(70-120)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 70

Nguồn: EbookTruyen.Net

Món quà của CungTử Phong

Diêu Tam nói: "Hầu như thợ nắm bắt được hết phương pháp rồi, nhưng sản lượng ngọc lưu ly trong suốt vẫn chưa ổn định. Thứ nhất là vì sản phẩm này rất khó chế tạo, khó hơn xà phòng nhiều. Thứ hai là vì thời hạn ngắn quá, lại đúng dịp Tết, công nhân về nhà ăn Tết hết, chưa sản xuất được bao nhiêu lần."

Chu Tử Thư suy nghĩ một lát, nói: "Dẫn tôi đi xem thế nào."

Các quan được nghỉ đến mười bảy tháng Giêng, tức là sau tết Nguyên Tiêu mới phải đi làm. Chu Tử Thư về Thịnh Kinh sớm hơn hạn ấy mấy hôm, cậu khoác áo ấm dày dặn, đi cùng Diêu Tam đến xưởng ngọc lưu ly ở phía Đông thành.

Đúng thế, trước khi rời khỏi Thịnh Kinh, Chu Tử Thư đã dày công nghiên cứu suốt nửa tháng để tạo ra được thủy tinh.

Khi Chu Tử Thư đưa thành phẩm cho bọn Diêu Tam và kế toán Lâm, mọi người đều trầm trồ thốt lên: "Ngọc lưu ly!"

Quản lí Lục hay giao lưu với người bên phủ Cảnh Vương, đã thấy vô số thứ đồ quý giá. Ông ta nói: "Ngọc lưu ly có giá vô cùng đắt, phần lớn là cống phẩm cho hoàng cung, bên ngoài cũng có nhưng hầu hết chế tác rất thô sơ, độ tinh khiết lại kém. Ngọc lưu ly chất lượng xuất sắc thế này, hẳn phải được chế tạo từ đá Lưu Ly cao cấp nhất. Tiểu đông gia, cậu có được từ đâu thế?"

Mọi người đều coi thủy tinh là ngọc lưu ly nên Chu Tử Thư không có ý định phân biệt quá rạch ròi. Cậu nói: "Ngọc lưu ly phần nhiều là loại màu sắc sặc sỡ, ông đã gặp loại trong suốt thế này bao giờ chưa?"

Quản lí Lục săm soi một hồi: "Thế thì chưa, đúng là chưa thấy loại trong suốt bao giờ cả."

Chu Tử Thư nói: "Đây là một loại ngọc lưu ly đặc biệt, không dùng đá Lưu

Ly tạo thành. Tôi gọi nó là thủy tinh, nhưng mọi người cứ gọi là ngọc lưu ly cũng được. Cái chính là nó không được làm từ đá Lưu Ly." Chu Tử Thư nhấn mạnh thêm một lần nữa.

Kế toán Lâm và quản lí Lục sửng sốt nhìn nhau.

Kế toán Lâm nói: "Tiểu đông gia, ý của cậu là... nguyên liệu làm nên vật này, rẻ hơn so với đá Lưu Ly?" Quản lí Lục: "Rẻ hơn bao nhiêu thế ạ?" Chu Tử Thư giơ tay làm dấu một con số.

Mọi người chao đảo, hít vào một hơi.

Vì thế, hôm nay mới có một màn như sau.

Chu Tử Thư và Diêu Tam đến xưởng ngọc lưu ly, thấy các thợ thủ công đang tỉ mỉ mài đá Lăng Tử thành bột. Ở một gian khác trong xưởng, những người thợ đang điều chế xút. Vì trước đó mọi người đã có kinh nghiệm sản xuất xà phòng, quá trình điều chế xút diễn ra vô cùng suôn sẻ. Tuy nhiên, nếu cứ trộn hết bột đá Lăng Tử, bột đá Bồ Tát và bột cát kết vào với nhau rồi cho phản ứng với xút thì vẫn thất thoát kha khá.

Chu Tử Thư theo dõi rất lâu, rồi tự bắt tay vào thử nghiệm, cậu thảo luận với mấy người thợ có kinh nghiệm trong việc chế tạo xà phòng suốt mấy ngày, cuối cùng chỉ tăng hiệu suất được đến 40%.

Chu Tử Thư tiếc rẻ: "Mặc dù đây là phương pháp chế tạo thủy tinh của người phương Tây từ thời cổ đại, nhưng nếu có thể sử dụng máy móc thời hiện đại, hiệu suất phải lên đến 70%."

Sau khi chế tạo ra thủy tinh dạng lỏng đỏ rực và nóng rẫy như nham thạch là đến công đoạn thổi thủy tinh thành hình dáng.

Phương pháp thổi thủy tinh cũng là phương pháp chế tác thủy tinh được sử dụng suốt mấy ngàn năm ở thế giới phương Tây, đến thời hiện đại nó vẫn được kế thừa bởi nhiều thợ thủ công. Các thợ thủ công dùng một tuýp sắt dài mảnh, nhúng một đầu vào thủy tinh lỏng. Thủy tinh lỏng có độ dính rất cao, sẽ cuốn vào một đầu ống giống như keo thổi bong bóng vậy, thợ thủ công sẽ thổi mạnh từ đầu kia của ống tuýp, khiến thủy tinh lỏng phồng lên.

Sau đó, người thợ có thể tùy ý thổi thủy tinh thành hình dạng mong muốn.

Hiện giờ thợ của Chu Tử Thư vẫn chưa thể thổi ra các sản phẩm đòi hỏi độ khéo léo cao, mà mới chỉ thổi được những hình đơn giản.

Chu Tử Thư quan sát thợ thổi thủy tinh rồi chọn vài người dẫn ra một góc. Chu Tử Thư nói: "Từ giờ các anh được miễn tham gia công đoạn chế tạo nham dịch." Nham dịch ở đây chính là thủy tinh lỏng, "Nhiệm vụ của các anh là tập trung vào công đoạn thổi thủy tinh, làm sao tạo ra được càng nhiều hình dáng phức tạp và hoa văn cầu kì hơn nữa." Những người thợ ấy gật đầu vâng lệnh.

Nói xong, Chu Tử Thư bảo Diêu Tam: "Diêu đại ca, việc kinh doanh xưởng ngọc lưu ly lần này chúng ta sẽ không hợp tác với ai cả, đây là sản nghiệp riêng của nhà mình. Việc đảm bảo bí mật kinh doanh, anh đã làm xong chưa?"

Hồi làm xà phòng và tinh dầu, mọi chuyện đã có họ Đường quản lí, Chu Tử Thư chỉ cần cung cấp công thức là được. Nhưng trong lần sản xuất thủy tinh này, cậu không hợp tác với bất kì ai cả mà chỉ làm một mình, thế nên việc gì cũng đến tay đến chân hết.

Diêu Tam vội nói: "Đương nhiên là đâu vào đấy rồi ạ. Tôi đã phân công từng người thợ điều chế các nguyên liệu khác nhau và trông coi cẩn thận. Hơn nữa, so với thương nhân bình thường, tiểu đông gia đường đường là đại quan tứ phẩm, thợ thuyền không dám khinh nhờn đâu. Nếu cả gan phạm tội, họ cũng biết hậu quả ra sao." Chu Tử Thư gật đầu.

Thời cổ đại ở thế giới của cậu, quan lại không được phép làm kinh doanh vì hai lí do, một là địa vị xã hội của thương nhân rất thấp, hai là để phòng ngừa các quan lợi dụng chức vị kiếm chác cho bản thân. Tuy ở thế giới này không có luật ấy, địa vị của thương nhân trong xã hội cũng cao hơn nhiều, nhưng việc buôn bán của đại quan tứ phẩm với dân đen cũng khác nhau một trời một vực.

Sau khi đôn đốc công việc ở xưởng ngọc lưu ly xong, hai mươi ngày nghỉ Tết cho quan lại cũng kết thúc.

Năm Khai Bình thứ hai mươi chín, ngày mười bảy tháng Giêng, giờ Sửu ba khắc.

Chu Tử Thư nhanh chóng xuống giường, Phụng Bút đồng tử bê chậu nước nóng đến cho cậu rửa mặt rửa tay. Tiếp theo, Phụng Bút lại hầu Chu Tử Thư mặc từng lớp quan bào cầu kì lên người. Chu Tử Thư lâu lắm mới dậy sớm thế này, cậu ngó ra ngoài, thấy chị Hằng vẫn lơ lửng trên cao, nền trời hẵng còn tối đen.

Chưa đến ba giờ sáng.

Thở dài, Chu Tử Thư đội mũ quan, cầm hốt ngọc, rời nhà đi vào cung.

Đại quan nhất phẩm thì được vào cung bằng xe ngựa song mã; đại quan nhị phẩm thì được ngồi xe ngựa đơn mã. Quan tam phẩm dùng xe lừa, còn quan tứ phẩm thì đi bộ. Một số quan tứ phẩm đi lại bất tiện có thể trình đơn lên bộ Lễ, nếu bộ Lễ phê chuẩn thì hàng ngày họ cũng được ngồi xe lừa lên triều.

Nhưng đến cổng Tuyên Võ của hoàng cung, tất cả đều phải xuống xe, đi bộ vào cung.

Chưa đến giờ chầu, các quan nhất phẩm, nhị phẩm đang nghỉ ngơi trong chính điện của điện Sùng Chính, các quan tam phẩm ở tả điện, còn quan tứ phẩm, nhóm đông người nhất, thì chịu khó chen nhau trong hữu điện.

Lâu lắm mới lên triều, các quan đều hồ hởi chúc Tết nhau.

Chỉ có các quan kinh thành từ tứ phẩm trở lên mới được vinh hạnh dự buổi triều hàng ngày. Còn các quan địa phương từ tứ phẩm trở lên vào kinh thì phải báo trước một ngày cho bộ Lễ, đến hôm sau mới được vào chầu.

Chu Tử Thư nhìn quanh quất trong hữu điện một hồi, quả nhiên phát hiện vô số gương mặt lạ hoắc.

Năm mới đến, các quan địa phương đều lên kinh chúc Tết hoàng đế, nên đông người hơn hẳn mọi khi.

Canh giờ đã điểm, thái giám chuyên trách đến trước điện Sùng Chính, tuyên các quan vào điện yết kiến vua. Các quan lớn nhất phẩm, nhị phẩm trong chính điện bước ra đầu tiên, tiếp theo là các quan tam phẩm từ tả điện. Sau rốt là đến các quan tứ phẩm.

Lễ pháp Đại Tống sâm nghiêm, dù có là hoàng đế cũng không được vượt mặt quy củ.

Chu Tử Thư là Trung Thư xá nhân, tức quan viên của điện Cần Chính, cậu đứng trong hàng ngũ các quan bên trái, lắng nghe Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng đọc bài cầu phúc lành năm mới. Trong hàng ngũ quan viên tứ phẩm, Chu Tử Thư đứng hàng thứ hai, hệt như câu vè truyền miệng ở kinh thành: Thịnh Kinh bằng mấy miền ngoài, điện Cần Chính lại bằng mười Thịnh Kinh.

Làm quan ở điện Cần Chính oai hơn bao nhiêu so với quan tứ phẩm ở các địa phương khác.

Bởi hôm nay là buổi chầu đầu tiên của năm mới, trên triều đình, các quan đều bẩm báo với Triệu Phụ những việc xảy ra trong năm vừa qua. Năm ngoái, ngoại trừ miền Bắc có mưa lớn, gây ngập lụt nhiều thành lũy, làm sập một cây cầu đang xây dở, thì không còn thiên tai nào khác. Tuy thế, chẳng ai dại mà đi chạm vào cái nọc ấy của hoàng đế ngay lúc này cả. Tân phủ doãn Thứ Châu tóm lược qua loa về cầu sông Kinh Hà, rồi trắng trợn tung hô rằng quan đạo Thứ Châu đã xây được một nửa, đến giữa năm nay nhất định sẽ thông đường.

Phủ doãn Thứ Châu: "Bệ hạ hồng phúc tề thiên, con dân Thứ Châu ngày nhớ đêm mong, quan đạo cũng sắp sửa thi công xong rồi ạ!"

Triệu Phụ mỉm cười phất tay, hiền từ nói: "Thế thì nỗ lực hoàn thành nhé." "Vâng!"

Một canh giờ sau, buổi chầu kết thúc, các quan rời khỏi cung.

Chu Tử Thư ngẩng đầu, liếc về phía các đại quan nhất, nhị phẩm theo bản năng. Cậu thấy Cung Tuấn đang nói chuyện với Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu. Không biết hai người nói gì mà Từ Lệnh Hậu tỏ ra rất đỗi ngạc nhiên, gật đầu lia lịa. Một lúc sau, Đại thái giám Quý Phúc đi từ trong điện ra, nói mấy câu với Cung Tuấn.

Cung Tuấn dừng bước, trở vào theo Quý Phúc.

Cuối tháng Giêng, quản lý Lục và kế toán Lâm cùng nhau lên phương Bắc, chuyến đi ấy kéo dài nửa tháng.

Là Trung Thư xá nhân, Chu Tử Thư hằng ngày đều phải đọc tấu sớ quan viên khắp các nơi gửi về, thỉnh thoảng cũng tham gia vào việc soạn thảo chiếu thư.

Thánh chỉ và chiếu thư của hoàng đế, đương nhiên không thể do ông ta tự viết được. Ngoài chiếu tự phê bình và văn khấn trời hàng năm, còn lại, hoàng đế chỉ cần ra ý chỉ, sai thái giám đến điện Cần Chính tuyên đọc khẩu dụ, rồi Trung Thư xá nhân sẽ án theo đó mà viết chiếu thư, gửi về điện Thùy Củng cho hoàng đế duyệt rồi đóng ấn ngọc.

Đầu năm Khai Bình thứ hai mươi chín, thiên hạ thái bình, cả nước mưa thuận gió hòa.

Đến trung tuần tháng hai, kế toán Lâm trở lại Thịnh Kinh.

Kế toán Lâm nói: "Có thư của tiểu đông gia và sự giúp sức của CungTiêu đại nhân, công việc ở Ninh Châu đúng là làm một hưởng mười. Ninh Châu vốn là là nơi tập trung hoạt động giao thương của nước Liêu với Đại Tống ta, người Liêu rất ưa chuộng những sản phẩm mới lạ như tơ lụa, lá trà, và cả ngọc lưu ly trong suốt mà chúng ta giới thiệu lần này nữa. Chuyện buôn bán với nước Liêu xin tiểu đông gia cứ yên tâm, không có gì phải lo cả."

Chu Tử Thư gật đầu, đang định đáp lời thì một cô nhóc mặc quần áo nam đã chen vào: "Trên lí thuyết thì đi đường quan đạo từ Ninh Châu chỉ mất một ngày là đến Thịnh Kinh, nhưng nếu phải vận chuyển nhiều hàng hóa thì không đi nhanh được đâu, phải hơn hai ngày mới đến nơi ấy."

Chu Tử Thư nghe thế thì cười: "Anh còn chưa thèm hỏi ai cho em đi Ninh Châu, lại còn ăn mặc thế này đâu nhé!"

Đường Hoàng trợn mắt: "Em, em mặc thế đã làm sao nào? Anh này, anh không thấy trong sách người ta bảo con gái triều trước rất chuộng ăn mặc giống nam giới à? Thời ấy, con gái hay mặc đồ nam hằng ngày, đi cưỡi ngựa ở ngoại ô! Tuy rằng thời nay kém phổ biến hơn hẳn, nhưng ở lầu Tế Hà nhà mình, mỗi ngày cũng thấy một hai chị. Huống hồ..." Giọng con bé lí nhí lại, "Huống hồ em giả trai đi Ninh Châu, cả đường có bị ai phát hiện ra đâu."

Chu Tử Thư cười phá lên.

Té ra em giả trai mà không bị ai phát hiện là chuyện đáng mừng à?

Chu Tử Thư tỉ mỉ ngắm em gái mình, cũng hiểu đại khái vì sao con bé cải trang thành con trai mà qua mặt được tất cả mọi người. Đường Hoàng từ bé đã sống lam lũ dưới quê, phơi nắng phơi gió, da dẻ không được nhẵn nhụi như các tiểu thư khuê các. Con bé cũng ăn uống thả phanh, Chu Tử Thư và Diêu đại nương chưa bao giờ kìm kẹp nó, thế nên Đường Hoàng khỏe mạnh phổng phao, cao hơn con gái bình thường phải đến nửa đầu.

Một cô gái như vậy mặc quần áo nam, đúng là khó bị người ta phát hiện ra thật.

Chu Tử Thư: "Nào mời cô nương giải trình trước, ai cho phép em Ninh Châu?"

Đường Hoàng câm như hến, xong mới lí nhí bảo: "Tự em đòi đi được chưa? Chẳng lẽ đi thăm thú Ninh Châu mà em cũng không được đi hay sao..." Chu Tử Thư không ừ hử chi sất.

Đường Hoàng lo ngay ngáy, con bé chỉ sợ Chu Tử Thư sẽ mắng mỏ rồi từ rày cấm nó ra khỏi cửa, ấy thế mà Chu Tử Thư chỉ cười: "Anh có cấm em ra ngoài bao giờ đâu? Nhưng em phải biết là em không được đi một mình, đi gần đi xa đều phải hết sức cẩn thận. Ninh Châu là nơi tụ tập đông người Liêu, nếu có chuyện gì bất trắc xảy ra ở đàng ấy, ai bảo vệ được em đây?"

"Em biết rồi, anh trai em tốt nhất trần đời!"

Chu Tử Thư trao đổi với kế toán Lâm thêm một chút rồi kế toán Lâm mới ra về. Cả nhà ăn cơm tối xong, Chu Tử Thư lại gọi Đường Hoàng vào thư phòng mình. Giờ Đường Hoàng đã mặc lại quần áo con gái rồi. Con bé này, mặc đồ nam thì khôi ngô anh tuấn, mặc đồ nữ thì bừng bừng khí khái. Chu Tử Thư nghiêm túc nhìn em gái mình, chẳng hiểu sao vừa thấy lúng túng vừa thấy sởn da gà.

Chu Tử Thư: "Mới đây đại bá mẫu có bảo anh rằng em sắp đến tuổi cập kê, nên tìm đối tượng để bàn chuyện cưới gả."

Đường Hoàng: "..."

"Em thấy thế nào?"

"Giờ em chưa muốn lập gia đình đâu!"

Chu Tử Thư: "Ờ, vậy cứ thế nhé."

Đường Hoàng đang định lí luận một tràng, nghe Chu Tử Thư nói thế thì ngớ người: "Anh, anh... cho phép em không lấy chồng à?"

Chu Tử Thư nhướng mày: "Em bảo tạm thời chưa muốn lấy chồng còn gì, hay là sau này cũng không có ý định lấy chồng luôn?"

Đường Hoàng cười hí hửng: "Đâu có, chỉ bây giờ thôi."

"Tùy em. Nhà họ Đường này thừa sức nuôi em đến già."

Đường Hoàng ngẩn ngơ nhìn anh trai, tự dưng nảy ra một suy nghĩ rằng nếu bây giờ em bảo Chu Tử Thư rằng cả đời này em không muốn cưới ai, rất có thể Chu Tử Thư cũng sẽ đồng ý. Rõ ràng điều ấy không hợp lễ giáo, nhưng Chu Tử Thư nhất định sẽ không ép em làm việc mà em không thích.

Cô bé ôm suy nghĩ ấy, chẳng vì bất cứ một lí do nào cả.

Hồi lâu sau, cô thiếu nữ mười bốn tuổi mới nhỏ nhẹ bảo rằng: "Anh ơi, lúc vào phòng em thấy Diêu đại nương bảo bà nấu canh móng giò cho anh đấy, em múc cho anh một bát nhé?" Chu Tử Thư trố mắt nhìn em gái mình.

Cô em nhà mình tâm lí thế từ bao giờ ý nhỉ?

Chu Tử Thư: "Ừ."

Đường Hoàng vui sướng chạy ùa ra khỏi thư phòng.

Kỳ thực lần này dù Đường Hoàng có không từ chối đi chăng nữa, Chu Tử Thư cũng không có ý định cho em gái lấy chồng trước tuổi mười tám.

Mười lăm tuổi đã cưới xin, đúng là tội ác với loài người!

Cậu không dám tưởng tượng ra cái hình ảnh Đường Hoàng bụng mang dạ chửa ở tuổi mười lăm. Ở cái tuổi ấy, cơ thể con gái chưa phát triển hoàn thiện, mang thai vừa khó sinh nở vừa rất có hại cho sức khỏe. Tuổi thọ trung bình của nữ giới thời cổ đại ngắn như thế, nguyên nhân lớn nhất chắc chắn là có liên quan đến việc kết hôn và sinh sản quá sớm!

Ờ Đại Tống, con gái mười tám tuổi mới lập gia đình tuy không nhiều những cũng chẳng đến nỗi hiếm hoi. Chỉ có điều những cô gái như vậy thường hay bị điều tiếng. Phải người nào yếu thế thì cũng đến khốn khổ vì những lời đồn thổi, bịa đặt ác ý. Về phần nhà mình, Chu Tử Thư tin rằng cậu có khả năng che chở cho em gái. Cậu không bao giờ để cô em nhỏ từng khóc sưng húp mắt đòi nhường hết của hồi môn cho anh trai cắp sách đến trường phải lấy bừa một người xa lạ.

Hạ tuần tháng hai, Đường Vân đi thuyền lên miền Bắc, cập cảng Đại Vận Hà ở Thịnh Kinh.

Diêu Tam dẫn anh ta đến phủ Thám hoa.

Lần đầu tiên Chu Tử Thư gặp Đường Vân là ở phủ Cô Tô, hồi cậu còn ở căn nhà nhỏ đơn sơ mộc mạc. Đường Vân hôm ấy nổi giận đập phá tanh bành cả sân nhà Chu Tử Thư, rồi hai đứa thách nhau xem Chu Tử Thư có đỗ đồng sinh vào kì thi năm sau không.

Bây giờ đã bốn năm trôi qua, biết bao nhiêu điều đã thay đổi.

Đường Vân đã lấy vợ và cũng nuôi râu rồi. Năm ngoái anh ta vất vả lắm mới thi đỗ Tú tài, nhưng đến kì thi viện thì không qua nổi. Vì thế, hiện giờ anh ta vẫn chưa đủ điều kiện để thi Hương. Gặp Chu Tử Thư, Đường Vân lại nơm nớp lo sợ.

Chu Tử Thư trông dáng vẻ rúm ró của anh ta mà buồn cười. Đến tầm này thì cậu hơi sức đâu mà ra oai, đe nẹt anh ta nữa. Việc nhỏ như con kiến thế mà cũng so đo, thì mỗi ngày làm việc trong triều đình cậu phải chết vì tức mấy chục lần ấy chứ!

Chu Tử Thư chủ động mở lời: "Đại đường huynh, tình hình ở Cô Tô và Kim Lăng thế nào rồi?"

Đường Vân thấy Chu Tử Thư gọi mình là "Đại đường huynh" thì lén thở phào nhẹ nhõm. Anh ta nói: "Như lời cậu dặn, tháng trước, vừa hết Tết, tôi và phụ thân đã đi Kim Lăng, bàn bạc chuyện vận chuyển hàng hóa với nhà họ Trịnh. Nhà ta với họ Trịnh vẫn buôn bán cùng nhau, họ nhận lời ngay. Chỉ có điều, chuyển hàng trên Đại Vận Hà đến Thịnh Kinh nhanh nhất cũng phải mất bảy ngày. Khối lượng hàng hóa càng nhiều thì giá thành càng rẻ. Nhưng Đường... Chu Tử Thư này, cậu có chắc là cần nhiều hàng đến vậy không? Bán hết được chứ?"

Chu Tử Thư: "Chuyện ấy thì anh cứ yên tâm."

Đường Vân ở lại Thịnh Kinh hai ngày rồi cũng cáo từ để về Cô Tô.

Việc kinh doanh khu vực miền Bắc đã có quản lí Lục và kế toán Lâm quản lí, tình hình phương Nam thì khoán hết cho nhà họ Đường. Chu Tử Thư đi vào thư phòng, trải trang giấy Tuyên Thành trắng bóc ra, hít sâu một hơi, hạ bút viết ba con chữ lớn.

『Bách Bảo Các』

Viết xong, cậu lại thấy chưa hài lòng, vo tờ giấy lại, viết thêm lần nữa.

Viết đi viết lại bảy tám lần, Chu Tử Thư đành gác bút, để khi khác viết tiếp sau.

Hôm sau, vừa tan buổi triều, Đại thái giám Quý Phúc đột nhiên gọi cậu lại.

Chu Tử Thư hoảng hốt lắm. Đối diện với Quý Phúc, cậu giả đò như vừa mừng lại vừa lo, khiêm tốn hành lễ: "Quý công công."

Trong khi Chu Tử Thư là đại quan tứ phẩm, Quý Phúc chỉ là một hoạn quan. Việc cậu hành lễ với lão ta kỳ thực không phù hợp phép tắc, nhưng Quý Phúc đã quá quen với việc ấy rồi. Trước đây khi Chu Tử Thư làm Khởi Cư lang, cậu luôn đối xử trọng thị với lão ta, các dịp lễ tết kiểu gì cũng có chút lễ mọn. Giờ Chu Tử Thư làm quan tứ phẩm, là Trung Thư xá nhân của điện Cần Chính mà lễ tiết với Quý Phúc không hề thay đổi, khiến lão ta cười nhăn nheo cả mặt mày.

Quý Phúc nhỏ nhẹ nói: "Đường đại nhân, quan gia đang chờ ngài ở điện Thùy Củng, xin ngài mau đi theo tôi."

Chu Tử Thư lập tức đi theo Quý Phúc đến điện Thùy Củng.

Trong điện Thùy Củng, Triệu Phụ đang xem tấu chương. Thấy Chu Tử Thư tới, ông ta liền bỏ quyển tấu xuống, cười bảo: "Cảnh Tắc đến rồi đấy à."

Chu Tử Thư hành lễ: "Bệ hạ."

Cậu lặng lẽ nhìn xung quanh, Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân hai bên đều lạ hoắc, hẳn là những người mới được bổ nhiệm sau khi Chu Tử Thư rời vị trí.

Triệu Phụ mỉm cười với Chu Tử Thư: "Lâu lắm trẫm mới gặp Cảnh Tắc, sao Cảnh Tắc giữ kẽ thế?"

Chu Tử Thư diễn tròn vai, ngẩng lên nhìn vua bằng vẻ mặt hàm ơn, rưng rưng xúc động.

Triệu Phụ nhìn rõ mười mươi hành động ấy, ông ta biết thừa Chu Tử Thư đang ra sức lấy lòng mình. Bản thân ông ta cũng ưa nịnh, nhất là những viên quan chỉ cần liếc mắt là thấy tuốt ruột gan, Triệu Phụ lại càng thích.

Triệu Phụ nói: "Trẫm có tuổi rồi, gần đây trẫm phê tấu chương ở điện Thùy

Củng giữa ban ngày mà cứ thấy tôi tối, không được như xưa."

Chu Tử Thư vội vàng thưa: "Bệ hạ thọ ngang trời đất."

"Cảnh Tắc, trẫm nghĩ đi nghĩ lại thì thấy cửa sổ dán giấy thế kia, ánh sáng chẳng lọt được vào bao nhiêu. Trẫm nghe nói, ngươi mới làm được một thứ khá thú vị." Nói rồi, Triệu Phụ nhìn Quý Phúc. Quý Phúc ngầm hiểu, ra lệnh cho một thái giám trẻ bưng khay gỗ sưa lên, trên khay bày một vật gì đó trong veo, lấp lánh.

Vật này đặc biệt đến nỗi tất cả các thái giám, Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân trong điện phải sửng sốt.

Triệu Phụ: "Ngẩng lên xem này."

Chu Tử Thư ngẩng lên, khi cậu thấy lọ tinh dầu bằng thủy tinh nho nhỏ kia thì sững người.

Triệu Phụ thấy cậu kinh ngạc đến thế thì nói: "Ngươi thấy thứ này có quen không? Của Tử Phong đấy. Có một hôm cậu ta để lộ ra từ tay áo, trẫm tình cờ nhìn thấy liền lấy về để thưởng thức. Ngọc lưu ly trong suốt, đúng là hiếm có khó tìm. Tử Phong bảo trẫm, vật này là do ngươi làm ra, có thật thế không?"

Đầu óc Chu Tử Thư rối bung, cậu nói: "Thần đến từ nhà họ Đường ở phủ Cô Tô, nhà thần có làm thương nghiệp. Ngọc lưu ly trong suốt này có tên là thủy tinh, là sản phẩm mà một người thợ trong xưởng nhà họ Đường phát minh ra ạ."

"Thứ này tuyệt lắm, nên thưởng cho kẻ đó. Mà trẫm thấy, vật này không phải làm từ đá Lưu Ly đúng không?"

Chu Tử Thư giới thiệu một lượt các vật liệu sử dụng để chế tạo thủy tinh.

Tình huống bất ngờ này khiến Chu Tử Thư hồn vía lên mây, sợ run như dẽ. Nhưng Triệu Phụ chỉ nhìn cậu bằng ánh mắt thâm thúy, rồi lại mân mê chiếc bình thủy tinh nho nhỏ.

"Thay hết giấy dán cửa sổ trong điện Thùy Củng cho trẫm."

"Vâng!"

Chu Tử Thư vã mồ hôi lạnh, cậu rời khỏi điện Thùy Củng mà run lẩy bẩy đến từng ngón tay. Đặt chân lên con đường xây bằng đá bạch ngọc trong hoàng cung, Chu Tử Thư ngoái đầu lại, nhìn về phía cung điện tráng lệ hùng vĩ. Môi cậu lập bập, giờ mới phát hiện mình không thốt nên lời nữa.

Triệu Phụ chỉ nói một câu mà khiến Đường gia trở thành hoàng thương1, khiến thủy tinh thành mặt hàng độc quyền của Đường gia!

Chu Tử Thư không thể biết Cung Tuấn đã làm thế nào. Trong hai tháng này, rốt cuộc chàng đã làm gì mới có thể khiến Triệu Phụ yên tâm về Chu Tử Thư thế, yên tâm đến mức cho phép Đường gia trở thành hoàng thương, khiến thủy tinh gắn liền với tên tuổi Đường gia?

Mấy hôm nay, Chu Tử Thư cứ trằn trọc ngày đêm nghĩ kế bán thủy tinh, thậm chí cậu còn định giảm sản lượng xuống mức tối thiểu, tạo sự khan hiếm để nâng cao giá bán.

Nhưng Cung Tuấn đã quét sạch mọi chướng ngại vật cho cậu.

"CungTử Phong..."

"Sư huynh."

Chu Tử Thư thì thầm gọi tên chàng, trái tim rộn ràng thổn thức.

Màn đêm buông xuống, cậu mang một hộp điểm tâm sang phủ Thượng thư.

Cung Tuấn đang chơi đàn dưới Tuấng. Nói là chơi đàn thôi, chứ thực ra chàng đang lên dây, chỉnh âm. Hôm nay Cung Tuấn mặc trường sam màu xanh lơ, mái tóc dài được buộc cao lên bằng ngọc quan. Nghe tiếng bước chân, Cung Tuấn ngẩng đầu cười khẽ, dường như chàng đã sớm đoán được là Chu Tử Thư sẽ đến: Tiểu sư đệ."

Chu Tử Thư bước vào ngôi đình ven hồ. Cậu đứng trước mặt Cung Tuấn mãi rồi mới nói: "Hôm nay, đệ nhận được quà Tết sư huynh dành tặng đệ rồi."

Trong ngôi đình sóng sánh ánh Tuấng, chàng thiếu niên áo trắng nhoẻn cười, vành môi Cung Tuấn cũng chầm chậm nhếch lên theo.

||

Manh: Bệnh sợ gái của Chu Tử Thư nặng lắm rồi, tiên nam họ Cungđâu mau đến cứu giá!!!!

Đoạn cuối bạn nào không hiểu thì Triệu Phụ chê giấy dán cửa sổ làm phòng thiếu sáng, đổi sang thủy tinh cho có nhiều ánh sáng, và nhà họ Đường sẽ cung cấp thủy tinh cho hoàng cung.

Chú thích

[1] Hoàng thương chỉ các thương nhân chỉ phục vụ riêng hoàng cung/hoàng đế. Ví dụ như cung cấp riêng tơ lụa cho hoàng cung chẳng hạn. Số lượng hoàng thương rất giới hạn nên đây là danh hiệu cực kì danh giá.

------oOo------

Chương 71

Nguồn: EbookTruyen.Net

Sư huynh nhà mình sắp thành tiên rồi

Trong vườn nhà Cung Tuấn, hai sư huynh đệ ngồi chơi trong ngôi đình ven hồ. Làn nước đêm thấp thoáng bóng Tuấng, gió lướt trên mặt hồ lăn tăn gợn sóng.

Chu Tử Thư để hộp điểm tâm lên bàn, Cung Tuấn vẫy tay ra hiệu cho cậu, bảo: "Ngồi đi."

Chu Tử Thư ngồi xuống băng ghế đá.

Xưa nay quân tử yêu văn thơ, mỹ nhân thạo cầm kì thi họa; song nói vậy không có nghĩa người quân tử thì không am hiểu cầm kì thi họa. Thời đại này có vô số tài tử vừa có tài vừa có nghệ, trong đó, tài tử lừng danh nhất đang yên vị ngay trước mặt Chu Tử Thư đây. So đánh cờ, thư pháp, vẽ tranh, Chu Tử Thư còn có thể nhại theo đôi chút, gọi là trông hồ lô vẽ gáo, bắt chước văn nhân, chứ riêng khoản chơi đàn thì cậu dốt đặc cán mai.

Về quá khứ năm năm nay, phần lớn thời gian cậu dồn cả vào việc học hành thi cử, còn đâu thì giờ mà học đánh đàn?

Thế nên, Chu Tử Thư chỉ ngồi cạnh xem Cung Tuấn lên dây đàn. Chỉnh âm xong, Cung Tuấn hỏi: "Tiểu sư đệ muốn nghe khúc nào?"

Chu Tử Thư buột miệng: "Cao sơn lưu thủy."

Cái này không trách Chu Tử Thư tai trâu được, bởi khúc Cao sơn lưu thủy quá nổi tiếng ở thời hiện đại, đi vào cả thành ngữ ca dao. Chu Tử Thư không nghe cổ cầm bao giờ, chỉ gọi tên được mỗi khúc nhạc này là đúng rồi.

Không hiểu sao câu trả lời ấy lại khiến Cung Tuấn bật cười. Chàng thở dài: "Cao sơn lưu thủyđược chia làm hai khúc, một là Cao sơn, hai là Lưu thủy."

Chu Tử Thư: "Ủa, thế cơ ạ? Thế sư huynh có đàn được cả hai khúc ấy không?"

"Cầm phổ của khúc Cao sơn lưu thủy đã bị thất truyền từ thời Thái tổ do chiến loạn. Bản được lưu giữ hiện giờ chỉ là tàn phổ thôi."

Sau đó Cung Tuấn cũng không hỏi lại Chu Tử Thư nữa mà đàn khúc Quảng Lăng tán.

Chu Tử Thư dụi mũi, biết sư huynh đã rõ mình là đồ văn hóa lùn nên mới không thèm hỏi nữa kẻo cậu lại xấu hổ. Câu nghe khúc Quảng Lăng cũng chẳng hiểu gì mấy, chỉ thấy giai điệu cảm động ra phết. Là người hiện đại, Chu Tử Thư hay nghe những bài hát thịnh hành thay vì nhạc cổ cầm trang nhã. Nói tóm lại, môn nghệ thuật này nằm ngoài tầm thưởng thức của cậu.

Nhưng khi ngắm phong thái chơi đàn của Cung Tuấn dưới ánh Tuấng, Chu Tử Thư dần dần ngộ ra đôi điều.

"Có lẽ khi lắng nghe âm nhạc, thứ mình thưởng thức không chỉ là khúc nhạc mà còn là người chơi đàn nữa." Chu Tử Thư kết luận thầm trong lòng.

Vẻ phong nhã, khoáng đạt của sư huynh nhà mình đã đạt đến tầm cao mới rồi!

Nếu bây giờ có một trận gió thổi quá, cậu nghĩ CungTử Phong có thể cưỡi gió vút bay, mọc cánh thành tiên luôn ấy chứ!

Gảy xong khúc Quảng Lăng, Cung Tuấn sai thư đồng cất cổ cầm đi. Sư huynh đệ cùng nhau nhâm nhi ấm trà, thưởng thức đêm Tuấng. Cung Tuấn hỏi: "Sao hôm nay tiểu sư đệ nổi hứng sang chơi phủ Thượng thư thế?"

Chu Tử Thư nghĩ thầm, huynh lại chẳng biết quá còn gì. Huống hồ ngay từ lúc đến đây ta đã nói rằng mình nhận được quà của huynh, tức đã biết huynh đưa lọ tinh dầu thủy tinh cho hoàng đế và xin cho ta danh hiệu hoàng thương rồi. Anh chàng CungTử Phong này là chúa vòng vo tam quốc!

Lắm lúc nói một câu là xong cả chuyện mà anh ta không nói đâu, cứ thích bắt người khác phải trình bày củ tỉ âm ti cho mình nghe mới chịu.

Những điều ấy Chu Tử Thư chỉ có thể than thở trong lòng chứ nào dám nói ra miệng. Cậu tỏ thái độ kính ngưỡng với Cung Tuấn: "Hôm nay thánh thượng đã vời đệ vào điện Thùy Củng và cho xem bình lưu ly."

Cung Tuấn thở dài: "Hôm đó cũng tình cờ bị thánh thượng bắt gặp thôi. Bệ hạ thích quá nên ta đành phải tặng người. Tiểu sư đệ, đệ không trách ta đấy chứ?"

Chu Tử Thư: "..."

Cái đuôi bự đã lòi ra rồi mà con sói này còn ỡm à ỡm ờ!

Chu Tử Thư lập tức đáp: "Đương nhiên là không rồi, đệ cảm ơn sư huynh còn chưa đủ nữa là. Thánh thượng ra lệnh cho đệ thay hết cửa sổ điện Thùy Củng bằng ngọc lưu ly trong suốt. Từ giờ việc cung cấp ngọc lưu ly hoàn toàn thuộc về Đường gia."

Cung Tuấn cười, tự châm trà cho bản thân rồi hất cằm hỏi Chu Tử Thư, Chu Tử Thư đẩy chén của mình sang.

Chu Tử Thư: "Có điều đệ cứ băn khoăn mãi... rốt cuộc sư huynh đã làm thế nào vậy?"

"Tiểu sư đệ quên ta là ai rồi sao?"

Chu Tử Thư ngạc nhiên: "Dạ, sư huynh?"

Cung Tuấn thưởng thức trà, khoan thai nói: "Ta là Thượng thư bộ Hộ đó, tiểu sư đệ ơi."

Chu Tử Thư bấy giờ mới bừng tỉnh.

Việc sắp đặt cho Đường gia lọt vào mắt xanh của hoàng đế rồi trở thành hoàng thương không hề dễ dàng đối với người khác. Còn đối với Cung Tuấn thì việc này hoàn toàn thuộc thẩm quyền của chàng, chàng thực hiện nó là điều chẳng ai có thể dị nghị. Song Cung Tuấn nói nhẹ nhàng thế thôi, với cái thói đa nghi của Triệu Phụ, muốn vận động cho thủy tinh của Đường gia thành hoàng thương, ắt hẳn chàng đã phải vận dụng nhiều thủ đoạn tinh vi mà Chu Tử Thư không tưởng tượng nổi.

Hai tháng dày công mưu kế làm sao lấp nổi chỉ bằng một câu "Thượng thư bộ Hộ"?

Nhưng dù Chu Tử Thư có gặng hỏi thì Cung Tuấn cũng không nói hơn đâu.

Chu Tử Thư suy tư một hồi thì cũng hiểu ý của Cung Tuấn. Cậu tặng cho chàng lọ tinh dầu lưu ly, chàng lại đáp lễ cậu nhiều như thế, vốn sẵn lòng cảm kích, cậu nhất định sẽ càng biết ơn Cung Tuấn hơn. Hoàng đế chú trọng việc thị uy kết hợp ban ơn, quyền thần đương nhiên cũng vậy. Thủ đoạn quan trường của CungTử Phong quá tinh tế, không hổ là người mà Lương Tụng phải khen là dễ làm quan và có tài làm quan nhất trên đời.

Nhưng dù Chu Tử Thư hiểu rõ điều ấy đi chăng nữa, cậu vẫn hàm ơn Cung Tuấn vô cùng.

Thu phục lòng người chẳng qua chỉ là một mục đích của Cung Tuấn. Chu Tử Thư có thể nhận ra rằng Cung Tuấn tử tế với mình thật. Nếu chỉ để mua chuộc lòng thành của một viên quan tứ phẩm, Cung Tuấn việc gì phải làm nhiều thế? Chàng vắt óc bày mưu, phần nhiều là bởi chàng thực lòng xem mình là sư đệ.

Chu Tử Thư nói: "Bình Hoàng Kim Lũ đã vào tay bệ hạ rồi, e là không lấy lại được. Đệ làm cho sư huynh một bình khác nhé, được không?"

Đôi mắt Cung Tuấn ngậm cười, chàng chỉ chờ câu này của Chu Tử Thư thôi: "Được."

Hai người tán gẫu một hồi thì trời cũng đã tối, ngày mai còn phải lên triều. Người hầu đi vào đình dọn điểm tâm và trà nước trên bàn.

Cung Tuấn: "Tuy trễ hai tháng, nhưng tiểu sư đệ có thích món quà Tết này của ta không?"

Ơ kìa? Giờ không vờ vĩnh nữa à?

Chu Tử Thư chả biết Cung Tuấn giở tiếp bài gì, cậu nghĩ một lát, quyết định nói thật lòng: "Thích ạ!"

Cung Tuấn cười tươi: "Thích là tốt."

Ngoài dự kiến của Cung Tuấn, Chu Tử Thư không về ngay. Cậu theo

Cung Tuấn vào thư phòng, nói: "Bút lực của sư huynh hùng tráng mạnh mẽ, hạ bút là như phượng múa rồng bay. Tuy đệ học theo nét chữ của sư huynh, nhưng còn xa mới đuổi kịp. Đệ muốn xin sư huynh ba chữ đại tự."

Cung Tuấn nhướng mày: "Ba chữ gì?"

"Bách Bảo Các."

Cung Tuấn liếc Chu Tử Thư đầy thâm thúy, rồi chàng rút cây bút lông sói, chấm mực, múa bút viết ba chữ "Bách Bảo Các".

Chu Tử Thư ngắm nghía, viết đẹp quá đi thôi. Chờ mực khô, cậu nhanh nhẹn xin bức thư pháp.

Gần về, Chu Tử Thư rút một hộp gấm nhỏ rất đẹp ra từ trong tay áo, nhét vào tay Cung Tuấn. Cung Tuấn ngạc nhiên, Chu Tử Thư nói: "Tặng sư huynh chút quà mọn nè."

Cung Tuấn mỉm cười: "Tiểu sư đệ suốt ngày quà cáp mà cứ chối là không hối lộ, buộc ta đáp lễ hoài. Xem ra đêm nay ta lại phải trằn trọc thao thức, động não xem nên tặng sư đệ cái gì rồi." "Sư huynh vừa tặng quà cho đệ đấy thôi."

"Hả?"

Chu Tử Thư phe phẩy cuộn thư pháp trên tay, nói: "Mai lên triều rồi mình gặp nhau nhé, sư huynh không phải tiễn đâu."

Dõi mắt nhìn theo bóng lưng Chu Tử Thư xa dần, chờ cậu đi khuất hẳn, Cung Tuấn mới trở lại phủ Thượng thư. Chàng thay quần áo, rửa mặt sạch sẽ rồi ngồi xuống án thư, mở hộp gấm Chu Tử Thư nhét vào tay mình hồi nãy. Hộp mở ra, Cung Tuấn giật mình ngỡ ngàng hồi lâu. Chàng thở dài: "Mình còn tưởng là ngọc bội hay túi hương, hóa ra là khế ước."

Cứ thế, khế ước cổ phần của của Bách Bảo Các bị CungTử Phong để nguyên trên bàn, đến tận trước lúc lên giường chàng mới cất nó vào hốc bí mật ở trong phòng ngủ.

Ở phủ Thám hoa, Chu Tử Thư đã về nhà, nhưng chẳng tài nào ngủ được.

Cậu nằm thao thức mãi trên giường, trở mình qua lại.

Hôm nay cậu tặng Cung Tuấn một món quá lớn: Cổ phần của Bách Bảo Các!

Người khác có thể không rõ khoản cổ phần này đại diện cho cái gì, ngay cả Cung Tuấn có khi cũng không biết số cổ phần ấy trị giá bao nhiêu tiền, nhưng Chu Tử Thư cho đi thật đơn giản. Cậu không hề tiếc số tiền ấy, bởi thứ nhất, tặng cổ phần Bách Bảo Các cho Cung Tuấn là cách cậu thể hiện lòng biết ơn của cậu với chàng. Cậu biết CungTử Phong ưu ái mình hết mực, song vì không có cách nào báo đáp nên cậu đành tặng chàng cổ phần. Thứ hai, ở Thịnh Kinh, Cung Tuấn là người quyền cao chức trọng, là Thượng thư bộ Hộ chuyên quản lí thương nghiệp. Có được sự hậu thuẫn của chàng, Bách Bảo Các nhất định sẽ đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi.

