểu quận vương lớn, ơn sinh sao có thể bằng ơn dưỡng, tiểu quận vương không nên ngỗ ngược với bệ hạ."

Nguyên Thú đế: "Ngươi đúng là tự cho mình thông minh."

Lòng đại thái giám run rẩy, mạnh tay vả vào miệng: "Lão nô có tội, lão nô có tội!"

Nguyên Thú đế lạnh lùng nhìn lão vả, mãi đến khi miệng bị tát đến chảy máu rồi mới lên tiếng ngăn lại: "Được rồi, làm cho trẫm trông như tàn bạo lắm vậy. Dù gì ngươi cũng là lão nhân ở bên cạnh trẫm hai ba mươi năm trời, có phải hiểu rõ tiến lui nhất hay không?"

Đại thái giám: "Phải phải... Không nên nói, lão nô chính là con vẹt bị cắt đầu lưỡi, nửa chữ cũng sẽ không nói ra!"

Cơn giận của Nguyên Thú đế còn chưa tan: "Nếu như nó đã nói ra miệng những lời đó rồi, thì cứ để cho nó và Chu Tử Thư cùng vào đại lao Hình bộ làm một đôi uyên ương số khổ đi. Nó không muốn thứ đó thì vẫn còn nhiều người sống chết muốn tranh đoạt!"

Đại thái giám lĩnh mệnh, định rời khỏi nhưng bị Nguyên Thú đế gọi lại: "Đem thư nó đưa cho ngươi qua đây."

Chỉ vừa mới mở thư ra đọc qua, Nguyên Thú đế đã lập tức cứng đờ, cơn giận thoáng chốc tiêu tan, bức thư bay xuống đất, đại thái giám ngẩng đầu nhìn lén, trên thư chỉ viết một câu...

"Quân tâm như nhật nguyệt, thề đồng sinh cộng tử."

Dường như đó là thơ mà cô nương Thôi gia từng tặng cho bệ hạ, nhưng đến cuối cùng vẫn không thể đồng sinh cộng tử, cô nương ấy đã vì bệ hạ mà chết một cách thê thảm.

Cả đời Nguyên Thú đế ý chí sắt đá, số người chết trong tay ông, chết vì ông nhiều không kể xiết, từ trước đến giờ ông luôn cảm thấy đó là chuyện đương nhiên, chỉ hổ thẹn với một người duy nhất là cô nương Thôi gia.

"Bệ hạ, có còn lệnh cho người đi bắt tiểu quận vương và tiểu Chu đại nhân không?"

Nguyên Thú đế xoay lưng lại, ánh sáng bao phủ lên người ông, nửa sáng nửa tối, bóng lưng trông có vẻ cô đơn.

"Nhốt lại trước, không được thăm hỏi, cũng không cho ra ngoài."

"Tuân lệnh."

***

Xương Bình về kinh, đặt chân vào phủ công chúa đã bị niêm phong hai mươi năm trước, bởi vì luôn có người dọn dẹp, nên dù khá đơn giản nhưng vẫn rất sạch sẽ.

Sắc trời vừa tối, Hoàng hậu đã ném cành ô liu tới, Xương Bình vui vẻ đồng ý, chân sau đã có tử sĩ theo dõi phủ quận vương quay về báo cáo rằng Chu Bá Ung đã được mời vào phủ mật đàm.

"Nhắc tới ai?"

"Lai sứ Đại Hạ Cao Di Sơn, là tể tướng Đại Hạ, bởi vì chủ trương chính trị khác nhau nên bị công kích, ép buộc đến Đại Cảnh đàm phán hòa bình."

Xương Bình ngồi phịch xuống ghế, vẻ mặt đờ đẫn, xuất hiện vẻ hoảng loạn sợ hãi.

Chu Bá Ung và Tạ thị đều biết thân thế của Chu Tử Thư, tất nhiên sẽ ra tay lôi y ra khỏi vũng bùn đại án Lưỡng Giang này, cho nên Chu Tử Thư đã lôi kéo được Chu Bá Ung rồi sao? Vậy thì Cung Tuấn cũng biết.

Bọn họ còn muốn mượn sức Cao Di Sơn tạo chứng cứ giả, xác nhận bà thông đồng với địch phản quốc!

Cao Di Sơn bị ép bước vào trung tâm chính trị, tất nhiên cần có một cơ hội mạnh mẽ trở về, vả lại hắn theo chủ hòa, phù hợp với lợi ích Đại Cảnh. Người phụ trách đàm phán hòa bình chủ yếu là của Lễ bộ, trước đây Lễ bộ Thị lang là Trần Sư Đạo, ở đâu mà không phải là môn sinh và bộ hạ cũ của ông ấy, phải chăng trong quá trình đàm phán sẽ đưa ra điều kiện mê hoặc Cao Di Sơn, tiến tới đạt được hợp tác.

Có thể tưởng tượng ra được quả trình và kết quả.

Xương Bình hận đến mức hai mắt đỏ bừng, bà không ngờ rằng đế bức sát bà mà Chu Tử Thư có thể làm được đến nước này!

Như lời Chu Tử Thư nói, không chỉ có ý dân sôi sục, mà một nửa công khanh đại thần trên triều đều sẽ cầu tình giúp y, còn cả biến số lớn nhất là Cung Tuấn nữa... Không! Bà ta tuyệt đối sẽ không ngồi chờ chết!

Xương Bình nhìn thiệp mời Hoàng hậu đưa tới, ánh mắt kiên định.

Liều chết đánh cược một lần, dù vẫn còn chưa biết thắng thua.

***

Động tĩnh ở phủ quận vương cùng lúc truyền đến những nơi khác.

Điện Nhân Minh.

Hoàng hậu nhíu mày: "Vì sao Chu Bá Ung lại xuất hiện ở phủ quận vương vào lúc này? Chẳng lẽ Chu Tử Thư và Xương Bình kết thù đã kích thích cảm tình của lão ta hay sao?"

Lắc lắc đầu, không nghĩ ra, thứ bà quan tâm là Cung Tuấn kháng chỉ và phản ứng của điện Văn Đức thế nào, nhưng cuối cùng chỉ được xử lý bằng cách phái một vòng cấm đến, ra không được, vào không xong.

Hoàng hậu thất vọng đã vô số lần mà lòng vẫn không nhịn được lạnh buốt: "Vậy chuyện đó đúng là thật, không hề che giấu chút nào." Phủ Lục hoàng tử.

Cung Chiêu Vấn nhắm mắt: "Thiên vị rõ ràng như thế, vì sao trước đây không nhận ra?" Hắn khựng lại, đột nhiên mở mắt ra: "Ngươi nói Chu Bá Ung đến gặp Cung Tuấn, còn nhắc tới lai sứ Đại Hạ Cao Di Sơn?"

"Vâng. Hình như còn nói đến chuyện đồng sắt bạc của Đại Cảnh có chảy vào Đại Hạ..."

"Thông đồng với địch phản quốc!?" Cung Chiêu Vấn giật mình, phản xạ tự nhiên của hắn là nghĩ đến chuyện này, sau đó lắc đầu cho rằng mình nghĩ nhiều rồi, nhưng bây giờ lại cảm thấy đáng để nghĩ nhiều, "Vì sao Chu Bá Ung lại đến đó? Vì sao lại cố tình nhắc tới Cao Di Sơn? Lẽ nào đã tra ra được người thông đồng với địch phản quốc là ai rồi?"

Cung Chiêu Vấn cười gằn: "Thời gian gấp rút như vậy còn nghĩ ra được chuyện thông đồng với địch phản quốc, Cung Tuấn vốn chỉ giả vờ thâm tình thôi ư? Hay hắn cảm thấy tra được kẻ cấu kết với địch phản quốc có thể cứu Chu Tử Thư..."

Bỗng nhiên nhận ra gì đó, Cung Chiêu Vấn suy tư: "Là giá họa cho Xương Bình."

Hắn lệnh cho người mau chóng đi theo dõi hai phe phủ quận vương và Cao Di Sơn ở dịch trạm Đô Đình Tây, suy nghĩ một lúc, lại lệnh cho người chú ý kỹ càng động tĩnh của Xương Bình.

Đông cung.

Thái tử mượn rượu giải sầu, không dám tin Cung Tuấn lại kiêu ngạo đến mức này, Nguyên Thú đế vậy mà lại nhẹ nhàng buông tha, nếu như là một hoàng tử khác, cho dù có là lão Thất lão Cửu gì dám càn rỡ như vậy thì sẽ không ai tránh khỏi bị xử phạt nghiêm khắc, đến cả mẹ ruột cũng bị khiển trách.

Thiên vị Cung Tuấn mà buông tha, chỉ nhốt lại mà thôi...

"Ha ha ha... Nhốt ư? Không đau không ngứa, rõ ràng là bảo vệ mà!"

Đám tỳ nữ và thái giám đừng nhìn từ xa, không dám tới gần, chỉ có Lư Uyển xách váy đi đến, cầm tay Thái tử rồi dùng giọng nói ấm áp thì thầm hỏi hắn xem đến cùng là có chuyện gì xảy ra, nếu như trong lòng có gì không thoải mái thì cứ trút ra, nàng sẽ khổ sở đau lòng cùng hắn.

Dáng vẻ dịu dàng mềm mại khiến cho Thái tử hãy còn đang yếu lòng muốn yêu thương, hắn vô thức nói nhỏ: "Ta cứ tưởng rằng là bảo vệ ta, ưa chuộng ta hơn, thì ra là chẳng yêu thương gì ta, lấy ta làm bàn đạp... Cho người ông ấy thật sự tin yêu, hức, giẫm lên!"

"Ta..." Thái tử vỗ ngực, khó chịu nói: "Thái tử Đại Cảnh, hóa ra chỉ là một hòn, một hòn đá mài đao thôi!"

Lư Uyển xoa mặt Thái tử nói: "Người đó dùng điện hạ làm đá mài đao, vậy thì để cho Uyển nhi ở đây bảo vệ điện hạ, yêu thương điện hạ." Nàng mỉm cười nồng nàn tình cảm: "Uyển nhi sẽ cầu xin cha, để cha ra tay, nhất định có thể giải quyết ưu phiền của điện hạ."

Ánh mắt Thái tứ lóng lánh, nắm tay Lư Uyển, lần đầu bộc lộ chân tình: "Cảm ơn nàng, Uyển nhi."

Lư Uyển vẫn chỉ cười, nụ cười càng trở nên dịu dàng hơn.

***

Ngày hôm sau, gia yến nhỏ được tổ chức ở một góc thủy tạ tại điện Từ Minh.

Hoàng hậu và Xương Bình em dâu chị chồng xa cách hai mươi năm mới gặp lại ra vẻ quen thân lắm, rơi nước mắt kể lể nhớ nhung đến nhường nào, nhưng đến khi Hoàng hậu sai người đi mời Thái hậu đến dùng bữa thì lại bị từ chối.

Lão ma ma bên cạnh Thái hậu lạnh lùng nói: "Thái hậu lão nhân gia nói, chiến sự Tây Bắc vừa ổn định, Lưỡng Giang lại tạo nhiều sát nghiệt, muốn niệm Phật nhiều, ăn chay nhiều, sao chép nhiều kinh Phật, thành tâm thành ý, phải nếm trải khổ đau mới có thể lay động thần linh, cầu phúc cho đất nước, cho nên sẽ không tới."

Nụ cười trên mặt Xương Bình trong nháy mắt trở nên gượng gạo, trong mắt toát ra ba phần thương cảm thật sự.

Hoàng hậu có vẻ lúng túng, vậy mà vẫn cầm tay Xương Bình không buông: "Vậy hai cô tẩu chúng ta tự ôn chuyện xưa cũng được." Xương Bình nở nụ cười đáp lại.

Gia yến kết thúc, Xương Bình vào cung của Hoàng hậu ngồi một lát, cho người bên cạnh lui xuống, thì thầm trò chuyện một chút, lúc rời đi thì nụ cười trở nên cực kì xinh đẹp, nhịp bước cũng nhẹ nhàng hơn nhiều.

***

Hoàng hậu hành động không giấu giếm ai, Nguyên Thú đến thừa biết bà chỉ muốn khoe mẽ lấy lòng, nhưng điều khiến ông ngạc nhiên, chính là Xương Bình đã ở gần trong gang tấc rồi mà Thái hậu lại từ chối gặp mặt.

Nghĩ tới nghĩ lui, đại án Lưỡng Giang ầm ĩ ai cũng biết, suy cho cùng việc Chu Tử Thư treo đầu trước cửa phủ công chúa cũng đã làm bẩn thanh danh của Xương Bình, Thái hậu có ngu ngốc cũng đoán ra được chuyện Xương Bình làm đã vượt qua giới hạn cuối cùng, huống chi bà ấy không có ngốc.

Bà ấy sẽ không gặp Xương Bình ở thời điểm quan trọng này để tránh bị làm văn chương.

Mẫu nghi thiên hạ thì phải giống như Thái hậu vậy, nào nên có dáng vẻ ngu xuẩn giống Hoàng hậu kia chứ?

Nguyên Thú đế lười biếng chẳng muốn suy nghĩ mục đích ngu ngốc của Hoàng hậu là gì, vung bút lên hạ lệnh: "Xương Bình vì chiếu hồi kinh, trên người mang tội, không tiện đi lại khắp nơi, tạm thời nhốt lại trong phủ, đợi sau này tra hỏi."

==

Min: Tui lại ngoi lên giờ hoàng đạo đây, còn ai thức hông ạ 🤓✨

Hồi chương 86 má Mộc kêu chương sau sẽ viết đến đoạn 🔪 luôn, nhưng nội cả đống tình tiết trong chương này thôi đã ngốn hết của chị ta 16k từ, viết từ 5h đến 8 rưỡi ngày hôm sau rồi, mà ban đầu mẻ còn định viết tận 20k chữ cơ mà chịu không nổi nữa nên thôi gác kiếm từ bỏ =))))))))) mà chương này chắc cũng là chương dài kỉ lục của truyện rồi, không biết còn chương nào phá đảo không, ngồi edit không biết bao giờ mới hết chương là có thật mọi người ạ 🐟

Chương 88

Trong lúc Xương Bình và Chu Tử Thư bị giam lỏng, triều thần đã nhìn ra được suy nghĩ của Nguyên Thú đế, cho nên không dám vạ miệng, chỉ bí mật hành động, phủ kinh đô ngoài mặt bình lặng thực chất sóng ngầm cuồn cuộn.

Phía trước có cuộc đàm phán hòa bình của Đại Hạ thua trận, sau đó còn có cung yến, tạm thời triều đình đã dời sự chú ý sang bên này, quả thật là xoa dịu được bầu không khí của đại án Lưỡng Giang và thái độ của người dân.

Đám người Trần Sư Đạo vẫn còn đang điều hướng dư luận ở dân gian, sau đó đảng Thái tử mới hiểu được ý dân là thứ tốt cho nên cũng muốn tác động vào dư luận, nhưng người dân bình thường không đọc sách không biết chữ, người không hồ đồ mà lòng cũng rộng rãi sáng sủa, làm sao mà ý kiến và thái độ của họ có thể dễ dàng bị đảo ngược như vậy được, huống chi những người có thể đại diện phát biểu cho tính ngôn luận đều là người đọc sách, thực tế là một đám văn thần kính trọng Trần Sư Đạo.

Vì vậy cho nên quyền phát biểu dư tình vẫn được khống chế trong tay phe của Trần Sư Đạo, để hưởng ứng theo ý Nguyên Thú đế, gần đây các buổi công chúng hội nghị cùng các văn nhân để phát biểu quan điểm chính trị ở quán rượu đã được giảm bớt, đỡ để một vài người vì cảm xúc quá mãnh liệt mà chạy lên trên gõ trống cáo trạng rồi lại chọc giận Nguyên Thú đế nữa.

Có điều ngoài rạp hát thì vẫn lặng lẽ trình diễn vở kịch thanh thiên đến Lưỡng Giang chém tham quan, bởi vì cải biên từ sự kiện thật, nổi tiếng đến độ chèn ép tất cả mọi vở kịch mới cùng thời, thậm chí được toàn bộ bá tánh trong ngoài kinh đô đón nhận.

Trong khoảng thời gian các đảng bí mật phân cao thấp này, Thái tử vẫn đang phụ trách tiếp đãi Lai sứ Đại Hạ và chuẩn bị các thủ tục tổ chức cung yến.

Mặc dù tham dự đàm phán hòa bình nhưng lại không đưa ra quyết định sách lược, vả lại quá trình này thuận lợi đến kỳ lạ, không có tình trạng lôi kéo cãi cọ nhau hơn nửa tháng trời như ngày trước, ầm ĩ tính toán chi li từ mỗi một tên tù binh đến từng đồng tiền cắc bạc, những việc như cắt đất bồi thường càng hơn nửa bước không nhường, lần này hai bên đều rất hữu nghị ôn hòa, chưa đến mười ngày đã bàn bạc xong tất cả nội dung.

Thái tử ngạc nhiên không hiểu lắm nhưng cũng đồng thời thở phào, bởi quá trình đàm phán hòa bình rất phiền, hai nước to như vậy mà chút chuyện lông gà vỏ tỏi thôi cũng tranh chấp không ngừng, thế nhưng không thể nhượng bộ, nếu không sẽ bị Thái phó và các triều thần nhắc mãi, thậm chí có thể bị tố một chiết tử, ép hắn không thể không tự xin xử phạt rồi mới bỏ qua.

Hiện tại hai bên đều đã hài lòng với hiệp ước đàm phán, trái lại làm Thái tử thoải mái hơn rất nhiều, vì vậy hắn rất có cảm tình với Lai sứ Đại Hạ thẳng thắn này.

Hình như tên là Cao Di Sơn thì phải?

Để lại chút ấn tượng, nhưng không đi sâu vào việc kết giao, chẳng qua chỉ là một Lai sứ mà thôi.

Thái tử nhanh chóng ném chuyện này ra sau ót, tình cờ nhìn thấy Trần Sư Đạo xuất hiện ở dịch trạm Đô Đình Tây nơi Lai sứ Đại Hạ đặt chân cũng chẳng thấy có gì lạ, dù sao thì việc tiếp đãi Lai sứ các nước phần lớn là do Lễ bộ sắp xếp, ở đó còn có nhiều môn sinh cố lại của Trần Sư Đạo nữa.

Một ngày nọ, Thái tử mới bước ra khỏi dịch trạm Đô Đình Tây đã bị chặn đường, người chặn đường là một người lạ mặt, đối phương đưa ra một lệnh bài dùng để ra vào Trung cung, nói người hẹn gặp là bạn cũ của Hoàng hậu.

Thái tử suy nghĩ một lát rồi ngăn ám vệ cận thân đang chắn trước lại, đi cùng đối phương vào một nhà dân yên tĩnh, trong phòng có một người mặc áo vải, cách ăn mặc qua quít cẩu thả, người nọ nghe thấy tiếng động bèn xoay người lại.

Đó là Xương Bình đang bị giam lỏng.

Thái tử liếc nhìn trái phải, phát hiện trong và ngoài phòng có tầm mười người, cảm giác tồn tại cực thấp, có lẽ chính là tử sĩ trong số ba trăm người được Xương Bình dưỡng riêng.

"Cô nhớ không lầm, bây giờ cô cô phải đang bị nhốt ở phủ công chúa, chờ phụ hoàng tra hỏi mới đúng."

Xương Bình đứng dậy chắp tay, nói thẳng: "Có biết khi nào Cung Tuấn sẽ nhận tổ quy tông không?"

Mặt Thái tử tối sầm: "Cô cô cũng biết sao?"

Xương Bình cười: "Trách sao gần đây hoàng huynh càng lúc càng chẳng thèm che giấu suy nghĩ thật của ông ấy nữa, chỉ sợ không chỉ ngươi ta, những đại thần đánh hơi được mùi kia đã chen lấn tranh nhau đến phủ quận vương quy phục rồi."

Thái tử giật mình: "Ý bà nói là Chu tế chấp?"

Xương Bình cười tươi: "Điện hạ không phát hiện ra những công khanh đại thần như Cao đồng tri, đám người Tam ty, Tể tướng và Phó tể tướng, còn có Trần Sư Đạo, Phạm Văn Minh đều nhao nhao bước ra khỏi hàng cầu tình cho Chu Tử Thư hay sao? Cung Tuấn không có chiếu tự ý rời Tây Bắc, dù tin tức được che giấu kĩ càng, nhưng vừa truyền ra đã liền có đại thần giải vây cho hắn, nói cái gì mà đánh thắng trận công lớn hơn tội, không hề đáng trách... Điện hạ cũng chẳng phải Lãng Đầu Thanh mới vào đời, còn không nhìn ra được quan trường này từ trước đến giờ đều là kiểu không có lợi thì không dậy sớm sao? Người người bo bo giữ mình, không lùi ắt tiến! Đèo bồng thân tộc gia quyến sau lưng, mấy ai dám liều mạng vì đồng liêu? Ai dám lần nữa khuyên ngăn cầu tình cho Chu Tử Thư đã mạo phạm thiên uy hoàng quyền, không màng uy phong triều đình lại còn đắc tội một nửa quan trường cơ chứ?"

Lồng ngực Thái tử phập phồng kịch liệt nhưng vẫn đủ để hắn giữ cảnh giác.

"Bà muốn nói gì?"

"Đến vậy rồi mà điện hạ vẫn còn không sinh nghi sao? Vẫn không rõ sao?" Xương Bình bỗng nhiên lên giọng: "Đám trọng thần xương cánh tay như Chu

Bá Ung và Trần Sư Đạo rõ ràng là người mà bệ hạ để lại cho Cung Tuấn, ông ấy đã lót đường sẵn cho hắn, để lại cho hắn người tốt có thể dùng! Còn về phần những kẻ vô dụng, ví dụ như Tĩnh vương, An Hoài Đức, ví dụ như nhà ngoại Tư Mã thị của điện hạ, kể cả Tần vương, tiểu Lục và phủ Trịnh quốc công, nếu như không phải nhổ tận gốc thì cung đón đầu thống kích, các thế lực bị đánh đến chao đảo, ngươi quay đầu lại xem thử có còn mấy ai để cho ngươi dùng hay không?"

Thái tử nhăn mặt, lòng tự trọng bị đâm trúng cực mạnh, ý hận trào ra khỏi đáy lòng, không chỉ đối với Xương Bình, đối với triều thần, mà còn đối với Cung Tuấn và Chu Tử Thư nữa, nhưng hắn lại không dám hận kẻ đầu sỏ quá nhiều.

"Nếu như bọn họ đi theo Cung Tuấn thì Chu Tử Thư sẽ như thế nào? Một người đàn ông sao có thể trở thành Hoàng hậu? Chu Tử Thư chết vào lúc này càng dễ bị lấy ra làm văn chương, công kích cô và Lục đệ là đã có thể tùy tiện giết hai người bọn ta rồi, còn có thể thuận tiện chèn ép đảng Đông cung và Trịnh quốc công, uổng công vô ích cứu Chu Tử Thư để làm gì?"

Thái tử lặng lẽ nhìn về phía Xương Bình: "Cô không được thông minh như phụ hoàng, nhưng không phải là kẻ ngu xuẩn để mặc cho người khác dùng ba câu đã có thể trêu đùa! Cô cô muốn lừa gạt cô, tốt hơn hết là nên nghiêm túc hơn một chút."

"Bệ hạ muốn cho Cung Tuấn đăng cơ thì nhất định phải khôi phục thân phận của hắn, tuy nhiên ông ấy không thể để cho người trong thiên hạ biết được hắn là đứa con hoang có được từ quan hệ tằng tịu, cũng không thể bôi bác thanh danh của tiên đế, có lẽ sẽ tạo cho hắn một thân phận đủ vẻ vang. Nhưng mà Thái tử kế thừa đại thống cần được người trong thiên hạ tin phục, không được giả dối dù chỉ một chút, nếu muốn không bị chất vấn thì tốt nhất là nên có đầy đủ nhân chứng vật chứng, lúc này lại xuất hiện một người có uy danh có thể gây dựng được lòng dân trong thiên hạ... Điện hạ đoán xem Cung Tuấn có thuận lợi lấy lại được thân phận đích trưởng hoàng tử Đại Cảnh hay không?"

Thái tử vỗ mạnh bàn, ầm một tiếng làm bụi mịn tung tay, sau đó nhìn chằm chằm vào Xương Bình, "Suy nghĩ hão huyền! Vị trí Thái tử, việc đại thống, huyết mạch hoàng gia là thứ để lấy ra làm trò đùa à? Người có uy danh gây dựng được lòng dân thiên hạ trong miệng bà chẳng lẽ là Chu Tử Thư sao? Là y sao?"

Hắn không ngừng cười giễu: "Đích trưởng mang huyết mạch hoàng gia có liên quan đến việc ngày sau có thể kế thừa đại thống hay không, cũng liên quan đến giang sơn Đại Cảnh, an nguy xã tắc và ổn định triều cục, lý nào nói nhận là nhận ngay? Tất cả sĩ phu đều sẽ đồng ý ư? Chắc chắc có thể lấy được lòng của tất cả người đọc sách trong thiên hạ ư? Thái tử nói đổi là có thể đổi hay sao? Nếu như một Hoàng đế mà có thể tùy tiện làm xằng đến nước này, còn triều thần thì nịnh nọt, bị uy nghiêm của đế vương ép phải thừa nhận một đứa con hoang sinh ra từ quan hệ vô môi cẩu hợp* làm Hoàng đế của bọn họ thì đất nước này vứt đi cũng được! Không cứu nổi nữa, không quan tâm đến huyết mạch chính thống, chỉ cần có một người không phục không nhận là có thể vùng lên bất cứ lúc nào!"

(*) Vô môi cẩu hợp (无媒苟合): thành ngữ chỉ chuyện kết hôn nhưng không có minh môi chính thú (cưới hỏi đàng hoàng)"tam trà lục lễ" (明媒正娶 - 三茶六

). Tam trà lục lễ bao gồm: Tam trà - "Hạ trà" tức đính hôn, "Định trà" tức kết hôn, "Hợp trà" tức động phòng; Lục lễ (chỉ toàn bộ quá trình từ lúc cầu hôn đến kết hôn) - nạp thải, vấn danh, nạp cát, nạp chinh, thỉnh kỳ, thân nghênh. Tam trà lục lễ là tập tục lễ nghi hôn nhân truyền thống để vợ chồng khi kết hôn có được sự tán thành từ tổ tiên thần linh cũng như đảm nhiệm và thực hiện quyền lợi nghĩa vụ đối với cha mẹ và thân quyến. Tại cổ đại, nam nữ nếu không hoàn thành quá trình tam trà lục lễ, việc hôn nhân sẽ không được thừa nhận là "minh môi chính thú".

"Lòng dân? Mục đích chung? Những thứ đó có tính là gì! Trong thời bình thì nể mặt thuận theo ý dân, đến lúc nước loạn thì coi bá tánh như heo chó, suy cho cùng thì đó chẳng phải cũng là thứ có thể tùy ý chà đạp thôi hay sao? Bởi vì nó có thể bị tùy tiện chà đạp, cho nên nó cũng có thể được con người tạo ra, bị con người bóp méo, tha hồ lợi dụng."

Nhìn dáng vẻ khinh thường tự kiêu của Thái tử, Xương Bình thấp giọng cười, tâm trạng vui sướng không thôi, bà ta rất thích sự kiêu ngạo bẩm sinh này của Thái tử, bởi nó có thể trở thành chỗ dựa vững chắc nhất cho bà và những vương công quý tộc mà bà đại diện.

Ngón trỏ tay phải gõ vào chiếc nhẫn bằng đá quý trên ngón giữa tay trái, đây chính là nhẫn mà tiên đế tặng cho bà khi phong hào, cũng là thứ đồ lộng lẫy duy nhất trên người Xương Bình lúc này, ngay cả khi đã cải trang thành một người dân bình thường thì bà cũng không nỡ tháo vật ngự tứ biểu trưng cho thân phận của mình xuống.

Bà ngắm nhìn Thái tử, để lộ nụ cười tràn ngập dã tâm: "Trong số các hoàng tử, ta coi trọng ngươi nhất, bởi vì ngươi giống với tiên đế nhất."

Ngoan cố giống với tiên đế lúc tuổi già, chỉ tiếc không có được sự tàn nhẫn và quả quyết như ông ấy.

"Cung Tuấn chỉ là một đứa con hoang, Thôi thị càng không phải là người được hoàng huynh cưới hỏi đàng hoàng, làm sao hắn có thể là đích trưởng được? Luận về đích trưởng Đại Cảnh, chẳng lẽ lại bỏ ngươi? Thụ nguyên lập đích* vốn là đạo lý chính thống, hoàng vị vốn chính là của ngươi, bệ hạ vì tình riêng mà thiên vị Cung Tuấn là đang làm trái với đạo lý... Nhưng ông ấy là thiên tử, là quân, là cha, là trời của ngươi, trời muốn ngươi làm cái gì, ngươi phản kháng có được không? Trời muốn trăm quan triều đình ủng hộ người đó, trăm quan chỉ có thể nghe lệnh làm việc, trời muốn ý dân thế nào, trừ thuận theo ra thì dân còn có thể làm gì nữa đây? Ngươi đang ở trước mặt ta, dù những lời ngươi nói tàn nhẫn như thế, nhưng chẳng phải ngươi cũng đang bị người mình tôn kính nhất, thân cận nhất với mình xâu xé hay sao?"

(*) Thụ nguyên lập đích: lập con trai cả làm thái tử

"Thái tử thôi mà, nói phế là phế thôi."

"Thiên hạ này cá lớn nuốt cá bé, ý dân đúng thật là thứ có thể tùy tiện chà đạp, nhưng vấn đề là ngươi có quyền chà đạp nó hay không? Ý dân bảo không được giết Chu Tử Thư, ngươi dám tranh cãi phản bác câu nào không? Ngươi dám đẩy những công khanh đại thần và đám người coi khinh ngươi, những người buộc bệ hạ xử nhẹ Chu Tử Thư ra để chặt đầu từng người không?!"

Sắc mặt Thái tử tái nhợt, trong mắt có vẻ hung ác, phẫn hận lẫn bối rối sợ hãi, hắn siết chặt nắm tay, không thể phủ nhận bất kì một câu nói nào của Xương Bình.

"Ngươi không thể. Cho nên ngươi chỉ là một Thái tử, chứ không phải là Hoàng đế."

Thái tử kinh hãi, mơ hồ nhận ra ý của Xương Bình là gì, lẽ ra hắn nên quát Xương Bình một câu đại nghịch bất đạo, nhưng nội tâm thả lỏng đã ngăn cản hắn mở miệng.

Quả nhiên Xương Bình đã nói ra câu nói làm đáy lòng hắn rung chuyển kia: "Trừ phi Thái tử không phải là Thái tử, tự bản thân ngươi lên làm Hoàng đế."

Thái tử như mê muội, lời quát trong đầu và lời hắn nói ra hoàn toàn khác nhau, "Phụ hoàng hãy còn khỏe mạnh, đương lúc tráng niên, không bệnh không tai, biết đâu còn có thể làm Hoàng đế được thêm mười mấy hai mươi năm nữa."

"Thiên tử cũng là người, là người ắt sẽ có ba bệnh năm tai, nói không chừng mắc một trận phong hàn là đã đủ mất mạng rồi. Có điều..." Bà ta đổi đề tài, "Không bệnh không tai cũng có thể thoái vị nhường chức."

Thái tử bật người lui lại, mặt mày trắng bệch, hai mắt chớp mở, "Xương Bình, lá gan của bà lớn thật!"

Xương Bình cười nhìn hắn: "Mấy ngày trước ta vào cung hàn huyên với Hoàng hậu, Thái tử có muốn thử đoán xem bọn ta nói cái gì không?"

Thái tử không nhịn được hỏi: "Nói gì?"

Xương Bình: "Ta rời xa kinh đô đã hai mươi năm, trong cung mới xây thêm rất nhiều điện, cung đạo cũng mới được lát lại, còn đổi Cấm vệ trực luân phiên, thêm rất nhiều cung nữ thái giám... Chắc vì nói đến những thứ này, ta cũng mới biết được trong cung đã phá bỏ bao nhiêu mật đạo, mật đạo nào mới được đào thông..."

"Các ngươi muốn mưu phản sao?"

"Sai! Chỉ là lấy lại thứ vốn nên thuộc về chúng ta mà thôi, sao có thể nói là mưu phản?" Xương Bình nhìn Thái tử, ôn hòa khuyên nhủ: "Năm nay điện hạ đã hai mươi sáu, cho dù không có Cung Tuấn thì cũng phải chờ thêm mười mấy hai mươi năm nữa, đến lúc đó ngươi đã ba bốn mươi tuổi rồi, đấu với một lão Tam, lại thêm tiểu Lục nữa, về sau còn có thể có tiểu Thất tiểu Cửu, tiểu Thập Thất... Làm Thái tử suốt hai ba mươi năm trời, đấu thua bị phế, ngươi nghĩ thế nào?"

"Điện hạ ơi điện hạ, ngài quay về hỏi môn khách của ngài, mưu sĩ của ngài xem có phải đã không kìm nổi lòng muốn kiến công lập nghiệp từ lâu rồi không? Mưu định thắng thiên, một tướng công thành, sự nghiệp muôn đời to lớn, bao gồm cả người trong lòng ngài muốn yêu mà không thể yêu được, đều là của ngài."

Thái tử hoảng hốt, vừa nghe đến câu "muốn yêu mà không thể yêu được" thì lập tức cảnh giác, "Rốt cuộc bà biết rõ bao nhiêu?" Suy nghĩ lại một chút, "Lẽ nào bà uy hiếp tứ lang để hắn giúp bà thuyết phục ta thu nhận ba trăm tử sĩ trong tay bà?"

"Sao ta lại uy hiếp tứ lang như vậy? Nó chui ra từ trong bụng ta, là huyết mạch duy nhất, ta thương yêu nó còn chẳng kịp nữa là." Đối mặt với ánh mắt sợ hãi như nhìn người điên của Thái tử, nụ cười của Xương Bình giãn rộng ra: "Chu Tử Thư và tứ lang ra đời trước sau không quá một canh giờ, Tạ thị và Chu lang còn chưa kịp nhìn đến, ta đã lệnh cho Lý Đắc Thọ đổi rồi."

Bà ta ép sát từng bước: "Ngươi có biết vì sao cuộc đàm phán hòa bình với Đại

Hạ lại diễn ra thuận lợi như vậy không? Bởi vì Chu Tử Thư và Cung Tuấn đã cấu kết với Lai sứ Đại Hạ Cao Di Sơn, hứa cho gã quyền lợi kinh tế lớn, để gã nói xấu ta thông đồng với địch phản quốc. Ta sẽ nói cho ngươi biết một chuyện, Chu Bá Ung đã biết được sự thật tráo con, cho nên trước ngày phủ quận vương bị giam, ông ấy đã vào phủ ngồi nửa canh giờ, sau đó lại đến phủ Trần Sư Đạo một chuyến, không lâu sau đó, Trần Sư Đạo đã đi đến dịch trạm Đô Đình Tây... Ngươi nói thử xem lão già này đến đó làm gì?" Thái tử lẩm bẩm: "Cấu kết với Cao Di Sơn, nói xấu bà, cứu Chu Tử Thư?"

Xương Bình: "Như vậy, uy danh của Chu Tử Thư sẽ càng cao đến mức khó mà với tới được, thân thế của Cung Tuấn cũng có thể được công khai bất cứ lúc nào, quan trọng hơn hết là Chu Bá Ung đã nắm bắt được việc ngươi và tứ lang có tư tình..."

"Ta và tứ lang dù có thích nhau nhưng vẫn nằm trong giới hạn đạo đức cho phép*, không hề làm chuyện gì mờ ám." Thái tử phản bác lại một cách tự nhiên.

(*) Nguyên văn là 'Phát hồ tình chỉ hồ lễ' (发乎情止乎礼): Cho dù ái tình có phát sinh thì bên trong tình cảm ấy vẫn luôn có những khuôn phép của lễ nghi đạo đức, ràng buộc con người ta không nên vượt quá lằn ranh đó.

"Thế thì sao? Phàm là các ngươi đã có ý, giường chưa kịp lăn vẫn có thể bịa chuyện được, Chu Bá Ung chỉ hận duy nhất một mình ta, lúc trước cho rằng tứ lang mới là tiểu lang của Chu gia bọn họ nên mới trăm phương ngàn kế nhằm vào Chu Tử Thư, bây giờ đã biết được sự thật, vậy thì ông ấy sẽ làm gì tứ lang đây? Lần này ông ấy tính toán bày trận, chính là để chuẩn bị nói xấu ta thông đồng với địch phản quốc rồi vạch tội ta chuyện tráo con, trả thù tứ lang, tiện thể bóc trần luôn tư tình của ngươi và tứ lang, tố cáo ngươi đức không xứng vị, cốt để đoạt lấy vị trí Thái tử của ngươi, nhường lại cho Cung Tuấn! Ngươi đã từng gặp lại lão Tam đang bị giam giữ hay chưa, ngươi cũng muốn rơi vào cảnh sống không bằng chết đó ư?"

"Không... Không, cô không muốn!"

"Vậy thì..." Xương Bình đột nhiên cầm tay Thái tử, bao bọc lấy rồi nhìn thẳng vào mắt hắn, "Ngươi phải làm Hoàng đế."

"..."

Đồng tử của Thái tử thít chặt, lòng cảnh giác sụp đổ trong nháy mắt.

***

Rời khỏi căn nhà của dân thường kia, tinh thần của Thái tử vẫn hoảng hốt, hắn đi vòng qua hàng trà trông thấy người đọc sách khua tay múa chân, hăng chí thảo luận về việc quân Tây Bắc đánh bại nước Đại Hạ, Lâm An quận vương kiêu dũng thiện chiến, có thể làm thần châm định quốc, đi qua khỏi quán rượu lại nghe thấy người kể chuyện mạnh mẽ gõ thước, xúc động lặp đi lặp lại câu Chu Tử Thư giải oan cho dân, giành được tiếng vỗ tay khen hay của cả sảnh đường,

Một Cung Tuấn, một Chu Tử Thư, không còn ai nhớ đến Đông cung Thái tử mất ăn mất ngủ, dù một ngày nào đó có bị phế, chỉ sợ rằng ai đó sẽ nghi hoặc "Thái tử là người phương nào?", sau đó vui mừng khôn xiết nghênh đón tân hoàng đăng cơ.

Thái tử đứng trước cửa quán rượu, phiền muộn nghĩ ngợi, hắn nhấc chân đinh rời khỏi đó, đột nhiên có người ở sau lưng gọi hắn lại, quay đầu nhìn, đó là Lai sứ Đại Hạ Cao Di Sơn.

Quan trọng là phía sau gã còn có Trần Sư Đạo và Cao đồng tri nữa!

Quả nhiên là bọn họ âm thầm cấu kết, chỉ chờ trục xuất hắn khỏi vị trí Thái tử thôi.

Thái tử nở nụ cười ôn hòa đáp lại Cao Di Sơn, nhưng trong lòng đều là những suy nghĩ tăm tối, nghe thấy Trần Sư Đạo nói bọn họ tình cờ gặp nhau lập tức cảm giác được chữ nào cũng giả dối, câu nào cũng đều cất giấu cạm bẫy, trong cạm bẫy đó không phải núi đao thì cũng là biển lửa, đang đợi hắn sẩy chân rơi vào.

Tất cả mọi người đều muốn hắn chết, ai cũng mong hắn chết sớm hơn một chút.

Thái tử trong lòng họ chỉ có Cung Tuấn, người mà phụ hoàng tin trọng cũng chỉ có một mình Cung Tuấn... Hắn đã nhớ rồi, Thánh tổ Đại Cảnh giành được giang sơn trên lưng ngựa, tiên đế có thể trổ hết tài năng trong cuộc phân tranh đoạt đích chính là vì đã lập được chiến công hiển hách khi theo Thánh tổ dựng nước, mà phụ hoàng đã từng bị tiên đế trách cứ, bị chán ghét đến nỗi suýt nữa thì phế truất cũng là vì ông ấy rút khỏi quân Tây Bắc quá sớm, tiếng tăm trong quân cũng thấp hơn Tĩnh vương.

—— Chắc chắn là vì nguyên nhân này.

Cho nên mới biến Lục đệ thành bia ngắm, tiễn hắn đi Định Châu tòng quân, hành động đó đã lừa được Lục đệ và phủ Trịnh quốc công, đến cả Lục đệ cũng cho rằng hắn mới là Thái tử mà phụ hoàng nhìn trúng, vậy mà quên mất rằng Cung Tuấn cũng có chiến công hiển hách.

Đều trông mong hắn ngã xuống vực sâu phải không?

Nhưng vẫn còn chưa đi đến cùng, đâu ai biết được thắng thua?

Tâm trạng bứt rứt và hung ác trong lòng Thái tử càng nồng đậm hơn, nụ cười trên môi thì lại càng chân thành tha thiết, trái lại mang theo chút dáng vẻ của Xương Bình.

"Ngươi nói cái gì?" Thái tử đột nhiên lấy lại tinh thần, nhìn Cao Di Sơn hỏi: "Ngươi nói ngươi muốn bái kiến Chu Tử Thư sao? Vì sao Cao đại nhân lại muốn gặp đại thần triều ta? Chẳng lẽ trước đây có quen biết sao?"

Cao Di Sơn đáp lại một câu tiếng phổ thông Đại Cảnh vô cùng lưu loát: "Đại án Lưỡng Giang khiến cho danh thanh thiên của tiểu Chu đại nhân vang khắp thiên hạ, ở Tây Bắc xa xôi còn nghe được, tại hạ mộ danh đã lâu, trùng hợp có duyên đảm nhiệm chức Lai sứ cho nên luôn muốn tìm cơ hội kết bạn với tiểu Chu đại nhân. Nhưng làm sao được khi ta gửi bái thiếp đi như ném đá xuống biển rộng, bây giờ hai nước đã hòa đàm kí kết hiệp ước, mấy ngày nữa thôi chính là cung yến rồi, tiệc vừa kết thúc thì ta đã phải lên đường về Đại Hạ. Núi cao sông dài, không biết quãng đời về sau có còn cơ hội được gặp lại người tại hạ ngưỡng mộ hay không."

Gã cười một tiếng, chắp tay nói ra thỉnh cầu của mình: "Lâm An quận vương là người có công lớn nhất trong việc thúc đẩy quan hệ ngoại giao lần này, hắn cũng là người mà Đại Hạ bọn ta kính nể nhất, là chiến thần của Đại Cảnh, nếu như bữa tiệc chứng minh quan hệ ngoại giao hữu nghị của hai nước không có Lâm An quận vương tham gia, chỉ sợ trong lòng Quốc quân Đại Hạ và các tước sĩ không phục."

Thái tử: "Vì sao không phục?"

"Bọn họ sẽ cho rằng điều đó là coi thường."

Thái tử giận quá thành cười, Thái tử Đại Cảnh tự lo liệu cung yến, Hoàng đế, Trung cung và các triều thần cùng vào cung dự tiệc, phải có Cung Tuấn tham gia thì mới làm cho người Đại Hạ tâm phục khẩu phục hay sao?

Nói một cách nghiêm túc, thì Cung Tuấn chính là người có thành tựu to lớn, không thể loại trừ được.

Về phần phụ hoàng, ngồi trên long ỷ đã lâu, người cũng già rồi, khó tránh khỏi hơi hồ đồ.

"Vậy thì có liên quan gì tới Chu Tử Thư?"

"Không phải Chu Tử Thư là Lâm An quận vương phi sao? Vợ chồng đồng thể, đương nhiên là Chu Tử Thư phải tham gia cung yến chứ, vậy thì ta cũng có thể mượn cơ hội này để kết bạn."

Trần Sư Đạo từ đằng sau bước lên phía trước lịch sự từ chối: "Cao đại nhân có chỗ không biết, hai người bọn họ bị giam lỏng đã lâu."

Cao Di Sơn: "Vậy sao?" Không thấy được vẻ ngạc nhiên nào trên mặt gã, vậy thì không còn nghi ngờ gì nữa, gã biết được Cung Tuấn và Chu Tử Thư bị cấm túc nhưng điều đó không đáng lo, bởi chắc chắn là vì tình hình chung, dù Lai sứ Đại Hạ có đưa ra bất kì ý kiến gì đi nữa thì triều đình cũng sẽ đáp ứng.

Trên mặt Trần Sư Đạo thoáng hiện vẻ không vui, đang định mở miệng đã nghe thấy Thái tử đáp lại: "Hai nước lập quan hệ ngoại giao thì biên cảnh yên ổn, quốc thái dân an, lần hòa đàm này Đại Hạ tràn đầy thành ý, triều ta tất nhiên không thể tiếp đón không chu đáo dù có là việc gì đi nữa. Chẳng qua chỉ là muốn gặp Chu Tử Thư và Cung Tuấn thôi mà, việc nhỏ có gì mà không thể? Cô sẽ về cung thỉnh ý chỉ phụ hoàng."

"Điện hạ," Cao đồng tri bước đến sau lưng Thái tử nhỏ giọng nói: "Lâm An quận vương và Chu Tử Thư đều mang tội, bệ hạ tự lệnh nhốt, bây giờ ngài vào cung khuyên nhủ chẳng phải sẽ chạm vào vảy ngược của bệ hạ hay sao? Đại Hạ thua trận, chủ động cầu hòa, không có tư cách đưa ra yêu cầu, để vi thần từ chối."

"Hừ... Cô đã nói ra những lời đó rồi mà ông còn định đi từ chối yêu cầu của Đại Hạ sao?"

Lòng Cao đồng tri run rẩy, nhìn ra được Thái tử ngoài mặt cười nhưng tâm trạng không đúng, vội vàng chắp tay nói: "Thần không dám ngỗ nghịch với nguyện vọng của điện hạ, thần khuyên nhủ vài lời cũng chỉ vì lo nghĩ cho điện hạ cả thôi."

Thái tử lạnh lùng nhìn lão một chút mới cúi đầu vuốt thẳng nếp tay áo: "Cao đồng tri, ông muốn bắt chước Ngụy Huyền Thành trình lời khuyên ngăn để làm danh thần thiên cổ cũng chẳng có vấn đề gì, nhưng điều kiện tiên quyết chính là ông phải nhớ cô cũng là Thái tử mà ông nên kính trọng. Vị trí Thái tử của cô còn chưa bị phế, nói lời gì làm việc gì, Cao đại nhân cũng nên cẩn thận."

Nhìn quan Cao đồng tri càng thêm cung kính, Thái tử cười không rõ cảm xúc: "Được rồi, cô không muốn phải phạt các ngươi. Lai sứ Đại Hạ cũng không nói sai, Lâm An quận vương mới là thần tử có công lớn đối với quan hệ ngoại giao của hai nước, đã không có mặt ở cung yến thì thôi, đã vậy còn bị nhốt cùng vợ mình ở trong phủ, đúng là không thể nói nổi. Chỉ tham gia một bữa tiệc thôi mà, cô đi thỉnh chỉ, phụ hoàng cầu còn không được... Ý cô là, phụ hoàng sẽ rất vui cho mà xem."

Nói xong rồi trò chuyện với Cao Di Sơn một lúc nữa mới nhanh chân rời khỏi quán rượu, vừa rời khỏi tầm mắt của bọn họ, Thái tử đã lập tức dập tắt nụ cười, mặt vô cảm nhỏ giọng nói: "Nói cho cô cô biết, đêm cung yến là lúc để cải thiên hoán nhật."

Người đàn ông trung niên đứng bên cạnh hắn đáp lại một câu "Tuân lệnh" rồi xoay người một cái, biến mất trong đám đông giữa chợ.

***

Trong quán rượu, Cao đồng tri và Trần Sư Đạo lạnh lùng nhìn về phía Cao Di Sơn.

Cao Di Sơn cười nói: "Mặc dù không rõ vì sao gần đây chư vị hay xuất hiện quanh bổn sứ, còn thường xuyên tỏ ra thân thiện, nhưng ta không hề đoán sai, hẳn là các ngươi muốn lợi dụng bổn sứ để đạt được mục đích nào đó. Ta nghĩ kĩ lại, chỉ có Chu đại nhân đang ở trên đầu sóng ngọn gió lúc này mới có thể khiến cho các vị Tể tướng Đại Cảnh đây tranh nhau kết giao với ta thôi, ta không khỏi sinh lòng sợ hãi nhưng cũng quý trọng vì ý muốn kết thân này. Tiếc thay ta không tiện ở lại Đại Cảnh lâu, nhân dịp cung yến sẽ làm quen với Chu đại nhân vang danh thiên hạ một chút, suy nghĩ này chắc là không quá phận chứ?"

Nụ cười sáng rực, không hề để ý hai người kia khó coi biết bao nhiêu, cũng không đợi bọn họ đáp lại mà cao giọng gào to gọi tiểu nhị lấy hai bầu rượu tới, xách hai quả bầu gật gù đắc ý rời khỏi quán.

Cao đồng tri như có điều suy nghĩ: "Cũng không phải là kẻ ngu."

Trần Sư Đạo: "Tốt xấu gì cũng là Tể tướng Đại Hạ, đấu thua không có nghĩa là hắn không có đầu óc."

Cao đồng tri thở dài: "Cũng không biết cách của tiểu quận vương có được không, hoặc liệu lúc ấy Chu tế chấp có nghe ra sai nghĩa hay không, có điều mượn cung yến để tháo bỏ cấm túc cũng là một khởi đầu tốt đẹp."

Trần Sư Đạo đáp lại một tiếng tỏ vẻ đồng ý, chỉ cảm thấy thái độ của Thái tử có hơi kì lạ, chỉ không thể ngờ rằng đó là do Xương Bình thêm mắm dặm muối mà ra.

Hai người trò chuyện thêm đôi ba câu nữa rồi ai trở về Nha môn của người nấy để giải quyết công việc.

***

Thái tử về cung, mật đàm với Hoàng hậu thêm gần nửa canh giờ mới về Đông cung. Trùng hợp thay Lư Uyển đang ôm một bó hoa xinh đẹp bước từ bên ngoài vào trong điện, phát hiện Thái tử đang im lặng nhìn nàng, đầu tiên là khẽ giật mình một cái, sau đó mới e lệ nở nụ cười ngạc nhiên vui mừng rồi khom người hành lễ.

"Sao hôm nay Thái tử lại tan làm sớm thế?"

"Đã làm xong rất nhiều việc rồi, chỉ chờ cung yến ba ngày tới mở màn thôi." Thái tử vươn tay ra ôm Lư Uyển vào lòng, vuốt ve mặt nàng hỏi: "Uyển nhi có bằng lòng giúp đỡ cô làm bất cứ chuyện gì hay không?"

Lư Uyển vùi trong ngực Thái tử, đáp chắc như đinh đóng cột: "Tất nhiên rồi." Nàng hỏi tiếp: "Sao vậy? Thiếp thân cảm giác điện hạ không được vui lắm, là vì gặp khó khăn ở trong triều, hay là công việc trong tay nặng nề quá?"

Thái tử: "Đúng là ta gặp một vài vấn đề khó giải quyết, nhưng không ai có thể giúp đỡ..."

Lư Uyển vội vàng truy vấn: "Là chuyện gì? Điện hạ cứ nói đừng ngại, ta... Nếu như thiếp thân có thể giúp được điện hạ, dù có chết cũng không hối hận."

"Uyển nhi chớ tùy tiện nói từ chết, quỷ thần có linh, cô sợ chúng nó sẽ tưởng thật." Thái tử dịu dàng tình tứ, quả thật là có hơi xúc động, giọng nói chất chứa vài phần chân thành, "Chủ yếu là Cấm quân canh cửa cung vào thời điểm diễn ra cung yến có một vài xung đột về lịch trực ban với Cấm quân tuần tra trong cung, còn làm theo ý mình, có nghe Lục đệ, cũng có nghe Lâm An quận vương... Nhưng lại bằng mặt không bằng lòng với cô, trong tay cô không binh không tốt, tóm lại là không đủ sức nói chuyện, cũng không dám đem chuyện này đến gây phiền phức cho phụ hoàng. Nếu như để phụ hoàng biết được đến cả chút chuyện này mà ta cũng giải quyết không xong thì không tránh được một trận răn dạy nữa."

Lư Uyển dịu dàng trấn an Thái tử: "Chuyện này đơn giản thôi, ta nói với cha một tiếng, điều động Cấm quân để cho chàng sử dụng."

Lư tri viện có quyền điều động binh mã trong thiên hạ, dưới mắt chẳng qua chỉ là điều động Cấm quân trong cung mà thôi, đúng là một việc rất đơn giản. Thái tử thở dài: "Uyển nhi, cô thật sự không biết nên cảm ơn nàng thế nào nữa."

Tay hắn trượt xuống đai lưng của Lư Uyển, mà Lư Uyển đột nhiên xoay mặt sang một bên ho đến tan nát lòng, sự hào hứng của Thái tử cũng bị cơn ho này cuốn đi mất luôn rồi.

Lư Uyển ho đến nỗi máu tràn ra khóe môi, còn vô cùng áy náy nói: "Đều là tại Uyển nhi không chịu thua kém..." Hốc mắt nàng đỏ bừng lên lại khiến cho Thái tử mềm lòng an ủi, hắn gọi thái y và cung nữ tới chăm sóc nàng rồi tự mình đưa nàng về tẩm cung.

Đợi Thái tử vừa đi, trên mặt Lư Uyển đã không còn bất kì cảm xúc gì nữa, nàng lạnh lùng lau máu trên môi đi, gọi tỳ nữ thiếp thân ở bên nàng từ nhỏ tới lớn đến, lệnh cho nàng ta về Lư phủ truyền lời.

"... Lư gia ta đời đời trung quân ái quốc, vậy mà hắn lại muốn lợi dụng ta để hãm hại cha ta rơi vào cảnh mang tội bất trung bất hiếu, bất nhân bất nghĩa. Cũng đã là vợ chồng, cho dù mọi thứ đều chỉ là lợi dụng, chẳng lẽ chút tình cảm chân thực cũng không có hay sao?" Không phải Lư Uyển không đau lòng, chỉ là nàng nhất định phải giữ vững tinh thần, thế là lại thấp giọng dặn dò: "Ta sẽ tìm cớ để Bích Hòa và ngươi được cùng về Lư phủ, không biết nàng ta là người của ai trong cung, về đến phủ thì ngay lập tức bảo cha bắt nàng lại."

Tỳ nữ thiếp thân: "Đã rõ."

***

Bích Hòa và tỳ nữ thiếp thân của Lư Uyển rời khỏi hoàng cung, trên đường lại tìm cớ tách ra, truyền tin từ Đông cung ra ngoài rồi mới về Lư phủ.

Lư tri viện biết tin, mặc dù đã cho người bắt Bích Hòa lại nhưng vẫn lâm vào trong sự im lặng rất lâu, lưng còng xuống trông như đã già đi thêm ba mươi tuổi, ông cúi thấp đầu tự lẩm bẩm: "Nhìn xem, Thái tử mà lão phu tận trung, rể hiền mà lão phu ngàn chọn vạn tuyển lại chính là một kẻ vô đạo vô lương!"

"Nếu như là Thái tử Đại Cảnh mà lại có dáng vẻ này, chẳng bằng để lão phu tự tay giết hắn."

Một lúc lâu sau, Lư tri viện đau thương nhắm mắt lại, trong lòng đã hạ quyết tâm.

***

Thái tử thỉnh chỉ đặc xá Cung Tuấn và Chu Tử Thư tham gia cung yến, Nguyên Thú đế chỉ do dự chốc lát đã mở kim khẩu đồng ý, còn là lần đầu tiên khen ngợi Đông cung về việc tiếp đãi Lai sứ Đại Hạ lần này không tệ.

Trên mặt Thái tử thoáng vẻ kinh sợ, nội tâm càng lạnh lẽo hơn, trừ mỉa mai giễu cợt ra thì không còn gì khác.

Ngũ hoàng tử đang chờ Thái tử trên cung đạo, đưa một hầu bao sợi vàng qua nói: "Tứ lang bảo đệ đưa tới."

Trong nháy mắt mặt mày Thái tử trở nên dịu dàng, mở hầu bao nhìn thấy được mấy câu tương tư bên trong, trái tim lập tức nóng bừng lên.

Ngũ hoàng tử đứng bên cạnh nói: "Đệ không hiểu vì sao Nhị hoàng huynh lại muốn giải cấm túc cho Cung Tuấn và Chu Tử Thư, không phải là định nhường hắn đoạt lấy tình thế đấy chứ?"

Gã còn chưa biết chuyện thân thế của Cung Tuấn, cũng không biết Đông cung đang tính toán cái gì, bởi gã không giữ được cái miệng mình, mà đại sự mưu phản càng ít người biết càng tốt, vì thế Thái tử chỉ tùy tiện đáp lại mấy câu chứ không nhắc thêm gì nữa.

Ngũ hoàng tử nhận ra hắn không quan tâm, thức thời quay về Hộ bộ làm việc.

Thái tử giấu hầu bao vào ngực áo, đi tìm Lư tri viện, lấy được quyền điều binh Cấm quân kinh đô từ trong tay ông, cùng Xương Bình lần lượt bố trí ổn thỏa người trong và ngoài cung, giấu ba trăm tử sĩ vào các mật đạo mới vừa xây xong nhưng rất ít người biết trong cung, để Xương Bình dẫn đầu, còn Trung cung Hoàng hậu sắp xếp.

***

Mãi đến một ngày trước cung yến, ý chỉ giải cấm túc mới truyền đến phủ Lâm An quận vương, đám người Hải thúc, Ngụy bá và Nghiên Băng cảm thấy không thể tưởng tượng nổi, sau đó mừng rỡ như điên.

Nghiên Băng: "Vậy là có phải bệ hạ sẽ không truy cứu ngũ lang tội không có quyền chém chết ba trăm quan nữa hay không?"

Chu Tử Thư vẫn rất bình tĩnh: "Tạm thời không truy cứu thôi. Chờ đến lúc Lai sứ Đại Hạ vừa đi, cung yến kết thúc, đại án Lưỡng Giang sẽ bật lên trở lại."

Càng dồn nén, càng kéo dài lâu thì sẽ chỉ nghênh đón được mưa càng to gió càng lớn, trước mắt nhìn như đã đẩy mạnh được dân tình để kiểm soát ván cờ, nhưng thật sự là đi đâu về đâu, kết quả thế nào đều phụ thuộc vào suy nghĩ của Nguyên Thú đế cả.

Ý dân có sục sôi cũng không thể thật sự phản kháng lại được hoàng quyền tối cao dưới sự cai trị của vương triều phong kiến, tất cả mọi người đều đang cố gắng kéo dài thời gian tìm một lối thoát khác, để bảo vệ Chu Tử Thư, cũng là để Nguyên Thú đế có thể thoải mái bước xuống đài.

Cung Tuấn ôm lấy bờ vai đã gầy đi nhiều của Chu Tử Thư, cúi đầu kiên định nói: "Sau cung yến, ta nhất định có thể tìm được đường sống cho tiểu lang."

Chu Tử Thư nghe vậy thì nở nụ cười cực kì ấm áp nhưng không giấu được mỏi mệt trong đáy mắt, hai tay giấu trong tay áo rộng, thẳng lưng cao vút như thanh trúc, chỉ gật đầu đáp một tiếng: "Ừm."

***

Chớp mắt đã đến ngày diễn ra cung yến, đầu giờ Thân hai cửa cung đã mở ra, hàng ngũ trăm quan và mệnh phụ vào cung theo thứ tự, xe ngựa nối đuôi trên ngự đạo vào cửa cung trông như dải lụa.

Trạch để của vương cung đại thần ở gần hoàng cung, cho nên xuất phát khá muộn.

Mùa hè ngày dài đêm ngắn, mãi đến cuối giờ thân rồi mà mặt trời vẫn còn hơi chói mắt.

Lúc này ở Chu phủ, Tạ thị và Chu Bá Ung cùng nhau vào cung tham gia yến hội, Chu Trường Phong và Chu tam lang cùng là Cấm quân thì nhận nhiệm vụ bảo vệ trị an trong ngoài cung.

Khi Tạ thị đang bước lên xe ngựa, Chu Ngọc Tranh đột nhiên chạy tới gọi bọn họ lại, sau lưng cậu còn có nô bộc đuổi theo không kịp thở.

"Cha, mẹ, hai người không thể từ chối cung yến lần này sao?" Chu Ngọc Tranh bày ra nét mặt yếu ớt đáng thương, "Con, thật ra con bệnh mấy ngày nay rồi, sợ cha mẹ lo lắng nên không cho phép ai nói cho hai người nghe, nhưng con rất muốn cha mua cho con mứt hoa quả, ngồi ở đầu giường nói chuyện xưa ru con ngủ, con còn muốn nghe giọng nói ấm áp của mẹ thì thầm..."

Cậu gượng cười một tiếng, giọng nói chất chứa khẩn cầu: "Cha mẹ có thể vì con mà từ chối bữa tiệc này không?"

Chu Tử Thư và Tạ thị từng thoái thác hai lần cung yến vì phải chăm sóc cậu bệnh nặng, mà Nguyên Thú đế và Thái hậu không chỉ không trách tội, còn cảm thán cha mẹ yêu con như biển sâu núi cao, phái thái y đến phủ chẩn bệnh, đến mức cả kinh đô đều biết vợ chồng Chu thị yêu thương Chu tứ lang biết bao nhiêu, Hoàng đế và Thái hậu đều cũng yêu ai yêu cả đường đi.

Tạ thị nghe xong những lời kia, không quay đầu lại mà bước thẳng lên xe ngựa.

Chu tế chấp quay đầu lạnh lùng liếc nhìn Chu tứ lang, chỉ để lại một câu: "Đưa tứ lang về phòng đi." Rồi cũng theo lên xe ngựa.

Người làm trong phủ thấy phản ứng của bọn họ khác biệt hoàn toàn so với dáng vẻ sốt ruột đến độ vây quanh ân cần hỏi han của ngày xưa, nội tâm bùng nổ như pháo hoa, đây là đang cãi nhau sao?

Đúng là mặt trời mọc ở đằng Tây, thì ra lão gia và phu nhân vẫn có lúc lạnh nhạt tứ lang này, được mở rộng tầm mắt rồi.

Mắt thấy Tạ thị và Chu Bá Ung không chút do dự lên xe ngựa rời khỏi nhà, Chu Ngọc Tranh bỗng dưng ngước cằm lên, hốc mắt đỏ bừng, cau mày cố không để nước mắt lăn xuống, cảm thấy hoang đường quá mức bèn cười giễu mấy tiếng, cuối cùng khuôn mặt trở nên lạnh băng vô cảm, tự lẩm bẩm: "Huyết thống quan trọng đến như vậy sao?" Cậu thua kém Chu Tử Thư ở chỗ nào chứ?

Không hề cố làm ra vẻ như y, tay không đầy máu như y, không ác hơn y hay sao?

"Các người không quan tâm con, vậy thì đừng trách con."

Chu Ngọc Tranh xoay người về phủ, cuối cùng nước mắt cũng rơi xuống.

***

Giờ dậu bốn khắc, trăm quan và triều thần cùng bước vào điện Tử Thần tìm vị trí của mình ngồi xuống. Tất cả các phương diện khác Đại Cảnh đều chú trọng thẩm mỹ đơn giản, chỉ có yến hội là cực kỳ xa xỉ, trong đó hoa là vật trang trí nhất định không được thiếu, không chỉ xuất hiện trên bàn, trên món ăn và trong bình hoa, mà còn nằm trên trâm cài tóc mai của trăm quan và mệnh phụ.

Nếu như tướng mạo không được đẹp, cài trâm hoa lên tóc sẽ làm trò hề cho thiên hạ, nhưng trước kì thi hội, dung nhan của trăm quan cũng là một trong những yếu tố khảo hạch, có thể làm quan ở trong kinh thành không có mấy ai quá xấu xí.

Tướng mạo đoan chính cộng với dáng người thong dong phóng khoáng, trâm hoa bên tóc mai sẽ làm tăng thêm mấy phần cảm giác sĩ phu phong lưu tao nhã.

Đến cả Chu Tử Thư cũng cài trâm hoa thạch lựu trên tóc, dáng ngồi thẳng tắp, vẻ ngoài trắng trẻo tuấn tú càng tôn lên ba phần anh tuấn kiệt xuất, bảy phần phong thái xuất trần, còn bên cạnh y là một hỗn thế ma vương tướng ngồi nghiêng ngả, vẫn là điệu bộ buông thả không bị trói buộc ấy, trên đầu còn có một đóa hải đường nhưng lại không cài đàng hoàng vào tóc mai mà cài thẳng vào phát quan một cách lố lăng, cực kì thu hút ánh nhìn của người khác.

Điểm tâm tinh xảo và các món khai vị như súp và nhiều loại trái cây được mang vào trong điện trước, rồi chẳng mấy chốc mà bữa tiệc đã trở nên linh đình.

Vị trí của Cung Tuấn và Chu Tử Thư được sắp xếp khá gần chủ vị của đế hậu, ngẩng đầu lên một cái là có thể nhìn thấy Chu Bá Ung và Tạ thị ở phía đối diện, hai người đều đang dùng ánh mắt tha thiết nhìn chằm chằm Chu Tử Thư, nhưng cách một đám người, còn phải chào hỏi với trăm quan mệnh phụ, vốn không tìm được lúc nào rảnh rỗi.

Chu Tử Thư chỉ nhìn sang một cái rồi dời mắt đi, hoài nghi không biết có phải y lại đắc tội gì với Chu Ngọc Tranh hay không, hoặc có lẽ là vì Xương Bình mà bọn họ muốn trách tội y, nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì từ sau khi về kinh y đã bị giam lỏng, cũng đã kết thù với Xương Bình, ai nấy đều biết, thật sự không nghĩ ra chuyện gì đã khiến y phải rước lấy chán ghét của vợ chồng Chu thị, thế là bỏ quách đi không nghĩ nữa.

Y chỉ nhìn xung quanh điện, để ý Hoàng hậu, Thái tử và Cấm vệ tuần tra, còn Cung Tuấn thì trông như lơ là nhưng thật ra không bỏ qua bất kì hành động nhỏ nhặt và biểu cảm khuôn mặt nào, hắn vẫn luôn ở trong trạng thái chuẩn bị chiến đấu.

Chu Tử Thư cụp mắt nhấp một ngụm rượu trái cây, khóe môi hơi giương lên, sự việc đều diễn ra như trong suy nghĩ của y, nhưng tâm trạng lại chẳng vui sướng gì.

***

Cùng lúc đó, hai mật đạo dẫn thẳng vào nội bộ hoàng cung được mở ra ở các vị trí khác nhau, cung điện bị bỏ hoang thoáng chốc chật ních một trăm tử sĩ, những người vờn quanh sâu trong hòn giả sơn của Ngự hoa viên cũng dần nhảy lên, mượn cây xanh giấu kín thân mình, nắm rõ lịch trình tuần tra của Cấm quân đại nội nên đã di chuyển so le một cách hoàn hảo, dần dần đến gần điện Tử Thần, trung tâm của bữa tiệc.

Vào lúc Cấm vệ hoàng cung giao ban, đột nhiên có người mang lệnh bài điều binh của Lư tri viện đi đến cửa cung.

Người tới mặc khôi giáp sắt đen, ngũ quan được giấu bên dưới mũ giáp, để lộ ra lệnh bài thuộc về Xu mật viện trong tay, đồng thời đưa ra quân lệnh từ Đông cung: "Trời hanh vật khô, xưởng nhuộm ở góc một con đường trong thành đã bị cháy rồi, thế lửa tấn công mạnh mẽ, đốt cháy cả một đường và vẫn có xu hướng kéo dài ra bên ngoài, quân tuần phố thiếu nhân lực, không kịp cứu hỏa, thượng sai lệnh cho bọn ta điều binh từ Tam nha đến trợ giúp."

Người gác cửa cung đêm nay là Chu tam lang, thị vệ thân quân thuộc đội quân Tư Mã dưới quyền chỉ huy của quân Long Phụng, nghe vậy thì hỏi: "Bọn ta đến đó thì ai giữ cửa cung?"

"Đã được sắp xếp rồi, ngươi cứ nghe lệnh làm việc là được."

Điện tiền ty phụ trách trị an trong hoàng cung, cũng có khi sẽ điều khiển người đến giữ cửa cung, vì vậy sự sắp xếp này không có gì kì lạ. Chu tam lang không nói hai lời, lĩnh mệnh rồi chạy đi cứu hỏa.

Binh điều từ chỗ Lư tri viện được thay đến giữ cửa cung, người này tiếp tục dùng lại chiêu cũ để điều Điện tiền ty tuần tra đại nội đi.

Chu Trường Phong bị phái đến cửa cung chỉ canh không đến nửa canh giờ đã thấy Chu tam lang chật vật, khi không đang đêm lại phóng ngựa phi nước đại đến nhanh chóng xông vào trong ngự đạo, sắc mặt hắn lập tức thay đổi, bước nhanh về phía trước, bỗng nhiên rút đao chém vào chân ngựa, thoáng chốc tiếng hí vang lên rung trời, Chu tam lang bị cản lại trước ngự đạo.

Chu Ngọc Khanh lăn khỏi chỗ, mặc kệ đau đớn trên người la lên: "Điều binh có vấn đề!"

Chu Trường Phong ôm nghi vấn trong lòng lúc này đã nhận ra, kéo Chu tam lang lên rồi vội xông về phía đại điện hoàng cung: "Tam lang, đệ mau đến Tam nha báo với Đô chỉ huy sứ, lập tức phái binh đến đây! Những người còn lại, theo ta vào trong bắt phản đảng!"

***

Cấm vệ bên ngoài điện Tử Thần đã bị điều đi sạch, trong điện đèn đuốc sáng trưng, người người nâng ly cạn chén, hồng phi thủy vũ, tiệc vui linh đình, nhưng xung quanh lại yên tĩnh tối đen như mực, giống như có một con thú to lớn đang nằm rạp trong màn đêm, đang lặng lẽ chờ đợi cảnh tượng máu chảy thành sông sắp diễn ra.

Khi trong điện đã chè chén say sưa, ca nhạc lả lướt, Nguyên Thú đế ngồi ở trên cao giơ chung rượu thứ bảy lên, tiếp đó là các Tể tướng hưởng ứng, sau mới là trăm quan hưởng ứng, yến nhạc thay đổi, tạp kịch trong điện cũng đổi thành một bài múa đơn thu hút sự chú ý của quần thần.

Nhờ Cung Tuấn phổ cập kiến thức cho, Chu Tử Thư mới biết đây chính là lễ nghi cung yến, tên là Cửu Trản Chế, do đế vương bắt đầu, cuối cùng là đến trăm quan, sau đó đổi nhạc ca múa.

Khi chung rượu thứ tám được giơ lên, trên thiên điện đang biểu diễn tạp kỹ, đối với Lai sứ Đại Hạ thì đây là thú vui mới lạ, bọn họ đều đứng dậy, vọt tới thiên điện quan sát, một vài mệnh phụ và quan triều cũng đi theo.

Còn Thái hậu thì đã lui về từ lúc chung rượu thứ ba được giơ lên, nói là cơ thể khó chịu.

Lúc này trong điện bớt đi không ít người, có hơi vắng lặng.

Chu Tử Thư quay đầu nhìn hương lậu ở trong góc điện, bách khắc hương có thể đốt được một ngày một đêm bấy giờ đã tàn một nửa, nghe thái giám nói là đốt vào lúc giữa trưa, bây giờ có lẽ đã là giờ Hợi bốn khắc, tầm khoảng mười giờ tối rồi.

Đang ngẩn người thì tay y bị Cung Tuấn nắm lấy, Chu Tử Thư quay đầu nhìn lại, Cung Tuấn mắt nhìn xung quanh tai nghe tám hướng vẫn không quên xoa nắn tay y nói: "Đang ngày hè mà sao tay em lạnh thế này?"

Chu Tử Thư không biết làm sao: "Là do khí huyết của chàng mạnh, cho nên tay mới nóng đấy."

Ngay vào lúc này, Nguyên Thú đế giơ chung rượu thứ tám lên, nói vài câu hải thanh hà yên, quân thần tương hòa, Hoàng hậu đứng bên cạnh cười, thưởng thức chén rượu trong tay, động tác cùng nâng chung rượu có phần lười biếng, Thái tử phi nhìn chằm chằm đĩa trái cây trước mặt mình, còn Thái tử thì nhìn về phía hương lậu ——

Đây đã là lần thứ sáu hắn nhìn hương lậu.

Hắn đang tính thời gian.

"Là giờ Hợi rồi phải không?"

Chu Tử Thư hỏi nhỏ một câu, quần thần trăm quan nâng chung rượu cao quá đầu, như thể đang chiếu một thước phim chậm, rõ ràng có thể thấy được Thái tử quăng mạnh chung rượu giơ qua đỉnh đầu của mình xuống đất.

Tách ——

Quăng chung ra hiệu, tiếng vang lanh lảnh, đúng ngay tại chung rượu thứ tám, bởi vì trống nhạc đang thay đổi mà trong điện rất im lặng, tiếng chung vỡ vang vọng khắp điện thu hút sự chú ý của tất cả mọi người.

Nguyên Thú đế ý tứ sâu xa: "Toái toái bình an*. Người đâu, thay chung rượu mới cho Thái tử."

(*) 碎碎平安 /Suì suì píng ān/: đây là câu người Trung Quốc thường nói khi chẳng may làm rơi vỡ đồ, có âm đọc giống với 岁岁平安 /Suì suì píng ān/: tuổi mới bình an.

Thái tử đứng dậy: "Cô không muốn đổi chung rượu, nhưng muốn đổi vị trí ngồi."

Nguyên Thú đế: "Muốn ngồi chỗ nào?"

Thái tử bước ra: "Muốn ngồi vị trí của phụ hoàng, nhi thần mời phụ hoàng nhường hiền*."

(*) Câu gốc là 退位让贤 – thoái vị nhường hiền: thoái vị để nhường cho người khác hiền đức hơn.

Vừa mới dứt lời đã nghe được tiếng bàn ghế chén dĩa bị đạp vỡ nát, tất cả những tỳ nữ và thái giám đang la hét đều bị một đao cắt ngang cổ, tiếng kêu thảm thiết đột ngột ngưng lại, thoáng cái trăm tử sĩ tràn vào trong điện, bên ngoài điện cũng bị tử sĩ vây quanh, đến cả thiên điện cũng bị khống chế mà không hề phát ra bất kì tiếng động nào.

Mệnh phụ và triều thần trong điện đều là người có hiểu biết, mặc dù nhìn thấy thi thể thì mặt mày đã trắng bệch cả ra, nhưng không ai hét lên.

Nguyên Thú đế vỗ tay cười: "Thái tử của trẫm không kịp chờ đợi muốn ngồi lên cái ghế này như vậy sao, một hai năm nữa cũng chờ không nổi ư? Ngu xuẩn! Đường danh chính ngôn thuận không đi, không có tính nhẫn nại, lại chọn con đường đại nghịch bất đạo này để mưu triều soán vị, cho dù ngày mai ngươi có đăng cơ thì cũng không thể ngồi vững trên hoàng vị này được. Người đời đều sẽ mắng ngươi đắc vị bất chính, bất hiếu bất kính!"

"Càn nhi đăng cơ rõ ràng là do bệ hạ chủ động thoái vị nhường chức, đã là đích trưởng, lại thuộc chính thống, sao lại nói là đắc vị bất chính được?" Hoàng hậu chậm rãi lên tiếng.

Nguyên Thú đế nhìn bà, ánh mắt hơi ngạc nhiên, dường như không bao giờ ngờ đến vị Hoàng hậu chẳng có tài năng gì này lại dám xúi giục Đông cung soán vị.

"Trẫm xem thường Tử Đồng rồi."

Khóe môi Hoàng hậu giật run lên, ngẩng đầu nhìn lại: "Chỉ xem thường thôi sao? Trong mắt bệ hạ chưa từng có thần thiếp sao? Ngài cưới ta, lại không có ý định hợp táng cùng ta, phía sau bảng hiệu điện Văn Đức vẫn luôn cất một thánh chỉ cải lập Thôi Tương Như làm Hoàng hậu đúng chứ? Thôi Tương Như, Thôi thị tứ lang, thiếu niên tướng quân chết trẻ, sau khi hắn chết rồi thì đến một nữ tướng anh hùng Thôi Thanh Như, bây giờ lại chuẩn bị bịa ra một thân phận vô căn cứ cho Thôi Tương Như chứ gì, chàng tưởng ta không biết bọn họ đều là cùng một người hay sao?"

Bà ta nhìn về phía Chu Tử Thư và Cung Tuấn, khinh bỉ ra mặt: "Trộm long tráo phụng, thay mận đổi đào, ngài cũng muốn chơi trò này sao?"

Chu Bá Ung và Tạ thị ở gần đó nghe được rõ ràng, trong lòng không khỏi đau đớn, hai người nhìn Chu Tử Thư thì phát hiện mặt y không có cảm xúc gì, vừa cảm thấy những lời này không làm Chu Tử Thư tổn thương là chuyện tốt, vừa không nhịn được tổn thương vì y tỏ vẻ thờ ơ.

"Trăm năm sau đó, Hoàng hậu cùng chàng hợp táng, Hoàng hậu cùng chàng đi vào sử sách không phải là ta! Không phải thì thôi, dù sao ta vẫn đang sống, còn nàng ta chết rồi. Nhưng chàng vốn không nên đưa đứa con hoang kia đến gần hoàng cung để mà công khai yêu chiều! Chàng còn muốn đưa hoàng vị của con ta cho hắn sao? Tư Mã Ngọc Doanh ta năm đó cũng là cô nương mà trăm nhà khắp kinh đô muốn lấy, không hề kém cạnh Thôi Thanh Như, làm sao ta có thể chấp nhận để chàng vũ nhục khinh rẻ như thế được?"

"Nàng không muốn bị vũ nhục khinh rẻ, vậy lúc trước gả cho trẫm làm gì? Tư Mã thị treo giá cao, mà trẫm cũng vừa có thể trèo lên ngôi báu, hai bên được lợi như nhau, ăn khớp với nhau, nàng thân là đích trưởng nữ thiên kiêu vạn sủng của Tư Mã thị mà lại không biết hai nhà thông gia là vì điều gì hay sao?"

Hoàng hậu: "Quân là quân, phu là phu, cha là cha, ngài làm quân vương tất nhiên có được ý chí sắt đá, chưa phát hiện mình có lỗi, nhưng chắc chắn ngài không phải là người chồng tốt, càng không phải là người cha tốt. Nhìn đi, người mà ngài chưa bao giờ để trong lòng sẽ cải thiên hoán nhật vào đêm nay, còn kẻ mà ngài tin trọng nhất sẽ lập tức phải đeo gông vào tù ngay sau đó mà thôi!"

Giọng nói bà ấm áp, thì thầm nói: "Bệ hạ yên tâm, thần thiếp sẽ không giết tiểu quận vương đâu." Rồi bà ngẩng đầu nhìn về phía Cung Tuấn, thấy hắn vẫn đang ngồi xiêu vẹo, thậm chí giẫm luôn cả một chân lên tháp, trên mặt vẫn là vẻ đùa cợt xem thường không chừa một ai, thế là bà ta bùng phát cơn giận tích tụ lâu ngày ra, "Thần thiếp muốn hắn ăn cổ độc không thể chết, lấy đi tước vị phong hào của hắn, nhốt tại phủ kinh đô, muốn hắn trở thành một tiện chủng để cho người người giẫm đạp!"

Sắc mặt Nguyên Thú đế đã lạnh xuống, ông nhìn quanh điện, mở miệng hỏi:

"Chư khanh sợ chứ? Có nguyện đi theo một quân vương vô đạo như thế không? Nếu như sẵn lòng, thì lúc này chính là lúc thể hiện lòng trung đấy."

Phần lớn triều thần trong điện đều quỳ xuống, trăm miệng một lời: "Chúng thần thề sống chết không theo quân vương nối giáo cho giặc!"

Thái tử mặt mày dữ tợn đẩy ngã một đại thần đứng ở gần mình: "Hỗn xược! Đừng nghĩ cô không dám giết các ngươi! Các ngươi mắng cô là bạo quân, bây giờ cô có thể khiến cho các ngươi máu văng ba thước!"

"Lòng báo quốc trung quân, đến chết mới thôi."

Lại là Trần Sư Đạo với ánh mắt đầy khinh miệt, kích thích Thái tử đỏ bừng hai mắt: "Cô đã nhịn lão bất tử này lâu lắm rồi! Ông đối nghịch với cô trên triều rất nhiều lần, cô nói cái gì thì ông phản đối cái đấy, nếu như không phải nể tình ông là nguyên lão ba triều, cô đã chém văng đầu ông xuống đất từ lâu rồi!"

Hắn xách kiếm đi tới đi lui trong điện, trút hết cơn giận ra: "Vì sao? Cô làm không tốt ở chỗ nào? Những năm gần đây cố gắng hoàn thành công việc, kính hiền lễ sĩ, không hề dám buông thả, vì sao các ngươi không hài lòng với Thái tử là cô? Cô không tốt, vậy Cung Tuấn có tốt không? Hắn mang tiếng tàn bạo, hai năm trước còn khiêng hai mươi mấy thi thể từ trong phủ của hắn ra, còn thích nam sắc, phóng đãng không trói buộc, chẳng ra thể thống gì... Hắn thì tốt hơn cô chỗ nào! Vì sao từ phụ hoàng cho đến công khanh đại thần các ngươi đều muốn chọn hắn! Cô tôn trọng lễ phép với các ngươi như thế, vì sao..." Hắn vỗ ngực, đỏ mắt nghẹn ngào chất vấn: "Vì sao không lựa chọn cô làm Thái tử?" Nguyên Thú đế nhắm mắt lại, không muốn trả lời hắn.

Trần Sư Đạo cất giọng: "Quái lạ, nói gì không hiểu, thứ cuồng loạn này không gánh nổi chức trách lớn."

Chu Tử Thư: "..." Ân sư không hổ là thánh chửi.

Cung Tuấn ngồi dậy, kéo Chu Tử Thư ra phía sau.

Cao đồng tri vô cảm, Hộ bộ Phó sứ thì trợn trắng mắt, Đỗ Công Tiên lắc đầu thở dài không thèm để ý, Lư tri viện thì ngồi yên tại chỗ cùng với sắc mặt nghiêm trọng.

Các triều thần còn lại thì đều nhắm mắt quay mặt đi, bày ra tư thế nghênh cổ chịu chết, chỉ có một mình Môn hạ tỉnh Thị trung Chương Thuyết Lệnh là cười giả lả đi đến bên cạnh Thái tử chắp tay cúi chào.

"Điện hạ đăng cơ, danh chính ngôn thuận, khắp nơi quy thuận, ai dám không phục cơ chứ?"

Nguyên Thú đế nhắc mi mắt lên liếc nhìn Chương Thuyết Lệnh, uy thế vẫn còn đó khiến cho lão không nhịn được rụt vai lại, nhưng điều khiến cho người ta ngạc nhiên chính là Ngũ hoàng tử đi theo Thái tử cũng đang mang nét mặt kinh ngạc và thất vọng, gã không nhịn được lên tiếng khuyên nhủ bọn họ đừng giả vờ ngớ ngẩn nữa.

"Mẫu hậu, người đã là mẫu nghi thiên hạ, Nhị ca cũng là Thái tử một nước, đăng cơ vốn chỉ là chuyện sớm muộn, cớ sao phải làm chuyện ngốc nghếch như thế? Còn nói gì mà phụ hoàng tin trọng Cung Tuấn, là con trai ruột của phụ hoàng, Đại hoàng huynh của chúng ta? Thật là hoang đường... Rốt cuộc là ai đã nói lời sàm ngôn lừa gạt mọi người vậy? Nhị hoàng huynh, nhân lúc còn chưa phạm phải sai lầm lớn, quay đầu là bờ!"

Mặt Thái tử tối sầm: "Ngũ đệ, nể phần tình cảm trong quá khứ, ta sẽ không động vào đệ, nhưng đệ cũng đừng nói những lời làm tổn thương lòng người khác nữa." Hắn quay đầu chỉ kiếm vào Nguyên Thú đế: "Phụ hoàng, mong ngài hãy lập tức viết chiếu chỉ thoái vị, giao ngọc tỷ truyền quốc ra đây."

Nguyên Thú đế vô cùng bình tĩnh: "Ngươi có bản lĩnh thì cứ thẳng tay thay đổi triều đại đi."

Thái tử bị chọc giận, còn định nói điều gì đó thì một giọng nói khác đã vang lên ngoài điện: "Nói nhảm nhiều làm gì? Chỉ cần hoàng huynh do dự một giây thì giết chết một triều thần, treo đầu bên trong đại điện, giết đến sáng mai, giết đến khi hoàng huynh gật đầu viết chiếu chỉ thoái vị mới thôi..."

Mọi người quay đầu nhìn lại, thấy Xương Bình bước ra khỏi đám tử sĩ. Bà ta mặc hoa phục chói lọi, nụ cười xinh đẹp nở trên môi, nhìn Chu Tử Thư nói: "Chiêu này là do ngươi dạy đấy."

Bà nhận lấy đao, chém chết một quan lại gần mình, máu tươi phun ra, mọi người trong điện đều lộ ra vẻ mặt giận dữ.

Chu Tử Thư nghiêng người về phía trước, vô thức siết chặt lấy thanh chắn của tháp, thoáng chốc ánh đỏ che lấp toàn bộ tầm mắt, mùi máu tanh nồng bay quanh mũi không tài nào xua tan được.

Xương Bình xách đao, nhắm mũi đao vào Nguyên Thú đế, một ở trên một ở dưới, nở nụ cười xinh đẹp ngả ngớn: "Hoàng huynh, huynh phải ngã xuống trong tay muội." Sau đó cánh tay di chuyển, chĩa mũi đao về phía Chu Tử Thư: "Ngươi nói ngươi muốn giết ta, bây giờ hãy nhìn xem ai mới là vua còn ai là giặc! Lúc trước ngươi chém chết ba trăm quan, làm nhục ta trước mặt người trong thiên hạ, hôm nay ta sẽ trả lại nỗi khuất nhục ấy gấp mười, gấp trăm lần!"

Chu Tử Thư lẳng lặng nhìn bà, vẫn ngồi yên tại chỗ, vốn ngồi thấp hơn một khúc nhưng lại khiến cho Xương Bình cảm thấy y đang đứng ở trên cao nhìn xuống, ánh mắt lạnh lùng thong dong như thể luôn đứng ở thế bất bại để nhắc đi nhắc lại cho bà ta biết rằng, người này coi thường từ thể xác đến linh hồn của bà!

Xương Bình nổi giận: "Thứ đê tiện, hai mươi năm trước bị ta mặc sức chơi đùa, hai mươi năm cuộc đời bị ta thao túng thì lấy đâu ra tư cách coi thường ta?"

Nghe vậy, Tạ thị kinh sợ đến nỗi toàn thân run rẩy, được Chu Bá Ung ôm chặt lấy.

Chu Tử Thư: "Đến sâu bọ còn có tư cách coi thường bà, sao ta không thể?"

Xương Bình bước nhanh về phía trước, vươn tay định kéo Chu Tử Thư đang ngồi phía sau bàn ra, nhưng vừa duỗi tay ra thì Cung Tuấn đã dùng mu bàn tay hời hợt đánh vào cổ tay của bà ta, cơn đau do xương nứt mạnh mẽ ập tới khiến cho Xương Bình thốt lên tiếng đau ngắn ngủi, ánh mắt hắn toát lên vẻ tàn nhẫn, chậm rãi đứng dậy.

"Ầm ĩ đủ chưa?" Cung Tuấn nhìn Xương Bình bằng ánh mắt nhìn kẻ hấp hối sắp chết khiến cho Xương Bình phải lui bước, còn hắn thì đi đến trước bàn che chắn Chu Tử Thư, liếc nhìn một lượt qua Hoàng hậu, Thái tử, Xương Bình và trăm tên tử sĩ, đột nhiên vỗ tay: "Lăn ra đây hết cho bổn vương!"

Thoáng chốc tiếng binh qua giáp trụ vang lên ngoài điện, vô số bó đuốc được đốt lên sáng như ban ngày, cùng lúc đó, trong thiên điện cũng phát ra tiếng kêu thảm thiết và tiếng da thịt bị cắt ra, không đến một cái chớp mắt, rất nhiều quan binh đã tràn vào từ phía thiên điện, vây quanh điện Tử Thần chặt như nêm cối.

Mặt mũi Hoàng hậu và Thái tử giống hệt giấy vàng, run lên như cầy sấy: "Cấm quân Tam nha đã bị điều đi từ sớm rồi mà, Cấm quân trấn thủ trong ngoài hoàng cung cũng đều đã phái đi, vậy Cấm quân này ở đâu ra?" Ánh sáng lóe lên trong đầu hắn, Thái tử quay phắt đầu lại nhìn về phía Lư tri viện và Lư Uyển, hai cha con họ mặt không đổi sắc, một người nhắm mắt không nhìn, người còn lại cúi đầu không thấy, hiển nhiên là đã phản bội hắn từ lâu rồi: "Vì sao?"

Thái tử hồn bay phách lạc, lại ngẩng đầu nhìn Nguyên Thú đế, phát hiện từ đầu đến cuối ông ấy chưa từng thay đổi tư thế, vậy thì còn có chỗ nào không rõ chứ?

Thì ra từ đầu đến cuối đã bị nhìn thấu rồi, tất cả đều nằm trong tính toán của ông ấy, nhưng vì sao lại không ngăn cản từ sớm?

Chắc có lẽ là để phế truất Thái tử, không có lý do nào tốt hơn lý do này.

Thái tử cười thảm thiết, kiếm trong tay rơi xuống, mất hết ý chí chiến đấu, bó tay chịu trói.

Cung Tuấn phất tay: "Giết không tha!" Sau đó hắn để lại hai ám vệ bảo vệ Chu Tử Thư rồi quay đầu tham gia vào trận chém giết, cục diện thay đổi.

Trong điện chém giết rung trời, hỗn loạn tưng bừng, mệnh phụ và triều thần nhanh chóng chạy vào trong góc trốn đi, Cấm vệ yểm hộ Nguyên Thú đế rời khỏi điện Tử Thần. Khi lướt qua Chu Tử Thư, Nguyên Thú đế nhìn y bằng ánh mắt lạnh nhạt như băng, mà cũng vào lúc này, Hoàng hậu bị kích thích quá độ đã nhặt kiếm dưới đất lên lao về phía Nguyên Thú đế như phát điên.

Ám vệ bảo hộ Nguyên Thú đế nhanh chóng đá bà ta đi, nhưng chỉ một giây sau đã bị mười mấy tên tử sĩ tập kích cuốn vào cuộc chiến khiến cho Nguyên Thú đế cũng phải không ngừng lui lại, lui dần vào một góc cùng với Chu Tử Thư.

Hai ám vệ đi theo Chu Tử Thư kinh hồn bạt vía, tất nhiên không thể không để ý đến an nguy của Nguyên Thú đế, liên tục dán sát chân tường chạy về phía cửa, kết quả vừa quay đầu thì bị một thanh đao chặn đường đi, đao kia suýt nữa sượt qua mắt, nhưng cũng đã thành công tách ám vệ và Nguyên Thú đế ra khỏi Chu Tử Thư.

Có tên tử sĩ bị mất một cánh tay thoát khỏi vòng vây của Cấm vệ nhảy tới trước mặt Nguyên Thú đế, ngày còn trẻ Nguyên Thú đế cũng từng chém giết trên chiến trường, gạt được một bội kiếm rồi vẫn có thể ngăn cản thêm mười chiêu, chỉ tiếc ông bỏ bê võ nghệ đã hơn mười năm, mà tử sĩ lại tấn công như thể không muốn sống nữa, thể lực của ông đã sắp không thể trụ nổi nữa rồi.

Đao chém xuống từ phía đối diện, ánh sáng bạc lóe lên, đồng tử của Nguyên

Thú đế thít chặt, chỉ nghe thấy tiếng leng keng vang dội, ấy vậy mà lại là Chu Tử Thư, y mới nhặt được đao dưới đất lên, vừa nhanh vừa chuẩn cản được cú bổ đầu cực hung ác của tên tử sĩ kia.

Nguyên Thú đế cũng phản ứng nhanh đâm thẳng đao vào bụng của tên tử sĩ, nhưng lúc muốn rút đao ra đột nhiên bị gã ta túm chặt lấy cổ tay, không thể động đậy được.

Chu Tử Thư giơ đao qua đầu, mạnh mẽ chém đứt hai tay của tên tử sĩ, thanh đao vốn sứt mẻ gãy làm đôi, rơi xuống đất theo tiếng ngã quỵ của tử sĩ, để lộ bóng dáng của Xương Bình cùng với ánh mắt điên cuồng.

Xương Bình siết chặt đao trong tay vọt đến, tốc độ cực nhanh, góc hẹp phía sau chặn mất đường lui của Nguyên Thú đế, mà kiếm trong tay ông đã thuận thế buông ra từ lúc tử sĩ ngã xuống, vẫn còn đang cắm trên bụng gã, đao của Chu Tử Thư cũng gãy mất, lúc này hai người đều tay không tấc sắt, chẳng còn đường trốn.

Chỉ thấy lưỡi đao bén nhọn trong nháy mắt vụt đến trước mặt, âm thanh da thịt bị đâm xuyên tựa như xé vải, vang vọng ở bên tai...

Lúc này, phản đảng trong điện đã bị tiêu diệt sạch sẽ, Cấm vệ tràn vào trong, Chu Trường Phong và Chu tam lang xác nhận thiên điện không còn bất kì người nào thuộc phản đảng sống nữa mới xông vào chính điện điện Tử Thần, đầu tiên là tìm kiếm Chu Bá Ung và Tạ thị, phát hiện hai người không bị gì nghiêm trọng mới yên lòng, tiếp đó nhìn quanh trong điện, tinh mắt bắt gặp Nguyên Thú đế và Chu Tử Thư đang ở trong góc, còn có Xương Bình đang xách đao dùng tư thế nhanh như chớp nhoáng chạy đến, lập tức hãi hùng khiếp vía hô lên: "Cẩn thận!"

Cung Tuấn vẫy khô máu tươi trên đao, nghe thấy Chu Trường Phong và Chu tam lang sợ hãi rống lên phía sau lưng mình, hắn bèn thuận thế quay đầu nhìn lại, một giây sau đó mắt trợn như sắp nứt ra: "Tiểu lang!"

Đám người trong điện cũng quay đầu lại, ai nấy cũng đều sững sốt, chỉ thấy Chu Tử Thư đang chắn trước người Nguyên Thú đế, mà lưỡi đao vốn nên giết ông ấy bấy giờ đang cắm vào bụng y. "Ngũ lang!" Tạ thị đau đớn thét lên thê lương.

Chu Tử Thư siết chặt lấy cánh tay của Xương Bình, mãi cho đến lúc Cung Tuấn đến, đỏ ngầu hai mắt chặt đứt tay bà ta, Xương Bình đau đớn lăn lộn quanh đất nhưng chẳng ai thèm để ý đến.

Chu Tử Thư ngã xuống đất, được Nguyên Thú đế đỡ ở phía sau lưng, cố gắng giảm bớt đau đớn mãnh liệt bằng cách điều hòa hơi thở, ngón tay y giật run lên, muốn trấn an Cung Tuấn, còn thầm nói xin lỗi hắn, y phải bỏ hắn đi trước rồi.

Nhưng y đau lắm, đau đến nỗi không nhấc tay lên được, cũng chẳng nói nổi một lời.

Cung Tuấn, Cung Tuấn, ta đau quá.

Chu Tử Thư muốn khóc lên không chút kiêng dè, sống một cuộc đời ở một thế giới khác, vượt qua trăm ngàn đắng cay, mười chín năm trời một thân một mình, y phải may mắn đến nhường nào mới có thể gặp được một Cung Tuấn trân trọng yêu thương y không vì một lý do gì chứ.

Dù biết rõ những ngày qua y lợi dụng tình yêu của hắn để đạt được mục đích giết chết Xương Bình, nhưng Cung Tuấn vẫn nuông chiều y, nuông chiều thiên vị y vô điều kiện, không chất vấn, không trách cứ mà vẫn bôn ba vì y, giúp y dựng lên sân khấu biểu diễn tiết mục gậy ông đập lưng ông này.

Nhưng y hết cách rồi.

Cung Tuấn à, Chu Tử Thư dù có thông minh đến đâu đi nữa cũng đã không còn cách nào tìm được dũng khí để tiếp tục ôm lấy thời đại này nữa rồi.

Cung Tuấn muốn ôm Chu Tử Thư lên nhưng bị Nguyên Thú đế nổi giận quát mắng: "Ngươi muốn y chết à? Đừng di chuyển y! Thái y đâu rồi? Lăn ra đây cho trẫm!"

Quan thái y chạy trốn bên ngoài điện vắt chân lên cổ chạy vào.

Cung Tuấn hoang mang bối rối quỳ gối trước mặt Chu Tử Thư, ngẩn người nhìn chằm chằm thanh hoàn thủ đao cắm vào bụng y, ở trên chiến trường, hắn đều chưa từng sợ hãi trước những thương tổn như gãy tay gãy chân thậm chí là nát nửa cái đầu, chỉ có giờ phút này là tay chân hắn như mềm oặt ra, đầu óc trống rỗng, dường như đến cả những câu từ cơ bản cũng không thể thốt ra được.

Đám người Trần Sư Đạo, Cao đồng tri sốt ruột vây quanh lại, mòn mỏi trông chờ kết quả cứu trị từ thái y.

Tạ thị và Chu Bá Ung đứng ở phía ngoài cùng của vòng vây, không phải là không chen vào được, mà là không cử động được.

Tạ thị đổ nghiêng vào người Chu Bá Ung, chỉ cần buông lỏng là có thể ngã sụp xuống đất, cả người Chu Bá Ung.m cũng cứng ngắc, nhìn như bình tĩnh, thật ra khẽ động một cái là tay chân sẽ mềm nhũn ngay.

Chu Trường Phong và Chu tam lang bước đến bên cạnh cha mẹ mình, không hiểu vì sao bọn họ lại phản ứng mạnh mẽ như vậy, nhưng lúc này bảy phần tâm trạng đã vô thức thấy lo lắng cho Chu Tử Thư rồi, chỉ để lại ba phần suy nghĩ để quan tâm đến cha mẹ, vậy mà lại nghe thấy Tạ thị đang không ngừng nỉ non gọi một cái tên.

"Tiểu Lân Nô, tiểu Lân Nô của mẹ..." Tiểu Lân Nô...

Chu Trường Phong và Chu tam lang nhìn ra được muôn vàn sợ hãi trong mắt bà.

Khi Tạ thị vẫn còn mang thai tiểu nhi lang nhỏ nhất thì rất thích ăn cá, có lẽ bởi vì trước kia bà ấy không thích ăn, cho nên mới thuận miệng nói là tiểu nhi lang trong bụng thèm cá, thế là lấy một cái nhũ danh.

Tiểu Lân Nô, lân là cá.

Ngày ấy bà suốt ngày gọi tiểu Lân Nô, cho nên Chu tam lang nhỏ tuổi nhất cũng hay gọi tiểu Lân Nô.

Mãi đến khi tiểu nhi lang Chu gia ra đời, cả nhà sóng gió, ốm đau quấn thân, không ai còn nhớ tới nhũ danh thuộc về tiểu nhi lang Chu gia nữa cả.

Nhưng bây giờ vì sao mẹ của bọn hắn lại lẩm bẩm cái tên này với Chu Tử Thư?

Mà lúc này thái y cũng lộ nét mặt khó xử: "Cần phải rút đao ra, nhất định phải rút thật nhanh, tránh để xuất huyết quá nhiều cứu không được nữa, nhưng... Nhưng mà..."

"Trẫm biết rõ đám thái y các ngươi bình thường trị bệnh không muốn quý nhân sợ chết nên bệnh gì cũng bảo không nặng không nhẹ, nhưng bây giờ không phải là lúc để mặc cho ngươi tạm bợ, cứu Chu khanh ngay, phải đảm bảo cho y không chết. Nếu hôm nay y chết thì ngươi cũng đi theo đi!"

Thái y sợ hãi nuốt nước bọt ừng ực, lập tức gọi người mang một đống thuốc thang cầm máu bảo mệnh tới, chuẩn bị tâm lý xong xuôi mới dám cầm lấy hoàn thủ đao cắm trên bụng Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư giống như hồi quang phản chiếu ngăn bàn tay sắp sửa rút đao cho y của thái y lại rồi nói: "... Đừng cứu ta, ta không muốn sống nữa."

Keng! Keng! Keng ———!

Giờ Tý đến, chuông cổ trên cổng thành đánh đúng ba hồi, vang vọng khắp vùng trời phủ kinh đô, cũng đánh vào trái tim của tất cả mọi người trong điện.

Những người ngày xưa mắc nợ, chán ghét Chu Tử Thư đêm nay phải dùng trái tim vỡ thành ngàn mảnh để mà trả lại.

==

Tác giả tâm sự (sau khi vật vã với cái chương này):

PS: Cách mà bé Cá bức sát Xương Bình chính là ép bà ta mưu phản, em đánh cược Thái tử trong truyện gốc đắc vị bất chính, chỉ dựa vào chiêu bêu rếu Xương Bình thông đồng với địch phản quốc, nhưng biến số quá lớn, mấu chốt còn nằm ở suy nghĩ của hoàng đế, em ấy không dám cược, cũng không cược nổi, em đã không còn tin tưởng rằng trên quan trường này vẫn có người hiểu mình nữa rồi.

Cho nên em mới lợi dụng lão Cung, thật ra lão Cung đã nghe được đoạn đối thoại cuối cùng giữa em và Xương Bình, hắn cũng biết rằng em Cá lợi dụng mình nhưng không sao, bởi bản thân em ấy cũng biết rằng một khi lão Cung biết mình bị em lợi dụng rồi vẫn sẽ chủ động phối hợp thôi.

Hai người đều vô cùng hiểu nhau.

PPS: Thật ra từ ban đầu trong lòng em Cá đã tồn tại ý muốn chết rồi, em ấy muốn chết không bởi vì biết mình bị xuyên vào sách, mà là do quá khó khăn để nếm trải và tiếp nhận thời đại kia suốt hai mươi năm trời, cho nên sau khi biết được mình xuyên sách mới muốn được chết thật nhanh, chỉ là em ấy đã nghĩ được lý do cho bản thân mình để thoát khỏi thời đại ấy rồi, nhưng em lại vẫn giãy giụa trong nó, vẫn ôm lấy kỳ vọng đối với nó.

Nếu không thì với sự lạc quan sáng sủa ấy của em Cá, làm sao em ấy có thể dễ dàng chấp nhận cái chết ở chương 2?

Xuyên vào sách rồi kết cục là chết trẻ gì đó, đều chỉ là cái cớ mà thôi.

Lưỡng Giang là cọng rơm áp đảo em ấy.

(Việc em liên tục chặn đao đều có tính toán cả, phá hỏng triệt để đường sống của Xương Bình, thật ra là tự dồn bản thân mình vào đường cùng)

Bé con luôn dịu dàng ôm mặt trời nhưng cũng ôm lấy tăm tối, dù không muốn sống nữa cũng dốc hết sức mình đối xử tốt với người bên cạnh, em chỉ ích kỷ với một việc duy nhất đó là nhận lấy tình yêu thương từ Cung Tuấn mà thôi.

Em biết rõ bản thân sẽ chết, sẽ chẳng sống được bao nhiêu năm nữa, không muốn gây tai họa cho người khác, nhưng em cứ luôn không cưỡng lại được sự hấp dẫn của tình yêu mà Cung Tuấn dành cho em, vì thế mà em ấy mới tự vấn lương tâm rồi hổ thẹn, thẹn vì đã bỏ Cung Tuấn ở lại.

Cung Tuấn có thể không cần thiên hạ này mà yêu thương nuông chiều Chu Tử Thư, cho nên hắn chính là sự cứu rỗi duy nhất của em ấy.

==

Min: Đêm nay mí bà phải khóc với tôi 😭😭😭

Chương 89

Trong điện hoàn toàn yên tĩnh, Chu Tử Thư hồi quang phản chiếu cũng chỉ được phút chốc, vừa dứt lời đã mất ý thức hôn mê, mặt mày tái nhợt, cánh môi trắng bệch, hơi thở mỏng manh.

Cung Tuấn dè dặt chạm vào cánh tay Chu Tử Thư, giọng nói khàn khàn: "Cứu y..."

Cung Tuấn giương mắt lên, hai mắt đỏ bừng, đau thương lấp đầy trong mắt, tâm trạng căng thẳng đến tận cùng, những người đối diện hắn liếc mắt nhìn cũng đoán được hắn sẽ nhanh chóng sụp đổ thôi. "Ta không tiếc gì hết, cầu xin ông cứu tiểu lang!"

Thái y mở miệng mấp máy môi nhưng lại không thể phát ra âm thanh nào, lão ngẩng đầu nhìn Nguyên Thú đế và Cung Tuấn, còn có cả triều văn võ đang vây lại, mặt toát ra vẻ khiếp sợ, lo lắng và nỗi thương xót không biết vì sao ập đến một cách rõ ràng.

Lão không khỏi thở dài trong lòng, tiểu Chu đại nhân này chỉ nói một câu thôi mà đã khiến cho lòng của tất cả triều thần biển động, đến quan Ngự sử thường xuyên giận dữ mắng mỏ Chu Tử Thư không chiếu tự ý chém ba trăm quan ở trên triều đình và các hội nghị còn lo lắng ra mặt, nói chi đến những người khác.

Đi lại trong cung đã ba mươi năm, thật sự là lão chưa từng thấy cảnh tượng nào như cảnh trước mắt, tới nỗi những kẻ thù chính trị từng công kích Chu Tử Thư cũng phải bái phục vì phẩm hạnh của y.

Vấn đề là bây giờ tiểu Chu đại nhân không hề có ý muốn được sống, cũng không biết là vì điều gì, chẳng lẽ là y áy náy trong lòng sau khi đã chém chết ba trăm quan hay sao?

Thái y nghĩ loạn cả lên, nhanh chóng bị một loạt phương pháp y học để cứu Chu Tử Thư làm choáng ngợp, lão lệnh cho người đi nấu một chén canh dã sâm năm trăm năm để kéo dài hơi thở rồi nhìn về phía bụng của y, trước gương mặt đầy đe dọa của Nguyên Thú đế và dáng vẻ đờ đẫn của Cung Tuấn, cùng với ánh mắt sáng rực của cả triều văn võ phía sau lưng, lão không ngừng lau đi mồ hôi lạnh rịn ra trong lòng bàn tay.

"Không thể kéo dài thời gian nữa, bây giờ còn chưa chảy máu nhiều, rút được đao ra vẫn không chắc sẽ ổn định. Vì vậy khi rút đao cần phải rút nhanh và vững, sau đó nhanh chóng rải thuốc cầm máu lên, nhưng hoàn thủ đao này gần như đã đâm xuyên qua bụng gây tổn thương lên cơ quan nội tạng, nếu như hiệu quả của thuốc cầm máu không phát huy kịp với tốc độ xuất huyết, chỉ sợ..."

"Ngươi đừng lải nhải nữa!" Nguyên Thú đế nổi giận quát mắng, nhìn về phía đại thái giám nói: "Đi lấy hết tất cả thuốc cầm máu và dược liệu giữ hơi treo mạng ra đây!"

Đại thái giám gật đầu lia lịa: "Lão nô lập tức kêu người đi lấy ngay!" Nói xong thì nhanh chân lui ra ngoài.

Chu Trường Phong tự đề cử mình: "Ta cõng Đô tri chạy đi sẽ nhanh hơn một chút."

Lòng đại thái giám cũng nóng như lửa đốt, nghe vậy thì không do dự nữa, thế là được Chu Trường Phong cõng đi lấy dược liệu, quả nhiên là nhanh hơn ông chạy chậm đi lấy nhiều.

Mà ở bên này, theo sự hướng dẫn của thái y, Nguyên Thú đế đặt Chu Tử Thư nằm xuống đất, thái y lau tay xong liền chuẩn bị cầm đao rút ra, bỗng nhiên Cung Tuấn lên tiếng: "Để ta rút đao."

Thái y sửng sốt, trong điện này đúng là không có tay ai cầm đao vững hơn tiểu quận vương, có điều hắn có làm được không?

Thái y không thể tự chữa cho mình, tiểu quận vương xách đao giết người như thái thịt rút đao cho tiểu lang quân của hắn thì liệu có sợ hãi khiến tay run hay không? Nếu lỡ có chuyện gì xảy ra, chẳng phải sau này hắn sẽ tự trách bản thân mình vì cái chết của tiểu Chu đại nhân hay sao?

Mặc dù nghĩ như vậy nhưng thái y vẫn tránh người ra nhường chỗ, dù gì lão cũng không chắc rằng tay mình đủ ổn định để rút đao, tuy tâm trạng của Cung Tuấn không yên, nhưng trí nhớ cơ bắp của cánh tay hắn hẳn là vẫn có thể chống đỡ giúp hắn vững vàng rút đao ra.

Cung Tuấn nhìn Chu Tử Thư, bỗng dưng cánh tay khẽ động, một tiếng soạt vang lên, tiếng đao rời khỏi da thịt kèm theo âm thanh leng keng rơi xuống đất, còn bàn tay rút đao của hắn thì bắt đầu mất kiểm soát run lên.

Thái y nhanh tay lẹ mắt cầm lấy thuốc cầm máu lên, thuốc bột rơi xuống nơi máu loãng đang ồ ạt chảy ra, rắc hết lọ này đến lọ khác, mãi đến khi bột thuốc phủ đầy kín miệng vết thương kinh khủng, lượng máu chảy ra giảm dần cho đến khi ngừng hẳn, trên đất đã có đến bảy tám lọ thuốc nằm lăn lóc.

"Hồi bẩm bệ hạ, hồi quận vương điện hạ, cứ cách một canh giờ lại đút một chén canh nhân sâm giữ hơi thở, đợi đến khi máu lưu thông ổn định rồi mới khâu lại, trước hết hãy đưa tiểu Chu đại nhân đến một nơi an toàn ít người, chỉ sợ chốc nữa sẽ sốt cao không giảm, vì vậy phải có người coi sóc tiểu Chu đại nhân từng giây từng phút, dùng rượu lau chùi thân thể để hạ nhiệt độ, chú ý tránh để vết thương nhiễm trùng." Thái y chắp tay nói.

Nguyên Thú đế: "Dọn dẹp noãn các, sắp xếp cho Chu khanh vào ở đi, lệnh cho cung nữ thái giám và thái y ngày đêm trông coi không nghỉ, ai dám lười biếng, dây dưa lỡ việc ảnh hưởng tính mạng Chu khanh thì giết chết ngay tại chỗ!" Noãn các nằm ngay phía sau điện Tử Thần, khoảng cách cũng gần, vốn rất thích hợp để Chu Tử Thư không tiện di chuyển vào ở ngay. Bấy giờ đại thái giám và Chu Trường Phong mới gấp gáp trở về, đút cho Chu Tử Thư thuốc bổ khí chất lượng tốt, thái y cũng nhân cơ hội này khâu miệng vết thương của y lại, chủ yếu để cho miệng vết thương không bị nứt ra lại trong quá trình di chuyển.

Chu Tử Thư được đưa vào noãn các, giành giật lại sự sống trong mê man bất tỉnh, Cung Tuấn đi theo bên cạnh y không rời nửa bước, tuy trong lúc đó có ra ngoài tìm Chu Bá Ung, nhưng chỉ đứng trên cung đạo nói cho ông biết vài chuyện, sau đó trở lại noãn các rồi mặc kệ không hỏi đến việc ngoài điện nữa.

***

Bàn ghế ngoài điện Tử Thần đã gãy tan tành, chén khay vỡ nát trông vô cùng hỗn loạn, thái giám cung nữ và các mệnh phụ, triều thần đã chết đều bị đưa đi, Xương Bình bấu chặt chỗ cánh tay đứt lìa đang được thái y rắc bột cầm máu lên, đau đớn không ngừng rên rỉ, Hoàng hậu thì bị đạp một cước, nội tạng tổn thương, máu tươi trên khóe môi đã khô lại, tóc tai bù xù như một người điên.

Về phần Thái tử, hắn đứng một mình trong đại điện, trên mặt toát ra vẻ đau thương đến cùng cực, bả vai và lưng eo rũ xuống, không còn chút phong thái kiêu ngạo và hăng hái nào của Đông cung Thái tử nữa.

Chương Thuyết Lệnh ngây ra như phỗng, nhìn thấy Nguyên Thú đế đi tới, thở hồng hộc quỳ xuống xin tha: "Bệ hạ, bệ hạ, thần chỉ nhất thời hồ đồ thôi, cầu xin bệ hạ nể tình vi thần hầu hạ hai triều mà bỏ qua cho, thần nguyện từ quan về quê, nguyện dâng lên toàn bộ gia tài... Đúng rồi, thần còn sẵn lòng xác nhận Xương Bình công chúa hối lộ quan trường, vì tình riêng mà làm việc trái pháp luật, việc ác chồng việc ác, văn vật mà thần thu được đều ở trong nhà! Đều chưa tiêu xài gì cả! Thần bằng lòng lấy công chuộc..."

Lời còn chưa dứt, Nguyên Thú đế đã giật lấy hoàn thủ đao trong tay Cấm vệ chặt bỏ đầu Chương Thuyết Lệnh, tiện tay ném trả đao lại cho Cấm vệ sau lưng rồi bước đến trước mặt Thái tử, vung tay tát mạnh một cái khiến hắn ngã xuống đất.

Đầu Thái tử ong ong lên, vô thức che mặt lại, xoa đến nỗi rách da chảy máu, sợ hãi nhìn Nguyên Thú đế: "Phụ hoàng..."

"Ngu xuẩn! Không thể trọng dụng giống hệt như mẹ ruột của ngươi!" Nguyên Thú đế nhìn Thái tử bằng nửa con mắt, không hề che giấu sự phẫn nộ và ghét bỏ của mình: "Đúng là trẫm thiên vị, thế nhưng lập ngươi làm Thái tử đã khi nào không bồi dưỡng ngươi theo tiêu chuẩn của một Thái tử hay chưa? Gả con cái của Lư tri viện cho ngươi, mời Thái phó đương triều đến dạy dỗ ngươi, vậy mà ngươi lại đi mơ mộng đến Chu gia tứ lang, bằng mặt không bằng lòng, còn học phụ ân bội nghĩa, nếu như ngươi có được ba phần dũng khí của Tử Uyên, dám đến cầu hôn Chu gia tứ lang đàng hoàng giống như hắn cưới hỏi Chu Tử Thư, nếu như ở bên ngoài ngươi có được ba phần nhiệt tình để bảo vệ và tôn trọng thê tử của mình như thế thì đã chẳng đến mức khiến cho người khác phải xem thường. Trẫm giao Hình bộ cho ngươi, cũng biết lão Ngũ kính trọng yêu mến ngươi nên giao Hộ bộ cho nó, giao chức Tào ty sứ Hoài Nam cho Tư Mã Kiêu... Nói đi nói lại, văn thần võ tướng, tài quyền nào mà chưa cho ngươi? Nhưng ngươi có muốn quay đầu nhìn lại xem mình đã làm nên trò trống gì hay không?"

"Cho Hộ bộ, thủy vận kinh đô và phương bắc tham ô nhận hối lộ thương thuế, lừa công gạt pháp, trên làm dưới theo!"

Ngũ hoàng tử sững người, hóa ra phụ hoàng biết hết sao?

"Cho Hoài Nam, trơ mắt nhìn tiền bị đưa vào trong kho phủ của An Hoài Đức, giúp đỡ Tĩnh vương dưỡng binh riêng!"

Trên mặt Thái tử xuất hiện vẻ kinh hoàng, chẳng phải lúc trước đã lấy cớ lừa gạt giấu giếm phụ hoàng được rồi sao?

"Cho Hình bộ, ngươi thường xuyên dùng nó để đối phó với một vài triều thần không nghe lời, cứ hễ gặp rủi ro là tiến hành nghiêm hình tra hỏi, khi có được bằng chứng thì ngoảnh mặt vặn hỏi gây khó dễ cho chính đảng trên triều. Cho ngươi quyền điều động Cấm vệ, ngươi lại quay đầu dùng nó mưu phản, bức vua thoái vị..." Nguyên Thú đế đến giới hạn tức giận không chịu nổi đạp vào ngực Thái tử một cước, "Ngươi nói thử xem, ngươi phạm phải tất cả những tội này đã đủ để trẫm phế đi chức Thái tử này của ngươi hay chưa?"

"Từng câu từng câu đều chỉ trích trẫm trăm phương ngàn kế phế đi vị trí Thái tử của ngươi phải không? Trẫm còn cần trăm phương ngàn kế sao? Đúng thật là trẫm yêu ai yêu cả đường đi, thiên vị Tử Uyên, nhưng Tử Uyên đi trấn thủ biên cương, lập nhiều chiến công, đã bao giờ thấy nó tự kiêu tự đại vì được cầm binh hay không? Binh quyền nói giao là giao, trẫm lệnh cho nó đi làm cái gì nó sẽ làm cái nấy, việc nào nó cũng hoàn thành xuất sắc, nhưng trẫm chưa từng cho một công trạng mà còn thường xuyên quát mắng, ngươi nhìn thấy nó như vậy mà lòng vẫn bất mãn ư? Tuy tính tình nó thất thường nhưng lại chưa bao giờ vượt quá giới hạn, đừng nói chi đến việc công kích sát hại đối thủ chính trị, cũng không hề tham ô nhận hối lộ, không áp bức con dân... Ngươi bất mãn ư, ngươi cảm thấy Tử Uyên không sánh bằng ngươi, vậy thì ngươi nói cẩn thận lại xem, ngươi hơn Tử Uyên ở chỗ nào?"

"Ngươi trách trẫm bất công, trẫm cũng đã cho ngươi cơ hội cạnh tranh ngôi vị hoàng đế công bằng, cho Trung cung Hoàng hậu quyền lợi và sự tôn trọng nên có, nhưng ngươi thì đã làm cái gì? Nàng ta đã làm cái gì?" Nguyên Thú đế cao giọng, nghiêm nghị quát lên: "Nàng ta chấp chưởng trung quỹ rồi tùy ý đánh giết cung nữ thái giám, sát hại hậu phi và con cái nối dõi hoàng gia, còn hết lần này đến lần khác ra tay hại Tử Uyên, hai năm trước Tử Uyên trả lại binh quyền, lui bước về phủ quận vương, độc phụ này vẫn không từ bỏ ý định, phái hơn hai mươi mật thám lẻn vào phủ quận vương, sau khi bị giết thì bịa đặt Tử Uyên tàn nhẫn hung ác làm hỏng thanh danh của nó! Khi Tử Uyên kết hôn còn muốn nhét người vào hậu viện của nó! Hãy nhìn xem còn có việc gì mà nàng ta chưa làm hay không?"

Ngũ hoàng tử kinh hãi, khó mà tin được, những chuyện này gã hoàn toàn không biết, trong lòng gã, Hoàng hậu phải là một người dịu dàng hào phóng, vô cùng thiện lương mới đúng, bà ấy đối xử với một hoàng tử không còn mẫu thân, không có nhà ngoài lớn mạnh làm chỗ dựa là hắn như con trai ruột, bởi vậy nên gã mới thành tâm cống hiến sức mình cho Đông cung.

Thái tử co ro ngồi trên mặt đất, chỉ lạnh lùng cười khẩy, "Ngoài miệng phụ hoàng nói vậy, nhưng trong lòng cũng công chính liêm minh giống như vậy sao? Người nói cho nhi thần cơ hội cạnh tranh công bằng, nhưng vì điều gì mà vẫn hao tâm tổn trí lót đường cho Cung Tuấn? Cung Tuấn thân trúng cổ độc, uống thuốc và châm cứu đều không có hiệu quả, đã mất đi tư cách làm Thải tử, vì sao người lại muốn bồi dưỡng Lục đệ?" Trong ánh mắt và lời nói của hấn đều toát lên vẻ căm hận, "Rõ ràng là từ tận trong đáy lòng người chưa bao giờ quan tâm đến đứa con trai này! Rõ ràng người chưa bao giờ muốn để ta trở thành Thái tử!"

Đã phong hắn làm Thái tử, vì sao còn muốn bồi dưỡng người khác?

"Ích kỷ vì lợi riêng, không còn thuốc chữa." Nguyên Thú đế rất thất vọng, bởi không phải là ông không dồn tâm huyết của mình vào Thái tử, "Thái tử bất hiếu bất nghĩa, không biết xấu hổ, vừa ỷ lại vừa kiêu ngạo, phể truất vị trí Thái tử, nhốt vào chùa Tôn Chính! Hoàng hậu bất tài thất đức, kết bè kết cánh lộng quyền hậu cung, ý đồ làm loạn tiền triều, đánh mất đức hạnh khó làm Trung cung, bỏ tất cả phong hào, phế làm thứ dân, giáng chức vào lãnh cung!"

Nguyên Thú đế quay lưng lại, đứng chắp tay, không muốn nhìn Thái tử và Hoàng hậu nữa: "Kéo xuống!"

Thái tử không ngừng cười khẩy, lui từng bước về phía sau, bỗng nhiên bật cười điên cuồng rồi hỏi đến Lư Uyển vẫn còn im lặng đứng lại trong điện: "Ta còn nghĩ là nàng yêu ta đấy, vì sao lại phản bội ta? Vì cái gì mà một bên dỗ ngon dỗ ngọt, một bên trơ mắt nhìn ta nhảy vào cạm bẫy mà không cứu?"

Lư Uyển cúi đầu nhìn nền nhà, "Gia huấn thiếp được dạy từ nhỏ chính là trung quân ái quốc, tuyệt đối không làm chuyện sai nghịch thiên nghịch quân nghịch tổ tông."

"Hay cho những lời chính nghĩa." Thái tử đã hoàn toàn mất hết ý chí, đột nhiên nhặt đao dưới đất lên đặt ngang cổ mình, hiếm khi toát ra vài phần khí phách anh hùng cùng đường bí lối, quát lớn: "Không cần các ngươi ra tay! Thay vì khoác gông trên vai, xích khóa chặt chân, để mặc người khác làm nhục, sống không bằng chết, chằng bằng để ta xuống Hoàng tuyền ngay bây giờ!"

Vừa dứt lời liền chém ngang yết hầu, máu tươi văng xa ba thước, bỏ mạng giữa điện Tử Thần.

"A a a!!" Hoàng hậu cất tiếng hét tê tâm liệt phế, bổ nhào đến bên người Thái tử kêu lên thảm thiết: "Con của ta..." Hai đòn tấn công nặng nệ ấy thế mà lại khiến cho lòng bà bình tĩnh trở lại, vừa khóc vừa cười, vừa đau đớn vừa ân hận, nhặt đao vừa chém ngang cổ Thái tử lên kề vào cổ mình, ngẩng đầu nhìn Nguyên Thú đế hô to: "Bệ hạ, ta thân làm bề tôi đã có lúc phụ chàng, nhưng khi làm vợ chàng là chàng phụ ta!"

Xoẹt một tiếng chém qua cổ, máu văng tung tóe, hai mẹ con bọn họ đồng quy Hoàng tuyền.

Đoạn tuyệt đến nước này rồi, Nguyên Thú đế siết chặt nắm đấm, không muốn quay đầu nhìn mặt của Hoàng hậu và Thái tử một lần cuối cùng nữa.

Bọn họ mưu phản, bức vua thoái vị vẫn chưa bị ban chết, đã không mang ơn mà còn tự sát ngay tại ngự tiền, tự tay gạt bỏ sạch sẻ đoạn tình cảm vợ chồng, cha con cuối cùng.

Đại thái giám thầm thở dài trong lòng, Hoàng hậu và Thái tử chỉ biết phí công oán trách bệ hạ không công bằng, đến cả tính tình của bệ hạ còn chẳng đoán ra nổi, chẳng trách thất bại vô cùng thê thảm.

Lư tri viện muốn đưa Lư Uyển về nhà, nhưng Lư Uyển nói nàng muốn đưa Thái tử đoạn đường cuối, Nguyên Thú đế không nói lời nào chính là ngầm đồng ý.

Thái giám im lặng nâng thi thể của Hoàng hậu và Thái tử lên, cúi đầu đứng yên, chờ người lên tiếng.

Lư Uyển lẳng lặng nhìn thi thể của Thái tử trong chốc lát rồi vươn tay khép hai mắt còn chưa nhắm lại, thoáng chốc hai mắt đẫm lệ, cánh môi khẽ run lên, nói nhỏ như tiếng muỗi: "Chàng hỏi thiếp, thiếp cũng muốn hỏi chàng, vì sao chàng có thể vừa sắm vai vợ chồng kim điệp tình thâm* với thiếp nhiều năm như vậy, còn trong lòng lại luôn nghĩ về một người khác?"

(*) Kiêm điệp tình thâm <鹣鲽情深>: phép ẩn dụ về tình cảm sâu sắc của con người, đặc biệt là tình cảm vợ chồng.

Người đã chết rồi không thể trả lời, Lư Uyển sẽ mãi mãi không nhận được đáp án, nhưng nàng cũng chẳng muốn biết nữa.

"Đi thôi."

Thái giám nghe lệnh, đi theo Lư Uyển trở về Đông cung.

Xử lý Hoàng hậu và Thái tử xong, còn lại đầu sỏ gây chuyện Xương Bình.

Nguyên Thú đế quay đầu lại lạnh lùng nhìn bà ta, hoa phục của bà đã thấm đầy máu và bụi bặm, trông bẩn thỉu không chịu nổi, búi tóc cao lỏng lẻo, vì mất máu quá nhiều và phải chịu đau đớn mà sắc mặt trắng bệch khiến người ta thấy mà sợ.

"Trẫm vốn đã định bỏ qua cho ngươi rồi."

Xương Bình cười mỉa, nụ cười nhợt nhạt, yếu ớt nói: "Lời này... Huynh đem đi mà lừa gạt thần tử của huynh thì được, chứ đừng dùng nó để... Lừa gạt thần muội."

Nguyên Thú đế im lặng nhìn bà, người em gái ruột chảy cùng dòng máu với ông, đã từng có một thời gian hai người rất thân thiết, khi bà còn là một cô bé nhỏ xíu, bị Tĩnh vương bắt nạt sẽ chạy về cung bắt ông đi đánh lão một trận cho hả giận, cuối cùng lại phản bội ông vì đã được mấy món đồ chơi lạ mà Tĩnh vương mua từ bên ngoài về dỗ dành, khi ấy ông còn tức tối đến nỗi chạy tới đánh nhau với Tĩnh vương một trận, cuối cùng ba huynh muội ngồi lại ăn uống no căng bụng mà vẫn cười vui vẻ không ngớt.

Có lúc ông trở về từ chiến trường không gượng dậy nổi, Xương Bình còn giúp trông nom cuộc vật lộn giữa triều đình và hậu cung làm mẫu hậu mệt mỏi, giúp ông nịnh nọt phụ hoàng, còn giúp ông quản lý công việc trong phủ, tiểu cô nương vừa đến tuổi cập kê đã từng dùng đôi vai đơn bạc gầy nhỏ của mình giúp huynh trưởng vô năng không được lòng vua chống đỡ mưa gió.

Khi ấy, Xương Bình vẫn còn là một cô gái tốt, tính tình hơi kiêu căng bá đạo một chút nhưng không đáng trách, dù sao cũng là đích trưởng công chúa được yêu thương nhất, những thứ tốt nhất trên đời này đều đưa đến trước mặt bà chỉ đế đổi lấy được một nụ cười mà thôi.

Vì sao sau này lại thay đổi?

Sao bây giờ lại rơi vào tình cảnh ngươi chết ta sống như vây?

Không nghĩ ra được lý do, hoặc là thật ra trong lòng đã đoán được lý do, chẳng qua Nguyên Thú đế chỉ không muốn truy cứu xem ai sai nhiều hơn, ai đúng nhiều hơn, ân oán giữa huynh muội bọn họ cũng nên kết thúc rồi.

"Xương Bình phóng túng vì ham muốn cá nhân, nói lời gièm pha dụ dỗ Đông cung, mê hoặc Hoàng hậu, gây ra chấn động xã tắc tiền triều, triều thần bất an, tước hết tất cả phong hào chức tước và quà thưởng..." Dừng một chút, Nguyên Thú đế nói tiếp: "Ban rượu độc."

Đến cùng vẫn để cho Xương Bình toàn thây.

Nhưng lúc này, Chu Bá Ung tiễn Tạ thị bị tổn thương tâm thần rời khỏi hoàng cung trở về điện Tử Thần, vén quan bào lên quỳ rạp xuống, giữ yên không đứng dậy: "Thứ dân Xương Bình có dính líu đến đại án Lưỡng Giang, bao gồm cả các tội lớn như mưu hại thạch thương họ Khuông, đoạt lấy tài sản riêng và hãm hại mạng người, tham ô nhận hối lộ, ở phía sau màn kiểm soát buôn lậu thủy vận Lưỡng Giang, để tiêu hủy chứng cứ phạm tội mà giết ba trăm người ở mỏ đá... Hành vi phạm tội nặng nề, tội lỗi chồng chất, giết người thì đền mạng, nhưng bọn họ đều đã bị giết chết hết, một cái chết không đủ để xí xóa tội ác của Xương Bình, vì vậy phải chiêu cáo hành vi phạm tội này với thiên hạ, trả lại công bằng cho lê dân bách tính! Vì vậy vi thần cầu xin bệ hạ hãy giao Xương Bình cho thần tra hỏi kĩ!"

Nguyên Thú đế nhìn ông, mặt không đổi sắc: "Trẫm nhớ là Thừa Giới không hề có chức vụ gì liên quan đến đại án Lưỡng Giang, còn Xương Bình thì vẫn chưa được tra hỏi, làm sao ngươi biết được nhiều như vậy? Là do thuận tiện điều tra ra được nhờ làm chủ thẩm đại ngục án trường thi Giang Nam năm ngoái sao?"

Giọng nói Chu Bá Ung đè nén tâm trạng vô cùng nặng trĩu: "Vừa rồi trên đường ra ngoài cung, thần đã lần lượt gặp được Trần thượng thư, Đỗ đạc chi, Cao đồng tri và Khang vương điện hạ, từ lời bọn họ mới biết được một vài chi tiết có liên quan đến đại án Lưỡng Giang. Lúc quay về điện Tử Thần còn gặp Lâm An quận vương, rốt cuộc cũng biết vì sao ngũ lang lại chém ba trăm quan, vì sao..."

Gân xanh trên huyệt thái dương của ông nổi lên, quai hàm căng chặt, cắn răng mạnh đến mức lợi rướm máu, mùi máu tanh quanh quẩn ngay đầu lưỡi, không ngừng kích thích Chu Bá Ung, ánh mắt trừng to luôn hướng về phía mặt đất để che giấu tơ máu đỏ tươi.

"Vì sao lại treo những cái đầu người bị chém rụng lên trước cửa phủ công chúa, vì sao lại khăng khăng muốn đẩy Xương Bình ra trước mặt người trong thiên hạ!" Chu Bá Ung nói từng câu từng chữ, lòng dạ không ngừng nhói đau theo: "Bởi vì ngũ lang tận mắt nhìn thấy ba trăm người bỏ mạng trong biển lửa, bởi vì dân chúng Lưỡng Giang đem mối oan biển máu kia đến trước mặt ngũ lang, bởi lẽ thằng bé ngay thẳng trong sạch, yêu dân như con, không đành lòng để chúng dân mang oan khuất ngút trời, không thể không để ý đến sơn hà xã tắc! Không thể không trung quân báo quốc! Một bên là chủ nhục thần chết, một bên là bá tánh chịu nhiều bất công, Chu Tử Thư lòng như lửa đốt, ruột gan đứt đoạn, có miệng khó nói, đành phải liều lĩnh nhấc cao lỗi lầm to lớn của thiên hạ, chỉ có thể gánh chịu tai tiếng bất hiếu tàn nhẫn và tất cả mọi sự công kích của sĩ tử văn nhân trong thiên hạ, nhưng việc trừng trị kẻ ác ấy chẳng những có thể bảo vệ được mặt mũi cho quân vương, mà còn có thể giải oan cho dân chúng trong thiên hạ!"

Hai bên đều hiểu rõ sự thật cất giấu trong lời nói, hôm nay Xương Bình mưu phản bức vua thoái vị, chứng cứ phạm tội đã vô cùng chính xác, dù có tra bao nhiêu vụ án cũng sẽ không làm liên lụy đến Nguyên Thú đế, bởi vì sẽ chẳng có ai tin tưởng lời nói của một phản tặc nghịch đảng.

Mặc dù bộ mặt thật của Nguyên Thú đế chưa bị xé rách hoàn toàn, nhưng Chu Bá Ung vẫn khiến cho ông vô thức nảy sinh cảm giác phiền muộn, cân nhắc đến những việc ác mà Xương Bình đã làm, đúng thật là ông đã đuối lý, đành phải kiềm chế nói: "Thừa Giới, trẫm biết trong lòng ngươi có thù cũ, nhưng Thái hậu cũng đã lớn tuổi, tước đi phong hào của Xương Bình, biếm làm thứ dân, còn ban chết... Thái hậu không gặp Xương Bình hai mươi năm trời rồi, bà ấy từng đổ bệnh nhiều lần vì quá nhớ con gái mình, nhưng khoảng thời gian Xương

Bình về kinh, lão nhân gia lại bận tâm đến ngươi, dù con gái duy nhất đã ở ngay trước mắt cũng từ chối gặp mặt, nếu như để bà ấy biết được Xương Bình phải chịu hết mọi nhục nhã, cõi lòng bà sẽ đau đớn đến nhường nào đây?"

Chu Bá Ung kiên nhẫn đáp: "Bệ hạ, nhưng dân chúng Lưỡng Giang cần công bằng!"

"Ngươi! Hồ đồ đến mất tinh thần rồi! Ngươi vẫn ghi hận chuyện năm xưa như thế sao? Có phải suốt hai mươi năm qua cũng luôn lén lút oán trách trẫm hay không?"

"Thần sợ hãi." Chu Bá Ung dập đầu ba cái, thoáng chốc da đầu đã tím bầm, "Bệ hạ còn nhớ trong lúc hỗn loạn, Xương Bình có nói với ngũ lang một câu 'Hai mươi năm cuộc đời bị ta thao túng' hay không?"

Nguyên Thú đế gật đầu, lúc nghe xong câu nói ấy, trong lòng ông đã cảm giác được có gì dó là lạ, chỉ là chưa kịp suy nghĩ nhiều, bây giờ nghĩ kĩ lại mới thấy thái độ ghét hận của Xương Bình đối với Chu Tử Thư vô cùng bất thường.

Trên đời này làm gì có người mẹ nào lại đối xử với con cái của mình như một kẻ thù cơ chứ?

Nhưng Xương Bình không chỉ hận Chu Tử Thư, nếu như có thể ăn thịt uống máu thì Chu Tử Thư đã chết từ lâu rồi.

"Ngươi biết nguyên nhân sao?" Nguyên Thú đế vừa hỏi vừa nhìn về phía Xương Bình, người đang nở nụ cười hả hê một cách rất kì dị, cảm giác có điều chẳng lành.

Chu Bá Ung ngẩng đầu, hận đến mức hai mắt đỏ bừng, trông như sắp nhỏ máu: "Hai mươi năm trước, Xương Bình uống thuốc trợ sản với ý đồ hạ sinh con trai sớm hơn vợ thần nửa canh giờ, sau đó lệnh cho thiến cẩu Lý Đắc Thọ đổi hai đứa trẻ với nhau, lúc bị giáng chức đến Hồng Châu thì cố tình để con lại thay ả chịu đựng bọn ta giận chó đánh mèo, căm ghét, oán giận!"

Mỗi khi nói một từ ra, trong đầu Chu Bá Ung lại hiện lên những lời ông từng nói, những chuyện từng làm với Chu Tử Thư, đó là con trai nhỏ của ông, là đứa trẻ chịu lắm tai họa, mệnh đồ trắc trở, mà những trắc trở, tai họa mà nửa đời trước y phải chịu đựng đó đều là do ông mà ra!

Chu Bá Ung hận đến nỗi hai tay run rẩy nổi đầy gân xanh, "Bệ hạ, thần chỉ hỏi một câu thôi, ngũ lang của thần, đứa trẻ nhà họ Chu thần, nó đã phạm phải luật trời nào mà phải chịu tội như vậy?"

Nguyên Thú đế lảo đảo lui một bước, tất nhiên là không ngờ rằng sự thật lại hoang đường như thế, ông không ngờ nó lại thẳng thừng bóp nghẹt lòng người như thế, ông nhớ lại dáng vẻ của Chu Tử Thư, phát hiện ra trong trí nhớ của mình không hề có hình ảnh của Chu Tử Thư lúc còn bé và thuở thiếu niên, bởi vì khi ấy y vẫn còn là Chu gia "tứ lang" con ruột của công chúa, để đền bù tổn thất cho người nhà họ Chu, ông và Thái hậu đều cố ý lạnh nhạt Chu Tử Thư, chạy đi cưng chiều "ngũ lang" thật.

Bọn họ đều yêu thương, nuông chiều Chu Ngọc Tranh vừa là để bồi thường cho nhà họ Chu, cũng là để chuộc tội giúp Xương Bình, giúp bà ta hòa giải ân oán, thế mà bây giờ Chu Bá Ung lại nói rằng hai đứa trẻ cùng sinh một ngày đó đã bị đánh tráo ư?

Những gì bọn họ làm để đền bù tổn thất, hóa giải ân oán đều đã cho sai người, càng cho đi nhiều yêu thương, chiều chuộng, thì lại càng mắc nợ Chu Tử Thư à?

Nguyên Thú đế cúi đầu nhìn máu tươi trong lòng bàn tay, rồi nhìn xuống vết máu đã khô lại bên trên áo bào, hình ảnh Xương Bình cầm đao lao tới, không còn đường nào thối lui vừa nãy không ngừng chớp lóe trong đầu, Chu Tử Thư mà ông từng muốn giết vô số lần đã chắn phía trước ông, chịu một đao không thể ngăn cản của Xương Bình.

Nguyên Thú đế sống một đời được tôn trọng, tre già măng mọc, vô số người chết vì ông, nhưng ông thừa biết những người đó hoặc là do đã làm chuyện động trời, hoặc là vì an nguy xã tắc và triều đình mà phải buộc mình vào người đế vương, không còn gì để mất.

Đương nhiên cũng có người yêu ông, sẵn lòng chết vì ông, thế nhưng những người này chỉ đơn giản là yêu thân phận hoàng đế của ông, thành ra mọi tình yêu đó đều chẳng có giá trị gì cả.

Chỉ có Thôi Thanh Như là thật lòng yêu thương ông ngay cả lúc ông chán nản khó khăn, chỉ vì yêu ông mà tự nguyện chịu chết, chết vô cùng thê thảm, để lại một dấu vết vĩnh viễn không thể phai mờ trong lòng Nguyên Thú đế.

Bây giờ lại thêm một Chu Tử Thư nữa, không phải xuất phát từ tình yêu thương, lại càng không xuất phát từ lòng trung quân, chỉ đơn thuần là vì bản thân ông thôi, mà y lại sẵn sàng lấy thân mình cản đao, dùng cái chết để cứu ông.

Nguyên Thú đế có thể nhìn ra được, dù cho có là ai gặp nạn đi chăng nữa thì Chu Tử Thư cũng sẽ đứng ra hy sinh mà thôi.

Đối với một vị đế vương có thể nhìn thấu lòng người mà nói, thì dù là dồn hết tâm trí mưu tính hay là sự cung kính biểu hiện ra ngoài vì thân phận hoàng đế của ông cũng đều không bì kịp với việc Chu Tử Thư liều mình hy sinh cứu mạng ông, sự thật lòng đó thật sự khiến ông thấy xúc động.

Chu Tử Thư không màng sống chết, trong lúc mất hết hy vọng đã từ chối để thái y rút đao cho mình, tấm lòng cao cả vì thiên lý công đạo, vì dân vì nước ấy đều làm cho Nguyên Thú đế cảm động.

Vả lại ông chưa từng thấy một Tử Uyên ngỡ ngàng luống cuống, hồn bay phách lạc, đau đớn tận xương tủy như thế, một hỗn thế ma vương luôn luôn hăm hở, dám ném cả mặt mũi của vua, dám cát bào đoạn nghĩa với ông, đến khi cổ độc quấn thân gần như sắp chết cũng chưa từng khóc, chưa từng sợ hãi, vậy mà một ngày nọ lại có thể bày ra dáng vẻ đau xót thấu tim gan, hoảng sợ không biết làm sao ngay trước mặt ông.

Bây giờ sự thật đổi con lại ập tới, cuối cùng Nguyên Thú đế cũng đã mắc nợ rồi.

Chu Tử Thư, Chu Tử Thư.

Thanh thiên của lê dân bách tính, trọng thần xương cánh tay của triều đình Đại Cảnh, là đứa trẻ Chu phủ bị tu hú chiếm tổ*, là người vợ mà Tử Uyên đem tam thư lục lễ đến lấy về, là ân nhân cứu mạng của ông...

(*) Nguyên văn: Cưu chiếm thước sào 鸠占鹊巢 (Tu hú chiếm tổ chim khách): Tu hú chiếm tổ. Tu hú là loài chim chuyên đẻ nhờ các tổ chim khác như khách, chim chích,.. v.v. tu hú con khỏe, dữ, có thể hất con chim con trong tổ ra để giành phần ăn từ chim bố mẹ. Tự vấn lương tâm cảm thấy hổ thẹn quá.

"Dẫn đi đi, giao cho ngươi đấy." Nguyên Thú đế chậm rãi quay người lại, đưa tay vẫy vẫy, dừng lại một chút rồi nói tiếp: "Trừng phạt theo luật."

"Thần," Chu Bá Ung dập đầu, "Tạ bệ hạ!"

***

Khi Xương Bình bị dẫn đi vẫn còn không biết ăn năn mà nhìn Chu Bá Ung cười: "Tạ Lang Hoàn thua ta rồi, cả đời này nàng ta đều thất bại trước ta. Còn Chu lang chàng, dù có là oán là hận cũng đều phải nhớ đến ta, mãi mãi, mãi mãi không bao giờ có thể thoát khỏi ta!" Chu Bá Ung lạnh lùng liếc bà ta.

"Đau không? Ta nói cho chàng biết, giống như lời chàng nói, đúng là ra cố tình để Chu Tử Thư sống, để cho các người nhìn thấy nó là sẽ nhớ đến ta, nhớ đến những chuyện mà ta đã làm với các người, dù ta đã rời đi cũng không cách nào sống yên bình. Ta còn lệnh cho người đút Chu Tử Thư ăn tẩy tủy đan, để cho nó sống thật khỏe mạnh, khác với đứa con ta thân thể yếu ớt nhiều bệnh vì sinh non, các người càng yêu thương tứ lang thì sẽ càng hận Chu Tử Thư, cũng sẽ càng giày vò nó nhiều hơn ha ha... Nhưng mà đáng tiếc thật nhỉ, Chu Tử Thư không bị các người dằn vặt dần dần cho đến chết ở hậu trạch, tứ lang cũng không thể trở thành đứa con ruột để cho các người yêu thương cưng chiều đến hết đời... Thế nhưng! Thế nhưng khi nhìn thấy dáng vẻ đau đớn của các người khi sự thật bị vạch trần, cô thấy vui sướng lắm!"

Xương Bình điên cuồng tiếp lời: "Chu Bá Ung, tứ công chúa năm đó vừa nhìn thấy chàng đã yêu, thất tình lục khiếu đều buộc lên người chàng, nhưng chàng đã phụ nó, phụ ta, ta yêu chàng, cũng hận chàng, hận chàng vì đã chẳng thèm để ý đến tình cảm của ta, càng hận hơn nữa vì ngày đó các người đã trục xuất khỏi kinh đô, đuổi ta đến Lưỡng Giang, để ta chịu mọi khuất nhục... Rõ ràng ta là công chúa kim tôn ngọc quý! Nếu không phải vì chàng, không phải vì Chu Tử Thư, không phải vì các người gây sự, làm sao ta có thể chật vật đến như thế?"

Chu Bá Ung vươn tay đánh gãy cánh tay còn lại của Xương Bình, đồng thời nhanh chóng chém đứt quai hàm của bà ta khiến cho bà chẳng thế nói nên lời nữa, vẻ ngoài càng thêm thảm hại.

"Trong ngục có rất nhiều dụng cụ tra tấn ăn thịt người, chỉ sợ ngươi không chịu nổi thôi, hiện tại đã không còn tay, cũng không thể cắn lưỡi tự sát nữa, sau đó sẽ đánh gãy hai chân ngươi, đến khi ấy ngươi sẽ nếm trải được cảm giác muốn chết không xong."

Giọng nói nhẹ bẫng mà lạnh lùng của Chu Bá Ung khiến cho người nghe sởn hết gai óc, đến cả Xương Bình độc ác đến chết không hối cải cũng không nhịn được rùng mình một cái, tựa như nhớ ra được trạng nguyên lang hai mươi năm trước đã từng là một ác quan Hình bộ khiến cả phủ kinh đô nghe mà biến sắc.

Bà ta trợn to mắt, đồng tử co rút nhanh, cuối cùng Xương Bình cũng đã hối hận vì đã cho Chu Bá Ung cướp đoạt cơ hội tự sát của mình.

Chu Bá Ung ra khỏi cửa cung, phát hiện cỗ xe ngựa đưa Tạ thị về nhà vẫn còn ngừng ở bên ngoài, Chu Trường Phong và Chu Ngọc Khanh canh giữ ở hai bên xe ngựa, ai cũng ôm tâm sự nặng nề.