Nhưng thực ra, điều khiến Chu Tử Thư thao thức mãi lại là dáng vẻ của CungTử Phong khi gảy đàn tối nay.

Tuấng sáng trong ngần, áo xanh mão ngọc.

Ví bằng tất cả mọi người trên đời đều khen CungTử Phong là người đàn ông xuất sắc, diện mạo xuất chúng, khí chất phi phàm, Chu Tử Thư nhất định sẽ tán thành hai tay hai chân: sư huynh nhà cậu sắp thành tiên đến nơi rồi, những kẻ phàm phu tục tử khác làm sao sánh nổi? Nhưng dường như tối nay CungTử Phong đã đạt đến cảnh giới mới.

"Chơi đàn đúng là vũ khí làm màu tối thượng, sau này mình có nên đi học đàn không nhỉ?"

Chu Tử Thư nghĩ ngợi một hồi, bèn phủi ngay ý định viển vông ấy đi.

Tài đàn của CungTử Phong được ví như nhạc tiên, cậu mà rớ vào đàn khéo lại thành bật bông ấy chứ, thôi thôi hãy quên đi cho lành. Nghĩ vẩn nghĩ vơ gần nửa canh giờ, Chu Tử Thư mới ngủ được.

Đầu tháng ba, trên phố lớn Chính Dương Môn, có một người bí ẩn mua liên tiếp ba cửa hàng liền kề nhau, đóng cửa sửa sang.

Thịnh Kinh là trung tâm chính trị, văn hóa và kinh tế của Đại Tống, sự phồn hoa của phố lớn Chính Dương vượt quá sức tưởng tượng của người bình thường. Mặc dù vậy, kể cả trên phố lớn Chính Dương Môn thì cũng hiếm khi người ta thấy nhà nào mua đứt ba cửa hàng liên tiếp để gộp làm một tiệm.

"Mặt tiền lớn thế, chả biết bán cái gì nhỉ?"

Nhân viên một tửu lầu chênh chếch ở phía đối diện nghĩ thầm: "Có khi định mở phường nhuộm vải cũng nên?"

Quản lí bó tay: "Ai lại đi mở phường nhuộm ở đường Chính Dương Môn hả cái thằng này? Ở đây tấc đất tấc vàng, người ta có bị lừa sút vào đầu cũng không mở xưởng ở đây!"

Tay nhân viên cười hềnh hệch: "Quản lí, vậy ngài bảo người ta định bán gì đây? Mua đứt mặt tiền cả ba cửa hàng, tóm lại họ làm gì mà kinh thế?"

Quản lí nói: "Làm gì thì cũng chẳng can hệ đến nhà ta. Khu Chính Dương Môn này bao nhiêu là tửu lầu, ngay cả lầu Thiên Lý cũng chẳng dám mở quán to thế. Chắc họ không làm tửu lầu đâu, kệ xác bọn họ."

Người dân Thịnh Kinh đi ngang qua phố lớn Chính Dương Môn đều thấy cảnh ba cửa hàng đang sửa sang tu bổ. Quản lí và nhân viên tửu lầu sinh lòng hiếu kỳ thì những người đi đường đương nhiên cũng thế. Nhưng mãi nửa tháng mà không thấy cửa hàng ba gian đó có động tĩnh gì.

Đến mùng hai tháng tư, có người thấy quản lý Lục của lầu Tế Hà đi vào khu nhà ấy.

"Ô, chẳng phải quản lý Lục của lầu Tế Hà đó sao? Lẽ nào, ông ta sắp mở tửu lầu bán bát hà cung trên phố lớn Chính Dương Môn?"

"Làm sao mà được. Sau khi lầu Tế Hà xuất hiện đã có mấy nhà khác ăn theo, kinh doanh tửu lầu chuyên bát hà cung. Tuy hương vị không ngon như lầu Tế Hà, cung cách phục vụ của tiểu nhị cũng kém xa, nhưng ở Thịnh Kinh chẳng thiếu tửu lầu bán bát hà cung. Quản lí Lục hơi đâu mà mở một tửu lầu to đùng ngã ngửa thế!" "Vậy rốt cuộc ông ta định làm gì?"

Rốt cuộc Lầu Tế Hà định làm gì đây?

Hay nói đúng hơn, rốt cuộc Chu Tử Thư sẽ đi nước cờ nào?

Cung Tuấn cầm khế ước cổ phần Bách Bảo Các trong tay mà lòng tràn trề hưng phấn, chính chàng cũng thấy tò mò đến lạ.

||Chú thích

Ăn tấm trả giặt là một câu thành ngữ Việt nhé, nghĩa là ăn ít trả nhiều. Còn bật bông là cách chê người đánh đàn dở, có cả trong tiếng Trung và tiếng Việt, các bạn học đàn chắc biết cách ví von này :)

------oOo------

Chương 72

Nguồn: EbookTruyen.Net

Bách Bảo Các

Năm Khai Bình thứ hai mươi chín, ngày mười sáu tháng tư, xung khắc với người tuổi ngựa, làm việc phải tránh hướng Nam.

Hợp cho việc cưới gả, lễ bái, khai trương, nhận tài sản, kỵ nhập trạch, đẵn cây làm xà nhà.

Sáng sớm hôm đó, khi mặt trời vừa ló rạng, trên phố lớn Chính Dương Môn đã tưng bừng náo nhiệt lắm rồi. Khắp cả Thịnh Kinh, thậm chí khắp cả Đại Tống, nơi nhộn nhịp nhất chắc chắn vẫn là phố lớn Chính Dương Môn. Lúc này, có bốn đội múa lân trong trang phục sặc sỡ đang nhảy múa giữa phố. Con đường đáng lẽ đủ rộng cho mười chiếc xe ngựa chạy song song nay tắc nghẽn vì dân chúng tụ tập lại hóng vui.Tiếng trống chiêng rộn ràng, tiếng kèn bầu1 inh ỏi, tiếng vỗ tay reo hò vang lừng trên phố.

Càng lúc càng có nhiều người dân bị thu hút bởi màn múa lân rình rang này. Lắm người còn tưởng hôm nay là lễ tết nên mới tưng bừng thế.

Từ mười ngày trước đã có tin đồn lầu Tế Hà sắp khai trương cửa hàng mới trên phố lớn Chính Dương.

Có lầu Tế Hà mở đường, những tửu lầu chuyên bát hà cung ở Thịnh Kinh mọc lên như nấm. Tuy vậy, lầu Tế Hà vẫn là nơi được yêu thích nhất, ngày nào cũng đông khách và có người xếp hàng trong khu chờ.

Đến tửu lầu còn phải đợi ăn đúng là điều không tưởng. Kể cả tửu lầu số một Thịnh Kinh là lầu Thiên Lý cũng chẳng bói ra thực khách nào chịu chờ nửa canh giờ chỉ để xơi bữa cơm. Điểm khác biệt của lầu Tế Hà ấy là khách khứa đều được nhân viên xếp chỗ cho ngồi uống nước, nghe kể chuyện trong lúc chờ đợi. Cứ thế, rất nhiều khách hàng đến lầu Tế Hà không chỉ vì ăn bát hà cung mà còn vì nghe truyện nữa.

Các tửu lầu khác thấy vậy cũng nhái theo, nhưng học lỏm theo kiểu thuyền đua thì lái cũng đua có bao giờ hay được? Mọi người đều chê truyện ở những tửu lầu khác nghe không đã bằng truyện ở lầu Tế Hà. Dần dà, địa vị của lầu Tế Hà trong lòng bách tính Thịnh Kinh càng thêm vững chắc.

Khách đến lầu Tế Hà ăn uống, nghe kể chuyện, đương nhiên cũng được các tiểu nhị phục vụ trong sảnh chờ thông báo rằng lầu Tế Hà sắp khai trương một cửa hàng mới ở Thịnh Kinh.

Có người ưa hóng chuyện hỏi: "Lại mở quán bát hà cung à?"

Tiểu nhị úp úp mở mở: "Không phải đâu ạ. Nhưng cụ thể bán cái gì, đến lúc ấy quý khách sẽ biết. Mười sáu tháng tư này khai trương, quý khách nhớ qua ủng hộ nhé!"

Cứ thế một đồn mười, mười đồn trăm, phải đến nửa thành Thịnh Kinh đã biết ngày mười sáu tháng tư sẽ có cửa hàng mới mở trên phố lớn Chính Dương Môn.

Trong lúc xem múa lân, một thư sinh già nói: "Tôi thấy ông chủ của lầu Tế Hà cũng giỏi giang thật, năm ngoái vừa mở tửu lầu, năm nay đã khai trương cửa hàng mới, còn làm to thế này nữa. Tôi sống ở Thịnh Kinh từ tấm bé, chưa bao giờ thấy cửa hàng nào to đến vậy. Không hiểu họ bán gì mà cần mặt tiền lớn thế nhỉ?"

"Tôi cũng chẳng biết. Ban đầu tôi thấy biểu diễn vui mắt thì đứng lại xem, giờ nghe ông nói vậy, tôi lại muốn họ kết thúc cho nhanh để còn xem lầu Tế Hà định bán gì!"

Bình thường khi khai trương, các cửa hàng hay mời đội múa lân đến để thu hút khách hàng. Đằng này đến nhà Chu Tử Thư, người dân càng lúc càng không thiết xem biểu diễn nữa vì sốt ruột ngóng coi cửa hàng bán gì!

Chờ dài cổ buổi diễn nửa canh giờ mới hết thúc. Trong lúc chờ đợi, mọi người thấy quản lí Lục của lầu Tế Hà và một cô gái trẻ bảnh bao trong bộ trang phục nam giới bước ra từ giữa đội múa lân. Hai con lân oai vệ lúc lắc cái đầu, như hai vị thần gác cửa hộ vệ hai bên.

Quản lí Lục và cô gái trẻ liếc nhau, cùng kéo vải phủ trên bảng hiệu.

Bách Bảo Các!

Giờ Ngọ ba khắc, trong một cửa hàng ở đầu Tây phố Chính Dương Môn, quản lý tiệm vừa ngáp ruồi vừa uể oải gảy bàn tính, xử lí sổ sách từ ngày hôm qua.

Bỗng nhiên, có người hớt hải xộc thẳng vào tiệm, thở hồng hộc: "Ông chủ ơi nguy rồi, nguy lắm rồi! Cái cửa hàng lầu Tế Hà mới mở trên phố Chính Dương Môn sắp cạnh tranh với nhà mình đấy!"

"Ôn con, chỉ giỏi liên tha liên thiên. Lầu Tế Hà bán bát hà cung, kinh doanh hàng ăn, họ có cạnh tranh thì cũng cạnh tranh với tửu lầu khác chứ ảnh hưởng gì đến tiệm tạp hóa nhà mình!"

Cu cậu nhân viên la lên: "Kìa ông chủ, con có bảo lầu Tế Hà khai trương tửu lầu mới đâu? Họ khai trương cửa hàng tạp hóa cơ!"

"Hả?" Đang ỉu xìu như bánh đa ngâm nước, quản lí tiệm bỗng nhảy dựng lên, mắt trố lồi, miệng há hốc.

Hai khắc sau, quản lý Lưu mặt hầm hầm như hung thần ác sát, dắt cậu nhân viên đi phăm phăm đến tận cửa Bách Bảo Các.

Quản lý Lưu tên đầy đủ là Lưu Kỳ. Ngày xưa ông nội ông ta mở tiệp tạp hóa rồi truyền lại cho con cháu, sau bao năm tháng đã vững chân trên phố lớn Chính Dương Môn, đến đời Lưu Kỳ đã là ba đời rồi. Quản lí Lưu chưa bao giờ có ý định mở rộng tiệm tạp hóa nhà mình, vì kinh doanh một tiệm thôi cũng đủ ăn đủ mặc. Tiệm tạp hóa nhà họ Lưu tuy nói là bán tạp hóa, nhưng sản phẩm chủ yếu vẫn là hồi quế, ngũ cốc, lương thực, thỉnh thoảng sẽ bán thêm một số đồ gia dụng bằng sắt.

Quản lí Lưu đứng dưới biển hiệu của Bách Bảo Các, đọc đi đọc lại cái tên ấy ba lần. Đoạn ông ta bặm môi, nói: "Đi, chúng ta vào ngắm nghía một lượt."

Hai chủ tớ bước vào Bách Bảo Các, cùng đứng sững ra như trời trồng.

Quản lí Lưu choáng váng, thằng cu nhân viên cũng há hốc mồm.

Không biết bao lâu sau, quản lí Lưu mới lắp bắp: "Mày, mày bảo đây là tiệm tạp hóa à?"

Cậu nhân viên đáp: "Con cũng chỉ nghe người ta nói thế thôi. Ông chủ ơi, chỗ này mà là tạp hóa ấy ạ? Sao trên đời lại có tiệm tạp hóa lớn thế này chứ!"

Chỉ thấy trong cửa hàng rộng thênh thang là vô số những giá trưng bày đều tăm tắp, có đến hàng trăm vị khách dạo quanh, mỗi người xách một cái làn, chọn lựa những món đồ trên giá, ưng món nào thì bỏ món ấy vào làn.

Một giọng nói kéo quản lí Lưu ra khỏi sự choáng váng: "Quý khách đang tìm làn ạ? Bách Bảo Các mới khai trương, chắc là quý khách vẫn chưa quen. Xin cho phép tôi hướng dẫn, quý khách hãy cầm theo chiếc làn này, thích gì trong cửa hàng thì cứ chọn. Sau khi lựa chọn xong, quý khách có thể ra thanh toán." Nhân viên Bách Bảo Các chờ một lát, lại hỏi: "Thế quý khách có cần làn không?"

Quản lí Lưu quay ra, thấy nhân viên này trông hết sức nghiêm chỉnh, cười tươi như hoa, nhìn mặt thôi đã thấy lòng vui vẻ.

Đã tới đây thì dĩ nhiên không phải để đập phá cửa hàng của người ta rồi, phải quan sát đối thủ chứ.

Quản lí Lưu nói: "Cho ta cái làn."

"Có ngay đây!"

Đưa làn cho nhân viên nhà mình xách, quản lí Lưu bắt đầu dạo quanh những gian hàng của Bách Bảo Các.

Cửa hàng Bách Bảo Các có hai tầng, mỗi tầng trải rộng ba gian nhà. Ngoài ra đằng sau còn thông với một hậu viện, không gian rất lớn, người qua kẻ lại đông kín mít, không thấy điểm dừng.

Hàng hóa ở đây được bày bán rất quy củ, vì không gian có hạn nên giữa mỗi giá để hàng chỉ đủ rộng cho ba người đi qua. Trên kệ hàng có một số thẻ tên, đề "Dụng cụ làm nông", "Son phấn", "Ngũ cốc, lương thực", v.v.. Giả sử cần mua ngũ cốc, người mua có thể đi vào dãy "Ngũ cốc, lương thực", trong ấy sẽ bày bán đủ các loại đậu đỏ, đậu đen, gạo kê, cao lương... cứ cái gì anh nghĩ ra được thì trên kệ đều bày đủ.

Quản lí Lưu xem hàng hóa mà hoa cả mắt, những người dân Thịnh Kinh đi cạnh ông cũng trầm trồ không ngớt.

Tâm trạng quản lí Lưu có phần nặng nề, ông cẩn thận quan sát kĩ từng gian hàng một, loanh quanh cũng mất nửa canh giờ.

"Đi, chúng ta lên lầu hai xem sao."

Cậu nhân viên đuổi theo quản lí Lưu, lên tầng hai.

Vừa lên đến tầng hai, số người đột nhiên giảm mạnh.

Quản lí Lưu nhìn quanh quất một hồi thì phát hiện hàng hóa trên tầng hai đắt hơn hẳn tầng một. Ví dụ như trước đây chỉ có Họa Đường Thu bán xà phòng thơm thì nay ở đây cũng có. Tầng một cũng bán quần áo, vải vóc, nhưng trên tầng hai thì toàn tơ lụa thượng hạng. Hơn nữa, cách bài trí trên tầng hai cũng đẹp đẽ, thanh tịnh và thoáng đãng hơn so với tầng một, nơi chủ yếu bán những vật dụng thường ngày trong cuộc sống.

Quản lí Lưu im lặng bước vào, trầm ngâm quan sát từng món hàng trên giá.

Bỗng nhiên, có một món hàng khiến ông ta sững người, không dám tin vào mắt mình nữa.

Lát sau, có một nhân viên mặc đồng phục chạy tới, đon đả: "Chào quý khách, quý khách cần tìm gì thế ạ? Xin ngài cứ nói với tiểu nhân nhé, tiểu nhân sẽ đi tìm giúp ngài."

Quản lí Lưu tròn mắt, hỏi: "Trên giá này là Hoàng Kim Lũ chỉ bán ở Họa Đường Thu đấy à?"

Nhân viên đáp: "Quý khách thật tinh tường, chính là Hoàng Kim Lũ ạ."

Quản lí Lưu: "Sao các cậu dùng nhiều ngọc lưu ly để đựng Hoàng Kim Lũ thế này, ông chủ các cậu mất trí rồi hay sao?"

Người nhân viên ngớ ra, không biết phải trả lời thế nào. Đúng lúc ấy thì quản lí Lục đi lên, ra hiệu cho người ấy lui đi, để ông tiếp vị khách này. Quản lí Lục nhìn ngắm quản lí Lưu một hồi cũng không nhận ra ông ta là ai, bèn cười bảo: "Quý khách, tôi là quản lí của Bách Bảo Các đây. Nhân viên vừa rồi tiếp đãi chưa chu đáo, xin quý khách lượng thứ. Quý khách cần gì, để tôi lấy giúp ngài được không?"

Cứ mỗi hai giá để hàng của Bách Bảo Các lại có hai nhân viên áo đỏ đứng trực hai đầu. Thứ nhất, họ có nhiệm vụ giám thị, đề phòng kẻ gian trộm cắp; thứ hai, nếu khách hàng cần gì, họ có thể chạy đến để giúp đỡ kịp thời.

Đây là một trong mười quy chuẩn mà Chu Tử Thư dặn dò quản lí Lục trước khi mở Bách Bảo Các.

Mặt quản lí Lưu đỏ gay, dường như ông vẫn không thể tin những gì mình đang thấy. Ông xem xét Hoàng Kim Lũ thật kĩ càng. Cuối cùng, ông đành phải chấp nhận sự thật là tất cả những bình Hoàng Kim Lũ xiu xíu ở đây đều được làm từ lưu ly hết. Lúc này quản lí Lục mới thôi giận dữ.

"Đúng là Bách Bảo Các tiền nhiều như lông trâu, quản lí Lục ạ. Ngần này bình lưu ly chỉ để đựng Hoàng Kim Lũ... tại hạ chưa từng thấy bao giờ, hôm nay coi như được mở mang tầm mắt."

Quy mô của Bách Bảo Các đã ở cái tầm mà một tiệm tạp hóa nho nhỏ như nhà ông không thể nào cạnh tranh nổi.

Quản lí Lục nhận thấy có gì đó không đúng. Ông tế nhị hỏi: "Hẳn là quý khách chưa biết, đây đúng là ngọc lưu ly, nhưng ngọc này do Bách Bảo Các chúng tôi độc quyền sản xuất. Sắp tới Bách Bảo Các sẽ giới thiệu rất nhiều sản phẩm bằng ngọc lưu ly, nếu quý khách thích, xin mời đến xem hàng bất cứ lúc nào. À, trong cửa hàng chúng tôi còn một sản phẩm bằng ngọc lưu ly khác, quý khách có muốn xem không?"

Quản lí Lưu đã hết giận rồi, ông gật đầu, đi theo quản lí Lục đến một gian hàng ở ngay cạnh khu trung tâm của tầng hai.

Khu vực này đang thu hút sự chú ý của rất nhiều khách, phần lớn là các quý phu nhân, tiểu thơ trong thành Thịnh Kinh. Chỉ thấy các cô các chị ai nấy đều rạng rỡ mặt mày, bên cạnh họ là nha hoàn nói chuyện thay mặt chủ.

"Bách Bảo Các còn nhiều gương trong kho không?"

Nhân viên: "Xin quý khách yên tâm, chúng tôi còn rất nhiều gương."

Một phu nhân giàu có rỉ tai nha hoàn đôi câu, nha hoàn bèn nói: "Nhà họ La khu Tây đặt mua hai mươi chiếc gương." "Phủ Thị lang lấy mười lăm chiếc."

"Phủ Định Quốc Công đặt ba mươi chiếc!"

Quản lí Lục nghe khách đặt hàng tới tấp thì cười tít mắt. Ông quay ra bảo quản lí Lưu: "Quý khách có muốn mua một chiếc gương không?"

Trong cửa hàng rộng rãi thoáng đãng, quản lí Lưu sững sờ, không tài nào rời mắt khỏi chiếc gương phẳng lì đẹp đẽ đang được vô số người vây quanh. Bộ mặt đờ đẫn của ông được phản chiếu nguyên vẹn trên mặt kính phẳng phiu, từ chiếc mũ vải xanh, đến tấm áo khoác đen, thậm chí là từng nếp nhăn khóe mắt, đều hiện lên cực kì sắc nét.

Bách Bảo Các...

Cái tên mới xứng đáng làm sao.

Buôn bán thế này có khác nào triệt đường sống của người khác!!!

||Chú thích

[1] Vốn kèn sorna (xô-na) xuất xứ từ Ba Tư và du nhập sang nhiều nước. Ở Việt Nam thì tên phổ biến là kèn bầu, ngoài ra còn có nhiều tên gọi và biến thể khác trên thế giới. Tên tiếng Trung của nó là tỏa nột (suǒ·nà), phát âm hơi giống xô-na.

------oOo------

Chương 73

Nguồn: EbookTruyen.Net

Cáo già CungTử Phong

Gảy gảy bàn tính một hồi, chẳng mấy chốc là ra số tiền.

"Tổng cộng một quan ba đồng, quý khách, nếu sợ tiểu nhân tính sai, mời quý khách ra quầy phía sau kiểm tra lại. Nếu tính sai, thừa thiếu bao nhiêu, chúng tôi xin bồi thường gấp đôi."

Nghe xong, người thư sinh già ngạc nhiên: "Có lợi thế cơ à?"

Chuyện tốt như vậy sao có thể trì hoãn, người thư sinh già bèn cầm những thứ mình mua ra đằng sau khu quầy dài để kiểm tra giá tiền. Nhân viên ở dãy bàn dài đưa cho ông xem bảng giá hàng hóa, người thư sinh già tính toán một hồi, ngợi khen: "Tính toán chính xác thật, sao lại không tính nhầm cho mình đi chứ nhỉ?"

Người nhân viên cười: "Quý khách, mời quý khách xem thử lựa chọn này. Hôm nay Bách Bảo Các mới khai trương, nếu trở thành khách hàng thân thiết của chúng tôi sẽ có chiết khấu đấy."

"Khách hàng thân thiết? Khách hàng thân thiết là sao?"

Nhân viên bèn giới thiệu cho ông.

Trong ba ngày đầu khai trương, mỗi khách hàng chỉ cần trả nửa quan tiền là có thể trở thành khách hàng thân thiết của Bách Bảo Các trong nửa năm. Khi mua sắm ở cửa hàng, khách hàng thân thiết có thể được chiết khấu rất nhiều mặt hàng. Ngày lễ tết, khách hàng thân thiết còn được tặng những món quà nhỏ nữa. Các khách hàng đến quầy dài để kiểm tra bảng giá đều được nhân viên đề xuất đóng tiền để trở thành khách hàng thân thiết.

Người thư sinh già còn hơi do dự, chợt thấy tay đồ tể bên cạnh mình vừa mua một suất khách hàng thân thiết. Ông ta bèn nói: "Được, tôi cũng mua một suất!"

Ngày đầu tiên Bách Bảo Các khai trương, người dân Thịnh Kinh quả nhiên được mở rộng tầm mắt.

Thì ra tạp hóa còn có thể được kinh doanh như vậy!

Ồ không, cửa hàng này đâu phải tiệm tạp hoá! Trong thiên hạ làm gì có tiệm tạp hóa nào bán đủ thứ trên đời?

Khách hàng mua sắm ở Bách Bảo Các khi ra về còn ngợi ca cửa hàng hết lời với những người khác.

"Anh không thấy đâu, trong đấy người đông nghìn nghịt, chật như nêm cối. Bách Bảo Các cứ như một thế giới khổng lồ ấy, cái gì cũng có! Bánh ngọt nổi tiếng từ Cô Tô, áo lông người Liêu ưa thích, trời Nam bể Bắc có tuốt. Anh cứ đến thử mà coi, nhất định sẽ hoa cả mắt, không bước nổi luôn! Lầu

Tế Hà lợi hại quá đi mất!"

"Có kì diệu thật như anh nói không?"

"Anh đến nơi chẳng phải là biết ngay sao?"

"Đến thì đến!"

Càng ngày càng có nhiều người tràn vào Bách Bảo Các.

Ban đầu Chu Tử Thư nhờ quản lí Lục thuê hơn tám mươi nhân viên, quản lí Lục còn nghĩ thế là hơi nhiều. Nhưng riêng ngày hôm nay thôi, đừng nói là tám mươi người, quản lí Lục đang nghĩ đáng lí ra phải thuê hẳn một trăm người mới đúng!

Thịnh Kinh là đô thành của Đại Tống, là đầu mối quan trọng trên tuyến đường Bắc Nam. Xuôi về phương Nam thì có Đại Vận Hà, nối thẳng đến Tiền Đường; ngược lên phương Bắc, trước đây từng kém thuận tiện, nhưng từ ngày có ba tuyến quan đạo mới xây dựng, giao thông đã không còn là vấn đề.

Đại Vận Hà được hoàng đế triều đại trước đây xây dựng, đã có mấy trăm năm lịch sử, còn ba tuyến quan đạo được Triệu Phụ ra lệnh xây dựng vào năm ngoái. Bề ngoài Triệu Phụ muốn tăng cường hoạt động mậu dịch giữa Đại Tống và nước Liêu, nhưng mục đích thực sự của ông ta là chuẩn bị trước để phòng ngừa tình huống chiến tranh nổ ra giữa hai bên. Rất nhiều người nhận thấy đường lên phương Bắc đã trở nên thuận lợi hơn rất nhiều, nhưng họ không chú ý rằng, nhờ có cả quan đạo phía Bắc và Đại Vận Hà phía Nam, thành Thịnh Kinh nằm giữa hai tuyến đường này đã trở thành một thánh địa buôn bán!

Việc vận tải trở nên đơn giản hơn không chỉ thu hút thêm nhiều người nước ngoài mà còn mở đường cho sự hình thành của những trung tâm thương mại và siêu thị rất phổ biến ở thời hiện đại.

Đêm xuống, Bách Bảo Các đóng cửa. Quản lí Lục nói chuyện với các nhân viên xong thì đi vào khu nhà đằng sau cửa hàng.

Trông quản lí Lục hết sức phấn khởi, cười toe toét, chỉ thiếu điều khắc chữ "Hỉ" lên trán mà thôi. Ông ta thấy Chu Tử Thư đến thì hành lễ trước tiên. Quản lí Lục lạy dài: "Cao tay, quả nhiên là cao tay! Tiểu đông gia, đúng như lời cậu nói, việc buôn bán của Bách Bảo Các chúng ta khác hẳn các cửa tiệm thông thường. Những cửa hàng khác bao giờ cũng đông nhất vào lúc khai trương, còn chúng ta thì càng bán càng đông khách. Tám mươi nhân viên không hề đủ, ngày mai tôi phải đến nha hành thuê thêm hai mươi người nữa!"

Chu Tử Thư vừa mới tan làm từ hoàng cung về nhà. Tuy cậu không tận mắt chứng kiến sự rầm rộ trong ngày khai trương của Bách Bảo Các, nhưng từ khuôn mặt rạng ngời của quản lí Lục, kế toán Lâm và Đường Hoàng thì cậu có thể tưởng tượng ra được. Cậu hỏi: "Tình hình hôm nay thế nào?" Quản lí Lục bèn báo cáo thu chi.

"...Trừ đi các khoản chi, chỉ trong một ngày kinh doanh hôm nay, Bách

Bảo Các đã thu về một nghìn sáu mươi hai lạng!"

Một nghìn sáu mươi hai lạng bạc, con số này không bao gồm chi phí và những phí tổn khác, tức là lợi nhuận ròng. Con số khổng lồ ấy khiến Chu Tử Thư ngỡ ngàng mất một lúc. Cậu thầm cảm khái: "Dân Thịnh Kinh quả nhiên giàu có gấp mấy lần dân chúng Kim Lăng và Cô Tô!"

Chu Tử Thư nói: "Chuẩn bị kĩ càng nhé, ngày mai sợ còn đông khách hơn."

Quản lí Lục hồ hởi: "Xin cậu cứ yên tâm!"

Những ngày đầu khai trương sẽ là những ngày đắt hàng nhất của Bách Bảo Các. Nhưng Bách Bảo Các dù sao cũng chỉ là một siêu thị. Thịnh Kinh có hơn hai trăm vạn nhân khẩu, không thể có chuyện hơn hai trăm vạn người này đều mua sắm ở Bách Bảo Các. Những thứ đồ họ mua cũng chẳng dùng hết ngay được. Chính vì thế, sau mấy hôm nữa, việc buôn bán sẽ hạ nhiệt dần. Nhưng kể cả thế, Chu Tử Thư dự tính rằng, tiền lời tối thiểu hằng ngày phải đạt năm trăm lạng.

Bách Bảo Các, đúng ra phải gọi là Tụ Bảo Bồn1 mới đúng.

[1] Chậu thu châu báu

Quản lí Lục nói: "Tối hôm qua, tôi đã kiểm tra đối chiếu lại sổ sách, sẽ gửi đến tận nhà cậu. Tiểu đông gia, cậu xem kĩ nhé, có thể có sai sót đấy ạ."

Chu Tử Thư: "Không cần thế đâu."

Quản lí Lục sửng sốt, ngơ ngác nhìn Chu Tử Thư: "Ý cậu là..."

Chu Tử Thư thấy vẻ mặt kinh ngạc của Đường Hoàng và kế toán Lâm thì cười: "Từ khi khai trương lầu Tế Hà đến giờ, mọi người đều đã quá quen với công việc rồi. Ta dù sao cũng là quan, mà mỗi ngày, quan tứ phẩm còn phải dự buổi triều sáng sớm; ta không có nhiều thời gian để quản lí cửa hàng của Đường gia nữa. Quản lí Lục, từ hồi chúng ta quen biết ở phủ Cô Tô, chú bắt đầu làm quản lí lầu Tế Hà Cô Tô, tính đến nay cũng được bốn năm rồi."

Quản lí Lục chợt hiểu ý Chu Tử Thư, trong lòng ông vui mừng rối rít, nhưng ông cố nén sự sung sướng lại, điềm tĩnh nói: "Tiểu đông gia, được làm việc cho cậu là phúc ba đời của tiểu nhân. Bốn năm trước tiểu nhân không tài nào tưởng tượng ra nổi, Lục mỗ này đã gặp vận may đổi đời."

"Chúng ta còn xa lạ gì nhau nữa, đừng nói những lời khách sáo thế. Kể từ hôm nay, quản lí Lục, chú là Đại chưởng quỹ của nhà họ Đường tôi. Từ giờ cứ mỗi bảy ngày, chú hãy đem sổ sách đến Đường phủ, giao cho Đường Hoàng."

Không ngờ lại nghe thấy tên mình, Đường Hoàng kinh ngạc nhìn Chu Tử Thư: "Anh?"

Chu Tử Thư nhướng mày: "Chẳng phải em chỉ mong vậy sao? Hằng đêm em lén lút đốt nến tính toán sổ sách, em nghĩ giấu được anh thật đấy à?"

"Kìa anh!"

"Sau này, cứ đến cuối năm thì tổng kết sổ sách nộp lên cho anh xem, nhớ chưa?"

"Vâng!"

Hiện giờ, Đường gia có tổng cộng bốn sản nghiệp lớn.

Xà phòng, xà phòng thơm và Hoàng Kim Lũ hợp tác với người ngoài, lầu

Tế Hà chuyên bán bát hà cung, bách hóa phiên bản "nhái" thời cổ đại Bách Bảo Các, cuối cùng là Hậu cần Đường thị, hoạt động xuyên suốt từ Nam lên Bắc, cung cấp hàng hóa cho Bách Bảo Các, do Diêu Tam quản lí!

Rời khỏi Bách Bảo Các, Chu Tử Thư ngẩng đầu lên nhìn bầu trời đêm bao la vời vợi.

Trong đêm tối, bầu trời lốm đốm những vì sao, chan chứa ánh Tuấng.

Chu Tử Thư bỗng giật mình nhận ra, con đường làm quan rộng thênh thang trước mặt cậu được trải thảm đỏ nhờ công lao của rất nhiều người. Cậu thành công là nhờ có Đường Hoàng làm động lực, có quản lí Lục chỉ bảo dẫn dắt; sự nghiệp kinh doanh của Đường gia rồi đây sẽ phát triển như thế nào, không chỉ dựa vào một mình cậu, mà phần nhiều phải dựa vào nỗ lực của từng cá nhân, dốc sức vì Đường gia sau này.

Nhưng chuyện tương lai, mai sau hẵng bàn đến.

Về đến nhà, Chu Tử Thư rửa mặt xong, đang định nghỉ ngơi thì bỗng nhớ ra một việc. Cậu vội vàng sang phòng Đường Hoàng. Sau khi gõ cửa vào phòng, Chu Tử Thư ngạc nhiên: "Em vẫn đang kiểm tra sổ sách à?" Đường Hoàng: "Em chưa đối chiếu xong thu chi hôm nay."

Chu Tử Thư cầm một cuốn sổ kế toán lên, tuy rằng cậu có khả năng đọc đến đâu nhớ đến đấy, chỉ chốc lát đã nhớ hết những gì ghi trong sổ, nhưng cậu vẫn thấy váng cả đầu. Chu Tử Thư nói: "Em có thấy việc này rất khô khan và nhàm chán không?"

"Đâu ra, đây là việc kiếm tiền đấy anh, quá thú vị luôn ý chứ!"

Chu Tử Thư: "..."

Đúng là mỗi người một chí hướng. Từ nhỏ đến lớn, Đường Hoàng có trổ mã, thay da đổi thịt, thì niềm đam mê tiền bạc thuở xưa của con bé vẫn không mảy may suy suyển.

Chu Tử Thư: "Cái anh dặn mấy hôm trước, em đã đặt in ở thư cục chưa?"

Đường Hoàng ngẩn người, nghĩ một lát mới hiểu Chu Tử Thư đang nói gì: "Anh à, cứ yên tâm, chuyện ấy đã có em theo dõi sát sao rồi, chuẩn không cần chỉnh."

Tính nhắc em gái mình thêm mấy câu, nhưng thấy dáng vẻ hăng hái của Đường Hoàng, Chu Tử Thư đột nhiên nhận ra rằng em gái mình đã trưởng thành thật rồi. Vậy nên, người làm anh trai là cậu không cần thiết phải lo lắng từng li từng tí nữa, mà nên học cách tin tưởng người khác, dần dần buông tay.

"Đi ngủ sớm đi nhé!"

"Vâng ạ."

Sáng hôm sau, trên điện Sùng Chính.

Trời còn chưa sáng, các quan đã có mặt ở điện Sùng Chính chờ lên triều.

Chu Tử Thư là quan tứ phẩm, chỉ có thể đợi ở bên hữu của điện Sùng Chính. Trong điện xếp đầy ghế, nhưng vì có quá nhiều quan tứ phẩm nên nhiều người không có ghế ngồi, đành phải đứng chờ. Đương nhiên họ không hề hay biết, chỉ cách một bức tường thôi, trong chính điện, các quan lớn nhất phẩm của Đại Tống đang ngồi ghế bành làm từ gỗ sưa, ung dung thưởng thức trà ngon.

Trà được phục vụ trên bàn là trà Long Tỉnh Minh Tiền loại cao cấp nhất, được vận chuyển từ Giang Nam đến trong năm nay.

Triệu Phụ quan tâm chu đáo đến các quyền thần trong triều, không hề bỏ sót một ai.

Cung Tuấn nhấc chung trà, dùng nắp khơi lên hương trà ấm áp thơm nồng, nhẹ nhàng nhấp thử một ngụm. Ngồi cách chàng không xa là Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng. Ông ta cười khe khẽ, xích lại gần, hỏi Cung Tuấn: "Cungđại nhân, hôm qua phố lớn Chính Dương Môn có cửa hàng mới khai trương đấy, cậu đã biết chưa?"

Cung Tuấn ngước mắt, ném cho ông ta một ánh mắt hững hờ, mỉm cười: "Không ngờ Mạnh đại nhân là Thượng thư bộ Lễ nhưng quan tâm đến chuyện cửa hàng cửa hiệu ở Thịnh Kinh hơn cả Thượng thư bộ Hộ là ta. Mạnh đại nhân hết lòng vì nước nhà, chẳng vì chức Thượng thư bộ Lễ mà thôi đau đáu chuyện tài chính thuế khóa, đúng là tấm gương sáng cho đời khiến người ta kính nể."

Mạnh Lãng: "..."

Quyền thần trong triều đều là những ông hoàng màn ảnh mặt dày mày dạn, nhưng kĩ năng diễn xuất của các minh tinh màn bạc cũng xếp hạng cao thấp khác nhau.

Mạnh Lãng tự biết độ dày da mặt của mình thua xa con cáo già CungTử Phong, bèn nói thẳng: "Hôm qua lúc ngồi kiệu về phủ, ta có đi ngang qua một cửa hàng mới mở, thấy trên bảng hiệu đề ba chữ. Ba chữ ấy phải nói là phong thần tuấn tú, thanh cốt hạo nhiên. Chữ đẹp nhường ấy trên đời này hiếm lắm, đâu thể bỏ qua được chứ? Thế là ta mới xuống kiệu ngắm nghía cho thỏa. Cungđại nhân, cậu đoán xem ta phát hiện điều gì nào?"

Cung Tuấn: "Ồ, có gì hay thế?"

"Đấy đúng là thư pháp của Cungđại nhân mới tài chứ lị!"

Cung Tuấn cảm động rưng rưng: "Ôi, ta không hề biết hoá ra Mạnh đại nhân quan tâm tới ta đến vậy. Chỉ với ba chữ, ông có thể nhận ra ngay bút tích của ta ư?"

Mạnh Lãng: "...CungTử Phong, ta chỉ đùa cậu một câu thôi mà, sao cậu nhạt thế!"

Cung Tuấn đặt chung trà xuống, tự dưng đứng dậy, chỉnh lại quan bào: "Đến lúc lên triều rồi."

Một khắc sau, thái giám chuyên trách đi vào đại điện, hô: "Chư vị tướng công, đã đến giờ vào triều."

Mạnh Lãng: "..."

Cái tên CungTử Phong này, rõ là nhạt phéo nhạt phèo!

Bãi triều, Chu Tử Thư đi theo hàng ngũ các quan rời khỏi hoàng cung. Tự nhiên, cậu nghe loáng thoáng có tiếng người gọi tên mình. Cậu ngơ ngác ngoái lại, liền thấy Cung Tuấn đứng cách đó không xa, lưng thẳng tắp, dáng khoan thai. Chàng cười với cậu: "Cảnh Tắc, đi cùng nhau nhé."

Bên cạnh chàng là một ông cụ tóc bạc phơ, mặt nhiều nếp nhăn, mặc quan bào đỏ thẫm, trông cứ ngỡ ông tiên lạc xuống trần – chính là Cungđại nhân. Chu Tử Thư thấy thế thì vừa bất ngờ vừa mừng rỡ. Cậu ngây ra mất một lúc rồi mới chạy tới. Đến khi suy nghĩ bắt kịp đôi chân thì Chu Tử Thư phát hiện mình đã đang sóng vai Cung Tuấn trên đường đến điện Cần Chính rồi.

Cung Tuấn dịu dàng hỏi: "Bách Bảo Các là gì thế?"

Chu Tử Thư kinh ngạc: "Sư huynh chưa đến luôn ạ?"

"Nào đã. Hai hôm nay công việc chất đống, không dứt ra nổi."

Chu Tử Thư vốn định giải thích, nhưng lúc mở miệng lại thấy rõ phiền hà. Cậu nghĩ một lát bèn bảo: "Không bằng hôm nay tan làm, đệ dẫn sư huynh đến đó ngó thử, sư huynh sẽ hiểu ngay thôi."

Cung Tuấn tế nhị liếc Chu Tử Thư: "Thế thì cứ theo ý đệ."

||

Lời tác giả:

Mạnh đại nhân bốn mươi ba tuổi: Khá khen cho con cáo già CungTử Phong!

------oOo------

Chương 74

Nguồn: EbookTruyen.Net

Giao tử*

(*) Tên gọi của tiền giấy xuất hiện vào đời Tống. "Giao" trong giao dịch, trao đổi.

Tan làm, Chu Tử Thư đợi ở điện Cần Chính một lúc, sau đó thì lên xe ngựa của Cung Tuấn, hai người cùng xuất cung.

Thời cổ đại, quan lại cũng có khái niệm tăng ca và không tăng ca. Giống như thời hiện đại, các cấp lãnh đạo chả mấy khi phải tăng ca, Cung Tuấn hiếm lắm mới có hôm phải làm việc thêm giờ. Nhưng Trung Thư xá nhân dạng như Chu Tử Thư, đâu phải cứ hết việc là được tan làm, còn phải để ý xem cấp trên đã về chưa nữa.

Lãnh đạo còn ngồi đó, anh có dám về không?

May mà cấp trên của Chu Tử Thư, Hữu thừa Từ Bí – Từ tướng công – là người cao tuổi, rất ít khi ở lại nha môn quá giờ, nên Chu Tử Thư cũng thường xuyên thoát kiếp tăng ca.

Hai người xuất cung xong không đến Bách Bảo Các ngay mà ai về phủ nấy trước để thay quan bào.

Khi Cung Tuấn đến phủ Thám hoa thì Chu Tử Thư đã thay xong quần áo ra đường. Thấy kiệu của Cung Tuấn, cậu hơi ngạc nhiên. Lên kiệu, Chu Tử Thư thắc mắc: "Sư huynh, mình đang đi xe ngựa cơ mà, sao lại đổi thành kiệu thế này?"

Cung Tuấn mặc bào gấm trắng tinh, phong thần tuấn nhã, tay cầm chiếc quạt. Chiếc quạt đang được gấp gọn lại, chàng gõ nhè nhẹ vào lòng bàn tay, khiến viên đá tiết gà màu đỏ thẫm treo dưới đuôi quạt khẽ đung đưa.

"Từ đây đến phố lớn Chính Dương Môn khá gần mà. Tiểu sư đệ, đệ không muốn đi kiệu à?"

Chu Tử Thư: "Không phải đâu ạ."

Thực ra là vì xe ngựa rộng hơn, hai người đàn ông ngồi rất thoải mái. Giờ đi kiệu thì chật hơn chút, khiến cậu và Cung Tuấn cứ phải ngồi sát vào nhau. Chu Tử Thư thầm than thở một hồi, chợt ánh mắt cậu bị thu hút bởi cây quạt trên tay Cung Tuấn.

Cung Tuấn thấy cậu để ý thì hỏi: "Muốn xem thử không?"

"Có ạ."

Cung Tuấn đưa quạt cho Chu Tử Thư, Chu Tử Thư chẳng buồn xòe nó ra mà chỉ nâng viên bảo thạch màu đỏ móc dưới chuôi quạt lên.

"Màu sắc như tiết gà, sáng bóng tựa ngọc quý. Chất ngọc trong, láng mượt, có thể xếp vào loại dương chi đống1." Chu Tử Thư ngẩng lên hỏi: "Sư huynh, đây có phải đá tiết gà Xương Hóa2 không?"

[1] Loại trong mờ và có màu trắng, cực kì quý trong các loại ĐTG [2] Xương Hóa (Chiết Giang) – một trong hai địa điểm khai thác duy nhất của

ĐTG.

Cung Tuấn bật cười.

Chàng thở dài nhè nhẹ, lấy lại cây quạt: "Đúng là đá tiết gà Xương Hóa." Chu Tử Thư cười rất tự tin.

Về thời cổ đại đã được năm năm, từ khi Chu Tử Thư bắt đầu kinh doanh, cậu bắt buộc phải tiếp xúc với một số loại đồ cổ quý báu và bảo thạch. Hồi trước, Chu Tử Thư còn lâu mới nhận ra đá tiết gà nữa là đá tiết gà Xương Hóa! Nhưng gần đây do Bách Bảo Các đang có kế hoạch bày bán thêm các sản phẩm đá quý, Chu Tử Thư bèn đọc thêm nhiều tạp thư để học hỏi chút đỉnh. Hôm nay vừa khéo được ứng dụng kiến thức, cậu khá là tự đắc.