"Vẫn chưa đi à?"

"Cha?" Chu Trường Phong và Chu tam lang vội vàng đi qua, hai người đồng thanh hỏi: "Vết thương của Chu Tử Thư / ngũ lang thế nào rồi ạ?"

Có tiếng động vang lên trong xe ngựa, Chu Bá Ung bước nhanh về phía trước, vén rèm lên mới phát hiện Tạ thị đã ngã sấp xuống vì đứng dậy quá nhanh, đụng vào cạnh xe ngựa, va chạm mạnh làm răng mẻ đổ máu, máu chảy nhiều thế nhưng dường như bà vẫn chưa nhận ra đau đớn, vội vàng hỏi thăm, "Ngũ lang có thể," Tâm trạng vô cùng nhấp nhô, hơi thở dồn dập, không thể không hít thở một hơi rồi mới nói, "Có thể thoát khỏi nguy hiểm không?"

Chu Bá Ung vừa lau máu tươi trên cằm Tạ thị, vừa bảo đại lang đi tìm thuốc cầm máu, bàn tay vẫn đang run rẩy, nhỏ giọng nhẹ nhàng an ủi: "Không sao cả, thái y nói không sao, đã rút đao ra rồi, máu cũng ngừng chảy rồi, sẽ," Có vẻ như phát hiện giọng nói của mình trở nên nghẹn ngào không giống bình thường, ông bèn cố gượng cười: "Sẽ tỉnh lại sớm thôi."

Tạ thị nhìn ông: "Ông gạt ta." Bà nói chắc chắn, "Ông lại gạt ta." Bà đẩy tay Chu Bá Ung ra, rướn cổ lên nhìn ra cửa cung, hướng về phía điện Tử Thần, "Đao kia xuyên qua người ngũ lang như thế, ta thấy chỗ nào cũng có máu, thằng bé chỉ lớn từng đấy, trong người lấy đâu ra nhiều máu như vậy? Có phải là mất máu quá nhiều không... hừ hừ."

Rên rỉ xong, Tạ thị lại nhìn về phía điện Tử Thần, rất lâu sau mới dùng ánh mắt chờ mong hỏi: "Ta có thể ở lại trong cung được không?"

Chu Bá Ung im lặng trong chốc láy, nắm chặt tay Tạ thị đáp: "Đợi ta vào cung thỉnh chỉ, bệ hạ, bệ hạ đồng ý là được."

Chu Trường Phong và Chu tam lang đều đứng sững tại chỗ, ngơ ngác cứng ngắc giúp mẹ cầm máu, dùng khăn lau máu đi, trong đầu rối loạn lên, cả buổi trời cũng không nghĩ được một chút gì, nỗi nghi hoặc tràn vào lồng ngực, vì sao thái độ của cha mẹ họ đối với Chu Tử Thư lại như thế này?

Vì sao?

Thế nhưng trong một thoáng ấy, chỗ sâu nhất trong lòng đã nói cho bọn hắn biết đáp án, chỉ là nó đã bị từng tầng sương mù bao phủ, sắp sửa chui ra được rồi, mà những lời tiếp theo đã lao tới với tư thế hủy diệt nhấn chìm mọi thứ.

"Tiểu Lân Nô, tiểu Lân Nô của mẹ, con trai của mẹ, mẹ," Tạ thị luống cuống đè tay lên ngực, muốn bóp tắt nỗi đau đớn hoảng sọ bị phóng đại vô biên, nhỏ giọng nghẹn ngào, "Mẹ cứ nghĩ biếm thê làm thiếp, suýt nữa mất mạng đã là kiếp nạn lớn nhất rồi, mẹ nghĩ rằng con trai nhỏ của mẹ sắp chết, đau đớn quấn thân, cho nên nóng ruột nóng gan ròng rã suốt mười năm trời, không thể an lòng, mẹ đi tìm quỷ thần khắp nơi, cầu xin chúng đừng mang tiểu Lân Nô đáng thương của mẹ đi, đó đã là nỗi đau khổ tàn nhẫn nhất đời mẹ rồi, nhưng mà mẹ..."

Tạ thị hít sâu, giọng nghẹn lại, không thể nói hết trong một lần.

"Nhưng làm sao mẹ ngờ được, sao mẹ có thế biết được rằng tiểu Lân Nô của mẹ bị... Bị đổi đi cơ chứ? Làm sao mẹ có thể ngờ được đây vốn không phải là kiếp nạn của mẹ, hóa ra là mẹ, mẹ mới là kiếp nạn lớn nhất trong đời tiểu Lân Nô."

Chương 90

Bị đổi đi?

Cái gì bị đổi đi?

Hai tay Chu Trường Phong run rẩy.

Chu Ngọc Khanh nhỏ giọng hỏi: "Cha, mẹ, hai người nói cái gì bị đổi? Tiểu Lân Nô là ngũ lang hay tứ lang, là Chu Tử Thư hay Chu Ngọc Tranh? Cha, có phải hai người đã nhầm rồi không?"

Chu Bá Ung vịn bả vai của Tạ thị, đưa lưng về phía Chu Trường Phong và Chu tam lang, thấp giọng nói cho bọn họ biết sự thật.

"Tứ lang là tứ lang thật, ngũ lang là ngũ lang thật? Chu Tử Thư mới là tiểu Lân Nô của chúng ta ư? Y mới là tiểu nhi lang của nhà họ Chu sao?" Chu Ngọc Khanh lui từng bước về phía sau, liên tục lắc đầu: "Hoang đường quá, vì sao lại có chuyện khó tin như vậy được?"

Ngoài mặt Chu Trường Phong rất bình tĩnh: "Cha mẹ biết chuyện này từ khi nào? Tứ lang... Chu Ngọc Tranh có biết thân thế của mình không?"

Chu Bá Ung ấn vào huyệt ngủ sau gáy Tạ thị, để cho người vợ với tinh thần vốn đã không ổn định lâm vào hôn mê, lúc này mới trả lời câu hỏi của Chu Trường Phong: "Cha và mẹ con cũng vừa mới biết được cách đây không lâu, còn Chu Ngọc Tranh..." Nhắc đến Chu Ngọc Tranh, giọng của ông lại trở nên lạnh lùng: "Về phủ hỏi nó một câu là biết ngay thôi." Ý trong lời nói là Chu Ngọc Tranh biết rõ tình hình sao?

Cậu đã biết rõ mọi chuyện, vì sao lại không nói ra?

Chu Bá Ung và Tạ thị đều vào xe ngựa, Chu Trường Phong phụ trách đánh xe ngựa, Chu tam lang thì ngồi trên lưng ngựa theo ở phía sau, vẻ mặt trống rỗng, hiện tại đang vô cùng hoang mang lo sợ.

Xe ngựa bỗng nhiên rẽ vào một ngõ cụt rồi dừng lại, rất lâu không di chuyển, Chu Bá Ung vén rèm lên hỏi, "Tới rồi à?"

Trái tim trong lồng ngực Chu Trường Phong đập mạnh một cái, bỗng nhiên hoàn hồn, nhanh chóng nhảy xuống nắm dây cương quay đầu ngựa, lúc này ông mới biết Chu gia đại lang vốn trông bình tĩnh là thế, thật ra hồn vía đã bay đi đâu mất chứ không phải là hắn đang thờ ơ. Chu Bá Ung không hỏi gì, chui vào xe ngựa trở lại.

Tiếng vó ngựa lộc cộc vang lên, bánh xe lăn đều, trên đường phố yên tĩnh chỉ còn lại một nhà bốn người bọn họ.

Mặt trăng tròn vạnh vạnh chiếu sáng trên bầu trời đêm, nhà nhà trong phủ đều đã được đốt đèn lên, như thường lệ mỗi khi kết thúc cung yến, có lẽ bây giờ bọn họ cũng đang hộ tống cha mẹ về phủ, tam lang cưỡi ngựa bên cạnh buồng xe, vung vẫy hai tay kể những gì gã nhìn thấy được lúc tuần tra trong cung, mẹ sẽ cười phụ họa với gã, còn cha thì trách móc gã nhưng trong mắt vẫn tràn ngập niềm vui chứ không phải nổi giận thật.

Mà Chu Trường Phong hắn cũng sẽ điều khiển xe ngựa giống như đêm nay, im lặng nghe bọn họ nói đủ chuyện trên trời dưới đất, cẩn thận để ý đường sá, để cho cha mẹ uống rượu nhiều khỏi đau đầu vì xe lắc lư, lắng nghe tam lang nói gã muốn kể cho tứ lang về những trò tạp kỹ vui nhộn trong bữa tiệc, lúc này cha mẹ sẽ lấy thức ăn gói trộm giấu trong tay áo ra đưa cho bọn hắn, nhét đầy một bụng hai tên Cấm vệ phải lo bảo vệ an toàn cho hoàng cung này.

Mẹ có rất nhiều túi bách bảo, thường dùng để chứa món ăn nhẹ, hoa quả khô, đôi khi còn giấu các món mặn như thịt dê nướng, cua nhồi cam lấy từ bữa tiệc, thật ra là những món này đều đã nguội ngắt cả rồi, chẳng còn ngon lành gì nữa, nhưng đó đều là các món giới hạn trên bàn ăn của triều thần mệnh phụ.

Cha và mẹ để dành phần của mình lại cho bọn hắn.

Tuy rằng mùi vị của chúng không ngon, thế nhưng trên đường về nhà, ai nấy cũng đều rất vui vẻ.

Nhưng kể từ sau đêm nay, niềm hạnh phúc giản đơn ấy đã hoàn toàn sụp đổ, cũng vĩnh viễn không còn tồn tại nữa, đối với người nhà họ Chu mà nói, chỉ sợ rằng từ nay về sau cảnh tượng gia đình đoàn viên, nhà nhà đốt đèn ấy không còn tiếp tục thuộc về bọn họ nữa rồi.

***

Chu Ngọc Tranh đọc sách làm văn trong thư phòng đến tận canh ba, ma ma và đám người hầu hạ liên tục đến khuyên nhủ cậu nghỉ ngơi trước nhưng đều bị cậu lạnh lùng đuổi đi, bọn họ chỉ đành bất lực lui ra ngoài sân, nhìn nhau khổ không thể tả nổi.

Tuy rằng cơ thể của tiểu lang quân kim tôn ngọc quý nhà họ Chu này đã khỏe hơn, tốt lên rất nhiều so với khi còn nhỏ ba ngày bệnh nhẹ năm ngày bệnh nặng rồi, nhưng tính cách của cậu thật sự rất hoạt bát, cố chấp không chịu thua, ra ngoài chơi đầu hồ với người khác bị đánh bại, về nhà sẽ luyện tập ngày đêm không ngơi nghỉ, nếu không luyện đến mức khiến bản thân mệt mỏi đổ gục thì sẽ không chịu dừng lại.

Một ví dụ khác là cưỡi ngựa, cậu bị mấy tên thiếu gia ăn chơi trong phủ kinh đô cười nhạo giống như tiểu cô nương, bởi vì cậu lên ngựa cần được người khác đỡ lên, trong cơn tức giận ấy, Chu Ngọc Tranh trở về luyện tập cực khổ hai tháng trời, cuối cùng tự ngã gãy xương một tay một chân.

Rồi lại đến chuyện đọc sách thi cử này nữa, trước đây thì hai ngày đi bắt cá năm ngày nằm ườn ra, đến năm ngoái đột nhiên cố gắng phấn đấu, lão gia và phu nhân không hiểu, nhưng những kẻ suốt ngày hầu hạ cậu như bọn họ thì rõ mồn một, tứ lang này thấy Chu Tử Thư ở trong quan trường có được thành tích, mang danh thanh thiên nên trong lòng không phục, vì vậy mới âm thầm so tài.

Nói thật, người có tinh thần không tin phục mới là tốt, có như vậy mới tiến tới được, thế nhưng việc mù quáng ôm lòng không phục đó để ganh đua so sánh với người khác rồi hờn dỗi thì chẳng có gì hay ho cả.

Huống chi tứ lang mất ăn mất ngủ, mệt mỏi đổ bệnh, kẻ khổ chính là đám người chăm sóc cậu trong viện này chứ đâu. Không một ai có thế khuyên nhủ tứ lang.

Có lẽ giờ này cung yến cũng đã kết thúc rồi, đợi lão gia và phu nhân quay về là được thôi.

Đám người hầu nghĩ thế, đang nghĩ thì bỗng nhiên nhìn thấy hai kẻ lạ mặt mặc trang phục của gia đinh trong phủ bước vào cửa viện, nói là lão gia phái bọn họ tới đưa tứ lang đến tiền thính, chuyện này vốn là chuyện rất đỗi bình thường cho nên không ai ngăn cản, trơ mắt nhìn hai kẻ nọ đưa Chu Ngọc Tranh đi.

Chỉ có điều sắc mặt của tứ lang trông u ám đến đáng sợ, bước chân cũng vô cùng vội vàng, chẳng lẽ là có chuyện gì xảy ra sao?

Còn chưa đợi cho đám hầu bọn họ nghĩ kĩ, chợt trông thấy từ đâu có mười tên mặc đồ đen nhảy ra bao vây lấy tứ lang và hai gã gia đinh kia khi cậu chỉ vừa mới đi đến đường đá cuội, hai bên nói không tới hai câu đã động thủ, quần nhau mười mấy chiêu, rồi thoắt cái hai tên gia đinh đã chết dưới lưỡi đao, bọn họ không khỏi hoảng sợ nghi ngờ, đang định cất tiếng hét lên thì ma ma theo cạnh phu nhân đã xuất hiện, nhìn lướt qua bọn họ bằng ánh mắt lạnh như băng.

"Đó là hộ vệ trong phủ, bọn họ chỉ giết những kẻ có ý đồ hãm hại người nhà họ Chu mà thôi. Nửa đêm rồi, cũng đừng sợ hãi nữa mà quay về phòng của mình ngủ đi, không ai dặn việc gì thì không cần đến đâu."

Một nha hoàn lớn tuổi trong nội viện can đảm hỏi: "Vậy thì tứ lang phải làm sao bây giờ?"

"Đã có lão gia và phu nhân xử lý rồi."

Nghe vậy, không ai nhiều lời nữa, nhao nhao lui ra trở về phòng mình.

Vừa đóng cửa phòng lại, nha hoàn vừa đặt câu hỏi đột nhiên cảm giác có gì đó không đúng, vì sao ma ma lại nói là "xử lý"? Cứ như là đang nói tới một tội phạm cần bị trừng trị vậy.

Nha hoàn lắc lắc đầu, cảm thấy mình suy nghĩ nhiều rồi, đó là Chu tứ lang được Chu phủ thương yêu chiều chuộng vô cùng, đến cả Thánh thượng và Thái hậu nhìn thấy cậu cũng cười cơ mà, cả kinh đô này có ai không biết từ nhỏ cậu đã kiêu ngạo cơ chứ?

Chờ người làm và nha hoàn lui xuống hết, ma ma của Tạ thị mới đi đến trước mặt Chu Ngọc Tranh, mặt vô cảm cúi người nói: "Mời theo lão nô đến tiền thính gặp lão gia, phu nhân."

"Cha mẹ đã về rồi sao?" Mặt Chu Ngọc Tranh trắng bệch, vô thức lui về phía sau một bước, thoáng nhìn qua hai gã tử sĩ bị chém chết thì càng trở nên sợ hãi hơn nữa: "Vì sao lại chém chết hai người này?"

"Bọn họ là kẻ xấu giả mạo thành gia đinh trong phủ." Ma ma thúc giục, "Người mau đến tiền thính đi thôi."

Con đường trước sau đều đã bị chặn lại, tử sĩ duy nhất có thể đưa cậu đi đã bị giết chết, Chu Ngọc Tranh không thể lui bước được nữa, chỉ đành theo ma ma đi đến tiền thính, hành lang đi lại cả trăm nghìn lần trong suốt hai mươi năm trời hôm nay bỗng dài dằng dặc, giày vò người ta, nỗi khủng bố không biết từ đâu chen chúc đến dần.

***

Vừa về đến phủ là đã có người đến báo chuyện đã xảy ra trong viện của Chu Ngọc Tranh lúc nãy, Chu Bá Ung rất tỉnh táo, không hề tỏ ra bất ngờ, hiển nhiên là đã đoán được tình huống này từ trước.

Chu tam lang bước tới hỏi: "Thân phận của hai kẻ giả mạo gia đinh Chu phủ là gì? Có mục đích gì? Vì sao lại đưa tứ... Vì sao lại đưa Chu Ngọc Tranh đi?"

"Các con đến tiền thính trước đã." Chu Bá Ung vừa dứt lời là ôm Tạ thị về chủ viện.

Chu Trường Phòng và Chu tam lang nhìn nhau, cả hai đều có thể nhìn thấy được sự bối rối, sợ hãi và nao núng ngập tràn trong mắt nhau.

Hít sâu một hơi, Chu Trường Phong cất bước tiến lên trước: "Đi thôi. Dù cho phía trước có là địa ngục gì đi nữa, thì chúng ta vẫn phải bước vào một lần." Còn về phần có thể ra được hay không thì không thể biết trước được.

Hai người đi đến tiền thính, nhìn thấy Chu Ngọc Tranh đang đứng cúi đầu, dây là đứa em trai nhỏ nhất, đáng thương nhất, thân thể yếu kém nhất được bọn họ bảo vệ từ bé đến lớn, không phải lòng bọn họ không đau khổ, trong đầu cũng từng do dự nghĩ đến chuyện giải vây cho cậu.

Chỉ là chút ý nghĩ ngu ngốc ấy đã nhanh chóng tiêu tan chẳng còn mảnh vụn nào, bởi vì Chu Tử Thư vẫn còn đang không rõ sống chết, và những suy nghĩ ngổn ngang trong đầu khiến cho bọn họ không thể nào sáng suốt được, khi sự thật ngũ lang đã bị đổi đi và tình thương yêu mà họ dành cho Chu Ngọc Tranh trong suốt bao năm qua xung đột với nhau, thật sự rất khó để mà phá bỏ đi sự ràng buộc đó và tìm kiếm một điểm tựa cân bằng.

Hai người bước vào trong sảnh, tâm sự nặng nề, dường như Chu Ngọc Tranh không phát hiện ra điều gì, vẫn gọi bọn họ hai tiếng "Đại ca" và "Tam ca" thân mật như thói quen, nhưng khi nhìn thấy lúm đồng tiền xinh xắn, hai bàn tay non mịn không một vết chai và áo gấm Vân Nam cực kì xa hoa hiếm có trên người cậu, bọn họ liền khó nhịn được nghĩ đến khuôn mặt tái nhợt của Chu Tử Thư, nghĩ đến máu tươi làm cho người khác sợ hãi chảy ra từ trên người y, vậy nên không thể nào đáp lại Chu Ngọc Tranh một cách tự nhiên được nữa.

Hai người không nói lời nào mà lướt qua Chu Ngọc Tranh, đứng ở hai bên chủ vị.

Chu Ngọc Tranh không hề nhận ra sự hờ hững của bọn họ, còn bước lại gần hỏi: "Sao đại ca với tam ca không nói chuyện vậy? Có phải trong bữa tiệc không xem được trò tạp kỹ nào vui hay không? Cũng không sao, chờ đến khi đại ca, tam ca đều ra mở rộng bờ cõi, kiến công lập nghiệp, chắc chắn sẽ có được chỗ ngồi trong cung yến. Đúng rồi, tối nay đệ đã viết hai quyển sách luận, một lát nữa sẽ đưa cho cha xem, nhưng chắc chắn cha sẽ rất nghiêm khắc, vạch ra nhiều lỗi sai, đến khi đó phiền đại ca và tam ca nói đỡ cho đệ nha."

Vừa nói cậu vừa quen thói níu cánh tay của Chu Ngọc Khanh, nhưng gã lại tránh đi khiến cho cậu sững sốt, trong mắt xuất hiện vẻ dữ tợn nhưng đã nhanh chóng giấu đi, ngẩng đầu nhỏ giọng hỏi gã: "Sao vậy ạ?"

Chu Trường Phong quay đầu hỏi cậu: "Vì sao lúc nãy hai gia đinh kia lại muốn đưa ngươi đi?"

Chu Ngọc Tranh ngạc nhiên: "Đệ không biết... Bọn họ nói là do cha phân phó."

Chu Trường Phong: "Ngươi không quen bọn họ sao?"

Chu Ngọc Tranh lắc đầu: "Mặt mũi đúng là rất lạ." Chu Trường Phong mỉm cười.

"Nửa năm gần đây trong phủ không tuyển thêm người nữa, có kẻ lạ mặt xuất hiện hay không, hạ nhân không biết, ngươi cũng không biết à? Trời sinh ngươi thích chơi đùa nhưng tính cảnh giác cao, năm mười ba tuổi ngươi có thể nhìn ra được tỳ nữ cải trang vào phủ muốn đưa ngươi ra ngoài, sao hai mươi tuổi đầu rồi lại dại dột rời đi cùng hai kẻ lạ mặt đột nhiên xuất hiện kia chứ? Bình thường khi bọn ta từ cung yến trở về nhà, ngươi sẽ chủ động ra cửa xách đèn, nếu như ngươi có chuyện gì hoặc là bệnh thì bọn ta sẽ không bao giờ gọi ngươi ra tiền thính được... Rõ ràng ngươi có thể nhìn ra vấn đề, ngươi cũng quen biết hai người kia..."

Hít sâu một hơi, Chu Trường Phong nhắm chặt mắt lại, vì cảm xúc ập đến mạnh mẽ nên run lên không ngừng, đầu óc cũng trở nên hỗn loạn, một loạt sự thật úp mở điên đảo vụt đến như mưa bão gió táp đấm vào đầu làm hắn hoa mắt chóng mặt, không khí ngột ngạt cũng làm cho hắn hít thở không thông, suýt nữa là không thể đứng vững.

Chu Trường Phong bỗng nhiên mở mắt ra, ánh mắt sắc như dao: "Chu Ngọc Tranh, cuối cùng là ngươi đã lừa gạt bọn ta bao nhiêu chuyện? Giấu giếm bọn ta đã bao lâu?"

Chu tam lang nghe vậy thì sững người, khi nghe câu trả lời của Chu Ngọc Tranh hắn đã cảm thấy có gì đó không ổn, rốt cuộc bây giờ cũng đã ngộ ra được rồi.

Gã cẩn thận nhìn Chu Ngọc Tranh: "Tứ lang, ngươi đã biết thân thế của mình từ lâu rồi phải không?"

Mặt Chu Ngọc Tranh lộ vẻ nghi hoặc: "Thân thế gì? Lừa gạt giấu giếm cái gì? Đại ca, tam ca, hôm nay hai huynh đều kì lạ quá, cuối cùng là đã có chuyện gì xảy ra thế?" "Còn nói láo!"

Tiếng quát lớn đột nhiên xuất hiện trong sảnh thu hút sự chú ý của ba người, quay đầu nhìn lại, thì ra là Chu Bá Ung.

"Xương Bình sai Ngô thị giả làm nữ y, tốn hết tâm tư để xuất hiện trước mặt phu nhân, đặc biệt điều trị thân thể cho tứ lang ngươi, có điều Ngô thị không thể chọn lúc đó để nói chuyện thân thế cho ngươi biết. Vì ngươi còn quá nhỏ, cũng không quen không biết Ngô thị, nếu như nghe được sự thật thì sẽ khóc lóc chạy đến tìm bọn ta trước, khiến bọn ta sinh nghi thì thôi không nói, nhưng chuyện ấy còn có thể đả kích đến cơ thể yếu ớt lắm bệnh của ngươi. Mà khi phát hiện ra ta và phu nhân nghi ngờ thân thế của mình, ngươi không làm ầm lên cũng không gây khó dễ, ngươi chạy đi quy hàng Đông cung, còn biết được Xương Bình sẽ thừa dịp cung yến đêm nay mưu phản, rất khó để mà bồi dưỡng sự thân mật và lòng tin tưởng này chỉ trong vòng ba năm đổ lại, chứng tỏ ngươi đã biết được chân tướng từ ít nhất bốn đến năm năm trước rồi."

Chu Bá Ung nhìn Chu Ngọc Tranh chằm chằm: "Ta nói có đúng không?"

Khóe môi Chu Ngọc Tranh giật lên, vô thức nhìn về phía Chu Trường Phong và Chu tam lang, mờ mịt đáng thương lắc đầu: "Con không rõ, con không biết... Vì sao? Có phải là Chu Tử Thư đã nói gì với mọi người rồi không?"

Chu Bá Ung: "Ngô thị bị phu nhân bắt được tra hỏi, nhốt trong địa lao, nữ quan đi theo Xương Bình gần ba mươi năm trời cũng bị nhị lang bắt lại nghiêm hình tra khảo, đã kể rõ ngọn nguồn chuyện năm đó ra rồi. Còn nữa, đám tử sĩ bên cạnh ngươi, cả chuyện những ngày qua ngươi liên lạc với ngũ hoàng tử, đều đã bị ám vệ Chu phủ nhìn thấy hết rồi báo cáo cho ta biết."

Ông bước từng bước đến gần, đồng tử đen đặc không chút cảm xúc nào chỉ tập trung nhìn Chu Ngọc Tranh, đây cũng là đứa con trai mà ông mắc nợ, là đứa nhỏ ông yêu thương nhất, nhưng giờ đây ông lại trở tay đâm mạnh lưỡi dao dính độc sắc bén vào tim cậu.

Lưỡi dao xuyên tim, không thuốc nào cứu được.

"Ngươi cho rằng ngươi đang tự giải thoát cho bản thân mình sao? Vẫn còn muốn cứu mẹ ruột tự tạo nghiệt đáng chết kia của ngươi sao? Ngươi có biết vì sao Xương Bình mưu phản thất bại hay không? Bởi vì ngươi."

Chu Ngọc Tranh sợ hãi lui về phía sau, lảo đảo một cái suýt chút nữa vấp ngã, cậu tránh mắt tránh đi, không dám nhìn thẳng Chu Bá Ung, cậu có thể vô cảm đối đáp với Chu Trường Phong và Chu tam lang, nhưng lại không dám ngước nhìn Chu Bá Ung thẳng thắn chất vấn.

Cậu đưa hai tay lên che tai lại, nước mắt đong đầy, muốn rơi mà lại không rơi được.

"Bởi vì ngươi chính là người giúp bọn ta theo dõi kế hoạch bức vua thoái vị của Xương Bình và Đông cung! Ta sẽ nói cho ngươi biết, việc Xương Bình và Đông cung có mưu đồ ép vua nhường ngôi đã nằm trong dự đoán của bọn ta, là bọn ta từng bước ép ả ta nhảy xuống địa ngục! Là do bọn ta ép ả đi chịu chết, Cung Tuấn, Trần Sư Đạo, Đỗ Công Tiên, Khang vương... Những công khanh đại thần này ép Xương Bình đi chết là để cứu Chu Tử Thư đấy!"

Chu Ngọc Tranh há miệng thở dốc, bỗng dưng hét lên: "Đừng nói nữa! Đừng nói tiếp nữa!" Có lẽ là do cảm xúc quá mãnh liệt khiến cho cậu thấy khó thở, mặt mày đột nhiên xanh mét, siết chặt ngực áo đau đớn cầu xin: "Con không cố tình, không phải... Con không hề..."

Nếu như là ngày xưa, nhìn thấy dáng vẻ Chu Ngọc Tranh như thế này, người nhà họ Chu đã vô cùng sốt sắng rồi.

Nhưng Chu Bá Ung vẫn chỉ lạnh lùng nhìn cậu, Chu Trường Phong thờ ơ, Chu tam lang thân thiết với cậu nhất cũng chỉ không đành lòng nghiêng mặt đi làm cho Chu Ngọc Tranh đau đớn hơn hận.

Hai hàng nước mắt của Chu Ngọc Tranh lăn xuống, cậu móc một cái lọ từ trong ngực ra, ăn hết thuốc viên bồi bổ nguyên khí, khuôn mặt nhanh chóng hồng hào trở lại.

Chu Bá Ung: "Hóa ra cơ thể của ngươi cũng không yếu ớt như cách mà bình thường ngươi vẫn thể hiện ra ngoài." Ông nở nụ cười mỉa mai, ngồi xuống chủ vị, ánh mắt hơi chếch về một khoảng không nào đó, không còn muốn nhìn Chu Ngọc Tranh nữa dù chỉ một lần, "Ngươi và mẹ của ngươi đều rất..."

"Đều rất ác độc đúng không?" Chu Ngọc Tranh thấp giọng cười, "Trước khi sự thật chưa được phơi bày, những lời mà cha, còn có đại ca, tam ca thường nói với Chu Tử Thư chính là "mẹ nào con nấy". Bởi vì mẹ ruột bất trị, cho nên đã định cho Chu Tử Thư tội chết, tổn thương y, chỉ trích y, oán hận con người y, đều là do các người cả."

Ba cha con nghe vậy, sắc mặt đều trắng bệch vô cùng khó coi, Chu tam lang lảo đảo ngã xuống ghế ngồi.

"Còn con thì sao? Cùng lắm là thời gian bị tráo thân phận không rõ tình hình, sau khi biết được sự thật không nói ra mà thôi, con không hề thật sự tổn thương Chu Tử Thư, đều tại các người dựa vào cái danh đối xử tốt với con để tổn thương y mà thôi." Bản tính thật của Chu Ngọc Tranh bị nhìn thấu, mặc kệ vò mẻ lại sứt, cậu cũng muốn để cho bọn họ nếm thử cảm giác tim bị xé thành ngàn mảnh. "Cha không đoán sai, đúng là từ năm năm trước con đã biết sự thật rồi, nhưng lòng con khó chấp nhận được, vì sao con lại không phải là ngũ lang thật? Vì sao mẹ lại không phải mẹ ruột của con? Vì sao cha và các anh đều ghét cay ghét đắng Xương Bình và con ruột của bà ấy như vậy?"

"Con đau lòng bệnh nặng một trận, hết bệnh là đã muốn nói cho mọi người biết sự thật rồi. Con ngây thơ nghĩ rằng cha mẹ và các anh yêu thương con tận mười lăm năm, tận mười lăm năm đấy, không thể chỉ vì thân phận thay đổi mà tình thân cũng thay đổi được phải không? Cùng lắm thì con chia một nửa phần của mình cho Chu Tử Thư thôi, con..." Chu Ngọc Tranh nghẹn ngào nói, "Con rất muốn bồi thường cho Chu Tử Thư đấy, nhưng mà Ngô ma ma nói cho con biết, nếu như các người biết được sự thật rồi sẽ chỉ hận con mà thôi, tiền đề để các người yêu thương con là: Con là ngũ lang. Nếu như không có điều kiện đó, về mặt tình cảm có lẽ sẽ không thay đổi ngay, nhưng vì Chu Tử Thư, các người sẽ đưa con đi, mà thời gian sẽ làm phai mờ tình thân này, về sau trong mắt các người, Chu Ngọc Tranh con chỉ là một con chim tu hú chiếm tổ thôi!"

"Chẳng lẽ ngươi không phải sao?" Chu Bá Ung gào lên: "Ngươi không phải là một con chim tu hú lòng tham không đáy hay sao!"

Chu Ngọc Tranh thút thít, cố kìm chế mong muốn được khóc to lên, "Đúng vậy! Nhưng cũng là do các người có mắt không tròng không nhận ra! Muốn trách thì phải trách các người đối xử tệ bạc với Chu Tử Thư, trách y quá thông minh, nếu như các người biết được y hoàn toàn khác biệt với Xương Bình, nếu như cha biết y là người cao thượng." Cậu chỉ tay vào Chu tam lang, nhìn về phía Chu Trường Phong, "Huynh biết y ngay thẳng không a dua," Cuối cùng lại nhìn Chu Bá Ung, "Cha biết y tài hoa hơn người..."

"Thì dù y có là con trai của Xương Bình, các người vẫn sẽ bị thu hút, sẽ vô thức tán thưởng y, sinh ra hảo cảm với y!"

"Sự thật giống hệt như con đoán. Từ trước khi mọi chuyện vỡ lỡ, đại ca đã thường xuyên để ý đến Chu Tử Thư, ngọc quân tử đệ hằng mong có được vào lễ gia quan huynh cũng không chịu cho đệ, đừng nghĩ đệ không biết huynh muốn tặng nó cho Chu Tử Thư! Y và đệ cập quan cùng ngày, huynh đến tận nơi tặng ngọc quân tử nhưng lại không tặng, thà cam chịu ẩn núp chứ không tặng nó cho đệ! Còn tam ca thì sao? Trước đây tam ca vẫn thường đứng bên cạnh đệ, hay giễu cợt Chu Tử Thư, nhưng từ khi thanh danh của y nổi lên, huynh liền luôn miệng khen ngợi y trước mặt đệ! Nếu không phải vì kiêng kị Xương Bình, không phải vì mẹ, huynh đã chạy đến lấy lòng từ lâu rồi! Còn đệ? Huynh có từng suy nghĩ đến cảm nhận của đệ không?"

"Cha cũng chỉ hơn chứ không kém đâu, rõ ràng ngoài miệng nói ghét bỏ Chu Tử Thư, thế nhưng lại nói giúp y ở trên triều rất nhiều lần, đẩy mạnh các thượng sách mà y đưa ra, ở trong thư phòng của cha, thượng sách thúc đẩy mở chợ đêm, thượng sách tiện địch đều được phê bình chú giải dày đặc! Còn những lúc phê chữa bài thi của con thì luôn cau mày, dù không nói câu nào nhưng con thừa biết cha rất không hài lòng, nếu như con không phải con trai nhà họ Chu, cha sẽ không bao giờ liếc nhìn dù chỉ một cái!"

Chu tam lang khó tin hỏi: "Chỉ vì lý do này, mà ngươi có thể yên tâm thoải mái hưởng thụ những gì vốn nên thuộc về ngũ lang hay sao?"

"Đệ không muốn đánh mất đi những thứ thuộc về đệ suốt hai mươi năm đấy thì sao?" Chu Ngọc Tranh tỏ vẻ khó hiểu: "Tam ca, nếu như huynh biết được sự thật rồi, huynh có vì Chu Tử Thư mà đưa đệ đi hay không?" Chu tam lang lúng túng, không thể trả lời được.

Im lặng không đáp chính là ngầm thừa nhận.

Chu Ngọc Tranh lại hỏi: "Vì sao? Tam ca lớn lên cùng đệ, ở chung với đệ lâu nhất, thương đệ nhất, cũng hiểu đệ rõ nhất, sẽ đi dạy dỗ Chu Tử Thư vì đệ đổ bệnh, vì sao đến lúc thân phận khác biệt lại buông bỏ đệ? Chẳng lẽ tình cảm anh em mười mấy năm của chúng ta đều là giả dối sao?"

Câu hỏi này cậu đã cất giấu trong lòng năm năm nay rồi.

Để hỏi Chu tam lang, hỏi Chu Trường Phong, Chu Bá Ung, hỏi cả Tạ thị.

Vì sao?

"Huyết thống quan trọng đến vậy ư?"

Chu Trường Phong: "Nếu như không phải vì huyết thống, chúng ta vốn không có cơ hội bồi đắp tình thân."

Chu tam lang cúi đầu nói: "Tình thân hai mươi năm không phải là giả, hai mươi năm bảo vệ yêu thương cũng không phải là giả, dù có đuổi ngươi đi, hay là tha thứ cho ngươi, ta cũng đều khổ sở, ta không nỡ, nhưng mà Chu Ngọc Tranh, điều này không công bằng với ngũ lang chút nào. Một chút không nỡ muốn ngươi đau khổ, bắt ngươi phải trả giá cũng đã đủ khiến cho ngũ lang phải nhận thêm tổn thương và bất công rồi." Trái tim gã như bị bóp chặt, khó chịu muốn chết.

"Vừa mắc nợ ngũ lang, vừa muốn bắt lấy tình thân mười mấy năm trong tay, không buông bỏ cả hai người, nhưng như thế thì làm sao ta trả nợ được sự thiệt thòi thiếu thốn suốt hai mươi năm cho y đây? Ai sẽ bù đắp cho cuộc đời khắc nghiệt của Chu Tử Thư? Ai sẽ nói xin lỗi đệ ấy? Huống chi, bởi vì ngươi, bởi vì mối hận không cách nào trả thù Xương Bình, bọn ta..." Chu tam lang nghẹn ngào, gần như nói không nên lời, "Bọn ta đổ hết mọi tội lỗi lên người ngũ lang, bọn ta không chút e dè, thậm chí là trút giận, đối xử nghiêm khắc với đệ ấy, phải thế nào mới có thể giữ ngươi lại mà không thấy xấu hổ, phải làm sao mới có thể đối diện với đệ ấy mà không thẹn với lòng mình đây?"

"Ồ, ha ha, ha ha ha... Nói nghe hay nhỉ!" Chu Ngọc Tranh bỗng nhiên ôm bụng cười to: "Muốn bù đắp sao? Muốn cầu xin Chu Tử Thư tha thứ à? Nhưng các người quên rồi sao, bởi vì sợ ta khổ sở nên các người đã không cho phép Chu Tử Thư tham gia kì thi, đánh gãy sĩ đồ của y, còn thay mận đổi đào vì ta, ép gả Chu Tử Thư và phủ Lâm An quận vương đấy. Tài trạng nguyên, trọng thần xương cánh tay, thanh thiên của lê dân bá tánh... Đều bị các người phá hỏng rồi! Các người, lỗi tại các người tự tay ép đứa con trai mà mình thương yêu nhất, cuối cùng lại mắc nợ y! Để y xuất giá lấy chồng! Đi làm vợ của một người đàn ông mang tiếng bạo ngược!"

"Phụt!" Chu Bá Ung đau buồn lẫn lộn, nôn mạnh một búng máu lớn ra ngoài.

Chu Trường Phong và Chu tam lang bèn vội vàng bước lên gọi "Cha!", bị Chu Bá Ung vẫy tay cho lui về.

"Ngươi không nói sai. Là do nghiệp chướng của ta, là do ta tạo nghiệt." Chu Bá Ung gật đầu khẳng định theo từng câu nói, bàn tay run rẩy lau máu trên môi, "Dù ruột gan đau nứt hay tim vỡ thành trăm mảnh, ta cũng sẽ chịu, ta đáng phải nhận lấy, nhưng thù nào nên trả, ta sẽ truy cứu đến cùng. Chu Ngọc Tranh, ngươi thiếu tiểu nhi lang Chu gia ta bao nhiêu, ngươi phải trả lại gấp trăm nghìn lần!"

Ông dùng giọng nói nhẹ nhàng nhất nói ra lời tàn nhẫn nhất.

"Ngươi sợ rằng những gì ngươi có được đều bị cướp đi, ngươi sợ những khốn khổ mà ngũ lang phải chịu suốt hai mươi năm rơi xuống đầu ngươi, nhưng những thứ này vốn cũng chẳng thuộc về ngươi. Ta mắc nợ ngũ lang thì ta phải trả, ngươi mắc nợ ngũ lang, ngươi cũng phải trả!"

Chu Ngọc Tranh đã trút hết mọi thứ cuối cùng nghĩ mà sợ, trừng mắt nhìn Chu Bá Ung nói: "Cha muốn làm gì con?"

"Để ngươi trơ mắt nhìn những gì thuộc về ngươi, không thuộc về ngươi, những gì ngươi quý trọng, hoặc là không quý trọng, từng vật từng vật đều sẽ bị đem đi." Chu Bá Ung nhìn Chu Ngọc Tranh như nhìn vật chết, gằn giọng nói từng chữ, "Bắt đầu từ tình yêu thương cha mẹ và các anh dành cho ngươi, đến những đặc quyền mà ngươi có được, nơi ở của ngươi, hoa phục ngọc quan và nô tài của ngươi... Cuối cùng là thân phận, tên, cơ hội để trở nên nổi bật của ngươi, bao gồm danh dự làm người của ngươi, sự tồn tại của ngươi, cả quyền muốn được sống hay chết của ngươi nữa..."

Cả người Chu Ngọc Tranh run rẩy, không rét mà run.

"Đến lúc đó ngươi sẽ hiểu được, cảm giác sống không bằng chết, muốn chết chẳng xong là như thế nào."

Chu Bá Ung vỗ bàn hai cái, ám vệ lập tức xuất hiện.

"Dẫn đi, nhốt vào kho củi, trông coi ngày đêm, đảm bảo cho nó sống là được."

Ám vệ nghe lệnh, kéo Chu Ngọc Tranh đang không ngừng giãy giụa đi, bịt miệng đang mắng mỏ tức giận của cậu lại, nhốt cậu vào phòng chứa củi, cướp đoạt từng chút một từ bốn điều căn bản nhất và cũng không thể thiếu được như ăn, mặc, ở và đi lại.

Chu Ngọc Tranh bị đưa đi, căn phòng rộng thoáng cái yên tĩnh đến đáng sợ.

Chu Bá Ung chống lên mặt bàn, khó khăn đỡ mình đứng dậy, tấm lưng thẳng tắp như cây tùng xanh bấy giờ đã còng xuống, để lộ ra dáng vẻ già yếu, muốn mở miệng dặn dò Chu Trường Phong và Chu tam lang vài câu, nhưng ông nhận ra mình chẳng có lời gì để nói, cho nên chỉ đành im lặng rời đi.

***

Chu tam lang nhìn chằm chằm hai bàn tay của mình, nhớ lại đêm mà ngũ lang được sinh ra.

Khi đó cha vẫn còn đang đi làm, nhị ca đưa người đến bảo vệ trước cửa viện, đề phòng công chúa ở bên kia làm loạn, đại ca đã lập tức chạy đi tìm cha, chỉ để lại một mình gã chờ bên ngoài phòng sinh.

Gã ngồi xổm dưới hiên hành lang bịt hai tai, nhắm mắt lại, muốn ngăn chặn tiếng sấm sét vang dội như thể muốn xé rách trời đất, cũng ngăn cả tiếng kêu đau đớn thê lương trong phòng, gã sợ đến nỗi người lạnh run, mãi đến khi có tiếng khóc nỉ non của đứa trẻ vang lên cắt ngang bầu trời đêm, sấm sét đinh tai nhức óc mới im bặt, giông gió không tiếp tục gào thét đáng sợ nữa, sau đó tiếng khóc nhỏ xíu cũng nhanh chóng biến mất.

Đến tận bây giờ Chu Ngọc Khanh vẫn chưa thể nghĩ ra được, rõ ràng tiếng khóc của bé con yếu ớt như vậy, vì sao gã có thể nhận ra nó trong tiếng mưa sấm kia?

Chu gia tam lang bổn tuổi nhỏ xíu tựa mình vào khung củi ngắm nhìn tiểu Lân Nô nhỏ như mèo con, duỗi ngón tay mập mạp của mình chọc vào gương mặt be bé của tiểu Lân Nô, nghe thấy bé con nỉ non mấy tiếng yếu ớt, bàn tay tí hon siết chặt lại thành một nắm, trên khuôn mặt đỏ hỏn hằn đầy nếp nhăn.

Rõ ràng rất xấu xí, nhưng vẫn có thể nhìn ra được mấy phần đáng yêu.

Chu Ngọc Khanh nhón chân vốn định ôm lấy ngũ lang bé xíu lên, nhưng giữa chừng đột nhiên có vài tiếng động mạnh vang dội đến, thỉnh thoảng lại xen lẫn vài câu nói như "Băng huyết rồi". "Sản phụ trúng độc" và "Có dấu hiệu sắp chết", giọng điệu vô cùng hoang mang, dọa gã sợ đến mức vội vàng chạy vào trong phòng, để tiểu Lân Nô lại ở gian ngoài.

Bây giờ nhớ lại, chắc là đám người kia đã thay đổi tiểu Lân Nô của bọn họ trong khoảng thời gian cực kì ngắn ngủi đó.

Chỉ trong một thời gian ngắn mà thôi, có lẽ không đến một khắc đồng hồ.

"Đệ... Hóa ra là đệ đã nhìn thấy ngũ lang lúc mới sinh ra rồi." Chu Trường Phong xoay người nhìn Chu tam lang.

Chu Ngọc Khanh ngẩng đầu, ánh mắt mờ mịt, hốc mắt đỏ bừng lên nói: "Đại ca, hóa ra đệ đã nhìn thấy đệ ấy rồi, nhưng vì sao lúc đó đệ lại bỏ ngũ lang xuống chứ?"

"Chu Tử Thư gõ trống cáo trạng cứu lấy ân sư, ta nói đệ ấy nịnh nọt mọi người. Đệ ấy thân cận với chúng ta, ta lại nói đệ ấy rắp tâm hại người. Chúng ta ngại đệ ấy khoe mẽ, đệ ấy liền che giấu nó, nhưng mà đệ ấy giấu kém quá, chúng ta lại chê ngu xuẩn... Đệ đã nói những gì? Đã làm những gì thế này?" Chu tam lang mê mang nói rồi nức nở, tự tay giáng từng cú tát xuống mặt mình, khóe môi nhanh chóng rướm máu chứng tỏ gã không hề nhẹ tay chút nào.

Cúng cùng, Chu Ngọc Khanh giơ tay lên che mắt, không kiềm chế nỗi nữa khóc rống lên.

"Đệ phải làm như thế nào, mới có thể trả hết khoản nợ mà chúng ta đã mắc nợ ngũ lang đây? Làm sao để mà bù đắp..."

Dù có bù đắp như thế nào đi chăng nữa thì cũng sẽ chẳng có cách nào trả được sự thiệt thòi y phải nhận lấy trong suốt hai mươi năm trời, nó không thể sửa lại như viết sai chữ hay luyện sai đao pháp, mà là họ không có cách nào quay ngược về quá khứ để sửa lại từng chuyện mà họ đã làm sai với ngũ lang, không thể nói lời xin lỗi với Chu Tử Thư bị mắc kẹt trong hai mươi năm đấy, đó mới là điều khiến cho bọn họ tuyệt vọng.

Trong thư phòng, Chu Bá Ung vuốt ve từng thượng sách mà Chu Tử Thư đã dâng lên triều đình, thậm chí không phải là chữ của y viết, mà chỉ là sổ con được sao chép lại mà thôi.

Nhìn khắp toàn bộ Chu phủ này, ông không thể nào tìm được bất kì thứ gì thuộc về Chu Tử Thư.

Đến cả cơ hội để hối hận mà ông cũng chẳng có.

Chu Bá Ung mở to hai mắt xem sổ con, nhìn kĩ từng chữ một, ánh mắt dần dần mơ hồ, thế là ông lau khô nước mắt rồi lại xem tiếp, dần dà hiểu rõ được rằng con trai nhỏ của ông xuất sắc đến nhường nào, y là đứa con giỏi giang nhất của ông, nhưng rồi phải chịu sự chèn ép của ông, làm một chức quan nhỏ ở Nha môn phủ kinh đô, bị người từ trên xuống dưới khinh bỉ, nhận hết mọi gian khổ, thế nhưng sau tất cả y vẫn có thể danh chấn thiên hạ chỉ bằng sức mình, dù phải chịu đựng bao nhiêu, y vẫn có thể giữ được sự chính trực thanh cao của mình và không hề khuất phục.

...

"Ngươi nghe lời đi, ngoan ngoãn chắn giúp ngũ lang kiếp nạn này, ta sẽ bảo vệ ngươi không chết."

"Đừng học chanh chua giống như mẹ ruột ngươi!"

"Ngươi là cái gì? Là thứ hạ cửu lưu sao!"

...

Trước đây có thành kiến với Chu Tử Thư, không cần nghĩ ngợi mà trách cứ, cay độc gắn cho y cái mác ngu xuẩn... tệ bạc đủ đường, hôm nay từng câu từng chữ ấy không ngừng vọng lại, không ngừng đâm vào da, vào máu thịt, vào tim và tận xương cốt của Chu Bá Ung, không một chỗ nào là không đau đớn.

Bởi vì ông mà đứa con nhỏ nhất của nhà họ Chu từ lúc mới sinh ra đã phải chịu nhiều khổ cực, cơ thể gầy yếu, ăn bữa hôm lo bữa mai, sống trong sự sợ hãi vì bất kì lúc nào cũng có thể mất con, cho nên ông mới nuông chiều nó, yêu thương nó, tiểu nhi lang Chu gia vốn nên nhận được tình yêu thương vô vàn, lớn lên trong kim tôn ngọc quý, không được thua bất kì một vương tôn công tử nào khác, Chu Bá Ung nghĩ con trai út của mình là đứa may mắn sống sót sau khi bị Xương Bình hãm hại, cửu tử nhất sinh, đường đời lắm trái ngang, vì sao không thể để cho nó được tôn trọng, tùy ý hưởng thụ tất cả mọi thứ trong cuộc sống?

Ông cũng từng nghĩ, tiểu nhi lang Chu gia muốn cái gì mà không thể có được cơ chứ?

Khi tiểu Lân Nô vẫn còn trong bụng mẹ, ngày nọ có một thầy tướng đến xin cơm, ông cho bạc rồi đuổi người đi, để báo ân, thầy tướng đó đã nói sẽ xem tướng giúp cho một người.

Chu Bá Ung tiện tay chỉ vào cái bụng to của vợ mình rồi nói, vậy thì giúp con trai út sắp sinh của nhà ta tránh một vài tai họa đi.

Thầy tướng nọ nhìn một hồi lâu, vẻ mặt chăm chú, lắc đầu liên tục, nói là tiểu lang quân thân duyên mỏng, nhiều tai nạn, đường đời lắm ngang trái.

Ông bèn nghĩ, có thể lận đận đến mức nào?

Được nuôi nấng trong hầu phục ngọc thực, được nhận trăm vàn thương yêu chiều chuộng, có thể lận đận đến mức nào chứ?

Đến cuối cùng, lúc ông đã nhận ra được rồi thì cũng là lúc vạn tiễn xuyên tâm.

==

Tác giả trải lòng:

Vì sao tình cảm của người nhà họ Chu lại có thể thay đổi nhanh như vậy?

1. Bọn họ đã ở chung mười chín năm, có oán hận có căm ghét, nhưng những cảm xúc này đều dựa trên tiền đề "Tử Thư là con của Xương Bình", khi tiền đề này bị đảo ngược lại, những cảm xúc vô cùng tiêu cực này sẽ nhanh chóng chuyển thành cảm xúc vô cùng tích cực.

(Nếu như 19 năm chưa từng gặp mặt, đột nhiên xuất hiện nói "Ta mới là con của các người", thì lúc này người nhà họ Chu mới lao đao được chứ.)

2. Nhà họ Chu thật sự cảm thấy thẹn với Chu Tử Thư, tiền đề thì vẫn là như vậy, tình yêu thương vốn nên thuộc về em ấy đã trao cho sai người, lại đẩy hết mọi oán hận, nỗi căm ghét tận răng đến cho em, sự tương phản đến tột cùng ấy sẽ làm cho tình cảm xoay ngược và tăng tốc, cũng sẽ biến thành lưỡi dao trở tay giết ngược, đao đâm thẳng vào tim, đau đớn vô cùng.

3. Phần là về sau này người nhà họ Chu thật ra không phải hoàn toàn ghét bé Cá nữa rồi, có lẽ tôi đã miêu tả rất rõ ràng từ trước, họ dần dần thay đổi cái nhìn rồi tán thưởng em ấy, chỉ là bị "tiền đề" kia cản trước sự yêu mến mà thôi.

Bây giờ tiền đề không còn nữa, cảm giác ấy sẽ nhanh chóng trở nên mãnh liệt như sóng, ập tới nhiều gấp trăm nghìn lần.

4. Cha Chu và mẹ Tạ biết chuyện từ sớm, bọn họ đã phải trải qua một quá trình đấu tranh tâm lý rồi, chứ không phải là không hề có báo động, đột nhiên vin vào quan hệ máu mủ mà yêu thương em ấy.

5. Em Cá và nhà họ Chu có hòa giải hay không, nói sao đây ta? Đáp án sẽ được công bố sau nha.

==

Min: Chào buổi khuya! Đây là một chương không hề có sự xuất hiện của tuyến chính mà chỉ tập trung vào nhà họ Chu thui, hãy cmt cảm nhận của mọi người sau khi đọc chương này nha ^^

PS: Lão Cung và em Cá sẽ xuất hiện lại ở chương sau nhá ✨

Chương 91

"Cầu ba mươi ba ngàn ba trăm thần phật, giúp cho tiểu thanh thiên kia thoát khỏi biển khổ vô biên, trả y về nhân gian này"

==

Cung yến tan đi, đêm dài vắng người, không một ai ngủ say.

Trần Sư Đạo vừa bước khỏi cửa kiệu, lướt qua người hầu ân cần đỡ, suýt chút nữa là vấp vào bệ cửa ngã, thằng bé canh cổng liên tục kêu lên, đèn dầu trong phủ được thắp sáng, từ trên xuống dưới đều bị kinh động.

"Đừng xé chuyện nhỏ thành to, trở về ngủ hết ngay, tắt đèn đi, đừng lãng phí dầu." Trần Sư Đạo vẫy vẫy tay, dặn dò hai câu, bảo người nấu chút canh thuốc an thần cho ông, dặn dò xong mới về phòng ngồi xuống, ngơ ngác nhìn ra cảnh đêm mịt mờ, khóe miệng giật giật, "Sao lại không muốn sống nữa?"

Đệ tử mà ông tâm đắc nhất, đứa trẻ mà ông yêu thương nhất bị ép đến nỗi không muốn sống nữa.

Biết rõ với trí thông minh của mình, Chu Tử Thư nhất định sẽ bị tổn thương, trong lòng ông thừa biết y thích hợp làm một ẩn sĩ nhìn núi hỏi nước hơn, biết rõ y quá chính trực, quá đồng cảm với lê dân bá tánh, ngoài miệng thường hay nói "Quan trường không phân biệt đúng sai đen trắng", và y cũng đã thỏa hiệp không biết bao nhiêu lần. Nhưng đến khi có một ngày, công bằng của chúng dân và đạo lý quan trường thật sự xung đột với nhau, trong thời điểm khó chọn cả đôi đường, y thà thịt nát xương tan cũng muốn tìm kiếm công bằng giúp đỡ những người ngoài kia.

Chu Tử Thư không hợp vào quan trường.

Khi đó rõ ràng đã nói như vậy rồi, vì sao về sau còn cố hết sức giật dây bảo y kiến công lập nghiệp? Vì sao còn thuyết phục y vào hai phủ làm tể tướng?

Biết rõ Lưỡng Giang nguy hiểm, ông vẫn khuyên nhủ y đến đó.

Trái lại đã có được đệ tử thanh thiên đầu tiên của Đại Cảnh như mong muốn, thế nhưng Chu Tử Thư đã nhận lại được gì?

Nhận được trái tim như tro tàn đối với quan trường, khiến y phải đứng giữa những bất công của bao người, phải chịu thêm một đao chí mạng chưa biết sống chết.

Trần Sư Đạo run rẩy đưa tay lên che mặt: "Ta cũng là người ép chết ngũ lang."

Năm lần bảy lượt bảo y thỏa hiệp, nhượng bộ, phong thư gửi về Lưỡng Giang tự cho là cứu được Chu Tử Thư, nhưng làm sao không biết đó chính là cọng rơm đè chết y?

Sau khi chém chết ba trăm quan, ngũ lang đã phải sợ hãi đến nhường nào chứ?

Tạo nên sự sống cho con dân, mở ra muôn đời thái bình, nhưng cùng lắm là y chỉ cầu một công đạo giết người phải đền mạng mà thôi, từ quân vương cho đến ân sư, bạn bè đều cùng y gánh đạo lý mà đi, ai cũng đều khuyên y dừng lại.

Dừng lại, thỏa hiệp, nhượng bộ, đừng cố chấp, đừng làm chuyện dại dột, không đáng!

Y đã cô đơn đến nhường nào?

Nói rằng tuy thiên vạn nhân ngô vãn hỉ*, nhưng trên con đường kia chỉ có y lẻ loi độc hành.

(*) Là 1 câu nói trong cuốn Mạnh Tử. Công Tôn Sửu thượng, nguyên văn: 自反而缩, 虽千万人, 吾往矣 - Tự phản nhi súc, tuy thiên vạn nhân, ngô vãng hĩ: ý là tự vấn thấy chính nghĩa thuộc về mình cho dù có thiên quân vạn mã, vô vàn khó khăn, ta vẫn tiếp tục tiến về phía trước.

Ngũ lang đã phải tuyệt vọng đến mức nào mới có thể một lòng muốn chết cơ chứ?

***

Phủ Đồng tri.

Cao đồng tri nhận lấy canh an thần mà người hầu đứa tới thổi thổi, để nguội một chút rồi mới đưa cho Cao phu nhân vẫn còn chưa hoàn hồn: "Uống rồi đi ngủ đi."

Cao phu nhân mở mắt ra, chậm rãi uống hết canh an thần, một lúc lâu sau mới thở dài: "Ngày mai ta sẽ đến chùa Hồng Phúc đốt đèn cầu phúc, phù hộ cho tiểu thanh thiên bình an thoát khỏi nguy hiểm."

Cao đồng tri: "Quyên góp thêm chút tiền nhang dầu nữa, cầu cho tiểu Chu đại nhân vô sự."

Ông thở dài một hơi, không thể không nói rằng đã cảm động trước cảnh tượng Chu Tử Thư cản đao cứu Thánh thượng, sau đó từ chối để thái y cứu mình.

Để có thể ngồi vào vị trí Tể tướng này của ông thì phải là một lão già giàu kinh nghiệm trong quan trường trước, huống chi xưa nay lắm cuộc chiến chém giết, cảnh máu tanh nào mà ông chưa từng nhìn thấy?

Bởi ông cũng đã từng ra lệnh giết chết vạn người mà mặt không đổi sắc.

Chỉ có mỗi đêm nay khi nghe thấy câu "Không muốn sống nữa" của Chu Tử Thư, ông mới thoáng run sợ, xúc động không thôi.

Cao đồng tri quả thực rất yêu thích Chu Tử Thư, chỉ là sự yêu thích đó ít nhiều cũng có trộn lẫn với lợi ích, ví dụ như vụ án Lưỡng Giang đã dính dấp đến phân tranh Thái tử không chút nghi ngờ, Đông cung và Lục hoàng tử chém giết tựa như ngao cò tranh nhau, nhưng bệ hạ thì vẫn vững như kiềng ba chân*, không hề che giấu ý muốn nâng đỡ Cung Tuấn trước mặt đám lão thần bọn họ.

(*) Nguyên văn: Nhâm bằng phong lãng khởi, ổn tọa điếu ngư thai (任凭风浪起, 稳坐钓鱼台): Dù cho sóng gió nổi lên, vẫn vững vàng ngồi câu cá. Khi gặp tình trạng khó khăn, nguy hiểm thì vẫn không dao động; Dù ai nói ngã nói nghiêng lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.

Xuất phát từ những tranh chấp lợi ích rắc rối phức tạp trong quan trường, Cao đồng tri không chút do dự vươn tay ra kéo Chu Tử Thư, nhưng nếu như đi ngược lại với lợi ích căn bản, ông vốn đã không cần phải nghĩ ngợi mà bỏ đá xuống giếng. Đây chính là quan.

Khi không vướng mắc lợi ích thì chỉ biết lo cho thân mình, liên quan đến lợi hại thì lo trước lo sau, liên tục tung ra mọi thủ đoạn có thể làm, thật ra mục đích cuối cùng vẫn chỉ là bảo vệ thân mình, lo cho bản thân mà thôi, mấy ai còn nhớ đến dân chúng? Ai dám vì một câu công bằng như "giết người đền mạng" để đối nghịch với quân vương và triều đình?

Thế nhưng cho đến giờ, đọc sách làm quan không phải chỉ để lo cho thân mình, làm người thì phải dựa vào thiên lý và lương tâm, làm quan càng cần phải dựa vào thiên lý và lương tâm, đáng tiếc không có quan lại nào còn nhớ rõ.

Càng làm quan chức lớn thì càng phải cẩn thận, cẩn thận từng li từng tí, trong mắt chỉ còn lại có chính mình thôi, đâu còn chỗ cho lê dân bá tánh nữa?

Cao đồng tri biết dù bản thân không thể so bì với hiền thần lương tướng như Tỷ Can hay Ngụy Chính, nhưng ông có thể tự xưng mình là một trung thần trong lòng bệ hạ, triều đình và người trong thiên hạ, mà khi có sự xuất hiện của Chu Tử Thư, ông mới giật mình nhận ra là bản thân đã xem nhẹ dân chúng bình dân dưới chân mình quá lâu rồi.

Chỉ một công đạo cơ bản cũng không cho được, vậy thì coi là trung thần lương tướng gì chứ?

Vậy nên Cao đồng tri mới rung động, sự tán thưởng xen lẫn tính toán lợi ích đối với Chu Tử Thư đều hóa thành kính phục.

"Chỉ mong vô kinh vô hiểm, bình an vô sự."

***

Phủ Khang vương.

Cao đô tri dìu Khang vương hai chân mềm nhũn ngồi xuống, cầm khăn ẩm lau mặt và tay giúp ông, lại bị Khang vương nắm ngược tay lại, kéo về phía trước ôm lấy eo, chôn mặt trong ngực Cao đô tri.

"Ta không ngờ Chu Tử Thư lại cản đao, cũng không hề nghĩ rằng y một lòng muốn chết."

Giọng nói của ông rầu rĩ, cảm giác bức bối bộc lộ ra trong lời nói.

Cao đô tri vỗ lưng ông nhẹ giọng trấn an: "Không ai có thể biết trước cả, ngươi một lòng muốn cứu Chu Tử Thư thoát khỏi khốn cảnh, bổn ý là vì tốt cho y mà thôi."

"Ban đầu là tại ta hèn nhát, không dám nói rõ sự hung hiểm của Lưỡng Giang, nếu như nói cho y biết chuyện một trăm tám mươi quan liên danh bảo vệ Ma Đắc Dung sớm một chút, nếu như ta không lắm mồm lắm miệng nói một câu tiền trảm hậu tấu, nói không chừng y đã có thể chuẩn bị tâm lý thật tốt từ sớm rồi, trong lòng y sẽ băn khoăn, không đến nỗi... Không đến nỗi phải gieo mình vào núi đao biển lửa, cũng sẽ không tự cắt đứt đường lui, dứt khoát như thế này."

Cao đô tri thầm thở dài, từ đầu đến cuối vị vương gia cẩm y ngọc thực của hắn vẫn không thể hiểu được nguyên nhân thật sự khiến tiểu Chu đại nhân chém chết ba trăm quan rồi không muốn sống nữa, đâu phải là bởi vì Lưỡng Giang hung hiểm?

Rõ ràng là vì vô vàn ân oán chồng chất ngút trời không thể dẹp yên, rõ ràng là vì quan lại trong quan trường tối tăm chẳng thể thấy mặt trời này không muốn vì dân chờ lệnh, rõ ràng là vì y chỉ có một thân một mình, quá đỗi cô đơn.

***

Đỗ phủ.

Đỗ công tiên về phủ liền đưa phu nhân đi tắm rửa, áo bào còn dính máu trên người ông vẫn chưa được cởi ra đã bị Hộ bộ Phó sứ bám lấy, tâm trạng vốn đã nặng nề vì lo lắng cho Chu Tử Thư, còn phải nghe Hộ bộ Phó sứ gào khóc nên đầu óc trở nên đau nhức.

Một ông già choai choai trên mặt đầy nếp nhăn, tóc hơi bạc, bên tóc mai vẫn còn cài trâm hoa lăng tiêu đã héo rũ, bấy giờ đang ngồi ở tiền thính của Đỗ phủ ăn vạ không chịu đi, thút tha thút thít khóc lóc vì đã nhìn thấy chí hữu cản đao cho Thánh thượng, nghe thấy chí hữu nói không muốn sống nữa, trái tim lão đã tan nát rồi.

Cảm xúc lên đến đỉnh điểm, lão khóc càng to hơn, gào thét đến nỗi hai tai Đỗ Công Tiên đều đau.

Ông mặt không đổi sắc nghĩ, hay thật, cuối cùng cũng vinh dự được tri kỉ nhận làm chí hữu rồi, nhưng mà tiểu Chu đại nhân người ta thậm chí chưa mời lão đến phủ Lâm An quận vương qua đêm, sao lại không biết xẩu hổ như vậy chứ?

"Tiểu Chu đại nhân là Bồ Tát công đức vô lượng, người hiền sẽ được trời giúp, không có việc gì đâu."

"Ý ông là sao? Trên mép ông chỉ treo được mỗi câu không có việc gì dâu thôi à? Đỗ Công Tiên, ông đúng là đồ máu lạnh."

"..." Đỗ Công Tiên lạnh lùng nhìn ra bầu trời đêm bên ngoài phòng lớn, trong lòng nghĩ xem nên cắt đứt quan hệ với tên đồng liêu lâu năm này thế nào.

Chờ đến khi tâm trạng của Hộ bộ Phó sứ ổn định lại, Đỗ Công Tiên liền vội vàng đuổi người đi, vất vả lắm mới khuyên được người ra đến cửa, kết quả gặp được Công bộ Thị lang Phạm Văn Minh đang đi ngang qua, không biết có chuyện gì mà hắn trố hai mắt ra nhìn Hộ bộ Phó sứ, rồi cũng chẳng hiểu vì sao mà hai người quay lại tiền thính Đỗ phủ ngồi ì ra không chịu đi.

Đỗ Công Tiên thấy mắt hai vị đồng liêu đỏ bừng, đã không tức giận nổi nữa rồi.

Thích thế nào thì cứ làm thế ấy đi.

Phạm Văn Minh và Hộ bộ Phó sứ xì xào bàn tán: "Ngày mai tấu thỉnh Thánh thượng, xem có thể vào cung thăm tiểu Chu đại nhân hay không?"

Đỗ Công Tiên: "Người có thể tỉnh được hay không còn là một chuyện, cả đám vào đấy chẳng phải sẽ quấy rấy thái y cứu chữa..." Đang nói giữa chừng thì lời bỗng bị cắt ngang bởi hai đôi mắt đỏ ngầu giận dữ của Hộ bộ Phó sứ và Phạm Văn Minh, ông ngượng ngừng nói: "Chắc chắn tiểu Chu đại nhân sẽ tỉnh lại mà. Chắc chắn."

Lúc này hai người mới dời mắt đi.

Hộ bộ Phó sứ: "Hay là đừng tới làm phiền y, nghe ngóng tin tức thôi là được rồi. Ta và ngươi cố gắng làm chuyện khác trên triều vậy, như vụ án Lưỡng Giang kia, không thể bỏ qua cho kẻ chủ mưu, còn có đám quan lại Đông Nam kia nữa, dù đã chặt đầu rồi cũng phải tra cho đến cùng, công khai tội của bọn chúng ra ngoài, phải truyền sự thật của án oan này đi khắp thiên hạ."

"Có lý." Phạm Văn Minh gật gù, "Cần giải oan nên giải oan, cần trừng trị phải trừng trị, dù quan có bị bắt hay bị chém rồi thì cũng không thể mặc kệ dân chúng chịu khổ thêm nữa, phải trả lại công bằng và trong sạch cho bọn họ, triều đình cũng cần phải chi trả đền bù cho mọi tổn thất."

Hộ bộ Phó sứ: "Nhưng mà bản án này ta và ngươi chưa chắc có thể nhúng tay vào được."

Phạm Văn Minh: "Ta biết là bệ hạ sẽ giao bản án cho Chu tế chấp. Tuy nói rằng cả kinh đô này ai cũng biết Chu tế chấp ghét bỏ tiểu Chu đại nhân, nhưng ông ta xử sự công bằng, sẽ không vì lòng riêng mà trả thù người khác."

Hộ bộ Phó sứ bĩu môi: "Chỉ sợ vạn nhất." Lão không ưa Chu Bá Ung giả vờ nghiêm chỉnh kia chút nào, ông ta rất bất công với chí hữu Chu Tử Thư của lão.

Phạm Văn Minh ho một tiếng: "Ta thấy lúc tiểu Chu đại nhân bị thương, Chu tế chấp và phu nhân của ông ấy vô cùng đau lòng, trông không giống như là giả, cảm giác, cảm giác như có ẩn khuất gì đó." "Có à?" Đỗ Công Tiên xen vào.

"Đương nhiên là có!" Đỗ phu nhân thay quần áo sạch sẽ xong đột ngột bước từ bên trong ra, khoanh hay tay lại, trong lòng kích động nhưng có thể kìm lại được: "Ta nhớ Xương Bình ghét cay ghét đắng tiểu Chu đại nhân, không hề có chút tình thương của mẹ nào, trái lại Chu tế chấp và Chu phu nhân thì rất ân cần, thật ra có để tiểu Chu đại nhân trong lòng. Còn một điều mà các ông không để ý tới, đó là trước màn bức vua thoái vị, Chu tế chấp và phu nhân đã liên tục nhìn về phía tiểu Chu đại nhân rồi, tình cảm đó, ánh mắt đó, cực kì mỏi mòn..."

Đỗ phu nhân nói không ngừng nghỉ, thuật lại bí mật cay đắng mà bà đào bới ra được trong bữa tiệc.

Ba người đàn ông đều đứng nghe chăm chú, đoán ra được sự thật cuối cùng, không khỏi đồng loạt hít sâu một hơi: "Đúng là không thể tưởng tượng nổi!"

"Nếu sự thật là vậy..." Hộ bộ Phó sứ và Phạm Văn Minh lầm bầm tự nhủ: "Tiểu

Chu đại nhân đúng là vô cùng cực khổ rồi."

***

Trong điện Từ Minh, Thái hậu quỳ gối trước tượng Quan Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi.

Ma ma đứng ở bên ngoài tiểu Phật đường nhỏ giọng nói: "Thái hậu, trời đã sáng rồi, bệ hạ vẫn còn đang chờ ở phía trước."

Thái hậu mở mắt ra, thắp một nén nhang trước Bồ Tát rồi ra khỏi tiểu Phật đường, cung nữ thái giám tranh thủ thời gian tiến lên hầu hạ. Đến trước phòng khách, Nguyên Thú đế vẫn còn đang đứng chắp tay, nghe thấy tiếng động mới lập tức xoay người tới hành lễ.

Thái hậu vươn tay nâng ông dậy, dẫn tới tháp ngồi.

Nguyên Thú đế cúi đầu: "Con trai tới đây thỉnh tội với mẹ, con không thể che chở cho Xương Bình, cũng không thể bảo toàn muội ấy."

Bức vua thoái vị thì dù có là con ruột cũng đáng chết, huống chi là em gái?

Ông đặc biệt đến nói lời xin lỗi bởi ngay từ đầu đã không muốn tha thứ cho Xương Bình, việc Hoàng hậu, Đông cung và Xương Bình mưu phản, bức vua thoái vị sẽ nhanh chóng bị dừng lại, Nguyên Thú đế không thể không nắm rõ tình hình.

Lui một vạn bước mà nói, vì sao Xương Bình lại mạo hiểm mưu phản?

Có lẽ vì bà ta đã sâu sắc cảm giác rằng khó mà bảo toàn bản thân, cho nên mới muốn đánh đòn phủ đầu trong ván bài bát thiên này.

Phàm là Nguyên Thú đế làm chút gì đó cho Xương Bình sau khi bà ta hồi kinh, dù chỉ là một câu nói thôi cũng đủ để trấn an bà rồi.

Nhưng mà không có.

Một bên giận dữ lệnh cho Chu Tử Thư về kinh, một bên sấm to mưa nhỏ, qua loa hạ một khẩu dụ vây cấm xuống, kiếm cớ kéo dài việc tra xét đại án Lưỡng Giang, rồi cấm túc cả Xương Bình, đến tận giờ phút này cũng không hề có ý định truy cứu việc đám người Trần Sư Đạo, Cung Tuấn bắt tay nhau bày mưu bức sát Xương Bình.

Có thể đó là thêm dầu vào lửa, hoặc chỉ là khoanh tay đứng nhìn, nhìn Xương Bình tự rước lấy cái chết, sau cùng không thể phủ nhận được sát tâm của Nguyên Thú đế.

Thái hậu nhìn Nguyên Thú đế thật lâu, ông cũng góp phần thúc đẩy cái chết của em gái ruột thịt, vì vậy nên mới áy náy đau buồn, tình cảm biểu hiện ra lúc này là thật, tuyệt tình diệt trừ Xương Bình cũng là thật.

Thiên tử bạc tình.

"Là do Xương Bình ương bướng độc đoán, đại nghịch bất đạo, rơi vào kết cục này là do nó tự gieo gió gặt bão. Hoàng đế cũng đừng quá đau buồn, hãy lo cho bản thân mình đi." Thiên gia vô tình.

"Nếu như con ngã xuống, giang sơn xã tắc, lê dân bá tính phải làm sao bây giờ?" Thái hậu vuốt ve Phật châu, chuyển ánh mắt sang chiếc bàn thấp khắc kinh Phật bên cạnh, niệm từng chữ một, "Nghe đám thái giám cung nữ nói, lúc Hoàng đế bách tử nhất sinh, Chu Tử Thư đã lấy thân mình ra ngăn một đao chí mạng cho con, bây giờ vẫn còn giằng co với sinh tử phải không?" Nguyên Thú đế gật đầu.

"Chính vì vậy, Hoàng đế mới buông thả để Chu tế chấp giật dây vì tình riêng, đồng ý cho ông ấy đưa Xương Bình đi tra hỏi sao?"

"Chu khanh có ơn với trẫm, nhưng không phải là vì nguyên nhân này." Nguyên Thú đế nghĩ đến món nợ mà mình còn thiếu, tuy không nhiều lắm nhưng cũng đã đủ khiến cho Thiên tử áy náy rồi, "Thái hậu có điều không biết, Xương Bình đã lén lút đánh tráo Chu Tử Thư và Chu Ngọc Tranh khi chúng mới vừa ra đời."

Thái hậu ngẩng đầu lên: "Cái gì?"

"Chu Tử Thư mới là con trai út của Chu tế chấp, còn Chu Ngọc Tranh là con trai của Xương Bình."

Thái hậu bàng hoàng không nói nên lời, mạnh mẽ siết chặt vòng Phật khiến nó đứt phăng, hơn trăm hạt bồ đề lách cách rơi xuống đất: "Thật sao?"

"Tất cả đều là thật."

"Tạo nghiệp chướng, Xương Bình tạo nghiệp chướng rồi." Thái hậu không ngừng lắc đầu tiếc nuối: "Ta biết nó kiêu căng cố chấp, cho rằng nó vẫn còn chút lương tâm, ít ra sẽ không gây nghiệp lên người con mình, không ngờ nó lại có thể ra tay với một đứa trẻ khi nó chỉ vừa mới sinh ra."

Bà thở dài nói: "Hai mươi năm trước hủy hoại Chu gia một lần, hai mươi năm sau lại phá tan nát một lần nữa, quả nhiên là oan trái nghiệt duyên." Mà oan trái nghiệt duyên này có liên quan gì đến Chu Tử Thư đâu?

Chịu khổ chịu khó hai mươi năm, sau cùng chỉ có Chu Tử Thư là vạn tử nhất sinh mà thôi.

"Quả nhiên, y là Bồ Tát đến nhân gian độ kiếp cho nên mới phải chịu lắm gian nan khổ cực như vậy." Thái hậu thở dài nặng nề, nhìn Nguyên Thú đế nói: "Hoàng đế về nghỉ ngơi đi, ta cũng mệt rồi."

Nguyên Thú đế đứng dậy: "Nhi tử cáo lui."

***

Ra khỏi điện Từ Minh, nghênh đón ánh mặt trời mới mọc, sắc mặt của Nguyên Thú đế không thay đổi, khẽ vuốt ve ngón tay chắp ở sau lưng.

Mưu phản, bức vua thoái vị, trong một đêm mất đi Hoàng hậu và Đông cung, suýt nữa mất luôn cả mạng, nếu như bình thường, lẽ ra Thái hậu phải bận bịu tới lui, quan tâm sai người nấu canh an thần mang đến, còn phải sao chép kinh Phật, làm thức ăn chạy tạ ơn thần minh tám phương, thế nhưng lúc này đây bà chỉ lạnh nhạt nói vẻn vẹn vài câu cho có, thậm chí không chạm vào tay ông, không vỗ lưng ông, cũng không xoa đầu ông để an ủi.

"Còn trách cứ trẫm nữa."

***

Cửa cung điện Từ Minh đóng lại, Thái hậu ngẩn người nhìn hạt châu lăn lóc dưới mặt đất, ma ma chăm sóc bà bốn mươi năm trời bước tới thấp giọng khuyên nhủ, nói đã một đêm bà chưa ngủ rồi, hay là đi ngủ trước đi.

"Tâm sự nặng nề thế này làm sao ngủ được?" Thái hậu lặng lẽ lau nước mắt trên khóe mắt, con gái hại người, kẻ đau lòng nhất là bà, "Đỡ ta vào nội đường tiểu Phật đường đi, chép thêm nhiều lần kinh Phật nữa, tiện thể chuộc tội thay cho Xương Bình vậy."

Bỗng nhiên Thái hậu lại nói: "Vào kho phủ ta tìm một vài dược liệu quý hiếm đưa đến Thái y viện, nói là để cho Chu Tử Thư dùng. Còn nữa, trong hai ngày này tìm thời gian đi lãnh một cái thẻ ngà, đến chùa Hồng Phúc giúp ta đốt đèn cầu phúc."

Ma ma cẩn thận hỏi lại: "Cầu cho Xương Bình điện hạ sao ạ?"

Thái hậu im lặng rất lâu mới lên tiếng: "Cầu phúc cho Chu Tử Thư... Cầu cho thằng bé về sau vô tai vô nạn."

***

Điện Tử Thần, noãn các.

Đã ba ngày trôi qua, Chu Tử Thư vẫn chưa có dấu hiệu tỉnh lại.

Máu đã ngừng chảy, miệng vết thương được khâu lại rất thuận lợi, cơn sốt cũng đã lui, dược liệu bổ máu bổ khí quý báu đưa vào cơ thể như rót nước, thái y luôn canh chừng ở bên ngoài noãn các chờ lệnh mọi lúc, đến cả Từ Minh Bích cũng bị Cung Tuấn ép vào cung cứu chữa cho Chu Tử Thư.

Ngày đầu tiên thật sự rất nguy hiểm, lưỡi đao kia suýt chút nữa là đâm xuyên thủng nội tạng, sau khi xác nhận máu không còn chảy nữa, thái y bèn nhanh tay khâu miệng vết thương lại, khi ấy Chu Tử Thư đã được cho ăn không ít ma phi tán, theo lẽ thường là sẽ phải tình lại vì cơn đau do khâu sống, nhưng mà suốt cả quá trình đó y không hề có ý thức, đồng tử tan rã, chứng tỏ nguy cơ cực cao, bất cứ lúc nào cũng có khả năng tử vong.

Cũng may đó chỉ là nỗi sợ chứ không nguy hiểm, việc khâu vết thương đã hoàn thành, nhưng theo sát phía sau là cơn sốt cao đến đáng sợ, ba canh giờ sau đó phải có người trông chừng Chu Tử Thư không được rời một giây một phút nào, cứ đúng giờ là phải giúp cơ thể y hạ nhiệt độ, còn cần phải luôn chú ý đến miệng vết thương tránh để nó rách ra, không được để nhiễm trùng,

Giành giật từng giây căng thẳng, giữ vững tinh thần, chỉ sau mấy canh giờ ngắn ngủi thôi mà hai nhóm người từ thái giám cung nữ đến thái y đều nối tiếp nhau mệt mỏi ngã gục.

Cũng may là đã hạ sốt, miệng vết thương cũng không nhiễm trùng, nhưng mà Chu Tử Thư vẫn không tỉnh.

Các thái y vắt óc đau khổ suy nghĩ rồi đưa ra kết luận: "Đáng ra bây giờ tiểu Chu đại nhân phải tỉnh rồi, nhưng vẫn chưa tỉnh thì chỉ có thể nói..." Thái y do dự một chút, vẫn cắn răng nói ra: "Chỉ có thể nói rõ ý chí sống sót của bản thân y rất yếu ớt, không muốn tỉnh lại!"

Cung Tuấn rơi vào trầm lặng, một lúc lâu sau mới hỏi: "Vậy có cách nào giúp tiểu lang tỉnh lại không? Có cách nào có thể làm tăng ý chí sống sót của tiểu lang hay không?"

Đám thái y quay mặt sang nhìn nhau, cuối cùng Từ Minh Bích bước ra khỏi hàng nói: "Lúc ta đi chu du dân gian có từng gặp một ca bệnh té chấn thương đầu hôn mê mấy tháng liền, nhờ người nhà kiên trì mới khiến cho ý chí sống sót của người bệnh tuôn ra mạnh mẽ, rốt cuộc cũng tỉnh lại. Sau đó người bệnh nói rằng lúc hắn hôn mê vẫn có thể cảm nhận được rõ ràng những gì xảy ra ở xung quanh mình, còn nghe thấy được những điều người thân nói bên tai hắn, đúng là nhờ người nhà không bỏ cuộc, ý chí sống sót mới bật lên, thoát khỏi cái chết đang đe dọa, kéo sinh mạng trở lại lần nữa."

Cung Tuấn: "Ngươi nói tuy tiểu lang hôn mê, nhưng y vẫn có thể nghe thấy chúng ta nói chuyện sao?"

Từ thần y khựng lại một chút rồi đáp: "Có lẽ vậy." Gã cũng không chắc chắn lắm.

Cung Tuấn: "Vậy có phải là ta nói chuyện với tiểu lang rồi, y sẽ không còn muốn chết nữa hay không?"

Từ thần y im lặng một lúc lâu mới đáp lại: "Quyết định còn nằm ở mức độ lưu luyến nhân gian này của tiểu Chu đại nhân nữa."

Thực tế, bởi vì Chu Tử Thư không mấy luyến tiếc nhân thế này cho nên mới hôn mê đến tận bây giờ.

Đáp án này trong lòng ai nấy đều hiểu rõ, nhưng chẳng ai dại dột nói ra thành lời.

Cung Tuấn mạnh mẽ lau mặt mình: "Biết rồi. Các ngươi lui xuống trước nghĩ cách khác đi, mặc kệ có thể dùng được hay không, dùng có tốt hay không, cứ nói ra trước đã."

Từ Minh Bích nhìn thấy hai quầng thâm dưới mắt và tơ máu đỏ rực trong mắt hắn, quần áo vẫn còn là bộ mà hắn mặc vào cung yến mấy đêm trước, những vết máu đã khô lại chuyển thành màu đen, toát ra một mùi hương hơi gay mũi, dáng vẻ của hắn thật sự là đã mệt mỏi đến cùng cực rồi, trông chật vật chịu không nổi, thế là gã bèn khéo léo khuyên hắn đi nghỉ ngơi một chút.

"Cái gì?" Có lẽ là không ngủ nhiều ngày liền, cũng có lẽ là do tâm thần không yên, phản ứng của Cung Tuấn rất chậm chạp, hắn lấy lại tinh thần rồi mới lên tiếng, "Ta sợ người đầu tiên tiểu lang nhìn thấy sau khi tỉnh lại không phải ta, y sẽ sợ. Ta cũng sợ nếu như ta không ở bên cạnh tiểu lang nói chuyện với y, y sẽ hiểu lầm rằng trong cuộc đời này không có gì đáng để tiếc nuối..." Dừng một chút, hắn có chút không tự tin hỏi: "Tiểu lang có lưu luyến ta không? Có thể tỉnh lại vì ta không?" Từ thần y nghẹn lời.

Gã đã quen biết Cung Tuấn nhiều năm, cái người này dường như trời sinh tính tình hăm hở, năm đó hắn bại trận, binh lính cùng vào sinh ra tử với hắn ngã xuống rất nhiều, nhưng cùng lắm thì hắn cũng chỉ mất tinh thần buồn bã một chút thôi rồi lại nhanh chóng giương cờ giống trống giết sạch quân địch, không để lại dù chỉ một mảnh giáp, dùng máu và đầu quân địch để cho quân lính của hắn nhắm mắt.

Hỗn thế ma vương nổi danh kinh đô ở trước mặt Chu Tử Thư giờ đây cũng trở nên thiếu tự tin mất rồi.

Cung Tuấn bóp hổ khẩu, nói: "Bảo người đưa Nghiên Băng, Ngụy bá và Tú ma ma vào cung đi, bọn họ ở cùng tiểu lang hai mươi năm, dù chẳng có chung huyết thống gì mà còn hơn cả người thân, nói không chừng sức nặng của bọn họ trong lòng tiểu lang còn nặng hơn cả ta nữa."

Chỉ trong một cái chớp mắt, hắn nói với Từ Minh Bích: "Cứ như vậy đi."

Từ thần y và các thái y hết cách, chỉ đành phải lui ra gian ngoài, để mặc Cung Tuấn không ngủ không nghỉ túc trực bên cạnh Chu Tử Thư đang hôn mê.

Cung Tuấn ngồi bên cạnh mép giường, chăm chú nhìn khuôn mặt tái nhợt của Chu Tử Thư, giúp y vén tóc ra phía sau tai, lại cầm khăn vải ấm lau chùi cơ thể cho y.

Chu Tử Thư hôn mê mà cơ thể vẫn rất sạch sẽ, Cung Tuấn thân thể khỏe mạnh là thế nhưng còn trông giống người bệnh hơn cả y nữa.

"Tiểu lang kiên trì lâu như vậy rồi, thật ra vẫn không nỡ buông bỏ có đúng không? Sao lại có thể nói thế gian này không có gì đáng để lưu luyến chứ? Tiểu lang cam lòng buông bỏ ta sao? Tiểu lang còn chưa tận mắt nhìn thấy Nghiên Băng thành gia lập nghiệp cơ mà, à phải, Lý Ý Như đã đồng ý lời cầu hôn của Từ Minh Bích rồi, cuối tháng này sẽ hứa hôn. Còn có cả Tú ma ma, Ngụy bá, và cả mọi người trong phủ quận vương đều đang đợi em về nhà, Trần Sư Đạo bọn họ mỗi ngày đều đi qua hỏi một câu về thương thế của em... Rất nhiều người đều ngóng trông em khỏe mạng, rất nhiều người đều đang đợi em tỉnh lại. Xương Bình đã bị đem đi tra hỏi rồi, từng hành vi phạm tội của bà ta đều sẽ được công bố với thiên hạ, từ chuyện thạch thương họ Khuông đến án oan của Dương thị đều là án sai được sửa lại, công bằng mà em muốn cho lê dân bá tánh đã cho được rồi, em muốn nói với tất cả mọi người có oan phải giải oan, giết người thì đền mạng, bọn họ đều nghe được cả rồi. Triều đình và dân chúng, từ trẻ đến già đều đang bôn ba vì em, bọn họ đều đang giúp em giải tội không chiếu chém chết ba trăm quan Lưỡng Giang, bệ hạ cũng không còn định trách cứ nữa mà muốn khen thưởng..."

Dông dài một lúc, Cung Tuấn không nói nên lời nữa.

Hắn nắm bàn tay của Chu Tử Thư lên áp vào áp, nước mắt ấm áp rơi xuống làm ướt lòng bàn tay y, cũng thấm ướt cả chăn bông.

"Tiểu lang tỉnh lại được không? Đừng rời bỏ ta."

"Nếu như em thật sự là tiểu Bồ Tát từ trên trời xuống trần gian độ kiếp, vậy thì có thể ở lại độ ta xong rồi hãy quay trở về được không?"

Cung Tuấn khẩn cầu Chu Tử Thư, cầu xin cả thần phật không biết có thật sự tồn tại hay không, trước đây hắn cúng Phật là vì có điều muốn cầu, nhưng tạp niệm quá nhiều không thành tâm, còn từ giờ về sau hắn chỉ cầu thần bái phật vì một mình Chu Tử Thư, cũng chỉ ôm lòng thành kính với một mình y mà thôi, có thể trả tiểu lang lại cho hắn được không?

"Ta biết rõ, ta biết rõ tiểu lang đã phải chịu quá nhiều khổ sở. Họ Chu kia, còn có Tạ thị, mấy ngày nay bọn họ thường xuyên gửi bái thiếp muốn vào noãn các, muốn gặp em, tỏ vẻ buồn bã đáng thương, hối hận gần chết, trái lại đánh tiếng đến chỗ Thái hậu và bệ hạ, bọn họ được phép vào nhưng đều bị ta cản lại. Ta biết rõ cả... Lúc ở dịch trạm, ta đều nghe được hết rồi, ta mới biết..." Hai mắt Cung Tuấn đỏ hoe, cũng khiến cho nước mắt đau lòng như muốn nhuốm màu đỏ thẫm, "Ta mới biết suốt hai mươi năm qua tiểu lang của ta phải cực khổ chịu đựng biết bao nhiêu việc ác. Tiểu Bồ Tát của ta vốn nên được sống cuộc đời lá ngọc cành vàng, vốn phải được lớn lên trong vô vàn thương yêu, tiên y nộ mã, khí phách tung bay, em sẽ là thiếu niên lang thu hút sự chú ý nhất trong kinh đô, là tiểu trạng nguyên xinh đẹp nhất, muốn đòi lại công bằng cho dân cần gì phải khổ tâm tốn sức? Cũng nào có cần phải tuyệt vọng đến nỗi không cần cả mạng sống nữa? Sẽ có người yêu em thương em, che chở bảo vệ em, nuông chiều để em có thể bước đi trên con đường của mình, đi theo con đường thanh thiên vì bá tánh của em..."

"Em vốn phải như thế."

"Ta không cho phép người nhà họ Chu vào đây, bởi ta biết em sẽ không muốn gặp mặt bọn họ, nhưng ta cũng thừa biết tiểu lang dễ mềm lòng, nếu như ta làm sai rồi thì em hãy tỉnh lại mắng ta một trận đi... Còn nếu ta không làm sai thì em phải khen ta đấy, bằng không thì lương tâm ta khó an lắm."

Quỷ đòi nợ vô lương tâm nhất mà lại không biết xấu hổ nói lương tâm hắn khó an à?

Nguyên Thú đế vừa bước vào tới nơi nghe xong lời này suýt nữa là không thở nổi, ho mạnh một tiếng nhưng không được Cung Tuấn đáp lại, ông ho thêm hai tiếng nữa, thế là nhận được ánh mắt tựa lưỡi dao sắc lẹm muốn giết người của Cung Tuấn.

"..." Nguyên Thú đế ngượng ngùng hỏi: "Vẫn chưa tỉnh à?"

Cung Tuấn: "Không có việc gì thì đừng đến đây làm phiền người khác."

Cơn giận vừa lắng xuống của Nguyên Thú đế lại đột ngột vùng lên, nhưng khi nhìn thấy dáng vẻ chật vật mệt mỏi của Cung Tuấn thì nó đã bị sự xót xa đã lấn át mất rồi, ông bèn cất giọng khuyên nhủ hắn giống hệt như bao người cha trên đời này: "Nghỉ ngơi một lát đi, chuyển thêm một chiếc giường nữa để ở bên cạnh, nghỉ chút thôi. Trẫm sẽ lệnh cho người theo dõi y từng giây từng phút, phàm là Chu khanh có động đậy, dù mi mắt chỉ run lên một chút thôi cũng sẽ lập tức đánh thức con dậy."

Cung Tuấn: "Bệ hạ đến đây chỉ để nói vậy thôi sao?"

Nguyên Thú đế cau mày: "Ngày nào Chu tế chấp và Tạ thị vợ ông ấy cũng đến chờ bên ngoài điện Tử Thần đấy, Tạ thị đổ bệnh sốt cao không giảm mà mỗi ngày đều kiên trì đến đây đợi suốt mấy canh giờ liền. Từ khi trở về sau đêm cung yến đó, ngày hôm sau lên triều, đầu Chu tế chấp đã bạc hơn nửa, rõ ràng là đã hối hận lắm..."

"Nếu như ngài tiếp tục nói những điều này, vậy thì đừng đến đây nữa."

"Con!" Nguyên Thú đế nổi giận nhưng vẫn thấp giọng nói: "Con cứ cứng đầu cứng cổ như vậy sao?"

Bả vai Cung Tuấn sụp xuống, sắc mặt thẫn thờ: "Cha à, xin cha đấy, có thể đợi sau này rồi hãy hỏi ta tội bất kính có được không?"

"Ta..."

Nguyên Thú đế nghẹn họng, khi Cung Tuấn còn nhỏ chưa hiểu chuyện từng gọi ông là cha, bị ông trách mắng rồi đánh cho một trận, kể từ đó phân biệt rạch ròi, sau này đưa hắn về lại phủ Tĩnh vương, rồi đến lúc trúng cổ độc, ông đưa lão Lục vào quân Ký Châu, Cung Tuấn liền hoàn toàn coi ông như người xa lạ.

Lúc ở cùng nhau hai người tuyệt đối không vượt qua giới hạn, đến những lúc hắn bướng bỉnh vô lễ hay tỏ ra tức giận cũng sống chết bám vào thân phận quân thần, sẽ không còn bỏ ra lòng tin tưởng và kính trọng ông như lúc trước nữa, nói chi đến việc gọi ông một tiếng cha.

Bây giờ gọi ông là cha, chỉ vì cầu xin ông để ngày sau hãy hỏi tội thôi.

Nhưng ông nào có muốn hỏi tội đâu.

Ông chỉ hy vọng Cung Tuấn có thể ngỗ nghịch với ông, chọc cho ông nổi giận như ngày trước, ông chỉ mong hắn có thể giận dỗi mình, đừng trầm lặng suốt ngày giống như bây giờ nữa, trông cứ như là hắn cũng sắp sửa hôn mê rồi chết cùng Chu Tử Thư luôn vậy.

"Cha, cha không nói nữa. Nhưng con nghe lời cha đi, người ta còn chưa tỉnh, con đã ngã xuống trước rồi đấy."

Cung Tuấn không đáp lại, cũng chẳng biết cái tính cố chấp này đến cùng là giống ai nữa, thế nhưng Nguyên Thú đế cũng hết cách rồi. Ông tự biết mình mắc nợ, mắc nợ cả hai người ở trước mặt ông đây.

***

Ra khỏi điện Tử Thần, Nguyên Thú đế hỏi thái giám bên người: "Nghe nói Thái hậu đốt đèn cầu phúc cho Chu Tử Thư ở chùa Hồng Phúc sao?"

Đại thái giám: "Vâng. Đã đốt đèn dâng lên cầu phúc rồi ạ."

Nguyên Thú đế: "Linh nghiệm lắm à?"

Đại thái giám: "Nghe nói là vô cùng linh nghiệm. Trong phủ có chùa Hồng Phúc, ngoài phủ có chùa Bảo Hoa, khách hành hương nhiều như mắc cửi, ngựa xe như nước, nếu như không linh nghiệm thì cũng chẳng có mấy ai đến đâu ạ."

Nguyên Thú đế: "Ngươi giúp trẫm đi đốt một chiếc đèn đi."

Đại thái giám vội vàng lui đi: "Vâng."

***

Tạ thị không thể vào noãn các, không gặp được Chu Tử Thư, chỉ đành nghe ngóng tình hình từ người bên ngoài, biết được ý chí sống sót của Chu Tử Thư cực kì yếu ớt thì lệ rơi lã chã, tự biết rằng đó là lỗi lầm của bọn họ, thế nhưng chẳng biết phải làm sao, bởi họ cũng chẳng giúp đỡ được gì.

Trên đường về phủ đột nhiên rẽ sang đường khác đi chùa Hồng Phúc, bởi vì bà là khách hành hương thành kính nhất, cho nên vừa đến chùa là có thể trực tiếp đi gặp trụ trì, lời đầu tiên chính là yêu cầu đập bỏ đèn cầu phúc mà ngày trước bà cầu cho Chu Ngọc Tranh.

Trụ trì im lặng nhìn bà, mặt không đổi sắc hỏi: "Phu nhân đã nghĩ kĩ chưa?"

"Đập đi." Tạ thị còn nói thêm: "Làm phiền trụ trì giúp ta đốt một ngọn đèn cầu phúc trừ họa, dù từ nay về sau ta có phải ăn chay niệm Phật, hoặc ngày ngày sao chép kinh Phật cũng không thành vấn đề, nhưng cầu, nhưng cầu cho tiểu Lân Nô từ giờ trở đi vô kinh vô hiểm, vô tai vô nan."

Trụ trì: "Mời đi theo ta."

Đèn cúng được thắp sáng tại điện Vạn Phật, khi đến nơi, Tạ thị phát hiện trước cửa đại điện, trên lan can, bên dưới sân rộng đều bày đầy đèn sáng, bây giờ đang là hoàng hôn, đèn chỉ sáng mờ, nhưng đến lúc trời hoàn toàn sụp tối thì hàng vạn ngọn đèn sẽ bừng sáng rực rỡ, vô cùng tráng lệ.

Nhưng đây không phải là điều hiếm lạ.

Thỉnh thoảng chùa Hồng Phúc sẽ tổ chức pháp hội để cho vạn dân cúng đèn cầu phúc, chùa Bảo Hoa bên ngoài phủ cũng sẽ tổ chức, thậm chí một vài chùa miếu nhỏ cũng sẽ tổ chức pháp hội này để cho hàng trăm, hàng nghìn chúng dân đến thắp đèn.

Sở dĩ Tạ thị biết được là bởi vì bà đã từng đi đến tất cả các pháp hội này, đã từng quỳ trước thần phật vì Chu Ngọc Tranh người yếu nhiều bệnh, chùa miếu nào cũng có giữ lại những món đồ mà bà thành kính cung phụng.

Nhưng phúc lành mà bà khao khát có được lại không rơi trúng đứa con trai nhỏ của bà, có điều không thể trách thần phật không hiển linh, phải trách bà nhận nhầm người, trách bà lòng dạ độc ác giận chó đánh mèo lên người đứa trẻ vô tội.

"Tục nói cha mẹ nợ, con cái trả, có phải là do kiếp trước của ta quá nhiều nghiệp chướng, thiếu nợ quá nhiều cho nên kiếp này mới bắt con ta trả lại hay không? Vì sao báo ứng lại không báo trên người ta, mà lại rơi xuống trên đầu một đứa nhỏ vô tội kia chứ?"

Có lẽ đã vượt qua được nỗi đau đớn cùng cực, khi hỏi câu hỏi này, Tạ thị cũng ngạc nhiên vì tâm trạng của mình rất bình tĩnh.

"Vạn vật trên thế gian này đều là do nhân quả quyết định. Bởi vì nhân ở kiếp trước có quá nhiều biến số, không nhất định ảnh hưởng đến quả trong kiếp này, nhưng nhân trong quá khứ lại chính là quả của hiện tại, nhân không nhất định là nhân của bản thân mình, nó có thể là nhân của người khác nhưng quả lại gieo xuống đầu phu nhân. Hoăc cũng có thể là người nào đó làm ảnh hưởng đến nhân mà người gieo xuống, cuối cùng khiến cho quả rơi trúng một người khác."

"Nhưng đối với người vô tội kia mà nói, vô duyên vô cớ ăn phải quả xấu là điều công bằng hay sao?"

"Nhân quả đã định, không nói công bằng." Trụ trì quay đều lại nhìn Tạ thị, ấm giọng nói: "Người phải chịu quả xấu có khả năng sẽ gieo một nhân mới, có lẽ là nhân ác, cũng có lẽ là nhân thiện, nếu như là nhân thiện thì sẽ kết được quả tốt, quả tốt rơi xuống đầu người khác cũng đã là công đức vô lượng rồi."

Mặt Tạ thị không có biểu cảm gì, dù trụ trì có đại trí đại tuệ dường như đã thấy rõ hết thảy, nhưng bà vẫn không cam lòng.

Dựa vào cái gì mà kẻ gieo nhân ác không tự mình gánh chịu hậu quả, lại muốn đổ hết tai họa lên người con trai nhỏ của bà?

Vì cớ gì muốn con trai của bà ăn quả xấu còn bản thân nhận lại nhân thiện, tích góp công đức cái gì chứ?

Trụ trì thấy bà như vậy thì cũng không khuyên nhủ nữa.

Lúc này có người đi ra từ trong điện Vạn Phật, đưa mắt nhìn thấy Tạ thị bèn bước đến hành lễ: "Ồ, Chu phu nhân cũng tới lễ Phật sao?"

Tạ thị ngước mắt lên nhìn thì thấy đó là đại thái giám bên cạnh Nguyên Thú đế, bà không có lòng trò chuyện, chỉ gật đầu qua loa đáp lại: "Ông cũng vậy à?"

Đại thái giám chắp hai tay hướng lên trời: "Phụng mệnh làm việc, đến thắp một ngọn đèn nhỏ cầu phúc cho tiểu Chu đại nhân, suýt nữa là không xin được." Ông quay đầu nói với trụ trì: "Ngài là trụ trì chùa Hồng Phúc phải không? Sao lại để chùa thiếu đèn vậy? Nếu như Chu phu nhân đến đây là để thắp đèn cầu phúc, chỉ sợ là phải quay về đi thôi, bên trong đã hết đèn rồi. À, mau gọi người mang thêm đến đi."

Tạ thị biến sắc, đột nhiên nhìn về phía trụ trì, trụ trì đang hỏi một tiểu sa di, xác nhận là không còn đèn nữa, nhưng bây giờ không kịp đi mua nữa rồi.

Trụ trì: "Sao lại không còn? Gần đây không tổ chức pháp hội vạn chúng cúng đèn, sao lại có nhiều khách hành hương đến đốt đèn như vậy?"

Tiểu sa di đáp: "Không chỉ đèn cúng trong chùa Hồng Phúc của chúng ta hết, mà có lẽ đèn của chùa Bảo Hoa ngoài phủ và chùa miếu nhỏ trong phủ cũng đều đã hết sạch rồi. gần đây mọi người trong ngoài phủ đều vào chùa xin thanh đăng*, vốn chỉ có mấy vị phu nhân có cáo mệnh đến cầu thôi, không bao lâu sau thì dân chúng cũng ùn ùn kéo đến, có vài người còn cùng chia sẻ một ngọn đèn nữa... Hai ngày trước Thái hậu cũng đến chùa chúng ta cúng thanh đăng, không biết vì sao lại truyền được ra ngoài, hôm nay đèn có sẵn đều đã được thắp lên hết cả rồi."

(*) Thanh đăng (青灯): Đèn dầu thắp lên có ánh sáng màu xanh lục.

Tình cờ có ba người dân áo vải đi qua bên cạnh, mỗi người đều cầm trong tay một ngọn đèn cúng, Tạ thị chặn bọn họ lại hỏi thăm xem có thể bán nó cho bà hay không, ba người nọ đều tỏ vẻ khó xử.

Tạ thị sốt ruột nói: "Ta có thể trả giá gấp mười lần, cầu xin các người nhường đèn cho ta với."

Thật ra bà có thể đợi thêm vài ngày nữa, cũng biết đèn cầu phúc chỉ là để an ủi lòng mình mà thôi, không thể khiến cho ngũ lang tỉnh dậy, nhưng mà bà đã không còn biết phải làm thế nào nữa rồi.

Dường như thắp một ngọn thanh đăng lên cũng đã đủ để an ủi tâm hồn đau đớn của bà rồi, bà đã không còn nơi nào để quay đầu lại nữa, chỉ đành phải bắt lấy niềm an ủi cằn cỗi duy nhất mà bà có thể bắt được thôi, ý nghĩ ấy đã thúc giục bà dây dưa với ba người khách hành hương chỉ để mua lại một ngọn đèn.

Một trong ba người nọ nói: "Không phải bọn ta cố tình ép giá, chỉ là đèn này thắp sáng dâng lên là vì tấm lòng." Tạ thị hỏi: "Lòng vì điều gì?"

Ba người: "Cầu phúc cho một người."

Tạ thị: "Cho ai?"

Ba người: "Chu đại nhân Chu Tử Thư."

Tạ thị giật mình, đến cả đại thái giám cũng ngạc nhiên ra mặt, mà tiểu sa di kia cũng tự nhiên nói ra: "Hàng vạn ngọn đèn này đều là do dân chúng trong phủ ta thắp sáng dâng lên để cầu phúc cho Chu đại nhân đấy, ta còn nhớ có một vị khách hành hương quỳ từ bên ngoài sơn môn đến tận đây, thành tâm thành ý cầu ba mươi ba ngàn ba trăm thần phật, giúp cho tiểu thanh thiên kia thoát khỏi biển khổ vô biên, trả y về nhân gian này."

Hắn quay đầu lại nhìn hai người, khó hiểu vò đầu rồi nói: "Hai người không biết à? Chu đại nhân vì dân chờ lệnh, còn lấy thân cản đao cứu Thánh thượng, hôm nay mạng còn treo lơ lửng, hôn mê bất tỉnh, chuyện đã truyền khắp nhân gian rồi, bây giờ muốn có đèn khó lắm. Phủ kinh đô chúng ta đã như vậy, nghe nói ở Lưỡng Giang còn có người lập cho y bia trường sinh, ngày đêm thắp sáng thanh đăng trong nhà đấy."

Vạn dân trong thiên hạ dâng cúng thanh đăng, chỉ cầu cho một người phúc tinh cao chiếu.

Mà bấy giờ, Tạ thị đã rơi lệ đầy mặt rồi.

***

Điện Tử Thần, noãn các.

"Công bằng ở lòng dân, trong lòng dân có cán cân." Cung Tuấn nói nhỏ bên tai Chu Tử Thư, mới vừa rồi Nghiên Băng đã vui vẻ nhắc đến chuyện trong kinh đô có ba mươi ngàn ngọn đèn cầu phúc cho Chu Tử Thư, hắn bèn kể lại cho y nghe, "Tiểu lang, em lập mệnh cho lê dân bá tánh, bọn họ đều cầu xin thần phật trả em trở về đấy."

"Tiểu lang, tiểu Bồ Tát, em không cô đơn đến thế đâu, đừng quay về trời có được không?"

"Tiểu lang..." Cung Tuấn rúc vào cổ Chu Tử Thư, dòng chất lỏng ấm áp lại chảy xuống, "Cuộc sống này không hề gay gắt đến như vậy mà phải không? Em không phải cô đơn một mình, có ta, có thân bằng hảo hữu, còn có thiên hạ vạn dân, em quan tâm đến họ đến nhường này, làm sao có thể cam lòng buông bỏ đúng không?"

Hắn không nhúc nhích, cho nên cũng không nhận ra có một bàn tay trắng nhợt yếu ớt đang từ từ nâng lên, nhẹ nhàng đặt lên bả vai hắn.

Cung Tuấn không dám động đậy, sợ rằng đây chỉ là ảo giác mà thôi.

Sau đó, hắn chợt nghe thấy một giọng nói ấm áp như tiếng trời vọng xuống từ trên đỉnh đầu, "Người mà ta luyến tiếc không thể buông bỏ được, là chàng."

==

Min: Hôm nay lại cho mí bà khóc tiếp nè 😭✨

Chương 92

Cung Tuấn sợ sệt không dám động đậy, hắn sợ rằng đây chỉ là ảo giác thôi.

Thế nhưng tiếng Chu Tử Thư không tiếp tục vang lên phía trên đầu nữa, hắn lại sợ đúng là ảo giác thật, không nhịn được vội vàng ngẩng đầu lên nhìn thử, thế là chạm phải ánh mắt dịu dàng mềm mại của Chu Tử Thư.

"Thái y... Thái y! Từ Minh Bích!"

Nghe thấy tiếng gào thét hoảng sợ của Cung Tuấn, thái y, Từ Minh Bích và đám người Nghiên Băng ở gian ngoài cũng tá hoả vì sợ xảy ra chuyện lớn, kẻ lăn người bò ùa vào trong, cuối cùng ngẩn hết cả người vì thấy Chu Tử Thư đang mở to mắt nhìn lại.

Nghiên Băng nín khóc cười toe, đứng cạnh bên cậu là Tú ma ma, cả hai người đều sắp biến thành giọt nước mắt luôn rồi, Ngụy bá đứng phía sau cũng đã lặng lẽ đỏ mắt.

"Còn ngây ra đó làm gì?" Cung Tuấn nhíu mày: "Sang đây xem vết thương cho tiểu lang đi."

Thái y đứng ở chỗ gần nhất thậm chí có thể thấy được dấu vết còn vương lại trên mặt Cung Tuấn, trong lòng chưa kịp sợ hãi cảm thán một câu đã bị ánh mắt trừng giống hệt như hung thần ác quỷ của Cung Tuấn dọa cho rụt cả vai lại, vội vàng vùi đầu chạy tới xem tình hình của Chu Tử Thư.

Xem này, dù có khốn khổ vì tình, tan nát lòng vì yêu đến đâu đi nữa, thì Nhân đồ vẫn là Nhân đồ*, hỗn thế ma vương vẫn là hỗn thế ma vương, chém đầu người giống như chém củ cải, thật sự hung dữ lắm kìa.

(*) Bạch Khởi được xem là một trong 4 nhà cầm quân tài ba nhất thời Chiến Quốc. Bạch Khởi chỉ huy quân đội Tần hơn 30 năm, nhiều lần đánh bại Tam Tấn (tức 3 nước Hàn, Chu, Nguỵ lân bang Tần) và Sở, đỉnh điểm là trận Trường Bình, tại đây Khởi đồ sát 45 vạn quân Chu. Sinh thời Bạch Khởi được phong tước Vũ An quân (武安君), giữ chức Đại lương tạo, chức quan coi hết việc quân của nước Tần. Do Bạch Khởi giết nhiều người nên người đương thời gọi là Nhân đồ (人屠). (Wikipedia)

Lão cúi đầu kiểm tra, đúng là vết thương của Chu Tử Thư đang khôi phục hoàn toàn theo chiều hướng tốt, nhưng sắc mặt y vẫn còn trắng bệch, hơi thở tuy nhẹ nhưng tinh thần không tệ lắm, không phải hồi quang phản chiếu, cánh môi không có màu máu nhưng không bị bong da, chứng tỏ tiểu quận vương chăm sóc y rất tốt, không hề để cho tiểu Chu đại nhân hôn mê bị thiếu nước.

Tuy rằng trông còn hơi yếu ớt, nhưng ánh mắt và biểu cảm đều rất dịu dàng, đã có thể dịu giọng nói: "Các ngươi vất vả rồi."

Chúng thái y thức mấy đêm liền, đã mệt mỏi về thể xác lẫn tinh thần còn thường xuyên bị hô tới gọi lui, hở ra là dọa chém rơi đầu, nghe vậy lập tức cảm giác như có một luồng gió xuân êm dịu thổi tới trước mặt, cảm thán tiểu Chu đại nhân quả là quân tử như ngọc, danh bất hư truyền.

... Có lẽ bọn họ đã quên mất rằng Chu Tử Thư ốm yếu ôn hòa cũng đã từng giơ tay chém đầu người rồi.

Có điều người đã tỉnh lại chính là một điều may mắn.

"Không có gì đáng ngại, miệng vết thương đang lành lại rất tốt, huyết khí không ổn định lắm nhưng từ từ điều dưỡng là được, chú ý đừng để quá mệt nhọc, giai đoạn này cần phải tĩnh dưỡng cho thật tốt, cẩn thận chớ để lại gốc bệnh, bằng không về già sẽ rất khó chịu."

Lời dặn dò của Từ Minh Bích và các lão thái y đều gần như giống nhau, nhắn nhủ đã xong thì tất cả bèn lui xuống hết, lúc đi ngang qua đám người Nghiên Băng còn không ngừng nháy mắt, bảo họ để cho vợ chồng son người ta không gian riêng bày tỏ tình cảm.

Nghiên Băng vẫn còn đang ngơ ngác đã bị Tú ma ma dụ đi.

"Ta còn muốn nói chuyện với ngũ lang mà." Đi ra gian ngoài, Nghiên Băng mới nhỏ giọng nói ra mong muốn của cậu.

Tú ma ma: "Về sau vẫn còn rất nhiều thời gian nói chuyện với ngũ lang, bây giờ nhường cho tiểu quận vương trước đi. Nếu như không được nói chút chuyện riêng tư, ta sợ tiểu quận vương sẽ sụp đổ ngay tại chỗ mất."

Nghiên Băng hiểu được lý do đó, cho nên cậu bảo rằng mình chỉ nói vậy thôi.

***

Gian trong.

Nước chảy tí tách, vang lên theo quy luật.

"Ta đều nghe thấy được. Những ngày qua, lời chàng nói bên tai ta, ta đều nghe thấy được cả." Tốc độ nói chuyện của Chu Tử Thư rất chậm, gần như là nói chậm từng chữ một, y giơ tay lên xoa gương mặt tiều tụy của Cung Tuấn, bị hắn cầm ngược tay lại, lòng bàn tay ngứa ngáy vì bị gốc râu đâm vào, "Xin lỗi, dọa chàng sợ rồi."

"Vậy sau này đừng dọa ta như thế nữa." Cung Tuấn thừa cơ đòi hứa hẹn, "Khoảng thời gian này ta luôn rất hối hận vì trong lời thề thành thân chưa nói đồng sinh cộng tử, khi ấy ta cho rằng chiến trường hung hiểm, nói không chừng một ngày nào đó ta sẽ chết trước em, không thể để em tuẫn tình, cũng không hy vọng em thủ tiết... Có thể không thủ tiết nhưng đừng nói cho ta biết, bằng không ta thành quỷ rồi cũng sẽ tức giận mà sống lại mất." Chu Tử Thư bị hắn chọc cười.

Cung Tuấn nhìn y: "Lần này tiểu lang làm ta sợ suýt nữa là hồn bay phách lạc, cõi lòng tan vỡ đến bây giờ vẫn còn chưa dính lại được đây, đoán chừng về sau sẽ để lại di chứng tim đập nhanh, đau tim gì đó nữa, vậy nên tiểu lang phải bù đắp cho ta đấy."

Chu Tử Thư nhìn hắn cười, rất phối hợp hỏi: "Muốn bù đắp như thế nào đây?"

Cung Tuấn im lặng nhìn y, đặt một nụ hôn lên mu bàn tay y rồi nói: "Chu Tử Thư, đồng sinh cộng tử với ta đi." Giọng hắn run rẩy: "Tiểu lang nói rằng em trở về vì ta, ta tin em, tin cả đời, vì vậy không được bỏ ta lại nữa. Ta thề, ta thề sẽ cố gắng sống đến hết phần đời còn lại của em, sẽ không để em phải đối mặt với cái chết của ta, cũng sẽ không để em phải cô đơn đối mặt với cái chết của mình."

Hắn từng chịu đựng rất nhiều lo lắng, sợ hãi và đau khổ, cho nên hắn không muốn Chu Tử Thư cũng nếm trải cảm giác đó.

Chu Tử Thư rất muốn trêu chọc một câu tiểu quận vương tin Phật sao có thể động một chút là nói chuyện chết chóc, nhưng mà Cung Tuấn nghiêm túc quá.

Dường như chỉ đợi một cái gật đầu từ Chu Tử Thư thôi, là Cung Tuấn sẽ lập tức dùng quãng đời còn lại để thực hiện lời thề mà hắn vừa mới thề xong.

Cung Tuấn muốn đồng sinh cộng tử cùng Chu Tử Thư, lại không nỡ để Chu Tử Thư tuẫn tình, vì vậy hắn sẽ cố gắng sống tốt cho đến hết phần đời còn lại của Chu Tử Thư.

Bất kể là sự đau đớn khi mất đi người yêu, hay là sự sợ hãi trước tuẫn tình, cứ để cho mình hắn chịu hết đi.

Chu Tử Thư nhỏ giọng nói: "Làm sao mà được? Ức hiếp chàng quá đáng rồi."

Cung Tuấn: "Ta tủi thân một chút, chịu thiệt một chút cũng không sao, về sau tiểu lang nhớ kỹ phải đối xử tốt với ta đấy, đừng nói những lời giết chết tim ta nữa."

Hắn oán trách, chẳng màng quan tâm đến thể diện mạnh mẽ của đại trượng phu, thêm mắm dặm muối kể lể hắn phải chịu sự giày vò thế nào cho đến khi Chu Tử Thư tỉnh lại, tốt nhất là làm cho tiểu lang quân của hắn đau lòng muốn chết đi được, vậy thì sẽ không dám tùy tiện vứt bỏ hắn nữa.

"Bây giờ ta nhớ lại, tim vẫn còn siết chặt đau nhói đây này. Ta nghĩ nhất định là tim ta đang sợ hãi lắm, tiểu lang phải an ủi thì mới có thể dỗ được nó." "Vậy..." Chu Tử Thư chần chừ chỉ trong chớp mắt, "Ta hôn nhé?"

Cung Tuấn im lặng một lúc, hít sâu một hơi, đưa tay phủ lên mắt mình, "Thôi được rồi."

Chu Tử Thư mới vừa tỉnh, phản ứng còn chậm chạp: "Hả?"

Cung Tuấn thở dài: "Em vẫn đang bị thương, ta cũng mệt mỏi chẳng còn đủ sức... Bỏ đi." Mấy ngày mấy đêm không nghỉ ngơi, buồn phiền đau khổ vui sướng kéo đến ồ ạt, sớm đã mệt đến độ không còn sức nói chuyện rồi, vậy mà lại còn có suy nghĩ này nữa.

Giọng điệu hắn nhẹ nhàng xen lẫn chút tiếc nuối: "Bỏ đi, cho nợ đấy." Thà thiếu nợ chứ không thể chịu thiệt.

Chu Tử Thư: "..."

Song, nói ra lời này mới khiến Chu Tử Thư nhận ra, trạng thái của Cung Tuấn thật sự không ổn chút nào, người ngợm lôi thôi lếch thếch, từ tinh thần đến cơ thể đều báo hiệu nhu cầu nghỉ ngơi ngay lập tức, nếu như còn cưỡng ép mình giữ tỉnh táo nữa thì có thể chết bất đắc kì tử. "Cung Tuấn, nghỉ ngơi cùng ta một chút được không?"

"Mệt rồi à?" Cung Tuấn lập tức lo lắng hỏi thăm: "Em chợp mắt đi, ta nhìn em ngủ."

Bây giờ Chu Tử Thư mới phát hiện từ lúc y tỉnh lại, ánh mắt của Cung Tuấn chưa một lần rời khỏi mặt mình, cũng chưa từng buông tay y ra, giống như đến tận lúc này rồi mà hắn cũng chưa thể tin được rằng y đã thật sự tỉnh lại, cho nên hắn mới nhìn y chăm chú, chạm vào y từng giây từng phút, làm như vậy mới khiến cho hắn có được cảm giác an toàn.

"Lời hẹn vừa rồi, lời hẹn đồng sinh cộng tử, ta đồng ý với chàng. Trừ phi sinh lão bệnh tử, thiên tai nhân họa, nếu không sẽ không rời đi một mình rờ bỏ chàng trước. Nếu như trên đời này thật sự có thần phật, có đường Hoàng tuyền, có đài luân hồi, ta nhất định sẽ ở đó chờ chàng." Chu Tử Thư ngoắc lấy ngón tay út của Cung Tuấn, ấn đầu ngón cái của mình vào ngón cái của hắn, giương mắt nói: "Đóng dấu rồi nhé. Quân tử nhất ngôn, ta lừa gạt quỷ thần cũng sẽ không lừa chàng."

Cung Tuấn vẫn nhìn y chằm chằm.

Chu Tử Thư: "Cung Tuấn, đi ngủ với ta được không?"

Cung Tuấn chậm rãi cúi đầu, hôn một cái lên cằm Chu Tử Thư rồi thấp giọng đáp lại: "Được."

Chu Tử Thư cười, sắc mặt mệt mỏi, rất dễ nhận thấy rằng chỉ nói chuyện một chút thôi cũng đã tiêu hao hết sạch sức lực mà y vất vả lắm mới tích góp từng tí một rồi, nhưng y vẫn kiên nhẫn nhìn Cung Tuấn kéo giường qua đặt sát bên giường mình, nhìn hắn nằm xuống rồi khép hai mắt lại, đợi một lúc lâu sau mới say giấc.

Cung Tuấn bỗng nhiên mở to mắt, vô thức vươn tay sang tìm kiếm hơi thở của Chu Tử Thư.

Cảm nhận được hơi thở yếu ớt lướt nhẹ qua tay, Cung Tuấn mới yên tâm rút tay lại, tinh thần căng thẳng nhiều ngày trời cuối cùng cũng được thả lỏng, cơn mệt mỏi ùn ùn kéo đến rồi ập xuống, nhanh chóng bao phủ toàn bộ thần trí của hắn, kéo hắn vào trong cõi mộng ngọt ngào vừa yên bình lại đẹp đẽ.

Trong mơ có Chu Tử Thư, y là tiểu lang quân tiên y nộ mã, vô tai vô nạn, phúc to như núi.

***

Tin Chu Tử Thư tỉnh lại truyền từ trong cung ra, trên triều nhận được tin trước, sau cùng mới truyền khắp phủ kinh đô.

Các lão bá tánh giản dị thấy đèn cầu phúc có hiệu quả, bèn chọn ra một thời gian chia nhau tràn vào chùa Hồng Phúc và chùa Bảo Hoa quyên tiền nhang dầu, đảm bảo cho đèn dầu mà bọn họ thắp lên cho Chu Tử Thư có thể sáng lâu thêm một chút nữa, tích lũy càng nhiều phước lành thì càng sử dụng được lâu.

Các quan lại tiền triều đều biết Chu Tử Thư đã mạo hiểm vượt qua được kiếp nạn, những người có quan hệ thân thiết một chút muốn tới thăm hỏi, nhưng làm sao được khi đại nội hoàng cung không phải là nơi có thể tùy tiện ra vào.

Chừng mười sổ con thỉnh chỉ vào thăm cũng chỉ có vẻn vẹn bốn sổ được thông qua, một sổ là của Cung Tuấn cầu giúp đám người Ngụy bá, Nghiên Băng, mặc dù không cùng dòng máu nhưng còn hơn cả người thân, huống chi còn là Cung Tuấn thay lời, Nguyên Thú đế không thể không đồng ý.

Một sổ là của Trần Sư Đạo, đã là ân sư của Chu Tử Thư, nay lại là cánh tay đắc lực của Nguyên Thú đế, tất nhiên là được nể mặt cho vào rồi.

Sổ thứ ba và thứ tư lần lượt là của Khang vương và người nhà họ Chu, Khang vương cầu Nguyên Thú đế, còn Tạ thị thì đến chỗ Thái hậu mà xin.

Cũng là người làm mẹ, Thái hậu là người hiểu nỗi đau đớn và hối hận của Tạ thị nhất, hơn nữa lòng cũng mang nợ, cho nên mới ngỏ lời với Nguyên Thú đế, đồng ý để cho người nhà họ Chu vào cung thăm Chu Tử Thư lần nữa, chỉ có điều phải đợi cho vết thương của Chu Tử Thư ổn định thêm một chút, tránh để cảm xúc bị kích thích quá mạnh.

Hơn nữa lúc Chu Tử Thư gặp mọi người, Cung Tuấn đều ở bên cạnh y.

Nghiên Băng và Tú ma ma đi vào, nhìn thấy Chu Tử Thư đã có thể ngồi dậy tựa lưng vào đầu giường thì bước nhanh tới, dừng lại trong khoảng cách hai bước chân, quan sát Chu Tử Thư, trong ánh mắt khó nén vẻ đau lòng.

Tú ma ma không ngừng nhắc: "Gầy rồi, gầy đi rồi. Nhưng tỉnh lại được là chuyện tốt, ngày mai ma ma sẽ đến chùa Bảo Hoa thắp hương tạ thần, cầu nguyện cho ngũ lang của chúng ta từ nay về sau hết khổ đến sướng, tai họa tránh xa."

Nghiên Băng gật đầu lia lịa: "Mấy ngày nay ta học được rất nhiều bài thuốc gia truyền dược thiện ở chỗ thái y, bảo đảm có thể chăm sóc vết thương của ngũ lang thật tốt, bổ máu bổ khí, không để lại sẹo, còn có thể khỏe mạnh mập mạp lên nữa."

Chu Tử Thư mỉm cười hỏi: "Không bỏ bê việc học chứ?"

"Không hề!" Nghiên Băng bỗng nhiên cao giọng đáp lại, một lúc lâu sau mới chột dạ nói: "Nhưng ngũ lang cũng như vậy rồi, ta nào có tâm tư bận bịu bài vở đâu chứ? Ngũ lang thật sự đã dọa bọn ta sợ muốn chết luôn."

Nhớ lại cảnh tượng rối loạn lúc tin Chu Tử Thư sống chết không rõ truyền về phủ quận vương, trong lòng Nghiên Băng vẫn còn sợ hãi, vô cùng tùy tiện bước hai bước nhỏ lại gần, mặc kệ ánh mắt chó dữ bảo vệ thức ăn của Cung Tuấn, ngó tới ngó lui kiểm tra Chu Tử Thư một lượt mới an tâm.

Chu Tử Thư để yên cho cậu nhìn, cười tủm tỉm: "Là tại ta không tốt, làm mọi người lo lắng rồi."

Nghiên Băng vội vàng phản bác: "Ngũ lang có làm gì sai đâu, kẻ sai chính là Xương Bình lòng dạ độc ác kia kìa. Đường đường là đế cơ, không mưu cầu phúc lợi cho dân cho nước, mà chỉ luôn ngấm ngầm giở thủ đoạn xấu hãm hại người khác, cần lương tâm không có lương tâm, cần trung hiếu không có trung hiếu, cần nhân nghĩa cũng chẳng có nhân nghĩa! Sống trên đời này bao nhiêu lâu rồi mà còn chẳng hiểu đạo lý làm người bằng một đứa trẻ ba tuổi nữa!"

Mắt thấy vẻ mặt của cậu, Tú ma ma và Ngụy bá cũng tràn đầy tức giận và bất bình, nhắc tới Xương Bình càng như căm thù đến tận xương tủy, vốn tưởng bọn họ chỉ căm ghét Xương Bình vì đã đâm y một nhát cửu tử nhất sinh thôi, bây giờ xem ra không chỉ đơn giản như vậy.

Nhớ lại lúc hôn mê, y có thể nghe loáng thoáng tiếng nói của Cung Tuấn, dường như hắn đã nhắc đến sự thật người nhà họ Chu bị tráo con, chẳng lẽ bọn họ cũng biết sao?

Chu Tử Thư nghĩ ngợi một lát rồi hỏi: "Mọi người đều biết cả rồi à?"

Nghiên Băng bị hỏi đột ngột không kịp phản ứng: "Biết gì ạ?" Tú ma ma và Ngụy bá gật đầu cùng lúc.

Tú ma ma đã dễ mềm lòng lại còn yêu thương Chu Tử Thư, vừa biết được chuyện ngũ lang cản đao, còn biết thêm sự thật đổi con nữa, tim bà thật sự đã vỡ vụng luôn rồi, từ đó luôn miệng oán trách bà sơ ý quá, ấy vậy mà lại không phát hiện ra điểm giống nhau giữa ngũ lang và Tạ thị sớm hơn một chút, càng hối hận hơn là vì Xương Bình mà bà từng có thành kiến với Chu Tử Thư trong vài năm đầu chăm sóc y.

Nhớ lại liền cảm giác lòng đau đớn vô cùng, không thể thở nổi.

Tú ma ma cũng mặc kệ sắc mặt hung thần ác sát của tiểu quận vương mà chen tới, vỗ về bàn tay của Chu Tử Thư, hai mắt đẫm lệ, bà nói: "Ngũ lang của ta cực khổ quá. Xương Bình kia độc ác, ma ma lại mù quáng giống hệt như người nhà họ Chu, lão tặc thiên này sao lại trêu đùa ngũ lang hết lần này tới lần khác như vậy? Đừng có mà nói với ta là đói khát thân thể người được trời giáng xuống gì đấy nhé, sao mà lại ti tiện đến thế cơ chứ?"

Nghiên Băng nhỏ giọng hỏi: "Ma ma đã trách ông trời, sao lại còn đến chùa Bảo Hoa, chùa Hồng Phúc và mấy chùa miếu nổi tiếng trong phủ để thắp nhiều đèn như vậy?"

Tú ma ma: "Ta cầu là cầu thần cho phúc khí, không phải cầu ông trời. Tên nhóc con không hiểu thì đừng xen vào!"

Nghiên Băng nghĩ thầm trong chùa cúng phật chứ có phải thần đâu.

Trong ba người, thì người có tâm trạng phức tạp nhất phải nói đến Ngụy bá, ông không ngờ rằng hóa ra đứa nhỏ mà năm đó ông bị sai cho ăn tẩy tủy đan lại chính là ngũ lang, nhất thời lòng mề chua xót, vui mừng và phiền muộn cùng lúc xông lên đầu.

Lòng ông nhói đau bởi vì ngũ lang trải qua đại nạn rồi mà vẫn giữ được một trái tim thuần khiết, càng hiếm có càng đáng quý

Vui mừng là vì ông đã đút tẩy tủy đan cho ngũ lang, gột rửa sạch sẽ độc tố trong kì kinh bát mạch của y, bảo vệ cho y không đau không bệnh suốt hai mươi năm trời, nhưng đó cũng là lý do duy nhất cắt đứt khả năng người nhà họ Chu phát hiện ra thân phận của ngũ lang, vì vậy nên mới đau lòng.

Thế nhưng nghĩ lại, nếu như không nhờ tẩy tủy đan trừ khử mọi độc tố mà ngũ lang mang trong mình từ lúc còn nằm bụng mẹ, thì chỉ e là cơ thể kia cũng không chịu đựng được cho đến ngày mà Chu gia phát hiện ra chân tướng.

Quả nhiên một hớp uống một miếng ăn đều là số trời đã định, mặc cho ông có cảm thán thế nào đi nữa, thì nhân quả đều đã rơi xuống ván cờ rồi.

Ngụy bá nói: "Xương Bình đáng chết, năm đó cố tình đổi ngũ lang và Chu Ngọc Tranh, hại ngũ lang phải chịu đựng sự khắt khe và thành kiến lẽ ra không phải chịu suốt ngần ấy năm trời, cũng may việc này đã được truyền đi rộng rãi, bất kì quan to hiển quý nào cũng đều đồng tình thiên về một bên, bởi lúc trước... Lúc trước ngũ lang lệnh cho người treo đầu của tham quan ác lại trước cửa phủ công chúa, vậy nên bị mắng là bất hiếu, nhưng sau khi sự thật được công bố ra ngoài, không có toan nho* nào dám nói gì nữa."

(*) Toan nho (酸儒): nhà nho nghèo, thấp hèn (hàm ý mỉa mai)

Nghiên Băng cướp lời ông: "Cho dù có người muốn đổi trắng thay đen, thì cũng đều sẽ bị dân chúng phủ kinh đô đánh cho chẳng dám bước ra khỏi cửa thôi."

Chu Tử Thư bật cười: "Nghe lời này, không phải là có kẻ thật sự hồ đồ đứng ở phía đối lập dân chúng đấy chứ?"

Nghiên Băng gật đầu: "Quả thật có kẻ mua danh trục lợi, tự cho rằng ai cũng say chỉ mình hắn tỉnh, chê trách lôi kéo công sinh ơn dưỡng gì đó... Không đúng, Xương Bình đã từng nuôi nấng ngũ lang đâu! Nghe nói hắn vừa mới dứt lời đã bị đánh gãy răng và cánh tay, còn bị giội phân vào cửa nhà, về sau không dám ra ngoài nữa. Nhưng cũng không thể nào đồng cảm với tên toan nho này được, bởi mọi người đánh hắn không chỉ vì hắn cố tình công kích ngũ lang, mà là do hắn ham tiền gả con gái của mình cho một tên bệnh lao, chưa được hai năm thì tên bệnh lao đó chết, cô gái kia liền muốn tái giá, cha chồng cũng đồng ý rồi, nhưng tên toan nho này nói liệt nữ không hầu hai chồng, kiên quyết không cho con gái đi bước nữa. Ra ngoài đường kẻ đến người đi đều mắng cô gái kia không biết xấu hổ. Cô gái da mặt mỏng, quay về nhà liền nhảy xuống giếng mà chết."

Chu Tử Thư ghét nhất là những tên toan nho thế này, bấy giờ mới nói: "Ngu xuẩn độc đoán đến nhường này, có còn là con người không?"

Vào giai đoạn trước dân phong Đại Cảnh đã cởi mở, những ràng buộc đối với phụ nữ cũng không nghiêm khắc, việc con gái hòa ly rồi gả đi lần hai, lần ba cũng không phải là chuyện hiếm gặp, bọn họ không hề có quan niệm cổ hủ nào với vấn đề trinh tiết.

"Đừng nói những chuyện khiến người khác phiền lòng nữa, nói cái gì vui vẻ vào ấy." Cung Tuấn vừa nói vừa tự nhiên chen vào giữa Nghiên Băng và Tú ma ma, cơ thể cao lớn hơn người bình thường một đoạn gần như che phủ cả người Chu Tử Thư.

Giống hệt như Vương Mẫu vẽ ngân hà, cứ thế ngăn cách Chu Tử Thư và đám người Nghiên Băng thân thiết qua lại.

Hắn còn nói với vẻ tự đắc, "Thương thế của tiểu lang còn chưa ổn định, chỉ có ta mới được chăm sóc thôi."

Câu nói này thật sự có thể chặn đứng người khác.

Tuy rằng đã gặp được Chu Tử Thư, nhưng đáng tiếc không thể trò chuyện nhiều hơn, bởi vì Trần Sư Đạo đến rồi, bọn họ chỉ đành rời khỏi gian trong, để lại không gian cho hai thầy trò nói chuyện.

Cung Tuấn không hề cam tâm tình nguyện ra ngoài chút nào: "Ta ra giữ cửa, có chuyện gì thì gọi một tiếng, không cần nói lớn quá, ta cũng nghe thấy." Rồi hắn nhìn về phía Trần Sư Đạo, nhẹ giọng nói: "Trần thượng thư cũng nói ít chuyện thôi, nhất là những việc trên triều đình, thái y nói tiểu lang cần tĩnh dưỡng, không thể tâm sự nhiều quá."

Hắn thừa biết chuyện trước đây Trần Sư Đạo giật dây để Chu Tử Thư đến Lưỡng Giang, biết là lòng tốt, là coi trọng y, nhưng Cung Tuấn không cảm kích.

Trần Sư Đạo thực chất là kẻ cậy tài khinh người, tính tình không tốt, trên triều gặp ai giận người đó, bây giờ lại không dựng râu trừng mắt nữa, mà là bày ra dáng vẻ nhẫn nhục chịu đựng.

Đến khi trong phòng chỉ còn lại hai người.

Chu Tử Thư lên tiếng trước: "Thầy đừng trách tiểu quận vương nói năng lỗ mãng, bây giờ trong lòng chàng còn sợ hãi, hoàn toàn hướng về con, đến cả bệ hạ mà chàng còn dám chỉ thẳng mũi mắng cơ mà." Trần Sư Đạo không trách Cung Tuấn.

Ông ngồi xuống, nhìn Chu Tử Thư rồi thở dài một hơi: "Vi sư phải nói hai tiếng xin lỗi ngũ lang."

Chu Tử Thư ngạc nhiên: "Thầy đã làm gì sai đâu? Con mới phải xin lỗi." Y gãi trán, có hơi xấu hổ cười nói: "Con... Thầy và các vị đại nhân tốt với con như vậy, con lại xúc động quá khích, khiến cho mọi người canh cánh trong lòng, con vốn không nên..."

"Ngũ lang có thể đừng hiểu chuyện như vậy được không." Trần Sư Đạo vươn bàn tay già nua đến xoa đầu Chu Tử Thư, rồi yêu thương vỗ nhẹ vài cái giống như trưởng bối, nghiêm túc nói với y: "Thầy nói xin lỗi với con, thứ nhất là lấy thân phận ân sư, gọi một tiếng ân nhưng lại hữu danh vô thực, lẽ ra phải hiểu rõ tính con, nên làm gương tốt, trái lại không hiểu con, không bằng con. Thứ hai là lấy thân phận quan, là mệnh quan triều đình, quan phụ mẫu, trên trung quân vương, dưới yêu con dân, thầy chưa làm được. Không dám khuyên ngăn mà lại tranh giành không ngừng, nịnh nọt quân vương có thể xem là trung quân hay sao? Dân chúng chịu oan, mà ta lại lôi kéo bằng hữu lập đảng trong triều, thế đã là yêu dân như con hay chưa?"

"Không đủ tư cách làm gương sáng cho người khác, cũng không xứng chức làm quan phụ mẫu, vi sư mới phải nói xin lỗi con."

Chu Tử Thư im lặng nhìn vị ân sư đã già đi nhiều, hốc mắt đỏ bừng lên, thời phong kiến một ngày làm thầy cả đời làm cha, phụ tử cương, có thể cúi đầu xin lỗi chứng tỏ thầy thật sự xấu hổ không dứt, ngày đó ở điện Tử Thần y nói không muốn sống nữa có lẽ cũng đã đâm một nhát vào tim thầy rồi. Chỉ có yêu thương dung túng y, mới có thể xấu hổ đau lòng mà thôi.

Chu Tử Thư khéo hai tay lại, giơ cao quá đầu, chắp tay cúi lạy, "Đệ tử hổ thẹn."

Trần Sư Đạo kéo tay Chu Tử Thư xuống, vỗ vỗ rồi nói với y: "Đừng để tâm trạng thay đổi quá lớn, cẩn thận không được làm lục phủ ngũ tạng bị thương để lại gốc bệnh, già rồi chỉ có mình chịu mà thôi."

Hai người chuyển sang những chuyện khác, ông cụ nói Trần Phương Nhung biết chuyện y cản đao thì gửi thư liên tục suốt mấy ngày, mỗi một phong thư đều ngầm vặn hỏi trách cứ ông già nhà hắn.

"Ở đâu ra đạo lý người trẻ chỉ trích lão già chứ? Đừng có mà tưởng dùng từ không rõ ràng là thầy không nhìn ra, cái tài văn chương ấy là do một tay thầy dạy đấy! Sang năm hết nhiệm kỳ rồi, nó cũng đừng hòng được Chu về kinh đô, chướng mắt thầy, tổn thương lòng thầy."

"Con biết lão già Hộ bộ Phó sứ không? Chẳng biết lão đoán ra thân thế con từ đâu, lúc tảo triều xong lỗ mãng chạy lên hỏi thẳng Chu tế chấp. Con đoán thử xem kết quả thế nào?" Trần Sư Đạo trợn tròn mắt lên, tốc độ vuốt râu nhanh hơn: "Lão tiểu tử Chu Bá Ung đó thừa nhận! Lão thừa nhận đấy!"

"Tin tức này xôn xao khắp kinh đô ngay trong ngày hôm đó, phủ kinh đô này không ai không biết chuyện, sang ngày hôm sau người kể chuyện trong quán rượu đã viết ra một vở kịch ly miêu hoán thái tử mới, buổi diễn đông nghịt người. Ôi, thầy lại cảm thấy lạ, người nhà họ Chu rất bình tĩnh, không hề cho người đến phá hiện trường, mặc kệ sự thật và lời đồn truyền đi muôn nơi, giống như là vui mừng vì đã trả lại được danh phận cho con vậy."

Dừng một chút, Trần Sư Đạo nói chậm lại: "Trái lại thầy không thể ngờ được, hóa ra ngũ lang mới là ngũ lang thật, Chu gia đã thay đổi hộ điệp của hai người các con rồi, âu cũng là trời xui đất khiến, lập lại trật tự, rồi đồ vật sẽ phải trở về với chủ nhân ban đầu của nó thôi."

Ông cụ nhớ lại lúc trước mình cứ cố chấp gọi Chu Tử Thư là tứ lang cho bằng được, không khỏi bật cười.

"Con muốn chung đụng với người nhà họ Chu như thế nào là chuyện của riêng con, con muốn làm thế nào thì cứ làm thế ấy, đừng quan tâm đến những lời gièm pha bên ngoài. Tùy tiện một chút, buông thả một chút, ích kỷ một chút khi con còn vẫn có thể."

Chu Tử Thư gãi mũi, khóe môi cong lên, gật đầu đồng ý.

Trần Sư Đạo lại nói thêm vài chuyện khác nữa, vẫn còn chưa thỏa lòng, Cung Tuấn cứ bước ra bước vào, lúc thì ho khan lúc lại gõ cửa, nói tiểu lang cần nghỉ ngơi, thật ra hắn chỉ muốn độc chiếm Chu Tử Thư mà thôi.

Vừa nhìn thấy Cung Tuấn với ham muốn chiếm hữu mạnh mẽ, ánh mắt và biểu cảm của Trần Sư Đạo đều trở nên không tốt, mặt mũi xanh mét, râu dê co quắp lại, nếu như không phải vì địa vị và võ lực kém xa vạn dặm, hiển nhiên là ông đã xông lên sống mái liều mạng với hắn một trận rồi.

Đáng thương cho ông cụ lúc này mới phát hiện ra quan hệ vợ chồng giữa Cung Tuấn và Chu Tử Thư là thật!

Không phải tri kỉ chó má gì đó, càng chẳng phải là chủ công biết người khéo dùng, rõ ràng là ngay từ đầu đã rắp tâm hại người, dụng ý làm loạn, mưu mô bất lương rồi!

Lại còn bảo "Chờ đến khi thành thân vài năm rồi, cả hai sẽ tự hòa ly", dùng vẻ mặt chính trực can ngăn ông từ bỏ việc liều mình khuyên nhủ hạ giải trừ hôn ước... Không phải, hắn đã nói như thế nào ấy nhỉ? Cái tên Cung Tuấn này sao mà lại mặt dày lừa gạt một ông lão lương thiện thế hả?

Trần Sư Đạo âm thầm vặn hỏi chỉ trỏ Cung Tuấn: "Hai ngày trước vi sư đau lòng đổ bệnh, hôm nào ông già lọm khọm này cũng chạy đến chỗ bệ hạ thỉnh chỉ, chỉ để gặp con thôi. Vất vả lắm mới gặp được, lại tiếc vì thầy trò ta trò chuyện chưa được ba khắc... Đương nhiên là thầy không có ý gì khác, quận vương chỉ là lo lắng cho con quá thôi. Phải, tiểu quận vương chỉ ưu ái một chút, hơi ích kỷ, hơi ngang ngược bá đạo một chút, nhưng thật sự rất quan tâm đến con đấy..."

Chu Tử Thư gật gù không ngừng, nhỏ giọng ấm áp đáp lời: "Cung Tuấn bị con dọa sợ, không có cảm giác an toàn, thầy cũng đừng trách chàng, con sẽ nói chuyện với chàng nhiều hơn, dần dần rồi sẽ bình thường trở lại thôi ạ."

Trần Sư Đạo nghẹn lời, muốn nói lại thôi.

Ngũ lang thuần khiết lương thiện quá đỗi, có lẽ là thật sự nghe không hiểu ông ám chỉ cái gì.

Thôi vậy, đôi vợ chồng trẻ vừa mới trải qua sinh ly tử biệt không thua gì yến nhĩ tân hôn*, cảm xúc còn đang nồng nàn, chính là ngay cả khi nhìn thấy đối phương đầu bù tóc rối vẫn có thể yêu đến chết.

(*) Nguyên văn: Tân hôn yến nhĩ (新婚燕尔): vốn để chỉ người phụ nữ bị chồng ruồng bỏ oán trách chồng lại lấy vợ mới cùng nhau vui vẻ, về sau lại dùng làm từ chúc mừng tân hôn, hình dung thời gian tân hôn vui vẻ.

"Con nghỉ ngơi đi, thầy đi trước."

"Thầy đi thong thả."

"..."

Hiểu thì hiểu thế thôi, lời tạm biệt này vẫn khiến cho trái tim của ông cụ bị tổn thương.

***

Trên đường rời khỏi điện Tử Thần, Trần Sư Đạo hỏi Nghiên Băng: "Ngũ lang và Lâm An quận vương từ lúc nào mà..." Ông cụ dựng thẳng hai ngón tay cái lên rồi ngoắc chéo vào nhau, vẻ mặt thần bí.

"Vâng?" Nghiên Băng vốn còn chưa hiểu, nhưng sau đó hai tai đỏ ửng lên, ấp úng đáp: "Đêm thành thân đó..."

Trần Sư Đạo không nghe rõ, nắm chặt râu vểnh tai lên nghe: "Cái gì?"

Nghiên Băng: "Đêm thành thân đã, đã là vợ chồng rồi."

"!" Trần Sư Đạo túm mạnh quá đứt cả râu, sát tâm ùa ra bốn phía.

Nghiên Băng: "..."

***

Chu Tử Thư ở điện Tử Thần nửa tháng trời, Nguyên Thú đế không nói gì, trái lại Cung Tuấn đã không chịu nổi nữa thu dọn đồ đạc dẫn y rời khỏi đó rồi.

"Hoàng cung chẳng phải nơi tốt lành gì, có thể chạy thì phải tranh thủ mà chạy." Thật ra lời này nhằm vào Nguyên Thú đế.

Nhưng đúng là ở trong cung lâu cũng không tốt, vậy nên Chu Tử Thư không có ý kiến gì.

Trong noãn các, ngoài y phục để thay đổi ra thì còn có rất nhiều dược liệu, chẳng màng quan tâm chúng có ích không hay là vô dụng, Cung Tuấn đều không hề từ bỏ cơ hội nào thó đồ của Nguyên Thú đế.

Gom sạch chẳng còn để lại gì, nhân lúc Nguyên Thú đế vẫn còn đang tảo triều, Cung Tuấn lệnh cho người ôm bao lớn bao nhỏ mang hết hành lý ra khỏi noãn các, còn hắn thì dán sát bên Chu Tử Thư một tấc cũng không rời.

Mới bước ra khỏi noãn các, bọn họ đã nhìn thấy Tạ thị và Chu Bá Ung đang đứng phía dưới bậc thang, không biết đã đợi từ bao giờ, vẻ ngoài của cả hai người đều trông tiều tụy già nua hơn, bên tóc mai của Tạ thị đã lấm tấm màu trắng, còn Chu Bá Ung thì nửa đầu tóc bạc, lưng cũng còng xuống.

Tể tướng và tể tướng phu nhân xưa nay coi trọng dung nhan và vẻ ngoài như thế, nay chẳng biết đã bao lâu không soi gương rồi.

Hai người nhìn thấy Chu Tử Thư, vẻ mặc kích động, tiến lên hai bước mới nhận ra mình đường đột quá, thế là dừng lại kịp thời, nhìn y bằng ánh mắt mong chờ.

Cung Tuấn nói: "Đi thôi, coi như không nhìn thấy gì hết."

Chu Tử Thư: "Từ lúc ta hôn mê đến khoảng thời gian dưỡng thương này, người nhà họ Chu đã đến rất nhiều lần sao?"

Cung Tuấn không bằng lòng lắm nhưng vẫn trả lời y: "Có việc hay không, chỉ cần có cơ hội là đến."

Chu Tử Thư ngạc nhiên, trong truyện gốc, sau khi biết được chân tướng, người nhà họ Chu vẫn cực kì yêu thương Chu Ngọc Tranh... Có điều Thái tử vốn phải đăng cơ đã tự sát, nội dung cốt truyện sụp đổ như núi lở, cũng không phải không có khả năng thái độ của nhà họ Chu thay đổi.

"Để cho ta gặp bọn họ một lần nhé," Chu Tử Thư nhìn Cung Tuấn hỏi: "Được không?"

Cung Tuấn: "Ta nói không được, em sẽ từ bỏ việc gặp họ sao?"

Chu Tử Thư không ngần ngại đáp: "Đương nhiên rồi."

Cung Tuấn muốn cười mà không cười, nhưng lại không nhịn được xoay mặt sang một bên cười trộm, bàn tay buông thõng bên người siết lại thành quyền mới không đắc ý run chân ngay tại chỗ này.

Ngoan ơi là ngoan, muốn hôn.

"Khụ." Cung Tuấn hắng giọng to rõ, giả vờ nghiêm túc: "Tối đa một khắc đồng hồ."

==

Min: Anh giai họ Cung giấu tên đúng là giỏi bán thảm với vợ thật, bảo lo lắng thương em mà lèm bèm kể lể cho em đau lòng chết thì thôi 😾 còn em Cá bây giờ dỗ chồng điêu luyện lắm rồi chồng rất iu, khen anh bênh vực anh trước mặt cụ Đạo chọc cụ quạo lần thứ bao nhiêu rồi i don't know =))))))))) mà dù không nói thì ai cũng biết ẻm cưng chồng số 2 không ai số 1 r, hai đứa simp qua simp lại, chó độc thân là tôi 😔

Chương 93

Tạ thị và Chu Bá Ung bị tin Chu Tử Thư sẵn lòng gặp mặt nện vào đầu choáng váng, thoáng chốc không kịp phản ứng.

Tiểu hoàng môn thúc giục: "Chu đại nhân? Chu tế chấp? Chu phu nhân!"

"À... À." Tạ thị hoàn hồn, tháo vòng tay xuống nhét vào tay tiểu hoàng môn, "Đa tạ công công."

Tạ thị và Chu Bá Ung đều nở nụ cười.

"Tạ công công cát ngôn."

Nói xong, hai người nhanh chân bước lên bậc thang, đi vào cửa điện.

Dường như Tạ thị nhớ ra điều gì đó, lập tức khựng lại, sửa sang tóc tai, chỉnh lại trâm cài đầu bị lệch, sau đó dùng khăn tay chà mạnh lên mặt để cho bản thân bà thoạt nhìn tươi tắn hơn, rồi bà vuốt áo quần phẳng phiu, tự nhủ: "Không thể để ngũ lang hiểu lầm ta bán thảm được, thằng bé sẽ khó xử lắm." Tiểu hoàng môn cảm thấy ngạc nhiên, sao phải đến mức này?

Nếu như cha mẹ ruột của gã là Tế chấp đương triều thì gã đã vừa lăn vừa bò đi nhận tổ quy tông từ lâu rồi, vả lại trên đời này có con cái nào mà không nhận cha mẹ ruột cơ chứ?

Chu tế chấp cũng gật đầu, bắt tay chỉnh đốn vẻ ngoài của mình, còn hỏi thăm tiểu hoàng môn xem trông ông có dễ nhìn chưa, nhận được lời khẳng định rồi mới an tâm.

Tâm thần bất an một lát, hai người mới gom hết can đảm bước vào thiên điện, vừa nhìn thấy Chu Tử Thư, ánh mắt đã dính chặt lên người y không rời ra nổi.

Những gì có liên quan đến Chu Tử Thư sao mà lại thưa thớt đến thế, dù vắt sạch óc cũng không tài nào nhớ nổi hình ảnh Chu Tử Thư lúc nhỏ, cả khi Chu Tử Thư đã đến tuổi thiếu niên, chỉ còn lại vẻn vẹn vài khoảnh khắc ngắn ngủi không mấy tốt đẹp, nếu như không phải là nói những lời hung ác thì với y thì cũng chỉ là những khuôn mặt lạnh lùng, đến giờ đây dư vị chỉ còn là thứ liên tục đâm vào tim khiến máu tươi chảy ra ồ ạt, đau đớn vô cùng.

Tạ thị vội vàng lau đi ẩm ướt dâng lên trong mắt, "Tiểu Lân Nô," dừng lại, bà nhớ Chu Tử Thư không biết nhũ danh từ lúc còn chưa ra đời của mình, thế là đổi giọng: "Ngũ lang, con gầy đi rồi."

Khi chưa nhìn thấy người tình cảm cuồn cuộn, nhiệt liệt trào dâng, nhưng gặp được ngươi rồi lại sợ sệt không nói nên lời, liên tục do dự, chần chừ không tiến, âu cũng vì sợ nói sai câu nào chữ nào đó sẽ làm cho con trai nhỏ tổn thương.

Chu Bá Ung giật giật ống tay áo của Tạ thị, ý bảo bà nói sang chuyện khác, nhưng bản thân ông cũng giấu lời trong lòng, dường như không biết phải nói như thế nào, nửa chữ cũng không thể vọt ra khỏi miệng.

Tạ thị kéo tay áo về lại, bước lên phía trước hai bước, chăm chú ngắm nhìn Chu Tử Thư, đặc biệt là đôi mắt của y.

Trong bốn đứa trẻ, chỉ có đôi mắt của Chu Tử Thư là giống bà nhất, nhìn nhiều một chút là có thể nhận ra, đến cả một bà cụ mắt mờ như mợ mà liếc một cái còn nhìn ra được, thậm chí bà ấy chưa từng được gặp ngũ lang và Chu Ngọc Tranh mà vẫn có thể thấy được điều đó, vì sao bà lại mù quáng không phát hiện cơ chứ?

Con trai nhỏ của bà ở ngay dưới mắt bà hai mươi năm, tận hai mươi năm!

Thế mà vẫn cần người ngoài chỉ ra sự thật, bà là người mẹ thất bại nhất trên đời này!

Tạ thị đau buồn từ bên trong, dùng hai mắt đẫm lệ nhìn Chu Tử Thư, lại bước thêm về phía trước hai bước nữa, vươn tay ra muốn chạm lên mặt Chu Tử Thư, nhưng chợt nghĩ có lẽ y vẫn chưa biết thân thế bèn hỏi bằng giọng vừa thận trọng vừa chờ mong: "Ngũ lang có biết..." "Ta biết." Chu Tử Thư cắt lời bà.

Sự bình tĩnh của y trái ngược hoàn toàn rõ ràng so với hai người đang xúc động.

Hai mắt Tạ thị sáng rực lên: "Là tại mẹ không tốt, mẹ không thể bảo vệ tiểu Lân Nô, không nhận ra tiểu Lân Nô, còn... Còn khắc nghiệt với con suốt hai mươi năm thế nhưng, thế nhưng ngũ lang cho mẹ một cơ hội để chuộc tội được không?"

Chu Bá Ung cũng vội vàng lên tiếng: "Cũng cho... Cho cha một cơ hội để chuộc tội con nhé." Lời vừa ra khỏi miệng, ông liền phân vân không biết mặt mình có đang nghiêm túc quá, giọng điệu lạnh lùng quá rồi hay không, vì vậy nên ông cố gắng hết sức làm dịu biểu cảm và giọng điệu, nở một nụ cười lấy lòng cứng ngắc thiếu tự nhiên: "Ta đã nói hết sự thật chuyện tráo con năm đó ra ngoài rồi, nhưng không phải là ta có ý bắt con phải nhận tổ quy tông, không phải, trước đây ta cũng không hề trục xuất con khỏi gia phả, ý của ta là, sẽ trả lại chính danh cho con, trong triều có đủ loại quan lại, trong ngoài kinh đô đều biết đây là lỗi lầm của bọn ta, sẽ không trách ngũ lang đâu. Ta..."

Giọng ông càng lúc càng nhỏ, luôn nghi ngờ không biết mình có nói sai gì hay không, cũng không dám xưng một tiếng cha, sợ trong lòng Chu Tử Thư có phản ứng ngược.

"Khoảng thời gian trước ta đã thương lương với mọi người trong dòng họ, sẽ xóa tên của Chu Ngọc Tranh khỏi gia phả, ta biết làm như vậy là rất tàn nhẫn vô tình... Hai mươi năm trời đây cũng là, cũng là thái độ đối với con, thế nhưng cha thật sự không thể dễ dàng tha thứ cho Chu Ngọc Tranh, không thể để cho danh điệp của nó lại trong gia phả, cũng không chấp nhận tên của nó ở lại bên cạnh tên con, ta vừa nhìn thấy nó, là sẽ nhớ đến cảnh ngộ của con trai cha hai mươi năm qua."

Chu Bá Ung nghẹn ngào nói, đường đường là một vị tể tướng, mà ngay lúc này chỉ có thể luống ca luống cuống đan chéo ngón tay vào nhau, muốn thể hiện rằng ông rất xấu hổ, nôn nóng muốn được bù đắp, nhưng lại sợ Chu Tử Thư nhìn thấy ông đối xử tàn nhẫn với Chu Ngọc Tranh sẽ nhớ lại quá khứ bị lạnh nhạt, nếu như ông không nói ra thì cũng lo lắng rằng Chu Tử Thư sẽ lầm tưởng bọn họ không cần y nữa, cũng không biết chừng sẽ hoài nghi bọn họ còn muốn giữ Chu Ngọc Tranh lại, muốn nuôi hai đứa con trai cùng nhau.

Nhưng mà không phải.

Sự mâu thuẫn tâm lý khiến cho Chu tế chấp không tài nào mạnh mẽ và tự tin như mọi khi nữa, giờ đây ông chỉ là một người cha ôm lòng hối hận lại không biết phải bù đắp cho con mình như thế nào mà thôi.

"Ngũ lang không cần phải lo bị người khác trách cứ con ngang bướng, không nể mặt, cũng không cần sợ người ta mắng con bất hiếu, nói con không chịu tha thứ cho Chu Ngọc Tranh, không có ai nói, bọn họ cũng biết là cha không hề lưu tình, tâm tính tàn nhẫn. Còn độc phụ Xương Bình kia, cha đã điều tra rõ ràng những tội lỗi mà ả phạm phải, tất cả tội đều đáng chết, chắc chắn sẽ chém đầu răn chúng, không chừa toàn thây. Những thứ khác, còn những chuyện khác nữa..."

Chu Bá Ung ấp a ấp úng, không có mặt mũi nào nói ra chuyện năm đó ngăn cản Chu Tử Thư tham gia kì thi và việc ép y gả cho Lâm An quận vương, vừa nghĩ tới là tim ông lại quặn đau.

Ngũ lang và Lâm An quận vương kiêm điệp tình thâm, đã thật sự trở thành vợ chồng, bọn họ phải làm gì để vớt vát đây?

Mục đích tham gia khoa khảo là để làm quan, ngũ lang đã là đại quan tam phẩm, trọng thần trong triều, là thanh thiên trong lòng lê dân bá tánh, nào có còn cần lội vào khoa trường cho uổng công vô ích nữa?

Tài nguyên dạy học mà thân tộc chuẩn bị, số quan hệ có được từ môn sinh Quốc Tử Giám bao gồm cả hai mươi lăm năm làm việc trong triều của ông đều chẳng giúp được gì, đối với ngũ lang mà nói cùng lắm là chọn củi lên núi, là việc thừa mà thôi.

Nội tâm Chu Bá Ung tuyệt vọng, không thể không thừa nhận dù là quan hệ với cha mẹ bọn họ, hay là dòng dõi thân tộc Chu gia, thì đối với Chu Tử Thư đó đều là thứ có cũng được không có cũng chẳng sao.

Ngũ lang không cần bọn họ...

Tay của Tạ thị lại run rẩy, nhưng bà không hề từ bỏ mà mong đợi nhìn Chu Tử Thư: "Tiểu viện ngày trước mà con ở đang lệnh cho người mở rộng ra rồi tu sửa lại một phen, còn mấy ngày nữa là tết trung thu, trong phủ đã chuẩn bị dưa quả và gia yến, ngũ lang đến được không con? Không cần phải qua đêm, cũng không cần ở lại lâu, đến nửa khắc đồng hồ thôi cũng được, tiểu quận vương cũng có thể đến, còn có cả Nghiên Băng, Tú ma ma đều có thể đến phủ bất cứ lúc nào..."

Bà cẩn trọng hỏi lại: "Ngũ lang, ý của con thế nào?"

Chu Tử Thư im lặng nhìn bọn họ, cha mẹ ruột đời này của y, Chu Bá Ung chức vị cao lại không nạp thiếp đã là điều hiếm thấy, vợ chồng ân ái, anh em hòa thuận, vô cùng nuông chiều đứa con út trong nhà.

Chu Ngọc Tranh người yếu nhiều bệnh, Tạ thị chăm sóc cậu cả ngày lẫn đêm, chính tay bà làm mọi việc từ sắc thuốc đến mớm thuốc, trong ngoài phủ kinh đô này không có chùa miếu nào mà bà chưa từng đi qua dập đầu.

Tạ thị là mẹ hiền, Chu Bá Ung là cha nghiêm.

Ông chính là đại gia trưởng điển hình của thời phong kiến, tuy nhiên khác với những vị cha mẹ bảo thủ không biết thay đổi khác, cách dạy dỗ của ông dành cho mỗi đứa con cần phụ thuộc vào khả năng của chúng, vậy nên mới có thể nuôi dạy ra được trạng nguyên lang Chu Trọng Cẩm và Cấm vệ quân Chu Trường Phong, Chu Ngọc Khanh.

Cũng có những lúc ông vô cùng thiên vị, cực kì chiều chuộng dung túng cho đứa con út, có thể vì cậu mà đôi lúc nhượng bộ, sẽ đưa cậu lên vai ngồi, chơi trò kỵ binh cưỡi ngựa, lúc đi công tác xa, trong thư nhà gửi về chắc chắn sẽ ân cần thăm hỏi con trai nhỏ một câu.

Nếu như Xương Bình công chúa không làm việc ác, chuyện tráo con cũng không xảy ra, bọn họ thật sự sẽ được xưng là cha mẹ yêu chiều con cái nhất thời đại này, trong phủ kinh đô cũng có không biết bao nhiêu nhi lang, nữ lang đều hâm hộ đám Chu Trường Phong bọn họ có được người cha người mẹ giống Chu Bá Ung và Tạ thị.

Chu Tử Thư là người có linh hồn ở hai thế giới, lênh đênh vô định giống như lục bình không rễ, thoạt đầu sinh ra cũng không có cảm giác gì nhiều, chỉ mừng vì đã được lớn lên với thân thể khỏe mạnh, cảm ơn trời cao đã ban cho y sinh mệnh thứ hai, cũng đã từng có lòng hiếu kì muốn tìm hiểu thời đại nơi mình vừa được sinh ra.

Thời gian dần trôi qua, y cũng cảm thấy cô đơn, thấy nhớ nhung người thân và bạn bè ở đời trước, nhưng y thật sự có thể bình thường đối diện với cha mẹ ở đời này, cũng từng sinh lòng tò mò.

Sự quen biết và thân mật giữa cha mẹ và con cái đòi hỏi một quá trình tìm tòi, y đứng ở bên ngoài nhìn hai người Chu Tạ, có lẽ là vì quan hệ huyết thống, hoặc có lẽ vì linh hồn ở thế giới thứ hai này quá cô đơn, cho nên mới muốn tìm một mối ràng buộc có thể kéo y xuống đất.

Không hề nghi ngờ gì nữa, tình thân là sự lựa chọn tốt nhất, không có gì khác ngoài nó.

Lúc đầu, khi vẫn chưa biết ân oán giữa người nhà họ Chu và Xương Bình, y còn từng nghi hoặc chẳng biết vì sao cha mẹ ruột của mình lại không muốn đến gặp mình, về sau khi biết được mối hận thù kia nặng nề quấn quít như vậy, đã có lúc y nghĩ đến chuyện nên buông bỏ ràng buộc kia, rời khỏi nhà họ Chu hay không rồi.

Có lẽ khi đó y vẫn còn là một Chu Tử Thư lạc quan sáng sủa của đời trước, một Chu Tử Thư thích làm việc tốt giúp đỡ mọi người, sống trong một thời đại văn minh bình thường, được gia đình bạn bè thương yêu, nhận được vô số thiện ý, trưởng thành trong tình thương vô vàn, Chu Tử Thư ở nơi ấy được nuôi dưỡng thành một chàng trai vô cùng hồn nhiên.

Mấy năm đầu, trong tiểu viện tan hoang chỉ có một mình Tú ma ma, mà Tú ma ma cũng rất lạnh nhạt với y, khi ấy y còn nhỏ quá.

Tay nhỏ chân ngắn không thể ra khỏi Chu phủ, có đôi khi cách một bức tường viện, đôi khi là vườn hoa sau phủ, đứng ở phía bên kia hồ nước hoặc là núp sau hòn non bộ nhìn Tạ thị ôm ấp Chu Ngọc Tranh, ngắm cả nhà bọn họ vui vẻ sum vầy, tiếng cười nói vang lên không ngừng.

Y tự nhủ với mình, dù đó là lòng đố kỵ của y hay là sự lạnh lùng của Chu gia đi nữa thì đều có thể bỏ qua được.

Những khi bị đối xử lạnh nhạt, bị ngó lơ, bị bắt nạt quá đáng, y đều tự rộng lượng an ủi mình rằng không sao cả, tất cả những hành vi của mẹ ruột mình đúng là rất khó mà tha thứ, huống chi ở hiện đại vẫn tồn tại quan niệm cha mẹ nợ con cái trả.

Và lại giận chó đánh mèo vốn là chuyện thường tình trong đời người, thấy Chu Ngọc Tranh bệnh tật vạn tử nhất sinh, nếu như con ruột của y phải chịu nỗi cực khổ như thế này, có lẽ y cũng sẽ oán hận rât nhiều.

Lúc bị ép bỏ tham gia kì thi, bị ép xuất giá, y cũng giải vây giúp cho Tạ thị và Chu Bá Ung, y nói bọn họ đã đối xử với y đủ tốt rồi, cùng lắm chỉ là không quan tâm, chỉ là vài lời trách cứ lạnh lùng, ở trước mặt Chu Ngọc Tranh sẽ lựa chọn từ bỏ y, nhưng ít nhất không để cho y phải chết ở hậu trạch.

Ở thời đại này, tỉ lệ trẻ chết non rất cao.

Hậu trạch là nơi cất giấu vô số chuyện bẩn thỉu, có vô vàn cách khiến cho một đứa trẻ chết đi trong thầm lặng, cả khi y là một đứa trẻ có được trí nhớ từ đời trước cũng sẽ không tránh nổi một trận phong hàn hoặc là bệnh đậu mùa, thứ bệnh mà y học thời này không có thuốc đặc trị.

Ít ra là khi còn nhỏ y đã vượt qua được mấy trận phong hàn, lúc Tú ma ma đi xin chỉ thị, Tạ thị còn lệnh cho người đi mời đại phu chứ không hề khoanh tay đứng nhìn.

Y tìm kiếm tâm hồn và linh hồn để gắn kết trên người của nhà họ Chu, cố gắng tìm thứ gọi là tình thân trên người bọn họ, để rồi lại quên mất rằng ngay cả trong những mối quan hệ người thân bình thường cũng có cha mẹ oán hận con cái, hoặc là con cái hận cha mẹ, huống chi giữa bọn họ còn có một Xương Bình chắn ngang.

Đời trước Chu Tử Thư không sở hữu một cơ thể khỏe mạnh, nhưng lại được lớn lên cùng ánh sáng và tình thương, cũng coi như đã được đọc nhiều sách vở, hiểu biết nhiều điều, tích cực rộng lượng, nhưng dù có thể hiểu được rất nhiều đạo lý, y vẫn rất giống một vị tướng lĩnh nói lý luận suông, nhẹ dạ, mù quáng, ngây thơ, tự cho rằng mình nỗ lực đủ nhiều là có thể thay đổi cảm nhận của người khác.

Dường như y không nghĩ mình có thể dùng sức của bản thân để thay đổi thời đại này, nhưng vẫn liều mình ôm lấy lý tưởng thiên hạ Đại đồng* của một thời đại rực rỡ sáng chói không chịu buông tay, không chịu để cho nước chảy bèo trôi, xua đuổi bóng tối, bất công từ bất cứ nơi nào ánh mắt có thể chạm tới, cố gắng đem lại công lý và tự do trong khả năng của mình.

(*) Đại đồng (大同) là một tư tưởng Utopia từ thời cổ đại của Trung Quốc nói đến một thế giới lý tưởng mà con người có thể đạt tới và thể hiện cho ước muốn lớn về một xã hội tốt đẹp trong tương lai loài người bằng việc người người thương yêu và giúp nhau, nhà nhà an cư lạc nghiệp và thịnh vượng, xã hội tự do và luôn ý thức tự giác vì chung, không cách biệt và xung đột, con người hạnh phúc và đạo đức.

Chu Tử Thư không phải là người mạnh mẽ, tỉnh táo, không phải là người thông minh tuyệt đỉnh đến mức khiến ai nấy đều thán phục ngay từ đầu, y cũng từng ngây thơ, từng phạm sai lầm, từng thua cuộc, ở trong thời đại này, y đã phải chao đảo, đầu rơi máu chảy, chịu giày vò đến khi thương tích đầy mình để mà lớn lên thành Chu Tử Thư của hiện tại.

Cho nên vì thất bại, không trách được, không hận được, Chu Tử Thư mới cam tâm tình nguyện chấp nhận tất cả mọi kết quả.

Ban đầu mê đắm tình thân không chịu tỉnh ngộ, khi mà rốt cuộc y cũng chịu buông tay, sau đó cố ý quay đầu nhìn lại thì mới có một quyển sách nói cho y biết rằng dù cho thân thế có được làm rõ, y vẫn sẽ không cầu được thân duyên, y thể hiện lòng tốt ra bên ngoài, nỗ lực trao đi tình hữu nghị nhưng không được đáp lại, y vẫn luôn cố gắng ôm lấy thời đại đã loại trừ mình ngay từ đầu...

Đó chính là kết cục tàn khốc và bất lực đã định sẵn mà Chu Tử Thư té ngã đập đầu, tỉnh lại trong thân thể của thế giới này phải đối mặt.

Sau khi y đã chấp nhận vận mệnh của mình, thì người nhà họ Chu lại thể hiện phản ứng hoàn toàn trái ngược, nhưng mà y thật sự không cần nữa.

Từ lúc y bị ép gả thay, từ lúc y ngã đập đầu biết rõ chân tướng, chấp niệm nhỏ nhoi này đã bị dòng nước tưới tắt rồi.

Xoẹt một tiếng, luồng khói trắng lượn lờ bay xa ra ngút ngàn, chẳng còn dấu vết.

Có lẽ là vì thân duyên của cha mẹ và con cái mỏng manh, có lẽ phúc phần từ kiếp trước tu chưa đủ, kiếp này đầu thai vào nhà họ Chu đã dây dưa xong xuôi, không thể kéo dài cả đời. Có duyên không phận mà thôi.

Chu Tử Thư thầm thở dài: "Ta cũng không hận các người."

Tạ thị và Chu Bá Ung đều lộ ra vẻ mặt vui mừng, nhưng nhanh chóng nhận ra có gì không đúng, sao có thể không oán không hận được chứ?

Không oán không hận đối lập với không yêu không kỳ vọng, sao có thể không oán không hận cho được?

"Không... Ngũ lang cứ oán hận bọn ta cũng được, không sao cả, làm sai thì phải bị trừng phạt, không sao hết, dù con có oán, có hận, cha mẹ cũng không buông đâu, cha mẹ chịu được." Tạ thị thấy Chu Tử Thư định mở miệng thì vội vàng chặn lời y, "Có phải đã muộn rồi không? Tiểu quận vương chờ cũng sốt ruột lắm rồi đấy, cha mẹ sẽ không làm lỡ thời gian con xuất cung nữa, chuyện khác để sau hãy nói."

Bà quay đầu hỏi Chu Bá Ung: "Sau này nói tiếp nhé, được không?"

Chu Bá Ung gật gù: "Sau này còn nhiều thời gian, nếu như ngũ lang còn chưa thể chấp nhận được trong thời gian ngắn, thì bọn ta sẽ cố gắng giảm bớt cơ hội gặp mặt. Cứ từ từ thôi, không sao cả, có lẽ ta và mẹ con còn có thể sống được thêm vài năm nữa, ráng sông thêm mười hai mươi năm, vẫn còn rất nhiều thời gian... Trời sắp tối rồi, không nói nữa, cha mẹ đi trước."

Người tinh mắt đều nhìn ra được bọn họ đều đang nóng lòng trốn tránh.

Chu Tử Thư đột nhiên cất tiếng: "Khi ở Lưỡng Giang, Xương Bình dùng thân phận mẹ ruột áp chế ta, ta đã nói cho bà ta hay, từ khi sinh ra ta đã biết."

Ầm một tiếng như sấm dậy đất bằng, chấn động khiến cho Chu Bá Ung và Tạ thị cứng đờ cả người, hai người nhìn nhau bằng vẻ mặt mờ mịt, rồi cùng lúc nhìn về phía Chu Tử Thư: "Cái gì?" Ngũ lang nói gì?

Có phải bọn họ nghe lầm rồi không?

"Sinh ra đã biết?" Giọng Tạ thị rất nhỏ, bỗng nhưng nở nụ cười, hai mắt ngấn lệ, không ngừng lắc đầu: "Ngũ lang hận mẹ, cho nên mới lừa mẹ đúng không? Con sinh ra đã biết... Vậy chẳng phải suốt hai mươi năm qua con đã biết rõ thân thế của mình rồi hay sao? Chẳng lẽ con biết rõ thân thế mà vẫn chịu đựng sự đối xử bất công từ mọi người ư? Chẳng phải suốt hai mươi năm này, mỗi ngày lòng con đều đau đớn hay sao?"

Chu Tử Thư lắc đầu, "Cũng không biết là trời cao thương xót hay là có ý trêu chọc, mặc dù sinh ra đã biết, nhưng ta đã không còn nhớ rõ rất nhiều chuyện ngày đó nữa rồi."

Năm giác quan của một đứa trẻ vừa ra đời vốn đã rất yếu ớt, cả ngày mê man, vả lại mang độc từ trong thai nên càng suy yếu hơn, khi Ngụy bá cho y ăn tẩy tủy đan y còn chẳng hay, đến hai tuổi có thể chạy nhảy mới biết rằng y đã đầu thai vào một gia đình, biết được ân oán giữa nhà họ Chu và Xương Bình, nhưng làm sao mà y có thể ngờ mình đã đầu thai vào trong một quyển tiểu thuyết chỉ được nghe qua lời kể của một y tá cơ chứ?

Nhiều năm trôi qua, y vốn đã quên mất nội dung quyển tiểu thuyết được nghe ở đời trước rồi.

"Hôm ta bị ép gả thay ngã đập đầu, chợt nhớ ra..."

Khi ấy ký ức bỗng nhiên trở nên vô cùng rõ ràng, nhớ đến lời bất bình của cô gái kia, cô ấy nói rằng quyển truyện kia lẽ ra phải là truyện ngọt sủng sảng văn, nhưng mà nam phụ trong truyện đáng thương quá, thật sự khiến người khác đồng tình, không thể hận nổi.

Cô nói nam phụ độc ác kia tên là Chu Tử Thư, còn nhân vật thụ chính là Chu Ngọc Tranh.

"Nhớ ra ta đã biết chuyện mình bị đổi thân phận từ lúc sinh ra rồi."

Tạ thị nghẹn ngào, nhỏ giọng hỏi: "Khi ép con thay mận đổi đào, con đã biết rồi sao? Khi đó Lâm An quận vương mang tiếng xấu, nghe đồn đã từng chơi người khác chết trên giường, quan sai trong phủ kinh đô còn đến thu thi thể, con cũng là người xử lý vụ này... Con, lẽ ra con phải sợ hắn mới đúng, nhưng con thà để mình bị gả đi chứ không muốn nói cho bọn ta biết..."

Sự thật đã tàn khốc như vậy, sao còn có thể xé tan nát cõi lòng người thành vạn mảnh nữa?

Con trai nhỏ của bà, tiểu Lân Nô của bà đã phát hiện ra chân tướng trong lúc chẳng còn hy vọng nào, cha mẹ ruột, anh em ruột, tất cả mọi yêu thương vốn phải thuộc về y đều bị dời sang cho Chu Ngọc Tranh, mà y còn bị người thân ép đi dọn dẹp cục diện hỗn loạn mà Chu Ngọc Tranh gây ra, phát hiện oán hận mà y phải chịu đựng vốn chẳng hề liên quan gì đến y, phát hiện ra cảnh ngộ bất công, mọi tổn thương suốt mười chín năm qua đều đến từ người thân ruột thịt mà ra cả.

Vào giây phút nhận ra được sự thật, hẳn là y đã phải tuyệt vọng lắm?

Sao có thể tàn nhẫn như thế?

Sao có thể đối xử với y như vậy?

Chu Tử Thư nhìn cha mẹ ruột của mình yêu thương Chu Ngọc Tranh, vị trí thế thân của y, bị cha mẹ anh em bắt tay bức bách, trong lòng đã phải đau đớn biết bao nhiêu chứ?

Có phải là lòng như dao cắt, có phải là vạn tiễn xuyên tâm hay không?

Vẻ mặt Chu Bá Ung trống rỗng, theo bản năng hỏi: "Vì sao lại không nói cho cha mẹ biết sự thật?"

Chu Tử Thư bình tĩnh đáp: "Ta không có bằng chứng."

Để vạch trần sự thần cần phải có bằng chứng, y có thể đưa ra được bằng chứng gì? Ai sẽ tin lời y nói đây?

Huống chi sự che chở và yêu thương Chu Ngọc Tranh của người nhà họ Chu luôn khiến cho y chùn bước, cái chết không ai quan tâm của "Chu Tử Thư" sau khi chân tướng được làm rõ trong truyện gốc cũng khiến cho y sợ hãi.

Y sợ.

Y sợ nói ra sự thật rồi sẽ phải thu dọn đồ đạc rời khỏi phủ kinh đô ngay trong đêm, chỉ được bồi thường một ít, bởi họ sợ rằng sự tồn tại của y sẽ làm Chu Ngọc Tranh phải khổ sở.

Có lẽ là vì số lần tổn thương thất vọng bị tích tụ quá nhiều, khi đạt đến đỉnh điểm giống hệt như một ngọn núi lửa khí thế sắp sửa phun trào nhưng cuối cùng lại không phun trào, tất cả sức lực đều đã cạn kiệt trong quá trình tích trữ và chuẩn bị, thế là nản lòng, nhưng rồi nó trở nên bình tĩnh im ắng đến lạ.

Khoảnh khắc biết sự thật y đã buông bỏ được, một nguyên nhân ngẫu nhiên nào đó ít nhiều thúc giục y mặc kệ nhà họ Chu, giúp cho đáy lòng y thừa nhận hai bên thân duyên mỏng manh, không nên yêu cầu xa vời.

Chu Bá Ung run rẩy nói: "Nếu như con nói thẳng ra, khi ấy ta cũng không phải hoàn toàn không tin tưởng."

Tuy rằng hoang đường, nhưng với bản tính đa nghi cẩn thận của ông, cùng với lòng tin rằng Xương Bình rất độc ác và cố chấp, cái gì ông cũng có thể làm được.

Mặc dù không dễ dàng tin tưởng, nhưng ông sẽ lệnh cho người đi thăm dò, bất cứ việc gì, chỉ cần ông ra tay thì chuyện này nhất định sẽ được giải quyết một cách hoàn hảo, cho dù chỉ là một chút vài dấu vết để lại, ông cũng có thể điều tra được.

"Cha sẽ tra được." Ông nhìn Chu Tử Thư, hai mắt đỏ bừng, ánh mắt khẩn cầu: "Cha nhất định sẽ điều tra được mọi chuyện."

Sau khi thốt ra những lời này xong, nhìn thấy biểu cảm bình thản của Chu Tử Thư, Chu Bá Ung đột nhiên hiểu ra rằng, thành kiến mười chính năm trời và mối thù thâm căn cố đế đã xóa bỏ đi toàn bộ lòng tin của Chu Tử Thư với bọn họ rồi.

Cho đến bây giờ, rốt cuộc là phải bị chèn ép đến mức nào, một người trao đi thiện lương vô điều kiện, hết sức chân thành và thật lòng với thân hữu như ngũ lang mới không dám tin tưởng bọn họ nữa?

"Có lẽ vậy." Chu Tử Thư bật cười, không có thói quen cũng không muốn kể ra tâm trạng của y lúc đó, "Trong chuyện này, ta là người bị hại, các người cũng là người bị hại. Nghĩ đi nghĩ lại, đã có quá nhiều chuyện ma xui quỷ khiến, quá nhiều chuyện ngoài ý muốn khiến cho chúng ta bỏ lỡ khả năng kéo dài thân duyên này."

Y đơn giản quy hai chuyện Chu gia ép buộc y từ bỏ tham gia khoa khảo và thay mận đổi đào xuất giá về "chuyện ngoài ý muốn" để giữ lại mặt mũi cho hai người.

"Thân duyên thân duyên, hữu thân hữu duyên, sênh khánh đồng âm. Hữu thân vô duyên, tự thố đồng dị." Chu Tử Thư lui về phía sau ba bước, vén áo dài lên, một quỳ ba khấu: "Thương xót cha mẹ, vất vả sinh ta."

Hai quỳ ba khấu: "Chu đại nhân, Chu phu nhân, là tại Chu Tử Thư ta mệnh yếu duyên mỏng, số mạng không tốt, không trách hai người."

Ba quỳ ba khấu, trán chạm đất không ngẩng dậy: "Khi Chu Tử Thư đồng ý gả vào phủ Lâm An quận vương, ân oán từ nay về sau đã không còn nữa, dùng cả đời để thanh toán."

Ba quỳ chín khấu này gõ vào lòng hai người Chu Tạ, khiến cho ruột gan bọn họ như đứt đoạn từng khúc.

"Mẹ sai rồi, là tại mẹ sai, không phải tại con mẹ, ngày xưa cũng không nên cắt đứt tương lai của con vì Chu Ngọc Tranh, không nên ép con vào hang hổ!" Tạ thị nhào đến trước mặt Chu Tử Thư định nâng y dậy, khóc không thành tiếng nói: "Không cần phải quỳ mẹ, con không cần quỳ mẹ, không thể nào thanh toán hết được, con không thể, con chưa bao giờ mắc nợ bọn ta, sao có thể nói hai bên đã hết ân oán cơ chứ?"

Chu Bá Ung chậm rãi cúi người nói: "Có... Có duyên mà, duyên phận có thể kéo dài được."

Chu Tử Thư lặng lẽ che miệng vết thương dường như đã rách ra, ngẩng đầu lên nói: "Hai bên không còn liên quan, an ổn phần mình là được rồi." Cần gì phải thế?

Tạ thị và Chu Bá Ung đều phát hiện ra sắc mặt của Chu Tử Thư đã tái nhợt, nhìn về phía tay đang che chắn ở vị trí miệng vết thương của y lại càng tuyệt vọng hơn nữa, bởi vì y thà ép mình nhẫn nhịn chứ không muốn kêu một tiếng đau trước mặt bọn họ.

Chu Tử Thư biết được sự thật, bằng lòng gả vào phủ quận vương cũng không muốn nói ra, bọn họ đã biết đời này không có khả năng hòa giải nữa rồi.

Có lẽ đối với Chu Tử Thư, không oán không hận, không chờ mong bất kì điều gì đã là sự hòa giải của y với thân duyên đời này rồi, còn đối với người nhà họ Chu mà nói, thì đây chính là thương tổn tan nát cõi lòng đi theo suốt cả đời.

Ba quỳ chín khấu, trả lại ơn sinh và tất cả những thiệt thời năm xưa, chẳng thua gì mạnh mẽ đào tim của Tạ thị và Chu Bá Ung ra, gọt vào da thịt, đánh gãy xương cốt của bọn họ, cắt đứt gân nối liền xương, máu mủ chí thân, đau đớn đến mức đời này họ khó lòng mà thanh thản nữa.

Không cam lòng sử dụng mọi cách, bọn họ vẫn không thể níu kéo Chu Tử Thư.

Là do chính tay bọn họ cắt đứt thân duyên này, từ khoảnh khắc bọn họ ép Chu Tử Thư gả ra ngoài, ân oán hai bên đã biến mất, bây giờ đổi ý muốn bù đắp lại, trên đời nào có chuyện tốt đến dễ dàng như vậy được?

***

Chu Bá Ung và Tạ thị dìu dắt nhau, hai bóng lưng còng xuống bước ra khỏi thiên điện, tiểu hoàng môn vẫn luôn chờ ở bên ngoài vốn định nói vài câu khách sáo, không ngờ sắc mặt của hai người xám xịt vô cùng đau đớn, khiến cho người ta nhìn thấy mà kinh hãi.

Chỉ đứng cách vài bước thôi, dù bọn họ chẳng nói một lời, mặt không biểu cảm, gã vẫn có thể cảm nhận được bầu không khí trầm lặng này tràn đầy đau thương.

Tiểu hoàng môn sợ sệt khựng lại, không dám tiến lên, trơ mắt nhìn hai người lướt qua gã như lướt qua không khí đi về phía bậc thang, Chu tế chấp từ trước đến giờ cực kì khỏe mạnh bấy giờ tâm trạng hoảng hốt, giẫm hụt té lăn xuống ba bốn bậc thang, đau đến mức không gượng dậy nổi.

Cũng may lúc té xuống ông đã nhanh chóng buông tay Tạ thị ra, cho nên không kéo bà xuống cùng.

Tiểu hoàng môn nóng ruột vội vàng chạy xuống đỡ người dậy, lớn giọng hô: "Gọi thái y đến!"

Trong lúc đó hắn vô tình thoáng nhìn qua Tạ thị, phát hiện ra sắc mặt bà rất thờ ơ, không quan tâm mấy đến Chu tế chấp vừa mới té bị thương, trông chẳng ra dáng đôi phu thê tình thâm nổi danh kinh đô gì cả.

Thái y nhanh chóng đến nơi, chẩn đoán Chu Bá Ung chỉ bị thương chân, có khả năng đã tổn thương đến gân cốt nhưng không đến nỗi gãy chân, chú ý an dưỡng hai ba tháng là khỏi.

Trong lòng tức thì tự hỏi bậc thang rộng như thế này, sao mà có thể bước hụt để ngã như vậy được?

***

Phủ Lâm An quận vương.

Chu Tử Thư về phủ, đám người Hải thúc đã đốt sẵn chậu than và vỏ bưởi ở cửa ra vào để cho y bước qua rồi vẫy lên người y mấy giọt nước bưởi, dùng gỗ đào gõ vào lưng y ba cái, sau đó âm thầm đưa cho y một cái hầu bao, bên trong đựng ba đồng tiền trừ tà.

Chu Tử Thư muốn nói không cần phải làm vậy, bị bọn họ nghiêm túc phản bác lại: "Ngươi còn nhỏ không hiểu đâu."

Đám người Lý cô nương cũng đến, trên những gương mặt trẻ trung xinh đẹp đều là vẻ mê tín cho rằng làm vậy là đúng.

Chu Tử Thư cãi không lại, quay đầu tìm Cung Tuấn, phát hiện đối phương như đang suy nghĩ gì đó, giật mình nhận ra hắn mới là trùm mê tín ở nhà này.

Chu Tử Thư đỡ trán: "Được rồi." Mặc kệ bọn họ vậy.

Tú ma ma nói với y: "Vào nhanh lên, mấy ngày trước các ma ma đã vội vàng chạy khắp mấy cái chợ trong phủ, cướp được hơn mười con cua thu chắc thịt, vốn là phải đợi thêm một hai tháng nữa mới có cua ngon, nhưng vào thời tiết này nếu như kĩ một chút vẫn có thể tìm được cua ngon không thua gì cua thu. Thả nuôi trong phòng bếp mấy ngày, nghe nói hôm nay ngũ lang về nên đặc biệt đem ra nấu. Có cua nhồi cam, cua ngâm rượu, cua hấp, cua om thịt kho tàu... Cho ngươi ăn thỏa thích luôn."

Lý cô nương tiếp lời: "Ngũ lang cứ ăn thoải mái, Từ đại phu nói ăn cua không làm ảnh hưởng đến vết thương lành miệng."

Ngụy bá trầm tĩnh kiệm lời bấy giờ cũng góp một câu: "Cua có thể xua đuổi tà ma."

Chu Tử Thư ngạc nhiên, không ngờ Ngụy bá mày rậm mắt to cũng lưu lạc rồi.

... Nhưng mà ăn cua có thể trừ tà sao?

Đây là lần đầu tiên nghe đấy.

Mọi người trong phủ quận vương đều vây quanh Chu Tử Thư, nói cười rôm rả. Chu Tử Thư bước một chân qua bậc cửa tiền thính, bỗng nhiên dừng lại, quay đầu nhìn Cung Tuấn đang im lặng đi theo sau lưng.

Dù y không nói, Cung Tuấn cũng thừa biết là y muốn hắn đi cùng, thế là hắn giả vờ giả vịt thở dài, bước lên đẩy những người khác ra, nắm tay Chu Tử Thư ra vẻ: "Không cách nào bắt được em cả." Rồi hắn quay đầu như muốn nói cho mọi người bên ngoài nghe: "Đừng rời khỏi ta nữa."

Đám người Lý cô nương, Nghiên Băng và Tú ma ma: "..."

Hải thúc và những vị lớn tuổi trong phủ quận vương đều yên lặng xoay mặt đi, rất không muốn thừa nhận nhưng đây chính là tiểu quận vương của bọn họ.

Cả một bữa tiệc chỉ có hơn mười con cua, chia cho mỗi người một con là xong, nhưng Chu Tử Thư vừa mời, mọi người lập tức tìm cớ bỏ chạy, chỉ để lại một mình y và Cung Tuấn ăn cơm.

Cung Tuấn bỏ vỏ lóc thịt cho y, dáng vẻ giống hệt như đang nuôi heo.

Chu Tử Thư chỉ cần chuẩn bị đặt đũa xuống, Cung Tuấn sẽ bắn ngay ánh mắt "Tiểu lang không thương ta không cần ta" để tấn công, y cũng không rõ đến cùng là trong khoảng thời gian này điều gì đã thay đổi Cung Tuấn nữa, làm sao mà hắn có thể ngây thơ dùng thủ đoạn không biết xấu hổ để làm những chuyện này vậy chứ?

Vừa ăn thịt cua mà Cung Tuấn ân cần lóc ra, Chu Tử Thư vừa lo lắng, sau này hắn sẽ không bày mấy chiêu kiểu như một khóc hai quấy ba thắt cổ chứ?

Nghĩ đến dáng vẻ khóc lóc om sòm của Cung Tuấn, Chu Tử Thư không nhịn được sợ run cả người.

Cung Tuấn: "Lạnh à?"

Chu Tử Thư: "Không có." Sau đó vội vàng lùa một đống thức ăn vào miệng.

***

Ăn xong đương nhiên là đi dạo, rồi nghỉ ngơi một chút nữa, đến khi trời tổi hẳn thì đi tắm rửa.

Đã lâu rồi Chu Tử Thư không tắm, để tránh cho miệng vết thương bị nhiễm trùng, y chỉ toàn dùng khăn ướt lau mình, hỏi Từ thần y, nghe gã nói là có thể vào nước rồi bèn vô cùng sung sướng bước vào phòng tắm lộ thiên trong phủ.

Chu Tử Thư vừa tháo đai lưng xuống vừa do dự nhìn Cung Tuấn đang đi theo sau y như nhàn nhã đi dạo, "Chàng cũng muốn tắm hả?"

Cung Tuấn chắp tay, nghe vậy thì nói: "Em tắm đi."

Nói xong kéo ghế quý phi ra, đặt ngay cạnh bể tắm nằm xuống ngắm sao.

Chu Tử Thư đưa lưng về phía Cung Tuấn, mặc dù chuyện gì cũng làm rồi, theo lý mà nói không đến nỗi quá xấu hổ, nhưng mà không có bầu không khí kia thì vẫn khá là lúng túng ngại ngùng khi không mảnh vải che thân.

Lớp áo trong cùng rời khỏi cơ thể, cũng là lúc bỗng dưng nghe thấy tiềng ngâm nga trầm thấp của Cung Tuấn vang lên sau lưng, y nghiêng tai lắng nghe, nghe được câu hát khe khẽ: "Tình đến nghĩ lại mà đau lòng, chỉ đành phó mặc cho gió đông..."

Là tình ca, giai điệu rất hay, Cung Tuấn hát cũng rất ra gì, lại thêm âm điệu hơi trầm khàn, hạ tông thấp xuống một chút sẽ để lộ ra một chút phiền muộn và si mê quấn quýt, chui vào trong tai ngứa ngáy.

Chu Tử Thư vô thức nghiêng mặt nhìn sang, vừa khéo thấy Cung Tuấn đang nhìn y mỉm cười, hai tay vỗ nhịp trên đùi, thay đổi một câu hát khác: "... Ta và em một lòng một dạ, nguyện tin yêu nhau đến trăm tuổi, cả đời này một khắc cũng không rời."

Cung Tuấn giữ nguyên biểu cảm, mái tóc dài buông xõa, áo dài tay rộng, vạt áo phanh rộng, phóng đãng không bị trói buộc, xung quanh tự có phong thái điên cuồng thuộc về riêng mình, đâu đó thấy được quá khứ chôn giết quân địch, thấm đầy máu tươi từ trong xương cốt, nhưng trên tay lại đeo vòng Phật, giữa những ngón tay ngoại trừ vết chai do đao kiếm mài ra, còn có vết chai nổi lên do chép kinh Phật.

Đã là Nhân đồ, còn là Phật tử, một tổ hợp mâu thuẫn như thế kết hợp với Cung Tuấn lại trở thành một thứ mê hoặc lòng người.

Một người như Cung Tuấn có lẽ sẽ muốn oanh liệt cả đời này, hắn là rượu mạnh đao điên, là ngọn lửa cháy lan ra đồng cỏ, cũng là ánh mặt trời kiêu ngạo chói chang, hắn không quan tâm đến ánh mắt của người khác, muốn khóc sẽ khóc, muốn giận sẽ giận, tuy rằng lúc giận chiếm phần nhiều hơn lúc khóc... Trước mắt đã nhìn thấy được khi Chu Tử Thư cửu tử nhất sinh.

Dù là đoan chính nghiêm túc hay là đứng đắn đàng hoàng, khi hắn đã muốn quyến rũ người khác, thì thật sự không có cách nào ngồi yên mà lòng không loạn cả.

Chu Tử Thư nuốt nước miếng, líu ríu nói: "Vết thương của ta còn chưa ổn, làm mạnh quá... Sẽ rách ra."

Ánh mắt của Cung Tuấn lập tức trở nên quỷ quyệt, im lặng một hồi lâu mới thở dài nói: "Thật ra ta chỉ muốn để tiểu lang thấy rằng ta cũng có được vài phần giống thư sinh học đòi văn vẻ thôi, không ngờ tiểu lang lại nổi hứng thú với ta."

Hắn giang hai tay, kéo vạt áo ra một chút đủ để thấy được cơ bụng tuyệt vời: "Ta sẽ nhẹ thôi."

Chu Tử Thư định quát hắn không đứng đắn, nhưng mở miệng lại hỏi: "Có thể làm không?"

Cung Kinh Dường đáp: "Tin tưởng lực cánh tay của ta đi."

Đôi phu phu xa cách một năm không cận kề da thịt liếc nhìn nhau, một người ngồi thẳng dậy, người còn lại nhẹ nhàng cất bước đi tới, phối hợp rất ăn ý.

***

Suy cho cùng thì cũng do không kìm lòng nổi, miệng vết thương vẫn bị rách ra, hai người về phòng cúi đầu chịu lời phê bình của Từ thần y, thành thật tự kiểm điểm.

"Thứ lỗi cho ta nhưng phải nói, tiểu quận vương ngài bình thường cũng tỉnh táo lắm cơ mà, hai mươi mấy năm trước thật sự thanh tâm quả dục giống hệt như Bồ Tát, ta còn tưởng rằng ngài không mấy hứng thú với tình yêu của phàm thế nhân gian, cho nên lúc này mới yên tâm để hai người ở cùng nhau, cứ nghĩ ngài là người có chừng mực chứ. Đương nhiên ta biết rõ hai người thành thân mới hai năm, nhưng thời gian xa nhau đã tròn một năm trời, củi khô bén lửa là chuyện bình thường, tình yêu nam nữ... tình yêu nam nam cũng giống vậy thôi, ăn uống yêu đương là ham muốn lớn nhất của con người, nhưng các ngươi phải lý trí một chút! Kiềm chế một chút chứ!"

Chu Tử Thư cúi đầu: "Ta cũng sai."

"Không thì sao hả? Tiểu Chu đại nhân cảm thấy lời ta nói không dính dáng gì đến ngài đấy à? Cái nết xấu của tiểu quận vương ai ở Tây Bắc mà không biết? Nhưng mấy ai biết được cái nết đó sẽ thay đổi lúc nào chứ! Nhưng mà ngài thì không giống như vậy, ngài là quân tử trong sáng như trăng, là Bồ Tát mà trời phái xuống, ai không quen biết ngài còn nghĩ ngài uống sương sớm để mà no bụng, ai biết được ngài có thể tham hoan túng dục đến mức này hả!"

Từ xưa đến nay, câu nói đừng đắc tội bác sĩ chính là lời nói chí lý nhất, coi như bình thường gã cũng rất trung thực, rất tận tụy và kính nể, thậm biết cảm kích y không hết vì là ân nhân cứu mạng vợ gã kiêm bà mối, nhưng bất cứ ai không coi lời của bác sĩ ra gì thì đều có thể bị tóm lại mắng cho một trận. Những lời châm biếm mà hắn nói có khả năng sát thương cực cao.

Chu Tử Thư xấu hổ cúi đầu thấp hơn, để lộ dấu vết trên cổ ra.

Cung Tuấn nhìn thoáng qua, hả hê run chân.

Từ thần y thấy động tác run chân của hắn, hơi lạnh trên người đột nhiên tăng lên.

Đúng là hết thuốc chữa!

***

Ăn uống ngủ nghỉ trong phủ vài ngày, chớp mắt cái đã đến tết Trung thu.

Rước đèn và dùng bữa cơm đoàn viên chính là những hoạt động chính của tết Trung thu, từ lúc hoàng hôn, các món ngon vật lạ đã được chuẩn bị sẵn, ăn uống no nê đến khi trời sụp tối rồi thì đi tụ tập ngoài các phiên chợ, thâu đêm suốt sáng.

Trần Sư Đạo đã đặt chỗ ở một quán rượu lớn nhất trong phủ để ngắm trăng đêm nay, mời Cung Tuấn và Chu Tử Thư tới chung vui, hai người đều đã đồng ý.

Nhưng trước khi đến điểm hẹn, Cung Tuấn đã đưa Chu Tử Thư đến chùa Hồng Phúc.

***

Điện Vạn Phật, chùa Hồng Phúc.

Hàng vạn ngọn đèn sáng lấp lánh như muốn che cả trời đất, từng ánh nến nhỏ góp lại thành biển lửa trên thảo nguyên, nguy nga long trọng, thật sự làm lòng người rung động, đúng lúc đó có tiếng chuông vàng vang lên cách đó không xa như vọng lại từ ngàn xưa, trong lòng tự nhiên sinh ra cảm giác quạnh vắng và bao la hùng vĩ, vừa thần bí vừa tịch mịch, còn có cảm giác như thần phần vẫn tồn tại đâu đó ở nhân thế này nữa.

Chu Tử Thư nhẹ giọng hỏi: "Đây là pháp hội vạn chúng cúng đèn sao?"

Cung Tuấn: "Có biết ba mươi ngàn ngọn đèn trong ngoài điện Vạn Phật này đều là để cầu phúc cho ai không?" Chu Tử Thư mơ hồ có được đáp án.

Cung Tuấn kéo y đi, chọn một hàng đèn cầu phúc gần đó, chỉ vào giấy dán trên thân đèn nói: "Chư Phật hành quyết, cầu cho thanh thiên Chu Tử Thư vô tai vô thống." Chỉ sang hàng tiếp theo, "Ngàn cầu ngàn ứng, giải trừ mọi điều không như ý trong đời Chu Tử Thư.", rồi tiếp tục đến một hàng khác, "Quan Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi, cầu cho thanh thiên Chu Tử Thư không còn tai nạn, độ nhân quả, không gì không hài lòng, muốn gì được nấy." Lòng Chu Tử Thư hoảng hốt: "Đèn ở đây... Đều cầu cho ta sao?"

Y nhớ lại lúc hôn mê mình đã mơ hồ nghe được, nhưng tưởng đó là lời nói quá thôi chứ không đúng thật, nhưng cảnh tượng này hùng vĩ và thành khẩn hơn y tưởng nhiều.

"Không chỉ chùa Hồng Phúc, mà chùa Bảo Hoa cũng có, còn có cả những dân chúng ở Lưỡng Giang, Hoài Nam nhận ân huệ của em, hoặc là cảm niệm em đã cầu công bằng, bên vực lẽ phải vì bọn họ nữa, không chỉ ba mươi ngàn ngọn đèn, một trăm ngàn, một Chu ngọn đèn...Lê dân bá tánh trong thiên hạ này đều nhớ đến em, ở đây còn có một ngọn đèn của Trần Sư Đạo, đám người Nghiên Băng, Đỗ Công Tiên, Phạm Văn Minh cũng đến đốt đèn, Hạ Quang Hữu ở Hoài Nam và Trần Phương Nhung ở Sơn Đông ngàn dặm xa xôi đều sai người đến chùa Hồng Phúc này đốt cho em một ngọn đèn cầu phúc."

"Sơ đầu nương tử, Lý Ý Như mà em đã cứu, Đặng Vấn An được em sửa lại án oan cho, Hoàng Thanh Thường, Khuông Phù Nguy, Dương thị... Không ai là không nhớ đến em, không ai là không nóng lòng nóng dạ vì em cả."

Cung Tuấn ôm Chu Tử Thư từ phía sau: "Nếu như có một ngày ta không giữ được em nữa, thì em cũng phải nể tình lê dân bá tánh, ở lại thêm một chút nữa rồi hãy đi nhé."

Chu Tử Thư muốn chết dọa Cung Tuấn đến nỗi giờ phút này rồi hắn vẫn không có tự tin, mặc dù từ sau khi tỉnh lại, Chu Tử Thư đã thể hiện rằng y luôn cần đến hắn, mặc dù y nói rằng y trở về vì Cung Tuấn, nhưng hắn vẫn còn rất sợ hãi.

Chu Tử Thư cụp mắt nắm chặt tay Cung Tuấn, "Được."

***

Ở lại chùa Hồng Phúc thêm một lúc nữa, hai người mới bước to bước nhỏ rời đi, mãi đến giờ Thìn năm khắc mới tới quán rượu, lúc này trăng đã treo cao giữa trời, ánh trăng như lụa, chợ đêm dưới lầu đông như mắc cửi, ven sông trang trí mấy ngàn chiếc đèn lồng rực rỡ, cảnh tượng vô cùng rung động lòng người.

Trong quán rượu, ngoại trừ Trần Sư Đạo còn có Đỗ Công Tiên, phu phu Khang vương, Hộ bộ Phó sứ, Công bộ Thị lang, Cao đồng tri... Quan triều đã đến hơn phân nữa, đều mặc thường phục, hoặc nằm hoặc ngồi hoặc nghiêng ngả, nhìn thấy Chu Tử Thư bèn nhao nhao vẫy tay gọi lại.

Hai người đi vào giữa chào hỏi một lát, rồi mượn trăng làm thơ, hoặc đi phạt rượu, chơi vui vô cùng.

Bên cạnh Chu Tử Thư là Cao đồng tri, ông giơ chung rượu lên nói với Chu Tử Thư: "Lão phu kính tiểu Chu đại nhân, vì công lý."

Chu Tử Thư thấy hơi lạ, cầm chung rượu tính đáp lễ, bị Cao đồng tri đè tay xuống, đối phương kính chén thứ hai.

"Lão phu lại kính tiểu Chu đại nhân, lập mệnh cho dân."

Đến chén thứ ba, Cao đồng tri giơ lên, nhìn chằm chằm Chu Tử Thư nói: "Lão phu kính tiểu Chu đại nhân chung thứ ba, là muốn nói hai tiếng xin lỗi."

Xin lỗi vì ông thân là Tam công Cửu khanh mà lại không thể làm gương tốt, làm quan thế là uổng.

Chu Tử Thư lộ vẻ xúc động, sau đó mím môi cười, uống cạn một chung rượu rồi nói: "Hai chung trước ta không dám nhận, chung thứ ba ta sẽ đáp lễ, ông không được cản ta đâu." Nói xong uống cạn rượu trong chén.

Cao đồng tri sửng sốt, sau đó cười to thoải mái.

Người ngoài không biết, chỉ coi rằng đó là một cuộc trò chuyện thú vị, cho nên tiếp tục chuyên tâm chơi đùa ngắm trăng.

Chu Tử Thư đảo mắt qua từng người, ân sư Trần Sư Đạo, Tể tướng Cao đồng tri, phu lang Cung Tuấn của y, còn có chúng quan viên khác nữa, trăng sáng nhô cao, gió thu lành lạnh thổi qua gạt đi phiền muộn tích tụ sâu trong đáy lòng, bỗng nhiên tiêu tan sạch sẽ.

Có lẽ vì không thể hoàn toàn lý giải được thứ mà y theo đuổi, có lẽ vì cho rằng lúc trước y nói không muốn sống nữa là do nản chí ngã lòng với quan trường đen tối, vì dân chúng cực khổ, cũng có lẽ chỉ nghĩ rằng y quá chính trực, quá giàu lòng đồng cảm, cho nên mới không thế hòa hợp với thời đại này.

Nhưng mà như vậy là đủ rồi.

Quy luật phát triển của lịch sử đã định trước rằng thời đại mà y đang ở không có khả năng tiến nhanh lên ngàn năm nữa, dù là kỳ tài ngút trời, hay là thánh nhân muôn đời cũng không thể vượt qua được giới hạn ngàn năm thời đại, nhưng một đốm lửa có thể đốt cháy cả cánh đồng.

Chẳng lẽ Chu Tử Thư đến từ thế giới sinh ra đã bình đẳng, tự do có thể phủ nhận được tư tưởng đã cắm rễ từ tận sâu trong xương máu của mình, và văn hóa không chịu nhiều ảnh hưởng từ nền văn minh được hun đúc mấy ngàn năm hay sao?

Đạo trời xanh, lý công bằng chính nghĩa, dân chúng như nước, dân động như khói, hình phạt không phân biệt đẳng cấp, thiên tử phạm pháp cũng cùng tội với thứ dân... Nếu như hoàng chung đại lữ* cũng vang vọng sử sách, hòa vào trong máu thịt của y, thì kiếp trước kiếp này dù là trăm năm về sau cũng không thể mất đi được.

(*) (黃鐘大呂聲) Hoàng chung (chuông vàng) là nhạc khí, có 12 âm cơ bản là 6 luật (tiếng dương) và 6 lã (tiếng âm), trong đó, Đại lã là âm thanh cao nhất, hay nhất. Trong kinh điển Phật giáo, từ ngữ Hoàng chung đại lã thanh được dùng để chỉ cho yếu chỉ sâu xa của Phật pháp.

Bởi chúng cũng vĩ đại trong thế giới này, thậm chí có kẻ sống mãi về sau.

Có nhiều thứ là cha truyền con nối, không phải là không thể đồng cảm.

Con đường đi về phía trước có lẽ sẽ cô đơn, nhưng chỉ là trong chốc lát mà thôi, cũng không hẳn là không có người tiếp bước.

Thỏa hiệp, nhượng bộ, ôm lấy thời đại không hoàn hảo này một lần nữa, chính là lần hòa giải đầu tiên giữa Chu Tử Thư với nó.

Có lẽ sau này còn sẽ gặp được quan trường phủ tấm màn đen làm người ta thất vọng đau khổ hơn nữa, có lẽ vẫn còn có thể bị thời đại phong kiến xem mạng người như cỏ rác này đâm cho mình mẩy đầy thương tích, có lẽ vẫn sẽ nản chí thất vọng đến mức phải ẩn cư hoặc muốn chết, nhưng suy cho cùng đó là những thứ y đã đi qua, đã từng nhìn thấy.

Cứ coi như không hợp nhau, đi ngược chiều nhau, nhưng rồi cũng sẽ có thời khắc trăm sông đổ về một biển mà thôi.

Dù đó chỉ là một khắc ngắn ngủi, hay chỉ trong nháy mắt thôi, nhưng như vậy là đủ rồi.

==

Tác giả muốn nói:

Vậy là em Cá đã hòa giải với nhà họ Chu, hòa giải với thời đại này rồi.

Với nhà họ Chu, em Cá và gia đình đó đã hoàn toàn kết thúc khi em bị họ gả thay rồi.

Em ấy bình thường trở lại, không oán không hận, không yêu không yêu không hy vọng, thanh toán xong xuôi, hai bên không thiếu nợ nhau, an ổn phần mình.

Có lẽ thời gian qua đi họ sẽ nhận được sự tha thứ, nhưng đó cũng là chuyện của rất lâu về sau nữa.

Còn với thời đại, em ấy vẫn sẵn lòng bao dung sự không hoàn hảo của thời đại này, cũng đã thoáng nhìn thấy được những nét riêng biệt của thời đại ấy, không phải điều gì cũng hoàn toàn sai, giống như cách tư duy hiện đại của chúng ta vậy, bởi thật ra những tư tưởng, văn hóa ăn sâu chúng ta đều đến từ sự tập hợp của rất nhiều tư tưởng từ thời xưa.

Tuy rằng ngang hàng tự do vẫn còn rất xa xôi, vẫn tồn tại suy nghĩ xem mạng người như cỏ rác, nhưng với toàn bộ khả năng sẵn có, nó vẫn có thể trở thành đốm lửa chiếu sáng sử sách.

==

Min: Kyaaasáng nay lên check thì thấy truyện được 200k lượt view rùi nên đá nhanh chương này cho cả nhà đọc nìa :3

Tui biết là bản edit của tui vẫn còn thiếu sót nhiều lắm, nên tui rất biết ơn mọi góp ý chỉnh sửa, lời nhắc nhở lẫn lời khen của mọi người 🌷 Cảm ơn cả nhà vì đã ủng hộ tui suốt thời gian qua rất iu ạ 🥰✨

PS: từ tháng 10 năm ngoái đến nay cũng gần 1 năm rồi, hy vọng sẽ chạy kịp để hoàn thành kpi đúng ngay tháng 10/2023 luôn hehe =)))))))))

Chương 94

Mùa xuân, năm Nguyên Thú thứ hai mươi lăm.

Thiên Đô Trại Kinh Châu, Kinh Nguyên, tỉnh Thiểm Tây, Tây Bắc.

Gió lạnh thổi ào ào trong đêm đen bao la, dãy núi bị phủ một màu xanh đen, đỉnh Duy Sơn được tuyết trắng tô điểm trông vô cùng bắt mắt, lúc này, Thiên Đô Trại tọa lạc tại đây với tư cách là phòng tuyến đầu tiên ở biên giới Đại Cảnh đã đốt đuốc sáng rực, đuốc trong lều chỉ huy nổ lách tách, tướng thủ Ngạc Đan vuốt ve chòm râu đã được tết thành đuôi sam, tỏ vẻ thích thú nhìn người đàn ông bị áp giải vào trong lều.

Khuôn mặt bình thường, trông giống như người Khương, vóc dáng nhỏ gầy, ánh mắt đảo loạn, vẻ mặt lộ ra sự chột dạ.

"Ngươi là kẻ đã ném cái bao này ở gần Thiên Đô Trại à?" Ngạc Đan ném một cái bao ra, bên trong là cẩm bào của công khanh Đại Hạ, vải lụa và thư từ, thư đã bị mở ra xem, "Thư này để tên của bổn tướng quân, may mà nơi ngươi ném thứ này lại là nơi Giám quân Lý Mẫn Học sẽ đi qua, nếu như để đám Giám quân Đại Cảnh nhìn thấy được mấy món trong bao này, báo cáo lên trên kia... Các ngươi muốn dùng kế phản gián, đổ cho Ngạc Đan ta tội danh thông đồng với địch à, Ngạc gia quân có nhiều thế hệ lương tướng trấn thủ Kinh Nguyên, cữu phụ ta Ngạc Khắc Thiện lại là Nguyên soái Kinh Nguyên, thủ lĩnh phiên binh Thiểm Tây, đến cả Hoàng đế Đại Cảnh cũng phải nhún nhường vài phần, không dám tùy tiện phán cho ông ấy hình phạt tử hình, chỉ sợ đám người Đại Hạ các ngươi gian xảo quỷ quyệt, tham lam thành thói đã tính kế sai người mất rồi!"

Ngạc Đan đập mạnh lên bàn, hừ lạnh một tiếng: "Đẩy ra chém đi! Treo đầu lên cổng trại cho ta, để cho người Đại Hạ nhìn mà xem đắc tội với Ngạc Đan này thì sẽ phải chịu kết cục gì!"

Binh sĩ dẫn binh đẩy tên gian tế kia ra ngoài chém đầu.

Ngạc Đan thả lỏng mặt mày, vẫy tay lệnh cho người đưa rượu và thức ăn vào, chắp tay nói với Giám quân Lý Mẫn Học đang đứng ở góc đối diện: "Đa tạ Lý đại nhân đã tin tưởng Ngạc mỗ chú không tin vào kế ly gián của tên giặc kia."

Lý Mẫn Học cũng chắp tay đáp: "Ngạc tướng quân không cần khách sáo, rõ ràng là tại lũ Đại Hạ xem thường, coi chúng ta là một đám hữu dũng vô mưu nên mới dùng kế này thôi. Vả lại Thiên Đô Trại là tuyến phòng ngự đầu tiên của Đại Cảnh, bệ hạ phái ta tới đây là muốn ta dốc hết tài học cả đời để phò tá Ngạc tướng quân giữ vững nơi này, hơn nữa cữu phụ của Ngạc tướng quân, Nguyên soái Ngạc Khắc Thiện chính là thế gia vọng tộc ở Tây Bắc, tổ tiên có công khai quốc, lớp lớp danh tướng nối nhau xuất hiện, nhiều thế hệ trấn thủ Tây Bắc đề phòng người Đảng Hạng* xâm chiếm, tất nhiên là hạ quan tin tưởng Ngạc tướng quân hơn bất kể một người Đại Hạ gian trá nào."

(*) Đảng Hạng: một nhánh của dân tộc Khương, thời bắc Tống ở Trung Quốc, đã lập nên chính quyền Tây Hạ.

Nói mấy câu thôi mà đã khiến cho Ngạc Đan vui vẻ ra mặt, vừa khéo thức ăn và rượu đã được trình lên, gã vội vàng mời Lý Mẫn Học đến thưởng thức, đồng thời thầm nghĩ Giám quân mới đến này thức thời và thông minh hơn Giám quân ban đầu nhiều.

Phải biết rằng Hoàng đế Đại Cảnh có hơi kiêng dè trước tướng lĩnh nắm binh trong tay, thật ra không tin tưởng phiên binh Tây Bắc trong tay bọn họ, đã nhiều lần phái Giám quân đi theo, nói là phò tá, thật ra là theo dõi, đề phòng bọn họ nắm giữ trọng binh, quyền lực quá lớn.

Vì vậy bình thường, đa số Giám quân và tướng lĩnh không hợp nhau lắm, nếu đổi lại thành Giám quân ban đầu, nói không chừng đã lập tức chạy đến chỗ Tri phủ Kinh Châu mật báo, đến lúc đó dù gã có trong sạch, hay dù cữu phụ của gã có là Nguyên soái Kinh Châu đi nữa thì gã cũng có thể sẽ bị cách chức.

Rượu đến miệng, Lý Mẫn Học khuyên nhủ: "Ngạc tướng quân, hạ quan có lời này không biết nên nói hay không." Ngạc Đan vung tay lên: "Cứ nói không sao."

Lý Mẫn Học: "Từ ba năm trước khi Lâm An quận vương đánh bại quân Hạ, ký kết hiệp ước hòa bình trở về sau, tuy nói rằng hai nước đã mở cửa buôn bán qua lại, nhưng Đại Hạ vẫn liên tục làm chuyện mờ ám như trước, đưa gián điệp, gian tế và kỵ binh biên cảnh quy mô nhỏ đến thăm dò, thế tấn công chưa bao giờ ngừng lại, có thể thấy bản tính hung ác của Đại Hạ khó dời. Hạ quan còn nghe nói, từ mùa đông năm ngoái Quốc quân Đại Hạ đã bị nhiễm phong hàn, các vương tử và đại thần rục rịch với nhau, lại thêm chiến bại phải bồi thường, vì dốc hết binh lực gây chiến đã khiến cho dân chúng vốn nghèo khổ đến cùng cực nay lại gặp nạn liên tiếp."

"Hầy, đến cùng là ngươi muốn nói cái gì? Đừng vòng vo nữa, đám người đọc sách các ngươi trước khi muốn nói gì đều phải đệm thêm cả tá thứ phía trước làm ta thấy phiền lắm, nói thẳng vào trọng điểm đi."

"..." Lý Mẫn Học: "Hạ quan nghi ngờ Đại Hạ chuẩn bị phát động tấn công lần nữa, lấy Thiên Đô Trại vùng Kinh Nguyên làm lỗ hỏng để đột phá."

"Cái gì?" Ngạc Đan sững người, rồi lập tức cười ha hả, vóc dáng to lớn như một con gấu mang lại cảm giác lấn áp rất lớn, "Lý đại nhân, vừa rồi ngươi cũng nói Ngạc thị ta nhiều đời danh tướng, đứng đầu phiên binh Tây Bắc, ngươi đi mà hỏi thăm xem một trăm ngàn phiên binh Tây Bắc lợi hại đến đâu! Cữu phụ ta có quyền điều động một trăm ngàn phiên binh trấn thủ các nơi, lại nói Ngạc Đan ta cũng không phải kẻ vô dụng, ngươi biết Thiên Đô Trại này của ta nổi tiếng tường đồng vách sắc mà? Cũng phải biết vì sao nó lại nổi tiếng như vậy chứ?" Gã vỗ ngực, "Trước đây ta được gọi là Thiết Bích tướng quân. Người Đại Hạ đánh vào ba nhánh Phu Diên, Hoàn Khánh và Hi Hà, bị ta đánh lại cho tơi bời tan tác, cho nên chúng hết lần này đến lần khác nhắm vào vùng Kinh Nguyên của chúng ta, hại ta mất đi cơ hội kiến công lập nghiệp..." Gã chuyển lời, có hơi kiêu ngạo: "Có điều đây đã chứng tỏ được rằng thanh danh nhà họ Ngạc ta đã truyền xa trong quân. Đại Hạ không dám tùy tiện đụng vào, bây giờ chúng coi ta là quả hồng mềm, cho rằng có thể tha hồ gây khó dễ, nhưng chúng đã sai hoàn toàn rồi!"

"Quân Đại Hạ muốn tới thì tới, muốn chiến thì chiến, Ngạc Đan ta đây không sợ chiến!"

Chủ yếu là Lý Mẫn Học muốn khuyên Ngạc Đan cảnh giác một chút, nhanh chóng sắp xếp đề phòng gót sắt Đại Hạ giày xéo, nhưng từ trước đến nay Ngạc Đan tự cao tự đại, không nghe lọt lời người khác khuyên nhủ, hắn cũng bất đắc dĩ lắm mới phải nói ra mà thôi.

Nghĩ thầm nếu như là Ngạc gia quân mười năm trước thì đúng thật khiến cho người khác nghe tới là sợ mất mật, nhưng bây giờ thủ lĩnh phiên binh Ngạc Khắc Thiện là một kẻ thích việc lớn hám công to, vừa bảo thủ vừa hay ngờ vực lung tung, còn lạm sát nữa, trước đây lão từng giết vài đứa cháu trai cháu gái, nhờ là công thần, lại đứng đầu phiên binh, còn là một trong Nguyên soái của bốn nhánh quân Tây Bắc, không thể tùy tiện đổi người khác, cho nên mới được đặc xá.

Còn Ngạc Đan này là cháu trai ngoại của Ngạc Khắc Thiện, rất được ông ta yêu thương, coi như con trai ruột, trái lại có tin đồn gã là đứa con mà Ngạc Khắc Thiện và người chị kế của lão lén lút qua lại sinh ra, quả thực cũng mạnh mẽ, kiêu dũng thiện chiến, kiêu căng tự đại hơn, ngoan cố hơn, còn có hơi ngu xuẩn nữa.

Lý Mẫn Học thở dài, lời khuyên nhủ không có hiệu quả, hắn vừa quay về doanh đã viết một bức thư, lệnh cho người gửi đến Tri phủ Kinh Châu, báo việc Đại Hạ làm chuyện mờ ám và mưu tính của chúng lên, mong rằng đối phương sẽ chủ động tìm đến Ngạc Khắc Thiện.

Dù sao thì Ngạc Khắc Thiện cũng đa mưu túc trí, đáng tin cậy hơn Ngạc Đan một chút.

***

Ngạc phủ, Kinh Châu.

Mặc dù Kinh Châu không có sản vật phong phú, cũng chỉ mang trong mình vẻ đẹp hoang sơ thô cằn, nhưng quy mô của Ngạc phủ vẫn hoành tráng hoa lệ hơn tưởng tượng, ở một nơi cực kì thiếu nước như Tây Bắc, trong phủ vẫn có một hồ nước nhân tạo rộng mười trượng, giữa hồ còn có đá Thái Hồ vận chuyển từ Động Đình, Giang Tô đến.

Thật sự có thể nói là vô cùng xa hoa.

Tri phủ Kinh Châu Mông Thiên Túng liên tục suýt xoa trong lòng, rất là thán phục.

Nhìn thấy thủ lĩnh phiên binh Tây Bắc, Nguyên soái quân Kinh Châu Ngạc Khắc Thiện thì lập tức thấy sợ sệt, Ngạc Khắc Thiện này tuổi đã ngoài năm mươi, trên mặt là chòm râu quai nón, người to như gấu, vô cùng cường tráng, mùi máu tanh sinh ra từ bao năm đánh giết quấn quanh người, đầu đôi mày nắm quyền sinh sát chứa vẻ tàn bạo.

Ngạc Khắc Thiện chẳng màng nâng mắt lên: "Mông đại nhân đến thăm là vì chuyện gì?"

Mông Thiên Túng báo lại chi tiết nội dung thư mà Lý Mẫn Học đưa tới, sắc mặt của Ngạc Khắc Thiện không thay đổi, chỉ nhìn Mông Thiên Túng khẽ gật đầu, thấy gã nôn nóng muốn giấu vẻ sợ hãi đi, lập tức biết ngay đây là một kẻ trời sinh yếu đuối.

Chỉ mấy giây ngắn ngủi, Ngạc Khắc thiện đã nảy ra ý định lôi kéo Mông Thiên Túng, thế là chắp tay nói: "Mông đại nhân, tối nay trong phủ có chuẩn bị chút rượu và món ngon, có thể ở lại uống rượu không?"

Mông Thiên Túng ngỡ ngàng trong niềm vui sướng, vội vàng đáp lại: "Đương nhiên, đương nhiên là được."

Mời Mông Thiên Túng đi xong, Ngạc Khắc Thiện mới lệnh cho người đến Thiên Đô Trại một chuyến: "Nhắc nhở Ngạc Đan đề phòng Lý Mẫn Học. Sự tình trong quân lẽ ra nên khuyên can Ngạc Đan trước, nhưng hắn lại vượt cấp tấu bẩm lên trên, học đám Giám quan trước đây làm trò lố bịch!"

***

Đầu mùa hè cùng năm.

Thiên Đô Trại Kính Châu.

Ngạc Đan đang đứng trước mặt Lý Mẫn Học và một đám tướng sĩ, giơ tay lên chém đầu Lai sứ Đại Hạ, sau đó lớn giọng nói: "Người này là Lai sứ Đại Hạ, hắn mang theo lời nhắn của Nhị vương tử Đại Hạ vào trong lều ta, dùng lợi dụ dỗ, đồng ý cho ta quyền cao lộc hậu để ta mưu phản Đại Cảnh, hướng về Đại Hạ! Chưa nói Ngạc Đan ta trung thành tận tâm, phải nói trước đây đám Đảng Hạng, Man tộc này đã từng dùng kế ly gián, bây giờ lại sử dụng những thủ đoạn bẩn thỉu thấp hèn, không chừng chỉ chờ ta nhảy vào hố, sau đó tố giác bổn tướng, hại chết ta!" Chúng tướng sĩ im lặng.

Ngạc Đan bèn nói thêm: "Treo đầu hắn lên cửa trại đi, nói với người Đại Hạ, hoặc là đến đây đánh cho đàng hoàng, đừng xài mưu kế khiến người ta mắc ói nữa."

Vừa dứt lời, các tướng sĩ đã giơ cao giáo mác gào lên một tiếng chấn động trời đất, khiến cho đàn chim vỗ cánh bay ra khỏi núi rừng.

Ngạc Đan đi qua bên cạnh Lý Mẫn Học nói: "Lý đại nhân, ngài vẫn còn lo lắng rằng ta không thể đề phòng âm mưu quỷ kế của Đại Hạ sao?"

Lý Mẫn Học không biết vì sao gã lại cố tình hỏi câu này, chỉ cho rằng Ngạc Đan đang đáp lại lời khuyên của hắn mấy tháng trước mà thôi, lúc này mới nói: "Tất nhiên là tướng quân luôn suy nghĩ chu toàn."

Ngạc Đan bỗng dưng lạnh mặt xuống: "Vậy thì về sau Lý đại nhân không cần phải trước mặt một kiểu sau lưng một kiểu, cũng đừng quay người bỏ chạy đến chỗ Tri phủ Kính Châu mật báo nữa đấy."

Sắc mặt Lý Mẫn Học đột nhiên thay đổi, hai cánh môi mấp máy cả buổi trời mà không nói được gì. Ngạc Đan đắc ý bỏ đi.

Lý Mẫn Học cười khổ, ý của hắn vốn là muốn nhờ Tri phủ Kinh Châu mở lời nói ra tình hình nơi này, để Ngạc Khắc Thiện có thể chuẩn bị trước, nếu như lão mở miệng, Ngạc Đan không dám không nghe theo, nào ngờ Ngạc Đan lại cứng đầu như vậy, nghĩ là hắn không vừa lòng nên mới tự tiện chạy đi mật báo.

E là hắn đã đắc tội Ngạc Đan rồi.

Lý Mẫn Học thở dài nặng nề, những nguyên soái tướng quân khác không ai dám làm mất lòng Giám quân, duy chỉ có Giám quân phiên binh Kinh Châu là luôn phải cẩn thận, tại hắn không may thôi. Nhưng chỉ mình hắn xui xẻo thôi thì cũng được, có thể giúp cho Ngạc Đan biết cẩn thận hơn mới là chuyện tốt.

***

Cuối hè cùng năm.

Đại Hạ phái ba ngàn kỵ binh tấn công mạnh mẽ vào Thiên Đô Trại Kính Châu, binh bại bị bắt lại, bấy giờ Nhị vương tử Thác Bạt Minh Châu phái Lai sứ tới cầu đàm phán hòa bình, nhưng ba ngàn kỵ binh bị bắt sống lại tự tuyên bố rằng bọn họ sẵn lòng quy thuận phiên binh Tây Bắc.

Ngạc Đan nhíu mày, dứt khoát từ chối, chuẩn bị đưa bọn họ về phương nam giải quyết, không ngờ thủ lĩnh của ba ngàn kỵ binh kia quỳ xuống đất thật tình tha thiết nói: "Cầu xin Ngạc tướng quân chứa chấp ta và các anh em ta, bọn ta nguyện dốc sức ngựa chó hiến dân cho tướng quân và Ngạc gia quân, dù cho đầu rơi máu chảy cũng không tiếc! Tướng quân có điều không biết, tuy nói bọn ta là người Đảng Hạng, nhưng trong huyết mạch có một nửa dòng máu người Khương, lòng luôn hướng về phía người trong tộc, cũng chính là tộc Tây Bắc, nếu như không phải năm xưa Đại Hạ đánh cướp tộc Tây Bắc ta, hãm hiếp phụ nữ, làm sao bọn ta có thể sinh ra ở cái nơi thối nát đã vấy bẩn tổ tiên của mình chứ? Hơn nữa mấy năm gần đây Quốc quân Đại Hạ hiếu chiến hiếu thắng, đã gần ba năm rồi dân chúng khổ không tả nổi, quân tư bị trì hoãn, tham ô, lương thảo thì cứ mãi đi đường chậm chạp không đến, các anh em thật sự không sống nổi nữa rồi mới đến tìm ngài để nương tựa."

"Ngạc tướng quân, bọn ta ở nước Hạ thường nghe nhắc đến ngài và Ngạc nguyên soái, cùng với uy danh trăm trận trăm thắng của Ngạc gia quân, đã sinh lòng ngưỡng mộ từ lâu, chỉ hận không thể đầu thai lần nữa vào Ngạc gia quân. Ba ngàn anh em bọn ta không đi cậy nhờ Đại Cảnh, mà là hướng về phía ngài, hướng về Ngạc gia quân, hướng về phía phiên binh Tây Bắc của bọn ta!"

Ngạc Đan hơi thích thú hỏi: "Sao nào, các ngươi cũng biết đến thanh danh của Ngạc Đan ta à?"

Thủ lĩnh kỵ binh Đại Hạ trợn to mắt, vô cùng khiếp sợ và tôn sùng nói: "Ngài là Thiết Bích tướng quân, quân đội Đại Hạ không ai không biết! Chính là nhờ có ngài trông coi lạch trời Thiên Đô Trại này, mấy chục năm qua Đại Hạ không dám đụng chạm vùng Kinh Nguyên, vì vậy dân chúng năm châu Kinh Nguyên này mới được hưởng thụ ngần ấy năm yên bình! Đó đều là công lao của ngài và Ngạc gia quân, làm sao có thể không biết đến uy danh của ngài cơ chứ?"

"Ha ha ha..." Những lời này khiến cho Ngạc Đan vốn ưa việc lớn công to nghe mà thấy vô cùng sung sướng, hắn đã hơi động lòng, chỉ là vẫn còn do dự.

Thủ lĩnh kỵ binh nhận ra hắn đang đắn đo thì vội vàng hiến kế: "Tướng quân có thể chia rẽ ba ngàn kỵ binh bọn ta ra, phân vào ba mươi sáu trại trong quân doanh, từ đó, dù bọn ta có ý nghĩ gian dối thì lực lượng yếu kém cũng chẳng làm nên tích sự gì. Huống chi ngài thu nhận bọn ta có thề đề cao tính chỉ dùng người tài, có lòng bao dung của ngài, chẳng phải phiên binh Tây Bắc sẽ càng kính trọng ngài hơn hay sao? Một bộ phận Đảng Hạng ở Đại Hạ có ý quy thuận, người Khương nghe được thanh danh của ngài cũng sẽ kéo theo gia đình, người sau tiếp bước người trước tìm đến chỗ ngài nương tựa, nói không chừng vì thấy ngài đức hạnh hơn người mà ủng hộ ngài trở thành thủ lĩnh phiên binh nữa đấy."

Nghe đến mấy chữ thủ lĩnh phiên binh, ánh mắt Ngạc Đan khẽ động, quả thật đã bị thuyết phục rồi.

Nhưng gã vẫn muốn giả vờ giả vịt một phen, lệnh cho người lui xuống, đợi hắn suy nghĩ rồi nói tiếp, mà thủ lĩnh kỵ binh kia cũng thấy tốt thì nhận.

Ba ngày sau, quả nhiên Ngạc Đan đã thu nhận ba ngàn kỵ binh Đại Hạ, chia đều ra ba mươi sáu trại quân doanh, mà lúc hắn làm xong hết việc, Lý Mẫn Học mới biết có chuyện gì đang xảy ra.

Hắn vô cùng sợ hãi, yết kiến Ngạc Đan, trình bày lợi hại: "Người Đại Hạ gian xảo ác ôn, không thể hoàn toàn tin tưởng, chia bọn chúng vào các quân doanh rất có khả năng tin tức bài binh bố trận và tình hình biên phòng sẽ bị moi móc ra, nếu như hô ứng với ngoài kia chưa biết chừng sẽ đánh cho chúng ta không kịp trở tay, mà Thiên Đô Trại còn ở gần Kinh Châu, một khi hạ chiếm cứ được Thiên Đô Trại là có thể đánh thẳng xuống vùng Kinh Nguyên. Một trăm ngàn phiên binh chỉ có hai mươi ngàn đóng quân ở Kinh Châu, Cấm quân Đại Cảnh cũng đang đóng ở Nguyên Châu, việc binh quý ở thần tốc, nếu như không kịp thời thì lâm nguy ngay trước mắt. Kính mong tướng quân hãy nghĩ lại, mau chóng Chu hồi kỵ binh Đại Hạ lại, áp giải về hậu phương."

Ngạc Đan lại cảm thấy Lý Mẫn Học chỉ đang khoe khoang tài học, tự cho là mình đúng, phủ nhận uy danh kiêu dũng thiện chiến của hắn và Ngạc gia quân, cố tình thổi phồng lực chiến của Đại Hạ nên thấy không vui, tùy tiện tìm một lý do đuổi Lý Mẫn Học đi.

Lý Mẫn Học bị đuổi ra khỏi lều chỉ huy hồn bay phách lạc: "Họa lớn đến nơi rồi mà còn không tự biết."

Hắn bình tĩnh tập trung tinh thần, chuẩn bị tìm cầu viện binh hỗ trợ.

Chỉ tiếc rằng Lý Mẫn Học chưa kịp khởi hành, giữa mùa thu, ba ngàn kỵ binh ở ba mươi sáu quân doanh bỗng nhiên nổi loạn đánh phá tan tác, nội ứng ngoại hợp với Đại Hạ do Thác Bạt Minh Châu giữ chức chủ soái, nguyên tể tướng Cao Di Sơn giữ chức phó tướng, dẫn đầu mười ngàn binh mã tấn công Thiên Đô Trại một cách mạnh mẽ.

Binh của Ngạc Đan chiến bại, bỏ trại mà chạy.

Lý Mẫn Học lâm nguy chịu khổ, tiếp nhận quyền chỉ huy, phái người đến Ninh An Trại gần nhất cầu xin sự trợ giúp, Ninh An Trại là phòng tuyến thứ hai, bất thình lình nhận lệnh, cũng vội vàng Chu tập ba ngàn kỵ binh ra chống cự.

Tướng thủ Ninh An Trại cũng là danh tướng, liều chết tranh đấu cùng với Lý Mẫn Học và không đến mười ngàn binh lực, kiên cường chống cự với một trăm ngàn binh mã Đại Hạ ròng rã mười ngày, cuối cùng thất bại thê thảm, không còn ai sống sót.

Một trăm ngàn binh mã Đại Hạ đánh thẳng xuống dưới, chiếm được liên tiếp hai phòng tuyến Thiên Đô Trại và Ninh An Trại, bao vây Kinh Châu, tình thế hết sức nguy cấp, tuy nhiên phe mình cũng tổn thất nghiêm trọng không kém, lại thêm Quốc quân bệnh nặng, cuộc phân tranh trữ vị cũng vô cùng kịch liệt, một vài triều thần còn dùng cớ hiếu chiến để tấn công Thác Bạt Minh Châu.

Thác Bạt Minh Châu chỉ đành khải hoàn hồi triều, trước đó, hắn đã gửi lời mời Ngạc Khắc Thiện tham gia đàm phán hòa bình.

Ngạc Khắc Thiện đồng ý hòa đàm.

Lão bồi thường năm trăm ngàn lượng bạc trắng, trở về cấu kết với Tri phủ Kinh Châu Mông Thiên Túng làm việc xấu, Mông Thiên Túng trình sổ con lên tấu rằng: Một trăm ngàn binh mã Đại Hạ bỗng nhiên phát động tấn công, bị tướng thủ Thiên Đô Trại Ngạc Đan và Nguyên soái quân Kinh Nguyên Ngạc Khắc Thiện đuổi giết chạy trối chết, tiếc thay Giám quân Lý Mẫn Học và tướng thủ Ninh An Trại bất hạnh chết trận.

***

Điện Văn Đức.

Nguyên Thú đế nhấc bút đỏ phê tấu, có người đến bẩm báo, nói Lâm An quận vương cầu kiến, ông cũng không ngẩng đầu lên: "Truyền vào."

Cung Tuấn bước đến, vung trường bào quỳ xuống: "Thần nhận được mật báo, Nguyên soái quân Kinh Châu Ngạc Khắc Thiện và tướng thủ Thiên Đô Trại Ngạc Đan ở Thiểm Tây giấu giếm quân tình, khiến cho Thiên Đô Trại và Ninh An Trại thất thủ, tướng thủ Ninh An Trại và Giám quân Thiên Đô Trại Lý Mẫn Học, cùng với mười ngàn tướng sĩ hai trại liều chết chống cự, dùng sự hi sinh anh dũng để trả giá cho việc trì hoãn quân đội Đại Hạ, nhưng cuối cùng Ngạc Khắc Thiện lại đồng ý đàm phán hòa bình, cầm tiền của triều đình và dân chúng Kinh Nguyên để bồi thường cho Đại Hạ, quay đầu dối trên gạt dưới, đổi trắng thay đen lại còn bịa đặt chiến công để ôm hết cho mình, thật sự là tội ác tày trời!"

Mi mắt Nguyên Thú đế giần giật: "Làm sao con biết?"

Cung Tuấn: "Giám quân Ninh An Trại tìm được đường sống từ chỗ chết, tìm đường về Phu Diên, báo cáo sự việc này cho quân Phu Diên biết, rồi tám trăm dặm khẩn cấp báo lại cho thần."

Nguyên Thú đế viết xong gác bút lên nghiên mực, sau đó ném sổ con cho Cung Tuấn: "Xem đi."

Cung Tuấn cầm sổ con lên xem, không hề bất ngờ: "Bệ hạ còn định khen ngợi Ngạc Khắc Thiện và Ngạc Đan sao... Là bổng sát hay là trấn an?"

Nguyên Thú đế: "Cả hai." Ông bước xuống dưới, nâng Cung Tuấn dậy kéo đến chiếc ghế bên cạnh: "Ngạc Khắc Thiện xuất thân danh gia vọng tộc ở Tây Bắc, cũng là thủ lĩnh phiên binh, ông ta đang có thể trấn trụ phiên binh, bên cạnh đó, phần thưởng ân huệ mà Đại Cảnh dành cho ông ta chính là thái độ đối với phiên binh. Ông và cha của ông ta không phụ quốc gia, một lòng vì triều đình, vừa ban ân vừa đe dọa phiên binh, dù sao cũng là danh tướng, nhưng không hiểu sao lão Ngạc soái lại chết bệnh, giao vị trí đứng đầu phiên binh lại cho Ngạc Khắc Thiện. Ban đầu Ngạc Khắc Thiện này còn luôn đặt quyền lợi chung lên lợi riêng, nhưng mấy năm gần đây Thông phán, Giám quân đưa đến đó đều ôm bệnh mà chết, chỉ còn mỗi một mình ông ta còn sống sờ sờ. Trẫm không phải kẻ ngu, sao lại không nhìn ra vấn đề chứ?"

Bốn nhánh binh mã Thiểm Tây ngoại trừ quân Kinh Nguyên ra, thì ba nhánh khác Cung Tuấn đều đã từng đầu quân vào, vì vậy hắn biết được sơ sơ phẩm chất của tướng lĩnh ba nhánh, chỉ chưa từng tiếp xúc với Nguyên soái quân Kinh Nguyên Ngạc Khắc Thiện mà thôi.

Nhưng Thôi quốc công đã từng nói cho hắn biết chi tiết về tính cách của Ngạc Khắc Thiện này, tổng kết lại chính là không màng đến đại sự quốc gia, việc nhỏ cũng chẳng làm nên hồn, kém xa cha của lão.

Bởi vì lạm sát người vô tội mà Ngạc Khắc Thiện bị tố cáo, Nguyên Thú đế giúp lão đặc xá vì là người có công, thật ra ai cũng biết mấy chữ người có công đó chỉ là một cái cớ mà thôi, nguyên nhân thật sự nằm ở chỗ...

"Vì một trăm ngàn phiên binh Tây Bắc sao?" Cung Tuấn lạnh lùng nói ra.

Nguyên Thú đế: "Đến giờ binh lực Tây Bắc có tổng cộng sáu trăm ba mươi ngàn, chia ra bốn nhánh ở Thiểm Tây, một nhánh ở Hà Đông, chỉ riêng phiên binh đã có một trăm ngàn, còn có hai mươi ngàn con ngựa mập mạp khỏe mạnh, để cho Đại Cảnh ta sử dụng thì như hổ thêm cánh, nếu như vứt đi không dùng thì sẽ thành họa lớn, thế nhưng phiên binh và triều đình Đại Cảnh có hơi xa cách, bọn họ thích nghe theo mệnh lệnh của thế gia vọng tộc địa phương hơn."

"Ta hiểu rõ hơn ngài nhiều." Cung Tuấn gạt bỏ bàn tay đang cầm cánh tay hắn của Nguyên Thú đế ra: "Phiên binh chỉ nghe lệnh thế gia vọng tộc ở địa phương đúng là có hơi phiền phức một chút, nhưng thế gia vọng tộc không nghe lời thì đổi đi là được, Ngạc Khắc Thiện dối trên gạt dưới, coi thường triều đình và mạng sống của tướng sĩ, đã thế thì cứ đổi một thủ lĩnh phiên binh khác thôi, dù sao ở Tây Bắc không chỉ có một thế gia vọng tộc."

Nguyên Thú đế nghe vậy thì tò mò: "Tử Uyên đã chọn được người rồi sao?"

Cung Tuấn: "Phu Châu Chiết thị."

Nguyên Thú đế vỗ tay cười to: "Đại thiện. Nghĩ giống hệt như trẫm vậy, vừa khéo Tử Uyên đang giữ quân Phu Diên, thường hay giao thiệp với Chiết thị, chi bằng nhiệm vụ thay thế thủ lĩnh phiên binh giao cho con nhé?"

Cung Tuấn đoán được Nguyên Thú đế sẽ nói đến chuyện này, nhưng hắn không già mồm cãi láo như mọi khi, chỉ đưa ra một yêu cầu: "Ta muốn tiểu lang theo quân đến Tây Bắc."

Nguyên Thú đế để lộ vẻ khó xử: "Là làm gia quyến theo quân hay là?"

Cung Tuấn: "Giám quân."

"Hoang đường!" Nguyên Thú đế liên tục phất tay: "Lý nào lại cho gia quyến làm Giám quân? Huống chi nay Chu khanh đã là Tri phủ kinh đô, lại kiêm nhiệm Ngự sử trung thừa, con điều y đi, trẫm biết đi đâu mà tìm một công khanh đại thần tài giỏi như vậy đây?"

Cung Tuấn nhếch mép xùy một tiếng, "Thôi đi, ngài để cho y một thân kiêm hai chức, vừa làm Tri phủ quản lý trị an, hình tụng luận ngục trong phủ, vừa làm Ngự sử trung thừa hay mích lòng người, làm miệt mài suốt ba năm trời, bây giờ càng lúc càng không thể về nhà, người khác không còn dám tính toán với y, thì ngài cũng đừng chơi đùa với người ta như thằng ngốc chứ, đến cả chút thời gian riêng tư vợ chồng cũng không cho nữa."

Nguyên Thú đế: "Thế thì con nạp thiếp đi."

Cung Tuấn lập tức tặng cho ông một ánh mắt khinh khỉnh, Nguyên Thú đế nổi giận đập bàn: "Con tỏ thái độ gì đó? Còn cả cái tư thế này nữa? Có phải dáng ngồi hay không hả! Ngồi thẳng lên cho trẫm!"

Cung Tuấn đứng phắt dậy cáo lui: "Không còn sớm nữa, thần phải trở về đón tiểu lang tan làm rồi." Nói xong xoay người bỏ đi, đi được vài bước lại quay về, móc hổ phù vắt trong váy dài ra đặt xuống trước mặt Nguyên Thú đế vỗ vỗ lên, nói: "Ta đã trả lại binh quyền từ ba năm trước rồi, chuyện ở Tây Bắc không còn liên quan đến ta nữa, cả chuyện phiên binh hay Đại Hạ, chi bằng ngài đi tìm lão Lục đi thì hơn, dù sao năm đó hắn cũng là đứa con trai ngoan mà ngài coi trọng, sau này không cần phải lén lút bảo Thập thúc cố tình đánh rơi nó trong phủ của ta nữa."

"Ta..." Nguyên Thú đế nghẹn lời.

Cung Tuấn cất tay, nhàn nhã đi ra ngoài: "Ngài cũng đừng ôm mộng phá hỏng quan hệ của ta và tiểu lang, ba năm trước y đã hứa hẹn đồng sinh cộng tử với ta rồi, là do ta ép y phải hứa. Ngài đấy, đừng phí tâm vô ích nữa."

Nhắc đến chuyện cản đao ba năm trước, cơn giận của Nguyên Thú dế đã tiêu tan sạch sẽ chẳng còn gì, không ngừng thở dài.

Đúng là ông vẫn chưa từ bỏ ý định, vẫn muốn đẩy Cung Tuấn lên vị trí này, nhưng chẳng hiểu sao hắn không phối hợp, luôn bày tỏ dự định sẽ ở bên cạnh Chu Tử Thư đến khi đầu bạc.

Đương nhiên là ông có thể ra lệnh ép buộc hai người hòa ly, thế nhưng khỏi đến lượt ông đuối lý, đừng nói Thái hậu sẽ hành động, cũng chẳng cần phải bàn tới cái nết của Cung Tuấn chắc chắn sẽ quậy đến long trời lở đất, thì đủ loại quan lại trên triều đình, cụ thể là Chu tế chấp cũng đã đỏ bừng mắt theo sát dốc sức liều mạng với ông rồi.

"Rõ ràng là trầm suy nghĩ vì bọn chúng, đến cả tình cảm vợ chồng bình thường cũng chỉ đậm sâu ban đầu thôi rồi sẽ nhạt dần, hai người đàn ông thì có thể hòa hợp đến chừng nào chứ? Chẳng ai hiểu được nỗi khổ trong lòng trẫm cả." Đại thái giám gật đầu đồng ý hùa theo.

Nhưng cũng có mỗi người thân cận với Nguyên Thú đế mới có thể đồng tình với quan điểm của ông, nếu như để người khác nghe thấy lời này thì chắc chắn sẽ cảm thấy ông suy nghĩ vớ vẩn, bởi suy cho cùng thì việc đế vương muốn kiểm soát tất cả mọi người cũng chỉ là mơ mộng hão huyền mà thôi.

***

Nha môn phủ kinh đô.

Ban đầu cười xởi lởi bước về phía trước: "Tiểu nhân tham kiến quận vương, ngài lại đến đón đại nhân của bọn ta à?"

Cung Tuấn: "Tan làm chưa?"

Ban đầu sẽ không ngu ngốc đến nỗi cho rằng đây là câu quan tâm hỏi thăm mình: "Đại nhân đang sửa lại công văn cuối cùng, sắp ra rồi đấy ạ." Nói xong liền nhìn thấy sắc mặt của Cung Tuấn dịu xuống, thế là biết điều nói cáo từ.

Quả nhiên chỉ nửa khắc đồng hồ sau, bóng dáng của Chu Tử Thư đã xuất hiện ở trước cổng Nha môn.

"Ta đã bảo chàng đừng đến đón ta mỗi ngày rồi mà, phiền lắm."

Cung Tuấn: "Dù sao cũng chẳng có việc gì, bây giờ ta đang nhờ tiểu lang nuôi mà." Hắn lấy khăn ướt ấm áp ra lau mặt và tay cho Chu Tử Thư, rồi lấy chén chè bạch quả bo bo giúp xua tan mệt mỏi từ trong hộp bách bảo ra, "Mau uống một ít đi, vẫn còn ấm lắm, vừa khéo."

Chu Tử Thư ngoài miệng nói Cung Tuấn đừng tới đón y mỗi ngày nữa, nhưng thật ra y đã quen thuộc với việc vươn tay ra ngước mặt lên sẵn khi đối phương lấy khăn ẩm ra lau, hưởng thụ sự phục vụ mà Cung Tuấn cung cấp cho một cách vô cùng tự nhiên từ lâu.

Ban đầu thì không có thói quen đó, nhưng góp nhặt từng ngày mãi cũng sa ngã mất rồi.

Từ ba năm trước, sau khi bị đao đâm tỉnh dậy, Chu Tử Thư liền được Cung Tuấn chăm lo như thể y là một con búp bê sứ dễ vỡ, cũng không biết là sở thích đó của hắn chui từ đâu ra nữa, đến cả quần áo ăn mặc của Chu Tử Thư đều do một tay hắn sắp xếp, còn làm rất vui vẻ là đằng khác.

"Ngụy bá đến Quảng Đông gặp bạn giang hồ của ông ấy, thư đã đến rồi, nói là muốn đi một chuyến ra biển về phía Đông Nam Á."

Năm ngoái, đột nhiên Ngụy bá nói nhân lúc còn đủ sức muốn trở lại giang hồ.

Tất nhiên Chu Tử Thư không có ý kiến gì, trước đây Ngụy bá ở lại là để chăm sóc y, hiện tại y đã có Cung Tuấn và ám vệ tùy thân ở phủ quận vương bảo vệ, đương nhiên không thể tiếp tục giữ chân Ngụy bá.

"Tốt quá." Chu Tử Thư cong mắt cười, hồi trước y nói không làm quan nữa, kết quả càng làm chức càng to, chỉ đành phải chờ đến khi lớn tuổi thêm chút nữa rồi mới từ quan.

"Nghiên Băng ở lại Lưỡng Giang vẫn ổn lắm, mấy ngày nữa là đến kì thi tỉnh rồi, tâm trạng vững vàng lắm, chắc là sẽ thuận lợi bước đến ải thi Hội thôi."

Ngày xưa đưa Nghiên Băng đến Lưỡng Giang là vì quê quán của cậu ở đó, giữa chừng lại quay về kinh, năm ngoái mới quay trở lại Lưỡng Giang, đã vượt qua được kì thi Hương, nếu như vượt qua được kì thi tỉnh nữa thì cuối năm là có thể về nhà rồi.

"Lý cô nương và Từ đại phu đã đến Nam Chiếu, sai người gửi hoa tươi và ít ngọc thạch về, cũng không biết Từ đại phu làm thế nào, đường xá xa xôi như thế mà hoa tươi và bánh đều không hỏng hóc gì."

Hai năm sau sự việc Chu Tử Thư cản đao, Lý Ý Như và Từ Minh Bích đã thành thân, không lâu sau đó trở thành một đôi phu xướng phụ tùy du sơn ngoạn thủy khắp nơi, năm nay đã chạy đến tận Nam Chiếu rồi.

"Đừng nói nữa."

Càng nói y càng ao ước, muốn được đi chơi.

"Chàng mới từ trong cung ra à?" Nhìn thấy Cung Tuấn mặc công phục chỉ khi vào cung mới mặc, Chu Tử Thư hỏi, "Xảy ra chuyện gì sao?"

Cung Tuấn: "Vẫn là mấy chuyện ở Tây Bắc thôi." Hắn thuật lại ngọn nguồn sự việc một lần.

Chu Tử Thư: "Nhưng quan hệ giữa Ngạc Khắc Thiện và phiên binh, phiên binh và Đại Cảnh như thế nào?"

Cung Tuấn nói gắn gọn: "Tây Bắc có rất nhiều Man tộc, mạnh ai nấy sống, vốn sống với nhau rất yên ổn, nhưng từ khi Đại Hạ lập quốc liền coi biên cảnh Tây Bắc thành sân vườn sau nhà, thường xuyên chạy đến cướp bóc, mà bọn họ vốn là dân du mục kiêu dũng thiện chiến, ngay từ đầu Đại Cảnh cũng rất đau đầu, khó mà đánh thắng được. Về sau phát hiện Man tộc Tây Bắc nghe lệnh thế gia vọng tộc bèn tụ họp lại huấn luyện thành quân đội, quy mô tầm một trăm ngàn binh, mà hơn trăm năm trước, Man tộc và người Đảng Hạng của Đại Hạ từng là đồng tộc, cũng cực kỳ hung mãnh, vả lại chúng quen thuộc với dân tình, địa hình và cả ngôn ngữ ở vùng biên giới hai nước... Cho nên triều đình mới ra mặt phong thưởng cho các thế gia vọng tộc, dựa vào họ để quy thuận một trăm ngàn phiên binh Tây Bắc."

Chu Tử Thư gãi đúng chỗ ngứa: "Vì Ngạc Khắc Thiện tuy thống lĩnh phiên binh nhưng thật sự không có lòng trung với triều đình Đại Cảnh, cho nên mới bị Đại Hạ chọn làm lỗ hỏng để đánh phá sao?"

Cung Tuấn cười, "Tiểu lang thông minh."

Chu Tử Thư đã nghe mãi thành quen, lúc được khen không còn quá mức phấn khích cũng chẳng còn thẹn thùng nữa, mặc kệ ai đó mỗi ngày đều khen ngợi y cũng không hề động lòng.

==

Min: Như đã hứa thì Min update chương mới nóng hổi sau khi các sĩ tử đã thi xong đây ~ mấy em bé làm bài có tốt hông đoá 😊✨

PS: Lại thêm một chiếc drama nho nhỏ nữa, và sau biết bao nhiêu sóng gió thì cuối cùng lão Cung cũng được dẫn vợ đi Tây Bắc chơi rồi =)))))))

Chương 95

"Thiên Đô Trại và Ninh An Trại cách nơi quân Kinh Châu trú đóng không xa, Lý Mẫn Học và tướng thủ Ninh An Trại chỉ dùng mười ngàn tướng sĩ chống lại một trăm ngàn binh mã của Đại Hạ suốt mười ngày, rõ ràng không đợi được viện binh mà? Là do Ngạc Khắc Thiện cố tình không phái viện binh đến, lại còn đồng ý hòa đàm, bồi thường năm mươi ngàn lượng, dối trên gạt dưới, chính là thủ đoạn hại người không lợi mình... Đến cùng là ông ta muốn làm gì?"

"Không ai biết cả. Kỷ luật của Ngạc gia quân vốn dĩ rất nghiêm minh, trung thành với triều đình, mấy năm trước khi Ngạc Khắc Thiện vừa kế vị tỏ ra rất kính cẩn nghe theo, hơn nữa mười năm nay Đại Hạ không chọn khu Kinh Nguyên làm địa điểm tập kích, triều đình dồn sự chú ý lên ba nhánh khác ở Tây Bắc và nhánh ở Hà Đông, sự hiểu biết về những thay đổi ở Kinh Nguyên cũng giảm bớt, kéo theo sự lơ là đối với Ngạc Khắc Thiện."

Hai người vốn định đi bộ về phủ, mặt trời đã ngã về phía tây, ngửi được mùi thơm bay ra từ trong quán rượu, còn nghe được cả lời vở kịch mới ra mắt, Chu Tử Thư đi không nổi nữa rồi.

"Chàng nói cho ta nghe thêm vài chuyện ở Tây Bắc đi, cả thái độ của bệ hạ nữa."

"Vào ăn một bữa nhé?"

"Không thành vấn đề."

Nói xong, cả hai vui vẻ bước vào quán rượu, hiển nhiên là quên béng rằng lão quản gia trong phủ đã chuẩn bị thức ăn xong xuôi, đang ngóng trông hai người về ăn rồi.

Bởi vì thường lui tới, ông chủ và tiểu nhị đã quen với bọn họ từ lâu, lúc đi qua nhau cũng dừng lại trò chuyện đôi ba câu.

"Tham kiến quận vương, tham kiến tiểu Chu đại nhân." Ông chủ quán rượu nói: "Tiểu Chu đại nhân, gần đây mới ra mắt hai món tráng miệng mới, gọi là lệ chi cao và trích tô, bán chạy nhanh hết, nhưng nhớ đến ngài nên ta bảo bọn họ để lại cho ngài mỗi thứ một phần, ngài thấy thế nào?" Chu Tử Thư cười đáp lại: "Đa tạ ông chủ, vô cùng cảm kích."

Ông chủ hỏi: "Không có gì, ưu đãi cho khách quen thôi. Vẫn ngồi chỗ cũ à?"

Chu Tử Thư: "Ngồi chỗ cũ. Để ta tự đi, không phiền ông chủ dẫn đường."

Ông chủ quán rượu: "Được chứ, ngài đi cẩn thận."

Chỗ cũ của bọn họ là một phòng riêng nhỏ bên cạnh cửa sổ, ngồi ở nơi này có thể ngắm cảnh sông của một trong bốn kênh lớn nhất kinh đô, khá yên tĩnh, lại còn là loại phòng cao cấp nhất, cho nên giá cả sẽ cao hơn một chút.

Tiểu nhị bưng rượu nóng chạy xuống lầu, nhìn thấy Chu Tử Thư thì lập tức hỏi chuyện: "Tiểu Chu đại nhân, vụ án xương vàng mà ngài kết án hai tháng trước ấy, thật sự là có oan hồn đến báo án lúc nửa đêm ạ?"

Cung Tuấn giấu tay bước tới: "Tử bất ngữ quái lực loạn thần*, ai nói là oan hồn báo án?"

(*) Về các hiện tượng siêu nhiên, sách Luận Ngữ của Khổng Tử có viết: "Khổng Tử không nói đến những điều kì quái, vũ lực, làm loạn và quỷ thần" (子不語怪力亂神). Trong đó cụm (怪力亂神, "Quái, Lực, Loạn, Thần") được dùng để ám chỉ những hiện tượng siêu nhiên. Trong số quái lực loạn thần, lực hay "dũng lực" (勇力) có chữ , vốn cũng xuất hiện trong tên của Yuugi (勇儀). Ngoài ra Yuugi cũng tự nhận mình là "Yuugi của Sức mạnh" (力の勇儀 Chikara no Yūgi), xác nhận sự liên hệ của cô với một trong bốn nhân tố thể hiện các hiện tượng siêu nhiên.

"Dạ," Vì là khách quen, lại nhờ có Chu Tử Thư tính tình điềm đạm ở bên cạnh, tiểu quận vương cũng trở nên bình dị gần gũi hơn rất nhiều, cho nên tiểu nhị này không cảm thấy sợ lắm, chỉ vào người kể chuyện ở dưới đường nói: "Được biên soạn ra đấy, nghe bảo còn được chép lại thành một quyển thoại bản, vang dội khắp phủ kinh đô, nội dung kỳ quái nhưng thật sự làm cho người ta thích thú đó ạ."

Án oan mà tiểu nhị hỏi là một kỳ án mà Nha môn kinh đô đã xử lý vào hai tháng trước, chuyện là một ngày nọ, có một trận sấm sét đánh trúng phần mộ tổ tiên tại nhà của một viên ngoại ở vùng ngoại ô thành Tây, con cái của viên ngoại không thể không dời mộ phần đó đi lần nữa, nhưng khi nắp quan tài bị trượt ra, phát hiện ở bên trong có đến hai bộ hài cốt, trong đó có một bộ xương vàng, hai xương cánh tay giơ lên như thế đang đẩy nắp hòm ra, có thể thấy rằng người này là người sống bị nhốt vào quan tài rồi bị ngạt thở mà chết.

Qua điều tra xác định bộ xương trắng trong đó là em trai ruột của lão viên ngoại, chết oan chết uổng, còn bộ xương vàng thì nghe nói là của người vợ cả mười lăm năm trước đã mang theo một khoản tiền bỏ chạy, nhưng hóa ra nàng ta vốn không phải bạc tình bạc nghĩa mà là bị hại chết ở trong quan tài ở phần mộ tổ tiên.

Con ruột của người phụ nữ này và viên ngoại cho rằng đây là án oan bèn chạy đi cáo quan.

Chu Tử Thư thụ lí án này, tốn một phen trắc trở mới tra được chân tướng, hóa ra năm đó viên ngoại mua từ nơi khác về một mớ hàng, không ngờ trên đường đi gặp sơn phỉ, hàng hóa bị cướp hết, khi ấy em trai lão còn đang tranh vị trí gia chủ, nếu như việc này bị truyền đi, lão sẽ thua dưới tay người em trai ruột giỏi giang, thế là lão giấu tin hàng hóa bị sơn phỉ cướp đi, sai em trai đi nhận hàng, cuối cùng đánh chết người ở nơi rừng sâu núi thẳm.

Sau đó lão hùn vốn với biểu muội tâm đầu ý hợp, lén lút bôi một loại thuốc nhuộm có thể khiến cho da dẻ toàn thân trở nên vàng vọt lên người của vợ cả, lừa vợ cả rằng bà bị mắc bệnh vàng da, vì Chu chứng tương tự, vợ cả tin là thật, không muốn làm liên lụy đến con cái nên trao trả lại của hồi môn cho viên ngoại, tin lời lão ta nói mà lặng lẽ chạy đến vùng ngoại ô dưỡng bệnh, cũng không dám nói cho cha mẹ chồng hay.

Vừa ra đến vùng ngoại ô đã bị viên ngoại đánh chết, giấu xác vào trong quan tài ở phần mộ tổ tiên, không ngờ người vợ cả chỉ bị đánh choáng chứ không chết, phát hiện mình bị chôn trong quan tài, bên cạnh còn có xác chết của em chồng, người đang sống sờ sờ chết ngạt trong tuyệt vọng.

Sau khi chết, thuốc nhuộm thấm qua da vào trong nhuộm vàng cả xương, thực tế không trợ giúp gì được cho quá trình tra án, nhưng mà một bộ xương vàng rất khác với lẽ thường, cho nên dân chúng mới tưởng tượng ra đủ chuyện kì lạ.

Lão viên ngoại giết em ruột của mình trước rồi đến vợ cả, quay trở về khóc lóc nói với cha mẹ rằng em và vợ mình đều đã ôm hết tiền hàng hóa bỏ trốn rồi, người làm ngày đó tránh được một kiếp khỏi tay đám sơn phỉ bị mua chuộc để làm nhân chứng, việc xấu chỉ nên truyền đi trong nhà không tuồn ra ngoài, cha mẹ của viên ngoại không cáo quan, để cho oan hồn uổng mạng mười lăm năm, oan khuất của hai người này cứ thế chờ đến ngày được đưa ra ánh sáng.

Sau đó viên ngoại kia kế thừa gia nghiệp, cưới biểu muội của mình, đương nhiên là sau khi chân tướng đã bại lộ thì bọn họ đều bị trừng phạt thích đáng.

Cũng nhờ ngày đó, trời đang trong xanh bỗng nhiên lại có một trận sấm sét giáng xuống, trùng hợp thay bổ trúng phần mộ tổ tiên của viên ngoại, dây thừng treo quan tài bỗng nhiên đứt lìa, đáy quan tài không vỡ mà nắp lại trượt ra, mọi người tại đó đều thấy trong hòm chứa hai bộ xương người, oan tình này vừa nhìn đã rõ.

Dường như trong tối có trời trợ giúp, sự trùng hợp diễn ra liên tiếp như vậy thì đúng là một vụ án ly kì.

Trong lòng Chu Tử Thư cũng cảm thán thế gian này đúng là có một vài việc không thể nào nhìn theo lẽ thường được, mà từ trước đến nay dân chúng luôn cảm thấy thích thú trước những án oan đặc sắc thế này, nhất nữa là khi Chu thanh thiên chủ thẩm bản án này, đương nhiên là sẽ hăng say bàn tán rồi.

Không chỉ thế, còn có cả lời đồn hài hước về chuyện nửa đêm nửa hôm oan hồn đánh trống kêu oan nữa.

Chu Tử Thư dở khóc dở cười: "Không phải như vậy đâu, đừng tin."

Cung Tuấn đe dọa: "Con người không thể làm việc trái với lương tâm, nếu không nửa đêm quỷ sẽ tới gõ cửa đấy."

Tiểu nhị sợ hãi co rúm vai lại, gã gãi đầu thầm nghĩ cũng may là mình không làm chuyện gì tàn nhẫn.

Cung Tuấn ôm vai Chu Tử Thư đi lên phòng trên tầng, cuối cùng cũng không bị ai ngắt lời nữa, hắn lại nói tiếp việc ở Tây Bắc.

"Tình hình ở Tây Bắc nói phức tạp thì cũng phức tạp, nói không phức tạp thì lại không phức tạp, không quanh quẩn lòng vòng quá nhiều như quan trường, chủ yếu là xung đột giữa ba phe phiên tộc, năm nhánh binh mã Tây Bắc và nước Hạ mà thôi. Năm nhánh binh mã thích làm theo ý mình, Hà Đông lại ở khá xa, giữa các bên có hơi lục đục, có xung đột nhỏ chỉ là chuyện thường tình, dù sao thì văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị*, trên chiến trường có vô số chiến binh gai góc cộc cằn, phần lớn không phục binh của quân khác cũng là chuyện thường."

(*) Giới võ thuật xưa nay vẫn lưu truyền câu nói "Văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị", hàm ý chỉ con nhà võ luôn độc tôn xưng hùng, không chịu ai dù kẻ ấy đứng hàng thứ hai sau mình.

"Bốn nhánh quân Thiểm Tây theo thứ tự là Thôi gia quân, cũng chính là gia đình bên ngoại của chúng ta, chủ chưởng quân Hi Hà, trấn giữ vùng Hi Hà. Tiếp đến là quân Phu Diên do ta dẫn binh trấn giữ vùng Phu Diên. Nhánh thứ ba là quân Hoàn Khánh giữ vùng Hoàn Khánh từng thuộc về Tĩnh vương, sau khi ông ta chết quân đội được hợp nhất, phái Trịnh Nguyên Linh đến nhậm chức Nguyên soái."

Chu Tử Thư hỏi: "Con trai thứ ba của Trịnh quốc công à?" Cung Tuấn gật đầu.

Chu Tử Thư hoài nghi: "Bệ hạ không sợ phủ Trịnh quốc công nắm giữ hết quyền hành sao?"

Cung Tuấn chống tay lên má nói: "Mặc dù Trịnh Nguyên Linh đã đến Tây Bắc giữ chức Nguyên soái, nhưng không hẳn có thể thật sự kiểm soát được quân Hoàn Khánh, đừng quên phó tướng là người của thiết kỵ Đường Hà, ngoài ra Trấn an sứ Thái Trọng Thăng được bệ hạ phái đến Thiểm Tây cũng có quyền nhúng tay điều động quân Hoàn Khánh, hắn vốn là người của Đông cung, luôn ra sức ngáng chân Trịnh Nguyên Linh, Trịnh Nguyên Linh đang sống tốt ở quân Ký Châu, nhưng vì chưa thỏa lòng tham nên mới nhúng tay vào Tây Bắc. Bây giờ vị trí ban đầu của hắn đã không còn nữa, sức ảnh hưởng của phủ Trịnh quốc công đối với quân Ký Châu đang yếu dần qua từng năm, đến Tây Bắc rồi, hắn và Thái Trọng Thăng chỉ có nước làm chó cắn chó thôi."

Chu Tử Thư đưa ra thắc mắc: "Trung cung và Đông cung mất được ba năm rồi, Thái Trọng Thăng vẫn có thể giữ vững lòng trung sao?"

Cung Tuấn: "Là một câu hỏi hay đấy."

Chu Tử Thư: "Cho nên?"

Cung Tuấn: "Một năm gần đây, tin tức Thái Trọng Thăng và Trịnh Nguyên Linh qua lại thân thiết được truyền ra, có điều không gây nên chuyện gì lớn nên tạm thời sẽ không động đến bọn họ. Huống chi nhiệm kỳ của Thái Trọng Thăng sắp hết rồi, đến lúc đó đổi người khác tới là hợp lẽ, việc bọn họ qua lại trong thời gian này cũng chỉ là uổng công vô ích mà thôi."

Được đấy, y có thể nghĩ ra được vấn đề, đương nhiên là Nguyên Thú đế sẽ suy nghĩ chu toàn hơn rồi.

Chu Tử Thư: "Vậy nói một chút về chuyện phiên tộc Tây Bắc và Ngạc Khắc Thiện đi, nói cái gì thú vị ấy."

Cung Tuấn suy nghĩ một chút, bèn lựa một vài chỗ hay ho kể cho y nghe, còn nói thêm một vài chính sách có liên quan đến tục lệ của địa phương, cố tình nói: "Quốc quân Đại Hạ và quý tộc vốn thuộc tộc Đảng Hạng, tổng cộng có tám bộ lạc, trong đó Thác Bạt thị là Vương tộc Đại Hạ. Phần lớn những người Đảng Hạng này là người tộc Khương di chuyển từ Tây Bắc sang, hoặc là con lai giữa các phiên tộc khác và người Tây Hạ, em cũng biết Đại Hạ tôn sùng Phật giáo mà, suy cho cùng thì phiên tộc Tây Bắc cũng có cùng nguồn gốc, vì vậy rất thờ phụng Phật giáo."

Sau đó chuyển sang những chuyện khác nữa, thẳng cho đến khi màn đêm buông xuống sao bay đầy trời, hai người mới về phù, hiển nhiên là Hải thúc chờ đợi bọn họ suốt mấy canh giờ mặt mũi đã đen thui, nhưng da mặt hai người đều dày cho nên hoàn toàn có thể làm bộ như không thấy gì.

***

Mật chỉ của Nguyên Thú đế được âm thầm ban bố xuống, lệnh cho Cung Tuấn đảm nhiệm Chế trí sứ Thiểm Tây, ngay ngày hôm đó lên đường đến Tây Bắc điều tra sự thật trận chiến Thiên Đô Trại, đồng thời phái Chu Tử Thư nhậm chức Kinh lược sứ Thiểm Tây, cũng lên đường trong ngày đến Tây Bắc chiêu an phiên tộc biên cảnh.

Hai chức Chế trí sứ và Kinh lược sứ có hơi tương tự nhau, đều là chức quan quân sự nhị phẩm được thiết lập tạm thời, tùy thời điều động, ủy nhiệm rồi lại giáng chức, cũng khá giống với chức Khâm sai, dù là chức quan mới thiết lập nhưng có cùng một loại hình.

Người trước tìm cách xuôi theo sự tình quân biên ải, người sau chống lại Đại

Hạ và chiêu an phiên tộc ở biên cảnh, đều có quyền hỏi đến cuộc chiến Thiên Đô Trại, cũng có thể điều binh khiển tướng, coi như là cần người có người, muốn quyền có quyền, Nguyên Thú đế đã rất hào phóng, không còn ôm một bụng tính toán, keo kiệt bủn xỉn như ngày ở Lưỡng Giang nữa.

Mặc dù không phải Giám quan nhưng vẫn có thể cùng đến Tây Bắc, Cung Tuấn miễn cưỡng đồng ý với sự sắp xếp này, tiếp nhận mật chỉ rồi cùng Chu Tử Thư thu dọn đồ đạc chuẩn bị xuất phát.

Chu Tử Thư thì vô cùng chờ mong, từ lúc Cung Tuấn miêu tả những nơi thú vị ở đại mạc Tây Bắc, lòng hiếu kỳ của y đã bị dẫn dắt ra mất rồi, vì vậy càng không thể từ chối.

Tuy là mật chỉ, nhưng Chu Tử Thư thân kiêm hai chức Tri phủ phủ kinh đô và Ngự sử trung thừa, bỗng nhiên bị điều đi nơi khác chắc chắn không thể dối gạt được tai mắt của các quan lại trong triều đình, thế nên hành tung của hai người bị lộ ra rất nhanh, chỉ là bọn họ không biết là hai người đã nhậm chức gì đến Tây Bắc mà thôi.

Không ai là không thức thời chạy đi hỏi, có điều đối với những người có được nhiều nguồn thông tin ở khắp nơi, không khó để đoán ra được chức quan của Chu Tử Thư.

***

Chu phủ.

Chu Bá Ung đứng trước cửa phòng đóng chặt của Tạ thị nói: "Ngũ lang không thể đảm nhiệm chức quan Tam phẩm trở xuống, đó chính là vô duyên vô cớ bị giáng chức, quan Tam phẩm ở Tây Bắc trái phải bao nhiêu chức đều đã kín người cả rồi, lại còn cố định, nếu như không thấy bị thay đổi thì cũng chỉ có thể là một chức quan được thiết lập tạm thời như Khâm sai, Chế trí sứ, Kinh lược sứ mà thôi. Không có chuyện lớn không cần lập Khâm sai, Ngũ lang không có kinh nghiệm quân sự nên sẽ không lệnh cho thằng bé làm Chế trí sứ, trái lại trước trận nghe nói Nhị vương tử Đại Hạ là Thác Bạt Minh Châu dẫn binh tấn công Kính Châu, bị Ngạc Khắc Thiện đánh chạy về, đòi hỏi không ít tặng phẩm và quân lương, nhưng việc này có hơi kì lạ, hẳn là lệnh cho Ngũ lang đi để thăm dò việc này."

Tiếng gõ mõ trong phòng ngưng lại.

Chu Bá Ung: "Dù sao thì Tây Bắc cũng là địa bàn của Lâm An quận vương, hơn nữa Kinh lược sứ có quyền có binh, không sợ bị bắt nạt, chính trị của Đại Hạ đang trong thời kì rối ren, có lẽ sẽ không phát động chiến tranh vào lúc này, Ngũ lang sẽ không gặp nguy hiểm đâu."

Một lát sau, tiếng mõ trong phòng lại vang lên, Tạ thị nhất quyết không đáp lại Chu Bá Ung một lời.

Tạ thị giận trách chồng mình, từ ba năm trước bà đã chuyển ra khỏi chủ viện, vào ở trong tiểu viện quạnh vắng suốt hơn hai mươi năm của Chu Tử Thư, ở trong đã xây thêm một Phật đường, từ đó về sau không muốn nói chuyện với Chu Bá Ung nữa.

Chu Bá Ung đợi thêm một lúc lâu nữa mới mất mát rời đi.

Chu tam lang chờ ở bên ngoài thấy thế cũng không bất ngờ chút nào, so với kẻ dễ yêu dễ giận không chính chắn của ba năm trước khi gia đình xảy ra biến cố, hiện tại gã đã trở nên trầm tĩnh và trưởng thành hơn, đánh mất đi tính ngây thơ lỗ mãng của ngày trước, dáng vẻ này thế mà lại hơi giống với Chu Trường Phong.

"Cha, nhị ca đang ở thư phòng chờ cha đến bàn bạc chút việc. Đại ca cũng đã gửi thư về rồi, nói là không cần phải điều huynh ấy về đây."

Ba năm này lưng Chu Bá Ung đã còng xuống thấy rõ, thời gian cũng khiến cho đầu tóc ông bạc trắng.

"Cha biết rồi."

Nói xong đi ngay.

Trong vòng ba năm nay, Tạ thị không muốn gặp bọn họ nữa, Chu Trường

Phong tự xin ra biên cương thủ thành, Chu nhị lang được Chu từ Lưỡng Giang về đến Tam ty làm việc, Chu tam lang cũng nhờ dốc sức liều mạng xây dựng công tích nhiều lần nên được thăng lên hai cấp, tuy nhiên vẫn làm việc trong Cấm vệ quân.

Nhà họ Chu nhìn như một cảnh tượng tươi đẹp, thực chất bên trong là ao tù nước đọng, chia năm xẻ bảy.

***

Phủ Tấn vương.

Lục hoàng tử vừa cập quan đã được ban cho vương phủ, phong Tấn vương, không còn Đông cung nữa, cho nên rất nhiều đại thần âm thầm đi nhờ vả hắn, nhưng hắn không có người chống đỡ, luôn nghi ngờ Nguyên Thú đế sẽ tính kế mình, hai năm qua không còn xuất hiện nhiều nữa.

Có điều dù cho hắn có ít xuất hiện cũng không hề thả chậm tiến độ chinh phục ví trí chí cao vô thượng kia.

Cung Tuấn và Chu Tử Thư vừa mới rời khỏi phủ kinh đô đã có người báo cáo hành tung của bọn họ đến phủ Tấn vương, mưu sĩ phân tích một phen rồi nói: "Vì vậy có thể thấy, Chu đại nhân này hẳn là đã được trao chức Kinh lược sứ, đi cùng Lâm An quận vương để điều tra cuộc chiến Thiên Đô Trại."

Cung Chiêu Vấn: "Ngươi thử nói xem phụ hoàng sẽ sắp xếp cho Cung Tuấn chức gì?"

Thật ra là không đoán ra, không phải vì chức Chế trí sứ khó đoán, mà Tây Bắc vốn là ngôi nhà thứ hai của Cung Tuấn, có không ít chức quan để mặc cho hắn chọn lựa, thế nhưng trước mắt vẫn có bất kỳ chức quan nào bị thay đổi cả.

Hơn nữa rất có thể Chu Tử Thư đã được phong danh Kinh lược sứ, cũng không thế nào phong cho hai người hai chức có tính chất không khác nhau mấy đến Tây Bắc để điều tra cùng một vụ án chứ.

Mưu sĩ nói: "Có lẽ là hắn đến Tây Bắc cùng Chu đại nhân với tư cách là người nhà."

Một mưu sĩ khác nói: "Ba năm nay Lâm An quận vương không rời khỏi Chu đại nhân một tấc nào, cái này đúng là có khả năng."

Mưu sĩ nhân cơ hội kiến nghị: "Tây Bắc trời cao Hoàng đế xa không nói, địa hình cũng phức tạp, tiểu đội binh sĩ, gián điệp, gian tế Đại Hạ thường xuyên lẻn vào biên cảnh triều ta để lén lút làm chuyện xấu, thỉnh thoảng hại đến mạng người, lỡ mà có gặp được Lâm An quận vương... Vẫn có khả năng chết bất đắc kỳ tử đấy."

Cung Chiêu Vấn: "Ngươi cũng đã nói Tây Bắc chính là địa bàn của Cung Tuấn rồi, huống chi võ công của hắn cao cường, tùy tiện giết chóc nhưng giết không được trái lại ảnh hưởng đến chúng ta nữa." Hắn vịn trán nói: "Trước tiên đừng manh động, đưa tin đến chỗ Trịnh nguyên soái đi, ông ấy biết rõ thời cơ nào hành động là tốt nhất, cũng có thể làm mà không để lại dấu vết gì?"

Tạm ngừng, hắn nói thêm: "Các ngươi nói Chu Tử Thư được phái đi tra cuộc chiến Thiên Đô Trại sao?

Mưu sĩ gật đầu: "Nghe nói Thiên Đô Trại, Ninh An Trại đều đã thất thủ, tình thế của binh Hạ cũng hết sức nguy cấp, thậm chí Nguyên soái quân Kinh Nguyên không ứng chiến mà đồng ý hòa đàm ngay."

Cung Chiêu Vấn: "Ta nhớ Nguyên soái quân Kinh Nguyên là Ngạc Khắc Thiện, thủ lĩnh phiên binh đúng chứ?" Mưu sĩ lại gật đầu.

Cung Chiêu Vấn như có điều suy nghĩ, chợt ngộ ra: "Ta hiểu rồi! Chuyến này Chu Tử Thư và Cung Tuấn đi không phải để điều tra cuộc chiến Thiên Đô Trại, cũng không phải để chiên an phiên binh, mà là phụng chỉ chuẩn bị đổi thủ lĩnh phiên binh Ngạc Khắc Thiện! Ngạc Khắc Thiện không nghe lời, cũng nên đổi một người khác lên để quản lý một trăm ngàn phiên binh, đổi người nào..." Sắc mặt hắn bỗng nhiên lạnh xuống, nhắm mắt lại, "Phụ hoàng, ngài đúng là chịu tính toán sâu xa." Mưu sĩ lo lắng hỏi thăm: "Điện hạ?"

Cung Chiêu Vấn gõ bàn nói: "Cứ phát những tin tức này ra ngoài đi, Trịnh nguyên soái biết phải làm gì." Một lúc lâu sau, hắn mới thì thầm tự nhủ: "Cũng chỉ có mẹ ruột cô, nhà ngoại cô và các cữu cữu mới là người nhà của cô, mới yêu thương cô thôi."

Mưu sĩ bước ra cửa nghe vậy cả người cứng đờ, trong lòng lo lắng, coi trọng nhà ngoại như vậy cũng không phải là chuyện tốt.

***

Kinh Châu, Tây Bắc.

Luân phiên thay đổi giữa xe ngựa và cưỡi ngựa, không nôn nóng mà đi cũng không thể kéo dài quá mức, phải tốn đến một tháng mới đến Kinh Châu.

Khi tiến vào địa phận Kinh Châu, Chu Tử Thư và Cung Tuấn đã đổi sang xe ngựa, xe chậm rì rì chạy trên đường lớn, hai bên đường đều là rừng cây khô trụi lá.

Lúc này đã bắt đầu vào đông, tiết trời chuyển lạnh, muôn sắc xinh tươi sinh động ở khắp nơi đã bị một sắc màu xám xịt phủ lên để dần thích ứng với rét lạnh, cỏ khô màu vàng úa chính là sự khác biệt rõ ràng nhất giữa mùa này và mùa thu, hạ.

Xe ngựa vẫn cứ chầm chậm đi về phía trước, một ni cô bỗng nhiên chạy vụt tới từ bên cạnh, chạy vòng quanh con đường hai ba vòng, nhìn thấy xe ngựa của Chu Tử Thư và Cung Tuấn thì hai mắt sáng lên, vội vàng lao về phía trước, vén rèm xe lên rồi chui vào, còn chưa thấy người bên trong là ai đã quỳ xuống cầu xin.

"Đằng kia có người muốn ép ta đi chịu chết, cầu xin ngài phát lòng từ bi, cầu xin thương tình để cho ta tránh tạm."

Chu Tử Thư thấy ni cô này khoảng chừng hai mươi, làn da hơi ngăm nhưng mặt mũi xinh đẹp, là một cô gái nhỏ có chút nhan sắc, thế là đoán ngay được người bắt nàng đang có ý đồ gì.

Y mớ cái rương bên cạnh ra ý bảo ni cô trốn vào trong đó, sau đó phủ một tấm vải lên trên, nhìn qua trông giống như phần ghế ngồi của xe ngựa, rồi y tiếp tục cầm sách lên xem, Cung Tuấn thì tựa người vào một bên ôm cánh tay chợp mắt, suốt cả quả trình không hề mở mắt ra.

Lúc này bên ngoài có tiếng động vang lên, đó là những tiếng quát tháo như hung thần ác sát, nói bằng thứ tiếng Chu Tử Thư không hiểu.

Bước chân của chúng càng lúc càng gần, một kẻ đứng giữa mạnh tay vung màn xe lên chui vào: "Các ngươi có nhìn thấy một..." Lời còn chưa dứt đã bay thẳng ra ngoài.

Tầm mười người bên ngoài lập tức rút đao ra vây quanh xe ngựa, kẻ cầm đầu liếc nhìn thủ hạ vừa bị đạp một cú choáng váng, thấy giữa ngực hắn có một vết lõm xuống liền biết trong xe ngựa là một người có máu mặt, thế là gã đổi sang ngôn ngữ chính thức của Đại Cảnh, lễ phép chào hỏi: "Xin hỏi kia là anh hùng vùng nào?"

Chu Tử Thư: "Khách đi đường mà thôi, không gánh nổi tiếng anh hùng."

Giọng nói ôn hòa không đồng nhất, nghe như phần tử trí thức. Người nọ lại nói: "Mới vừa rồi thủ hạ của ta mạo phạm, mong được tha thứ. Bọn ta đang đuổi theo một cô gái phạm tội, bắt nàng ta lại chuẩn bị quy án, xin hỏi anh hùng có từng gặp hay chưa?"

Chu Tử Thư bật cười, đến cả một câu cũng chẳng hỏi mà tên này đã xông vào trong xe ngựa, trông chẳng giống như người tốt chút nào, y đáp: "Ta vẫn luôn ngồi trong xe ngựa, không thấy có cô gái nào ở bên ngoài cả, nhưng lại thấy được mười mấy tên lưu manh đấy."

"Ngươi!"

Có kẻ không cam lòng, bị thủ lĩnh cản lại, gã xin lỗi thêm một lần nữa rồi nhắc lại: "Nàng ta biết rõ tội còn cố tình phạm phải, còn vượt ngục, cực kì xảo quyệt, hành vi phạm tội rất nặng, bọn ta đã đuổi bắt mấy ngày rồi, không tránh khỏi hơi nôn nóng, nếu như anh hùng có manh mối gì xin hãy báo cho, đại nhân của chúng ta sẽ ban thưởng." "Đại nhân của các ngươi?"

"Đại nhân nhà ta chính là Ngạc Đạt Mộc, phó quân chủ quân Kinh Châu, con trai của Nguyên soái quân Kinh Châu, thủ lĩnh phiên binh Ngạc Khắc Thiện!"

"Im miệng!" Tên cầm đầu làm bộ quát một câu, thật ra đang nhìn chằm chằm vào xe ngựa, "Cô gái kia có liên quan đến đại nhân nhà ta, đại nhân còn chuẩn bị bắt nàng ta đi gặp quan đây."

"Hóa ra là vậy. Ngạc gia quân Kinh Châu tiếng tăm lẫy lừng Tây Bắc, tất nhiên ta gần xa cũng biết tiếng, không lý nào lại không giúp cả." Chu Tử Thư vén rèm xe để lộ mặt, chỉ về hướng tây bắc nói: "Mặc dù ta không nhìn thấy người nhưng nghe được tiếng bước chân vội vàng của nàng, đã chạy về phía bên kia rồi."

Phong thái của Chu Tử Thư ở kinh đô đã chẳng mấy ai sánh bằng, huống chi là ở Tây Bắc hùng vĩ nhưng cằn cỗi này, ở đây càng khó có thể tìm thấy được người nào dịu dàng như ngọc giống thế này, bởi vậy nên vừa xuất hiện đã khiến cho mấy người đuổi bắt ni cô thất thần trong một cái chớp mắt.

Sau khi hoàn hồn, tên cầm đầu nói cảm ơn rồi dẫn người đuổi theo.

Chạy một lúc, bỗng nhiên người nọ dừng lại, lệnh cho hai người: "Quay trở về theo dõi chiếc xe ngựa kia đi, xem coi bọn họ có giấu ni cô kia trong xe hay không?"

Hai người đó nghe lệnh đáp lại.

Mà ở bên này, Chu Tử Thư đấm vào người Cung Tuấn vừa mới tung cước đá bay tên tự tiện xông vào xe ngựa ra ngoài mấy cái, dùng khẩu hình miệng nói: Bớt giả vờ đi nhé.

Cung Tuấn hé một mắt ra, vươn tay ra bao trọn lấy nắm đấm của Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư không rút ra được, bất đắc dĩ nói với về phía rương đồ: "Ra đây đi."

Ni cô nhanh chóng chui ra khỏi rương, cần thận dò xét ánh mắt của hai người, bị khí chất và vẻ ngoài khác biệt hoàn toàn với Tây Bắc của bọn họ khiến cho ngỡ ngàng, sau khi choàng tỉnh mới cúi đầu nói cảm ơn: "Đa tạ ơn cứu giúp của hai vị tiên sinh."

Chu Tử Thư: "Nói cô đắc tội gì với Ngạc Đạt Mộc trước đã, nếu như cô phạm pháp thật, không cần phải chờ những kẻ khác tới bắt cô, ta sẽ đưa cô đến gặp quan. Còn nếu như cô bị hãm hại, có lẽ ta sẽ cứu được ."

Ni cô ngẩng phắt đầu lên nhìn hai người, phong thái quả thật là rất không tầm thường, có lẽ tai mắt có thể xuyên trời, hai mắt nàng ta lập tức ngẩn lệ, quỳ xuống nói: "Cầu xin hai vị tiên sinh cứu giúp Nhã Thiện."

Chu Tử Thư vươn tay đỡ nàng đứng dậy: "Ngươi đừng quỳ ta, điều ta không thích nhất chính là mấy người cứ hở tí là quỳ như các cô đấy, mau đứng lên đi. Cô mà không đứng là ta không giúp đâu." Ni cô nghe lời đứng dậy, y mới nói, "Ngồi xuống đã, uống ít nước rồi nói từ từ thôi, trông mặt mũi tái mét kia kìa, đừng vội."

Tay lại bị nắm lấy, Chu Tử Thư ngạc nhiên quay đầu lại, thấy Cung Tuấn khua tay múa chân, miệng khép mở: Thương hương tiếc ngọc.

Chu Tử Thư vỗ nhẹ lên mu bàn tay ý bảo hắn đừng láo nháo, người nọ nhíu mày, vuốt ve ngón tay Chu Tử Thư, hắn nào có ý định láo nháo đâu.

Ni cô nói lời cảm ơn xong, uống miếng nước lấy hơi rồi kể những gì mình đã gặp phải: "Ta vốn là người Kinh Châu, sống ở nơi phiên tộc và người Đại Cảnh lẫn lộn vào nhau, dân số nơi đó khá cao, trị an không tốt lắm, thường có sơn phỉ xuống núi cướp bóc dê bò và phụ nữ. Năm ta mười ba tuổi suýt nữa là bị bắt đi, cha mẹ bèn đưa ta lên am ni cô trên núi ở. Sơn phỉ phần lớn xuất thân từ phiên tộc, vô cùng tin Phật, cho nên sẽ không đến am ni cô để cướp bóc, đến khi ta mười bảy tuổi, theo sư phụ xuống núi thì gặp được con trai của Nguyên soái Ngạc Khắc Thiện là Ngạc Đạt Mộc. Hắn không chỉ muốn nạp ta làm thiếp, còn muốn trắng trợn bắt ta vào phủ, cũng may sư phụ báo quan kịp thời, Tri phủ Kinh Châu kia liền nói chuyện này đến chỗ Nguyên soái Ngạc Khắc Thiện, Ngạc Khắc Thiện nổi giận, trách Ngạc Đạt Mộc và yêu cầu hắn không được ép cưới ta, mà Tri phủ Kinh Châu thì phán cho ta về nhà."

Chu Tử Thư hơi ngạc nhiên, xem ra Ngạc Khắc Thiện và Tri phủ Kinh Châu kia cũng hợp tình hợp lí, như thế làm sao có thể táng tận lương tâm khiến cho mười ngàn tướng sĩ Thiên Đô Trại uổng mạng cho được?

Cung Tuấn ghé vào tai y nói: "Ngạc Khắc Thiện tin Phật, Tri phủ Kinh Châu Mông Thiên Túng thì không có việc gì đáng lo ngại, năng lực trị phủ cũng ổn, nhưng không hiểu biết về quân sự nên hơi thiệt thòi trong xử lí việc nước, con người lại hơi cổ hủ.' Chu Tử Thư hiểu rồi.

Không phải vì Ngạc Khắc Thiện hợp tình hợp lý mà là vì tin Phật quá, không chấp nhận có người hiếp đáp ni cô, mạo phạm thần phật.

Trên mặt ni cô giàn giụa nước mắt, nàng nói: "Vị hôn phu của ta... Hắn tên Sách Tang Cát, là người phiên tộc, cũng là thanh mai trúc mã của ta, sau khi trưởng thành thì tham gia quân ngũ, ngàn dặm xa xôi suốt nhiều năm trời không hề có tin tức gì, cuối cùng năm trước mới quay về từ chiến trường nói muốn kết hôn với ta, hai nhà bọn ta đều đã bàn xong rồi, ta cũng chuẩn bị hoàn tục, không biết Ngạc Đạc Mộc nghe được chuyện này từ đâu mà cáo quan ta và Sách Tang Cát, Tri phủ Kinh Châu kia giận dữ, không cho ta hoàn tục, còn đánh què một chân của Sách Tang Cát. Sau đó ta và Sách Tang Cát vẫn còn liên lạc với nhau, bị Ngạc Đạt Mộc phát hiện nên lại cáo quan lần nữa, nói ta sỉ nhục thần phật, muốn bắt ta lại lột da để chuộc tội với trời."

"Vô lý." Chu Tử Thư tức giận mắng: "Mông Thiên Túng cũng nghĩ như vậy sao?" Ni cô gật đầu.

Cung Tuấn: "Bọn họ tôn sùng Phật, nếu như không nhờ có pháp luật Đại Cảnh trói buộc, chỉ sợ họ sẽ lập ra một loạt hình phạt tàn khốc nghe mà rợn người để trừng phạt những người làm nhục thần phật. Thục hộ* còn đỡ, Sinh hộ không phải con dân Đại Cảnh, càng không có cách nào trói buộc được, Ngạc Khắc Thiện này thật sự tin Phật, vùng Kinh Nguyên lại là địa bàn của ông ta, tất nhiên sẽ tiếp tục sử dụng một vài hình phạt của phiên tộc Sinh hộ để trừng phạt những ai vũ nhục thần phật."