"Soạt" một tiếng, Cung Tuấn xòe chiếc quạt trắng muốt ra, buồn bã nói: "Ta cứ tưởng, tiểu sư đệ xin quạt vì muốn xem tranh vẽ và chữ viết trên mặt quạt cơ."

"Ơ?" Chu Tử Thư sửng sốt, quay sang nhìn chiếc quạt.

Trên mặt quạt trắng vẽ một bức tranh người đẹp thả mồi cho cá ăn, bên cạnh đề một dòng chữ.

"Trạm gửi hoa mai, cá đưa bức lụa, xây nỗi hận chất chồng vô số3." Chu Tử Thư đọc chữ trên mặt quạt.

Đóa hoa mai gửi tình nồng. Mẩu thư nho nhỏ ta lồng tương tư.

Đây còn là một bức mỹ nhân ôm nỗi khuê oán đang cho cá ăn nữa!

Gửi hoa mai: nhung nhớ người phương xa; thư trong bụng cá: chỉ việc gửi thư từ.

Chu Tử Thư suy tính nhanh như chớp, khen lấy khen để: "Tranh và chữ của sư huynh, quả nhiên đã đạt tới đỉnh cao."

Lạc khoản trên hàng chữ và bức họa kia đều là CungTử Phong.

Khóe môi Cung Tuấn nhếch lên, chàng không nói thêm gì nữa.

Chẳng mấy chốc hai người đã đến Bách Bảo Các.

Có đủ mọi loại khách hàng ở Bách Bảo Các, phu nhân nhà quan, bình dân bách tính, bất kì đối tượng nào cũng có thể được tìm thấy ở tiệm. Thế nhưng khi Cung Tuấn và Chu Tử Thư bước vào cửa thì khá nhiều người phải ngoái nhìn họ vài lần. Chu Tử Thư chỉ nghĩ rằng họ chú ý đến Cung Tuấn, cậu khen nửa thật, nửa tâng bốc: "Dù mặc thường phục thì khí chất của sư huynh vẫn khác xa mọi người."

Cung Tuấn liếc xéo cậu: "Đệ tưởng họ chỉ nhìn mình ta đấy ư?" Chu Tử Thư ngẩn ra.

Cung Tuấn tủm tỉm cười, đổi trọng tâm câu chuyện: "Giờ mình đã vào cửa hàng, xong làm thế nào nữa?"

Nhân viên trong cửa hàng đương nhiên nhận ra Chu Tử Thư, có nhân viên định đến chào hỏi và hướng dẫn hai người, nhưng Chu Tử Thư lắc đầu ngay, ý bảo cậu sẽ đích thân tiếp đãi vị khách này. Chu Tử Thư nói: "Huynh lấy một cái làn, thấy thứ gì mình thích mua thì để vào đó, cuối cùng ra cửa còn lại để tính tiền là được."

Cung Tuấn xách một cái làn lên, động tác rất khoan thai, thoải mái.

Ấy thế mà Chu Tử Thư lại nhướng mày. CungTử Phong quý phái cao sang xách cái làn đi chợ, trông thế nào cũng không vừa mắt cậu. Chu Tử Thư bèn lấy cái làn Cung Tuấn đang cầm: "Sư huynh đến đây là khách, để đệ xách làn cho." Quả nhiên, vừa thoát khỏi cái làn đi chợ là Cung Tuấn bay bổng tiên khí ngay.

Rất chuẩn.

Lòng riêng của Chu Tử Thư sao giấu nổi Cung Tuấn? Cung Tuấn thầm nhủ, người đâu mà đáng yêu thế chứ lị, nhưng chàng không nhiều lời, chỉ nói: "Vậy mình đi thôi."

Hai người liền dạo chơi trong Bách Bảo Các.

Tầng một của Bách Bảo Các phần lớn là các vật dụng sinh hoạt, vì thế khách mua hàng đều là dân thường trong thành Thịnh Kinh. Thấy Cung Tuấn và Chu Tử Thư vai kề vai, mọi người đều vô thức nhìn về phía họ. Chu Tử Thư không biết, người dân không chỉ nhìn Cung Tuấn mà còn chú ý đến cả cậu nữa.

Làm quan ba năm, sự tích lũy trải nghiệm đã hun đúc nên uy thế của một vị quan ở Chu Tử Thư.

Bên cạnh đó, tuy Chu Tử Thư không để ý, nhưng ngày qua ngày bầu bạn với CungTử Phong, con người cậu đã dần dần thay đổi dưới ảnh hưởng của sư huynh. Giờ mỗi hành động của Chu Tử Thư đều có phong phạm của công tử quyền thế. Tuy khí chất của cậu không xuất phát trên cơ sở được rèn giũa từ bé, nhưng thế cũng đủ để khác xa người thường rồi.

Người ta hay nói gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Hay lêu lổng đầu đường xó chợ thì dễ nhiễm thói lưu manh. Chăm đọc sách luyện chữ, sẽ rèn nên khí phách của người quân tử.

Cung Tuấn hôm nay cực kì kiên nhẫn, chàng đi dạo hết tầng một xong mới lên tầng hai.

Hai người lên tầng hai, ngắm nghía từng gian hàng rồi mới đến gian bán gương. Hai ngày hôm trước lúc Bách Bảo Các mới khai trương, có rất nhiều khách hàng có nhu cầu mua gương, kéo đến chật kín cửa hàng. Hôm nay thì thoáng đãng hơn hẳn vì những người muốn mua gương đã mua hết cả rồi, còn những ai không mua nổi cũng không đến xem nữa.

Hiếm lắm mới có dịp Cung Tuấn phải tỏ ra ngạc nhiên. Chàng ngắm nghía một hồi, nhận xét: "Rõ nét hơn gương bạc nhiều đấy." Chu Tử Thư cười toe.

Gương thời cổ đại chia làm hai loại là gương đồng và gương bạc.

Với người dân bình thường, có một chiếc gương đồng đã là khá tốt rồi. Thường thì họ không đủ tiền mua gương đồng chất lượng cao, nên hình ảnh trong gương khá mờ mịt. Gương đồng loại tốt nhất có thể soi rõ được gương mặt người soi. Riêng gương bạc thì chỉ các nhà giàu sang mới đủ điều kiện sắm. Để chế tạo ra một chiếc gương bạc rất đắt đỏ, mức độ tinh xảo vượt trội, hình ảnh cũng rất sắc nét, không mấy chênh lệch so với gương thủy tinh. Nhưng dù gì đi chăng nữa thì gương bạc vẫn không đạt được độ trong như gương thủy tinh và không rẻ bằng. Chính vì thế, khi gương thủy tinh vừa xuất hiện ở Bách Bảo Các, nữ giới quyền quý ở Thịnh Kinh đã tức tốc mua thật nhiều cho nhà mình.

Chu Tử Thư nói: "Cái này khó chế tạo nhất vì nó là ngọc lưu ly. Sau này,

Bách Bảo Các sẽ sản xuất ra những loại gương đơn giản hơn để dưới tầng một, sao cho bình dân cũng có thể mua được.

Đến lúc hai người chuẩn bị ra về, Chu Tử Thư nháy mắt với nhân viên một cái, nhân viên của cậu lập tức bê một tấm gương cao bằng người thật đến.

Chiếc gương phản chiếu sắc nét hình ảnh của Chu Tử Thư và Cung Tuấn. Cung Tuấn ngỡ ngàng nhìn cậu. Chu Tử Thư cười: "Tấm gương này là để tặng sư huynh đây. Sư huynh cũng biết, thánh thượng ra lệnh cho Đường gia của đệ thay hết cửa sổ điện Thùy Củng thành lưu ly. Công nhân xưởng làm đi làm lại bao nhiêu lần mới cho ra lò được tấm ngọc lưu ly vừa to vừa rộng cỡ này. Sau khi làm ra loại lưu ly ấy, đệ lại chế tạo thành ba chiếc gương lớn.

Nói đến đây, Chu Tử Thư "e hèm" hai tiếng: "Một chiếc dâng lên Thánh Thượng, hai chiếc còn lại tặng sư huynh và biếu tiên sinh. Hai chiếc gương này được chế tạo lần đầu nên còn khá thô sơ, và cũng do đệ thiết kế lần đầu nên kiểu dáng hoa văn chưa được đẹp lắm."

Cung Tuấn lặng thinh. Giây lát sau, chàng cười khẽ: "Tấm gương này tuyệt lắm."

Chu Tử Thư nghĩ thầm: Vậy lần tặng quà này của mình xem như trót lọt ha?

Buổi đi siêu thị hôm nay, cả khách lẫn chủ đều tràn trề niềm vui.

Chẳng biết từ bao giờ, Chu Tử Thư đã hình thành thói quen tặng quà cho Cung Tuấn. Ban đầu thì chỉ nhằm mục đích vuốt mông ngựa tranh thủ tình cảm, nhưng dần dà, mỗi khi thấy Cung Tuấn sung sướng vì món quà mình tặng, tâm hồn Chu Tử Thư cũng phơi phới theo.

CungTử Phong tử tế với cậu lắm, nên cậu rất muốn đền đáp chàng. Tặng quà chính là một cách tốt.

Đêm đó, Chu Tử Thư nằm mơ đẹp ơi là đẹp, đến khi tỉnh mộng lại quên mất tiêu, chỉ nhớ giấc mơ ấy êm đềm khôn tả.

Cuối tháng tư, Đường gia xuất xưởng hơn mười tấm thủy tinh lớn, chuyển vào hoàng cung để thay cửa sổ cho điện Thùy Củng.

Triệu Phụ vốn chỉ nhờ Chu Tử Thư thay cửa sổ lấy lệ, cốt là để có lý do ban thưởng cho cậu qua việc cất nhắc Đường gia lên thành hoàng thương.

Ai ngờ sau khi thay cửa sổ kính xong, Triệu Phụ thích quá, vung bút rồng viết luôn một bức hoành mới treo trong nội điện của điện Thùy Củng.

Tiên ly động thiên』!

Tất cả cửa sổ đều làm từ ngọc lưu ly, kể cả trên thiên đình nơi thần tiên ơ đi chăng nữa cũng chỉ tráng lệ đến thế là cùng!

Triệu Phụ cực kì đẹp lòng, ban thưởng cho Chu Tử Thư không biết bao nhiêu thứ, đồng thời giao thêm một nhiệm vụ: "Cảnh Tắc, hoàng cung của trẫm còn điện Tử Thần, điện Đại Khánh,... khanh hãy đổi hết thành cửa sổ lưu ly đi!"

Chu Tử Thư kêu rầm rĩ trong lòng nhưng ngoài mặt phải nói: "Thần quá đỗi vinh hạnh, quyết không phụ sự giao phó của bệ hạ!"

Thủy tinh cỡ lớn cực kì khó chế tạo, xưởng Đường gia lại phải tăng giờ làm.

Hoạt động của Bách Bảo Các dần dần đi vào ổn định, Chu Tử Thư cũng từ từ chuyển giao việc làm ăn cho Đường Hoàng và quản lí Lục.

Hạ tuần tháng năm, Chu Tử Thư đang thẩm duyệt tấu chương trong điện Cần Chính. Cậu mở một bản tấu từ ngoại tỉnh gửi đến. Càng đọc, Chu Tử Thư càng bị thu hút bởi nội dung của bản tấu. Đọc đến hết, cậu lại đọc thêm một lần nữa từ đầu.

Suy tư hồi lâu, Chu Tử Thư quyết định cầm bản tấu ấy đến phòng Từ Bí.

Chu Tử Thư thi lễ trước rồi mới thưa: "Từ tướng công, hạ quan Chu Tử Thư xin bẩm báo. Hôm nay hạ quan bắt gặp bản tấu này, thiết nghĩ nên trình lên đại nhân trước rồi mới tóm tắt."

Từ Bí đặt cuốn sách đang cầm xuống: "Ồ? Tấu chương gì thế, đưa đây ta xem."

Chu Tử Thư cung kính dâng cuốn sổ lên cho ông.

Từ Bí giở ra đọc, đọc xong, ông cười: "Không ngờ xứ Thục có chuyện lí thú đến vậy. Dùng giấy làm tiền tệ, đúng là một ý tưởng hay đấy. Đất Thục đường xá khúc khuỷu, giao thông khó khăn, từ xưa đến nay ít khi liên lạc với bên ngoài, chẳng khác nào một Cungquốc nhỏ với quyền tự trị." Từ Bí dừng một lát rồi mới nói tiếp: "Câu ấy chỉ nói giữa hai chúng ta, và chỉ trong căn phòng này thôi nhé."

Chu Tử Thư hơi hoảng, nói ngay: "Vâng."

Từ Bí: "Việc lưu hành tiền giấy mà phát sinh ở địa phương khác thì có vẻ kì lạ, nhưng ở vùng Thục thì hết sức bình thường. Bản tấu này cũng thú vị đấy, cứ để ở chỗ ta đi, hôm nay ta sẽ tự tay trình lên thánh thượng. Cho ngươi lui."

"Dạ."

Chu Tử Thư ra khỏi chỗ Từ Bí mà lòng đầy bối rối, không thể bình tĩnh được.

Tiền giấy xuất hiện ở đất Thục thuộc Đại Tống vào thời khắc này không hề giống với "Giao tử" trong trí nhớ của Chu Tử Thư, nó còn không có tên. Nhưng Chu Tử Thư biết, việc tiền giấy thay thế tiền đồng, tiền bạc là xu thế tất yếu của lịch sử. Nếu có thể thúc đẩy sự thay đổi nay thì nhất định sẽ làm nên nghiệp lớn, thậm chí là mở ra một thời kì mới cho sự phồn vinh của nền kinh tế Đại Tống!

Dựa theo lịch sử thế giới cậu từng học ở thời hiện đại, việc mở rộng giao tử ra phạm vi toàn quốc không thể xảy ra chỉ trong ngày một ngày hai. Ít nhất là bất khả thi dưới thời Triệu Phụ. Thậm chí đến khi Chu Tử Thư qua đời chuyện ấy cũng chưa chắc đã hoàn thành.

Làm sao để tăng tốc quá trình phổ biến tiền giấy trên phạm vi toàn quốc đây?

Nhờ Từ Bí ư?

Từ tướng công tuy từng có hùng tài vĩ lược, nhưng những năm gần đây ông đã lui về tuyến hai, trước giờ không tranh với đời, hiếm khi phát biểu ý kiến trên triều đình. Giờ ông chỉ quan tâm đến việc làm sao cho công việc chỉn chu, không sai sót, chứ không còn tham vọng đột phá nữa. Nếu thương lượng chuyện này với ông, ông sẽ chẳng mấy quan tâm.

Chu Tử Thư nghĩ Tần nghĩ Sở một hồi, cậu không về khu nhà làm việc của quan tứ phẩm ngay mà đi sang chỗ làm chung của Thượng thư bộ Hộ và Thượng thư bộ Lễ.

Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng đang dặn dò cấp dưới để chuẩn bị cho nghi thức thờ cúng cuối tháng này. Bỗng dưng thấy Chu Tử Thư đến, ông ta liền nhướng mày.

Chu Tử Thư gõ cửa trước, Cung Tuấn thấy cậu cũng hết sức ngạc nhiên.

Cung Tuấn: "Vào đi."

Chu Tử Thư bước đến trước bàn Cung Tuấn, hành lễ: "Hạ quan Đường

Thận có việc xin thưa. Hạ quan chợt nhớ tối hôm qua quên chưa nói cho Thượng thư đại nhân một chuyện, không biết hiện giờ Thượng thư đại nhân có thể bớt chút thời gian không ạ?"

Mạnh Thượng thư cố ý cười ra tiếng: "Ta thấy quan phục của ngươi hình như là Trung thư xá nhân tứ phẩm chứ có phải quan bộ Hộ đâu. Sao ngươi lại có việc cần tìm Thượng thư bộ Hộ thế hả?

||

Lời tác giả:

Mạnh đại nhân: CungTử Phong ba ngày nay chưa oán giận ta, ba ngày rồi đấy! Khó chịu quá đi mất thôi! Để xem ta trêu người tình bé bỏng của hắn thế nào nhé!

Chú thích

Nếu bạn nào từng đọc Toái Ngọc Đầu Châu thì chắc đã biết đến Kê Huyết Thạch – Đá Tiết Gà, một loại đá quý rất được săn đón trong văn hóa Trung Quốc, đặc biệt là để điêu khắc và chế tạo ấn. Thành phần chu sa trong đá tạo nên màu đỏ; sự phân bố của chu sa sẽ tạo nên các vân đá khác nhau. Đá càng đỏ và màu đỏ càng tập trung thì càng quý. Chỉ có hai địa điểm trên thế giới khai thác loại đá này là Xương Hóa (Chiết Giang) và Hữu kỳ Baarin (Nội Mông). Đá xuất xứ từ khu vực khai thác nào nào gọi tên theo khu vực ấy.

Đá Tiết Gà được phân ra làm 4 loại chính là đống, mềm (nhuyễn), cứng (cương), rắn (ngạnh) với độ cứng tăng dần. Độ cứng càng lớn tức là đá càng ít bị xây xước hơn nhé, chứ không phải dùng loại này đập vỡ được loại kia đâu :D Loại "đống" có độ trong, bóng như sáp, và được phân chia tiếp theo màu sắc đi kèm với màu đỏ. Ví dụ như Ngưu Giác Đống (màu xám như sừng trâu), Điền Hoàng Đống (màu vàng như đất), hay Dương Chi Đống (màu trắng mỡ dê).

Trích trong bài từ Đạp Sa Hành của Tần Quán thời Bắc Tống, . Câu gửi hoa mai nhắc đến chuyện Lục Khải thời Nam Bắc triều nhờ sứ giả gửi hoa mai từ Giang Nam cho bạn thân là Phạm Diệp ở tận Lũng Đầu (Cam Túc), viết thành bài thơ Tặng Phạm Diệp. Việt Nam mình có chuyện vua Quang Trung gửi hoa đào cho công chúa Lê Ngọc Hân giống vậy ha. Về thư trong bụng cá thì hồi xưa có chuyện được gửi cá, nấu lên mổ ra mới thấy có thư trong bụng. Thư từ ngày xưa dễ hỏng, nên người ta cũng làm những cái hộp hình con cá để bảo quản thư. nỗi oán khuê phòng của người phụ nữ có chồng đi lính phương xa.

Tứ Xuyên. Dễ thủ khó công, đường vào hiểm trở nên chiến tranh thường ít lan tới đây. Là nơi tị nạn của nhiều dân chúng/văn sĩ vào thời loạn.

------oOo------

Chương 75

Nguồn: EbookTruyen.Net

Không liên quan đến đệ

Đứng giữa phòng, Chu Tử Thư hết nhìn Cung Tuấn – người đang rất điềm tĩnh – rồi lại nhìn Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng – người đang hóng chuyện vui. Cậu bỗng thấy đau hết cả đầu.

Ngài Mạnh đại nhân Thượng thư bộ Lễ này có hiền lành gì cho cam?

Hồi Chu Tử Thư thi Đình, Mạnh đại nhân chính là quan chủ khảo. Tuy trên danh nghĩa, chủ khảo của các tiến sĩ là hoàng đế, nhưng nói một cách miễn cưỡng thì Mạnh Lãng cũng tính là "ân sư" của Chu Tử Thư. Thế mà lúc nào vị Mạnh đại nhân này cũng khoái trêu cậu. Hôm Chu Tử Thư chân ướt chân ráo tới điện Cần Chính, khi ấy mới là Khởi Cư lang, Mạnh Thượng thư trêu tới bến, tha lôi cậu đi khắp Lục bộ cho tất cả mọi người biết mặt!

Là quan tứ phẩm tép riu, Đường đại nhân chẳng thể dây vào ông ta, nhưng không có nghĩa là Cung Tuấn phải chịu bó tay.

Cung Tuấn đặt chung trà xuống, chén sứ men xanh đụng vào bàn gỗ nghe "cạch" một tiếng. Chàng bảo Chu Tử Thư: "Trung Thư xá nhân không liên quan gì nhiều đến bộ Hộ, nhưng Trung Thư xá nhân có nhiệm vụ thay Thiên tử quan sát thiên hạ. Hôm nay Đường đại nhân tới tìm ta, đương nhiên là vì hạ quan có lỗi lầm, chưa dốc cạn tâm huyết, quên mình vì nước."

Chu Tử Thư sửng sốt.

Chàng nói câu đó xong, ở bàn đối diện, cả Mạnh Lãng và viên quan ngũ phẩm bộ Lễ đều há hốc mỏ.

CungTử Phong vừa nói cái gì thế?

Mạnh Lãng phản ứng rất nhanh, ông ta thầm nghĩ: Thay thiên tử quan sát thiên hạ cái nỗi gì? Chẳng phải là giúp hoàng đế chỉnh lý tấu chương, tóm tắt hết mấy quyển tấu ba hoa chích chòe, dài dòng nhảm nhí thành một vài câu đơn giản ư? Thế mà đã gọi là thay thiên tử quan sát thiên hạ, thì quan lớn như bọn họ chẳng hóa đang thay thiên tử cai quản thiên hạ à?

Ông ta chưa nghĩ xong, Cung Tuấn đã nói tiếp rồi. Chàng chỉ vào Mạnh Lãng trước mặt mình, hỏi Chu Tử Thư: "Đường đại nhân, ngươi có biết vị quan lớn này là ai không?"

Chu Tử Thư hoang mang lắm, nhưng đành giả bộ như không có chuyện gì, thi lễ rồi nói: "Ngài ấy chính là Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng – Mạnh đại nhân."

Cung Tuấn: "Mạnh đại nhân tâm tư cao thượng, ngày ngày chuyên cần. Từ lúc trời còn chưa sáng, cả điện Cần Chính tối om om, phòng Mạnh đại nhân đã sáng đèn rồi; đến khi mặt trời lặn, khắp Lục bộ chỉ còn riêng nha môn bộ Lễ là chong đèn hằng đêm! Mạnh đại nhân là vị quan mẫu mực hết lòng vì dân, là quan thanh liêm ngàn năm có một. Trung Thư xá nhân thay thiên tử quan sát thiên hạ, đã bao giờ thấy tấm lòng tận tụy của vị quan lớn nhị phẩm này chưa? Đã thấy được bầu nhiệt huyết cháy bỏng của Mạnh Thượng thư chưa?"

Chu Tử Thư: "..." Oắt đờ hợi?

Mạnh Lãng cũng bối rối không kém: "???"

Khoan khoan cái nào, CungTử Phong đang khen mình ư?

Mạnh Thượng thư cố ý đứng dậy nhòm ra ngoài cửa sổ: Trời có đi vắng đâu mà nhỉ1?

Cung Tuấn đứng lên bảo Chu Tử Thư: "Một viên quan mẫn cán, đức độ như thế cần phải được nêu gương cho bá quan noi theo, phải được dân chúng biết đến, phải được bệ hạ ghi nhớ. Đường đại nhân, sau khi thay bệ hạ quan sát bộ Lễ lo toan việc nước hai hôm nay, ngươi cần báo cáo lên bệ hạ, để bệ hạ phát thêm nến, tặng thêm đèn cho các quan trong bộ. Quan viên bộ Lễ không quản ngày đêm, miệt mài công tác, là tấm gương sáng cho chúng ta!" Nghe xong, Chu Tử Thư và Mạnh Lãng càng thần thộn hơn. Cung Tuấn kêu Chu Tử Thư: "Đi thôi."

Chu Tử Thư đi theo Cung Tuấn ra khỏi phòng, tìm chỗ yên ắng, kín đáo để nói chuyện, chừa lại Mạnh Lãng và viên quan ngũ phẩm bộ Lễ chưng hửng nhìn nhau.

Mãi lâu sau, Mạnh Lãng mới đột nhiên ngộ ra: "Đồ khốn CungTử Phong, từ bao giờ bộ Lễ chúng ta không quản ngày đêm, ở lại nha môn làm việc đến tối vẫn chưa về hả!?"

Mạnh Lãng như người câm nuốt phải trái đắng, không biết xả vào đâu cho vơi tức.

Đầu tiên Cung Tuấn cố tình vơ đũa cả nắm, khen các quan bộ Lễ là điển hình cho các quan khác noi theo, lẽ nào Mạnh Lãng lại bảo điêu toa, bộ Lễ chúng ông làm gì có lắm người mẫn cán như thế? Khen xong, Cung Tuấn đế thêm một câu, nhắc Chu Tử Thư phải bẩm báo việc này lên hoàng đế, để bệ hạ biết các quan bộ Lễ ngày ngày hăng say tăng ca, hết lòng phụng sự bệ hạ thế nào.

Bẩm xong thì tăng ca giả phải biến thành tăng ca thật chứ còn gì? Dù trước đây có rảnh rỗi mấy thì bây giờ cũng phải cố mà bôi việc ra!

Bình thường CungTử Phong mà bẫy ai thì chỉ bẫy đúng người ấy thôi. Hôm nay, Mạnh Lãng lại lôi cả bộ Lễ chết chùm.

Viên quan ngũ phẩm đứng ngay cạnh mặt mũi u oán, ức lắm mà không dám ho he.

Mạnh Thượng thư nghiến răng nghiến lợi: "Tên CungTử Phong nghĩ mình phải sợ nó thật à?"

Quan ngũ phẩm nói: "Thượng thư đại nhân, Cungđại nhân dù sao cũng là Thượng thư bộ Hộ, bộ Hộ, bộ Hộ đấy..." vị quan nhỏ phải nhấn mạnh đến ba lần, "Ngài tội gì phải làm khổ mình thế."

Mạnh Lãng: "..."

Bộ Hộ à, bộ Hộ thì quản lí tiền bạc lương bổng chứ còn gì!

Mạnh Lãng nghĩ bụng sao mình dại thế không biết, quyết định từ rày không bao giờ dây vào CungTử Phong nữa.

Hành động của Mạnh Lãng ở thời hiện đại có thể mô tả trọn vẹn bằng một từ, ấy là "khẩu nghiệp2". Chỉ tiếc Mạnh đại nhân bây giờ chưa biết cụm từ thâm nho đấy, chỉ đành dùng từ "hối hận sâu sắc" để mô tả tâm trạng hiện giờ của mình.

Chu Tử Thư theo Cung Tuấn lòng vòng mấy lượt trong điện Cần Chính mới đến một gian phòng vắng vẻ yên tĩnh.

Chu Tử Thư hơi ngạc nhiên, cậu không biết đây là đâu cả.

Cung Tuấn nói: "Đây là nơi làm việc của Hữu tướng CungThuyên – Cungtướng công. Hôm nay Cungtướng công không có ở đây, tiểu sư đệ có chuyện gì cứ nói thoải mái."

Thì ra là chỗ của nhị thúc tổ Cung Tuấn!

Chu Tử Thư đi thẳng vào vấn đề luôn, kể về bản tấu mà cậu đọc được hôm nay. Cậu không giấu giếm gì cả, nói hết chân tơ kẽ tóc cho Cung Tuấn nghe. Cung Tuấn càng nghe, cặp lông mày càng nhíu lại. Các quan lại khác trong phút chốc ngắn ngủi khó mà phát hiện ra điểm lạ kì ở bản tấu từ đất Thục, nhưng Cung Tuấn là Thượng thư bộ Hộ đã năm năm nay, rất nhạy cảm với tiền bạc. Khi nghe "lấy giấy thay tiền", Cung Tuấn đã tính được mấy đối sách trong lòng rồi.

Chu Tử Thư suy nghĩ một chút, bèn nói lên ý kiến của mình. Bây giờ chỉ có cậu và Cung Tuấn ở đây, cậu không gọi Thượng thư đại nhân nữa mà gọi thẳng là sư huynh.

"Sư huynh, vấn nạn khan hiếm tiền tệ ở Đại Tống chúng ta không phải chuyện ngày một ngày hai. Tuy đệ không phải quan bộ Hộ, nhưng vấn đề thiếu tiền đã xảy ra từ thời tiên đế. Cứ mỗi đợt cải cách thuế khóa, kèm theo hoạt động buôn bán với nước ngoài, chúng ta lại gặp khó khăn trong việc tính toán thuế thương mại. Vả lại, trữ lượng đồng và bạc của Đại Tống đều khan hiếm. Dưới triều Khai Bình hiện nay, sức nước ngày càng hùng mạnh, vấn đề thiếu tiền càng nghiêm trọng hơn. Đệ nghĩ, 'Tiền giấy' có thể phải lời giải cho bài toán thiếu tiền của Đại Tống!"

Đôi mắt Cung Tuấn bừng sáng như hai ngọn đuốc. Hai huynh đệ nhìn nhau trong giây lát, Cung Tuấn bèn nói: "Ý của tiểu sư đệ, ta đã hiểu. Cái khó là chuyện này nếu bỏ đấy thì nó chẳng có gì to tát, nhưng một khi đụng vào thì phạm vi ảnh hưởng là rất rộng. Nếu rút dây động rừng, hậu quả ra sao, khó mà tiên liệu được trong nay mai."

Chu Tử Thư đâu phải không biết.

Đừng nói là trong thời đại này, dù giữa thời hiện đại đi chăng nữa, kể cả khi nhà nước nắm quyền phát hành tiền tệ, cũng có khối nước trên thế giới phải phá sản!Tiền giấy thay thế tiền đồng, bạc, vàng, chính là xu hướng tất yếu không thể ngăn cản được của lịch sử, nhưng nó cũng là một con dao hai lưỡi. Làm thế nào để đưa nó vào hoạt động là cả một lĩnh vực rộng lớn, Chu Tử Thư chẳng biết mò mẫm từ đâu; rồi làm thế nào để sử dụng nó một cách đúng đắn lại càng khó khăn hơn, mà Chu Tử Thư thì mít đặc!

Nhưng nếu tiền giấy kiểu gì cũng xuất hiện, thì việc xuất hiện sớm hơn một chút rất có lợi đối với thời đại này, nhất là với kinh tế Đại Tống!

Chu Tử Thư có vô vàn suy nghĩ trong lòng nhưng không thể nói ra.

Sau một hồi, cậu dành cho Cung Tuấn ánh mắt cháy bỏng, nói lên một câu từ đáy lóng mình: "Đệ tín nhiệm sư huynh."

Cung Tuấn có chút ngẩn ngơ, gương mặt tuấn nhã của chàng thoáng vẻ ngạc nhiên. Đoạn, chàng dịu dàng cười: "Ừ."

Hai người không nói thêm nữa, tự rời khỏi gian nhà.

Chu Tử Thư không hề nói lấy lệ khi cậu bảo mình tín nhiệm Cung Tuấn, cậu thực sự muốn giao phó toàn bộ việc này cho chàng. Bất luận Cung Tuấn định bỏ qua hay thúc đẩy nó đều không liên quan đến Chu Tử Thư. Cậu vốn không am hiểu lĩnh vực này, chuyển giao cho Cung Tuấn mới là lựa chọn đúng đắn nhất.

Đầu giờ chiều, Từ Bí cầm mấy quyển tấu chương, vào cung yết kiến Triệu Phụ.

Buổi tối lúc gần tan làm, Chu Tử Thư vừa mới xếp gọn đồ đạc xong, ra đến cửa thì thấy có bóng người mặc quan bào hồng sẫm bước thoăn thoắt vào cổng điện Cần Chính. Hai người đều hết sức ngạc nhiên khi chạm mặt nhau.

Cả hai cùng nhìn nhau, Chu Tử Thư cung kính hành lễ trước: "Tô đại nhân."

Tô Ôn Duẫn nhếch môi cười: "Đường đại nhân." Anh ta quan sát tỉ mỉ một hồi, đôi mắt đào hoa ánh lên tia cười cợt: "Đi đâu thế, tan làm rồi à?" "Vâng." Tuy không muốn nói chuyện với Tô Ôn Duẫn, nhưng anh ta cứ đứng chình ình ra đó thì Chu Tử Thư cũng đành phải lịch sự hỏi thăm: "Tô đại nhân mới từ Thứ Châu về đấy ạ?"

Sau vụ cầu sông Kinh Hà, Tô Ôn Duẫn đã được Triệu Phụ đề bạt làm Hữu thị lang bộ Công để thế vào chỗ của Tạ Thành. Năm ngoái, Tô Ôn Duẫn phải đi Thứ Châu để đôn đốc cho xong việc xây dựng quan đạo, chẳng mấy khi xuất hiện trên triều đình. Hôm nay anh ta đã trở về, lẽ nào quan đạo Thứ Châu sắp hoàn thành rồi?

Tô Ôn Duẫn không trả lời, chỉ nhận xét: "Đường đại nhân dạo này béo ra phết nhỉ."

Chu Tử Thư vô thức thốt lên: "Ơ?"

"Các cụ có câu lòng thanh thản, người mỡ màng3, ta thấy, nửa năm nay Đường đại nhân hẳn là tươi vui lắm." Tô Ôn Duẫn cười khoe hàm răng trắng bóng, trông cứ như con sói nhe nanh.

Chu Tử Thư ngơ ngơ ngác ngác, cáo từ ra về.

"Tô Ôn Duẫn dốt thành ngữ tục ngữ à? Lòng thanh thản, người mỡ màng... Anh ta thi đỗ tiến sĩ thế quái nào vậy?"

Chu Tử Thư nào hay, trong mắt Cung Tuấn, cậu béo đến mấy cũng là gầy giơ xương, còn trong mắt Tô Ôn Duẫn, Chu Tử Thư tròn trịa đến phát ghét. Vì sao lại béo ấy à? Vì chỉ trong vòng hai năm, cậu đã nhảy phắt từ thất phẩm lên tứ phẩm, còn là Trung Thư xá nhân tứ phẩm, cận thần ngay dưới mắt Thiên tử! Thăng tiến với tốc độ điên rồ như thế thì ai mà chẳng sướng rơn?

Từ thất phẩm lên ngũ phẩm không khó, nhưng từ ngũ phẩm lên tứ phẩm gian nan vô cùng. Chu Tử Thư được thăng đến tứ phẩm chẳng phải nhờ ăn theo Tô Ôn Duẫn sao?

Thế mà giờ Chu Tử Thư được ở Thịnh Kinh ăn trắng mặc trơn, ngày ngày hưởng phúc, còn anh ta phải đi mài mặt tận Thứ Châu, dãi nắng dầm mưa.

Tô đại nhân rất chi là cáu kỉnh!

Nhưng dù Tô đại nhân có oán giận thế nào đi nữa thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến Chu Tử Thư cả.

Hôm sau trong buổi triều, Triệu Phụ giả bộ vô tình nhắc đến chuyện "dùng giấy làm tiền" ở Thục. Vị hoàng đế một lòng tu tiên chỉ lấy việc đó ra bông đùa thôi, bảo rằng nghe quan nào đó nói vậy, dường như ông ta chẳng hề coi là chuyện to tát. Thế mà quan nào quan nấy nghe xong đều ngấm ngầm suy tính riêng.

Trung tuần tháng sáu, mặt trời hầm hập như lỏ luyện kim đan lửng lơ giữa bầu trời.

Mỗi gian làm việc trong điện Cần Chính đều được cấp chậu băng để làm mát cho các quan, nhưng phòng làm việc của quan tứ phẩm đông quá, có chậu băng cũng không đỡ được là bao. Chu Tử Thư nóng đến nỗi mồ hôi mồ kê đầy đầu, nhưng cậu vẫn mặc quan phục nghiêm chỉnh, không dám cởi bớt nút áo nào.

Chu Tử Thư đang xem dở tấu chương thì có một sai nha vào phòng, gửi một phong thư đến tận tay cậu.

Các quan khác chẳng buồn để ý. Chu Tử Thư ngẩn người, bóc thư ra. Đọc dòng chữ trên thư, ánh mắt cậu run lên, lặng lẽ nhét phong thư vào trong tay áo. Lúc tan làm, Chu Tử Thư cố tình nán lại trong phòng một lúc, đến khi thấy Cung Tuấn bước ra khỏi chỗ làm từ đằng xa.

Cung Tuấn liếc sang cũng thấy Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư muốn gọi chàng, nhưng Cung Tuấn làm bộ không thấy, ánh mắt vụt lướt qua, chàng đi thẳng về phía trước, cứ như thể không hề phát hiện ra cậu.

Chu Tử Thư mím môi, chờ Cung Tuấn đi về rồi, cậu mới rời nha môn.

Đêm đến, Chu Tử Thư sang phủ Thượng thư, quản gia mời cậu vào cửa. Đợi khoảng một chung trà thì Cung Tuấn về nhà.

Chu Tử Thư đi ra đón chàng ngay: "Sư huynh."

Cung Tuấn thấy cậu, giọng chàng ấm áp pha chút bất lực: "Đã nói với đệ là không dính dáng gì đến đệ rồi kia mà. Tiểu sư đệ thông tuệ hơn người, ắt là hiểu ý ta, sao còn đến đây làm gì?"

Không sai, hôm nay Cung Tuấn cố ý sai người đưa thư tới cho cậu bảy chữ –

"Mọi chuyện, không liên quan đến đệ."

||Chú thích

Thương mại tăng thì nhu cầu tiền tệ tăng, dẫn đến nhu cầu khai thác quặng là rất lớn, trong khi kim loại không chỉ cần cho tiền mà còn cần cho vũ khí nữa. Tranh chấp biên giới phía Bắc trong lịch sử Việt – Trung thời xưa cũng nhiều lần xoay quanh việc vùng núi nước mình giàu khoáng sản quá :)))) Ngoài ra dùng tiền gì thì cũng gặp vấn đề với in tiền giả gây nên lạm phát. Trong Thế Chiến II Phát xít Đức từng tuồn tiền giả và Anh để phá nền kinh tế Anh.

[1] Gốc là "đổ mưa đỏ", thành ngữ Đài Loan chỉ việc lạ, tương tự câu "hôm nay trời đivắng" của Việt Nam mình.

[2] Gốc là "chủy tiện". Chỉ người độc mồm, nói năng tiêu cực, gây khó chịu cho ngườikhác nhưng không bao giờ chịu lắng nghe. Mình thấy hai từ "độc mồm" và "thối mồm" trong tiếng Việt là sát nghĩa nhất, nhưng xét ngữ cảnh là Mạnh Lãng đang phải chịu hậu quả từ sự vạ miệng của mình, thì "khẩu nghiệp" lại là từ hiện đại và hợp hoàn cảnh hơn.

[3] Câu lòng thanh thản, người mỡ màng này chính là câu "tâm khoan thể bàn/bạng" có haicách phát âm mà Chu Tử Thư trêu CungTiêu hồi ở Ninh Châu đấy.

------oOo------

Chương 76

Nguồn: EbookTruyen.Net

Mưa rồi?

Không gian vắng vẻ, trong phủ thượng thư chỉ nghe tiếng ve kêu râm ran và tiếng chim chóc líu lo.

Đâu phải Chu Tử Thư không hiểu chỗ khó xử của Cung Tuấn?

Cậu rút từ trong tay áo ra lá thư Cung Tuấn gửi chiều ngay, đọc lại một lần nữa. Đoạn, Chu Tử Thư đến bên án thư, đưa lá thư vào ngọn nến. Ngọn lửa liếm lên giấy, chẳng mấy chốc lá thư đã hóa tro tàn.

Chu Tử Thư nói: "Ý của sư huynh, đương nhiên đệ hiểu. Nhưng hiểu là một chuyện, đến đây là chuyện khác. Đệ không gạt sư huynh, có hai vấn đề khiến đệ băn khoăn mãi. Thứ nhất, đệ rất tò mò về những chuyện sẽ phát sinh trong thời gian tới, đệ muốn biết sư huynh định xử lí như thế nào. Thứ hai..." Chu Tử Thư ngập ngừng giây lát: "Thứ hai là đệ lo cho sư huynh."

Cung Tuấn nhìn Chu Tử Thư bằng ánh mắt hết sức điềm tĩnh. Lát sau, chàng mới nói: "Đệ hiếu kì cũng là chuyện thường tình thôi. Nhưng Cảnh Tắc này, chớ nghe, chớ hỏi mới là kim chỉ nam cho đệ trong chốn quan trường, xét địa vị hiện giờ của đệ. Còn lo lắng của đệ thì..." Cung Tuấn chỉ mỉm cười rồi bỏ lửng câu.

Chu Tử Thư không hiểu nổi ý chàng.

Sao CungTử Phong kì vậy, đang nói dở lại thôi?

Với quan hệ của sư huynh đệ hai người hôm nay, những gì Chu Tử Thư vừa nói hoàn toàn thật lòng, không có một chữ nào giả dối. Bản chất Chu Tử Thư không phải người tâm cơ xảo trá, nghi bóng sợ gió. Quen biết CungTử Phong ba năm nay, bầu bạn với chàng ba năm nay, dù cậu có là cục đá thì cũng phải nóng lên. Chu Tử Thư thực sự đặt rất nhiều niềm tin vào sư huynh mình.

Huống hồ bây giờ cậu đã bước một chân vào Cungđảng. Thành tựu của cậu hôm nay có công lao không hề nhỏ của CungTử Phong. CungTử Phong muốn hại cậu thì khác nào tự chặt một tay, cái được chẳng bù cái mất.

Người khôn ngoan như CungTử Phong lẽ nào lại hành động như thế?

Chu Tử Thư suy nghĩ một lát, nói: "Lời khuyên của sư huynh không hề sai. Đệ cũng biết, tuy bây giờ đệ là Trung Thư xá nhân tứ phẩm, nhưng chẳng qua cũng chỉ là chức nhỏ thôi. Có điều, câu 'chớ hỏi, chớ nghe' sư huynh từng dặn đệ cách đây một năm. Hồi ấy đệ đã làm theo lời huynh, nhưng bệ hạ đâu có để yên cho đệ không hỏi, không nghe? Đệ bị phái đến Thứ Châu, rồi mới có những chuyện sau này."

"Chuyện đệ phải đi Thứ Châu, kì thực cũng do ta mà nên."

Chu Tử Thư sửng sốt: "Do sư huynh ư?"

Cung Tuấn nói: "Bệ hạ của chúng ta cực kì giỏi trong việc thao túng cán cân quyền lực." Đây là lần đầu tiên Cung Tuấn thảo luận với cậu về vấn đề này trong triều đình, Chu Tử Thư lập tức tập trung tư tưởng, nghiêm túc lắng nghe chàng phân tích, "Có một số việc thuộc về bề nổi, tất cả các quan đều biết, đệ tự khắc cũng biết. Một số việc khác, đệ có thể đã đoán được rồi. Năm ngoái, ta, Tô Ôn Duẫn và Tống Tuần, chia nhau lên phía Bắc cốt là để điều tra vụ án tham ô trong nạn tuyết miền Nam cách đây bốn năm."

Chu Tử Thư: "Chuyện ấy đệ đã đoán được."

Cung Tuấn: "Thế đệ biết những gì về con người Tô Ôn Duẫn?"

Chu Tử Thư sửng sốt, cậu tỉ mỉ nhớ lại từng thứ: "Tô đại nhân trước kia là Thiếu khanh Đại lý tự, hàm tứ phẩm. Khi đệ làm Khởi Cư lang thì thường xuyên thấy anh ta vào đài Đăng Tiên, rất được bệ hạ sủng ái. Giờ anh ta là Hữu thị lang bộ Công, hàm tam phẩm, tiền đồ vô lượng." "So sánh với đệ thì sao?" Cung Tuấn dí dỏm nói.

Chu Tử Thư nghẹn lời, lúng túng hồi lâu mới nói: "Sư huynh đừng chế giễu đệ."

Cung Tuấn ngưng cười, thong thả nói: "Ấy là đạo cân bằng của thánh thượng chúng ta đó."

Chu Tử Thư ngây người.

"Tô Ôn Duẫn rất may mắn khi tìm được ngay kẻ chủ mưu. Không có gì bất ngờ cả, ngay khi anh ta về kinh chắc chắn sẽ được triều đình trọng thưởng và còn được thăng chức. Sự thật đúng là thế, anh ta trở thành Hữu thị lang hàng tam phẩm. Có thể dự đoán được kết quả này, thực chất là vì trước khi nó xảy ra, bệ hạ đã phái đệ đi Thứ Châu. Mà tiểu sư đệ à, đệ phải đi vì đệ là người của ta."

Bộ não của Chu Tử Thư lại bị thách thức: Đệ là người của ta? Cái câu này nghe cứ là lạ thế nào ý nhỉ? Nhưng sư huynh nói đúng, trong mắt Triệu Phụ, Tô Ôn Duẫn, thậm chí là toàn thể các quan, cậu coi như nửa Cungđảng rồi còn gì.

Thấy Chu Tử Thư không phủ nhận, Cung Tuấn lẳng lặng liếc cậu một cái rồi giải thích tiếp: "Đệ công cán ở Thứ Châu, không có công lao cũng có khổ lao. Dù đệ không tịch thu được sổ thu chi, đến khi về kinh, bệ hạ chắc chắn vẫn ban thưởng cho đệ." Nói đến đây, Cung Tuấn trở nên trầm tư. Bỗng chàng bảo: "Cảnh Tắc, nếu mọi chuyện theo đúng dự đoán, trong vòng ba năm tới, ta không thể nào lên chức được."

Chu Tử Thư cả kinh: "Ý sư huynh là sao?"