(*) Thục hộ: Ngày xưa dùng để chỉ những dân tộc thiểu số đã quy thuận và có trình độ phát triển cao.

Sinh hộ là phiên tộc Tây Bắc, có người Khương, dân tộc Thổ Phiên, dân tộc Hồi Hột,... và nhiều tộc khác nữa, vì không thần phục Đại Cảnh mà cách ly với quần chúng, phiên tộc không bảo vệ biên giới Đại Cảnh đều là Sinh hộ, người phiên tộc Thục hộ thì lại bảo vệ biên giới Đại Cảnh, họ quen thuộc với nếp sống văn hóa, ngôn ngữ và ẩm thực của người Đại Cảnh hơn nhiều, không khác mấy với con dân Đại Cảnh, còn phân chia ruộng đồng với quan phủ, cần phải nộp thuế.

Chu Tử Thư biết rõ sự khác nhau, có điều y đột nhiên tò mò: "Phật mà phiên tộc tín ngưỡng có liên quan gì đến tín ngưỡng của con dân Đại Cảnh hay không?"

Cung Tuấn: "Liên hệ chặt chẽ. Tập tục kính Phật của phiên tộc là được truyền lại từ triều đại trước."

Chu Tử Thư suy nghĩ một chút rồi cười rộ lên: "Như vậy thì dễ giải quyết hơn nhiều rồi."

Cung Tuấn: "Tiểu lang có cách."

Chu Tử Thư: "Có thể thử một lần."

Cung Tuấn: "Thử thì thử, nhưng phía sau còn có hai con chuột, có muốn xử lý bây giờ không?"

Chu Tử Thư: "Là đám người lúc nãy ấy hả? Không lừa được chúng à."

Cung Tuấn: "Người có chút kinh nghiệm thì đều rất khó bị mắc lừa."

Chu Tử Thư: "Cũng phải."

Nhã Thiện khó hiểu nhìn bọn họ nói chuyện, trông như đã rơi vào mê mang, điều duy nhất nàng có thể nghe hiểu được chính là đám người kia đã quay lại rồi, thế là không khỏi sốt ruột.

Chu Tử Thư an ủi nàng: "Đừng lo lắng, đúng là ta muốn để cho bọn họ nhìn thấy cô ở trong xe ngựa của ta đấy, còn muốn cho bọn họ biết ta ở đâu, muốn bọn họ tự mang quan binh tới bắt ta đến Nha môn Kinh Châu, để cho Tri phủ Kinh Châu đích thân đến thẩm tra ta nữa." Vẻ mặt Nhã Thiện vẫn mơ hồ.

Chu Tử Thư chỉ cười chứ không nói gì nữa.

***

Hai kẻ theo dõi xe ngựa đi theo suốt đường đến tận nhà trọ, thấy hai người xuống xe ngựa, không lâu sau thì cô gái kia cũng xuống theo, lập tức chạy về bẩm báo.

"Hay lắm! Ta đã nói rồi, giữa ban ngày ban mặt, trên con đường lớn như vậy đột nhiên có một cô gái xinh đẹp xuất hiện, có tên đàn ông nào mà không rung động chứ?" Kẻ cầm đầu tức giận bất bình: "Cũng may ta có để tai mắt đi theo, bọn chúng mới không trốn được!"

"Ý ngài là hai người kia vừa ý cô gái sao? Không đến mức đấy đâu, ta thấy phong thái của bọn họ không tầm thường, có lẽ là vì thấy gai mắt thôi."

"Ngươi thì biết cái gì? Hai người đó có vẻ ngoài bất phàm, một kẻ nói chuyện hách dịch rặt giọng kinh đô chỉ e là cũng đến từ đó, dọc theo con đường đó trước sau chẳng có nổi một quán trọ nào, hai tên đàn ông chen chúc trong một chiếc xe ngựa, không có đàn bà để xoa dịu, bấy giờ có thấy heo mẹ cũng nhìn ra thành tiên đấy! Huống chi cô gái ở am ni cô này thật sự có chút sắc đẹp, cũng rất dễ hiểu khi nàng ta nhận được sự ưu ái từ người khác thôi... Ngươi nói trong xe ngựa có hai người sao? Cô gái kia đang trốn trong nhà trọ có đúng không?"

"Đùng vậy, ta nhìn thấy tận mắt mà."

Tên côn đồ này cũng hơi thông minh, đảo mắt một vòng đã biết được hai người nọ phong thái bất phàm, nếu như không cẩn thận mà đắc tội, mấy cái đầu rơi cũng không đủ, thế là quay về cõng tên bị đạp gãy mấy khúc xương sườn, cũng chính là thủ hạ của Ngạc Đạt Mộc chạy đến chỗ gã khóc lóc kể lể...

"Đại nhân nhìn xem, mấy anh em bọn ta suốt ngày suốt đêm không dám nhắm mắt giúp ngài bắt cô gái kia, vất vả lắm mới bắt được nàng ta thì lại bị hai tên dại gái khốn nạn không biết chui từ đâu ra giật mất, còn đá anh em ta một cái suýt chầu trời, đại phu nói về sau hắn không thể vận động mạnh được nữa, cho dù có ăn uống dưỡng thương cũng không thể sống được lâu hơn nữa."

Ngạc Đạt Mộc có vẻ ngoài trái ngược hẳn với người cha to con của mình Ngạc Khắc Thiện, dáng người hắn không cao cũng chẳng thấp, hơi gầy nhưng sức bật cần có đều có, mặt mũi thì giống mẹ gã, có hơi đoan chính nhưng lại bị phá hủy hoàn toàn bởi hai đầu mày nhuốm đầy tà khí.

Sắc mặt gã không tốt: "Ngươi không nói các ngươi là người của ai sao?"

"Sao mà không nói chứ? Vừa nói xong hắn đã đánh đám bọn ta không thương tiếc rồi! Đại nhân, bọn họ không đánh bọn ta, rõ ràng là đánh vào mặt ngài! Bọn họ đang giẫm đạp thể diện của Ngạc gia quân dưới chân đó ạ!"

Ngạc Đạt Mộc: "Dẫn đường, theo ta đến bao vây nơi dừng chân của những kẻ đó!"

"Đại nhân, ta, ta thấy bọn họ không giống người bình thường, nếu như là quý nhân từ phủ kinh đô đến, chúng ta không thể đắc tội."

"Có ngươi mới không đắc tội nổi ấy. Dù có là hoàng tử vương tôn thì đã đến Kinh Châu rồi vẫn phải nể mặt Ngạc gia quân ta ba phần, hai tên nghèo nàn lụn bại chẳng có nổi một tùy tùng chỉ là cái rắm thôi!" Ngạc Đạt Mộc vung tay lên: "Mang binh đi theo ta!"

"Còn nữa, đi truyền tin cho Mông Thiên Túng chuẩn bị khai đường thẩm án đi."

==


Chương 96

Sau khi đến nhà trọ, Chu Tử Thư đưa Nhã Thiện đi một vòng, trên đường đưa nàng về phòng, y hỏi một câu riêng tư: "Trước đây người yêu của cô ở trong quân đội nào thế?"

Nhã Thiện: "Hắn nói hắn thuộc đội phiên binh Chiết gia quân, quân Phu Diên dưới quyền Chiến thần Tây Bắc Lâm An quận vương, là kỵ binh thuộc một trong những nhánh kỵ binh giáp trụ." Trùng hợp vậy sao?

Chu Tử Thư nhìn Cung Tuấn.

Cung Tuấn: "Có thể làm kỵ binh giáp trụ chứng tỏ hắn là người dũng mãnh thiện chiến, có lẽ đã từng ra chiến trường, lập được nhiều quân công." Nhã Thiện gật đầu lia lịa.

Chu Tử Thư: "Nghe như lời cô nói thì hắn cũng đã có mười năm tuổi quân rồi, hẳn là phải có được hộ tịch trên đất Đại Cảnh, được phân đất cằn và chút ít tài sản."

Nhã Thiện: "Tang Cát ca nói hắn đã là Thục hộ, chỉ là còn phải đi theo trình tự, chắc là không tới nửa năm một năm nữa."

"Ta đảm bảo hắn sẽ nhanh chóng có được hộ tịch Thục hộ thôi." Chu Tử Thư cười hỏi nàng: "Nếu như ta bảo đêm nay cô hãy kết hôn với người yêu của cô đi, cô có đồng ý hay không?"

Nhã Thiện sững sốt: "Các đại nhân phía trên sẽ bắt bọn ta ra chém đầu mất..."

Chu Tử Thư: "Nếu như ta để ý đến chuyện đấy thì còn cần phải hỏi cô có đồng ý kết hôn trong đêm nay à? Cô cứ nói mình có đồng ý hay không đi, nếu đồng ý thì lập tức tìm người chạy đi báo tin cho cha mẹ cô và người yêu đi, tranh thủ thời gian mà lo liệu."

Nhã Thiện xấu hổ mà mặt mũi đỏ bừng, khẽ gật đầu.

"Vậy được, đến am ni cô với ta một chuyến trước đã."

***

Một đám quan binh bao vây bên ngoài nhà trọ, người bình thường bị dọa sợ chạy trốn hết sạch, trong nháy mắt phố xá đông đúc như trẩy hội trở thành chốn vắng vẻ yên tĩnh, đến cả ông chủ và tiểu nhị cũng tìm một cái xó để núp vào.

Ngạc Đạt Mộc đưa mấy tên thuộc hạ đắc lực theo xông vào viện sau của nhà trọ, chẳng màng quan tâm đám người Chu Tử Thư ở phòng nào mà chỉ phất tay nói: "Đi bắt người lại cho ta!"

Thuộc hạ tuân lệnh, đạp mở cửa từng căn phòng một, người bị kéo từ bên trong ra ban đầu còn mắng chửi có vương pháp hay không, vừa nhìn thấy Ngạc Đạt Mộc một thân quân trang và quan binh bên ngoài thì câm như hết ngay tức khắc.

Một tên thuộc hạ trong số đó bước đến căn phòng chính giữa chuẩn bị đạp cửa thì bỗng nhiên cửa bị mở ra từ bên trong, một người đàn ông khí phách bất phàm bước ra, chỉ liếc mắt một cái đã chặn hết những lời mà gã định quát lên lại ngay cổ họng, cả người lạnh toát như thể đang bị đàn sói hành tẩu nơi đại mạc hoang vu nhìn chằm chằm vào, cũng giống như đang chạm trán với đội quân Đại Hạ hung ác tàn bạo trên chiến trường giao tranh, thế là gã lúng túng cả buổi trời chẳng dám nói gì.

Cung Kinh Dường di chuyển tầm mắt rồi bước về phía trước, kẻ kia vốn đi theo sau hắn để tìm lỗi lại trông giống hệt như tùy tùng của hắn vậy.

"Ngươi tìm ai?"

Ngạc Đạt Mộc hoài nghi nhìn hắn, tên côn đồ lúc trước vội vàng bước lên nói: "Không phải là người khi ấy nói chuyện với tiểu nhân, nhưng thấy tướng mạo hắn không tầm thường, thân hình hiên ngang thế kia, hẳn là kẻ còn lại trong xe ngựa rồi, cũng là đồng lõa."

Cung Tuấn giấu tay cụp mắt, lười nhác hỏi: "Nói đi, vì sao đêm hôm khuya khoắt mà lại quấy nhiễu mộng đẹp của người khác hả? Bắt người hay là làm xằng làm bậy? Người ở trong viện này đều là thương nhân vân du bốn phương kiếm cơm ăn, đừng gây khó dễ cho người ta chứ."

Ngạc Đạt Mộc nghe vậy thì cười, "Ngươi đúng là một người thú vị, thân mình đã chẳng bảo vệ nổi mà còn lo lắng cho người khác à? Ta hỏi ngươi, có phải là ni cô kia bảo các ngươi giúp nàng ta trốn đi hay không?"

Cung Tuấn: "Ni cô gì? Ta không phải là chùa miếu am ni cô, lại không phải công cụ giúp người khác quy y, cũng chẳng có hứng chứa chấp ni cô hòa thượng."

Ngạc Đạt Mộc đưa mắt ra hiệu một cái liền có người định xông vào trong phòng Cung Tuấn tìm kiếm, nhưng vừa bước qua cửa đã nghe Cung Tuấn nói: "Trong phong có bao nhiêu thứ ta đều đã nhớ kỹ rồi, thể theo quy củ của phiên tộc Tây Bắc, thiếu một thứ thì lấy lại một thứ trên người ngươi, trông vẻ ngoài của đại nhân đây cũng là người phiên tộc nhỉ, vậy thì nên hiểu rõ quy củ mới đúng."

Người lục soát phòng nghe vậy thì cứng đờ người ra, mấy chuyện như vào phòng soát đồ gã đã làm không ít lần, đương nhiên là sẽ mượn gió bẻ măng rồi, đặc biệt là những tên giàu sụ đến từ nơi khác như người này, có tiền nhưng không có quyền cũng chẳng quen biết ai, bị người khác lấy mất đồ quý giá cũng không dám lên tiếng.

Không ngờ lại chẳng phải hạng lương thiện gì.

Ngạc Đạt Mộc chắp tay đi hai vòng quanh Cung Tuấn: "Hóa ra không phải là người không có đầu óc, vậy thì ngươi cũng nên biết Kinh Châu này là địa bàn của ai."

Cung Tuấn giống như cười mà không phải cười: "Ngạc Khắc Thiện danh tiếng lẫy lừng, đương nhiên ta nghe như sấm vang bên tai, còn đâu... Có mấy danh tướng thanh danh không tệ, tướng thủ Thiên Đô Trại và Ninh An Trại cùng với mười ngàn tướng sĩ liều chiến chiến đấu với một trăm ngàn binh mã Đại Hạ cũng rất giỏi giang, vang vọng Tây Bắc. Hừm... Ta nhớ tướng thủ Thiên Đô Trại tên là Ngạc Đan, nhỉ? Cái người được gọi là Thiết Bích tướng quân ấy, nghe bảo người đó là con trai của Nguyên soái Ngạc Khắc Thiện, đúng là hổ phụ sinh hổ tử."

Sắc mặt Ngạc Đan tối sầm lại, lạnh lùng nhìn Cung Tuấn.

Tay chân đứng sau gã ngầm hiểu quát lớn: "Mới khen ngươi mấy câu mà ngươi phổng mũi lên đấy à? Ngạc Đan kia chỉ là cháu trai của Ngạc nguyên soái mà thôi, Thiết Bích tướng quân gì chứ? Một tên nhát cáy bỏ thành chạy trối chết, chỉ là cái thứ có tiếng không có miếng!"

Ngạc Đạt Mộc quay phắt đầu lại trừng mắt với tên kia, kẻ đó nhận ra mình nói sai thì nhanh chóng cúi đầu lui ra.

Cung Tuấn: "Không phải là con trai của Ngạc nguyên soái sao?"

Ngạc Đạt Mộc: "Vì sao lại nói thế? Chẳng lẽ ở ngoài Kinh Châu, những người khác đều cho rằng Ngạc Đan là con trai của Ngạc nguyên soái à?"

Cung Tuấn bày ra vẻ mặt do dự, rồi làm bộ như ngộ ra tình hình không ổn lắm, hắn bèn cười giả lả: "Có lẽ là do ta hiểu nhầm rồi."

Tất nhiên là Ngạc Đạt Mộc không tin lời hắn rồi, nhưng cũng không tự rước lấy nhục mà hỏi lại, chỉ đành mặc kệ mà tin, khói mù trong lòng càng dày đặc, càng hận Ngạc Đan hơn.

Bấy giờ người đi lục soát phòng chạy đến bẩm báo: "Đại nhân, không tìm thấy người đâu hết."

Ngạc Đạt Mộc: "Đồng lõa của ngươi đã giấu ni cô kia ở đâu rồi hả?"

Cung Tuấn: "Ta nói thật cho ngươi biết vậy, ta thật sự chưa từng thấy ni cô nào cả."

"Vẫn không chịu nói thật à? Đi, theo ta đến Nha môn. Ta đã cáo quan việc này rồi, bọn ta có rất nhiều, rất nhiều nhân chứng đấy!" Ngạc Đạt Mộc phất tay: "Đưa đi!"

Bóng dáng Cung Tuấn thoắt cái xuất hiện ngay sau lưng Ngạc Đạt Mộc, rồi đi nhanh về phía trước: "Đi nào."

Ngạc Đạt Mộc kinh hãi, nhanh chóng xoay người, tăng thêm phòng bị, lại nói thân thủ của gã không yếu, nhưng từ nãy đến giờ vốn chưa thăm dò võ công của đối phương, nếu như hắn có lòng lấy đầu trên cổ gã chẳng phải sẽ dễ như lấy đồ trong túi hay sao?

Ngạc Đạt Mộc vội phất tay: "Các ngươi chắn trước ta đi, để mắt đến hắn. Để lại mấy người ở đây theo dõi, chờ đồng lõa của hắn trở về thì bắt lại ngay!"

***

Trời đã tối, Nha môn Tri phủ vẫn còn đốt đuốc sáng rực, công đường mở, hai bên là nha dịch hãy còn buồn ngủ, Mông Thiên Túng ở trên công đường lén lút ngáp một cái rồi gõ Tuấn mộc hỏi: "Dưới đường là người phương nào, trạng cáo chuyện chi?"

Ngạc Đạt Mộc tiến lên nói rõ ngọn nguồn, Mông Thiên Túng cau mày: "Lại là ni cô không biết liêm sỉ kia à?" Ầm một tiếng, Tuấn mộc lại bị vỗ vang, quát hỏi Cung Tuấn: "Nói! Có phải các ngươi thấy sắc nảy lòng tham hay không? Đến cùng là đã giấu người ở đâu rồi?" Cung Tuấn không đáp.

Ngạc Đạt Mộc dựa vào bàn xử án nói: "Hắn không thừa nhận hắn hợp tác cướp người giấu người, nhưng mà mấy tên thủ hạ của ta tận mắt nhìn thấy, còn có cả ông chủ nhà trọ và lữ khách đều có thể làm chứng."

Mông Thiên Túng bèn cho người đưa nhân chứng đến, đúng như lời Ngạc Đạt Mộc nói, bọn họ đều đã từng thấy người này và đồng lõa của hắn đưa một ni cô về nhà trọ.

Ông chủ nhà trọ còn nơm nớp lo sợ nói: "Ta nhớ kĩ lắm mà, bởi vì hai vị này mi long mắt phượng, phong thái nho nhã, gặp mặt một lần chắc chắn sẽ không quên được, huồng chi khi đó bọn họ còn đưa một ni cô có vẻ ngoài xinh đẹp đi theo, ta nhớ rõ trong hai người có một vị lang quân lịch sự đến hỏi có cửa hậu hay không nữa, rồi sau đó liền dẫn ni cô đó đi ra hướng cửa hậu. Còn đi đâu thì tiểu nhân không biết."

Mông Thiên Túng lại gõ Tuấn mộc thét hỏi: "Ngươi vẫn không thừa nhận sao?"

Cung Tuấn tỏ vẻ như vừa ngộ ra: "Hóa ra người các ngươi đang nói chính là tiểu nương tử Nhã Thiện đấy à?"

Ngạc Đạt Mộc: "Ngươi còn giả vờ gì nữa? Bọn ta liên tục hỏi ngươi đã giấu ni cô kia ở đâu rồi, miệng ngươi cứng như băng trong trời đông vậy, bây giờ đến công đường, bị nhiều người xác nhận như thế, ngươi không thể giấu giếm nữa nên mới nhớ ra sao? Chẳng lẽ trong ngày hôm nay ngươi còn thu nhận rất nhiều ni cô khác nữa à?"

"Không phải, chỉ có một người. Nhưng nàng nói nàng không phải ni cô."

"Đừng lắm lời, nàng ta mặc áo Hải Thanh chỉ am ni cô mới có, chỉ ni cô mới có thể mặc! Nàng ta nói không phải thì ngươi tin à?"

"Ta là người thiện lương, từ trước đến giờ rất dễ thành thật với người khác."

"Cút mẹ đi đồ chó má! Sao ngươi không thử ra ngoài cổng Nha môn tìm một bãi nước đái chó nhìn thử xem bộ mặt tôn quý của ngươi có hai chữ thiện lương hay không?" Ngạc Đạt Mộc vô cùng tức tối.

Giọng điệu của Cung Tuấn lành lạnh: "Ngươi không thể chỉ nhìn vẻ bề ngoài được."

Ngạc Đạt Mộc khó thở ôm ngực, đây thật sự là lần đầu tiên gã thấy một người vô liêm sỉ đến mức này.

Nổi giận đến cực điểm lại khiến mình tỉnh táo, không dây dưa với Cung Tuấn nữa, gã quay sang nói với Mông Thiên Túng: "Đại nhân cũng nghe thấy rồi đấy, hắn thừa nhận hắn và đồng lõa thấy sắc nảy lòng tham cướp giấu ni cô, rồi bây giờ lại quậy phá ở chỗ này, rõ ràng là muốn kéo dài thời gian. Mặc dù không biết hắn còn có âm mưu quỷ kế gì, nhưng tránh cho đêm dài lắm mộng, đại nhân hãy mau phán bọn họ tội dụ dỗ con gái nhà lành, không tôn trọng thần phật, cắt gân tay chân rồi đuổi ra khỏi phủ Kinh Châu đi, rồi lệnh cho người lùng bắt đồng lõa của hắn và ni cô kia khắp thành này, cũng nhanh chóng lột da ni cô kia để tạ tội với thần phật!"

Trước lời đề nghị này, Mông Thiên Túng đồng ý, ngoại trừ câu cuối cùng: "Để cho người ta trở về am ni cô là được rồi, không cần phải lột da. Như vậy đi, chờ bắt được người rồi sẽ nhốt nàng ta vào trong am ni cô, đuổi tình lang của nàng ra khỏi phủ Kinh Châu, nuôi con không dạy là lỗi của cha, con gái thất đức là tại mẹ biếng nhác, bắt cả cha mẹ của ni cô này lại đánh bằng roi, xăm chữ lên mặt, Ngạc quân chủ thấy thế nào?"

Hình phạt này không đau không ngứa, Ngạc Đạt Mộc không vui: "Không phải Mộng đại nhân thiên vị ni cô kia quá rồi sao, ông phải biết phiên trưởng thượng của chúng ta tôn sùng thật phật, mà ni cô này đã phá hỏng giáo điều nhiều lần, làm cho lòng người bất mãn từ lâu, mấy thủ lĩnh phiên tộc nổi danh thấy vậy đã đến chỗ ta cáo trạng, yêu cầu phải trừng trị ni cô này. Ông thì khen ngược, chỗ nào cũng thiên vị."

Mông Thiên Túng biến sắc, ông ta hơi cổ hủ nên bất mãn vì ni cô lén lút qua lại với đàn ông, làm tổn hại phong tục và giáo hóa, tuy vậy cũng đã từng có suy nghĩ muốn làm lắng những lời dị nghị của phiên tộc xuống, nhưng hôm nay nghe thấy Ngạc Đạt Mộc nói thế, trong lòng đủ hiểu hắn đang làm việc này để trả thù vì tình riêng, cũng có nghĩa là ông ta không thể cho qua được, thật sự là không có cách nào khác nữa.

Lúc trước có thể nhờ Ngạc Khắc Thiện ra tay là bởi vì lão tin Phật, hiện tại nếu để lão biết ni cô qua lại với đàn ông, chỉ sợ lão sẽ dùng cách còn tàn nhẫn hơn cả Ngạc Đạt Mộc nữa.

Thái độ của Ngạc Khắc Thiện sẽ quyết định thái độ của các thủ lĩnh phiên tộc khác trong phủ, nếu như vì chuyện này cho rằng Đại Cảnh không tôn trọng văn hóa tín ngưỡng của bọn họ, khiến cho Kinh Châu này rối loạn, thì sau này triều đình trách tội xuống, ông không gánh nổi trách nhiệm.

Nghĩ tới nghĩ lui một phen, Mông Thiên Túng quyết định làm theo ý kiến của Ngạc Đạt Mộc, tra hỏi Cung Tuấn: "Ngươi mau khai nơi ẩn núp của đồng lõa và ni cô kia ra, nếu không đừng trách bổn phủ dùng hết hình phạt trong Nha môn này lên người ngươi! Trông ngươi da mịn thịt mềm thế này, không chịu nổi đâu, mau nói thật đi."

Cung Tuấn đan tay vào nhau, vân vê ngón tay cái, nghe vậy thì gật đầu: "Dân không đấu với quan, ta hiểu rồi, ta sẽ phối hợp... Để ta nhớ xem là đã đi đâu nào? À, nhớ rồi, y nói là đưa ni cô quay về chỗ ở của nàng, đại nhân cũng biết nàng ta ở đâu chứ?"

"Ni cô đương nhiên là phải ở am ni cô rồi?"

"Là am ni cô nào?"

"Đương nhiên là ở... Ngươi hỏi bổn phủ hay là bổn phủ hỏi ngươi vậy? Ăn nói thiếu lịch sự, bướng bỉnh ngang tàng." Mông Thiên Túng liếc Cung Tuấn, vừa chuẩn bị phái người đến am ni cô bắt người về thì bỗng nhìn thấy ở bên ngoài có một quan binh đang đứng nhìn dáo dác.

Ngạc Đạt Mộc ra khỏi công đường, nghe lời quan binh nói xong thì nở nụ cười, quay đầu lại nhìn Mông Thiên Túng, gã suy nghĩ một chút rồi nói: "Ngươi lén lút mang thêm mấy người đến am ni cô bắt cô gái kia đi, đừng có để cho nàng ta chạy nữa! Cũng không cần phải đưa đến Nha môn, đưa thẳng về phủ của ta là được."

Dặn xong lại quay về nói với Mông Thiên Túng trong công đường: "Đại nhân, khỏi cần phải phái người sang đó nữa, tên đồng lõa của hắn đã quay về nhà trọ, bị bắt tại trận rồi, đang trên đường đến đây đấy."

Vừa dứt lời đã thấy có một bóng người bước qua khỏi bức tường bình phong trước cổng, băng qua trung đình, nhịp bước vội vàng như đang chạy vào công đường, thậm chí nha dịch còn chẳng kịp năng y lại.

Mông Thiên Túng quát hỏi: "Người đến là người phương nào, vì sao lại tự tiện xông vào công đường?"

Chu Tử Thư ngạc nhiên hỏi: "Chẳng phải đại nhân đang tìm ta à?"

"Lúc nào... Ngươi chính là đồng lõa của hắn sao?" Chu Tử Thư gật đầu.

"Có người báo ngươi lừa dẫn ni cô đi, có nhận không?"

"Không thể nhận." Chu Tử Thư thật thà giải thích: "Trong tình huống khi đó, mười mấy tên đàn ông trông như hung thần ác sát đuổi theo một người con gái yếu ớt đáng thương, cô gái đó cầu cứu bọn ta, phàm là người có lòng hiệp nghĩa thì không thể nào thấy chết mà không cứu đúng chứ? Vậy nên ta mới lừa bọn họ, giấu người đi, sau đó đưa nàng ấy về."

Mông Thiên Túng: "Nếu như là cứu người thì cứ đưa thẳng nàng ta về am ni cô là được, sao lại vẽ vời thêm chuyện lượn quanh về nhà trọ làm gì? Ngươi không lén lút qua lại với ni cô kia chứ?"

"Nói gì thế! Cô gái kia chưa từng bước một bước vào phòng ta, chỉ đi một vòng quanh sân sau của nhà trọ rồi ra ngoài từ cửa hậu, không tin thì ngươi cứ việc hỏi tạp dịch cho ngựa ăn và tiểu nhị trong nhà trọ đi, bọn họ đều có thể làm chứng."

Mông Thiên Túng hỏi lại nhân chứng, xác nhận rằng y không đưa ni cô kia vào trong phòng, thế thì lại không thể trách phạt đám người bọn họ, đúng là hiểu lầm, ý định ban đầu vốn cũng chỉ là thấy việc nghĩa thì hăng hái mà làm thôi, người cũng đã được đưa về rồi, thế là ông ta muốn thả hai người đi, nhưng Ngạc Đạt Mộc lại lên tiếng ngăn cản.

"Bây giờ bọn họ muốn nói cái gì thì cứ mặc kệ cho bọn họ nói, nhưng nhỡ cô gái kia vốn không ở am ni cô, hai người này bắt tay nói dối lừa gạt đại nhân với ý đồ thoát tội, bước ra khỏi Nha môn thì chẳng phải biển rộng trời cao mặc chim bay hay sao?"

Ngạc Đạt Mộc đưa lưng về phía Mông Thiên Túng, cong môi nở nụ cười đầy tính toán.

Dù sao thì người của hắn đã đến trước một bước để bắt cô gái kia đi rồi, đến khi người của Mông Thiên Túng đi lục soát, không nhìn thấy nàng ta sẽ hỏi tội hai người này, tội danh là gì còn chẳng phải để cho gã mặc sức định đoạt hay sao?

Cô gái kia, gã phải bắt được trong tay!

Đắc tội người của gã cũng không thể bỏ qua!

Quả nhiên Mông Thiên Túng nghe theo lời gã, lệnh cho hai người Chu Tử Thư ở lại trước, sau đó lệnh cho người đến am ni cô tìm ni cô Nhã Thiện.

Một hồi lâu sau, người của Mông Thiên Túng xuất hiện ở ngoài công đường, vẻ mặt lo lắng. Lòng Mông Thiên Túng tràn ngập nghi ngờ rằng có chuyện không may, hỏi tới mới biết là không tìm thấy người đâu cả.

"Đã tìm khắp nơi chưa?"

"Tìm rồi ạ! Nói là người được đưa đến am ni cô chờ không đến một khắc đồng hồ, rồi lại đưa người đi! Còn nói..."

"Cô gái kia đã hoàn tục rồi!"

Mông Thiên Túng vô cùng tức giận: "Ngươi lên công đường nói ra hết những gì ngươi thăm dò được ra đây!"

Cấp dưới nghe lệnh lên công đường thuật lại lần nữa, Mông Thiên Túng cau mày nói: "Không thể nào. Lúc trước nàng ta đã nói rõ trước mặt bổn phủ và Ngạc nguyên soái rằng nàng ta tuyệt đối không hoàn tục chỉ để từ chối lời cầu hôn, vì vậy lần này nàng ta lén lút qua lại với đàn ông còn muốn hoàn tục gả cho người khác nên mới bị bổn phủ từ chối, chọc cho phiên tộc tức giận bất bình." Ông ta hỏi lại Chu Tử Thư: "Ngươi đã giở trò gì để cho nàng ta hoàn tục? Là dùng quyền ép người, đe dọa dụ dỗ hay sao?"

Chu Tử Thư: "Đại nhân cảm thấy rằng quyền thế của ta ngập trời ư?"

Mông Thiên Túng: "Thấy phong thái của ngươi bất phàm, trông như có chút quyền hành trong tay, nhưng mặc kệ ngươi có là ai đi nữa, dù ngươi có là vương tôn quý tộc vùng nào đi nữa, đã đến Kinh Châu thì phải tuân theo quy củ! Bổn phủ làm việc theo quy trình, toàn bộ các biện pháp được quyết định đều cân nhắc dựa trên sự bình yên của Tây Bắc, kiên quyết không thẹn với lương tâm. Ngược lại là ngươi, đã lên đến công đường còn nói dối, mưu toan lừa gạt bổn quan, xem ra không cho nếm trải chút gì đó thì không nói nổi một câu thật lòng đây mà. Nha đâu..."

"Chờ đã. Đúng là ta đã cứu được người, đưa từ nhà trọ về đến am ni cô, nhưng sau đó đã chuộc cô ấy lại rồi."

"Chuộc, chuộc lại?" Mông Thiên Túng há hốc mồm ra.

Chuyện gì thế này?

Ngạc Đạt Mộc giật lấy Tuấn mộc đập một cái giận dữ hỏi: "Ta chỉ từng nghe đến chuyện chuộc tiện tịch hoặc chuộc kỹ nữ, ni cô chỉ có thể hoàn tục, chưa từng nghe nói đến chuyện ni cô cũng có thể được chuộc lại, ngươi đang làm trò trống gì đấy?"

"Vậy là kiến thức của ngươi nông cạn rồi. Lương Vũ đế Nam Lương sùng Phật tin Phật, chỉ hơn chứ không kém phiên tộc, xuất gia bốn lần thì hết ba lần bị đám đại thần tiêu một khoản tiền lớn để chuộc lại, tiền triều còn có hai Hoàng phi đang xuất gia làm đạo cô thì bị chuộc về tiếp tục gả đi làm vợ người ta. Hoàng đế Hoàng phi còn có thể, vì sao ni cô Nhã Thiện kia không thể được chuộc lại? Huống chi ni cô tuổi đôi mươi rung động mở lòng là chuyện thường tình, đến Phật tổ còn giúp người hoàn thành nguyện vọng, cho phép ni cô đã xuất gia được hoàn tục, sao đến Kinh Châu chỗ các ngươi thì lại không được nữa hả? Lui một vạn bước mà nói, diện tích lãnh thổ Tây Bắc rộng bao la nhưng dân cư không tập trung dày đặc như ở Trung Nguyên, nơi này lại là vùng biên cảnh, cần nhân thủ chống cự trước kẻ thù bên ngoài, việc nào việc nấy đều cần người, dân cư chính là của cải, không cho người ta kết hôn thì làm sao phát triển dân cư? Quản trời còn muốn quản cả hôn sự của một ni cô, ngại bản thân mình rảnh rỗi quá à?"

Ngạc Đạt Mộc vốn không tin thần phật, cũng chẳng cần biết lý lẽ gì cả, kẻ nào mắng trước kẻ đó đúng.

"Già mồm cãi láo! Mông đại nhân đừng để bị lừa gạt, Phật giáo phiên tộc ta căn bản không có chuyện chuộc lại như lời kia."

Chu Tử Thư: "Phật giáo phiên tộc của ngươi được truyền lại từ Trung Nguyên ngày xưa, sao lại không nhận tổ tiên vậy?"

Mông Thiên Túng đau đầu nhức óc, tìm sư gia đến hỏi xem chuyện chuộc người mà Chu Tử Thư nói có phải là sự thật không.

Sư gia nhỏ giọng nói: "Y nói không sai, theo lý quả thật có thể chuộc người. Ni cô kia ban đầu thề tuyệt không muốn hoàn tục, cho nên nàng ta không thể hoàn tục, nhưng nếu như có người đến chuộc lại thì dù có là Ngạc nguyên soái cũng không thể nói gì, chứ đừng nói chi đến tất cả các thủ lĩnh phiên tộc Tây Bắc."

Mông Thiên Túng không muốn lấy mạng ni cô, không cho phép nàng hoàn tục cũng chỉ vì đối phương đã từng thề trước Phật và tất cả thế gia vọng tộc rồi, sợ phán cho nàng hoàn tục sẽ chọc giận phiên tộc, nhưng khi có một cách giải quyết hoàn hảo xuất hiện ngay trước mặt, ông ta cũng chưa thấy vừa lòng.

Dù Chu Tử Thư chuộc ni cô là để dùng nàng làm ấm giường, hay là giúp nàng hoàn thành nguyện vọng, cũng đều khiến cho ông ta thấy khó chịu.

Đùa bỡn ni cô? Cưới ni cô làm vợ?

Tổn hại phong tục giáo hóa.

Có điều ông ta vẫn phán: "Lời y nói đúng rồi, bổn phủ chỉ có thể phán y vô tội thả ra thôi, về phần ni cô kia, nếu như y đã chuộc được người, xử lý như thế nào là chuyện của y."

Nói xong thì chuẩn bị thả người về nhà.

Ngạc Đạt Mộc còn chưa chịu từ bỏ ý định: "Tiểu ni cô kia hoàn tục thì có thể lập gia đình rồi, ta sẽ cầu ngươi cho nạp nàng làm thiếp, Tri phủ đại nhân làm chứng nhé." Gã bước lên hai bước, hạ giọng đe dọa: "Người xứ khác, biết điều chút đi. Nếu như không giao ni cô ra... Ta sẽ không đối xử với ngươi như vậy, nhưng tình lang của nàng và cha mẹ của tình lang nàng có lẽ sẽ không xong đâu. Bọn họ đều là Sinh hộ phiên tộc, không thuộc quyền quản lý của triều đình Đại Cảnh, dù có là Hoàng đế cũng không thể nhúng tay vào."

Chu Tử Thư làm bộ ngạc nhiên: "Hóa ra tướng quân đây làm nhiều chuyện như vậy chính là để lấy nàng sao? Ngài nói sớm dữ vậy! Ngài là thế gia vọng tộc, nếu như cô nương Nhã Thiện theo ngài thì sẽ được sung sướng trong vinh hoa phú quý cả đời, nhưng mà... Hầy! Ta vừa gả nàng đi rồi. Sao ngài không nói trước? Thế chẳng phải ta đã cản đường tương lai của ngài rồi sao? Hầy."

Ngạc Đạt Mộc và Mông Thiên Túng đều kinh ngạc, "Ngươi vừa chuộc người ta đã gả đi ngay à?"

"À, tình chàng ý thiếp rõ rành rành, củi khô lửa bốc, không thể chờ đợi được nữa, ta muốn ngăn cũng không ngăn nổi."

"Ngươi!" Ngạc Đạt Mộc giận dữ trợn mắt nhìn y.

Lúc này có một tên thuộc hạ đến bên cạnh gã thì thầm vài câu, Ngạc Đạt Mộc đổi giận thành vui: "Ngươi bảo ngươi gả ni cô kia cho ai?"

"Thì gả cho người yêu của nàng, tên là Sách gì đó?"

"Sách Tang Cát?"

"Là hắn."

Ngạc Đạt Mộc xoay người nói với Mông Thiên Túng: "Bẩm Tri phủ đại nhân, ta nhớ rõ luật pháp Đại Cảnh quy định, con dân Đại Cảnh không được kết hôn với ngoại tộc! Nếu như tự tiện kết hôn thì nam nữ đều sẽ bị xăm chữ, bị tịch thu tài sản, buộc phải hòa ly, hỏi tội người nhà, nhẹ thì phạt đánh bằng roi, nặng thì lưu vong."

Mông Thiên Túng gật gù: "Đúng là có lệnh cấm này. Ngươi cho rằng mình giúp người ta hoàn thành nguyện vọng, thật ra không biết rằng mình đã hại hai gia đình."

Đại Cảnh không giống với tiền triều, việc cấm thông hôn với ngoại tộc là hoàn toàn chính xác, vì để làm gương tốt nên luôn từ chối cho các công chúa hòa thân.

"Ngoại tộc không phải là con dân Đại Cảnh ta, cũng không phải phiên tộc. Nhưng phiên tộc còn chia ra Sinh hộ, Thục hộ, Thục hộ cho Đại Cảnh ta phần đông dân số, không phải ngoại tộc, có thể thông hôn."

Ngạc Đạt Mộc bắt lấy sơ hở rồi nói: "Ngươi nói không sai, nhưng Sách Tang Cát kia vẫn là người Sinh hộ, là ngoại tộc!"

"Bây giờ thì không phải nữa rồi." Cung Tuấn chủ động lên tiếng, lấy một bức thư ra, "Đây là thư do Đô ngu hầu Thôi tiểu tướng quân tự tay viết, căn cứ vào quân công mười năm của Sách Tang Cát mà ban thưởng và cấp hộ tịch."

"Mau mang lên đây cho ta xem thử." Mông Thiên Túng cầm lấy thư xem cùng sư gia, hai người thương lượng một phen, xác nhận dấu ấn trên thư đúng thật là từ con dấu của tướng lĩnh quân Phu Diên rồi, sắc mặt mới hòa hoãn trở lại: "Đã có Thôi tiểu tướng quân phân phó, bổn phủ sẽ chọn ngày làm thủ tục chứng thực nhập hộ cho Sách Tang Cát. Ni cô kia đã được chuộc thì chính là người nhà tục, tùy ý gả lấy, Sách Tang Cát là người Thục hộ, tất nhiên có thể thông hôn với người Đại Cảnh, không hề phạm pháp."

Ngạc Đạt Mộc vừa nghĩ ra được mưu kế thì mới phát hiện ra người ta đã lấp kín sạch sẽ đường đi trước mặt gã rồi, đổi lại là người khác, bị ai coi thường cũng được, nhưng gã không phải là người bình thường, chịu ấm ức mà không được giải tỏa thì xứng đáng là đệ tử đứng đầu phiên tộc bước ra từ thế gia vọng tộc Tây Bắc hay sao?

Thấy sắc mặt Ngạc Đạt Mộc sa sầm xuống, không nén được sát ý, Mông Thiên Túng bèn nhắc nhở: "Trên công đường đừng nóng vội phá chuyện, nếu như để Ngạc nguyên soái biết thì sợ là khó mà kết thúc."

"Bớt lấy cha ra dọa ta đi! Mông Thiên Túng, ta nhịn ông lâu lắm rồi đấy, đừng nghĩ rằng ta không biết ông vì nể mặt cha mà thiên vị Ngạc Đan, cho nên ở đâu cũng gây khó dễ cho ta, nhưng mà suy cho cùng thì ta mới đường đường chính chính là con trai trưởng của nhà họ Ngạc, phía sau mẹ ta là ba thị tộc hùng hậu mạnh mẽ nhất trong số tám thị tộc lớn của phiên tộc Tây Bắc, ngày nào mẹ ta còn, cha ta sẽ không dám nhận Ngạc Đan! Ta muốn thay con chó không nghe lời là ông đi, chỉ cần ngoắc tay một cái thôi là được đấy." "Ngươi..." Mặt mũi Mông Thiên Túng trắng bệch, vừa tức vừa sợ.

Ngạc Đạt Mộc không muốn nhìn đến ông ta nữa, quay đầu dán chặt mắt lên người Chu Tử Thư và Cung Tuấn, ngoài mặt cười nhưng trong lòng thì không: "Ngạc Đạt Mộc ta đây từ khi sinh ra đến nay chưa bao giờ vấp phải đinh, chúng ta cứ từ từ mà tới."

Cung Tuấn: "Luôn kính cẩn chờ đợi."

Ngạc Đạt Mộc hừ lạnh một tiếng, phất tay áo bỏ đi.

Công đường trở nên yên tĩnh, Mông Thiên Túng trả thư về rồi hỏi thăm: "Hai vị quen biết Thôi tiểu tướng quân sao?" Cung Tuấn: "Không quen."

Chu Tử Thư: "Có gặp vài lần."

Mông Thiên Túng cười xòa, nói với bọn họ: "Vừa rồi hai ngươi cũng đã nhìn thấy dáng vẻ ngang ngược phách lối của Ngạc Đạt Mộc rồi đấy, đến Tri phủ một châu như ta mà hắn cũng dám đe dọa, đúng là trước đây hắn muốn ép nạp ni cô kia vào phủ làm thiếp nhưng thất bại, có biết vì sao không? Đương nhiên là bởi vì Nguyên soái Ngạc Khắc Thiện và các thủ lĩnh thị tộc phiên tộc đều cảm thấy hành động này là sỉ nhục thần phật, Ngạc Đạt Mộc không thể không khuất phục. Ta cũng không đành lòng để cho nàng ta còn trẻ mà phải chịu chết thê thảm trước những khuôn mẫu xưa cũ kia, có thể giúp được thì sẽ giúp, chỉ tiếc năng lực có hạn..."

Ông hạ giọng nói: "Tuy nói chuộc người là việc làm có tiền lệ, theo lý thì không có cách nào truy cứu được, nhưng Ngạc Khắc Thiện kia là người bảo thủ, sẽ cho rằng các ngươi dùng sơ hở để gây hấn với Ngạc gia quân, làm lung lay sức ảnh hưởng của thế tộc họ Ngạc trong phiên tộc, ta thấy hai vị chẳng giống với người không quyền không thế chút nào, nhưng phép vua thua lệ làng, hãy nhanh chóng rời đi đi cho an ổn."

Cung Tuấn và Chu Tử Thư nhìn nhau, Chu Tử Thư chắp tay nói: "Đa tạ Mông đại nhân đã nhắc nhở, bọn ta cũng không ở lại lâu, mấy ngày nữa sẽ đi. Nếu như vụ án đã kết thúc rồi, vậy ta xin cáo lui trước."

Mông Thiên Túng gật đầu lia lịa, phất tay cho bọn họ đi.

Hai người đi song song về phía trước, đi đến trung đình Nha môn.

Chu Tử Thư nhỏ giọng nói: "Lúc trước chàng nói ông ta làm việc nước không tệ, việc quân không được, hơi thiệt thòi trong giải quyết việc lớn quốc gia nhưng không ngại việc nhỏ ta còn không tin nổi, bây giờ xem ra đúng là không đánh giá sai."

Cung Tuấn: "Ông ta đã đoán ra thân phận của chúng ta từ trước, không dám đắc tội, cũng không thể đắc tội với Ngạc Đạt Mộc, cho nên mới ra vẻ như làm theo lẽ công bằng, thật ra suốt cả quá trình ông ta cứ để mặc cho bản thân bị dắt đi, bên nào có lý thì theo bên ấy, đứng hẳn sang một bên thì sẽ không bao giờ phạm sai lầm, dù sao thì đến cuối cùng, là Ngạc Đạt Mộc hay Ngạc Khắc Thiện thì chín phần mười thù hận cũng sẽ hướng về chúng ta thôi."

Chu Tử Thư: "Đắc tội Ngạc Đạt Mộc xong bèn tố khổ để lấy lòng chúng ta, không hồ đồ quá mức, cũng không quá xấu xa, càng không phải là một kẻ xem mạng người như cỏ rác. Quân Đại Hạ đột kích, Ngạc Khắc Thiện không phái quân tiếp viện mà còn chấp nhận đàm phán hòa bình, Mông Thiên Túng không phản đối có lẽ là vì đã bị Ngạc Khắc Thiện thuyết phục, nói gì đi nữa thì mấy năm gần đây phương châm của Chu đình đối với Đại Hạ cũng chính là lấy hòa đàm làm chủ."

Cung Tuấn: "Vẫn còn mơ hồ lắm. Đến một châu phủ yên bình làm một tên quan nhàn rỗi coi như cũng ổn rồi, làm quan ở một phủ cạnh biên giới, ít nhiều gì cũng phải biết bày binh bố trận, lúc không còn tướng lĩnh hoặc gặp phải một tên tướng lĩnh hồ đồ thì mới biết đường xông lên, không đến nỗi phải chịu tổn thất vô cùng nghiêm trọng."

Mười ngàn tướng sĩ Thiên Đô Trại và Ninh An Trại bỏ mạng, không phải Cung Tuấn không phẫn nộ, chỉ là chưa phải lúc.

Có lẽ Mông Thiên Túng có được chiến tích không tệ nên mới được điều đến Kinh Châu, hơn nữa vùng Kinh Nguyên đã không bị tấn công nhiều năm, cho nến mới ngồi an ổn trên cái ghế Tri phủ này đến tận bây giờ.

Chu Tử Thư: "Dấu đóng trên thư kia, ông ta không nhận ra là của chàng sao?"

Cung Tuấn: "Bởi vì nó khá giống với con dấu quan, ta đóng rất nhạt, ánh sáng trên công đường không quá sáng, dường như thị lực của Mông Thiên Túng cũng không tốt lắm, có lẽ ông ta không nhận ra được dấu quan này, nhưng có khả năng đoán được ta mới là chủ nhân của nó." Chu Tử Thư: "Đoán chàng là Thôi phó quan à?"

Cung Tuấn: "Ta chỉ nói đại thế thôi, Mông Thiên Túng thấy được con dấu rồi, dù có biết rõ thân phận của ta cũng không dám lớn tiếng ồn ào."

Chu Tử Thư: "Nhất định là Ngạc Khắc Thiện sẽ hỏi đến việc này, tin tức phủ kinh đô phái Kinh lược sứ đến Thiểm Tây cũng sẽ đến tai tướng lĩnh các vùng, ông ta sẽ cho người đi thăm dò thái độ của ta."

Cung Tuấn: "Khi nhắc đến Ngạc Đan, giọng điệu của Ngạc Đạt Mộc không giấu nổi ghen ghét và kiêng dè, chứng tỏ Ngạc Đan được Ngạc Khắc Thiện thiên vị nhiều hơn trong lời đồn, thậm chí có khả năng sẽ thay thế Ngạc Đạt Mộc trở thành thủ lĩnh phiên tộc kế tiếp."

Chu Tử Thư: "Thế gia vọng tộc phía sau Ngạc Đạt Mộc tuyệt đối sẽ không đồng ý." Rồi y nở nụ cười: "Vậy thì sẽ thú vị lắm đây, Ngạc Khắc Thiện đoán ra được thân phận của ta rồi, tất nhiên cũng có thể đoán được những điểm đáng ngờ về Thiên Đô Trại đã được loan rộng ra ngoài, bệ hạ hoài nghi ông ta, hoài nghi Ngạc gia quân, nói không chừng còn sẽ hoài nghi cả phiên tộc, ta chính là người đến đây để điều tra việc này. Không biết tám thị tộc lớn của Tây Bắc biết được bao nhiêu chi tiết trận chiến Thiên Đô Trại, cũng không biết ai sẽ đến tìm ta trước đây nữa."

Cung Tuấn lười nhác đáp lại: "Thì phải đợi thôi. Mà sao ta cứ cảm thấy tiểu lang đang cười trên nỗi đau của người khác ấy nhỉ?"

Chu Tử Thư tủm tỉm cười: "Chuẩn bị làm một cây gậy ngoáy phân* đâm bị thóc chọc bị gạo mà, cô nương mười tám tuổi lần đầu lên kiệu hoa, kìm lòng không nổi, có hơi ngượng ngùng."

(*) Gậy ngoáy phân (搅屎棍): Ám chỉ những người hay quấy nhiễu, gây xích mích, làm hỏng chuyện tốt của người khác, làm người khác ghét bỏ.

Mặt không đỏ không thở gấp, nào có nhìn thấy được.

Cung Tuấn suy nghĩ: "Ấy vậy là hồi kết hôn động phòng em không ngượng à."

"..." Chu Tử Thư: "Nét đẹp tâm hồn nằm ở trong tim."

***

Đến khi bóng dáng của hai người biến mất khỏi bức tường chắn ở cổng, khuôn mặt tươi cười của Mông Thiên Túng mới sụp đổ, sư gia hỏi vì sao lại khách sáo với hai người nọ như vậy, chẳng lẽ thân phận của bọn họ đặc biệt thật sao?

"Ban ngày bọn họ vừa gặp được ni cô kia, mới đến tối mà đã nhận được thư của Thôi tiểu tướng quân ở Phu Châu xa xôi rồi ư? Ta thấy cái người cao hơn đó thực chất chính là Thôi tiểu tướng quân đấy! Còn cả người bên cạnh hắn nữa, y hiểu rõ luật pháp Đại Cảnh như thế, còn quen thuộc với quá trình thẩm tra xử án trên công đường, suy nghĩ nhanh nhạy, khéo ăn nói giỏi phản biện, đặc biệt là luôn lo cho những bất công của thiện hạ, vì dân chờ lệnh, còn có cả hành động đánh úp này nữa, cách thức rất riêng biệt, khiến cho ta nhớ tới một vị đại nhân."

Sư gia hỏi: "Vị nào?"

"Tiểu thanh thiên nổi tiếng khắp Đại Cảnh," Mông Thiên Túng cau mày, một chút cảm giác nguy cơ xông thẳng lên đầu: "Chu Tử Thư."

Chương 97

Ngạc Đạt Mộc đã ghi hận, Mông Thiên Túng không muốn bị kiếm cớ trả thù nên vội vàng đến thăm hỏi Ngạc Khắc Thiện, báo cáo sự thật bản án của ni cô và suy đoán của ông ta ra.

Ngạc Khắc Thiện mặc thường phục, vạt áo bị sương sớm thấm ướt có lẽ vì mới đi đâu đó về.

"Ngươi nói ni cô không hoàn tục có thể được chuộc lại sao?"

Điều mà Chu Tử Thư quan tâm hơn cả Kinh lược sử quả nhiên là có liên quan đến Phật.

Mông Thiên Túng nuốt nước bọt, cẩn thận đối đáp hơn nữa: "Đúng là có tiền lệ thật, theo lý không thành vấn đề. Nhưng, nhưng mà Lương Vũ đế xuất gia vốn là chuyện hoang đường, còn Hoàng phi tiền triều xuất gia được chuộc lại để phục vụ chuyện gối chăn bẩn thỉu, làm nhục thần phật, nếu như các thủ lĩnh phiên tộc không chấp nhận thì có thể cãi lẽ khéo léo một chút, yêu cầu tách ni cô và tình lang kia ra, sau đó xử phạt."

Ngạc Khắc Thiện vỗ tay cười to: "Chà, đây đúng là chuyện tốt mà, hà tất phải gây khó dễ cho người có tình? Tính về nguồn gốc, Phật giáo Trung Nguyên chính là tổ tông của Phật giáo phiên tộc chúng ta, bọn họ có thể chuộc người xuất gia thì đương nhiên chúng ta cũng làm được. Ha ha, ha ha ha... Thú vị thật, sao ta lại không biết điển cố Lương Vũ đế xuất gia bốn lần được chuộc lại nhỉ? Làm sao không nhớ chuyện Hoàng phi tiền triều nhỉ? Những chuyện tình lãng mạn của anh hùng mỹ nhân này cần phải được ca tụng mới đúng!" Mông Thiên Túng bối rối.

Phản ứng này kì lạ thật.

Ai ở Tây Bắc cũng biết Ngạc Khắc Thiện sùng kính Phật nhất, khi cháu gái của ông ta xuất gia làm ni cô còn có lòng xây một cái am ni cô cho nàng, sao bây giờ lại ca tụng việc chuộc ni cô cơ chứ?

Thôi kệ, dù sao cũng không tức giận, không truy cứu, không có án mạng nào đã là chuyện tốt lắm rồi.

"Nhưng mà triều đình phái Kinh lược sứ, lại còn là thanh thiên nổi tiếng đến vùng Kinh Nguyên này, ngoại trừ hoài nghi trận chiến Thiên Đô Trại ra thì không còn nguyên nhân nào khác, có phải là vì chuyện mờ ám trong trận khi ấy đã được tiết lộ ra ngoài rồi bị kẻ nào mật báo hay không?"

Nhắc đến trận chiến Thiên Đô Trại, Mông Thiên Túng bèn hối hận với quyết định ban đầu.

Khi chiến báo Thiên Đô Trại được truyền đến, không phải Mông Thiên Túng không điều binh đến giúp, chỉ là trong lúc chỉ huy có sai sót.

Lúc đó ông ta nghĩ Thiên Đô Trại sẽ nhanh chóng bị đánh chiếm, không bằng đến Ninh An Trại mai phục trước, kết quả là nhẹ dạ cả tin vào lời cầu đàm phán hòa bình của Thác Bạt Minh Châu mà đầu hàng.

Cũng vì Đại Hạ thường xuyên xâm phạm vào biên giới với quy mô nhỏ, đến cuối cùng đều lấy cớ hòa đàm để đạt được thứ tốt hơn, bản chất của hành vi này là tống tiền.

Nếu như không quá đáng mà còn được triều đình đồng ý, bọn họ còn có thể nhân cơ hội mua thêm ngựa tốt từ Đại Hạ vào.

Mông Thiên Túng đinh ninh rằng lần này chúng vẫn đến tống tiền cho nên đồng ý hòa đàm ngay, nhưng tướng Ninh An Trại ở lại thủ trại khi ấy là một người chính trực, không chỉ từ chối mà còn xông xáo nhào vào trận chiến đẫm máu, mãi đến khi binh mã Đại Hạ phá tan Ninh An Trại tràn xuống Kinh Châu, ông ta mới biết bên địch có chuẩn bị rồi mới đến, không phải là chỉ đánh chơi chơi.

Sau đó chiến tranh được phát động, nhưng Ngạc Khắc Thiện cho rằng người ngựa trong thành chưa đủ, binh mã Đại Hạ cũng đã mệt mỏi sau hai trận Thiên Đô Trại và Ninh An Trại rồi, hơn nữa nội bộ nước Hạ đang hỗn loạn cho nên sẽ gửi lý do đầu hàng và hòa đàm đến sớm thôi, thuyết phục được Mông Thiên Túng khóa thành không đánh.

Tuy rằng phủ Kinh Châu không bị tổn hại gì nhưng đổi lại đã mất mười ngàn tướng sĩ Thiên Đô Trại và Ninh An Trại, còn báo cáo sai tình hình chiến tranh, Mông Thiên Túng thật sự không hề an tâm chút nào, ông ta càng sợ Chu Tử Thư sẽ đến đây hơn.

"Chu Tử Thư? Là cái người chém đầu ba trăm quan Lưỡng Giang hồi ba năm trước ấy à?" Mông Thiên Túng gật đầu, Ngạc Khắc Thiện cười cười phất tay: "Y có thể làm thanh quan, có thể làm lương thần danh tướng nhưng không chắc sẽ là một tướng lĩnh tốt. Từ quan trường kia chạy tới Tây Bắc, không dùng được, tuy có thể xử án luận ngục nhưng không thể chỉ huy binh mã ra chiến trường. Dù y có tra ra được chuyện mờ ám của Thiên Đô Trại thì Hoàng đế Đại Cảnh có thể làm gì được ta chứ, bọn họ không thể trấn áp một trăm ngàn binh mã phiên tộc Tây Bắc."

Mông Thiên Túng: "Nguyên soái đừng quên, Chu Tử Thư còn là Lâm An quận vương phi nữa đấy."

Vua cõi Tây Bắc có thể không sợ Nguyên Thú đế, nhưng chắc chắn sẽ sợ Cung Tuấn.

Ngạc Khắc Thiện nghe vậy, quả nhiên đã thu bớt sự kiêu ngạo lại, lão nghĩ ngợi rồi hỏi: "Ngươi nói còn có một người đàn ông đi theo y, đó đúng là Thôi tiểu tướng quân sao?"

Mông Thiên Túng: "Hạ quan đã nhìn thấy con dấu của hắn rồi, chắc chắn là Thôi tiểu tướng quân."

Ngạc Khắc Thiện: "Cung Tuấn không đi cùng quận vương phi của hắn đến Tây Bắc à?"

Mông Thiên Túng: "Cung Tuấn công cao át chủ*, Nguyên Thú đế rất kiêng kị hắn, Tây Bắc đang không có chiến sự, sao có thể thả hắn đến đây đơn giản như vậy được? Hạ quan khiêm tốn nghĩ, hẳn là Thôi gia quân và quân Phu Diên đều đã nhận được mật lệnh của Cung Tuấn, phái Thôi tiểu tướng quân đến đây bảo vệ Chu Tử Thư." Ông ta nuốt nước bọt, khó nén sợ hãi: "Năm nhánh binh mã Tây Bắc bọn họ đã chiếm hết hai, trong tay Lâm An quận vương còn có một đội binh quỷ thần khó lường, bọn họ đều bảo vệ cho Chu Bạch Ngu. Dù Chu Tử Thư không hiểu đánh chiến thì vẫn có thể dễ dàng chỉnh đốn Tây Bắc mà."

(*) 功高盖主 Công cao át chủ: Ẩn dụ cho việc một cận thần có công lao quá lớn nhưng không biết che giấu mũi nhọn của mình khiến cho đế vương cảm thấy bị đe dọa và nghi ngờ.

Thấy Ngạc Khắc Thiện vẫn còn lơ đễnh, Mông Thiên Túng cắn răng nói thật: "Nguyên soái, chẳng lẽ không có ai ngấp nghé vị trí đứng đầu phiên tộc của ngài sao?"

Cuối cùng Ngạc Khắc Thiện cũng phản ứng cấp tốc, nhanh chóng hiểu ra được ý trong lời của Mông Thiên Túng.

Triều đình có thể phế bỏ lão bất cứ lúc nào để đưa kẻ khác lên vị trí này, không nói đâu xa, bên dưới còn có Ngạc Đan, Ngạc Đạt Mộc và biết bao nhiêu đứa con nối dõi đang nhìn chằm chằm vào chỗ ngồi của lão kia kìa.

Trong phiên tộc không có quy củ cha hiền con thảo, kẻ mạnh là vua, và còn rất nhiều ví dụ về việc lão sư vương bị tân sư vương mưu hại nữa.

"Ta hiểu." Ngạc Khắc Thiện đang tính toán trong lòng, giương mắt nói: "Đa tạ Mông đại nhân đã nhắc nhở. Ngươi cứ yên tâm, sư vương vẫn còn là một người thân thể cường tráng và giàu kinh nghiệm, không ai có thể làm lung lay ngôi vương của hắn cả."

Nghe như đã có cách đối phó rồi vậy.

Mông Thiên Túng có hơi yên tâm: "Thế thì tốt."

***

Mông Thiên Túng vừa đi, tin ông ta đến đã truyền đến chỗ Ngạc Đạt Mộc, Ngạc

Đạt Mộc lạnh lùng đánh giá: "Quả nhiên là con chó ngoan."

Gã hỏi thêm: "Bọn họ còn nói những gì nữa?"

Con cờ mà Ngạc Đạt Mộc sắp xếp vào bên người Ngạc Khắc Thiện thành thật trả lời, nghe đến chỗ nói Kinh lược sứ là Chu Tử Thư, sắc mặt của hắn lập tức trở nên phức tạp, vui buồn lẫn lộn.

Vui là vì đối phương đã đến rồi thì có thể mượn Thiên Đô Trại để lật đổ Ngạc Đan, người có khả năng kế vị cao hơn gã, thay đổi Ngạc Khắc Thiện lì lợm kia đi.

Buồn bực là vì thân phận của Chu Tử Thư nổi bật nên hắn không có cách nào trả thù được, hơn nữa giờ này mà đắc tội đối phương, khả năng được chọn làm đối tượng nâng đỡ sẽ giảm mạnh.

Ngạc Đạt Mộc lại hỏi: "Cha có ý kiến gì với việc ni cô kia được chuộc lại không?"

Nhận được đáp án rằng là Ngạc Khắc Thiện thoải mái cười to, Ngạc Đạt Mộc vừa sợ vừa hận, ngạc nhiên không hiểu vì sao thái độ của cha gã lại khác thường như vậy, còn hận vì gã nghi ngờ hành động lần này của cha là đang nhằm vào gã, không buồn quản thúc gã nữa.

Ở đâu ra có người cha cứ đối đầu với con mình như vậy chứ?

Thái độ thân thiết mà Ngạc Khắc Thiện dành cho Ngạc Đan có thể thấy được bằng mắt thường, ông ta bỏ công bỏ sức bồi dưỡng, xây dựng thanh danh Thiết Bích tướng quân cho hắn, chuyện Thiên Đô Trại tày trời vẫn có thể dìm xuống giúp Ngạc Đan, lừa gạt triều đình, đừng tưởng gã không biết nếu như ngày đó mở thành nghênh chiến, hành vi bỏ thành mà chạy của một Ngạc Đan tự cao tự đại bị sẽ phơi ra cho thiên hạ xem, tuy tạm giữ được tính mạng nhưng tương lai thì sẽ bị hủy sạch.

"Chỉ vì Ngạc Đan mà phụ thân không màng để ý đến tính mạng của một trăm ngàn phiên binh Tây Bắc cùng với gia thần và người nhà, ông ấy không sợ triều đình biết được sự thật sẽ nghi ngờ lòng trung thành của phiên tộc hay sao?"

Ngạc Đạt Mộc đã không còn hy vọng vào tình thương của cha từ lâu rồi nhưng vẫn cảm thấy lòng lạnh lẽo.

Gia thần hiến kế: "Chi bằng đi nhờ vả Chu Tử Thư để cho y chỉnh đốn Ngạc Đan và Ngạc nguyên soái đi?"

Ngạc Đạt Mộc: "Ta đã đắc tội Chu Tử Thư rồi, bây giờ đi nhờ vả một là sẽ bị từ chối, hai là sẽ bị lợi dụng ngược lại, đến cuối cùng vị trí đứng đầu phiên tộc vẫn không phải do ta đảm đương như cũ. Từ lâu đã nghe nói Chu Tử Thư ngay thẳng không a dua, không để lọt một hạt cát vào mắt, y gai mắt ta." Thỉnh thoảng gã cũng hiểu rất rõ về bản thân mình.

Gia thần: "Ngài có thể giả vờ để bị lợi dụng, thật ra là xem Chu Tử Thư như vũ khí để sai sử. Trong tám thị tộc Tây Bắc chỉ có ba tộc ủng hộ ngài, các thị tộc còn lại đều có ý đồ khác, còn đâu các tộc ví như tộc Giả Long mạnh mẽ nhất thì đã hoàn toàn nghe lệnh Ngạc nguyên soái, nếu phiên binh tộc Giả Long, Ngạc gia quân và phiên binh Ngạc thị đều nâng đỡ Ngạc Đan, thì trong lòng các thị tộc không hẳn sẽ ủng hộ, nhưng chắc chắn sẽ không giúp đỡ ngài, phần thắng của ngài không cao lắm. Trái lại, Chu Tử Thư đến Tây Bắc là trời đang giúp ngài, y đứng ở phía trước ra tay, đến lúc đó ngài sửa mái nhà dột kịp thời chẳng phải là xong rồi hay sao?"

Ngạc Đạt Mộc như đang suy nghĩ điều gì đó: "Cũng có lý. Vậy ngày mai ta sẽ đến gặp Chu Tử Thư."

"Không," Gia thần nói, "Cứ chờ trước đã, chờ một chút, chờ đến thời cơ tốt nhất rồi hãy xuất hiện."

***

Sau khi Thiên Đô Trại được trả về, dù sao Ngạc Đan vẫn còn là tướng thủ trại, nhưng hắn không muốn đến đó nên vẫn còn ở lại Ngạc phủ tại Kinh Châu.

Đương nhiên là hắn đã sắp xếp tai mắt trong phủ, cho nên chuyện xảy ra tại công đường Nha môn Kinh Châu, cùng với việc Mông Thiên Túng đến Ngạc phủ và phản ứng của Ngạc Khắc Thiện hắn đều đã biết rõ.

Ngạc Đan: "Kinh lược sứ? Chu thanh thiên nổi tiếng gần xa? Ta nhớ y còn là Lâm An quận vương phi... Cung Tuấn!" Sắc mặt của hắn tối sầm lại, nói thật, hắn rất sợ tên Nhân đồ Tây Bắc Cung Tuấn này, "Có phải sự việc ở Thiên Đô Trại đã bị phát hiện rồi không? Y đến điều tra ta à? Tới bắt ta sao?"

Gia thần của hắn vội vàng nói: "Tướng quân tỉnh táo lại trước đã, nếu như có chứng cứ thì đã phải phái binh đến bắt ngài từ lâu rồi chứ? Ta thấy rằng trong tay Chu Tử Thư này chẳng có chứng cứ nào, hơn nữa y đang ở Kinh Châu địa bàn của chúng ta, lỡ mà có bị địch giết chết thì cũng là chuyện thường xảy ra thôi mà?"

Ngạc Đan trừng mắt: "Có đệ tử Thôi thị bảo vệ bên cạnh y, đủ để chứng minh Lâm An quận vương coi trọng y rồi, lỡ như có chuyện gì xảy ra, ta không cần biết địch giết người rồi có tìm được lý do để thuyết phục chúng dân trong thiên hạ hay không, nhưng ta thừa biết Cung Tuấn nhất định sẽ chặt đầu ta đấy!"

Gia thần: "..." Gã thật sự không hiểu vì sao Ngạc Đan lại sợ Lâm An quận vương như vậy.

Một giây sau Ngạc Đan đã giải đáp cho gã: "Ngươi không biết đâu, trước đây ta có cơ hội nhìn Lâm An quận vương ra trận giết địch, vì khi ấy hắn chôn sống binh mã Đại Hạ nên mới được gọi là Nhân đồ, ta ở trong đội phiên binh phía sau, đứng nhìn ở đằng xa, thấy hắn ra lệnh một tiếng thì ai nấy đều bị chôn sống hết, kêu là kẻ ác cũng còn chưa đủ."

Thế là về sau này, Lâm An quận vương mặc áo giáp đen đưa lưng về phía ánh nắng, không nhớ rõ mặt chỉ nhớ được một chấm đen thui đã biến thành cơn ác mộng kéo dài đằng đẵng của hắn.

Gia thần: "Không thể hành động, không giết được, chẳng lẽ ngồi đợi triều đình hỏi tội sao?"

Ngạc Đan bày vẻ mặt đương nhiên ra: "Ta lên làm đại thủ lĩnh phiên tộc là ổn rồi."

Gia thần: "..." Đang nghiêm túc đấy à?

Ngạc Đan cũng biết mình rất tệ, nhưng không thể không lý do lý trấu: "Ngươi nên biết rằng trận chiến Thiên Đô Trại không có viện binh, cha vẫn thu nhận giúp đỡ kẻ bỏ thành mà chạy là ta đây, giúp ta giấu giếm tình hình chiến trận, nếu như ta gặp chuyện không may thì cha cũng không thoát nổi. Dù có là vì một sợi huyết mạch hay vì nể tình mẹ ta đã chết, hoặc là bảo vệ chính ông ấy, thì ông ấy đều sẽ nghĩ cách ngăn cản Chu Tử Thư tra ra mọi chuyện." Cũng không phải không có lý.

"Vì thế đó, vả lại Ngạc Đạt Mộc đã đắc tội Chu Tử Thư rồi, có lẽ là hắn đã làm chuyện gì tồi tệ lắm đây, để xem coi hắn sẽ làm thế nào, chúng ta đợi xem tình hình rồi hành động là được."

Ngạc Đan vô tư cầm vò rượu lên uống hơn nữa, bỗng nhiên nghĩ đến một chuyện: "Ngày hôm qua cha vẫn đến am ni cô gặp Thiên Châu tỷ sao?" Gia thần gật đầu.

"Chẳng biết am ni cô và phật tổ bồ tát có gì hay ho không nữa, tỷ ấy đã gõ mõ suốt hai mươi năm rồi mà chẳng chán."

Gia thần tin Phật, dù có trả lời như thế nào cũng không phải nên đành ngậm miệng, để cho Ngạc Đan không ngừng tự than thở.

***

Chu Tử Thư và Cung Tuấn trở về nhà trọ, ngày hôm sau thì hai vợ chồng Nhã Thiện và Sách Tang Cát đến tặng bánh cưới để cảm ơn, trò chuyện một lát mới tiễn hai người đi, vài ngày sau đó bọn họ đều đi dạo bốn phía trong thành, chủ yếu là đến các phiên chợ.

Chợ là nơi thể hiện rõ nhất bản sắc của một vùng, bình thường họ dùng các loài vật như dê, ngựa, lạc đà để trao đổi trà, gạo lương và tơ lụa phổ biến ở phía nam, nói chuyện bằng đủ thứ ngôn ngữ lộn xộn không đồng nhất, nghe được rất ít tiếng phổ thông, Chu Tử Thư có thể nghe hiểu được một chút còn Cung Tuấn thì hiểu được toàn bộ, dù sao thì hắn cũng đã sống ở Tây Bắc hết nửa đời người rồi.

Trong chợ đông nghịt người, mùi bánh bao và các loại đồ ăn khác bốc lên nghi ngút, lúc này trời đã bắt đầu vào đông, thời tiết cũng lạnh, nghe ông chủ nhà trọ nói tầm mười ngày nữa là tuyết sẽ rơi.

Chu Tử Thư uống một chén trà sữa đậm vị thơm lừng, khác với mùi vị và hình thức của các chế phẩm từ sữa bò ở Kinh Đô, trà sữa từ bò ở nơi này mịn và đậm đà hơn, có cả vị ngọt và vị mặn, mùi cũng không khó ngửi, cho nên y đã gọi cả hai loại.

Mỗi vị nếm thử một nửa rồi đưa cho Cung Tuấn.

Cung Tuấn vừa cầm lấy chén trà sữa mà y đẩy đến vừa nói: "Quanh chúng ta có ba nhóm người đang theo dõi."

"À." Chu Tử Thư vẫn tỉnh bơ, nghe vậy cũng không có hứng thú mấy, "Đã bốn ngày rồi mà chẳng ai tới hết. Mấy người đó không hiểu cái gì gọi là binh quý thần tốc cả, ta rất thất vọng."

Cung Tuấn không muốn đáp lại, chẳng ai thèm tới nhưng vẫn luôn cho người theo dõi, còn Chu Tử Thư thì cứ thế mà hết ăn tới uống để trêu đùa bọn họ, đối phương càng mơ hồ thì y càng vui vẻ, rõ ràng là thích thú lắm.

Mà lúc này có một cô nương cột hai chùm tóc bưng một chén trà sữa mặn đến ngồi đối diện hai người rồi nói: "Bên cạnh không có chỗ, hai vị tiên sinh có thể cho ta ghép bàn được không?" Ngồi xuống rồi mà còn hỏi?

Chu Tử Thư cười, cảm thấy nàng ta rất thú vị, thế là gật đầu.

Cô nương kia uống trà sữa xong thì lấy một nhánh hoa lan dại đã héo rũ từ trong giỏ ra đưa cho bọn họ: "Thấy hai người khôi ngô, hoa này ta tặng đấy, không đáng tiền đâu."

Chu Tử Thư vô thức từ chối nhưng cô nương đã để lại đồng tiền và cành hoa lan dại rồi đi mất, trong chớp mắt chui vào trong dòng người, y chỉ đành bất đắc dĩ cầm lấy hoa lan dại lên xem thử, sau đó đặt cạnh góc bàn.

Một lát sau, có người đi ngang qua đụng rớt cành hoa lan dại, vội vàng nhặt cành hoa lên trước Chu Tử Thư một bước rồi kiểm tra xem hoa có bị hư hỏng gì hay không, miệng liên tục nói lời xin lỗi.

"Không sao đâu, để đó là được."

Đưa mắt nhìn người qua đường đi mất, Chu Tử Thư làm như không có chuyện gì xảy ra nói: "Mấy ngày trước nghe Nhã Thiện cô nương nói ở Kinh Châu có một am ni cô hương khói hưng thịnh, tên là am Đại Bi thì phải? Cũng không xa nơi này lắm, đến xem thử nhé?"

Từ trước đến nay Cung Tuấn chưa bao giờ có ý kiến gì, "Ừ."

Chu Tử Thư: "Đừng cho mấy con chuột đi theo."

Cung Tuấn: "Được."

Thế là khi chủ quán vừa bưng năm tầng lồng hấp đi ngang qua che khuất bóng dáng của hai người, Chu Tử Thư và Cung Tuấn liền biến mất khỏi tầm mắt của những kẻ theo dõi.

Đám người kia kéo nhau chạy tới nhưng làm mọi cách cũng chắng thấy người đâu,

Một người trong số đó hỏi thăm kẻ ban nãy đã giả làm người qua đường đụng rớt cành hoa lan dại rằng có thật là gã không phát hiện ra vấn đề gì hay không thì nhận được câu trả lời chắc nịch, thật sự là không có vấn đề gì.

***

Ra khỏi chợ đến một con hẻm ít người qua lại, Chu Tử Thư mới mở nắm tay ra để lộ tờ giấy mà vừa rồi cô nương tặng hoa thuận tiện nhét vào lòng bàn tay y khi đi đến.

Trên giấy viết ba chữ: Am Đại Bi.

Am Đại Bi cũng khá là nổi tiếng, chính là nơi mà Nhã Thiện cô nương đã nhắc đến, nàng nói đây là am ni cô lớn nhất phủ Kinh Châu, do Ngạc Khắc Thiện bỏ tiền xây nên cho cháu gái của ông ta, nàng ta là con gái của người chị kế có quan hệ tình cảm với Ngạc Khắc Thiện rồi châu thai ám kết sinh ra Ngạc Đan trong lời đồn.

Đến trước cổng am Đại Bi, mặc dù am nằm giữa phố xá sầm uất nhưng lại có hơi yên tĩnh, mờ mờ ảo ảo cứ như là danh sơn cổ tháp vậy.

Hai người Chu Tử Thư bước vào trong am, ngăn một ni cô lại nói bọn họ muốn gặp cháu gái của Ngạc Khắc Thiện.

Ni cô nọ chớp mắt, chợt nhận ra: "Các ngươi chính là người có duyên mà sư phụ nói sao!"

Chu Tử Thư: "Sư phụ của các cô đã từng nhắc đến bọn ta ư?"

Ni cô đi trước dẫn đường: "Đương nhiên rồi. Sư phụ của ta thông minh lắm đấy, nàng thông thạo tiếng Đại Hạ, tiếng phổ thông và các ngôn ngữ bản địa khác, nàng còn có thể giải thích rất nhiều kinh văn mà người khác xem không hiểu gì nữa... Đến rồi đấy!" Cô ta đứng cạnh cổng của một cái sân, chỉ vào bên trong căn phòng không đóng cửa rồi nói: "Sư phụ ở trong đó, các ngươi đi vào là thấy nàng thôi."

Nói xong bèn chạy đi.

Trong sân có mấy khóm trúc xanh, mùi đàn hương nồng nặc đến lạ kì, không khí vô cùng thanh tịnh, đối diện với cửa phòng là một cái bàn thờ và một đệm cói, bên trái có hai cái ghế tựa, một cái giường đất, trên tường được khắc một chữ "Thiền", một ni cô mặc áo Thanh Hải đang ngồi xếp bằng trên giường đất, da dẻ rất trắng, mặt mũi xinh đẹp dịu dàng, dù tuổi tác không còn nhỏ và cách ăn mặc cũng mộc mạc nhưng vẫn không thể che lấp được sự đoan trang trời sinh.

"Cháu gái của Ngạc Khắc Thiện?"

Ni cô gật đầu: "Tên nhà tục của bần ni là Giả Long Thiên Châu."

"Người tộc Giả Long?" Cung Tuấn giương mắt quan sát Thiên Châu, "Ngươi là con gái của thủ lĩnh tiền nhiệm tộc Giả Long sao?"

Ni cô: "Không ngờ vẫn có người nhớ đến cha ta." Dừng một chút, nàng nhìn sang rồi chắp tay trước ngực nói: "Bần ni tham kiến Lâm An quận vương, tham kiến Chu đại nhân, mời hai vị ngồi."

Trước khi ngồi xuống, Chu Tử Thư nói: "Ta đã đoán rất nhiều người, chỉ không ngờ là cô sẽ gặp ta trước."

"Bởi vì người ngoài không biết ta còn sống." Giả Long Thiên Châu: "Chu đại nhân, nghe nói ngài làm quan thanh chính, dân có oan sẽ được giải oan, bần ni xuất thân thế gia vọng tộc Tây Bắc, từ thời dựng nước đã quy thuận Đại Cảnh cho nên cũng là con dân Đại Cảnh. Ta có oan, đại nhân có thể giải oan cho ta không?"

Chu Tử Thư: "Nói đi."

Giả Long Thiên Châu: "Tổ mẫu của ta là người Đại Cảnh, bà ấy vừa dịu dàng lại vừa xinh đẹp, tổ phụ là binh trong tay lão Ngạc nguyên soái, trước khi chết trận nhờ vả ông ấy chăm sóc vợ mình. Lão Ngạc nguyên soái vừa thấy tổ mẫu của ta đã yêu nên nạp bà ấy làm thiếp, coi mẹ ta như con gái ruột, chăm sóc mẹ ta đàng hoàng giống như những đứa con khác. Mẹ ta cũng xinh đẹp giống như tổ mẫu vậy, tính tình hiền dịu lương thiện, vì không đành lòng nên đã chăm lo cho Ngạc Khắc Thiện ngày nhỏ có hoàn cảnh không tốt, sau khi lớn lên thì bà ấy đã được gả cho thủ lĩnh tộc Giả Long ở Nguyên Châu với tư cách là con gái Ngạc thị thông gia."

Nàng bóp hổ khẩu rồi nói tiếp: "Mẹ sinh ra ta trước, sau đó sinh thêm hai em trai nữa. Cha rất yêu mẹ cho nên không muốn bà bị lạnh nhạt, về sau từ chối thông gia lần nữa... Phiên tộc vốn dựa vào việc thông gia để duy trì mối quan hệ bền chặt, kiếm chỗ cắm dùi ở Tây Bắc này, cho nên thủ lĩnh của tộc không thể tránh né việc thông gia. Cha từ chối thông gia, chỉ yêu mình mẹ, hiển nhiên là đã chôn mầm họa xuống rồi."

"Khi ta mười tuổi, Ngạc Khắc Thiện đến chơi, tình cảm giữa ông ta và mẹ rất tốt, cho nên cha mẹ mới tổ chức gia yến vì ông ta, không ngờ ông ta và những người khác thuộc tộc Giả Long lại đánh chết cha và các lão tướng đã uống say, nhanh chóng khống chế binh mã tộc Giả Long, ém nhẹm việc này rồi nói với bên ngoài rằng họ chết bất đắc kỳ tử, ta không biết có bao nhiêu người tin nữa, dù sao thì mọi chuyện cũng đều đã kết thúc cả rồi, sẽ không ai quay đầu lại nhìn kẻ thua cuộc. Đây chính là phiên tộc kẻ mạnh làm vua."

Giả Long Thiên Châu nhíu chặt mày: "Ngạc Khắc Thiện giết cha ta vốn chỉ để đoạt lấy được sự ủng hộ từ một thị tộc mạnh mẽ như tộc Giả Long! Nhưng ông ta bạo ngược mẹ ta, luôn miệng nói vì bà ấy, bày ra dáng vẻ yêu đến điên cuồng mụ mị, sau khi mẹ ta chết vì sinh khó, ông ta say rượu suốt ngày, không có chí tiến thủ, mê hoặc tất cả mọi người bao gồm cả lão Ngạc nguyên soái..."

"Tám năm! Đau đớn thay mẹ ta, ông ấy vờ làm kẻ vô dụng suốt tám năm trời! Đến lúc người khác tranh nhau chết đi sống lại mới đột nhiên làm loạn, chiếm lấy vị trí đại thủ lĩnh phiên tộc mà không cần phải ra tay." Bỗng nhiên Giả Long Thiên Châu nở nụ cười.

"Nhưng mà các ngươi biết không? Hóa ra Ngạc Khắc Thiện làm hết mọi chuyện ác đó cũng biết đuối lý, hóa ra trong ác mộng của ông ta đều là dáng vẻ lúc chết đi của mẹ. Có biết mẹ ta đã chết như thế nào không?" Ánh mắt của Giả Long Thiên Châu hung ác như mắt sói, không hề phù hợp với vẻ ngoài dịu dàng của nàng chút nào, "Mẹ ta tự lấy dao rạch bụng móc Ngạc Đan ra, để máu tươi chảy thành vũng, mặc kệ nội tạng rơi vãi ra ngoài, bởi vì bà ấy muốn hù dọa Ngạc Khắc Thiện! Bà ấy muốn dùng dáng vẻ đó để nguyền rủa Ngạc Khắc Thiện xuống địa ngục!"

"Không có mẹ ta, Ngạc Khắc Thiện đã chết từ lâu rồi."

"Thế nhưng Ngạc Khắc Thiện lại lấy oán trả ơn, hại chết ân nhân duy nhất đối xử tốt với ông ta. Lòng dạ của ông ta tàn ác như vậy nhưng hóa ra vẫn là lòng dạ con người, ta còn tưởng là do ác quỷ sinh ra cơ đấy."

Giả Long Thiên Châu nhìn Chu Tử Thư: "Có lẽ các ngươi sẽ thấy rằng mẹ ta rất ngu ngốc, nhưng nếu như lời nguyền có thể giết người thì người trong thiên hạ này đã chết hết từ thuở nào rồi."

Chu Tử Thư vẫn dịu dàng nhìn lại: "Có lẽ mẹ cô làm vậy vì cứu người."

Sắc mặt Giả Long Thiên Châu cứng đờ rồi lập tức thả lỏng bả vai căng thẳng, cười khổi nói: "Tâm hồn của ngài đúng là tinh tế. Ta nhớ khi cha bị giết, ta đã trốn trong góc phòng thấy tận mắt toàn bộ sự việc, sau đó Ngạc Khắc Thiện phát hiện ra và muốn giết ta. Tuy đã bị mẹ ta ngăn lại nhưng ta biết rõ ông ta vẫn luôn tìm cách trừ khử ta. Trạng thái chết của mẹ giống hệt như ác quỷ, bà ấy nguyền rủa Ngạc Khắc Thiện thảm thiết để tấn công tinh thần của ông ta, đủ xóa bỏ hình tượng dịu dàng xinh đẹp của ngày trước. Mà khi đó, ta càng lớn lên càng giống mẹ, càng lúc càng giống với "tỷ tỷ" trong suy nghĩ của Ngạc Khắc Thiện, vì vậy nên ông ta mới chuyển tất cả những ý nghĩ xằng bậy và cố chấp đối với mẹ sang ta."

"Ông ta vừa mê mẩn cô gái dần lớn lên là ta, vừa sợ hãi vì ta lớn lên giống như mẹ, nhìn thấy ta, ông ta sẽ nhớ đến cái chết như ác quỷ và lời nguyền rủa kia. Về sau ông ta giết nhiều người hơn, làm nhiều chuyện trái lương tâm hơn nên vô cùng sợ hãi, muốn cầu giải thoát nên bắt đầu tin Phật... Đây chính là một vòng tuần hoàn, càng lệ thuộc vào Phật pháp thì sẽ càng tin vào lục đạo luân hồi, thiện ác có báo, vậy nên sẽ càng sợ hãi lời nguyền của mẹ ta. Về sau nữa, chẳng biết tại sao mà ông ta luôn tin rằng ta là mẹ đầu thai thành, chỉ cần cưới ta, cho ta vị trí vợ cả thì có thể trả lại món nợ giết cha ta năm xưa đồng thời hóa giải lời nguyền của mẹ, đê bảo vệ mình ta mới lựa chọn xuống tóc làm ni cô." Giả Long Thiên Châu vỗ vỗ lên giường gạch: "Năm đó nơi này không phải là am ni cô mà là biệt viện được sắp xếp cho mẹ, mẹ ta cũng chết ngay vị trí của giường gạch này, Ngạc Khắc Thiện chịu đựng suốt hai mươi năm nên vô cùng yêu thương chiều chuộng Ngạc Đan. Ông ta cho rằng mẹ khó sinh, thà mổ bụng cũng phải để Ngạc Đan sống là vì yêu đứa bé này, thật ra không biết mẹ rất ghét bỏ nó... Dù vậy, tâm ma của Ngạc Khắc Thiện vẫn không giảm mà còn tăng lên, ông ta vẫn rắp tâm với ta, lưỡng lự khi ngăn cản ta thề tuyệt không hoàn tục trước Phật nhưng đến cùng vẫn không dám sỉ nhục Phật, nhưng bây giờ thì ông ta đã có được lý do để phá vỡ nó rồi."

Sắc mặt Chu Tử Thư ngiêm lại: "Là chuộc người?"

Giả Long Thiên Chân gật dầu: "Chu đại nhân đừng lo lắng, ta không trách ngài mà là muốn bắt tay với hai người để lật đổ vị trí đại thủ lĩnh phiên tộc Tây Bắc mà Ngạc Khắc Thiện đã chiếm đoạt bao năm qua, giúp hai người nâng đỡ thủ lĩnh mới mà triều đình lựa chọn."

Cung Tuấn lên tiếng: "Vậy ra cô đã nhìn rõ tình hình rồi à."

Giả Long Thiên Châu: "Cảm tạ Bồ Tát đã chỉ ra cho ta một con đường sáng trong tăm tối."

Nàng chắp tay trước ngực, không giấu được niềm hưng phấn và dã tâm trong mắt.

"Ngạc Khắc Thiện có thể lập hai vợ cả, ông ta sẽ cho ta một vị trí trong đó, còn ta thì sẽ yêu cầu ông ta nhận lại Ngạc Đan. Vợ hiện tại của Ngạc Khắc Thiện và Ngạc Đạt Mộc đều cho rằng mục đích ông ta lấy ta là để thuận lợi đấy Ngạc Đan lên đứng đầu, chắc chắn ba thị tộc cùng kiếm lợi có liên hệ chặt chẽ với bọn họ sẽ không đồng ý."

Cung Tuấn: "Những ké đó sẽ phát động binh biến vào ngày đại hôn, nhưng cô và bọn họ có thể nghĩ đến đó thì Ngạc Khắc Thiện cũng có thể nghĩ đến." Khựng lại một chút, hắn nói tiếp: "Vậy nên cô muốn chúng ta điều binh giúp cô sao?"

Giả Long Thiên Châu: "Chẳng lẽ trở thành ngư ông không tốt ư?"

Cung Tuấn đan hai tay lại, nghiêng người tựa vào ghế, trái ngược rõ ràng với Chu Tử Thư eo lưng thẳng tắp ở bên cạnh: "Là ngư ông hay là bàn đạp thì vẫn còn cần bàn lại... Cô định sắp xếp cho Ngạc Đan như thế nào?"

"Không cần ta sắp xếp, Ngạc Đan mất đi tâm ma có tác dụng trấn an, Ngạc Khắc Thiện sẽ xử lý hắn." Giả Long Thiên Châu cười giễu: "Vẫn cần có người của Thiên Đô Trại đứng ra nhận lỗi chịu tội mà đúng chứ?"

Chu Tử Thư: "Cô đã bày mưu bao nhiêu năm rồi."

Giả Long Thiên Châu im lặng một lát rồi thở dài: "Nếu như ý ngươi là âm mưu giết Ngạc Khắc Thiện thì từ khi ta tận mắt nhìn thấy cha chết đã bắt đầu. Nhưng nếu như ngươi hỏi về toàn cục... Có người nói cho ta biết, phải học được sự kiên nhẫn giống như chim ưng săn mồi trên vách đá, kiên nhẫn chờ đợi, chờ đợi thời cơ có thể tung một cú làm Ngạc Khắc Thiện bỏ mạng, đợi cho ông ta cảm thấy lòng hổ thẹn, sợ hãi đạt tới đỉnh điểm, kéo cả phiên tộc Tây Bắc này vào tình thế đối lập với triều định Đại Cảnh, ta có thể lợi dụng sự kiêng dè của phiên tộc trước triều đình mà ra tay giết ông ta."

Chu Tử Thư để lộ ra sự cẩn thận: "Người đó là ai?"

Giả Long Thiên Châu: "Ta chưa từng gặp hắn, nhưng hắn cho ta tiền, cho ta người, cũng chỉ gửi cho ta đúng ba bức thư."

Chu Tử Thư: "Ngoại trừ mạng của Ngạc Khắc Thiện cô còn muốn gì nữa?"

Giả Long Thiên Châu nghiêng đầu nhìn y: "Ngươi nghĩ ta muốn gì?"

Chu Tử Thư: "Vị trí thủ lĩnh tộc Giả Long."

Giả Long Thiên Châu nhìn y không nói, một lúc lâu sau mới bật cười, "Ngài đúng là không hề coi thường dã tâm của phụ nữ chút nào."

Chu Tử Thư: "Cung Tuấn nói phụ nữ Tây Bắc giống như Hồ Dương nghìn năm không chết dù chết cũng bất hủ, ta vô cùng đồng cảm."

Giả Long Thiên Châu nhìn cặp đôi trước mặt, nụ cười càng tươi hơn, rồi đột nhiên nàng cúi đầu xuống, có một giọt nước mắt thấm vào áo Thanh Hải.

"Cảm ơn."

Sự cảm động của Giả Long Thiên Châu chỉ lộ ra một lát rồi biến mất, nói với bọn họ: "Sau khi Ngạc Khắc Thiện ngồi lên vị trí thủ lĩnh phiên tộc thì có quan hệ mờ ám với Đại Hạ, ông ta từng qua lại với Quốc sư Đại Hạ vài lần, có điều ba năm trước đột nhiên phái ít thám tử đi Lương Châu hơn, trong trận Thiên Đô Trại, tình thế của Đại Hạ cũng hết sức nguy cấp, Ngạc Khắc Thiện bí mật cho sứ giả đi cầu hòa trước, cũng không biết đã nói gì mà Thác Bạt Minh Châu lại quang minh chính đại đưa Lai sứ đến hòa đàm, hai người đã làm một vài giao dịch, năm mươi ngàn lượng bạc trắng cũng là một phần trong số đó. Giao dịch xong, Thác Bạt Minh Châu lập tức thắng trận về triều, thậm chí không tính toán việc Ngạc Khắc Thiện tung lời đồn ra ngoài..."

Nàng nói tiếp: "Ta nghi ngờ rằng Ngạc Khắc Thiện đã cho Thác Bạt Minh Châu con át chủ bài để có thể chiến thắng trong cuộc chiến tranh đoạt ngôi vương." Giả Long Thiên Châu cúi đầu sửa tay áo rồi bật cười: "Đây là suy đoán của ta, tin hay không tin tùy các ngươi, coi như đây là lòng thành để hợp tác giữa đôi bên nhé."

Chu Tử Thư và Cung Tuấn nhìn nhau một cái rồi hỏi nàng: "Ngày kết hôn là ngày nào?"

Giả Long Thiên Châu siết chặt lấy cạnh bàn trà, không nén nổi sự hả hê: "Giữa tháng sau! Đủ thời gian để các ngươi điều quân Phu Diên đến đây!" Dường như nhận ra được mình phấn khích quá, nàng thoáng thu cảm xúc lại: "Một lời đã định?"

Chu Tử Thư: "Ngàn vàng không đổi."

***

Ra khỏi am Đại Bi.

Chu Tử Thư hỏi: "Lời nàng ta nói có thể tin được bao nhiêu?"

Cung Tuấn: "Nhắc đến cái chết thảm của cha mẹ. cảm xúc xao động không giống giả vờ. Nhưng Ngạc Khắc Thiện là một kẻ trí dũng kiệt xuất như vậy sao có thể chưa từng nhìn thấy tử trạng thê thảm đến thế được?"

Chu Tử Thư: "Trong lòng ta cũng nghi ngờ kẻ này, chàng nghĩ xem có khi nào bao năm qua Ngạc Khắc Thiện đã hít phải một loại thuốc gây ảo giác nào đó khiến cho ông ta lâm vào trạng thái nửa mê nửa tỉnh như vậy không, nếu như bây giờ có người bên cạnh tỉ tê liên tục dẫn dắt ông ta nhớ lại cảnh tượng làm ông ta áy náy trong lòng nhất, chẳng phải dần dà sẽ biến thành tâm ma của ông ta hay sao?"

Cung Tuấn: "Lúc trước từng đánh Nam Cương, ta nhớ mang máng có một loại thuốc giống như vậy."

Chu Tử Thư chợt cười nói: "Hẳn là nàng ta đã nghiền thuốc thành bột pha vào trong đàn hương, Ngạc Khắc Thiện sẽ đến gặp nàng cố định mỗi tháng một lần nhưng không dám vào phòng mà chỉ ngồi trong sân, trong phòng đốt một loại hương khác, nhưng vì mùi đàn hương trong sân nồng quá đã che lấp được mùi trong phòng, lại thêm tật giật mình, tâm ma của Ngạc Khắc Thiện càng ngày càng nặng nên sẽ không hoài nghi Giả Long Thiên Châu."

Y cảm thán: "Tâm trí của cô gái này thật sự rất cao minh."

Cung Tuấn liếc mắt nhìn xuống Chu Tử Thư, rất muốn nói y còn nhỏ hơn Giả Long Thiên Châu mười mấy tuổi, đừng có mà nói chuyện bằng giọng bề trên như thế nữa.

"Thật ra trước kia ta hơi không hiểu vì sao Ngạc Khắc Thiện lại nghĩ rằng ép cưới ni cô lại là chuyện làm nhục thần phật."

Chu Tử Thư không hề xem thường phụ nữ, mà là trong mắt tín đồ Phật giáo, hòa thượng và ni cô đều là người tu hành, tỏ ra tôn kính họ chính là nể mặt Phật, nhưng muốn nói làm nhục bọn họ chẳng khác nào làm nhục Phật... Thì không cần phải tâng bốc mà đó thật sự là làm nhục Phật.

"Bây giờ đã hiểu rõ rồi, đó là vì lòng người đầy rẫy những điều mờ ám."

Chu Tử Thư vươn tay đón lấy ánh nắng mỏng manh, tựa như suy nghĩ điều gì đó: "Nhưng điều ta quan tâm nhất chính là kẻ đã cho cho tiền, người và thư mà Giả Long Thiên Châu nhắc tới là ai, vì sao hắn lại giúp đỡ Giả Long Thiên

Châu, cả giao dịch giữa Ngạc Khắc Thiện và Thác Bạt Minh Châu là gì nữa, ta có cảm giác giữa hai người có gì đó liên quan, mà còn là thứ rất quan trọng nữa."

Cung Tuấn im lặng một lúc rồi nói: "Đại Hạ tử bằng mẫu quý, trong khi đó mẹ ruột của Thác Bạt Minh Châu có địa vị thấp, tệ hơn nữa là hắn không được Quốc sư Tang Lương Ngọc chào đón, ngay thời khắc đoạt đích mấu chốt đã bị trục xuất khỏi thủ đô... Cũng chỉ vì bảo vệ tính mạng mà thôi, nếu như không chạy được đến biên giới thì có thể đã bị Tang Lương Ngọc tìm đại cớ nào đó mà giết rồi. Thác Bạt Minh Châu gần như không có khả năng đăng cơ, đương lúc vương tử say sưa tranh vị và triều thần tấn công lẫn nhau, không biết vì sao lại chĩa mũi nhọn vào Thác Bạt Minh Châu, đả kích hắn dốc hết binh lực gây chiến với ý đồ chèn ép sự kiêu căng kia, đảm bảo rằng hắn không dám về thủ đô nữa, không ngờ Thác Bạt Minh Châu thuận nước đẩy thuyền* rồi thắng trận về triều..."

(*) Nguyên văn là 顺坡下驴 - thuận pha hạ lư: thuận theo sườn núi mà xuống khỏi lưng lừa. Trích trong hồi 17 "Phong Vân Sơ Ký" của Tôn Lê.

"Có phải vì Ngạc Khắc Thiện đã cho Thác Bạt Minh Châu biết về nhược điểm chí mạng của Tang Lương Ngọc hay không?" Chu Tử Thư nghĩ: "Khi gặp Cao Di Sơn hồi ba năm trước, ta đã biết gã không cam lòng thất bại trước Tang Lương Ngọc rồi, ở Đại Hạ, kẻ vừa đồng cảnh ngộ với gã vừa có khả năng trợ giúp gã công thành danh toại chỉ có Thác Bạt Minh Châu thôi."

Cung Tuấn hiểu ra: "Cho nên khi ấy em nhắc đến việc Xương Bình thông đồng với nước địch nhiều lần... À, ta cũng không để ý lắm khi Cao Di Sơn lỡ miệng nói ra trước mặt, nhưng cho dù mục đích của Xương Bình là tốt hay xấu, thật hay giả thì tóm lại, lén lút thông đồng với trưởng công chúa Đại Cảnh chỉ cần làm đại mấy bài văn là đủ để tịch biên diệt tộc rồi. Kẻ được chọn làm người thông đồng tất nhiên sẽ là Tang Lương Ngọc vốn là người Đại Cảnh, đây mới là tận dụng cơ hội tốt mà ông trời ban cho."

==

Min: Hiện tại truyện đang dần đi tới hồi kết rồi nên tui cũng bắt đầu beta lại từ chương 1 đây, vì cần check song song với raw nữa và sắp tới thì tui sẽ thi cuối kì nên là tiến độ ra chương có thể sẽ chậm hơn một chút, mọi người có chờ lâu chút xí thì cũng thông cảm cho tui nhenn 🤓✨ tysm

Chương 98

"Không biết trong nội dung giao dịch giữa Ngạc Khắc Thiện và Thác Bạt Minh Châu có chứa chứng cứ Tang Lương Ngọc qua lại với Đại Cảnh hay không nữa." Chu Tử Thư suy đoán.

Cung Tuấn không để ý lắm: "Chi bằng em đến giúp một tay đi."

Chu Tử Thư: "Không được, vậy thì lại như ra vẻ như ta vui vì giúp đỡ người khác quá."

Cung Tuấn: "Lòng dạ tiểu lang quân của ta là lòng dạ Bồ Tát kia mà."

Chu Tử Thư ôm má cong mắt cười, đụng khẽ Cung Tuấn một cái như cảm ơn hắn vì đã tâng bốc mình.

***

Bên ngoài am Đại Bi chính là một con phố sầm uất, đầu phố có một quầy hàng trà, lượng khách tới lui rất đông, chuồng ngựa bên ngoài có một con ngựa thuần loại tốt, bên cạnh còn có một tiểu binh phiên tộc đang trông nom.

Chu Tử Thư bỗng nhiên ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy có một cánh cửa sổ đang hé mở rồi vội vàng khép vào, thế là kéo Cung Tuấn vào hàng trà, chọn một gian trong nhà rồi bước vào.

Tiểu nhị bưng trà bánh lên xong thì lui đi, phát hiện cửa phòng sát vách đang mở, khi gã đi qua đã tiện tay đóng lại, những người đến đây đều giống hệt như hung thần ác sát, không giàu cũng quý, gã không được phép nhìn lén nên mới cúi đầu vội vàng chạy mất.

Bên ngoài ồn ào bao nhiêu, thì cách một cánh cửa gian nhà trong yên tĩnh bấy nhiêu.

Ngạc Đan: "Sao rồi?"

Thuộc hạ chỉ vào vách tường bên phải rồi nói: "Vào rồi ạ."

Ngạc Đan nghe vậy bèn lệnh cho người di chuyển mấy cái kệ cổ đang tựa vào tường đi, rón ra rón rén dán vào vách tường mỏng nghe lén người phòng bên nói chuyện, ban đầu còn nghe chữ được chữ mất, dần dần đã nghe được rõ ràng.

"... Thiên Châu cô nương cũng là một người đáng thương khi có một người cha nuôi và tên em trai không nên thân như vậy." Thiên Châu cô nương là chỉ Thiên Châu tỷ sao?

Bọn họ vừa mới đến am Đại Bi gặp Thiên Châu tỷ ư? Chẳng lẽ là muốn moi tin ẩn trong trận chiến Thiên Đô Trại từ miệng tỷ ấy hay sao? Còn định ngăn cản Thiên Châu tỷ gả cho cha nữa?

Lòng Ngạc Đan vô cùng ấm ức.

Ngạc Khắc Thiện gióng trống khua chiêng chuộc lại Giả Long Thiên Châu, chuẩn bị cưới nàng làm vợ cả thứ hai, tất nhiên là Ngạc Đan cũng hiểu rõ nên rất đồng ý, hắn không cảm thấy việc chị ruột cùng mẹ khác cha gả cho cha mình là một việc trái với đạo làm người, trái lại cho rằng thân càng thêm thân.

Giả Long Thiên Châu gả cho phụ thân, thừa nhận hắn là con dưới gối của tỷ tỷ, từ em trai ruột thành con trai ruột, thế chẳng phải là có thể được công nhận một cách danh chính ngôn thuận rồi hay sao?

Ngạc Đan tin chắc rằng đây là đường mà Ngạc Khắc Thiện trải cho hắn bước lên ghế trên.

"Để bảo vệ tính mạng cho Ngạc Đan, Thiên Châu cô nương thật sự đã vắt cạn suy nghĩ, hao tổn tâm sức lắm rồi, không ngờ Ngạc Đan lại là là một tên đầu heo chuyên gây rối, đến giờ hắn vẫn còn tưởng Ngạc Khắc Thiện lấy Thiên Châu cô nương làm vợ là đang trải đường cho hắn, rõ ràng là ông ta đã mất đi tâm ma có tác dụng trấn an rồi, chuẩn bị đẩy hắn đi chịu chết đấy!"

"Ngươi nói thử xem đến lúc đó Ngạc Khắc Thiện sẽ lấy cớ gì để đẩy Ngạc Đan vào đường chết đây? Nhưng ngay cả khi Ngạc Đan gánh khoản nợ tính mạng của mười ngàn tướng sĩ Thiên Đô Trại, thì Ngạc Khắc Thiện thu lưu kẻ bỏ thành mà chạy là hắn, chậm trễ không phái viện binh cũng không thoát khỏi bị liên lụy."

"Trước đây có thể đổi trắng thay đen, báo cáo sai quân tình, bây giờ cùng lắm là nói láo lần nữa thôi, nói là Ngạc Đan ngoan cố phán sai tình hình quân sự, chần chừ không chịu cầu viện binh, bỏ thành mà chạy xong còn nói dối Ngạc Khắc Thiện. Đến lúc đó Ngạc Khắc Thiện chỉ cần thêm mắm dặm muối vào một ít, lược bớt hai chuyện không phái viện binh và khóa thành không đánh này đi, lấy đầu Ngạc Đan ra thỉnh tội với triều đình là vừa đủ để lấy lại công đạo cho phiên tộc, vừa tạo ra một nấc thang cho triều đình bước xuống... Kể từ khi nói "Nhìn xem, ta đã giết chết đứa con trai mình yêu thương nhất rồi", phiên tộc sẽ cảm thấy hài lòng, triều đình cũng sẽ mắt nhắm mắt mở trước sự ổn định của Tây Bắc."

"Cũng đúng. Huống chi việc Ngạc Khắc Thiện thiên vị Ngạc Đan đã chọc cho phiên tộc bất mãn từ lâu, con nối dõi sinh ra từ quan hệ thông gia đàng hoàng còn chẳng bằng một nghiệt chủng được sinh ra từ mối quan hệ trái với luân thường đạo lý, có ai phục chứ? Nếu như đó là một người có tài thì còn được, đáng tiếc..."

"Đúng vậy. Hiện giờ phiên tộc không hài lòng, triều đình nghi ngờ, Ngạc Khắc Thiện không thể bảo vệ Ngạc Đan, vả lại Ngạc Đan kia vốn là tâm ma trấn an của lão, cưới Thiên Châu cô nương về là có thể tiêu diệt được tâm ma... Thế là có thể vứt bỏ hắn rồi."

...

Tâm ma? Có nghĩa là gì?

Hắn có thể nghe hiểu từng chữ, nhưng kết hợp toàn bộ lại thì chẳng hiểu được mấy, còn nói cha sẽ giết hắn để làm lắng cơn thịnh nộ của phiên tộc và triều đình xuống nữa?

Đúng là nực cười!

Ngạc Đan khịt mũi coi thường, sâu trong lòng đã hơi thả lỏng ra.

Sát vát tiếp tục nói chuyện: "Nếu Ngạc Khắc Thiện cầm đầu Ngạc Đan tới báo kết quả, triều đình có thật sự chấp nhận hay không?"

"Tây Bắc ổn định là việc cấp thiết, vì thế triều đình sẽ chấp nhận thôi."

"Ngươi thì sao?"

"Ta lấy đại cục làm trọng."

"Hừ!" Chén rượu bị đập mạnh xuống bàn phát ra tiếng kêu lanh lảnh, chỉ nghe thấy một giọng nói khá ôn hòa thốt lên lời châm chọc: "Vậy không lẽ mạng của mười ngàn tướng sĩ không phải là mạng hay sao? Chẳng phải ngươi là chiến thần tiếng tăm lẫy lừng, nổi tiếng ái tài hảo sĩ, thương lính như con ở Tây Bắc này hay sao? Chỉ vậy thôi đã hồ đồ, làm sao có thể bày tỏ lòng thành với linh hồn của các tướng sĩ chứ!"

"Ngươi tỉnh táo một chút đi, mười ngàn tướng sĩ đều đã được khen thưởng, ban ơn cho người nhà rồi. Hơn nữa, Ngạc Khắc Thiện đa mưu túc trí, Ngạc thị đã giữ truyền thống thông gia với các thế gia vọng tộc từ tiền triều đến nay rồi, quan hệ giống như gốc rễ, rắc rối phức tạp, mẫu tộc của Ngạc Đan vốn không mạnh mẽ nên không có khả năng leo lên vị trí đại thủ lĩnh phiên tộc được, Ngạc Khắc Thiện đẩy hắn ra trước mặt mọi người, tùy tiện yêu thương nuông chiều hắn. Nên biết muốn giết chết một người thì nhất định phải khiến cho người đó phát điên."

...

Hai người phòng bên bắt đầu tranh cãi, người kiên trì muốn làm lễ tế cho linh hồn của các tướng sĩ không ai khác chính là Chu Tử Thư, người nói lấy đại cục làm trọng thì là đệ tử Thôi gia bên cạnh y. Đó chính là suy nghĩ theo góc độ của một tướng sĩ biên cương, trái ngược hoàn toàn so với quan văn triều đình vô cùng ngây thơ, không hiểu được sự gian khổ của chiến tranh.

Ngạc Đan xoay người, sắc mặt khó coi đến đáng sợ, đẩy mạnh cửa ra bỏ về.

Nghe thấy tiếng cửa mở, Chu Tử Thư và Cung Tuấn lập tức ngừng tranh cãi, bước đến cửa sổ mở hé ra một chút nhìn theo hướng mà Ngạc Đan cưỡi ngựa chạy đi. "Đến am Đại Bi rồi."

Cung Tuấn: "Có vẻ như hắn rất tin tưởng Giả Long Thiên Châu."

"Để lấy được lòng tin của hắn, chắc là Giả Long Thiên Châu đã tốn không ít tâm huyết, nhưng làm như vậy cũng chỉ đổi lại được sự thờ ơ của hắn khi Thiên Châu cô nương bị gả cho Ngạc Khắc Thiện mà thôi, có khả năng hắn còn cảm thấy rằng Thiên Châu cô nương làm vậy là vì hi sinh cho hắn nữa đấy." Chu Tử Thư lắc đầu: "Sói mắt trắng."

Cung Tuấn: "Đi rồi. Hai ngày tới chắc chắn sẽ có người ngồi không yên."

Chu Tử Thư cười, sau đó rời khỏi hàng trà cùng với Cung Tuấn.

***

Am Đại Bi.

Ngạc Đan đá văng cửa phòng của Giả Long Thiên Châu, trừng mắt như sắp nứt ra rồi hỏi: "Tâm ma của cha là cái gì? Vì sao cha và chị kết hôn rồi sẽ giết ta?"

Vẻ mặt Giả Long Thiên Châu trở nên sợ hãi: "Ngươi nghe được những thứ này từ chỗ nào? Ai dám nói cho ngươi biết những chuyện ấy?"

Ngạc Đan thấy vậy thì càng kinh hãi hơn nữa: "Lời Kinh lược sử đó nói là sự thật sao?"

Chu Tử Thư?

Giả Long Thiên Châu thôi sửng sốt, nghiêm mặt nói: "Nếu như ngươi đã biết thì ta cũng không dối gạt ngươi nữa." Nàng đi ra cửa nhìn quanh quất, chắc chắn không có người rồi mới đóng cửa phòng lại, kéo cánh tay Ngạc Đan lại nghiêm túc tiếp lời: "Những chuyện mà ta sẽ nói đây câu nào cũng là sự thật, nếu như ta mà nói dối một câu thì sẽ bị giáng xuống địa ngục Vô Gián, vĩnh viễn không được đầu thai."

Ngạc Đan không tin Phật lắm, nhưng văn hóa Phật giáo theo hắn từ nhỏ đã ăn sâu vào đầu vẫn thúc giục hắn tin tưởng một lời thề ác độc như vậy.

Giả Long Thiên Châu thuật lại nguyên nhân thật về sự ra đời của Ngạc Đan cùng với việc Ngạc Khắc Thiện muốn cưới nàng làm vợ, sau đó ân cần nhìn khuôn mặt trắng bệch ra của Ngạc Đan, nói: "Nay trên đời này chỉ còn lại đúng một người thân, a tỷ tuyệt đối sẽ không trơ mắt nhìn ngươi chịu chết đâu."

Ngạc Đan hất tay nàng ra, sụp đổ quát lên: "Tỷ biết nếu tỷ và Ngạc Khắc Thiện kết hôn xong ông ta sẽ giết ta, vậy mà vẫn trơ mắt nhìn ta chịu chết! Vậy mà bảo là cứu ta à?"

"Ngạc Đan!" Giả Long Thiên Châu tát Ngạc Đan một cái tát mạnh, thấy hắn tỉnh táo lại mới tỏ vẻ vô cùng đau đớn mà nói: "Chẳng lẽ ngươi muốn làm con riêng cả đời này hay sao? Ngạc Khắc Thiện có thể sống đến bao giờ? Có thể dùng ngươi làm tâm ma trấn an được thêm bao lâu? Đến một ngày nào đó những đứa con nối dõi của ông ta không nhịn được nữa, các phiên tộc các rục rịch thay lòng, bắt đầu kết hợp lật đổ Ngạc Khắc Thiện, ngươi cho rằng ngươi vẫn sống sót được hay sao? A tỷ đồng ý kết hôn với Ngạc Khắc Thiện là vì muốn cứu ngươi đấy!"

Ngạc Đan: "Cứu ta như thế nào?"

Giả Long Thiên Châu nhìn hắn chằm chằm: "Nghe a tỷ nói này, ta sẽ đưa ra ba yêu cầu, thứ nhất là mở tiệc chiêu đãi thủ lĩnh tám thị tộc lớn của Tây Bắc đến tham gia hôn lễ, ta đã liên hệ với người tộc Giả Long rồi, bọn họ đã đồng ý cho mượn binh, đến lúc đó khống chế tám thủ lĩnh thị tộc, bắt bọn họ đề cử người ngươi trở thành đại thủ lĩnh mới, không theo giết ngay! Yêu cầu thứ hai là ngày kết hôn sẽ đồng thời cho ngươi nhận tổ quy tông, tin tức đã được truyền đi rồi, đến lúc đó ngươi cứ ngồi lên vị trí đại thủ lĩnh một cách danh chính ngôn thuận là được. Còn yêu cầu thứ ba, cũng vào ngày đại hôn, Ngạc Khắc Thiện phải giao hai mươi vạn phiên binh Kinh Châu cho ta, đương nhiên ta đã nói cho ông ta biết đó chỉ là hình thức thể hiện sự coi trọng của ông ta đối với ta mà thôi."

"Còn ngươi, Ngạc Đan, người thân duy nhất trên đời này của ta, em trai của ta, điều mà ngươi cần phải làm chính là vào ngài cưới, ngươi hãy mang binh đến vây quanh Ngạc phủ, bức sát Ngạc Khắc Thiện!"

Ngạc Đan vô cùng khiếp sợ, mặt lộ vẻ do dự, lắc đầu nguầy nguậy: "Ta, ta không làm được..."

"Nghe này!" Giả Long Thiên Châu nghiêm nghị quát lớn: "Bây giờ không phải là lúc ngươi mưu cầu giàu sang, ngươi đang tự cứu lấy mình đấy! Ngày kết hôn, hoặc là Ngạc Khắc Thiện chết, ngươi trở thành đại thủ lĩnh, một trong những Nguyên soái của năm nhánh binh Tây Bắc! Hoặc là ngươi chết, gánh theo cái tiếng kẻ nhu nhược hèn nhát bỏ thành mà chạy, chiếu lác quấn thân, đến phần mộ chôn cũng không có!"

Ngạc Đan sợ đến nỗi lạnh run người, nhìn chằm chằm phía trước bằng ánh mắt trống rỗng, một lúc lâu sau mới đưa ra quyết định.

"A tỷ, ta không muốn chết, ta muốn trở thành đại thủ lĩnh hưởng hết quyền lợi tối cao, vinh hoa phú quý!"

Giả Long Thiên Châu nở nụ cười hài lòng, giọng nói dịu dàng: "Đây mới là em trai tốt của ta chứ." Rồi sau đó sắc mặt nàng lập tức lạnh xuống: "Trong số tùy tùng bên ngoài có một nửa là người mà Ngạc Khắc Thiện phái đi để theo dõi ngươi đấy, trên đường trở về, ngươi tìm bừa một lý do nào đó để giết đi, đừng để cho ai biết ngươi đã tới đây cả." Giết người điệt khẩu không phải cách hay.

Ngạc Đan: "Hiểu rồi."

***

Chuyện Giả Long Thiên Châu được ni cô trong am chuộc lại, còn được Ngạc

Khắc Thiện cầu hôn làm vợ cả nhanh chóng truyền ra ngoài, thủ lĩnh của tám thị tộc lớn ở Tây Bắc đều được mời đến tham gia tiệc cưới.

Trong lòng ai nấy đều tồn đọng sự bất mãn, dù sao bọn họ cũng có quan hệ thông gia với nhau, mấy năm nay đều liên tục đưa con gái trong tộc vào phủ của Ngạc Khắc Thiện, tổng cộng có đến năm sáu mươi người rồi.

Tốt xấu gì cũng là cô nương của một thị tộc, không bước được đến vị trí vợ cả thì cũng dễ hiểu, thế nhưng so ra những cô gái ấy còn thua cả một ni cô không quyền không thế, há chẳng phải đang tát vào mặt bọn họ hay sao?

Đương nhiên càng khiến cho bọn họ để tâm hơn nữa chính là tin tức Ngạc Đan sẽ nhận tổ quy tông được tung ra cùng thời điểm, lời đồn Ngạc Khắc Thiện dung túng Ngạc Đang trước đây hiện rõ mồn một trước mắt, bây giờ còn giống trống khua chiêng làm chuyện này nữa, vậy thì ý đồ vốn là muốn để cho Ngạc Đan bước lên ghế trên phải không?

Ông ta thật sự muốn giao cả chức đại thủ lĩnh phiên tộc và người đứng đầu Ngạc thị tộc cho Ngạc Đan hay sao?

Không chỉ mỗi đàn con nối dõi và các nữ tử thị tộc trong Ngạc Phủ bất mãn, mà các thủ lĩnh thị tộc cũng cảm giác không vui chút nào.

Một kẻ tài trí bình thường như Ngạc Đan làm sao có thể gánh nổi chức trách của một đại thủ lĩnh?

Tây Bắc ngoài mặt yên ả, bên trong sóng ngầm bắt đầu chuyển động, lòng người nhà họ Ngạc bắt đầu chộn rộn, không để Chu Tử Thư đợi lâu đã có người chủ động tìm đến tận cửa rồi.

***

Tạp kịch phổ biến ở phủ kinh đô, còn ở Tây Bắc thì lại thịnh hành múa rối bóng và rối gỗ, lúc này ở ven đường có dựng một cái sân khấu kịch rộng ba thước đủ để diễn một vở anh hùng truyền kỳ, đương nhiên cũng có nhóm chuyên môn mở đoàn kịch hát nhỏ, thuê một đại viện thì sẽ có sân khâu rộng rãi hơn, phần lớn thời điểm sẽ hát Tần Xoang*, còn lại sẽ đổi gu biểu diễn rối gỗ, rối bóng, lúc nào cũng kín chỗ.

(*) Tần Xoang: loại kịch lưu hành ở các tỉnh phía tây bắc Trung Quốc, vừa hát vừa đánh hai miếng gỗ vào nhau

Vậy mà sau đó Chu Tử Thư mua được vị trí ngay trên đầu, say sưa xem diễn viên diễn hí trên sân khấu, công lực thâm hậu đó có thể nói là phải lấy mạng luyện đến chết mới luyện ra được, chỉ cần mở miệng nói là giống như đâm rách trời xanh, ai xem cũng bị choáng ngợp.

Chu Tử Thư đang gật gù rung đùi, bên cạnh có một vị phu nhân vừa mới đến, mười người hầu tản ra, chú ý xung quanh từng giây từng phút.

Y liếc nhìn cách ăn mặc của phu nhân kia, tuy là người Kinh Châu nhưng trang phục không giống với phụ nữ ở Đại Cảnh, trái lại giống hệt như quần áo của phụ nữ Đại Hạ, bên ngoài có khoác áo, khăn che mặt rộng quấn quanh vai, trên khăn mặt được điểm xuyến bởi vỏ sò, trân châu và ngọc san hô đỏ, đầu đội nón đính nụ sen vàng và ngọc trai, trông có hơi giống với vị Phật trong bức bích họa.

Di chuyển tầm mắt đi, Chu Tử Thư hét lên một tiếng "Hay!" Những người xem khác cũng vỗ tay theo, thế là nhìn thấy vị phu nhân bên cạnh lấy đồ trang sức trên người xuống ném lên sân khấu.

Vừa đến lúc giải lao giữa buổi diễn, Chu Tử Thư đã quay người nâng chén trà lên nhấp thấm giọng, sau đó nói: "Phu nhân ra tay hào phóng quá."

Vị phu nhân nọ chậm rãi đáp: "Đồ xoàng xỉnh mà thôi. Bọn họ hát hay làm ta vui, có táng gia bại sản thì ta cũng bằng lòng, dù sao họ vẫn đã khiến cho ta vui."

Chu Tử Thư mỉm cười: "Không say mê thì không sống được, trên đài hát hí cũng vậy, dưới đài xem kịch cũng vậy... Xin hỏi quý danh của phu nhân là gì?"

"Hi Châu Nhu Lang thị, vợ của thủ lĩnh Ngạc thị." Phu nhân quay đầu nhìn Chu Tử Thư: "Tham kiến Chu đại nhân."

Chu Tử Thư chống cằm cười: "Sao phụ nữ Tây Bắc các người chỉ vừa gặp ta lần đầu mà đã nhận ra được hay vậy? Là do trên mặt ta có chữ, trên người treo biển hiệu, hay vẫn là do phụ nữ nơi này thông minh quá đây?"

Nhu Lang thị: "Ngài còn từng gặp ai khác sao?"

Chu Tử Thư: "Ngươi biết đấy."

Nhu Lang thị: "Giả Long Thiên Châu? Ả ta đã lôi kéo ngài à?"

Chu Tử Thư: "Cô ta hứa bằng khoản lợi lớn là binh phù của hai mươi ngàn phiên binh Kinh Châu và phù của mười lăm ngàn phiên binh Nguyên Châu, để cho ta bảo vệ Ngạc Đan thượng vị thành công."

Sắc mặt Nhu Lang thị lập tức thay đổi, rồi nở nụ cười lạnh xóa sạch cảm xúc: "Có được tình yêu của Ngạc Khắc Thiện vẫn chưa đủ hay sao? Ả đúng là lắm lòng tham, có điều lợi nhuận của năm mươi ngàn phiên binh cũng không thể khiến ngài động lòng ư?"

"Đương nhiên là không rồi." Chu Tử Thư nói: "Ta là Kinh lược sứ, hẳn là các ngươi phải biết nguyên nhân ta đến Tây Bắc là gì rồi, nhưng nguyên nhân căn bản nhất vẫn là ổn định Tây Bắc! Triều đình thừa biết Thiên Đô Trại có rất nhiều điểm đáng ngờ, thế nhưng vẫn không làm lung lay Ngạc Khắc Thiện chính là để ổn định lòng phiên binh Tây Bắc, mục đích phái ta tới đây là để tra rõ xem phiên tộc có ý nghĩ gian dối hay không. Nếu không thì tất nhiên là có khuynh hướng ổn định, phải biết hiện tại triều đình Đại Hạ rối ren, là thời điểm mấu chốt của chính trị đoạt trữ, chờ đến khi tân đế trổ hết tài năng, sau khi lên ngôi sẽ dẹp gọn hết mâu thuẫn bên trong, đồng thời ra oai, chắc chắn sẽ phát động chiến tranh, vung thẳng thanh đao xuống Đại Cảnh, nếu như bây giờ Tây Bắc loạn trước, đến khi ấy chẳng phải Đại Hạ sẽ đánh dễ như lấy đồ trong túi hay không?"

Nhu Lang thị: "Chỉ như vậy thôi mà phải buông tha cho Ngạc Đan ư? Nếu để một người như vậy ngồi lên vị trí đó, Tây Bắc vẫn sẽ còn bất ổn!"

Chu Tử Thư cười liếc nhìn bà ta: "Thế phu nhân và thị tộc chống lưng người cam tâm chắp tay nhường cho sao?" Nhu Lang thị: "Ngài sẽ là hoàng tước kia à?"

Chu Tử Thư: "Phu nhân cứ yên tâm, chỉ cần Tây Bắc không loạn, phiên binh Tây Bắc vẫn giữ lòng trung thành với triều đình, ai làm đại thủ lĩnh không quan trọng. Đổi mới và thay đổi từng ngày, đâu có lý nào có thể đi ngược lại với đạo lý thường tình của thế gian chứ?"

Nhu Lang thị hoài nghi: "Nghe nói đại nhân phụng sự việc công không a dua, công chính liêm minh, hôm nay gặp mặt xem ra có hơi không đúng lắm, trái lại linh hoạt nhạy bén hơn nhiều."

Chu Tử Thư nói với bà ta: "Không thể tin hết vào lời đồn được. Bệ hạ khen ngợi ta chính trực, nhưng ngươi cũng biết ông ấy đã khen ngợi ta quá đáng về việc ứng quyền thông biến chứ? Người bảo thủ, giữ được chữ chính mà không thấu đáo chỉ có thể gắng gượng bảo vệ thân mình, không thể đi xa trên quan trường." Y cúi đầu sửa ống tay áo rồi nhỏ giọng nói: "Quả thực ta thấy Ngạc Đạt Mộc nhậm chức đại thủ lĩnh phiên tộc Tây Bắc là điều không mấy khả quan, nhưng nếu so với Ngạc Đan thì hắn tốt hơn gấp trăm ngàn lần, ta cũng đã từng nghĩ đến chuyện nâng đỡ một thị tộc khác lên vị trí đó rồi, chỉ tiếc nhìn chung Tây Bắc không có thị tộc nào có thể sánh vai với Ngạc thị cả."

"Ngạc thị không chỉ là thị tộc, mà còn là thế gia vọng tộc nữa."

Thị tộc là một cộng đồng sắc tộc, thế gia vọng tộc thì là quý tộc, từ khi Đại

Cảnh vừa được dựng nên, thế gia vọng tộc Ngạc thị đã đứng sừng sững ở Tây Bắc, cống hiến cho tiền triều, đương nhiên cũng đã từng cử binh mưu phản, chỉ tiếc đã bị trấn áp rồi.

"Bổn quan có thể tin tưởng lòng trung của phu nhân và phiên tộc đối với triều đình hay không?"

Nhu Lang thị chắp hai tay lên ngực hành lễ của phiên tộc, cúi đầu xuống nói: "Ngạc thị và Nhu Lang thị nguyện vĩnh viễn trung thành với Đại Cảnh."

Hành động này không đại diện cho việc khẳng định lòng trung của tất cả các phiên tộc Tây Bắc, theo một hướng nào đó thì cũng có ý chỉ mỗi bộ tộc khác nhau sẽ có một suy nghĩ khác nhau, chỉ có Ngạc thị và Nhu Lang thị khuất phục trước triều đình mới có thể đảm bảo cho sự ổn định của Tây Bắc mà thôi.

Chu Tử Thư vui vẻ cắn hạt dưa, nhìn đăm đăm vào vở kịch trên sân khấu, nhỏ giọng nói: "Ta thấy rằng, ngày đại hôn của Nguyên soái Ngạc Khắc Thiện chính là lúc mà Ngạc Đan sẽ được kế vị một cách danh chính ngôn thuận, một sự việc lớn như vậy không thể không đề phòng được. Nếu như phu nhân có trù tính gì thì tốt hơn hết hãy nên dừng lại cho kịp thời, nếu không, ngày vui của người ta mà biến thành tang lễ của mẫu tộc mẹ con các ngươi thì sẽ khiến cho người ta đau lòng lắm."

Nụ cười dịu dàng của Nhu Lang thị thoáng nhạt đi không ít, nàng ta cũng nhìn về phía sân khấu, nhỏ giọng đáp lại: "Thần phụ đa tạ đại nhân nhắc nhở."

Dứt lời, hai người không tiếp tục nói chuyện với nhau nữa, mãi đến khi vở kịch kết thúc, Nhu Lang thị mới đưa một tấm thiệp mời thiếp vàng mời y đến tham gia lễ cưới.

Chu Tử Thư đứng dậy duỗi cái lưng mỏi nhừ, gom một nắm hạt dưa trong tay xoay người bỏ đi: "Đã bảo không dây vào là sẽ không dây vào mà, không đi."

Đưa mắt nhìn bóng lưng Chu Tử Thư biến mất, toàn bộ người trong kịch viện mới đứng dậy không nhúc nhích, hóa ra chắng biết từ khi nào đã đổi thành người của Nhu Lang thị.

Bây giờ Ngạc Đạt Mộc mới bước đến sau lưng Nhu Lang thị: "Y thật sự sẽ không nhúng tay vào sao?"

Nhu Lang thị: "Không nhúng tay vào thì không phải là kẻ địch của chúng ta, không phải làm khó y, dù sao y cũng đại diện cho triều đình. Nếu như dám nhúng tay vào hái quả đào thì phải để xác lại Kinh Châu này!" Ngạc Đạt Một lo lắng: "Nhưng mà y là Lâm An quận vương phi..."

"Lâm An quận vương có đến cũng phải chịu chung một kết cục thôi!" Nhu Lang thị tàn nhẫn quyết đoán hơn đứa con trai lớn tướng của mình, "Cho người theo dõi y đi, nếu như có hành vi khác thường thì phải lập tức báo lại. Phái thêm người liên hệ với Phan La thị, Nhu Lang thị và Ôn Cơ thị, nói cho bọn họ biết đã đến lúc phải giương cao giáo mác, chuẩn bị giết lão sư tử vương rồi."

***

Tất cả thủ lĩnh của các phiên tộc Tây Bắc đều đã khởi hành, đội ngũ quân Phu Châu Chiết thị cũng đã sẵn sàng.

Cung Tuấn đã rời phủ Kinh Châu gặp thủ lĩnh Chiết thị trước một bước, mật đàm xong thì rời đi ngay, không quay về phủ Kinh Châu.

Chu Tử Thư vẫn ở lại Kinh Châu, thừa biết ngoài nhà trọ có mấy kẻ theo dõi nên dứt khoát không bước ra ngoài, giam mình trong mình sáu bảy ngày liên tục, mãi đến khi đám người theo dõi y mụ mị đầu óc, dần dần buông lỏng cảnh giác.

Khi y đột nhiên đi ra ngoài, mấy kẻ kia không kịp phản ứng ngay, suýt nữa là mất dấu.

Bọn họ mở mắt trừng trừng ra nhìn Chu Tử Thư đi dạo mấy cửa hàng may, tiệm bán trang sức, chỗ này mua một chút chỗ kia mua một ít, có kẻ không nhịn được mắng: "Cứ như đàn bà vậy!"

Bên cạnh có người tiếp lời: "Da mịn thịt mềm thế mà, nghe bảo là gả làm vợ cho quận vương gì đấy mà, còn chẳng phải là đàn bà hay sao?"

Lời này chọc cho cả bọn ôm bụng cười to, sau đó có kẻ chỉ vào một người phụ nữ xinh đẹp vừa mới bước ra khỏi tiệm may đồ: "Cô gái kia đẹp quá."

Mọi người nhìn lại, thấy bóng lưng đang dần đi xa, đúng là có mấy phần lẳng lơ quyến rũ, cười cợt một hồi bỗng nhiên có người nghĩ ra điều gì đó: "Không đúng, sao y vào trong lâu như vậy rồi mà vẫn chưa ra nữa?"

Những kẻ khác ngơ ngác nhìn nhau rồi vội vàng xông vào tiệm may nhìn thử, người đã cải trang thành nữ nghênh ngang chuồn khỏi mắt bọn họ mất rồi!

***

Nha môn Tri phủ Kinh Châu.

Mông Thiên Túng gấp gáp không kịp mặc quần áo, liên tục hỏi xác nhận: "Thật sự là Kinh lược sứ Chu đại nhân sao? Vì sao y lại tới tìm bổn phủ? Tâm trạng của Chu đại nhân lúc ấy như thế nào?"

Hạ nhân kia đáp: "Là thật đó ạ! Không nói nguyên nhân đến nhà thăm hỏi, tâm trạng rất tốt, cười cười nói nói, có điều... Cách ăn mặc hơi kì lạ một chút."

"Ăn mặc kì lạ cái gì hả? Đó là quần áo mà ngươi ở phủ kinh đô mặc đấy!" Mông Thiên Túng hiều lầm hạ nhân ngu dốt, vội vàng đi đến đại sảnh thì nhìn thấy bóng lưng một người phụ nữ, không khỏi dáo dác ngó quanh: "Người đâu?"

Hạ nhân chỉ vào bóng lưng nọ: "Y đó."

Mông Thiên Túng giận tím mặt: "Hồ đồ! Chu đại nhân là quận vương phi không sai, nhưng mà y là đàn ông đàng hoàng đấy!"

"Y nói y là..."

"Y nói y là Chu đại nhân thì ngươi tin theo luôn hả? Bị dụ dễ vậy à? Cái thằng..."

"Mông đại nhân."

Mông Thiên Túng nhìn bóng lưng ấy xoay lại, nhận ra là Chu Tử Thư thì lập tức trừng mắt, vội vàng bước về phía trước chắp tay nói: "Hạ quan tham kiến thượng sai!" Sau đó ông ta hoài nghi quan sát phong cách của y: "Đại nhân đây là?"

Chu Tử Thư đứng chắp tay, dù mặc nữ trang cũng không che giấu được khí chất dịu dàng như ngọc kia của y.

"Che giấu tai mắt người khác thôi." Chu Tử Thư cất nụ cười đi, nghiêm túc hỏi thăm: "Mông Thiên Túng, bổn quan hỏi ông về cuộc chiến Thiên Đô Trại, ông phải trả lời đúng sự thật, không được giấu giếm!"

Lòng dạ Mông Thiên Túng run rẩy, bộp một tiếng quỳ xuống luôn miệng nói: "Hạ quan nhất định, nhất định không giấu giếm một lời."

Chu Tử Thư: "Ông có phái binh đến trợ giúp Thiên Đô Trại hay không?"

Mông Thiên Túng: "Có! Hạ quan thật sự từng phái binh đến đó trợ giúp mà!"

Chu Tử Thư: "Vậy sao ta nghe nói mười ngàn tướng sĩ Thiên Đô Trại, Ninh An Trại đợi suốt mười ngày, đợi đến chết cũng không thấy viện binh đến?"

Mông Thiên Túng: "Đó là lời đồn, lời đồn thôi! Đại nhân nhất định đừng nghe lời tiểu nhân gièm pha rồi hiểu lầm đám trung thần lương tướng bọn ta." Tâm tư ông ta càng yếu ớt thì giọng càng lớn. "Mông Thiên Túng ta có thể được điều đến phủ Kinh Châu làm Tri phủ chính là vì chiến tích của ta xuất sắc, mặc dù làm quan không thể sánh bằng đại nhân, nhưng hạ quan vẫn nguyện máu chảy đầu rơi vì dân chúng, vì triều đình!"

Chu Tử Thư im lặng nhìn ông ta, đến khi thấy đầu Mông Thiên Túng rịn đầu mồ hôi hột rồi mới đến nâng người đứng dậy, chậm rãi cất giọng.

"Chuyện ông làm không phụ lương tâm, không phụ lòng một thân quan bào của ông là được rồi, tất nhiên là ta sẽ tin lời ông nói, hơn nữa điều người làm trời đều nhìn thấy, thiện ác có báo thôi mà." Đỡ người đứng dậy rồi thuận tay kéo sang một bên, Chu Tử Thư học theo điệu bộ của Cung Tuấn tùy tiện ngồi xuống, gõ bàn hừ một tiếng: "Đói bụng ghê."

Mông Thiên Túng: "Hạ quan sẽ lệnh cho người chuẩn bị rượu và thức ăn ngay đây ạ!"

Chu Tử Thư: "Ngại quá." Nhưng y không cản ông ta, chờ rượu và thức ăn được dọn lên bàn rồi, nhìn thấy đây đều là của ngon vật lạ và rượu ngon thì bèn dể lộ ra vẻ hài lòng, y ăn trước một ít, thấy Mông Thiên Túng vẫn còn đang đứng bên cạnh thì mời ông ta ngồi: "Ngồi xuống nào. Hầy, ngồi đi." Mông Thiên Túng vội vàng ngồi xuống.

Chu Tử Thư cụng ly với ông ta, uống ực một hơi cạn sạch, vô cùng hào sảng, dần dà Mông Thiên Túng cũng không còn khách sáo nữa.

"Có biết ta tìm ông vì điều gì không?"

"Xin rửa tai nghe."

"Ông cũng không tệ lắm, vẫn chưa đến mức thối nát. Ngạc Đạt Mộc muốn giết ni cô, ông thì tìm cách cứu nàng, tuy nói không được thông minh, còn có hơi cổ hủ, nhưng không tính là làm hỏng việc... Ông có biết rõ chuyện ta chém chết ba trăm quan hồi ba năm trước không?"

Mông Thiên Túng cảm giác cổ nhói đau, gật đầu như gà mổ thóc: "Biết. biết ạ."

"Vậy ông có biết cả chuyện ta cứu ba trăm quan Hoài Nam không?"

"Không, không biết."

"Ta sẽ nói thật cho ông hay, bệ hạ hoài nghi Thiên Đô Trại bị báo cáo sai quân tình, phái ta đến đây để điều tra, ta vừa đến đã gặp phải bản án của ni cô, thừa biết ông và Ngạc Khắc Thiện kia không hẳn là xem mạng người như cỏ rác, nhưng mà Ngạc Đạt Mộc thì..." Chu Tử Thư lắc đầu, tỏ vẻ bất lực, sau đó cụng ba lần vào ly rượu của Mông Thiên Túng, ý bảo ông ta uống, còn bản thân thì buông rượu xuống, chuyên tâm dùng bữa.

Mông Thiên Túng uống đến nỗi đau đầu, nghe vậy thì dụng giọng thần bí hỏi thăm: "Có phải thượng sai thấy Ngạc Đạt Mộc kiêu căng, tàn nhẫn và ngang ngược hay không?"

Chu Tử Thư: "Hắn là con trai do vợ cả của Ngạc Khắc Thiện sinh ra, sau lưng được nhiều phiên tộc chống đỡ, nếu như có một đại thủ lĩnh giống như hắn, về sau Tây Bắc có còn được yên bình không?"

Mông Thiên Túng đã hiểu: "Đại nhân cũng hướng về Ngạc Đan sao?"

Chu Tử Thư tức giận lườm ông ta một cái, Mông Thiên Túng tự biết mình nói sai, nghĩ ngợi một lúc mới nói: "Ta hiểu rồi, chuyện Thiên Đô Trại, Ngạc Đan không sạch sẽ, triều đình không tin tưởng hắn, Ngạc Đạt Mộc cũng không được, thế nhưng mà Nguyên soái Ngạc Khắc Thiện vẫn còn rất, rất nhiều con cái."

Rốt cuộc Chu Tử Thư cũng hài lòng tiếp tục cụng ly, Mông Thiên Túng uống thêm ba ly nữa, mặt mũi đã đỏ bừng lên.

"Ta ấy à, không muốn tạo sát nghiệt. Ông nói Thiên Đô Trại có vấn đề, cũng chính là nói phiên tộc có vấn đề, triều đình sẽ không cho phép dị tộc có hai lòng tồn tại ở nơi biên cảnh này. Một trăm ngàn phiên binh, còn có mấy trăm ngàn người phiên tộc... Ông nói xem ta có thể tạo sát nghiệt hay sao?"

"Thượng sai lòng dạ Bồ Tát!" Mông Thiên Túng nghe hiểu ý của y, Chu Tử Thư muốn xử lý nhẹ nhàng, trong nhát mắt trở nên kích động: "Ta mời ngài ba ly!"

Chu Tử Thư giả vờ ngăn lại, tùy ý để cho ông ta uống hết mới đập bàn nói: "Hay lắm! Thẳng thắn! Mông đại nhân là người hiểu chuyện, vậy thì ta cũng moi tim móc phổi ra nói với ông một câu thật lòng..." Y rướn người lại gần thấp giọng nói: "Thật ra việc chém đầu ba trăm quan vốn không phải là ý của ta." "Cái gì?" Mông Thiên Túng bày ra vẻ mặt tò mò và khiếp sợ.

Chu Tử Thư tỏ vẻ "Trong lòng biết rõ là được": "Ông nghĩ lại kĩ xem, từ xưa đến nay có đại thần nào chém đầu ba trăm quan mà còn sống được không? Ông cũng thử nghĩ về những hành vi phạm tội được công khai ra ngoài sau khi các quan lại đó bị chém đầu đi, tội nào không phải là tội rợi đầu? Đều là những kẻ đáng chết, ta cần gì phải vẽ vời thêm chuyện để chém đầu bọn họ chứ? Đó chính là đi quá giới hạn! Rơi đầu như chơi đấy!"

Mông Thiên Túng ngạc nhiên hỏi: "Vậy vì đâu mà lại như thế?" Chu Tử Thư làm mặt bí hiểm, đưa mắt nhìn trần nhà.

Mông Thiên Túng thoáng không hiểu rõ, nhưng đã nhanh chóng hiểu ra, nhỏ giọng nói: "Là... Đó sao?" Chu Tử Thư gật đầu.

"Cản đao cũng vậy à?"

"Chuyện đó thì là chuyện ngoài ý muốn, cũng là đường sống mà ông trời ban cho ta, là vì mạng ta vẫn chưa đến đường cùng."

"Hừm... Lòng quân khó lường, quả nhiên là lòng quân khó lường." Cảm thán xong, Mông Thiên Túng trở nên kính nể Chu Tử Thư vô cùng: "Thượng sai chịu khổ rồi, đại nạn không chết ắt được phúc về sau."

Chu Tử Thư hậm hực nói: "Nào có phúc về sau gì đâu? Hưởng phúc không được mấy năm đã bị phái đến Tây Bắc điều tra phiên tộc rồi, ông nói xem phiên tộc ở đây chỗ nào không có chúa đất? Chỉ cần sơ sẩy một chút là sẽ làm Tây Bắc dao động, Đại Hạ sẽ nhân cơ hội ta yếu ớt mà tấn công... Việc nhỏ hại đầu rơi đấy!"

Mông Thiên Túng cảm thấy tiếc cho y: "Đúng là gần vua như gần cọp."

Chu Tử Thư: "Vì vậy nên mấy người mới phải thông minh lên một chút, đừng gây thêm phiền phức nữa. Để cho ta tiện làm việc, ta cũng sẽ nhớ đến ân huệ này."

Mông Thiên Túng: "Thượng sai có gì chỉ thị?"

Chu Tử Thư thở dài: "Hình như ông vẫn còn chưa hiểu lắm nhỉ? Có phải Ngạc Khắc Thiện muốn trải đường cho Ngạc Đan hay không? Ta cho ông biết là không được. Ngạc Đan không ổn, Ngạc Đạt Mộc cũng không ổn, Ta cũng cho ông hay, Giả Long Thiên Châu... À, cũng chính là cô vợ nhỏ khiến cho cây sắt Ngạc Khắc Thiện nở hoa đó đã bí mật đến tìm ta, cô ta đã nói chuyện với ta và muốn ta giúp đẩy Ngạc Đan lên vị trí kia. Cả Nhu Lang phu nhân cũng đã âm thầm tìm ta, vị phu nhân đó thật sự chẳng phải người lương thiện gì, dứt khoát lấy lòng trung của phiên tộc Tây Bắc đối với triều đình để uy hiếp ta, không cho phép ta xen vào chuyện của người khác!"

Số lượng thông tin lớn quá, Mông Thiên Túng hơi mơ hồ: "Rồi ngài nói sao?" "Xùy." Chu Tử Thư khịt mũi ghét bỏ.

"À à, ngài nói ngài muốn giải quyết êm đẹp... Không màng đến việc nào hết! Hiểu rồi, hạ quan đã hiểu rồi, hạ quan và đại nhân hiểu lòng nhau mà."

Chu Tử Thư phất phất tay rồi ngáp một cái, sau đó nói: "Thôi, không làm phiền các ngươi làm việc nữa, ta chỉ nói một câu thôi, Tây Bắc ổn định, ta sẽ bỏ qua mọi chuyện."

Mông Thiên Túng đã hoàn toàn thả lỏng, vội vàng tiễn Chu Tử Thư rời phủ.

Đợi Chu Tử Thư đi khuất, ông ta lập tức nấc lên một tiếng rồi nói: "Chuẩn bị ngựa đi, đến Ngạc phủ."

***

Đến Ngạc phủ, Mông Thiên Túng thuật lại tất tần tật những lời mà Chu Tử Thư đến phủ ông ta nói, đồng thời nói cả lời phân tích của y, "Hành động này của Chu Tử Thư chứng tỏ y có ý quy phục, có lẽ hy vọng Tây Bắc được ổn định thật, nghĩ tới nghĩ lui thấy rằng vẫn chỉ có sư tử vương là Nguyên soái mới có thể chấn nhiếp phiên tộc, vậy nên mới lựa chọn ngài đấy!"

Ngạc Khắc Thiện cười lạnh: "Y không muốn dây vào cuộc tranh đấu đại thủ lĩnh phiên tộc, nhưng lại muốn nhận được phần công cuối cùng, còn muốn duy trì sự yên ổn... Hừ! Quả đúng là người có thể vang danh thiên hạ, mặc dù là thanh thiên vẫn có lòng dạ sâu như biển cao như núi. Nếu chỉ đơn giản xem Chu Tử Thư giống như một trực thần chỉ biết khuyên can, thì sợ là đầu mất rồi vẫn không biết là bị y tính kế đấy."

Mông Thiên Túng: "Có thể tin tưởng Chu Tử Thư không? Y sẽ không truy sâu vào Thiên Đô Trại thật chứ?"

Ngạc Khắc Thiện: "Hiện giờ y muốn ngồi làm ngư ông đắc lợi, y tính kế tất cả các phe nhưng không thiên vị người nào, kết quả ai thắng y mới giúp người đó. Đương nhiên đây là chuyện tốt, tính kế tất cả mọi người có nghĩa là sẽ không giúp ai cả, mà là giúp ta. Ha ha ha... Chu Tử Thư à Chu Tử Thư, có kẻ nói phải đề phòng y, lòng dạ y có thất khiếu, quả nhiên là thú vị thật. Thế nhưng người nọ đoán sai một chút rồi, lòng dạ Chu Tử Thư có thất khiếu, mà ta thì chỉ cần rạch một lỗ là xong."

"Cái gì?"

"Quyết thắng cốt ở mấu chốt." Ngạc Khắc Thiện cười ha ha vỗ vai Mông Thiên Túng: "Được rồi, bảo đám người theo dõi Chu Tử Thư rút về đi. Nhớ đến uống rượu mừng của bổn soái đấy nhé." Vẫn làm tiệc cưới sao?

Mông Thiên Túng đột nhiên nhớ ra một việc: "Lúc Chu Tử Thư đến nhà, ta thấy Thôi tiểu tướng quân không đi cùng y, có phải là đã đi dời binh rồi không?"

"Dời binh nào? Cấm quân biên cảnh không thể tùy tiện điều động giống như binh thuộc quân đội vùng ven Trung Nguyên, binh mã các khu quản lý các nhánh biên cảnh, không lý do mà điều động, trừ phi có chiến sự, nếu không chắc chắn sẽ bị hỏi tội. Trong thời bình thế này, tướng soái nào dám mạo hiểm phạm tội rơi đầu để điều binh đến Kinh Châu? Tạo phản à?" Ngạc Khắc Thiện: "Có thể Chu Tử Thư được quyền điều binh Kinh Châu, nhưng y mà ra tay là ta đã biết rồi."

Mông Thiên Túng bối rối gật đầu.

***

Ngạc Đạt Mộc: "Mông Thiên Túng lại tới nữa hả? Ông ta nói cái gì?"

Thám tử: "Ở xa quá không nghe rõ." Do dự một chút, hắn nói: "Một đám người nghe lén lúc trước đều đã bị Nguyên soái xử lí cả rồi, tiểu nhân không dám tới gần."

Ngạc Đạt Mộc sắp sửa nổi đóa thì bị Nhu Lang thị ngăn lại: "Bỏ đi. Mông Thiên Túng là một con chó bên chân cha con, đến Ngạc phủ thì có gì hiếm lạ đâu? Điều ta nghi ngờ chính là khoảng thời gian mà Chu Tử Thư biến mất kia, y đã đi đâu?"

Ngạc Đạt Mộc nói: "Nghe người giám sát quay về nói là đã gặp y ở gần am Đại Bi. Con đã nói là y không đáng tin từ lâu rồi mà! Y đã lựa chọn tiện nhân kia rồi còn đâu!"

Nhu Lang thị: "Bao giờ con mới chịu sửa cái thói hở một tí là hô to gọi nhỏ của mình hả? Chu Tử Thư không thể không nhúng tay vào, y cũng có tâm tư, nhưng nhất định sẽ không giúp đỡ ả tiện nhân đó." Ngạc Đạt Mộc suy nghĩ một lúc: "Là Thiên Đô Trại?"

Nhu Lang thị gật đầu: "Không quan tâm Chu Tử Thư nữa. Chuyện dặn con làm đã xong chưa?"

Ngạc Đạt Mộc: "Hai ngàn phiên binh Nhu Lang, tám trăm phiên binh Ôn Cơ và ba trăm phiên binh Phan La đều đã xuất phát đến Kinh Châu, đảm bảo có thể phát động tấn công bất ngờ mọi lúc!"

Nhu Lang thị chắp tay trước ngực: "Phật tổ phù hộ." Nếu không thành công thì thành nhân. ***

Am Đại Bi.

Ngạc Đan tức tối nói: "Đám người Ngạc Đạt Mộc đã lôi kéo Kinh lược sứ Chu Tử Thư rồi!"

Giả Long Thiên Châu nheo mắt, bình tĩnh khuyên nhủ: "Y vốn là Kinh lược sứ đến đây điều tra Thiên Đô Trại, sẽ không nghiêng về phía chúng ta, nhưng Ngạc Đạt Mộc không phải là một thủ lĩnh tốt, Chu Tử Thư sẽ không chọn hắn, ngươi có thể tạm an tâm. Ta hỏi ngươi, phiên binh tộc Giả Long có thể đến được bao nhiêu người?"

Ngạc Đan: "Hai ngàn. Phiên binh bị Cấm quân địa phương theo dõi, hành động quá đà dễ khiến người khác chú ý, từ đó triều đình cũng sẽ chú ý, tộc Giả Long chỉ chịu cung cấp hai ngàn bộ binh, trong đó có tám trăm cung thủ."

Giả Long Thiên Châu: "Vẫn đỡ hơn so với những gì ta đoán. Ngươi còn có thể điều được bao nhiêu binh trong tay?"

Ngạc Đan: "Hai ngàn năm trăm, chỉ có thể điều năm trăm."

Giả Long Thiên Châu lưỡng lự: "Kinh Châu có hai mươi ngàn phiên binh, Ngạc Khắc Thiện có thể điều động tổng cộng mười lăm ngàn binh trú đóng ở những doanh trại gần nhất, nhưng muốn điều động cần tốn thời gian, hơn ba mươi ngàn binh Nguyên Châu không có chiến sự không thể đi. Binh quý thần tốc, sau khi ta lấy được binh phù phiên binh Kinh Châu, ngươi lập tức phát động, đánh nhanh thắng nhanh, hiểu chưa?" Ngạc Đan vô cùng nghiêm túc gật đầu.

***

Giữa tháng mười một là thời điểm thích hợp để thành hôn, tuyết rơi như lông ngỗng liên tục năm ngày cũng ngừng bặt, tựa như cũng vui lây trước trò hay sắp diễn ra ngày hôm nay.

Ngạc Khắc Thiện rất nể mặt Giả Long Thiên Châu, mười dặm hồng trang phủ lên đá xanh hòa vào cảnh tuyết vô cùng đẹp đẽ. Dân chúng châu đầu kề tai thảo luận, mấy đứa trẻ nối đuôi theo sau nhặt kéo, nói về hình thức thì cơ bản là giống với những lễ cưới mà Chu Tử Thư từng nhìn thấy ở phủ kinh đô.

"Đã làm trái luân thường đạo lý sinh hạ nghiệt chủng cùng với chị kế của mình rồi, bây giờ còn lấy cháu gái nữa, thật sự không sợ bị trời phạt sao?"

"Suỵt, đừng có nói nữa!"

Bàn bên có một thương nhân từ phương nam đến nhỏ giọng cho ý kiến, nhanh chóng bị đồng nghiệp sợ hãi quát câm miệng.

Chu Tử Thư nhoài người ra khỏi cửa sổ trên tầng cao nhất của quán trà nhìn đội ngũ đón dây và kiệu hoa đi vào Ngạc phủ, ngồi ở góc này, y có thể nhìn thấy được sân trước và tiền thính của Ngạc phủ, chỗ ấy đông khách, tỳ nữ và đầy tớ qua lại như mắc cửi, vô cùng tưng bừng.

Sắc trời mơ màng, gió lạnh xào xạc.

Người đi đường đều đã tản ra, đèn đuốc của những nhà chung quanh đã tắt từ lâu, chỉ còn lại hai chiếc đèn lồng đỏ trước cửa Ngạc phủ là còn sáng bừng.

Ông chủ quán trà bước đến nói: "Lang quân, nhà trọ của tiểu nhân sắp phải đóng cửa rồi, ngài xem?"

Chu Tử Thư: "Trời còn chưa tối hẳn, sao lại đóng cửa sớm vậy?"

Ông chủ quán trà: "Ngạc phủ có chuyện vui, bắt buộc các nhà trọ trong phạm vi mười dặm phải đóng cửa trước khi trời tối, không được đụng chạm Hỉ thần qua phủ, bọn họ còn cho chút ngân lượng đền bù tổn thất, cũng không làm khó dễ gì thường dân nhỏ mọn như chúng tôi."

Chu Tử Thư nghĩ một lát rồi thương lượng với ông ta: "Ông có thể cho ta ở lại đây một đêm được không, cứ việc đóng cửa, tiền trà nước ta trả gấp đôi, chỉ cần thắp cho ta một ngọn đèn dầu ở đây là được rồi."

Nhà của ông chủ tiệm trà ở ngay sân sau, trong sảnh quán còn có hai tiểu nhị canh chừng, không sợ có người trộm đồ, bình thường quán trà cũng bán đến tận canh ba, sẵn tiện làm chút trà bánh lót dạ, nướng thịt dê gì đó.

Ông chủ cũng không quen với việc đóng cửa sớm, nghe vậy thì cũng không suy nghĩ lâu mà đồng ý ngay.

Trong nháy mắt, sắc trời u ám dần rồi tối hắn, cửa sổ chỉ hé ra một chút, gió lạnh thổi ù ù tới, một ngọn đèn nhỏ chiếu ánh sáng nhạt lên nửa mặt Chu Tử Thư, tuyết đọng trên khung cửa chưa kịp quét chợt rung rinh, từ nhẹ thành mạnh, rồi bỗng dưng một đống tuyến rơi xuống.

Lúc này trên đường cái rộng lớn có một đoàn bóng đen xuất hiện, nó đang di chuyển từ xa đến gần, đứng trước cửa Ngạc phủ, phụt một tiếng đèn đuốc rực sáng lên, ba nghìn bộ binh đóng giáp đột ngột trở nên rõ ràng ngay trước mắt, thủ lĩnh giơ tay ngăn bộ binh bước tiếp, rồi sau đó mang theo chừng trăm người xông vào trong phủ, khống chế tân khách trong phủ, mà Ngạc Đạt Mộc và Nhu Lang thị đang ở bên trong tiền đường bước ra khỏi ngọn lửa, hội hợp với bọn họ.

Chu Tử Thư nở nụ cười.

"Kẻ ném ly* đầu tiên xuất hiện rồi."

(*) Mình không search được nghĩa của từ này, nhưng chương sau có nhắc đến và nghĩa nó nằm trong tình huống nên mình giải thích ở đây luôn, ném ly này là hành động mời rượu người đứng đầu và uống xong rồi ném vỡ cái ly đó, hành động này ám chỉ người kính rượu sắp sửa đoạt vị.

Chương 99

Thủ lĩnh của bảy thị tộc lớn ở Tây Bắc đều đang đứng đó, tiếng chúc mừng vang lên khắp sảnh đường không ngừng nghỉ.

Mặc dù Ngạc Khắc Thiện đang giao binh phù của hai mươi ngàn phiên binh Kinh Châu cho Giả Long Thiên Châu ngay trước mặt mọi người, bọn họ vẫ giữ nguyên khuôn mặt tươi cười chúc phúc như cũ.

Ngạc Khắc Thiện nắm chặt tay Giả Long Thiên Châu, mặc kệ sắc mặt lạnh lùng khó coi của Nhu Lang thị và Ngạc Đạt Mộc ở phía sau lưng, nhỏ giọng nói: "Cho nàng binh phù, cũng đã cho Ngạc Đan nhận tổ quy tông trước mặt đám thủ lĩnh phiên tộc rồi, nàng có thấy vui không?"

Phiên tộc không không có tập tục để tân nương đội khăn trùm, lúc này Giả Long Thiên Châu được trang điểm rất xinh đẹp, trên đầu đầy châu ngọc, ngay cả khi đã lớn tuổi rồi mà vẫn vô cùng lộng lẫy khiến cho tân khách trong sảnh đường nhìn thôi cũng lý giải được vì sao Ngạc Khắc Thiện lại chẳng màng quan tâm đến luân lí làm người như vậy rồi.

Giả Long Thiên Châu nắm chặt binh phù, rũ mắt trả lời: "Ta vui mừng không kể xiết."

Mà ngay lúc này, Nhu Lang thị đứng dậy đi đến trước mặt hai người, hỏi thẳng: "Ngạc Khắc Thiện, tôi và ông cũng coi như là vợ chồng từ thời trẻ, đã ở bên nhau ngót ba mươi năm. Năm đó ông giết thủ lĩnh và các lão tướng tộc Giả Long vì chị kế của mình, lén lút qua lại với ả ta, mê đắm suốt tám năm trời, ông nói rằng mình làm thế là để mê hoặc lão Ngạc nguyên soái và các anh em lẫn mẹ mình, ông nói ông làm thế là để đoạt quyền trở thành người cuối cùng thắng lợi. Tôi đã tin, tôi thuyết phục nhà mẹ là thị tộc lớn ủng hộ ông, giúp đỡ ông đoạt quyền, từ đó đến mười năm về sau không hề hai lòng, mặc Ngạc Khắc Thiện ông như thiên lôi sai đâu đánh đó! Mặc dù ông thiên vị nghiệt chủng Ngạc Đan kia, nhưng tôi vẫn tin ông, giúp ông áp chế sự bất mãn của thị tộc, đến giờ ông chẳng biết cảm ơn mà còn ngày một thậm tệ hơn, chẳng màng thể diện của phiên tộc, cũng không để ý đến sự chán ghét của triều đình đối với tập tục thông hôn với dị tộc, gióng trống khua chiêng lấy cháu gái của mình làm vợ!"

"Hôm nay tôi chỉ hỏi một câu thôi, ông sẽ lấy ả tiện nhân này làm vợ sao? Muốn nâng đỡ nghiệt chủng kia lên vị trí đó sao?"

Ngạc Khắc Thiện giận tím mặt: "Sau ngày hôm nay, bà chính là đại tỷ của Thiên Châu, cũng là mẹ của Ngạc Đan, đừng có hễ mở miệng là tiện nhân nghiệt chủng nữa! Bà có thấy mình chanh chua, lòng dạ hẹp hòi không, đúng là khiến người ta chê cười!"

Nhu Lang thị giận quá bật cười: "Ngạc Khắc Thiện, ông không biết ông mới chính là kẻ đã trở thành trò cười lớn nhất Tây Bắc này sao?"

Ngạc Khắc Thiện vươn tay tát gãy cả răng Nhu Lang thị, nhất thời sảnh đường câm như hến, thủ lĩnh tộc Nhu Lang thoáng lộ vẻ không vui nhưng gắng nhịn không biểu đạt ra.

"Phu nhân bệnh nên hồ đồ rồi, đưa về phòng đi, không có việc gì thì đừng ra nữa."

Ngạc Đạt Mộc đỡ mẹ mình dậy, đứng ngăn trước bà ta: "Cha à, cha già cả hồ đồ rồi, cũng nên thoái vị nhường chức đi thôi."

"Ngươi nói lời này có ý gì?" Ngạc Khắc Thiện nhìn quanh hạ nhân trong phủ, thấy không có ai nghe theo lệnh ông ta thì đã hiểu ra ngay: "Mưu quyền soán vị à? Trong tay ngươi có binh sao?"

Ngạc Đạt Mộc cầm lấy rượu mà thuộc hạ đưa tới: "Ly này con mời cha." Gã uống một hơi cạn sạch, ly rượu rơi mạnh xuống đất vỡ tan.

Đáp lại là tiếng cửa lớn Ngạc phủ bị đá văng, chừng trăm binh sĩ phiên tộc tràn vào, tướng lĩnh cất bước về phía trước gọi Nhu Lang thị hai tiếng "A tỷ".

Chúng tân khách không ai dám động đậy, trái lại có thủ lĩnh thị tộc theo phe Ngạc Khắc Thiện đập bàn đứng lên, nghiêm nghị quát: "Làm càn..." Lời còn chưa dứt đã bị đao của phiên binh kề vào cổ ép lui về chỗ.

Mông Thiên Túng run rẩy cúi đầu như thể muốn dán mặt vào mâm thức ăn, sau đó ngạc nhiên phát hiện tất cả tân khách trong sảnh không ai sợ hãi, đến cả những tỳ nữ và tôi tớ chia thức ăn và rượu bên ngoài cũng đều đang rút đao ra chống lại.

Thoáng chốc bừng tỉnh nhận ra, chỉ có ông ta là không biết rõ tình hình thôi.

Giả Long Thiên Châu và Ngạc Đan nhìn nhau khó nén kinh ngạc, dường như không ngờ lại có người ném ly mưu quyền trước cả bọn họ.

Ngạc Đạt Mộc nhận lấy ly rượu mạnh thứ hai, "Con kính cha thêm một ly nữa, mong cha thức thời, đừng dựa vào nơi yếu để mà chống đối nữa."

Ngạc Khắc Thiện vuốt râu cười ha ha, hờ hững nói: "Bên ngoài có bao nhiêu người đến rồi? Có bao nhiêu thị tộc tham gia vậy?"

Không ai sẵn lòng trả lời câu hỏi của ông ta, Ngạc Khắc Thiện thấy vậy liền nói: "Thế thì ta đổi chủ đề nhé, các ngươi có biết vì sao Đại Cảnh lại chấp nhận sự tồn tại của một trăm ngàn phiên binh Tây Bắc hay không? Ta nói cho các ngươi biết đáp án luôn đây, bởi vì phiên tộc Tây Bắc chúng ta đoàn kết, bện thành một sợi dây thừng, tám thị tộc lớn hợp thành liêm minh, từ khi dựng nước, từ tiền triều đã luôn sinh sống theo đạo của phiên tộc. Còn một nguyên nhân quan trọng hơn hết đó là vì thị tộc nghe lời, trung thành với Đại Cảnh, năm đó là do Ngạc thị khuất phục triều đình trước mới có thể được nâng đỡ lên thành đại thủ lĩnh phiên tộc Tây Bắc, trải qua mấy đời, địa vị vững chắc không ngã! Cũng bởi vì phiên binh đã bị chia cắt đến bốn khu tám phủ, phiên binh mỗi phủ bị kiểm soát bởi một thủ lĩnh phiên tộc, được Cấm quân giám sát ngay tại chỗ và điều khiển, khi có chiến tranh thì khoác giáp khiêng giáo trên vai lên chiến trường, lúc không chiến tranh thì cởi giáp về nhà làm ruộng, các ngươi tự cho rằng huy động một lượng lớn phiên binh như vậy mà tai mắt triều đình không biết thì các ngươi đã sai hoàn toàn rồi!"

Giọng nói của Ngạc Khắc Thiện dần dần nghiêm nghị, ánh mắt đảo qua Nhu Lang thị, Ngạc Đạt Mộc cùng với ba thị tộc lớn tham gia làm phản.

"Muốn học người khác thượng vị? Không sao cả, học ai cũng được, lòng dạ độc ác thì giết cha cũng chẳng sao! Phiên tộc chúng ta vốn theo đuổi phép tắc mạnh được yếu thua, cho dù có học bao nhiêu lễ nghi Trung Nguyên, có tiếp nhận bao nhiêu từ nền giáo dục Hán hóa thì thực chất bên trong vẫn là tính sói! Người đời chỉ nhớ đến kẻ thắng cuộc, không có dã tâm thì chẳng bằng đầu heo. Nhưng trước lúc các ngươi mưu quyền đã từng nghĩ đến chuyện giải thích với triều đình như thế nào sau khi huy động phiên binh rời khỏi thuộc địa của thị tộc chưa?"

Ngạc Đạt Mộc: "Bọn ta không có lòng không tuân phục."

"Tức cười! Bàn dấu tích không bàn về lòng dạ, ai sẽ quan tâm rằng ngươi điều binh khiển tướng là để mưu quyền hay để cày ruộng? Triều đình chỉ thấy dược hành động của ngươi là hành động chưa xin chỉ thị mà tự ý huy động phiên binh thị tộc, tự tiện rời khỏi thuộc địa, chỉ thấy các ngươi không phục hán tướng, không phục triều đình mà thôi!"

Trong đám người đó, sắc mặt của một vài kẻ có ý đồ cướp lấy vị trí đại thủ lĩnh hoặc muốn kiếm được lợi lớn đều vô cùng khó coi, bọn họ cúi đầu không ngừng lau mồ hôi, trong lòng lo sợ, dường như mới vừa nhớ ra rằng phiên binh rời khỏi phủ dù chỉ là trăm người cũng phải báo cáo với hán tướng địa phương để phòng ngừa nổi loạn.

Bọn họ Chu tập cùng lúc mấy ngàn người rời phủ, lọt vào tai mắt triều đình há chẳng phải là họ muốn tạo phản hay sao?

Lúc này, Nhu Lang thị mới bước ra khỏi bóng lưng Ngạc Đạt Mộc nói: "Không phải sợ. Kinh lược sứ biết rõ về việc thay đổi quyền cai trị của phiên tộc, y đã hứa rồi, chỉ cần phiên binh không loạn, Tây Bắc ổn định thì triều đình sẽ không quản. Y chính là thanh thiên nổi tiếng khắp thiên hạ Đại Cảnh, có lời đảm bảo của y, chắc chắn là triều đình sẽ tin tưởng lòng trung của phiên binh!" Lời vừa dứt, phần lớn người ở đó đều an lòng.

Hai mắt Ngạc Đạt Mộc sáng rực lên, bước từng bước về phía trước: "Chỉ cần cha tự tay viết thư dâng lên triều đình, truyền vị trí đại thủ lĩnh phiên tộc lại cho con, đương nhiên triều đình sẽ ủy nhiệm con làm Nguyên soái Cấm quân Kinh

Nguyên. Cha à, bây giờ cha đang ở thế thua cuộc, đừng có dựa vào thể hiểm mà chống lại nữa, trong tất cả con cái của cha thì con là người thích hợp nhất, ba thị tộc thêm cả Ngạc thị là có nửa phiên tộc ủng hộ con rồi, sao cha cứ phải đối địch với số đông vậy? Thế này được không, con hứa sau khi trở thành đại thủ lĩnh rồi sẽ không giết Giả Long Thiên Châu và Ngạc Đan, đảm bảo cho bọn họ bình an hết nửa đời sau."

Gã lướt qua Ngạc Khắc Thiện định cướp lấy binh phù hai mươi ngàn phiên binh trong tay Giả Long Thiên Châu, người nọ lập tức né đi, Ngạc Đan nhanh chân bước tới trước dùng rìu chém xuống.

Dù Ngạc Đạt Mộc đã né nhanh nhưng lưỡi rìu vẫn sượt qua cánh tay, máu tươi chảy đầm đìa.

Mặt mũi Ngạc Đạt Mộc tái mét, lui về phía sau không dám nghênh chiến với Ngạc Đan.

Mặc dù Ngạc Đan ngu dốt nhưng suy cho cùng sức lực vẫn rất mạnh, người bình thường không dám đối chiến với hắn.

"Cha, mẹ cả, đại ca, Ngạc Đan cũng muốn vị trí đại thủ lĩnh phiên tộc, muốn được vinh hoa phú quý, cũng muốn được làm chúa đất hô mưa gọi gió ở Tây Bắc rộng lớn này!"p

Ngạc Đan để lộ ánh mắt tham lam giống hệt như con sói hoang hung hãn, đột nhiên ngửa mặt lên trời hú một tiếng giống như tiếng soi tru, trong nháy mắt mũi tên từ bên ngoài phủ bay vào dày đặc như mưa, bắn chết rất nhiều phiên binh không phòng bị, còn có những mũi tên lọt lưới bay vào sân trước của Ngạc phủ, xuyên qua cửa sổ vào tiền thính, đâm vào hàng phòng ngự không ngờ sẽ có "tân khách" tập kích từ trên không.

Ba bốn vị khách ngã xuống đất bỏ mạng, Ngạc Đạt Mộc và Nhu Lang thị cuống cuồng chạy trốn, tìm một chỗ để tránh mưa tên, đến cả vị tướng phiên binh tộc Nhu Lang vào Ngạc phủ giết chóc cũng bị một mũi tên đâm xuyên qua vai, lảo đảo lui về phía sau, không để ý đến Ngạc Khắc Thiện không lui không tránh phía sau lưng.

Ngạc Khắc Thiện bước lên hai bước, rút mũi tên sắt ra cắm vào yết hầu lấy mạng gã tại chỗ, mà ông ta chỉ cần làm một động tác gọn nhẹ.

Mưa tên tiếp tục rơi thêm nửa khắc đồng hồ nữa, xác người la liệt trong sân Ngạc phủ, chật vật không chịu nổi, mà thế cục đã thay đổi trong chớp mắt.

***

Trước khi mưa tên tấn công, một mũi tên đã bay vào cửa sổ dán sát bên tóc mai Chu Tử Thư, bị ám vệ chặn lại.

Chu Tử Thư nhận ra được nguy hiểm, nhanh chóng chạy xuống lầu bảo tiểu nhị và ông chủ mau chóng tìm một nơi an toàn để tránh đi.

Một đám người trốn vào trong hầm dự trữ thức ăn ở sân sau, đến khi bọn họ bình tĩnh lại sau cơn hoảng loạn, Chu Tử Thư mới rời khỏi hầm.

Không ngờ đối phương điều động cả đội cung thủ.

"Dân chúng xung quanh có bị thương không?" Chu Tử Thư hỏi.

Ám vệ: "Đã báo tin để bọn họ trốn đi theo lời ngài dặn rồi."

Khi Chu Tử Thư nghe ông chủ nói cửa hàng trong phạm vi mười dặm đều bị bắt đóng cửa thì đã đoán được có lẽ xung quanh Ngạc phủ sẽ bị dùng làm chiến trường, hàng quán của ai lớn sẽ bị dùng để giấu cấm quân phiên binh, thế là y lệnh cho ám vệ đi điều tra sơ qua, nếu như phát hiện ra người dân nào thì báo tin cho bọn họ trốn vào hầm.

May mà nhà nào ở Tây Bắc cũng có hầm, không khiến cho người bình thường phải chịu thương vong.

Chu Tử Thư trở về vị trí cũ, nhìn thấy phiên binh chết đầy trên đường, đoán chắc có chừng trăm người, hai ba trăm phiên binh còn lại đã trốn, mà vô số cung thủ tuồn ra từ đầu đường đến cuối đường, giương mũi tên sắt nhắm về phía Ngạc phủ.

"Người ném ly thứ hai. Bây giờ đang là bọ ngựa bắt ve, chim sẽ chực sẵn." Chu Tử Thư đẩy cửa sổ ra một chút nhìn Ngạc phủ, tự thầm thì: "Khi nào thì mới đến đoạn ngao cò tranh nhau ngư ông đắc lợi nhỉ?"

Y và ám vệ đều không phát hiện có một bóng đen đang bước từ dưới lầu đi lên.

***

Bắp thịt toàn thân Ngạc Đan căng to lên, hắn nhìn sang chỗ Ngạc Đạt Mộc, Nhu Lang thị và một đám thủ lĩnh phiên tộc như nhìn con thú bị nhốt trong lồng. Rồi đột nhiên hắn duỗi tay giơ rìu phóng tới chỗ Ngạc Đạt Mộc, đối phương vội giơ đao lên chống đỡ, tiếng va chạm vang đội, tay Ngạc Đạt Mộc vị một nguồn lực cực mạnh chấn động đến tê dại.

Nhu Lang thị thét lên một tiếng liền bị Ngạc Đan dùng rìu chém đứt đầu, đầu bay vào trong lòng thủ lĩnh thị tộc Nhu Lang, lão ta sợ đến mức nhảy dựng lên, đụng phải Ngạc Khắc Thiện thì muốn chạy trốn nhưng lập tức bị vặn gãy cổ.

Cùng lúc đó, Ngạc Đan cũng chém đứt hai cánh tay của Ngạc Đạt Mộc, máu tươi phun ra, tiếng kêu thảm thiết của Ngạc Đạt Mộc phá vỡ không khí tiệc cưới: "A a..."

Trên mặt Ngạc Đan dính máu, biểu cảm càng thêm hưng phấn, hắn quay đầu nói với Ngạc Khắc Thiện: "Cha à, con trai mong cha hãy viết thư dâng lên triều đình, chấp nhận ta làm đại thủ lĩnh mới của phiên tộc. Dù sao ông cũng thiếu nợ mẹ ta, vậy thì hãy trả lại cho ta đi, ông cho ta trở thành đại thủ lĩnh, chắc chắn mẹ sẽ bằng lòng tha thứ cho ông."

Ngạc Khắc Thiện cảm thấy lạ: "Con cũng biết rồi à?" Ông ta quay đầu nhìn về phía Giả Long Thiên Châu, bỗng nhiên bật cười, giống như bắt được chứng cứ hết sức thuyết phục về việc nàng chính là mẹ ruột của mình đầu thai thành: "Quả nhiên là nàng yêu thương nó."

Sắc mặt của Giả Long Thiên Châu trở nên rất khó coi, dạ dày nhộn nhạo khiến nàng buồn nôn.

"Ngạc Đan, bao năm qua cha đối xử với con không tốt sao?"

"Tốt lắm. Tốt đến nỗi ta thật sự đối xử với ông như cha, nhưng trong lòng ông coi ta là cái gì? Một viên thuốc trấn an tâm ma, một quân cờ vó thể vứt bỏ bất cứ lúc nào, có phải ông định chặt đầu của ta để tạ lỗi với triều đình sau khi hôn lễ này kết thúc, giải quyết triệt để cuộc chiến Thiên Đô Trại hay không?" Ngạc Đan giơ chân đạp mạnh vào bụng Ngạc Đạt Mộc, vẻ mặt dữ tợn: "Rác rưởi! Ngu xuẩn! Ngươi cho rằng Ngạc Khắc Thiện cho ta nhận tổ quy tông là lót đường cho ta hả? Ông ta chỉ làm bộ thương yêu ta để dối gạt triều đình, cũng giống như cách mà ông ta lợi dụng mẹ ta để mê hoặc cha anh mình rồi đoạt quyền mà thôi!" "Con không tin cha à?"

"Còn lừa gạt ta sao!" Ngạc Đan phẫn nộ đến đỏ mắt, "Ông nghĩ rằng ta không biết nguyên nhân ông chậm trễ không gửi viện binh đến, giấu diếm chuyện Thiên Đô Trại vốn là vì lợi ích của bản thân ông hay sao? Ông vốn không phải vì ta! Mà là vì số bạc giấu ở Đại Hạ kia!"

Biểu cảm của Ngạc Khắc Thiện thay đổi, trong mắt toát ra sát ý nồng đậm, ông ta tiếc nuối nghĩ, lại sắp tạo sát nghiệt nữa rồi, cũng may mà a tỷ đã tha thứ, chắc chắn nàng ấy sẽ hiểu được những gì mà ông ta làm.

Giả Long Thiên Châu nheo mắt, bạc Đại Hạ?

Ngạc Khắc Thiện thở dài: "Ngạc Đan, con bị tiểu nhân che mắt rồi." Ông ta bước về phía trước, dùng giọng cha hiền tận tình khuyên nhủ: "Con cứ nhớ lại đi, từ nhỏ đến lớn cha nào có lỗi gì với con đâu? Chẳng phải cái lần con và Ngạc Đan nảy sinh tranh chấp cha đã đứng về phía con sao? Đưa con đến Thiên

Đô Trại, bỏ ra biết bao công sức để phô danh Thiết Bích tướng quân cho con, cả Tây Bắc này chỉ biết Ngạc Đan con chứ chẳng ai biết Ngạc Đạt Mộc, chẳng lẽ những thứ này đều là tình cảm giả dối hết ư? Nếu như chỉ xem con là một thứ thuốc trấn an tâm ma, thì ta tội gì phải khổ tâm bồi dưỡng chứ? Thích ăn thích uống, không phải cứ thể nuôi con thành kẻ hư hỏng là được rồi sao?" Ngạc Đan thả lỏng, rìu đang giơ cao thoáng buông xuống.

Giả Long Thiên Châu lặng lẽ nhìn Ngạc Khắc Thiện luôn miệng nói, thấy ông ta giống hệt như ma quỷ sống ngàn đời vậy.

Ngạc Khắc Thiện tiếp tục cố gắng: "Ta cần khoản bạc đó, đến cùng không phải vẫn là vì con à? Không phải là để cho con hay sao?"

Ngạc Đan do dự: "Chẳng phải ông muốn lấy đầu ta để bày tỏ lòng trung với triều đình à?"

Ngạc Khắc Thiện: "Con trai ngốc, cha đây mặc kệ Thiên Đô Trại và Kinh lược sứ đấy, triều đình có thể làm gì cha? Chẳng lẽ chỉ vì một Thiên Đô Trại mà xử lý trăm ngàn phiên binh Tây Bắc ta ư? Vất vả lắm biên cảnh mới được yên ổn, Đại Cảnh không muốn chiến tranh trở lại, tất nhiên sẽ giải quyết nhẹ nhàng, nếu không vì sao lại phái Kinh lược sứ đến? Cứ việc ban một thánh chỉ xuống là xong rồi!"

Trái lại cũng có phần đúng.

Ngạc Đan tin hơn phân nửa, nhưng các thủ lĩnh phiên tộc ở đó nghe xong lời này không rét mà run.

Ban đầu bọn họ vốn chỉ hơi hoài nghi cuộc chiến Thiên Đô Trại, chỉ là không hiểu rõ, cũng xuất phát từ lòng tin, dù sao thì bọn họ đều đã nhìn thấy lòng trung của Ngạc thị đối với triều đình, nếu không thì triều đình cũng sẽ không tùy tiện để cho Ngạc Khắc Thiện liên tục giữ chức đại thủ lĩnh, còn cho ông ta thêm vị trí Nguyên soái nhánh binh Kinh Nguyên, mặc kệ Ngạc thị thế gia vọng tộc một nhà hưởng lớn, bọn họ có phải là kẻ ngu đâu mà không hiểu.

Phải biết Ngạc thị là thế gia vọng tộc ở vùng Tây Bắc này, địa vị không thua gì phiên vương, tương đương với Tiết độ sứ của tiền triều, được cầm binh hạng nặng, nếu như cử binh mưu phản ắt sẽ khiến cho Đại Cảnh nghênh đón một trận đánh đau, còn có thể mất nước không chừng.

Dù vậy, Đại Cảnh vẫn tin tưởng Ngạc thị, đây cũng là nguyên nhân chủ yếu khiến cho các thị tộc khác muốn tranh chức đại thủ lĩnh mà không bao giờ tranh nổi.

"Con trai ngoan." Ngạc Khắc Thiện vui mừng không ngớt, bước đến trước mặt Ngạc Đan, cầm chặt lấy tay hắn: "Con là con trai của người phụ nữ mà cha yêu nhất, trong lòng cha, con là duy nhất, tất cả những gì của cha đều thuộc về con, tất cả những gì cha làm đều là để trải đường cho con..."

Giả Long Thiên Châu nhanh mắt phát hiện ra điều không đúng, lập tức hô lên: "Ngạc Đan cẩn thận!" Nhưng đã chậm một bước, Ngạc Khắc Thiện đã túm mạnh lấy cây rìu trong tay Ngạc Đan bổ ngược về phía ngực hắn, máu tươi lập tức phun ra.

Ngạc Đan hộc một ngụm máu, nhìn Ngạc Khắc Thiện một cách khó tin: "Cha à ông..."

Ngạc Khắc Thiện: "Nói ngươi đầu óc ngu si tứ chi phát triển mà ngươi còn không tin, đừng có mà học theo người khác mưu quyền soán vị! Tâm huyết biết bao nhiêu năm của ta đều tiêu vào ngươi hết cả rồi, thời gian, tình yêu thương, bồi dưỡng, tiền tài địa vị quyền lợi đều cho ngươi cả, ngươi chạy đi gây rắc rối khắp nơi ta cũng thu dọn giúp ngươi! Ta cho ngươi nhiều như thế, thu một ít lãi thì có sao!"

Ông ta bước về phía trước, bổ thêm một rìu vào ngực Ngạc Đan.

Ngạc Khắc Thiện bùng nổ vẻ mặt hung ác: "Phụ tử vi cương, ta cho ngươi sống ngươi mới được sống, ta muốn ngươi chết ngươi dám không chết sao? Cùng lắm là lấy đầu ngươi đổi cho triều đình một nấc thang mà thôi, cống hiến vì phiên tộc Tây Bắc, vì cha chính là niềm vinh hạnh của ngươi đấy, có hiểu chưa?"

Ngạc Đan trừng mắt như sắp nứt ra, hắn cầm lấy đao dài mà Ngạc Đạt Mộc làm rơi dưới đất lên, chém giết với Ngạc Khắc Thiện.

Dù sao Ngạc Khắc Thiện cũng là lão tướng sa trường giàu kinh nghiệm, tuy đã lớn tuổi nhưng thân thủ vẫn linh hoạt, nhưng bấy giờ trong lòng Ngạc Đan cũng ngập tràn lửa giận và thù hận, khí thế ngọc nát đá tan quanh người vẫn có thể khiến cho Ngạc Khắc Thiện bị thương.

Có điều hắn đã nhanh chóng bị chế ngự.

Ngạc Khắc Thiện chém đứt tay Ngạc Đan, mặc sức giết chóc không thèm quan tâm đến hai con trai và người vợ đã bỏ mạng, người không còn bị tâm ma trói buộc tựa như biến thành ma quỷ giữa trần gian.

Ngạc Đan bò về phía sau, cơ trên mặt giần giật lên: "Các ngươi trơ mắt nhìn Ngạc Khắc Thiện giết ta à? Có biết người ông ta muốn giết tiếp theo chính là các ngươi không? Hơn nửa số người các ngươi tham gia vào cuộc phản loạn này, đối nghịch với Ngạc Khắc Thiện, cho rằng không ra tay trước mặt ông ta là có thể thoát thân sao? Nghĩ rằng nhìn thấy hai đứa con trai của ông ta tranh nhau, thấy ông ta tự tay giết con trai mình mà vẫn có thể toàn thân trở ra sao? Đương nhiên, nếu như ông ta không thừa nhận những bí mật của Thiên Đô Trại, nếu như ta không nhắc đến khoản bạc bị giấu ở Đại Hạ kia, có lẽ Ngạc Khắc Thiện sẽ tha cho các ngươi một con đường sống! Nhưng mà bây giờ thì nghĩ cũng đừng nghĩ!"

Sắc mặt ai nấy đều thay đổi, đã có người rục rịch đặt tay vào đao rồi.

"Thay vì chờ chết, không bằng nhân cơ hội này bắt tay tiêu diệt Ngạc Khắc Thiện đi, vậy thì từ nay về sau ai cũng có khả năng trở thành đại thủ lĩnh! Nhưng chỉ cần Ngạc Khắc Thiện còn sống, chỉ cần Ngạc thị vẫn còn, phiên tộc Tây Bắc này không ai có cơ hội leo lên cái ghế đó!"

Ngạc Khắc Thiện mặc kệ hắn nói, không có ý cắt ngang.

Ngạc Đan: "Các ngươi muốn biết chuyện gì xảy ra với khoản bạc Đại Hạ kia không? Ta nói cho mà biết, từ trước đến giờ Ngạc Khắc Thiện đều cấu kết với Đại Hạ..."

Bộp một tiếng, đầu người rơi xuống đất.

"..."

Bên trong phòng khách hoàn toàn yên tĩnh.

Người của các phiên tộc lặng ngắt như tờ, bỗng có một người đứng dậy hỏi: "Ngạc nguyên soái, ta thấy bữa tiệc cưới này không hợp để bọn ta tham gia, có thể cho phép bọn ta đi không?"

Ngạc Khắc Thiện cười nhìn người vừa lên tiếng: "Ngươi là... Phu Châu Chiết thị?"

"Thủ lĩnh Chiết thị Chiết Thanh Phong."

"Chiết tướng quân, nghe nói Chiết tướng quân rất được Lâm An quận vương trọng dụng, Chiết gia quân lập công nhiều lần, mấy năm nay thanh danh đã áp bức Ngạc thị rồi, có nghĩ đến chuyện chiếm đoạt gì không?"

"Nếu như nói không thì sợ là Ngạc nguyên soái không tin. Nhưng nếu nói là dã tâm bừng bừng, thật sự không có gan lấy tính mạng cả tộc ra để mạo hiểm."

"Ha ha ha... Thành thật đấy! Chư vị hãy nói xem, đám con trai của ta là chim phượng non hót hay hơn phượng già phải không?"

Không ai dám đáp lại, chỉ có Chiết Thanh Phong là không đổi sắc mặt: "Đúng là phượng non hót hay hơn phượng già, nhưng gừng càng già càng cay."

Ngạc Khắc Thiện lại tỏ vẻ không vui, ánh mắt sắc như mắt chim ưng nhìn chằm chằm Chiết Thanh Phong, có linh cảm nếu như ông ta để cho người này đi thì sẽ gặp vấn đề vô cùng khó giải quyết.

"Xin hỏi Nguyên soái, bọn ta có thể đi không?" Những người khác nhao nhao hùa theo.

"Vội làm gì? Tiệc cưới vẫn diễn ra, tiếp tục ca nhạc, ăn uống no nê đã. Ngồi đi, ngồi về chỗ cũ đã, ăn no rồi hãy lên đường."

Biểu cảm của mọi người đều thay đổi, không ai bình tĩnh nổi, nhao nhao siết chặt đao sẵn sàng đón địch.

Chiết Thanh Phong: "Nguyên soái có ý gì? Bọn ta đều là thủ lĩnh các tộc Tây Bắc, nếu như gặp rắc rối ở chỗ của ông, chỉ e là triều đình sẽ hoài nghi Ngạc Khắc Thiện ông là kẻ hai lòng có ý đồ xấu."

Ngạc Khắc Thiện nở nụ cười, "Con người của ta thế nào ấy nhỉ, không có dã tâm lớn, chỉ muốn ở Tây Bắc tiếp tục hưởng phúc mà thôi. Có thể Tây Bắc trong mắt người Đại Cảnh và Trung Nguyên chỉ là một vùng đất lạnh giá, thế nhưng trời cao hoàng đế xa, ta chính là hoàng đế ở đây! Những gì trong cung có, Ngạc phủ của ta chẳng thiếu gì, thật ra ta đã cảm thấy mỹ mãn lắm rồi."

Ngạc Khắc Thiện vỗ vỗ ngực, bày ra vẻ moi tim móc phổi nói: "Nhưng ba năm trước đây xảy ra chút biến cố, Ngạc phủ bị thiếu một lượng bạc lớn... Vào chẳng bằng ra. Dưới quyền ta nuôi ngần ấy binh, không thể để cho bọn họ đang sống sung sướng đột nhiên phải tằn tiện đúng không? Ta mới nhớ vẫn còn một khoản tiền để ở tiền trang nước Hạ, khổ nỗi không tìm được cơ hội bước qua biên cảnh Đại Hạ, cũng từng phái không ít thám tử đi rồi, kết quả đều bị bắt lại, nhánh Kinh Nguyên còn bị bới điểm yếu ra, vì thế mới gây nên tai họa Thiên Đô Trại."

Thẳng thắn thành khẩn như thế, nhưng đó lại là mục đích để giết người diệt khẩu.

Ai cũng cẩn thận đề phòng Ngạc Khắc Thiện, đều là lão tướng sa trường, bắt tay nhau đối phó với một Ngạc Khắc Thiện, phần thắng chỉ cao hơn chứ không thấp.

Trong số nhưng người đó, có kẻ đã không nhịn được mà xách đao đánh tới, Ngạc Khắc Thiện vung rìu đánh lại, giơ chân đá vào bụng kẻ kia, những người khác thấy vậy thì ào ào tiến tới vây giết ông ta.

Giả Long Thiên Châu quay đầu nhìn về phía lư hương, khói trắng lượn lờ, mùi đàn hương càng lúc càng nồng, trong phòng khách máu chảy thành sông, bằng mắt thường cũng có thể thấy Ngạc Khắc Thiện đã trở nên điên cuồng.

Lúc này, Ngạc Khắc Thiện đã giết chết hai thủ lĩnh phiên tộc, trường thương của Chiết Thanh Phong đánh từ phía sau tới, đầu thương nhọn giống hệt như con rắn linh hoạt đâm xuyên qua cả rìu chiến, cắt đứt gân tay của Ngạc Khắc Thiện, ông ta bị đau nên buông tay, lập tức bị mũi đao phía sau đâm xuyên bả vai, một thủ lĩnh phiên tộc khác đang bị thương nhưng tay mắt vẫn nhanh nhẹn, gác đao ngang cổ Ngạc Khắc Thiện, ngay khi sắp sửa cắt vào cổ ông ta, thì một mũi tên nhọn vụt qua không trung bắn trúng vào cổ tay của gã.

Tình thế lại thay đổi lần nữa.

Chiết Thanh Phong nhìn về phía cửa phủ Ngạc thị, thấy một đoàn binh sĩ mặc giáp đang nối nhau đi vào sân trước, giáo chiến dựng thẳng, khí thế như hồng, phiên binh tộc Giả Long và phiên binh ba tộc vốn đang chém giết hăng say bên ngoài đột nhiên bị Cấm quân Kinh Châu vây quanh, trong nháy mắt bó tay chịu trói.

Ngạc Khắc Thiện đang băng bó cổ tay của mình, nhìn quanh căn phòng chẳng còn mấy người sống rồi cười to: "Hai đứa con trai của ta và thị tộc dưới trướng ta lén lút thương lượng xem phải giết ta thế nào, thế các ngươi thật sự nghĩ ta không chuẩn bị gì cả ư?"

Chiết Thanh Phong: "Ông tương kế tựu kế, mục đích không chỉ đơn giản là diệt trừ Ngạc Đạt Mộc và Ngạc Đan đúng chứ?"

Ngạc Khắc Thiện ngồi xuống, thuộc hạ nhanh tay nhanh mắt đưa ghế đến, không để ông ta phải ngồi hụt.

"Mấy năm nay, Đại Hạ không phát động tấn công ở khu Kinh Nguyên giúp cho các phiên tộc khác có cơ hội kiếm tên tuổi trên chiến trường, làm thanh danh Ngạc thị ta xuống dốc... Có điều cũng chỉ vài năm mà thôi, kẻ nào cũng có lòng riêng, ai cũng tính toán muốn lấy vị trí đại thủ lĩnh, tưởng ta không nhìn ra được sao? Đừng quên, quan hệ thông gia giữa tám thị tộc Tây Bắc đã tồn tại trăm năm chưa từng đứt đoạn!"

Ngạc Khắc Thiện đè chặt cánh tay: "Quan hệ thông gia là một cách hay, có thể để cho phiên tộc chúng ta gắn bó chặt chẽ, để bên ngoài thấy được ta một lòng, nhưng nó cũng có chỗ không tốt, chính là dễ nảy sinh suy nghĩ gian trá, cảm thấy ai cũng có thể thay thế ta, thậm chí muốn nhờ quan hệ thông gia để nhúng tay vào việc của Ngạc phủ ta, ép ta lập con nối dõi thế này thế nọ... Sao nào? Ta già sắp chết rồi hay là bệnh sắp chết hả?"

Nghiêm nghị chất vấn xong, Ngạc Khắc Thiện nhìn về phía Giả Long Thiên Châu đang núp trong góc phòng: "Nhắc mới nhớ, ta còn phải cảm ơn nàng đã trù tính bao năm qua, nếu không làm sao ta có thể nghĩ ra cái cớ hay để tập hợp đầy đủ mọi người đến như thế này và có cơ hội để danh chính ngôn thuận giết hết bọn họ chứ? Ha ha ha... Có bao nhiêu kẻ không tham gia vào? Có bao nhiêu kẻ không dẫn binh rời thuộc địa! Bây giờ ta giết chết bọn họ ngay chỗ này thì triều đình còn phải khen thưởng ta giết hay! Khen ta có công diệt trừ phản thần nghịch đảng đấy!"

Giả Long Thiên Châu siết chặt binh phù, thấp giọng nói: "Ta không hiểu ông đang nói gì."

Vẻ mặt Ngạc Khắc Thiện trở nên ôn hòa: "Nàng hiểu đấy."

Vừa dứt lời, ông ta dùng ánh mắt ra hiệu cho thuộc hạ dập tắt lư hương.

Giả Long Thiên Châu thấy vậy, đồng tử co rút nhanh, quay đầu trừng mắt với Ngạc Khắc Thiện, thất thanh hỏi: "Ông... Ông biết sao?"

Ngạc Khắc Thiện: "Ta phụ biết bao người trong thiên hạ, không biết đã nợ biết bao nhiêu mạng người, làm sao có thể ôm lòng áy náy với một người đàn bà đã chết nhiều năm cho đến tận bây giờ được?"

Thấy vẻ mặt khó tin của Giả Long Thiên Châu, Ngạc Khắc Thiện lại đổi giọng dịu dàng nói: "Ta vẫn còn lương tâm, đúng là đã từng áy náy, cũng hoài nghi không biết có phải tám năm chơi đùa thành thật hay không. Về sau có duyên, vừa khéo phát hiện mùi đàn hương trong viện của nàng nồng một cách khác thường, ta bèn tìm y sư Nam Cương đến hỏi mới biết những năm đầu đã bị nàng quấy phá."

Giả Long Thiên Châu thấp giọng: "Vì vậy nên ông mới tương kế tựu kế, trái lại lợi dụng ta giúp ông đạt được mục đích khống chế hoàn toàn trăm ngàn phiên binh Tây Bắc ư... Ông thật sự chưa từng nghĩ đến chuyện mưu triều soán vị à?"

"Hầy." Ngạc Khắc Thiện thở dài: "Sao lúc ta nói thật thì lại không có ai tin thế này?"

Ông ta lấy làm tiếc, đứng dậy ra cửa: "Cho bọn chúng thỏa mãn đi."

"Trước khi làm điều đó, ta muốn hỏi ông chuyện khoản bạc Đại Hạ kia là thế nào?"

Đột nhiên có một giọng nói xen vào khiến cho Ngạc Khắc Thiện cứng đờ, ông ta quay đầu lại theo âm thanh đó nhưng không thấy ai cả.

"Ngẩng đầu lên đây."

Ngạc Khắc Thiện ngẩng đầu nhìn lên, thấy trên nóc nhà có hai mảnh ngói bị dỡ ra, chẳng biết Chu Tử Thư đã ở trên đó từ khi nào, càng không biết đến cùng là y đã nghe được bao nhiêu.

... Mặc kệ y đã nghe được bao nhiêu, ngậm chặt miệng mãi mãi là được.

"Trước khi diệt khẩu, có thể giải thích nghi hoặc giúp ta trước không?"

***

Khi hai nhóm phiên binh lại lao vào nhau chém giết, Chu Tử Thư đột nhiên bị bịt miệng, y giãy giụa không ngừng đến khi ngửi được mùi đàn hương quen thuộc mới tỉnh ra.

Nhận ra y không vùng vẫy nữa, người nọ mới buông tay.

"Cung Tuấn!" Chu Tử Thư nhìn hắn, "Có ai dọa người khác giống như chàng không hả?"

Cung Tuấn gác hai tay lên vai Chu Tử Thư, khom người cúi đầu xuống, đảo mắt ý bảo y nhìn bảy tám mũi tên sắt cắm khắp phòng: "Chu đại nhân của ta, em mới là người dọa ta sợ, đừng có vừa ăn cướp vừa la làng."

Chu Tử Thư chột dạ. "Được thôi." Y quan sát áo giáp đen nặng trịch trên người Cung Tuấn, giáp đen sắc bén lạnh thấu xương, không giận tự uy, eo lưng thẳng tắp còn khuôn mặt thì như vẽ, trên lưng đeo ô thương dài, dù vảy giáp không vướng bụi vẫn có thể cảm nhận được không khí của vực sâu đẫm máu, nhưng đó lại không phải mùi máu khiến cho y sợ hãi.

Y biết người này chính là người đàn ông của y, biết người này chính là chiến thần của Đại Cảnh, là thứ vũ khí sắc bén đứng sừng sững ở Tây Bắc muôn đời để bảo vệ quốc gia, không thể mạo phạm, là người vĩnh viễn yêu thương y.

Chu Tử Thư ôm eo Cung Tuấn chôn mặt vào ngực hắn, mặc dù chỉ cảm thấy lạnh ngắt nhưng không ngại lấy lòng.

"Nè, ta nhớ chàng lắm đó."

Tiểu Chu đại nhân hành động như vậy, Cung Tuấn cũng hết cách, hắn thỏa hiệp, không mở miệng dạy bảo nhưng vẫn phải nói hai câu cho bằng được: "Không cần phải xử lí Ngạc Khắc Thiện ngay bây giờ, em vội làm gì?"

Chu Tử Thư: "Ta muốn xem kịch."

Cung Tuấn: "Em có đủ năng lực tự bảo vệ mình sao?"

Chu Tử Thư: "Ta sai rồi."

Mấy năm nay tốc độ nhận sai của tiểu Chu đại nhân trở nên cực kì nhanh nhạy, cần bao nhiêu chân thành thì có bấy nhiêu chân thành, nhưng lần sau y vẫn còn dám tái phạm.

Cung Tuấn bất lực, cuối cùng vẫn sợ bóng sợ gió một hồi.

"Thế bây giờ có muốn đến tận nơi xem trò vui không?"

"Đến đâu?"

"Nhóc nhà Ngạc phủ, thế nào?"

"Đi chứ. Cơ mà không có chiến sự không thể tự ý rời thuộc địa, chàng điều binh từ đâu đến thế?"

"Thiết kỵ Đường Hà không bị ràng buộc, điều năm trăm người tới đây."

"Đến từng đó người sao?"

"Còn phải ở lại thu dọn tàn cuộc nữa chứ, phiên binh Kinh Nguyên, Cấm quân đều đã được người đáng tin tiếp nhận rồi."

Chu Tử Thư suy nghĩ, hình như thiết kỵ Đường Hà của Cung Tuấn không được đào tạo theo kiểu nhà binh, mà là đào tạo nhà binh thành một đội ngũ chỉ toàn tướng quân nguyên soái.

Nhưng rốt cuộc là binh của Đại Cảnh cứ để cho Cung Tuấn tự do điều khiển như thế à, không cần hoàng mệnh sao?

***

Khi Ngạc Đan đang chất vấn, Chu Tử Thư và Cung Tuấn đã đang ngồi trên nóc nhà quan sát toàn bộ quá trình, khi Ngạc Khắc Thiện chuẩn bị mở miệng hô diệt sạch mới lên tiếng.

Một tiếng ầm vang lên, Cung Tuấn đạp thủng một cái miệng hố lớn rồi ôm Chu Tử Thư nhảy xuống, Ngạc Khắc Thiện cảnh giác lui về phía sau, lập tức có binh sĩ chắn trước mặt ông ta.

"Cấm quân Kinh Châu?" Chu Tử Thư rụt tay vào trong ống tay áo dài, không muốn chạm vào những thứ bừa bộn dưới đất, "Bổn quan là đại quan nhị phẩm Kinh lược sứ do bệ hạ thân phong, đại sứ biên cương, đến cả Nguyên soái Ngạc Khắc Thiện của các ngươi cũng phải chủ động nhường lại binh quyền đấy."

Chúng tướng sĩ quay mặt nhìn nhau, không hề dao động.

Chu Tử Thư lạnh mặt quát lớn: "Vấn muốn nối giáo cho giặc hay sao?"

Cung Tuấn tiến về phía trước một bước: "Ngạc nguyên soái không quen biết bổn vương à?"

Ngạc Khắc Thiện híp mắt, thấy rõ Cung Tuấn thoáng cái mặt mũi như gặp kẻ địch mạnh, cẩn thận lui về phía sau: "Cũng chỉ là hai tên giặc mở miệng nói lời ngông cuồng mà thôi, giết hết cho ta!"

"Ai dám động đậy!" Chu Tử Thư nghiêm nghị thét lên, lấy con dấu và thẻ bài đeo thắt lưng từ trong tay áo ra nói: "Con dấu quan phòng ở đây, còn không mau bắt lấy loạn thần tặc tử Ngạc Khắc Thiện?"

Tướng sĩ đứng phía trước nhìn thấy con dấu quan phòng lập tức mềm nhũn cả chân, liên tục phất tay: "Bắt... Bắt Ngạc nguyên soái, à không, bắt nghịch đảng Ngạc Khắc Thiện!"

Binh sĩ nghe lệnh làm việc, tất cả đầu mũi thương đều nhắm vào Ngạc Khắc Thiện, sắc mặt của ông ta trở nên khó coi, xoay người chạy trốn, đám binh lính bình thường không phải là đối thủ của ông ta, nhất thời đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi.

Cung Tuấn không nhanh không chậm theo sát sau lưng Ngạc Khắc Thiện, chơi đùa với ông ta giống như mèo vờn chuột, hắn cầm lấy cây ô thương nặng trịch lên phóng đi, thương bay nhanh như chớp vụt đến chỗ Ngạc Khắc Thiện, ông ta thấy vật chắn không thể cản bèn vươn tay đỡ lấy ô thương, bị xung lực sắc bén làm văng đi xa mười bước, bàn tay cũng bị mũi thương cắt rách, máu rót ra như nước, không đợi Ngạc Khắc Thiện phun những lời tức giận, Cung Tuấn đã bước đến trước mặt ông ta đạp một cú, hai tay của ông ta mềm nhũn hoặc toàn không có sức chống đỡ ô thương, sau đó bị thương xuyên qua bả vai đóng vào cột như đóng đinh, Ngạc Khắc Thiện cố nén cơn đau mãnh liệt để rút nắp khẩu pháo giấu bên hông ra, phốc một tiếng pháo bay về phía bầu trời đêm nổ thành một chùm hoa nhỏ sáng rực.

Ngạc Khắc Thiện nở nụ cười điên cuồng đắc ý, Cung Tuấn cầm chặt ô thương xoay một vòng, người phía trước đau đến nhăn mặt.

"Đợi hai mươi ngàn phiên binh của ông à?"

Ngạc Khắc Thiện bỗng có dự cảm xấu: "Các ngươi không có khả năng điều động nhánh binh mã vùng lân cận, không ai có thể gánh nổi trách nhiệm này! Các ngươi cũng không thể điều động Cấm quân Kinh Nguyên, ta không thể không biết... Chỉ bằng một mình ngươi thì không thể ngăn cản hai mươi ngàn phiên binh!"

Rồi ông ta chợt nhận ra, "Là đội binh trong lời đồn của ngươi đấy ư?" Ngạc Khắc Thiện vô cùng suy sụp, "Hoàng đế Đại Cảnh tin tưởng ngươi như thế, còn cho ngươi một nhánh thần binh rong ruổi biên cảnh Tây Bắc... Ngươi... Chẳng lẽ ngươi mới là shh!"

Cung Tuấn lại xoay ô thương trong tay thêm một vòng nữa, lạnh lùng nói: "Đến nước này rồi đừng có khoe khoang mình thông minh nữa, thành thật trả lời câu hỏi của tiểu lang đi."

Lúc này Chu Tử Thư mới đi tới, tiếp lời Cung Tuấn.

"Ông có quan hệ gì với Vương Nguyệt Minh?"

==

Min: Theo tui thì đây là chiếc arc căng không kém arc Lưỡng Giang, đọc đoạn đầu lan man dài dòng tưởng không liên quan, nhưng đây mới là âm mưu to nhất truyện, boss Tam gia đã chầu ông bà nhưng vẫn còn boss phản quốc Tang Lương Ngọc, hai bên chuẩn bị quánh nhau ì xèo ⚔ sắp tới Cá và lão Cung lại phải xa nhau nữa rồi T^T

(xì poi cực căng: chông vợ hài cùng xách đao đi đánh trận và suýt ngỏm củ tỏi cả đôi t ổn lắm)

Chương 100

"Vương Nguyệt Minh gì?"

Ngạc Khắc Thiện chuyển ánh mắt từ trên người Chu Tử Thư sang Cung Tuấn rồi ôm một bụng nghi ngờ: "Hóa ra tiểu quận vương vẫn luôn ẩn núp bên cạnh Chu đại nhân, vậy mà còn thả Thôi tiểu tướng quân ra để dụ dỗ ta, thì ra là để cho ta giảm bớt cảnh giác, khiến ta thật sự cho rằng Chu đại nhân chỉ mong Tây Bắc được ổn định chứ không quản cuộc tranh đấu giữa các phiên tộc, dù sao thì kẻ muốn làm ngư ông đắc lợi trụ tới cùng vẫn phải có binh trong tay. Không ngờ... Không ngờ Hoàng đế Đại Cảnh lại cho tiểu quận vương ngài về Tây Bắc trong lúc đất nước thái bình, ta chỉ còn thiếu một nước cờ nữa thôi."

Chu Tử Thư im lặng nghe ông ta cảm thán xong mới tốt bụng nói cho ông ta biết: "Thật ra "Thôi tiểu tướng quân" bên cạnh ta vẫn luôn là Cung Tuấn đấy."

Sắc mặt Ngạc Khắc Thiện thoáng thay đổi, đồng tử giãn ra.

Chu Tử Thư lấy lá thư ngày đó trình lên công đường ra khỏi ống tay áo, để cho Ngạc Khắc Thiện với đôi mắt sáng không có vấn đề gì nhìn rõ dấu ấn trên giấy.

"Lúc mới đến Kinh Châu, bọn ta đã tiết lộ thân phận rồi mà."

Điều này khiến cho Ngạc Khắc Thiện không tài nào tiếp nhận nổi, từ đầu đến cuối ông ta đều cho rằng bản thân thua cuộc là vì phán đoán sai mức độ tin tưởng của Hoàng đế Đại Cảnh dành cho Lâm An quận vương, theo lẽ thường tuyệt đối không thể nào lệnh cho Cung Tuấn về Tây Bắc điều tra cuộc chiến Thiên Đô Trại trong thời bình thế này, đây chẳng phải là giao lại Cấm quân Kinh Nguyên và phiên binh cho Cung Tuấn hay sao? Không sợ hắn dẫn binh tạo phản à?

Cung Tuấn không có ở Tây Bắc, Kinh lược sứ có gì đáng sợ đâu?

Ông ta cứ nghĩ mình thua ở chỗ này, cuối cùng Chu Tử Thư lại nói bọn họ vừa đến Kinh Châu đã tiết lộ thân phận một cách quang minh chính đại rồi?

Làm sao có thể chứ?

Ánh mắt của Ngạc Khắc Thiện di chuyển đến chỗ Mông Thiên Túng đang đi ra khỏi tiền thính, qua cơn hỗn loạn mà ông ta chẳng tốn một sợi lông sợi tóc nào, còn có thể thấy được ông ta đang cố nheo mắt để nhìn quanh bốn phía. Với cái bộ dáng này, làm sao có thể không nhìn ra được mắt ông ta có vấn đề?

"Mông Thiên Túng!!!"

Ngạc Khắc Thiện gào lên, hít thở khó khăn ảnh hưởng đến vết thương, không nhịn được nôn ra một ngụm máu đầy.

"Hả?"

Mông Thiên Túng chịu quá nhiều nổi sợ hãi tổn hại thể xác lẫn tin thần bị tiếng gọi này dọa cho sợ đến mức té lăn xuống bậc thang, cả buổi trời cũng không gượng dậy nổi, vậy mà còn chẳng rõ vì sao ông ta lại đột nhiên bị Ngạc Khắc Thiện ghi thù.

Mọi việc đều đã được chuẩn bị để sắp sửa giành được đại nghiệp, vậy mà lại thua vì một con chó già ngu xuẩn, làm sao Ngạc Khắc Thiện có thể cam lòng cho được?

"Làm việc lớn cần thiên thời địa lợi nhân hòa, đến ông trời còn muốn ông chơi thua một nước cờ, thất bại thảm hại, đủ để chứng minh rằng đã đến lúc ông nên trả nợ rồi." Chu Tử Thư hỏi: "Có quen Tam gia không?"

Mặt mày Ngạc Khắc Thiện xám xịt, ánh mắt đờ đẫn, ông ta tự nhận mình có gan có mưu, kiêu hùng cả đời, năm đó có thể dùng tấm thân nhỏ bé như cỏ rác này để bò lên vị trí đại nguyên soái Tây Bắc và thủ lĩnh phiên tộc, ngày nay chắc chắn cũng có thể lại gây dựng được đại nghiệp, làm sao ông ta ngờ được bản thân lại thua vì một sơ hở vô nghĩa như vậy được?

Tâm tính đã mất, hai mắt đầy tơ máu, không khỏi lâm vào trạng thái cực kì cố chấp.

"Tam gia Ngũ gia cái gì? Ngươi muốn vu oan cho ta tội gì thì cứ việc nói thẳng, hay là muốn lợi dụng ta để lật đổ kẻ nào nữa? Nói!"

Thấy vẻ mặt của Ngạc Khắc Thiện không giống như giả vờ, chẳng lẽ y nghĩ sai rồi?

Chu Tử Thư: "Khoản bạc ở Đại Hạ là của ai? Ông đã cấu kết những gì với Đại Hạ? Khi Thác Bạt Minh Châu bao vây thành, ông đã dùng thứ gì trao đổi với hắn để khiến cho hắn lui binh?"

Ngạc Khắc Thiện cười khẩy không ngừng, vốn không muốn nói, nhưng khi nhìn thấy Chiết Thanh Phong và đám thủ lĩnh phiên tộc may mắn còn sống sót, ông ta cũng không cảm thấy bị kích động, nếu như vẫn cắn chết không nói thì cũng chẳng thể lấy lại được vinh quang cho Ngạc thị, sẽ có một thủ lĩnh phiên tộc mới cướp lấy vị trí thế gia vọng tộc của Ngạc thị ở Tây Bắc, cướp đi vị trí đại thủ lĩnh mà lẽ ra phải để cho đệ tử Ngạc thị kế thừa...

Trong số những kẻ đang bước ra ngoài, không một ai là không muốn lấy mạng của ông ta.

Chi bằng nói ra, để cho triều đình có một cái cở để xét nhà diệt tộc, thuận lý thành chương nghi ngờ những phiên tộc có quan hệ thông gia với Ngạc thị, khiến cho bọn họ luôn phải sống trong những ngày tháng bị Hoàng đế Đại Cảnh nghi ngờ, nơm nớp lo sợ mà tạm bợ cho qua ngày.

"Được thôi, lão phu sẽ nói hết đầu đuôi gốc ngọn mọi chuyện cho ngài ngay, bao gồm cả chuyện lão phu đã cấu kết với Quốc sư Đại Hạ Tang Lương Ngọc từ mấy năm trước, việc hắn giúp đỡ tai ngồi lên cái ghế đại thủ lĩnh này, cùng với cả việc ta nhận hối lộ từ Tang Lương Ngọc vài năm gần đây, giúp hắn vận chuyển lương thảo, bạc trắng, các loại khoáng vật như đồng sắt,... từ phía nam qua các chợ ở biên cảnh vào Đại Hạ, trợ giúp kinh tế Đại Hạ phát triển trong vòng vài năm ngắn ngủi, dân giàu nước mạnh, để cho họ không bị kinh tế Đại Cảnh lấn át, dẫn đến việc bọn họ dễ dàng xâm phạm vào biên cảnh Tây Bắc một cách trắng trợn"

Những thủ lĩnh phiên tộc đi ra nghe vậy mà biến sắc, Ngạc Khắc Thiện thông đồng với địch phản quốc chắc chắn sẽ liên lụy đến tất cả các phiên tộc thông gia, ảnh hưởng đến cả sự nghi ngờ của triều đình đối với lòng trung của phiên tộc Tây Bắc.

Sau việc này, e là Đại Cảnh sẽ đề ra một loạt cách chèn ép khống chế quyền hành của các thủ lĩnh phiên tộc trong quân, bó buộc những chính sách của phiên tộc, một mình Ngạc Khắc Thiện làm liên lụy đến hơn trăm ngàn con dân phiên tộc Tây Bắc, đúng là nghiệp chướng nặng nề.

Cung Tuấn đột nhiên rút ô thương ra, khi Ngạc Khắc Thiện vẫn còn đang vô cùng đau đớn, hắn nhanh tay cắm thương vào bả vai bên kia của ông ta, tiếng kêu thảm thiết thoáng vang vọng bầu trời đêm Ngạc phủ.

Mặt Chu Tử Thư phủ đầy sương lạnh, không có chút đồng cảm nào, Ngạc Khắc Thiện vì bản thân mình mà dẫn đến việc Đại Hạ phát động vô số trận chiến, số người chết đã lên đến trăm ngàn người, có tướng sĩ bảo vệ đất nước, cũng có dân chúng bình dân như người già yếu, phụ nữ và trẻ em chỉ muốn bảo vệ đất đai nhà cửa nơi mình sinh sống mà thôi.

"Nói vậy ông chỉ là bên trung gian hỗ trợ vận chuyển những vật phẩm vi phạm luật cấm, lấy lợi nhuận từ trong đó ra thôi sao, nhưng lương thảo, bạc trắng và khoáng vật như đồng thiết phương nam từ đâu mà có? Vì sao lại nói là biến cố xảy ra vào ba năm trước... Là vì đại án Lưỡng Giang đã nhổ mất cái đinh chôn ở phía nam giúp Tang Lương Ngọc kiếm tiền hay sao?"

Ngạc Khắc Thiện cười yếu ớt: "Tiểu Chu đại nhân... Quả nhiên rất thông, thông minh. Vốn để tránh tai mắt của người ngoài, những con cờ thu tiền mà Tang Lương Ngọc sắp xếp vào phía nam Đại Cảnh vô cùng, vô cùng thưa thớt, dù có bắt được người, chúng cũng quyết không khai ra thêm ai khác, điều đó sẽ chỉ khiến cho các ngươi nghĩ rằng chúng là gián điệp, không đoán ra được mục đích thật sự của Tang Lương Ngọc... Nhưng có ai ngờ? Đâu có ai ngờ! Không ngờ Chu Tử Thư ngươi lại thẳng tay chém sạch hơn nửa quan trường Đông Nam! Ngươi có biết sức công phá của mình mạnh đến mức nào hay không? Bàn cờ được bày bố cẩn thận, những con cờ rải rác khắp nơi, kẻ thì bị bắt, kẻ thì chết, tất cả đều trở nên hỗn loạn! Một tấm lưới lớn được giăng ra nhiều năm như vậy mà chỉ trong chốc lát thôi đã bị hủy hoại dễ như trở bàn tay, hoàn toàn không tìm được cách để sửa chữa!"

Ông ta giơ ngón tay cái lên: "Chu đại nhân à, Chu Tử Thư! Nếu như không phải vì ba năm trước ngươi chém nửa quan trường Đông Nam, thì lão phu cũng không đến nỗi trở thành tên tù nhân suy bại như hôm nay. Ngươi, rất giỏi."

Không nhìn ra được ông ta đang nói mát hay là thật lòng thật dạ khen ngợi, Chu Tử Thư cũng không có hứng biết: "Có đôi khi con người phải tìm hiểu nguyên nhân từ bản thân mình đấy, có hiểu câu ác giả ác bảo không?"

Y thấp giọng hỏi: "Có phải là ông đã giao chứng cứ mình cấu kết với Tang Lương Ngọc cho Thác Bạt Minh Châu rồi không? Đồ vật chuyển cho Tang Lương Ngọc từng qua tay ông, có lẽ đều có ghi chép lại trong sổ sách nhỉ."

Ngạc Khắc Thiện: "Có chứ." Ông ta vươn tay vẫy vẫy: "Chu đại nhân đến đây đi, ta sẽ nỏi nhỏ cho ngài nghe."

Chu Tử Thư duỗi chân rồi đứng yên, một lát sau mới rút chân về như chưa có gì xảy ra: "Ngại quá Ngạc đại nhân à, ta nhát gan sợ chết lắm, lo rằng nếu như ta qua đó, ngài trói ngược ta uy hiếp Cung Tuấn để lấy cớ chạy trốn rồi sao, đáng sợ hơn nữa chính là ông không muốn chạy, mà là muốn một kèm một, kéo ta chết theo ông thì phải làm sao bây giờ? Lúc ông lừa Ngạc Đan bổn quan đã nhìn thấy cả rồi, đến giờ trong lòng còn sợ, thật sự không dám mạo hiểm."

Ngạc Khắc Thiện thả tay xuống: "Tiếc quá, không thể lừa ngươi được rồi."

Chu Tử Thư: "Không sao, dù gì ông cũng nói ta thông minh mà."

Ngạc Khắc Thiện cười ha ha: "Mở miệng điêu toan cay nghiệt! Có điều ta rất mong chờ được thấy ngươi đấu với Tang Lương Ngọc đấy, Tang Lương Ngọc kia chính là một kẻ điên, để ta xem ngươi sẽ ép tên tiên này đến bước đường cùng bằng cách nào... sổ sách được giấu trong thiền phòng của Giả Long Thiên

Châu ở am Đại Bi! Còn khoản bạc được giấu ở Đại Hạ thì ngươi đi hỏi Giả Long Thiên Châu đi, chắc chắn là nàng ta biết rõ hơn ta."

Nói xong, đột nhiên ông ta rút ô thương ra, gân xanh hằn rõ trên cánh tay, lực vô cùng lớn, trong giây lát đến cả Cung Tuấn cũng khó mà ngăn cản được hành vi đâm thương vào cổ họng mình tự sát của Ngạc Khắc Thiện.

Chu Tử Thư và Cung Tuấn liếc nhau không nói gì, lập tức lệnh cho người đi kiểm tra các thủ lĩnh phiên tộc trong Ngạc phủ, nếu như có người sống sót thì lập tức cứu chữa, cũng bảo Chiết Thanh Phong đích thân đến kiểm tra Giả Long Thiên Châu.

Cấm quân mà Ngạc Khắc Thiện điều đến đã sớm bị thiết kỵ Đường Hà khống chế, nghe theo lời chỉ huy, tất cả đều đã quay về nơi đóng quân, về phần hơn năm ngàn phiên binh mà Ngạc Đạc Mộc và Ngạc Đan mang đến thì đã chết một ngàn, số còn lại cũng đã bị khống chết, chờ đợi bị xử lý.

Chu Tử Thư và Cung Tuấn đến am Đại Bi, quả nhiên tìm thấy một quyển sổ trong thiền phòng của Giả Long Thiên Châu, từ từng khoảng phí vận chuyển, số lượng đến giá trị hàng hoá đều vô cùng rõ ràng.

Sau khi lấy được sổ, hai người rời khỏi am Đại Bi, lúc này trời đã sáng, ánh mặt trời mỏng manh chiếu rọi khắp nơi, đường sá vắng vẻ cũng đã nhanh chóng bị lấp đầy bởi tiếng rao hàng sôi nổi, cuộc sống của dân chúng vẫn diễn ra như thường lệ, mở màn cho một ngày mới, không ai biết rằng đêm qua trong toà thành này đã diễn ra một trận chém giết máu chảy thành sông, lại càng không biết sau ngày hôm nay chính quyền sẽ bị thay đổi, một thế gia vọng tộc bước qua hai triều đại chính thức bị chôn vùi vào sử sách.

Những thứ này chẳng liên quan gì đến bọn họ cả.

***

Tiền thính Ngạc phủ.

Sân trước tiền thính vốn bừa bộn sau khi được dọn dẹp đã sáng bừng lên, Cấm quân thay thế người làm và tỳ nữ Ngạc thị canh gác Ngạc phủ.

Chu Tử Thư và Cung Tuấn bước vào tiền thính, Chiết Thanh Phong chắp tay nói: "Bẩm tướng quân, tiểu Chu đại nhân, gia quyến của Ngạc Khắc Thiện đều đã bị giam lại ở hậu trạch, một số vàng bạc châu báu và hai trăm ngàn lượng bạc đã được chuyển ra khỏi kho phủ, còn có một lượng lớn giấy tờ ruộng đất, đều là ruộng đất bị chiếm đoạt phi pháp. Binh phù của năm mươi ngàn quân Kinh Nguyên và hai mươi ngàn phiên binh đang ở đây, cũng đã lệnh cho phó tướng tạm nhận chức soái theo như lời tướng quân dặn dò."

Còn lại những thủ lĩnh phiên tộc và việc bọn họ vượt quyền điều binh, nên xử lý như thế nào còn cần phải đợi Chu Tử Thư tấu lên triều đình, để triều đình quyết định.

Chu Tử Thư: "Giả Long Thiên Châu đâu?"

Chiết Thanh Phong: "Ở bên trong." Gã tránh sang một bên, nhìn về phía người phụ nữ vẫn còn mặc trang phụ tân nương ở bên trong, thấp giọng nói: "Từ sau khi Ngạc Khắc Thiện chết vẫn luôn ngồi ở trước cửa sổ nhìn trời, đã hai canh giờ rồi vẫn không nhúc nhích gì hết."

Chu Tử Thư biết tâm nguyện của nàng đã thành, bây giờ đang là lúc cảm xúc hỗn loạn, nếu là một người thật sự thương hương tiếc ngọc thì sẽ không đến làm phiền, càng không phải nhắc đến chuyện sắp sửa tra hỏi Giả Long Thiên Châu giống như tra hỏi phạm nhân, tiếc rằng y chỉ thương xót cho kẻ yếu chứ không thương xót người đẹp.

Nghe thấy tiếng bước chân đến gần, Giả Long Thiên Châu liền lên tiếng: "Ông nội của ta là người Nam Cương, có từng học một chút dược lý cổ độc, sau đó dạy nó cho mẹ ta, mẹ dạy lại cho ta, bà ấy là người đầu tiên dùng loại dược vật có thể mê hoặc tâm trí này lên người Ngạc Khắc Thiện. Ngạc Khắc Thiện cảnh giác đa nghi, tính tình tàn khốc khó dao động, mẹ ta không dám dùng thuốc liều cao, ta cũng không dám, bọn ta chỉ có thể cẩn thận từng li từng tí một, dùng hết sức lực yếu ớt và cái mạng này để báo thù... Tiểu Chu đại nhân, ngài nói xem sự trả thù của ta và mẹ ta có nực cười quá hay không?"

"Sao có thể như vậy được?" Chu Tử Thư rất ngạc nhiên, "Quyền thế của Ngạc Khắc Thiện ngập trời, các cô lại bơ vơ không nơi nương tựa, vừa nhỏ bé vừa yếu đuối, nhưng ông đã đã gánh cái danh thông đồng với địch phản quốc nhơ nhuốc kia mà chết, cô vẫn còn sống có nghĩa là các cô đã thắng. Quá trình không quan trọng, kết quả do người thắng định đoạt. Ngạc Khắc Thiện dễ nóng giận, sùng bái thần phật, thiên vị Ngạc Đan khiến cho hậu trạch không yên, phiên tộc bất mãn, dẫn đến cảm giác nguy cơ tăng cao... Một loạt phản ứng dây chuyền đó mới là thứ tạo thành cục diện mua dây buộc mình cho ông ta, nếu không nhờ mẹ cô và cô đã mài mòn tinh thần và tâm lý của Ngạc Khắc Thiện nhiều năm qua, e là bọn ta cũng không thể dễ dàng đối phó với ông ta như vậy."

Trước khi biết rõ sự thật, Ngạc Khắc Thiện nhân từ, áy náy yếu lòng và chịu đủ tra tấn là sự thật, sùng bái thần phật cũng là thật, làm sao có thể không bị ảnh hưởng chút nào chứ?

Giả Long Thiên Châu ôm mặt xoay người lại, lệ đã rơi đầy: "Ta sợ lắm... Sợ mẹ ta chết rồi vẫn bị súc sinh Ngạc Khắc Thiện kia lợi dụng."

Cha mẹ nàng chết vì Ngạc Khắc Thiện, đến lúc chết rồi vẫn bị lợi dụng đến cùng cực, nửa đời trước của nàng cũng đã bị vùi lấp trong cái bóng của Ngạc Khắc Thiện mất rồi, không thể giải thoát.

Khi nàng nghe thấy Ngạc Khắc Thiện nói ông ta đã biết hương đốt có vấn đề, chỉ là tương kế tựu kế thôi, phòng tuyến trong lòng nàng đã tan vỡ trong nháy mắt, chỉ cảm thấy rằng sự kiên trì mấy chục năm qua của mình đều là điều vô nghĩa.

Cũng may Chu Tử Thư đã thức tỉnh nàng, việc đời luôn phải để cho người thắng định đoạt.

"Ngài nói cũng đúng, mưu kế của bọn ta cũng không phải là việc vô ích." Giả Long Thiên Châu lau mặt, nói ra ý tốt: "Chu đại nhân, ngài muốn hỏi điều gì? Ta biết sẽ nói."

"Số bạc giấu ở Đại Hạ mà Ngạc Khắc Thiện nói là sao?"

"Ta cũng đoán được ngài sẽ hỏi cái này, lần trước ta từng nói có người cho ta người, cho tiền, còn nói ta phải kiên nhẫn chờ đợi, chờ đến một ngày Ngạc Khắc Thiện kéo tất cả phiên tộc vào cục diện đối lập với triều đình, đó sẽ là lúc ta báo được thù lớn, đại nhân có nhớ không?"

Chu Tử Thư gật đầu.

"Phần đề chữ trên thư mà người này gửi cho ta luôn chỉ có hai chữ: Tam Yết." Tam Yết, Tam gia, hiệu của Vương Nguyệt Minh.

"Ta không biết tên húy của người đó, chỉ biết ông ta là người Lưỡng Giang, tự xưng là một thư sinh nghèo, ba năm trước đã mắc bệnh chết rồi, ông ấy lệnh người đưa cho ta một cái hộp gỗ nhỏ, chỉ nói nếu như Ngạc Khắc Thiện chết vì tội danh thông đồng với địch phản quốc do Lâm An quận vương đích thân đến kết liễu ông ấy, thì ta hãy đưa cái hộp này cho người đi cùng với Lâm An quận vương."

Chu Tử Thư cau mày, Vương Nguyệt Minh tính toán không sót đến bước này ư?

"Bảy năm trước, Ngạc Khắc Thiện đã gặp gỡ thương nhân đến từ phía nam nhiều lần, mỗi tháng các chợ đều sẽ bị đóng cửa ba ngày, nhưng ta biết rõ việc trao đổi hàng hóa giữa Nam thương và thương nhân nước Hạ thì không ngừng nghỉ, bốn năm trước Đại Hạ đột kích Phu Châu, tất cả các chợ ở biên cảnh đều đóng cửa cắt đứt việc thông thương với Đại Hạ, nhưng chợ ở Kinh Châu thì mỗi tháng mở cửa ba ngày như thường lệ, ta liền đoán được rất có thể Ngạc Khắc Thiện đang qua lại với nước địch. Đây là tội lớn mất đầu, có thể trở thành cơ hội tốt để hành động một lần lật đổ Ngạc Khắc Thiện, dù có mạo hiểm cũng đáng. Thế nhưng bọn ta ít người thiếu sức, rất nhanh đã bị phát hiện rồi đuổi giết, có một người đã cứu ta trên con phố sầm uất, đó là người của Tam Yết tiên sinh, lần đó cũng là lần đầu tiên ta được gặp gỡ Tam Yết tiên sinh."

"Dường như ông ấy biết rất rõ thân thế, nỗi hận và mưu kế của ta, bao gồm cả việc ta hạ dược vào trong hương đốt nữa, giống như là không có gì mà ông ta không biết hết."

"Tiên sinh nói cho ta biết rằng ta không thể giết Ngạc Khắc Thiện, nhưng Ngạc

Khắc Thiện tự rước cái chết vào người, ta chỉ cần chờ thời là được." Giả Long Thiên Châu lộ vẻ suy nghĩ sâu xa, "Tiên sinh không tiết lộ quá nhiều, hình như người mà ông ấy cho ta có liên hệ rất chặt chẽ với Đại Hạ, người đó biết rõ ngôn ngữ chính của Đại Hạ, Nam Cương thậm chí là ngôn ngữ của Đột Quyết... Để tiện liên lạc, ta mới học thêm ngôn ngữ của những nơi đó."

Chu Tử Thư: "Vậy khoản bạc kia thì sao?"

Giả Long Thiên Châu: "Ta chỉ biết là tiên sinh có một khoản bạc cực lớn đang được giữ ở Đại Hạ, cụ thể là bao nhiêu, lấy bằng cách nào đều nằm trong hộp gỗ mà ông ấy đưa cho ta, Ngạc Khắc Thiện không biết về sự tồn tại của hộp gỗ, cũng chẳng biết ông ta nghe ngóng được tin tức ở đâu, từ ba năm trước đã không ngừng phái người lẻn vào Đại Hạ, muốn tìm cho ra số tiền đó."

Theo như lời Ngạc Khắc Thiện, thì nguyên nhân là do ông ta không ngừng phái người lẻn vào Đại Hạ, phòng tuyến của Thiên Đô Trại mới dễ dàng bị công phá đến như vậy, từ đó dẫn đến trận chiến Thiên Đô Trại, kéo theo một loạt sự kiện phát sinh sau đó.

Chu Tử Thư nhìn Cung Tuấn.

Cung Tuấn: "Ngạc Khắc Thiện muốn hưởng khoản bạc kia một mình nên sẽ không để lộ tin này ra ngoài, ngày đó lão lợi dụng chứng cứ bản thân và Tang Lương Ngọc lén lút qua lại để khuyên Thác Bạt Minh Châu rút binh, Thác Bạt Minh Châu có được chứng cứ dùng để kiềm hãm Tang Lương Ngọc rồi tất nhiên sẽ vội vàng thu quân về triều, chúng ta vẫn còn cơ hội để lấy khoản bạc kia."

Chu Tử Thư như có điều suy nghĩ, hỏi Giả Long Thiên Châu: "Hộp gỗ đang ở đâu?"

Giả Long Thiên Châu cười gian xảo: "Ở trong một tiệm cầm đồ khó ai để mắt tới dưới danh nghĩa của Ngạc Khắc Thiện."

Chu Tử Thư bật cười, thật đúng là vùng tối dưới đèn.

***

Trước khi chết Vương Nguyệt Minh vẫn bắt tay vào tính toán sắp đặt cho chuyện của tận ba năm sau, chiếc hộp gỗ có liên quan đến sự an nguy của hai quốc gia đã được chuộc lại, đang đặt trên bàn trước mặt Chu Tử Thư.

Giả Long Thiên Châu thong thả nói: "Ta sẽ không quấy rầy nữa."

Nói xong thì lui ra khỏi phòng, trong phòng chỉ còn lại Cung Tuấn và Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư đan mười ngón tay lại, hai ngón tay cái vuốt ve lẫn nhau, nhìn hộp gỗ mà mặt không đổi sắc, muốn mở ra nhưng lại không sẵn sàng mở lắm, sống hơn hai mươi năm cuộc đời lần đầu tiên nảy sinh tâm lý phản nghịch không chịu nhận thua.

Nếu như y mở hộp gỗ ra, chẳng phải là sẽ lại bị Vương Nguyệt Minh tính kế hay sao?

Lần trước bị tính kế để đối phó với Xương Bình, lần này muốn lợi dụng y để làm gì nữa đây?

Theo như lời mà Giả Long Thiên Châu thuật lại, ông ta đã nói "Giao hộp gỗ này lại cho người đi cùng Lâm An quận vương", trừ Chu Tử Thư y ra thì còn ai khác nữa?

"Sao lại không mở ra?" Cung Tuấn hỏi.

Chu Tử Thư mân mê ngón cái, không bằng lòng trả lời lắm.

Cung Tuấn nhìn thấy dáng vẻ này của y thì đoán ra được ngay đầy chính là sự kiêu ngạo bé nhỏ của kẻ thông minh tuyệt đỉnh, dù có ôn hòa như Chu Tử Thư cũng không tránh khỏi có lúc cũng muốn phân cao thấp với người khác.

"Vì là kỳ phùng địch thủ nên cảm thấy tiếc hận sao?"

"Vương Nguyệt Minh thông minh đến thế cũng không thể triệt tiêu hoàn toàn tội lỗi mà ông ta phạm phải, đúng là ta cảm thấy tiếc, nhưng tiếc là vì chính đấu quan trường năm đó đã khiến cho thiên hạ mất đi một vị quan tốt."

Cung Tuấn nắm lấy ngón tay của Chu Tử Thư rồi nói: "Ta cũng nghĩ vậy. Nhưng ta tin rằng trên đời này chỉ có một Chu Tử Thư duy nhất dù ngã xuống bùn lầy nhưng trái tim chân thành thì vẫn còn nguyên vẹn."

Cung Tuấn luôn có thể lặng lẽ an ủi tâm trạng Chu Tử Thư một cách tinh tế và mượt mà trong thời điểm thích hợp, chỉ trong chớp mắt, cảm giác mất hứng khi biết mình bị Vương Nguyệt Minh tính kế của Chu Tử Thư đã hoàn toàn tan thành mây khói.

Chu Tử Thư mở hộp gỗ của Vương Nguyệt Minh ra, thấy bên trong có con dấu, thẻ bài, ba quyển sổ và một lá thư.

Cung Tuấn lấy con dấu và thẻ bài sang xem, Chu Tử Thư thì xem sổ sách trước rồi mới mở thư ra đọc: "Mong mọi thứ đều tốt đẹp: Chu đại nhân có thể đọc được thư này, Vương mỗ vô cùng vinh hạnh."

Vừa vào câu đầu đã khiến người ta nổi giận, cũng may là câu thứ hai đi thẳng vào vấn đề chính.

Vương Nguyệt Minh quen thuộc với quan trường và thương trường Đông Nam, Tang Lương Ngọc phái gian tế cải trang thành Nam thương đến Lưỡng Giang cướp đoạt của cải trắng trợn như vậy, làm sao ông ta có thể không biết cho được?

Thế là ông ta bèn cho người điều tra, đuổi theo đến tận biên cảnh Tây Bắc, phát hiện Tang Lương Ngọc và Ngạc Khắc Thiện cấu kết, có duyên gặp và cứu giúp Giả Long Thiên Châu.

Có lẽ là vì thương hại, cũng có lẽ vì là một con cờ có ích, Vương Nguyệt Minh bồi dưỡng Giả Long Thiên Châu, thiết lập một ván cờ, chờ đợi người chơi cờ đến.

Có điều Giả Long Thiên Châu và Ngạc Khắc Thiện đều chỉ là việc nhân tiện, mục đích thật sự của Vương Nguyệt Minh chính là phá hủy nước Hạ, bức sát Tang Lương Ngọc, hóa ra năm xưa là do Tang Lương Ngọc không ngừng giật dây để học sinh đi tế Văn miếu, gã là người đã chạy trốn đầu tiên khi quan binh ập đến, không màng quan tâm đến Vương Nguyệt Minh bị què chân mà chạy về Lưỡng Giang, lừa gạt cha mẹ Vương Nguyệt Minh và tất cả các lão đồng hương, nói rằng chuyện tế Văn miếu chọc giận triều đình đều là do một mình Vương Nguyệt Minh trù tính, e rằng sẽ phải chịu đại họa xét nhà diệt tộc, cha mẹ Vương bị dọa đến mức hoang mang lo sợ, có bệnh thì vái tứ phương, cứ thế mà bị quan huyện địa phương nhân cơ hội trả thù riêng.

Tang Lương Ngọc biết sự tình ở phủ kinh đô sớm muộn gì cũng sẽ truyền đến Lưỡng Giang, cho nên bèn lừa gạt lấy hết gia tài nhà họ Vương, nói gã sẽ đến kinh đô hối lộ đại quan cứu Vương Nguyệt Minh, thật ra là cầm số tiền đó chạy trốn sang nước Hạ, lắc mình một cái trở thành quốc sư Đại Hạ đứng trên vạn người.

Vương Nguyệt Minh tốn mấy năm mới tra ra được chân tướng, vẫn luôn tìm cách hại Tang Lương Ngọc thân bại danh liệt, lưu lại tiếng xấu trong sử sách.

Thực tế, từ cách đây mười lăm năm, Vương Nguyệt Minh đã sắp đặt mọi thứ ở Đại Hạ, mãi đến bảy năm trước phát hiện Tang Lương Ngọc thông đồng với Ngạc Khắc Thiện, ông ta mới xác định con đường sẽ đi sau này.

"Trước đây Vương Nguyệt Minh có giao cho ta sổ sách, trong đó có một khoản tiền lớn không rõ tung tích, sau khi kiểm kê tài sản trong kho phủ của ông ta cũng không có khoản bạc này, ta mới nghi ngờ khoản bạc đó có liên quan đến khoản bạc được đưa vào Đại Hạ mà lúc trước chàng từng nhắc tới, cuối cùng ta vẫn tin tưởng Vương Nguyệt Minh, ông ta khinh thường Tang Lương Ngọc từ tận đáy lòng, nghi vấn cuối cùng đó bây giờ được giải đáp rồi." Chu Tử Thư thở dài nói: "Hóa ra là ông ta đã mở một tiền trang lớn nhất Đại Hạ, một trại ngựa tư nhân dưới chân núi Kỳ Liên, tất cả ngựa ở đó đều là ngựa có thể ra chiến trường, thậm chí còn mở cả một xưởng chế tạo vũ khí nữa!"

Tiền trang kiểm soát chỗ hiểm yếu của Đại Hạ, trại ngựa và xưởng chế tạo vũ khí thì bổ sung toàn bộ khuyết điểm của Đại Cảnh, Vương Nguyệt Minh này thật sự là một người tài giỏi.

Ngựa là một trong những mấu chốt quyết định thắng bại trong chiến tranh, nước Hạ đất nhỏ hiếm của nhưng vẫn có thể trở thành đối thủ khiến Đại Cảnh đau đầu, nguyên nhân lớn nhất chính là nhờ có kỵ binh tốt khó mà địch nổi. Kỵ binh tọa kỵ, mã như long câu, đây chính là mỹ danh của ngựa chiến Đại Hạ.

Trước đây nước Hạ thần phục Đại Cảnh, sẽ dâng ngựa chiến chất lượng tốt theo kỳ hạn, mà khi nước Hạ đã độc lập, Đại Cảnh mất đi nguồn cung cấp ngựa, kỹ thuật chăm sóc và thuần phục ngựa cũng khác nhau một trời một vực cho nên mới luôn bị cản trở trên chiến trường, dù về sau đã có Cung Tuấn huấn luyện ra được thiết kỵ Đường Hà, thì thiếu hụt tài nguyên ngựa chiến vẫn là một vấn đề khó giải quyết.

Thứ hai chính là xưởng chế tạo vũ khí, binh khí Đại Cảnh vốn đã vượt bậc thiên hạ, nhưng không biết vì sao nước Hạ tìm được mỏ than dồi dào, kỹ thuật luyện vũ khí ngày càng tăng cao, dần dần vượt qua cả Đại Cảnh, thậm chí thợ ở Đại Cảnh cũng phải học hỏi kỹ thuật luyện kim cao siêu từ nước Hạ.

Hơn nữa, từ mười mấy năm về trước nước Hạ đã phát minh ra nỏ thần ti* và đại bác, cái trước chính là đỉnh cao của vũ khí cá nhân dành cho binh sĩ ở thời này, dù Đại Cảnh có cho người đi ăn trộm kỹ thuật đi chăng nữa thì cũng vì yếu tố nguyên vật liệu cản trở làm không cách nào chế tạo được, cái sau có lực sát thương cực mạnh, tuy nói những năm gần đây Đại Cảnh cũng đã sản xuất đại bác trở lại và sử dụng chúng trên chiến trường, nhưng suy cho cùng thì kỹ thuật và uy lực vẫn có sự chênh lệch rất lớn.

(*) Nỏ thần ti là loại nỏ máy có tầm bắn xa và lực bắn cực mạnh.

Thứ ba là tiền trang, vật tư nước Hạ khan hiếm, những thứ như trà muối đồng sắt gần như không có, đến tiền tệ cũng phải sử dụng tiền đồng và bạc trắng của Đại Cảnh trên quy mô lớn, để hạn chế hiện tượng này, Đại Hạ luôn nỗ lực phát triển tiền tệ của riêng mình, tuy nhiên bọn họ vẫn cần phải trao đổi nhu yếu phẩm và trà muối với Đại Cảnh, mà Đại Cảnh thì lại không nhận tiền tệ nước Hạ.

Đến cuối cùng, tiền tệ chính thức của Đại Cảnh vẫn có được một con đường riêng.

"Một khi tin tức Tang Lương Ngọc và Ngạc Khắc Thiện lén lút cấu kết với nhau được truyền sang Đại Hạ, triều đình nước Hạ ắt sẽ rung chuyển, rơi vào thời kì chính trị đoạt trữ sẽ càng bấp bênh hơn. Nếu như có thể thu tiền trang lại, một lượng tiền lớn chảy trở về, chắc chắn dân oán sẽ sục sôi, nhân cơ hội này giành lại cả xưởng chế tạo binh khí và trại ngựa nữa..." Cung Tuấn nói: "Trời phù hộ triều ta."

Chu Tử Thư cau mày: "Đời sống nhân dân nhiều gian khổ, chỉ sợ chiến tranh bùng nổ thôi." E là sắp sửa nổi lên một trận đại chiến ngắn nhưng vô cùng dữ dội.

"Thế nên trước đó chúng ta phải hoàn thành sách lược ứng đối một cách vẹn toàn." Cung Tuấn nắm chặt tay Chu Tử Thư, nhìn sâu vào mắt y rồi mới nói: "Ta cần phải đến Đại Hạ một chuyến."

Chương 101

Tiền và ngựa chiến, đặc biệt là thợ và bản vẽ binh khí trong xưởng chế tạo đều là kho tàng có giá trị liên thành, có thể sẽ trở thành vận nước trăm năm của Đại Cảnh, dù thế nào đi nữa thì Cung Tuấn cũng không thể bỏ qua.

Chu Tử Thư không khuyên được, cũng sẽ không khuyên hắn, chỉ dặn dò hắn chú ý an toàn và phải bình an trở về.

Cung Tuấn xoa mặt Chu Tử Thư rồi cười, "Trong lòng ta có tiểu lang, nào dám dốc sức liều mạng?"

Chu Tử Thư: "Ta đợi chàng về."

Cung Tuấn ôm Chu Tử Thư hít sâu một hơi, vô cùng kiên định nói: "Sau lần này, hai ta nhất định phải từ quan bỏ chạy đấy nhé!"

Chu Tử Thư bật cười, vỗ lưng Cung Tuấn thuận miệng an ủi đôi ba câu.

Hắn cũng nói tới nói lui câu này nhiều năm lắm rồi, hùa theo mấy câu thì có sao đâu?

Có năm mươi thiết kỵ Đường Hà đi theo Cung Tuấn đang chờ ở phía trước, mà Cung Tuấn thì cứ lề mà lề mề dính lấy Chu Tử Thư, dù sao cũng chẳng có ai dám thúc giục, trong lòng họ đều thầm cảm thán chỉ có mỗi tiểu Chu đại nhân mới có thể khiến cho tướng quân trông chẳng khác gì si nam oán nữ* trên đời này thôi.

(*) Si nam oán nữ – 痴男怨女 : chỉ những đôi yêu thương sâu đậm nhưng không được như ý.

Chu Tử Thư: "Ta thấy trời u ám lắm, chỉ e chiều nay sẽ có một trận tuyết nữa, mau lên đường để còn kịp tìm nhà trọ để nghỉ chân trước khi tuyết rơi, không thôi là phải ngủ ngoài rừng núi hoang vắng đấy." Cung Tuấn: "Ta chịu đựng được, bọn họ cũng chịu được."

Chu Tử Thư: "Nhưng ngựa không chịu được, lương khô cũng vậy, đến lúc đó đội trời lạnh gió tuyết mà đi không nói, cắn miếng lương khô còn rụng luôn cả răng thì chàng nói xem chàng vẫn quay về gặp ta được sao?"

Nếu như Cung Tuấn vô cùng chú ý đến hình tượng trước mặt tiểu Chu đại nhân mà thiếu mất một cái răng, chỉ sợ từ nay về sau hắn không dám nhe răng cười nữa mất.

Cung Tuấn buồn bực trong lòng, thấp giọng đáp lại mấy câu, sau đó dặn Chiết Thanh Phong bảo vệ Chu Tử Thư, rồi lại nói với y: "Cả nhà Chiết Thanh Phong đều là tướng sĩ, biết rõ thành phòng tuyến và địa hình Tây Bắc, là người trung hậu nhưng dụng binh như thần, cũng quen thuộc với phân bố lực lượng, thực lực của phiên binh và tập tục của phiên tộc, nếu như gặp phải vấn đề khó giải quyết thì có thể cho gọi hắn."

Chu Tử Thư: "Ta biết rồi."

Dặn dò xong, Cung Tuấn mới xoay mình lên ngựa, siết chặt dây cương quát lên một tiếng, ngựa phi dũng mãnh như thần, thoáng chốc đã chạy về phía phương xa,

Chu Tử Thư thấy vậy, vô thức chạy về phía trước vài bước, vẫy tay liên tục cho đến khi đoàn người ngựa biến mất khỏi đường chân trời, trên mặt mới hiện lên vẻ không nỡ.

Gió đông xào xạc, trời xa vạn dặm, tuyết phủ đồng hoang, ngày ngắn mây mờ, cảm giác quạnh vắng tràn ngập trong lòng.

Chu Tử Thư thở dài một hơi trút hết phiền muộn trong lòng, phấn chấn tinh thần rồi mới bắt tay vào xử lí phiền phức mà Kinh Nguyên để lại.

"Về thôi."

Chiết Thanh Phong theo sau Chu Tử Thư quay về Kinh Châu.

***

Phủ kinh đô, điện Văn Đức.

Tin thắng lợi từ Tây Bắc đặt trên bàn, Nguyên Thú đế hiếm khi thả lỏng chơi đùa với nhẫn ban chỉ, nhìn xa xăm để giải tỏa tâm trạng, ba người gồm Khang vương, Trần Sư Đạo và Chu Bá Ung lần lượt xuất hiện phía dưới, nhìn là biết bọn họ đã sớm thăm dò được tin tức Ngạc Khắc Thiện ngã ngựa từ Tây Bắc, đến đây chỉ để hỏi thăm tình hình cụ thể mà thôi.

Ba người chắp tay: "Vi thần tham kiến bệ hạ."

"Ừ." Tâm trạng của Nguyên Thú đế rất tốt, không muốn làm khó bọn họ, cầm lấy tin thắng lợi ném xuống: "Xem đi."

Chu Bá Ung cướp được trước rồi mở ra xem, hai người còn lại nghiêng đầu sang đọc nhanh như gió.

Trần Sư Đạo vô cùng kích động: "Không uổng một binh lính nào vẫn khiến cho phiên tộc tự giết lẫn nhau, Ngạc Khắc Thiện không trốn nổi tội thông đồng với địch phản quốc, trì hoãn quân tình, dối trên gạt dưới, xét nhà diệt tộc là còn nhẹ đấy, thân tộc trải rộng khắp tất cả thị tộc của phiên tộc Tây Bắc, nếu như tru di cửu tộc e là sẽ khiến phiên tộc lâm vào khủng hoảng mất, nhưng có thể lấy cớ này chấn chỉnh thị tộc Tây Bắc, triều đình cũng có thể tiến thêm một bước khống chế phiên binh, làm suy yếu binh quyền trong tay bọn họ!"

Chu Bá Ung cũng khen ngợi: "Hay cho bọ ngựa bắt ve chim sẽ chực sẵn, thậm chí ngũ lang còn chẳng ra mặt mà đã khiến cho phiên tộc gắn bó chặt chẽ trăm năm tan rã, giải quyết mối hoạ Tây Bắc to lớn trong lòng triều đình, ngược lại để nó trở thành một trợ lực mạnh mẽ!"

Mắt thấy lão lại sắp tái phát căn bệnh thao thao bất tuyệt khen Chu Tử Thư, Khang vương vội vàng lên tiếng chặn lời: "Ngạc Khắc Thiện bị xử tử, cần phải nhanh chóng xác định vị trí đại thủ lĩnh, trong tấu cũng có thỉnh cầu bệ hạ phong Giả Long Thiên Châu trở thành thủ lĩnh tộc Giả Long. Tuy nói trước giờ chưa từng có nữ thủ lĩnh, nhưng bổ nhiệm cho Giả Long Thiên Châu chính là bước đột phá để triều đình can thiệp vào việc chọn lựa thủ lĩnh cho tất cả các thị tộc phiên tộc kể từ này về sau. Ta cũng cần phải ủy nhiệm Nguyên soái mới cho nhánh binh Kinh Nguyên, còn Tri phủ Kinh Châu Mông Thiên Túng dù có ít tài lại trị nhưng điều binh khiển tướng thì dốt đặc cán mai, phụ thuộc Ngạc Khắc Thiện, về sau còn giấu giếm tình hình chiến sự, gián tiếp gây ra thương vong cho tướng sĩ hai trại Thiên Đô và An Ninh, phái tháo mũ cánh chuồn, đoạt lại công danh, cách chức làm thứ dân."

Thật ra hành vi phạm tội của Mông Thiên Túng tương đương với tội chém đầu răn chúng, tuy nhiên Đại Cảnh đối xử rất nhân từ với tướng lĩnh và văn thần đóng giữ biên cảnh, dù phạm tội cũng không phạt tử hình.

Nhưng cái gọi là từ bất chưởng binh đó đã nuôi dưỡng ra vô số quan liêu lười biến không làm tròn trách nhiệm ở biên cương.

Vốn tưởng Nguyên Thú đế sẽ đồng ý với lời khuyên của ông, không ngờ phán quyết lại là: "Mông Thiên Túng tự cao tự đại, không hiểu bài binh bố trận, học thức nông cạn mà còn không chịu lắng nghe ý kiến của các tướng phía dưới, binh bại thì bỏ trốn, cùng Ngạc Khắc Thiện dối gạt triều đình, biết rõ Ngạc Khắc Thiện chấp nhận hòa đàm với Thác Bạt Minh Châu rồi mà vẫn giữ kín không nói ra, thế cũng chẳng thua gì thông đồng với địch phản quốc, không giết chết thì quả là có lỗi với mười ngàn tướng sĩ Thiên Đô Trại."

Ba người bên dưới đều khiếp sợ, sau đó lại vui vẻ từ tận đáy lòng, đã đến lúc phải nổi trận lôi đình với đám quan liêu ở biên cảnh kia rồi.

Chu Bá Ung tiếp lời: "Họa phiên tộc đã giải quyết xong, Tây Bắc không còn chiến sự, có phải bệ hạ nên cho gọi ngũ lang... Kinh lược sứ về triều rồi không? Tây Bắc trời đông lạnh giá, suy cho cùng cũng không phải là nơi có thể ở lại lâu, Kinh lược sứ lại có nội thương, nếu như hàn khí thấm vào cơ thể, vết thương cũ tái phát mà nơi ấy không có đủ thuốc thang và thái y thì phải làm sao đây?"

Nguyên Thú đế muốn nói thái y đã từng đảm bảo Chu Tử Thư không có nội thương rồi, nhưng mấy người ở dưới đều tự coi mình là trưởng bối của Chu Tử Thư, thương yêu đến nỗi mù quáng luôn rồi, sợ hãi nên cứ bắt bẻ y thuật của thái y không thạo, rồi cứ luôn miệng càm ràm... Bỏ đi bỏ đi.

"Bây giờ tuyết rơi kín đường rồi, sông cũng kết băng, chờ đến đầu xuân đi. Vừa hay Kinh Nguyên đang cần người trấn giữ, đến đầu xuân chắc là sẽ ổn định hơn, lúc đó rồi về."

Ông vừa dứt lời, những người còn lại không dám nói gì nữa.

***

Mùa đông khắc nghiệt, đất trời đều là tuyết.

Triều đình đã cho ra kết quả xử lý phiên tộc, Kinh Nguyên và gửi lời khen ngợi Chu Tử Thư, Mông Thiên Túng bị giải vào đại lao, đưa Thông phán Kinh Châu lên vị trí Tri phủ.

Trong phòng đốt than nên ấm áp hơn nhiều, nhưng Chu Tử Thư chôn cả người mình trong áo choàng lông cáo vẫn cảm thấy lạnh, tay chân không chịu nổi đông cứng lại cả rồi mà mỗi ngày vẫn kiên trì xử lý công việc cả hai mặt quân chính của Kinh Nguyên, sẵn tiện chờ đợi tin tức từ Đại Hạ.

Lúc này Chiết Thanh Phong vén rèm đi vào nói: "Triều đình Đại Hạ đã lung lay dữ lắm rồi, Thác Bạt Minh Châu thắng trận về triều gia nhập cuộc chiến đoạt trữ, nhưng Tang Lương Ngọc luốn đối đầu với hắn lại yên tĩnh đến lạ. Nửa tháng trước, Đại vương tử Đại Hạ bỗng nhiên phát động bức vua thoái vị, binh bại ngay cửa cung, bị Ngũ vương tử chém chết tại chỗ, mẫu phi và nhà cậu của Đại vương tử đều bị liên lụy, một Ngũ vương tử chẳng có tiếng tăm gì đột nhiên vùng lên trở thành đối thủ mạnh cạnh tranh với Thác Bạt Minh Châu. Điều kì lạ nhất chính là đã đến lúc này rồi mà Tang Lương Ngọc lại đóng cửa phủ Quốc sư, nói là cầu phúc cho bệ hạ, không hề hỏi đến sự tình trong triều."

Báo cáo xong, gã mới cảm thán: "Đường đoạt trữ bất ngờ thay đổi, còn chưa đến giây cuối cùng thì không biết được kết quả."

Chu Tử Thư quấn chặt áo choàng lông chỉ chừa mặt ra ngoài, màu da trắng như ngọc, lúc này y mới rũ mắt nói: "Hoàng đế Đại Hạ không còn sống lâu được nữa, chậm nhất là đầu xuân sẽ có kết quả."

Chiết Thanh Phong: "Là thế nào?"

Chu Tử Thư: "Tang Lương Ngọc không thể không hành động, trong lòng ông ta biết rõ một khi Thác Bạt Minh Châu ngồi lên cái ghế kia, thì người đầu tiên bị đưa ra chặt đầu chính là ông ta. Nhưng Thác Bạt Minh Châu đã nắm được nhược điểm của ông ta, ông ta không thể hành động nên sẽ giúp đỡ những người khác... Không một vương tử nào có thể từ chối cành ô liu mà Tang Lương Ngọc ném tới cả, có điều Tang Lương Ngọc là người Đại Cảnh, bất cứ lúc nào cũng có khả năng bị các vương tử ngoại thích qua cầu rút ván, chỉ có thể chọn đẩy những vương tử thế đơn lực bạc lên cái ghế kia thôi, như vậy mới tiện bề hành động."

Chiết Thanh Phong đã rõ: "Nhà mẹ của Ngũ vương tử không hiển hách, vốn không thể có được phần thắng đoạt trữ cho nên mới là sự lựa chọn tốt nhất, Tang Lương Ngọc đóng cửa không ra ngoài, thực tế đang điều khiển triều đình, không động chính là động, không tranh chính là tranh, nhưng vì sao Chu đại nhân lại khẳng định đầu xuân sẽ có kết quả?"

Chu Tử Thư: "Ghi chép buôn bán ở các chợ ven biên giới cho thấy thương nhân Đại Hạ mua chủ yếu là vải sợi trắng, số lượng đèn bơ cũng tăng mạnh, mà vải sợi trắng dùng để làm đồ tang, đèn bơ thì hẳn là để Đại Hạ cúng người chết lúc chôn cất. Khứu giác của thương nhân rất nhạy, nhất định là bọn họ đã nhận ra, còn vì sao là đầu xuân thì... Vương tử tranh ngai vàng cần thời gian, có điều bây giờ vẫn đang giằng co chưa dứt, trừ phi có người phá vỡ được cục diện bế tắc này mới thôi."

Chiết Thanh Phong im lặng nghe y phân tích, vừa sợ vừa thán phục trước sự hiểu biết về thế cục Đại Hạ của Chu Tử Thư, tuy không biết được tình tình thật giả ra sao, nhưng lời y nói có tình có lý, tin tưởng cũng không sao.

Chu Tử Thư suy nghĩ, lập tức cầm bút lên viết mấy câu vè rồi giao cho Chiết Thanh Phong: "Có thể tìm cách để câu vè này truyền đi khắp phủ Hưng Khánh không?"

Phủ Hưng Khánh là thủ đô của Đại Hạ.

Chiết Thanh Phong xem thử rồi gật đầu: "Có thể." Rồi gã nói: "Mấy câu vè này chỉ thẳng Tang Lương Ngọc cấu kết với Ngạc Khắc Thiện, ngầm nói ông ta lén lút qua lại Đại Cản, đại nhân muốn mượn nó để tấn công Tang Lương Ngọc sao? Nhưng mà đây cũng chỉ là tin đồn thất thiệt, không có chứng cứ, không thể làm gì Tang Lương Ngọc được."

Chu Tử Thư mỉm cười, "Không có lửa làm sao có khói, tin đồn mạnh nhờ thổi phồng. Còn nữa, ngươi nói xem vì sao Thác Bạt Minh Châu đã bắt được nhược điểm của Tang Lương Ngọc rồi mà không dám lấy chúng để kéo Tang Lương Ngọc xuống ngựa? Bởi vì hắn biết rõ khi đưa những chứng cứ này ra thì chỉ càng thúc đẩy tiếng tăm của Tang Lương Ngọc lên cao hơn mà thôi, đừng quên Tang Lương Ngọc cấu kết với Ngạc Khắc Thiện là để dùng bạc Đại Cảnh phát triển kinh thế Đại Hạ, tạo phúc cho triều đình Đại Hạ. Sở dĩ Tang Lương Ngọc sợ hãi là sợ Thác Bạt Minh Châu cắt câu lấy nghĩa, tung lời đồn ra, nói ông ta là người Đại Cảnh, và việc ông ta qua lại với Ngạc Khắc Thiện nhiều năm là sự thật, nếu như hắn gây khó dễ có chừng mực thì sẽ có thể dẫn dắt triều thần bắt tay nhau đoạt lại quyền lực trong tay ông ta, hoặc là giam cầm ông ta lại. Mặc dù không thể giết trong một lần hành động, nhưng đủ để tạm thời ép Tang Lương Ngọc lui khỏi chiến trường đoạt trữ. Chỉ cần một chút thời cơ thôi, bỏ qua cơ hội đoạt trữ, dù có được trả lại trong sạch thì ngày sau triều đình Đại Hạ cũng tuyệt không để cho Tang Lương Ngọc được sống yên ổn." Chiết Thanh Phong đã hiểu.

Chẳng trách Thác Bạt Minh Châu đã có thể uy hiếp Tang Lương Ngọc nhưng lại không dám thừa cơ giết chết, trước đây cũng cảm thấy thắc mắc, Tang Lương Ngọc cấu kết với Ngạc Khắc Thiện rõ ràng rất có lợi cho Đại Hạ, làm sao ông ta vẫn có thể bị cản trở cho được.

Hóa ra là vì chuyện đoạt trữ.

Chu Tử Thư lại nói: "Tung ra lời đồn vào lúc này chính là để uy hiếp Tang Lương Ngọc, ông ta không thể điều tra ra ngọn nguồn, ngươi nói xem ông ta sẽ đoán là ai hại mình?"

Chiết Thanh Phong gật như bật thốt ra: "Thác Bạt Minh Châu!"

Chu Tử Thư: "Thác Bạt Minh Châu không tuân thủ ước định, tự tiện ra tay, ngươi đoán thử Tang Lương Ngọc có đánh trả lại không?"

Chiết Thanh Phong: "Có!" Không chờ Chu Tử Thư tiếp tục dẫn dắt, gã đã nói trước: "Tang Lương Ngọc đánh trả, Thác Bạt Minh Châu sẽ không thờ ơ, hắn có thể đoán ra được lời đồn, nhưng sợ hãi dồn nén nhiều năm sẽ khiến cho hắn phản ứng quá khích, không thể chờ đến khi tra rõ chân tướng hoặc dứt khoát từ bỏ, hắn sẽ tấn công Tang Lương Ngọc, bởi vì trong lòng hắn cũng biết Ngũ vương tử đã trở mình vùng dậy, sau lưng còn có bóng dáng Tang Lương Ngọc. Thay vì đối phó với một con rối, chi bằng trực tiếp giết chết kẻ giật dây núp phía sau!"

Chu Tử Thư: "Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn dù bị Tang Lương Ngọc cố gắng nhắm vào vẫn có thể đợi thời trở lại chứng tỏ năng lực của bọn họ không kém, có lẽ họ đủ sức chèn ép Tang Lương Ngọc đến bước đường cùng."

Dường như nhớ ra gì đó, y líu ríu nói: "Ta lại rất tò mò "tên điên Tang Lương Ngọc" mà Ngạc Khắc Thiện nói có thể điên đến mức nào? Đó chính là kẻ thù mạnh nhất đã quang minh chính đại khiến cho Vương Nguyệt Minh thất bại, ta khó mà không tò mò cho được."

Lấy lại tinh thần, Chu Tử Thư dặn dò: "Khí hậu cũng ấm áp hơn nhiều rồi, bảo các ngươi đi thu gom lương thực, nước và vật tư, đã chuẩn bị xong hết chưa?"

Chiết Thanh Phong gật đầu: "Từ trước lúc tuyết rơi nhiều chặn kính đường, bọn ta đã chọn mua lương thực từ nam thương trữ trong kho lương từ sớm rồi, hơn ba mươi giếng nước trong thành cũng đã cho người đến trông coi, băng cũng đã được gọt ra từ sông băng đang được trữ ở hầm ngầm, các vật tư còn lại cũng đều đã chuẩn bị xong, có điều thời gian gấp rút quá, hơn nữa nơi này xa xôi, dù có cố hết sức chuẩn bị thì số lượng vẫn không nhiều."

Chu Tử Thư hỏi số lượng, tính toán rồi nói: "Cũng không tệ lắm. Đi làm việc đi."

Chiết Thanh Phong nghe lệnh làm việc.

Chiết Thanh Phong đi rồi, Chu Tử Thư mới cau mày lộ ra sắc mặt nghiêm trọng.

Y không dám coi thường Tang Lương Ngọc, có thể dùng thân phận dị tộc leo lên vị trí Quốc sư thì chắc chắn là người rất khôn ngoan, chiêu trò nhỏ như tung lời đồn này không thể lừa Tang Lương Ngọc.

Điều mà Chu Tử Thư đánh cược chính là liệu rằng hai con chim sợ cành cong Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn sợ Tang Lương Ngọc đến mức nào, cược cả những người mà Vương Nguyệt Minh để lại Đại Hạ có quyết thề không thay lòng hay không.

***

Phủ Hưng Khánh, thủ đô Đại Hạ Phủ Quốc sư.

Quản gia cầm mấy tờ giấy trong tay từ bên ngoài chạy vội vào thư phòng, mà trong phòng có một người đàn ông trung niên khoác áo choàng, dáng vẻ tiên phong đạo cốt đang nghiêm túc xem bản đồ Đại Hạ, không ngẩng đầu lên mà hỏi.

"Chạy gì mà chạy?"

Người này chính là Tang Lương Ngọc.

Quản gia vội vàng đưa giấy tới: "Đầu đường cuối xóm đều xuất hiện câu vè này, đã hát được ba ngày rồi, bây giờ thư sinh võ tướng trong các quán trà quán rượu đều đang truyền tai nhau, chắc là quý tộc trong kinh đô cũng biết rồi." Tang Lương Ngọc cầm lấy xem, sắc mặt lập tức lạnh xuống.

Quản gia: "Có phải là do Nhị vương tử phái người...?"

"Không phải hắn. Hắn và Cao Di Sơn đều không ngu, chúng biết rõ thả tin trong giờ phút quan trọng này không được lợi lộc gì, là có người hãm hại."

Quản gia: "Ngoại trừ Nhị vương tử thì còn ai biết nữa?"

Tang Lương Ngọc nghiêm mặt nhìn bản đồ, một lúc sau mới hỏi: "Ngạc Khắc

Thiện bị chém chết rồi à?"

Quản gia: "Đã là chuyện tháng trước rồi, không phải ngài đã biết sao?"

Tang Lương Ngọc thở dài một hơi: "Chu Tử Thư... Ngươi nói xem có phải là ta coi thường Chu Tử Thư quá rồi không?"

Quản gia: "Đại nhân có tài ngang dọc trời đất, Chu Tử Thư kia chẳng có công danh gì, nhờ mấy năm trước gả vào phủ quận vương thanh danh mới lên cao thôi mà? Ngài xem thường y là vì ngài có tự tin, có tư cách, còn để lão nô nghĩ thì Chu Tử Thư kia bàn về đánh chiến, quan trường, mưu lược lẫn lòng người đều không bằng ngài."

Tang Lương Ngọc: "Nhưng Vương Nguyệt Minh đã thất bại dưới tay y rồi."

Quản gia: "Nhưng Vương Nguyệt Minh cũng thua dưới tay ngài đấy thôi."

Tang Lương Ngọc chỉ tay vào bản đồ, nheo mắt lại nói: "Vương Nguyệt Minh thua là vì bị người ta tính kế, nhưng tính cách và mưu lược của ông ta hơn ta rất nhiều. Một thư sinh què quặt vẫn có thể hô mưa gọi gió suốt ngần ấy năm ở Lưỡng Giang... Có thể tra ra sự thật năm đó được không? Có trả thù ta được không? Ta và ông ta xa cách hai mươi năm, ta không thể đoán được suy nghĩ của ông ta, ông ta sẽ làm cách nào để trả thù ta?"

Quản gia: "Vương Nguyệt Minh kia quyền cao đến đâu thì cũng chỉ là một người có chút tiếng tăm trong thương trường Lưỡng Giang mà thôi, lấy tiền khai thông quan trường, chẳng phái đã chịu kết cục thân bại danh liệt rồi hay sao? Thủ đoạn thông thiên đến mức nào mà có thể trả thù được người đứng trên vạn dân như ngài ở Đại Hạ xa xôi này chứ?" Liếc nhìn bản đồ và tờ giấy, lão nhắc lại: "Đại nhân, ta phải nhanh chóng giải quyết lời đồn thôi, cẩn thận có người đem nó đi làm văn đấy. Về phần Nhị vương tử... Không quan tâm có phải do hắn làm hay không, cũng nên khều một cái, để cho bọn chúng đỡ phải thắc mắc ai mới là chủ của triều đình Đại Hạ này!"

"Thác Bạt Minh Châu không đủ để gây sợ hãi." Tang Lương Ngọc nhàn nhạt lên tiếng: "Ta nhớ ở Đại Hạ có bốn xưởng chế tạo vũ khí đúng chứ?"

Quản gia: "Đại nhân nhớ nhầm rồi, Đại Hạ chỉ có bốn xưởng chế tạo, chia ra ba nơi là Hưng Khánh, Tây Bình và Tây Lương."

Tang Lương Ngọc lắc đầu: "Năm Sùng Tông thứ tám, huyện Cô Tang phát hiện được một mỏ than cho nên đã bí mật xây dựng một xưởng chế tạo vũ khí ở đó, dùng mỏ than đó cung cấp cho cả nước, đến năm Sùng Tông thứ mười hai, mỏ than bị khai thác sạch, xưởng chế tạo vũ khí cũng bị bỏ đi, nhưng gần đây lúc rảnh rỗi ta có xem tấu tiêu thụ dòng chảy của các huyện trong phủ trình lên, phát hiện được điều kì lạ." Quản gia tò mò: "Kì lạ ở đâu?"

Tang Lương Ngọc: "Mười lăm năm trước, có thương nhân họ Vương mua một ngọn núi ở huyện Cô Tang để trồng quýt."

Quản gia không nhịn cười được: "Trồng quýt ở Tây Lương là lỗ vốn tuột khố luôn đấy không phải sao?"

Tang Lương Ngọc: "Đúng vậy, nhưng mà nó vẫn giúp chủ kiếm được bộn tiền, thuế kinh doanh nộp hàng năm luôn cố định ở một con số, mà con số này lại không thay đổi trong mấy chục năm trời! Làm sao có thể không nhìn ra vấn đề chứ? Ta phái vài người đến huyện Cô Tang phủ Tây Lương xem thử, trong lòng của ta bất an, bất an vô cùng."

Kể từ khi Chu Tử Thư bắt đầu trảm hơn phân nửa quan trường Đông Nam, Tang Lương Ngọc đã cảm thấy mọi chuyện không như ý, Vương Nguyệt Minh vốn đã chết rồi, lẽ ra họa lớn trong lòng đã bị khai trừ, ông ta phải được sống an nhàn rồi mới đúng, nhưng không ngờ vẫn còn một số tiền lớn vào sổ, vẫn còn tai họa ngầm Ngạc Khắc Thiện, ngay cả hai con tôm tép Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn cũng nắm được nhược điểm của ông ta.

Ba năm qua, triều đình rung chuyển, quý tộc tranh quyền đoạt lợi, vơ vét tài sản quốc gia một cách trắng tợn khiến cho dân chúng vào chẳng bằng ra, đáng sợ hơn nữa chính là tiền tệ Đại Cảnh còn lưu thông nhiều hơn cả tiền Đại Hạ, mà tiền trang Đại Thông có thể đổi tiền Đại Cảnh lại không chịu sự quản lý của quốc gia.

Đã vô số lần Tang Lương Ngọc có ý đồ nạp tiền trang Đại Thông vào quyền sở hữu của quốc gia nhưng đã bị quý tộc trong triều ngăn cản, đến cả bệ hạ cũng nghi ngờ tấm lòng của ông ta.

Từ lâu bọn họ đã được tiền trang Đại Thông đút no tiền, sợ rằng nếu như nó bị sáp nhập vào triều đình thì sẽ không moi được một xu nào nữa.

Kết quả là ngồi nhìn tiền trang Đại Thông lớn mạnh, qua lại với quý tộc thân hào, nếu như đột nhiên nổi loạn chỉ sợ dân chúng sẽ lầm than, nó cũng có thể phá hủy chính quyền chỉ trong khoảnh khắc, ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia.

"Các thám tử được phái đi điều tra người đứng sau bức màn của tiền trang Đại Thông trở về, nói rằng đã thấy Thác Bạt Minh Châu bỏ vốn ủng hộ, cũng muốn kiếm ít công lao." Tang Lương Ngọc khó nén được sự tàn nhẫn trong ánh mắt, "Đi nghe ngóng nơi ở của ông chủ Đại Thông đi, sau khi lấy được con dấu quản lý tiền trang thì giết chết!"

Quản gia: "Tuân mệnh!"

***

Ông chủ tiền trang Đại Thông vừa mới gặp mặt nói chuyện với Thác Bạt Minh Châu xong đã bị ám sát tại chỗ ở, sau đó được một nhóm người khác cứu đi, tin tức này khiến cho Thác Bạt Minh Châu bị chấn động.

Thác Bạt Minh Châu lần theo dấu vết trên người của kẻ hành thích thì tra được chúng đến từ phủ Quốc sư, trong lòng rõ ràng đây chính là lời cảnh cáo của Tang Lương Ngọc trước hành động của hắn, thế là ruột gan rối bời nói với Cao Di Sơn: "Ta đã từng nói mặc dù lời đồn kia không xuất phát từ chỗ chúng ta, nhưng Tang Lương Ngọc chắc chắn vẫn sẽ cắn chặt cái cớ này để ra tay mà!"

Cao Di Sơn cũng có hơi bàng hoàng, có điều ông ta nhanh chóng bình tĩnh lại, tỉnh táo trả lời: "Nếu như Tang Lương Ngọc ra tay, chúng ta sẽ dứt khoát nói ra chuyện ông ta tư thông với nước địch ở trước mặt bệ hạ."

Thác Bạt Minh Châu: "Nhưng phụ hoàng rất tin tưởng tên tà đạo Tang Lương Ngọc này!"

Cao Di Sơn: "Hoàn toàn ngược lại, từ trước đến nay bệ hạ luôn phòng bị Tang Lương Ngọc, cùng lắm là lợi dụng ông ta để đối phó với quý tộc Đại Hạ thôi. Giờ này bệnh tình của bệ hạ đã nguy kịch, điều mà ngài ấy lo nhất chính là để ngoại thích tham gia vào chính sự và Tang Lương Ngọc cướp nước. Dù là ngài hay Ngũ vương tử đều không có mẫu tộc hiển hách, hơn nữa cũng đã đến tuổi hiểu chuyện, không phải lo lắng về họ ngoại, vậy nên chỉ còn sót lại mầm họa là Tang Lương Ngọc mà thôi! Diệt trừ Tang Lương Ngọc, không ai có thể thoát chết tội thông đồng với địch phản quốc cả."

Thác Bạt Minh Châu hơi đổi ý: "Vậy thử xem, ta sẽ vào cung một chuyến."

Cao Di Sơn: "Gặp được bệ hạ rồi, điện hạ phải ăn ngay nói thật đấy."

Thác Bạt Minh Châu hơi khó hiểu: "Ăn ngay nói thật là nói tốt cho Tang Lương Ngọc à?"

Cao Di Sơn lắc đầu, vẫn kiên nhẫn giải thích: "Điện hạ chỉ cần nhớ kỹ một câu thôi, bệ hạ muốn diệt Tang quốc sư."

Thác Bạt Minh Châu động não, thoáng chốc đã hiểu.

Cao Di Sơn thấy thế rốt cuộc cũng an tâm, Vĩnh An đế biết rõ phải làm thế nào mới giết được Tang Lương Ngọc hơn cả Thác Bạt Minh Châu.

***

Thác Bạt Minh Châu vào cung một chuyến, nói hết chuyện Thiên Đô Trại, bao vây Kinh Châu cùng với nội dung cuộc hòa đàm của hắn và Ngạc Khắc Thiện cho Vĩnh An đế Đại Hạ, không giấu giếm một chuyện nào.

Vĩnh An đế nằm trên giường bệnh không ngồi dậy nổi, chỉ duỗi một tay ra khỏi rèm che vẫy vẫy, có một thái giám tiến lên nói: "Nhị vương tử, bệ hạ đã biết rồi. Cứ để chứng cứ lại đây, ngài đi về trước đi."

Thác Bạt Minh Châu do dự một chút rồi mới đứng dậy rời đi.

***

Ngày hôm sau tảo triều, ngôn quan lấy bài vè trên phố để vạch tội Tang Lương Ngọc qua lại với nước địch, nói là không có lửa làm sao có khói, nếu như tin đồn đã lan khắp bốn phía thì ắt phải có nguyên nhân.

Dù có vô tội thì vẫn cần phải tra.

Ngôn quan khuyên can bị bác bỏ.

Ngày thứ hai, trong triều có thêm nhiều đại thần vạch tội hơn nữa, vẫn bị bác bỏ.

Ngày thứ ba, ngôn quan tiếp tục buộc tội, trình lên thư từ qua lại giữa Tang Lương Ngọc và Ngạc Khắc Thiện, chữ viết không phải là giả.

Giám quốc Tể tướng lệnh cho người truyền gọi Tang Lương Ngọc đến đối chiếu, người nọ ngoài câu "thanh giả tự thanh" ra thì không nói thêm gì nữa, vì vậy nên bị giam vào đại lao Hình bộ, đợi chờ tra rõ.

Đương nhiên là không có cơ hội điều tra, chỉ thu thập được những chứng cứ ông ta tùy tiện ngụy tạo, Tang Lương Ngọc giống hệt như cá trên thớt.

Thế nhưng đến ngày thứ tư, trong phủ Hưng Khánh có một bài vè được truyền khắp phố lớn ngõ nhỏ, nói rằng Ngạc Khắc Thiện thông đồng với địch phản quốc nên đã bị chém chết, mà Tang Lương Ngọc phải chịu khổ vận chuyển vật tư từ Đại Cảnh vào Đại Hạ để nâng cao năng lực kinh tế của quốc gia.

Cũng cùng lúc đó, người của Tang Lương Ngọc trong triều huy động toàn lực hành động.

Vừa phải nghĩ cách cứu Tang Lang Ngọc vừa phải nhân cơ hội đả kích Thác Bạt Minh Châu, trách hắn rõ ràng có binh hùng tướng mạnh bao vây phủ Kinh Châu, vì sao không thừa cơ đánh hạ Kinh Châu mà lại đồng ý hòa đàm, hơn nữa chỉ mới đòi bồi thường năm trăm ngàn lượng bạc trắng đã rút quân khỏi Kinh Châu?

Lưỡi dao sắc bị Tang Lương Ngọc siết chặt, lần lượt đâm vào giữa bụng phe Thác Bạt Minh Châu và các thế lực khác, trong lúc phân tranh không ngừng nghỉ, chẳng có ai để ý đến những xao động trong dân gian...

Tiền trang Đại Thông phá sản rồi!

***

Tiền trang Đại Thông có quý tộc làm chỗ dựa, để cho bạc trắng cuồn cuộn chảy vào, đặc biệt là tiền Đại Cảnh.

Phàm là thương nhân muốn đổi tiền Đại Cảnh thì khi đến các chợ ven biên giới, sự lựa chọn số một chính là tiền trang Đại Thông, thậm chí tiền trang Đại Thông còn thuyết phục được quý tộc Đại Hạ gửi tiền của bọn họ lại chỗ mình, hàng năm sẽ tính cho bọn họ tiền lãi hậu hĩnh, cứ thế bảy tám năm liên tục tiền trang càng hưng thịnh, thế cho nên quý tộc thân hào phú thương đều chọn gửi tiền ở tiền trang Đại Thông.

Mà bây giờ, tiền trang Đại Thông phá sản rồi.

Bọn họ vốn nói với bên ngoài rằng ông chủ của tiền trang Đại Thông đã bị ám sát, không trị nổi đã qua đời, cho nên đóng cửa ba ngày để chuẩn bị bàn giao, ba ngày sau sẽ mở cửa trở lại.

Qua ba ngày rồi lại thêm ba ngày nữa, tiền trang Đại Thông vẫn im lìm không mở cửa khiến cho những kẻ gửi tiền trong tiền trang để ăn lãi cảm thấy lo lắng, chỉ đành phá cửa xông vào, vậy mà phát hiện bên trong trống không chẳng còn thứ gì.

Đừng nói chi bạc, dù chỉ một đồng xu cũng không để sót lại.

Chuyện này khiến cho dân tình sôi trào nhưng bọn họ lại là bên chịu ít tổn thất nhất, người dân không có dư dả, hoặc là không đạt đủ tư cách để gửi tiết kiệm tại tiền trang, cho rằng thân hào quý tộc được cho ăn no bụng nhiều năm phát điên chọc thủng khớp xương trên dưới của triều đình trước, quan binh dốc toàn lực truy xét tiền trang Đại Thông, bắt tất cả những kẻ có quan hệ tốt và thường xuyên lui tới lại thẩm vấn, đại ngục liên tiếp nổi lên.

Chỉ trong chốc lát phủ Hưng Khánh gió tanh mưa máu.

Đến cả Thác Bạt Minh Châu cũng hận đến đỏ mắt, bởi vì bạc mà hắn tham ô từ Hộ vẫn còn để ở tiền trang Đại Thông, bây giờ toàn bộ đã mất hết, và hắn thật sự trở thành kẻ nghèo rồi.

Hai mắt Cao Di Sơn cũng đỏ quạch, nói với Thác Bạt Minh Châu đang thất thần: "Bây giờ chỉ có một kế cứu được ta và ngươi thôi." Thác Bạt Minh Châu túm chặt cọng rơm cứu mạng: "Nói!"

Cao Di Sơn: "Khi đó ai là người ám sát ông chủ tiền trang Đại Thông? Là ai cứu ông ta? Ai muốn gặm cái sọt tiền ở tiền trang Đại Thông này? Là ai đã thượng tấu triều đình đòi sáp nhận tiền trang Đại Thông nhiều lần? Còn ai nữa, ai sẽ giấu tiền mà thân hào quý tộc phủ Hưng Khánh gửi vào tiền trang Đại Thông cho riêng mình?"

Thác Bạt Minh Châu lầm bầm: "Tang Lương Ngọc."

Cao Di Sơn: "Là ông ta!"

Hai mắt Thác Bạt Minh Châu dần sáng lên: "Tang Lương Ngọc là kẻ trộm tiền trong tiền trang sao?"

Cao Di Sơn: "Dù có đúng hay không thì cũng đều phải buộc tội ông ta! Tang Lương Ngọc chính là quốc sư một nước, không chỉ có tài chính trị quân sự mà còn có thiên phú kinh doanh, bao năm nay ông ta đã tích góp được bao nhiêu tiền chứ? Phải chia cắt tài sản của ông ta mới có thể lấp đầy vào chỗ trống này, cả triều văn võ bao gồm cả thân hào đều ủng hộ chúng ta... Điện hạ à, giết một người cứu vạn người, đã đến lúc phải hướng về lòng dân rồi!"

Thác Bạt Minh Châu siết chặt nắm đấm, cố gắng đèn nén cảm xúc sôi trào, ngầm hiểu đáp lại: "Cao tướng, chúng ta phải thanh quân trắc thôi."

***

Cùng lúc đó, quản gia mang theo lời xôn xao của dư luận vào đại lao Hình bộ phủ Hưng Khánh, Tang Lương Ngọc trợn trừng mắt ra.

"Tiền trang Đại Thông phá sản rồi à?" Tang Lương Ngọc không tin nổi: "... Sao có thể như vậy được?"

Ông ta đã từng kiêng dè trước tiền trang Đại Thông, luôn cho rằng tiền trang nằm trong phạm vi nước Hạ, có thể đóng cửa nhưng tuyệt đối không thể bỏ chạy.

Sao có thể chạy được?

Có thương nhân nào lại vứt núi vàng núi bạc mà chạy khi đang ở đỉnh cao sự nghiệp cơ chứ?

Phải biết tiền trang này làm ăn bằng cách nhận tiền gửi và cho vay, bỏ chạy như vậy có khác gì ném hết số tiền đã cho vay xuống sông đâu? Đây chính là ném cục vàng trong ngực vào bếp lò đốt, đốt xong thì quăng xuống sông chẳng ai kiếm ra nổi, đến cùng là nhân tài nào làm ra chuyện điên rồ thế này vậy?

Chẳng lẽ ông chủ tiền trang Đại Thông bị ám sát xong mắc bệnh tâm thần luôn rồi à?

Rốt cuộc là có chuyện gì đang xảy ra vậy? Vì sao?

Chuyện này không hợp lý!

Đáy mắt Tang Lương Ngọc có chút sụp đổ, cái não thông minh và tri thức thâm sâu của ông ta vốn cũng không có cách nào giải thích rõ hành động và thái độ khác thường của tiền trang Đại Thông, "Chẳng lẽ là âm mưu của Đại Cảnh? Hao phí mười lăm năm để sắp xếp ván cờ này? Hoàng đế Đại Cảnh có kiên nhẫn để bày mưu sao? Chỉ trong mười lăm năm mà Đại Cảnh đã có được thực lực thế này sao? Không..."

Ông ta lắc đầu, bác bỏ suy nghĩ không thực tế này.

Được một mất mười không nói, người Hán tự xưng mình có phong thái của nước lớn, rất khinh thường loại âm mưu quỷ kế như thế này.

Vậy là ai?

Không đợi ông ta suy nghĩ kĩ càng, quản gia đã nói: "Thám tử phái đi huyện Cô Tang trở về báo cáo rồi, nói là ở địa phương vốn không có núi trồng quýt gì cả, chỉ có một xưởng quân công bị bỏ hoang nhưng vẫn luôn đốt lò, đã hoạt động ba bốn năm rồi, đào tạo được một đám thợ thủ công có tay nghề cao, không biết đã lấy được bản vẽ đại bác, nỏ thần ti mà Đại Hạ bảo mật nghiêm ngặt bằng cách nào rồi chế tạo chúng ở nơi đó!"

Tang Lương Ngọc vội hỏi: "Có bắt được không?"

Quản gia nghiến răng: "Đến trễ mấy ngày, bọn chúng ôm của chạy mất hút rồi."

Tang Lương Ngọc lộ vẻ mất hứng: "Lầu cao sắp đổ."

Quản gia vội la lên: "Đại nhân à, trước hết ngài đừng quan tâm Đại Hạ có đổ hay không đổ nữa, bây giờ cả triều văn võ và thân hào dưới sự dẫn dắt của Nhị vương tử đang công khai lên án ngài, bọn họ muốn vu oan cả hai tội tiền trang Đại Thông và thông đồng với địch phản quốc lên đầu ngài đấy. Thác Bạt Minh Châu còn bí mật cho quân đội đến gần phủ Hưng Khánh, đóng trại ở cách thành ba mươi dặm, Ngũ vương tử đã bị nhốt lại. Nhị vương tử được triều thần ủng hộ ngồi lên vị trí giám quốc, sai người trông coi Vĩnh An đế bệnh nặng liệt giường, cũng đã cầm ngọc tỷ truyền quốc đi... E là sắp mưu triều soán vị rồi!"

Tang Lương Ngọc và kho phủ tư nhân của ông ta chính là hòn đá kê chân cho Thác Bạt Minh Châu đăng cơ.

Bỗng dưng Tang Lương Ngọc cười điên cuồng, tiếng cười lộ ra sự thê lương đến cùng cực: "Con nít mồm hôi sữa mà cũng dám nghĩ đến chuyện giết ta ư?" Sau đó tiếng cười ngưng bặt, sắc mặt ông ta lạnh lùng trở lại: "Cũng tại bao năm qua ta ghi nhớ ơn tri ngộ của Vĩnh An đế, nhượng bộ từng bước, còn dốc hết tâm huyết giúp đám rác rưởi này bảo trụ Đại Hạ nên mới khiến cho bọn chúng chỉ coi ta là con hổ giấy."

Quản gia sợ hãi trong lòng, mơ hồ đoán được ý đồ của Tang Lương Ngọc, có hơi kích động: "Đại nhân...?"

Tang Lương Ngọc nhắm mắt lại: "Đi chuẩn bị đi."

***

Kinh Châu Đại Cảnh.

Chu Tử Thư ngạc nhiên: "Tang Lương Ngọc soán vị rồi à?"

Chiết Thanh Phong: "Đã truyền khắp Tây Bắc rồi!"

"Vĩnh An đế và Thác Bạt Minh Châu thì sao? Quý tộc Đại Hạ thế nào?"

"Ai phản đối thì chém đầu người đó. Vĩnh An đế thì tức chết rồi, Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn như tướng bại trận chạy khỏi phủ Hưng Khánh, không còn thấy bóng dáng đâu cả."

Chu Tử Thư: "Chẳng phải trong tay Thác Bạt Minh Châu có binh à?"

Chiết Thanh Phong: "Phó tướng là người của Tang Lương Ngọc."

Chu Tử Thư lập tức hỏi kỹ nguyên nhân hậu quả Tang Lương Ngọc soán vị, biết được tiền trang Đại Thông ôm tiền chạy trối chết, đến cả một đồng xu cũng không để lại thì không khỏi cảm thán: "Cái trò tổn thương địch tám trăm tự hại mình một ngàn vậy mà lại rất giống phong cách của Vương Nguyệt Minh, ngày xưa Tang Lương Ngọc lừa tiền Vương Nguyệt Minh, hại ông ấy tan nhà nát cửa, giờ đây bị Vương Nguyệt Minh gài thành loạn thần tặc tử, thế nên sử sách phải dùng ngòi bút làm vũ khí thôi."

Người thông minh tuyệt đình xưa nay đều tự đánh giá cao bản thân mình, vô cùng quan tâm đến thanh danh của mình trong sách sử, nhưng Tang Lương Ngọc phản bội Đại Cảnh trước, sau đó lại phản chủ, việc trước còn thuộc về tình lý, việc sau thì đã làm rõ bản chất của hạng cường đạo loạn đảng, tiếng xấu đã được định sẵn rồi.

"Có tin tức gì về hành trình của Cung Tuấn không?"

Chiết Thanh Phong lắc đầu: "Tang Lương Ngọc giết rất nhiều quý tộc Đại Hạ, người để lại hầu như đều ủng hộ ông ta, nhưng lúc này dân oán sôi trào, vậy mà ông ta còn trắng trợn kêu gọi nhập ngũ. Thám tử chúng ta xếp vào phủ Hưng Khánh tra được mấy ngày gần đây trong phủ có phái mấy nhóm kị binh nhẹ đi về hướng phủ Tây Lương."

Chu Tử Thư suy nghĩ rồi nói: "Huyện Cô Tang phủ Tây Lương là nơi có xưởng quân công, có lẽ Tang Lương Ngọc đã phát hiện ra được gì rồi, vẫn phải cẩn thận thì hơn, ngươi dẫn một nhóm phiên binh lén vào phủ Tây Lương đi trợ giúp Cung Tuấn đi!"

Chiết Thanh Phong: "Nhưng ty chức đã nhận lệnh tướng quận bảo vệ Chu đại nhân rồi."

Chu Tử Thư phất tay nói: "Cung Tuấn bảo ngươi nghe lệnh của ta, hôm nay ta ra lệnh cho ngươi mà ngươi lại không nghe theo sao?"

Chiết Thanh Phong do dự một chút: "Ty chức tuân lệnh."

Sắc mặt Chu Tử Thư dịu đi: "Ngươi là người tộc Đảng Hạng, tướng mạo ngôn ngữ và thói quen đều khá giống với người Đại Hạ, bây giờ người trong phiên tộc cũng thấp thỏm lo sợ, chỉ có ta ngươi mới có thể tin được thôi. Còn nữa, Kinh Châu cũng không hẳn là không có tướng để dùng, hơn một tháng nay ta đã liên tục quan sát khảo hạch các tướng lĩnh nơi này, phát hiện ra bọn họ không hề vô năng tầm thường, mà là vì trước đây bị Ngạc Khắc Thiện chèn ép quá đáng, không có cơ hội ra mặt mà thôi."

"Ngươi có thể yên tâm rồi đấy, ta có rất nhiều người để dùng kia mà."

Y liên tục tính toán trong đầu, lòng như nổi trống: "Hiện giờ Đại Hạ dân oán sục sôi, Tang Lương Ngọc còn động viên người đi lính, ý đồ rất rõ ràng, ông ta muốn phát động chiến tranh. Ông ta sẽ chọn nơi nào làm điểm bùng nổ đại chiến đây? Nhưng dù là nơi nào đi nữa cũng vậy thôi, lệnh cho binh ra roi thúc ngựa đưa tin tức này đến tướng lĩnh các nhánh binh đi, cần phải lên kế hoạch cho các biện pháp đối phó thật kĩ lưỡng."

Chu Tử Thư không biết Tang Lương Ngọc có thể điên đến mức nào, y chưa từng giao thủ nên không biết rõ năng lực chỉ huy của ông ta, thế nên cũng không chắc sẽ phải làm những gì.