"Trong Cungđảng, trên có nhị thúc là quan nhất phẩm, Hữu tướng triều ta, thân với Tả tướng Kỷ Ông Tập. Ta là quan nhị phẩm, nắm quyền quản lí cả một bộ, chịu ơn dày của bệ hạ. Chính vì thế, muốn chế ngự phe phái Tô Ôn Duẫn, bệ hạ không thể nâng đỡ ta hay nhị thúc nữa mà chỉ có thể sử dụng những người còn lại thuộc Cungđảng. Ở Thịnh Kinh khi đó, chỉ có mình đệ là người phù hợp nhất mà thôi."

Đêm nay, được nghe chàng giảng giải, Chu Tử Thư quả nhiên được mở rộng tầm mắt.

Suốt một năm qua, cậu chưa từng nghĩ tới Triệu Phụ phái mình đi Thứ Châu hóa ra là để dùng cậu khắc chế Tô Ôn Duẫn, khiến Tô Ôn Duẫn không thể đắc thế hoàn toàn!

Cung Tuấn: "Tô Ôn Duẫn vốn là người nhà họ Tô – danh môn hàng đầu vùng Bắc Trực Lệ. Thời Thái Tổ, Tô gia lập không biết bao nhiêu công trạng hiển hách, gần trăm năm qua vẫn sản sinh vô số nhân tài. Bệ hạ dùng ta để chế ngự Tô Ôn Duẫn, rồi lại dùng Tô Ôn Duẫn chế ngự ta. Dù cả hai chúng ta biết rõ mười mươi ý đồ của bệ hạ, cũng chẳng có cách nào phá vỡ cục diện ấy."

Sống ở đời, điều đáng sợ nhất không phải là không biết mình bị lợi dụng, mà là biết nhưng không thể tránh nổi.

Triệu Phụ là hoàng đế, cho nên cách sắp đặt của ông ta buộc những tay quái kiệt trên đời như Cung Tuấn hay Tô Ôn Duẫn phải bất lực, chấp nhận tình thế. Tuy nhiên, tình thế ấy không hề bất lợi cho họ; bằng không với tuổi tác của cả hai, họ không thể nào leo lên vị trí hiện tại nhanh chóng như thế được.

Nói cách khác, Triệu Phụ đang lợi dụng họ, nhưng chắc gì họ không lợi dụng Triệu Phụ trước?

Mặc dù vậy, Chu Tử Thư nhanh chóng nhận ra điểm thiếu sót: "Sư huynh xuất thân Lang Gia Cungthị, Tô Ôn Duẫn xuất thân Bắc Trực Lệ Tô gia. Hai người đều là phe danh môn, thế phe hàn môn thì sao?"

Với tính tình đa nghi của Triệu Phụ, còn lâu mới có chuyện ông ta hoàn toàn đặt niềm tin vào giới quý tộc; chắc chắn, phải có phe phái hàn môn để khắc chế phe phái danh môn.

Trong triều hiện nay có bốn vị tướng công, trong đó Hữu tướng Vương

Thuyên và Hữu thừa Từ Bí đều là dòng dõi thế gia, còn Tả tướng Kỷ Ông Tập và Tả thừa Trần Lăng Hải xuất thân nghèo khó, đây là bằng chứng cho thấy Triệu Phụ dùng họ để kiềm hãm lẫn nhau: nếu không làm sao có sự đối xứng hoàn hảo đến vậy? Khác nào anh một miếng tôi một miếng1?

Cung Tuấn dửng dưng: "Có Lý Cảnh Đức đấy còn gì."

Chu Tử Thư ngẩn ra, nhất thời cậu không nhớ ra người ấy là ai cả.

Trong lúc đó, Cung Tuấn đã nói tiếp: "Chuyện sử dụng giấy để làm tiền tệ khác hẳn với những sự vụ khác. Nếu xảy ra tranh đấu thì trên triều đình phong ba bão táp lắm đấy, nhưng chỉ giới hạn trong nhóm quan tam phẩm trở lên mà thôi. Vì thế, tiểu sư đệ à... việc này không liên quan đến đệ."

Hôm nay là một ngày hiếm hoi mà Chu Tử Thư rời khỏi phủ Thượng thư nhưng Cung Tuấn không ra tiễn.

Ngoái đầu nhìn cổng phủ khóa chặt, Chu Tử Thư cảm thấy nao nao khó tả.

"Lần này, CungTử Phong muốn tạm thời đường ai nấy đi, không liên lụy gì đến nhau thật rồi."

Việc phát hành tiền giấy ảnh hưởng quá sâu rộng, thậm chí cả Cung Tuấn cũng không dám đảm bảo mình sẽ an toàn thoát nạn. Chàng không muốn kéo thêm Chu Tử Thư vào, thậm chí Chu Tử Thư biết, điều CungTử Phong bỏ ngỏ chính là: dù Chu Tử Thư có tham gia vào cũng vô ích, có khi còn nguy hiểm đến bản thân.

Chu Tử Thư vốn không am hiểu về chính sách và tiền tệ. Cậu mới mười tám tuổi, dù đã vào quan trường ba năm, nhưng cậu cần thêm thời gian để trở nên cứng cáp.

Chu Tử Thư thở dài, nghĩ thầm: "Nếu đang là thời bình, nếu có thể chọn lựa, ước gì mình được làm việc ở bộ Công, mở đường xây cầu cho đất nước!" Song ấy là cậu nói thế thôi. Bây giờ đang là thời bình đấy, nhưng giữa thời bình thế này, cậu cũng có được làm theo ý thích của mình, trở thành một kĩ sư chỉ cần quan tâm đến vấn đề kĩ thuật đâu?

Cung Tuấn không biết, dù chàng gần như xua đuổi Chu Tử Thư, Chu Tử Thư không hề có ý định rút chân hoàn toàn khỏi vụ việc này. Cậu âm thầm dự tính sẽ bí mật theo dõi diễn biến.

Chỉ còn mấy hôm nữa là Tô Ôn Duẫn lại phải về Thứ Châu, tiếp tục đôn đốc tiến độ đường xá.

Trước khi đi, anh ta cố ý chờ Chu Tử Thư trên con đường dẫn vào điện Cần Chính trong cung. Tô đại nhân trong bộ quan bào đỏ thẫm, phơi nắng phơi gió nửa năm trời mà da dẻ vẫn trắng bóc, tuấn tú rạng ngời. Anh ta thấy Chu Tử Thư thì mỉm cười: "Đường đại nhân, khéo ghê cơ chứ lại! Sao tự dưng gặp nhau ở đây thế này?"

Tránh voi chẳng xấu mặt nào, sao không cho người ta tránh hả? Đường

Thận cung kính hành lễ: "Xin kính chào Công bộ Hữu thị lang đại nhân."

Tô Ôn Duẫn nheo mắt nhìn Chu Tử Thư. Bỗng dưng anh ta nở nụ cười, chỉ lên trời hỏi: "Đường đại nhân, ngươi trông mặt trời chói lọi thế kia, liệu ngày mai có mưa không nhỉ?"

Chu Tử Thư thầm nghĩ: Anh đã bảo nắng chói chang, sao còn hỏi mai có mưa không?

Ngoài miệng thì cậu nói: "Hạ quan chẳng biết."

"Ta lại nghĩ, Thịnh Kinh sắp có trận mưa to rồi đấy. Đường đại nhân phải chuẩn bị sẵn ô dù đấy nhé, kẻo mưa ướt hết cả người. Mắc mưa thì không sợ lắm, chỉ sợ bị cảm, ốm nặng thì toi. Đến lúc ta xong việc ở Thứ Châu, về đây lại thấy vắng bóng Đường đại nhân thì tiếc lắm."

Chu Tử Thư: "..."

Anh dám trù ẻo ai chết sớm hả?

Lần này Chu Tử Thư không thèm trả lời anh ta nữa, đằng nào thì Tô Ôn Duẫn cũng chướng mắt cậu, để ý làm gì cho mệt người, có phải lần đầu tiên làm mích lòng nhau đâu.Vả lại, cậu là người của Cungđảng đấy! Tô Ôn Duẫn có giỏi thì sút CungTử Phong lên bàn thờ ăn gà luộc trước đi rồi hẵng lôi cậu ra hành hạ.

Tô Ôn Duẫn cũng không trêu cậu nữa, ngài Hữu thị lang bộ Công cười khẩy rồi quay gót bỏ đi. Hôm sau thì anh ta rời kinh đến Thứ Châu luôn. Hôm Tô Ôn Duẫn đi, trời vẫn nắng gắt, không có mưa to như anh ta nói.

Cho đến ngày mười bốn tháng sáu, năm Khai Bình thứ hai mươi chín.

Trong buổi chầu, Hữu tướng CungThuyên bước lên tâu: "Từ năm Khai Bình thứ mười chín đến nay, các tỉnh Nam Trực Lệ và Hồ Tây đều gặp khó khăn trong quá trình thu thuế. Thần có hai mươi ba kiến nghị cải cách thuế ruộng đất, xin được trình lên bệ hạ."

Mắt Triệu Phụ sáng ngời, ông ta giả bộ ngạc nhiên lắm, nói: "Ồ, trẫm tò mò đấy."

Đại thái giám Quý Phúc nghe thấy thế bèn đi xuống, cầm tấu chương của CungThuyên, dâng hai tay lên cho hoàng đế. Triệu Phụ mở sổ tấu ra, ánh mắt lướt đi trên trang giấy. Điện Tử Thần lặng ngắt như tờ, chỉ nghe tiếng Triệu Phụ giở tấu chương.

Tả tướng Kỷ Ông Tập nhìn xuống sàn, chẳng biết ông đang nghĩ gì.

Tả thừa Trần Lăng Hải nghi hoặc nhìn CungThuyên và Kỷ Ông Tập, im lặng không lên tiếng.

Hữu thừa Từ Bí điềm nhiên như không. Vị nguyên lão ba đời vua bình thản giơ cao hốt ngọc, nhìn về phía chân Triệu Phụ, không khác gì so với mọi khi, cứ như thể CungThuyên mới dâng tấu chương vấn an Triệu Phụ vậy.

Triệu Phụ đọc xong, thái độ hết sức bình thản. Ông ta đặt sổ lên chiếc khay mà Quý Phúc đang bưng: "Việc này để sau hẵng bàn."

CungThuyên: "Vâng."

Không lâu sau, hết buổi triều, các quan lũ lượt ra khỏi cung.

Riêng Tả tướng Kỷ Ông Tập và Hữu tướng CungThuyên được hoàng đế triệu đến điện Thùy Củng, không biết định bàn bạc những gì.

Chu Tử Thư đi trong hàng ngũ các quan tứ phẩm, nhìn hai vị quyền thần đi xa, ánh mắt cậu phẳng lặng như gương nhưng trong lòng đang ì ầm sóng cuộn. Nếu bây giờ cậu còn là Khởi Cư lang, hôm nay là phiên trực của cậu, thì cậu đã có thể biết Triệu Phụ mật đàm những gì với hai vị tướng công trong điện Thùy Củng!

Nhưng cậu đã không còn ở vị trí đó!

Trong lúc các quan rời khỏi cung, chợt Hữu thị lang bộ Hộ Tần Tự giơ tay hứng, ngạc nhiên thốt lên: "Ơ, sao tự dưng đổ mưa thế này?"

||

Lời tác giả:

Tiểu Thư Lang: Muốn bắt nạt ta hả? Có giỏi thì đạp lên mặt CungTử Phong mà oánh ta đi? Đánh đi, có gan thì nhào vô!

Anh Cunghàng xóm: ...(bắt đầu luyện chữ, trên giấy viết kín bốn chữ – chiều lắm sinh kiêu!)

Chú thích

[1] Gốc là "bàn bàn tọa phân quả quả" – tên một bài hát cho thiếu nhi, các bạn thiếu nhi ngồi vào chỗ xong chia mỗi đứa một quả táo 🤣🤣🤣

------oOo------

Chương 77

Nguồn: EbookTruyen.Net

Ty Độ Chi

Nhớ ra hôm nay cuối tuần, post thêm chap nữa đọc cho vui nhà vui cửa rồi trong tuần lại tích trữ😎

Hè đến, mưa rào sầm sập đến rồi lại hối hả đi.

Sang tháng sáu, thời tiết càng ngày càng khô nóng. Có lẽ năm ngoái ông trời đã làm mưa hết cả phần năm nay, nên mùa hè năm nay nóng bức khủng khiếp. Trong điện Cần Chính, các quan tứ phẩm mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Mỗi tội họ đang ở trong cung, là quan thuộc điện Cần Chính, bắt buộc phải giữ gìn hình ảnh. Dẫu cả người có đầm đìa mồ hôi, các quan cũng không thể cởi phanh quần áo ra cho đỡ nóng, chỉ đành ráng sức chịu đựng.

Chu Tử Thư đọc xong một quyển tấu, suy nghĩ mãi, rồi mới dùng mực xanh lá viết hai hàng chữ nhỏ xuống mép sổ.

Đặt quyển tấu vào chồng tấu chương đã xem xong, Chu Tử Thư lấy quyển khác ra xem. Cậu quệt mồ hôi trên trán, chăm chú đọc.

"Các đại nhân, ăn canh đậu xanh thôi ạ."

Qua giờ trưa, mười mấy sai nha bê những vò canh đậu xanh vào phòng.

Các quan thở phào nhẹ nhõm, bắt đầu ăn canh đậu xanh. Tuy gọi là canh đậu xanh nhưng món này chẳng có tí nước cốt nào, thậm chí còn hơi đắng. Song nắng nóng thế này, có bát canh đậu xanh giải nhiệt là mãn nguyện lắm rồi.

Húp canh đậu xanh xong, Chu Tử Thư tiếp tục làm việc, bỗng có một sai nha cầm khay đến, đặt một tập tấu chương lên bàn cậu.

Sai nha thưa: "Đường đại nhân, theo lệnh của Từ tướng công, từ hôm nay ngài sẽ tập trung xem quân báo Tây Bắc ạ."

Chu Tử Thư ngừng tay, ngẩng lên đáp: "Xin tuân lệnh Từ tướng công."

Đến giờ tan làm buổi tối, Từ Bí gọi Chu Tử Thư qua, hỏi: "Hôm nay đọc quân báo Tây Bắc thấy thế nào?"

Chu Tử Thư cúi đầu, cung kính thưa: "Trước đây hạ quan chủ yếu đọc tấu chương quan lại các nơi gửi về kinh, hôm nay mới làm quen với quân báo Tây Bắc nên chưa quen được ngay ạ. Mong tướng công yên tâm, ngày mai hạ quan nhất định sẽ xử lí ổn thỏa."

Từ Bí cười: "Đường đại nhân từng đi Thứ châu, tận mắt thấy quan đạo Thứ Châu, hẳn ngươi đã biết, xây ba quan đạo không chỉ nhằm mục đích tăng cường buôn bán mà còn để dự phòng cho chiến tranh. Ta nói thế ngươi đừng bất ngờ nhé, chuyện này mọi người ai cũng có phỏng đoán, lẽ dĩ nhiên ta biết ngươi không ngoại lệ. Song, các quan triều ta đều đoán ra, chẳng lẽ người Liêu lại không đoán được? Đầu năm nay, người Liêu đã vi phạm lệnh cấm, một kẻ tự nhận là sơn phỉ nước Liêu đã nhân lúc tối trời, lẻn vào thành

U Châu gây án mạng. Trước tình hình Tây Bắc phức tạp như vậy, quân tình

Tây Bắc càng quan trọng hơn. Ngươi phải nghiền ngẫm cẩn thận."

Chu Tử Thư bình tĩnh nhìn xuống, thưa: "Vâng."

Rời khỏi điện Cần Chính, Chu Tử Thư nhớ lại quân báo Tây Bắc mình vừa đọc hôm nay.

Từ Bí nói không sai, tình hình Tây Bắc năm vừa qua đã trở nên hết sức căng thẳng. Không chỉ ở U Châu mà suốt một dọc biên giới về Đông đến tận Thứ Châu đều xuất hiện tình trạng người Liêu vi phạm lệnh cấm.

Các quan địa phương khi viết tấu trình báo, phần lớn chỉ báo cáo những chuyện lớn ở địa phương. Thậm chí, nhiều quan muốn lấy lòng hoàng đế, viết hẳn một tấu chương gửi vạn dặm đường chỉ để tâng bốc nịnh nọt.

"Nhưng nếu từ giờ mình chỉ đọc quân báo Tây Bắc thì làm sao mà nắm được tình hình ở địa phương nữa?" Chu Tử Thư có chút tư lự.

Không hẳn là tất cả tấu chương địa phương đều được gửi về chỗ cậu.

Nhưng hiện giờ cậu hoàn toàn không được tiếp xúc với bất cứ thông tin gì.

Hành vi của Từ Bí khiến Chu Tử Thư hết sức nghi ngờ, nhưng hiện giờ cậu cũng không tìm được đầu mối gì cả.

Mấy hôm sau, thượng tuần tháng sáu, bản tấu Hữu tướng CungThuyên dâng lên hoàng đế đã có kết quả.

Buổi triều trên điện Tử Thần ngày hai mươi chín tháng sáu.

CungThuyên bước lên khỏi hàng, tâu: "Từ thời tiên đế, quan hệ Đại Tống và Liêu luôn hết sức căng thẳng, chiến tranh liên miên, nhu cầu lương bổng nuôi quân là rất lớn, khiến quốc khố xưa kia trống rỗng trong thời gian dài. Nhưng từ năm Khai Bình thứ mười, Đại Tống ta kí hòa ước với Liêu đến nay đã được mười chín năm, hai nước đều gìn giữ hòa bình, không xâm phạm nhau. Xưa kia, dân chúng phải chịu sưu cao thuế nặng cũng vì chiến loạn. Ngày nay thiên hạ thái bình, đã đến lúc phải có sự thay đổi."

Ông vừa nói xong, có người đã lên tiếng phản bác: "Cungđại nhân nói thế không ổn đâu. Tuy rằng Đại Tống và Liêu mười chín năm nay yên ổn hòa bình, nhưng chưa năm nào người Liêu thôi dòm ngó chúng ta. Người Liêu lòng muông dạ thú, ai mà chẳng biết! Nếu tùy tiện cắt bớt chi phí cho quân đội, đến lúc có biến, ai sẽ gánh hậu quả đây?"

Người phản đối chính là một tướng quân bậc tam phẩm, đứng trong hàng ngũ tướng võ.

Phần lớn võ quan Đại Tống tản ra trấn thủ biên cương và quản lí quân đội từng khu vực. Quan võ ở Thịnh Kinh chủ yếu là những người lớn tuổi, song chính vì thế mà họ chưa bao giờ kiềng nể uy thế của các quyền thần, ngay cả một Tham tướng2 tam phẩm cũng dám thách thức CungThuyên.

[2] Chức quan võ thống lĩnh quân trấn thủ biên giới.

CungThuyên không hề tức giận, ông chỉ hừ một tiếng: "Triệu tướng quân, ta có nói là sẽ cắt giảm lương bổng cho quân tướng đâu?"

Triệu tướng quân: "Ủa, vậy ý ông là gì?"

CungThuyên mặc kệ ông ta, cúi mình hành lễ với Triệu Phụ, tâu rằng:

"Thần xin bệ hạ ban bố hai mươi ba điều sửa đổi thuế ruộng đất của thần!"

Triệu Phụ quan sát CungThuyên và các bề tôi của mình bằng ánh mắt cực kì sâu xa. Sau một lúc, ông ta mới phất tay: "Tuyên."

Đại thái giám Quý Phúc lập tức bước lên, giở một quyển tấu ra, dõng dạc đọc lên.

Hai mươi ba điều sửa đổi thuế ruộng đất!

Mười mấy ngày trước, Hữu tướng CungThuyên đã nhắc đến vấn đề này trong buổi chầu, nhưng đến tận hôm nay, các quan mới biết được hai mươi ba điều ấy là gì!

Cải cách của CungThuyên sẽ thay đổi từ thuế ruộng đất địa phương, bắt đầu từ các cấp thấp nhất và đánh dần lên các địa chủ quý tộc. Ông thẳng tay cắt gọt những mắt xích trung gian rườm rà trong quy trình thu thuế, gần như thu trực tiếp thuế từ địa phương về trung ương, rồi cuối cùng triều đình trung ương sẽ phân chia đồng bộ về các địa phương.

Sau khi Quý Phúc đọc bản sửa đổi thuế ruộng xong, cả triều đình đều choáng ngợp.

Trong quá khứ, thuế địa phương về cơ bản đều được thu về trung ương, rồi trung ương lại phân phát xuống các cấp địa phương. Nhưng chưa có ai thiết kế lại quy trình đấy triệt để và cẩn thận đến mức này!

Nếu quả thật đề xuất này được thực thi, nguồn thu từ thuế của đất nước sẽ sụt giảm, nhưng dân chúng sẽ giàu có hơn. Một khi dân chúng giàu có hơn, quốc khố sẽ lại sung túc trở lại. Vấn đề nằm ở chỗ, đề xuất cải cách thuế này đòi hỏi hiệu suất thu thuế rất cao. Các tỉnh, phủ gần Thịnh Kinh hoàn toàn đáp ứng được, nhưng các địa phương xa kinh thành thì phải làm sao?

Lúc bấy giờ, Tả tướng Kỷ Ông Tập mới bước lên khỏi hàng ngũ: "Hai mươi ba đề xuất sửa đổi thuế ruộng có ưu có khuyết, có thể thực hiện được. Muôn tâu bệ hạ, xin bệ hạ thiết lập lại ty Độ Chi4 để chỉ đạo việc thực thi cải cách ạ!

[4] Ty Độ Chi dưới thời Tống là cơ quan phụ trách quản lí thuế ruộng đất.

Sau khi ông tâu trình, các quan trong điện Tử Thần ồ cả lên.

Mọi người đều ngước nhìn Kỷ Ông Tập đứng đầu bách quan.

Tả tướng Kỷ Ông Tập chính là một nhân vật truyền kỳ.

Kỷ Ông Tập, tự Trùng Minh, là tiến sĩ từ thời tiên đế. Tả tướng thời trẻ khá lận đận, bị tiên đế phái đến Hình châu làm huyện lệnh một huyện khỉ ho cò gáy nào đó suốt sáu năm. Về sau có một năm bộ Công lập công to trong việc sửa trị Hoàng Hà, huyện nơi Tả tướng quản lí thời ấy vừa hay nằm trên tuyến đường quy hoạch công trình của bộ Công. Tả tướng gặp may, nhờ thành tích xuất sắc của bộ Công mà thăng lên ba cấp, trở thành phủ doãn cả một phủ.

Từ khi lên làm phủ doãn, truyền kỳ về Kỷ Ông Tập mới chính thức bắt đầu.

Hình Châu nằm trên dòng chảy sông Hoàng Hà và con sông chảy xuyên qua cả phủ này. Kỷ Ông Tập rất có tài trong việc trị thủy, dưới thời ông, đoạn sông Hoàng Hà ở khu vực Hình Châu chưa bao giờ xảy ra ngập lụt. Dân chúng được yên ổn, cả vùng nghiễm nhiên trở thành một miền đào nguyên. Hình Châu ngày một phồn vinh, sau năm năm, tiên đế cũng phát hiện ra rằng Kỷ Ông Tập khá có tài, bèn điều ông về Thịnh Kinh.

Khi về tới Thịnh Kinh, Kỷ Ông Tập đã bốn mươi tuổi. Năm sau, quân Liêu tấn công, ông đi theo toàn quân lên Tây Bắc đánh giặc.

Cả tiên đế và thủ lĩnh ba quân khi ấy là Từ đại nguyên soái đều không ngờ rằng một thư sinh bốn mươi tuổi lại có tài đánh bại quân Liêu! Tả tướng không có thần binh diệu kế, cũng không làm nên chiến dịch lấy ít thắng nhiều đi vào lịch sử, nhưng ông áp dụng chiến lược đóng vững đánh chắc, dàn đều sức quân để nghênh địch, kiên trì bào mòn dần lực lượng của quân Liêu, lấy ba mươi vạn quân Tống đánh bại năm mươi vạn quân Liêu.

Kể từ ấy, Tả tướng xuất thân hàn môn trở thành tâm phúc của tiên đế.

Tới khi Triệu Phụ lên ngôi, Kỷ Ông Tập cũng nhiều lần lập công. Năm Khai Bình thứ hai mươi mốt, Triệu Phụ phong ông làm Tả tướng, thống lĩnh toàn thể quan lại.

Việc Kỷ Ông Tập đề xuất thiết lập lại ty Độ Chi khiến tất cả các quan đều khiếp sợ, thậm chí có người còn lén nhòm ngó CungThuyên và Thượng thư bộ Hộ Cung Tuấn đứng sau ông không xa.

Ty Độ Chi là cơ quan tài chính bị chính vua Thái Tổ loại bỏ.

Triều đại trước đây cũng có Lục bộ, trong đó có bộ Hộ, nhưng quyền quản lí tài chính toàn quốc không tập trung riêng ở bộ Hộ mà nằm trong tay Tam ty gồm: ty bộ Hộ, ty Diêm thiết, và ty Độ Chi. Bộ Hộ thuộc sự quản lí của ty bộ Hộ, và Tam ty nằm hết dưới quyền Tể tướng. Như vậy, quá nửa quyền lực triều đình rơi vào tay Tể tướng!

Thái Tổ loại bỏ cơ chế Tam ty, nâng cao địa vị Lục bộ, cốt là để làm suy yếu quyền lực của Tể tướng.

Bây giờ Kỷ Ông Tập đột nhiên đề xuất lập lại ty Độ Chi, các quan làm sao mà không hoảng hốt cho được?

Trái lại, phản ứng của Triệu Phụ khá đặc biệt. Ông ta thong thả hỏi Kỷ Ông Tập: "Lí do nào khiến Kỷ tướng đề xuất vậy?"

Kỷ Ông Tập: "Nếu thực thi hai mươi ba cải cách thuế ruộng thì khó khăn lớn nhất nằm ở phương thức cải cách hết sức đặc biệt, đi theo hướng từ dưới lên trên. Từ cổ chí kim, tất cả mọi cải cách đều được thực hiện từ cao xuống thấp, từ số ít đến số nhiều, như thế mới tiện cho việc quản lí. Ngược lại, hai mươi ba cải cách thuế ruộng ưu tiên thay đổi từ cấp hộ dân cực kì đông đúc. Với tính chất ấy, làm thế nào để điều phối việc thu tiền thật chuẩn xác, làm thế nào để xác định được thành quả cải cách thuế, chính là vấn đề quan trọng nhất!

Một người bất ngờ lên tiếng: "Tả tướng muốn mở lại ty Độ Chi, hay mở lại cả Tam ty?"

Người ấy chẳng phải ai khác mà chính là Tả thừa Trần Lăng Hải – cùng phe hàn môn với Kỷ Ông Tập!

Kỷ Ông Tập nhìn ông ta, từ từ phân tích.

Trên triều đình, mọi người bắt đầu tranh luận xôn xao.

Chu Tử Thư là quan tứ phẩm thấp bé nhẹ cân, cuộc tranh luận này không có cửa cho cậu chen vào. Cậu lặng lẽ đứng ở khu vực dưới cùng trong bách quan, chỉ có thể nhìn loáng thoáng lưng bốn vị tướng công và Cung Tuấn từ đằng xa, đến cả mặt Triệu Phụ cậu còn không thấy rõ.

Kỷ Ông Tập muốn xây dựng lại ty Độ Chi, Trần Lăng Hải phản đối, CungThuyên cũng phản đối.

Hiện giờ Thượng thư bộ Hộ là Cung Tuấn, cháu ruột CungThuyên. Thiết lập lại ty Độ Chi tức là Kỷ Ông Tập đang muốn tước bớt quyền lực của Cung Tuấn, CungThuyên đồng ý mới là lạ.

Trên triều, các quan tranh cãi ầm ĩ.

Chu Tử Thư nghe mãi mới phát hiện ra nãy giờ sư huynh mình không nói gì cả. Cậu vô thức rướn cổ lên nhìn Cung Tuấn. Cung Tuấn vẫn giơ cao hốt ngọc, đứng thẳng tắp giữa toàn thể các quan. Đến khi phe Tả tướng và các quan khác cãi nhau quá gay gắt, Triệu Phụ mới hừ một tiếng. Tức thì, các quan im bặt.

Ánh mắt Triệu Phụ lướt qua quần thần rồi dừng lại ở Cung Tuấn. Ông ta cười: "Tử Phong có ý kiến gì không?"

Cung Tuấn tiến lên một bước: "Thần cho rằng, ý của tả tướng có thể thực hiện được."

Chàng vừa dứt lời, Tả thị lang bộ Hộ là Từ Lệnh Hậu và Hữu thị lang Tần Tự đều không tin nổi vào tai mình.

Triệu Phụ bật cười: "Trẫm cũng thấy ý kiến đó khả thi. Trẫm tuyên bố, kể từ hôm nay, ty Độ Chi sẽ được thiết lập lại!"

Năm Khai Bình thứ hai mươi chín, ngày hai chín tháng sáu, Tả tướng Kỷ Ông Tập mở lại ty Độ Chi.

Mùng một tháng bảy, Hữu tướng CungThuyên thi thành hai mươi ba điều cải cách thuế ruộng. Các tỉnh, phủ trong khu vực Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ là những nơi đầu tiên tiến hành cải cách.

Ty Độ Chi được mở lại, rất cần bổ sung nhân lực mới.

Nhiều người Chu Tử Thư quen đã được triệu tập về ty Độ Chi, ví dụ như Trạng Nguyên Diêu Thiện – đỗ cùng khóa với Chu Tử Thư, hay bạn thân ở Quốc Tử Giám của Chu Tử Thư là Mai Thắng Trạch.

||Chú thích

Món này là Lục đậu thang tức đậu xanh nguyên vỏ nấu với nước đến khi nhừ hạt đậu thì thêm chút đường. Còn chè đậu xanh là Lục đậu sa (lục tàu xá).

Đoạn này có thể hơi khó hiểu nhưng các chương sau tác giả sẽ giải thích cụ thể hơn. Giả sử dùng tiền đồng thu thuế mà có đến 5 loại thuế thì trước hết phải thu ở làng, làng tổng kết xong lại nộp lên huyện, rồi huyện lên tỉnh, v...v... vận chuyển tiền đồng rất tốn thời gian, công sức. Khan hiếm tiền kim loại càng khiến việc thu thuế diễn ra chậm hơn. Nếu chuyển giấy (kiểu ngân phiếu chẳng hạn) và giảm bớt loại thuế cho dân, thì nhanh và bảo đảm hơn nhiều (bọn cướp có cướp giấy ghi tổng thuế của một tỉnh thì cũng không tiêu được), nhưng cần phải giám sát chặt để chắc chắn là các địa phương không gian lận.

Đoạn này tác giả viết là Nguyên Tu nhưng về sau lại viết là Trùng Minh. Xét thấy số lần dùng Trùng Minh nhiều hơn nên mình sẽ để là Trùng Minh. Bao giờ nhờ check được bản xuất bản hoặc có raw xuất bản thì sửa lại sau. Mạc đến cuối còn não cá vàng đến mức viết Chu Tử Thư thành Bảng Nhãn cơ.

------oOo------

Chương 78

Nguồn: EbookTruyen.Net

Phú khế*

Phú là thuế ruộng đất

Diêu Thiện vốn là Khởi Cư lang ngũ phẩm, sau khi được điều sang ty Độ Chi thì trở thành Trung Tán đại phu ngũ phẩm. Ngoài mặt phẩm cấp không tăng, nhưng mọi người đều biết đây là thử thách của Triệu Phụ dành cho Diêu Thiện. Bao giờ Diêu Thiện lập công ở ty Độ Chi, anh ta sẽ lập tức thăng tiến, tiền đồ vô lượng.

Mai Thắng Trạch cũng chuyển từ U Châu về ty Độ Chi làm Trung Tán đại phu. Cả hai đều là Trung Tán đại phu, nhưng Mai Thắng Trạch là quan dưới quyền Diêu Thiện, Diêu Thiện là thượng cấp trực tiếp của Mai Thắng Trạch.

Mai Thắng Trạch vừa về kinh, Chu Tử Thư liền rủ anh đến lầu Tế Hà gặp mặt ngay. Diêu Thiện cũng ghé thăm cùng.

Ba tiến sĩ cùng khóa hân hoan thưởng thức bát hà cung, uống rượu sake ở lầu Tế Hà.

Được ba tuần rượu, Chu Tử Thư nói: "Ty Độ Chi là nha môn từ triều đại trước, chưa bao giờ hoạt động dưới triều đại chúng ta. Bây giờ lập lại, cũng chưa rõ chức năng thế nào. Diêu huynh, Thắng Trạch huynh, mấy hôm vừa rồi hai huynh đã báo danh ở nha môn ty Độ Chi, thế hiện giờ hai người lĩnh nhiệm vụ gì?

Chuyện này không phải thông tin cơ mật. Ty Độ Chi không thuộc hoàng thành và không phải tổ chức đặc nhiệm thân tín của hoàng đế. Các quan trong ty không cần phải e ngại khi chia sẻ với người khác về công việc của mình. Diêu Thiện và Mai Thắng Trạch không nói, Chu Tử Thư cũng có cách tìm hiểu, chỉ phiền phức hơn thôi.

Diêu Thiện chẳng vòng vo, anh ta làm hớp rượu rồi nói: "Tạm thời chưa có việc gì hết. Cảnh Tắc này, anh là anh ngưỡng mộ cậu lắm đấy! Cậu mới thăng lên làm Khởi Cư lang một thời gian đã trở thành Trung Thư xá nhân rồi. Hôm nay xem ra, Trạng nguyên như anh còn không bằng cậu! Mặc dù vậy, trọng trách của ty Độ Chi rất vĩ đại, ích nước lợi dân." Nói đến đấy, hai mắt Diêu Thiện tỏa sáng, trông anh khí phách như thể đang nói về một nghĩa cử hết sức cao cả, "Ta chỉ có thể nói rằng, ấy là một việc vô cùng tốt đẹp, nhưng cũng đầy thách thức."

Mai Thắng Trạch nghe Diêu Thiện nói thế thì cười: "Xem ra Diêu huynh biết nhiều hơn ta rồi. Còn ta thì cứ như xẩm sờ gậy, cái gì cũng chẳng hay. Diêu huynh dù sao cũng là Khởi Cư lang, cận kề bên thánh thượng, biết thêm chút tin tức cũng dễ hiểu."

Chu Tử Thư nói: "Uống rượu nào, chúc hai vị huynh trưởng bay xa vạn dặm!"

"Cạn chén!"

Ba người cùng đánh chén say sưa.

Chu Tử Thư đặt chén rượu xuống, trong lòng đã có suy tính riêng.

Dựa trên những gì Diêu Thiện tiết lộ, cậu có thể phỏng đoán được phần nào nhiệm vụ của ty Độ Chi.

Công việc của ty Độ Chi nhất định có liên quan đến tiền giấy!

Diêu Thiện là Khởi Cư lang, tuy hôm Triệu Phụ truyền Kỷ Ông Tập và CungThuyên đến điện Thùy Củng không phải phiên trực của anh ta, nhưng vấn đề chuyển đổi sang tiền giấy không thể nào chỉ thương lượng một buổi là xong. Triệu Phụ nhất định sẽ bàn bạc chuyện này vài lần với các đại thân trong triều. Vì thế, việc Diêu Thiện nghe ngóng được cũng chẳng có gì vô lí.

Nói tóm lại, với tình hình Đại Tống hiện giờ, sự xuất hiện của tiền giấy có phải là một bước ngoặt lí tưởng không?

Chắc chắn đó là một bước phát triển trọng đại.

Chu Tử Thư thở dài: Quả nhiên, rất có thể CungThuyên đã lên kế hoạch cải tổ chế độ thuế khóa của Đại Tống thông qua hai mươi ba điều sửa đổi thuế ruộng bấy lâu nay. Nhưng hiện tại, ông muốn mượn cải cách ấy để phổ biến tiền giấy hơn.

Chỉ tiếc cậu không biết họ sẽ làm gì thôi.

Mai Thắng Trạch: "Lại nói, dù Diêu huynh không tiết lộ, ta cũng biết, việc mà ty Độ Chi làm cực kì quan trọng. Cảnh Tắc có biết hôm qua ta thấy ai ở nha môn ty Độ Chi không?"

Chu Tử Thư: "Ai thế?"

Mai Thắng Trạch: "Tham tri Chính sự Môn Hạ tỉnh, Triệu Tĩnh – Triệu đại nhân!"

Chu Tử Thư và Diêu Thiện đều choáng váng.

Diêu Thiện lập tức đặt chén rượu xuống: "Triệu Tham tri đến ty Độ Chi ư?

Thế chẳng phải, ty Độ Chi sẽ do ông ấy dẫn dắt à?"

"Nếu không thì làm sao ta gặp Triệu Tham tri ở ty Độ Chi được?"

Diêu Thiện cảm khái: "Quả nhiên là việc trọng đại!"

Triệu Tĩnh là Trạng Nguyên năm Khai Bình thứ ba. Năm nay ông đã bốn mươi bảy tuổi.

Xét về phẩm cấp thì Triệu Tĩnh giống Cung Tuấn, đều là quan lớn, nhưng quyền lực của Môn Hạ tỉnh hơi lép vế so với Trung Thư tỉnh. Cung Tuấn là Thượng thư bộ Hộ, kiêm nhiệm chức vụ ở cả Thượng Thư tỉnh và Trung Thư tỉnh, về mặt thực quyền thì vị thế của chàng nhỉnh hơn Triệu Tĩnh.

Nhưng nếu Triệu Tĩnh trở thành Ty Không của ty Độ Chi thì cũng tương đương với việc san sẻ một phần quyền lực của Cung Tuấn. Bước tiến này sẽ đưa Triệu Tham tri lên nắm quyền lớn trong triều.

Bên cạnh đó, Triệu Tĩnh còn một thân phận nữa. Ông ta là môn sinh tâm đắc của Tả tướng Kỷ Ông Tập và cũng là một phần tử trung kiên của phe Tả Tướng.

Tả tướng dốc lòng đề xướng tái thiết ty Độ Chi, việc ông cất nhắc Triệu Tĩnh làm Ty Không là quá hợp tình hợp lý.

Trong lúc Diêu Thiện và Mai Thắng Trạch bận thảo luận tình hình ty Độ Chi, Chu Tử Thư nhíu mày, lòng đầy suy tư.

Những chuyện lớn trên triều đình, đâu có phần của hàng tứ phẩm, ngũ phẩm ruồi muỗi bọn họ.

Vài ngày sau, Triệu Phụ bổ nhiệm Tham tri Chính sự Môn Hạ tỉnh Triệu Tĩnh làm Ty Không ty Độ Chi. Cùng lúc đó, chính thức tiến hành áp dụng chế độ thuế ruộng mới ở Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ. Phía bộ Hộ, Hữu thị lang Tần Tự được điều sang ty Độ Chi, kiêm nhiệm chức Chính phụng Đại phu, giúp bộ Hộ và ty Độ Chi phối hợp với nhau.

Tháng tám, Diêu Thiện và Mai Thắng Trạch bị phái đến Nam Trực Lệ để giám sát quan phủ thực thi hai mươi ba điều cải tổ.

Rằm tháng tám, Triệu Phụ tu tiên trong đài Đăng Tiên xong thì ra ngoài cửa cung. Ông ta ngẩng đầu nhìn vầng Tuấng tròn vành vạnh trên trời, đột nhiên cảm thấy cơ thể già yếu bấy nay của mình như được thổi một luồng sinh khí mạnh mẽ. Ông ta dừng bước, nói với Quý Phúc ở bên: "Đã bao lâu rồi trẫm chưa làm nên đại sự thế này nhỉ?" Đại sự?

Đại sự gì cơ?

Quý Phúc đần mặt, lão chẳng tài nào hiểu nổi hoàng đế đang nói gì!

Nhưng dù gì lão cùng là thân tín của Triệu Phụ suốt bao năm nay, Quý Phúc lựa lời mà nói: "Quan gia ngày ngày vất vả lo việc nước, thức khuya dậy sớm, mới có Đại Tống hùng mạnh như ngày hôm nay ạ!" Triệu Phụ lặng thinh, lắc đầu.

Quý Phúc biết mình bắt trượt ý đồ của Triệu Phụ rồi, nhưng lão còn cách nào khác đây, không nói sai đã là tốt lắm rồi.

Triệu Phụ thở dài: "Nếu có Tử Phong ở đây thì hắn đã hiểu trẫm đang nói gì rồi. Hoặc Phỉ Nhiên, hắn cũng sẽ hiểu!" Không nhắc đến mấy tướng công trong triều là vì Triệu Phụ lười nhắc tên bọn họ. Mấy con cáo già ấy, ai chẳng có chủ kiến riêng, Triệu Phụ không ưa cho lắm, nhưng rất nể trọng họ.

Khi ra khỏi đài Đăng Tiên, Triệu Phụ bỗng nghĩ: "Nếu Cảnh Tắc ở đây, có khi nào cậu ta cũng hiểu ý trẫm?"

Suy nghĩ một lát, Triệu Phụ cười: "Chí ít cậu ta biết dỗ thế nào cho trẫm vui lòng!"

Trong giây lát ấy, bỗng dưng Triệu Phụ nảy sinh ước muốn triệu Chu Tử Thư về. Chu Tử Thư bây giờ là Trung Thư xá nhân tứ phẩm, cậu không phạm tội gì, Triệu Phụ chẳng có lí do gì giáng cậu xuống thành Khởi Cư lang ngũ phẩm để đưa cậu về bên mình cả. Nhưng trên đời chỉ có chuyện hoàng đế muốn làm chứ chẳng có chuyện hoàng đế không làm được. Huống hồ, Triệu Phụ không phải ông vua bù nhìn mặc người ta xoay ngang xoay dọc. Ông ta mà đã muốn lôi Chu Tử Thư về thật, thì chẳng cần Chu Tử Thư mắc lỗi, dù cậu lập công to, Triệu Phụ cũng có cách thuyên chuyển cậu về chỗ mình.

Nhưng ý định ấy chỉ thoáng qua trong đầu Triệu Phụ như một cái chớp mắt rồi bị gạt đi ngay.

Không cần thiết. Ở vị trí hiện giờ, Đường Cảnh Tắc mới càng phát huy tác dụng của cậu ta.

Mà lúc này, vị đại nhân họ Đường giỏi dỗ dành và phỉnh nịnh hoàng đế hiện đang ngồi nhà xơi bánh trung thu thời cổ đại, vừa ngắm Tuấng vừa suy tư về hướng đi gần đây trên triều đình. Cậu nào có biết, suýt chút nữa mình đã bị Triệu Phụ giáng một cấp, bắt về cung làm Khởi Cư lang!

Nhưng Đường đại nhân càng nghĩ càng bí. Cậu có còn là Khởi Cư lang được cận kề hoàng đế nữa đâu, giờ cậu chỉ là Trung Thư xá nhân dưới quyền Từ Bí thôi!

Từ Bí chỉ cho cậu xử lí tấu chương gửi đến từ Tây Bắc, còn tấu chương từ

Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ không hề đến tay cậu. Cậu có muốn biết chuyện gì đang xảy ra trên triều đình cũng không có cách.

Cậu còn một cách là đi hỏi Cung Tuấn, nhưng dạo này CungTử Phong bận không thấy mặt mũi tăm hơi đâu. Buổi tối hai hôm trước, Chu Tử Thư có đến phủ Thượng thư tặng bánh trung thu. Cậu đợi mãi đến khuya vẫn không thấy Cung Tuấn về nhà, đành gửi lại bánh rồi cáo từ.

Nếu không biết Đại Tống có lệnh giới nghiêm và cấm các quan qua đêm với kĩ nữ, khéo Chu Tử Thư đã ngờ rằng sư huynh mình đang thậm thụt chuyện gì!

Chu Tử Thư đắm mình trong ánh Tuấng, thầm nghĩ: "Hai tháng trước, hoàng đế triệu kiến Kỷ Ông Tập và CungThuyên cùng lúc, chắc hẳn đã quyết tâm giao phó cho họ việc sử dụng giấy làm tiền tệ. Kỷ Ông Tập lập lại ty Độ Chi, mượn cớ thúc đẩy tiền giấy, nhưng thực chất là muốn phân quyền, nhân việc này làm suy yếu bộ Hộ." Nghĩ đến đây, Chu Tử Thư lại càng tư lự.

... Mọi chuyện có thật thế không?

Việc đưa ty Độ Chi trở lại liệu có phải mưu kế Triệu Phụ đã sắp sẵn?

Quan điểm của Triệu Phụ với việc chuyển đổi sang tiền giấy là như thế nào?

Hồi lâu sau, Chu Tử Thư ngửa mặt lên trời thở dài.

Cậu chỉ là một sinh viên bách khoa thôi, tại sao bắt cậu suy nghĩ những chuyện này chứ!

Không nghĩ ra, Chu Tử Thư liền vứt đấy.

Hết tháng tám, sang tháng chín, cải cách thuế ruộng ở Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ bắt đầu thu về hiệu quả đáng kể.

Việc giảm bớt những loại thuế chồng chéo, ngặt nghèo khiến dân chúng có khoảng trống để thở, cũng khiến tổng thu ngân sách của hai địa phương giảm thiểu đôi chút. Nhưng dựa theo hai mươi ba điều sửa đổi về thuế ruộng, ty Độ Chi phối hợp chặt chẽ với bộ Hộ, giám sát nghiêm ngặt nha môn phủ doãn hai khu vực Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ, cắt giảm các khâu trung gian trong quá trình thu thuế. Cuối cùng, tiền thuế thu về Thịnh Kinh không hề giảm mà còn dôi ra so với năm ngoái.

Tuy con số ấy là rất nhỏ, không đáng kể, nhưng lên triều, Hữu tướng CungThuyên đã nói luôn: "Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ giáp với Thịnh Kinh, cải cách thuế ruộng ở hai khu vực này mới chỉ cho thấy thành quả ban đầu. Nếu muốn thấy hiệu quả rõ rệt, cần phải mở rộng cải cách này ra những địa phương xa hơn, đến Ninh Châu ở phía Đông Bắc và Kim Lăng, Cô Tô ở vùng Giang Nam."

CungThuyên nói xong, Triệu Phụ bảo ngay: "Sang năm, hãy thi hành cải cách thuế ruộng ở Giang Nam. Cungtướng, ông có làm hộ trẫm được không?"

CungThuyên vái dài: "Thần quyết không nhục mệnh."

Giữa hàng ngũ quan văn, chợt có một vị quan trung niên với chòm râu rất đẹp tiến lên thưa: "Thần – Tham tri chính sự Triệu Tĩnh, có việc khởi tấu ạ."

Triệu Phụ: "Nói đi."

"Trong quá trình làm việc trực tiếp với cải cách lần này, thần vui mừng khôn xiết khi thấy cải cách thuế được thực thi vô cùng thuận lợi ở hai vùng Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ. Nhưng cũng theo quan sát thực tế của mình, thần phát hiện, để tăng tốc độ và hiệu quả cải cách thuế ở những khu vực gần Thịnh Kinh thì không khó, nhưng nếu mở rộng ra toàn quốc, đưa cải cách đến miền Giang Nam thì nan giải hơn nhiều. Thần đã soạn một bản tấu ở đây, xin được trình lên để bệ hạ duyệt."

Đại thái giám Quý Phúc bước xuống thềm điện, lấy cuốn sổ nhỏ trong tay Triệu Tĩnh.

Triệu Phụ mở sổ tấu ra đọc. Ánh mắt ông ta dao động đôi chút, được một lúc lâu, ông tỏ ra hết sức ngạc nhiên và hiếu kì. Ông ta hỏi Triệu Tĩnh: "Triệu khanh hãy nói cho trẫm biết, 'phú khế' là như thế nào?"

Năm Khai Bình thứ hai mươi chín, mùng bốn tháng chín, Triệu Phụ cho phép Tham Tri chính sự Triệu Tĩnh tiến hành cải cách phú khế ở khu vực Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ.

"Phú khế", tức là khế ước thuế ruộng.

Hai mươi ba cải cách thuế ruộng của CungThuyên tập trung cắt giảm lãng phí trong khâu quản lí ở các mắt xích trung gian của quá trình thu thuế. Dựa vào đó, Triệu Tĩnh đề xuất "phú khế." "Phú khế" chỉ đơn giản là những tờ giấy mỏng có dấu và chữ kí của các quan ở cấp thấp nhất. Những tờ giấy này sẽ được dùng để trình báo thuế lên các cấp cao hơn. Quan lại ở từng cấp đều kí tên, đóng dấu, đến khi thu về Thịnh Kinh, Trung Thư tỉnh sẽ biết thuế ruộng ở các địa phương trong quý này là bao nhiêu.

Dựa trên con số đó, bộ phận Trung Thư tỉnh tại điện Cần Chính sẽ họp và quyết định cách phân phối lượng thuế này. Sau khi có quyết sách, địa phương sẽ giữ lại một phần thuế được phân cho và nộp phần còn lại lên các cấp trên để chuyển về Thịnh Kinh.

Làm như thế sẽ giảm bớt được rất nhiều sức người và tiền của trong quá trình vận chuyển thuế.

Lúc này, một số vị quan nhạy bén đã đánh hơi được sự bất thường ở cái tờ "phú khế" nho nhỏ này.

"Phú khế chẳng phải là lấy giấy thay tiền đó sao?"

||

Chương sau: Anh em chúng nó bênh nhau, thầy dỗi!

Lời tác giả:

Có người bảo anh Cungbị xén bớt quyền lực, khổ thân quá ~

Tui chỉ biết nói rằng, dù thế nào đi chăng nữa, mọi người đều phải tin vào anh Cung~ anh Cungcủa chúng ta tuy còn trẻ nhưng tác giả mẹ ruột ban cho ảnh bàn tay vàng, ảnh không đời nào bị các cụ quẩy lão thành cho vào tròng đâu!

Anh Cunghàng xóm: Ồ? Không bị quẩy già cho vào tròng, thế có bị quẩy bé bỏng cho vào tròng không?

Quẩy bé bỏng Cảnh Tắc: Hứ? Bị ta cho vào tròng, huynh không hài lòng ư?

Anh Cunghàng xóm: Còn tùy "cho vào tròng" kiểu gì đã. (cười)

*quẩy là từ lóng chỉ người khôn khéo, vì quẩy thì mỡ, trơn.

------oOo------

Chương 79

Nguồn: EbookTruyen.Net

Phó khảo thi Hội

Tháng Giêng năm Khai Bình thứ ba mươi.

Vừa sang năm mới nhưng các quan Thịnh Kinh không có lấy một ngày nghỉ hẳn hoi. Năm nay khác năm ngoái, ty Độ Chi vừa mở lại, thuế ruộng đất đang được cải cách, thành ra các quan kinh thành bận rối rít tít mù. Tết năm ngoái bộ Lại cho nghỉ đến hơn hai mươi ngày, năm nay rút ngắn lại chỉ còn chưa đến mười ngày thôi.

Chu Tử Thư cũng không về được Cô Tô.

Mùng hai tháng Giêng, Chu Tử Thư mang mấy hòm quà Tết đến Phó phủ. Phó Vị đang dở tay tưới hoa.

Cả thành Thịnh Kinh, quan lại từ ngũ phẩm trở lên đều đang bận đến ốm cả xác, làm thâu đêm suốt sáng không xong việc. Chỉ mình Phó Hi Như mới đủ rảnh rỗi để mà tưới hoa giờ này!

Chu Tử Thư bước đến chỗ Phó Vị: "Con chào tiên sinh."

Phó Vị chẳng buồn quay đầu lại, vừa rẩy nước lên hoa vừa bảo cậu: "Năm nay đến sớm ghê ha! Cảnh Tắc à, buổi trưa đừng về, ở lại mà ăn cơm. Sư huynh con cũng đến đấy." Chu Tử Thư gật đầu.

Cung Tuấn còn bận hơn cả Chu Tử Thư.

Tết này Chu Tử Thư chí ít còn được nghỉ mười ngày. Cung Tuấn quyền cao chức trọng, là Thượng thư bộ Hộ; cả ty Độ Chi lẫn việc cải cách thuế ruộng đều có quan hệ mật thiết với chàng. Chính vì vậy, chàng chẳng ngơi ra được phút nào. Đến trưa, Cung Tuấn mới đến, tuy muộn nhưng rất ung dung. Chàng chúc Phó Vị năm mới an khang.

Ba thầy trò ăn cơm trong phòng. Phó Vị chỉ Cung Tuấn, bảo Chu Tử Thư: "Con trông sư huynh con này, mới có hai mươi tám cái xuân xanh thôi mà cư xử như một lão già. Nó vẫn ôm mộng phấn đấu lên làm Thừa tướng trước tuổi ba mươi đấy, nghĩ mình sống thọ lắm đây mà, xài hao bớt vài năm cũng không đáng kể."

Cung Tuấn thong thả gắp một con tôm, làm như chẳng nghe thấy Phó Vị nói gì cả.

Chu Tử Thư nhẹ nhàng liếc chàng, bảo: "Sư huynh bận việc triều đình, sao tiên sinh lại nói huynh ấy thế."

Phó Vị mắt tròn mắt dẹt, hết nhìn Chu Tử Thư rồi lại nhìn Cung Tuấn: "Ô hay, sao giờ ta mới phát hiện, hôm nay sư huynh đệ hai đứa bây hùa nhau bắt nạt thầy luôn? Này CungTử Phong, con dụ dỗ tiểu sư đệ con từ hồi nào, để bây giờ nó bênh con chằm chặp thế hả?!"

Chu Tử Thư nghĩ thầm: Từ hồi con đến Thịnh Kinh, bài vở toàn CungTử

Phong dạy, làm quan thì CungTử Phong dìu dắt. Thậm chí đi thi, CungTử Phong còn đến tận cổng trường thi đón con về. Con đứng về phe sư huynh thì đã làm sao?

Cung Tuấn để đũa xuống, thản nhiên nói: "Trong lòng tiểu sư đệ có con, tiên sinh ghen tị làm cái gì."

Chu Tử Thư: "...?" Câu này cứ là lạ thế nào ý nhỉ.

Phó Vị sửng sốt, ông ngó Cung Tuấn lom lom, hừ một tiếng: "Học trò đủ lông đủ cánh, chẳng thiết chi đến thầy."

Chu Tử Thư phải dỗ mãi Phó Vị mới xuôi.

Cơm nước xong, Cung Tuấn về nha môn bộ Hộ làm việc tiếp. Chu Tử Thư ở lại chơi, ăn bữa chiều nữa rồi mới về nhà.

Trước khi đi, Phó Vị do dự chốc lát rồi mới dặn dò cậu trò nhỏ: "Cảnh Tắc này, đừng có cái gì cũng tin sư huynh con đấy nhé."

Đây không phải lần đầu tiên Chu Tử Thư nghe câu này. Bốn năm trước,

Lương Tụng đã dặn y như thế trong thư. Hôm nay Phó Vị nhắc lại, Đường

Thận thầm cảnh giác, vâng dạ ngay: "Học trò nhớ rồi ạ." Đến khi ra khỏi Phó phủ, Chu Tử Thư mới thở dài: "Các thầy đều dặn mình không được tin tưởng tuyệt đối vào CungTử Phong, nhưng lúc nào nên tin huynh ấy, lúc nào không nên tin huynh ấy, sao các thầy không nói cho con biết chứ!"

Mùng bảy tháng Giêng, chưa đến tết Nguyên Tiêu, Chu Tử Thư đã trở lại điện Cần Chính làm việc.

Hôm sau, Từ Bí gọi cậu sang phòng. Từ Bí ngồi trên ghế Thái sư, nhàn nhã uống trà. Thấy Chu Tử Thư đến, ông cười hiền từ: "Ta nhớ, Đường đại nhân là Thám hoa năm Khai Bình thứ hai mươi bảy nhỉ."

Chu Tử Thư đáp: "Bẩm đại nhân, đúng là hạ quan đỗ Thám hoa cách đây ba năm ạ."

"Chớp mắt đã ba năm rồi, lại đến kỳ thi mùa xuân." Từ Bí cảm khái, "Hôm nay gọi ngươi đến là để giao việc đây. Tháng sau thi Hội, Chu Đại học sĩ của viện Hàn Lâm đã chọn ngươi làm Phó khảo."

Chu Tử Thư hốt hoảng: "Đại nhân?"

Từ Bí cười: "Ngươi đừng ngạc nhiên quá. Thi Hội khác với thi Hương. Cứ ba năm một lần đến kì thi Hội, cử nhân toàn cõi Thần châu Cửu địa đều đổ về Thịnh Kinh thi, có đến hơn vạn người. Chủ khảo thi Hội chỉ có một – là đương kim thiên tử. Các ngươi đều là Phó khảo thôi, tính ra phải đến hơn mười người. Viện Hàn Lâm không sức đâu mà gồng gánh hết, khoa thi trước cũng phải điều thêm quan viên từ các nha môn khác sang."

Chu Tử Thư sinh lòng hoài nghi, nhưng cậu không biểu hiện ra ngoài, chỉ tỏ ra xúc động rưng rưng: "Hạ quan nhất định sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ!"

Từ Bí cười: "Vậy cứ thế nhé."

Không lâu sau khi Chu Tử Thư ra về, một người đàn ông trung niên tầm ba mươi tuổi, để râu, bước vào gian nhà. Người ấy tướng mạo sáng sủa, rắn rỏi, kiên nghị. Đến trước mặt Từ Bí, anh ta cung kính vái chào: "Bái kiến tiên sinh."

Từ Bí ra hiệu cho anh ta: "Ngồi đi."

Dư Triều Sinh khom người kính cẩn, lùi về ngồi ở chiếc ghế bên cạnh. Xong xuôi, anh ta mới ngẩng lên nhìn thầy mình.

Từ Bí nói: "Hiến Chi, năm nay con vừa hồi kinh. Theo cảm nhận của con, tình hình ở kinh hiện tại thế nào?"

Dư Triều Sinh trình bày rất tỉ mỉ: "Học trò về kinh đã hơn một tháng, hôm nay mới làm việc ở bộ Lại xong, quả thực con thấy rất khác so với hồi sáu năm trước. Xa xôi chưa bàn đến, ngay gần đây có chuyện ty Độ Chi thực hiện cải cách thuế ruộng, các quan trong triều cộng tác, phối hợp với nhau rất sôi nổi, khiến học trò kính phục xiết bao." Đoạn anh ta chuyển chủ đề, "Kỷ đảng tuy mỏng nhân lực, nhưng mạnh vì có Kỷ tướng ra sức chèo chống, một mình ngài ấy đã nắm bao nhiêu quyền bính rồi. Cungđảng nhân tài nhiều như măng mọc, hệt như CungTử Phong, không thể khinh thường. Mỗi tội, học trò trộm nghĩ, trong việc ty Độ Chi, Kỷ tướng đã hơi nóng vội. Có CungTử Phong, Đường Cảnh Tắc, hai năm gần đây Cungđảng lên như diều gặp gió, Kỷ tướng chưa suy nghĩ kỹ càng đã mở lại ty Độ Chi, nếu có tai họa ập đến, e là không xong ạ."

Từ Bí nhấp một ngụm trà: "Lúc con mới vào có thấy Đường Cảnh Tắc không?"

"Con có thấy Đường đại nhân từ xa, nhưng cậu ta không thấy con."

"Chu Cẩn đã điều cậu ta đi làm Phó khảo kì thi Hội tháng hai năm nay đấy."

Dư Triều Sinh giật mình: "Tiên sinh?!"

"Hiển nhiên ấy chẳng phải chủ định của Chu Cẩn, mà do Phó Vị giật dây sau lưng. Phó Vị để học trò mình có mặt ở kì thi Hội, tức là ông ta đang âm mưu thực hiện điều gì đó, hay nói đúng hơn là, sẽ có vấn đề phát sinh trong thời điểm thi Hội diễn ra." Từ Bí thở dài: "Con cũng tham gia làm Phó khảo thi Hội lần này đi. Nếu Chu Cẩn đã mượn danh nghĩa của ta để điều nhiệm Đường Cảnh Tắc, thì điều một người hay hai người cũng thế. Con hãy đi cùng cậu ta đến trường thi Hội."

"Vâng."

Kì thi Hội năm Khai Bình thứ ba mươi lấy Thượng thư bộ Lại Thẩm Vận làm chủ khảo, Chu Đại học sĩ viện Hàn Lâm phụ trợ. Đêm trước kì thi Hội, hơn mười viên quan tiến vào trường thi Thịnh Kinh, trèo lên lầu Minh Viễn. Đứng trên lầu Minh Viễn cao chót vót, tầm nhìn bao quát hết xung quanh, Chu Tử Thư thấy hơn một vạn cử nhân chen chúc ngoài trường thi Thịnh Kinh chờ đến giờ nhập trường.

Canh giờ đã điểm, sai nha mở rộng cửa cho thí sinh vào trường. Lớp lớp thí sinh tràn vào qua cửa, chính thức bước vào trường thi.

Trong các giám khảo thi Hội năm nay, Chu Tử Thư là người trẻ tuổi nhất. Nhìn các học trò bên dưới khiến cảm xúc trào dâng trong lòng cậu. Nhưng cậu chưa bồi hồi được bao lâu đã thấy một bóng người lướt qua khóe mắt.

Chu Tử Thư bước tới chào hỏi: "Hóa ra là Dư đại nhân."

Dư Triều Sinh trong bộ quan phục quay lại, chắp tay thi lễ với Chu Tử Thư trước mặt mình: "Đường đại nhân."

Chu Tử Thư cười: "Nghe nói Dư đại nhân vừa được thuyên chuyển từ Qua Châu1 về Thịnh Kinh tháng trước, không biết đại nhân thích nghi với thời tiết khô hanh, rét mướt ở miền Bắc thế nào? Hạ quan là Trung Thư xá nhân dưới quyền Từ tướng công, đã từng nghe Từ tướng công nhắc đến Dư đại nhân. Trăm nghe không bằng một thấy. Vừa gặp gỡ, hạ quan đã biết Dư đại nhân là người phi phàm."

[1] Thuộc vùng Cam Túc, thời tiết khắc nghiệt

Chu Tử Thư tán tụng lên tận mây xanh, Dư Triều Sinh đương nhiên cũng có qua có lại: "Ta cũng từng nghe tiên sinh kể về Đường đại nhân..." Hai người tâng bốc nhau xong rồi lại tách ra.

Chu Tử Thư thu nét cười, nhíu mày.

Dư Triều Sinh là học trò cưng của Từ Bí, cũng là Bảng Nhãn năm Khai

Bình thứ mười tám. Nếu chỉ giới thiệu như vậy e là chưa đủ để làm nổi bật thân phận của người này. Phải bổ sung rằng, Trạng nguyên năm Khai Bình thứ mười tám họ Vương, tên Tuấn, tự Tử Phong. Chỉ cần nói thế, các quan Thịnh Kinh sẽ nhớ ngay anh ta là ai.

Năm Khai Bình thứ mười tám, Cung Tuấn kiệt xuất hơn người, được Triệu Phụ đích thân ban tặng bốn chữ "Trạng Nguyên vô song." Một mình chàng dư sức đè bẹp ba trăm tiến sĩ vinh hiển của khoa thi năm ấy. Tài năng của Dư Triều Sinh hoàn toàn có thể giúp anh ta đoạt ngôi Trạng Nguyên ở một kì thi khác, nhưng éo le thay, anh ta lại thi cùng khoa với CungTử Phong, nên đành phải chịu kiếp hẩm hiu kém nổi bật.

Sau khi đỗ Bảng Nhãn được vài năm, Dư Triều Sinh được điều đi nơi khác nhậm chức, đến cuối năm ngoái Triệu Phụ mới gọi anh ta về kinh.

Hiện giờ Dư Triều Sinh làm quan ở bộ Lại, giữ chức Hữu thị lang, bậc tam phẩm.

Chủ khảo năm nay là Thượng thư bộ Lại Thẩm Vận, nên việc Dư Triều Sinh được phân làm Phó khảo nhiều khả năng do Thẩm Vận chỉ định. Song Chu Tử Thư nghĩ: Có khi nào đây là ý đồ của Từ Bí không?

Dư Triều Sinh vừa mới đến bộ Lại, rõ mười mươi là người phe Từ Bí. Trong khi đó, Thẩm Vận thiên về Trần đảng hơn vì ông ta là đồng môn thân thiết của Tả thừa Trần Lăng Hải. Việc ông ta đề bạt một người thuộc phe Từ Bí, trao cơ hội cho Dư Triều Sinh là hoàn toàn không cần thiết.

Như vậy, tại sao Từ Bí lại đưa học trò của mình đến kì thi Hội?

Chu Tử Thư nắm chặt tay, ra sức động não.

Cậu vốn không quen biết gì với Chu Đại học sĩ – Chu Cẩn. Chu Đại học sĩ không tự dưng chỉ định cậu làm Phó khảo, chuyện này ắt có bàn tay của Thừa chỉ viện Hàn Lâm Phó Vị, tức thầy mình. Nhưng Phó Vị lâu nay tránh xa triều chính, an phận với vai trò cán bộ lão thành về hưu. Mặc dù ông hoàn toàn có thể đề bạt học trò của mình làm Phó khảo thi Hội bất chấp Chu Tử Thư mới làm quan được ba năm, nhưng Chu Tử Thư biết, Phó Vị không phải người như thế.

Thế nên...

Chỉ có thể là ý đồ của CungTử Phong!

Chính CungTử Phong mới là người cố tình sắp xếp cho cậu tham gia vào kì thi Hội, để cậu không thể nhận bất cứ nhiệm vụ nào trên triều đình trong tháng hai năm Khai Bình thứ ba mươi!

Sư huynh ơi sư huynh, rốt cuộc Cungđảng đang âm mưu gì đây?

Chu Tử Thư ngước mắt nhìn vòm trời đen óng, chợt nghĩ, e rằng trận mưa rào mà Tô Ôn Duẫn từng nhắc đến sắp ập tới rồi.

Nhưng bây giờ cậu đã vào trường thi, dù trận mưa này có to đến mấy thì tán ô "Thi Hội" che trên đầu sẽ giữ cho cậu an toàn khỏi gió táp mưa sa.

Đang suy nghĩ mông lung, đột nhiên, Chu Tử Thư để ý có mấy cử nhân buộc khăn vải đen trên đầu bước vào trường thi, đi loanh quanh tìm phòng thi của mình rồi chui vào. Chu Tử Thư lấy làm lạ, chăm chú quan sát những người ấy. Sai nha theo hầu cậu rất nhạy bén, thấy vậy thì giải thích ngay: "Đại nhân, những người đó là quy chính nhân đấy ạ."

Chu Tử Thư: "Quy chính nhân ư?"

"Chính thế ạ. Năm Khai Bình thứ mười, Đại Tống thu hồi được đất đai U Châu bao gồm mười mấy quận huyện từng bị người Liêu chiếm đóng ròng rã bốn mươi năm. Người Tống sống ở những châu phủ đấy đã có mấy chục năm làm người Liêu, nên bị gọi là 'quy chính nhân'. Thánh thượng có lệnh, quy chính nhân lên kinh thành ứng thi, phải buộc khăn đen trên đầu để phân biệt."

Sai nha chỉ giải thích đến đó, Chu Tử Thư cũng lần ra được ba chữ "quy chính nhân" trong trí nhớ của mình.

Hồi làm việc ở viện Hàn Lâm, Chu Tử Thư đã đọc rất nhiều sách vở, cũng biết về những người gọi là "quy chính nhân" này. Sai nha chỉ nhắc tới việc hoàng đế ra lệnh cho họ buộc khăn đen để phân biệt thân phận, nhưng không nhắc đến việc quy chính nhân vĩnh viễn không được đỗ tiến sĩ trong hai giáp đầu, tức Đồng tiến sĩ xuất thân là thứ hạng cao nhất mà họ có thể đạt được. Điều này đồng nghĩa với việc quy chính nhân vĩnh viễn không có cơ hội trở thành đại quan tam phẩm trở lên trong triều đình!

Tuy thế, không có gì là tuyệt đối cả. Chu Tử Thư biết một đại quan nhị phẩm trong triều là quy chính nhân. Chỉ có điều, người ấy giành được chức quan nhị phẩm nhờ nếm mật nằm gai trên sa trường, vào sinh ra tử giữa núi thây biển máu, chứ không thăng tiến thông qua con đường khoa cử.

Quy chính nhân...

Chưa đến tảng sáng, các cử nhân đã vào hết phòng thi trong trường thi Thịnh Kinh, bắt đầu nghỉ ngơi, chuẩn bị cho cuộc thi.

Cùng lúc đó, con đường quan đạo lầy lội từ Giang Nam đến phủ Quảng Lăng in hằn dấu móng ngựa. Chú ngựa khỏe mải miết vượt núi băng rừng, phi như bay về Thịnh Kinh.

Hôm sau, khi buổi triều còn chưa bắt đầu, Triệu Phụ hẵng còn hơi lim dim trong lúc cung nữ, thái giám hầu hạ ông ta mặc triều phục.

Quý Phúc hớt hải vào cung Phúc Ninh, tâu: "Bẩm quan gia, Giang Nam gửi tấu khẩn."

Triệu Phụ mở mắt: "Đưa đây trẫm xem." Quý Phúc dâng sổ lên bằng hai tay.

Hồi lâu sau, Triệu Phụ tức tối hừ một tiếng, quăng phắt quyển tấu đi. Không may, quyển sổ cứng nện thẳng vào một thái giám trẻ làm trán anh ta túa máu. Người thái giám đau quá, chỉ kịp kêu "ối" rồi gục xuống ngay, không gượng dậy nổi. Quý Phúc vội vàng nháy mắt, ra lệnh cho lũ còn lại lôi ngay cái kẻ vô tích sự ấy đi cho khuất mắt.

Đầu tiên Triệu Phụ giận điên người, rồi ông ta dần dần tỉnh táo lại.

Gương mặt già nua của đấng thiên tử trở nên bình thản đến khó hiểu, không thể đoán được tâm trạng ông ta.

Mãi sau, ông ta mới chìa tay, Quý Phúc nhanh nhẹn chạy đến đỡ.

Triệu Phụ: "Lên triều."

Quý Phúc: "Vâng."

Bên trường thi Hội, đã sang ngày thi thứ hai. Các khảo quan trên lầu Minh Viễn chia thành nhóm, lần lượt xuống khỏi lầu đi nghỉ ngơi. Trong hoàng thành, trên điện Tử Thần, hoàng cung Đại Tống, Triệu Phụ cười lạnh buốt: "Cuối năm ngoái, phú khế và tổng số thuế phủ Quảng Lăng nộp lên không khớp với nhau, thế mà các bề tôi giỏi giang của trẫm tuyệt nhiên không hé một lời cho trẫm biết. Quần thần của trẫm mẫn cán thật! Các quan Đại Tống thanh liêm quá! Kỷ Ông Tập, CungThuyên, các ngươi giải thích thế nào đây?" "Bốp!"

Một quyển tấu chương bị ném thẳng xuống đất, lăn xuống thềm. Khéo thay, nó dừng ngay bên chân Thượng thư bộ Hộ Cung Tuấn, y hệt tình huống cách đây hai năm.

Nhưng hôm nay, hoàng đế không khiển trách chàng mà mắng thẳng mặt hai vị Thừa tướng đứng đầu triều đình.

Kỷ Ông Tập và CungThuyên cùng nhau bước lên khỏi hàng, chắp tay cúi mình.

Triệu Phụ quát ầm lên: "Nhìn đi! Nhìn cho trẫm xem quyển tấu ấy viết gì!"

Cung Tuấn cúi xuống nhặt quyển tấu lên, đưa cho Tả tướng Kỷ Ông Tập. Kỷ Ông Tập xem bản tấu, biến sắc, lại chuyển sang cho Hữu tướng CungThuyên.

Triệu Phụ: "CungTử Phong, đọc to lên cho trẫm!"

Trong điện Tử Thần, một số quan viên trộm ngó bóng lưng thẳng tắp đẹp ngời ngời của chàng, rỏ một giọt nước mắt đồng cảm với số phận không dưng phải vạ của Cungđại nhân. Cungđại nhân điềm nhiên nhận quyển tấu được chuyển lại cho mình, thong thả đọc nội dung bản tấu lên: "Năm Khai Bình thứ ba mươi, huyện thừa Tần Hào của huyện Giang Đô, phủ Quảng Lăng, chịu trách nhiệm giám sát việc thu thuế ruộng sửa đổi ở huyện nhà. Mùng bốn tháng Giêng, phát hiện thi thể của Tần Hào ở khu vực ngoại ô, dư cốt bị sài lang gặm rỉa, chết không toàn thây..." Các quan trong triều ồ lên khiếp vía.

Kỷ tướng và Cungtướng đều hiểu ý đồ của bản tấu, cả hai kinh hãi ngước nhìn hoàng đế.

Hoàng đế lạnh lùng: "Đọc tiếp đi!"

Cung Tuấn tạm ngừng một lát rồi mới đọc nốt.

Sau khi chàng đọc hết bản tấu, Cung Tuấn cúi rạp mình, dâng sổ lên cao quá đầu. Quý Phúc bước xuống dưới thềm, thu quyển tấu lại.

Triệu Phụ nhìn chúng bề tôi, giọng ông ta bình thản như phút lặng thầm trước giờ bão nổi: "Hai vị ái khanh, có ai giải thích hộ trẫm, tại sao sự việc xảy ra từ một tháng trước mà bây giờ mới đến tai trẫm không?"

||

Lời tác giả:

Trước tui đã nói trong nhóm WeChat với các độc giả rằng truyện này của chúng ta có bốn nam thần ~

Anh Cungvà bé Đường chắc chắn xí hai suất. Tô Ôn Duẫn xí một suất.

Thế nên, F4 Đại Tống chỉ còn một người thôi á, người ấy đã lên sân khấu từ tám mươi đời bảy mươi kiếp rồi á ~ các đồng chí đoán xem là ai nè ~

PS: Tui quẫy lightstick hò fanchant cổ vũ cho anh Cunghàng xóm! Anh Cungdebut làm Center quốc dân luôn anh ơi!

Manh: Center Cung360 độ không góc chết, đến tấm lưng anh cũng đẹp trai rạng rỡ :"> Tác giả đã đặt phục bút về thành viên cuối của F4 từ hồi Chu Tử Thư mới làm quan đấy, đến chap này là hint nhiều lắm rồi, các bạn có nhận ra không?

------oOo------

Chương 80

Nguồn: EbookTruyen.Net

Lang Gia Cungthị xa xỉ phung phí

Năm Khai Bình thứ ba mươi, ngày mười một tháng hai, hoàng đế Đại Tống

Triệu Phụ nổi trận lôi đình ngay giữa lúc thiết triều, thẳng thừng cách chức Hữu thị lang bộ Hộ Tần Tự và Môn Hạ Tham tri Chính sự Triệu Tĩnh. Việc đồng thời bãi nhiệm, cấm túc hai viên quan chịu trách nhiệm chính trong ty Độ Chi khiến cơ quan này như rắn mất đầu.

Trên triều đình, Triệu Phụ gay gắt phê bình Tả tướng Kỷ Ông Tập và Hữu tướng CungThuyên. Trong hai viên quan bị cách chức, một người thuộc Cungđảng, người kia là nòng cốt Kỷ đảng. Vụ việc này đã táng một cú trời giáng vào nhuệ khí của cả hai phe.

Hôm sau, Triệu Phụ cho gọi các tâm phúc của mình vào điện Thùy Củng.

Mấy viên quan đại thần đứng lắng nghe hoàng đế.

Triệu Phụ than: "Trẫm cứ tưởng rằng mở lại ty Độ Chi là ý kiến hay và hữu ích. Nhưng giờ trẫm mới biết, ty Độ Chi của trẫm mục từ rễ mục ra. Mệnh quan triều đình chết oan uổng, phơi thây nơi đồng không mông quạnh, không ai nói hộ một câu, tất cả trơ mắt nhìn thi thể kẻ ấy bị sói hoang cấu xé! Kẻ ấy vốn là huyện thừa, sau làm quan cho ty Độ Chi rồi bỏ mình vì ty Độ Chi, giờ liệu có ai giải thích được cho trẫm nguyên nhân kẻ ấy chết không?"

Điện Thùy Củng im phăng phắc.

Phủ Quảng Lăng ở Giang Nam tương đương với Dương Châu ở thời hiện đại bây giờ. Huyện thừa một huyện ở Dương Châu qua đời, về lí thuyết thì cái chết của một viên quan thất phẩm địa phương nhỏ nhoi chẳng thể nào gây xôn xao đến vậy. Nhưng chức nhỏ đến mấy thì cũng là mệnh quan triều đình, có liên hệ mật thiết với ty Độ Chi đang đứng ngay tâm bão.

Chính vì vậy, sự phẫn nộ của Triệu Phụ trở nên hoàn toàn chính đáng.

Muốn trở thành minh quân, ông ta nhất định không thể dễ dàng bỏ qua những chuyện cộm mắt chướng tai như thế.

Thượng thư bộ Hình Cảnh Thiếu Vân tâu: "Nên phái người đến Giang Nam điều tra rõ chân tướng, cởi mối lo cho thánh thượng và trả lại trong sạch cho người đã khuất."

Triệu Phụ: "Phái ai?"

Cảnh Thiếu Vân suy nghĩ chốc lát, đọc tên mấy người liền. Ông ta đề xuất chọn Tả thị lang bộ Hình và một số người bên Đại Lý tự. Sắp xếp đội ngũ như vậy là rất hợp lí, vừa giúp cả bộ Hình và Đại Lý tự theo dõi và điều tra vụ án, vừa tiện bề giám sát lẫn nhau.

Tả tướng Kỷ Ông Tập tiến lên tâu: "Việc này liên quan đến ty Độ Chi, xin bệ hạ cắt cử thêm một viên quan bộ Hộ."

CungThuyên liếc Kỷ Ông Tập, lặng thinh không nói gì.

Bấy giờ, Thượng thư bộ Hộ Cung Tuấn mới lên tiếng: "Kim bộ lang trung Lưu Tư Cực thuộc bộ Hộ rất phù hợp với vị trí này ạ."

Như vậy, đoàn Khâm sai Giang Nam đã được lựa chọn xong.

Mấy hôm sau, các quan trong đoàn đều nhận được lệnh, bắt đầu thu xếp đi Giang Nam điều tra. Triệu Phụ đứng trên tầng cao của đài Đăng Tiên, quan sát toàn bộ khung cảnh kinh thành. Đêm xuống, gió trên lầu cao rất mạnh, Đại thái giám Quý Phúc cẩn thận khoác một tấm áo choàng lông chồn lên cho Triệu Phụ.

"Quan gia, đừng để bị lạnh."

Triệu Phụ dõi mắt về nơi xa xăm trong hoàng thành đen sẫm, nhíu mày: "Ngươi có cảm thấy thiêu thiếu gì không?"

Quý Phúc nhìn thành Thịnh Kinh dưới ánh Tuấng bàng bạc, thận trọng hỏi: "Ý quan gia là thiếu gì ạ?"

"Nhóm Khâm sai đến phủ Quảng Lăng, cộng thêm Lưu Tư Cực. Trẫm cảm thấy phải bổ sung thêm một người nữa mới thỏa đáng." Triệu Phụ trầm ngâm giây lát, chợt thốt lên: "Đường Cảnh Tắc đâu rồi ý nhỉ?"

Quý Phúc rủa thầm trong lòng, Triệu Phụ làm hoàng đế cũng quá quắt lắm rồi đấy. Trông thành Thịnh Kinh tối đen như mực mà nghĩ chuyện cách đây cả vạn dặm đường! Làm sao lão biết Triệu Phụ đang nói về đoàn Khâm sai Giang Nam? Lão cứ tưởng ông ta hỏi thiếu là hỏi thành Thịnh Kinh thiếu cái gì cơ! Người ta hay nói gần vua như gần cọp, nhưng để lão già Quý Phúc xui tận mạng này nói cho mà nghe, gần vua phải ví như gần Diêm Cungmới đúng!

Quý Phúc cười cầu tài: "Nếu bệ hạ nhớ Đường đại nhân, vậy ngày mai triệu Đường đại nhân đến điện Thùy Củng chẳng phải là được sao?" Triệu Phụ gật đầu.

Hôm sau, Triệu Phụ phái người đến điện Cần Chính gọi Chu Tử Thư thật, nhưng thái giám trở về lại trình với ông ta rằng: "Bẩm thánh thượng, Đường đại nhân đang ở trường thi Thịnh Kinh làm Phó khảo khoa thi Hội năm nay ạ."

Triệu Phụ sửng sốt.

Hồi lâu sau, ông ta mới bảo Quý Phúc: "Đường Cảnh Tắc đỗ Thám Hoa mới có ba năm thôi mà? Sao bây giờ đã được làm Phó khảo?"

Triệu Phụ phái người đi nghe ngóng, mới biết chuyện Từ Bí phái Chu Tử Thư đến trường thi Hội. Nhưng sắp xếp kiểu này làm sao qua mắt được hoàng đế? Ông ta lại cho người thám thính thực hư, liền biết Đại học sĩ viện Hàn Lâm Chu Cẩn mới là người điều chuyển Chu Tử Thư.

"Lão già Chu Cẩn ấy hơi đâu mà đi quản chuyện vụn vặt như thế. Hẳn là chủ ý của Phó Hi Như đây mà. Cái lão Phó Hi Như gan thật, học trò mới làm quan ba năm mà lão đã nôn nóng đề bạt cậu ta gánh vác trọng trách bực này ư?" Ngoài miệng nói vậy nhưng Triệu Phụ chỉ cười.

Phó Vị cả ngày phởn phơ cùng chim chóc hoa lá, có bao giờ quan tâm đến sự đời, thế mà tự dưng bây giờ ông ta lại đi cửa sau hộ học trò để Chu Tử Thư lên ghế Phó khảo thi Hội, tiện thể "đánh bóng tên tuổi". Hành động như vậy đâm lại khiến Triệu Phụ yên tâm hẳn ra.

"Thì ra Phó Vị cũng có lòng riêng!"

Chu Tử Thư đang ở trường thi Thịnh Kinh không thể đi đâu được, Triệu Phụ đành phải bỏ ý định điều cậu xuống Giang Nam.

Chu Tử Thư đứng trên lầu Minh Viễn, nào hay suýt tí nữa mình lại bị lẳng vào núi đao biển lửa.

Mười chín tháng Hai, ba trường thi Hội chính thức khép lại.

Các cử nhân đã rồng rắn kéo nhau ra khỏi trường thi nhưng các quan vẫn chưa bắt đầu chấm bài. Trong ba ngày đầu tiên, mấy nghìn tú tài sao chép bài thi, dán tên rồi đưa đến nhà chấm thi để Chu Tử Thư và các quan khác bắt đầu đọc quyển. Hai tháng sau, họ mới hoàn tất việc đánh giá hơn một vạn quyển thi.

Sau khi Thượng thư bộ Lại Thẩm Vận chốt xong danh sách ba người đứng đầu, các khảo quan mới hết trách nhiệm.

Chỉ khi ấy, họ mới chính thức được chứng kiến trận bão càn quét cả thành Thịnh Kinh.

Phái đoàn Khâm sai Giang Nam đã khởi hành từ lâu, một số quan viên trong ty Độ Chi cũng bị hoàng đế cách chức, tạm thời giam lỏng tại nhà chờ xét xử. Nghe tin này, vừa về nhà, Chu Tử Thư liền chạy sang phủ Thượng thư, gặp được Cung Tuấn.

Lúc Chu Tử Thư tới, Cung Tuấn đang ăn tối.

Thấy cậu, Cung Tuấn ra lệnh: "Lấy thêm bộ bát đũa đi."

Quản gia: "Vâng."

Chu Tử Thư ngồi xuống.

Kỳ thực Chu Tử Thư chưa ăn uống gì, nhưng bây giờ trong lòng cậu có biết bao băn khoăn, còn tha thiết gì cơm nước. Cậu nhìn mâm cơm đề huề mà chẳng buồn động đũa.

Cung Tuấn thấy thế chỉ cười khẽ, dịu dàng bảo: "Không ăn tức là không vừa ý món nào rồi. Người đâu, bảo đầu bếp làm thêm cua viên hầm, đậu lụa nấu nước cốt gà, và đậu phụ Văn Tư." Chàng hỏi Chu Tử Thư, "Tiểu sư đệ hài lòng hơn chưa?"

Chu Tử Thư sững người.

Cua viên hầm, đậu lụa nấu nước cốt gà, đậu phụ Văn Tư... Cả ba đều là đặc sản Quảng Lăng!

Hầy, quả nhiên CungTử Phong biết trước tại sao mình đến đây rồi!

Chu Tử Thư tiu nghỉu, cầm đũa lên ăn ù cho xong. No bụng, hai huynh đệ rửa tay bằng nước trà rồi mới sang thư phòng.

Cung Tuấn vén tay áo pha trà, bảo: "Tiểu sư đệ muốn nói gì, cứ nói thẳng đi."

Chu Tử Thư lấy lại bình tĩnh, hỏi: "Việc ở Quảng Lăng, sư huynh có biết trước không?"

Ngay câu hỏi đầu tiên đã khiến CungTử Phong bật cười. Chàng nhìn Chu Tử Thư bằng vẻ hơi tổn thương: "Ở trong lòng tiểu sư đệ, ta là hạng người không từ thủ đoạn để đạt được mục đích à?"

Chu Tử Thư ngớ người, vội vàng giải thích: "Sư huynh hiểu lầm rồi, đệ đâu có bảo rằng cái chết của huyện thừa huyện Giang Đô có liên quan đến sư huynh. Đệ muốn hỏi sư huynh biết chuyện ấy từ bao giờ kia mà."

Cung Tuấn biết thừa là Chu Tử Thư chẳng nghi ngờ mình đâu, nhưng ánh mắt ân cần, lo lắng của cậu khiến khóe môi chàng cứ nhếch lên. Cung Tuấn đáp: "Ngày hai chín tháng trước." Hai mươi chín tháng Giêng!

Thế tức là, chỉ nửa tháng sau cái chết của huyện thừa Giang Đô phủ Quảng Lăng chết vào thượng tuần tháng Giêng, Cung Tuấn đã biết tin. Còn hoàng đế thì phải mất một tháng mới nhận được tin này.

Quả nhiên, tất cả đều nằm trong kế hoạch của Cungđảng!

Biết được đáp án, rất nhiều mối hoài nghi của Chu Tử Thư cuối cùng cũng có lời giải. Cậu nói: "Ban đầu, đệ đã đoán được rằng Cungtướng công đề xuất hai mươi ba cải cách là để làm vỏ bọc cho việc thúc đẩy phát hành tiền giấy, âm thầm 'lấy giấy thay tiền'. Song Tả tướng nhất định sẽ không để cho Cungtướng công tự tung tự tác, nên mới mở lại ty Độ Chi để tham gia vào."

Cung Tuấn rót một chén trà, khoan thai nhấp một ngụm, dịu dàng nhìn Chu Tử Thư: "Tiếp đi."

"Tả tướng muốn chen chân, Cungtướng đương nhiên không đồng ý. Nhưng Tả tướng dù sao cũng là đại thần trên triều, chuyện động trời như thế rất khó để gạt ông ấy ra. Vì vậy, năm ngoái, sư huynh tán thành với kiến nghị của Tả tướng trên triều đình, chấp thuận mở lại ty Độ Chi và chia quyền của bộ Hộ. Nếu làm việc dè chừng, cố tình giấu bài thì lúc tranh luận trên triều thì dễ bị bắt thóp; còn không nhịn được mà táy máy sớm thì dễ để lộ sơ hở. Tả tướng khôi phục ty Độ Chi, quả thật đã hạn chế quyền lực của bộ Hộ, nhưng mũi dao đã lộ ra, tất sẽ bị người ta nắm được cán."

Ánh mắt Cung Tuấn quấn quýt lấy Chu Tử Thư mãi, nhìn lâu đến nỗi Chu Tử Thư phát sợ.

"Sư huynh cứ nhìn đệ thế làm chi?"

Cung Tuấn: "Ty Độ Chi mở lại đã nửa năm nay. Tiểu sư đệ vẫn luôn canh cánh trong lòng đấy à?"

Chu Tử Thư: "Vâng."

"Vì sao đệ quan tâm nhiều thế?"

Chu Tử Thư nghĩ rồi mới đáp: "Dù sao đệ cũng thuộc phe Cungđảng, đứng cùng chiến tuyến với sư huynh. Chuyện lớn như vậy đệ đâu thể làm ngơ được? Huống hồ, từ hè năm ngoái, khi đệ kể chuyện tiền giấy xuất hiện ở Thục cho sư huynh, đệ đã luôn tin chắc rằng sư huynh sẽ không gác vấn đề này lại. Nhất định, huynh sẽ có ý tưởng. Nhất định, huynh sẽ hành động."

Từng câu từng chữ của cậu đầy ắp niềm tin, thậm chí còn bao hàm cả lòng kính phục và ngưỡng mộ mà chính bản thân Chu Tử Thư cũng chưa phát hiện ra.

Chu Tử Thư không bao giờ tiếc lời khi ca ngợi Cung Tuấn cả.

Những điều cậu khen chàng không phải xun xoe bợ đỡ, nịnh suông bằng nước bọt. Từ đáy lòng cậu, Chu Tử Thư tin rằng Cung Tuấn thực sự tài giỏi như thế.

CungTử Phong nghe mà lịm cả tim, nụ cười càng rạng rỡ.

Chu Tử Thư chia sẻ với Cung Tuấn hết những suy đoán của mình trong thời ra vừa qua, Cung Tuấn chỉ ngầm khẳng định một số điều. Tuy chưa giải mã được hết mưu kế của Cungđảng, nhưng Chu Tử Thư cảm thấy mình sắp sửa vén màn mây mù để chạm đến chân tướng rồi.

Nhưng nói một thôi một hồi, Cung Tuấn vẫn không hề đả động đến dữ kiện quan trọng nhất.