"Chu tập các tướng ngũ phẩm và ngũ phẩm trở lên ở Kinh Châu lại, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu!"

==

Min: tới rồi mấy bà 🤓

Chương 102

Đầu xuân, băng tuyết đã tan.

Đêm xuống.

Bỗng nhiên có một luồng ánh lửa xé rách bầu trời đêm thành Hà Đông Hùng Châu, lão binh gác đêm trừng mắt, mũi tên mang theo ngọn lửa đang tiến lại gần tầm mắt, thoắt cái bắn chết chiến hữu bên cạnh.

Lồng ngực ông nhói lên một cái, bất thình lình thét lên: "Địch tập kích rồi!!!" Sau đó dùng hết sức phóng tới chỗ trống trận, cầm dùi trống gõ hơn mười cái, tiếng trống đại diện cho lời hô địch tập kịch thoáng chốc truyền khắp doanh trại.

Một tiếng phốc vang lên, mũi tên sắt với tốc độc không thể đỡ nổi đâm xuyên qua ngực lão binh gác đêm ghim vào trống trận, thình ——! Dư âm của tiếng trống cuối cùng vang ra rồi kết thúc, sự yên lặng xuất hiện không đến một giây, trốn trận từ bốn phương tám hướng đã vang lên như mưa rơi, toàn bộ binh sĩ ùa tới.

Dường như ở Phu Diên, Hoàn Khánh và Kinh Nguyên đều xảy ra cùng một tình huống như vậy, cấp báo tám trăm dặm khẩn cấp đưa về triều đình, lúc này Nguyên Thú đế cũng đang Chu tập quần thần thương nghị, còn tướng lĩnh ba nhánh Tây Bắc và Hà Đông đã có phòng bị từ sớm, trái lại không đến nỗi tự loạn trận cước vì cuộc tập kích này.

Có điều Đại Hạ tập kích thì cũng dễ hiểu, nhưng sao Đột Quyết cũng làm loạn cùng lúc thế kia?

Đúng là kì lạ.

***

Ngạc phủ Kinh Châu, Kinh Nguyên.

Trời vừa hửng sáng, binh đưa tin chật vật xuống ngựa, đẩy binh sĩ cản đường ra xông vào Ngạc phủ Kinh Châu, lớn giọng kêu gào: "Địch tập kích... Đêm qua Thiên Đô Trại bị tập kích rồi!"

Chu Tử Thư nhanh chân chạy ra, Tri phủ Kinh Châu tân nhiệm Đậu Hồng và phó tướng nhánh binh Kinh Nguyên Nhậm Phi Nguyên theo sát phía sau, nghe thấy tin tức từ xa thì không khỏi thở dài: "Quả nhiên Tang Lương Ngọc đã cử binh xâm lược rồi!"

Đậu Hồng: "Ngạc Khắc Thiện bị chém chết, tướng chủ sự nhánh Kinh Nguyên đã được đổi mới, vả lại lần trước sau cuộc chiến kia Thiên Đô Trại đã tổn thất vô cùng nghiêm trọng, cho nên về sau càng tập trung chú ý vào hai trại Thiên Đô và Ninh An, Chu đại nhân cũng có lòng dặn dò phải đề phòng sớm mới có thể chống đỡ được cuộc tấn công của Đại Hạ."

Quả nhiên, binh đưa tin nói: "Ninh An Trại đã phái hai ngàn viện binh đi đường đêm đến hỗ trợ Thiên Đô Trại, trước mắt lương thảo, vũ khí và các loại vật tư trong quân đều đã được cung cấp đầy đủ, Đại Hạ tập kích không được như ý." Chu Tử Thư: "Biết binh mã Đại Hạ đến tập kích có bao nhiêu không?"

Binh đưa tin: "Lúc tập kích có một ngàn kỵ binh giáp nặng, theo như lời thám tử tiền tuyến báo lại thì còn có hai mươi ngàn binh mã chia làm mấy đường đang tiến về phía Thiên Đô Trại."

Nhậm Phi Nguyên: "Xem ra Đại Hạ vẫn chọn Thiên Đô Trại làm cửa đột phá, phái một ngàn kỵ binh tấn công trước hẳn là để thăm dò. Mạt tướng biết rõ phong cách đánh trận của quân Hạ, bọn chúng thiếu hụt vũ khí công thành nhưng rất giỏi đánh dã chiến, rất ưa tiếp cận đạo quân lớn, lần này chỉ mới phái hai mươi ngàn binh mã đến gần Thiên Đô Trại... E là không chỉ có thế, có lẽ phía sau vẫn còn có tiếp viện. Nếu như Tang Lương Ngọc tự chỉ huy phát động chiến tranh, thì một ngàn kỵ binh được phái ra rất có thể là đội kỵ binh Thiết Diều Tử mạnh nhất Đại Hạ, tổng cộng có ba ngàn người, cũng là sự tồn tại khiến cho người ở Tây Bắc nghe là sợ mất mật."

Đậu Hồng: "Tướng sĩ Thiên Đô Trại và Ninh An Trại cộng lại cũng chỉ có bảy ngàn, tuy có địa hình lạch trời hỗ trợ, nhưng nếu Đại Hạ phái Thiết Diều Tử đến thật, thêm hai mươi vạn đại quân bao vây tấn công thì sợ rằng không chống đỡ được bao lâu, cần phải nhanh chóng phái binh chi viện... Lập tức lệnh cho tướng thủ thành Hoài Viễn dẫn ba ngàn kỵ binh sắp xếp mai phục ở những nơi hiểm yếu, lệnh cho tướng thủ Đắc Thắng Trại dẫn hai ngàn năm trăm binh đến chi viện Thiên Đô Trại, cũng báo cho nhánh Hoàn Khánh đến giúp đi, các nơi khác tạm thời án binh bất động."

Bàn về năng lực chỉ huy tác chiến, Chu Tử Thư không bằng Nhậm Phi Nguyên và Đậu Hồng cho nên chỉ nghiêm túc lắng nghe, tiếp thu và làm theo sắp xếp của bọn họ.

Chu Tử Thư: "Ta có một thắc mắc. Nếu như ba ngàn kỵ binh giáp nặng Thiết Diều Tử cùng nhau tấn công, mất bao lâu để đánh bại Thiên Đô Trại?"

Đậu Hồng chần chừ trong một cái chớp mắt: "Thiên Đô Trại là nơi có địa hình hiểm yếu, dù là Thiết Diều Tử thì cũng tốn mất bốn năm ngày mới hạ được."

Chu Tử Thư đăm chiêu: "Theo lý mà nói, nếu như có một thành trì bị công phá thì lần sau chắc chắn sẽ tăng binh trợ giúp, dù sao cũng có vết xe đổ, tấn công sẽ khó khăn gấp bội. Phương thức tác chiến dẫu có thay đổi nhưng bản chất vẫn như vậy thôi, chúng ta có thể nghĩ tới thì quân địch cũng có thể nghĩ tới, vì vậy trong tình huống bình thường thì sẽ không ai chọn lại cùng một cứ điểm để đánh mới đúng."

Lòng Nhậm Phi Nguyên lay động: "Ý của đại nhân là đánh nghi binh*?"

(*) Nghi binh là hoạt động lừa dối trong quân sự, gây lầm lẫn về địa điểm tấn công, dẫn đến quyết định sai về hướng tiến quân của quân bị tấn công. Khi các lực lượng viện binh dồn đến điểm nghi binh, quân tấn công sẽ tấn công vào nơi khác vốn dĩ là mục tiêu chính yếu đã chọn.

Chu Tử Thư cũng không chắc chắn lắm: "Đây chỉ là suy đoán của ta thôi, không có căn cứ nào xác định là nó đúng cả."

Hai quân đối đầu nhau trả bằng máu thịt, suy cho cùng cũng không giống như chính đấu trong quan trường có chỗ trở mình, chỉ cần không cẩn thận là sẽ có người chết bởi sai sót trong việc chỉ huy hoặc chỉ đơn giản là đoán sai suy nghĩ trong đầu mà thôi.

Chu Tử Thư không thể không thừa nhận trong lòng y cảm thấy sợ hãi, cũng không tự tin y có thể đối mặt với sự tấn công đột ngột của quân địch.

"Không." Nhậm Phi Nguyên nói: "Suy đoán của đại nhân không phải vô lý, tướng lĩnh Kinh Nguyên đã được thay thành nhóm mới, phòng thủ nghiêm mật, mắt thường cũng có thể thấy được, năm nào mà Đại Hạ chẳng cho thám tử lẻn vào Tây Bắc, số gián điệp không hơn một ngàn thì cũng đã mấy trăm rồi, không có khả năng không phát hiện được. Huống chi người phát động chiến tranh lần này là Tang Lương Ngọc, lúc còn trẻ ông ta đã từng chỉ huy ba trận chiến đánh Đại Cảnh ta thua thảm, cũng chính nhờ ba trận thắng đó ông ta mới đứng vững gót chân trong triều đình Đại Hạ. Tang Lương Ngọc quen thuộc với phòng tuyến Tây Bắc, sẽ không phạm phải sai lầm đơn giản như vậy được..."

Lúc này hắn và Đậu Hồng đang mở rộng bản đồ ra, dựa vào phương hướng tiến đánh của binh mã Đại Hạ để suy đoán cứ điểm có khả năng bị tấn công, bài binh bố trận lại một lần nữa.

"Nếu như đánh nghi binh thì mục đích ắt là để nhử hổ xa rừng, chọn một cứ điểm thiếu thốn binh lực để công phá trong một lần, e rằng những thành trì gần Thiên Đô Trại đều là mục tiêu của chúng, chỉ không biết chính xác là có bao nhiêu mục tiêu. Chúng ta nên biết rõ ý đồ thật sự của quân Hạ thì mới có thể giành cơ hội trước được."

Chu Tử Thư đứng nghe bên cạnh, không đưa ra thêm câu hỏi nào nữa, chỉ gật đầu đồng ý với sự sắp xếp của hai người.

***

Giữa tháng giêng, các trại Thiên Đô, Ninh An và Đắc Thắng và các thành trì ven biên giới Kinh Nguyên lần lượt bị tập kích, đều đánh đến tận ba bốn ngày, chờ đến khi viện binh Đại Cảnh đến thì lập tức lui binh, hành động này chính là ví dụ điển hình cho chiến lược đánh nghi binh của quân Hạ.

Đậu Hồng và Nhậm Phi Nguyên nghĩ đến mà sợ, "Quân Hạ thắng nhờ có một số lượng lớn ngựa đực to và khỏe, sức chịu đựng rất mạnh, vừa có thể băng đèo lội suối, cũng vừa có thể rút lui bất cứ lúc nào, rồi tiếp tục lặn lội đường xa đổi sang một thành trì khác để đánh mạnh bất ngờ. Trái lại, triều đình của ta khan hiếm ngựa chiến, rất ít ngựa có đủ sức đi về không biết mệt, phần lớn là dùng sức người chạy ngày đêm không ngừng nghỉ, nhưng đi tới đi lui như thế, nếu lỡ như đến không kịp lúc để thành trì có binh lực yếu kém bị công phá... Thật sự không thể tưởng tượng nổi hậu quả."

Có quá nhiều thành trì ở biên cảnh Tây bắc, binh lực cũng theo đó bị phân tán ra, nếu như một thành bị tấn công thì phải lập tức điều binh từ các thành lân cận đến chi viện, mà quân Hạ thì lại chia quân tấn công, đã nhiều lần thăm dò đánh nghi binh, bọn chúng luôn có cơ hội đánh hạ những cứ điểm có đội quân vừa mới rời thành.

Cùng lúc đó, tin tức ba phòng tuyến biên giới Hà Đông, Phu Diên và Hoàn Khánh bị tập kích cũng được truyền đến càng khiến cho nhóm Đậu Hồng sinh lòng sợ hãi và nghi hoặc hơn.

Đậu Hồng: "Đột Quyết tấn công Hà Đông, có thể là đã bắt tay với Đại Hạ rồi."

Nhậm Phi Nguyên: "Năm năm trước Đại Hạ bắt tay với Nam Cương tấn công Phu Châu, cũng từng có tin tức đã bắt tay với Đột Quyết, trận đó triều đình, Tây Bắc và Hà Đông đều rất căng thẳng, cũng may cuối cùng là chỉ sợ bóng sợ gió thôi, không ngờ lúc này lại đột nhiên nổi loạn. Đột Quyết ra quân đã là ra quân vô vớ, lại còn đang trong thời kì nhạy cảm, cho nên khả năng chúng hợp tác với Đại Hạ là rất cao. Có điều vấn đề lớn hơn trước mắt chính là quân Hạ đã châm lửa ở khắp nơi, hầu hết các phòng tuyền biên cảnh đều bị bọn chúng xâm lấn, nhưng làm sao bọn chúng có nhiều binh đến như vậy?"

Chu Tử Thư: "Nghe nói năm ngoái sau khi đăng cơ, Tang Lương Ngọc đã cưỡng chế nhập ngũ... Nếu như toàn dân đều là binh, cộng với đại quân, e là không chỉ có một trăm ngàn người. Vấn đề là phòng tuyến Tây Bắc vô cùng rộng lớn, cứ cho rằng toàn dân nước Hạ đều là binh thì lực lượng đó cũng không đủ để chống đỡ với cách đánh phân tán như thế. Dù cho có một nhóm quân nhỏ đột phá được cứ điểm nào cũng sẽ nhanh chóng bị cấm quân Tây Bắc giết bằng sạch thôi."

Trước đây cứ nghĩ mục đích của Đại Hạ là Kinh Nguyên, toàn bộ binh lực tụ họp ở đây có nhiều nhất là một trăm ngàn, mà Cấm quân Kinh Nguyên đã tăng cường phiên binh, hương binh và quân đội vùng ven, tổng số lượng không quá tám, chín mươi ngàn, vẫn có thể ngang hàng với địch, huống chi còn có hai nhánh viện binh Hoàn Khánh và Hi Hà có thể dễ dàng chạy tới. Nhưng theo như tình hình trước mắt thì binh lực Đại Hạ phân tán ra, đối mặt với quân số của Đại Cảnh cũng bị phân tán nhưng tổng quân số nhiều gấp năm, sáu lần chính là lấy trứng chọi đá.

"Nguyên nhân chính đó là do quân đội chúng yếu hơn quân triều đình ta, đến khi xuất chinh nước Hạ mới huy động lực lượng hòng lấy số lượng và đánh nhanh thắng nhanh để đạt được thắng lợi. Phương thức tác chiến trước mắt căn bản không có lợi gì cho Đại Hạ, Tang Lương Ngọc sẽ không giở thủ đoạn hồ đồ thế này đâu, có phải là ông ta đang có âm mưu gì khác không?"

Nhậm Phi Nguyên và Đậu Hồng được các tướng lĩnh nhắc nhở, đánh mạnh cho bọn họ giật mình, sau khi cẩn thận phân tích tình hình chiến tranh và tình hình tiền tuyến, trái tim nhanh chóng chùng xuống.

"Có khi nào đánh nghi binh chỉ là mồi nhử thôi không?" Một tướng lĩnh phía dưới nói ra suy đoán của mình, "Mục đích cơ bản của bọn chúng chính là khiến cho tướng lĩnh các nhánh binh bị hoang mang, làm bọn họ không dám tùy tiện dời binh đi, sau đó chúng sẽ nhân lúc này dồn toàn quân tấn công một nhánh, chỉ huy đánh thẳng xuống dưới, phá thành chiếm đất?" Vẫn quay lại vấn đề ban đầu, ý đồ của quân Hạ là gì?

Chu Tử Thư: "Lực lượng cả nước tính luôn binh Hạ có ba trăm ngàn, trong đó có thể có Đột Quyết hoặc Nam Cương nữa, nhưng hai nước này sẽ không dám tập hợp toàn quân, tối đa chỉ đưa ra bốn năm mươi ngàn binh ma thôi. Chắc chắn Tang Lương Ngọc sẽ tập trung tất cả quân tinh nhuệ vào một mục tiêu," Y chỉ vào Kinh Nguyên trên bản đồ, "Quân tinh nhuệ tiền tuyến đã tấn công Thiết Diều Tử ở pháo đài nơi quân Kinh Nguyên thường xuyên qua lại..."

Y giương mắt, sắc mặt trở nên nghiêm nghị: "Mục tiêu của Tang Lương Ngọc chính là Kinh Nguyên!"

Lòng Đậu Hồng hoảng hốt: "Mạt tướng lập tức lệnh binh đưa tin báo tin tức này cho ba nhánh còn lại biết, chuẩn bị chi viện bất cứ lúc nào.

Chu Tử Thư vẫn luôn sợ hãi, có một dạo quân Hạ lui tới khu vực pháo đài của Thiên Đô Trại nhưng chỉ thăm dò chứ không tấn công, đường đi nước bước gần giống như cách chúng tấn công ba nhánh Hoàn Khánh, Phu Diên và Hà Đông, nhưng kế này sẽ bị tướng lĩnh các nhánh nhìn thấu sớm thôi, chỉ còn cách nắm bắt thời cơ nhân lúc bọn chúng không kịp phản ứng để nhanh chóng xuất binh chứ không phải đông đánh một búa tây đập một gậy như thể Kinh Nguyên không phải là mục tiêu của chúng.

"Có lẽ..." Chu Tử Thư thì thầm tự hỏi: "Các cụm pháo đài gần Thiên Đô Trại cũng không phải là mục tiêu nhỉ?"

***

Huyện Thần Điểu, phủ Tây Lương, chợt có một loạt kỵ binh vội vàng lướt qua, dừng lại trước cửa một nhà trọ, một người xuống ngựa xông vào trong, bắt hết tất cả khách và ông chủ ra ngoài.

Kỵ binh giáp nhẹ trầm giọng hỏi thăm rằng mấy ngày nay có một nhóm người nào đến ở trọ hay không, chủ trọ nơm nớp lo sợ đáp lại quả thật là có, nhưng sáng nay đã đi rồi.

Kỵ binh vào trong lục soát xong bước ra, nhẹ nhàng lắc đầu.

Thủ lĩnh kỵ binh giơ tay lên: "Tất cả mọi người trong nhà trọ này đều có hiềm nghi thông đồng với địch phản quốc, giết chết tại chỗ."

Thoáng chốc máu tanh vấy khắp nơi. Rồi chốc lát nữa ánh lửa vút cao lên tận trời, không một ai may mắn thoát khỏi.

Kỵ binh nhẹ tiếp tục đi tra xét, mặt khác, trên đường núi xung quanh huyện Thần Điêu có một hàng người cao to cưỡi ngựa mặc trang phục đen giống hệt nhau, bọn họ đều đứng nhìn nhà trọ bị lửa lớn nuốt chửng từ phía xa.

Bên cạnh có người nói: "Cũng may đã chạy trước một bước, cũng đã để thợ và vũ khí giả làm đội buôn tiến Lan Châu rồi, có điều lòng dạ của quân Hạ đúng là độc ác, dân chúng vô tội thế mà nói giết là giết ngay được."

Bên phải lại có người nói: "Đại Hạ học được từ Nam Cương một bí thuật tìm người, có thể nhờ vào mùi hương mà chúng ta để lại rồi truy đến đây nhanh thôi, mặc dù lúc đi đã che giấu kĩ nhưng cẩn thận vẫn hơn, chúng ta nên xuất phát sớm đi thôi."

Cung Tuấn túm chặt dây cương quay đầu ngựa lại, giơ roi thúc ngựa chạy đi chỉ để lại một câu: "Tránh xa thành trấn, đi đường núi, đừng tìm chỗ nghỉ trọ nữa."

Người bên cạnh nghe vậy thì liếc nhìn nhau, tuy vậy trong lòng ai cũng tự hiểu, ý hắn nghĩa là thà rằng mạo hiểm đi vội thêm một đoạn đường chứ không muốn liên lụy đến người vô tội.

***

Cuối tháng giêng, bởi vì binh lực của Đại Hạ ở tiền tuyến đã tăng lên rõ ràng, lực chú ý của các tướng lĩnh Kinh Nguyên hầu như đều chuyển về khu vực pháo đài Thiên Đô Trại, nơi này luôn ở trong một bầu không khí cẩn trọng và căn thẳng, thành Hoàn Khánh gần Kinh Nguyên đột nhiên có một lượng lớn binh mã Đại Hạ túa ra, đội binh chia làm hai hướng đoạt lấy hai vùng Cao Bình và Bành Dương nhanh như chớp nhoáng, tướng lĩnh đóng giữ Vị Châu nghe tiếng mang binh về phía trấn Nhung giữa hai địa phương rồi tiến hành mai phục nhưng rồi lại rơi vào tay quân Hạ, bị hai đội binh phục kích vây vào trong thành, cắt đứt đường lương thảo, nguồn nước, chặn bỏ đường lui, diệt mười ngàn Cấm quân Tây Bắc, giết chết một nhóm hơn mười chủ và phó tướng Đại Cảnh.

Sau đó lên đường đi thẳng một mạch xuống dưới, tấn công Vị Châu.

Lúc này Nhậm Phi Nguyên đã dẫn một vạn binh đi Vị Châu, Đô thự nhánh Hoàn Khánh cũng dẫn tám ngàn binh đến chi viện cho Vị Châu, tướng lĩnh đóng quân ở Kinh Nguyên và các nơi khác cũng đồng thời dẫn gần nửa binh lực đến Vị Châu đối đầu với đội binh mã Đại Hạ đột ngột xuất hiện này.

Cùng lúc đó, quân đóng tại hai nhánh Hi Hà và Hoàn Khánh cũng bị Vị Châu thu hút, không ai để ý đến Kinh Châu phía sau.

Lúc này Kinh Châu chỉ có vẻn vẹn mười ngàn phiên binh, bảy ngàn Cấm quân và không đến hai mươi ngàn hương binh, quân đội trấn thủ vùng ven chỉ có khoảng chín mươi ngàn người.

Buổi chiều hôm đó, mây đen âm u, cuồng phong gào thét.

Binh sĩ thủ thành không nhịn được ngáp một cái, suýt nữa là hốc cát đầy miệng, lúc chà xát hai tay vào nhau đột nhiên phát hiện trong xoáy cát vàng cuốn theo gió mơ hồ xuất hiện một loạt bóng đen mờ mờ.

Đến khi bão cát dừng lại, bọn họ lập tức nhìn thấy ba ngàn kỵ binh giáp nặng khí phách to lớn đồng loạt xuất hiện trước cửa thành Kinh Châu.

Một luồng gió lớn thổi tới, trong không khí dường như tràn ngập mùi máu tươi tanh nồng, kỵ binh giáp nặng phân ra thành hai phía, chậm rãi đẩy máy ném đá ba chân vô cùng lớn ra, đặt một quả cầu màu đen đang cháy vào giữa máy ném đá, mười hai tên binh sĩ đồng thời giật dây thừng, quả cầu đen bay theo hướng vòng cung về phía cổng thành, chỉ nghe thấy một tiếng xẹt xé rách không trung vang lên bên tai, một giây sau quả cầu nổ ầm lên rung chuyển trời đất, khói mù màu xám lập tức tản ra ngoài, binh sĩ thủ thành hít khói mù vào nét mặt thoáng chốc chỉ còn lại đau đớn, bóp chặt cổ mình rồi tắt thở bỏ mạng không lâu sau đó.

"Chết, chết rồi?" Binh sĩ trẻ tuổi ngỡ ngàng luống cuống.

"Là đạn khí độc, bịt mũi miệng lại!" Lão binh có kinh nghiệm thủ thành vừa nhanh chóng thấm ướt quần áo để bịt mũi miệng lại, vừa hô lên: "Địch tập kích! Địch tập kích rồi —— !"

Lão binh thủ thành xoay người chạy vụt đến chòi canh gõ vang trống to báo động địch tập kích, người gác tháp chuông trong thành nghe tiếng cũng gõ chuông, tiếng trống chuông thoáng chốc truyền khắp thành Kinh Châu, cổng thành đóng chặt, Cấm quân, phiên binh đều bắt đầu hành động, bò về phía tường thành đối phó với quân địch đột kích.

Đậu Hồng bước đi rất nhanh, trùng hợp gặp được Chu Tử Thư vừa khoác áo ngoài vừa chạy đến.

Chu Tử Thư: "Có thể đến cổng thành xem không? Tình hình ở hai cổng thành còn lại thế nào? Bây giờ còn kịp sơ tán người dân không? Có bao nhiêu binh mã vây đánh vậy? Sao bọn họ lại xuất hiện đột ngột như thế? Các điểm đóng quân xung quanh không phát hiện truyền tin sao?"

Đậu Hồng: "Hạ quan mới từ cổng thành về đây, tình hình nguy cấp lắm, sơ tán không kịp đâu, hai cổng thành khác cũng có binh Hạ bao vậy. Cửa đông có ba ngàn kỵ binh, nhìn mũ giáp và ngựa chiến thì có thế xác định đó chính là Thiết Diều Tử qua lại gần khu vực thành pháo đài Thiên Đô Trại. Cửa tây và cửa bắc có tổng cộng hơn mười ngàn binh mã đồng thời tấn công thành, quân địch sử dụng máy bắn đá, đạn dược đầy đủ, không dùng đạn bùn như ngày xưa nữa mà là đạn khí độc, uy lực vô cùng lớn. Đạn khí độc kia ta chưa từng nghe đến, độc tính rất mạnh và kì lạ, hạ quan hoài nghi là do người Nam Cương chế tạo. Vì sao lại đột nhiên xuất hiện... Có lẽ là chúng đã lợi dụng trận trấn Nhung thu hút sự chú ý của lực lượng đóng quân các nơi, lặng lẽ đi qua những địa phương phòng thủ kém để đến Kinh Châu. Bởi vì đại quân nước Hạ đang tiếp cận biên cương, những điểm đóng quân quanh Kinh Châu đều đã đến chi viện rồi, hàng phòng ngự của Kinh Châu cực kì yếu kém, không chịu nổi gót sắt chà đạp. Sợ là... Lành ít dữ nhiều."

Tình hình nguy cấp nhưng lại không nghe được chút tin tức nào từ sớm, thế thì chỉ có một khả năng, những điểm đóng quân xung quanh bao gồm cả thôn xá đều đã bị hại, không để lại một người sống nào để đến đây mật báo.

Đi qua nơi nào là chúng thẳng tay chém giết sạch ở nơi đó.

Quân địch xâm lược, đốt giết đánh cướp cũng không phải là điều gì hiếm lạ, nhưng mà không để lại người sống thì rõ ràng là không được bình thường, chứng tỏ lần này bọn chúng đến không chỉ để tống tiền, hơn nữa nhất định là lúc này sĩ khí đã rất cao, chỉ sợ là phải giết đến đỏ mắt mới thôi.

Một khi thành Kinh Châu bị phá, dù ông ta có dẫn đầu xin hàng thì tính mạng của chín mươi ngàn dân chúng trong thành cũng có mà giữ nổi.

Chu Tử Thư: "Có chuẩn bị mà đến, âm mưu cũng bại lộ rồi, xem ra mục tiêu của Tang Lương Ngọc là Kinh Châu."

Đậu Hồng nói: "Tính ra trong thành cũng có gần bốn mươi ngàn binh mã, nhưng mà đội kỵ binh mạnh nhất của Đại Hạ đang ở đây, binh mã vây thành nói ít cũng phải hai ba mươi ngàn, vẫn chưa biết phía sau có quân chi viện hay không... Nếu như không có vũ khí công thành còn đỡ, vậy mà cuối cùng chúng lại đưa ra vũ khí công thành vô cùng cao cường! Rõ ràng Đại Hạ nổi tiếng là khuyết thiếu vũ khí công thành cơ mà! Nay chúng dùng đạn khí độc để tấn công, làm sao ta dám tự tiện mở cổng thành nghênh chiến chứ. Hình như đối phương đã ăn thuốc giải độc từ trước nên không sợ khói độc, bây giờ đang điên cuồng phá thành, chúng ta không thể không cử người canh cổng thành! Nhưng bây giờ mà lên cổng thành chính là đi chầu trời đấy!" Ông ta gấp đến nỗi đi lòng vòng.

Chu Tử Thư: "Tinh binh đều tụ họp ở đây, nôn nóng phá thành, còn lấy cả vũ khí công thành trước đây chưa từng có... Tang Lương Ngọc đưa Kinh Châu vào tình thế bắt buộc, chỉ sợ sau này còn có thêm quân Hạ đến góp sức! Phải động viên tất cả tướng sĩ và dân chúng trong thành: Quân địch tập kích, sống chết giữ lấy Kinh Châu!"

Tang Lương Ngọc vốn đánh nghi binh ở khu vực Tây Bắc, sau đó giả vờ tấn công những pháo đài quanh Thiên Đô Trại và trấn Nhung, điều một lượng binh mã thuận lợi tiến đến Kinh Châu, gióng trống khua chiêng hao phí binh lực, làm một loạt hành động thật thật giả giả chỉ vì Kinh Châu thôi sao?

Chúng sẽ chiếm được Kinh Châu nhưng không thủ được lâu, có thể chiếm thế thượng phong trong thời gian ngắn, tuy nhiên một khi tướng lĩnh các nhánh Tây Bắc nhận ra, ba bốn trăm ngàn quân từ bốn phương tám hướng đánh bọc sườn tới, chắc chắc có thể tiêu diệt được binh mã của Đại Hạ.

Đến lúc đó Đại Cảnh sẽ chịu tổn thất vô cùng nghiêm trọng, nhưng chắc chắn Đại Hạ phải dùng đất nước mình để kết thúc.

Trận chiến càn quét Tây Bắc này trông thế nào cũng không giống như là chỉ đến cướp đồ rồi tháo chạy...

"Tang Lương Ngọc là kẻ điên, Ngạc Khắc Thiện đánh giá như vậy, nếu như là lời của một phía thì không thể tin hết, nhưng Vương Nguyệt Minh cũng nói bóng gió như thế, vậy thì chứng tỏ ông ta là kẻ điên thật. Kẻ điên vốn đã khiến cho người ta sợ hãi, nhưng kẻ điên vừa thông minh vừa thiếu đạo đức thì chính là một quả bom hẹn giờ, không thể suy đoán suy nghĩ của ông ta theo cách bình thường được."

Chu Tử Thư chắp tay đưa lưng về phía Đậu Hồng, cánh môi mấp máy, tiếng nhỏ như muỗi kêu, thay đổi lối suy nghĩ, nếu như y là một kẻ điên ham công danh, bội bạc, theo đuổi tên đuổi mà lừa dối cuộc đời, nếu như y là Tang Lương Ngọc, y sẽ hành động như thế này vì mục đích gì?

"Tang Lương Ngọc xa xứ vạn dặm, gánh chịu tiếng nhơ phản quốc, tận tụy trù tính vì Đại Hạ, nhưng từ quân thần cho tới dân chúng Đại Hạ đều không đối xử tốt với ông ta, trái lại luôn luôn đề phòng. Chắc chắn rồi, Tang Lương Ngọc oán hận Đại Cảnh, năm xưa vừa nương nhờ được nước Hạ đã không nhịn được bày ra mất trận chiến đánh bại triều đình của ta, sau đó dùng tất cả mọi thủ đoạn chính trị, nói lòng ông ta hướng về triều đình Đại Hạ, chẳng bằng nói ông ta vẫn luôn nhắm vào triều đình ta."

"... Ông ta vẫn luôn oán hận Đại Cảnh, oán hận Nguyên Phong đế vì tình riêng mà năm đó cắt đứt đường tương lai của mình, hại ông ta đơn độc phiêu bạt nơi xứ người, mà bây giờ Đại Hạ cũng phản bội ông ta... Tang Lương Ngọc là một kẻ tự phụ, nhất định sẽ không tìm kiếm nguyên nhân từ bản thân mình. Ông ta soán vị, in dấu danh nhơ trên sử sách, chỉ biết trách móc Hoàng đế và triều thần Đại Hạ, vậy nên sau khi soán vị mới thẳng tay chém chết những quý tộc phản đối mình, sau khi tùy tiện trút hết lòng thù hận ra, trong lúc tinh thần mất cân bằng nhất, đối tượng trả thù kết tiếp chính là Đại Cảnh. Nếu như lúc đó còn bóc trần được chuyện tiền trang Đại Thông, vấn đề của xưởng chế tạo vũ khí, lại truy ra được manh mối xuất phát từ Kinh Châu... Không ổn chút nào."

"Tang Lương Ngọc đắc vị bất chính, trong nước còn có Thác Bạt Minh Châu và các quý tộc không phục ông ta chính là mối đe dọa tiềm ẩn, trong lúc này ông ta lại phát động chiến tranh quy mô lớn, đào rỗng binh lực của hàng phòng ngự trong nước, huy động toàn bộ lực lượng, đây đều là thứ khiến ta cảm thấy ông ta đã chuẩn bị kéo quốc gia chết theo bất cứ lúc nào, mà trước khi chết còn phải để lại cho quân thần Đại Cảnh một bài học thê thảm đau đớn."

Thật là điên cuồng.

Suy đoán của y rất điên.

Nếu như y không đoán sai, thì Tang Lương Ngọc phải càng điên hơn nữa.

"Thành Kinh Châu không thể bại."

Một khi thành bại, theo như những gì mà y đoán được về mạch suy nghĩ của Tang Lương Ngọc lúc này, khả năng cao đối phương sẽ tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành.

"Chờ đêm xuống lập tức lệnh cho binh sĩ ra khỏi thành nghênh chiến, chọn mấy người thông minh lanh trí một chút trà trộn vào đó rồi chia ra từng cổng thành, chạy đến Hoàn Khánh, Nguyên Châu lấy viện binh." Dừng một chút, Chu Tử Thư ngập ngừng nói: "Bảo với bọn họ, chuyến này cửu tử nhất sinh, nhưng chắc chắn triều đình sẽ thu xếp ổn thỏa cho người nhà của họ! Phía sau chúng ta là mạng sống của chín mươi ngàn dân chúng, chúng ta buộc với bọn họ, cầu mong thuận buồm xuôi gió, mọi việc đều thuận lợi!"

Đậu Hồng: "Tuân lệnh."

"Vũ khí công thành có uy lực cực mạnh như đạn khí độc và đạn gây cháy bình thường rất khó chế tạo, số lượng có hạn, sẽ không thể dùng tấn công trong thời gian dài, nhưng cần để các tướng sĩ thủ thành bảo vệ thể lực, cứ mỗi nửa khắc đồng hồ sẽ đổi một nhóm khác lên cổng thành, Chu tập tất cả thầy thuốc trong thành lại, gom góp dược thảo lại cất cùng một nơi, mau chóng nghiên cứu ra đơn thuốc giải dộc. Đặc biệt là là nguồn nước, kho lương trong thành, cần phải lệnh cho người trông coi cẩn thần, thấy người nào có hành tung mờ ám thì không cần phải hỏi lý do, bắt lại hết!"

Những điều này không cần Chu Tử Thư dặn, Đậu Hồng cũng biết nên sắp xếp như thế nào.

Chu Tử Thư nhắm mắt lại, đan hai tay vào nhau, cố gắng nhớ lại kế phá pháo mà y đã từng đọc trong sách lịch sử của đời trước.

"Thừng bảo vệ rào."

Đậu Hồng: "Đại nhân nói gì thế?"

Chu Tử Thư mở mắt ra, "Gọi mấy người khéo tay một chút đến đây, lấy tất cả rơm rạ trong thành lại bện thành sợi dây cứng cáp, ta sẽ vẽ mẫu, ông bảo người ta dựa theo đó mà làm, sau đó lệnh cho một nhóm người đi khuấy bùn nhão. Quấn sợi dây này lên nóc tường thành rồi đắp bùn nhão lên, nó có thể chặn được pháo, đạn gây cháy và tất cả các loại pháo đá khác."

Cũng chẳng biết có thể chế ra được hay không nữa, cứ thử xem đã rồi tính.

***

Hoàng hôn vừa xuống, máy ném đá ngừng hoạt động, Kinh Châu mở cổng thành lớn, Đậu Hồng thúc ngựa đi trước: "Giết —— " Thoáng chốc khí thế như hồng, chém giết rung trời. Trên cổng thành, Chu Tử Thư lệnh cho người di chuyển pháo, máy ném đá và hỏa tiễn ra, ném đạn gây cháy về phía quân địch ở xa, sau đó tiếp tục lệnh cho binh sĩ xếp một loạt mũi tên lửa ra hướng xuống phía dưới rồi bắn đi, thoáng chốc tên rơi như mưa, vút lên cao rồi rơi xuống.

Gói thuốc súng gắn với mũi tên sẽ bốc cháy ngay lập tức sau khi tiếp xúc với đích đến, cũng không thể xem thường uy lực của nó.

Mùi khói thuốc súng và mùi máu tanh gay mũi khiến Chu Tử Thư cảm thấy hoa mắt chóng mặt, y dùng gói thuốc giúp tinh thần tỉnh táo lấy từ chỗ thầy thuốc ra bịt mũi lại, giơ tay hô to: "Kéo nỏ tầm xa!"

Nỏ tầm xa được kéo lên cổng thành thay thế cho đội hình hoả tiễn ban đầu, mũi tên lạnh lẽo nhắm ngay sau thiết kỵ, khi nó được kéo căng đến mức sẵn sàng phóng đi, Chu Tử Thư lập tức ra lệnh: "Bắn!"

Nỏ tiễn xuyên qua màn đêm vô tận giống như cơn mưa rào xen lẫn với mùi khói từ thuốc súng tràn ngập trong không trung, phốc một tiếng xuyên qua áo giáp dày trên thân kỵ binh giáp nặng của Đại Hạ, kéo người ngã xuống ngựa lê thêm mấy mét nữa rồi bị vó ngựa giẫm đạp lên như đóng đinh, chẳng còn nhìn ra hình dạng gì. Đao kiếm không có mắt, nỏ tiễn từ trên trời rơi xuống thoáng chốc đã xuyên qua thân của vài con ngựa chiến, đồng thời khiến cho những con ngựa khác hoảng hốt, chúng hí vang cất cao vó lên hất ngã kỵ binh trên lưng xuống rồi giẫm đạp lên họ. Nhưng dù gì đó cũng lại kỵ binh giáp nặng tinh anh của Đại Hạ, chỉ một lát sau đã kiểm soát được ngựa chiến bị khủng hoảng, tiếp tục tấn công.

Đậu Hồng dẫn tám ngàn binh, tuy có thêm pháo và nỏ tiễn hỗ trợ cũng không thể chiếm thế thượng phong trước ba ngàn thiết kỵ, vào lúc này, mặt đất trước cổng thành run lên, tiếng ầm ầm ùn ùn kéo đến, tim Chu Tử Thư đột nhiên chùng xuống, y cầm lấy mũi tên lửa phóng ra không trung, ánh lửa chiếu sáng phương xa, chỉ trong nháy mắt thôi là có thể thấy rõ được kia là một đội quân hùng hậu.

Viện binh quân Hạ!

"Rút quân!" Chu Tử Thư hét vỡ cả giọng: "Rút quân ngay, đóng cổng thành! Ném hết pháo xuống dưới —— nhanh!!!"

Dường như trong cuốn họng có bọt máu tuôn ra, Chu Tử Thư mặc kệ sự khàn đặc đau đớn đó, vừa chỉ huy vừa cầm lấy tên lửa bắn ra phía xa, dù cánh tay đau đến nỗi tê dại cũng không dám buông lỏng một giây phút nào, mãi đến khi Đậu Hồng dẫn binh lui vào trong thành, cổng thành đóng lại kịp lúc ngăn thiết kỵ bên ngoài, lòng ai nấy vẫn còn sợ hại mà nhìn về phía viện binh quân Hạ dày đặc ở đằng kia.

Chu Tử Thư đứng bất động ở tư thế bắn tên, nhìn chằm chằm vào vị trí giữa đội quân phía dưới tìm kiếm tướng soái, nhưng y chỉ có thể nhìn thấy được một cỗ xe nhung đột ngột xuất hiện chính giữa quân Hạ, được bộ binh hạng nặng vây chặt xung quanh như nêm cối.

Trực giác nói cho y biết, người ngồi trên xe nhung chính là tướng soái của quân địch.

Đậu Hồng bò lên trên cổng thành, nhìn qua binh mã dày đặc phía dưới, ánh mắt trở nên lạnh lẽo: "Đúng như ngài đoán, quả nhiên vẫn còn viện binh, mà chúng ta lại không biết chúng phái đi bao nhiêu binh mã đến vây đánh Kinh Châu."

Chu Tử Thư không dám chớp mắt, giọng khàn khàn: "Kiểm tra những cổng thành khác xem có bao nhiêu binh mã đang bao vây, ông đoán xem tiếp theo quân địch sẽ tiếp tục đánh hỏa lực bọc sườn hay là lui về ba xá, nghỉ ngơi dưỡng sức."

Nuốt một ngụm nước bọt, y nói: "Ta đoán là sẽ tiếp tục cường công bằng hỏa lực."

==

Bản đồ tác chiến:

Năm nhánh Tây Bắc xếp thành một hàng, từ trái sang phải theo thứ tự là: Hi Hà, Kinh Nguyên, Hoàn Khánh, Phu Diên, Hà Đông (bốn khu vực đầu thuộc tỉnh Thiểm Tây.)

Kinh Châu, Nguyên Châu và Vị Châu liền kề nhau. Kinh Châu, Nguyên Châu và nhánh Hoàn Khánh cũng liền nhau, vì vậy nếu như Kinh Nguyên bị tập kích thì có thể tìm đến điểm đóng quân của Hoàn Khánh để cầu viện, bởi vì nó gần.

Phòng tuyến biên cương của Kinh Nguyên được thiết lập gần giống như hình chữ "V", có rất nhiều pháo đài (thành trì).

Quân Hạ đánh nghi binh ngay hai bên cụm pháo đài chữ "V" này, pháo đài Thiên Đô Trại ở bên trái, pháo đài trấn Nhung ở bên phải, đánh bại trấn Nhung tiến quân vào Vị Châu, đại quân thu hút hỏa lực ở Vị Châu, một đội quân khác thì lén lút bọc phía sau bao vây thành Kinh Châu.

Vũ khí chiến đấu:

• Máy ném đá, vũ khí công thành sắc bén thời cổ đại.

• Đạn khí độc, đạn gây cháy, tên lửa, pháo các loại thì có mặt vào thời ĐạiTống.

• Thừng bảo vệ rào - Hộ tì ly sách (护陴篱索): Dùng thân cây lúa (rơm rạ) để bện thành một sợi dây cứng, chu vi khoảng 4 tấc, dài 34 thước, cứ 5 sợi nhỏ thì buộc lại thành một sợi to, buộc một đầu của sợi dây vào cột nhà, quấn lên trên xà nhà rồi đắp quanh các tầng lầu cho đến khi dây xuống tới mặt đất, sau đó đắp bùn nhão lên, tên lửa và pháo không thể đốt cháy, đến pháo đá nặng trăm cân cũng không làm được gì. Vừa nhẹ nhàng vừa không tốn tiền, cho nên được gọi là "Thừng bảo vệ rào".

Chương 103

Chu Tử Thư vừa dứt lời liền nghe thấy tiếng xé gió chói tai ập tới, trong mắt phản chiếu hỏa tiễn đang bay vút đến, sát qua đỉnh đầu của y rơi xuống phía sau phát ra một tiếng nổ mạnh, ngọn lửa bùng lên trong phút chốc nhanh chóng vây lấy binh sĩ, tiếng kêu la thảm thiết không ngừng vang lên, tuy rằng đã được dồng đội dập tắt lửa trên người, nhưng nối đuôi chính là tên lửa ùn ùn kéo tới, mọi người còn không lo nổi cho bản thân mình, căn bản không có dư sức đi cứu đồng đội bị lửa tấn công.

Đậu Hồng xông tới che chắn cho Chu Tử Thư, níu tay y chạy xuống khỏi cổng thành: "Đại nhân, ngài rời khỏi đây trước đi!"

Chu Tử Thư bóp mạnh kinh mạch trên cổ tay của Đậu Hồng: "Đã lúc nào rồi mà còn nghĩ đến tác phong của quan lại chứ?"

Cơn đau ép Đậu Hồng buông tay ra, nghe thấy tiếng chửi tục của Chu Tử Thư vang lên bên tai thì không khỏi ngạc nhiên quay đầu nhìn lại, thấy trong mắt Chu Tử Thư phản chiếu ngọn lửa đỏ rực, dùng thái độ quả cảm không ôn hòa điềm tĩnh như trước nữa mà quát lên: "Ông có kinh nghiệm tác chiến, mau đi chỉ huy đi! —— Bắn pháo! Máy ném đá bắn pháo cho ta! Cung thủ tiến lên, tên lửa có bao nhiêu bắn hết bấy nhiêu cho bổn vương! Hỗn hợp trộn từ phân và nước tiểu bảo các ngươi trộn mấy ngày nay ấy, mẹ nó đổ xuống dưới hết cho ta! Ngắm chuẩn chút, rót vào tai mắt mũi miệng đám tinh trùng lên não muốn xâm chiếm nhà của chúng ta, giết người thân của chúng ta, chiếm đoạt tài sản đất đai của ta! Cho bọn chúng đớp cứt hết đi —— !"

Một câu cuồng loạn cuối cùng hô đến nỗi vỡ giọng nhưng vẫn như xuyên qua tường lửa, đinh tai nhức óc, trái lại khích lệ toàn quân trên tường thành, chỉ thấy Chu Tử Thư vọt lên phía trước làm gương cho binh sĩ, cầm lấy tên lửa hướng xuống phía dưới bắn tên, ngón tay bị dây cung cứa rách be bét máu tươi nhưng dường như y chẳng hề phát hiện ra, những người xung quanh vô cùng hưng phấn, hăm hở phản kháng lại trước khí thế áp đảo đầy trời của quân địch.

Đậu Hồng cũng không còn lòng dạ nào nghĩ đến việc bảo vệ thượng sai nữa, ông cầm lấy trường thương lao đến cổng thành đâm xuống những tên quân Hạ đang bò lên, bên cạnh liên tục có binh sĩ nâng từng thùng phân lên đổ xuống, đã lúc này rồi không còn ai quan tâm đến mùi hôi thối gay mũi này nữa, sâu trong lòng chỉ còn lại ham muốn giết chóc vô cùng tận, chỉ biết nếu như bọn họ không liều chết chống đỡ đợt sóng tấn công đầu tiên này, thì ngay sau đó đầu sẽ rơi xuống đất, nếu cổng thành bị phá, đất quê hương của họ sẽ bị phơi bày trước móng ngựa, chín mươi ngàn dân chúng tay không tấc sắt sẽ phải chịu đựng từng trận chà đạp tàn bạo và độc ác.

Tên lửa ồ ạt phóng ra không ngừng nghỉ, ánh lửa bất diệt bổ nhào xuống tường thành, mùi da thịt bị đốt cháy bốc lên, mùi máu tươi, mùi khói thuốc súng, mùi hôi thôi của phân và nước tiểu hòa lẫn vào nhau điên cuồng kích thích dạ dày của Chu Tử Thư, nhưng lúc này cả người y đều căng thẳng, tinh thần tập trung cao độ, cố gắng tìm kiếm xe nhung giữa đội quân Đại Hạ đang yên tĩnh đứng cách thành hai dặm.

Với khoảng cách này, dù là tên lửa hay là nỏ tầm xa có thể bắn được nỏ tiễn xa đến một dặm cũng không giết được người trong xe nhung.

Bỗng nhiên có một dòng máu tươi nóng hổi phun ra, tung tóe lên nửa bên mặt Chu Tử Thư, cánh tay kéo cung của y run rẩy, thoáng liếc nhìn sang binh sĩ bên cạnh thấy người nọ đã bị chém thành hai khúc, một thân hình cao to leo lên được trên tường thành, giơ đao dài lên cao bổ về phía Chu Tử Thư.

Tình hình lúc này như ngàn cân treo sợi tóc, trường thương của Đậu Hồng xuyên qua lồng ngực của quân địch rồi đột ngột rút ra tạo nên âm thanh răng rắc chói tai, kẻ nọ rên rỉ ngã xuống đất, mà cũng trong lúc đó, mũi tên lửa của Chu Tử Thư đã được bắn ra, tên lửa lao xuyên qua ngực của một binh Hạ rồi cắm vào bụng của một binh Hạ khác phát ra tiếng nổ tung, trong nháy mắt chúng đều bị ngọn lửa cắn nuốt.

Vừa mới trải qua cái chết gần kề trước mắt nhưng Chu Tử Thư không có thời gian để nghĩ tới mà sợ, khi y phát hiện ra tên lửa đã bị dùng hết thì rút hoàn thủ đao ra rồi vụt đến chỗ quân địch đang bò lên, vung đao chém xuống, máu tươi văng lên mặt, lúc này tiếng da thịt bị chém rách phóng đại bên tai, vang vọng lấn át cả tiếng chém giết của đao thương.

Khác với sự tỉnh táo trong cơn phẫn nộ đến tận cùng khi chém giết tham quan ô lại, bây giờ trong đầu y chỉ còn sót lại một suy nghĩ duy nhất đó là giết chóc, không hề có cảm giác sợ hãi, mệt mỏi lẫn tội lỗi.

Không giết thì chết.

Mà chết rồi cũng chưa thể kết thúc được, sau lưng còn có ngàn vạn người dựa vào sự bảo vệ của bọn họ.

Chu Tử Thư liều chết cắn răng, tiếng gào thét mạnh mẽ bật ra khỏi lồng ngực: "Giết ——!"

Trước sau trái phải y có vô số người hưởng ứng, tiếng hô giết vang lên bốn phía, thậm chí có tân binh đã bị đâm thủng ngực thì quyết ôm lấy quân địch nhảy thẳng xuống thành, chỉ trong chốc lát đã bị giẫm đạp đến nổi chẳng còn ra hình người,

Ánh lửa ngập trời, mãi cho đến khi có tia nắng vàng óng xuyên qua tầng mây dày chiếu sáng rừng cây sắc xám phía xa, nắng phản chiếu trên khôi giáp của tướng sĩ vô cùng chói chang, quân Hạ ác chiến một đêm nhanh chóng rút lui như thủy triều, dựng trại đóng quân ở cách đó ba dặm.

***

Hai tay Chu Tử Thư run lên cầm cập, từng đốt ngón tay đều nứt toác ra bê bết máu me, nhưng cơn đau mà nó mang lại thậm chí không thể so được với sự mệt mỏi của thể xác, tinh thần càng chấn động hơn thế nữa, nhưng y vẫn cần phải tiếp tục mạnh mẽ chống đỡ để đối phó với nguy cơ công thành sắp sửa xảy ra.

"Có bao nhiêu tiểu đội cầu viện phá vòng vây thành công?"

Tình hình của Đậu Hồng không ổn hơn Chu Tử Thư là bao, đầu bù tóc rối hai mắt đỏ quạch, thở hồng hộc trả lời: "Chỉ có một tiểu đội là không bị treo đầu lên cột cờ của địch."

Chu Tử Thư nhắm nghiền mắt lại.

Có tổng cộng bảy tiểu đội cầu viện, một đội năm người, chỉ có một tiểu đội phá vòng vây thành công, chạy đi mật báo.

"Từ Kinh Châu đến Vị Châu khoảng một trăm hai mươi dặm, nếu là kỵ binh nhẹ thì nhanh nhất cũng phải hai ngày hai đêm mới đến đó, nhưng điều này không thực tế, huống chi Vị Châu cũng đang bị quân Hạ vây đánh. Chỉ có thể đến các nơi như Nguyên Châu, Khánh Châu, Lũng Châu, Ninh Châu và Phượng Tường để cầu viện, nhưng Nguyên Châu và Lũng Châu đều đã phái đi không ít binh lực chi viện cho Vị Châu, có thể đến giúp quân ta không được bao nhiêu. Cấm quân Khánh Châu có ba mươi ngàn, Cấm quân Phượng Tường hai mươi lăm ngàn, Lũng Châu cũng có năm ngàn Cấm quân, cộng thêm hương binh và quân đội vùng ven đoán chừng có thể gom được đủ một trăm ngàn binh lực, nhưng nhóm viện binh đầu tiên đến hỗ trợ được nhanh nhất cũng phải tốn năm ngày!" Chu Tử Thư cắn chặt răng hàm, nếm được mùi máu tươi: "Chúng ta cần cố thủ Kinh Châu năm ngày, phải đợi đến lúc viện binh đến!"

Trái tim của Đậu Hồng nhanh chóng trở nên nặng nề, đây đã là kết quả tốt nhất trong dự đoán rồi, vẫn chưa chắc quân cầu viện có thể đến đích thành công hay không, mà dù viện binh có xuất phát thuận lợi cũng không chắc sẽ đến đây kịp trong vòng năm ngày.

Lúc này, Chu Tử Thư thấp giọng nói: "Phải bảo đảm đạn dược, lương thảo và nguồn nước đủ dùng trong vòng ít nhất mười ngày tới." Đậu Hồng hiểu tính toán của Chu Tử Thư nhưng...

"Đạn dược chỉ đủ dùng trong ba ngày. Quân địch đã có tiếp viện, ta đoán phải có chừng bảy, tám mươi ngàn, hơn nữa bọn chúng dư dả đạn dược, dùng không tiếc rẻ, chúng ta chỉ có tối đa bốn mươi ngàn binh, e là sẽ không chống đỡ được bao lâu."

"Chỉ cần thừng bảo vệ rào được chế tạo thành công, dù đạn có mạnh đến mức nào cũng không phá được. Đã động viên dân chúng toàn thành chưa? Nếu như có kẻ nào phản kháng hoặc làm dao động lòng quân thì nhốt vào đại lao trước đã rồi tính."

Đậu Hồng còn chưa đáp lại đã có tướng lĩnh phía dưới vội vàng chạy tới nói: "Đại nhân, thừng bảo vệ rào mà tối qua ngài dặn dò làm mọi người đã chế ra được rồi, ngài có muốn đích thân đi kiểm tra không?"

Chu Tử Thư: "Quấn lên nóc nhà rồi ném phá trước đã, xem thử có dùng được hay không." Tướng lĩnh nghe lệnh.

Có thợ thủ công mang sợi dây thừng được bện theo như bản vẽ của Chu Tử Thư đến, quấn năm lớp dây quanh một căn nhà trống, sau đó đổ bùn nhão ở xung quanh, đợi đến lúc nó khô lại mới dùng máy ném đá ném pháo vào, sau khi khói mù tan đi không thấy bị tổn hại gì, chúng tướng sĩ mới bừng bừng hứng khởi, nói có vũ khí phá pháo lợi hại như vậy rồi thì không sợ đạn gây cháy và đạn khí độc của Đại Hạ nữa.

Chu Tử Thư: "Đạn khí độc nổ xong sẽ có khói độc bốc lên, thừng bảo vệ không thể chắn được."

Lúc này Đậu Hồng mới bước lên nói: "Đại nhân, có thầy thuốc đề nghị dùng mặt nạ ngâm qua giấm chua để phòng độc. Hơn nữa trong quá trình chế tạo đạn khí độc rất dễ bị ngộ độc chết cho nên số lượng sản xuất ra rất ít, ngoại trừ ban đầu công thành ném đạn khí độc chứa chất độc cực mạnh ra để đe dọa, chèn ép sĩ khí thì những loại đạn khí độc lúc sau phóng đến không nguy hiểm đến tính mạng."

Chu Tử Thư: "Cần người cho người, muốn vật liệu cho vật liệu, cố gắng phối hợp chế tạo mặt nạ phòng độc đi." Sau đó y bảo các tướng sĩ bày tỏ suy nghĩ của mình về việc đối phó với Đại Hạ, "Tập hợp ý tưởng của trăm người, cứ nói thoải mái đi, không gì là không thể."

Một đám tướng sĩ nhìn nhau, trong lòng rất do dự, cũng bởi vì Ngạc Khắc Thiện bảo thủ tự phụ, trước giờ chưa từng kiên nhẫn nghe theo ý kiến mang binh đánh giặc của thuộc hạ.

Ấy gọi là tướng dũng binh hùng, tướng hùng binh sợ, trên lệnh dưới theo, tướng lĩnh dưới quyền làm Ngạc Khắc Thiện nở mày nở mặt thường là những kẻ nịnh nọt bất tài, ông ta không thích nghe lời khuyên của cấp dưới, luôn cố tình chèn ép những tướng lĩnh ưu tú muốn ngóc đầu lên, vì vậy khi nghe thấy lời đề nghị của Chu Tử Thư, bọn họ mới ngỡ ngàng và băn khoăn theo thói quen.

Tuy nói rằng Chu Tử Thư có danh thanh thiên, biểu hiện tối qua của y cũng vô cùng dũng cảm, nhưng dù gì y cũng là quan văn, sao có thể hiểu mang binh đánh giặc chứ?

Chu Tử Thư nhìn ra được suy nghĩ trong lòng bọn họ, không nói gì mà quay sang nhìn Đậu Hồng.

Đậu Hồng hiểu ra ngay, thế là đứng ra nói: "Mặc dù quân địch đã ác chiến một đêm, thắng vì số lượng nhưng không thích hợp kéo dài lâu, chỉ sợ là muốn đánh nhanh thắng nhanh, bọn chúng sẽ mau chóng tiến hành đợt công thành tiếp theo, nhờ trận đánh này làm tiêu hao binh lực và thể lực của quân ta. Nhân số của quân ta rơi vào thế bất lợi, lại chỉ có thể kéo dài! Quân ta có thừng bảo vệ rào, công pháp pháo của địch mất hiệu lực thì chúng sẽ sử dụng loại vũ khí khác để phá thành, trận tên ắt không thể thiếu, chúng ta động viên dân chúng bện người rơm, học thuyền cỏ mượn tên của Chư Cát Khổng Minh, đến tối tổ chức cho dũng sĩ ra khỏi cổng thành, lẻn vào doanh địch đánh lén."

Chu Tử Thư: "Được đấy."

Mưu kế của Đậu Hồng không khéo lắm, nhưng có thể có hiệu quả.

Thấy Chu Tử Thư tiếp thu, lập tức có người đi ra nói: "Trong thành có một địa đạo thông ra ngoài thành, chúng ta có thể mai phục trong địa đạo để đánh lén mọi lúc."

Địa đạo chiến? Ông cố tổ sáng suốt quá mà.

Chu Tử Thư vui vẻ khen ngợi, khen đến nỗi khiến cho gã đàn ông cao to thô kệch vừa ngại ngùng vừa vui sướng không thôi.

Có người lên tiếng trước được thừa nhận nên đã khích lệ được những người khác, đều là nam nhi khỏe mạnh dốc hết sức mình vì Ngô câu, ai mà không muốn toại chí lớn? Ai mà chưa từng có lòng muốn xuất tướng nhập tướng chứ?

Chỉ trong nháy mắt, một đám tướng sỉ tinh thần phơi phới đóng góp ý kiến của mình cho kế hoạch làm tiêu hao sinh lực và thể lực của quân địch, cố gắng kéo dài thời gian phá thành, Chu Tử Thư nghiêm túc nghe hết.

Chỗ nào thắc mắc thì hỏi vài câu, hiểu rồi thì không góp ý thêm nữa, cho người cho vật liệu và quyền hạn tốt nhất để bọn họ mạnh tay thực hiện, còn lệnh cho người bên cạnh ghi lại những gì mà mỗi người ở đây đã cống hiến trong trận đại chiến này, để cho bọn họ nhìn thấy rõ rằng bất cứ đóng góp nào của họ cũng đều là công lao, ngày sau sẽ ban thưởng tương ứng với từng việc một. Hành động này giống như một viên thuốc an thần tăng sĩ khí lên gấp đôi.

Chu Tử Thư cũng sẽ đưa ra nguyên nhân bác bỏ một lời đề nghị nào đó, chỉ nói vài câu về chỗ thiếu sót thôi đã đủ khiến cho người khác thật lòng khâm phục rồi.

Dần dần, tiếng thảo luận vang lên không ngừng nghỉ, từ nhỏ nhẹ đến sục sôi, rồi lại giảm âm thanh xuống trong nháy mắt, Đậu Hồng dựng ngón trỏ lên đặt trên miệng ra hiệu đừng lên tiếng nữa, mọi người nhìn về phía Chu Tử Thư giữa đống bao cát lộn xộn dưới tường thành, y đã nhắm mắt lại vô thức chìm vào giấc ngủ say.

Nhưng dù đang ngủ, tư thế của y vẫn căng thẳng không dám buông lỏng chút nào, mà vết thương chồng chất trên tay Chu Tử Thư cũng lộ ra trước mắt mọi người, y thậm chí không thể gắng gượng đến lúc có thuốc bôi và băng gạc để chữa thương.

...

Không khí trở nên im ắng.

Mọi người đều hiểu ý lui đi, chỉ để lại một lão binh đứng cách năm mét canh chừng Chu Tử Thư đang mê man giữa bao cát, còn gọi nhóc đồ đệ của thầy thuốc đến để giúp Chu Tử Thư bôi thuốc lên tay.

Ai nấy đều làm việc cần làm, có điều tướng sĩ đánh từ tối qua đến giờ đều đã mệt mỏi kiệt sức, Đậu Hồng lệnh cho bọn họ thay phiên nhau nghỉ ngơi, bản thân ông cũng phải đi nghỉ một chút.

Ngủ chưa đủ hai canh giờ, Chu Tử Thư đã choàng tỉnh giấc vì tiếng hỏa lực ầm ầm và tiếng động nặng nề vang lên khi cổng thành bị vật nặng tông vào, không cho chút thời gian nào để tỉnh táo, trận tập kích tiếp theo đến nhanh như mưa rào khiến y phải vùi đầu vào đánh ngay.

***

Tại một hẻm núi không tên thuộc dãy núi Kỳ Liên.

Tiếng rầm rập đinh tai nhức óc vang lên như tiếng sấm réo từ xa đến gần, bỗng nhiên bụi mù cuồn cuộn, có gì đó xuất hiện, thế mà lại là hàng ngàn con ngựa đang lao nhanh, hợp lại thành đoàn băng qua hẻm núi, kỵ binh mai phục phía trên lập tức biến sắc, nhìn quanh quất hồi lâu mới thấy được một bóng người màu đen ẩn hiện trong bầy ngựa, lập tức đưa tay hạ lệnh:

"Nổ hẻm núi!"

Bên cạnh có người do dự: "Bên dưới có hơn chục ngàn tuấn mã, đều là ngựa có đủ tư chất làm ngựa chiến, nổ phá hẻm núi chẳng phải sẽ chôn luôn chúng nó sao?"

Kỵ binh dẫn đầu tát kẻ kia một cái: "Đến bây giờ ngươi cũng chưa nhìn ra được mục đích của bọn người Hán này là đang chuẩn bị dẫn ngựa chiến mà bọn chúng trộm được từ Đại Hạ về nước chúng à? Đi qua sa mạc, thảo nguyên và đường núi, mượn thêm đường của dân tộc Thổ Phiên, bọn chúng sẽ nhanh chóng đến Tây Ninh Châu thôi!"

Kẻ bị tát không dám than thở một câu nào, chỉ lĩnh mệnh làm theo, châm lửa vào chất nổ đã chôn trong hẻm núi từ lâu.

Tiếng nổ liên tục vang lên khiến cho đàn ngựa hoảng sợ, nhao nhao hí vang rồi tìm cách tháo chạy, có con bị đá tảng bất ngờ rơi xuống làm gãy cổ, mất mạng tại chỗ đã là may mắn lắm rồi, chỏng vó run rẩy chịu đựng cơn đau chậm rãi lan ra mà không chết được mới đáng sợ.

Một thanh ô thương chấm dứt nỗi thống khổ của tuấn mã, siết chặt dây cương tránh tảng đá đang rơi từ trên cao xuống, Cung Tuấn nhìn lên mai phục ở phía trên hẻm núi rồi đột nhiên xông vào giữa bầy ngựa, một lát sau túm một ai đó từ bên trong ra, người nọ dùng hai tay đặt bên miệng huýt một tiếng sáo gọi ngựa, dần dần trấn an được bầy ngựa nóng nảy, để chúng chủ động tránh khỏi nguy hiểm.

"Giết kẻ chăn ngựa kia!"

Vừa dứt, vô số cung tên từ bốn phương tám hướng đã ồ ạt bắn về phía người chăn ngựa, có điều chỉ trong nháy mắt đã bị ô thương của Cung Tuấn gạt rơi xuống đất hết, cuộc tấn công trong phạm vi mười dặm đều có phòng ngự.

"Chúng tướng theo ta xuống giết!"

Ra lệnh một tiếng, tiếng thét giết rung trời của chừng hơn một ngàn phục binh vang lên, thiết kỵ giáp nặng màu đen tuyền bỗng nhiên xuất hiện như âm hồn, xếp thành một hàng dài im lặng đứng nhìn một ngàn phục binh hừng hực lao xuống dưới, bọn họ chỉ có vẻn vẹn năm mươi kỵ binh nhưng khí thế lại khủng bố như thể đang có đến năm trăm, năm ngàn kỵ binh vậy.

Nửa canh giờ sau, đội binh dưới hẻm núi rời đi, chỉ để lại xác chết của vài con ngựa và hàng trăm phục binh, có cơn gió từ thảo nguyên rộng lớn ghé thăm, lướt qua mỏm đá gồ ghề của hẻm núi, thổi những mầm cây nhỏ vừa nhú khỏi ngọn cây bay lất phất, ngân lên âm thanh thê lương bi tráng của đồng cỏ hoang vu.

Đây là một con đường đã từng được Đại Cảnh khai thác với mục đích tấn công Tây Ninh Châu, bởi vì đường đá hiểm trở, sa mạc, thảo nguyên và đồi núi đều xuất hiện trên tuyến đường này, còn cần phải đi dọc qua đường của dân tộc Thổ Phiên, hơn nữa vì lợi bất cập hại nên đã bị bỏ ngang, bây giờ vẫn có người qua lại nhưng rất ít, đã định sẵn là ai chết sẽ vùi xương nơi đây chứ không được chôn cất đàng hoàng.

Ngựa chạy không ngừng vó, băng qua mấy hẻm núi liền kề nhau chạy vào một đồng cỏ không rộng lớn lắm, cuối đồng cỏ là là một thị trấn nhỏ của dân tộc Thổ Phiên, qua khỏi thị trấn đó là đến Tây Ninh Châu thuộc lãnh thổ Đại Hạ.

Nhưng khi chỉ vừa mới đặt chân đến mảnh đất vàng vọt trần trụi không màu mỡ kia, năm mươi thiết kỵ Đường Hà bỗng gặp phải ba ngàn kỵ binh nhẹ cản đường, phó tướng bên cạnh Cung Tuấn nhận ra thân phận của kỵ binh nhẹ nhờ vào phục sức và loan đao mà bọn họ đeo trên người.

"Kinh binh nhẹ Mông Cổ." Phó tướng ngạc nhiên, "Đại Hạ điên rồi, hợp tác với kị binh Mông Cổ, lang sói hung ác tham lam nhất thảo nguyên này sao? Tang Lương Ngọc không sợ dẫn sói vào nhà à?"

Kỵ binh nhẹ Mông Cổ còn ghê gớm hơn cả kỵ binh hạng nặng của Đại Hạ, năm mươi kỵ binh đối đầu với ba ngàn kỵ binh, dù có là thiết kỵ Đường Hà chiến công hiển hách cũng không dám cược rằng họ có thể vượt qua được.

Sắc lưu ly trong mắt Cung Tuấn trở nên sâu thăm thẳm: "Hợp tác với Đột Quyết, Tây Liêu, Nam Cương gì cũng vậy thôi, thích chơi với lửa thì có ngày chết cháy, giết hết là được." Hắn giơ tay, dõng dạc từng câu chữ: "Đếm đầu luận công, chém được đầu thủ lĩnh thì tính công theo tứ đẳng."

Nghe vậy, năm mươi kỵ binh lập tức sáng mắt lên, kiêng dè ban đầu lúc này đã hoàn toàn hóa thành sát ý chộn rộn tràn đầy. Cung Tuấn ra lệnh một tiếng, năm mươi kỵ binh dũng mãnh ra quân, tiên phong tàn sát ba ngàn kị binh nhẹ, âm thanh chiến tranh đâm thủng cả màng nhĩ, ngựa kêu vang rền, một giây sau bị chém đứt hai chân trước ngã rạp xuống đất làm kị binh trên lưng ngã theo, ngay lập tức bị trường thương theo sát xuyên thủng lồng ngực, hồn về tha hương.

Nắng chiều ngả về tây, đầu ô thương sắc nhọn lóe lên một tia sáng bạc rạch ngang da thịt yếu ớt, thoáng chốc một dòng máu đỏ tươi vung lên trời chiều, rơi khắp bãi cỏ, cơ thể người nặng nề rơi xuống đất, để lộ đôi mắt màu lưu ly vô cùng đặc biệt của Cung Tuấn, dù xác người đã chồng chất bên cạnh hắn nhưng đôi mắt vẫn lạnh lùng và bình tĩnh như cũ, không hề có chút điên cuồng, sợ hãi hay mất kiểm soát nào sau khi giết người như ngóe, trông như chẳng hề tồn tại chút tình cảm loài người nào, lúc này đến cả kị binh nhẹ Mông Cổ rong ruổi thảo nguyên tranh đấu cùng đàn sói cũng cảm thấy sợ hãi.

Giống đàn sói nhận ra được nguy hiểm nên quắp chặt cái đuôi vào người chật vật trốn chạy, lúc này không đến một ngàn kỵ binh Mông Cổ đã lui về phía sau vì hoảng sợ.

Chính vì sự rút lui tầm thường này mà khí thế của hai bên đã thay đổi trong chớp mắt, đối mặt với chừng ba mươi thiết kỵ Đường Hà còn sống sót, rất dễ nhận thấy sĩ khí của binh sĩ kỵ binh nhẹ Mông Cổ đã bị tổn thất hai phần ba, vô cùng suy kiệt.

Tên thủ lĩnh chạm phải ánh mắt của Cung Tuấn, không nén nổi sợ hãi đưa tay lên: "Rút..." Giọng nói nhỏ quá, những người khác nghe không rõ, sau đó liền nghe được âm thanh phẫn nộ phảng phất như rít ra từ trong kẽ răng của gã: "Rút!!!"

Số kỵ binh Mông Cổ còn lại rút lui như thủy triều, thiết kỵ Đường Hà chém giết đỏ mắt rồi cũng không muốn buông tha đơn giản như vậy, cũng bởi vì Cung Tuấn vẫn chưa hô ngừng nên yên tâm tiếp tục đuổi giết.

Cung Tuấn nhấc ô thương lên, siết chặt thân thương, chạy lấy đà vài bước rồi xoay người dùng hết sức ném đi, ô thương xuyên qua trời cao, đâm vào lồng ngực của thủ lĩnh kỵ binh nhẹ Mông Cổ một cách chuẩn xác.

Quán tính cực lớn lập tức túm lấy tên thủ lĩnh bay xa vài mét nữa rồi đóng chặt xuống đồng cỏ, gã phun ra mấy ngụm máu tươi, có điều chỉ trong chốc lát Cung Tuấn đã xuất hiện ngay trước mắt, gã huơ tay huơ chân giãy giụa, biểu cảm hoảng sợ cực độ, có thể cảm giác được ô thương cắm vào thân thể mình bị rút ra, trong mắt gã là Cung Tuấn với dáng vẻ tựa ác quỷ đang giơ cao hoàn thủ đao lên... Đao rơi xuống, két két! Thi thể bị chém đứt làm đôi.

Thủ lĩnh chết trận binh tan đàn xẻ nghé, kỵ binh Mông Cổ tháo chạy khắp nơi, thiết kỵ Đường Hà nhẹ nhàng thu hoạch đầu người, mà Cung Tuấn nhanh chóng cảm nhận được có điều bất thường, quay đầu lại nhìn về phía đường chân trời nơi ánh trời chiều bị cắn nuốt, một loạt chấm đen bỗng nhiên lọt vào tâm mắt, hắn giật mình, lập tức lấy hơi hô to: "Thu binh! Lui lại!"

Ba mươi thiết kỵ Đường Hà đã nhìn thấy được nơi đường chân trời có hàng loạt kỵ binh đang vọt tới thì cũng rùng mình một cái, da đầu run lên, không dám ở lại nữa mà trở mình lên ngựa, giơ roi thúc ngựa chạy như điên, phía sau có khoảng bốn năm ngàn kỵ binh Đại Hạ đang đến gần, xông vào biên cảnh tộc Thổ Phiên mà không mảy may sợ hãi.

Mặc dù thiết kỵ Đường Hà vẫn còn ba mươi người sống sót nhưng đã có hơn nửa bị thương nặng, còn một nửa vừa mới trải qua một trận chiến hăng hái vẫn còn đang mệt mỏi, vốn đã không có sức mà còn phải đối mặt với một tốp kỵ binh Đại Hạ đang hừng hực khí thế.

Lần này sợ là lành ít dữ nhiều.

"Mẹ nó! Sao đám giặc Hạ này giống châu chấu giết một đàn vẫn còn đàn khác thế này, nếu như toàn quân ta đi nói không chừng bây giờ chúng đã bị ta đánh tơi bời rồi!" Phó tướng gào lên: "Cầu tặc họ Tang! Tốt nhất là mày nên cầu nguyện cho ông đây thoát chết nhiều lần đi, bằng không thì ông đào mồ tổ tiên nhà mày lên hết đấy!"

Bọn họ nhanh chóng bị kỵ binh Đại Hạ bao vây kín kẽ, đối mặt với đội binh mà chúng không ngừng truy đuổi, ba mươi thiết kỵ Đường Hà may mắn còn sống sót không khỏi cảm thấy mệt mỏi, đánh trận vốn chú trọng sự liền mạch*, nếu như toàn quân liên thủ, dù chỉ là năm mươi thiết kỵ Đường Hà thôi nhưng đánh chục ngàn quân cũng chỉ là chuyện nhỏ, bởi lẽ thiết kỵ Đường Hà dũng mãnh vô địch luôn đánh đâu thắng đó, chỉ cần không gì ngăn cản khí thế là sẽ đánh cho quân địch tan tác, vậy mà lại phải đánh luân phiên hết lượt này đến lượt khác, bọn họ vừa tiêu hao thể lực vừa hụt số lượng, còn phe của chúng thì không hề thả lỏng ý chí, kẻ đứng sau sắp xếp giật dây cho cuộc truy đuổi này thật sự tính toán rất giỏi.

(*) Nhất cổ tác khí (一鼓作气): một tiếng trống làm tinh thần hăng hái thêm. "Tả Truyện" Trang Công thập niên: 'phu chiến, dũng khí dã. Nhất cổ tác khí, tái nhi suy, tam nhi kiệt'. Khi đánh trận dựa vào dũng khí, đánh một tiếng trống, dũng khí tăng lên, đánh hai tiếng trống, dũng khí suy giảm, đánh ba tiếng trống, dũng khí không còn. Sau này ví với nhân lúc đang hăng hái làm một mạch cho xong việc.

Cung Tuấn siết chặt chiếc khăn tay cũ giấu trong ngực áo, ánh mắt kiên định, thấp giọng nói: "Có lẽ không còn tìm được mộ tổ tiên của Tang cẩu tặc nữa đâu, hay là sống thêm chút nữa rồi dẫn binh chinh chiến đánh hạ phủ Hưng Khánh, cho ngươi mặc sức báo thù rửa hận!"

Thiết kỵ Đường Hà xung quanh đều bật cười khoái chí: "Các anh em nghe thấy chưa? Tướng quân đã đồng ý nếu lần này chúng ta sống sót là có thể tiến đánh thủ đô Đại Hạ, tiêu diệt con chó quên mất nguồn gốc của mình đấy!"

"Một lão thô kệch như ta ấy à, không nhớ gì đâu, chỉ mang thù thôi! Tướng quân, ngài đã nói vậy rồi, dù ta có bò cũng phải bò về Tây Bắc!"

"Nếu chưa thu lại Hà Hoàng địa, thề chẳng quay đầu..." Cung Tuấn nở nụ cười, đột nhiên đọc vang câu thơ trấn thủ biên cương của tiền triều, giọng nói vang vọng núi sông, hòa vào tiếng kêu lớn của diều hâu bay ngang qua thảo nguyên: "Ngóng cố hương!"

(*) Nhà thơ đời Đường – Lệnh Hồ Sở viết đề tài "Thiếu niên hành", cũng có một bài thất tuyệt mô tả những đoàn quân rời Hàm Dương Tây chinh:"Cung sáng đeo lưng kiếm ánh sương/Gió thu quất ngựa rời Hàm Dương /Nếu chưa thu lại Hà Hoàng địa /Thề chẳng quay đầu ngóng cố hương."

Bài thơ mô tả những đoàn quân thúc ngựa rời Hàm Dương về biên ải phía Tây. Chuyến hành quân này nếu chưa thu phục lại những vùng đất trong khu vực Hà Hoàng, do quân Thổ Phồn chiếm đóng (Đông Nam bộ Cam Túc và Hà Tây Tẩu Lang), thề quyết không quay đầu nhìn lại quê hương.

Dứt lời, giết địch, làm gương cho binh sĩ.

Ba mươi thiết kỵ nhanh chóng chìm trong quân địch mênh mông như biển, Cung Tuấn không phụ danh xưng nhân đồ Tây Bắc, xung quanh hắn đều là xác quân địch chất chồng lên nhau, bất cứ nơi nào hắn đi qua, ai cũng đều phải sợ bảy phần, tướng địch lệnh cho hơn mười binh sĩ vung giáo dài ra đâm về phía Cung Tuấn, hắn lại giẫm xuống mũi giáo nhảy lên cao, lập tức có vài chục binh sĩ dựng thẳng giáo dài lên đặt dưới đất nơi hắn đáp xuống, Cung Tuấn dùng ô thương chen vào chỗ hở giữa các mũi giáo, mượn đà dùng sức tránh khỏi chúng, nhưng lại không tránh được vô số vết thương bị rạch ra dưới sự truy đuổi không ngừng nghỉ của vũ khí sắc nhọn.

Giơ tay đỡ lấy hàng chục mũi giáo đang đâm về phía mình, Cung Tuấn tung đám binh sĩ sang một bên làm lá chắn người chặn đòn tấn công từ phía bên kia, lại dùng sức lực toàn thân bẻ gãy giáo dài, dồn nội lực đánh ra, trong nháy mắt giết chết hơn mười người. Bên tai có tiếng xé gió vụt tới, Cung Tuấn rút hoàn thủ đao ra theo phản xạ chém đứt, nhưng chỉ một giây sau cơn đau từ bụng kéo tới khiến hắn phải ngẩng đầu nhìn lại, thấy một hàng binh sĩ đang cầm nỏ thần ti uy lực phi phàm, đang kéo dây cung nhắm thẳng vào hắn.

Trước kỵ binh nặng, sau kỵ binh nhẹ, cuối cùng là cung thủ tinh anh cũng ra tay rồi, Tang Lương Ngọc khá coi trọng hắn đấy chứ.

Cung Tuấn cười mỉa, vươn tay chém đứt một nửa mũi tên cắm trên bụng hắn, gân xanh trên cánh tay, mu bàn tay hằn rõ lên, đã đến nỗi này rồi mà hắn vẫn có thể toát ra được khí thế cực kỳ mạnh mẽ không biết sợ hãi khiến cho tướng địch khiếp sợ.

Tướng địch kinh hoàng lui về phía sau, vung tay hạ lệnh: "Cung thủ chuẩn bị —— bắn tên!"

Mũi tên sắt bay ra như mưa, Cung Tuấn cắm ô thương sâu xuống mặt đất, hai tay nắm chặt hoàn thủ đao nhảy sang một mảnh đất trống, dù bả vai và bắp chân đã trúng tên nhưng dường như hắn không cảm thấy đau, mưa tên vây quanh một đao đâm chém, đến cả nỏ thần và cánh tay của cung thủ cũng bị hắn chém đứt, tướng địch sợ đến mức lui về phía sau, nghĩ mãi cũng không hiểu vì sao trên đời lại có người còn đáng sợ hơn cả quỷ thế này!

"Cung thủ... Toàn bộ cung thủ —— ra khỏi hàng!" Tướng địch càng sợ hãi càng kiên quyết muốn chém chết Cung Tuấn ở đâu, lệnh năm trăm cung thủ xếp thành mười nhóm, chuẩn bị bắn tên liên hoàn, chủ ý chắn chắn là muốn hao sạch mũi tên, dù năm ngàn kỵ binh có chết cũng phải diệt được Cung Tuấn: "Bắn..."

Mắt Cung Tuấn bị máu tươi chảy xuống che khuất, hắn không có dư sức để suy xét, đầu óc, xương cốt và linh hồn đều chỉ còn lại duy nhất một suy nghĩ, phải sống. Phải tiếp tục sống!

Hắn đã đồng ý với Chu Tử Thư là không bỏ y trước rồi, làm sao dám chết ở đây?

"Bắn tên!"

Mưa tên ùn ùn kéo đến, đã có năm phó tướng gần đó xông đến ngăn trước mặt Cung Tuấn rồi lớn giọng hô nói bọn họ sẽ làm lá chắn, bảo Cung Tuấn khi nào giết sạch Đại Hạ rồi mang rượu tới trước phần mộ của bọn họ báo cho một tiếng là được.

Máu chảy xuống gần như che mất tầm nhìn của Cung Tuấn, hắn siết chặt hoàn thủ đao đột ngột tiến tới chặt đứt mũi tên sắt đang đến gần phó tướng, gào lên với đám phó tướng luôn miệng bảo hắn đi trốn đi: "Mẹ nó, ngậm cái miệng chó của ngươi lại!"

Cung thủ của quân địch bắn xong một đợt tên thì ngay lập tức có tốp khác lên bắn, không để cho bọn họ một cơ hội tạm nghỉ, tướng địch kia giết đỏ cả mắt rồi, mặt mũi gả đỏ bừng lên, hưng phấn không thôi, nếu như chiến thần Tây Bắc Cung Tuấn chết trong tay gã, từ nay về sau gã sẽ nổi danh khắp thiên hạ, làm dòng họ vinh dự không nói, về sau còn có thể trở thành một đại danh tướng lưu danh sử sách. "Bắn tên bắn tên bắn tên!"

Tướng địch điên cuồng hô lên, nhưng chỉ một giây sau thôi khuôn mặt tươi cười phấn khích đã cứng đờ, gã liếc mắt thoáng nhìn thấy một loạt cung thủ bị tên sắt đâm xuyên qua ngực, không khỏi ngạc nhiên quay đầu nhìn lại, thấy được nơi ánh chiều tà sắp khuất có một đội kỵ binh đên đến, đối phương cũng cầm trên tay nỏ thần ti vốn chỉ ở Đại Hạ mới có đi từ xa lại gần, đến gần rồi rốt cuộc gã cũng có thể nhìn rõ khuôn mặt và trang phục của người dẫn đầu.

Đó cũng là trang phục của thiết kỵ Đường Hà, gương mặt đó lại trùng hợp là người mà gã vừa mới giao thủ xong, thủ lĩnh phiên tộc Chiết thị Tây Bắc Chiết Thanh Phong.

Vì sao hắn lại ở đây?

Đây chính là thắc mắc cuối cùng hiện lên trong đầu gã khi còn sống, bởi vì gã đã nhanh chóng nghe thấy lời hỏi thăm lạnh lùng đầy quỷ quái: "Mang binh đánh giặc nhiều năm rồi, chẳng lẽ không ai nói cho mày biết đứng trên chiến trường đừng đưa lưng về phía địch hay sao?" Cái, cái gì?

Tướng địch chỉ kịp nhìn thoáng qua sát ý vô tận xuất hiện trên khuôn mặt kinh diễm như yêu tà đang tiến gần của Cung Tuấn, sau đó là cơn đau mãnh liệu, tầm mắt thay đổi, dường như gã đã nhìn thấy thân thể mình đứng yên một chỗ, rồi phạm vi nhìn chuyển sang ngửa lên, thấy được cơ thể không đầu và bầu trời như đổ lửa.

Viện binh quân địch đã đến, chủ tướng bị chém, lòng binh sĩ Đại Hạ rã rời, nháo nhào chạy trốn, phiên binh Chiết Thanh Phong mang đến đuổi giết một lúc mới lui, hỗ trợ những người chăn ngựa luôn được bảo vệ an toàn đi lùa ngựa chiến khắp nơi trên thảo nguyên trờ về.

Chiết Thanh Phong nhìn lướt qua chiến trường rồi giật mình, nhất là đống xác chết trông như bãi tha ma bên cạnh Cung Tuấn càng khiến cho gã muôn phần kính sợ.

"Mạt tướng tham kiến tướng quân!"

Cung Tuấn ném mũ sắt xuống đất, máu tươi chảy vào cực kì bết dính, tóc quấn lộn xộn vào nhau, hắn giơ hoàn thủ đao lên chém đứt toàn bộ đuôi tên trên người rồi mới liếc nhìn Chiết Thanh Phong: "Sao ngươi lại ở đây? Tiểu lang bên kia thế nào rồi?"

Chiết Thanh Phong sửng sốt, dường như không ngờ câu hỏi đầu tiên của Cung Tuấn là về Chu Tử Thư, có điều cảm thấy nó vẫn nằm trong dự đoán, gã bèn thuật lại nguyên nhân mình đến đây.

Cung Tuấn cau mày: "Tiểu lang phát hiện Tang Lương Ngọc truy ra tin tức phủ Tây Lương, vậy nên phái ngươi tới hỗ trợ hả?" Hắn nhìn nỏ thần ti trên tay Chiết Thanh Phong, "Các ngươi đã sớm gặp được đám công nhân và vũ khí được đưa về Đại Cảnh rồi à?"

Chiết Thanh Phong: "Vâng."

Cung Tuấn: "Tang Lương Ngọc soán vị, đánh nghi binh ở tất cả các thành trì Tây Bắc, đã biết được mục tiêu thật sự ở đâu chưa?"

Suốt thời gian này đi một đường từ rừng núi hoang vắng đến thảo nguyên, sa mạc toàn những nơi biệt lập, Cung Tuấn chỉ phán đoán được ý đồ đánh nghi binh của quân đội Đại Hạ thông qua hướng đi của chúng, không có thêm manh mối xác thực nên không có cách nào đoán thêm bước nữa.

Mặt Chiết Thanh Phong lộ vẻ do dự.

Ánh mắt Cung Tuấn sắc bén: "Nói!"

Chiết Thanh Phong: "Là Vị Châu. Lúc đó ta trà trộn vào phủ Tây Lương, nghe nói quân đội Đại Hạ chia làm hai hướng lần lượt đánh chiếm trấn Nhung và Vị Châu, các nhánh viện binh đều đang chạy tới Vị Châu huyết chiến cùng quân Đại Hạ, hình như đang giằng co, vẫn chưa phân thắng bại, hơn nữa quân Đại Hạ mang theo không ít vũ khí công thành mà trước đây không có, vô cùng khó giải quyết."

Sắc mặt của Cung Tuấn rất khó coi: "Vị Châu và Kinh Châu ở rất gần nhau! Chắc chắn Kinh Châu sẽ phái binh chi viện Vị Châu, tướng sĩ thủ thành ở lại không nhiều lắm, đường rút lui và hàng phòng ngự yếu kém, nếu như lúc này bị quân Đại Hạ chặn đứng đường lui vây thành công thành, vậy thì Kinh Châu sẽ lâm nguy!"

Chiết Thanh Phong: "Chắc có lẽ không đâu, quân chủ lực của Đại Hạ đã bị vây ở Vị Châu, không thừa sức vây bắt Kinh Châu nữa."

Cung Tuấn xoay mình lên ngựa đến thị trấn nhỏ của dân tộc Thổ Phiên gần nhất để xử lý vết thương, đồng thời nghiêm mặt nói: "Ngươi không biết Tang Lương Ngọc là một kẻ không thể khống chế mình đâu, thông minh đến điên cuồng, bởi vì ông ta là kẻ phản bội Đại Cảnh, vô cùng quan tâm cái danh trung thần, làm thần tử Đại Hạ hai mươi mấy năm biết rõ bị Vĩnh An đế lợi dụng, đề phòng thậm chí là cẩn trọng trước ông ta, dừng bước tại vị trí Quốc sư, đến nay bị buộc mưu triều soán vị, còn biết được chuyện tiền trang Đại Thông, xưởng chế tạo vũ khí và ngựa chiến, có lòng điều tra ắt sẽ tra ra được ba chuyện này có liên quan đến nhau, vả lại manh mối xuất hiện ở Kinh Châu. Người càng thông minh, càng cố chấp sẽ càng không dễ dàng tha thứ cho kẻ bày trò đùa bỡn hắn, đây chính là một ván cờ lớn được bày vài chục năm rồi, chắc chắn Tang Lương Ngọc sẽ tò mò về Kinh Châu..."

Nói đến đây, Cung Tuấn vội vàng thúc ngựa chạy đi không nói gì nữa, đi đến một nhà trọ trong thị trấn tộc Thổ Phiên, hắn tìm một đại phu đến giúp gắp những mũi tên còn ghim trên người, bôi thuốc băng bó xong, không còn người ngoài ở lại nữa hắn mới nói tiếp.

"Liên minh với Đột Quyết, Mông Cổ, rất có thể còn có Nam Cương nữa, Tang Lương Ngọc dùng thứ gì để thuyết phục bọn chúng hợp tác Đại Hạ? Binh mã mà các nhanh Tây Bắc phái ra cùng với một trăm ngàn binh bao vây Vị Châu đánh nghi binh đã vượt qua số binh lực của Đại Hạ, ông ta ép buộc nhập ngũ, chỉ có thể xuất chinh tối đa ba trăm ngàn người, thế nhưng xuất chinh hết binh trong nước, không sợ nước láng giềng nhân cơ hội quốc gia phòng thủ yếu mà xâm nhập sao? Trong nước còn có Cao Di Sơn và Thác Bạt Minh Châu đang lánh nạn nữa, ông ta không sợ lửa cháy vườn sau ư?"

Chiết Thanh Phong nghe vậy cũng nhận ra được chỗ kì lạ: "Theo tướng quân suy đoán, Tang Lương Ngọc có ý định gì?"

Cung Tuấn rũ mắt nhìn ánh nến nhảy nhót: "Ông ta không ngại khiến Đại Hạ chia năm xẻ bảy."

Chiết Thanh Phong phát hoảng: "Chẳng lẽ Tang Lương Ngọc dùng đất Đại Hạ để thuyết phục Đột Quyết, Mông Cổ và Nam Cương liên minh sao? Ông ta điên thật rồi! Ai soán vị rồi mà lại kéo quốc gia mình cùng chết chứ? Đó cũng là quốc gia mà ông ta đã dốc hết tâm huyết cơ mà!" Hắn ta chợt nhận ra, "Nếu như lấy Đại Hạ ra để đánh cược, như vậy lần xâm chiếm này sẽ không phải chỉ là quấy phá giống như lúc trước. Tang Lương Ngọc từng lãnh đạo ba trận chiến, Đại Cảnh thua thảm, sau đó ông ta đã có ý thuyết phục Vĩnh An đế mở lại một cuộc chiến tranh quy mô lớn vô số lần nữa nhưng đều bị Vĩnh An đế bác bỏ, có vẻ như là bởi vì trong ba lượt chiến tranh trước, Vĩnh An đế đã nhận ra được rằng Tang Lương Ngọc chỉ xem quân đội Đại Hạ là công cụ báo thù triều đình của ta thôi? Như vậy, lần này không còn sự trói buộc của Vĩnh An đế nữa, Tang Lương Ngọc sẽ không tiếc bất cứ giá nào mà tấn công Tây Bắc!"

Cung Tuấn siết chặt tay: "Hôm nay binh mã bên ngoài cộng lại chưa đủ hai trăm ngàn, chắc chắn còn có hơn một trăm ngàn binh mã đang vây đánh mục tiêu thật sự của Tang Lương Ngọc, một khi bị đánh hạ, để trả thù Đại Cảnh, Tang Lương Ngọc sẽ tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành, ông ta không quan tâm đến hậu quả, cũng không quan tâm đến kết cục của Đại Hạ... Ta có linh cảm chẳng lành."

Kinh Châu, đó là một nơi quá đặc biệt.

Tang Lương Ngọc lợi dụng Ngạc Khắc Thiện để vận chuyển của cải mà mình thu được vào Đại Hạ thông qua các chợ ở Kinh Châu, trở thành trụ cột chính cho lực lượng của bản thân ông ta, vậy mà Vương Nguyệt Minh lại chôn quân cờ chí mạng bên dưới Đại Hạ, cũng lưu lại dấu vết ở Kinh Châu, còn có tiểu lang... Là do bốn năm trước tiểu lang đã chém chết ba tram quan, diệt trừ con tốt của Tang Lương Ngọc ở phía Đông Nam, phá hỏng kế hoạch mà ông ta trù tính nhiều năm trời!

Hắn có cả ngàn lý do để có thể xác định Tang Lương Ngọc sẽ lựa chọn Kinh Châu làm nơi triển khai kế hoạch trả thù tàn nhẫn nhất của ông ta, nhưng lại không có lý do nào để phủ nhận việc Tang Lương Ngọc sẽ bỏ qua Kinh Châu. "Chiết Thanh Phong, mau mang con dấu quan phòng Chế trí sứ của ta đến Hi Hà mượn binh!" Cung Tuấn bất chấp miệng vết thương sâu hoắm trên người, đứng dậy khoác thêm áo ngoài chuẩn bị đi, "Không kịp nữa rồi, ta sẽ về Kinh Châu trước."

Có phó tướng bị thương rất nặng khuyên nhủ hắn: "Tướng quân, thương thế của ngài không nhẹ, đi không ổn đâu."

"Chả chết được. Ngày xưa suýt chút nữa là ngực ta bị chặt thành hai nửa, chẳng phải ta còn đuổi theo thêm mười dặm nữa để giết địch hay sao? Được rồi, ngươi nghỉ ngơi đi." Cung Tuấn vỗ cánh tay lão tướng rồi bước ra ngoài, vẻ mặt và giọng điệu không còn thoải mái như vừa nãy nữa: "Tiểu lang đã phái ngươi tới cứu ta, bây giờ đến lượt ta chạy về cứu y rồi."

Có lẽ tiểu lang đang ở trong ranh giới giữa sự sống và cái chết, nếu như không khởi hành ngay bây giờ, chỉ sợ rằng hối hận đời này không có thuốc nào giải được mất.

***

Nơi trú quân Cấm quân Khánh Châu.

Nhìn qua binh đưa tin đến từ Kinh Châu, Nguyên soái nhánh Hoàn Khánh Trịnh Nguyên Linh phất tay nói: "Bổn soái biết rồi, ngươi lui xuống trước đi, ta sẽ lập tức dân binh đi cứu viện."

Đợi binh đưa tin vừa đi, Trấn an sứ Thiểm Tây Thái Trọng Thăng núp sau tiền thính mới bước ra ngăn ông ta lại: "Dụ Xương huynh thật sự chuẩn bị phái binh chi viện sao?"

Trịnh Nguyên Linh cau mày: "Không thì sao?"

Thái Trọng Thăng: "Dụ Xương huynh à Dụ Xương huynh, huynh thế mà lại quên mất ở Kinh Châu còn có Lâm An quận vương và Chu Tử Thư sao? Cung Tuấn vốn là Nguyên soái trăm trận trăm thắng ở Tây Bắc này, làm sao có thể bị mắc kẹt trong tay mấy chục ngàn binh mã Đại Hạ chứ?"

Trịnh Nguyên Linh: "Ít không địch nổi số đông, Cung Tuấn có lợi hại đi nữa, binh mã chênh lệch gấp hai ba lần cũng sẽ chết thôi!"

Thái Trọng Thăng: "Chết rồi thì càng tốt chứ sao?" Biểu cảm của Trịnh Nguyên Linh thay đổi.

Thái Trọng Thăng: "Đến nay còn có ai không nhìn ra được ý đồ của bệ hạ chứ? Cung Tuấn còn sống, Tấn vương sẽ mãi mãi không có khả năng đăng cơ, phủ Trịnh quốc công trù tính nhiều năm nay mai thành nước dội lá khoai, tính mạng thân gia của nhiều người như vậy, vinh hoa phú quý đều buộc trên thân của Tấn vương, Cung Tuấn chết rồi, tạo phúc cho đại chúng chẳng phải là việc tốt hay sao?"

Trịnh Nguyên Linh: "Nhưng còn chín mươi ngàn dân chúng Kinh Châu..."

Thái Trọng Thăng: "Đại Hạ dám tàn sát hết dân trong thành sao? Nếu như chúng dám tàn sát hàng loạt, thì sáu trăm ba mươi ngàn binh đóng quân ở Tây Bắc này chỉ cần một chiêu diệt gọn Đại Hạ mà thôi! Biết đâu cũng như lúc trước, chạy vào cướp bóc một phen rồi tự động chạy đi thì sao, Kinh Châu là nơi Cung Tuấn trấn thủ, thành bị phá rồi không phải trách nhiệm của hắn thì là trách nhiệm của ai? Đại Hạ hận hắn thấu xương, chắc chắn sẽ không tha cho Cung Tuấn."

Trịnh Nguyên Linh: "Nhưng cầu viện đã tới rồi, bao người nhìn chằm chằm, chỉ sợ không dễ đối phó."

Thái Trọng Thăng: "Chẳng phải Vị Châu cũng đang bị binh Hạ bao vây sao? Một phần quân Khánh Châu của chúng ta cũng đã đến Vị Châu rồi, nếu như sau này bệ hạ truy cứu thì cứ nói Nguyên soái ngài đã đưa quân chủ lực đến chi viện cho Vị Châu, rồi hãy nói từ Khánh Châu đến Kinh Châu đường sá xa xôi, ít nhất cũng phải mười ngày nửa tháng mới tới."

Trịnh Nguyên Linh hiểu rõ ý của Thái Trọng Thăng, quả thật đã động tâm, nhưng tòng quân nhiều năm ông ta cũng không nỡ nhìn thành Kinh Châu bị đánh phá, mặc dù Đại Hạ sẽ không tàn sát người dân trong thành nhưng không thể tránh được việc chúng đốt giết cướp bóc.

Nghĩ một lúc, cuối cùng Trịnh Nguyên Linh cũng quyết định nói ra: "Đưa một nửa binh mã đến Vị Châu, phái một ngàn hai trăm quân đến Kinh Châu, trong số đó có hai ngàn tám trăm kỵ binh, bổn soái sẽ không cố tình kéo dài thời gian viện binh đến, nhưng Kính Châu có thể chống đỡ được đến khi viên binh đến hay không thì còn phải xem vận may của Cung Tuấn và Chu Tử Thư nữa."

Chương 104

Ngày thứ bảy, Kinh Châu hết gạo sạch đạn.

Vết thương trên người Chu Tử Thư đã bị hoại tử, dù đã dùng dao nóng cắt đi sau đó lập tức bôi thuốc và băng bó lại nhưng vẫn không tránh nổi cơn sốt cao, y cũng không có thời gian nghỉ ngơi, chỉ đành cầm theo đá cục để hạ nhiệt độ vật lí, gắng gượng chống đỡ để tiếp tục xử lý tình huống khó khăn đang ở trước mắt.

Hơn mười vị tướng lĩnh lớn nhỏ đều tập trung trong phòng, báo cáo vấn đề khó mà họ gặp phải.

"Giếng nước trong thành đã bắt đầu cạn dần, trong đó có hai cái đã bị gian tế đầu độc, tạm thời không thể uống nữa. Gian tế đã bị bắt lại, sau khi tra hỏi thì bắt thêm được những gian tế Đại Hạ khác đang ẩn núp trong thành, đã chém chết toàn bộ ngay tại chỗ. Cũng may năm ngoái nghe lời dặn của đại nhân dự trữ không ít băng, dùng nó làm nước uống có thể chống đỡ được tầm mười ngày nữa. Bốn kho lương trong thành cũng phát hiện có người phóng hỏa, tuy đã cứu kịp nhưng một kho vẫn đã bị thiêu hủy, tóm lại không duy trì được thêm bao lâu đâu."

Chu Tử Thư: "Tháng hai tháng ba là thời điểm địch lương, có lẽ từ hai tháng trước đã có lương thương dự trữ lương thực rồi, đi gõ cửa nhà lương thương trưng dụng lương thực đi."

Tây Bắc là nơi thường xuyên thiếu lương thực là điều không sai, nhưng các lương thương rất ưa làm lũng đoạn, chắc chắn trong thương hội sẽ dự trữ rất nhiều lương thực.

"Trong thành hiện có ba trăm hỏa pháo, hai trăm đạn gây cháy, máy ném đá ta vốn có mười hai chiếc đã bị hủy chỉ còn lại năm chiếc, tên lửa đã dùng hết, trước đó chúng ta bị quân địch phát hiện sử dụng người rơm chắn tên, cho nên bọn chúng cũng đổi sang dùng tên lửa thiêu sạch cả rồi, cách này không thể dùng lại nữa, tên sắt cũng không còn thừa mấy, đều đang ngâm trong dịch độc chờ sử dụng. Mấy cửa địa đạo cũng đã bị địch tìm ra, quân địch định thừa cơ chui vào nhưng đều bị chúng ta nổ hủy kịp thời vùi chúng bên trong, vậy nên quân ta không còn biện pháp đánh lén nữa."

"Đêm xuống phái binh tập kích, dùng độc, tạo tình huống tấn công quấy nhiễu quân địch,... Có thể sử dụng kế gì thì cứ dùng hết, quân Hạ đề cao phòng bị, sẽ không bị lừa một cách dễ dàng đâu, binh của quân đã đã chết gần hai mươi ngàn, cũng không có viện quân, chỉ có thể trụ được tối đa bảy ngày!"

"Đại nhân! Đại Hạ quyết đánh hạ Kinh Châu không ai ngăn cản được, thôn xóm và các điểm đóng quân quanh Kinh Châu đã đã bị đánh chiếm chẳng còn người sống, chỉ e là dân chúng khó thoát khỏi cái chết."

Sắc mặt Chu Tử Thư trầm như nước, binh mã chi viện đến giờ cũng chưa tới, tình hình tốt nhất đã tính sẵn vốn là viện binh sẽ đến trong vòng năm ngày, đáng tiếc hy vọng đã tan vỡ.

Nhất thời y cũng không nghĩ ra được cách nào tốt hơn.

Những kế có thể dùng bọn họ đều đã dùng mà dường như Đại Hạ không biết mệt mỏi, hai ngày đầu còn có khoảng thời gian gián đoạn ngừng chiến, đến ngày thứ ba bốn năm là bắn lửa đạn tấn công như phát rồ, hàng phòng ngự phá pháo như thừng bảo vệ rào mạnh mẽ cũng không chịu nổi hỏa pháo công kích không chút lưu tình.

Chu Tử Thư không thể không cho binh sĩ rút khỏi tường thành, trong pháo đạn mãnh liệt như vậy, là thân thể người nào cũng không chịu được, cửa thành phía tây bị đánh vỡ hết nửa bên, nếu như không phái binh lực bổ sung kịp thời, chỉ sợ là đã bị quân Hạ đánh chiếm rồi.

Y thấp giọng nói: "Các vị đại nhân, dù sao ta cũng là quan văn, có đọc qua binh thư thì cũng chỉ là lý luận suông thôi, mọi người phòng thủ biên cảnh nhiều năm, không đọc binh thư thì vẫn có kinh nghiệm thực chiến nhiều hơn ta. Chu Tử Thư cầu xin các vị, có thể nghĩ ra cách nào để cố trụ thêm mấy ngày nữa được không? Viện binh năm nhánh sẽ tới, ta cũng tin tưởng Cung Tuấn, tin tưởng Chiết Thanh Phong, có lẽ bây giờ bọn họ đang từ Đại Hạ trở về, chỉ cần về đến Tây Bắc, Cung Tuấn nhất định sẽ đoán ra được Kinh Châu bị vây đánh, chắc chắn hắn sẽ gấp rút mang binh lên đường tiếp viện! Vì vậy, xin mọi người hãy tin ta, tin Cung Tuấn, cũng tin chính mình, các ngươi là tướng lĩnh thân kinh bách chiến, là nam nhi giàu tâm huyết, sao có thể bị cẩu tặc quên gốc quên nguồn kia dồn ép đến bước đường cùng chứ?"

Được lòng thành khích lệ một phen, có sự tin tưởng và khẳng định, cũng cho bọn họ tin và hy vọng vào Cung Tuấn, nghe thấy lời ấy, có ai không động lòng chứ?

Chu Tử Thư nhìn Đậu Hồng: "Đậu đại nhân, ông còn cách nào không?"

Đậu Hồng do dự, sau đó nghiêm mặt nói: "Hạ quan có một cách có thể thử."

Chu Tử Thư: "Cách gì?"

Đậu Hồng: "Trá hàng*. Thành lập một đội cảm tử ra khỏi thành trá hàng vào ban đêm, sau đó hộ tống một tiểu đội dũng sĩ đi thiêu hủy lương thảo của quân địch."

(*) Trá hàng: Giả vờ đầu hàng

Chu Tử Thư khẽ giật mình, có hơi không đành lòng.

Đậu Hồng biết Chu Tử Thư mềm lòng, bèn khuyên bảo thêm: "Đại nhân, quân số Đại Hạ khổng lồ, đốt lương thảo chính là một kích trí mạng, đến lúc đó chúng ta chỉ cần chờ quân Hạ tự chui đầu vào rọ thôi là được. Hơn nữa lợi dụng đội cảm tử trá hàng có thể xâm nhập vào doanh địch, nếu như nổ chết được tướng soái doanh địch thì quân Hạ ắt sẽ không chiến mà bại!"

Mấy tướng lĩnh khác cúi đầu suy nghĩ một lúc rồi gật đầu đồng ý, trong đó có một tiểu tướng trẻ tuổi chủ động xin đi giết giặc: "Đại nhân, ta đi!" Đậu Hồng quay phắt đầu lại nhìn hắn, hốc mắt đỏ bừng lên tức thì.

Chu Tử Thư nhớ hắn tên là Đậu Tử Ngang, là con trai thứ ba của Đậu Hồng, ông còn có một đứa con gái là tiểu đội trưởng đội quân Thiết nương tử nữa.

"Con biết một khi đi là không có đường về hay không?"

Giọng nói của Đậu Tử Ngang đanh thép: "Hi sinh vì nước, lòng như sắt thép, thấy chết không sờn."

Đậu Hồng run rẩy ôm quyền: "Đại nhân, đến giờ chỉ có cách này là có thể kéo dài thêm mấy ngày nữa. Đậu đô hầu... Tự đề cử mình, anh dũng có thể khen, nổ hủy doanh địch hoặc là thiêu hủy lương thảo của quân địch cũng được, xin đại nhân hạ lệnh!"

Lúc này cũng có một lão tướng và một tiểu tướng đứng ra tự nguyện gia nhập tiểu đội trá hàng, còn có một tướng trẻ vừa bước ra đã bị cha mình tát cho một cái, miệng hùng hổ mắng "lông cánh chưa đủ dài mà khoe tài cái rắm" nhưng chỉ một khắc sau thôi ông ta cũng chủ động tự đề cử mình. Chu Tử Thư đỏ mắt hỏi: "Không có cách khác nữa sao?" Đậu Hồng lắc đầu.

Chu Tử Thư: "Hỏa lực vẫn còn dùng được, đợi thêm vài ngày nữa, đến lúc chính thức hết gạo sạch đạn mà còn chưa có viện binh thì hãy trá hàng."

Đậu Hồng còn muốn khuyên thêm: "Đại nhân..."

"Được rồi!" Chu Tử Thư: "Vẫn còn chưa đến bước đường cùng, Tang Lương Ngọc sẽ không tin là các ngươi giả vờ đầu hàng đâu." Y vuốt mặt, mạnh mẽ lên tinh thần, ánh mắt vô cùng kiên nghị: "Chờ thêm một chút nữa!"

Câu chờ thêm một chút này chờ thêm được tám ngày, bấy giờ Chu Tử Thư và nhóm tướng sĩ, cùng với chín mươi ngàn dân đã cố thủ thành Kinh Châu được mười lăm ngày.

Đạn dược tên sắt và các vũ khí thủ thành khác chẳng còn thừa lại mấy, lương thảo và nước sạch cũng càng ngày càng ít đi, viện binh chậm trễ không thấy bóng dáng đâu, gay go nhất chính là sĩ khí của tướng sĩ và dân chúng trong thành đã dần trầm xuống, cả thành Kinh Châu dường như đã bị không khí chết chóc và tuyệt vọng cô lập rồi.

Chu Tử Thư chỉ đành phải đồng ý với lời đề nghị của Đậu Hồng, chọn ra một trăm tám mươi dũng sĩ võ nghệ cao cường kiên nghị và quả cảm, chia ra thành chín tiểu đội cảm tử tự sát tập kích quân địch.

Đêm xuất phát, Chu Tử Thư đứng trên tường thành trông theo bóng lưng của đoàn người đang tan dần vào bóng đêm, gió đêm thổi cờ hiệu bay phấp phới, mà y thì không nói gì trong một lúc lâu.

Đậu Hồng im lặng xuất hiện bên cạnh y, lặng lẽ đến đưa tiễn đứa con thứ ba một đi không trở lại của ông, hai mắt đỏ bừng nhưng vẫn giả vờ như không có gì nói: "Vua cao chớ nói phong hầu tước, một tướng danh thành vạn máu xương*." Dừng một chút, ông nói thêm: "Ba đứa con trai và con gái của hạ quan lớn lên ở Tây Bắc, muốn đi tiểu cũng chạy vào quân doanh mà đi, dù hạ quan có ép chúng nó đi đọc sách làm văn thần, làm tiểu thư khuê các bằng mọi giá chúng cũng không chịu nghe lời, còn dám tiền trảm hậu tấu, lén lút chạy đi làm lính. Đặc biệt là đứa con gái, năm mười lăm tuổi nó bị ta ép phải quay về quê mẹ, nhưng đến nửa đường thì con bé nhảy xuống xe, gạt bọn ta chạy vào đội quân tóc dài, chờ đến khi ta tìm được người, hiển nhiên là nó đã tham gia vào chiến tranh kháng Hạ. Về sau ta cũng bất lực, có lẽ là vì trong lòng ta rất tự hào, tự hào vì chúng nó, nhưng ta cũng đã chuẩn bị bài vị cho hai đứa bọn nó từ lâu rồi..."

(*) Kỷ Hợi Tuế (879) – Tào Tùng: Trấn Hải Tiết Độ Sứ là Cao Biền (đã từng sang Giao Chỉ - An Nam ta dẹp quân Nam chiếu, xây thành Đại La, sau là Thăng Long - Hà Nội, về được Vua Đường phong là Bột Hải Quận Vương thống lĩnh cả một vùng Chiết Giang - Giang Nam (xưa là Trạch Quốc). Cao Biền đã cầm quân giết hại tàn khốc quân khởi nghĩa Hoàng Sào... Bài thơ của Tào Tùng là vịnh sự việc này. (Thivien.net)

Nước mắt trong khóe mắt trộm lăn đi, Đậu Hồng cười gượng nói: "Tướng sĩ trấn thủ biên cương khó liệu sống chết. Người làm cha như ta đây còn chấp nhận được việc chúng sẽ chết trên chiến trường sớm hơn cả người khác mà."

Chu Tử Thư xoay người nhìn ông: "Quê của đại nhân không ở Tây Bắc sao?"

Đậu Hồng: "Nhìn không ra à, quê ta ở Giang Nam."

Chu Tử Thư cười nói: "Nghe khẩu âm không hiểu."

Đậu Hồng: "Ban đầu bị điều đến Tây Bắc cứ lần lữa không chịu quay về, sau này không dám về nữa."

Con trai con gái đều phỏng thủ ở Tây Bắc, làm sao Đậu Hồng dám đi?

Mũi Chu Tử Thư chua xót, dù là vì tướng sĩ trấn thủ biên cương, hay là vì tấm lòng của cha con Đậu Hồng, có lẽ trong khoảng thời gian này nhìn thấy quá nhiều sự sống chết ở đây, y có thể chân chính nhận thấy được điểm giống nhau của thời đại này và đời trước, máu thịt lẫn linh hồn dần dần hòa nhập vào nó, không còn mạnh mẽ gạt bỏ nữa mà có chút đồng cảm, thật sự có thể cảm nhận được sự thăng trầm của tất cả mọi người.

Đột nhiên Đậu Hồng hỏi: "Đại nhân, ngày mai viện binh sẽ tới chứ?"

Chu Tử Thư: "Sẽ tới." Y cắn răng, dù tình cảnh đã đến nước cam go nhất nhưng vẫn kiên định mà tin tưởng và hy vọng, "Nhất định là chúng ta sẽ nhìn thấy viện binh thôi."

Mặc dù có hi sinh, nhưng cũng có niềm hy vọng vô cùng tận đang đợi ở phía trước.

Hai người đứng trên cổng thành một canh giờ, nghe thấy tiếng nổ lớn truyền đến từ trong doanh địch, ánh lửa bùng lên, mà lúc này tiếng trống cũng nổi lên, rõ ràng là doanh trại đang lâm vào trận hỗn loạn. Đậu Hồng không nhịn được nấc lên một tiếng nghẹn ngào.

Lưng Chu Tử Thư thẳng tắp như trúc, bước nhanh xuống cổng thành, trở mình lên ngựa, phía sau là ba ngàn binh mã, vừa thấy cửa thành mở rộng là rút hoàn thủ đao ra hô lớn: "Giết!"

Bắt lấy thời cơ hỗn loạn này, thu hoạch hết đầu binh Hạ.

Thắng một trận nhỏ, dồn ép quân Hạ lui về thêm hai dặm, mặc dù tinh thần và sức lực đều hao tổn, Chu Tử Thư vẫn phải cố giữ vững, trên người đầy rẫy những vết thương nhỏ vụn và máu tươi tanh tưởi, trở về bày tỏ niềm tiếc thương và mặc niệm trước sự hy sinh của tiểu đội cảm tử, đồng thời hết sức biểu dương hành động của họ, cuối cùng dùng thắng lợi của trận chiến ép quân Hạ lui binh này để khích lệ sĩ khí trong thành, lại dùng tin tức viện binh sắp đến để kéo hy vọng của chúng tướng sĩ lên một lần nữa.

Trải qua khoảng thời gian này, Chu Tử Thư mệt đến mức không động đậy nổi.

Nhưng sự hi sinh của bọn họ chỉ ép lui quân Hạ được vẻn vẹn một ngày, đến ngày thứ hai chúng đã tập hợp lại và tấn công thành Kinh Châu bằng những cách thậm chí còn điên cuồng hơn, hỏa pháo và tên lửa oanh tạc liên tục không ngừng nghỉ, đợt tấn công này hung bạo hơn mười ngày trước nhiều, không hề kiêng nể gì tựa như là muốn nói cho các binh sĩ thành Kinh Châu biết, cuộc trá hàng tập kích đêm qua đã hoàn toàn khiến cho bọn chúng phẫn nộ, mà những trận tấn công mười ngày trước của chúng chỉ là đe dọa nhẹ nhàng mà thôi, hôm nay mới ra tay thật.

Suy nghĩ này khiến cho sĩ khí vất vả lắm mới tăng cao được của các tướng sĩ tụt đốc trở lại.

Chu Tử Thư đã đưa ra lời giải thích khác cho việc này: "Trá hàng tập kích đúng là đã chọc giận quân Hạ, nhưng tấn công mãnh liệt thế này chứng tỏ bọn chúng cũng đã đến bước đường cùng rồi, không còn cách kéo dài nữa, không thể không quyết chiến đến chết!"

Phía dưới có tướng lĩnh hỏi: "Đại nhân nghĩ quân Hạ đang quyết chiến đến chết sao?"

"Ta dám khẳng định, chắc chắn là như thế!" Chu Tử Thư lên tinh thần gấp trăm lần, y nói: "Nếu như không đoán sai, tướng chỉ huy quân địch lần này chính là Tang Lương Ngọc! Phong cách chỉ huy vừa táo bạo điên cuồng vừa ưa tính toán lòng người, nói không chừng phản ứng của các ngươi đều đã nằm trong kế hoạch của ông ta, tạo cho chúng ta ảo giác rằng chúng đang tức giận, chúng giả vờ có quân đội lớn mạnh chính là muốn để cho chúng ta lâm vào tuyệt vọng, tự loạn trận cước để thừa cơ công thành, chính những điều này đã chứng minh được rằng quân Hạ đã đi đến bước đường cùng!"

Y nhìn qua ánh mắt của mọi người, cho họ thấy sự tự tin mãnh liệt: "Tin ta đi! Ta đã biết được phong cách tác chiến và thủ đoạn của Tang Lương Ngọc rồi, bây giờ chính là trận huyết chiến của bọn chúng, cũng là trận chiến quyết đánh đến cùng của chúng ta! Ta khẳng định! Ta thề! Ta tin chắc rằng..."

"Đây chính là trận chiến nghênh đón bước chuyển hướng, là ánh sáng của thắng lợi!"

"Chắc chắn là lương thảo của quân Hạ đã bị dũng sĩ của chúng ta thiêu hủy rồi, thám tử của chúng nhất định sẽ thám thính được tin tức viện binh đến... Không sai! Sáng nay tin tức từ chỗ ống nghe truyền đến nói là cách ba mươi dặm vang lên tiếng của một lượng lớn binh mã đang tiến lên, đó chính là viện binh!" Lời vừa dứt, chúng tướng sĩ thoáng chốc trở nên phấn chấn hơn.

Chu Tử Thư tỏ vẻ kích động nhưng trống lòng vẫn reo lên bất an, lão binh trông coi ống nghe thật sự nghe được một loạt âm thanh lớn và lộn xộn vang lên, nhưng mà âm thanh lộn xộn và động tĩnh cực lớn cách đến ba mươi dặm đó rất khó mà phân biệt được có phải là của viện binh hay không.

Trước mắt chỉ có thể bất chấp thật giả thôi, Chu Tử Thư sức cùng lực kiệt, có cái gì lấy cái nấy, dẫn dầu toàn bộ bá tánh và không đến mười ngàn tướng sĩ chuẩn bị đương đầu với trận chiến cuối cùng gian nan nhất, cũng đã định là cuộc chiến oanh liệt nhất.

***

Cấm quân Nguyên Châu.

Khi nhận được tin cầu viện từ Kinh Châu, Tri phủ Nguyên Châu đã lập tức phái mười ba ngàn Cấm quân và sáu ngàn phiên binh nhanh chóng đi chi viện cho Kinh Châu, đúng lúc đó nghe nói bên dưới có một chủ soái thống lĩnh đến yết kiến, nói là tự nguyện dẫn binh đến Kinh Châu giải khốn.

Hỏi danh tính thì biết được người đó là con trai của Chu tế chấp Chu Trường Phong, ba năm trước được điều từ phủ kinh đô đến đây, giết địch vô cùng dũng mãnh, phẩm cấp không ngừng tăng lên, nhưng bản thân hắn tâm sự nặng nề, không thường giao hảo với cấp trên, có điều bối cảnh gia đình đã như thế, rõ ràng là tương lai rất xán lạn.

Lại hỏi thêm một câu nữa, hóa ra Kinh lược sứ Chu Tử Thư mới được bổ nhiệm chính là em trai của Chu Trường Phong, chẳng trách hắn không dằn nỗi sự nóng vội đến xin binh đi tiền tuyến.

Tri phủ Nguyên Châu biết được ngọn nguồn, tất nhiên nể mặt thành toàn cho tình nghĩa huynh đệ của người ta, lúc này vung bút lên, lệnh cho Chu Trường Phong dẫn binh đến Kinh Châu chi viện.

Chu Trường Phong nhận được tin tức lập tức xuất phát, vì lòng nóng như lửa đốt mà ra roi thúc ngựa chạy đi.

Sự thật là khi hắn nhận được tin thì đã muộn, dù có nhanh chân đuổi theo thế nào cũng đến chậm, mười ngày sau mới nhìn thấy Kinh Châu ngụp lặn trong biển lửa từ phía xa.

Trái tim Chu Trường Phong thắt lại: "Ngũ lang?"

***

Phủ kinh đô.

Tin tức báo hiệu tình hình quân sự bất ổn từ Tây Bắc truyền về khiến cho lòng người bàng hoàng, nhất là khi đại quân đã tiếp cận vây khốn Vị Châu, mà Vị Châu lại nằm gần Kinh Châu, có vài người không tránh khỏi lo lắng.

Mấy ngày gần đây Tạ thị đều ở chùa Bảo Hoa, vừa trò truyện với trụ trì về Chu Tử Thư lúc nhỏ và những chuyện thú vị thời niên thiếu, vừa cầu phúc cho Chu Tử Thư ở Kinh Châu xa xôi.

Hôm nay bà vẫn tụng kinh như thường lệ, nhưng vòng phật bỗng nhiên đứt đoạn, hạt châu rơi vỡ đầy đất, tim Tạ thị đập loạn không có trật tự, mờ mịt nhìn về hướng Tây Bắc.

"Ngũ lang..."

***

Trên xe ngựa từ Lưỡng Giang đi về phía phủ kinh đô, Nghiên Băng vùi đầu học tập nên tinh thần mỏi mệt, đang vô thức đi vào mộng đẹp bỗng nhiên choàng tỉnh, vén rèm xe lên nhìn về phía trời đêm, thấy được những chấm nhỏ lấp lánh đầy trời, mà sao kim cũng vừa mới lóe sáng.

Tú ma ma trong kinh cũng đột nhiên có linh tính, lấy giày, y sam nhỏ và mũ đầu hổ,... mà Chu Tử Thư mặc ngày nhỏ ra so sánh với đồ chơi ngày xưa của Cung Tuấn mà Hải thúc mang tới, hai ông bà nhàm chán kể về những chuyện thú vị lúc còn nhỏ của đám trẻ nhà mình.

Gió đêm yên tĩnh cuộn bay, lướt nhẹ qua khắp núi rừng sông biển, thổi đến lọn tóc của du khách ở mọi miền trời nam đất bắc.

Vợ chồng Lý Ý Như ở Nam Chiếu xa xôi và Ngụy bá đang trên con thuyền trôi nổi giữa biển rộng đều cùng lúc nhớ đến Chu Tử Thư ở Tây Bắc, mà lúc này trời đã sáng choang, ánh sáng rực rỡ chiếu rọi khắp đất trời.

***

Ánh sáng vàng chiếu rọi lên những vệt máu vẫn còn chưa kịp khô trên giáp, Chu Tử Thư cúi đầu thở dốc, hai tay run rẩy đến mức sắp không cầm nổi hoàn thủ đao nữa, máu và miệng vết thương dường như đều dính vào thanh đao, khắp nơi đều là xác người, cột cờ bị bẻ gãy và đao thương, xung quanh thì là một vài tướng sĩ đang vây tới.

Cách đó không xa chính là cửa thành đã bị phá mở, cách một cánh cửa, quân Hạ cũng chịu thương vong vô cùng nghiêm trọng, nhưng rốt cuộc bọn chúng cũng đã công phá được thành Kinh Châu, tinh thần vô cùng phấn chấn, đồng thời cũng có một nỗi căm thù bùng lên mạnh mẽ vì sự phản kháng ngoan cường của chúng tướng sĩ và dân chúng Kinh Châu.

Chu Tử Thư biết quân Hạ vào thành sẽ đốt phá, chém giết, cướp bóc để trút hận, nhưng một nửa cổng thành đã bị đánh sập, không cách nào ngăn cản, chi bằng buông tay đánh cược một lần, dẫn binh vào chỗ ống nghe.

Y lui từng bước về phía sau, giọng nói cực kì bình tĩnh: "Rút lui. Làm theo kế hoạch."

Nói xong, nhóm người phân tán ra khắp nơi, quân Hạ thấy vậy thì nối đuôi nhau chạy tới, xông vào căn nhà gần nhất chuẩn bị đánh phá thì phát hiện chẳng có ai ở trong, sau đó chạy ra ngoài hội ý, lúc này mới nháo nhào nhận ra...

"Ba cổng thành đều bị phá rồi, chắc chắn đã chuyển vào trong thành, tiền tài lương thảo cũng đều bị chuyển đi rồi! Các anh em à, bây giờ người Hán giống như chim trong lồng, tất cả hành động cùng lắm chỉ đang dựa vào thế yếu ngoan cố chống cự mà thôi, bọn chúng muốn binh không có binh, muốn vũ khí không có vũ khí, đi giết cho sướng tay thôi!"

Lời ấy kích thích sát ý của tất cả mọi người, bọn chúng không thể chờ nổi đến lúc được nghe tiếng kêu thảm thiết của nhân dân tay không tấc sắc, chỉ có máu tươi và bạc trắng mới có thể khiến cho tâm trạng hưng phấn vặn vẹo đến cực độ của chính khôi phục lại bình thường mà thôi.

Hơn nữa, đến chậm một bước thì tiền và phụ nữ đều sẽ bị người khác chiếm trước, phải vượt lên trước một bước mới có thể chia chén canh, vì vậy không ai nghĩ ngợi gì nữa mà làm theo lời nói kia.

Nhưng đuổi theo đến ngõ nhỏ mới nhận ra đã đi vào đường cụt, lúc chuẩn bị quay đầu lại mới nghe thấy trên lầu có người quát lên, chúng ngẩng đầu nhìn thì thấy đó là những dân chúng áo vải cầm trong tay quả cầu lửa tròn, đốt lên xong rồi ném đi, pháo nổ ầm ầm, vô số chông sắt xuyên qua nón giáp đâm người thành con nhím.

Một số lượng lớn quân Hạ chạy đến bãi đất trống lớn, bỗng nhiên có nỏ tầm xa kéo đến từ bốn phương tám hướng, trên nỏ tầm xa ràng gói thuốc nổ giống như hỏa tiễn bản phóng đại, thoáng chốc ném tới nổ tung lên khiến cho bốn năm người cùng kéo nhau đi chầu trời, chỉ trong nháy mắt, mấy trăm chiếc nỏ tầm xa cùng phóng thuốc nổ chết rất nhiều quân Hạ, không chờ cho chúng bỏ chạy đi trốn, các loài động vật như dê bò lạc đà đã xông vào đám đông, hoặc là giẫm đạp lên người đến chết, hoặc là bất ngờ phát nổ, thiêu cháy một số lượng lớn quân Hạ.

Hành động phản kích tương tự xảy ra ở mỗi đầu ngõ hẻm và các bãi đất trống trong thành Kinh Châu, đây chính là ván cược cuối cùng mà Chu Tử Thư dốc hết công sức, động viên từng dân chúng mang gói thuốc nổ còn lại dùng trên thân quân Hạ, lợi dụng sự quen thuộc của bọn họ đối với địa hình Kinh Châu để đóng cửa đánh chó*.

(*) 关门打狗 /guān mén dǎ gǒu/: đóng cửa đánh chó, ẩn dụ khống chế đói phương trong phạm vi, địa bàn của mình sau đó tiến hành tấn công.

Đối mặt với một hàng mũi tên sắt lạnh lẽo cách đó mười thước, Chu Tử Thư mặt không đổi sắc, gió lạnh thổi tới làm tung bay sợi tóc y, hoàn thủ đao chống xuống đất làm gậy chống đỡ cơ thể cạn kiệt sức lực, vậy mà y vẫn có thể dùng giọng điệu tỉnh táo để nói: "Tang Lương Ngọc, ông không tò mò xem ai đã tạo nên ván cờ này để hãm hại ông hay sao? Ông không tò mò chuyện tiền trang Đại Thông, xưởng chế tạo vũ khí và mã trận dưới núi Kỳ Liên là do ai gây ra sao? Ông cũng không tò mò ai là người đứng sau thêm dầu vào lửa, thuần dưỡng Ngạc Khắc Thiện, con cờ chuyên dùng để đối phó của ông ư?"

Phía quân Hạ lặng im không tiếng động, một lúc lâu sau mới đứng tránh ra chừa một con đường, cỗ xe nhung chầm chậm tiến về phía trước, âm thanh truyền từ bên trong ra: "Chu Tử Thư, ta và ngươi là bạn tri âm đã lâu, hôm nay gặp mặt, chuyến này đúng là không uổng công."

Khóe môi Chu Tử Thư giật giật: "Ta cũng từng nghe đến danh tiếng của Tang quốc sư, đúng là danh bất hư truyền."

Quả nhiên là Tang Lương Ngọc ngự giá thân chinh.

Tang Lương Ngọc: "Ta cứ nghĩ ngươi chỉ là một tên văn thần cổ hủ chỉ có bản lĩnh trị quốc, không ngờ còn có năng lực bình thiên hạ, nếu như để cho ngươi ở lại Tây Bắc thêm vài năm nữa, chắc có lẽ sẽ được xưng danh nho tướng đấy. Tiếc thay... Tiếc thay ta đã đoán ra được người tạo nên ván cờ trả thù ta là ai, ngươi đã đánh mất cơ hội tự cứu rồi, mà ta thì nhất định sẽ không dễ dàng tha cho ngươi được sống." Trả thù?

Ông ta vừa thốt ra từ này, Chu Tử Thư liền tin rằng Tang Lương Ngọc đã đoán ra Vương Nguyệt Minh.

Y không nhịn được nhếch miệng lên, quay đầu nhìn lại các tướng sĩ kề vai sát cánh chiến đấu mười mấy ngày cùng với dân chúng Kinh Châu trông chật vật không chịu nổi, cảm giác trong lòng trống rỗng, chắc có lẽ là vì tình cảm quá nặng nề nên mới tạo ra lỗ trống đó, rồi y quay đầu lại nhìn quân Hạ dày đặc, phía sau là bầu trời mênh mông bát ngát.

Bỗng nhiên Chu Tử Thư nhớ đến mấy ngày sống chết không rõ kia, dáng vẻ tiều tụy khốn khổ của Cung Tuấn lại khiến cho y muốn khóc. Chu Tử Thư mấp máy môi: "Cung Tuấn, ta không muốn thất hứa..."

Lời hứa đồng sinh cộng tử, y không muốn nuốt lời. Thế nhưng nếu là vì bất đắc dĩ, y nhất định sẽ ở lại suối vàng chờ Cung Tuấn, vì vậy giờ phút này lời cầu nguyện duy nhất của Chu Tử Thư chính là cầu cho suối vàng thật sự có tồn tại trên đời này, nếu không y cũng không biết mình sẽ phải đi đâu để chờ Cung Tuấn nữa.

Mũi tên sắt bay đến ngay trước mắt, gần như trong khắc sinh tử ấy, một tình huống khác đã xảy ra, có một loạt mũi tên sắt từ phía bên cạnh vụt tới chắn bay mưa tên đuôi lông vũ mà quân Hạ chế tạo ra, chỉ nghe thấy trong đám người bỗng nhiên có tiếng hô hoán lên: "Là quân cứu viện! Quân cứu viện đến rồi!!!"

Hai mắt Chu Tử Thư sáng lên, phản ứng cực nhanh thét to: "Các tướng sĩ! Theo ta giết..."

Dứt lời, hai tay đã siết chặt lấy hoàn thủ đao xông vào quân Hạ, quân Hạ khá hoảng loạn trước cuộc phản công bất ngờ này, ban đầu chúng còn cho rằng Chu Tử Thư lại có quỷ kế gì khác nữa, nhưng rồi nhanh chóng phát hiện ra có viện binh thật, mà đó còn là thiết kỵ Đường Hà khiến cho người Tây Bắc vừa nghe tới đã sợ mất mật nữa!

Kỵ binh giáp nặng ép sát từng bước như thần chết, nỗi sợ hãi khắc cốt ghi tâm khiến sĩ khí quân Hạ sa sút trước một bước, nhất là khi nhìn thấy kỵ binh giáp đen dẫn đầu chỉ cần giơ ô thương lên là có thể lấy mạng người một cách nhẹ nhàng như cắt rơm rạ, nhanh chóng dọn dẹp sạch khu vực xung quanh, có kẻ nhận ra điều gì đó bèn quát lên: "Tu la... Quỷ tu la Tây Bắc!"

Đó chính là danh hiệu của Cung Tuấn, đối với quân Hạ cái tên này còn kinh khủng hơn cả Diêm vương nữa, chỉ trong phút chốc thôi bọn chúng đã bị đánh tơi bời, binh bại bỏ chạy tán loạn.

Trong xe nhung, Tang Lương Ngọc mở cửa xe ra, chứng kiến quân cứu viện tràn vào, tự biết mình đã thất thế một nửa, trong lòng ngổn ngang cảm xúc.

Phàm là đến chậm một ngày, dù chỉ một ngày thôi cũng đủ để ông ta cho Đại Cảnh một bài học đau đớn rồi, tiếc thay thất bại trong gang tấc!

Ông trời đã định ông ta phải thất bại trong gang tấc.

Tang Lương Ngọc không tin vào số mệnh, không tin ý trời, thế nhưng hai mươi mấy năm trước đi thi gặp được một thầy tướng, người đó đã xem tướng số cho ông ta, nói ông ta có mệnh Trần Thắng* Hoàng Sào**, ngồi ở địa vị được tôn trọng, quý không nói nổi, chỉ tiếc mọi chuyện sắp thành lại bại, kém một nước cờ, chết không yên thân!

(*) Trần Thắng là thủ lĩnh đầu tiên đứng lên khởi nghĩa chống lại nhà Tần, người khởi đầu cho phong trào lật đổ nhà Tần trong lịch sử Trung Quốc.

(**) Hoàng Sào là người phát động Khởi Nghĩa Hoàng Sào, đồng thời cũng là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa (874 – 884), trong thời gian của cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào xưng Hoàng Đế, thành lập chính quyền Đại Tề, khởi nghĩa Hoàng Sào tuy thất bại nhưng khiến nhà Đường suy yếu nghiêm trọng rồi sụp đổ trong khoảng 23 năm sau (năm 907).

Thi đậu công danh, thi Đình thất bại, ông ta không tin.

Hiến thân cho Đại Hạ, thắng Đại Cảnh ba trận chiến liên tiếp, lúc vẫn có thể kiến công lập nghiệp lại bị Vĩnh An đế kiên dè phòng bị, cường lệnh Chu hồi, ông ta vẫn không tin.

Bày mưu lập kế bao năm trời để cho một con rối lên ngôi, muốn cho bản thân mình lưu danh sử xanh, để cho người đời này biết được ông ta phản quốc là do sai lầm của Hoàng đế Đại Cảnh!

Thế nhưng lại thất bại trong gang tấc, thậm chí trở thành nghịch đảng khiến cho văn nhân trong thiên hạ khinh thường, ông ta vẫn như vậy, không tin.

Ý trời đã vậy, ông ta càng muốn nghịch thiên cải mệnh!

Bây giờ không còn đường lui, quyết chiến đến chết, chỉ cần quân cứu viện đến chậm một bước thôi là ông ta có thể tàn sát hàng loạt dân trong thành, hoàn thành tâm nguyện đời này, để cho Đại Cảnh biết thế chẳng làm, đau khổ tột cùng, vậy mà kiếm củi ba năm thiêu một giờ, cũng chỉ thiếu mỗi một bước mà thôi!

Tang Lương Ngọc ngoan cố đến cùng, nhất định không tin vào số mệnh.

Ông ta rút kiếm đế vương tinh xảo ra, bước xuống khỏi xe nhung tiến về phía Chu Tử Thư trong đám người, từng bước đến gần, giơ kiếm đế vương lên, lưỡi kiếm phản chiếu khuôn mặt vặn vẹo dữ tợn của ông ta, rồi ông ta đột ngột vung kiếm xuống, chỉ nghe một tiếng xoẹt khi lưỡi đao sắt bén cứa vào da thịt, véo von dễ nghe, vô cùng êm tai.

Trên mặt Chu Tử Thư lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn về phía Tang Lương Ngọc gần sát chỗ mình đang bị ô thương đâm xuyên qua tim, sau đó bỗng nhiên ô thương được rút ra, máu tươi phun vãi khắp nơi, Tang Lương Ngọc ngã xuống đất, Cung Tuấn xuất hiện phía sau lưng ông ta.

Mà ngay lúc ấy, binh sĩ xô đẩy nhau chạy trối chết không cẩn thận làm rơi khúc cây công thành, khiến cho nó lăn vòng một cách mất kiểm soát rồi đè xuống hai chân Tang Lương Ngọc, Tang Lương Ngọc lập tức thét lên thảm thiết, hai chân gãy nát.

Đến lúc gần chết, ánh mắt của Tang Lương Ngọc dù đã tan rã nhưng vẫn không cam lòng: "Địa vị được tôn trọng, quý không nói nổi, kiếm củi ba năm thiêu một giờ, ý trời đã vậy... Vẫn muốn..." Chống lại lệnh trời!

Ông ta phun một ngụm máu tươi khỏi miệng, bốn chữ nghẹn ứ chưa kịp nói đã tắt thở bỏ mạng.

Tang Lương Ngọc chết rồi, quân Hạ giống hệt như con ruồi mất đầu bay nhảy khắp nơi, binh bại như núi đổ, mối nguy toàn dân thành Kinh Châu bị tàn sát đã được hoá giải, tinh thần căng thẳng suốt mười lăm ngày trong nháy mắt rã rời, mỏi mệt, khó khăn, đau đớn, bi thương tuyệt vọng và niềm vui tìm được đường sống trong cõi chết, cùng với lòng sung sướng khi nhìn thấy Kinh Châu được bảo vệ thoáng chốc quét tới như lũ, Chu Tử Thư đánh rơi đao trong tay xuống đất kêu leng keng rồi đột nhiên ngã về phía trước.

Cung Tuấn nhanh tay đón được y, hắn vòng tay ôm chặt lấy bả vai Chu Tử Thư, phát hiện y đã gầy đi một cách đáng sợ, nhìn thấy vết thương đầy trên người y thì lại càng đau lòng hơn nữa.

Chu Tử Thư cười yếu ớt, "Cung Tuấn, chàng lại cứu ta lần nữa."

Giọng nói của Cung Tuấn rất nhẹ: "Em cũng đã cứu ta."

Chu Tử Thư líu ríu nói: "Ta mệt lắm rồi..."

Cung Tuấn ấn bàn tay vào cổ Chu Tử Thư, cảm nhận được mạch đập vẫn nảy lên mới yên lòng, nhẹ nhàng dỗ dành: "Ngủ đi, ta ở bên cạnh em."

Chu Tử Thư chậm rãi nhắm mắt, bóng đen ập đến bao lấy y như thủy triều, giấc ngủ yên bình đã đánh mất từ lâu cuối cùng cũng quay lại, trái tim đang lơ lửng trên bờ vực giữa sự sống và cái chết vững vàng đáp xuống.

Mặc cho khói thuốc súng dày đặc, tiếng giết chóc vang lên rung trời, vòng ôm của Cung Tuấn chính là nơi linh hồn Chu Tử Thư dừng chân.

***

Không đến bốn mươi ngàn binh mã Kinh Châu chống lại một trăm ngàn quân tinh nhuệ Đại Hạ, cố thủ hai mươi ngày đến lúc hết gạo sạch đạn, dù thành đã bị phá nhưng quân cứu viện đã đến kịp thời, giúp cho ngàn vạn dân chúng Kinh Châu may mắn thoát khỏi kiếp nạn.

Tin tức này truyền về triều đình, kinh động triều thần.

Nhóm người Trần Sư Đạo, Chu Bá Ung biết được khi ấy Kinh Châu chỉ có một mình Chu Tử Thư lãnh đạo không đến bốn mươi ngàn tướng sỉ cố thủ thành thì đều bàng hoàng, nghĩ đến mà sợ hãi không thôi, ngay sau đó liền nhận ra có chỗ không đúng.

"Vì sao tận hai mươi ngày sau viện binh mới đến?" Chu Bá Ung đứng trước điện Văn Đức đưa ra chất vấn, "Bệ hạ, theo như tiền tuyến báo lại, Kinh Châu đã cầu viện đến tổng cộng năm châu Nguyên, Khánh, Lũng, Ninh và Phượng Tường, trong đó có binh đưa tin đến Ninh Châu và Phượng Tường bị truy binh chặn đường, binh đưa tin đến Nguyên Châu bị trì hoãn nên đến đưa tin chậm một chút, không thể kịp thời phái binh đến chi viện cũng còn có thể giải thích được, nhưng Lũng Châu và Khánh Châu nhận được tin báo phái binh trợ giúp rồi mà còn đến Kinh Châu muộn hơn cả Lâm An quận vương đang ở Tây Ninh Châu xa hơn là thế nào?"

Nguyên Thú đế có thể tự đoán được nguyên nhân.

Tri phủ Lũng Châu là người của Thái Trọng Thăng, tướng soái đóng giữ Khánh Châu là Trịnh Nguyên Linh, mà mấy năm gần đây Thái Trọng Thăng thường xuyên qua lại với phủ Trịnh quốc công, làm sao có thể không hiểu rõ tình hình chứ?

"Bất kể là xuất phát từ lòng riêng hay là nguyên nhân gì khác, bệ hạ, trong thành Kinh Châu có đến chín mươi ngàn dân chúng tay không tấc sắt đấy!" Nguyên Thú đế không hoảng, cũng không đáp lại.

Vẫn là Trần Sư Đạo đứng ra, dùng một câu thức tỉnh Nguyên Thú đế, "Bệ hạ, khi đó không có ai biết Lâm An quận vương không ở Kinh Châu."

Nguyên Thú đế nheo mắt nhìn Trần Sư Đạo, đó là gương mặt nho nhã gần như khô khan cổ hủ nhưng bao giờ cũng nói trúng tim đen của ông, sau đó thở dài thườn thượt, "Không bao lâu nữa Thái Trọng Thăng sẽ về kinh báo cáo công tác, đến lúc đó rồi nói. Còn Trịnh Nguyên Linh, dù sao cũng là công thần, mấy năm qua cũng có chiến công hiển hách... Đại Hạ hao binh tốn tướng nghiêm trọng, đang là thời điểm rắn mất đầu, lệnh cho năm nhánh binh mã nhân cơ hội này đánh vào phủ Hưng Khánh, thu hồi đát đai bị mất lại!"

Nếu như Trịnh Nguyên Linh đủ thông minh thì lão sẽ biết rằng lão nên bù đắp sai lầm của bản thân trong cuộc chiến mở rộng lãnh thổ Đại Cảnh này, đây cũng là cơ hội cuối cùng mà Nguyên Thú đế dành cho lão.

Nhóm người Trần Sư Đạo và Chu Bá Ung càng già càng lão luyện, đều hiểu được đạo lý thấy tốt thì lấy, viện binh đến trễ mấy ngày thôi mà, Trịnh Nguyên Linh có rất nhiều lý do để giải thích.

Điều mà bọn họ muốn chính là thấy Nguyên Thú đế sinh ra ác cảm vì phủ Trịnh quốc công bắt tay với Tấn vương mưu hại Cung Tuấn, thái tử trong lòng ông.

==

Min: Và từ đây là hết gian nan rồi nhá, mặc dù vợ chồng lão Cung còn khướt mới được cha già dấu yêu tha cho về hưu =)))))))

Chương sau có một nhân vật lâu lắmmmm rồi không xuất hiện được lên sóng lại đó, mn đoán thử đi kkk ai đọc trước r không tính nha 🤣

Chương 105

"... Huynh thì biết cái gì? Ở Thiểm Tây này muốn ăn cá lóc khó lắm đấy! Cầm lấy, bảo phòng bếp giết rồi nấu nồi canh cá để cho Chu đại nhân bồi bổ thân thể đi, hai mươi ngày không được nghỉ ngơi đàng hoàng thì đúng là đáng thương thật, đại phu nói miệng vết thương trên người ngài ấy còn chưa lành đã lại nhiễm trùng nữa rồi, cũng may tuổi còn trẻ."

"Đậu cô nương, Chu đại nhân có cá lóc, còn ta không có à?"

Nghe giọng nói thôi cũng đã tưởng tượng ra được dáng vẻ cười cợt tí tởn của Thôi phó quan, không những trông chẳng ra cái gì mà còn rất thiếu đánh.

"Gọi ta là Đậu chỉ huy."

"Đậu chỉ huy đại nhân!"

"Cái rổ ở dưới có ba con cá lóc, dù sao cũng dư ra, huynh muốn thì lấy đi."

"Ba con?" Giọng nói của Thôi phó quan tràn ngập niềm vui sướng, "Hơn Chu đại nhân hai con, Đậu cô nương, á, không phải, Đậu chỉ huy, cho ta hai con cá à, ngại quá... Chết rồi? Cô cho Chu đại nhân ăn cá tươi, cho ta cá chết hả?"

"Không thì sao?"

Tiếp lời chính là tiếng quở mắng của đại phu bảo bọn họ nói chuyện nhỏ một chút, nếu thấy rảnh rỗi quá không có chuyện làm thì mau ra ngoài giúp sửa chữa tường thành đi. Có điều chỉ trong chốc lát không gian đã yên tĩnh trở lại, tiếng kêu của Hải Đông Thanh to rõ, vang từ tận trời cao xuống dưới khiến cho chim chóc xây tổ dưới mái hiên sợ hãi mà bay đi mất.

Tiếng gió rì rào, rừng lá lao xao, ánh mặt trời ấm áp xuyên qua khe cửa sổ chiếu xuống mặt đất, bụi mịn tung bay giữa luồng sáng, một bóng dáng lướt qua bên cửa sổ từ bên ngoài bước vào trong phòng, ngẩng đầu lên nhìn Chu Tử Thư đang mở mắt nằm trên giường.

Cung Tuấn vội vàng cầm chén thuốc vụt tới bên cạnh đỡ Chu Tử Thư dậy, vừa sờ trán y vừa hỏi: "Choáng đầu nên khó chịu sao? Miệng vết thương đau hay là ngứa?"

Chu Tử Thư lắc đầu: "Ta ngủ bao lâu rồi?"