Chu Tử Thư hỏi: "Rốt cuộc...ai đã giết chết huyện thừa kia?"

Cung Tuấn mở hộp đựng trà, lấy ngón tay khều ra một ít. Chàng chia lá trà ra làm ba đụn nhỏ, đụn thứ nhất nhiều lá trà nhất, nhưng được trải rộng ra nên khá bằng phẳng. Đụn thứ hai ít lá trà hơn nhưng được vun vào nên cao hơn đụn thứ nhất. Riêng đụn thứ ba ít lá trà nhất, nhưng được vun chặt lại nên cao hơn hẳn hai đụn kia.

Cung Tuấn chỉ vào ba đụn lá trà, hỏi: "Lấy lá trà biểu tượng cho con người, lấy độ cao biểu tượng cho của cải họ sở hữu. Tiểu sư đệ, minh họa thế này được chưa?"

Chu Tử Thư hiểu ngay ý Cung Tuấn, cậu gật đầu.

"Từ thời các bậc tiên đế, Đại Tống đã phải đối mặt với tình trạng khan hiếm tiền tệ. Thiếu đồng, bạc, vàng, tức là thiếu nguyên liệu để đúc tiền. Đất đai Đại Tống rộng bao la, tài nguyên dồi dào. Đáng lẽ kể cả khi buôn bán hiện giờ cực kì phát triển, đòi hỏi lượng tiền tệ khổng lồ, chúng ta cũng không thiếu tài nguyên khoáng sản để đúc tiền. Ấy thế mà chẳng những thiếu thốn, chúng ta còn khan hiếm tiền trầm trọng. Tiểu sư đệ đã bao giờ suy nghĩ về nguyên nhân của tình trạng này chưa?

Chu Tử Thư biết thế nào được!

"Vì sao thế ạ?"

"Chính là vì, những đối tượng này cất giấu quá nhiều tài sản!" Cung Tuấn chọc thẳng vào đụn lá trà thứ ba, khiến lá trà rơi lả tả xuống đất.

Cung Tuấn: "Lấy Lang Gia Cungthị làm ví dụ, đó là một dòng họ khổng lồ và hùng mạnh, truyền thừa trăm năm, của cải không để đâu cho hết. Suốt trăm năm qua, Cungthị cất giấu vô số tiền của. Giấu nhưng không dùng đến, hậu quả là tiền sẽ trở nên đắt đỏ hơn vì khan hiếm. Đây là một trong những nguyên nhân gây nên nạn thiếu hụt tiền. Theo luật của Đại Tống, cứ một nghìn đồng tương ứng với một quan, một quan tiền đổi được một lạng bạc, mười lạng bạc đổi được một lạng vàng. Nhưng đó chỉ là luật thôi, đệ cầm một vạn đồng đi đổi một lạng vàng, còn lâu mới đổi được. Chí ít phải thêm một nghìn đồng nữa mới có người đồng ý đổi! Vàng là quý nhất, bạc đứng thứ hai, sau rốt là đồng. Lang Gia Cungthị từ trăm năm trước đã có một tòa nhà cất giấu báu vật, trong đó tích trữ bao nhiêu vàng, chỉ riêng gia chủ mỗi đời mới biết được!"

Bấy giờ Chu Tử Thư mới ngộ ra.

Dựa theo quy đình thì cứ một nghìn đồng tiền ứng với một lạng bạc. Nhưng đó chỉ là quy định mà thôi. Người ta có bạc nhưng không muốn đổi với anh, thách anh đổi được!

Vàng là có giá trị nhất nên khó bị phá giá; bạc đứng thứ nhì.

Những dòng họ thâm căn cố đế, quyền thế giàu sang đã tích trữ quá nhiều tiền bạc trong khi không dùng đến, khiến giá trị của số tiền ấy càng lúc càng leo thang!

Cung Tuấn chuyển chủ đề, ánh mắt chàng nhìn đụn lá trà thứ ba tung tóe trên mặt bàn lạnh như băng: "Cái chết của huyện thừa Giang Đô do kẻ nào gây ra, ta cũng không biết. Nhưng ắt hẳn là ông ta chết vào tay nhóm người kia. Dùng giấy làm tiền tệ đồng nghĩa với việc tước đoạt quyền lợi của bọn họ. Sự thay đổi đấy đem lại bao nhiêu ích lợi cho Đại Tống thì bất lợi cho họ gấp vạn lần."

"Vậy, tiểu sư đệ, hôm nay đệ đã biết ông ta chết vì lí do gì chưa?"

Từ xưa tới nay, cải cách luôn luôn là sự đấu tranh giữa các giai cấp.

Trong bụng Chu Tử Thư đã tường tận. Cậu thở dài: "Có sư huynh giải tỏa nghi vấn, đệ hiểu rồi."

Cung Tuấn mỉm cười: "Chỉ cần manh nha ý định thay tiền bằng giấy, việc nảy sinh mâu thuẫn nan giải như vậy là không tránh khỏi. Nếu Tả tướng tình nguyện hồi sinh ty Độ Chi, bằng lòng xung phong đi đầu, thì mình cứ thuận theo ngài ấy thôi. Tả tướng là người dám xả thân vì nghĩa lớn, cao thượng vô tư, sẵn sàng đương đầu với những thế gia đại tộc giàu nứt đố đổ vách, xa xỉ phung phí. Tấm gương của ngài ấy khiến chúng ta cảm phục vô cùng, trộm nghĩ bản thân chẳng bằng một góc!"

Chu Tử Thư tí nữa thì phì cười vì câu đùa của CungTử Phong, nhưng cậu chợt nhận ra một điều.

Gượm đã nào, huynh là công tử chi trưởng của Lang Gia Cungthị hẳn hoi, thế mà lại cầm đầu phong trào chống đối thế gia, còn lấy Lang Gia Cungthị ra làm ví dụ...Thế có ổn thật không đấy?!

||Chú thích

Đậu lụa nấu nước cốt gà mình chém từ tên gốc là "kê trấp chử kiền ti". Đậu phụ khô được thái sợi rồi nấu với nước cốt gà, tôm.

Đậu phụ Văn Tư: Một dạng súp đậu phụ, nguyên liệu là đậu phụ non thái sợi, nấu với nước cốt gà, rau, trứng thái chỉ v...v...

Thịt cua đầu sư tử (cua viên hầm)

Đậu hũ Văn Tư

Đậu lụa nấu nước cốt gà

Trong raw có đôi chút thiếu thống nhất về cách gọi tiền tệ. Có hai đơn vị tương đương với nhau là "điếu" và "quan", thì "điếu" (mà mình edit là "xâu tiền" trong những chương đầu) phổ biến hơn trong thời Minh, Thanh. Còn từ thời Tống trở về trước thì "quan" là đơn vị phổ biến hơn. Cả hai đều tương ứng với 1000 văn (đồng). Trong chương 2 tác giả ngầm quy đổi là 2 điếu = 320 văn, rồi đến đoạn Bách Bảo Các thì tác giả sử dụng đơn vị "quan", và sang chương này lại quay về dùng "điếu" rồi quy đổi 1 điếu = 1000 văn. Để thống nhất thì mình sẽ sửa đơn vị trong chương này thành "quan" cho sát với thời Tống (cũng là thời kì xuất hiện giao tử – tiền giấy mà chắc hẳn tác giả đã dựa theo để viết truyện).

------oOo------

Chương 81

Nguồn: EbookTruyen.Net

Nghĩa cả

Ánh mắt Chu Tử Thư cứ lồ lộ như thế, làm sao mà Cung Tuấn không đọc ra. Tiểu sư đệ nhà chàng chỉ thiếu điều viết luôn lên trán câu: Sư huynh tự phản bội bản thân mình thế có sao không? Cung Tuấn phì cười, thản nhiên bảo: "Lang Gia Cungthị luôn luôn biết cách thích nghi với thời cuộc. Giữa hai tộc Vương, Tạ, đã bao giờ tiểu sư đệ tự hỏi, vì sao họ Tạ cứ dần dần suy bại trong khi họ Cungvẫn sừng sững như mặt trời ban trưa?"

Chu Tử Thư trầm tư một lát, bỗng thở dài: "Nước chảy không tù, trụ cửa không mọt."

Ánh mắt Cung Tuấn nhìn cậu càng lấp lánh hơn.

Chu Tử Thư tạm biệt Cung Tuấn, rời khỏi phủ Thượng thư.

Nước chảy không tù, trụ cửa không mọt...vì chúng không ngừng chuyển động!

CungTử Phong lấy Lang Gia Cungthị làm ví dụ, nhưng chàng chỉ nói rằng dòng họ Cunglà đại biểu cho thế gia đại tộc, chứ không hề nói rằng Lang Gia Cungthị là hung thủ giết người. Họ Cungđã hình thành và lớn mạnh mấy trăm năm nay, tiếng tăm lẫy lừng, là đại tộc hàng đầu khắp bờ cõi Hoa Hạ. Từ xa xưa khi chế độ khoa cử chưa ra đời, khoảng cách giữa các tầng lớp trong xã hội gần như không thể lay chuyển. Mãi về sau, khi chế độ khoa cử thịnh hành, quyền lợi của các thế gia mới từ từ bị bao mòn. Giữa cảnh suy bại của không biết bao nhiêu dòng họ lẫy lừng một thời, Cungthị vẫn vững vàng đến nay.

Được như vậy là vì họ Cungluôn tự thay đổi để thích nghi với thế giới mới!

Nếu như đặt con em thế gia khác vào hoàn cảnh này, một khi họ biết cải cách "thay tiền bằng giấy" sẽ gây thiệt hại to lớn đến lợi ích của gia tộc mình, họ sẽ làm gì đây? Họ sẽ nhất quyết bưng bít, bài xích cho bằng được. Song cả Cung Tuấn lẫn Hữu tướng CungThuyên đều ra sức thúc đẩy cải cách này.

Dòng dõi Lang Gia không chỉ làm quan vì thế gia, mà làm quan vì thế đạo.

Chu Tử Thư nghĩ: "Thế lực quý tộc ở phủ Quảng Lăng kém xa phủ Kim Lăng, nhưng chuyện huyện thừa bỏ mạng chỉ xảy ra ở Quảng Lăng mà không xảy ra ở Kim Lăng...đã thể hiện rõ thái độ của Cunggia rồi!"

Trung tuần tháng hai, đoàn Khâm sai sứ đã đến phủ Quảng Lăng để điều tra án ty Độ Chi.

Cuối tháng ba, Hữu thị lang bộ Hình Tào Hội Tầm viết tấu, sai người hỏa tốc gửi về Thịnh Kinh. Triệu Phụ xem tấu xong giận sôi gan, ra lệnh cho Thượng thư bộ Hộ Cung Tuấn và Thượng thư bộ Hình Cảnh Thiếu Vân đến ngay phủ Quảng Lăng để đôn đốc việc điều tra vụ án. Chạng vạng hôm ấy, hai ngài Thượng thư nhị phẩm dẫn theo thân tín, tức tốc di chuyển đển Quảng Lăng.

Trong điện Cần Chính, không khí vẫn bình thường như mọi ngày, nhưng cải cách thuế ruộng đã dần dần chững lại.

Hai mươi ba cải cách thuế ruộng tượng trưng cho một ý tưởng, một tư tưởng, và ty Độ Chi là công cụ sắc bén để thực thi nó. Hiện tại ty Độ Chi đã bị hoàng đế bãi miễn, Triệu Tĩnh và Tần Tự đếu bị cấm túc tại gia chờ xét xử. Ty Độ Chi không có người phụ trách, cải cách thuế ruộng cũng đình trệ theo.

Ai cũng biết cải cách thuế ruộng cực kì có lợi, không hề có vấn đề gì, nhưng không ai có cách biến những cải cách ấy thành hiện thực cả.

Tháng tư, tại U Châu, quân Liêu vi phạm hiệp ước, xung đột với quân Tống.

Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức đánh quân địch thua tan tác. Chỉ trong ba ngày, tin chiến thắng đã được cấp báo về Thịnh Kinh. Hoàng đế hết sức đẹp lòng, liên tục khen "Hay" ba lần liền, quyết định khao thưởng toàn quân. Mấy ngày sau, báo cáo quân tình chi tiết mới được gửi về điện Cần Chính. Chu Tử Thư giở quyển báo cáo dày cui, đọc hồi lâu, bỗng nảy ra một ý.

Hai ngày sau, Chu Tử Thư biên một cuốn sổ con, lén lút gửi ra ngoài.

Chẳng mấy chốc, trong giờ phát cơm canh, một sai nha tuồn cho Chu Tử Thư mẩu giấy. Chu Tử Thư đọc xong thì lặng lẽ giấu vào trong tay áo, chờ đến lúc không có ai thì kín đáo đốt đi. Chiều tối khi xong việc, Chu Tử Thư xuất cung. Cậu không về nhà mình ở hướng Đông mà đi tới phố lớn Chính Dương Môn.

Trên phố lớn Chính Dương Môn, hàng quán san sát, tấp nập người ngợm.

Chu Tử Thư vào thẳng lầu Tế Hà. Đây là sản nghiệp của Đường gia, cậu chỉ cần lặng lẽ vào từ cửa hông là có người che dấu cho cậu. Chu Tử Thư lên nhã gian trên tầng hai, vừa vào cửa là thi lễ ngay: "Hạ quan Đường

Thận kính chào Cungtướng công."

Trong gian phòng rộng rãi thoáng đãng, Hữu tướng CungThuyên đang ngồi ngay ghế thượng tọa.

CungThuyên hơn năm mươi tuổi, hai bên tóc mai điểm bạc. Ông nuôi râu rất dài, dáng người gầy guộc, trông rất có hình tượng của quan văn thanh liêm. Hai ông cháu CungThuyên và Cung Tuấn không giống nhau, nhưng cử chỉ của cả hai đều có phong phạm thế gia khó mà bắt chước. CungThuyên ngồi ngay ngắn, thấy Chu Tử Thư cung kính với mình thì cười bảo: "Người trong nhà với nhau cả, lại đây nào."

"Vâng."

Đây là lần đầu tiên Chu Tử Thư chính thức tiếp xúc với Hữu tướng.

Trên triều đình có rất nhiều phe phái, phe nào cũng có đối thủ riêng, nhưng tất cả đều được liên kết với nhau bằng những sợi dây vô hình. Chu Tử Thư được coi là nửa Cungđảng vì cậu với Cung Tuấn là một cánh, nhưng chung quy cậu không về phe Hữu tướng.

CungThuyên và Cung Tuấn là ông chú – cháu ruột, nhưng mỗi người bọn họ lại theo đuổi đường lối riêng.

Trên cả Cungđảng, Cung Tuấn thiên về hoàng đảng hơn. Chàng chỉ trung thành và dốc sức phụng sự hoàng đế; chàng là tâm phúc của Triệu Phụ.

Vì Cung Tuấn thuộc hoàng đảng mà Chu Tử Thư lại theo chàng, nên cậu cũng được quy vào nhóm hoàng đảng. Dĩ nhiên, bè cánh này rất chi là phức tạp. Điển hình như Tô Ôn Duẫn thuộc hoàng đảng, nhưng xưa nay Tô Ôn Duẫn và CungTử Phong luôn kình nhau, thành ra Tô Ôn Duẫn cũng không vừa mắt với Chu Tử Thư.

Đạo làm vua của Triệu Phụ – mượn sức quan lại chế ngự lẫn nhau – vừa phức tạp lại vừa thâm thúy. Ông ta dành ba mươi năm để xây dựng cục diện chính trị trên triều đình như hiện nay, nhìn qua thì tưởng đơn giản, nhưng nghiền ngẫm kĩ càng mới giật mình ớn lạnh.

Trên bàn ăn trong nhã gian đã bày một nồi bát hà cung nóng hổi, nhưng CungThuyên dường như không định động đũa.

Hai người ngồi với nhau, CungThuyên hỏi: "Vì sao lại đưa cuốn sổ ấy cho ta?"

Chu Tử Thư im lặng giây lát rồi mới thưa: "Sư huynh không ở đây, ngoài Cungtướng công, tôi không nghĩ ra ai khác để gửi gắm."

CungThuyên cười: "Lòng tin ngươi dành cho Tử Phong đúng là không gì sánh được."

Chu Tử Thư lặng thinh, bụng bảo dạ: Tôi tín nhiệm CungTử Phong thật, nhưng tôi không tín nhiệm ông. Chẳng qua phải quyền biến, nên mới chọn ông để trao sổ mà thôi.

Theo như lời CungTử Phong nói, trong khi họ Tạ trượt dốc từ lâu, họ Cungvẫn không hề suy suyển. Cậu tin tưởng dòng dõi Cungthị, nên mới gửi quyển tấu cho CungThuyên.

CungThuyên bình tĩnh nhìn Chu Tử Thư, cứ như thể đang chờ xem có đóa hoa nào bừng nở trên gương mặt cậu không. Hồi lâu, vị quyền thần ấy mới cười thành tiếng: "Ta từng nghe Phó Hi Như kể, lão mang tiếng là thầy ngươi mà chưa dạy được ngươi buổi nào hết, toàn giao phó cho Tử Phong. Hôm nay xem ra, trò vượt cả thầy rồi."

Chu Tử Thư nghe thế thì đâm sợ sệt: "Cungtướng công quá khen."

Tự dưng được khen giỏi hơn CungTử Phong, Chu Tử Thư có chút chột dạ. Sư huynh nhà cậu tính tình cổ quái, đến giờ Chu Tử Thư vẫn chưa hiểu rõ tâm tính CungTử Phong. Chẳng may chuyện CungThuyên khen Chu Tử Thư giỏi hơn chàng đến tai CungTử Phong, chàng nổi cơn ghen tức thì biết thanh minh thế nào.

CungThuyên tươi cười: "Hôm nay đến đây thôi nhé." Nói rồi, ông đứng dậy ra về.

Bát hà cung trên bàn vẫn nguyên si. Chờ khi CungThuyên đi rồi, Chu Tử Thư mới thở phào nhẹ nhõm, gọi quản lí Lục và Đường Hoàng vào ăn lẩu chung.

Đường Hoàng thấy cả bàn thức ăn còn đó thì sửng sốt: "Thịt thà rau củ tươi roi rói, tay bọn em chọn lựa, sao các anh chẳng ăn miếng nào thế? Ngon lắm mà!"

Chu Tử Thư trêu: "Trong bụng em chỉ có ăn thôi."

Đường Hoàng bĩu môi, cây ngay không sợ chết đứng: "Dân dĩ thực vi thiên."

Chu Tử Thư khen: "Dân dĩ thực vi thiên? Câu này hay đấy."

Bậc vua chúa phải biết coi dân như trời, mà nhân dân thì lấy cái ăn làm trọng.

Đường Hoàng nào biết, người mới ngồi trong căn phòng này chính là Hữu tướng đương thời – CungThuyên! Cô bé nào biết chuyện mới được thảo luận trong căn phòng này sẽ ảnh hưởng đến miếng ăn của không biết bao nhiêu dân chúng!

CungThuyên làm việc như thế nào, Chu Tử Thư không hề biết.

Năm Khai Bình thứ ba mươi, Tây Bắc đại thắng, nhuệ khí của người Liêu bị tổn hại nghiêm trọng. Triệu Phụ hân hoan khôn xiết, khao thưởng ba quân. Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu can gián rằng cách khao thưởng thông thường rất kém hiệu quả do thường xuyên bị thất thoát trong quá trình vận chuyển đường xa. Hiện giờ Thượng thư bộ Hộ Cung Tuấn không có mặt ở Thịnh Kinh, Hữu thị lang Tần Tự bị giam lỏng, Từ Lệnh Hậu liền chủ động đề xuất thiết lập ty Ngân Dẫn ở Tây Bắc, chuyên phụ trách vấn đề lương thưởng cho quân binh.

Triệu Phụ ưng thuận.

Đến tháng năm, nhóm Cung Tuấn hồi kinh. Vụ án ty Độ Chi ở phủ Quảng Lăng chính thức khép lại, Đại Lý tự bắt giữ một số quan lại, bộ Hình cũng bắt được một số người.

Triệu Phụ lòng đau như cắt: "Các ngươi tưởng Thái tổ hủy bỏ Tam Ty chỉ để tước bớt quyền lực Thừa tướng thật sao?"

Khai Bình hoàng đế xưa nay vốn là người thích ám chỉ, ông ta chưa bao giờ nói trắng ra như thế cả. Hôm nay ông ta phải nói đến mức này, các quyền thần trong điện Thùy Củng chỉ biết đồng loạt vái dài. Nếu quan viên Đại Tống không phải quỳ trước hoàng đế, thì chắc chắn bọn họ đã quỳ rạp xuống hết rồi.

Triệu Phụ thở dài: "Các khanh không hiểu dụng tâm lương khổ của Thái tổ rồi!"

Tháng năm, Triệu Phụ bãi bỏ ty Độ Chi. Một cơ quan được tái thiết chưa đầy một năm đã chết yểu như vậy.

Môn Hạ Tham tri Chính sự Triệu Tĩnh giám sát kém hiệu quả, bị biếm đến Hồ Tây làm phủ doãn Tần Châu, hàm tứ phẩm. Hữu thị lang bộ Hộ Tần Tự bị biếm đến Liễu Châu làm Tiết độ sứ. Nhận thánh chỉ xong, cũng coi như không còn cơ hội diện thánh thêm lần nữa.

Triệu Tĩnh và Tần Tự nhận thánh chỉ, chỉ biết ngửa mặt nhìn trời, lòng hoang mang.

Hôm sau, Triệu Tĩnh đến phủ Tả tướng bái kiến thầy.

Tả tướng Kỷ Ông Tập xuất thân hàn môn, tuy giờ ông là Tả tướng quyền cao chức trọng, nhưng không vì thế mà mất chất thanh liêm. Ông khoản đãi học trò cưng của mình chỉ bằng những món ăn mà Tả tướng phu nhân đích thân nấu nướng, bữa cơm toàn rau dại, tổng cộng hai món mặn hai món chay.

Triệu Tĩnh thấy Tả tướng, nước mắt lưng tròng, quỳ phục xuống: "Học trò có lỗi với tiên sinh!"

Kỷ Ông Tập đỡ lấy Triệu Tĩnh trước khi hai đầu gối người học trò kịp chạm đất. Ông nói: "Bá An đâu có lỗi với vi sư, lại đây ăn cơm đã, đừng khóc lóc sướt mướt thế. Tuy cơm canh hôm nay chỉ có rau dại, nhưng con đến Tần Châu rồi, khéo chẳng có nổi rau dại mà ăn ấy chứ."

Tần Châu là xứ hoang vu, chó ăn đá gà ăn sỏi. Triệu Tĩnh đi chuyến này, không biết bao giờ mới được về.

Triệu Tĩnh làm sao nuốt trôi cơm nữa, nghẹn ngào thưa: "Học trò làm việc không nên thân, còn liên lụy đến tiên sinh, khiến tiên sinh bị bệ hạ trách cứ trên triều đình."

Kỷ Ông Tập cười: "Không phải lỗi tại con, do ta tính toán sai lầm. Ta cứ tưởng rằng CungThuyên thúc đẩy việc sửa đổi thuế ruộng là vì lợi ích của thế gia đại tộc phía ông ta, nên mới ra tay cản trở, cương quyết mở lại ty Độ Chi. Giờ một năm đã qua, ngoảnh đầu nhìn lại, ta mới nhận ra mình đã coi thường CungĐức Chiêm rồi. Ta hẹp hòi quá, trong chuyện này, ta không rộng lượng bằng ông ấy!"

Triệu Tĩnh không hiểu nổi: "Tiên sinh?"

"Việc CungThuyên muốn làm, những tháng gần đây, ta cũng vỡ vạc ra đôi chút. Nếu ông ta thành công thật thì quả là một công trình lớn lao hữu ích. Giờ ông ta xây dựng ty Ngân Dẫn ở Tây Bắc, về cơ bản ta hiểu ý ông ta, nhưng chẳng còn năng lực để nhúng tay vào nữa."

Triệu Tĩnh áy náy: "Lỗi tại học trò làm hỏng việc."

Kỷ Ông Tập: "Tái ông mất ngựa, biết là họa hay là phúc đâu con?" Triệu Tĩnh ngơ ngác không hiểu.

Kỷ Ông Tập ăn rau, trỏ đũa về phía Bắc. Đó là hướng hoàng cung Đại

Tống. "Con nghĩ xem, bây giờ đồ đệ ruột của lão phu bị biếm đến Tần Châu, phe cánh Tả tướng tổn thất. Hoàng đế liệu đã yên tâm chưa?"

Triệu Tĩnh suy nghĩ hồi lâu, lật lại hết những chuyện tai nghe mắt thấy suốt trong năm vừa qua.

Nghĩ xong, Triệu Tĩnh lạnh toát cả người, bầu nhiệt huyết trong lồng ngực vỡ òa. Là học trò tâm đắc của Kỷ Ông Tập, Triệu Tĩnh đương nhiên không dốt nát. Giờ phút này, ông ta đã thực sự thông suốt mọi chuyện rồi.

Triệu Tĩnh đứng dậy chắp tay vái: "Đại nghĩa của tiên sinh, học trò đã thấm thía!"

Kỷ Ông Tập thản nhiên cười: "Ăn cơm đi!"

||

Manh: Không hiểu sao tui chợt nghĩ, sư huynh ưa mặc áo trắng, dáng vẻ lại như thần tiên, còn là sư phụ Chu Tử Thư, chẳng phải là Tiểu Long Nữ (Nam) đấy ư? Thế mà Chu Tử Thư dám gọi sư huynh là "Bố" thay vì "Thần tiên ca ca".

------oOo------

Chương 82

Nguồn: EbookTruyen.Net

Tan cuộc

Phủ Tả tướng mộc mạc hơn hẳn so với các phủ Thừa tướng khác.

Thầy trò hai người ăn cơm xong, lau sạch tay bằng khăn ẩm rồi đến thư phòng của Kỷ Ông Tập.

Vừa mới mở cửa, hương giấy mực cũ kĩ đã phả vào mặt. Kỷ Ông Tập vào trong thư phòng, lấy mấy cuốn sách đưa cho Triệu Tĩnh. Triệu Tĩnh cung kính nhận bằng cả hai tay.

Kỷ Ông Tập: "Đường đi Tần Châu gian nan, núi non trùng điệp, không biết bao giờ mới gặp lại nhau. Con ở đàng ấy ráng đọc nhiều, sau này có dịp hồi kinh thì thuật lại cho vi sư nghe."

Triệu Tĩnh: "Học trò xin vâng."

Tặng sách xong, thầy trò hai người cáo biệt.

Triệu Tĩnh cúi rạp mình, chắp tay giơ cao: "Học trò mong còn được gặp lại tiên sinh ở Thịnh Kinh."

Kỷ Ông Tập cười: "Đi đi con."

Triệu Tĩnh quay gót ra đi, đầu không ngoảnh lại. Đầu giờ chiều, một cỗ xe ngựa gọn nhẹ chở theo mấy hòm sách rời khỏi Thịnh Kinh. Đến chạng vạng, từ cổng phủ Hữu thị lang bộ Hộ cũng có mấy cỗ xe ngựa chở theo hành lí chạy ra khỏi thành. Xe ngựa rời thành được khoảng mười dặm thì đến đình Thập Lý. Tần Tự vén rèm lên, hai mắt sáng ngời, ra lệnh cho xà ích thắng xe lại.

Xe ngựa dừng bánh, Tần Tự trong bộ thường phục nhanh nhẹn bước tới đình Thập Lý, hành lễ: "Tội quan Tần Tự xin được diện kiến Thượng thư đại nhân."

Bốn bề cuồn cuộn cát vàng, trên con đường cổ xưa dài tít tắp là một ngôi đình bé nhỏ đơn sơ. Trong đình, Cung Tuấn ngồi chờ Tần Tự đã lâu.

Cung Tuấn ngắm nghía Tần Tự một hồi, giọng chàng điềm đạm: "Tần đại nhân gầy đi nhiều quá." Tần Tự khổ tâm lắm chứ.

Từ hồi xảy ra án mạng ở phủ Quảng Lăng đầu năm nay, anh ta bị hoàng đế giam lỏng tại nhà gần nửa năm, có khỏe mấy cũng gầy mòn thành cái xác ve. Tần Tự áy náy: "Tội quan thẹn với Thượng thư đại nhân, làm hỏng cả việc ở ty Độ Chi lẫn bộ Hộ."

Cung Tuấn tỏ ra ngạc nhiên: "Ngươi có sai gì đâu nhỉ?"

"Đại nhân?"

"Trước những ngày nắng đẹp, bao giờ cũng có mây đen che khuất mặt trời và mưa rào xối xả. Đến lúc trời quang mây tạnh, vầng thái dương sẽ còn rạng rỡ hơn cả trước cơn mưa. Chẳng lẽ Tần đại nhân không thấy vậy ư?"

Tần Tự rối bời, cuối cùng anh ta đành thở dài: "Vâng." Cung Tuấn chỉ cười chứ không nói nữa.

CungThuyên muốn mượn hai mươi ba điều cải cách thuế ruộng làm vỏ bọc ngụy trang để tránh tai mắt thế gia đại tộc, âm thầm phát triển tiền giấy. Tiếc rằng đường lối này đã trở thành ngõ cụt. Những người đi trên con đường ấy, dù Triệu Tĩnh hay Tần Tự thì đều bị liên lụy, biếm trích đến đất khách quê người.

Nhiệm vụ của ty Độ Chi nếu thắng lợi sẽ mang lại vô vàn lợi ích cho dân chúng, Tần Tự biết chứ. Nhưng đằng sau mỗi công trình lớn luôn ẩn chứa vô vàn rủi ro. Tần Tự biết mình làm việc cho CungThuyên và cho Cung Tuấn; chỉ tiếc rằng trong cuộc chiến giữa hai đảng phái, cả anh ta lẫn Triệu Tĩnh đều bại trận, hai hổ cắn nhau con thương còn què. Dẫu vậy, Tần Tự vẫn ôm hi vọng. Khi tới đình Thập Lý để tiễn khách ngoài thành, anh ta đã ngó ra ngoài với nhiều mong đợi.

Quả nhiên, Tần Tự thấy được Cung Tuấn!

Tần Tự im lặng, anh ta đợi một lời giao hẹn từ Cung Tuấn.

Tất nhiên, Cung Tuấn không khiến anh ta thất vọng.

"Nghe nói Vu Đức thích ăn điểm tâm của Thái Kỳ trai nhất. Thái Kỳ trai chỉ kinh doanh ở Thịnh Kinh chứ không có chi nhánh ở đâu khác. Nếu không được ăn thêm một lần nữa, chẳng phải sẽ nuối tiếc đến tận cuối đời sao?"

Hai mắt Tần Tự bừng sáng: "Đại nhân..."

Cung Tuấn cười: "Thích thì cứ ăn nhiều lên nhé."

Phía tây, vầng mặt trời từ từ lặn xuống. Đằng đông, mảnh Tuấng sáng dần dần ngoi lên.

Cung Tuấn và người hầu đứng trong đình Thập Lý, dõi theo ba cỗ xe ngựa đưa Tần Vu Đức rời khỏi Thịnh Kinh. Tần Tự ngồi trong xe, trên tay là điểm tâm Thái Kỳ trai Cung Tuấn đưa cho. Anh ta mở hộp ra ăn một miếng. Tần phu nhân lấy làm lạ: "Phu quân xưa nay có chuộng những của ngọt này bao giờ đâu?"

Tần Tự cười lớn: "Phu nhân nhầm rồi đấy. Từ nay về sau, Tần Vu Đức ta sẽ thích đồ ngọt!"

Hai đảng tranh chấp, có được có mất, nhưng ty Độ Chi sau cuộc chiến này coi như chấm hết.

Triệu Phụ đã từng trách cứ các đại thần trên điện Thùy Củng, chất vấn rằng họ thực sự cho rằng Thái Tổ bãi bỏ Tam Ty chỉ để làm suy yếu quyền Tể tướng, củng cố hoàng quyền sao? Các quan lớn trong điện im phăng phắc, không ai trả lời ông ta. Lúc đó, ngoài hoàng đế và các đại quan nhất phẩm, nhị phẩm ra thì chỉ còn một Khởi Cư lang và một Khởi Cư xá nhân trong điện.

Tiếc rằng hai người này trời sinh ngu độn, tuy có lòng trung thành, nhưng trước những chuyện thế này thì chỉ biết nhắm mắt bịt tai, không dám nghe cũng chẳng dám nghĩ.

Câu hỏi này sau đấy bị Cung Tuấn coi như truyện tiếu lâm, kể lại cho Chu Tử Thư nghe chơi.

Chu Tử Thư nghe xong, tí nữa thì cười phá lên.

Thái Tổ ấy à?

Thái Tổ là một tay mãng phu chính hiệu kia mà!

Một tướng quân thô lỗ giành lấy giang sơn từ chiến trường máu lửa!

Còn lí do nào khác để Thái Tổ loại trừ Tam Ty ngoài mục đích hạn chế quyền lực thừa tướng? Chẳng nhẽ ông ta vẽ ra nổi cái gì cao siêu lắt léo hơn?

Triệu Phụ mượn uy Thái Tổ để chặn miệng bốn vị tướng công, miễn cho họ nhì nhằng đòi tái thiết Tam Ty thêm lần nữa. Sau vụ ty Độ Chi, cả Kỷ đảng lẫn Cungđảng đều tổn thất, riêng Triệu Phụ làm Lã Vọng buông câu, ung dung quan sát bề tôi tranh giành đấu đá.

Nhưng có thật là chỉ mình hoàng đế được lợi chăng?

Triệu Tĩnh bị cách chức, Kỷ Ông Tập mất đi cánh tay đắc lực nhất trong triều của mình, Triệu Phụ càng yên tâm hơn về phe Tả tướng.

Tần Tự bị cách chức, Cung Tuấn mất đi một thuộc hạ giỏi giang, Triệu Phụ đôn một người thuộc phe Tả thừa Trần Lăng Hải lên ghế Hữu thị lang bộ Hộ. Song ngoài chuyện đó ra, Cung Tuấn hoàn toàn không sứt mẻ chút nào. Trái lại, Triệu Phụ còn giao phó ty Ngân Dẫn cho chàng toàn quyền quyết định, tin dùng hơn cả trước.

Ty Ngân Dẫn mới được thiết lập ở Tây Bắc, chủ yếu quản lí lương thực và tiền lương cho quân sĩ.

Hồi tháng tư, Chu Tử Thư lén gửi sổ con cho CungThuyên, chỉ sau mấy ngày, CungThuyên đã viết một bản tấu dâng lên hoàng đế. Lúc ấy, Triệu Phụ đang tràn trề thất vọng với ý tưởng "lấy giấy làm tiền", bực bội không vui mãi.

Triệu Phụ đã ngoài sáu mươi, suốt ba mươi năm trị vị, ông ta đã lập nên nhiều công trạng vẻ vang. Tỷ như năm Khai Bình thứ mười, Triệu Phụ tuyên chiến với nước Liêu, kết thúc bằng một hòa ước giữa hai nước. Tỷ như năm Khai Bình thứ mười bảy, Triệu Phụ cho người sửa trị Hoàng Hà, giảm thiểu đáng kể nguy cơ lũ lụt. Mới hơn thì cách đây hai năm, Triệu Phụ ra lệnh xây dựng ba tuyến quan đạo kết nối miền Bắc, một công trình mà đến trăm năm sau vẫn có sức ảnh hưởng to lớn.

Làm một minh quân, Triệu Phụ nghĩ, mình đã xứng đáng lưu danh thiên cổ rồi.

Nhưng nếu hoàn thành được việc "thay tiền bằng giấy", ông ta càng có cơ hội trở thành vị đế Cunghiển hách nhất trong hàng nghìn năm lịch sử.

CungThuyên vẽ ra cho ông ta một viễn cảnh phi thường, nói rằng có thể lấy cải cách thuế ruộng làm bình phong để phổ biến tiền giấy. Kết quả thì sao? Cả Kỷ Ông Tập lẫn CungThuyên, hai tể tướng đầu triều hợp sức mà sự vẫn đổ bể! Hôm nay CungThuyên lại bảo ông ta rằng tâu hoàng thượng, nếu chúng ta không mượn đường cải cách thuế ruộng được, thì chúng ta mượn nẻo tiền lương quân đội Tây Bắc. Lấy tình hình chiến sự Tây Bắc làm vỏ bọc, âm thầm tiến hành công cuộc "dùng giấy thay tiền"!

Triệu Phụ tuy bán tín bán nghi, nhưng ông ta vẫn cho phép.

Ty Ngân Dẫn, ngoài mặt là cơ quan quản lí tiền lương cho ba quân, nhưng sau khi ba lối quan đạo được xây xong, Ty Ngân Dẫn Tây Bắc sẽ tự động trở thành một ngân hàng như thời hiện đại! Ty Ngân Dẫn sẽ là nơi các quan võ tập trung toàn bộ những thứ triều đình phát xuống. Nếu muốn sử dụng, bắt buộc phải có văn tự làm bằng chứng. Nhưng dần dà, ty Ngân Dẫn sẽ phát hành các loại "tiền giấy". Quân sĩ sẽ không nhất thiết phải đi đổi tiền và vật phẩm về nữa; trong phạm vi các châu Tây Bắc, họ có thể giao dịch trực tiếp bằng văn tự, ty Ngân Dẫn "chỉ nhận giấy, không nhận người"!

Đây là kế che mắt mà Chu Tử Thư hiến cho CungThuyên.

Tây Bắc là nơi Đại Tống tiếp giáp với nước Liêu, quanh năm chiến loạn không ngừng nghỉ. Đây là nơi mà bàn tay của thế gia đại tộc không thể vươn tới, nên nó là thí điểm lí tưởng cho chính sách phổ biến tiền giấy. Sau khi thử nghiệm thành công và hoàn thiện kĩ lưỡng khâu chuẩn bị ban đầu, việc nhân rộng mô hình ra toàn quốc sẽ vừa đơn giản mà lại vừa hiệu quả. Khi ấy, giới quý tộc sẽ rơi vào thế bị động, muốn trở tay cũng không kịp nữa rồi.

Hiềm nỗi, công việc này vô cùng vất vả, không thể thành công trong một sớm một chiều. Chính vì thế, Triệu Phụ mới giao trọng trách cho thanh niên trai tráng Cung Tuấn thay vì CungThuyên.

Trên triều đình, đến tận khi ty Ngân Dẫn chính thức vận hành, quần thần dẫu ôm một bụng ngờ vực cũng không hiểu nổi rốt cuộc cơ quan này đang làm cái gì.

Kỷ Ông Tập ngầm ưng thuận, để mặc cho ty Ngân Dẫn hoạt động.

Giữa mùa hè như thiêu như đốt, Chu Tử Thư soát tấu chương xong thì trình lên Từ Bí. Từ Bí kiểm tra xong xuôi, Chu Tử Thư đang định về chỗ mình làm thì Từ Bí lại cười bảo: "Đường đại nhân, hiện giờ triều đình nhiều việc, tấu chương ngươi phải xem sẽ tăng lên so với trước đấy."

Chu Tử Thư dừng bước, quay lại thưa: "Hạ quan tuân mệnh."

Đến khi Chu Tử Thư trở về phòng mình, quả nhiên sai nha khiêng một hòm tấu chương đặt lên bàn cậu. Chu Tử Thư mở ra đọc, không chỉ có báo cáo quân sự Tây Bắc, cả tấu chương từ các vùng miền mà Từ Bí không cho cậu tiếp cận hồi năm ngoái giờ cũng trở về rồi. Chu Tử Thư trầm tư nhìn đống tấu chương, nhắm mắt ngẫm nghĩ xem rốt cuộc hơn một năm vừa qua Từ Bí đã làm những gì.

Nghĩ xong cậu chỉ thấy tức cười.

Từ Bí chẳng làm gì cả!

Kỷ đảng bị biếm trích, Cungđảng chỗ được chỗ mất. Phe Trần Lăng Hải có một người thế chân Tần Tự, trở thành Hữu thị lang bộ Hộ. Còn Từ Bí, ông ta chẳng làm gì cả, cũng chẳng thiệt gì cả! Ông ta vẫn cứ là người vô hình trong mắt hoàng đế, một Hữu thừa có mà như không, một quyền thần không hề mang lại bất cứ mối uy hiếp nào cả.

Trong lúc đó, Hữu thị lang bộ Lại Dư Triều Sinh bước vào gian phòng của

Từ Bí, vái chào: "Học trò bái kiến tiên sinh."

Từ Bí cười hiền từ với anh ta: "Hiến Chi, con và Đường Cảnh Tắc tài thật đấy. Cứ lúc cậu ta vừa đi là con xuất hiện."

Dư Triều Sinh ngạc nhiên: "Đường đại nhân vừa tới đây ạ?"

Từ Bí nói: "Ngồi đi."

Thầy trò hai người ngồi đối diện nhau, trao đổi đôi chút về học vấn rồi chuyển sang chuyện gia đình của Dư Triều Sinh. Dư Triều Sinh về Thịnh Kinh đã được nửa năm. Mấy hôm trước, vợ anh ta sinh em bé. Hôm nay Dư Triều Sinh đến đây cốt là để xin thầy đặt tên cho con mình.

Từ Bí nói: "Con thành thân hơn mười năm, cuối cùng cũng có đứa con nối dõi, cởi nỗi băn khoăn bấy lâu nay của vi sư. Chắc con cũng biết, hai năm trước vi sư còn suýt tưởng con giống CungTử Phong, cùng phường đoạn tụ."

Dư Triều Sinh hốt hoảng: "Cungđại nhân mà mê Long Dương ấy ạ? Làm sao tiên sinh biết được?"

Từ Bí hỏi ngược lại: "Nếu không chuộng Long Dương, thì cớ sao y đã hai mươi tám tuổi mà vẫn chăn đơn gối chiếc? Hiến Chi ơi là Hiến Chi, việc bé tẻo teo ấy con cứ ngẫm một tí là nó lộ ra ngay. Mà ắt hẳn hoàng đế của chúng ta đã biết việc này rồi. Bằng không, luật lệ Đại Tống ta không cấm

Phò mã làm quan, một hôn phu xuất sắc nhường ấy, đáng lí phải được

Thánh thượng ban hôn với công chúa, kết mối thân tình từ lâu rồi."

Dư Triều Sinh ngượng ngùng: "Học trò có mắt như mù."

"Thánh thượng tin sủng y như thế, khó có chuyện ngài không biết nguyên nhân y mãi bơ vơ lẻ bóng, không vợ không con lắm." Từ Bí im lặng một lát mới nói tiếp: "Thôi kệ y. Con đầu lòng của con, phải đặt tên thật hay mới được. 'Phạt kha như hà? Phỉ phủ bất khắc,' đặt là Dư Kha có được không?"

"Tạ ơn tiên sinh ban tên."

Kha là cán rìu, có thể được ví von với lễ nghĩa hoặc người quân tử mẫu mực.

Hai thầy trò lại hàn huyên thêm một lúc, Từ Bí nhấp ngụm trà, ý nhị nói: "Năm ngoái CungThuyên dâng tấu xin thực thi hai mươi ba điều cải cách thuế ruộng, lão phu lập tức thay đổi công việc của Đường Cảnh Tắc, chỉ cho cậu ta đọc tấu sớ từ Tây Bắc chứ không cho đụng đến các vấn đề địa phương. Ai dè năm nay, CungThuyên lại đề xuất lập ty Ngân Dẫn ở chính vùng Tây Bắc. Ty Ngân Dẫn, Tây Bắc... Cậu Đường Cảnh Tắc này cũng hay ho ra phết."

Năm Khai Bình thứ ba mươi, ngày hai mươi ba tháng bảy. Miền Tây Bắc, ba mươi dặm ngoài thành Yến Châu.

Đêm hè Tây Bắc cháy bỏng như rượu Thiêu Đao tử, không khí khô ran, những trận gió ào ạt không mang đến sự dịu mát mà phả từng luồng hơi oi nồng lên mặt. Hơn ba mươi tướng sĩ trẻ tuổi trong trang phục đi đêm núp sau một gò núi nhỏ, lẳng lặng quan sát phía trước.

Ở giữa đội ngũ là một tướng quân với gương mặt sáng láng điển trai, nước da ngăm đen và thân hình cao lớn. Cặp mắt sáng quắc của hắn ghim chặt vào con đường nhỏ gập ghềnh dưới chân gò núi. Ánh Tuấng rọi vào đôi mắt đầy nhiệt thành, hừng hừng như có lửa.

"Cà rộp... cà rộp..."

Có tiếng ngựa xe vọng lại từ đằng xa.

Chừng một khắc sau, một toán người Liêu thoạt trông như một đội lái buôn băng ngang gò núi nhỏ. Toán người đó đi tới giữa hai tảng đá đồ sộ; bất thình lình, tay lái buôn đầu đoàn sa vào hố bẫy, cả đoàn ngựa thồ hoảng loạn, rối tung cả lên.

"Mai phục, có mai phục!" Toán người Liêu hét ầm lên, nói liên thoắng bằng ngôn ngữ của họ.

Trên gò núi, một mũi thương Nhạn Linh vừa tuốt khỏi vỏ ngay tức thì, ánh thương sáng lóa như tuyết. Lý Cảnh Đức gầm lên: "Quân Phi Long ở đâu!"

Trong đêm Tuấng, ba mươi tướng sĩ dạ ran váng trời: "Ở đây!"

"Xông pha theo bản tướng quân!"

"Rõ!"

Quân Liêu ngụy trang thành lái buôn nghe tiếng reo hò rung trời chuyển đất thì sợ vãi linh hồn, vội nhìn lên gò núi. Té ra địch chỉ có mấy chục mống người! Chỉ mấy chục người mà khí thế cứ như thiên quân vạn mã. Binh tướng nước Liêu tức tối chửi ầm lên, rút phắt khảm đao từ xe ngựa ra, xông vào trận chiến.

Dưới ánh Tuấng vằng vặc, binh khí cắm vào thịt da, máu đào tung tóe.

Chòm tua trắng dưới mũi thương Nhạn Linh đỏ ngầu.

Sau trận chém giết, quân Tống bắt giữ được mấy tướng sĩ Liêu làm tù binh, tịch thu toàn bộ lương thảo, tiền bạc cho quân đội mà đoàn xe thồ theo.

Một người Liêu bị áp tải đến trước mặt Lý Cảnh Đức: "Thưa tướng quân, chỉ huy của toán quân Liêu đã chết, kẻ này hình như có chức quan cao nhất trong đám tù binh. Y không phải lính Liêu mà là quan văn. Ban nãy, toán quân kia đang hộ tống y thì bị quân ta tóm gọn."

Lý Cảnh Đức chùi máu trên mặt bằng tay áo: "Phải quan lớn không?"

Viên quan người Liêu thế mà biết nói tiếng Tống, chửi toáng lên: "Thằng súc sinh Lý Cảnh Đức! Chỉ nay mai thôi, quân Liêu tao sẽ đánh rốc tới thành U Châu, chặt đầu mày bêu trước cổng thành!"

Chớp mắt, mũi thương bạc cắm phập vào ngực tên quan Liêu. Y ngỡ ngàng, chết rồi mà vẫn không hiểu tại sao có kẻ dám giết tù binh, nhất là một tù binh đáng lẽ sẽ hữu dụng như mình.

"Mẹ cha nhà mày. Thấy bố mày im im, mày tưởng bố không biết cáu hả?"

Lính Tống cũng đến bó tay với chủ tướng: "Kìa tướng quân!"

"Rút thôi, khuân hết đống chiến lợi phẩm này về, trình lên Đại nguyên soái đòi khao thưởng."

||

Nếu không nhầm thì đình Thập Lý (mười dặm ngoài) nơi để tiễn người nào đi xa lần cuối.

Chú thích

Tớ tra tự điển thì thấy: 粮 (lương) – lương thực, 饷 (hướng) – tiền lương của quân sĩ/chi cho quân đội, 俸 (bổng) – tiền lương của quan lại. Từ những từ này mà chúng ta có các từ Hán – Việt như lương hướng (giờ đã ít dùng rồi), hay lương bổng (vẫn còn phổ biến) :) Riêng từ 军饷 (quân hướng) MTH dùng khá nhiều thì nó bao gồm cả tiền lương và lương thực, Hán Việt tự điển cũng giải nghĩa là lương thực dùng trong quân đội, nên tớ sẽ chuyển ngữ linh hoạt thành tiền lương/quân lương theo ngữ cảnh.

Trích bài thơ Đẽo rìu 1 – Kinh Thi. Bản dịch Nguyễn Văn Thọ:

Cán rìu phải đẽo làm sao?

Không rìu đẽo cán, cán nào đẽo xong.

Nhạn Linh thương là loại thương có hai cánh móc ngược. Khi bổ xuống hoặc bổ ngang, hai móc này sẽ gây sát thương cho đối thủ. Hình dáng mũi thương như một con ngỗng trời đang bay nên có tên là Nhạn Linh (lông ngỗng trời).

Nhạn Linh thương

Khảm đao là loại đao dùng để chặt, phạt, vừa được dùng trong canh tác vừa được phát triển thành vũ khí.

Khảm đao

------oOo------

Chương 83

Nguồn: EbookTruyen.Net

Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức

Năm Khai Bình thứ ba mươi, tháng chín, hai lối quan đạo dẫn đến U Châu và Thứ Châu đã hoàn thành.

Thượng thư bộ Công Viên Mục và Hữu thị lang Tô Ôn Duẫn hồi kinh, báo cáo lên Thánh thượng. Hoàng đế vui mừng khôn xiết, thưởng lớn cho quần thần. Thật sự thì đường đi Thứ Châu có thể xây xong từ lâu rồi, nhưng sau vụ sập cầu sông Kinh Hà thì không ai có gan bớt xén nữa. Tất cả đều cố gắng làm chu đáo nhất có thể, thành ra đến tận bây giờ mới xong.

Tô Ôn Duẫn về kinh, một mình đảm đương hai chức Hữu thị lang bộ Công và Thiếu khanh Đại lý tự, tiếng tăm nổi như cồn, trở thành nhân vật có sức nóng hàng đầu Thịnh Kinh.

Tô gia ở Bắc Trực Lệ là dòng tộc thịnh vượng nhất nhì Đại Tống, nhưng con cháu Tô gia chủ yếu theo nghiệp võ, đằng quan văn chỉ có Tô Ôn Duẫn đang giữ chức cao nhất.

Tô Ôn Duẫn về kinh là phải đến điện Cần Chính làm việc.

Chu Tử Thư không thể tránh được việc giáp mặt đối phương đôi ba bận.

Mỗi tội Tô đại nhân là quý nhân hay quên, thì giờ đâu mà chú ý đến Chu Tử Thư. Hai người không đối đầu nhau lần nào nữa, nên Chu Tử Thư rất chi là vui sướng thảnh thơi.

Thiếu khanh Đại lý tự là người phụ trách xử lí quan viên có tội trên cả nước, chẳng ai dại làm mích lòng Tô Ôn Duẫn cả.

Trên triều đình, Cung Tuấn phụ trách ty Ngân Dẫn, quyền hành không hề nhỏ. Nước nổi thuyền lên, Chu Tử Thư là sư đệ của Cung Tuấn nên càng được Triệu Phụ coi trọng. Dù vậy, Chu Tử Thư chung quy vẫn là Trung Thư xá nhân dưới quyền Từ Bí.

Hôm ấy, có Thái giám đến điện Cần Chính truyền lời rằng sắp đến ngày mừng thọ hoàng đế, Thái hậu dặn dò bộ Lễ phải chuẩn bị "Tiết Vạn Thọ" năm nay thật chu đáo.

Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng nhận dụ lệnh, cả triều đình lại bận bù đầu.

Là Trung Thư xá nhân, Chu Tử Thư theo lệnh Từ Bí, bắt tay vào rà soát tấu chương chúc thọ và lễ lạt các địa phương dâng lên. Quà mừng thọ của hoàng đế đâu thể giống quà sinh nhật của thường dân. Dù anh có làm quan ở đâu, phẩm cấp lớn nhỏ ra sao, cũng phải dâng quà mừng thọ tuốt. Chưa kể, lễ vật dâng vua phải chú trọng ba chữ "tinh", "trân", "kỳ". Riêng việc tìm một món quà "tinh túy" đã khiến các quan phải vò đầu bứt tóc rồi, nữa là "quý" và "hiếm".

Thế là tự dưng, Chu Tử Thư phải tiếp nhận hàng núi tấu chương. Tấu chúc thọ của bá quan thì văn vẻ bay bướm, còn quà cáp thì khỏi nói, món nào món nấy đều xa xỉ vô cùng.

Tả thừa Trần Lăng Hải cũng phụ trách "Tiết Vạn Thọ" năm nay. Chu Tử Thư không tránh được việc tiếp xúc với ông.

Trần Lăng Hải gọi Chu Tử Thư vào gian làm việc của mình, hỏi: "Tình hình quà mừng của quan viên các chốn thế nào rồi?"

Chu Tử Thư bèn giả ngơ hộ các quan: "Bẩm Trần tướng công, các miền Hồ

Tây, Giang Nam, Nam Bắc Trực Lệ, Tây Bắc đều đã dâng tấu và quà mừng.

Những địa phương khác cũng đã gửi tấu chúc mừng, hiềm nỗi đường xá xa xôi, quà mừng thọ của nhiều địa phương vẫn còn đang trên đường vận chuyển, tạm thời chưa tới ạ."

"Tiết Vạn Thọ năm nào cũng tổ chức. Mọi năm ra sao, bản quan còn lạ gì nữa."

Ngụ ý: Quan lại những miền thâm sơn cùng cốc có thể tặng cái gì, chớ mất công lấp liếm, mọi người đều biết tuốt đấy.

Chu Tử Thư nghe thế thì cười gượng: "Hạ quan vẫn đang đôn đốc kiểm tra ạ."

Trần Lăng Hải: "Thực ra cũng không cần gay gắt quá. Bệ hạ hằng ngày thức khuya dậy sớm, cần mẫn lo việc nước việc dân. Quyết định của bệ hạ có ảnh hưởng trên toàn bờ cõi, nhưng bao giờ cũng có những địa phương chưa kịp hay tin. Quà mừng thọ chỉ cần nhập kho là được. Bệ hạ biết các quan địa phương gian lao vất vả, chưa bao giờ khiển trách nặng nề cả."

Nghe xong, Chu Tử Thư lập tức hành lễ: "Hạ quan đội ơn tướng công chỉ điểm."

Trần Lăng Hải nở nụ cười, vuốt chòm râu: "Năm nay là lần đầu ngươi tham gia chuẩn bị Tiết Vạn Thọ, chắc chắn còn nhiều bỡ ngỡ, hướng dẫn một câu cũng không hại gì. Vả lại, lão phu với thầy ngươi là chốn bạn cũ. Thời tiên đế, ta và Phó Hi Như đều thuộc tứ nho thiên hạ. Nay hồi tưởng lại, những năm tháng ấy vẫn còn rõ như in."

Chu Tử Thư cung kính thưa: "Gia sư cũng từng kể cho hạ quan nghe về Trần tướng công. Tiên sinh nói rằng Trần tướng công am hiểu nhất là vẽ hoa cỏ và chim chóc. Giữa muôn hoa khoe sắc, một chú vàng anh lấp ló giữa bụi hoa, sinh động y như thật, khiến ai ai cũng phải trầm trồ."

Sau khi rời khỏi phòng Trần Lăng Hải, Chu Tử Thư trở về chỗ mình làm. Trong đầu cậu bộn bề suy nghĩ nhưng mặt mũi thản nhiên như không. Cậu tiếp tục rà soát danh sách quà tặng các địa phương gửi về.

Hơn ba mươi năm về trước, có bốn vị đại nho đức cao vọng trọng, được cả nước tôn xưng là "tứ nho thiên hạ". Bốn người ấy theo thứ tự là Chung Thái Sinh, Lương Bác Văn, Phó Hi Như và Trần Duy Chỉ.

Trần Lăng Hải, tự Duy Chỉ, lấy từ bài Huyền Điểu trong Kinh Thi.

Bang kỳ thiên lý, duy dân sở chỉ, triệu vực bỉ tứ hải1.

(TQP dịch: Kinh kỳ ngàn dặm rộng thay, là nơi bách tính tụ vầy ở chung, mà lĩnh vực xa cùng bốn biển)

Trong bốn người, Chung Thái Sinh thành danh nhờ học vấn đồ sộ khiến ai ai cũng choáng ngợp, được cả thiên hạ kính ngưỡng; Lương Bác Văn có kiến thức uyên thâm, từng được ngợi ca là tủ sách sống của Đại Tống. Phó Hi Như có sở trường thư pháp, Trần Duy Chỉ thạo nhất vẽ tranh. Thời bấy giờ, bốn người này là nhóm quyền thần ưu tú nhất triều đình. Chỉ tiếc Chung Thái Sinh và Lương Bác Văn thuộc đảng Tùng Thanh, sau khi ép vua nhường ngôi thất bại thì bị Triệu Phụ chán ghét. Thế nên hơn mười năm qua, chỉ có Phó Hi Như và Trần Lăng Hải bảo toàn được bản thân.

Chu Tử Thư khá để mắt đến Trần Lăng Hải, chủ yếu là vì trước đây khi soạn di vật của Lương Tụng, Từ Tuệ phát hiện một bức mật thư Trần Lăng Hải gửi cho ông. Trong thư, Trần Lăng Hải khuyên bạn thân đừng cố gắng cứu Chung Nguy ra khỏi thiên lao nữa, vì hoàng đế sẽ không bao giờ thả Chung Nguy. Việc hoàng đế đã không muốn, dù Lương Tụng có viết bao nhiêu bản tấu, cậy nhờ bao nhiêu mối quan hệ đi chăng nữa, cũng không thể thực hiện được.

Sau khi đảng Tùng Thanh bị Triệu Phụ triệt hạ, trong giới quyền thần ở Thịnh Kinh, chỉ còn Phó Vị và Trần Lăng Hải chịu giang tay giúp Lương Tụng.

Chu Tử Thư thở dài.

Quân tử có việc nên làm, có việc không nên làm.

Chẳng lẽ Lương Tụng không hiểu ư?

Biết rõ không thể mà vẫn quả quyết thực hiện, là bởi đối với họ, việc ấy không chỉ là đức tin mà còn là chính đạo nữa!

Tháng mười, viện Hàn Lâm bắt đầu soạn lại Tống Thần sử, Phó Vị hết sức hào hứng với công trình này, ngày nào cũng đến viện Hàn Lâm, dần dần trở nên bận bịu hơn. Chẳng mấy chốc là đến mùng sáu, Chu Tử Thư đi tay không vào phủ Thượng thư.

Quản gia nhà Cung Tuấn thấy Chu Tử Thư không mang quà cáp gì thì lấy làm lạ, ngó nghiêng sau lưng cậu.

Quản gia hỏi: "Đường tiểu công tử đến một mình ạ?" Chẳng thấy xe ngựa đi theo!

Ở phủ Cung Tuấn, quản gia và người hầu xưa nay không gọi chủ là "đại nhân" mà gọi là "công tử".

Chu Tử Thư cười bất đắc dĩ: "Không có xe ngựa đâu." Quản gia im thít, dẫn Chu Tử Thư vào phủ.

Cung Tuấn thấy Chu Tử Thư chẳng đem theo cái gì, cũng nhíu mày, ngó ra sau lưng cậu.

Chu Tử Thư đằng hắng: "Sư huynh đừng có nhìn nữa, hôm nay đệ không mang theo quà tặng đâu."

Cung Tuấn gọi quản gia: "Mang hoàng lịch năm nay đến đây."

Quản gia lấy ngay một quyển hoàng lịch cho Cung Tuấn. Cung Tuấn giở lịch một hồi, chỉ vào hàng chữ "mùng sáu tháng mười", hỏi Chu Tử Thư: "Chẳng lẽ ta nhớ nhầm nhỉ? Tiểu sư đệ, mùng sáu tháng mười không phải sinh nhật ta à?"

Chu Tử Thư: "... Đúng là sinh nhật sư huynh."

Cung Tuấn: "Thế thì hoàng lịch này sai rồi. Mùng một Tết hàng năm, Khâm Thiên giám đều tính toán kĩ càng rồi mới công bố hoàng lịch năm ấy cho cả thiên hạ. Ai biết đâu Lý đại nhân Khâm Thiên giám lại tính nhầm kiểu này. Ngày mai lên triều gặp ông ta, kiểu gì ta cũng phải phê bình ông ấy mới được."

Chu Tử Thư: "..."

CungTử Phong, cái tài nói bóng gió chỉ để mắng khéo người ta chưa tặng quà cho huynh ghê gớm quá rồi đấy!

Quản gia cầm hoàng lịch lui khỏi phòng, Chu Tử Thư cũng giận lẫy. Cậu quen CungTử Phong đã bốn năm nay, vuốt mòn cả mông cọp rồi, còn bài nịnh nào mà chưa hót cho nhau nghe đâu. Chu Tử Thư hứ một tiếng: "Ai bảo ta chưa chuẩn bị quà cho sư huynh?"

CungTử Phong cười tươi như hoa: "Thế để ở đâu rồi?"

Chu Tử Thư: "Lấy giấy bút đi, ta vẽ chân dung cho sư huynh!"

Mười sáu tuổi đỗ Thám hoa, về mặt học vấn Chu Tử Thư cực kì tự tin là mình dư sức đỗ tiến sĩ. Riêng khoản cầm kì thi họa, Chu Tử Thư để mọc rêu lên mốc bấy lâu nay, nói trắng ra là không có gì để thể hiện cả. Biết Chu Tử Thư muốn vẽ tranh, Cung Tuấn cười tít mắt, lập tức sai thư đồng sắp sẵn giấy mực, chờ xem Chu Tử Thư vẽ chân dung mình thế nào.

Mài mực rồi chấm bút, Chu Tử Thư nhìn Cung Tuấn, bắt đầu họa lên giấy.

Ban đầu Chu Tử Thư đánh liều mới quyết định vẽ tranh ngay tại chỗ. Nhưng càng đi bút, cậu càng nhập tâm hơn.

Sau nửa canh giờ, Chu Tử Thư nhấc nét bút cuối cùng. Cung Tuấn bước tới, ngắm nghía một lúc rồi liếc nhìn cậu: "Lén luyện bao lâu hả?"

Chu Tử Thư ngượng nghịu: "Sư huynh phát hiện ra rồi à? Thực sự đệ chẳng biết tặng gì cho huynh vào sinh nhật năm nay cả. Nghĩ mãi nghĩ hoài mới ra ý tưởng vẽ chân dung sư huynh đó. Đệ không giỏi vẽ, mỗi ngày đi làm về đều phải tưởng tượng ra dáng vẻ sư huynh rồi vẽ hai bức, luyện nửa tháng... mới được như hôm nay."

Cung Tuấn cảm động thực sự, môi chàng mấp máy, hiếm hoi lắm mới có lúc lời lẽ trôi tuột đi đâu mất tiêu.

Chu Tử Thư: "Mỗi tội sang năm đệ thực sự không nghĩ ra mình có thể tặng sư huynh quà gì nữa. Nếu đến lúc ấy không được, sư huynh đừng trách đệ nha."

Niềm sung sướng ngập tràn cõi lòng, Cung Tuấn dịu dàng bảo: "Sao ta lại trách đệ được?"

Chu Tử Thư nghĩ thầm: Huynh không trách ta thì tốt, ta cứ phải rào trước từ năm nay, huynh nhớ lời mình nói hôm nay đấy.

Hai người ăn tối với nhau, Cung Tuấn bảo: "Kỹ thuật vẽ của đệ có chút thiếu sót, tối nay ở lại đi, ta chỉ điểm cho đệ."

Chu Tử Thư than thầm trong lòng: "Kìa sư huynh, ba năm trước ta đỗ

Thám hoa rồi kia mà, có còn là đệ tử của huynh đâu!"

"Ai bảo đệ là đệ tử của ta?" Cung Tuấn thản nhiên, "Đệ là sư đệ của ta cơ mà."

Chu Tử Thư: "..."

Người khác thì chong đèn tâm sự thâu đêm, cùng khêu ngọn nến sáng ngời song Tây2. Đến lượt Chu Tử Thư thì thành CungTử Phong dạy cậu vẽ!

Cung Tuấn vẽ giỏi thì có can hệ gì đến Chu Tử Thư chứ! Chu Tử Thư hoàn toàn không thể cảm thụ được sự diệu kì trong hội họa cổ đại. Cậu vẽ được chân dung Cung Tuấn đã là nhờ bí mật luyện tập nửa tháng trời. Cung Tuấn dạy giỏi đến mấy thì Chu Tử Thư cũng thấy như bị tra tấn. Cuối cùng cậu đành giở bài vờ buồn ngủ: "Sư huynh ơi đệ muốn đi ngủ." Cung Tuấn phì cười.

Chu Tử Thư nhân cơ hội đấy chạy biến sang phòng cho khách, đóng cửa ngủ tít thò lò.

Vào lễ mừng thọ của Triệu Phụ, cả nước hân hoan ăn mừng, đại xá thiên hạ.

Nhưng chỉ được vài hôm, tin cấp báo từ Tây Bắc vượt tám trăm dặm truyền về, chiến tranh đã nổ ra, người Liêu tấn công thành U Châu, giằng co ròng rã mấy ngày trời.

Bá quan triều đình bàng hoàng sửng sốt.

Trên ngai rồng, Triệu Phụ chậm rãi nheo mắt. Các quan lần lượt bước lên, mắng chửi người Liêu không tuân thủ hòa ước, thỉnh cầu hoàng đế ra quân đánh Liêu. Triệu Phụ giận ngút trời: "Người Liêu láo xược quá thể! Làm sao mà trẫm dung túng được!"

Vì thế, nhà Tống xuất quân, hai nước đánh nhau to.

Cuộc chiến này kéo dài tròn một tháng.

Tác dụng của quan đạo U Châu được bộc lộ triệt để.

Về tiềm lực quân sự, xưa nay Đại Tống vẫn thua Liêu. Hai mươi năm trước, để buộc nhà Liêu kí hòa ước, quân dân Đại Tống đã phải hi sinh đến hòn tên mũi đạn cuối cùng, xả thân giữ nước mới có thể giành chiến thắng trong gang tấc. Trái lại, về mặt kinh tế, Đại Tống bỏ xa cả năm nước Liêu! Có quan đạo U Châu, tốc độ vận lương được tăng chóng mặt, quân Tống dù yếu thế trên mặt trận cũng có thể cầm cự lâu dài.

Quân Liêu công thành U Châu, tưởng là ngon ăn, chỉ nội trong mười ngày là hạ được thành. Nào ngờ đánh suốt cả một tháng trời, quân Tống không thắng, nhưng người Liêu cũng bị cầm chân ở U Châu.

Chiến tranh là cái lò hóa vàng khổng lồ. Nhà Liêu đã bao giờ có ý định thôn tính cả Đại Tống đâu. Mục đích của họ là dùng sức mạnh quân sự để dồn ép Đại Tống phải cống tiền, cắt đất. Hiện giờ, thấy đánh mãi mà không hạ được U Châu, vua Liêu bèn vờ như rộng lượng, ra lệnh ngừng công thành, tạm thu quân về đóng ở cách thành U Châu năm mươi dặm, phái sứ giả đến Thịnh Kinh, đàm phán hòa bình với vua Tống.

Tin tức truyền đến Thịnh Kinh, quần thần tranh luận ầm ĩ.

Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng tâu: "Người Liêu lòng muông dạ thú, nhất định chúng lại muốn đòi tiền bạc đây!"

Thượng thư bộ Lại Thẩm Vận không tán thành: "Chắc gì. Nghe nói vua Liêu có ý định hòa thân đấy."

Tin tức này có khác nào đòn sấm sét giáng xuống điện Tử Thần đâu. Chẳng những các quan chết trân, mà hoàng thân quốc thích không có mặt ở đây cũng ngã ngửa.

Hòa thân ư?

Vua Liêu ba mươi tư tuổi, đương độ tráng niên, về lí thì là một tấm chồng tuyệt hảo. Khốn nạn thay, Liêu đế xưa nay nổi tiếng là hung tàn! Trừ Tiêu Hoàng hậu ở ngôi chính cung, hậu cung vua Liêu hàng năm có đến mười mấy phi tần bị đức vua dày vò đến nỗi bỏ mạng. Gả công chúa sang Liêu có khác nào gửi vào chỗ chết? Còn bị ngược đãi đến chết nữa!

Nhưng không gì hãi hùng bằng việc Triệu Phụ chẳng có công chúa nào đến tuổi cập kê mà chưa lấy chồng hết cả!

Không có công chúa thì gả ai bây giờ?

Hàng đầu xin mời con gái Cungtôn, hàng hai xin nhường con nhà quan lại.

Tin dữ ập đến, cả thành Thịnh Kinh nước mắt sụt sùi. Ai mà muốn cục vàng cục bạc nhà mình bị đày ải nơi đất khách quê người chứ?

Chuyện này vốn chẳng can hệ gì đến Chu Tử Thư, nhưng các đại thần trong điện Cần Chính mà có con đến tuổi cập kê thì suốt mấy hôm nay chỉ thở vắn than dài, âu sầu thiểu não. Cứ một người thở than là mười người phụ họa, không khí càng thêm ai oán não nề.

Chu Tử Thư phải mang sổ tấu đến phòng Thượng thư bộ Công có việc, vừa đi ra thì gặp Tô Ôn Duẫn.

Hai người đứng ngoài phòng, nghe tiếng Viên Mục thở dài vọng ra.

Viên Mục không có con gái đến tuổi cưới giả, nhưng cháu gái ruột của ông thì vừa khéo!

Tô Ôn Duẫn cười nhạt: "Đoàn sứ giả nước Liêu còn chưa đến nơi, triều đình đã loạn cào cào rồi. Giờ mà họ đến thật thì chẳng biết thành cái gì nữa."

Chu Tử Thư làm thinh, chỉ thi lễ rồi toan ra về.

Đúng lúc ấy có một người lính mặc quân phục đi thoăn thoắt vào phòng Kỷ Ông Tập. Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn cùng liếc nhau. Chu Tử Thư thấy áo giáp của người lính đó hơi lạ, trên tay áo có một dấu hiệu màu vàng. Chu Tử Thư thắc mắc: "Sao chưa bao giờ thấy binh sĩ mặc giáp ấy nhỉ?"

Tô Ôn Duẫn phì cười, giễu cợt cậu: "Lính Tây Bắc đấy, quân Phi Long." Chu Tử Thư giật mình.

Quân Phi Long ư?

Liếc Tô Ôn Duẫn một cái, Chu Tử Thư không nói gì thêm, quay gót ra về ngay.

Đến chiều tối tan làm, Chu Tử Thư cuối cùng cũng biết cậu binh sĩ quân Phi Long kia vượt muôn trùng xa xôi từ Tây Bắc về Thịnh Kinh có việc gì. Nói ra thì cũng quá trùng hợp. Trong lúc các quan triều đình đang sốt xình xịch xem liệu đoàn sứ Liêu có định rước công chúa về hòa thân với vua Liêu hay không, thì phu nhân của Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức, người đang trực tiếp chống Liêu ở U Châu, vừa qua đời cách đây ba hôm vì bệnh tật, chỉ để lại đứa con thơ bốn tuổi.

Lý Cảnh Đức chinh chiến trên tiền tuyến, vợ con đều ở lại Thịnh Kinh. Hiện giờ hai bên đình chiến, sứ Liêu vào kinh, Lý Cảnh Đức tranh thủ về chịu tang vợ, mà cũng nhân cơ hội canh chừng nhất cử nhất động của người Liêu ở kinh thành.

Lúc này, Chu Tử Thư mới sực nhớ ra hồi mình làm Khởi Cư lang, đã được nghe người ta nhắc đến ba tâm phúc trong triều đình được Triệu Phụ tin yêu nhất.

Ba người ấy chính là Thượng thư bộ Hộ Cung Tuấn, Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn, và Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức!

Thì ra, Lý Cảnh Đức đã thành thân từ lâu, còn có con luôn rồi.

Nhưng Lý tướng quân ba mươi hai tuổi, có vợ con là chuyện quá bình thường.

Nghĩ đến đây, Chu Tử Thư bỗng dưng ngây người, chẳng hiểu sao lại nhớ tới một chuyện...

Ủa, CungTử Phong đã hai mươi tám rồi, sao vẫn chưa thành thân nhỉ?

||Chú thích

[1] Chu Hy giảng rằng bài Huyền điểu nói về sự kiện dời đô của vua Thành Thang. 3 câutrên mô tả kinh đô, nơi dân chúng ở chỉ rộng ngàn dặm mà cảnh vật thì rộng xa bốn biển. (Kinh Thi – Tạ Quang Phát dịch – NXB Đà Nẵng)

[2] Bỉnh chúc dạ đàm và cộng tiễn Tây song đều chỉ tâm sự thâu đêm. "tiễn" trong câu thứ2 chỉ hành động cắt bớt tim đèn cho nến sáng hơn, không bị khói. Câu này thuộc bài thơ Dạ vũ ký bắc của Lý Thương Ẩn thời Đường.

------oOo------

Chương 84

Nguồn: EbookTruyen.Net

Gài bẫy tiểu sư đệ của ngươi!

Nhà có cô em gái khuê nữ nên Chu Tử Thư tìm hiểu kĩ chuyện cưới xin của nam nữ thời đại này.

Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ có lệnh: "Nam giới từ mười sáu tuổi, nữ giới mười bốn tuổi trở lên được phép bàn chuyện hôn nhân." Tức là con trai mười sáu tuổi và con gái mười bốn tuổi là có thể đính hôn với nhau, thậm chí là dựng vợ gả chồng ngay. Mặc dù thế, trai gái thời này không nhất thiết cứ mười sáu tuổi, mười bốn tuổi là bắt buộc phải kết hôn.

Từ trước đến giờ, Chu Tử Thư vẫn nghĩ rằng em gái mình nên chờ đến năm mười tám tuổi.

Kỳ thực ở thời cổ đại, những cô gái mười tám tuổi mới lập gia đình không hề ít.

Mười tám tuổi chưa bị coi là quá lứa lỡ thì, nhưng phần lớn những cô gái ấy đều là đính hôn từ hai năm trước, chỉ chờ đến mười tám tuổi rồi cưới thôi.

Đàn ông con trai càng thoải mái hơn, vì nam giới hai mươi tuổi mới làm lễ đội mũ, nên đâu đâu cũng có những chàng trai hai mươi tuổi chưa lập gia đình.

Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, Cung Tuấn đã hai mươi tám tuổi rồi, hai tám tuổi còn chưa thành thân...

Bình thường ở bên Cung Tuấn, Chu Tử Thư chẳng bao giờ nghĩ sư huynh mình lớn tuổi cả, bởi Cung Tuấn chẳng những phong nhã tuấn tú mà còn lỗi lạc hơn người. Vả lại, cậu là người hiện đại, ở thời của cậu, tuổi hai tám vẫn còn trẻ trung, hào hoa lắm. Nhưng bây giờ nghĩ lại mới thấy, con các quan bằng tuổi Cung Tuấn đều đã bốn, năm tuổi rồi. Thế mà Cung Tuấn chẳng có đến một cô vợ là sao nhỉ?!

Chu Tử Thư vắt óc suy nghĩ, bỗng hốt hoảng: "Thôi chết, hay là sư huynh không 'chào cờ' được?"

Chết dở, có khi thế thật chứ đùa!

Chu Tử Thư lắc đầu quầy quậy, ra sức tống khứ cái ý tưởng kinh hoàng ấy đi.

Cứ suy nghĩ lăng nhăng thế này, rồi mất mạng có ngày!

Nếu Cung Tuấn phát hiện ra Chu Tử Thư nghĩ mình không "chào cờ" được trong khi sinh lý chàng bình thường, thì chẳng những tình huynh đệ sứt mẻ mà không khéo trở bạn thành thù ấy chứ! Còn nếu Cung Tuấn không "chào cờ" được mà bị Chu Tử Thư phát hiện ra thì... Càng chết!

Chu Tử Thư sợ vãi linh hồn, vội vàng nhẩm thầm ba lần "CungTử Phong có cưới vợ hay không, không liên quan gì đến mình" để ép bản thân quên phứt vụ này đi, mới bằng lòng bỏ qua.

Đầu tháng Chạp, đoàn sứ giả nước Liêu đến Thịnh Kinh, nghỉ tại dịch quán chuyên tiếp đón sứ thần ngoại bang.

Hôm đó, trên triều đình, các quan thảo luận dông dài mãi về vấn đề tiếp đãi sứ Liêu thế nào. Có thể dự buổi chầu trên điện Tử Thần, thấp nhất cũng là quan tứ phẩm. Thế mà hôm nay, các đại quan tam phẩm trở lên tuyệt nhiên không nói một lời, chỉ có các quan tứ phẩm sôi nổi kiến nghị, đề xuất việc chọn người đón tiếp.

Chủ khách Lang trung bộ Lễ giơ hốt ngọc, tiến lên tâu: "Sứ Liêu đến kinh thành là việc hệ trọng trong quan hệ hai nước. Tuy hiện giờ quân Liêu đóng cách thành U Châu năm mươi dặm như hổ đói rình mồi, nhưng Đại Tống là tấm gương nghi lễ cho muôn vàn nước khác noi theo, không thể sơ suất trong khâu tiếp đón được. Thần xin bệ hạ lựa chọn người ngay trong hôm nay, đặng khoản đãi sứ Liêu cho chu đáo ạ."

Tiếp đó, một quan văn khác cũng tâu: "Tôn đại nhân nói rất đúng. Thần cũng cho rằng, chúng ta cần khẩn trương tổ chức đón tiếp đoàn sứ giả nước Liêu. Theo thần được biết, lần này đoàn sứ giả gồm ba mươi hai người, trong đó có tam hoàng tử Gia Luật Hàm, và có cả Hán Nhi Ty1 Gia Luật Cần đồng hành. Nếu dựa theo quy cách bang giao giữa hai nước, Đại Tống ta cũng phải cử một hoàng tử ra tiếp đón."

[1] Chức quan phụ trách các vấn đề liên quan đến người Hán trong triều đình Liêu, có hiểu biết về người Hán.

Vị quan này vừa nói xong, các quan khác đã nhao nhao tiến cử.

Cuối cùng, Triệu Phụ cũng quyết định: "Nếu vậy, trẫm giao việc này cho Mạnh khanh. Còn hoàng tử đại diện thì," Triệu Phụ cân nhắc một lát, hờ hững nói: "Để Triệu Thượng làm."

Thượng thư bộ lễ Mạnh Lãng tiến lên thưa: "Thần lĩnh mệnh."

Hôm đó, Mạnh Lãng đã tập hợp xong đoàn sứ giả tiếp đãi sứ Liêu.

Việc Thượng thư bộ Lễ chủ trì đón tiếp sứ thần ngoại quốc rất phù hợp với quy củ từ xưa đến nay. Sau khi Mạnh Lãng nhận lệnh, nha môn các bộ đều cử người sang phụ giúp. Xui xẻo thay, Chu Tử Thư được sai nha thông báo rằng mình cũng dính vào vụ này. Cậu thở dài, hỏi thăm sơ sơ thì phát hiện hóa ra trong đoàn sứ thần cũng có một gương mặt quen thuộc – chính là học trò tâm đắc của Từ Bí – Dư Triều Sinh!

Trong đoàn sứ giả, Mạnh Lãng là người có chức vụ và phẩm hàm cao nhất – nhị phẩm Thượng thư. Ngay dưới ông ta là Dư Triều Sinh – tam phẩm Hữu thị lang bộ Lại.

Mạnh Lãng lại gọi Chu Tử Thư vào phòng, cố tình nói ngay trước mặt Cung Tuấn: "Tuy sáng nay sứ Liêu đã đến dịch quán, nhưng chúng ta không cần tiếp đãi họ ngay ngày mai. Người Liêu tính tình nóng nảy, kiêu căng phách lối, hầu như toàn những kẻ võ biền cục cằn. Tam hoàng tử Gia Luật Hàm được phong danh hiệu Thạch Cung tướng quân, tiếng tăm lẫy lừng. Ở trường săn, y từng dùng cây nỏ2 nặng năm mươi thạch3, bắn chết một con hươu sao. Tuy nhiên, tùy tùng của y – Hán Nhi Ty Gia Luật Cần – là một kẻ cực kì lợi hại, ngươi không được khinh thường." [2] Thạch cung là cây nỏ.

Nghe thế, Chu Tử Thư đã có dự cảm chẳng lành.

Quả nhiên, Mạnh Lãng nói: "Trong những ngày tới, Đường đại nhân sẽ phụ trách tiếp đón sứ đoàn."

Chu Tử Thư: "..."

Cung Tuấn đang đọc tấu, nghe xong câu ấy, môi chàng nhếch lên, nhưng chàng không nói gì cả.

Mạnh Lãng cố tình liếc Cung Tuấn một cái rồi mới bảo Chu Tử Thư tiếp: "Đại Tống dĩ nhiên phải tiếp đãi sứ Liêu trọng thể, nhưng chúng ta cũng không thể lép vế được. Thờ ơ với họ vài ngày là cách để thể hiện rằng Đại Tống ta không sợ khai chiến; như thế, chúng ta có thể làm nhụt nhuệ khí của bọn họ. Cũng vì lí do đó, quan viên tam phẩm trở lên không thể ra mặt đón rước sứ Liêu được. Đường đại nhân chính là hiền tài của nước ta. Ba năm trước, đích thân lão phu đã duyệt bài thi Đình của ngươi."

Chu Tử Thư chắp tay vái: "Ơn chỉ điểm của Mạnh tướng công, hạ quan xin khắc ghi trọn đời."

Mạnh Lãng cười: "Ân huệ gì đâu. Xét văn chương của ngươi hồi ấy, ta biết ngay, việc này chỉ có ngươi làm được, mà cũng chỉ có thể giao cho ngươi thôi. Đường đại nhân, lão phu trông cậy cả vào ngươi đấy!"

Chu Tử Thư khổ lắm mà chỉ có thể thưa: "Hạ quan lĩnh mệnh." Lúc ra về, Chu Tử Thư liếc về phía Cung Tuấn theo bản năng.

Cung Tuấn mặc quan bào nhị phẩm đỏ thẫm, bên eo thắt miếng ngọc trắng ngần tuyệt đẹp. Không cần ngẩng đầu, Cung Tuấn cũng biết Chu Tử Thư còn đang ở trong phòng. Thế là chàng vừa giở tấu chương vừa nói: "Xem ra Mạnh đại nhân lại nhàn quá rồi nhỉ."

Mạnh Lãng cười: "Sao Cungđại nhân lại nói thế?"

"Chi bằng tối nay, ngài ghé nhà ta thưởng thức rượu đi nhỉ? Rượu ngon từ

Phi Châu4 gửi đến, ắt là hợp với sở thích của Mạnh đại nhân lắm."

[4] Huyện ở Giang Tô

Mạnh Lãng nghĩ thầm, tiểu sư đệ ngươi bị ta gài bẫy ngay trước mặt mà ngươi còn mời ta uống rượu ư? Nghe đã thấy mùi Hồng Môn yến rồi, đây không đi!

"Tối nay ta có việc mất rồi, không thể làm phiền quý phủ được."

Cung Tuấn cũng chỉ nói thế thôi. Chu Tử Thư ra đến cửa lại liếc chàng một cái nữa. Cậu biết, Cung Tuấn không mời Mạnh Lãng mà đang rủ mình. Vì thế, tối hôm ấy, Chu Tử Thư ghé sang nhà chàng. Quản gia phủ Thượng thư đã đợi cậu sẵn.

Quản gia dẫn Chu Tử Thư vào đình viện. Gió lạnh vi vu, CungTử Phong khoác áo đại sưởng dày dặn, ngồi giữa sân nhóm bếp đun rượu uống!

Chu Tử Thư phì cười: "Sư huynh, ngoài trời lạnh thế này, sao huynh lại đi đun rượu?"

Cung Tuấn: "Thì chẳng bảo tối nay mời khách xơi rượu đấy còn gì?" Chu Tử Thư nghĩ thầm: Chẳng phải huynh chỉ khách sáo thế thôi à!

Cung Tuấn đã làm nóng một bình rượu, chàng rót cho Chu Tử Thư một chén. Độ cồn của rượu thời cổ đại không cao lắm, Chu Tử Thư uống thấy tay chân ấm áp hẳn, cả người khoan khoái, đúng là hết sức thỏa thuê.

Cung Tuấn: "Ngon không?"

Chu Tử Thư khen: "Phi Châu xưa nay vẫn nổi tiếng với rượu ngon. Rượu Phi Châu quả nhiên bất phàm."

Cung Tuấn: "Rượu Kim Lăng đấy."

"... Hồi sáng sư huynh bảo là rượu Phi Châu kia mà?"

Cung Tuấn: "Bịp Mạnh Lãng thôi."

Chu Tử Thư: "..."

Đúng là CungTử Phong mà nói thì cái dấu chấm câu cũng không tin được!

Uống rượu xong, hai người vào nhà. Cung Tuấn hỏi: "Việc hôm nay, tiểu sư đệ nghĩ Mạnh Lãng cố tình giao cho đệ là để trả thù ta phải không?

Chu Tử Thư: "Đương nhiên là không rồi. Mạnh đại nhân đâu phải người hành động theo cảm tính. Mặc dù thỉnh thoảng ông ấy cũng làm những chuyện chẳng ra đâu, nhiều lần trêu chọc đệ," nói đến đây, Chu Tử Thư bổng ngẩn ra. Cậu chợt phát hiện, cái lão Mạnh Lãng đúng là kẻ chuyên hành động theo cảm tính! Húng hắng ho một cái, Chu Tử Thư nói tiếp: "Nhưng Mạnh đại nhân chọn đệ, là có nguyên nhân khác."

"Ồ?"

"Thứ nhất, ngài ấy phân tích rất chính xác. Vừa muốn cầm chân sứ Liêu, vừa muốn ra oai phủ đầu họ, vị sứ giả tiếp đón ít nhất phải là quan tứ phẩm, mà cao nhất cũng chỉ có thể là quan tứ phẩm thôi. Hàm tứ phẩm không đủ cao để đứng ra đàm phán, khiến việc của người Liêu bị trì hoãn; nhưng lại đủ cao để khiến họ không thể bắt bẻ chúng ta tiếp đãi qua loa. Tuy vậy, trong đội sứ giả, quan tứ phẩm không phải chỉ có mỗi mình đệ. Đệ nghĩ, Mạnh đại nhân chọn đệ, là muốn mượn sức sư huynh nữa."

Quản gia chuyển bếp rượu vào trong nhà, Cung Tuấn lại rót thêm cho Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư nhìn tầng bọt trắng bồng bềnh trên mặt chén rượu. Hồi lâu, cậu mới hỏi Cung Tuấn: "Nếu đệ gặp khó khăn, không tự giải quyết được, sư huynh sẽ giúp đệ chứ?"

Cung Tuấn không trả lời ngay mà hỏi ngược lại Chu Tử Thư: "Tiểu sư đệ nghĩ sao?"

Chu Tử Thư lặng lẽ ngẩng lên, nghiêm túc nhìn Cung Tuấn: "Nhất định."

Cung Tuấn cười dịu dàng: "Vậy cứ y lời đệ."

Đem việc này giao cho Chu Tử Thư, chẳng khác nào giao cho CungTử Phong!

Mạnh Lãng không sai sử Cung Tuấn được, nhưng nếu có thể mượn cớ này để bắt Cung Tuấn làm việc cho mình, ông ta chẳng dại gì mà không tận dụng.

Chu Tử Thư thở dài: "Mạnh đại nhân đúng là ranh ma."

Cung Tuấn nâng chén, nhấp ngụm rượu rồi cười khẽ, không đáp lời Chu Tử Thư.

Mạnh Lãng ranh ma ấy à?

Trong cả sáu Thượng thư, CungTử Phong chàng mới là kẻ ranh ma nhất.

Cung Tuấn thầm cảm thán: Tiểu sư đệ thiên vị mình ghê chưa kìa! Mạnh đại nhân hiền lành, chất phác đến nỗi mỗi lần chơi khăm ông ta mình đều thấy lương tâm bứt rứt. Thế mà tiểu sư đệ lại nghĩ ông ta xấu tính. Ôi, đúng là thiên vị không để đâu cho hết mà.

Mạnh Lãng dày công tính toán hòng bắt CungTử Phong phải giúp mình một tay. Nào ngờ, hôm sau, Chu Tử Thư vừa đến điện Cần Chính, chưa kịp nghĩ xem phải tiếp sứ thần nước Liêu như thế nào, đã thấy bóng ai thập thà thập thò, rình rập ngoài phòng làm việc của các quan tứ phẩm. Trong lòng Chu Tử Thư gióng hồi chuông cảnh giác, cậu thấy kẻ đó mặc quần áo thái giám, nhưng dáng hắn cao to vạm vỡ, râu ria xồm xoàm, làm sao mà là thái giám được? Chẳng nhẽ là thích khách?

Chu Tử Thư lẳng lặng lùi ra đằng sau, chuẩn bị đi hô hoán thị vệ bắt giữ hắn lại. Dè đâu, đúng lúc đó hắn ta quay đầu ra sau, nhìn thấy cậu. Gã đàn ông đấy nhìn tới nhìn lui, lẩm bẩm: "Mười chín tuổi, tướng mạo tuấn tú, mặc quan phục tứ phẩm..." Bỗng nhiên, mắt hắn ta sáng ngời, "Đúng ngươi rồi!"

Thoắt cái, hắn ta nhảy bổ đến, túm được Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư hoảng hốt la toáng lên, nhưng mới ớ được một tiếng thì gã râu quai nón đã bịt mồm cậu. Tuy hắn ta to cao lực lưỡng như hộ pháp, nhưng Chu Tử Thư cũng chẳng phải đứa nít con. Thế mà cậu bị hắn ta kiềm chặt không giãy đi đâu được, đành phải chấp nhận bị cắp ra chỗ khác.