Cung Tuấn: "Hai ngày ba đêm, mệt nhọc quá độ, miệng vết thương bị nhiễm trùng, hoại tử dẫn đến phát sốt. Có điều tình huống tệ hơn ta cũng vượt qua được rồi, bây giờ cũng chỉ là chuyện nhỏ thôi, em xem em vẫn bị ta đánh thức đấy thôi."

Chu Tử Thư siết chặt tay Cung Tuấn xem vết thương trên người hắn,

"Chàng thì sao? Có nghỉ ngơi đàng hoàng không đó?"

Nhóm người về từ phủ Tây Lương gặp nguy hiểm, sau đó ngựa không ngừng vó mà chạy đi, vừa về đến đã lao vào thành Kinh Châu với nguy cơ bị phá nát, không chỉ phải chăm sóc y còn hôn mê mà còn phải giải quyết việc xây dựng lại phủ Kinh Châu, còn cả quân đội Đại Hạ phía Vị Châu nữa, không biết có chịu nghỉ ngơi hay không.

Cung Tuấn: "Không sao, Thôi Tông Chính bỏ mê hồn dược vào thuốc của ta, vậy nên ta cũng ngủ say một ngày một đêm, tinh thần thể lực đều khôi phục lại rồi, vết thương cũng đã đóng vảy, qua mười ngày nửa tháng nữa là ổn."

Chu Tử Thư nhận lấy thuốc từ tay hắn uống một hơi hết sạch, sau đó nhanh tay bốc mứt quả ngậm vào miệng để xua tan vị đắng, cúi đầu nhìn băng vải trên người rồi nói: "Vết sẹo là vinh quang của đàn ông, sau này về kinh đô có vốn để khoe khoang với mấy ông lão cổ hủ và mấy tên lỗ mãng kia rồi."

Đừng chỉ thấy Chu Tử Thư treo trên người cái danh thanh thiên cương trực công chính, mấy năm nay vẫn có không ít quan lại lên chức gây khó dễ khắp nơi trong triều chỉ vì y đối nghịch với họ, những kẻ cổ hủ bảo thủ mắng y chanh chua, võ tướng mãng phu mắng y gà mờ hệt như thằng nhãi con, chỉ sợ thấy máu sẽ chóng mặt, hoàn toàn quên mất chuyện y đã từng chém đầu ba trăm quan.

Chu Tử Thư bắt lấy tay Cung Tuấn rồi nắm tay mình lại thành quyền đụng vào nắm đấm của hắn, nhếch môi nói: "Trên người hai ta đều có huân chương, đúng là trời sinh một cặp."

Cung Tuấn: "Em còn có lòng dạ nói đùa à? Có biết lúc ta đến nhìn thấy thành bị phá, suýt nữa là tim ngừng đập thật rồi không."

Chu Tử Thư: "Không còn sức sống thật hả?"

Cung Tuấn vừa trừng mắt, Chu Tử Thư đã nhanh nhảu xin tha: "Gặp họa mà vẫn bình an tức là người có phúc, chàng xem ta đã trải qua mấy bận thập tử nhất sinh rồi hả? Nếu không phải là người phước dày thì khó mà qua nổi lắm."

Miệng lưỡi trơn tru nói lời chọc cười, cũng không biết là học từ đâu nữa, đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, có lẽ là vì ngày nhỏ thường trà trộn vào đủ thứ hạng người nên mới có bản lĩnh này, về sau làm quan phải thận trọng nên đã bỏ bớt thói xấu, mấy năm nay được Cung Tuấn nuông chiều nên nó đã có dấu hiệu "hồi sinh", ấy vậy mà đã thật sự chọc cho hắn phải bật cười.

Cung Tuấn vốn không tức giận, Chu Tử Thư bình an vô sự đã là may mắn lắm rồi, làm sao hắn nỡ nặng lời trách móc chứ?

"Em không nên điều Chiết Thanh Phong đi."

"Không cho điều thì cũng đã điều rồi, thế phải làm sao bây giờ đây?"

Cung Tuấn không nhịn được nở nụ cười, vất vả lắm mới có thể gắng gượng chống đỡ cơ thể suýt nữa là sụp đổ như núi, nói thật lúc ấy hắn đã rơi vào tình thể nguy hiểm, cũng may Chiết Thanh Phong đến kịp, nếu không có lẽ hắn đã bỏ mình ở Đại Hạ, mãi mãi không thấy ngày về rồi.

"Chu Tử Thư, em lại cứu ta rồi, em cứu ta hai lần, kéo ta từ bờ vực sinh tử trở về, ta nợ em hai mạng." "Chàng cũng đã cứu ta hai lần..."

Cung Tuấn nhớ lại, cảm thấy không đúng lắm, "Vậy chẳng phải hai ta huề nhau sao? Nhưng tính kĩ thì ta chỉ cứu em lần này thôi, lần trước không thành, đều là nhờ công lao của thái y, ta không thể vô sỉ ôm công được, vậy cứ cho là ta nợ em một lần đi." Nói về chuyện quan trọng này, hắn còn dùng lời lẽ nghiêm túc để nói: "Ngoại trừ tước vị vô dụng, của cải, thanh danh thì chỉ có tấm thân to cao và gương mặt khôi ngô này là có chút giá trị thôi, tiểu lang quân, cho ta thấy thân báo đáp nhé."

"... Cút đi."

Cung Tuấn đá rớt giày xuống đất rồi chui lên giường, ôm Chu Tử Thư náo loạn trong chăn một hồi, đến giờ cơm mới lệnh cho người đến phòng bếp mang nồi canh cá lóc vào cho y bồi bổ cơ thể.

Đến ngày thứ ba Chu Tử Thư đã có thể xuống giường hỏi thăm công việc ở Kinh Châu, ai nấy đều bừng bừng khí thế làm công tác tu sửa các mục trong phủ, các phương diện khác như buôn bán, nông nghiệp và quan phủ đều đi vào quỹ đạo, mà vòng vây của Vị Châu cũng đã được giải quyết, quân đội Đại Hạ còn lưu lạc ở biên cảnh Tây Bắc đều bị đánh cho chạy bán sống bán chết, tin tức Tang Lương Ngọc đã chết dường như đã được truyền đi khắp Tây Bắc, Đột Quyết nắm tin tức xong cũng lập tức hành động, rời khỏi đường biên giới Tây Bắc chỉ trong một đêm.

Tây Bắc đã tạm thời khôi phục lại sự yên tĩnh của ngày xưa, nhưng các nhánh binh mã lại đang chờ xuất phát, Nam Cương, Mông Cổ và Đột Quyết đều nhìn chằm chằm, Đại Hạ lung lay từ bên trong chính là một miếng thịt vụn thối nát, hấp dẫn đám kền kền tham ăn xung quanh, ba kẻ kia không dám lộn xộn là bởi vì bọn chúng phát hiện ra Đại Cảnh đã đang điều điều sáu trăm ba mươi ngàn binh đóng quân Tây Bắc, chúng sợ hãi đánh chính diện với con quái vật khổng lồ này, cũng sợ bị trả thù, thế cho nên chẳng ai dám hành động trước.

Bầu không khí bình lặng kỳ lạ bao phủ Tây Bắc và Đại Hạ, mà ngay lúc này, Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn chạy trốn ra khỏi Đại Hạ đã xưng đế ở trấn Hắc Thủy, phái Lai sứ ra với ý đồ hòa đàm với Đại Hạ.

Một tháng kể từ khi Đại Hạ khơi mào chiến tranh, phủ kinh đô truyền thánh chỉ xuống, lệnh cho năm nhánh binh mã Tây Bắc chia ra các tuyến đường khác nhau tấn công Đại Hạ, giao cho Cung Tuấn cầm binh.

Lai sứ Đại Hạ đi vào quân doanh Vị Châu, vừa tỏ ý đồ đến đã bị Cung Tuấn chém chết tại chỗ, hắn cầm đầu lâu lên nói: "Lai sứ Đại Hạ có ý đồ ám sát bổn vương, người đến không lành, bản tính khó dời, lòng ngấp nghé thành trì Tây Bắc ta chưa dứt, triều đình của chúng ta tôn trọng hòa bình là vì suy nghĩ cho sự yên bình của dân chúng biên cảnh, bao dung cho Đại Hạ dù đã xâm phạm Tây Bắc nhiều lần, cũng chấp nhận biết bao nhiêu điều kiện hòa đàm thậm chí là mở các cuộc trao đổi hữu nghị, nhưng không hiểu sao lòng tham vô đáy của quý tộc Đại Hạ vẫn không chết, liên tục giở thủ đoạn bẩn thỉu... Các tướng sĩ có chịu đựng được không?"

Lòng tướng sĩ đầy căm phẫn, nổi giận hô lên không thể nhẫn nhịn không muốn chịu đựng, tiêu diệt Đại Hạ!

"Nhịn được thì nhịn, không nhịn được nữa thì không cần phải nhịn! Chúng tướng sĩ tẩy binh thả ngựa, chờ xuất phát theo ta đi mở đất biên cương, đạp phá phủ Hưng Khánh, đưa bờ Hoàng Hà, đồng cỏ Cao Hà và hành lang Hà Tây vào bản đồ Đại Cảnh ta!"

Đám tướng sĩ thi nhau hò hét, tinh thần sục sôi, sĩ khí trước đó chưa từng có tăng vọt lên.

***

Cung Tuấn và Chu Tử Thư gặp lại nhau chưa tới hai tháng đã lại chia tay lần nữa, nhưng lần này hai người không lưu luyến bịn rịn quá nhiều, chỉ nói một câu: "Sống chết có nhau."

Chu Tử Thư: "Ta cất rượu Tần, chờ ngày chàng đại thắng về triều sẽ khui ra."

Cung Tuấn cười to: "Nếu đã vậy không quay về thì sẽ tiếc lắm nhỉ!"

Bên này bọn họ quấn quít chia tay nhưng cũng chẳng ai để ý đến, bởi vì người đứng khắp gò núi này đều đang chiết liễu tiễn biệt nhau, cách đó không xa là Thôi phó quan và Đậu cô nương.

Đậu cô nương kia chính là con gái của Đậu Hồng, để bảo vệ Kinh Châu, anh lớn đã trá hàng hi sinh trong doanh địch, vì vậy mà cha già mới đau buồn đến bạc trắng tóc, không chịu nổi cảnh người đầu bạc tiễn người đầu xanh nữa, trùng hợp thay Thôi phó quan vừa nhìn thấy nàng đã yêu, dính chặt lấy nàng suốt hai tháng trời, mà Đậu cô nương cảm thấy người này cũng không tệ lắm, bản thân nàng cũng không phải là người dễ ngại, thử thách mấy phen bèn đồng ý cho Thôi phó quan theo đuổi mình.

Có điều Đậu cô nương chấp nhận Thôi phó quan không phải là để cởi giáp, mà là để sinh một đứa con an ủi cha già, ngoài mặt bày tỏ lòng hiếu tháo, quay đầu lại chạy đi làm nữ tướng.

Cách này vừa có thể làm tròn chữ hiếu, vừa có thể tiếp tục nhiệt tình với sự nghiệp, chẳng trách mọi người đều nói phụ nữ Tây Bắc rất ngoan cường và không bao giờ khuất phục.

Đưa mắt nhìn Cung Tuấn xoay người lên ngựa, hòa vào đội quân rồi, Chu Tử Thư quay lại mới thấy Chu Trường Phong đứng dưới một gốc cây liễu khô cách đó không xa, hai người nhìn nhau, thời gian qua đi cảnh vật cũng đổi, tâm trạng không còn như lúc trước nữa.

Chu Trường Phong đi tới, cẩn thận nhìn mặt Chu Tử Thư, bốn năm trước kể từ sau cung yến hắn vẫn không có cơ hội được gặp Chu Tử Thư, ngũ lang trong trí nhớ của hắn cũng không còn rõ ràng mấy, mỗi lần nhớ lại, những gì mà bọn họ thiếu nợ y sẽ càng trở nên chân thực hơn, lồng ngực cũng thít vào đau đớn gần như khiến hắn không hít thở nổi.

"Ngũ lang gầy đi nhiều rồi."

Chu Tử Thư cười khách sáo.

Chu Trường Phong cúi đầu, muốn nói gì đó lại thôi.

Chu Tử Thư thầm thở dài, đã không còn ý định kéo dài thân duyên, cũng không có ý chà đạp tấm lòng của người khác, chỉ chắp tay qua đầu nói: "Tướng đi vạn dặm, đường xá gian nan, hy vọng người túi gấm còn tên, thắng lợi về triều, bình an vô sự."

Chu Trường Phong bỗng giương mắt lên, cảm động không thôi, một lúc lâu sau mới thốt ra được hai chữ: "... Cảm ơn."

Chu Trường Phong cứ chần chừ tại chỗ mãi không chịu nhúc nhích, đến khi cấp trên thúc giục lần nữa, hắn mới đành leo lên ngựa rời đi, đi được một đoạn đường xa rồi, Chu Trường Phong mới mò vào ngọc quân tử trong ngực áo, đó vốn là quà cập quan mấy năm trước muốn tặng cho Chu Tử Thư, nhưng cho đến giờ vẫn không thể tặng được.

Đội quân nối thành một hàng dài xuất chinh, biến mất dần trong ánh trời chiều, những người đến chia tay đều lưu luyến đứng lại tạm biệt bọn họ đến tận khi mặt trăng leo lên đỉnh núi rồi mới lục tục rời đi.

***

Khẩu dụ từ phủ kinh đô truyền Chu Tử Thư trở về đã đến hai lần nhưng đều bị y lấy lý do công việc ở Tây Bắc bận rộn để từ chối, đóng giữ Kinh Châu đến khi thời tiết nóng bức của đầu hè ập tới, thời gian lặng lẽ trôi đến cuối tháng sáu, cũng chính vào lúc này, biên cảnh truyền tin chiến thắng về, phủ Hưng Khánh đã bị phá, đại quân đánh thẳng vào hoàng cung Đại Hạ, bắt lấy Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn có ý đồ chạy trốn lần nữa.

Người trước rút đao tự vẫn, kẻ sau cảm thán đi đến bước đường cùng, thời gian không chờ đợi ta, rồi sau đó cũng đi theo.

Mặt khác, toàn bộ quý tộc Đại Hạ đều quỳ xuống đất cầu xin tha thứ, bởi vì những người dám phản kháng Tang Lương Ngọc đều đã bị ông ta giết sạch rồi, trái lại dân chúng không hề hấn gì trước việc này, dù sao thì quân đội Đại Cảnh cũng không dám làm những chuyện như đốt giết cướp bóc, hơn nữa, ít nhất hai ba mươi năm về trước có người không phải là con dân Đại Hạ mà là người có cùng nguồn gốc với phiên tộc Tây Bắc, vốn chẳng có lòng yêu nước gì cả, làm bá tánh của nước nào thì có sao đâu?

Ăn uống no đủ là tốt rồi, dù gì về sau đi chợ cũng không cần phải đợi quan phủ phê chuẩn mới được, thỉnh thoảng các chợ đóng cửa, cả nhà còn phải lâm vào tình cảnh không có đồ ăn cực kì thê thảm, Đại Hạ chết rồi là chuyện tốt đấy chứ.

Đại Hạ bị diệt, Cung Tuấn còn dẫn binh đánh vào Nam Cương và Mông Cổ nữa, coi như trả thù.

Đột Quyết ở sát vách Đại Hạ cũng chẳng chiếm được cái gì tốt, trước đây có thể chân vạc bị Đại Hạ kiềm hãm, bây giờ môi hở răng lạnh, khó đảm bảo tiếp theo không phải là bọn họ nước mất nhà tan, lúc này phái Vương tử đi làm Đại sứ hòa đàm, phái thêm công chúa đi hòa thân, bày tỏ lòng kính sợ, dùng thái độ vô cùng lo lắng để cầu hòa.

Trước mắt không phải là thời điểm chỉnh đốn Đột Quyết, vậy nên Nguyên Thú đế không từ chối hòa đàm, có điều thái độ vẫn cứng rắn, thở ra một câu tỏ rõ ý rằng ông vẫn có ý định ra sức làm thịt Đột Quyết.

***

Đầu tháng bảy, mặt trời nhô cao.

Giả Long Thiên Châu trở thành thủ lĩnh tộc Giả Long, nàng lặn lội từ Nguyên Châu đến, mang theo một ít quà cáp chuẩn bị bái kiến Chu Tử Thư, trên đường gặp được ni cô Nhã Thiện đã kết hôn với thanh mai trúc mã, bấy giờ đang mang thai sáu tháng, nàng ta cảm niệm vì ngày xưa nàng đã chăm sóc các ni cô ở Kính Châu nên tặng cho nàng bánh hoa mà mình tự tay làm, lại nghe nói Giả Long Thiên Châu sắp sửa đi gặp Chu Tử Thư ân nhân của nàng ta, Nhã Thiện bèn vội vàng đi soạn một giỏ bánh hoa và kẹo cưới nhờ Giả Long Thiên Châu đi tặng giúp.

Thế là Giả Long Thiên Châu xách theo túi lớn túi nhỏ đi vào Ngạc phủ đã được tu sửa lại rồi sung vào công quỹ, nàng không gặp được Chu Tử Thư, hỏi thăm mới biết người ta đã đi đến lễ đua ngựa mà phiên tộc địa phương tổ chức vào tháng bảy rồi.

Tiểu đồng canh cửa nói: "Chu đại nhân và Đậu đại nhân đều đã bị kéo đi làm trọng tài, là do Đậu cô nương bắt đi cho bằng được đấy, bởi vì lễ đua ngựa chỉ có phái nam mới được tham gia thôi, Đậu cô nương tức lắm cho nên muốn Chu đại nhân và Đậu đại nhân ngầm thay đổi thể lệ, cho phép phái nữ dự thi, cũng không hiểu sao mà Chu đại nhân rất tán thành, còn đề xuất thi đấu theo nhóm nam, nhóm nữ rồi nhóm nam nữ hỗn hợp nữa... Cô biết mà, lễ đua ngựa này không chỉ có đua ngựa mà còn có những hoạt động khác, tổ chức từ sáng sớm đến tận tối muộn, cá chắc là nó sẽ không kết thúc cho đến tận hừng đông ngày mai đâu... Cô có định đến đó không?"

Giả Long Thiên Châu đã làm ni cô mười mấy năm, tính tình trầm ổn, không quen với không khí ồn ào náo nhiệt nên bèn từ chối.

"Ta có thể ngồi trong phủ chờ được không..."

Còn chưa dứt lời đã nghe thấy tiếng hí vang của tuấn mã truyền đến từ xa và tiếng kêu thánh thót xé rách bầu trời của hùng ưng, quay đầu nhìn lại, đập vào mắt đầu tiên chính là một con Hải Đông Thanh trống cực đẹp, theo sau đó là một kỵ binh lao đến trước mặt nàng trong nháy mắt, khí thế khắc nghiệt lạnh lùng ập đến khiến cho Giả Long Thiên Châu và tiểu đồng đều phải run rẩy đề phòng.

Chờ người nọ tháo mặt nạ sắt bảo hộ xuống, để lộ đôi mắt Bồ Tát màu vàng lưu ly đặc trưng và gương mặt vô cùng tuấn mỹ ra, hai người thấy đó là Cung Tuấn thì mới thôi cảnh giác.

"Tiểu nhân / Giả Long thị tham kiến tướng quân."

Cung Tuấn quét mắt nhìn phủ đệ vắng tanh vắng ngắt, chỉ hỏi một câu: "Tiểu lang đang ở đâu?"

Tiểu đồng trả lời đúng sự thật, Cung Tuấn chẳng nói chẳng rằng giục ngựa rời đi.

Giả Long Thiên Châu hơi ngạc nhiên: "Cấm quân đã thắng trận trở về rồi à?"

Nếu thắng trận trở về thì phải đánh tiếng thật lớn mới đúng chứ, nhưng có lẽ Lâm An quận vương không chịu nổi cảnh nhớ nhung, bỏ rơi đại quân còn mình thì ngày đêm chạy gấp về đây ấy mà.

Giả Long Thiên Châu bật cười, thấp giọng rầm rì: "Hóa ra người Hán ở Trung Nguyên không phải ai cũng thận trọng bảo thủ nhỉ."

***

Kinh Châu là nơi rất nhiều phiên tộc chung sống, trên đồng cỏ, có mấy con ngựa hoang đang uống nước bên hồ Trân Châu, đằng kia kia chính là địa điểm tổ chức lễ đua ngựa, không khí vô cùng ồn ào và vui vẻ.

Xa xa thấy Đậu cô nương cưỡi trên lưng tuấn mã phi như bay, trong ngực ôm con dê con vừa mới cướp được về tay, trên thân dê con vẫn còn treo quả cầu hoa, nó đã sớm bị dọa cho không dám nhúc nhích gì, phía sau còn có tầm mười con ngựa khác không ngừng đuổi theo, thậm chí còn đang nghĩ đến chuyện giành lấy con dê nhỏ trong lòng Đậu cô nương nữa.

Chu Tử Thư mặc lan sam khoác áo dài màu trắng đứng ở bên hồ, di chuyển tầm mắt nhìn về phía mặt hồ trong vắt, nhìn thoáng qua có thể thấy được mấy con cá lóc đang chơi đùa với mấy cây bèo nữa.

Lúc này sau lưng truyền tới tiếng vó ngựa, Chu Tử Thư cứ tưởng kia là hán tử đua ngựa nào đó chạy tới đây cho ngựa uống nước cho nên không để ý lắm, không ngờ bên hông căng chặt, trong nháy mắt bay lên trên không, trời đất quay cuồng một trận thế là bị bắt lên lưng ngựa, chạm vào giáp sắt lạnh lẽo thì khẽ giật mình, sau đó hít sâu một hơi rồi duỗi hai tay ra ôm eo kẻ xấu, thân mật vùi mặt vào.

Người đua ngựa bên kia phát hiện ra điều kì lạ, vội vàng giá ngựa đuổi theo, có lẽ mọi người đều cho rằng đường đua đã bị thay đổi nên mới muốn đuổi theo bọn họ, trong nháy mắt đã có mấy chục con ngựa nối đuôi theo sau, vó ngựa không dừng, bụi mù cuồn cuộn, thảm cỏ dưới trời xanh toàn là tiếng reo hò hoan hô vang lên chẳng ngớt.

Chu Tử Thư phất tay về phía sau, cô nương đuổi theo một quãng đường dài mệt mỏi hết sức chợt hiểu ra, hung hăng trừng mắt một cái rồi quay đầu khiến cho đám người sau lưng đồng thời than thở một tiếng dậy đất, nhưng lại không thể không đuổi theo.

Chu Tử Thư thấy vậy, đột nhiên hiểu ra mới bật cười thành tiếng, ôm siết lấy eo Cung Tuấn bảo hắn đi một chỗ, đào rượu Tần cất từ mùa xuân lên rồi mới quay trở lại thảo nguyên mênh mông bát ngát để chè chén say sưa.

Đến khi màn đêm buông xuống, hai người mới đi đến bên một bờ hồ xa ngút ngàn chẳng có bóng người, nằm trên thảm đá xanh bên cạnh hồ vừa uống rượu vừa ngắm sao bay đầy trời, gió đêm hè thảo nguyên thổi qua, tán gẫu một chút về trận chiến tiêu diệt Đại Hạ lần này.

"Không có gì đáng ngại, bên trong Đại Hạ giống như là hang côn trùng bị đục rỗng vậy, thiết kỵ tới nơi như vào chốn không người, thành trì ở ngoài cùng còn có ý chống cự, nhưng càng vào sâu càng chẳng ai chống nữa, thậm chí cỏ thành chủ động mở cổng nghênh đón Cấm quân, cúi đầu xưng thần. Không còn Tang Lương Ngọc, Đại Hạ giống như đứt mất cánh tay vậy, huống chi gần ba trăm ngàn binh mã đã chết hết một nửa ở Tây Bắc, dù Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn có chút tài, cũng có lòng anh dũng ngoan cố chống lại đến cùng nhưng sẽ đánh không lại Cấm quân Đại Cảnh, cũng không thể níu kéo được lòng dân, sụp đổ dễ như trở bàn tay vậy."

Không phải Đại Hạ không có người chính trực, cũng có kẻ kiên cường giữ thành chống lại Cấm quân Đại Cảnh hơn một tháng trời, Cung Tuấn nói chuyện còn tỏ ý kính nể, đương nhiên là những điểm quan trọng còn lại toàn là lấp ló khoe khoang ngầm muốn Chu Tử Thư khen ngợi hắn, nếu có chỗ nào bị lặp lại thì sẽ tỏ vẻ ghét bỏ hắn cho có lệ.

"Khi Đại Hạ đánh Linh Châu đúng thật là đã gặp khó khăn, suýt nữa là binh tướng đều tổn thất, trong quân Tây Bắc có người lấy cớ tịch thu lương thảo của Chiết gia quân, trong lúc Chiết gia quân tấn công Linh Châu thì ra lệnh nghiêm ngặt buộc họ phải ở yên chờ lệnh, rồi sau đó chuẩn bị tấn công. Nếu như đánh hạ Linh Châu rồi thì không sao, nhưng vẫn cứ là không đánh được, còn vì bị binh Hạ đập vỡ nguồn nước Hoàng Hà, nhấn chìm Cấm quân Tây Bắc, toàn quân suýt chút nữa là bị diệt."

Nhắc đến việc này, Cung Tuấn làm vẻ mặt giống như cười mà lại không phải cười, nếu như nhìn kĩ thì chỉ thấy toàn là sát ý lạnh băng.

"Linh Châu phạm phải sai lầm coi như xong, sau đó còn ta vào đánh hạ phủ Hưng Khánh, lúc đuổi giết kỵ binh nhẹ Mông Cổ, chúng mai phục ta ở nơi hiểm yếu, bị bắt tại trận còn dám nói láo rằng ông ta nghĩ nhầm thiết kỵ Đường Hà của ta là kỵ binh Mông Cổ... Tiểu lang cũng biết người này là ai chứ?"

"Trịnh Nguyên Linh?"

"Ừ." Cung Tuấn trở mình, vùi mặt vào trong cổ Chu Tử Thư, một chân cong lên, tay trái choàng qua vai y rồi nói: "Có đôi khi ta không tài nào giải thích được vì sao có nhiều người nhìn chằm chằm vào cái ghế kia đến vậy, dù là Trịnh Nguyên Linh, lão Lục hay cả nhà Trịnh quốc công đều đã cống hiến hết thời gian tốt đẹp nhất của cuộc đời ở biên cương, đúng là bọn họ có chút lòng dạ riêng, thế nhưng lòng trung thành bảo hộ núi sông, che chở cho dân chúng không phải là giả. Thực ra lão Lục lúc là thiếu tướng quân quân Ký Châu rất có khí phách, túc trí đa mưu, cũng là kẻ được người người ca tụng, thủ đoạn sạch sẽ, không thể so với thanh liêm nhân từ nhưng rất ngay thẳng, nhưng đã vào quan trường rồi, về lại triều đình, theo đuổi cái ghế kia, biến thành người giống với Thái tử, trở nên ngu dốt, cố chấp, ích kỷ, làm sao có thể lãng phí mạng sống của tướng sĩ chỉ vì tham lam chút công lao này kia chứ!"

"Làm quan ngàn dặm chỉ vì tiền tài, làm người muôn đời thì cầu quyền thế, từ xưa đến nay đều như vậy." Chu Tử Thư an ủi Cung Tuấn.

Cung Tuấn đột nhiên bật cười, "Ta cũng không có tư cách nói đến người khác." "Vì sao?"

"Trước đây ta cũng từng đuổi theo cái ghế đó, có lẽ là từ nhỏ ta đã biết rõ bệ hạ đối xử với ta khác, rất dễ đoán ra tâm tư của ông ấy, mặc dù bị ném đến phủ Tĩnh vương, ta vẫn tin rằng bệ hạ chỉ đang thử thách ta mà thôi, ông ấy muốn ta trở thành hùng ưng lang vương chứ không phải là một quân vương độc đoán mềm yếu, ta đã từng giận ông ấy, lòng tin cũng thay đổi. Ta đến Ký Châu, lăn lộn ở Tây Bắc, đã từng trải qua nhiều lần sống chết khó khăn, tự mưu tính con đường trở thành Thái tử, lấy lòng những người đa mưu túc trí, điều chỉnh lại thiết kỵ Đường Hà, đào tạo võ tướng thuộc về ta, sắp xếp quân cờ ở khắp nơi... Em có biết ta đã từng ra sức mời Trần Sư Đạo không?"

Chu Tử Thư ngạc nhiên: "Ta không biết chuyện này."

"Nếu như không phải đã nhìn ra dã tâm của ta, thì ngày trước làm sao ông cụ có thể một lòng tin tưởng em gả cho ta là để trở thành mưu sĩ giúp ta làm việc cho vua, che đậy tai mắt người khác?"

"Hóa ra là thế?"

"Dã tâm trở thành Thái tử tan nát khi bị cổ độc tra tấn, rồi bị nghiền nát hoàn toàn khi bệ hạ quay lưng lựa chọn lão Lục, bỏ mặc ta bị cổ độc hành hạ ngày qua ngày nên càng trở nên gắt gỏng hơn, tiếng xấu vang xa... Lần em đến nhặt xác, đám người kia là do hậu cung xếp vào, lúc đưa bọn họ vào cũng chính là lúc cổ độc bạo phát, ta không thể khống chế được, lời đàm tiếu nói ta tàn bạo, chơi đùa người khác đến chết trên giường bị truyền đi, còn bệ hạ chỉ... thờ ơ."

Chu Tử Thư ôm chặt lấy Cung Tuấn, mặc dù đã biết cảnh ngộ của hắn, nhưng nghe hắn tự nói ra thì trong lòng vẫn đau xót không thôi.

"Lúc ta gặp chàng, chàng rất dịu dàng, trong lòng ra chàng chính là người vô cùng tốt."

Y nói ấn tượng của mình về Cung Tuấn.

"Chàng biết khi chàng xuất hiện trước mặt ta, bảo ta đi gióng trống khua chiên cáo trạng cứu thầy, trong lòng ta đã nghĩ gì không?"

"Nghĩ gì?"

"Ta nghĩ, người đã khiến cho ta phải sợ hãi suốt hai năm trời, chính là người duy nhất mở cho ta một con đường phía trước, cùng là người dọn sạch đường lui phía sau trong suốt mười chín năm cuộc đời của ta, từ nay về sau, hắn nhất định sẽ tách biệt hoàn toàn với vạn người trong thiên hạ."

Chu Tử Thư quen lủi thủi một mình, tuy có Tú ma ma và Ngụy bá quan tâm, che chở y, nhưng phần lớn thời gian y đều phải tự mình lo liệu trước sau, dù có phải đối mặt với sóng to gió lớn gì cũng đều đứng chắn phía trước như một thói quen, không ai mở đường cho y, càng không ai có thể kéo y lại khi thuyền y bị lật, vì vậy nên Chu Tử Thư mới quen với việc chú ý cẩn thận với mọi thứ.

Khi cứu Trần Sư Đạo, trong lòng y đã tồn tại suy nghĩ muốn chết, vậy mà Cung Tuấn lại ngang nhiên xuất hiện ngay lúc ấy.

Cung Tuấn cười mấy tiếng, bỗng dưng níu lấy Chu Tử Thư lật khỏi thảm đá nhảy xuống hồ, một đám bọt nước tung lên kêu rào rào, Chu Tử Thư không phản ứng kịp nên uống phải một ngụm nước rồi nhanh chóng bị Cung Tuấn chặn miệng, lấy rong rêu dưới thân làm giường, cá con to cỡ bàn tay bừng tỉnh, kéo bầy kéo đàn lủi đi mất.

Hồ nước trong vắt đến nỗi y có thể nhìn thấy ánh sao trời chiếu xuống lấp lánh, thậm chí lúc này đây y còn có thể cảm nhận được nhiệt độ của Cung Tuấn khi hắn dán sát vào người mình, đó chính là sự nóng nảy mà nước hồ lạnh buốt không thể thấm ướt, là toan tính điên cuồng tràn trề hưng phấn không thể dập tắt mà Cung Tuấn ngày đêm gấp gáp trở về sau khi giành thắng lợi trên chiến trường, tiêu diệt Đại Hạ, gây dựng sự nghiệp to lớn đến cả Thánh tổ cũng chẳng thể làm được.

Dường như mới vừa rồi dịu dàng tâm sự, để lộ vẻ đa sầu đa cảm chẳng qua là vì sợ tiểu lang quân sợ hãi mà thôi, hắn đã cố hết sự giảm nhiệt độ rồi, chỉ tiếc là chẳng có hiệu quả mấy.

Nước lại vang lên rào rào, Chu Tử Thư đạp nước ngoi lên, được Cung Tuấn ôm tựa vào mép hồ, trâm ngọc đã bị rút ra, mái tóc ướt sũng tản ra rũ xuống, chóp mũi chạm nhau vừa nóng vừa ướt, nụ hôn nhỏ vụn rơi xuống không ngừng, nhanh chóng từ nhẹ nhàng hóa thành gió lớn mưa rào.

Dưới màn trời này, trên thảo nguyên, cạnh hồ nước, hai người trút hết tinh lực tràn trề tới mức gần như chẳng còn gì, ôm ấp lấy sự mỏi mệt sau khi thỏa mãn, lấy trời làm màn lấy đất làm chiếu ngủ đến tận lúc mặt trời mọc mới cưỡi ngựa trở về, nhìn ra xa thấy được tro tàn của lửa trại đêm qua, Cung Tuấn không đi sang đó mà ôm Chu Tử Thư quay đầu ngựa về phủ.

***

Đại Hạ bị diệt, Cấm quân Tây Bắc thắng lợi về triều chính là sự nghiệp to lớn nhất từ xưa đến nay giữ cho Đại Cảnh trăm năm thịnh thế, Nguyên Thú đế rất vui, đại xá thiên hạ, lệnh cho ba tỉnh sáu bộ chuẩn bị cho tốt danh mục quà tặng, bắt tay vào sắp xếp chuyện này đến chuyện khác với ý đồ nhận lại Cung Tuấn, lòng dạ gấp gáp muốn lập trữ rõ mồn một.

Trong điện Văn Đức, chỉ có Nguyên Thú đế đang ngồi phía trên, đại thái giám và một người đàn ông trung niên đang quỳ rạp dưới đất, hình như lão vừa báo cáo công tác xong, đang đợi phân công.

Một lúc lâu sau, Nguyên Thú đế mới nói: "Nhân dịp đại hỉ, trẫm chuẩn bị đến ngoại ô phía nam tế trời sau Trung thu này." Buông tấu chương xuống, ông nhìn về phía đầu người ở dưới, "Ngươi có hiểu ý của trẫm không?"

Người phía dưới đảo mắt mấy vòng, nghĩ một chút liền hiểu được, thoáng chốc kinh hồn bạt vía, vì sự quả quyết của Nguyên Thú đế mà không nói nên lời, có điều trên mặt vẫn cung kính lễ độ: "Thần tuân chỉ!"

Sự chú ý của Nguyên Thú đế lại quay về trên tấu chương, hời hợt đáp: "Về đi, đừng để người khác nhìn thấy."

Ông lệnh cho đại thái giám đi tiễn một đoạn, dẫn người đến một con đường ít ai qua lại.

Hai người này một trước một sau đi trên cung đạo, hai bên là tường thành màu đỏ, khi đi qua một cung điện mọc đầy cỏ dại, mưu sĩ đi phía sau mới nhét túi tiền vào trong tay đại thái giám, hỏi một câu "Tâm trạng của bệ hạ thế nào".

Đại thái giám nhìn trái nhìn phải, nghĩ tới sức nặng của túi tiền, tốt bụng nói: "Ông còn không nhìn ra được à? Tất nhiên là rất vui rồi. Thịnh thế này coi như là được mở ra trong tay bệ hạ, người nên ngã cũng đã ngã, đồ muốn có cũng đã có, hài lòng như ý, ý trời tương trợ, tất nhiên vẫn muốn mọi chuyện được suôn sẻ, phải vô cùng hoàn mỹ mới được." Lão giảm âm thanh xuống khuyên nhủ, "Ông ấy à, bây giờ đã gánh vác trách nhiệm trên vai thì chớ có quay đầu lại. Trong thời điểm quan trọng này, phàm có ai muốn làm bệ hạ phật lòng thì không chỉ phải nghĩ đến đầu của mình, mà còn phải nhớ tới gia đình họ hàng nữa."

"!" Mưu sĩ run rẩy, nhớ tới mấy chữ "gánh vác trách nhiệm", không khỏi cười khổ: "Ta tạ lời hay của công công."

Đại thái giám vẫy vẫy tay: "Tiễn ông đến đây thôi, đi cẩn thận một chút, đừng để cho ai trông thấy."

Mưu sĩ nói lời cảm ơn rồi đi ngay, đại thái giám đứng đó một lát rồi cũng đi.

Cung điện tan hoang vô cùng yên tĩnh, bỗng nhiên có tiếng lá khô bị đạp nát vang lên, có người bước ra từ phía sau bức tường phủ đầy dây thường xuân, sắc mặt tái nhợt, ánh mắt u ám như nước, ấy vậy mà lại là Ngũ hoàng tử ít xuất hiện đi chẳng còn nghe thấy tên tuổi kể từ khi Đông cung chết.

***

Phủ Tấn vương.

Phụ tá khuyên nhủ: "Bàn về văn trị võ công, tất cả mọi thứ Lâm An quận vương đều hơn vương gia một bậc, bệ hạ vốn luôn thiên vị hắn. Còn có Thái Trọng Thăng về báo cáo công tác rồi vô cớ bị giáng chức đến một nơi hoang dã như Nam Man, Trịnh nhị gia cũng không truyền tin về đã nhiều ngày liên tục rồi, thậm chí chẳng hiểu sao binh quyền của nhánh Hoàn Khánh lại bị chuyển giao cho phó tướng, hơn nữa bệ hạ hành động liên tiếp, tình thế cấp bách, nếu để cho Cung Tuấn về kinh an toàn, e là vị trí Thái tử sẽ rơi lên đầu hắn, đến lúc đó ngài và phủ Trịnh quốc công có muốn cố gắng cũng chẳng còn cơ hội!"

Lục hoàng tử ngày xưa giờ đã trở thành Tấn vương: "Theo tiên sinh, ta nên làm thế nào?"

Phụ tá: "Việc này là việc trọng đại, chắc chắn bệ hạ sẽ đi ngoại ô phía nam để tế trời, Thái hậu cũng đi theo, trong cung không có người, Cấm quân phòng thủ yếu kém, đó chính là cơ hội tốt nhất để đoạt quyền."

Tấn vương yên lặng nhìn phụ tá, nhìn đến mức người nọ cảm thấy sợ hãi, lúc này mới dời tầm mắt đi, cau mày nói: "Mấy năm nay ta bước đi khó khăn, đảng văn thần không phát triển nổi, đảng võ quan cũng bị gọt dũa đi nhiều, lấy binh quyền ở đâu ra để mà đoạt vị?"

Phụ tá: "Dù gì Trịnh Sở Chi cũng đang nhậm chức Đô úy doanh Long Hổ, có thể phối hợp chặt chẽ với quân cờ ta xếp vào Cấm quân trong cung, chỉ cần lấy được ngọc tỉ và dây đeo triện, chống chọi đại thần văn võ trước rồi ép bệ hạ thoái vị."

Quân doanh đóng quân trong phủ kinh đô gọi chung là doanh Long Hổ, cũng là một nhánh trong tám trăm ngàn Cấm quân.

Tấn vương: "Tiên sinh thật sự muốn ta mưu phản ép vua thoái vị sao? Nếu như cũng thất bại giống như Đông cung lúc trước, kết cục của ta và ông đều sẽ là đầu rơi xuống đất!"

Lúc này phụ tá quỳ xuống đất, dùng giọng đanh thép đáp lại: "Thuộc hạ nguyện đầu rơi máu chảy vì vương gia, đến chết mới thôi!"

Tấn vương dán chặt ánh mắt theo dõi ông ta, một lúc lâu sau mới vỗ lên tay ghế cười to: "Hay! Hay! Tiên sinh là phụ tá đắc lực của cô, là Chư Cát tể tướng của cô!" Sau đó hắn thở dài như thể đang nhớ về trước kia: "Tiên sinh đến bên cạnh cô từ năm nào ấy nhỉ?"

"Năm Nguyên Thú thứ mười tám, lúc vương gia tòng quân, trên đường cứu được thuộc hạ bị bỏ tù oan, giúp người nhà của thuộc hạ sử lại án oan, thề làm ngựa chó dốc sức suốt quãng đời còn lại vì điện hạ."

"Năm Nguyên Thú thứ mười tám... Cũng đã tám năm rồi." Tấn vương như có điều suy nghĩ: "Nếu như nghiệp lớn thành công, cô nhất định phụng tiên sinh làm Tam công."

"Thuộc hạ đi theo điện hạ chỉ vì báo ân, nguyện vì điện hạ đạt thành nghiệp lớn, không vì tiếng tăm của bản thân!"

Tấn vương nở nụ cười, tự tay nâng phụ tá dậy, tha thiết an ủi giống như thường ngày, nhỏ nhẹ thương lượng chuyện lớn, chờ cân nhắc xong xuôi mới đưa người đi, nụ cười trên mặt lập tức biến mất, thay vào đó là đau thương, trong mắt dần dần ngập tràn nặng nề xót xa.

"Cha mẹ thương con, tất vì con mà lo toan chu toàn." Tấn vương mấp máy môi nói, "Cô luôn tin rằng lúc trước phụ hoàng hao tâm tốn sức sắp xếp tiên sinh đến bên cạnh là bởi vì muốn nâng đỡ cô, thật sự ký thác kỳ vọng vào cô, rõ ràng đó chính là tình thương của cha. Nhưng hôm nay lại tốn công tốn sức khiến ta rơi vào vùng đất chết, rõ ràng là hy vọng cô đi tìm chết, đó vẫn là tình thương của cha... Nhưng lại không phải dành cho ta."

Sau lưng hắn có một người khác xuất hiện, đó là Ngũ hoàng tử mặt không cảm xúc.

Lão Lục còn được Nguyên Thú đế yêu thương cất nhắc, đến cả Đông cung cũng đã từng có lúc được ông gửi gắm hy vọng, còn gã thì sao? Bị biến thành một quân cờ mặc người sử dụng, dường như đến cả tư cách cũng không đủ.

Thái tử, lão Lục còn có tư cách để đau khổ, hắn thì chẳng có thứ gì.

==

Min: Cuối cùng anh zai họ Thôi cũng lấy được dợ rồi quí dị ơi vỗ tay 🎉🎉 =))))))) từ rày tới mốt là hết phải bực bội ba cái chuyện tình yêu tình báo con chim cúc cu của ông chủ nữa nha anh 🤣

Chương 106

Giành được đại thắng, khải hoàn hồi triều, hành trình đã định không thể thay đổi.

Bởi vì công việc đã gần như hoàn thành xong hết, Cung Tuấn bèn dắt theo Chu Tử Thư tách khỏi đội ngũ, chuẩn bị đi du sơn ngoạn thủy rồi mới về kinh đô.

Tuyến đường đi khác nhau, dường như là vòng hết một vòng Tây Bắc, đến đường nùi Kỳ Liên ngắm thảo nguyên, canh giữa hẻm núi ba ngày ba đêm chờ cảnh hàng ngàn con ngựa lao nhanh qua, xem người chăn ngựa bản địa thuần phục mã vương suốt hơn một tháng trời.

Cung Tuấn còn nói cho Chu Tử Thư biết, con ngựa đen xinh đẹp đó chính là vua của bầy ngựa hoang, lúc trước hắn phải trở thành người hoang dã suốt hai tháng trên thảo nguyên rộng lớn này mới hàng phục được nó.

Dọc theo đồng cỏ bao la, theo đàn trâu, bầy dê đi về phía trước chẳng có đích đến, lần này là băng qua Lan Châu, vượt đồng cỏ, qua hẻm núi, đến biển xanh, ngắm nhìn sóng Hoàng Hà cuộn lên rồi vỗ xuống hệt như một con rồng lớn, tiếng vang như sấm, trong lòng Chu Tử Thư vô cùng hăng hái, cảm nhận được cảnh tượng con người nhỏ bé như hạt cát trước trời đất cao rộng trong thơ cổ.

Hai người còn đi đến cửa ải hiểm yếu nhất thiên hạ là Gia Dự Quan*, nơi này xưa nay vốn là vùng đất bị nhà binh tranh giành, tất nhiên cũng được binh mã phòng thủ nghiêm ngặt, chỉ tiếc có cửa không có thành, bởi vì bấy giờ còn chưa xây dựng thành trì, cho nên thời điểm này các quan ải để giao thiệp với sứ giả Tây Vực chính là Ngọc Môn Quan**, nhân viên rất ít qua lại ở khu vực Gia Dự Quan, không to lớn sầm uất như đời sau.

(*) Gia Dự Quan là điểm cuối đoạn phía tây Trường Thành.

(**) Ngọc Môn quan hay đèo Ngọc Môn là tên của một con đèo nằm ở phía tây Đôn Hoàng, thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. Trong thời cổ đại, đây là nơi con đường tơ lụa đi qua và là một trong những con đường quan trọng kết nối khu vực Trung Á với Trung Quốc, trước đây được gọi là Tây Vực.

Nhưng ngắm nhìn ra phía xa từ trên cao, đằng tây chính là đại ngàn hoang vu, núi non hùng vĩ, được trông thấy cảnh tượng mặt trời lặn hoặc lấp ló xuất hiện từ cuối trời mênh mông âu cũng là một may mắn khó có được trong đời người.

Khi đó, Chu Tử Thư đã ngồi ngắm mặt trời mọc giữa dãy núi từ sớm, phấn khích đến nỗi bộc phát hứng thú làm thơ, tuy rất thẳng thắn bộc lộ cảm xúc trong lòng nhưng tài văn chương lại không được như ý, dù vậy y vẫn không nản lòng, vẫn viết câu thơ ra để chuẩn bị xuất bản tập thơ trong tương lai.

Cung Tuấn gối hai tay sau ót, nằm ở bên cạnh liếc nhìn y.

Với trình độ đó, dù có mang danh quan thanh thiên phụ mẫu đi nữa thì cũng chẳng có nhà in nào muốn nhận hết.

Cũng may từ trước đến giờ Chu Tử Thư hiểu rất rõ bản thân mình, y chỉ có ý định sưu tầm mấy bài thơ sau đó đóng lại thành cuốn, ngày sau ôm theo vào quan tài chôn cùng mình thôi là được rồi.

Cảm hứng được thúc đẩy trước khung cảnh mặt trời mọc trên lưng núi hùng tráng, Chu Tử Thư quyết định sẽ phi ngựa băng qua vùng đất hoang phương Bắc, đuổi theo ánh chiều tà.

Cung Tuấn ôm cánh tay, không có ý kiến gì với lời đề nghị này, dù sao thì đuổi theo hoàng hôn cũng rất thú vị, hắn không thể không thử trải nghiệm.

Hai người ăn nhịp với nhau, cùng chén cạn một bầu rượu rồi một trước một sau cưỡi ngựa ra khỏi Gia Dự Quan, truy đuổi ánh mặt trời trên hoang mạc rộng lớn đến tận khi ông trăng bò lên đỉnh núi mới bắt đầu chạy về.

Có lẽ núi sông kỳ vĩ quả thực có thể chữa lành lòng người, những nơi đi qua cũng là nơi bá tánh an cư lạc nghiệp, biên cương triều đại này đã ổn định, mở cửa với nước ngoài, buôn bán phát đạt và rất nhiều nhân tố khác nữa khiến cho đất nước phát triển mạnh mẽ, thậm chí có xu hướng vượt hẳn sự hưng thịnh của các triều đại trước, Chu Tử Thư cũng càng thông suốt và thoải mái hơn, không còn canh cánh trong lòng vì quan trường đấu đá, cũng chẳng còn khúc mắc gì với thời đại mù mịt lạc hậu không được chiếu sáng này nữa, dần dần mở lòng hoàn toàn.

Hành trình phong phú này kéo dài hơn một tháng, lúc trở về phủ Kinh Đô đã là sau Trung thu, tất nhiên phải khao thưởng ba quân, mà Nguyên Thú đế cũng lười truy cứu hai người vì không về trình diện, bắt đầu chuẩn bị đi Tây Giao tế trời.

Tế trời là đại sự, cách ba năm tổ chức một lần, năm nay là phá lệ.

Nghi thức xe ngựa trang nghiêm, trình tự được thực hiện rất cẩn thận, cùng lúc đó Cấm quân hoàng gia cũng bị điều động đến hơn phân nửa để bảo hộ.

Bá quan văn võ vốn cũng nên cùng đến tham gia lễ tế, nhưng vì là phá lệ cho nên chỉ đưa vài đại thần thân cận đi theo.

Song trước ngày thân tự, Nguyên Thú đế phải vào Thái miếu ở để tắm gội và giữ giới ba ngày.

***

Trước lúc giữ giới, Cung Tuấn và Chu Tử Thư về kinh.

Vừa bước vào phủ quận vương, hai người đã bị gọi vào cung ăn một bữa cơm nhà với Nguyên Thú đế và Thái hậu.

Trong yến tiệc còn có một vài phi tử có phẩm cấp cùng với mấy vị Ngũ, Lục, Thất, Cửu hoàng tử và hai công chúa.

Nói thật, tiệc gia đình này khiến cho Chu Tử Thư hối hận vì không kiếm cớ từ chối sớm hơn một chút.

Cung Tuấn nhìn ra suy nghĩ trong lòng y, len lén kề tai nói nhỏ: "Vợ chồng một thể, có họa cùng chịu."

Mặt Chu Tử Thư không đổi sắc, hơi phiền muộn: "Chàng nói xem, không danh không phận, gọi chàng đến tham gia bữa tiệc này là có ý gì?"

Cung Tuấn: "Đại Hạ bị diệt, các cao thủ đều về triều, ông ngoại không có lý do gì để từ chối, bị động đưa "con gái" vào, ta đoán lễ tế trời này chính là lúc để ta nhận tổ quy tông."

Chu Tử Thư cúi đầu vuốt tay áo: "Mấy người em trai của chàng không có ý kiến gì sao?"

Cung Tuấn: "Trịnh Nguyên Linh bị giam vào Đại Lý Tự, trước mắt vẫn chưa có tin sẽ xử lí như thế nào, phủ Trịnh quốc công, Quý phi và lão Lục sẽ không có động tĩnh gì."

Chu Tử Thư: "Bình lặng mới là dấu hiệu của con sóng lớn... Sự việc của Đông cung sẽ không tái diễn chứ?"

Giương mắt nhìn quanh điện, Nguyên Thú đế và Thái hậu ở giữa đang nói đùa với nhau, có phải là thật sự lơ là hay không thì cần phải bàn lại, mấy vị phi tử có gia thế không hiển hách lắm thì khá là yên tĩnh, hai vị công chúa một lớn một nhỏ, người lớn hơn mười lăm tuổi, phát hiện Chu Tử Thư bèn nhìn y bằng ánh mắt kiêu căng, vị nhỏ hơn chỉ vừa tròn chín tuổi, cô bé đang nhìn chằm chằm vào trái cây trên bàn, bởi vì có mẹ ngồi ở bên cạnh nên không dám lấy ăn.

Trịnh quý phi rũ mắt không nói gì, vẻ mặt lạnh nhạt, không thể nhìn ra cảm xúc. Ngũ hoàng tử thì chuyên tâm xem biểu diễn trong điện, dáng vẻ táo bạo, ngạo mạn cũng dần chẳng còn nữa kể từ sau khi Đông cung rớt đài, dường như gã không còn có hứng thú với cuộc tranh giành quyền lực nữa. Về phần Lục hoàng tử, hắn ta uống cạn mấy chung rượu liên tục, nhận ra ánh mắt của Chu Tử Thư bèn vội vàng ngẩng đầu, giơ chung rượu lên cao cụng một cái rồi uống cạn sạch, vẻ mặt tươi cười và ánh mắt đều mang lại cảm giác kì lạ không thể nói nên lời.

Bầu không khí này khiến cho người ta cảm thấy không được tự nhiên, cả người Chu Tử Thư không thoải mái chút nào.

Mấy năm nay Lục hoàng tử bị giam cầm ở Kinh Đô, Đông cung ngã ngựa, hắn ta trở thành mục tiêu công kích của mọi người trước khi bị bóc trần, vốn là lựa chọn đầu tiên cho vị trí Thái tử, nhưng rồi lại trở thành đối tượng bị nhắm vào, bị chất vấn vì Nguyên Thú đế dần thể hiện ý đồ của mình.

Quyền lực lấy được về tay từng bước bị giảm bớt, binh quyền cũng liên tục bị đoạt lại, người khác đã phục hồi tinh thần, e là Tấn vương bị bỏ rơi rồi.

Kể từ lúc đó, người nhảy xuống khỏi chiếc thuyền của Tấn vương ngày càng nhiều, đến cùng rải rác chẳng còn mấy người, mặc dù trong môn đảng có không ít võ tướng, nhưng xưa nay trị quốc vẫn cần phải có nhóm văn thần dẫn dầu.

Tấn vương nay ngoài mặt phong quang, bên trong đã là chiếc thuyền hỏng sớm muộn gì cũng chìm.

Thuyền hỏng còn có ba tấc đinh, tuy vậy cũng khó đảm bảo sẽ không bị ép trở thành Đông cung thứ hai.

Nhưng Nguyên Thú đế không hề phát giác ra hay sao?

Người khác phòng bị, mưu tinh ông ấy mà ông ấy hoàn toàn chẳng biết gì cả ư?

Chu Tử Thư nhìn sang, lúc này Trịnh quý phi đã nói câu gì đó chọc Thái hậu cười rất vui vẻ, bà ấy không ngừng khen ngợi Trịnh quý phi thông minh khiến cho người ta phải yêu thương, chủ động nhắc đến sự tận tâm tận lực của quý phi khi quản lý trung quỹ hậu cung, nói gần nói xa muốn đưa bà ta lên làm Hoàng hậu, Nguyên Thú đế lập tức đáp lại đôi ba câu chấp nhận.

Trịnh quý phi vô cùng thích thú nhưng kịp kiềm chế lại, bày ra thái độ khéo léo từ chối.

Nói thế nào ấy nhỉ?

Có cảm giác vò mẻ lại sứt, bởi vì trong lòng ai nấy cũng đều biết rõ đây chỉ là đối phó mà thôi.

Cung Tuấn nhéo tay Chu Tử Thư: "Sau khi kết thúc tiệc, em về phủ trước đi."

Chu Tử Thư quay đầu nhìn vào đôi mắt màu ngọc lưu ly của Cung Tuấn, một lúc sau mới gật đầu, không hỏi nguyên nhân.

Giữa chừng Nguyên Thú đế và Thái hậu đều hỏi Chu Tử Thư một chút chuyện nhà, tiệc gia đình tiến hành được một nửa thì Thái hậu rời đi, lúc đi còn gọi Chu Tử Thư đi theo cùng một đoạn.

Trên cung đạo yên tĩnh, Thái hậu có nhắc đến câu chuyện Mục Liên cứu mẹ trong Phật pháp: "Thanh Đề làm ác, sau khi chết phải chịu ngàn vạn khổ sở, dù vậy, Mục Liên vẫn sẵn lòng vì mẹ mình dưới địa ngục, gặp ác quỷ, cứu chúng sinh... Ấy chính là mẫu tử liền tâm, không cắt đứt được."

Chu Tử Thư im lặng, cho rằng Thái hậu đang biện hộ giúp Tạ thị.

"Cha mẹ thương con, không phải để đền đáp."

Cầm lấy tay Chu Tử Thư vỗ vỗ, Thái hậu híp mắt nhìn đường, từ sau biến cố Đông cung, bà bỗng nhiên già đi nhiều, tóc mai đã nhuốm bạc, nếp nhăn bò đầy mặt, cũng càng tin Phật hơn, có lẽ tâm tình trải qua biến lớn, ngày trước là hiền lành, đến nay càng là một người nhân từ từ trong ra ngoài.

"Mấy năm cuối cùng này ai gia cứ nghĩ, nếu như có thể dạy bảo Xương Bình cho thật tốt trước khi nó trở nên lệch lạc, thì có phải về sau sẽ không xảy ra biết bao nhiêu chuyện khiến cho người ta tiếc nuối hay không? Ai gia cũng không cần phải làm người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh, cũng sẽ không thấy hổ thẹn trong lòng."

Chu Tử Thư muốn nói lại thôi: "Thái hậu..."

Thái hậu đột nhiên siết chặt tay Chu Tử Thư, cắt ngang lời y nói, bà vẫn nhìn đường dù thật ra đã không nhìn thấy rõ nữa rồi, nhưng ở phía trước đã có thái giám cung nữ soi đường cho nên không sợ bị trượt chân.

"Tiên đế không phải là người cha tốt, ai gia cũng không phải là một người mẹ tốt."

Trực giác mách bảo Chu Tử Thư những gì tiếp theo không phải điều y có thể nghe, giương mắt nhìn lên thì thấy thái giám cung nữ đều mắt nhìn mũi mũi nhìn tim như người câm vậy.

Y mở miệng: "Thái hậu nói đùa rồi. Từ khi đăng cơ đến nay bệ hạ đều thức khuya dậy sớm, là người uy phong sáng suốt, trong triều chỉ dùng người tài, nghe lời can như nước chảy, ngoài triều cởi mở thương sự, bình định Tây Bắc, mở đất biên cương, lập công suốt đời... cũng là nhờ có tiên đế và thái hậu làm gương tốt, dày công tốn sức sinh ra minh quân, mới có được thái bình thịnh thế muôn nơi của ngày hôm nay."

Thái hậu để lộ nụ cười không nhìn ra cảm xúc, thấp giọng nói: "Chu khanh càng ngày càng khéo đưa đẩy, giống hệt như tam công cửu khanh trong triều vậy."

Chu Tử Thư: "Lời vi thần nói đều xuất phát từ đáy lòng."

"Con đó," Thái hậu thở dài: "Con không thích hoàng cung, Tử Uyên cũng không thích."

Chủ để xoay chuyện nhanh như chớp, Chu Tử Thư nheo mắt, cảm giác như lời kế tiếp mới là trọng điểm.

"Xương Bình ích kỷ, Hoàng đế tự cao, không một ai có thể hiểu được tính tình con trai con gái của ai gia hơn ai gia cả, khi làm hoàng hậu phải giữ tốt bổn phận của hoàng hậu, làm thái hậu thì phải giữ tốt bổn phận của thái hậu, vì vậy có rất nhiều chuyện biết rõ là không đúng nhưng ai gia không muốn, cũng không thể bước ra khỏi phạm vi đó để uốn nắn, cho nên mới gây ra biết bao nhiêu hậu quả xấu. Nhà họ Chu là một, ngươi là hai, tiên hoàng hậu và Đông cung cũng là một trong số đó... Những hậu quả xấu khiến cho từng người phải chịu ấy cứ lăn qua lộn lại trong lòng ta, đau đớn đến mức ta trằn trọc khó ngủ, trái tim nhức nhối không thôi. Mà bây giờ, Hoàng đế lại cố chấp khư khư với ý định đó, tiếp tục gây ra bất hòa giữa quân thần, cha con tương tàn lần nữa, nhưng lần này ai gia sẽ không thờ ơ ngồi nhìn đâu."

Chu Tử Thư bỗng nhiên dừng bước, nhìn về phía cửa lớn điện Từ Minh.

Thái hậu cũng dừng lại, rất lâu sau đó mới thở dài nặng nề: "Con là đứa trẻ ngoan, là đứa trẻ thông minh nhất mà ai gia từng gặp trên đời này, nếu như đứt gánh nơi thâm cung, thật sự rất đau lòng."

Nói xong, bà liền buông tay Chu Tử Thư ra rồi bước vào điện Từ Minh.

Trước khi đi còn để lại một câu: "Hoàng đế sẽ không dễ dàng chấp nhận để cho một người đàn ông trở thành Hoàng hậu của Đại Cảnh."

Chu Tử Thư đứng một mình dưới ánh trăng, một lát sau mới có thái giám đi ra đưa cho y một chiếc đèn.

Chu Tử Thư cầm đèn men theo ánh trăng sáng rời cung.

***

Tiệc nhà kết thúc, Nguyên Thú đế giữ Cung Tuấn ở lại, cung phi và các hoàng tử hiểu chuyện trong điện đều không hẹn mà cùng nhìn về phía Trịnh quý phi và Tấn vương, hai người đều im lặng cáo lui. Không nhìn ra được gì, bởi vì bọn họ rất bình tĩnh.

Về đến điện Văn Đức, Nguyên Thú đế mới nói: "Hai ngày nữa trẫm trai giới, chuẩn bị đi Tây Giao tế trời sẵn tiện lánh đời cho nhàn hạ, nửa tháng tới sẽ không về, nhưng trong triều thì không thể một ngày không có vua, con giám quốc đi."

Cung Tuấn: "Từ trước đến nay đều để Thái tử giám quốc, thần không danh không phận, không tài không đức, không đảm đương nổi việc quan trọng như giám quốc."

Nguyên Thú đế không vui: "Trẫm nói được thì con có thể làm."

Cung Tuấn: "Thần lĩnh mệnh."

Nguyên Thú đế: "Trẫm sai con làm chút chuyện, con đừng có kiếm cớ từ chối suốt ngày..." Giật mình một cái, ông đột nhiên xoay người, không giấu được ngạc nhiên: "Con đồng ý rồi sao?"

Cung Tuấn: "Người muốn đổi ý à, bây giờ vẫn kịp." Nguyên Thú đế thích lắm, làm sao mà đổi ý cho được?

Ông bước nhanh hai bước đến siết chặt lấy cánh tay Cung Tuấn vỗ vỗ hai cái: "Phải như vậy từ sớm rồi chứ! Chẳng lẽ trẫm hại con được sao? Tất cả đều là vì trẫm muốn tốt cho con thôi! Đồ tốt nhất đều nên thuộc về con, thiên hạ đều là của con, sớm muộn gì cũng có ngày con hiểu được lòng thành khẩn của trẫm thôi."

Cung Tuấn cười.

"Tạ bệ hạ ưu ái."

Nguyên Thú đế cảm thấy sung sướng vô cùng, ông biết rằng những gì Tử Uyên làm trước đây chỉ là để trút giận, trên đời này không có cha mẹ nào sai, huống chi ông làm tất cả mọi thứ đều là để trải đường cho Tử Uyên mà thôi, sống trên đời không ai có thể từ chối vị trí cửu ngũ chí tôn cà!

"Con yên tâm đi, trẫm nhất định sẽ cho con và mẹ con một danh phận xứng đáng!"

Từng nguyện vọng nay đã lần lượt được thực hiện, Nguyên Thú đế cảm thấy được an ủi phần nào, ông đã từng trơ mắt nhìn người phụ nữ mình yêu thương bị gả cho người em trai mà mình ghét cay ghét đắng, đã không có cách nào khiến cho đứa con trai ông yêu thương, vừa lòng nhất gọi ông là cha một cách danh chính ngôn thuận, mà còn phải nhìn con trai cực kì xuất sắc của mình và Tĩnh vương mà mình ghét nhất phụ từ tử hiếu, phải giao vị trí Thái tử lại cho con mà người phụ nữ ông không thích sinh ra, cho những hoàng tử chẳng có chỗ nào sánh bằng Tử Uyên!

Nhịn cơn tức lâu như vậy, bày ra một nước cờ thâm như vậy, nguyện vọng xưa nay đã thành, sao có thể không khuây khỏa cho được?

"Đã lâu rồi trẫm với con không soi đuốc uống rượu trò chuyện trong đêm, không biết tài chơi cờ của Tử Uyên có bị thụt lùi hay không đây?"

Cung Tuấn: "Thầy nghiêm dạy trò giỏi, tài chơi cờ của ta là do người dạy, nào dám thụt lùi?"

Nguyên Thú đế cười ha ha, thật sự lôi Cung Tuấn đi đánh cờ đến tận nửa đêm, giữa chừng có tra hỏi một vài chính sự trên triều, thấy hắn trả lời trôi chảy mới cảm thấy vừa lòng thỏa dạ, sau đó bóc trần một vài quan hệ nhỏ trên triều ra nói rõ.

Đặc biệt là có nhắc đến người nhà họ Chu.

"Chỉ một Chu Tử Thư thôi đã khiến bọn họ sụp đổ, lòng người không đủ, hùng tâm của Thừa Giới cũng chẳng còn như xưa nữa, mà thiếu mất ba phần khôn ngoan của tể tướng. Môn sinh của tể tướng rất đông, nếu như muốn trọng dụng những thanh niên tài tuấn này ngay thì khó tránh khỏi kết thành bè đảng. Nếu ngày nào đó con trở thành Thái tử thì tìm một lý do cách chức ông ấy đi."

Về việc xử lý thần tử đi cùng mình hơn hai mươi năm thế nào, Nguyên Thú đế không có ý định hạ thủ lưu tình.

Cung Tuấn không trả lời, đặt một quân cờ đen xuống chặn cờ trắng của Nguyên Thú đế lại làm cho ông phải thu hồi lực chú ý đã giảm sút, chăm chú nhìn vào bàn cờ, vậy nên cũng không phát hiện từ đầu đến cuối Cung Tuấn vẫn luôn kiềm chế giữ tỉnh táo, không hề có chút hứng thú nào.

***

Trước khi đi Tây Giao một ngày, Nguyên Thú đế đã ở lại cung của Trịnh quý phi.

Đến sáng sớm, Trịnh quý phi nhận lấy đũa ngà voi chia thức ăn cho Nguyên Thú đế, nghe ông nhắc đến hành trình đi Tây Giao, khi Nguyên Thú đế nói "Nàng cũng đi" thì tay run lên, đũa ngà voi rơi thảng xuống đất, câu nói này dọa bà ta sợ đến mức quỳ xuống ngay tức khắc.

"Bệ hạ thứ tội."

Trong điện là một khoảng lặng, thái giám cung nữ không dám thở mạnh, không ai hiểu được vì sao mấy ngày nay Trịnh quý phi lại có biểu hiện vội vàng như vậy, lần trước lúc chia thức ăn đã từng làm rơi vỡ bát, sau đó cầu xin tha, cũng đã từng nhõng nhẽo, sao bây giờ sợ tới nỗi lạnh run rồi?

"Đứng lên đi." Nguyên Thú đế đặt đũa xuống, chẳng còn muốn ăn uống gì nữa, "Nàng đi theo Thái hậu tụng kinh niệm Phật thôi là được rồi."

Trịnh quý phi gần như bò xuống đất, cố gắng kìm nén giọng nói run rẩy để mà cầu xin: "Bệ hạ, thần thiếp còn phải quản lý trung quỹ hậu cung... Chi bằng để cho các muội muội ở cung khác đi thay, Thục phi tin Phật nhiều năm rồi, có thể khiến cho Thái hậu cảm thấy thoải mái hơn... Bệ hạ, thần thiếp ngu muội, đến nơi cửa Phật chỉ thêm quấy nhiễu sự thanh tịnh của người khác thôi."

Nguyên Thú đế đứng dậy, mặc kệ Trịnh quý phi bước ra ngoài, "Nàng không muốn đi, vậy thì lệnh cho người khiêng nàng đi cũng được."

"Bệ hạ!"

Trịnh quý phi hô lên, nhưng Nguyên Thú đế cũng không quay đầu lại.

"Trông coi quý phi đi, sáng sớm mai mời nàng ta lên xe, Sau ngày hôm nay, không được tùy tiện ra vào Tây cung nữa."

Quý phi chỉ có thể ôm mặt khóc không thành tiếng, sau đó đau khổ bật cười, từng tiếng nấc nghẹn đều tràn ngập oán hận.

"Bệ hạ! Ta và Hoàng hậu cùng xuất giá một năm, gả vào Đông cung, ở bên người gần ba mươi năm, sinh con dưỡng cái cho người, chủ trì hậu cung, chẳng lẽ không thể tính là vợ người hay sao? Chẳng lẽ chút tình cảm cũng không có ư?"

Nguyên Thú đế bước thẳng ra khỏi cửa cung, lạnh lùng tuyệt tình: "Năm đó ai là người khiến Tĩnh vương phát hiện ra trẫm và Như nương đôi bên yêu nhau, ai là người giật dây để Tĩnh vương đến chỗ bệ hạ cầu hôn, ai là người tiết lộ quan hệ của trẫm và Như nương cho Hoàng hậu biết, ám chỉ cho Hoàng hậu nhiều lần, trẫm muốn nuôi dưỡng Tử Uyên thành Thái tử, ai lại là người giật dây cho nàng ta nhắm vào Tử Uyên ám hại nó?"

Bước đến cửa cung, Nguyên Thú đế phất tay áo nói: "Trông coi quý phi, đừng để nàng ta tự sát."

Trịnh quý phi suy sụp ngã xuống đất, thì thào tự nhủ: "Hóa ra người biết cả rồi."

Phủ Trịnh quốc công và phủ Thôi quốc công đều là công thần khai quốc, cũng đều là võ tướng, hai nhà ở gần bên nhau, đã từng là thế giao. Trịnh quý phi và Thôi Thanh Như là đôi bạn thân, một người sùng văn, một người thượng võ, nhưng cả hai đều một lòng yêu Nguyên Thú đế khi ấy vẫn còn là Thái tử.

Bà ta yêu Nguyên Thú đế, muốn trở thành Thái tử phi, cũng muốn trở thành Hoàng hậu!

Vì vậy bà ta mới nhờ vả anh cả của mình giật dây để Tĩnh vương cầu xin tiên đế ban hôn, chia rẽ bệ hạ và Thôi Thanh Như, được gả vào Đông cung như ý nguyện, dù chỉ là trắc phi nhưng Nguyên Thú đế lại sủng ái bà ta hơn, vừa lên ngôi đã phong bà ta làm quý phi, sau khi bà ta sinh được hai hoàng tử thì lập tức phong làm Hoàng quý phi.

Dù về sau tình cờ biết được tiên đế vốn định lập bà ta làm Thái tử phi, nhưng chỉ vì một câu "Nữ đức dung công của thế gia thanh quý phải làm gương cho phụ nhân" mà nuốt hết mọi tủi thân vào bụng, không nỡ oán hận nửa câu.

Bà ta cũng muốn cố gắng bao dung Cung Tuấn, nhưng kiểu cách bất công đến cùng cực của bệ hạ khiến cho bà ta nghĩ đến tiên đế lúc tuổi già.

Mấy năm đầu vì ghi hận tiên đế, bệ hạ vẫn còn kiềm chế được, càng về sau càng không muốn che giấu nữa, hai cha con thật sự giống nhau như đúc, sao bà ta có thể không kinh hãi cho được? Làm sao có thể không ra tay?

Cả thế nhân này đều biết Hoàng quý phi được thương yêu nhất lục cung, Cung Tuấn thân trúng cổ độc, bệ hạ lựa chọn tiểu Lục của bà ta, làm sao bà ta có thể tin được tất cả mọi thứ đều chỉ là diễn trò chứ không tồn tại chút tình cảm nào cơ chứ?

Nhưng mà hóa ra, mọi chuyện đúng thật đều là giả dối hết!

Trịnh quý phi vừa khóc vừa cười: "Công sức ta bỏ ra ba mươi năm nay tính là cái gì? Hai hoàng nhi của ta làm sai điều gì mà phải đi làm đá kê chân cho Thái tử kia?"

Hành trình Tây Giao cái gì? Tế trời cái gì? Đi theo Thái hậu tụng kinh niệm phật gì chứ!

Chẳng qua là muốn cầm chân người nhà họ Trịnh, chế trụ bà ta, ép tiểu Lục của bà ta không thể không mưu phản mà thôi!

Trịnh quý phi cười lạnh lùng, lau khô nước mắt, đứng dậy bình tĩnh nói: "Lui xuống hết đi. Bổn cung muốn nghỉ ngơi, không có việc gì thì đừng quấy rầy."

Thái giám mà Nguyên Thú đế để lại lập tức lĩnh mệnh, lệnh cho người dọn đồ ăn xuống, còn mình thì cung kính theo sát sau lưng.

Trịnh quý phi tiện tay cầm lấy bình hoa nện xuống đất, trừng mắt chất vấn: "Chẳng lẽ bổn cung tắm rửa thay đồ ngươi cũng phải theo cùng hay sao? Bổn cung là người mà một tên hoạn quan như ngươi có thể trông coi hay sao?"

Thái giám rất đúng mực: "Nương nương, bệ hạ dặn dò chúng nô tỳ phải chú ý đến sự an toàn của người, nô tài phụng mệnh làm việc, mong nương nương đừng làm khó."

Trịnh quý phi: "Hay cho cẩu nô tài. Ngươi cứ yên tâm đi, bổn cung chắc chắn sẽ sống lâu trăm tuổi, ngươi muốn theo thì cứ việc theo, theo đến cùng, xem xem bổn cung nở mày nở mặt thế nào, bảo dưỡng tuổi thọ thế nào!" Thái giám cúi đầu thấp hơn, không dám đáp lại.

Trịnh quý phi hừ lạnh một tiếng rồi đi vào phòng trong, giật dây để rèm ngọc phủ xuống, thái giám cung nữ không dám tiến thêm bước nào nhưng đều nhìn chăm chú phòng hờ bà ta có bất kì hành động tự sát nào.

Cũng may đến tận khi quý phi lên giường chìm vào giấc ngủ rồi cũng chẳng có động tĩnh gì, cứ thế im lặng mà ngủ, đám người trông coi mới có thể cảm thấy bớt phiền hà.

Nghĩ như vậy, nhóm thái giám cung nữ cũng dần lơ lờ, mãi đến bốn canh giờ sau mà quý phi vẫn không nhúc nhích gì mới nhận ra có gì không đúng, vội vàng vén rèm ngọc lên, nhìn thấy trên khóe môi quý phi đọng lại dòng máu đen mới lớn giọng hét lên: "Mau gọi thái y..."

***

Cung Phúc Ninh.

"Quý phi chết rồi sao?" Nguyên Thú đế giật lấy áo khoác khoác lên rồi vội vàng đi ra ngoài, "Đã xảy ra chuyện gì vậy?"

Thái giám kia đáp lại: "Thái y kiểm tra xong nói là... Là uống thuốc độc tự sát, lúc phát hiện thì đã tắt thở từ lâu rồi, không cứu được nữa."

Mặt Nguyên Thú đế tối sầm lại, ông đến tẩm cung của quý phi, tàn nhẫn đạp một cước lên ngực tên thái giám không làm tròn việc: "Chẳng phải bảo ngươi trông coi thật kỹ à, sao người được trông chết rồi!" Thái giám bị đá hộc máu, cuống cuồng dập đầu xin tha.

Cơn giận của Nguyên Thú đế chưa tan hết, trừng mắt nhìn cửa phòng trong thật lâu, cuối cùng cũng không bước vào mà xoay người rời đi: "Nhớ kỹ, quý phi không sao cả, sáng sớm mai cùng Thái hậu đi Tây Giao tế trời."

Thoáng chốc thái giám cung nữ đã quỳ đầy sau lưng, mà Nguyên Thú đế đi ra một khoảng xa rồi mới tàn nhẫn ra lệnh diệt khẩu.

***

Tây Giao tế trời, trong triều không vua, Cung Tuấn nhận quyền giám quốc.

Tin này vừa truyền ra, tất cả các quan lại đều xôn xao, mặc dù trong lòng biết rõ nhưng khi thời khắc đó đến vẫn hoảng sợ không thôi.

Trên triều đình không ai ngu ngốc đến nỗi đi khuyên nhủ Nguyên Thú đế, chứ đừng nhắc đến chuyện bí mật kia là thế nào.

***

Triều hội tan, các quan lại bước đi trên cung đạo, thỉnh thoảng quay đầu lại nhìn Tấn vương, không biết từ lúc nào đã đi cùng Ngũ hoàng tử, trái lại còn có hơi thân cận.

Mà Tấn vương cũng là người rất xuất sắc, đã từng là thiếu niên tướng quân chí khí ngút trời thần thái phấn chấn, về triều nhận vài việc hoàn thành rất hoàn hảo, chỉ tiếc không đánh lại được sự bất công của bệ hạ, càng tiếc hơn vì sinh ra không gặp thời, đã sinh ra hắn thì cần gì phải đẩy một Cung Tuấn tới nữa?

Cung Tuấn xuất sắc hơn cả hắn ta, lại có thể thuận theo tâm ý của bệ hạ, thời tới thì khống chế hoàng quyền ngồi lên đỉnh cao, cả triều văn võ làm sao có thể đối nghịch với Nguyên Thú đế được?

Mấy triều thần trước đây ủng hộ Tấn vương tìm được cơ hội đều chạy sạch, Thái Trọng Thăng ở Tây Bắc xa xôi không hiểu nhiều về triều đình nên vọng tưởng ôm công để trèo cao, cuối cùng vứt hết đường tương lai vào một ván cược thua.

Không chỉ có Thái Trọng Thăng, mà Trịnh Nguyên Linh chiến công hiển hách đến nay vẫn còn ở trong Đại Lý Tự, Tấn vương và phủ Trịnh quốc công có hợp lực cũng chẳng thể kéo người ra được.

Đã như vậy rồi, còn ai dám nhảy lên chiếc thuyền của Tấn vương nữa?

Sau đó bọn họ cảm thấy Ngũ hoàng tử vẫn chưa nắm rõ, đến nước này rồi mà vẫn còn đi gần Tấn vương như vậy.

Các quan lại lắc đầu, mỗi người nghĩ mỗi khác.

Vào lúc này, một tiểu hoàng môn xuất hiện ngăn hai người Ngũ hoàng tử và Tấn vương lại: "Lâm An quận vương mời hai vị điện hạ đến điện Thùy Củng một chuyến."

Ngũ hoàng tử: "Bảo bọn ta đến đó làm gì?"

Tiểu hoàng môn: "Quận vương chỉ lệnh cho nô tài mời hai vị điện hạ đến đó, không có dặn dò thêm gì khác."

Ngũ hoàng tử: "Vừa mới lấy được quyền giám quốc đã bắt đầu kiểu cách Hoàng đế rồi à." Tuy gã ít xuất hiện, nhưng tính tình thì vẫn cáu kỉnh như vậy: "Không có việc gì mà tỏ ra ân cần, không phải gian thì cũng là trộm."

Mặt Tấn vương vẫn vô cảm: "Chúng ta đâu có gì đáng để cho Cung Tuấn lấy lòng đâu chứ?"

Ngũ hoàng tử uất nghẹn: "Đệ coi dã tâm của hắn là cái gì?" Gã phất tay áo bất mãn nói: "Lúc trước hắn chỉ là một quận vương chẳng có thực quyền gì mà đã trừng mắt lạnh lùng với chúng ta rồi, bây giờ có quyền giám quốc, chẳng lẽ mắt mũi không hếch lên trời hay sao? Đệ muốn đi thì đi đi, ta không muốn bị khinh thường đâu." Tấn vương: "Đi thôi."

Ngũ hoàng tử còn tưởng rằng hắn sẽ báo không thèm đến coi con chó Cung Tuấn kia diễn trò đâu, nhưng vừa nhấc chân lên đã thấy Tấn vương đang bước về phía điện Thùy Củng rồi, vốn còn muốn cứng rắn không đi, nhưng nghĩ lại chẳng lẽ gã lại phải ôm hết hận thù lên người hay sao? Không nghĩ nổi nữa, gã vội vàng xám mặt chạy theo cùng.

***

Trong điện Thùy Củng.

Giao ngọc tỷ và thánh chỉ cho Cung Tuấn, đại thái giám luôn miệng chúc mừng: "Chúc mừng quận vương, chúc mừng quận vương rẽ mấy thấy mặt trời, khổ tận cam lai."

Cung Tuấn: "Đô tri, ta hỏi ông chuyện này, ông có thể nói thật với ta được không?"

"Xem ngài nói gì này? Điện hạ có việc gì cứ hỏi, lão nô biết nhất định sẽ nói!"

"Trịnh quý phi thế nào rồi?"

"Quý, quý phi nương nương..." Đại thái giám nghẹn lời, mặt lộ vẻ khó xử, chớp chớp mắt rồi nở nụ cười lúng túng: "Tất nhiên là đã hộ tống loan giá đi Tây Giao, ăn chay niệm phật với Thái hậu, cùng lão nhân gia cầu phúc cho bệ hạ, cho vạn dân rồi."

"Có phải vì thái độ của ta tốt quá cho nên ông mới cảm thấy ta dễ bị mắc lừa không?"

Đại thái giám không ngừng run rẩy, mặt buồn rười rượi đáp: "Lão nô đâu dám? Điện hạ đừng gây khó dễ cho lão nô nữa, chuyện này thật sự không thể nói đâu!"

Cung Tuấn bất ngờ hói: "Đêm qua bệ hạ xử tử một nhóm người trong cung của quý phi là để diệt khẩu à?"

"Phải, không phải!" Đại thái giám không dám ngẩng đầu nhìn Cung Tuấn, chỉ chột dạ trả lời: "Điện hạ à ngài đừng hỏi nữa, bệ hạ làm cái gì đũng là vì muốn tốt cho ngài cả thôi."

"Trịnh Nguyên Linh bị giam vào Đại Lý Tự, quý phi cũng không từng hỏi qua sao?"

"Cũng không phải không có..."

"Ông chỉ cần trả lời câu hỏi thôi, đúng hay sai, có hay không, đừng lảm nhảm dư thừa làm phiền lỗ tai bổn vương, bổn vương không ngại cắt lưỡi ông đâu."

"!" Đại thái giám sợ đến nỗi không nói nên lời, rồi sau đó vội vàng gật đầu: "Có, có hỏi."

"Quý phi có cầu xin tha không?"

"Có cầu."

"Sau khi xin tha có phải quý phi đã bị cấm túc một thời gian hay không? Lão Trịnh quốc công thắng trận về triều giao nộp binh quyền, cáo lão hồi hương nhưng bị từ chối, quý phi đã cầu xin bệ hạ ân chuẩn đúng chứ? Có phải quý phi cũng từng nhắc đến chuyện để Tấn vương rời kinh đi đến đất phong với Thái hậu hay không? Có đúng không?"

"Dạ dạ, đúng! Có từng nhắc tới!"

"Quý phi đã chết rồi sao?"

"Đúng vậy, mới chết ngày hôm qua..." Trong nháy mắt đại thái giám bị dọa sợ, vẻ mặt tràn đầy nỗi kinh hoàng trừng mắt nhìn Cung Tuấn và Tấn vương cùng với Ngũ hoàng tử chẳng biết đã đứng ở ngoài điện từ lúc nào, ông ta lắc đầu nguầy nguậy, tát mạnh vào miệng mình: "Coi cái miệng thối của lão nô nói bậy này! Không có chuyện đấy đâu, quý phi nương nương vẫn còn khỏe lắm, đang đi Tây Giao rồi, các vị điện hạ nhất định đừng tin lời lão nô nói, lão nô hồ đồ rồi nên mới nói nhảm vậy thôi."

Chẳng ai tin ông ta nói nhảm cả, Tấn vương hồn bay phách lạc, bỗng nhiên hai mắt đỏ bừng xông tới bóp cổ đại thái giám, giận dữ hỏi: "Mẫu phi của ta đang ở đâu? Nói!"

Đại thái giám bị ép không thở nổi, Ngũ hoàng tử muốn đẩy tay hắn ta ra cũng không được vì đánh không lại Tấn vương với sức mạnh tòng quân nhiều năm, chỉ đành phải quát lên: "Đệ bóp cổ ông ta chết rồi thì còn có thể hỏi được gì nữa hả!"

Tấn vương không nghe khuyên bảo như thể gặp quỷ, Cung Tuấn phải điểm hai lần vào huyệt tê trên cánh tay thì hắn ta mới chịu buông ra, lúc này đại thái giám vừa thoát hiểm đã sợ chết khiếp mà lủi ra sau lưng Cung Tuấn, vừa xua tay vừa ho khan.

"Khụ khụ... Không, lão nô thật sự không thể khụ... Không thể nói! Nói rồi, lão nô khó giữ được tính mạng, không thể giải thích với bệ hạ."

Tấn vương hung dữ như một con sói, nói: "Ông không nói, cô sẽ cho đầu ông rơi xuống đất ngay tức khắc!"

Đại thái giám giật mình, vội vàng cầu xin Cung Tuấn bảo vệ mình.

Nhưng Cung Tuấn chỉ rũ mắt khảy vòng phật: "Đó là mẹ ruột của nó, nếu ta bảo vệ ông, nói không chứng nó dám giết cả ta luôn đấy. Dù sao thì chuyện này cũng không thể giấu được, sớm muộn gì cũng sẽ bị phát hiện thôi, bệ hạ không có ở đây, ông nói thì có sao đâu?"

Đại thái giám suy sụp, biết rõ hôm nay không nói chắc chắn sẽ không bước qua được cánh cửa này, mà nếu ông nói, ngày sau cũng khó mà giải trình với bệ hạ.

Thà sống khổ còn hơn chết sướng, có thể gặp nạn trễ một khắc thì cứ cho trễ vậy.

"Ngày hôm qua quý phi đã uống thuốc độc tự vẫn... Không có liên quan gì đến bệ hạ cả! Bệ hạ còn cố tình dặn người trông coi quý phi cho thật kỹ ở bên ngoài, không để bà ấy tự sát, vốn là vẫn bình thường, cũng chẳng biết từ lúc nào đã nhân lúc người khác không cảnh giác mà uống thuốc độc, thật sự không có ai đoán trước được."

Tấn vương sợ hãi mà hồn vía lên mây, tàn nhẫn trừng mắt nhìn đại thái giám rồi nghiến răng nói: "Ông nói láo! Mẫu phi của ta coi thường những kẻ tự sát nhất, bởi vì bọn họ mềm yếu vô dụng, tuyệt đối không thể tự sát được! Có phải là... Có phải là Hoàng đế lệnh cho các người giết bà áy hay không?"

"Không phải không phải, Tấn vương điện hạ tỉnh táo một chút đi, tốt xấu gì nương nương cũng là quý phi một nước, là con gái nhà tướng, cũng là người đi cùng bệ hạ ba mươi năm trời, sinh con dưỡng cái vì ông ấy, đó không phải thứ tình cảm bình thường. Chỉ là khi biết được năm đó Tĩnh vương cầu hôn cô nương Thôi gia là do quý phi nhúng tay từ bên trong, bệ hạ cũng từng thật sự muốn lấy mạng bà ấy, là quý phi tự nghĩ quẩn trong lòng..."

Đại thái giám bịt miệng mình chặt kín, lại không nhịn được tát cho mình một cái thật mạnh nữa.

Hôm nay cứ nói sai mãi, đã có chuyện gì xảy ra vậy?

Cung Tuấn khẽ nâng mắt liếc qua.

Ngũ hoàng tử cũng quan sát sắc mặt của hắn ta, nhất thời cảm thấy sợ hãi không yên.

"Hôm qua bệ hạ đã nói gì?" Tấn vương siết chặt nắm đấm, có thể thấy trên người hắn nổi đầy gân xanh, tất nhiên là đã kìm nén tâm trạng đến mức tận cùng rồi: "Nói!"

Đại thái giám lắp bắp: "Bệ hạ lệnh cho, lệnh cho quý phi đi Tây Giao tế trời, quý phi không muốn đi, bệ hạ nói việc năm đó ra, có lẽ đã kích thích đến quý phi cho nên... Nhất thời nghĩ quẩn."

Tấn vương lảo đảo mấy bước rồi té ngã xuống đất, ôm đầu nức nở nghẹn ngào.

Người đàn ông cứng rắn như sắt, đao chém rìu đục cũng chưa từng rơi nước mắt, vậy mà bây giờ lại khóc như thể trời đã sập xuống, Ngũ hoàng tử thấy vậy mà trong lòng đau xót, không biết phải an ủi thế nào mới được, gã bèn hướng mắt về phía Cung Tuấn ra hiệu, ý hỏi hắn có thể đến khuyên đôi ba câu được không.

Cung Tuấn chỉ lạnh nhạt ghé mắt nhìn sang giống như đang nói 'Ngu ngốc', rồi xoay lưng lại, cuộn tay vào vờ như không thấy.

Ngũ hoàng tử thấy thế không khỏi trợn mắt, "Máu lạnh!"

Tấn vương lau mặt mình, đỏ mắt hỏi đại thái giám: "Mẫu phi của ta, di thể của bà ấy ở đâu?"

Đại thái giám cúi đầu: "Bệ hạ mang đi rồi."

"Ông ấy còn là con người sao!" Tấn vương đột ngột bùng phát, khuôn mặt dữ tợn, "Mẫu phi ta theo ông ấy từ khi gả vào Đông cung, cùng phủ Trịnh quốc công toàn tâm toàn ý phò tá ông ấy lên ngôi, sinh con dưỡng cái vì ông ấy, quản lý trung quỹ hậu cung vì ông ấy, tận tâm tận lực chưa từng có một câu oán giận, chỉ vì Thôi Thanh Như bị Tĩnh vương cướp đi, chỉ vì huynh..." Hắn căm phẫn chỉ vào Cung Tuấn, "Mà ông ấy có thể khiến cho mẫu phi của ta, và cả những đứa con của ông ấy như bọn ta trở thành quân cờ rồi thỏa sức lợi dụng hay sao?"

Cung Tuấn nghiêng mặt, thờ ơ nhìn Tấn vương nổi điên.

Hai tay Tấn vương run run, tâm trạng bị kích động đến mức một hồi lâu sau cũng không thể nói nên lời, "Vì sao? Trong mắt ông ấy, chỉ có huynh mới là con của ông ấy, vậy bọn ta là cái gì?" Hắn ta nâng ngón trỏ lên chỉ loạn vào không trung, "Huynh có biết ta trải qua bốn năm nay như thế nào hay không? Biết ta run sợ trong lòng đến nhường nào hay không? Ta sợ hãi nếu không cẩn thận phạm phải sai lầm thì sẽ giống như Thái tử vậy, bị ép đi đến đường cùng!"

"Huynh thì hay rồi, Cung Tuấn, huynh giỏi lắm, huynh rất may mắn, huynh có một người cha tốt trù tính tất cả mọi thứ vì huynh! Suốt bốn năm nay, cả triều văn võ này có ai mà không biết Thái tử hợp ý phụ hoàng là huynh? Huynh không ngồi trên vị trí Thái tử, nhưng vua dân từ trên xuống dưới có ai không xem huynh là Thái tử đâu? Ta," Tấn vương vỗ ngực nói, "Ta tính toán bao nhiêu năm? Thật ra từ đầu ta đã chẳng có hứng thú gì với cái ghế sau lưng kia rồi, là do phụ hoàng chọn trúng ta trước, là ông ấy đưa ta đi tòng quân, trải đường cho ta, dạy cho ta biết tâm thuật của thiên tử, cán cân trong quan trường, còn nói cả tình hình chung trong thiên hạ nữa, ông ấy cầm tay dạy ta, đích thân ông ấy cho dã tâm của ta ăn no, chính ông ấy nói cho ta biết ta mới là Thái tử mà ông ấy vừa ý!"

"Ông ấy cho ta tất cả mọi thứ, sau đó nói lấy lại là lấy lại, nói không cần là không cần, thậm chí ta chẳng phạm phải sai lầm lớn gì, đến cả đường lui ta cũng không có huynh có hiểu không? Bốn năm qua không phải là những gì ta muốn cho cái ghế này, là do phụ hoàng ép ta, ông ấy muốn ta trở thành hòn đá kê chân để cho huynh đường hoàng bước lên vị trí Thái tử! Ông ấy ép ta mưu phản bức vua thoái vị, ông ấy dùng ông ngoại, nhà cậu của ta và mẫu phi để ép ta tạo phản, ép ta bước vào đường chết..."

Hai tay Tấn vương đều chỉ vào Cung Tuấn, năm lần bảy lượt bước lui về phía sau, bi phẫn đến mức không thể kìm chế cảm xúc mà gào thét lên: "Ông ấy đã cắt bỏ sạch sẽ vây cánh của ta và phủ Trịnh quốc công rồi mà vẫn không chịu buông tha ta. Ta cũng là con trai của ông ấy, đã từng là Thái tử mà ông ấy vừa lòng, vì sao? Ta đã đình làm như ông ấy mong muốn rồi, ép vua thoái vị, giao quyền hành cho huynh, chỉ cần ông ấy buông tha cho ông ngoại, nhà cậu và mẫu phi của ta mà thôi, bọn họ hận huynh, làm những chuyện có lỗi với huynh cũng chỉ vì ta, vậy nên ta sẽ lấy mạng mình tạ tội... Nhưng vì sao ông ấy không chịu tha cho mẫu phi của ta chứ?"

Phẫn nộ xong, Tấn vương xông lên phía trước, tung ra từng cú đấm đá vào da thịt Cung Tuấn, chiêu nào cũng là chiêu chí mạng, trút hết mọi oán hận dày đặc của hắn ta.

Ngũ hoàng tử và đại thái giám vội vàng chạy vào một góc trốn đi, Cung Tuấn đón được đòn tấn công của Tấn vương, vẫy tay cho Cấm vệ quân lui xuống, đẩy nắm đấm đang vung tới ra, cũng không hề khách sáo chút nào mà đánh vào huyệt vị đau nhất trên cơ thể người.

Tấn vương trút bỏ nỗi phẫn nộ mất đi mẹ mình, tại sao Cung Tuấn không thể lấy lại công bằng cho mẹ của hắn chứ?

"Vì để cho ta không bị uy hiếp, vì không muốn để ta tự tìm đường chết, mẫu phi mới tự sát! Nhưng đến cả di thể của bà ấy mà Hoàng đế cũng không tha, rốt cuộc ông ấy có còn là con người hay không! Có phải là người hay không! Trừ Cung Tuấn huynh ra, ta, Thái tử, Tam ca Tứ ca Ngũ ca, tất cả bọn ta đều là kẻ thù của ông ấy hay sao?"

Đại thái giám hận không thể bịt kín tai mình lại, Ngũ hoàng tử thì xúc động gật đầu.

"Ông ấy đề phòng ta! Đề phòng phủ Trịnh quốc công! Ông ấy sợ ta trở thành Tĩnh vương thứ hai, vậy nên trước khi huynh kế vị phải diệt trừ ta và phủ quốc công tận gốc!"

"Vì cái gì? Huynh tốt hơn bọn ta chỗ nào?"

Cung Chiêu Vấn nổi điên lên, tấn công như thể không biết đau đớn, Cung Tuấn tay mắt nhanh lẹ nhấc chân lên đá về phía bụng hắn ta, mũi chân hắn hướng lên, nhắm thẳng vào vị trí cơ gây tê mà đạp, "cộp" một tiếng, đầu gối của Cung Chiêu Vấn nặng nề đập xuống đất, một chân còn lại cũng bị Cung Tuấn đá trúng, mãi lâu sau cũng không thể động đậy được.

Cung Tuấn gạt bỏ hai tay của hắn ta ra, thuận thế túm cổ hắn ta lại gần nói: "Kêu ca với ta cái gì? Nếu như oán hận nhiều như vậy, vì sao bốn năm nay đến một cái rắm cũng không dám thả ở chỗ bệ hạ đi? Chọn hồng mềm mà bóp, sao lại trách xuống đầu ta thế?"

Tay bóp cổ Cung Chiêu Vấn siết chặt lại, đôi mắt màu ngọc lưu ly của Cung Tuấn tỉnh táo lạnh lùng khiến cho người ta không chút nghi ngờ rằng hắn có thể sẽ thẳng tay bóp chết Cung Chiêu Vấn.

"Ta không ôn hòa như bệ hạ đâu!"

Cung Tuấn trúng cổ độc, ít xuất hiện đã nhiều năm, về sau có Chu Tử Thư bên người nên rất mềm mỏng dễ nói chuyện, suýt chút nữa người ta quên mất rằng hắn đã từng ngang ngược đến nỗi không ai dám chọc vào.

"Bây giờ ngươi đang cảm thấy uất ức à? Trước đây được chọn làm Thái tử, trong lòng hăm hở mừng thầm, không biết địa vị của ta trong suy nghĩ của bệ hạ, nhưng có lẽ ngươi biết Đông cung cũng là đá kê chân cho vị trí của ngươi ngày hôm nay, vậy sao ngươi lại không cảm thấy Đông cung đáng thương? Chẳng phải ngươi cũng yên tâm chuẩn bị giẫm vào Đông cung để bước lên hay sao! Hưởng thụ sự hy sinh của Tam ca ruột thịt để lấy được chỗ tốt chẳng phải rất thoải mái ư? Ở đây vờ vịt với ta cái rắm!"

Buông Cung Chiêu Vấn ra, Cung Tuấn đứng dậy đi quanh Cung Chiêu Vấn một vòng rồi đột nhiên tung chân đá vào ngực hắn ta một cước, giẫm lên vai hắn ta nhìn từ trên cao xuống nói: "Ngươi kêu oan cho mẹ mình, nhưng ít nhất ngươi cũng đường đường chính chính là hoàng tử hai mươi bốn năm! Mẫu phi của ngươi cũng được làm Hoàng quý phi cao cao tại thương suốt gần ba mươi năm! Mẹ của ta thì sao? Chôn xương cát vàng, bỏ mạng ở cái tuổi hào hoa phong nhã nhất, ta trở thành cái đinh trong mắt Tĩnh vương hơn hai mươi năm, hai mươi mấy năm trời không ngừng chịu đựng mọi kế hãm hại của mẫu phi ngươi và Hoàng hậu, tính như vậy thì ai mới là người thiếu nợ ai? Kẻ nào mới có tư cách uất ức hơn?"

Không chút lưu tình đá gãy xương bả vai của Cung Chiêu Vấn, Cung Tuấn vốn không quan tâm đến nỗi đau khổ của hắn ta, cũng chẳng thèm đế ý đến ánh mắt sợ hãi lúc nhìn hắn của Ngũ hoàng tử và đại thái giám.

Tính tình của hắn ngang ngược quái đản như thế đấy, không chọc đến thì chẳng có sao, chọc rồi thì đến thiên vương lão tử hắn cũng giết bằng sạch!

Cung Tuấn cũng chỉ để lộ một mặt mềm mại ấm áp của mình ở trước mặt Chu Tử Thư mà thôi, suốt ngày giả vờ từ bi lương thiện, nhưng hắn cũng đã từng đuổi theo đế vị, chuyện bẩn thỉu gì mà chưa từng dính tay?

"Sủa với ta cái rắm!"

Cung Tuấn nắm cổ áo Cung Chiêu Vấn lên, xách hắn đi về phía long ỷ trong điện Thùy Củng: "Lúc bệ hạ ở đây, sao ngươi không dám chất vấn đi? Có gan tìm chết mà không có gan hỏi à? Nếu như ngươi nói hết ra tất cả trước khi bệ hạ đi một ngày, nói không chừng mẫu phi của ngươi vẫn sẽ bình an vô sự đấy. Tự cho là bảo vệ người thân, thật ra là sợ hãi phải đối mặt với việc bệ hạ khinh thường bộ mặt thật của ngươi có đúng không? Nhu nhược."

Nhịp ngón tay lên tay vịn long ỷ, Cung Tuấn lạnh lùng nói: "Lúc bệ hạ chọn ngươi làm Thái tử, ta cũng đang bị cổ độc tra tấn mãnh liệt, không thuốc nào có thể cứu được. Ta của khi đó, chính là ngươi của hôm nay, vật đổi sao dời mà thôi."

Đồng tử Cung Chiêu Vấn tan rã, thoáng chốc sụp đổ, nỗi kích động trong người biến mất chẳng còn tăm hơi, chỉ để lại nỗi đau khổ và sa sút nặng nề.

Cung Tuấn xoay người lại, bỗng nhiên nói: "Ta không có hứng làm Hoàng đế." Cái gì?

Giống như sấm dậy đất bằng, Cung Chiêu Vấn và Ngũ hoàng tử cùng không nhịn được mà nhìn về phía hắn.

Cung Tuấn không kiên nhẫn nổi: "Nhưng ta không thích nhìn thấy các ngươi làm Hoàng đế, chẳng có kẻ nào thật sự xem việc của dân chúng và đại sự quốc gia là chuyện chính cả, suốt ngày dùng người bên cạnh mình làm con cờ đấu đá nhau không ngừng nghỉ. Nếu làm Hoàng đế thật, đừng nói đến thịnh thế, không tranh nhau đến nỗi nước mất nhà tan là đã không phụ lòng liệt tổ liệt tông rồi."

Ngũ hoàng tử lộ vẻ tiếc nuối.

Cảm giác như con chó còn thông minh hơn gã nữa.

Cung Tuấn cởi vòng phật giữa cổ tay xuống, cầm trên tay lần tới lần lui nói: "Ta biết Lão lục ngươi bị ép bức vua thoái vị, không có ý định nhìn ngươi đi chịu chết thật, gọi các ngươi tới đây vốn chính là muốn nói ta sẽ đến chỗ bệ hạ để giải quyết, chỉ là không ngờ quý phi đã tự sát mà thôi." Lạnh lùng liếc nhìn Cung Chiêu Vấn, hắn bình luận: "Tự cho mình thông minh."

Cung Chiêu Vấn mấp máy môi muốn phản bác, rồi lại không tìm được lời nào có thể nói, cuối cùng nản lòng.

Dù hoài bão có lớn mạnh đến đâu đi nữa thì trải qua bốn năm nay rồi cũng nên hiểu rõ sự thật, rằng tất cả mọi thứ sẽ dần lụi tàn, kiên trì đến bây giờ đều là vì mẫu phi, vì phủ Trịnh quốc công và môn khách bè đảng đã theo cùng đến ngày hôm nay, hơn nữa không tiến ắt lui, Cung Chiêu Vấn không còn cách nào khác ngoài dấn thân vào con đường tự hủy, hắn ta vốn chưa từng nghĩ đến việc liệu có đường hòa giải hay không.

Hắn cười đau khổ: "Huynh giải quyết như thế nào? Tước sạch thực quyền trong tay ta, cướp đi binh quyền của phủ Trịnh quốc công, để cho bọn ta nằm dưới sự ngờ vực và giám sát của bệ hạ và Thái tử tân nhiệm, luôn phải sống trong nơm nớp lo sợ giống như con chó cụp đuôi ư?"

"Chẳng phải bốn năm qua đã như thế rồi sao?" Cung Tuấn nói trúng tim đen.

Cung Chiêu Vấn á khẩu không thể đáp lại.

Cung Tuấn: "Hoặc là ôm phủ Trịnh quốc công theo vào chỗ chết, ta thành toàn cho các ngươi. Hoặc là thành thật phối hợp làm chút việc, ta sẽ bảo vệ phủ quốc công an toàn, thuận tiện giúp ngươi mang di thể không hao tổn tí gì của quý phi trở về."

Ánh mắt Cung Chiêu Vấn sắc bén: "Huynh đảm bảo không?"

Cung Tuấn: "Tin hay không thì tùy."

Cung Chiêu Vấn liên tục nghẹn lời, cũng chỉ có thể tin Cung Tuấn mà đưa ra lựa chọn, nhưng hắn có một điều kiện: "Ta muốn đến Hoàn Khâu."

Cung Tuấn xoay người rời đi: "Tùy ngươi."

***

Đưa mắt nhìn Cung Tuấn đi xa dần, Cung Chiêu Vấn ngã xuống ghế rồng, không khỏi nghĩ về dã tâm, về những tính toán mà hắn ta bày ra bao năm qua, không ngăn được phát ra tiếng cười tự giễu.

Ngũ hoàng tử im lặng không tiếng động đến gần hắn, hỏi một câu: "Đệ tin Cung

Tuấn thật à?"

Cung Chiêu Vấn hỏi lại: "Nếu là huynh, huynh sẽ chọn thế nào?"

Ngũ hoàng tử gãi ót, nói thật thì trước lúc Đông cung mưu phản, nhìn thấy Nguyên Thú đế bất công gã cũng đã từng nghi ngờ, bài xích thậm chí là từng căm hận, nhưng nghĩ lại, hắn chẳng nhận được đãi ngộ nào của Thái tử, cha không thương, nhà mẹ không hiển hách, lấy đâu ra tư cách để ghen ghét oán trách đây?

Nhưng nếu phải đảm bảo hoàn toàn không lạc lối, thì dù có là thánh nhân cũng không làm được.

Có điều những lời mà Cung Tuấn vừa nói cũng có câu khiến người trong mộng bừng tỉnh, năm đó Tấn vương được chọn để bồi dưỡng làm Thái tử, chẳng phải Đông cung và gã với tư cách là mông đảng Đông cung cũng bị lấy làm đá kê chân cho hắn ta sao?

Bao gồm cả Cung Tuấn bị bệ hạ vứt bỏ nữa, không khó để tưởng tượng ra được tình cảnh của hắn ngày ấy còn thê thảm gấp trăm gấp ngàn lần Tấn vương bây giờ.

Vì sao mà Tấn vương không hề cảm thấy áy náy với việc này?

Mặt Ngũ hoàng tử không giấu được chuyện, tất nhiên là Cung Chiêu Vấn nhìn ra rồi, tiếng cười nhạo càng thêm rõ ràng hơn, rồi một lúc sau biến mắt chẳng còn thấy đâu nữa. "Ta làm gì có mẫu phi đâu."

Gã cúi đầu nỉ non câu này, giống như là lữ khách lạc đường bàng hoàng mất định hướng.

==

Min: Cuối cùng thì anh Cung cũng được dắt vợ đi du lịch Tây Bắc rồi nha anh em 😎

Chương 107

Ngày thứ tư giữ giới, lúc tế trời.

Hoàn Khâu, Nam Giao*.

(*) Ở đây mình có sự nhầm lẫn một chút, trong chương trước có vài chỗ nhắc đến Nam Giao, vài chỗ là Tây Giao, nhưng do mình không để ý nên chỉ để Tây Giao không thôi, thì Nam Giao thường là nơi lập đàn làm các lễ tế, còn Tây Giao là nơi Thái hậu đến tụng kinh niệm Phật. Mình sẽ sửa lại những chỗ sai sau nhe.

Sau khi lễ tế trời kết thúc, Nguyên Thú đế cho Cấm quân lui đi, ở lại đàn tế trời một mình, đứng chắp tay cho đến tận khi trăng treo cao giữa trời, có Cấm quân đến báo Cung Tuấn cầu kiến, trong lòng ông biết kế hoạch đã tiến triển thuận lợi, bèn phất tay đồng ý Chu kiến.

Trên trời đêm trăng tròn sáng tỏ, sao bạc rải rác vạn trượng, trở thành tấm mạng bao phủ toàn bộ đàn tế.

Cung Tuấn dẫn theo năm sáu vị hoàng tử đi đến, bọn họ đứng chờ bên dưới cầu thang của đàn tế, hắn đưa tay ngăn cản Cấm quân chuẩn bị báo cáo, lệnh cho bọn họ lui về nơi cách đó mấy trăm thước, rồi sau đó mới bước lên đàn tế, đi đến phía sau lưng Nguyên Thú đế.

Hai cha con không nói chuyện, chỉ im lặng quan sát tinh tượng.

Nguyên Thú đế đột nhiên lên tiếng: "Sao Thiên Lang ở đâu?"

Cung Tuấn giơ ngón tay lên chỉ về một phía, Nguyên Thú đế hỏi liên tục vài vì sao nữa, cái nào hắn cũng trả lời được.

"Vẫn chưa quên nhỉ." Nguyên Thú đế cười vỗ vai Cung Tuấn, nói với hắn: "Hôm nay ta tạ lỗi với trời, với liệt tổ liệt tông, chuẩn bị đến Đông chí sẽ phong hậu cho mẹ con, cho con nhận tổ quy tông."

"Dù ta giết hại anh em mình sao?"

Nguyên Thú đế khựng lại, quay đầu nhìn vào mắt Cung Tuấn: "... Tiểu Lục?"

"Dựa vào nơi hiểm yếu chống lại, phát hiện quý phi tự sát, mất kiểm soát cảm xúc, tự lấy dao đâm mình chết rồi."

Nguyên Thú đế ngây người, rất lâu sau mới thở dài nói: "Không liên quan gì đến con, là nghiệp chướng của trẫm."

Bên dưới đàn tế, Ngũ hoàng tử nhìn Cung Chiêu Vấn, người nọ đứng trong bóng tối, biểu cảm như chết lặng.

Cung Tuấn vuốt ve vòng phật, đọc thầm tâm kinh: "Nếu như ta trở thành Thái tử, bệ hạ định xử trí tiểu lang như thế nào?"

Nguyên Thú đế hơi không vui: "Con sợ ta hại nó à? Nó là năng thần, đã cứu mạng ta, lại bị Xương Bình làm cho mệt mỏi, ta thật sự rất xấu hổ với nó, huống chi ấy là người trong lòng con, ta muốn hại nó chẳng phải là ép cha con ta trở mặt thành thù hay sao? Về công về tư, ta sẽ không hại nó, nhưng nó không thể trở thành Hoàng hậu."

Cung Tuấn rũ mắt: "Tao khang chi thê bất hạ đường*, bệ hạ cho rằng ta sẽ xử trí tiểu lang như thế nào?"

(*) Tao khang chi thê bất hạ đường - 糟糠之妻不下堂: ý nói người đàn ông sau khi giàu sang không thể tuỳ ý ruồng bỏ người vợ từng cùng với mình chịu gian khổ trước đó.

Nguyên Thú đế: "Nó làm tể tướng, các con cùng phổ một đoạn giai thoại quân thần, bên nhau như cũ, nếu như có một ngày ân tận ái tuyệt thì vẫn có thể tiếp tục làm quân thần, kết cục có hậu như vậy, làm sao lại không thể chứ?"

Cung Tuấn: "Ý ta là sau khi trở thành Thái tử còn phải cưới vợ nạp thiếp sao?"

Nguyên Thú đế: "Đàn ông bình thường còn tam thê tứ thiếp cầu có người nối nghiệp, huống chi là Thái tử?"

Cung Tuấn: "Nếu như Tĩnh vương không cản trở từ bên trong, bệ hạ được cưới mẹ như ý nguyện, thì có phải vẫn sẽ vì vị trí Đông cung mà tái giá Hoàng hậu và Trịnh quý phi, từ đó lạnh nhạt để mẹ ta uất ức hay không? Sắc suy ái trì, nếu như mẹ ta không chết thê thảm như vậy, sớm muộn gì cũng sẽ có một ngày rơi vào kết cục giống như Hoàng hậu và Trịnh quý phi thôi, ta cũng sẽ trở thành Đông cung của ngày trước, là Tấn vương của hiện tại..."

"Chát" một tiếng giòn vang, Nguyên Thú đế tát cho Cung Tuấn một cái thật mạnh, giận dữ mắng mỏ: "Con đang coi thường mẹ mình sao! Sao con có thể đánh đồng mẹ con với người khác được chứ? Đối với con, từ trước đến nay trẫm đều coi trọng con hơn bọn nó, con có nhìn thấy ta như vậy không?"

"Sẽ rất giả dối nếu ta nói mình không biết ơn và chưa bao giờ cảm thấy kiêu ngạo vì điều đó. Ta có thể tùy tiện, không bị bắt nạt nhiều năm như vậy hoàn toàn là nhờ bệ hạ bất công thiên vị, nhưng mà người đẩy ta xuống vách núi khiến ta tan xương nát thịt cũng là bệ hạ."

Mặt mũi Nguyên Thú đế tái mét: "Tối nay con đến đây là để chất vấn ta à? Con vẫn còn ghi hận chuyện năm đó sao? Ngày ấy đưa con trở về phủ Tĩnh vương là vì hậu cung, triều đình hợp sức nhau ép ta, huống chi hậu cung không thể an toàn hơn phủ Tĩnh vương! Rồi lại nói đến chuyện hoán trữ... Trẫm đúng là có hơi nóng lòng, Đông cung không nên thân, con... Con là do một tay trẫm dạy dỗ, là Thái tử mà trẫm hài lòng nhất, còn là đứa con trai mà người phụ nữ trẫm yêu thương nhất sinh cho trẫm, bỗng nhiên chẳng còn thuốc chữa, chẳng lẽ trẫm không đau lòng sao? Chẳng lẽ chưa từng vùng vẫy do dự hay sao? Chọn người trở thành Thái tử là đại sự quốc gia, nếu như để cho Hoàng hậu và Đông cung khống chế triều đình, Đại Cảnh nhất định sẽ suy bại, trẫm có thể đảm bảo mình sống lâu trăm đuổi để dạy bảo cho thêm một đứa nhỏ nữa, nhưng sao có thể đảm bảo nó sẽ thành tài? Từ lúc biết được con đã giải được cổ độc, trẫm đã lập tức đổi lại kế hoạch ban đầu, Thái tử vẫn là con, Hoàng đế Đại Cảnh vẫn là con, chỉ có thể là con!"

Cung Tuấn: "Chỉ vì như vậy mà phải hy sinh Trịnh quý phi và Tấn vương sao?"

Nguyên Thú đến gằn giọng: "Là do bọn họ không chịu hăng hái tranh giành! Lão Lục quá ỷ lại vào phủ Trịnh quốc công, lão Tam nhúng tay vào trường thi Giang Nam, gây nên chướng khí mù mịt, hơn phân nữa tiền thu được từ việc bán quan bán tước được phủ quốc công dùng để đút lót cao thấp, coi như lão Lục không biết ngay từ đầu, nhưng từ sau sự việc của lão Tam, thì dù nó có ngu xuẩn cũng phải biết rõ chứ, nhưng chẳng phải nó vẫn thoải mái chi tiêu như thường sao? Phàm là nó có đền bù chút ít tổn thất, cũng không đến mức khiến ta phải thất vọng. Những việc nó làm sau đó việc nào mà chẳng lấp ló bóng dáng của nhà ngoại? Ngay cả cơ hội tiêu diệt Đại Hạ ngàn năm có một này đây, rõ ràng Trịnh Nguyên Linh còn động tay động chân ở bên trong! Nếu như có ngày đăng cơ, họ ngoại tham gia vào chính sự, nhất định sẽ thành mối họa!"

Dù Tấn vương đứng bên dưới đàn tế đã chuẩn bị tâm lý, nhưng vẫn bị lời khiển trách nặng nề của Nguyên Thú đế khiến cho suýt nữa là sụp đổ.

"Lão Lục giống như Đông cung, ta đã từng phí hết tâm huyết hun đúc, không có một đứa nào ra hồn!"

"Ai có thể ra hồn sau khi được hun đúc dưới sự vui giận thất thường của người chứ? Một khắc trước vừa nâng lên đến trời, gửi gắm kỳ vọng, một khắc sau đột nhiên ném xuống mặt đất, đuổi tận giết tuyệt, người thử nói xem phải thế nào mới có thể ra hồn đây?"

"Con! Sấm chớp mưa sương đều là ơn trời, bá quan văn võ, vạn dân thiên hạ, ai đối mặt với trẫm mà không phải nơm nớp lo sợ, cẩn thận từng chút chứ? Bọn họ có thể thích ứng, có thể làm được, các con là con của ta, là vương tử hoàng tôn, vì sao không thể?"

"Nói như vậy lúc đối mặt với bọn ta, rốt cuộc người xem bọn ta là thần tử, hay xem là con của người? Khi nào bọn ta có thể xem người là cha, khi nào phải xem người là quân vương mới không phạm phải sai lầm đây?"

Nguyên Thú đế giận dữ, vung tay lên định tát một cái nữa, nhưng chạm đến ánh mắt của Cung Tuấn thì lại bất lực hạ tay xuống, trong nháy mắt chán nản, để lộ ra vẻ mệt mỏi già yếu: "Trẫm thiên vị con, muốn để lại những gì tốt nhất trên đời này cho con, như vậy là sai ư?"

Cung Tuấn lộ vẻ xúc động, cánh tay khẽ nhúc nhích, nhưng đến cuối cùng vẫn không đáp lại Nguyên Thú đế.

"Quả thật ban đầu khi con trúng cổ độc, không có thuốc chữa mà vứt bỏ con là do trẫm vô tình, thế nhưng sau đó mọi thứ lại vào trật tự, quay về quỹ đạo ban đầu, vì để đền bù cho con mà trẫm không quan tâm danh nhơ vợ chồng không hòa thuận, cha con tương tàn..." Dừng một chút, Nguyên Thú đế mới rũ vai xuống nói: "Con cảm thấy trẫm đối xử với con, với Thái tử, với lão Lục và quý phi vô tình quá ư? Trẫm vô tình với bọn họ, nhưng đối xử với con như thế nào, con tự hỏi lòng mình đi, ngoại trừ chuyện cổ độc còn có việc nào có lỗi với con nữa? Ngay cả lão Lục và quý phi, trẫm cũng chưa từng muốn bọn họ phải chết! Trẫm định sẽ đưa lão Lục đi cấm túc ở đất phong, chỉ cần nó an phận thì không cần phải lo cơm áo, sống lâu trăm tuổi!"

"Cha mẹ thương con, ắt phải tính toán sâu xa. Tử Uyên, đến khi con ngồi ở vị trí này là sẽ hiểu được nỗi khổ tâm của ta thôi."

"Cha mẹ thương con, không phải để báo đáp."

Một giọng nói quen thuộc đột nhiên xuất hiện phía sau lưng, Nguyên Thú đế quay đầu lại, nhìn thấy lão Lục mà ông cho rằng đã chết vì mưu phản bức vua thoái vị, còn có cả lão Ngũ cũng đi theo, hai người đều đỏ mắt, sắc mặt bi thương, nổi oán giận bộc lộ trong lời nói.

"Còn chúng con thì sao?" Tấn vương hỏi: "Phụ hoàng, chúng con không phải con của người hay sao?"

Gương mặt Nguyên Thú đế run rẩy, khi tính toán thì ra tay độc ác, nhưng đến khi bị chất vấn thẳng mặt thì lại không thể nhẫn tâm đến cùng, nghẹn lời một lúc lâu sau mới bị cảm giác áy náy dâng lên trong lòng đánh bại, không thể thốt nên lời tuyệt tình.

"Đời người không tránh khỏi bất công, cha mẹ cưng chiều con mình là chuyện rất bình thường, đến mẫu phi cũng thương con hơn Tam ca, nhưng mẫu phi không hề muốn Tam ca phải đi chịu chết. Người nói người không muốn mẫu phi của con chết, nhưng mẫu phi lại bị người ép phải tự sát, di thể bị lợi dụng đến cùng, người vẫn nói người không muốn con chết ư? Vừa nãy Cung Tuấn nói con chết rồi, phản ứng đầu tiên của người chính là ôm tội vào mình!

Người vẫn giải vây giúp huynh ấy! Thà gánh danh nhơ giết con chứ không để Cung Tuấn chịu tiếng anh em tương tàn! Sao người có thế bất công đến như vậy?"

Tấn vương hận đến nghiến răng.

Ngũ hoàng tử xúc động lây, mũi cay xè, lòng đau xót, cúi đầu không nói gì.

"Chẳng lẽ người không biết mưu phản bức vua thoái vị sẽ có kết cục gì? Chẳng lẽ người không biết con sẽ tự sát? Sáng suốt như người, bệ hạ, người đúng thật không nghĩ tới chuyện con và mẫu phi sẽ tự sát sao? Hay là người có nghĩ tới những cảm thấy chẳng hề gì, sức nặng chẳng bằng việc Cung Tuấn đăng cơ?"

"Càn rỡ!" Nguyên Thú đế không nén được giận, tức tối mắng: "Con lấy thân phận gì để chất vấn trẫm!"

Tấn vương gằn từng chữ: "Hôm nay con thà bị phế làm thứ dân, cũng chỉ lấy thân phận con trai của người để chất vấn người thôi, phụ hoàng, người thật sự không nghĩ rằng con sẽ chết sao?"

Nguyên Thú đế sửng sốt, ánh mắt lập lòe, đầu óc lộn xộn, không thể trả lời ngay được.

Như thể phản ứng của ông đã nói rõ đáp án, Tấn vương lòng như tro tàn, chắp tay qua đầu, ba quỳ chín khấu: "Thần đã hiểu rồi. Thần sẽ bảo ông ngoại giao lại binh quyền Định Châu, tự thỉnh đến đất phong, không chiếu không rời, không hỏi chuyện triều chính, an phận thủ thường, ở đây thề rằng vĩnh viễn sẽ không gây chuyện với tân đế, nếu như làm trái lời thề này, chết không yên lành, vĩnh đọa A Tỳ. Chỉ có một chuyện muốn nhờ, cầu xin bệ hạ trả lại di thể mẹ đẻ cho thần, thần đưa bà ấy trở về đất phong, sẽ không làm chướng mắt bệ hạ nữa."

"Con..." Nguyên Thú đế hơi hoảng hốt, nhưng không để cho ông kịp phản ứng, lão Ngũ cũng đã quỳ sụp xuống, ba quỳ chín khấu, cứ thể kết thúc thân duyên giống như người trước.

"Bệ hạ, thần cũng sẵn lòng tự thỉnh đất phong, không chiếu không rời, mãi mãi không nhúng tay vào triều chính, toàn tâm toàn ý ủng hộ tân đế."

Hai người cùng dập đầu, đồng thanh nói: "Cầu bệ hạ thành toàn!"

"..." Sắc mặt Nguyên Thú đế trầm xuống, quay đầu nhìn Cung Tuấn: "Đây là mục đích của con đêm nay đúng chứ? Các con chẳng còn cần phụ hoàng ta nữa, đều chỉ muốn làm quân thần với ta thôi chứ gì?"

Cung Tuấn vén vạt áo lên, cũng quỳ xuống dập đầu theo: "Người thiên vị ta, ta cũng vậy. Thường nói quân phụ, quân ở trước phụ, nhưng trong lòng ta, người là cha của ta trước, sau đó mới là quân vương. Thần tử sẽ oán giận vì bị quân vương tuyệt tình và vứt bỏ, nhưng con trai có oán giận cũng sẽ không bao giờ hận cha của hắn. Ta bị vứt bỏ vì trúng cổ độc, mặc dù nản lòng, nhưng ngày sau có việc nào người giao xuống mà ta không làm tận tâm tận lực đâu? Đó hoàn toàn không chỉ vì người là quân ta là thần, mà hơn hết bởi vì người là cha ta là con."

Nguyên Thú đế: "Con không oán giận, vậy vì cớ gì mà không chịu chấp nhận sắp xếp của ta?"

Cung Tuấn: "Ta không muốn làm hoàng đế."

Nguyên Thú đế: "Hồ đồ! Con không muốn làm hoàng đế thì đi Tây Bắc làm gì? Vì sao âm thầm chiêu dụ nhiều mưu sĩ như thế? Con có ý chiêu dụ Trần Sư Đạo, lén lút qua lại với đám người Cao đồng trì, tưởng ta không biết gì cả sao? Ta đây rõ rành rành dã tâm của con, bây giờ lại nói mình không muốn, làm sao ta có thể tin được?"

Cung Tuấn không giải thích thêm: "Bệ hạ, xin người hãy chọn Thái tử khác! Đời này thần chỉ có một mình Chu Tử Thư, đã định đoạn tử tuyệt tôn, trừ phi người bằng lòng chứng kiến giang sơn đổi chủ, triều đình rung chuyển!"

Nguyên Thú đế trợn mắt nhìn hắn: "Con uy hiếp trẫm đấy à?"

Cung Tuấn: "Trần thuật sự thật mà thôi. Nếu uy hiếp thật, thần cảm thấy tạm thời người không muốn thấy cảnh ấy đâu."

Nguyên Thú đế trừng mắt như sắp nứt, vô cùng đau lòng, tức giận đến mức tay run cầm cập, không ngừng gật đầu: "Cung Tuấn, khi đại án Lưỡng Giang xảy ra, con vì Chu Tử Thư mà phá sạch ván cờ của ta, bởi vì mắc nợ nó nên ta không truy cứu con. Bây giờ con lại vì nó, không chịu làm hoàng đế, còn uy hiếp ta... Người mà con uy hiếp là cha con, là người cha ruột hết lòng lo lắng cho con! Con thật sự nghĩ ta không dám giết Chu Tử Thư sao? Con cho rằng chỉ vì mắc khoản nợ này, cho rằng nó đã cứu mạng trẫm, cho nên nghĩ đấy là đủ để hôm nay trẫm tha thứ cho đám ngỗ nghịch các con hay sao?" Cung Tuấn: "Tiểu lang đã thề đồng sinh cộng tử với ta từ lâu rồi."

Nguyên Thú đế: "Thân thể tóc da là cha mẹ cho, mạng của con là trẫm cho, là mẹ của con cho, Chu Tử Thư là cái thá gì!"

"Trong bốn năm bị cổ độc tra tấn thần đã chết một lần, mạng này là do Chu Tử Thư cho, y chính là phu lang chôn cùng một quách* với ta trăm năm về sau." Cung Tuấn ngẩng đầu lên, nhìn Nguyên Thú đế tức đến đỏ mặt tía tai, sinh lòng tiếc nuối: "Bệ hạ tội gì phải vậy?" (*) Quách: quan tài lớn chứa quan tài nhỏ.

Nguyên Thú đế không ngừng cười lại: "Trẫm không thiếu hoàng tử, nếu như các con đã xưng thần, vậy hẳn là không quan tâm mình bị phế truất danh hiệu hoàng tử vương tốn rồi nhỉ, chỉ mong đừng hối hận. Cung Tuấn, con không muốn vị trí Thái tử thì vẫn còn rất nhiều người tranh đến mức đầu rơi máu chảy, trẫm không cầu xin con! Nhưng những gì trẫm cho con, dù con có bằng lòng hay không cũng đều phải nhận lấy!" Rồi sau đó ông nhìn ba người đang quỳ dưới đất, hừ lạnh nói: "Nếu như thích quỳ, thì cứ quỳ ở chỗ này cho thỏa đi!" Nói xong phất tay áo rời đi.

Ba người cứ quỳ ở đàn tế trời như thế, mặt trăng lặn mặt trời mọc, cái nóng mùa hè ập xuống, ánh mặt trời chói chang, nói không chừng đặt ly nước lên nền gạch đàn tế còn có thể sôi lên.

Cung Tuấn và Cung Chiêu Vấn cơ thể cường tráng, phơi nắng mấy canh giờ không có gì đáng ngại, nhưng Ngũ hoàng tử được nuông chiều từ nhỏ chưa từng phải chịu khổ cực thế này, mặt mũi gã tái nhợt, da môi tróc ra, phơi nắng ba canh giờ đã ngất xỉu.

Cấm quân chịu trách nhiệm trông coi quanh đàn tế không biết làm thế nào, bèn chuẩn bị lệnh cho người đi xin chỉ thị của Nguyên Thú đế, nhưng lại bị Cung Tuấn gọi tới: "Đừng quấy rầy bệ hạ, đi hỏi ý thái hậu đi." Cấm quân do dự.

Cung Tuấn chậm rãi nhắm mắt lại, mân mê vòng phật của hắn, tư thế không giống như bị phạt quỳ mà giống như đang thành tâm cầu phúc.

"Bệ hạ đang nổi nóng, ngươi có đến xin chỉ thị cũng chỉ có thể nghe ông ấy nói cho quỳ đến chết thôi, nhưng nếu hoàng tử quỳ đến chết thật, sau này bệ hạ hối hận, các ngươi có gánh nổi trách nhiệm không? Đến chỗ thái hậu hỏi ý đi, có lão nhân gia ra mặt, bệ hạ sẽ nể chút tình mọn."

Thống lĩnh Cấm quân đi tới, dù Cung Tuấn không nói lý do hắn ta cũng sẽ nghe lệnh làm việc, vội vàng lệnh cho người đi hỏi ý thái hậu.

Chẳng bao lâu sau, ma ma bên cạnh thái hậu đã dẫn thái y chạy tới, đưa Ngũ hoàng tử quay về biệt trang hoàng gia ở gần đó, rồi bảo Cung Tuấn và Cung Chiêu Vấn đứng dậy đến chỗ Thái hậu.

Ma ma nói với Cấm quân cản đường: "Nếu như bệ hạ trách tội, ngươi cứ nói thật thôi."

Có lão nhân gia làm chỗ dựa, Cấm quân chỉ mong sao bọn họ mau chóng mang ba củ khoai nóng bỏng tay trên đàn tế đi thôi.

***

Biệt trang hoàng gia, viện Thu Ngô.

Ba người Cung Tuấn bước vào trong, lập tức nhìn thấy Chu Tử Thư đứng dưới cây ngô đồng.

Ngũ hoàng tử được đưa vào trong viện, Cung Chiêu Vấn lập tức hỏi ma ma, ma ma nói thái hậu đang tụng kinh niệm phật, không tiện quấy rầy, vậy nên hắn ngồi xuống bậc thang ngoài sân đình, mặt không đổi sắc ngẩng đầu lên nhìn trời, thoáng liếc mắt thấy Chu Tử Thư túm lấy Cung Tuấn kiểm tra trên người hắn có vết thương hay không, sau đó ôn tồn nhỏ tiếng quan tâm, không khỏi sinh lòng hâm mộ.

Cung Tuấn đúng là vô cùng may mắn, sống trên đời có được ngần ấy người tha thiết yêu thương hắn.

Hắn ta cũng đã từng có được mẫu phi yêu thương không cầu báo đáp, nhưng hiện tại chẳng còn gì nữa.

Nỗi muộn phiền lan rộng trong lòng, Cung Chiêu Vấn dứt khoát chôn vùi toàn bộ tình cảm vào bầu trời màu xanh trong vắt, quên hết mọi sự vật quanh người.

Chu Tử Thư kéo Cung Tuấn đến bên bàn đá dưới gốc cây ngồi xuống, rót cho hắn một ly trà hoa cúc thấm giọng, xua đi cái nóng, ân cần hỏi thăm: "Sao rồi?"

Cung Tuấn: "Xem bệ hạ có nghĩ thông suốt hay không thôi... Sao em lại ở đây?"

Chu Tử Thư: "Lo lắng cho chàng chứ còn sao nữa."

Sau khi trở về từ buổi tiệc gia đình ngày đó, y bèn nói ra lời của thái hậu và suy đoán của mình cho Cung Tuấn biết, khi ấy Cung Tuấn nói không cần quan tâm, cứ việc giao hết cho hắn đi xử lý.

"Chàng giải quyết thế nào vậy?"

"Nói thẳng rồi."

"Kết quả chọc bệ hạ nổi cơn tam bành, phạt mấy người quỳ suốt mười canh giờ, nghe nói còn chuẩn bị phế truất tước vị của hai vị hoàng tử chứ gì?"

"Giải quyết dứt khoát, bớt dây dưa dài dòng, ta không muốn so kiên nhẫn với bệ hạ, chờ đến khi ta được nhận lại thì mọi thứ đều kết thúc cả rồi. Thiên hạ này không có tiền lệ lập nam hoàng hậu, triều thần có thể tạm thời đồng ý, nhưng không có nghĩa là mười năm, hai mươi năm sau không có tâm tư khác, hậu cung gắn liền với tiền triều, ai cũng hy vọng rằng đứa con chui ra từ bụng mình được làm Thái tử tương lai cả, đến lúc đó em sẽ trở thành mục tiêu công kích của mọi người, mà cuối cùng ta cũng sẽ có lúc sơ hở thiếu phòng bị, không bảo vệ được em. Bệ hạ tự phụ, thái bình thịnh thế mở ra trong tay ông ấy, nguyên vọng bấy lâu nay đã thành càng cổ vũ ông ấy thêm bảo thủ kiêu căng, phải cảnh tỉnh ông ấy, để cho ông ấy tỉnh táo hơn, đừng để ông ấy thật sự cho rằng bản thân có thể thao túng được cuộc đời của người khác."

Cung Tuấn không nhịn được thở dài: "Sau khi chữa khỏi cổ độc, ta đã hời hợt rất nhiều với chính đấu triều đình, cả việc kết bè kết cánh nữa, ta không tin bệ hạ không nhận ra, suy đoán rõ ràng làm ông ấy mơ hồ, quả thật có tình thương con, nhưng đó cũng chỉ để hoàn thành chấp niệm của ông ấy, trừ khử món nợ sâu trong lòng ông ấy mà thôi. Khư khư cố chấp như vậy, đến cả người phụ nữ ở bên cạnh ba mươi năm cũng chết rồi, vậy mà vẫn lợi dụng chẳng thấy xấu hổ, hành động càng lúc càng giống như tiên đế ngày xưa."

"Suỵt. Nói nhỏ thôi, tai vách mạch dừng."

Cung Kinh Dường hôn lên mu bàn tay Chu Tử Thư, hết sức hưởng thụ sự quan tâm của tiểu lang quân.

Có điều hắn cũng không nói sai, Nguyên Thú đế đã từng cực kì hận tiên đế thiên vị Tĩnh vương, vậy mà bây giờ ông ấy chỉ hơn chứ không kém, chẳng tiếc ép hoàng tử khác đi vào chỗ chết chỉ vì trải đường cho Cung Tuấn.

Không thể phủ nhận tình thương sâu đậm của cha mà ông ấy dành cho Cung Tuấn, nhưng đó lại là sự ích kỷ cố chấp khiến cho lòng người nguội lạnh.

"Bệ hạ có thể nghĩ thông suốt không?"

"Văn thần chết can võ tướng chết trận, trăm quan triều đình đã nhận bổng lộc thì phải làm việc nên làm chứ."

Chu Tử Thư nghe hiểu lời bóng gió này, hạ giọng nói: "Chàng bắt tay với các quan trong triều ép bệ hạ buông bỏ suy nghĩ lập chàng làm trữ sao?"

Cung Tuấn cũng hạ giọng, ra vẻ thần bí: "Em đoán xem vì sao bọn họ lại đồng ý với ta đi đắc tội bệ hạ?"

Chu Tử Thư sẵn sàng tiếp thu lời phải: "Vì sao thế?"

Cung Tuấn: "Vì em đấy." Hắn cười cong mắt: "Cha mẹ vì con mà suy tính sâu xa, không phải để đền đáp." Chu Tử Thư sững người.

***

Quyền giám quốc của Cung Tuấn bị thu hồi, hắn và Cung Chiêu Vấn, Cung Chiêu Hành đều bị giữ lại biệt việt hoàng gia ở Tây Giao, Nguyên Thú đế thì lập tức dẫn đoàn xe ngựa và Cấm quân trở về hoàng cung trước.

Vừa hồi cung, Nguyên Thú đế đã lệnh cho Khâm Thiên Giám chọn một ngày lành tháng tốt để phong hậu, ông không chờ nổi đến Đông chí, chậm nhất trong vòng hai tháng phải sắc phong Thái tử Đại Cảnh.

Khâm Thiên Giám run tay, vắt óc tính thời gian, không tìm được ngày nào cực kì tốt cũng chỉ đành phải chọn ngày tốt thứ hai, viết thời gian ra rồi đi đến trước điện Văn Đức trình lên.

Ngày tốt tới tay, bấy giờ Nguyên Thú đế mới gọi đại thần từ tam phẩm trở lên dến thương lượng phong con gái Thôi quốc công làm hậu, cũng sẽ nhận lại Cung Tuấn, đồng thời xác định Thái tử, cuối cùng là việc ba đại sự này sẽ được tổ chức cùng một nơi.

Dù là phong hậu hay là lập trữ đều không phải trò đùa, sao có thể làm qua loa được chứ?

Có người ra khuyên can, không một ai là không bị Nguyên Thú đế điên tiết buông lời trách phạt và răn dạy, đặc biệt là Ngự Sử đại phu từng câu từng chữ phản đối Nguyên Thú đế lập trữ phong hậu sơ sài bị phạt đánh ba mươi trượng, suýt nữa là đánh chết.

Triều thần bị chấn nhiếp, nói năng thận trọng, không ai dám khuyên thẳng.

Ngày phong hậu lập trữ tốt đã định ra, trong cung thu mua, Lễ bộ và tất cả các nha môn đồng tâm hiệp lực quản lý vụ này, nói là phong hậu thực tế là truy phong, vẫn làm cùng một lúc với đại điển lập trữ, hai thể chế khác nhau, cách thức và nghi thức cũng khác, bởi vì không có tiền lệ, cho nên mọi chi tiết dù lớn dù nhỏ đều được kiểm tra cẩn thận rồi mới quyết định, không được phép mắc phải bất kì sai sót nào, loay hoay đến nỗi chân không chạm đất.

Mà giữa lúc phong hậu lập trữ gay cấn, tòa Phật tháp ở chùa Đại Tướng Quốc trăm năm lịch sử đột nhiên sụp đổ, nghe nói trong đó có thờ cúng xá lợi xương Phật hóa thân của Phật Như Lai Thích Ca Mâu Ni, nhưng Phật tháp sụp rồi, xá lợi xương Phật bên trong cũng bay khỏi phủ Kinh Đô.

Võ tăng trông coi Phật tháp và dân cư ở xung quanh đều nói rằng đêm đó bọn họ tận mắt nhìn thấy có một vật bay ra khỏi Phật tháp đã sụp xuống, vật này tỏa ra thứ ánh sáng thần kì, hóa thành sao băng bay về phía tây, rõ ràng đó là xá lợi xương Phật.

Cũng không biết vì sao mà xá lợi xương Phật lại bỗng nhiên rời khỏi chùa Đại Tướng Quốc.

Không quá hai ngày, phố lớn ngõ nhỏ phủ Kinh Đô đã truyền ra tin tức xá lợi xương Phật không muốn tiếp tục che chở cho dân chúng Kinh Đô nữa, tin này truyền đi suốt đêm, chính là điềm báo chẳng lành.

Dân chúng có được đời sống sinh hoạt sung túc thì có thú vui ngồi quán trà, quán rượu ven đường bàn tán, bắt gặp người nhắc đến sự biến mất của xá lợi xương Phật, nhắc tới cả "điềm báo chẳng lành" nữa, cũng không biết trong đám người đó là ai đã nhắc đến chuyện phong hậu lập trữ không được ngày lành tháng tốt trấn áp, chỉ sợ là vì chuyện ấy nên mới dẫn tới điềm xấu, ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia, xá lợi xương Phật kia mới chạy mất.

Ngay từ đầu đã cảm thấy đây là đại sự hoàng gia nên không dám lắm miệng, nhưng con người ta thường có tâm lý may rủi, cho rằng pháp không trách chúng, tiếp tục truyền tai truyền miệng, càng nói càng thái quá, thực sự kinh động đến Khâm Thiên Giám và Ngự Sử đài, hai bên đều báo cáo dư tình dân gian lên trên.

***

Điện Văn Đức.

Cộp!

Nghiên mực bị ném xuống dưới, nước mực đổ ra đầy đất, Nguyên Thú đế vẫn chưa tan cơn giận: "Điềm báo chẳng lành? Để không làm Thái tử, đến cả việc trẫm cho mẹ nó danh phận cũng dám làm gián đoạn à! Nghịch tử, nghịch tử!"

Thái giám cung nữ quỳ rạp không dám nói lời nào, Nguyên Thú đế vẫn điên cuồng.

"Đối nghịch với trẫm! Trẫm để lại người cho nó, dung túng nó kết bè kết phái, quay đầu trả ngược lại cho trẫm sao? Hừ, Phật tháp phủ Kinh Đô ngã rồi, dù có một trăm xá lợi xương Phật bay mất cũng không thể thay đổi quyết định của trẫm đâu. Cái gọi là điềm báo chẳng lành đều có thể gặp dữ hóa lành, giải quyết dễ dàng dưới chân long thiên uy của trẫm!"

Nguyên Thú đế khư khư cố chấp, trấn áp dư tình dân gian rồi, nhưng quá trình thu mua trong cung và xử lý đại điển của Lễ bộ lại liên tục gặp nhiều việc lạ, không phải ngọc khuê đã chuẩn bị xong đột nhiên vỡ tan tành, thì công trình xây dựng rầm rộ cũng bị hỏng hóc, dư tình vất vả lắm mới ép xuống được lại sôi sục lên một lần nữa.

Tin đồn vặt vãnh không ra thể thống gì, không ngăn được sự chuyên quyền độc đoán của Nguyên Thú đế, nhưng vẫn khiến cho lòng ông cảm thấy hơi mơ hồ.

Nguyên Thú đế âm thầm cử ám vệ bắt tay vào điều tra xem cuối cùng là ai đang làm những việc này sau lưng ông, không quá ba ngày, danh sách đã được đặt lên bàn trong điện Văn Đức.

Cao đồng tri, Lư tri viện, Trần Sư Đạo, Chu Bá Ung... Tất cả đều là năng thần tể tướng đáng tin cậy, bọn họ bắt tay nhau ngỗ ngược với hoàng đế ông đây!

Nguyên Thú để cho gọi mọi người vào cung, nhìn chằm chằm ánh mắt của bọn họ, ném danh sách tới trước mặt bọn họ rồi quát lớn: "Đường đường là trọng thần xương cánh tay mà lại học thần côn dân dã để làm những trò lừa gạt lòng người này, còn ra thể thống gì nữa? Đã muốn tham gia lập trữ, lại không giám thẳng thắn can ngăn như Ngự Sử đại phu, sử dụng lòng dạ nhỏ nhen khiến cho người ta tấm tức thì có thể thay đổi được gì? Tể tướng tam ty lưỡng phủ, đại quan nhất phẩm của trẫm, còn có nguyên lão ba triều Trần Sư Đạo, Trần thái sư của trẫm, trẫm cứ nghĩ ông sẽ không để tình riêng lấn lướt việc công, nhưng ông hãy nhìn ông của bây giờ xem... Chẳng phải sợ Tử Uyên đăng cơ làm oan Chu Tử Thư sao? Xá lợi xương Phật ở chùa Đại Tướng Quốc là trò của ông à? Ông không biết trẫm không tin Phật sao?"

Nhìn quanh một vòng người bên dưới, Nguyên Thú đế khó nén nỗi thất vọng: "Trẫm thất vọng không chỉ bởi vì các ngươi bắt tay nhau ngỗ ngược với trẫm, mà thất vọng là vì hành động mà các ngươi dám làm, giả thần giải quỷ lường gạt dân tình, rụt đầu rụt đuôi, lấy lòng xu nịnh qua loa cho xong chuyện!"

Nhóm người Cao đồng tri chắp tay nói: "Bệ hạ bớt giận."

Nguyên Thú đế: "Đại điển phong hậu và lập trữ sẽ diễn ra như cũ, ai dám lén lút làm chuyện mờ ám, đừng trách trẫm không niệm tình xưa. Nếu như trong phủ có lời đồn, tra ra ngọn nguồn rồi sẽ không nương tay. Nếu như chư khanh có lòng nhúng tay vào chuyện lập trữ, thì có thể chết gián đến cùng, bước vào điện Thùy Củng đập đầu hoặc là cắt cổ trước mặt trẫm, như vậy còn tốt hơn là đi đường ngang ngõ tắt tung lời đồn ra ngoài!"

Cao đồng tri vén quan bào quỳ xuống khuyên thẳng: "Bệ hạ, Thôi thị và bệ hạ tuổi trẻ tình thâm, người chết vì cứu bệ hạ, nếu vì vậy mà bịa ra một thân phận, còn cả danh phận, truy phong lập hậu không phải là không được, nhưng việc lập trữ liên quan đến quốc thể, chuyện này là chuyện lớn, chứ nói chi phải cực kì thận trọng với huyết mạch hoàng thất, không thể tùy tiện làm xáo trộn. Lâm An quận vương đã là con trai trưởng của Tĩnh vương ba mươi năm trời, mà Tĩnh vương chính là loạn thần tặc tử, mọi người đều biết, rất khó đảm bảo toàn bộ người trong thiện hạ sẽ không chất vấn về huyết thống của Lâm An quận vương, sẽ nghi ngờ Tĩnh vương cố tình xáo trộn huyết mạch hoàng thất, chỉ sợ ngày sau loạn thần nghịch đảng sẽ lấy đây làm cái cớ, xua binh tiến thẳng vào phủ Kinh Đô quấy nhiễu làm xã tắc rung chuyển, triều đình bất ổn, dân chúng trôi dạt khắp nơi, đến lúc đó mới hối hận thì đã muộn."

Lư tri viện cũng quỳ xuống khuyên can: "Võ tướng chết trận văn thần chết can, thần vốn phải chết trận sa trường, cống hiến cho đất nước, được bệ hạ thương cảm, cho vào hai phủ, chưởng binh quyền thiên hạ, phúc lộc song toàn, thoát chết khỏi chiến trường, hôm nay làm văn thần chết can một lần, khuyên bệ hạ thu hồi mệnh lệnh lập trữ đã ban ra, lựa chọn tân quân khác!"

Nguyên Thú đế: "Im miệng!" Ông rút bảo kiếm ra bước nhanh tới, ném xuống trước mặt Lư tri viện rồi tàn nhẫn nói: "Nói nghe hay lắm, không bằng lập tức dùng cái chết tỏ rõ ý chí đi, nói không chừng vì sức nặng cái mạng của ông mà trẫm sẽ thật sự buông bỏ ý định lập trữ đấy!"

Trần Sư Đạo vội vàng quỳ xuống ngăn lại: "Bệ hạ có lòng yêu con, lão thần vô cùng đồng cảm. Lão thần già rồi mới có con trai, mẹ của nó không qua được cửa tử, nó đi tiểu cũng được ta ôm trong ngực, ta nuôi nó lớn trên vai. Không sợ bệ hạ chê cười, tã lót của thằng nhóc kia còn là do ta thay đấy, lão thần còn có thể vá quần thủng đáy nữa..."

Nói đến đây ông cụ bật cười, cũng khiến cho sự phẫn nộ của Nguyên Thú đế hòa hoãn đi nhiều.

Năm Cung Tuấn chỉ mới hai ba tuổi đúng là lúc hắn bị chó ghét người ngại, được đưa vào cung thì bị hậu cung nhìn chằm chằm, Nguyên Thú đế sợ sơ sẩy một chút là hắn chết, thế là ông thường xuyên đưa hắn theo bên người, ăn cùng nơi, ngủ cùng chỗ, văn trị võ công đều do một tay ông dạy cho, vừa làm cha vừa làm mẹ, hắn chính là miếng thịt trên người ông, tình cảm đó tất nhiên không thể so sánh với các hoàng tử khác.

Năm xưa vứt bỏ Cung Tuấn là vì có chút bất đắc dĩ, ông vốn là vua, sau mới là cha, thế nhưng sau khi Cung Tuấn chữa khỏi cổ độc, mặc dù lão Lục cũng rất ưu tú, nhưng ông cũng chưa từng nghĩ đến chuyện giao lại ngôi vị hoàng đế cho ai khác ngoài Cung Tuấn.

Sự thiên vị đó đã định trước rằng ông sẽ mắc nợ các hoàng tử khác, nhưng mà ông là hoàng đế!

Trước giờ chưa có chuyện gì khiến ông hài lòng, vợ không phải người ông yêu,

Thái tử không làm ông vừa ý, mọi chuyện đều phải suy nghĩ vì giang sơn đất nước và dân chúng, ngày nay chỉ vì một chút lợi riêng thôi, vì sao khắp thiên hạ này đều muốn đối nghịch với ông kia chứ?

Hoàng đế có được vạn dặm non sông, vì sao không thể nghe theo lòng mình một lần?

"Thằng bé chính là một cây giống, lớn lên thành bộ dáng gì cũng đều là cho lão thần chăm bẵm cắt tỉa, lão thần hy vọng nó bình an vui vẻ, cũng mong con được hơn người, chỉ sợ nó bị liên lụy chịu khổ nơi quan trường, bèn hạ quyết tâm phải trải đường phía trước cho nó, diệt trừ hết mọi khó khăn cho nó, lão thần muốn cho nó hết tất cả những gì tốt nhất trên đời này, muốn ngăn cản hết tai nạn trên thế gian này ở bên ngoài... Nói chung, cha mẹ trên đời đều có tâm lý như vậy đấy."

Đại thần ở đây đều có đông con cái, đúng là có lúc bất công thiên vị, nhưng vì yêu con, lòng lo lắng cho con cái thì lại giống nhau như đúc.

"Lão thần hiểu rõ bệ hạ muốn đền bù tổn thất cho Lâm An quận vương, nhưng bệ hạ đã từng cân nhắc đến việc quận vương điện hạ có chấp nhận hay không chưa? Cây giống tuy nhỏ, nhưng rồi cũng có lúc sẽ lớn thành cây to che trời, lão thần không thể bảo vệ nó mãi được, phải có lúc nó cần tự đảm đương một mình. Lão thần muốn con trai được Chu về Kinh Đô, ở lại Kinh Đô, làm một quan triều, hầu hạ bên gối, tương lai xán lạn, như thế sẽ an toàn hơn, nhưng nó không muốn, nó muốn ở lại tỉnh ngoài, được phục vụ dân chúng tốt và trực quan. Lão thần lo lắng, nhưng lại rất đỗi vui mừng..."

Giọng điệu của Trần Sư Đạo chân thành: "Bệ hạ à, con cái sẽ không bao giờ đi trên con đường bằng phẳng mà cha mẹ sắp sẵn cho chúng đâu, quận vương điện hạ cũng không còn nhỏ nữa, thằng bé tỉnh táo, xuất sắc hơn rất bất cứ ai, có lẽ người hiểu tính tình của quận vương hơn, tùy hứng ngang ngược, tùy tâm sở dục, nhưng mà nó biết tiến lui đúng mực, hiểu nặng nhẹ, thằng bé sẽ vì chuyện thái tử mà hờn dỗi với người sao? Nếu như ý nó nằm ở ngôi vị hoàng đế, chẳng lẽ phải chờ đến tận bây giờ ư? Không dối gạt gì bệ hạ, bọn ta cũng từng nghĩ đến chuyện phò tá quận vương điện hạ để kiếm công, thế nhưng nếu như phò tá một người từ tận trong đáy lòng không muốn làm hoàng đế, đối với giang sơn Đại Cảnh, đối với dân chúng mà nói là chuyện tốt sao?"

Mặt mày Nguyên Thú đế xanh mét, không muốn thừa nhận rằng Trần Sư Đạo nói có lý.

Chu Bá Ung cũng quỳ xuống đất, nhưng lời khuyên của ông ta không giống với những người khác, mà là thẳng thắn biểu đạt suy nghĩ riêng: "Quận vương điện hạ đăng cơ, ngũ lang chắc chắn sẽ trở thành vật hy sinh, đó chỉ là chuyện sớm muộn, Thần cũng có lòng yêu con, mù quáng bởi tình riêng, mong bệ hạ thông cảm. Huống chi tình cảm của điện hạ và ngũ lang sâu sắc, nếu như ngũ lang chết vì trận đấu quyền lực giữa hậu cung và triều đình, làm sao biết được điện hạ sẽ không đau đớn quá độ, bệnh cuồng táng tâm? Biệ hạ phải hiểu, điện hạ trọng tình trọng nghĩa, giống hệt với Thôi cô nương năm xưa, hắn sẽ không vứt bỏ ngũ lang đâu."

Ai cũng nói rất có lý, về công về tư, Cung Tuấn đều không thích hợp làm hoàng đế, nhưng Nguyên Thú đế vẫn không tin.

Ông vẫn cố chấp với suy nghĩ của mình, đi theo con đường dẫn vào tăm tối.

"Thần mắc nợ ngũ lang rất nhiều, nếu như ngũ lang chịu uất ức, thần sẽ dốc hết lực lượng toàn tộc, dù có thí luôn mạng này cũng sẽ lấy lại công bằng cho nó."

Ý trong lời nói chính là một khi Cung Tuấn đăng cơ, hậu cung không thể để trống, con nối dõi không thể không có, ông ta sẽ không dễ dàng tha thứ triều thần nào chèn ép Chu Tử Thư, thà để hậu cung trống vắng, thiên tử tuyệt hậu!

Đây chính là uy hiếp!

Là một thần tử, lại chạy tới đây uy hiếp thiên tử, đúng là hoang đường!

Hoang đường!

Nguyên Thú đế nổi giận mắng mỏ nhóm người Chu bá Ung, đuổi bọn họ ra khỏi điện Văn Đức.

Nhưng sau đó người đến yết kiến là Khang vương, ông ta đến tự thỉnh tới đất phong, còn muốn đưa Cao đô tri đi theo cùng.

Khang vương nhẹ giọng nói: "Hoàng huynh, người nhà họ Cung thực chất vừa bội bạc lại vừa thâm tình, tình sâu nghĩa nặng với người mình yêu thương, thiên vị họ, nhưng lại bạc tình bạc ý với người ngoài, tâm địa sắt đá. Tiên đế đã thế, huynh cũng thế, đệ cũng như thế, nhưng Tử Uyên lại giống với Thôi cô nương hơn, không bội bạc giống chúng ta, nó xem trọng tình nghĩa, dù có trở thành hoàng đế cũng sẽ không cưới vợ nạp thiếp vứt bỏ Chu Tử Thư. Ngay cả bản thân hoàng huynh nữa, bao năm qua huynh chưa từng hối hận vì ban đầu không phản kháng tiên đế từ chối hôn sự sao? Hoàng huynh hãy tự hỏi lòng mình đi, nếu như Thôi cô nương còn sống, huynh có cam lòng để nàng chịu uất ức không?"

Người nhà họ Cung bội bạc từ trong máu, phụ nữ và tình yêu đều bị tổn thương bởi cú tấn công của quyền lợi, nói là thâm tình, nhưng một khi nắm được quyền lực mới hồ đồ vì tình yêu, cả đời chỉ rung động với một người, mười, hai mươi, ba mươi năm sau cũng không thay đổi.

Giống như tiên đế, cũng giống Nguyên Thú đế, vì ngôi vị hoàng đế mà để cho người phụ nữ mình thương uất ức thậm chí vứt bỏ họ, mà khi bọn họ nắm quyền hơn chục năm về sau, gạt bỏ được mọi khó khăn rồi mới muốn trao vô vàn yêu thương cho người mà bọn họ yêu.

Khang vương không có dã tâm, nhìn thấu mọi việc, ở bên cạnh Cao đô tri của ông ta đến nay đã qua nửa đời người, thật ra ông ta không nghĩ đến chuyện thủ thân như ngọc, trung trinh bất khuất, nhưng chỉ đơn giản là ngoại trừ ông ấy ra thì không thể là ai khác nữa.

Nguyên Thú đế đỏ mắt, không đáp mà chỉ hỏi lại: "Đệ cũng muốn đối nghịch với trẫm sao?"

Khang vương thầm thở dài, chắp tay bái biệt: "Bệ hạ, lúc làm thần tử, đệ mới sợ huynh, lúc làm anh em, đệ kính trọng huynh, dù có thế nào đi nữa, đệ cũng sẽ không đối nghịch với huynh đâu."

Nguyên Thú đế nhắm chặt hai mắt lại: "Chuyện tự thỉnh đất phong, trẫm không cho phép, về sau đừng nhắc đến nữa."

"Bệ hạ..."

"Cút ra ngoài."

Khang vương bất đắc dĩ, chỉ đành rời đi, để lại Nguyên Thú đế cô đơn một mình trong điện Văn Đức.

***

Biệt trang hoàng gia, Tây Giao.

Thái hậu chia ra Chu kiến Cung Chiêu Hành, Cung Chiêu Vấn và Cung Tuấn, âm thầm nói chuyện riêng với bọn họ, cuối cùng còn nói cho Cung Chiêu Vấn biết chỗ đặt di thể của Trịnh quý phi.

Cung Chiêu Vấn dập đầu nói lời cảm ơn, sau đó rời đi, tìm di thể của mẫu phi hắn.

Cung Chiêu Hành, Cung Tuấn và Chu Tử Thư vẫn còn ở lại biệt viện Tây Giao, thái hậu thì lên đường về cung trước, ngồi trong Phật đường nhỏ chờ hoàng đế tới.

***

Điện Từ Minh, Phật đường nhỏ.

Nguyên Thú đế cung kính đứng trước cửa ra vào chờ thái hậu thắp hương xong, đỡ tay bà ra phòng khách bên ngoài Phật đường ngồi xuống: "Sao thái hậu lại rời Tây Giao về sớm như vậy?"

Thái hậu khảy vòng Phật: "Lão Lục vừa mất mẹ đã bị phạt quỳ, cấm túc ở Tây Giao, hoàng đế không đau lòng vì con trai, nhưng ai gia đau lòng vì cháu trai đấy."

Nguyên Thú đế: "Nó ngỗ nghịch bất hiếu, trong mắt không có bề trên, cần phải chịu trừng phạt."

Thái hậu: "Người không còn mẹ mà vẫn có thể giữ bình tĩnh như thường mới nên phạt."

Nguyên Thú đế nhíu màu: "Hôm nay thái hậu gọi tới là để gọi tội trẫm sao?" Thái hậu nhìn Nguyên Thú đế chằm chằm: "Hoàng đế vẫn còn nhận ta là mẹ sao?"

Nguyên Thú đế biến sắc, cúi đầu rủ mắt, hơi kính cẩn nói: "Có lý nào mà con lại không nhận mẹ chứ? Dù trẫm có là Phật Như Lai tái thế cũng không thể không nhận người."

Thái hậu: "Nếu như vẫn còn biết ta là mẹ, thì đừng gây khó dễ cho mấy đứa cháu trai của ta."

Nguyên Thú đế: "Có ý gì?"

Thái hậu: "Chọn Thái tử khác, đừng làm khó Tử Uyên, cũng đừng lại mắc nợ những đứa con khác của con nữa."

Sắc mặt Nguyên Thú đế tối sầm lại, giọng điệu chuyển sang lạnh lẽo: "Mẫu hậu, người cũng muốn đứng ở phía đối lập với con trai sao?"

Thái hậu nhắm mắt, thở dài nặng nề: "Lão Đại à, con còn muốn mắc nợ bao nhiêu người nữa đây? Thôi Thanh Như, Xương Bình, Cung Tuấn, Chu Tử Thư, người nhà họ Chu... Còn có tiên hoàng hậu, Đông cung, quý phi ở bên con gần ba mươi năm, cả lão Tam, lão Tứ, lão Ngũ và lão Lục, tuy nói sấm chớp mưa sương đều là ơn trời, nhưng lòng người âu cũng chỉ là một miếng thịt mà thôi, bọn họ đúng là thần tử của con, nhưng còn là thân bằng tri kỷ, là vợ của con mà, tình cảm của cháu trai cháu ngoại đối với con đều không hề hời hợt, nhưng bọn họ cũng là người sống sờ sờ, biết đau biết hận biết yêu, không phải là quân cờ để mặc cho con chi phối."

Nguyên Thú đế vô cùng phiền lòng, cố gắng kiềm chế cơn giận của mình trước mặt người mẹ ruột mà ông tôn kính nhất.

Thái hậu mưu đoạt đế vị vì ông, sau đó công thành lui thân không tranh quyền nữa, chỉ thương yêu đứa con gái phạm sai lầm, sợ ông khó xử nên không muốn dùng quyền uy của thái hậu và hiếu đạo ép ông mở một mặt lưới.

Ông vẫn luôn nhớ kỹ công sức của thái hậu bao năm qua, mặc dù trời sinh tôn sùng phụ quyền cũng không thể sánh bằng lòng kính yêu mẹ mình.

Thái hậu ra mặt khuyên bảo, sức nặng khiến cho Nguyên Thú đế không dám tùy tiện bác bỏ.

"Mẫu hậu phải hiểu rõ, con trai vì điều đó mà trù tính ba mươi năm, từ khi con trai biết được sự tồn tại của Tử Uyên là đã quyết định vị trí hoàng đế này thuộc về nó rồi."

"Mẹ và con đều mắc nợ Thôi Thanh Như và Tử Uyên, đúng là Tử Uyên rất xuất sắc, khi đó nó có dã tâm, muốn có được ngôi vị hoàng đế, mẹ vui và thành toàn cho tình cha con của các con. Nhưng bây giờ Tử Uyên không muốn nữa, nó cũng không muốn vì ngôi vị hoàng đế mà vứt bỏ Chu Tử Thư, hoàng hậu Đại Cảnh càng không thể là một người đàn ông!" Thái hậu thở dài, "Có phải con đang thắc mắc vì sao trước giờ mẹ không nhúng tay vào chuyện lớn trong triều, bây giờ lại đột nhiên ra mặt nói chuyện đúng không? Trước giờ mẹ quen lấy đại cục và giang sơn làm trọng, mắc nợ quá nhiều người, bao năm nay ăn chay niệm phật vẫn không thể trả được nợ. Có lẽ là vì niệm Phật nhiều, chân tu được lòng từ bi, cho nên suy nghĩ mọi chuyện cầu toàn hơn, chỉ mong đám tiểu bối các con muốn gì được nấy, đừng tạo thêm sát nghiệt oan uổng nữa."

Thái hậu nắm chặt tay hoàng đế, tận tình khuyên nhủ: "Mẹ già rồi, bệnh tật kéo dài quấn thân, có thể sẽ không đi cùng con lâu nữa, nỗi lo đời này ngoại trừ con ra thì không còn gì khác, mẹ thật sự không muốn nhìn thấy dáng vẻ cô đơn bị mọi người xa cách của con."

Nguyên Thú đế xúc động: "Mẫu hậu nhất định có thể sống lâu trăm tuổi!"

Thái hậu cười hiền lành, ánh mắt nhìn Nguyên Thú đế tràn đầy yêu thương như ánh mắt của mọi người mẹ trong thiên hạ: "Nghe lời mẹ khuyên, buông tay đi. Con cháu có phúc của con cháu, thứ mà con muốn cho không chắc có thể khiến Tử Uyên vui vẻ. Nếu Như nương còn tại thế, chắc chắn sẽ ủng hộ sự lựa chọn của Tử Uyên."

Nguyên Thú đế cắn răng nói: "Thái tử gắn liền với giang sơn xã tắc, ngoại trừ Tử Uyên thì còn ai có thể gánh lấy trọng trách này đây?"

Thái hậu: "Lão Ngũ không được, lão Lục nản lòng thoái chí, còn có tiểu Thất, tiểu Cửu tiểu Thập Tam... Con ta đương tuổi tráng niên, thân thể khỏe mạnh, triều thần xương cánh tay vẫn còn lắm người tài giỏi, học rộng hiểu nhiều, văn có thể trị nước, võ có thể an bang, lo gì không thể dạy ra một tân quân nhân hậu có tài trị quốc chứ?"

Nguyên Thú đế im lặng không nói.

Thái hậu đã nhìn ra ông bị lung lay, vì thế bỏ thêm dầu vào lửa.

"Mẹ biết rõ con muốn tốt cho Tử Uyên, mẹ khuyên con nhìn như là để cầu viên mãn cho đám cháu chắt, thật ra là thiên vị con. Mẹ không muốn thấy các con quân thần bất thuận, cha con bất hòa, con thiên vị Tử Uyên, thật ra không phải không yêu thương đám lão Lục."

Câu này nói trúng lòng Nguyên Thú đế, đối với Đông cung và đám lão Lục, đúng thật là ông đã tỏ ra máu lạnh, nhưng không có nghĩa là trong lòng không áy náy, chỉ là cảm xúc đó cực kì bé nhỏ, bây giờ bị thái hậu phóng to ra mà thôi.

"Con có lòng yêu thương con mình, mẹ cũng vậy."

Nguyên Thú đế đã hoàn toàn cảm động: "Con trai bất hiếu."

"Nuôi con đến trăm tuổi, lo âu chín mươi chín năm." Thái hậu vỗ cánh tay Nguyên Thú đế: "Con hãy suy nghĩ kĩ đi, đừng để đến cùng chẳng ai được vui vẻ."

Nguyên Thú đế thỏa hiệp, "Con trai sẽ suy nghĩ kĩ."

Nói như vậy, thái hậu đã hài lòng rồi.

***

Khẩu dụ được truyền xuống, nhóm người Cung Tuấn mới được rời khỏi Tây Giao.

Chu Tử Thư chân trước mới vừa bước vào phủ quận vương, chân sau đã bị đại thái giám đến mời tiến cung, gặp Nguyên Thú đế ở hồ Long Đình.

"Vi thần tham kiến bệ hạ."

"Ngồi đi." Nguyên Thú đế vỗ vỗ vị trí bên người, bảo Chu Tử Thư ngồi xuống, không thèm nhìn y mà hỏi: "Trẫm định sẽ để Tử Uyên trở thành Thái tử, ngươi nghĩ thế nào?"

Chu Tử Thư: "Bệ hạ mong ta trả lời với thân phận thần tử hay là thân phận quận vương phi đây ạ?" Nguyên Thú đế: "Nói hết đi."

Chu Tử Thư: "Là thần, thần không cho rằng Cung Tuấn có thể là một hoàng đế tốt. Là vợ, ta không muốn chàng trở thành Hoàng đế."

Nguyên Thú đế: "Tử Uyên trong lòng ngươi bất trị như vậy sao?"

"Hoàn toàn ngược lại." Chu Tử Thư đưa ra nghi vấn: "Bệ hạ, người cảm thấy Đại Cảnh hiện tại như thế nào? Dân chúng như thế nào?"

"Quốc thái dân an, trời yên biển lặng, thiên hạ thái bình."

"Bệ hạ, người cảm thấy gây dựng sự nghiệp khó hay là giữ vững sự nghiệp khó?"

Nguyên Thú đế nghe vậy liền biết nông sâu, bấy giờ mới quay đầu sang nhìn Chu Tử Thư: "Gây dựng sự nghiệp khó, giữ vững sự nghiệp càng khó hơn."

"Thần lại cho rằng việc phục hưng mới khó. Thứ cho thần nói thẳng, thánh tổ chính là vị vua gây dựng toàn bộ sự nghiệp và để lại nó, tự thực hiện tiết kiệm, mà bệ hạ chính là vị vua phục hưng, chịu nhiều khổ cực, cứu nước khỏi sóng dữ, lấy lại vinh quang cho quốc gia, đều là thế hệ tài trí mưu lược kiệt xuất, tân quân tiếp bước, ngày nay khắp nơi đều đã ổn định, phồn vinh hưng thịnh, đúng là lúc cần có một vị vua nhân từ gìn giữ cơ nghiệp trước, duy trì sự ổn định thái bình này. Bệ hạ, người cảm thấy Cung Tuấn thích hợp trở thành một vị vua giữ gìn cái đã có sao?" Không ai hiểu con bằng cha.

Cung Tuấn có thể trở thành vị vua lập đô phục hưng, hắn chỉ không thể trở thành vị vua gìn giữ cơ nghiệp trước, trên người hắn phủ đầy huyết tính lệ khí, chính trực quyết đoán, không thể làm vị vua nhân tự trị quốc như vậy được.

Cả triều văn võ, bao gồm cả Thái hậu đều đã khuyên nhủ, nhưng không có một ai trực tiếp đâm chọc uy hiếp Nguyên Thú đế như Chu Tử Thư cả, cũng là một người yêu thương Cung Tuấn, y mới có thể nhìn thấu được bản chất của hắn, về công về tư đều hiểu rõ Cung Tuấn không thích hợp làm hoàng đế.

"Coi như ta đã hiểu được vì sao Tử Uyên lại chung tình với một mình ngươi rồi." Nguyên Thú đế giật mạnh cần câu lên, con cá nhảy trên không trung hai lần, nuốt được mồi câu rồi bèn giãy giụa. nhảy ngược lại xuống hồ, "Ngươi có hận trẫm không?"

"Không dám."

"Là không dám, không phải không có."

Chu Tử Thư im lặng một lát, thản nhiên nói: "Thật là là không hề hận, người không làm gì có lỗi với ta cả."

Y chưa bao giờ yêu cầu xa vời rằng Nguyên Thú đế phải đối xử đặc biệt với mình, cho nên không cảm thấy tất cả những hành động xuất phát từ lợi ích, vì tình riêng của ông có chỗ nào có lỗi với y cả, không rõ bổn phận mà lại đòi hỏi đúng sai với đế vương, đúng là tự làm khó bản thân mình.

"Biết thói đời mà lại không sành đời, khéo đưa đẩy nhưng lại quá ngây thơ. Chu Tử Thư, ngươi cứ như thế đi, đừng thay đổi. Trẫm lại muốn xem các ngươi có thể đi được bao lâu, Tử Uyên có hối hận với sự lựa chọn của nó hôm nay hay không, trẫm còn muốn nhìn thêm chút nữa..."

Chu Tử Thư chờ một hồi lâu sau, nhưng Nguyên Thú đế chỉ phất phất tay cho y lui ra ngoài.

"Nghịch tử kia sợ ngươi chết ở trong thâm cung này, lén lút đi theo sau ngươi vào đây, đang chờ ở bên ngoài hồ Long Đình đấy, nếu không thả ngươi ra, sợ là nó sẽ xông vào đây, làm trẫm cụt hứng mất." Chu Tử Thư ho nhẹ hai tiếng: "Thần cáo lui."

Đợi y vừa đi, Nguyên Thú đế đã tiếp tục nhìn chằm chằm vào mặt hồ tĩnh lặng, rất lâu sau mới nhẹ giọng rầm rì một câu: "Trẫm và Như nương không thể chết già, cho nên muốn xem các ngươi có thể hạnh phúc đến cùng, bên nhau tới bạc đầu hay không."

***

Chu Tử Thư thật sự nhìn thấy đại thái giám thấy chết không sờn đang đứng trước mặt Cung Tuấn, y vừa đến gần, Cung Tuấn cũng vừa nhấc mắt lên gọi y đến.

"Tiểu lang."

Đại thái giám xoay người, lập tức thở hắt ra: "Lão nô tham kiến Chu đại nhân." Chu Tử Thư cười cười, "Đi thôi." Hai người kề vai sát cánh xuất cung.

Cung Tuấn: "Ông ấy không gây khó dễ cho em chứ?"

Chu Tử Thư: "Hỏi ta vài lời thôi, đã buông bỏ ý định lập chàng làm Thái tử rồi, hồi ở Tây Giao chàng đã làm những gì vậy?"

Cung Tuấn bèn thuật lại đơn giản dư tình của dân gian, lời khuyên can của triều thần và thái hậu một lần: "Ta tỏ thái độ trước, sau đó đến ý kiến và thái độ của dân chúng, có điều chúng không thể dao động bệ hạ. Lúc này đến lượt các triều thần phản đối, sức nặng của bọn họ cũng chưa đủ, nhưng tài ăn nói của Thập thúc, mấy vị tể tướng và Trần thái sư rất cao minh, tư duy nhanh nhẹn, có thể nói có sách, mách có chứng lay động bệ hạ, cho ông ấy biết rằng khắp thiên hạ này ngoại trừ ông ấy ra, không ai đồng ý để ta trở thành Thái tử cả. Cuối cùng mới cầu xin đại Phật ra tay."

"Thái hậu ư?"

"Đêm tiệc nhà, em nói cho ta biết thái độ của thái hậu, ta đã biết bà ấy sẽ đi khuyên bệ hạ, cũng chỉ có bà ấy mới có thể thật sự khuyên được bệ hạ thôi."

"Nếu như bệ hạ vẫn quyết giữ ý mình, ai nói cũng không nghe, vậy thì chàng phải làm sao bây giờ?"

"Còn có thể làm sao nữa? Dắt em đi trốn thôi."

Chu Tử Thư nở nụ cười, lắc người huých Cung Tuấn một cái: "Không đứng đắn."

"... Thành thật đi, chàng chưa từng nghĩ đến chuyện có con nối dõi sao?"

"Nếu như ta có chấp niệm với con nối dõi, thì đã phải để lại hạt giống từ lúc cổ độc vẫn chưa xâm nhập vào xương cốt tứ chi rồi." "Ta muốn ăn heo sữa quay và rượu ngâm tuyết quá."

"Em đánh trống lảng cũng nhanh đấy nhỉ... Trời vẫn còn sớm, giờ này đi có thể ngồi ở trên lầu đấy."

"Vậy thì tranh thủ thời gian đi thôi. Nói thật, lúc được mời vào cung ta đã chuẩn bị tâm lý rồi, cứ sợ là sẽ bị ban cho một ly rượu độc..."

"Xem truyện ít thôi tiểu Chu đại nhân của ta à, trí óc tỉnh táo thông minh của em đã sắp hỏng đến nơi rồi."

"Đây là chuyện hoàn toàn có khả năng xảy ra mà, đừng có việc gì cũng đổ lỗi cho thoại bản nữa... Ta còn chưa nhắc đến chuyện chàng lén lút đọc bí hí đồ đây, đừng nghĩ ta không biết chàng là khách quen của mấy tiệm sách kia, mỗi tháng có hàng mới chàng đều mua rất bạo tay nha, ta còn thắc mắc vì sao chàng lại biết đủ trò như vậy... Cung Tuấn, chàng đừng có im lặng, ê, đi chậm thôi!"

Trên cung đạo, chủ đề trò chuyện của Chu đại nhân và Lâm An quận vương dần chuyển thành chuyện không thể nói được, cũng may trái phải không có người, bằng không thì sắp tới phủ Kinh Đô sẽ lại có một vở kịch tình yêu mới mà thôi.

Sau khi nghĩ sâu tính kỹ, cuối cùng Nguyên Thú đế cũng hủy bỏ lập trữ, nhưng đại điển truy phong Thôi Thanh Như làm hoàng hậu vẫn diễn ra như cũ, thân phận Đại hoàng tử của Cung Tuấn cũng được khôi phục, ông không thể tiếp tục khoan nhượng để tên của con trai mình treo trên gia phủ nhà Tĩnh vương nữa.

Ngũ hoàng tử vẫn còn ở lại Hộ bộ phủ Kinh Đô làm việc, Lục hoàng tử xin đất phong ở Định Châu, sau tết trùng cửu là lên đường, nếu không có chuyện gì ngoài ý muốn, e là hắn sẽ không trở về kinh nữa.

Trước khi lên đường, hắn ta đến điện Văn Đức cầu ý chỉ, chỉ có những người thân thiết gần gũi mới biết hắn ta đến cầu Nguyên Thú đế khai ân, đừng chôn cất di thể của quý phi vào phi lăng.

Mặc dù theo lý là không hợp, nhưng xuất phát từ lòng áy náy, Nguyên Thú đế vẫn đồng ý với yêu cầu của hắn ta.

Cứ thế, mọi chuyện đều đã kết thúc, chỉ là vẫn còn phải tổ chức nghị sự để chọn Thái tử, Nguyên Thú đế quyết định sẽ chọn từ những hoàng tử nhỏ tuổi để dạy dỗ, lần này ông tính để cho tam công cửu khanh đến dạy.

Tất cả các hoàng tử đều được đối xử như nhau, đến lúc đó chọn ra một người thích hợp nhất trong số đó để lập trữ.

Chủ ý đã định, không ai phản đối, Nguyên Thú đế tự thiết kế ý định của mình, chỉ định Chu Tử Thư làm Thiếu sư của hoàng tử, ngày sau lập trữ sẽ trở thành Thái sư của Thái tử, phò tá Thái tử đến khi đăng cơ mới thôi.

Trong đám hoàng tử, đứa nhỏ tuổi nhất vẫn còn chưa được mười tuổi, Nguyên Thú đế còn có thể tại vị ít nhất là mười năm nữa, đến khi Thái tử đăng cơ, Chu Tử Thư với tư cách là Thái sư của Thái tử nhất định còn cần phải hỗ trợ cho đến khi triều cục ổn định, mà hoàng đế chắc chắn sẽ không tha người, chẳng lẽ phải đợi đến tận hai mươi năm nữa mới được từ quan hay sao?

Cung Tuấn đuổi thái giám đến truyền chỉ ra khỏi phủ quận vương, cho rằng Nguyên Thú đế cố tình cản bước hắn, có điều mới vừa rồi hắn đã ép Nguyên Thú đế cúi đầu lui một bước lớn, bây giờ không có lý do gì để vào cung quậy một trận nữa, chỉ khổ cho tiểu Bồ Tát của hắn thôi.

Thế là hắn rầu rĩ không vui, tự tức tối một mình, từ sáng sớm đã ra sân khua đao múa thương, chưa trút được lửa giận lại chạy vào Phật đường gõ mõ hết nửa canh giờ, chép kinh Phật một canh giờ, giữ chừng đột nhiên chạy đến trước mặt Chu Tử Thư, nhìn y chằm chằm.

Chu Tử Thư bình tĩnh như thường, tiếp lục làm việc đang làm.

Nghiên Băng đến hỏi bài thấy thế thì sợ hãi từ tận đáy lòng, cậu thấy Cung Tuấn ngồi đó một lát rồi chẳng nói chẳng rằng đứng lên bước đi thẳng, không khỏi ôm bụng nghi ngờ: "Ngũ lang, quận vương bị cái gì đả kích vậy ạ?"

"Ăn chút bực bội, tự tức giận với mình ấy mà." Chu Tử Thư vui vẻ cười rộ lên, giải đáp mấy câu ngắn ngọn cho vấn đề mà Nghiên Băng đang thắc mắc, đợi cậu hiểu rồi mới cầm thoại bản lên tiếp tục đọc, vừa khéo đọc tới lời bình của nhân vật chính trong sách, thuận miệng nói ra: "Đời này thong dong trời đừng hỏi, xưa nay mọi sự chảy về đông."

Ánh mặt trời xuyên qua khung cửa chiếu vào trong nhà, chùm hoa lăng tiêu nghiêng mình trên mái nhà rũ xuống bên ngoài cửa sổ, chiếc chuông màu cam xinh xắn hồn nhiên đong đưa theo gió tựa như bông hoa nhỏ, rung rinh tràn ngập sự sống.

Chu Tử Thư duỗi eo duỗi cổ, có hương hoa, có mùi nắng, cũng có mùi nước mực thư hương chưa khô thoang thoảng qua cánh mũi, hít một hơi vào phổi mà lòng sáng dạ thông, mặt mày không khỏi nheo lại, y thở dài:

"Một phen xuân rồi đến thu, thế sự biết bao ưu phiền, tận hưởng thú vui trước mắt thôi chứ nhỉ."

=== HOÀN CHÍNH VĂN ===

***

Min: Ta da ~ cuối cùng mình cũng đã hoàn thành chính truyện kịp trước tháng 10 (là tròn một năm) rồi nè. Vẫn còn tới tận 11 ngoại truyện nữa mình sẽ từ từ edit, vì chương nào nó cũng dài như chương bình thường 🤣

Cảm ơn mọi người đã chờ đợi và ủng hộ mình suốt thời gian qua, còn rất nhiều lời mình muốn nói nhưng có lẽ mình sẽ để dành lại đến ngoại truyện cuối rồi nói luôn một thể nha ❤ Love you all sooooo much

Ngoại truyện 1 • Phù sinh nửa buổi nhàn*

(*) Nguyên văn: Trộm được phù sinh nửa buổi nhàn – 偷得浮生半日闲

(Nguồn: Tu Viện Thiện Tường): Một câu thơ của nhà thơ Lý Thiệp thời Đường. Phù sinh chỉ cuộc đời, nên câu thơ có thể hiểu rằng trộm được nửa ngày nhàn nhã trong dòng đời vội vã.

Dịch nghĩa:

Sống say chết mộng mãi mê mang / Chợt nghe Xuân hết, gắng đăng san / Cùng tăng trò chuyện trên sân trúc / Trộm được phù sinh nửa buổi nhàn!

(- Lý Thiệp đời Đường, Sakya Minh-Quang dịch -)

***

Chu Tử Thư về kinh báo cáo công tác xong là tháo chức Kinh lược sứ, quan phục nguyên chức, vẫn là một thân kiêm hai công việc, có điều đổi từ Ngự sử trung thừa dành Hoàng tử Thiếu sư, tạm thời có kha khá nhiều thời gian rảnh rỗi.

Sau khi phủ Kinh Đô được thay đổi thành mô hình sương phường, nha dịch giữ gìn trị an phải trải qua quá trình đào tạo, huấn luyện xong mới được nhậm chức, Chu Tử Thư cũng phổ biến cơ chế vận hành giám sát và báo cáo lẫn nhau, đề phòng công sai nha dịch và thương nhân lòng dạ hiểm độc cấu kết với nhau phá hỏng cán cân thị trường.

Đám trộm cắp thường hành sự vào ban ngày ban mặt không thể nói là biến mất chẳng thấy tăm hơi, nhưng hầu như đều giấu đầu giấu đuôi không dám quậy phá nữa, vì vậy những vụ án gạt người lừa tài sản và những vụ báo thù vì bị lừa gạt đã giảm bớt đi rất nhiều.

Chu Tử Thư nhậm chức Tri phủ Kinh Đô đã bốn năm nay, tỉ lệ phạm tội trong phủ và huyện dưới quyền giảm mạnh, nhờ thực hiện an ninh trật tự bằng cách "không nhặt của rơi trên đường, ban đêm không cần đóng cửa" mà buôn bán trở nên phồn vinh, thuyền bè ra vào bến thuyền, cửa sông của bốn kênh Kinh Đô gần như không có lúc nào ngừng nghỉ, nhiều nước bạn đến thăm, có thể gặp người nước ngoài mũi cao mắt sâu đến đây kinh doanh hoặc giao lưu văn hóa ở bất kì một con phố hay nhà trọ nào.

Chu Tử Thư chưa từng tận mắt nhìn thấy bốn phương tám hương Khai Nguyên* thịnh thế trong lịch sử ở đời trước, nhưng có lẽ nó cũng không khác gì mấy so với thịnh thế trước mắt y bây giờ.

(*) Khai Nguyên (niên hiệu của vua Đường Huyền Tông tức vua là Lý Long Cơ công nguyên 713-741

"Tiểu Chu đại nhân, hôm nay lão có cua rượu mới vừa ngâm đêm qua, ngài có muốn mua hai con không?"

Lúc qua cầu trong chợ, ông lão bán cua ngâm rượu trên cầu đã coi y như khách quen rồi, nhìn thấy Chu Tử Thư là gọi người lại ngay.

Chu Tử Thư tiếc nuối từ chối: "Mấy ngày nay sức khỏe không ổn lắm, đại phu đã dặn ta không được ăn đồ lạnh, nếu không sẽ bị đau bụng." Y lắc tay lia lịa, "Thật sự không dám tham ăn."

Ông lão nghe vậy cũng tỏ vẻ tiếc nuối, lập tức nghĩ đến một chuyện: "Quán rượu ở bên kia sông mới vừa cho ra lò món mới, gọi là món dê con hấp nhừ, đó là một món ăn nổi tiếng khắp Kinh Đô này, mỗi ngày đều có thể thấy quý nhân ra vào xếp hàng chờ. Nghe nói nguyên liệu được chọn từ dê non Đồng Châu, thịt dê vừa tươi sạch vừa mềm ăn rất ngon, lúc chế biến người ta dùng trà hạnh nhân và các loại gia vị khác để nêm nếm, nấu xong mới bưng lên bàn, không thể dùng đũa gắp mà phải dùng muỗng múc mà ăn."

Chu Tử Thư nghe mà thèm nhỏ dãi: "Sao ông lại biết rõ thế?"

Ông lão vỗ đùi nói: "Hàng xóm của lão gả con gái đi, gả được vào gia đình tốt, lúc làm tiệc cưới có đặt món thịt dê hấp nhừ này để đãi, ăn xong một lần nhớ mãi không quên, hay nhắc đi nhắc lại bên tai lão ấy mà."

Chu Tử Thư giấu tay đi, đứng ở đầu cầu, ánh nắng chiều phủ khắp mặt sông rộng lớn, sóng gợn lăn tăn, thuyền hàng đậu rải rác, còn có một chiếc thuyền đi qua dưới cầu, bên bờ có người kéo thuyền đang lôi thuyền vào, cành liễu ở hai bên bờ sông rũ xuống đón gió.

Quán rượu mà ông lão chỉ đúng là đông nghìn nghịt khách, bên cạnh là một nhà bán rượu lâu năm, cờ hiệu trước cửa phấp phơi trong gió, hương rượu nhẹ nhàng bay xa mười dặm, Chu Tử Thư đứng ở tận đầu cầu bên này mà còn có thể ngửi được mùi thơm kia.

Mặc dù không bằng một phần trăm của đời trước, nhưng vẫn có thể thấy được, đây đã là một thế giới phồn hoa thịnh vượng mấy ngàn năm nay chưa từng thấy rồi.

Chu Tử Thư mỉm cười, nói: "Nhờ ông đề cử, ta sẽ thử đến đó xem có thể đặt được món thịt dê hấp nhừ quán bọn họ không." Nói xong thì tạm biệt ông lão.

Đến trước quán rượu, trời hãy còn sớm, y thật sự bước tới chỗ biển hiệu chờ đặt hàng, gọi phục vụ giao hàng rồi hẹn giờ giao đến phủ Trần Sư Đạo, lúc gần đi sẵn tiện dặn dò chủ quán: "Làm xong việc rồi, còn thừa một chén hãy đưa đến chỗ ông lão bán cua ngâm rượu ở đầu cầu nhé."

Ông chủ quán rượu vỗ ngực đảm bảo: "Đại nhân cứ yên tâm, ta nhớ rồi." Chu Tử Thư để bạc lại rồi đi.

***

Dạo chợ mua thêm một vài món ăn nóng hổi như thịt lừa nướng, thịt thỏ nướng than,... xong xuôi, Chu Tử Thư mang chúng đến nhà thăm Trần Sư Đạo, tiện thể bàn bạc với ông cụ xem phải làm sao để trở thành một Hoàng tử Thiếu sư tốt, dù sao thì Thái sư Trần Sư Đạo cũng là người có khá nhiều kinh nghiệm.

Bước vào tiền thính Trần phủ, Chu Tử Thư ngạc nhiên phát hiện Cao đồng tri và Chu Bá Ung cũng có mặt.

Chu Bá Ung thoáng nhìn sang Chu Tử Thư, lập tức đứng dậy, một lúc sau mới nhớ hành động này của ông quá dễ gây sự chú ý với người khác, thế là bèn ngại ngùng ngồi xuống trở lại.

Cái mũi già tham ăn của Trần Sư Đạo khịt khịt, bấy giờ mới ngửi ra được trong túi giấy dầu trên tay Chu Tử Thư có cái gì, đọc lên từng món một, rồi ông cụ tỏ vẻ tiếc hùi hụi, nói: "Đồ ăn ngon thế mà lại không có rượu ngon ướp lạnh để nhắm, tiếc quá tiếc quá."

Chu Tử Thư: "Tiệm rượu bán rượu tuyết ngâm hoa mai nằm ngược với đường con đến đây, vừa nãy vào phủ con đã gọi tiểu đồng đi mua rồi, có lẽ bây giờ đang trên đường về đấy ạ."

Mặt mày Trần Sư Đạo thoáng cái hớn hở: "Thầy thích ngũ lang đến làm khách lắm đấy, lúc nào cũng hiểu lòng thầy cả."

Chu Tử Thư: "Con là học sinh của thầy, không mang theo chút đồ ăn thì nào dám tới gặp thầy? Thầy đó, thầy ăn được món gì, thích ăn món gì, con đều nhớ rất rõ."

Trần Sư Đạo: "Thành thật quá đi thôi, đến Đại lang còn chẳng hiểu thầy bằng con nữa."

Đoạn đối thoại của hai thầy trò bọn họ vô cùng tự nhiên, nói lời nào cũng đều lộ ra sự thân mật khiến cho Chu Bá Ung ngồi bên cạnh nghe mà lục phủ ngũ tạng đều chua xót, vô thức hừ một tiếng, vừa hừ xong đã phải nhận lấy mũi nhọn mà Trần Sư Đạo nhắm tới.

"Lòng dạ phủ tạng xấu xa rất dễ dẫn tới tâm trạng bất mãn, mà tâm trạng bất mãn thì giọng sẽ không nghe lời, mấy kẻ quái gở thích hừm hừ đúng là khiến người ta phát ghét... Chu tế chấp, ông thấy ta nói như vậy có lý không?" Chu Bá Ung miễn cưỡng làm mặt cười, đáp lại hai tiếng rồi thôi.

Trần Sư Đạo đắc ý, vỗ bàn ý bảo Chu Tử Thư mau mang đồ ăn đến đặt xuống, sau đó lệnh cho nha hoàn cầm chén đũa và chung rượu tới, ấy vậy mà lại không cắt bớt một bộ chén đũa của Chu Bá Ung, khiến cho một người đường đường là tế chấp kích động đến nỗi mất một lúc lâu sau lòng mới có thể yên tĩnh trở lại.

Đây chính là đồ ăn tự tay ngũ lang mua tới, nói cho vuông thì chính là con trai nhỏ của ông vì ông mà xuy kim soạn ngọc, làm sao có thể không quý trọng cho được?

Chu Bá Ung nhai chậm nuốt chậm, thỉnh thoảng tự cho là kín đáo quan sát Chu Tử Thư, vểnh tai cẩn thận lắng nghe y và Cao đồng tri, Trần Sư Đạo bàn bạc về việc dạy dỗ các hoàng tử thế nào.

Nguyên Thú đế hạ chỉ, lệnh cho bốn người bọn họ, trong đó có Lư tri viện giữ chức thầy giáo của các hoàng tử, hai người phụ trách giảng văn học và thuật trị nước, hai người còn lại phụ trách dạy võ, rèn luyện thân thể.

Trần Sư Đạo đã quá quen với quá trình thụ nghiệp và giải hoặc, "Tùy theo khả năng tới đâu mà dạy tới đó, bốc thuốc đúng bệnh. Các ngươi không thể biết rõ tư chất, tính tình của các hoàng tử ngay được, cần phải thấu hiểu trước rồi mới có thể tiến tới việc đưa ra định hướng giáo dục cho bọn họ. Dù sao thì cũng phải đối xử với bọn họ khác hoàn toàn với học sinh trong thiên hạ, thái tử được chọn ra từ trong số đố, cần phải thận trọng từng bước một, tránh mắc phải sai lầm, di họa bá tánh."

Chu Tử Thư gật đầu.

Cao đồng tri cũng nêu ra một vài quan điểm của mình, thậm chí đến Chu Bá Ung cũng truyền đạt một số hiểu biết của mình về mấy vị hoàng tử.

Lúc đối mặt với ông, Chu Tử Thư cố gắng khiến cho biểu cảm của mình không thay đổi quá nhiều, trông như bình thường, thật ra trong lòng y hơi bối rối, mặc cho ai đó vô thức thể hiện sự niềm nở, trông mong nhìn thấy biểu cảm của y, nói chung là không được tự nhiên lắm.

Chu Bá Ung mà y biết là một người nghiêm khắc hay quát mắng, không bao giờ thay đổi sắc mặt chán ghét, đột nhiên thái độ quay ngoắt, đã bốn năm rồi mà y vẫn cảm thấy lạ lẫm.

"Nhiệm kỳ của Tri phủ Kinh Đô dài nhất cũng chỉ năm năm, tính thêm một năm đến Tây Bắc nhậm chức Kinh lược sứ nữa thì cũng đã sắp kết thúc nhiệm kỳ rồi. Bây giờ con là Hoàng tử Thiếu sư, sẽ không dễ gì bị phái rời kinh nữa, xét thấy trước đây con đã từng nhậm chức Thuế vụ sứ, cái ghế Đạc chi sứ Tam ty đang trống, có khả năng sẽ để con bổ khuyết vào đó."

Trò chuyện vấn đề hình thức dạy học xong, trong một khoảnh khắc im lặng, Chu Bá Ung đột nhiên lên tiếng.

Chu Tử Thư nhận ra mình đang nói chuyện với ông thì hơi sửng sốt, sau đó gật đầu đáp lại một tiếng.

Chu Bá Ung hơi thất thần, nhưng rồi cũng nhanh chóng bình tĩnh lại để nói sang vài chuyện khác, "Tết Trùng Cửu sau thu thì phải leo cao ngắm cảnh, theo thường lệ còn phải tổ chức tiệc ngắm hoa cúc. Chỉ tiếc trong phủ không có danh thắng núi cao nào, cũng ít chỗ có thể leo lên cao... Ta nhớ Trùng Cửu năm ngoái có một bữa tiệc ngắm hoa rất lớn đã được tổ chức ở vườn Ngọc Tân trên danh nghĩa của Quảng Bình quận vương, nghe nói văn nhân nổi tiếng trong phủ đều đến đó? Năm nay không biết có tiếp tục tổ chức nữa hay không, ngũ lang sẽ đến chứ?"

(*) Tết Trùng Cửu (hay còn gọi là Tết Trùng Dương, Tết người cao tuổi, Tết người già, chính là ngày 9/9 Âm lịch hằng năm theo phong tục của người Trung Quốc. Con số 9 được coi là số dương và sự lặp lại hai lần của nó trong ngày 9/9 chính là lý do mà nó được gọi là Trùng Cửu, Trùng Dương.

Ở Việt Nam trước đây vào thời Lý - Trần các nho sĩ cũng tổ chức leo núi, uống rượu hoa cúc gọi là thưởng tết Trùng Dương. Mặc dù hiện nay Tết Trùng Cửu không có sức ảnh hưởng lớn trong văn hóa của người Việt Nam nhưng nó vẫn được coi là một ngày lễ quan trong của Nho giáo.

Cao đồng tri im lặng đặt chung rượu xuống, che mặt không nói gì.

Trần Sư Đạo dùng tay áo che khuôn mặt cười nhăn nhở, tài nói chuyện phiếm tẻ nhạt đến thế thì có thể mong được đáp lại cái gì chứ?

Chu Bá Ung không hiểu lắm, vẫn là Chu Tử Thư giải thích thắc mắc giúp ông: "Tiệc ngắm hoa cúc năm ngoái xảy ra xung đột, các chính khách nổi tiếng và văn nhân đánh nhau tơi bời, đập nát rất nhiều cây hoa cúc có giá trị rất lớn trong vườn, Quảng Bình quận vương tức bệnh hơn nửa tháng, chắc mấy năm sau này sẽ không tổ chức thêm bữa tiệc ngắm hoa cúc nào nữa đâu." "Vì sao mà lại đánh nhau tơi bời?" Chu Bá Ung hỏi.

Chu Tử Thư thấy trên mặt ông toàn vẻ tò mò, bèn nói kỹ hơn: "Nguyên nhân là do một học sinh vừa thi đậu tỉnh cùng với một học sinh trong phủ vừa trúng cử Quốc Tử Giám đã thi làm thơ từ một chậu hoa cúc tím, hoa cúc tím kia được một ca cơ có vẻ ngoài xinh đẹp ôm lấy, hai người đều muốn thể hiện trước mặt cô gái xinh đẹp đó, kết quả làm được câu thơ trích dẫn cùng một điển cố, không thể phân tranh, không ai nhường ai bèn chửi mắng lẫn nhau, phát sinh tranh cãi, sau đó..." Y hồn nhiên chẳng hay biết Chu Bá Ung đang nhìn mình bằng ánh mắt yêu thương, mà Chu tế chấp dẫn dắt ba ngàn môn đảng cũng không hề nhận ra điều đó, "... Thật ra đến cùng cũng chỉ là học phái bần hàn tranh đấu với đệ tử sĩ tộc thôi, chẳng ai phục ai cả."

"Hóa ra là vậy, chỉ cần nhìn sơ qua là hiểu được toàn bộ sự việc rồi." Chu Bá Ung: "Ngũ lang nhanh nhạy thật."

Chu Tử Thư nghe vậy thì nhướn mày, nhanh chóng nhận ra, chỉ cúi đầu cười không nói gì.

Chu Bá Ung thấy tốt thì lấy, lúc này mới "thu binh".

Ngược lại Cao đồng tri lên tiếng: "Sơn Hà lâu là một nơi đáng đến, nó nằm giữa dãy núi, gần sát trời sao, vừa có thể bắt chước người xưa leo núi ngắm cảnh, vừa có thể tổ chức tiệc ngắm cúc, chỉ tiếc không cho bên ngoài mượn chỗ, cũng không mở cửa cho người ngoài vào."

Chu Tử Thư: "Ta nhớ Sơn Hà lâu không có trồng cúc."

Cao đồng tri: "Bữa tiệc ngắm cúc của Quảng Bình quận vương có một nửa danh phẩm được mượn từ Sơn Hà lâu tới đấy."

Chu Tử Thư ngạc nhiên: "Ta không biết chuyện ấy."

Ba người còn lại đều nhìn về phía y, Trần Sư Đạo nói: "Nói như vậy, ngũ lang thường xuyên ra vào Sơn Hà lâu hay sao?" Chu Tử Thư: "Bệ hạ ban cho Cung Tuấn."

"Chẳng trách." Trần Sư Đạo đập bàn, bừng tỉnh ngộ ra: "Bảo sao điện hạ lại giấu kín bưng không khoe ra ngoài."

Lúc này đã có người giao món thịt dê hấp nhừ tới trước phủ, khi nắp hộp sơn vàng vừa được nhấc lên cũng là lúc mùi thơm xộc vào mũi, dẫn dắt cơn thèm ăn trong dạ dày của Trần Sư Đạo ra, ông cụ chẳng nói lời nào mà vùi đầu vào ăn uống cật lực.

Ăn no nê xong là đến buổi chiều, bọn họ quây quần uống trà giải ngấy, nói thêm một vài chuyện trong triều nữa, không lâu sau đó thì ai về nhà nấy.

Rời khỏi Trần phủ, Cao đồng tri kéo Chu Tử Thư vào trong góc hỏi nhỏ: "Đến tết Trùng Cửu có thể cho phép lão phu đưa phu nhân đến Sơn Hà lâu không?"

Chưa chờ Chu Tử Thư đáp lại, Cao đồng tri đã chủ động nói rõ nguyên nhân: "Phu nhân thích hoa cúc lắm, nhưng lại không khéo tay."

Chu Tử Thư đã hiểu, "Ta sẽ nói lại một tiếng, nhưng ông cứ đến đi, không sao đâu."

Cao đồng tri nói lời cảm ơn rồi đi.

Khi Chu Tử Thư chuẩn bị về phủ quận vương, xe ngựa của Chu phủ dừng ở bên cạnh, Chu Bá Ung ngồi trong xe nói: "Chở con đi một đoạn nhé." Chu Tử Thư lịch sự từ chối: "Phủ quận vương ngược đường với Chu phủ."

Chu Bá Ung: "Đi vòng thêm một vòng thôi mà."

Chu Tử Thư: "Không cần đâu, đường từ Trần phủ về phủ quận vương không xa, ta đi bộ về cho tiêu cơm được rồi." Y chắp tay cáo từ, xoay người đi ngay, không nhìn thấy ánh mắt của Chu Bá Ung ở sau lưng đã tối sầm xuống.

Bước được bảy tám bước rồi, Chu Tử Thư bỗng nhiên dừng lại, xoay người đưa lưng về phía ánh trăng, chắp tay với Chu Bá Ung: "Về chuyện khuyên can bệ hạ từ bỏ việc lập Cung Tuấn làm thái tử, Tế chấp đã sẵn lòng tương trợ, hạ quan vô cùng biết ơn."

Giương mắt lên, y nhẹ giọng nói: "Ta cũng chịu ơn ngài."

Nói đến đây, Chu Tử Thư nhanh chóng xoay người bước nhanh đi, không để cho Chu Bá Ung có thời gian phản ứng.

Xe ngựa đứng giữa đường tắt, dưới ánh trăng trong suốt, Chu Bá Ung nâng tay áo lên che mặt, khóc vì vui sướng.

***

Trước tết Trùng Cửu, trước cửa điện Văn Đức.

Cung Chiêu Vấn cầu kiến Nguyên Thú đế, cung kính đứng chờ trước cửa một hồi lâu, đại thái giám mới vội vàng chạy tới nói Nguyên Thú đế đang dùng bữa tại cung Phúc Ninh, lệnh cho hắn sang đó ngay.

Cung Chiêu Vấn không nói hai lời mà đi tới cung Phúc Ninh, bước vào trong liền vén vạt áo bào lên quỳ xuống cầu xin: "Bệ hạ, thần đã chuẩn bị hành lý xong xuôi, hai ngày nữa sẽ lên đường, đặc biệt đến đây chào tạm biệt."

"Chẳng phải sau tết Trùng Cửu mới đi sao?"

"Sau tiết này nhiệt độ sẽ thấp xuống, ông ngoại thần không đủ sức khỏe, chỉ sợ trên đường về Định Châu không chịu nổi rét lạnh, cho nên mới lên đường trước khi trời trở lạnh."

Lần này Trịnh quốc công về kinh, nhìn rõ thái độ của Nguyên Thú đế, thức thời trả lại binh quyền rồi từ quan, ông ấy đã sống ở biên cương nửa đời, vợ già cháu chắt đều sống ở đó, sau khi chào từ giả rồi mới đi cùng Cung Chiêu Vấn về Định Châu.

Về phần Trịnh Nguyên Linh, bởi vì là công thần, bản thân ông ta cũng có chiến công, phủ quốc công cũng đã yếu thế, Nguyên Thú đế không gây khó dễ nữa, chỉ tạm cách chức quan để khiển trách, qua hai năm nữa là có thể lên chức trở lại.

Trịnh Sở Chi thì ở lại phủ Kinh Đô, sẵn tiện chăm sóc cho Tần vương bị cấm túc.

"Lại đây, ngồi kế bên trẫm." Nguyên Thú đế bảo Cung Chiêu Vấn đến dùng bữa cùng mình, cẩn thận quan sát lão Lục, từ lúc hắn trở về ông đã xem hắn như một viên đá định bụng sẽ diệt trừ, chưa từng nghiêm túc nhìn hắn, bây giờ nhìn chú ý nhìn kĩ mới nhận ra đường nét khuôn mặt của hắn là giống ông nhất. "Vẫn còn oán giận trẫm sao?"

Cung Chiêu Vấn: "Thần không dám."

Hắn không hề xưng nhi thần và phụ hoàng, đôi bên bị ngăn cách bởi quân thần, cũng không còn quấn quít với ông nữa.

Nguyên Thú đế không tránh khỏi nuối tiếc, hiểu ra trong lòng hắn vẫn giận mình, im lặng dùng xong bữa ăn trưa mà cả hai bên đều không thoải mái.

Dùng bữa xong, trước khi Cung Chiêu Vấn đi, Nguyên Thú đế đột nhiên nói: "Tử Uyên có thể đoán được ván cờ mà trẫm sắp đặt, nó sẽ không để cho con và quý phi tự sát."

Tưởng chừng như bất chợt nói ra câu này, thực chất là đáp lại lời chất vấn của Cung Chiêu Vấn lúc ở Hoàn Khâu, hắn đã hỏi Nguyên Thú đế có phải ông thật sự không nghĩ rằng bọn họ sẽ tự sát hay không, khi đó không nhận được lời đáp, nhưng trả lời lúc này chi bằng không trả lời.

Cung Chiêu Vấn đưa lưng về phía Nguyên Thú đế, nở nụ cười trào phúng, hóa ra không nghĩ bọn họ sẽ tự sát là vì tin tưởng sự nhạy bén và hữu ái của Cung Tuấn sao?

Đúng là châm chọc quá mà.

Đến cùng thì tính mạng của hắn và mẹ ruột rõ ràng vẫn được gửi gắm vào sự bất công của Nguyên Thú đế đối với Cung Tuấn.

Cung Chiêu Vấn bi thương chết tâm, hoàn toàn không còn chút tình cha con với Nguyên Thú đế nữa, quãng đời về sau chỉ còn tình quân thần mà thôi.

"Thần sợ hãi."

Nói xong, hắn rời đi không quay đầu lại.

***

Tết Trùng Cửu đến.

Sáng ngày ra phủ quận vương đã vẫy nước quét nhà trừ bụi, để không làm chướng mắt người khác, Cung Tuấn đã dẫn Chu Tử Thư rời phủ từ sớm, hai người ra chợ dạo một vòng trước, rồi đến quán trà ngồi nghe kịch bản truyện vừa ra mắt, sau đó mới đến nhà bạn bè gần đó làm khách.

Phủ Khang vương "may mắn" được chọn trúng, hai người kề vai sát cánh đến phủ thăm hỏi, phát hiện trước cửa là hàng loạt xe ngựa chen lấn nhau chật kín như bưng, thấy tò mò bèn hỏi gia đinh dẫn đường.

Gia đinh nói: "Là các nhà quan lại quyền quý trong kinh đến phủ leo cao."

Lúc này Chu Tử Thư mới chợt nhớ ra phủ Khang vương có một tòa tháp cao năm tầng, hình như năm đó khi xây phủ, toà tháp này đã được dựng nên bằng mọi sự đấu tranh và lí trí.

Mỗi một tấc đất ở trong kinh thành đều vô cùng đắt đỏ, diện tích xây phủ không có nhiều, vốn chẳng có đủ chỗ cho một tòa tháp năm tầng, vì vậy nên khi chọn nơi xây phủ, Khang vương đã cố tình chọn một nơi khá xa hoàng cung, thế là bị không ít người chê cười.

Cười ông chọn cái nhỏ bỏ cái lớn, nhưng mỗi năm cứ đến tết Trùng Cửu là người đến nhà thăm hỏi lại cực kì đông đúc, phần lớn là những người năm xưa cười nhạo Khang vương.

Lúc bước vào phủ, Chu Tử Thư thoáng nhìn sạp hàng nhỏ được dựng lên trước cửa, bèn hỏi là để làm gì.

Gia đinh: "Cao đô tri phân phó, phải thu phí vào leo núi, phí trái cây... À, làm như vậy là để tránh những chuyện phát sinh ngoài ý muốn như có người hạ độc, hạ dược hại người khác liên lụy đến vương phủ ấy mà, Cao đô tri có ý dặn dò không được mang thức ăn bên ngoài vào."

Chu Tử Thư: "..." Không hổ là Cao đô tri quản lý nội khố, sắp trở thành quái vật sọt tiền rồi, y tò mò không biết có còn ngày lễ nào khác mà Cao đô tri không ôm tiền hay không nữa.

Xuyên qua hành lang gấp khúc là có thể nhìn thấy hòn non bộ, hồ nước, mà tòa tháp kia ẩn náu giữa những hòn non bộ, đi vào con đường nhỏ giữa vô số ngọn núi giả là có thể nghe được tiếng ồn ào náo nhiệt trong tòa tháp xa xa, mơ hồ còn có tiếng hát, Chu Tử Thư lập tức bỏ ý định đi vào tháp thưởng thức những thứ đó, cùng Cung Tuấn đi ngược lại, phát hiện bên hồ có mấy chiếc thuyền, thế là quyết định chèo thuyền du ngoạn trên hồ.

Theo luật thì tết Trùng Cửu là ngày nghỉ, sĩ tộc quan thân và cả học sinh đều được nghỉ, bấy giờ sẽ kết bạn leo núi, gộp nhóm đi hội đạp thanh, mở tiệc thưởng cúc, ăn bánh hoa ngọt, tụ tập uống rượu, say rồi thì thi ngâm thơ hoặc là vẩy mực vẽ tranh, hát hò khoe giọng, đến lúc giải tán thì sẽ lựa cánh hoa cúc mang về nhà, để cho người nấu rượu hoa cúc, chờ đến tết Trùng Cửu năm sau sẽ lấy ra uống, ngụ ý trường sinh, kéo dài tuổi thọ.

Chu Tử Thư nằm trên thuyền nhỏ, dùng mu bàn tay chống cằm, hai mắt híp lại, ánh nắng mặt trời ngày hôm nay sáng dịu chứ không chói lóa, gió trên hồ khẽ lướt qua, kéo theo hơi ấm khiến cho tinh thần người ta say đắm.

Cung Tuấn thì nằm ngửa ở đầu bên kia nhắm mắt nghỉ ngơi, phơi bày dáng vẻ lười biếng ra, không ai muốn lên tiếng nói chuyện.

Bỗng nghe một tiếng rồn rột khẽ vang lên, Chu Tử Thư mở mắt, nghiêng tai lắng nghe thì phát hiện ra đó chính là âm thanh phát ra từ bụng Cung Tuấn, y đá vào bắp chân hắn hỏi: "Chàng đói à?"

Cung Tuấn lời ít ý nhiều: "Ừ."

"Lên bờ ăn cơm thôi."

Cung Tuấn nằm sải lai: "Không muốn di chuyển."

Chu Tử Thư: "Chàng định chết đói luôn hay sao?"

Cung Tuấn nằm im ru: "Chết đói luôn đi."

Chu Tử Thư hừ một tiếng, vừa ngẩng đầu lên đã nghênh đón một luồng gió mát phả vào mặt, khắp người thư thái mềm mại, trùng hợp thay y cũng hơi đói, nhưng liếc nhìn thấy thuyền nhỏ đã cách bờ một khoảng xa, đột nhiên y cũng không muốn động đậy nữa.

Thế là lại nằm xuống.

Khang vương mãi mà không thấy hai người có mặt bèn chạy đến đây tìm, nhìn thấy chiếc thuyền nhỏ ở phía xa, ông gọi to: "Mấy cái đứa này ở trên thuyền làm gì đấy? Lằng nhằng lâu vậy, tiệc thưởng cúc đã diễn ra được một nửa rồi!" Chu Tử Thư đạp nhẹ Cung Tuấn một cái: "Gọi chàng kìa."

Cung Tuấn dùng chút nội lực lớn tiếng nói vọng lên bờ: "Ta và tiểu lang gặp chút rắc rối, đang bị kẹt ở đây rồi, mau tới cứu đi." Giọng điệu còn có hơi sốt ruột.

Khang vương hoài nghi nhưng vẫn cho người ra đó kéo thuyền của hai người vào bờ, phát hiện cả hai không nhúc nhích mới vội hỏi bọn họ đã xảy ra chuyện gì, bị cảm nắng hay là bị trúng độc.

Bỗng nghe thấy hơi thở mong manh Cung Tuấn, hắn đáp: "Đói bụng."

Khang vương sững sờ, vô thức nhìn về phía mái chèo trên thuyền nhỏ, lập tức hiểu ra, sau đó trợn mắt há miệng: "Tử Uyên thì thôi đi, hết cứu được nó rồi, nhưng sao ngũ lang con cũng học theo dáng vẻ lôi thôi bất cần của nó thế hả?"

Ông vô cùng đau lòng, sao Chu Tử Thư trong sáng thanh cao lại có thể bị Cung Tuấn đồng hóa được chứ?

Nếu như đồng hóa rồi, về sau ông gặp người khác làm sao nói Chu Tử Thư và ông học cùng một thầy được, làm sao có thể "lợi dụng" thanh danh của Chu Tử Thư để thu được ý đồ giấu mà không bán trong tay đám văn nhân dầu muối không vào kia chứ?

Trong nháy mắt lòng ông sinh ra một ảo giác như thể trời vừa sụp xuống, Khang vương nhanh tay kéo Chu Tử Thư lên quan tâm săn sóc một hồi, tung chân đá thuyền nhỏ ra xa, chỉ vào Cung Tuấn vẫn chưa chịu bò dậy nghiêm túc khuyên bảo: "Nghe Thập thúc nói này, nhất định đừng có học theo nó." Kéo tay người đi rồi, ông vẫn còn ngập ngụa trong mớ cảm xúc kia: "Đúng là gần mực thì đen mà, nếu không ngũ lang đến vương phủ ở một thời gian đi? Hoặc là đến chỗ Thập thẩm của con cũng được, trong phủ của ông ấy có rất nhiều trò vui, được chơi được ăn, ai đến ở Cao phủ rồi đều không muốn rời đi đâu..."

Chu Tử Thư cong môi cười, vừa nghe vừa lặng lẽ quay đầu nhìn ra sau, Cung Tuấn uể oải theo sát phía sau, trông hắn giống hệt như quả cà thấm sương*, không nghe lọt tai câu mắng mỏ nào của Khang vương cả, rồi đột nhiên hắn giương mắt nhìn lại, bắt gặp ánh mắt của Chu Tử Thư thì nhếch môi lên làm khẩu hình miệng nói: "Lải nha lải nhải, như bà buôn dưa vậy."

(*) Nguyên văn là [霜打的茄子]: câu ngạn ngữ này xuất phát từ phương Bắc. Mỗi khi cuối thu, nhất là sau khi tiết sương giáng (23 hoặc 24 tháng mười), đất phương Bắc vì nhiệt độ trong đêm hạ thấp mà trên thực vật kết một lớp sương mỏng, mà lúc này quả cà chưa hái (quả cà có chịu được nhiệt độ cao nhưng sợ lạnh) không chịu được sương lạnh kích thích khiến da bên ngoài nhăn nheo, câu này dùng để chỉ một người tinh thần uể oải không phấn chấn, phờ phạc, suy sụp, mất hồn...

Chu Tử Thư sợ mình bật cười thành tiếng làm tổn thương Khang vương nên vội quay đầu lên phía trước.

Khang vương không dẫn bọn họ đến tòa tháp mà dẫn tới một nhà thủy tạ tương đối yên tĩnh, Cao đô tri đang chờ bọn họ trước cửa. Cửa vừa mở ra, tiếng đàn sáo, tiếng ca hát cười đùa đã truyền vào trong tai, đầp vào mắt đầu tiên chính là cả sảnh đường đầy cúc mùa thu, những khóm hoa như được dát thêm lớp vàng óng ánh, sáng bừng cả căn phòng.

Bước lên cầu thang đi lên trên lầu, nơi này còn có rất nhiều chủng loại cúc khác nhau nữa.

Cao đô tri ngắt một đóa hoa cúc tím cài lên tóc mai của Chu Tử Thư: "Mới vừa nãy ta đã nghĩ, tết Trùng Cửu sao có thể thiếu trâm hoa được chứ? Cọ vẽ làm thơ, tóc xanh trâm hoa, thiếu niên vui đùa." Nhìn tới nhìn lui, ông nở nụ cười hài lòng, "Sáng nay ta mời đầu bếp của quán rượu đến phủ nấu món thịt dê hấp nhừ và cua thu, mới vừa lên món thôi, vẫn còn bốc hơi đấy."

"Quấy rầy rồi ạ, mong được thứ lỗi." Chu Tử Thư nói lời khách sao, nhưng chân lại bước đi không dừng.

Khang vương nghe vậy mới cảm thấy dễ chịu.

Cung Tuấn tiện tay vỗ vai Khang vương: "Nhường đường chút, đừng có chắn cửa." Sau đó hắn quen cửa quen nẻo ngồi vào bàn, yên vị bên cạnh Chu Tử Thư.

Trên bàn còn có Lê Yến Kỳ, Đỗ Công Tiên, Phạm Văn Minh cùng với Hạ

Quang Hữu, vị Tri phủ Từ Châu ngày xưa nay đã được lên chức làm quan Kinh Đô, càng khiến cho người ta ngạc nhiên hơn nữa chính là Lư tri viện đang ngồi xếp bằng ở trên giường đối diện kia, ngồi xung quanh ông ta là ba bốn cử tử Quốc Tử Giám.

Chu Tử Thư tìm kiếm một lượt, không thấy hai vị Trần Sư Đạo và Cao đồng tri, y liền biết ngay là hai ông không tới.

Cao đô tri cười nói: "Thật ra ta rất muốn mời họ, quan to tể tướng đến càng nhiều, chỗ này của ta mới có thể đông như trẩy hội, chỉ tiếc vị kia nhà ta cứ hễ nhìn thấy Trần thái sư là như chuột thấy mèo vậy." Ông cầm chén trà mà tiểu đồng đưa tới, "Nếm thử đi."

Chu Tử Thư nhận lấy, phát hiện trong chén có đầy bọt trắng che phủ, không khỏi sợ hãi thán phục: "Tay nghề giỏi." Người đương thời pha trà quý nhất là ở đám bọt trắng này, bởi lẽ mới nói "mực phải đen, trà phải trắng", "Là tay nghề của vị nào thế ạ?"

Cung Tuấn gõ gõ bàn, chỉ về phía Lư tri viện.

Chu Tử Thư theo tiếng nhìn sang, thấy Lư tri viện đang cầm ấm trà, giống như lão tướng sa trường điểm binh, nước trà róc rách chảy vào tách nổi một tầng bọt trắng lên, váy dài nhấc lên cùng động tác, phong thái nước chảy mây trôi, vô cùng lưu loát.

Hạ Quang Hữu ngồi xéo trong góc vuốt râu thở dài: Bọt trắng trà hoa phủ chén ngọc, măng hao rau đắng hưởng mâm xuân..."

Tuy không có măng hao rau đắng, nhưng lại có cúc dại và tế thái* nấu cháo, tính ra cũng chẳng thua kém gì với măng non đầu xuân.

(*) Cây tể thái: tên một thức cỏ, hoa trắng, khi còn non ăn được, dùng làm thuốc giải nhiệt, lợi tiểu, cầm máu.

"Ý vị của thế gian chính là niềm vui đơn thuần."

==

Ngoại truyện 2 • Giấc mộng hoàng lương*

(*) Nguyên văn: Hoàng lương nhất mộng - 黄粱一梦 Ý của câu thành ngữ này dùng để ví với sự mơ tưởng viển vông và những ước mong không thể thực hiện được. Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Chẩm trung ký" của Thẩm Ký Tế triều nhà Đường.

Min:Tui edit xong chương này từ mấy bữa trước ùi, nhưng muốn đính kèm thêm chương sau để cho liền mạch. Và cái gì nên đến cũng đến, plot twist ủn tới mung rồi kk, mấy bà đừng quên quả truyện củ chuối kia có đến hai kết cục, và cái kết ức chế mà mấy bà được biết từ đầu đến giờ chỉ mới là cái kết HE của cặp chính, MHN giấu kết BE tới cuối truyện mới tung nè píc cà bu

Thật ra tui cũng định viết thêm suy nghĩ của tui, mà tính tui lê thê lướt thướt dài dòng với sợ nói sai nữa nên thôi hjhj để sau vậy. Mấy bà cứ đọc rồi để lại suy nghĩ của mình cho tui góp dzui với nha. 💕

Dô ~~~

***

Sắc trời đột ngột thay đổi, cuồng phong vũ bão từ đâu kéo tới. lá xanh hoa hồng trong viện bị đánh dập tơi tả rơi khắp sân, gạch đá xanh từ màu xám trắng biến thành màu nâu đen, côn trùng cuộn mình dưới mớ rễ cây hoặc là trong khe hở của cửa sổ, chờ đợi cơn mưa tầm tã chiếm cứ cả nửa cuộc đời của chúng mau chóng kết thúc.

Bầu trời âm u, mây đen giăng kín, trời đất mênh mông sương mù.

Ma ma và hai nha hoàn rẽ từ một góc hành lang sang, xách váy chạy nhanh tới, một người xông vào nhĩ phòng đóng cửa sổ, ma ma và một nha hoàn khác thì mau chóng dọn mấy chậu mẫu đơn màu hồng phấn vào trong hành lang.

Cũng may kịp lúc, không để cho cơn mưa đột ngột làm hỏng những đóa mẫu đơn trị giá hàng trăm lượng vàng này.

"Cẩn thận một chút, đều là hoa tự tay lão gia trồng đấy, dặn xuống dưới nhất định phải chăm sóc cho kĩ, đợi đến tháng ba là có thể tổ chức tiệc mẫu đơn, để đón tiếp ngũ lang đến thưởng thức chứ." Ma ma rút khăn tay ra lau bùn đất dính trên bông mẫu đơn đi, đau lòng liên tục rầm rì: "... Đều là tâm huyết, tâm huyết tưới nước suốt sáu năm trời đấy."

"Tưới nước sáu năm trời, năm nào cũng mở tiệc, năm nào cũng mời, vậy mà chẳng năm nào đến..." Nha hoàn nói thầm một câu, nhưng lại không dám càn rỡ quá mức, "Ma ma có từng nghĩ đến chưa, có lẽ ngũ lang không thích mẫu đơn."

Ma ma: "Cô tưởng lão gia chưa từng thử mở tiệc ngắm mai, ngắm cúc hay sao? Chu phủ chúng ta dù có lớn hơn nữa cũng không thể mở rộng đến nỗi xây được một vườn mai, nhưng chúng ta có thể đặt mua một cái ở ngoài, vấn đề là nuôi không sống được, tiệc ngắm cúc cũng giống y như vậy. Hơn nữa lão gia không muốn nhờ nghệ nhân mà nhất quyết tự tay trồng, đến mùa hoa nở nói một tiếng với bên ngoài như vậy, ai dám không nể mặt Tế chấp?"

Nha hoàn không ngờ trồng hoa là vì cớ này, "Nhưng mà ngũ lang cũng đâu có đến đâu."

Ma ma: "Ngũ lang nào có nhìn nhân quyền để thỏa hiệp chứ?" Bà hừ một tiếng, hơi bất mãn: "Lão gia thông minh tài trí nhưng lại luôn có hơi khuyết thiếu trước những chuyện liên quan đến cậu ấy."

Nha hoàn ngạc nhiên trừng mắt, ma ma thế này là đang đặt điều Tể tướng đại nhân sao?

Ngoài phòng, mưa tuôn không ngớt thấm ướt bùn đất, hoa lá rơi đầy sân, trong khi ở bên ngoài tiếng mưa rơi ồn ào, không khí trong phòng yên tĩnh đến lạ lùng, khói xanh trên bàn thờ lượn lờ, quanh co bay lên tháp hương trên nóc nhà.

Mõ khẽ kêu, tiếng vọng theo nhịp vang đều cùng với tiếng tụng kinh quanh quẩn bên tai, đèn cầu phúc nhấp nháy ánh lửa, trụ trì trong miếu bước đến bên cạnh phu nhân tể tướng, nói một câu vạn phúc trước, sau đó nói 'A di đà Phật'.

Phu nhân tể tướng có phong thái khoan thai điềm đạm, hỏi thăm mệnh số của con trai nhỏ nhà bà.

Phủ Kinh Đô này không ai không biết con trai út nhà tể tướng là kim tôn ngọc quý, chỉ hơn chứ không hề kém cạnh các hoàng tử vương tôn, đến Hoàng đế Thái hậu cũng yêu thương cậu, các hoàng tử cũng chiều chuộng cậu, có thể nói là số mệnh tốt nhất trong thiện hạ rồi.

Trụ trì nói đúng sự thật, lựa thêm vài lời hay đắp vào, tất nhiên nhìn thấy tâm trạng của phu nhân tể tướng trở nên vui sướng.

"Phựt" một tiếng, khi phu nhân tể tướng bước ra cửa đại điện, vòng Phật cầu phúc trong tay đột nhiên đứt đôi, trong mắt người tin Phật, dù thế nào đi nữa thì cũng đều là điềm báo chẳng lành.

Trụ trì vội nói: "Vòng Phật bồ đề này ngày đêm được thờ cúng hương khói, đã có linh tính, bỗng nhiên bị đứt có lẽ là để ngăn cản tai họa cho chủ nhân, là chuyện tốt."

Phu nhân tể tướng nhẹ nhàng thở ra, nhưng trái tim chợt như rơi xuống nặng trịch, ra khỏi cổng chùa Tướng Quốc, chuẩn bị lên xe ngựa, bà thoáng nhìn thấy có một trận tranh cãi đang diễn ra ở quán trà cách đó không xa, tìm hiểu thử mới biết có một gã ăn mày uống trà không trả tiền mà nhất quyết đòi đoán mệnh để gán nợ, tính ra được không phải số tốt, chọc giận chủ quán trà, ông chủ chẳng màng quan tâm người ngoài khuyên can, định dạy dỗ gã ăn mày một trận.

"Nơi cửa Phật đừng nên tranh cãi, chớ làm phiền sự thanh tĩnh nơi này, đi lấy chút tiền trả cho ông chủ quán trà đi."

Nói xong lên xe, nhắm mắt nghỉ ngơi, không hiểu sao trong ngực phu nhân tể tướng dâng lên một nỗi bất an lo sợ, đột nhiên xe ngựa dừng lại, người đánh xe quở mắng hai câu, nhưng nghe rõ ngọn nguồn rồi mới biết hóa ra người cản đường kia chính là gã ăn mày được giải vây lúc nãy, nói là sẽ tính cho quý nhân một quẻ để báo ơn.

Mạng của bà sao có thể để cho kẻ khác tùy tiện tính toán chứ?

Phu nhân tể tướng lệnh cho người đuổi đi, nhưng không biết vì cớ gì mà tên ăn mày vẫn cứ bám rịt lấy, bị sự bất lực ép buộc, bà đành phải đứng ra nhẫn nại nói: "Ta không muốn đoán mệnh, xin tiên sinh hãy nhường đường cho."

Thầy tướng luộm thuộm như ăn mày vừa nhìn thấy mặt phu nhân tế tướng thì sững người trong nháy mắt, gọi thẳng: "Lão phu đã từng đoán mệnh cho bà rồi."

Phu nhân tể tướng đang chuẩn bị quay về xe ngựa nghe vậy thì nói, "Ta chưa từng gặp ông."

Thầy tướng: "Nếu nói chính xác thì là vào hai mươi sáu năm trước, ta đã đoán mệnh cho bào thai trong bụng bà."

Con trai bà ư? Lòng phu nhân tể tướng khẽ dao động, tò mò hỏi: "Chẳng phải thầy tướng các ông chỉ xem ngũ quan người, vân tay và ngày sinh để đoán mệnh à? Còn có thể tính được mệnh của thai nhi chưa ra đời nữa sao?"

"Số mệnh của trẻ con gắn bó chặt chẽ với mệnh của cha mẹ, ta đoán mệnh của đứa trẻ, cũng là đoán mệnh của bà."

Phu nhân tể tướng cảm thấy hứng thúc, khóe môi cong lên: "Vậy số mệnh của con trai ta như thế nào?"

"Thân duyên cạn, lắm tai ương, đường đời nhiều ngang trái, không thể chết già."

Thoáng chốc mặt phu nhân tể tướng trở nên lạnh lùng, giận dữ thét lên: "Đuổi ông ta đi!"

Không đợi người đánh xe nhảy xuống, thầy tướng già đã lảo đảo đi xa, nhưng dường như cũng chỉ trong chớp mắt, ông ta độn thổ biến mất giống như thần tiên, người đánh xe hoảng sợ dụi mắt, còn lồng ngực của phu nhân tể tướng thì lan tràn nỗi hỗn loạn mất kiểm soát. Bà nghĩ, sao thân duyên có thể cạn được chứ?

Cha mẹ cưng chiều, anh em thân thiết, ai mà chẳng biết con trai út nhà họ Chu được nhận vô vàn thương yêu?

Lớn lên trong gấm vóc rực rỡ, sao có thể chịu lắm tai ương, đường đời nhiều ngang trái được chứ?

Chú trọng điều dưỡng cơ thể nhiều năm trời đã biến thiếu niên lang hoạt bát khỏe khoắn trở thành một quân tử chững chạc đoan chính, làm sao mà không thể chết già được?

Phu nhân tể tướng siết chặt vòng Phật cầu phúc đã cầu lại, mặc kệ nỗi hỗn loạn trong lòng, quay về Chu phủ, ma ma trong phủ đến báo cáo chuyện trong phủ, đến lúc sắp kết thúc bỗng nhiên nói một câu: "Ngũ lang chết rồi." "Ai?" Phu nhân tể tướng phản ứng rất mạnh.

Ma ma sững sờ, sau đó mới nói Ngũ lang gả đến phủ quận vương đã chết rồi.

Y? Phu nhân tể tướng trố mắt hồi lâu mới hỏi: "Vì sao lại mất?"

"Hôm nay y bỗng nhiên ra tay trên đường chợ đông đúc, ý đồ dùng kim độc mưu hại tứ lang, bị một vị cao thủ chặn đường kim đi đẩy ngược trở lại, trúng ngay giữa họng, tắt thở bỏ mạng, thân bại danh liệt."

"Gieo gió gặt bão." Phu nhân tể tướng chỉ nói một câu, bà nhìn ra cảnh xuân tươi đẹp bên ngoài phủ, lồng ngực bỗng nhiên trống vắng.

Im hơi lặng tiếng chết đi trong ngày xuân ấm áp, vẫn còn chưa kịp đi hội đạp thanh, cùng người thả rượu trôi sông*, thật ra có hơi đáng tiếc.

(*) Nguyên văn là Khúc thủy lưu thương - 曲水流觞: là một phong tục TQ có từ đời nhà Chu. Vào đầu tháng 3, mọi người ngồi hai bên bờ dòng nước và thả những chén rượu xuống, chén trôi tới ai thì người đó uống.

Mới hai mươi sáu, còn trẻ quá.

Một lát sau, bà lại hỏi: "Cao thủ cứu tứ lang là ai?"

Ma ma tỏ vẻ khó xử, do dự một hồi mới nhỏ giọng nói: "Là Lý Đắc Thọ."

"!" Đồng tử phu nhân tể tướng co rút nhanh, quá khứ khó coi không chịu nổi lại gào thét cuồn cuộn ập đến, trong nháy máy bao trùm lấy bà, khiến cho bà hít thở vô cùng khó khăn: "Bà ta về rồi sao?" Ma ma gật đầu.

Phu nhân hồn bay phách lạc đi về phía trước, bước xa mười thước rồi mới hoàn hồn: "Bà ta có biết thân phận của tứ lang không?"

Ma ma: "Hẳn là biết đấy ạ, khi đó Đông cung đang đi cùng tứ lang, nhận ra Xương Binh đang ngồi trên xe ngựa, còn lên tiếng chào hỏi nữa."

Phu nhân tể tướng siết chặt tay ma ma, "Lúc đối mặt với tứ lang, bà ta phản ứng ra sao?"

Ma ma mới lại cảnh tượng lúc ấy: "Bình tĩnh lắm, trầm tính hơn Xương Bình của ngày xưa nhiều... À đúng rồi, bà ta còn nói một câu 'Đây là con trai nhỏ mà Chu tế chấp yêu thương tận trời đấy à?' rồi không nói thêm gì nữa."

Phu nhân tể tướng thấp giọng lầm bầm: "Bà ta ở Lưỡng Giang hai mươi sáu năm, làm sao vừa thấy mặt tứ lang đã biết thân phận của nó được? Người ngoài đều gọi nó là tứ lang, nhưng mà trước đây nó thứ năm, chỉ mới đổi cách đây vài năm thôi mà, người bị giáng chức đến Lưỡng Giang sao có thể biết rõ ràng như vậy? Chẳng lẽ giờ phút nào bà ta cũng để ý đến động tĩnh trong Kinh Đô à? Nhưng người của bà ta ở đâu ra?"

Bà cúi đầu vội vàng chạy đi, lúc bước vào chủ viện, toàn thân phu nhân tể tướng sững lại, sắc mặt ngây ra nhìn chằm chằm xuống đất, tuyệt vọng và đau đớn thoáng vỡ vụn trong đáy mắt, cùng với đó là vẻ trốn tránh khó mà chấp nhận được.

"Ngũ lang đột tử đầu đường, thân bại danh liệt, bị người thân bỏ rơi, không ai sẵn lòng nhặt xác cho y cả."

Thầy tướng già nói, con trai út của phu nhân thân duyên cạn, lắm tai ương, không thể chết già.

"Nếu như đã biết rõ thân phận, con ruột chết thảm, còn là chết vì con trai của người phụ nữ mà bà ta hận nhất, vì sao Xương Bình vẫn thờ ơ? Tâm phúc của bà ta, vì để cứu con trai của tình địch mà giết chết con trai của bà ta, vì sao! Chẳng mảy may quan tâm!"

Biểu cảm của phu nhân tể tướng dần trở nên dữ tợn, hai mắt đỏ quạch, gân xanh nổi đầy trên trán và cổ, nỗi sợ hãi thúc giục bà nhắm chặt mắt ngăn chặn ánh sáng, nhưng cơn phẫn nộ trước nay chưa từng có ép bà tiếp tục bước đi, dù con đường phía trước chính là con đường vạn kiếp bất phục.

***

Sấm sét rền vang xé rách bầu tròi u ám, chiếu sáng tất cả mọi người trong phòng khách.

Mặt mày của phu nhân tể tướng, Tế chấp và ba đứa con trai của bọn họ đều trắng bệch, ngọn nến lập lòe, nhảy nhót phản chiếu trong ánh mắt, dấy lên ngọn lửa hận thù trong lòng.

Chu nhị lang đặt những chứng cứ phạm tội của Xương Bình công chúa mà hắn tra được suốt bao năm qua lên bàn, một trong những chứng cứ phạm tội kéo dài suốt hai mươi sáu năm trời đã được đưa ra ánh sáng, cuối cùng cũng nhìn thấy mặt trời, nhưng người chịu đủ mọi oan khuất đã an nghỉ lòng đất từ lâu, bị người thân ghét bỏ, ngậm oan mà chết trong lời khinh bỉ của muôn người.

Tạ thị nghe thấy Chu nhị lang nói: "Ít nhất mười năm trước, Chu Ngọc Tranh đã biết rõ thân phận của mình, Xương Bình công chúa luôn đưa tử sĩ tới bảo vệ cho nó. Ngũ lang vốn không thể nào làm tổn thương nó. Ngũ lang muốn tham gia khoa khảo, bị người được Chu Ngọc Tranh một lòng nịnh nọt cố tình đẩy thứ hạng xuống, bởi vị kích động, xúc động quá mức cho nên mới có ý định ra tay trên phố, ý vốn là muốn làm ngựa hoảng sợ, dạy dỗ Chu Ngọc Tranh một chút mà thôi. Không ngờ, bỏ cả mạng."

Sự thật đổi con bị phơi bày ra trước mặt người nhà họ Chu, con trai út thật của bọn họ lúc còn sống nghe theo vận mệnh, không thể chết già, trái lại hai mẹ con tu hú chiếm tổ chim khách kia lòng tham không đáy, lòng dạ rắn rết, giờ đây phong quang vô hạn.

Nếu như con trai út thật không phải đau khổ cả đời, nếu như Chu Ngọc Tranh không phải đã biết trước chuyện này mà không báo cáo, yên tâm thoải mái hưởng thụ tất cả mọi thứ không thuộc về cậu, còn ra tay hãm hại ngũ lang, nếu như không biết được những chi tiết và sự thật bị bao phủ suốt hai mươi sáu năm này từ sớm, có lẽ bọn họ vẫn sẽ bị ràng buộc bởi hai mươi sáu năm chung sống, có lẽ sẽ đau lòng vì tình cảm không trọn vẹn mà rơi vào tình thế khó lựa chọn, nhưng sự thật là lòng chân thành và số mệnh của bọn họ đã đều bị hai mẹ con ác quỷ kia chà đạp, sự thật là cuối cùng, đứa con trai út vô tội thế thân Chu Ngọc Tranh đã phải gánh chịu sự ghét bỏ, khắt khe của bọn họ, cuối cùng chết thảm đầu đường.

"Con trai của mẹ đã làm sai điều gì?" Trong lòng Tạ thị tràn ngập câu hỏi: "Sao lòng người lại có thể ác như vậy?"

Khi ấy lệ đã rơi đầy mặt bà, nhưng bà vẫn dửng dưng như thể chưa phát hiện ra.

***

Phủ Lâm An quận vương thu giữ thi thể của ngũ lang, chọn cho y một nơi non xanh nước biếc tươi đẹp, không ai ngờ rằng người nhặt xương cho người kia lại là Lâm An quận vương tàn bạo không chịu nổi trong lời đồn.

Ngũ lang nhập liệm không bao lâu, Lâm An quận vương cũng biến mất.

Binh Tây Bắc thất bại, Đại Cảnh hòa đàm, Lai sứ Đại Hạ đến đòi bồi thường, mà vào đêm cung yến, nghịch đảng Lưỡng Giang đã trà trộn vào đoàn mua hát kịch với ý đồ hành thích, Lai sứ Đại Hạ suýt nữa bị hại, là nhờ Chu Ngọc Tranh cản giúp hắn một đao.

Xương Bình lỡ miệng nói ra sự thật.

Bấy giờ người bên ngoài mới biết màn đổi con sóng gió này, không hẹn mà cùng tò mò phản ứng của người nhà họ Chu thế nào.

Không có chuyện gì bất ngờ xảy ra, hiển nhiên là người nhà họ Chu nổi trận lôi đình, từ chối gặp Chu Ngọc Tranh, nhưng có Thái hậu và bệ hạ chu toàn từ bên trong, hơn nữa Chu Ngọc Tranh không quỳ gối nổi, cơ thể mỏng manh, cuối cùng tình thân nhiều năm cũng chiếm thế thượng phong, người nhà họ Chu lại chấp nhận Chu Ngọc Tranh lần nữa, vẫn cưng chiều cậu như trước, cũng vì thế mà tha thứ cho tất cả mọi hành động của Xương Bình năm xưa. Quan hệ không thể nói là hòa thuận, nhưng hiềm khích lúc trước đã tiêu tan rồi.

Người đứng ngoài phủ Kinh Đô nhìn vào, thấy Chu Ngọc Tranh bây giờ trước có bệ hạ, Thái hậu và Đông cung sủng ái, sau có cả nhà Tể tướng cưng chiều, hôm nay lại có thêm một Xương Bình công chúa nữa, thân phận càng trở nên nóng bỏng tay, nào ai dám đắc tội?

Tất nhiên là chỉ chúc mừng ngoài mặt, trong lòng lại cảm thấy tội nghiệp cho Chu ngũ lang không ai hỏi thăm kia.

***

Đông cung và Xương Bình bắt tay nhau, còn có người nhà họ Chu giúp đỡ hết sức nên đánh bại chỗ dựa của Lục hoàng tử là phủ Trịnh quốc công một cách dễ dàng, giữ vững vị trí Thái tử cho Đông cung.

Mùa xuân năm sau, Nguyên Thú đế bị gió tà nhập vào người, sức khỏe chuyển biến đột ngột, không tới hai tháng đã băng hà.

Đông cung đăng cơ làm vua, khi Thái tử phi đã mang thai sáu tháng, lợi dụng lý do không được chịu vất vả mà dời đại điển phong hậu về sau, cuối cùng Thái tử phi qua đời vì sinh khó, cũng may đã thuận lợi hạ sinh một vị hoàng tử.

Cuối năm đó, khi xương cốt Thải tử phi hãy còn chưa lạnh, tân đế đã lập tức cùng Xương Bình và một nhà Chu tế chấp kiệt lực bác bỏ mọi nghị luận không cùng ý kiến, phong Chu Ngọc Tranh làm nam hoàng hậu đầu tiên của Đại Cảnh.

Mùa xuân năm thứ ba, đại điển phong hậu được cử hành như thường lệ, đầu tiên là sắc phong, sau đó nhận sách bảo, sau đó để cho các quan lại dâng tấu chương chúc mừng, cuối cùng là đến thái miếu yết kiến liệt tổ liệt tông, quá trình này diễn ra đã khiến cho đại điển sắc phong càng thêm long trọng.

Hậu vị của người phụ nữ tôn quý nhất thiên hạ này cứ thể rơi vào tay một người đàn ông, không ai dám bàn đến sự hoang đường ấy, những người phản đối đều bị lấy cớ diệt trừ, nhưng kẻ có quyền thế nhất vương triều này bắt tay nhau tạo ra chốn đào nguyên cho Chu Ngọc Tranh, dường như không có chút giới hạn nào, điên cuồng yêu thương một mình cậu.

Không biết có bao nhiêu người vô cùng ngưỡng mộ và ghen tị với Chu Ngọc Tranh, nhưng sau lưng lại cảm thấy khó hiểu, Đông cung và Xương Bình thôi đã đủ rồi, vì sao mà người nhà họ Chu cũng thay lòng như điên, toàn tâm toàn ý yêu thương ly miêu giả dối thế kia?

Tất cả những khúc mắc ấy đã có được đáp án vào ngày đại điển sắc phong diễn ra không lâu sau đó.

Lâm An quận vương mất tích đột nhiên cử binh tạo phản, dẫn theo thiết kỵ Đường Hà dũng mãnh thiện chiến vào như đến chốn không người, xuất hiện trong đại điển sắc phong ép buộc tân đế thoái vị.

Đế hậu lo lắng không thôi, Xương Bình thét ra lệnh cho Lư tri viện nắm trong tay Cấm quân và Chu gia đại lang bắt Lâm An quận vương lại, nhưng ngạc nhiên phát hiện ra người nhà họ Chu, bao gồm cả Lư tri viện và một đám đại thần đều đứng về phía Lâm An quận vương, dùng thái độ lạnh lẽo nhìn bọn họ.

Tân đế giận dữ, gào lên: "Các ngươi dám tạo phản à? Một đám bất trung bất hiếu bất nhân bất nghĩa, triều thần Đại Cảnh ta sao có thể là hạng người trộm cắp không chịu khuất phục như các ngươi chứ?"

Lâm An quận vương lần vòng Phật của hắn, cười như không cười liếc nhìn bọn họ, không nói một lời nào, đã có triều thần nhẫn nhịn từ lâu bước lên lột tấm da mặt giả tạo của bọn họ ra.

Trên mặt Lư tri viện tràn đầy sát ý, vạch trần âm mưu hợp tác hãm hại con gái ông của Đông cung và Xương Bình, nói cách khác là Thái tử phi đã bị ép nhường lại hậu vị cho Chu Ngọc Tranh, trong khi Chu Ngọc Tranh biết rõ mọi chuyện mà chẳng hề nói gì!

"Nham hiểm độc ác, lòng dạ quỷ quyệt, có thể làm vua một nước hay sao? Nối giáo cho giặc, lời lẽ xảo trá, giả vờ câm điếc, hào nhoáng bên ngoài, có thể là mẫu nghi một nước hay sao? Thần tử trung quân, nhưng là phải trung với vị vua nhân nghĩa!"

Chu Bá Ung lộ vẻ bình tĩnh, nhưng nếu nhìn kỹ vào mắt ông là sẽ thấy được sự điên cuồng ngọc nát đá tan bên trong, cơn điên cuồng này cũng tràn ngập trong lòng của những đứa con nhà họ Chu, kèm theo sự thôi thúc khiến cho bọn họ không sợ gánh bêu danh mưu triều soán vị, lại càng không sợ tiếng xấu vang xa muôn đời, phải phanh thây xé xác đám ác quý hại chết ngũ lang mới có thể khiến cho ngọn lửa không thể dập tắt trong lòng bọn họ lắng xuống.

Ông lấy những vật chứng chứng minh mà mình mang theo trong người ra, đứng giữa sảnh đường lên án tân đế bắt tay với Xương Bình mưu hại tiên đế, chứng cứ phạm tội vô cùng chính xác, không thể chối cãi.

"Là một người bình thường vô năng, phàm có một chút nhân từ, khắc sâu câu trung quân ái quốc vào trong xương cốt, thì bá quan văn võ có ai không ủng hộ ngươi?"

Chu Bá Ung mặc kệ Xương Bình, bước tới gần bóp lấy khuôn mặt xinh đẹp tỏ ra vô tội của Chu Ngọc Tranh, cố kìm chết đễ không bóp chết cậu mà gân xanh nổi đầy tay: "Chu Ngọc Tranh, đến cùng là người nhà họ Chu ta đã làm gì có lỗi với ngươi? Từ nhỏ đến lớn, ngươi muốn cái gì mà không có được? Cả nhà từ trên xuống dưới đều nâng niu ngươi trong lòng bàn tay để mà yêu thương, không cầu ngươi phải hồi đáp ngang bằng, nhưng ít nhất cũng phải để lại cho bọn ta một chút nhân từ chứ! Ít ra ngươi có thể đối xử tốt với ngũ lang một chút, một chút thôi cũng được... Nhưng ngươi đã làm cái trò gì đây? Ngươi ngày càng tệ hơn, hãm hại nó, hai lần thay mận đổi đào giá họa lên đầu nó, đã như vậy rồi mà ngươi vẫn còn không chịu buông tha cho nó, ngươi khiến cho nó, khiến cho nó chết trong tuyệt vọng, đau đớn! Sao ngươi có thể? Bọn ta nợ ngươi thứ gì, mà ngươi lại muốn trả thù lên người vô tội nhất? Tất cả mọi thứ của thằng bé đều đã bị ngươi cướp đi rồi, vì sao đến cả cơ hội sống ngươi cũng muốn cướp đi chứ?"

Biểu cảm của Chu Ngọc Tranh từ đau đớn, bi thương trở thành giễu cợt, khó khăn thốt ra từng chữ: "Ta... Ta biết ngay mà, một khi thân thế bị vạch trần, các người, các người sẽ không yêu thương ta nữa... Ta biết mà! Muốn trách phải trách các ngươi quá thiên vị ta, ta sợ... ta sợ mất đi nó."

Trái tim Chu Bá Ung đau đớn tựa như bị bóp chặt, trong nháy mắt vô cùng ngỡ ngàng luống cuống, hóa ra là vì quá thiên vị Chu Ngọc Tranh nên mới khiến cho cậu ra tay với Chu Tử Thư sao? Tất cả những điều bất công làm tổn thương ngũ lang, là nguồn gốc nguyên nhân dẫn tới cái chết của y sao?

Đến cùng là bọn họ đã làm những việc gì, mà mỗi một chi tiết nhớ lại thì phát hiện tất cả đều là bằng chứng ép chết ngũ lang chứ?

Người hại chết ngũ lang không chỉ có Xương Bình, Chu Ngọc Tranh, mà còn có cả những kẻ tự xưng là người nhà như bọn họ nữa!

Trong nháy mắt Chu Bá Ung như bạc đầu, không còn chút khí phách nào, mãi mãi hổ thẹn trong lòng.

***

Tạ thị không màng quan tâm những lời khuyên can mà đào phần mộ của ngũ lang lên, mặc kệ Lâm An quận vương có mỉa mai tình yêu chậm trễ của bà, nói rằng tình yêu đó vẫn là sự tổn thương đối với con trai út nhà họ Chu, chết rồi vẫn không chịu để người ta yên, thật sự là sống chết vẫn thiếu nợ bọn họ.

... Không, ngũ lang không thiếu nợ bọn họ, là bọn họ mắc nợ ngũ lang!

Tạ thị đưa thi thể của ngũ lang về phủ, mời các cao tăng đạo sĩ đến tu cho y một kiếp sau tốt đẹp, bà không tiếc cho đi phúc phần mười đời của bản thân, nhưng những cao tăng đạo sĩ kia chỉ biết tụng kinh mà thôi.

"Chỉ biết tụng kinh thôi à!" Tạ thị ngày đêm không nghỉ, tiều tụy không sao chịu được, bà sao chép kinh văn, đốt không biết bao nhiêu chậu, "Vì sao chì biết tụng kinh! Ta chỉ là muốn chuộc tội, muốn con trai ta kiếp sau được viên mãn, ta không làm hại ai, vì sao đến chút việc nhỏ ấy cũng không làm được?"

Người nhà họ Chu muốn khuyên bà tỉnh táo, nhưng cảm giác tội lỗi to lớn ấy đã làm cho bọn họ bị choáng ngợp, tìm kiếm hồi ức suốt hơn hai mươi năm qua, những ký ức có liên quan đến ngũ lang đều khiến lòng người nguội lạnh, bọn họ nhìn khuôn mặt trắng nhợt không chút sức sống, cô đơn đáng thương trong quan tài, sao có thể an lòng cho được?

Tinh thần khó an, cho nên cũng mù quáng giống như Tạ thị chạy đi tìm người đắc đạo, cũng muốn dành phần phúc dời sau của mình cầu cho ngũ lang có được kiếp sau viên mãn.

Bọn họ nói kết cục bi thảm của Chu Ngọc Tranh cho Tạ thị nghe, khi ấy Tạ thị đã vuốt ve tóc mai của ngũ lang, nghe vậy thì im lặng hồi lâu, sau đó mới nói ra một câu làm lòng người vỡ nát: "Nhưng mà con trai nhỏ của mẹ chết rồi."

"Chu Ngọc Tranh mắc nợ có thể bị trừng phạt, còn mẹ cũng mắc nợ, mẹ phải trả lại như thế nào đây?"

Chu Bá Ung dùng hết toàn lực để tìm kiếm vị thầy tướng già mà ông chỉ mới gặp được một lần, cuối cùng cũng tìm được thầy tướng tóc trắng xóa ấy, ông ta vẫn giữ nguyên dáng vẻ của mấy chục năm trước, không thấy già yếu đi, liền biết đó là thần tiên thật.

Ông cứ cầu xin thầy tướng già mãi, nguyện dùng công đức phúc phần đổi lấy kiếp sau trọn vẹn cho con trai út.

Thầy tướng già thở dài: "Không có duyên phận không thể tụ họp, không có nợ nần không thể đến, duyên tụ duyên diệt đều bắt đầu từ một ý nghĩ mà thôi. Duyên cạn mệnh ngắn, số mệnh đã thế, cưỡng cầu cũng vô ích, chi bằng buông đi."

Dù có khẩn cầu như thế nào đi nữa, thầy tướng già cũng không đồng ý ra tay đổi mệnh, không lâu sau đó liền biến mất.

Về phần người nhà họ Chu, bọn họ tự thẹn trong lòng, không quên việc ấy, cả đời cũng không bỏ xuống được.

Cơn mưa rào mùa xuân khiến cho hoa lá rơi rụng đầy sân, tiếng tụng kinh gõ mõ trong một góc phủ tể tướng vang lên không ngừng nghỉ, nhang khói lượn lờ, thanh đăng được đốt lên, ngoài phòng vang vọng tiếng nói liên miên của ma ma và các nha hoàn, gọi một tiếng: "Cẩn thận hoa trong hành lang kìa!", thoáng chốc bừng tỉnh khỏi giấc mộng hoàng lương.

Chuỗi hạt bỗng nhiên đứt đoạn, hạt bồ đề lọc cọc rơi xuống đất, người trên giường mở mắt ra, lệ rơi lã chã.

"... Là mơ sao?"

Sao lại chân thật thật như thế?

Là kiếp trước kiếp này, hay là kiếp này kiếp sau?

Bà đang ở trong giấc mộng nào? Giấc mộng hoàng lương ấy là thế giới nào?

Nếu như phải chọn một thế giới giấc mơ mà ở đó không phải thức dậy, bà chỉ mong mình được ở lại nơi này mãi mãi.

Dẫu cho trăm năm không nhận nhau, ít ra con trai nhỏ của bà vẫn còn sống, sống rất tốt, dù vui dù buồn vẫn luôn có người bên cạnh làm bạn, không lẻ loi hiu quạnh, mộ phần hoang vắng như kiếp trước.

***

Phủ Lâm An quận vương.

Từ khi Cung Tuấn khôi phục lại thân phận Đại hoàng tử, phẩm cấp cũng đã được thăng từ Quận vương lên thành Thân vương, gọi là Lâm An vương.

Cơn mưa ngày xuân liên miên không dứt, vạn vật trong trời đất đều không muốn động đậy, đương nhiên con người cũng ham lười biếng, lại trùng hợp vào ngày nghỉ phép, Chu Tử Thư dứt khoát làm ổ trong phòng làm việc ở phủ, ăn trưa xong bèn di chuyển đến giường gần cửa sổ đọc thoại bản một lát, lắng nghe tiếng mưa rơi theo tiết tấu mà chìm vào giấc ngủ.

Nén nhang trên bàn đã được đốt lên, tro nhang chất đống bên cạnh lư hương, nha hoàn đã vào thay bốn nén nhang rồi. Một nén nhang đốt nửa canh giờ, bây giờ đã hai canh trôi qua, sắc trời tối xuống, mưa cũng đã ngừng rơi, bầu trời như được khoác tấm áo mới, hương thơm bùn đất và hoa cỏ tràn ngập trong không khí, côn trùng nhao nhao bò ra hít khí trời. Tiểu tư bên ngoài nhỏ giọng hỏi: "Ngủ bao lâu rồi?"

"Hai canh giờ, chưa từng lâu như thế, chắc là mệt muốn chết rồi. Bảo mọi người thả lỏng nghỉ ngơi đi, cơ mà cá, ếch bên ngoài chắc đã tụ đầy ở hồ nước rồi đấy, mưa vừa ngớt là kêu ộp ộp không ngừng."

"Đã gọi người đến đó xem rồi ạ."

"Mang hoa dưới hành lang ra vườn lại đi... Mang từng chậu đi thôi, buổi tối sẽ không mưa nữa đâu."

Lúc này có một loạt tiếng bước chân dồn dập đi tới, người nọ thấp giọng nói: "Phu nhân tể tướng đến rồi, Hải tổng quản đang ở nhà trước tiếp đón đấy."

"Là vị nào... Chu phu nhân hả? Biết rồi, ta sẽ vào phòng đánh thức Chu đại nhân ngay."

Một lúc sau, có tiếng cọt kẹt vang lên, có tia sáng lọt vào trong phòng, tiếng bước chân nhẹ nhàng đi tới chiếc giường cạnh cửa sổ, người nọ vừa định lên tiếng đã thấy Chu Tử Thư mở to mắt, đôi mắt sáng trong, trông chẳng giống như ngái ngủ chút nào cả. "Đại nhân tỉnh từ khi nào thế ạ?"

"Mới vừa tỉnh thôi." Chu Tử Thư đứng dậy khoác thêm áo choàng, vừa mang giày vừa hỏi: "Chu phu nhân có nói vì sao lại đến nhà thăm hỏi không?"

Tiểu tư đáp: "Chỉ nói muốn đến thăm ngài thôi."

Chu Tử Thư đi ra ngoài, đột nhiên quay đầu lại nhìn về phía thứ ánh sáng xua tan bóng tối ở gần giường, bên cạnh lư hương vẫn còn lưu lại một luồng khói xanh, trong sương khói tựa như cất giấu mộng cảnh hoang đường kì lạ vừa nãy.

Sắc mặt thoáng xuất hiện sự hốt hoảng, Chu Tử Thư xoay người lại, "Đi thôi."

==

Lời tác giả:

Ban đầu 'Chu Tử Thư' và bé Cá là cùng một nhân vật, có chung số phận nhưng không chung đường vận mệnh, có thể xem nhân vật trong nguyên tác là giả, cũng có thể xem 'Chu Tử Thư' trong nguyên tác là nhân vật ở thế giới song song, đã đầu thai chuyển kiếp.

Trong nguyên tác, người nhà họ Chu đã thật sự dùng phần phúc của mình để đổi cho 'Chu Tử Thư' ở thế giới kia có được một kiếp sau viên mãn, đôi bên coi như hết duyên.

Mà người nhà họ Chu và bé Cá ở thế giới này thì đã là ở một đường vận mệnh khác rồi.

==

Ngoại truyện 3 • Chợt mơ chuyện thiếu niên

Khói xanh lượn lờ, tiếng Phật mịt mù.

Chu Tử Thư cất hai tay vào trong tay áo, rũ mắt phục tùng giống như một du hồn bước đi trên hành lang khúc khuỷu, ánh mắt thoáng liếc sang hai bóng người đang nói chuyện trong sân nhà.

Y giương mắt nhìn lên, thấy một người tóc bạc trắng trôi lôi thôi lếch thếch, người còn lại thì mặc thường phục, lưng thẳng tắp, mái tóc cũng trắng xoá, đang nói chuyện với người lớn tuổi lôi thôi kia.

Y ến gần nghe thử, "... Không tiếc đại giới, chỉ cầu cho ngũ lang tu được kiếp sau viên mãn." Giọng nói rất quen tai, thế là y đi vòng qua phía chính diện để thấy rõ mặt của người đang nói, chính là Chu Bá Ung.

"Ta biết khiến cho người chết sống lại là chuyện rất hoang đường, không cầu kiếp này, chỉ cầu kiếp sau, nhất định đừng chịu hết cực khổ như cuộc đời kiếp này nữa..." Tiếng Chu Bá Ung nhỏ dần, không giấu được sự suy sụp và đau đớn: "Là một người cha, ta thậm chí không thể hình dung nó là một sự thất bại, phạm phải một sai lầm lớn, ta cũng không thể cho chính mình một cơ hội để sửa sai. Tiên sinh, cầu xin ngài rủ lòng từ bi, ngũ lang không nên chịu những gian khổ không thuộc về thằng bé."

Thầy tướng gì bất đắc dĩ: "Thế gian ngàn vạn người có ngàn vạn gian khổ, sao có thể tùy tiện đổi mệnh được chứ? Chuyện xảy ra hôm nay còn không quản được, sao có thể quản chuyện kiếp sau? Số mệnh đã như thế, không thể cưỡng cầu, ai cũng có nhân duyên tế hội của riêng mình, kiếp này y chịu khổ, làm sao biết kiếp sau không được hưởng phúc? Đường nhiên là ta không chắc chắn y sẽ tốt số, chỉ là... Hầy, đừng cầu xin ta nữa, nếu như thật lòng thì hãy kết thiện duyên rộng rãi, tu phúc cho người khác đi, dù không thể nói trước được, nhưng các người vẫn có thể dùng chút thân duyên yếu kém đó tăng mấy phần phúc khí cho tiểu lang quân đấy."

Ông ta phất tay nói những lời kỳ lạ, ánh mắt hướng về nơi Chu Tử Thư đang đứng.

Chu Tử Thư cứ tưởng ông ta nhìn thấy mình, thầm nghi ngờ không biết đây là giấc mơ quái quỷ gì, có điều y lại nhanh chóng phát hiện ra thầy tướng già kia không nhìn thấy y.

Cơ thể lang thang vô định, đi vào sâu hơn bên trong Chu phủ, Chu Tử Thư quay đầu lại nhìn Chu Bá Ung sương gió đầy mặt, trong lòng dâng lên một cảm xúc kì lạ, sau đó y tiếp tục đi về phía trước, lần lượt nhìn thấy Chu Trường Phong, Chu Trọng Cẩm và Chu Ngọc Khanh, Chu đại lang vẫn làm việc trong Cấm quân, lão nhị làm ở Tam ty, Chu Ngọc Khanh tiền đồ đứt đoạn vì uống rượu gây sự, chạy vào giang hồ làm hiệp khách,

Vừa hay hôm nay Chu Ngọc Khanh về phủ, Chu Tử Thư nhìn thấy gã suýt chút nữa thì tưởng y nhận nhầm người, thiếu niên đã từng mang trong mình tính cách lỗ mãng, nay mặt mũi râu mọc đầy, vẻ mặt vừa chán nản vừa tang thương, trông gã bình tĩnh là thế nhưng vẫn nhìn ra được nỗi buồn bã.

Chu Trọng Cẩm thì không khác với dáng vẻ mà y quen biết lắm, chỉ thêm già giặn và chín chắn hơn, lúc này hắn đang đứng trong sân một mình.

So với Chu Ngọc Tranh, Chu Trường Phong trông không nhếch nhác bằng, thế nhưng tuổi còn trẻ thế mà hai tóc mai đã nhuộm bạc, khiến cho người ta phải thổn thức.

Nhắc mới nhớ, bấy giờ Chu Ngọc Khanh nhỏ tuổi nhất cũng đã ba mươi rồi, nói chi đến hai người còn lại, nhưng cả ba anh em đến tuổi này rồi mà vẫn không vợ không con, âu cũng khiến người ta ngạc nhiên.

Thân thể bị động bay tới viện nhỏ vắng vẻ mà y đã ở suốt mười chín năm trời, Chu Tử Thư bất ngờ khi nhận ra nó đã được tu sửa lại và xây dựng thêm không ít thứ, giống như biến thành hai viện, cảnh vật chung quanh đẹp đẽ và yên tĩnh rất hợp lòng người, nhưng cờ chiêu hồn, đèn trường mệnh và các loại hương nến bên trong lại nhiều vô số kể, nhìn giống như chùa miếu hơn. Đến gần một chút nữa, y thật sự nghe được tiếng gõ mõ và tiếng tụng kinh.

Chu Tử Thư đứng trên hành lang, đèn lồng màu đỏ trên đỉnh đầu được thắp sáng, chập chờn trong gió đêm phát ra tiếng kẽo kẹt nhỏ xíu, cánh cửa bên cạnh mở toang, bên trong trải dài thanh đăng, hương khói không ngừng, trên bàn bày một cái bài vị, chiếc bàn bên cạnh thì có một vị phu nhân mặc quần áo giản dị đang dựa vào bàn sao chép kinh Phật, chậu đồng thiêu giấy đặt kế bên chân đang rực lửa.

"Ta nghe như vậy: Vào một thuở nọ đức Phật ở tại cung Trời Đao Lợi..."

Bà đang chép Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện, cầu phúc cho người chết.

Lúc này có ma ma đưa hai nha hoàn theo cầm giỏ xách đi tới, trong giỏ là những đồ vật để đốt cho người chết như nguyên bảo*, vương kim, tiền phúc, bọn họ cúi đầu vái trước bài vị, thông báo với Tạ thị đang sao chép kinh Phật chẳng màng tới ai rồi bước ra sân thiêu hủy những đồ vật kia.

(*) Nguyên bảo: đĩnh vàng hoặc bạc thời xưa, một đĩnh bạc thường nặng 50 lượng, một đĩnh vàng thường nặng 5 hoặc 10 lượng

Ma ma dặn hai nha hoàn đứng trong sân canh lửa, chú ý phải để mọi thứ bị đốt sạch xong rồi mới được đi, sau đó quay vào nhà cùng Tạ thị.

Hai nha hoàn kia đứng cách hành lang rất xa, nhưng Chu Tử Thư vẫn có thể nghe được nội dung cuộc trò chuyện của hai nàng, một trong hai nha hoàn đó có một người là người mới tới, không hiểu chuyện trong phủ bèn nhỏ giọng hỏi thăm.

Nha hoàn còn lại nhìn trái nhìn phải, xác định không có ai ở gần mới kể cho nàng ta nghe chuyện lớn làm chấn động phủ Kinh Đô năm đó, sự thật đổi con bị vạch trần, người nhà họ Chu nhẫn nhịn, giả vờ đầu quân vào Đông cung, để hắn kế vị không tới một năm đã tiêu diệt sạch đảng đế vương, phơi bày âm mưu hại tiên đế, giúp đỡ Lâm An quận vương đăng cơ.

Mặc dù Xương Bình và Chu Ngọc Tranh đã phải chịu đủ báo ứng, nhưng ngũ lang thật đã chết từ lâu rồi, dù có làm nhiều hơn nữa, hối hận đến đâu đi nữa thì cũng vô ích thôi, người chết đâu thể nào sống lại được.

"Hôm nay là ngày giỗ của ngũ lang."

Cùng lúc đó, Tạ thị ở trong nhà vô cùng thành kính mà niệm, "Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát, nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, cầu cho kiếp sau của con ta được viên mãn, sống lâu trăm tuổi, trăm tuổi không lo."

Chu Tử Thư quay phắt đầu nhìn lại, rốt cuộc cũng thấy rõ mấy chữ to "Bài vị của con trai Chu Tử Thư quá cố" ở bên trên.

——Không, nói đúng hơn là bài vị của "Chu Tử Thư" trong nguyên tác.

Vì sao y lại mơ giấc mơ này?

"Không phải là mơ đâu." Ai đang nói chuyện thế?

Chu Tử Thư theo tiếng nhìn lại, thấy được một người có dáng vẻ giống y như đúc, chỉ là khí chất dịu dàng và yếu ớt hơn y, cơ thể cũng vô cùng đơn bạc, giữa lông mày chất chứa nỗi phiền muộn.

"Chu Tử Thư."

Là Chu Tử Thư không được yêu thương trong nguyên tác.

"Hân hạnh được gặp."

Ngoài dự đoán chính là "Chu Tử Thư" trước mắt y không hề thê thảm như lời miêu tả trong quyển truyện kia.

"Chu Tử Thư" nhìn về phía Tạ thị, ánh mắt dịu dàng, không còn oán hận cũng chẳng còn cố chấp: "Cậu nhìn thấy chưa? Bọn họ đều cảm thấy cuộc đời tôi đau khổ, thật ra trừ việc không ai thương tôi ra, thì tôi sống chẳng phải lo sinh hoạt, cũng không cần lo ăn uống gì." Cậu ta cười, "Nhưng khi còn sống người ta đâu có nhận ra được những điều này, mà chỉ tập trung vào nỗi đau nhất thời và phóng đại nó lên vô hạn, cố chấp với thứ không có duyên phận, sống chết không chịu buông tay... Bây giờ tôi mới hiểu được hóa ra sự cố chấp của tôi cũng giống như của bọn họ mà thôi. Người chết rồi coi như xong chuyện, tôi vốn phải im hơi lặng tiếng mà tiêu tan đi, nhưng chấp niệm của bọn họ đã kéo tôi trở về, để tôi tận mắt nhìn thấy rằng, trên đời này không phải là không có ai thương yêu tôi."

"Tôi đã cảm thấy mỹ mãn rồi."

"Cậu đúng là Chu Tử Thư nhưng không phải là tôi, chúc cậu không tai không đau, mọi sự suôn sẻ, được như mong muốn."

"Tôi cũng mong cậu không tai không đau, được trời quan tâm, tam tinh cao chiếu, vạn sự như ý cát tường."

Tên, gương mặt, số mệnh giống nhau nhưng lại là hai người khác nhau, một trái một phải chắp tay cúi chào lẫn nhau, chúc phúc cho nhau, sau đó nhìn nhau cười tươi, mà cũng ngay lúc này, "Keng..." một tiếng vang dậy đất, âm thanh của chuông vàng xuyên qua phủ Kinh Đô, mang theo nhịp điệu thanh thoát của tiếng gõ mõ, tiếng tụng kinh, cùng với tiếng mưa rơi, tiếng ếch kêu, tiếng nha hoàn xì xào bàn tán và tiếng mấy tiểu tử thì thầm đan xen vào nhau, dần dần cách xa, rồi một bên biến mất chẳng còn tăm hơi, một bên còn lại thì càng trở nên rõ ràng, hình ảnh biến từ vặn vẹo mơ hồ thành rõ ràng chân thật...

Chu Tử Thư mở bừng mắt ra, tiếng mưa rơi, tiếng ếch kêu và tiếng thì thầm của mấy tên tiểu tư vọng vào trong phòng đểu biến mất hết, chỉ có tiếng chuông reo là vẫn còn vang dội, lại một lát sau nữa, khi nghe thấy tin bảo "Phu nhân tể tướng tới chơi", đón lấy tiếng tiểu tư vào phòng y mới xác định mình đã thoát khỏi giấc mộng kia, về lại đời này.

Khoác thêm áo choàng, Chu Tử Thư băng qua hành lang, đan mười ngón tay vào nhau giấu trong tay áo, rũ mắt suy nghĩ về "người nhà họ Chu" và "Chu Tử Thư" mà y nhìn thấy trong giấc mơ.

Không hề nghi ngờ gì nữa, đó chính là tuyến truyện của nguyên tác, kết cục HE chính là ngày đại điển sắc phong của nhân vật chính diễn ra, mà khi màn kịch vừa buông xuống, những nhân vật phụ bỗng nhiên sống dậy trở lại giống hệt như những con rối, đốt giết tàn sát, gió tanh mưa máu, vì nhân vật chính mà thêm thắt một ngoại truyện BE tràn ngập mùi máu tanh.

Y nghĩ, hóa ra người nhà họ Chu biết được sự thật đổi con rồi vẫn yêu thương Chu Ngọc Tranh như ngày xưa là vì có mục đích riêng, hóa ra "Chu Tử Thư" trong sách không hề thảm thương đến tột cùng, không phải bị vứt bỏ mặc cho người chà đạp, cũng không phải chết không có gì hối hận, vẫn có người nhặt xương cho cậu ấy, có người đốt đèn trường mệnh cho cậu ấy suốt chục năm trời, có người vì cậu ấy mà chịu hổ thẹn nhiều năm, giày vò cuộc đời mình, có người sẵn lòng dâng ra phúc phận mười đời của mình đổi cho cậu ấy một kiếp sau tốt đẹp hơn.

Thì ra "Chu Tử Thư" chỉ có thân duyên nông cạn, cho nên cũng không phải là số trời khó trái.

***

Nhà trước.

Tạ thị nghe thấy tiếng bước chân bèn nhanh chóng quay người lại, nhìn thấy Chu Tử Thư liền vô thức tiến lên, nhưng đi được vài bước thì đột nhiên đứng lại, nụ cười tươi xuất hiện trên môi: "Ngũ lang." Bà quan sát Chu Tử Thư, thấy y không tai không đau, không có bất kì dấu hiệu gì là sẽ chết trẻ ở tuổi hai mươi sáu, dây thừng căn chặt trong ngực mới nới lỏng ra, không nhịn được thở phào một hơi nhẹ nhõm, nhỏ giọng nói: "Ta vừa mới đi ngang qua vương phủ, nên muốn đến đây gặp con một chút. Bây giờ gặp được rồi, cũng không có chuyện gì khác, ta không quấy rầy con nữa, ta... Bây giờ ta đi đây."

Ngoài miệng nói đi, nhưng chân lại không động đậy, hai mắt vẫn còn dính chặt lên người Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư rũ mắt, tuy rằng có giấc mơ kia làm bước đệm, nhưng y vẫn không biết phải đối mặt với Tạ thị như thế nào.

Người đã từng hận y, trách y, khắt khe với y chính là Tạ thị, thương y, hổ thẹn với y, vì y mà tụng kinh niệm phật cầu phúc trường an cũng là Tạ thị, Chu Tử Thư có đau khổ trong lòng nhưng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện căm hận Tạ thị và người nhà họ Chu.

Đã từng nói dùng cả đời này để thanh toán hết không phải là hờn dỗi, y tự mình đa tình với nhà họ Chu, nhưng nó đã tan thành mây khói vào ngày xuất giá của mùa hè năm mười chín tuổi rồi, từ dạo ấy về sau lòng không gợn sóng, mặc dù có thương cảm vì sau này người nhà họ Chu luôn bỏ ra công sức cố gắng chắp vá thân duyên, nhưng cuối cùng cũng không có cảm xúc gì quá mãnh liệt.

Nhưng khoảng thời gian này, hình ảnh Tạ thị dù có muốn quan tâm đến y vẫn phải cẩn thận lòng vòng lại khiến cho y lơ đễnh nhớ đến Tạ thị sao chép kinh Phật như điên, lẩm bẩm "Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát", xin trời cao rủ lòng thương, hy vọng con trai nhỏ "sống lâu trăm tuổi" trong giấc mơ kia.

Suy cho cùng thì y vẫn không đành lòng.

Chu Tử Thư: "Hôm trước vừa nhận đường đỏ Nghiên Băng gửi đến, thằng bé tự tay nấu đấy, tối nay ta định lấy nấu trứng gà đường đỏ, nấu hơi nhiều một chút, Tử Uyên vẫn còn ở trong cung, nấu xong để nguội lâu sẽ có mùi tanh... Người có muốn uống không?"

Có thể thấy hai mắt của Tạ thị long lanh sáng rực, khóe môi cong lên, gật đầu liên tục: "Thích chứ, mẹ... À, ta, ta thích trứng gà đường đỏ lắm!"

Mặc kệ trước kia đi, dù sao thì từ rày về sau đây chính là tình cảm chân thành của bà ấy.

Chu Tử Thư cười, lấy cớ phải đi hối thúc, thật ra là vào nhà bếp tự tay nấu trứng gà đường đỏ, tài nấu nướng của y kém quá, làm cái gì cũng không xong, nhưng nấu một chén trứng gà đường đỏ dễ uống thì y làm được.

Nấu hai chén trước, sau đó mới mang lên nhà trên, chia cho Tạ thị một chén.

Tạ thị nếm thử, đầu lưỡi bị phỏng nên hai mắt cũng nóng lên, trong chớp mắt hiểu ra đây là nước chè vừa mới nấu xong.

Không phải thuận tiện, mà là cố tình xuống bếp, là mây mờ trăng tỏ sau sáu năm trời ròng rã, rốt cuộc cũng nhìn thấy được hiềm khích năm xưa tiêu tan, thân duyên có khả năng nối lại.

Cảnh tượng con trai nhỏ tự thân xuống bếp, ngồi chung một bàn, im lặng uống nước đường, chỉ còn lại tiếng lách cách khi muỗng chạm vào thành chén là niềm hi vọng mà Tạ thị mong mỏi đã lâu rồi nhưng có nghĩ bà cũng không dám nghĩ đến, những tưởng bà gặp được con rồi sẽ lại chảy nước mắt, sẽ khó nhịn nỗi xúc động, nhưng sự thật thì tỏ ra bình tĩnh khéo léo, giống như một người mẹ và con trai bình thường, ngồi lại nói những chuyện bình thường vào một ngày rất bình thường trên đời này vậy.

Uống một chén trứng gà đường đỏ như nhấm nháp sơn hào hải vị, tốn hết tâm tư kéo dài thời gian nhưng rất nhanh đã thấy đáy, Tạ thị hơi bối rối, không biết nên dùng cớ gì để tiếp tục ở lại vương phủ.

Chu Tử Thư nói những chuyện thường ngày một cách rất tự nhiên, Tạ thị vội vàng bắt lấy cơ hội tiếp lời, trò chuyện câu được câu chăng nhưng cũng đâu ra đấy, có lẽ là dấu hiệu phá băng.

Nửa canh giờ nhanh chóng trôi qua, tất nhiên Tạ thị đã cảm thấy thỏa mãn rồi, cũng không thể lấn lướt tiếp tục ở lại đây nữa, vô duyên vô cớ lại làm người ta phát ghét nữa.

Bà đứng dậy chào tạm biệt.

Chu Tử Thư tiễn bà đi, đi qua sân nhà, hành lang rồi đến bức tường phù điêu, đứng cạnh cổng đưa mắt nhìn Tạ thị lên xe ngựa, bỗng nhiên cất giọng: "Mẫu đơn trong phủ nở thế nào rồi ạ?"

Tạ thị kinh ngạc mừng vui nâng mắt lên: "Trăm hoa tươi đẹp, kiều diễm ướt át."

Chu Tử Thư: "Tổ chức tiệc vào cuối tháng Ba sao?"

Tạ thị: "Hai mươi lăm tháng Ba."

Chu Tử Thư: "Ta có thể đến chứ?"

Chóp mũi Tạ thị chua xót, nhưng môi lại cười tươi như hoa: "Xỏ ngược giày nghênh đón*."

(*) Nguyên văn là Đảo tỉ nghênh chi - 倒屣迎之: Xỏ giày ngược ra nghênh đón. Vì nhiệt tình, vội vàng ra nghênh tiếp khách mà đi giày ngược

Chu Tử Thư đưa tay ra, ống tay áo dài che khuất gương mặt, thoáng cúi đầu chào tiễn biệt.

Tạ thị bước vào xe ngựa, bánh xe lăn nhanh đi xa, bỗng nhiên bà dùng tay áo che mặt, vui mừng phát khóc.

==

Buổi chiều, Cung Tuấn trở về từ trong cung.

Từ khi hắn từ chối vị trí Thái tử, được nhận lại lấy thân phận Đại hoàng tử, quan hệ cha con với Nguyên Thú đế đã hòa dịu đến trạng thái thuần túy tốt đẹp nhất.

Nhưng Nguyên Thú đế luôn thích tối đa hóa lợi ích của mọi người và mọi thứ, nói trắng ra là không muốn thấy Cung Tuấn chơi bời lêu lổng ăn nằm đàn đúm suốt ngày, cho nên gọi hắn vào cung dạy võ công, bài binh bố trận, hành quân chiến tranh,... cho các hoàng tử, chiến thần Tây Bắc đích thân dạy học đương nhiên là thầy giỏi dạy trò hay rồi.

Hơn nữa nhờ vậy mà Cung Tuấn không chỉ là đại ca của các hoàng tử, hắn còn trở thành thầy giáo, có hai thân phận này bảo vệ, ngày sau tân đế đăng cơ cũng phải đối xử cung kính với bọn họ, không được làm những việc như qua cầu rút ván.

Có điều nhìn qua quá trình trước mắt, Cung Tuấn càng có khả năng sẽ trở thành nỗi ám ảnh lúc nhỏ của các hoàng tử hơn.

Trong phòng tắm, hơi nước mờ mịt, Cung Tuấn đang ngâm mình dưới nước nóng, trong tầm mắt, Chu Tử Thư chỉ có thể nhìn thấy được tấm lưng dày rộng và cánh tay cơ bắp cường tráng của hắn, tóc dài búi lên, hai cánh tay sải dài gác lên thành bồn tắm, trên cổ tay quấn chuỗi vòng Phật.

"Hôm nay trời mưa đến chiều tối, không thể tổ chức các hoạt động ngoài trời, lẽ ra phải về sớm chứ, sao chàng về muộn thế?"

"Sáng nay Thập tam với Thập ngũ đứa nào đứa nấy giở trò nhỏ nhen, ta phạt chúng tiếp tục luyện tập trong mưa, đợi mệt sắp ngất rồi mời thả cho về."

Tuy nói lúc huấn luyện Cung Tuấn vô cùng nghiêm khắc, nhưng thật ra rất ít khi trừng phạt, với cái tính lười biếng của hắn thì chắc chắn phải chẳng thèm quan tâm mấy chuyện này mới đúng, nếu không phải tại Nguyên Thú đế thường xuyên lệnh cho người đến theo dõi, nói không chừng vừa đến giờ Mão là hắn xách mông chạy về rồi.

Có thể khiến cho hắn chủ động đưa ra hình phạt, nhất định là đối phương đã phạm vào giới hạn của hắn.

"Sao vậy?"

"Hoàng tử tranh giành, đùa giỡn bày trò tâm cơ là chuyện bình thường, nhưng tuổi còn nhỏ đã không từ thủ đoạn mà nhảy vào chỗ chết, nếu không nhanh chóng uốn nắn cho thẳng lại thì khó tránh khỏi lệch lạc thành kẻ tàn bạo bất nhân. Đám nhóc con này, không cầu bọn chúng ngày sau có thể trở thành minh quân thịnh thế, làm một quân vương có lòng nhân nghĩa, là một tấm gương tốt, biết thương cảm cho nỗi khổ của người khác là được rồi."

Nhắc đến đây, im lặng một lát, Cung Tuấn không chịu nổi lớp da giả vờ lạnh lùng bình tĩnh nữa, trầm giọng hừ một tiếng khinh thường, vô cùng không vui nói: "Phiền!"

Cung Tuấn xoay người, thò tay về phía Chu Tử Thư, làm dáng nói: "Tiểu lang quân mau tới dỗ dành tinh thần và thể xác mệt mỏi của ta đi."

Chu Tử Thư bước tới, tát một cái vào lưng hắn, nói chuyện như ông già: "Làm người đứng đắn đi." Nhưng vẫn mặc cho hắn nắm tay, y hơi cúi đầu xuống, hơi nước mờ mịt bao phủ trước mắt, miệng cũng đột nhiên bị ngăn lại, rồi bỗng trời đất quay cuồng, bị kéo thẳng vào trong bồn tắm, bọt nước tung tóe khắp nơi, quần áo ướt dần, trôi lềnh bềnh trên mặt nước.

Mặt nước sóng sánh, Chu Tử Thư nheo mắt lại, trâm ngọc rơi ra, búi tóc vốn lỏng lẻo chớp mắt rơi đầy trên vai, đuôi tóc ướt đẫm, cũng trôi nổi giống như áo ngoài.

Cung Tuấn khẽ cười, "Buổi chiều tiểu lang đã gặp Chu phu nhân à?"

Chu Tử Thư dùng giọng mũi ừm một tiếng trả lời, mười ngón chân co quắp lại.

Bàn tay của Cung Tuấn cứ quanh quẩn bên eo Chu Tử Thư, nghe vậy bèn tiếp tục hỏi như đang trò chuyện: "Tiểu lang định đến dự tiệc sao?"

Chu Tử Thư cau mày, tay trái lướt qua vai Cung Tuấn nắm chặt lấy thành bồn tắm, đầu ngón tay trắng trẻo, thấp giọng đáp: "Mời mấy năm nay rồi, từ chối nữa thì không phải phép."

Cung Tuấn: "Là vì bỏ qua tất cả mọi hiềm khích lúc trước hay là chỉ làm theo lời yêu cầu thôi?"

Chu Tử Thư mím môi không muốn nói, nhưng Cung Tuấn thấy y không nói chuyện bèn lại gần hôn lên khóe môi y, nhưng những hành động mang ý trêu đùa tựa như đang chọc ghẹo mèo con liên tục ập đến, thỉnh thoảng khiến người ta cảm giác như đang bị giày vò.

"Phiền quá!" Chu Tử Thư đột nhiên nổi nóng, nắm thay thành quyền nện vào vai Cung Tuấn, thuận thế đứng dậy, chuẩn bị đá cái tên phiền phức chết tiệt này ra rồi bỏ đi, "Chàng tự chơi đi... A!"

Cung Tuấn siết chặt eo y kéo trở về, để y lưng tựa vào bồn tắm, đôi mắt Bồ Tát màu ngọc lưu ly chứa đựng vẻ lười nhác nhưng hung hăng, giống hệt như đọa Phật, mê hoặc Chu Tử Thư đang tức giận trở nên mềm lòng, áp sát lại hôn lên cằm và trái cổ của hắn.

Thoáng chốc bọt nước văng tứ tung, sương khói lượn lờ, đèn dầu xua tan bóng tối, người làm mang công cụ chà rửa phòng tắm đến trước cửa rồi lại đi, mãi đến tận khi trăng tròn treo cao, Cung Tuấn ôm Chu Tử Thư đi ra, bọn họ mới có thể vào thu dọn phòng tắm hỗn loạn.

Buổi chiều đã ngủ hai canh giờ vốn phải tỉnh táo, nào ngờ đến tối lại náo loạn một trận không có giới hạn, thể lực bị vắt sạch, vừa nằm lên giường đã ngủ say.

Cung Tuấn khoác áo lót vào, ôm Chu Tử Thư ngủ.

Đêm xuân hơi lạnh, mọi âm thanh đều như ngừng lại, trừ tiếng côn trùng nhỏ kêu vang, ánh nến lập lòe hai lần đã ắt, giấc mộng bí mật ngọt ngào ghé thăm.

...

Cũng vào một đêm mưa mới dứt, côn trùng ở nơi rừng sâu cây dày kêu lên không ngừng, Chu Tử Thư mười sáu tuổi vừa trở thành tú tài, lòng mang chí lớn, chất chứa đầy hoài bão và triển vọng vì dân lập mệnh, cũng tài hoa hơn người, tương lai rộng mở.

Nếu như không có chuyện gì ngoài ý muốn, tiếp theo chính là thi Hương, thi Hội, cuối cùng là thi Đình giành lấy công danh.

Ân sư khen ngợi y có tài trạng nguyên, nhưng y lại không quan trọng trạng nguyên hay bảng nhãn, có thể làm quan là được rồi.

Chu Tử Thư lảo đảo chạy theo thời đại này, tuy rằng vấp ngã đến nỗi mặt mũi bầm dập, y trà trộn vào đủ thứ hạng người để nhìn nổi khổ của tầng lớp dưới cùng, thế nhưng chưa bước vào quan trường, chưa chính thức đối mặt với bóng tối khiến cho con người của thời đại này rơi vào tuyệt vọng nhất, chưa nếm trải cảm giác dốc hết toàn lực để đầu rơi máu chảy rồi lại bất lực, lúc bấy giờ vẫn còn khá ngây thơ.

Y cũng giống như các học sinh trong thiên hạ này, học hành chỉ để làm quan.

Có người làm quan vì tiền tài, có người làm quan để kiến công lập nghiệp, để lưu danh sử sách, nhưng cũng có người làm quan chỉ vì hai chữ "vì dân".

Chu Tử Thư cho rằng tu thân cũng đơn giản giống như tu quan, không cầu tiền tài, không mưu quyền, chỉ nhẹ nhàng như hai chữ vì dân.

Nếu như có cơ hội tiến xa vạn dặm, thì sẽ từ vì dân thành lo nước, suy cho cùng thì vẫn chỉ là để mưu cầu hạnh phúc và lợi ích cho dân mà thôi.

Từ nhỏ trong y đã chứa dấu ấn của một thời đại bình đẳng, cho nên làm mọi chuyện đều chọn cách tử tế nhất, chỉ không ngờ người nhà họ Chu vì một suy nghĩ của Chu Ngọc Tranh mà yêu cầu y từ bỏ tham gia khoa khảo.

Trong lòng Chu Tử Thư cảm thấy hoang đường, hiếm khi chọn từ kiên quyết từ chối, vậy mà chỉ ngủ một giấc thôi, tỉnh dậy y đã phát hiện mình bị nhốt trong một căn phòng lạ lẫm, cửa sổ cũng khóa chặt, trong góc có lương khô đủ sống qua mười ngày nửa tháng.

Hôm nay là ngày vào trường thi.

Ngoài cửa đột nhiên có tiếng bước chân vang lên, dường như là vọng vào từ bên ngoài.

Chu Tử Thư nhòm ra khe cửa, trông thấy một bóng lưng hơi quen thuộc, người đó đi đến cửa viện, rồi sau đó giọng nói tò mò của Chu Ngọc Tranh vang lên, "Tam ca, sao huynh lại ở đây?"

Chu tam lang nói mấy câu lừa gạt cho qua chuyện, Chu Ngọc Tranh còn định hỏi tiếp đã nghe một giọng nói khá lạnh lùng khác vang lên: "Nó chỉ là một thằng nhóc ranh thôi, trừ bày trò xấu ra thì có thể làm nên chuyện đứng đắn gì chứ? Đừng để bị nó dạy hư, đệ mới vừa khỏi bệnh, theo nhị ca đến sân xem cưỡi ngựa đánh bóng thôi, phải chỉ bảo cho nhị ca đấy."

Quả nhiên sự chú ý của Chu Ngọc Tranh đã bị dời đi, tung tăng chạy xa.

Chỉ nghe Chu nhị lang quát một câu không đau không ngứa: "Vừa phải thôi."

Chu tam lang rầm rì hai câu rồi chạy theo sau, viện nhỏ hoàn toàn trở nên yên tĩnh, Chu Tử Thư bèn nghĩ, thế thì cũng không cần phải nhốt y mười ngày nửa tháng chứ, chỉ cần bỏ lỡ canh giờ vào trường thi hôm nay là đã tương đương với việc y tự động từ bỏ ba năm khoa khảo sau này rồi.

"Hầy."

Chu Tử Thư ôm cánh tay, chôn mặt vào khuỷu tay, bị nhốt trong tiểu viện lạ lẫm suốt hai ngày một đêm, cuối cùng đập bể cửa sổ chạy ra ngoài, nhìn lên bầu trời không trăng không sao và rừng sâu vươn tay không thấy nổi năm ngón, bỗng nhiên nện nắm tay vào lòng bàn tay chán nản nói: "Sớm biết như vậy thì mấy ngày trước không nên từ chối bùa cầu phúc bình an mà cao tăng chùa Bảo Hoa chào hàng mới đúng!"

Tiếc rằng khi đó y không thể mua vì giá đắt quá, từ chối đi cửa sau có thần phật che chở.

Bây giờ có hối hận cũng đâu thể làm được gì, thần phật đã đóng cửa sau lại rồi, chỉ chừa mỗi bóng lưng vô tình mà thôi.

So với rừng rậm tràn đầy bóng tối với vô số loài rắn, côn trùng, chuột và kiến, tất nhiên là tiểu viện sau lưng an toàn hơn, chỉ cần ngồi bên trong đợi đến sáng là được, nhưng đối với Chu Tử Thư mà nói, y thà xông vào khu rừng đầy rẫy nhưng hiểm nguy, có khả năng sẽ phải chết oan chết uổng còn hơn là quay trở lại gian phòng bí bách đó.

Đó là khi sự nhiệt tình mà y dành cho người nhà họ Chu bắt đầu trở nên nguội lạnh.

Lần mò trong bóng tối đi về phía trước, trên cơ thể đầy vết thương bầm dập tê tái, nỗi đau và sợ hãi như muốn xé rách linh hồn và thân thể, y lẻ loi bước đi trong khu rừng tối nơi chẳng có chút ánh sáng, sự lạc lõng khi sống trong một thế giới khác luôn được kiềm nén, nỗi sợ hãi, cô độc, khó khăn, đau đớn và tủi thân trong chốc lát cùng nhau bùng nổ, Chu Tử Thư đột nhiên chạy như điên, trong đầu trống rỗng, sống chết toàn bộ dựa vào ý trời.

Rồi y vấp phải rễ cây trượt chân xuống sườn núi, lăn vào con đường nhỏ bên cạnh, tưởng rằng đã ngã chết ở một nơi không ai hay biết, nhưng rồi y nghe được ở cuối con đường nhỏ đó có tiếng vó ngựa đang vọng từ xa tới gần, cũng chẳng biết vì sao, dưới sự hạn chế của bóng tới và ánh mắt mơ hồ, Chu Tử Thư vẫn nhìn thấy được chú ngựa phi nhanh đến cùng với tướng mạo vô cùng đẹp của chàng trai trên lưng ngựa, hùng ưng bay lượn trên đầu rồi hạ thấp độ cao xuống, tay trái của hắn cầm trường cung, túi da treo trên lưng chứa đầy mũi tên đuôi lông trắng vô cùng thu hút sự chú ý của người khác.

Trước khi mất sạch ý thức, Chu Tử Thư nghĩ thầm, hóa ra là lang quân cưỡi ngựa bắn cung vào ban đêm, không biết có phải người tòng quân hay không nữa.

Nhìn thấy đuôi tóc dài của hắn bay lên, khí thế hăm hở, nếu không mang Ngô câu chẳng phải sẽ đáng tiếc lắm sao?

Lang quân trên lưng ngựa liếc nhìn sang, lạnh lùng nghiêm khắc nhưng hờ hững, có điều chỉ trong nháy mắt lại bay bổng rời đi, tiếng vó ngựa đi xa dần, Chu Tử Thư lại nghĩ bụng người ta không phát hiện ra mình, hay là nhìn thấy nhưng không muốn dây vào việc của người khác?

Bỏ đi, có hơi đau đấy, ngủ một chút trước đã.

Ý thức của Chu Tử Thư đã gần đến mức sụp đổ rồi, vó ngựa lại rền vang, móng trước nhô cao, một chiếc đèn cầy chiếu sáng mặt của y, rồi sau đó y được bó lại trong quần áo và chăn ấm, ngửi thấy mùi hương đốt trước Phật êm dịu nhàn nhạt khiến cho tinh thần người ta an yên.

Giữa lúc nửa tỉnh nửa mê, Chu Tử Thư líu ríu nói: "... Tướng quân đêm bắn tên, sớm mai tìm dấu vết." Vậy cho nên ban đầu y mới lập tức suy đoán nếu như đó không phải là một vị tướng quân còn trẻ đã thành danh thì thật là tiếc cho phong thái ấy quá.

Sau khi tỉnh lại, Chu Tử Thư đã thấy mình ở y quán rồi, y không thể tra ra được người cứu mình là ai, đến nối dáng vẻ của đối phương cao thấp thế nào y cũng không nhớ rõ, chỉ có khuôn mặt khôi ngô đẹp đẽ là vẫn loáng thoáng trong đầu, đương nhiên là y sẽ loại trừ Lâm An quận vương tàn bạo có tướng mạo xấu xí kia trước.

Dần dà, kí ức kia trở nên mơ hồ, thậm chí đôi khi y còn cho rằng đó chỉ là một giấc mộng.

Cũng có thể người kia là yêu quái trong núi, tình cờ rũ lòng thương làm việc tốt cứu y mà thôi.

...

Đột nhiên choàng tỉnh khỏi cơn mơ, Chu Tử Thư mở mắt ra, khuôn mặt say ngủ của Cung Tuấn lọt vào tầm mắt, y ngắm nhìn thật kĩ, nếu như hắn trẻ ra mười tuổi, hình dáng và ngũ quan đều sẽ nhu hòa hơn, màu da cũng sẽ trắng hơn một chút, thật sự là rất giống với yêu ma quỷ quái mà y gặp được trong núi năm mười sáu tuổi.

Đúng ngay lúc này, ngoài phòng có tiếng chim ưng vang lên, giống hệt như cách hùng ưng hạ mình bay quanh bầu trời đêm ấy.

Bỗng nhiên Chu Tử Thư nở nụ cười.

Hóa ra mỗi lần ta bước đến lằn ranh của sự sống và cái chết, chàng đều là người cứu ta.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro

#123