Gã râu quai nón xách Chu Tử Thư ra một chỗ, bịt kín miệng cậu. Ngó bốn bề không có ai chú ý đến họ, hắn ta mới thở phào nhẹ nhõm. Thấy Đường

Thận cứ trừng trừng nhìn mình, hắn ta cũng bó tay: "Phải Chu Tử Thư – Đường đại nhân không nè?"

Chu Tử Thư cảnh giác, không dám trả lời.

"Kìa, sao ngươi phải dè chừng ta thế?"

Chu Tử Thư: "..."

Lén la lén lút như thích khách, không cảnh giác với ngươi thì cảnh giác với ai?

Gã râu quai nói bèn nói: "Ta là Lý Cảnh Đức đây, chắc ngươi phải biết ta rồi nhỉ."

||Chú thích

[3] Thạch là đơn vị đo thể tích cổ. Theo hệ quy đổi mình tìm được thì 50 thạch là cỡ 3 tạ nên mình khá chắc tác giả không có ý đấy LOL Thôi thì chúng ta cứ phiên phiến cho qua.

------oOo------

Chương 85

Nguồn: EbookTruyen.Net

Múa đao chém mãnh hổ, tay không kìm sói dữ

Chu Tử Thư giật mình, suy ngẫm. Đây là hoàng cung hẳn hoi chứ nào phải chốn tầm thường. Có thể lẩn lách được tai mắt lính canh một cách tài tình để vào tận điện Cần Chính trong cung, dám cá tay râu quai nón này là Lý Cảnh Đức thật.

Chu Tử Thư nhẹ nhàng gật đầu.

"Ta thả tay ra đây, ngươi đừng hét nhé, ta bí mật đến đây đấy."

Chu Tử Thư gật đầu.

Anh chàng râu xồm buông tay, Chu Tử Thư lập tức lùi bước, vái chào: "Hạ quan Chu Tử Thư xin kính chào Lý đại tướng quân." Lý Cảnh Đức ngạc nhiên lắm: "Ngươi tin thật luôn à?"

Chu Tử Thư: "Với võ nghệ của tướng quân, muốn chế ngự ta dễ như trở bàn tay, việc gì phải phí công lừa gạt."

Lý Cảnh Đức gãi mũi: "Chuyện là thế này. Theo tin tức ta nghe được, Mạnh Lãng đã giao việc tiếp đón sứ Liêu cho ngươi, đúng không?"

Chu Tử Thư lặng lẽ quan sát Lý Cảnh Đức. Lý đại tướng quân râu ria xồm xoàm, tuy mày kiếm, mắt sáng, trông rất bảnh bao, nhưng đừng mơ thấy được nét mặt của gã sau bộ râu um tùm ấy. Chu Tử Thư nói: "Chính thế."

Lý Cảnh Đức: "Mục đích hồi kinh của bản tướng quân là theo dõi sứ Liêu.

Kể từ hôm nay, ta sẽ đóng giả một viên quan lục phẩm, làm tùy tùng cho

Đường đại nhân, ổn không?"

Chu Tử Thư: "..."

Chu Tử Thư chưa kịp trả lời, đã có tiếng cười nhạo báng cất lên từ sau lưng. Hai người cùng ngó ra sau nhìn. Trên hành lang uốn quanh, Tô Ôn Duẫn đang dựa lưng vào góc tường, điềm nhiên lắng nghe cuộc trò chuyện. Anh ta nói bằng giọng điệu biếng nhác: "Lý tướng quân định trà trộn vào đội quan văn sứ giả để thám thính người Liêu ấy à? Thứ cho hạ quan nói thẳng, mặt mũi ngài thế kia thì đóng giả sao đặng."

Lý Cảnh Đức khinh bỉ hừ một tiếng: "Tưởng ai, hóa ra là Tô đại nhân. Sao, mặt mũi bản tướng quân thì ảnh hưởng gì đến việc đóng giả? Lẽ nào, quan văn Đại Tống ta toàn hạng giẻ cùi tốt mã?"

Trong vườn hoa điện Cần Chính, Tô Ôn Duẫn sầm mặt, anh ta nheo mắt, nhìn chằm chằm Lý Cảnh Đức đầy đe dọa.

Lý tướng quân chẳng thèm đếm xỉa đến Tô Ôn Duẫn, hàm râu bờm xờm như thể thách thức gió táp mưa sa, người đời dòm ngó.

Hồi lâu sau, Tô Ôn Duẫn nhếch mép cười khẩy. Anh ta nói: "Hạ quan nào có ý ấy. Chẳng qua người Liêu biết rất rõ về Lý tướng quân. Diện mạo ngài oai phong như thần, nếu trà trộn vào đoàn tiếp sứ, e rằng họ sẽ phát hiện ra ngay. Đến lúc ấy, chẳng hoá Đường đại nhân của chúng ta không dưng phải chịu vạ lây à?

Chu Tử Thư liếc xéo Tô Ôn Duẫn: Ai là "Đường đại nhân của các anh" cơ?

Lý Cảnh Đức không phản bác được thật.

Tô Ôn Duẫn nói rất có lý. Lý Cảnh Đức là Chinh Tây nguyên soái do hoàng đế ngự phong, quanh năm trấn thủ Tây Bắc, giao chiến với quân Liêu. Tiếng tăm của hắn trong quân đội nước Liêu có lẽ cũng vang dội như Tả tướng Kỷ Ông Tập ở triều đình Đại Tống. Nếu trong đoàn sứ Liêu đến Thịnh Kinh lần này không ai biết Lý Cảnh Đức thì không hề gì. Nhưng giả sử có người từng gặp hắn ta, thì riêng cái bộ râu xồm xoàm không lẫn vào đâu được kia là đủ để hắn lộ tẩy.

Chu Tử Thư cũng khuyên: "Lý tướng quân về kinh chuyến này phải hành động kín để do thám mục đích của sứ thần nước Liêu. Nếu bị họ phát giác thì lợi bất cập hại."

Lý Cảnh Đức bối rối mất một lúc, rồi bỗng nghiến răng, hạ quyết tâm: "Thế thì chỉ cần khiến chúng không nhận ra là được chứ gì?"

Chu Tử Thư ngạc nhiên nhìn hắn. Tô Ôn Duẫn cũng sửng sốt, nhưng dường như anh ta hiểu ra điều gì, nụ cười mập mờ thoáng qua trên gương mặt.

Chu Tử Thư nghe lời Lý Cảnh Đức, chờ hắn ta ở khu vườn trong điện Cần Chính. Sau nửa canh giờ, một người đàn ông cao lớn mặc đồng phục thái giám bước tới từ đằng xa. Hắn ta vừa đi vừa vuốt cái cằm nhẵn thín của mình, đôi mày kiếm sắc lẻm nhíu chặt vào nhau, con ruồi bay qua khéo cũng bị xiên chết.

Dĩ nhiên Tô Ôn Duẫn chẳng rảnh rang mà ở lại đợi, đã mất dạng từ lâu rồi. Vì thế, người được phen hết hồn vì tướng mạo của Lý tướng quân chỉ còn mỗi Chu Tử Thư mà thôi.

Biết thừa người đàn ông này chính là gã râu xồm ban nãy, nhưng Chu Tử Thư vẫn sững người.

Giọng Lý Cảnh Đức ồm ồm: "Trông thế này được chưa?"

Chu Tử Thư: "...Chắc là được ạ."

Cạo râu xong, Lý tướng quân lột xác hoàn toàn khỏi hình tượng gai góc xù xì ban nãy!

Hắn sở hữu làn da trắng trẻo, ngũ quan sắc nét và rắn rỏi. Gương mặt hắn có nét kiên nghị và khoáng đạt của người Liêu chứ không giống người Hán hoàn toàn. Đôi mày bén ngọt như hai thanh kiếm, cặp mắt sáng ngời đầy sức sống. Chu Tử Thư được kể rằng Lý Cảnh Đức đã ba mươi hai tuổi, nhưng diện mạo của người đang bước tới gần nào có giống người ba mươi hai tuổi. Nom hắn ta hệt như một viên tướng trẻ tầm tuổi hăm ba, mặt mày sáng láng như hòn ngọc báu!

Giờ thì chẳng cần quan tâm xem trong đoàn sứ Liêu ở dịch quán có ai biết hắn không, khéo tướng sĩ người Liêu từng so gươm với Lý Cảnh Đức trên sa trường cũng không thể nhận ra hắn dù đứng ngay trước mặt.

Tạm biệt bộ râu thân thương, Lý Cảnh Đức dường như chưa quen lắm, trông hắn khá là khó chịu. Hắn nói: "Đã vậy, ngày mai bản tướng quân đi cùng Đường đại nhân đến gặp các sứ thần nước Liêu nhé?

Lý Cảnh Đức là tướng quân nhị phẩm, Chu Tử Thư chỉ là quan văn tứ phẩm, nào dám chối từ. Cậu đành hành lễ: "Hạ quan lĩnh mệnh."

Sáng sớm hôm sau, kết thúc buổi chầu, Chu Tử Thư trở lại điện Cần Chính. Quả nhiên, Lý Cảnh Đức đã thay y phục của quan lục phẩm, chờ cậu ngoài vườn từ sớm.

Chu Tử Thư nghĩ thầm, không biết hắn lấy đâu ra sẵn áo quần thế nhỉ?

Mạnh Lãng giao nhiệm vụ cho Chu Tử Thư thì tất nhiên sẽ không để cậu một mình đương đầu với ba mươi sứ thần nước Liêu. Chu Tử Thư làm xong phần việc hôm nay của bản thân rồi dẫn các quan sang dịch quán. Cậu chưa ra khỏi điện Cần Chính, mới đi lên hành lang, đã bắt gặp Cung Tuấn đang bước đến từ hướng ngược lại.

Cung Tuấn cũng vừa mới trở về sau buổi triều, hẵng còn cầm hốt ngọc và mặc triều phục. Thấy Chu Tử Thư, chàng dừng bước. Bỗng nhiên, ánh mắt Cung Tuấn lia tới Lý Cảnh Đức đứng sau lưng Chu Tử Thư.

Lý tướng quân thấy Cung Tuấn thì rủa thầm, khẽ khàng lỉnh ra đằng sau những quan viên khác để ẩn núp.

Ánh mắt Cung Tuấn chỉ đậu lại trong giây lát rồi dời đi ngay. Chàng cúi nhìn Chu Tử Thư, cười bảo: "Đường đại nhân đi gặp sứ Liêu đấy à?" Chu Tử Thư nói: "Bẩm Cungtướng công, đúng là hạ quan đang trên đường ạ."

Cung Tuấn ân cần hỏi: "Đã đủ người hỗ trợ chưa?"

Nghe chàng hỏi thế, Chu Tử Thư biết ngay CungTử Phong đã phát hiện ra Lý Cảnh Đức rồi. Cậu nhủ thầm trong bụng: Lý Cảnh Đức đã thay đổi nhiều thế, sao CungTử Phong vẫn nhận ra được nhỉ? Chu Tử Thư nghiêm chỉnh đáp: "Đủ rồi ạ, cảm ơn đại nhân đã quan tâm."

Cung Tuấn: "Ta cũng nghĩ là đủ rồi. Nếu thiếu thì cứ làm như mấy cô gái giặt lụa ấy, vò mạnh thêm mấy cái là được ngay."

Mọi người nghe chàng nói mà chẳng hiểu mô tê gì. Thế mà mắt Chu Tử Thư sáng ngời, ngẩng lên nhìn Cung Tuấn.

Khi ánh nhìn của họ giao nhau, Chu Tử Thư hiểu ý Cung Tuấn liền: Mạnh Lãng muốn mượn đệ để bóc lột ta, tiểu sư đệ nhìn xem, giờ đã có một người hết sức phù hợp để bóc lột rồi kìa. Lý tướng quân đã tự dâng mình đến cửa, không vắt bằng kiệt thì rõ phí của giời. Bẫy người ngoài chứ ai lại bẫy người nhà.

Chu Tử Thư sướng rơn: "Hạ quan hiểu rồi."

Lý Cảnh Đức lẩn trong đám quan viên, thộn mặt: Ngươi hiểu ấy hả? Hiểu cái gì kia chứ? CungTử Phong nói tiếng gì chứ có phải tiếng người đâu mà có ý nghĩa?

Mọi người rời khỏi điện Cần Chính, đến dịch quán.

Chu Tử Thư bảo các quan ở dịch quán vào thông báo. Đợi ngót nửa canh giờ, quan lục phẩm trong đoàn tiếp sứ mới quay trở lại. Người ấy tỏ ra hết sức bất bình: "Đại nhân, hạ quan vào thông báo rằng sứ giả Đại Tống đã tới. Nhưng sứ Liêu đáp rằng, tam hoàng tử của họ vẫn chưa tỉnh ngủ. Chờ bao giờ hoàng tử tỉnh mới ra tiếp ngài."

Người ấy vừa dứt câu, tiếng xì xào giữa các quan đã rộ lên.

Hôm nay Chu Tử Thư đến dịch quán tiếp đãi sứ Liêu, không chỉ trên danh nghĩa bản thân mà còn thay mặt hoàng đế Đại Tống. Dù Gia Luật Hàm có là Tam hoàng tử nước Liêu, cũng không thể thất lễ như vậy được!

Lý Cảnh Đức nghe thế thì nóng máu lắm. Trái lại, Chu Tử Thư cực kì bình tĩnh. Cậu vỗ về các quan tùy tùng: "Chư vị đại nhân, nước Đại Tống của chúng ta yên bình thư thái, khí hậu rất lành với con người. Người nước ngoài đến Đại Tống đều phải trầm trồ trước vẻ muôn màu của đô thành Thịnh Kinh; cái gì không thấy được ở nước Liêu thì Thịnh Kinh đều có; ở nước Liêu ngủ không ngon giấc, đến Thịnh Kinh liền an giấc ngay. Tam điện hạ hiếm khi có dịp được ngủ ngon, mặt trời cao ba sào vẫn chưa dậy nổi, sao chúng ta có thể quấy rầy giấc mộng lành của ngài ấy chứ?"

Một sứ giả người Liêu đứng gần đó nghe thấy thế thì sầm mặt, quày quả vào nhà.

Lại thêm một lúc lâu, sứ Liêu ra khỏi nhà, gọi đám Chu Tử Thư vào.

Chu Tử Thư vừa bước chân vào phòng, chưa kịp quan sát kĩ bài trí bên trong, đã nghe tiếng châm chọc: "Bản điện hạ cứ tưởng là ai, hóa ra là một tên oắt Tống. Gia Luật đại nhân, ông làm Hán Nhi ty, ở Nam Xu Mật viện thường tiếp xúc với người Hán, đã bao giờ gặp quan Tống nào còm nhom thế này chưa?"

Giữa chính đường là một thanh niên tóc tết bím nhỏ, thái độ kênh kiệu. Gã ngồi bệ vệ trên ghế thượng tọa nhìn xuống bọn Chu Tử Thư bằng nửa con mắt, tay trỏ thẳng vào Chu Tử Thư – người đứng chính giữa nhóm quan.

Đứng cạnh Tam hoàng tử Gia Luật Hàm là một người đàn ông trung niên với gương mặt quằm quặm. Ông ta nhìn Chu Tử Thư bằng ánh mắt âm u, nói: "Bẩm điện hạ, thần làm sao mà biết một viên quan tứ phẩm nhỏ nhoi được."

Gia Luật Hàm sẵng giọng: "Tứ phẩm hử? Có phải cái loại mà ở Đại Liêu chẳng đáng xách giày cho bản điện hạ không?"

Chu Tử Thư bỗng bật cười. Gia Luật Hàm quay ra nhìn cậu.

Cậu chắp tay cúi mình, nói: "Điện hạ không biết đấy thôi, chẳng những phong tục tập quán Đại Tống chúng ta không giống với nước Liêu các ngài, mà đạo làm quan cũng khác. Nhưng nếu nói chi li thì cũng không đến nỗi vênh nhau quá. Tỷ như đại nhân Hán Nhi Ty Gia Luật Cần đây, ở Đại Tống chúng ta, ngài ấy cũng là quan lớn. Vì thế, ngài ấy có thể đại diện Liêu đế, theo điện hạ đến Đại Tống triều kiến hoàng đế Đại Tống của chúng ta. Mà quan tứ phẩm xách giày cho ngài ở nước Liêu, thật ra cũng không khác mấy ở Đại Tống. Hạ quan đúng là một viên quan tứ phẩm thấp bé nhẹ cân, thế nên chỉ có thể bị phái tới đây để tiếp đón ngài."

Gia Luật Hàm trợn trừng mắt. Song khi gã hẵng còn chưa tức giận, Chu Tử Thư đã lập tức đế thêm một câu: "Và xách giày cho ngài nữa."

Lửa giận của Gia Luật Hàm chưa kịp nổi đã lụi, gã cảm thấy hơi mù mờ. Gia Luật Hàm không quá giỏi tiếng Hán; việc giao tiếp bình thường không làm khó gã, nhưng cách nói thâm thúy sắc sảo thế này khiến gã khó lòng nắm bắt ngay được. Tên quan người Tống này có ý gì đây? Rốt cuộc nó muốn hạ bệ mình, hay muốn xách dép cho mình thật?

Gia Luật Hàm nháy mắt ra hiệu cho Gia Luật Cần, hỏi ông ta xem nên ứng xử thế nào tiếp.

Gia Luật Cần thở dài, ông ta thừa biết Tam hoàng tử là người uy vũ mạnh bạo; sức vóc thì có mà đầu óc thì không. Vốn vua Liêu muốn phái Nhị hoàng tử túc trí đa mưu đi sứ Tống; ngờ đâu, chẳng biết mẫu phi của Gia Luật Hàm thỏ thẻ bên gối đức vua những gì, mà cuối cùng Gia Luật Hàm mới là người được cử đi.

Gia Luật Cần lãnh đạm nhìn Chu Tử Thư: "Đoàn sứ giả Đại Liêu chúng ta đã đến Thịnh Kinh, vì sao bề tôi nước Tống không đến đón rước?"

Một viên quan Tống đáp: "Gia Luật đại nhân nói vậy sai rồi. Hôm nay chúng ta đã có mặt ở đây rồi đấy thôi?

Phía sau Gia Luật Cần, một viên quan Liêu sẵng giọng: "Tam hoàng tử nước Đại Liêu viếng thăm, hạng quan trói gà không chặt như các ngươi mà cũng xứng tiếp đón sao?"

Người ấy vừa dứt lời, bỗng dưng Chu Tử Thư hỏi: "Trói gà không chặt ấy à?"

Viên quan người Liêu lấy làm lạ, không hiểu tại sao Chu Tử Thư lại vặn hỏi cách diễn đạt của mình. Hắn suy nghĩ một chút, nói: "Lính tráng Đại Liêu là chiến tướng miền thảo nguyên. So tài cưỡi ngựa, săn bắn, quan Đại Tống các ngươi làm sao sánh nổi. Chẳng nhẽ không đúng?"

Chu Tử Thư cười: "Thì ra là thế. Vị đại nhân này nói 'trói gà không chặt' không phải để chê bai quan viên Đại Tống chúng ta, mà chẳng qua chỉ để nhận xét rằng Đại Tống không giỏi cưỡi ngựa, bắn cung như nước Liêu đúng không nào?"

Viên quan người Liêu chỉ muốn đáp rằng, ta đang chửi cả nước Đại Tống ngươi kém cỏi đấy. Nhưng suy nghĩ ấy làm sao mà nói huỵch toẹt ra được, hắn bèn bảo: "Phải."

Gia Luật Cần nhíu mày, dường như ông ta đã đánh hơi ra sự bất thường đâu đây.

Chu Tử Thư khẽ "ồ" một tiếng, nhích người sang bên, để lộ ra người đàn ông cao lớn đằng sau mình: "Ai bảo quan nước Tống ta trói gà không chặt? Chuyện cỏn con như cưỡi ngựa, săn thú, Đại Tống chỉ cần điểm bừa một tiểu quan lục phẩm là dư sức múa đao chém mãnh hổ, tay không kìm sói dữ. Lý đại nhân, ta nói có đúng không?"

Lý Cảnh Đức nghĩ thầm: Vừa chém mãnh hổ vừa kìm sói dữ ư? Ngươi cũng giỏi khoe khoang giùm ta gớm!

Nhưng khoe thế cũng chẳng sai.

Không ngờ Chu Tử Thư biết nhìn người như thế, Lý Cảnh Đức bỗng có hảo cảm với cậu hơn hẳn. Hắn nói chắc nịch: "Đương nhiên là đúng rồi!"

||

Không hiểu sao mấy bữa nay tui bị lên một cơn lười bất tận...không gõ nốt nổi chap tiếp theo ặc ặc.

Chú thích

Update 11/8/21: Gốc: 小白脸 (tiểu bạch kiểm/liễm). Cụm từ này có nhiều mức nghĩa, nặng thì chỉ hạng trai bao "núp váy đàn bà", nhẹ thì loại đẹp mã nhưng vô dụng (tương tự câu "giẻ cùi tốt mã" trong tiếng Việt), hoặc chỉ đơn giản là đàn ông có vẻ ngoài trắng trẻo thanh tú, không có nghĩa chê. để đọc thêm về thành ngữ "Giẻ cùi tốt mã". Các đoạn Lý Cảnh Đức chửi Tô Ôn Duẫn là "tiểu bạch kiểm" mình sẽ dùng linh hoạt thành ngữ này hoặc rút gọn lại thành "giẻ cùi" vì mọi người hiểu nghĩa rồi nhé. Gợi tả vẻ mặt, cái nhìn lạnh lùng, thâm hiểm đáng gờm.

------oOo------

Chương 86

Nguồn: EbookTruyen.Net

Nhi lang Đại Tống

Trong thời kì chưa có vũ khí "nóng" như hiện giờ, mãnh hổ sài lang là những hiểm họa ghê gớm đối với con người. Trước những loài mãnh thú này, con người quá đỗi bé nhỏ và yếu ớt. Một cú vả của loài hổ nhanh và mạnh gấp ba bốn lần con người. Chuyện người thường "đả hổ" phần lớn là hư cấu trong tiểu thuyết chứ hiếm khi có thật.

Thế mà Chu Tử Thư vừa nói dứt câu, Lý Cảnh Đức đã nhận ngay. Tam hoàng tử Gia Luật Hàm cười phá lên, chẳng buồn để vào tai. Gã bảo: "Người Tống các ngươi đều ưa khoác lác vậy sao? Nam nhi dũng mãnh nhất Đại Liêu ta cũng không dám đối đầu với Ông ba mươi1. Tài khua môi múa mép của người Tống thật cao cường, bản hoàng tử không kham nổi!"

Chu Tử Thư định đáp trả, nhưng Lý Cảnh Đức lạ gì ý mỉa mai của gã, bèn tiến lên nói: "Đó là vì người Liêu các ngươi làm gì có hảo hán!"

Lông mày Gia Luật Hàm xếch ngược lên: "Một viên quan Tống nhãi nhép mà cũng dám lên mặt ư?"

Hán Nhi Ty Gia Luật Cần nhíu mày không vui.

Gia Luật Hàm vung tay lên, ra lệnh cho thị vệ đắc lực nhất dưới trướng mình cho Lý Cảnh Đức nếm mùi. "Trực Cổ Lỗ, ngươi hãy dạy cho tên người Tống phách lối này một bài học đi."

"Vâng!"

Tiếng dạ vừa cất lên, một người đàn ông to khỏe dữ dằn bước ra từ sau lưng Gia Luật Hàm, nghênh ngang đi tới trước mặt Lý Cảnh Đức. Lý Cảnh Đức cười khoái chí: "Chờ ngươi nãy giờ." Hai người chỉ liếc nhau đúng một cái rồi quát lên. Thị vệ người Liêu giậm mạnh chân xuống làm mặt đất rung chuyển, hai tay túm chặt đai lưng Lý Cảnh Đức.

Tóm được Lý Cảnh Đức rồi, Trực Cổ Lỗ tính dồn khí xuống hòng nhấc bổng Lý Cảnh Đức lên. Dè đâu, anh ta gồng hai chân mà Lý Cảnh Đức vẫn sừng sững như trời trồng. Đôi chân hắn như rễ tùng bám đất, vững vàng không lay chuyển nổi.

Trực Cổ Lỗ nghĩ bụng hỏng rồi, gay go to, tên này có võ đây.

Lý Cảnh Đức cười sảng khoái: "Đến lượt ta!"

Lý Cảnh Đức không hề dùng miếng võ của người Tống, mà bắt chước luôn chiêu của Trực Cổ Lỗ, túm lấy đai lưng anh ta. Mắt hắn trợn tròn, Lý Cảnh Đức gầm lớn, hai bắp tay cuồn cuộn gân lên, gồng cơ eo, thình lình xốc mạnh một cái, nhấc bổng được Trực Cổ Lỗ lên ngay.

Trực Cổ Lỗ chửi ngay một câu bằng tiếng Liêu, Chu Tử Thư không hiểu, nhưng Lý Cảnh Đức với kinh nghiệm chiến đấu với quân Liêu thì rõ quá. Hắn biến sắc, ném huỵch Trực Cổ Lỗ xuống đất. Trực Cổ Lỗ bật dậy đấm Lý Cảnh Đức, Lý Cảnh Đức lách người né, gạt chân phải. Cả hai xông vào đánh nhau.

Trong sân của dịch quán, hai người quần nhau túi bụi.

Lý Cảnh Đức đấm một quả vào bụng Trực Cổ Lỗ. Trực Cổ Lỗ loạng choạng lùi mấy bước, ngã bệt xuống đất. Cổ anh ta ứ lên, mở miệng là ộc ra một búng máu. Tam hoàng tử Gia Luật Hàm thấy thế thì tức lồng lộn. Gã đứng phắt dậy, dùng tiếng Liêu mắng nhiếc Trực Cổ Lỗ là đồ ăn hại không được tích sự gì, rồi toan phái một thuộc hạ khác ra tiếp chiến.

Gia Luật Cần vội vàng can bằng tiếng Liêu: "Điện hạ, chớ nổi giận với lũ quan người Tống này làm chi. Viên quan lục phẩm này nhìn là biết không phải quan văn thật, nhất định là quan võ. Lần này chúng ta đi sứ Tống, đâu dẫn theo đại tướng thực thụ nào trong quân ngũ."

Gia Luật Hàm gắt: "Thế nó đánh người của bản điện hạ, cứ mặc kệ thế sao?"

Gia Luật Cần: "Điện hạ, đừng để trúng gian kế của bọn người Tống. Chúng ta cần gặp vua Tống, cần gì phải đánh lộn với lũ quan nhãi nhép này."

Gia Luật Hàm tức tối đến nỗi đỏ lừ hai mắt. Đã thế, Lý Cảnh Đức lại còn đứng giữa sân đình diễu võ dương oai, hất hàm nhìn gã. Nhất thời, Gia Luật Hàm không kiềm được lửa giận, nói: "Gia Luật Cần đại nhân nói người Liêu chúng ta đến Tống làm sứ giả, không dẫn theo dũng sĩ thực thụ nào của nước Liêu, nhưng ông sai rồi. Ở đây, bản điện hạ mới chính là dũng sĩ đệ nhất, là Thạch Cung tướng quân được phụ Cungđích thân ban tên!"

Gia Luật Cần chửi toáng lên trong lòng: Sao lại có kẻ dốt nát như mi cơ chứ!

Song ngoài miệng ông ta lại nói: "Thân phận của điện hạ như vậy, quan người Tống lấy đâu ra tư cách tỷ thí với ngài!"

Gia Luật Hàm: "Ông đừng dài dòng nữa."

Gia Luật Cần làm sao mà để gã đánh nhau với Lý Cảnh Đức thật được. Ông đang muốn can ngăn tiếp, đã thấy một viên quan người Liêu rậm râu khác đi từ hậu viện ra. Người đàn ông rậm râu kia gặp Gia Luật Cần thì hừ một tiếng khinh rẻ, chỉ liếc ông ta một cái chứ chẳng buồn nhìn thêm.

Ông quan râu rậm vừa xuất hiện, bầu không khí trong dịch quán thay đổi ngay lập tức.

Sứ giả nước Liêu càng thêm vênh vang hống hách. Rõ ràng hồi nãy mặt mũi họ còn đen thui sau khi Lý Cảnh Đức hung hãn hạ đo ván thị vệ phe Liêu. Thế mà nhác thấy viên quan râu rậm, đoàn sứ Liêu bỗng phấn khởi hẳn lên.

Viên quan người Liêu với bộ râu rậm bước đến trước mặt Gia Luật Hàm, nói với gã bằng tiếng Liêu: "Điện hạ, Gia Luật Cần nói không sai. Tên người Tống này là cái thá gì để ngài phải bước xuống đấu võ với y."

Gia Luật Hàm: "Thế nhưng..."

"Điện hạ."

Gia Luật Hàm nghiến răng: "Xin nghe Thái Bảo đại nhân."

Sứ thần nước Liêu ngầm thương lượng với nhau xong, viên quan rậm râu quay người lại nhìn Lý Cảnh Đức mãi một lúc lâu mới chuyển sang Chu Tử Thư: "Ngươi là quan Tống phụ trách tiếp đón chúng ta đó hả?"

Chu Tử Thư cảnh giác ngay, cậu bước lên phía trước, khiêm nhường thi lễ:

"Hạ quan Chu Tử Thư. Xin hỏi các hạ có phải Cungtử Thái bảo – Gia Luật Ẩn đại nhân không ạ?"

Gia Luật Ẩn hừ một tiếng thay cho lời thừa nhận.

Chu Tử Thư nói: "Chư vị sứ thần nước Liêu mới tới Đại Tống ta, hạ quan tất nhiên phải tiếp đón chu đáo. Hôm qua các vị mới đến, hôm nay hẵng còn bận chỉnh lí hành trang. Đường dài mệt nhọc, hạ quan không dám làm

phiền. Hôm nay đến đây là để hỏi han chư vị sứ thần. Qua ngày mai, hạ quan sẽ dẫn chư vị dạo chơi một vòng thành Thịnh Kinh, ngắm nhìn phong cảnh Đại Tống."

Gia Luật Ẩn cười: "Nếu muốn ngắm, sau này thiếu gì lúc."

Rất nhiều người nghe câu này không hiểu, nhưng Chu Tử Thư lại biến sắc, Lý Cảnh Đức cũng hệt như vậy. Chẳng trách được, nếu Gia Luật Ẩn nói câu khác, có khi Lý Cảnh Đức sẽ không hiểu, nhưng riêng câu này thì Lý Cảnh Đức đã nghe người Liêu nói quá nhiều lần ở chiến trường Tây Bắc rồi.

Chờ kỵ binh nước Liêu ta san bằng lãnh thổ nước Tống, xua quân đến Thịnh Kinh, chúng ta sẽ thỏa sức ngắm nghía hết cảnh sắc non sông Đại Tống các ngươi!

Người Liêu coi thành Thịnh Kinh cứ như khu vườn sau nhà, quả thật không coi ai ra gì!

Lý Cảnh Đức siết chặt nắm đấm. Chu Tử Thư mỉm cười với Gia Luật Ẩn, giọng điệu chẳng kiêu mà cũng không hèn: "Người Tống chúng ta có câu ngạn ngữ, 'chiếc lá che mắt, chẳng thấy Thái sơn.' Gia Luật Ẩn đại nhân không tự tay lấy chiếc lá ra, làm sao mà thấy được Thái sơn nguy nga, làm sao mà thấy vẻ phồn vinh thịnh vượng của non sông Đại Tống."

Gia Luật Ẩn chỉ hừ một tiếng chứ chẳng để ý tới Chu Tử Thư nữa.

Đoàn sứ giả nước Tống cùng nhau rời khỏi dịch quán. Lúc ra về, có mấy quan người Liêu định khiêu khích nhóm Chu Tử Thư, song bị Lý Cảnh Đức trợn mắt một cái, cả lũ rụt hết cổ lại, không dám càn rỡ.

Ngoài tam hoàng tử Gia Luật Hàm ra, Trực Cổ Lỗ là lực sĩ cường tráng nhất trong số người Liêu ở đây. Nhưng đấu với Lý Cảnh Đức, anh ta không đỡ nổi một chiêu. Tráng sĩ người Tống này nếu sang nước Liêu, chưa biết chừng được vua Liêu phong làm đệ nhất dũng sĩ ấy chứ.

Ngày đầu tiên người Liêu tới kinh thành, Chu Tử Thư mượn tay Lý Cảnh Đức đánh phủ đầu cho bọn họ rụt hết cả nhuệ khí lại, phải tạm im ắng một thời gian.

Sau khi họ ra về, Gia Luật Ẩn lườm nguýt Gia Luật Cần: "Hán Nhi Ty đại nhân, liệu mà lo làm đúng bổn phận. Tam hoàng tử là người ông có quyền sai phái hay sao? Ngài ấy muốn làm gì, ông cản được à?"

Đôi mắt âm u của Gia Luật Cần hướng xuống đất, phục tùng: "Tôi đã biết, đa tạ Thái bảo đại nhân nhắc nhở."

Gia Luật Ẩn không buồn nhìn ông ta thêm cái nào, dẫn Gia Luật Hàm đi luôn.

Khi chỉ còn hai người bọn họ, Gia Luật Ẩn sầm mặt, bảo Gia Luật Hàm: "Tam hoàng tử, lần này ta đến nước Tống với mục đích gì, kẻ khác không biết, chứ ngài rõ mồn một rồi kia mà? Trước khi đi, Thái sư đại nhân đã ra lệnh cho chúng ta điều tra kĩ càng xem tại sao người Tống có thể cầm cự ở U Châu lâu đến vậy, vật tư quân nhu từ đâu tới! Có thật là liên quan đến việc xây quan đạo cách đây hai năm không, hay còn bí mật khác."

Gia Luật Hàm phân bua: "Thái bảo đại nhân, nam nhi nước Liêu chúng ta há có thể ngậm mối nhục này?"

"Thế việc Thái sư đại nhân giao phó thì mặc kệ ư?"

Nhắc tới "Thái sư đại nhân", Gia Luật Hàm im thin thít. Gã cúi đầu, lí nhí: "Xin nghe Thái bảo đại nhân."

Chu Tử Thư xong việc thì không về nhà luôn mà đi sang bộ Lễ.

Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng bữa nay không làm việc ở điện Cần Chính mà ở nha môn bộ Lễ. Chu Tử Thư gặp Mạnh Lãng, bèn kể hết chuyện trong ngày, nhưng giấu thân phận Lý Cảnh Đức, chỉ nói rằng mình dẫn theo một thị vệ người Tống, đánh bại người Liêu.

Mạnh Lãng nghe xong bèn bảo: "Gia Luật Ẩn là Cungtử Thái bảo, tức quan phương Bắc. Triều đình người Liêu chia hai phe Bắc Nam, quan phương Bắc nắm các chức vụ then chốt trong triều đình, quan phương Nam phụ trách giao thiệp với người Hán. Cứ như lời ngươi nói, xem ra những gì người ta đồn đại về Gia Luật Ẩn không hề sai, y coi thường quan miền Nam, coi thường Gia Luật Cần. Nhưng từ xưa đến nay, Nam Bắc viện của nước họ luôn mâu thuẫn với nhau." Dừng một chút, Mạnh Lãng cười nói: "Đường đại nhân đúng là rường cột nước nhà, lần nào người Liêu đến Đại Tống cũng diễu võ dương oai, hống hách ngạo ngược. Khéo hôm nay là lần đầu tiên chúng phải chịu lép vế."

Chu Tử Thư chắp tay: "Mạnh tướng công quá khen, hạ quan không dám nhận."

"Có gì mà không dám nhận. Chỉ e hôm nay người ta nhắc đến Đường đại nhân còn có thể nói là sư đệ của Cungđại nhân, chứ sang ngày mai, nhắc đến Cungđại nhân, họ phải kể là sư huynh của Đường đại nhân ấy chứ." Mạnh Lãng khen hết nấc, nhưng lại khiến Chu Tử Thư thoải mái lắm, nghĩ bụng, liệu sau này có lúc nào CungTử Phong phải tâng bốc mình thế không nhỉ? Nhưng ông ta cũng chỉ mớm cho cậu một miếng ngọt thôi, rồi vụt ngay một roi: "Ngay mai, việc đón rước lại giao cho Đường đại nhân tiếp nhé."

Quả nhiên, trên đời đã bao giờ có nịnh suông.

Mạnh Lãng lợi dụng Chu Tử Thư, cứ chắc mẩm rằng Chu Tử Thư chỉ có thể mượn tay CungTử Phong để hoàn thành việc ông ta giao thôi. Nhưng ông ta đâu biết, Chu Tử Thư ra khỏi bộ Lễ là đến điện Cần Chính, thi lễ với Lý Cảnh Đức đang ngoạm dưa giữa sân: "Lý tướng quân thần dũng cái thế, hạ quan hết sức khâm phục. Hôm nay nếu không có tướng quân, người Tống chúng ta đã phải chịu nhục trước người Liêu rồi."

Lý Cảnh Đức quăng vỏ dưa, phủi tay: "Lũ người Liêu đấy rặt phường mãng phu, chỉ được cái sức vóc, việc gì phải sợ chúng."

Chu Tử Thư nghĩ thầm, ngươi có khá hơn bọn họ là bao.

"Ngày mai, tướng quân còn đến nữa không?"

"Đương nhiên phải đến rồi, sao lại không chứ!"

Chu Tử Thư nín cười, vái dài: "Hạ quan đợi tướng quân ở điện Cần Chính."

Tuy có Lý Cảnh Đức xông pha chắn trước, chuyện gì xảy ra cũng có thể nhường nguyên soái nhị phẩm đỡ cho, nhưng Chu Tử Thư cũng không được diễm phúc phủi tay, ngồi mát ăn bát vàng. Về đến nhà, cậu bèn mưu tính xem ngày mai nên đối phó với người Liêu thế nào. Đúng lúc đó, Đường Hoàng gõ cửa vào phòng.

Đường Hoàng cầm theo cuốn sổ kế toán, đưa cho Chu Tử Thư, đây là sổ ghi thu chi quý này của Đường gia.

Đường Hoàng nói: "Anh, sau khi phát hành tờ rơi như anh nói, Bách Bảo Các nhà ta đắt khách nhất thành rồi! Sao anh nghĩ ra ý hay thế, hôm nay quản lí Lục cứ tấm tắc với em."

Đường Hoàng giả giọng quản lí Lục, lên mặt cụ non: "Nếu tiểu đông gia không ra làm quan mà chuyên tâm buôn bán, sản nghiệp Đường gia ta đã trải khắp Đại Tống từ lâu rồi!"

||

[1] Gia Luật Hàm dùng cụm "điếu tinh bạch ngạch" là cách gọi loài hổ dựa theo đặc điểm của loài này. Điếu tinh tức là mắt xếch, còn bạch ngạch là vì vùng trán ngay trên mắt hổ thường là mảng lông trắng.

Còn cách gọi Ông ba mươi của Việt Nam mình có nhiều lí giải. Một trong số đó là sự tích Mộc tinh hóa thân thành hổ uy hiếp loài người. Loài người phải cúng nó vào ngày 30 tháng Chạp để nó không quấy phá ^^ Dưới ảnh là Machali, cô hổ nổi tiếng dũng mãnh của vườn quốc gia Ranthambore, Ấn Độ. Nhờ những chiến tích và sự "ăn ảnh" của mình, Machali đã thu hút được lượng khách du lịch đông đảo, giúp vườn quốc gia có thêm nguồn tài chính cho công tác bảo tồn. Thật đáng buồn là ở Việt Nam đã gần như không còn hổ hoang dã nữa.

------oOo------

Chương 87

Nguồn: EbookTruyen.Net

Ngươi đúng là người tử tế

Đường Hoàng: "Thư cục đã quá quen với nhà mình, in mấy tờ giấy chẳng tốn bao tiền. Lúc đầu mình chỉ phát được ở lầu Tế Hà, xong sau đó quản lí Lục vận động bên phủ Cảnh Cungđể đưa tờ rơi của mình vào lầu Thiên Lý. Bây giờ, trên phố lớn Chính Dương môn, rất nhiều cửa hàng đều có tờ rơi của mình."

Chu Tử Thư suy nghĩ một lát, nói: "Tờ rơi hôm nay thế nào, em mang sang cho anh xem thử."

Đường Hoàng lập tức quay về phòng, mang về cho Chu Tử Thư một tờ giấy nền vàng trông khá thô mộc.

Chu Tử Thư ngắm kĩ rồi mỉm cười.

Cậu không ngờ Đường Hoàng có thể làm tờ rơi quảng cáo cho siêu thị tốt đến vậy!

Đúng đó, đây chính là tờ rơi cho siêu thị.

Chu Tử Thư giao toàn quyền quản lí Bách Bảo Các cho quản lí Lục và Đường Hoàng, kèm theo một nhiệm vụ là liên hệ với thư cục, cứ cách ba ngày lại in một số tờ rơi cho siêu thị, phát đến các cửa hàng lớn trong thành Thịnh Kinh.

Việc này nói thì dễ nhưng làm thì hơi khó.

Trước hết, các khách hàng ghé thăm Bách Bảo Các, khi vào cửa sẽ được nhân viên đưa cho một chiếc làn, trong làn cho để tờ rơi của ngày hôm nay. Trên tờ rơi sẽ ghi những sản phẩm được chiết khấu trong ngày và giá cả cụ thể. Đây là phần dễ nhất. Nhưng không chỉ phát trong Bách Bảo Các, tờ rơi còn cần được phát ra ngoài để mời chào thêm khách hàng nữa.

Lầu Tế Hà là sản nghiệp của Đường gia, phát tờ rơi trong lầu Tế Hà chẳng có gì là khó. Nhưng đến các cửa hàng khác thì sao? Ai lại đồng ý cho mình phát tờ rơi miễn phí?

Đường Hoàng và quản lí Lục vắt óc suy nghĩ, cuối cùng, Đường Hoàng mới nảy ra sáng kiến.

Sau khi thấy tờ rơi quảng cáo ở một cửa hàng và quyết định đến Bách Bảo Các mua sắm, khách hàng chỉ cần cầm theo tờ rơi đó, đồng thời viết tên cửa hàng lên góc trên tờ rơi, là có thể nhận thêm chiết khấu. Bên cạnh đó, đến cuối tháng, Bách Bảo Các sẽ dựa theo tên cửa hàng và số lượng khách hàng được giới thiệu đến để trả cho chủ cửa hàng một khoản tiền.

Số tiền trả cho riêng một khách thì không nhiều, nhưng tích tiểu thành đại.

Ví dụ như, một khách hàng thấy tờ rơi của Bách Bảo Các ở tiệm bánh bao

Trương Ký, sau đó đến Bách Bảo Các mua hàng rồi chìa tờ rơi có tên tiệm Trương Ký ra lúc thanh toán ở Bách Bảo Các. Bách Bảo Các sẽ thu tờ rơi rồi chiết khấu thêm cho vị khách mua hàng.

Giả sử mỗi khách hàng lấy tờ rơi ở tiệm bánh bao mua năm mươi đồng tiền hàng ở Bách Bảo Các, Bách Bảo Các sẽ trả cho tiệm bánh bao một đồng.

Nếu có một trăm người đến thì tiệm bánh bao được trả một trăm đồng.

Quan trọng hơn, tiệm bánh bao không mất xu nào cả mà vẫn có thêm thu nhập.

Tiệm bánh bao Trương Ký chỉ cần nhận tờ rơi của Bách Bảo Các rồi để trong tiệm, chẳng cần bỏ ra bất cứ chi phí nào lại được người ta trả tiền cho, tội gì không làm?

Còn các khách hàng thông qua tờ rơi của Bách Bảo Các mà biết rằng có thể được chiết khấu thêm, cũng sẽ thích đến Bách Bảo Các mua sắm hơn.

Đương nhiên, kể cả khi khách hàng không lấy tờ rơi ở cửa tiệm khác nhưng đến mua sắm ở Bách Bảo Các, vẫn có thể sử dụng tờ rơi được phát ở cổng vào để nhận thêm chiết khấu.

Chu Tử Thư biết chuyện Đường Hoàng có sáng kiến như vậy, cậu bèn gọi em gái mình đến để hỏi xem cô bé đã nghĩ ra thế nào.

Chu Tử Thư: "Vì sao chúng ta lại biếu không cho các cửa hàng một khoản tiền như thế?"

Đường Hoàng: "Không có lợi ích, bọn họ tội gì phải cho phép Bách Bảo Các nhà mình phát tờ rơi trong cửa hàng nhà họ?"

Chu Tử Thư: "Vậy em có nghĩ đến chuyện nhà mình sẽ bị lỗ không?"

Đường Hoàng ngạc nhiên: "Lỗ ư? Anh này, sao anh lại nghĩ thế? Thứ nhất, nếu khách hàng không thấy tờ rơi, không đến Bách Bảo Các mua sắm, chúng ta sẽ chẳng kiếm được xu nào cả. Thứ hai, giá cả các mặt hàng và con số chiết khấu nhà mình đã tính toán cẩn thận rồi, cộng hết các chi phí đội lên rồi mới cho ra giá đó." Cô nhóc cười ngọt như mía lùi, "Em có phải đồ đần đâu, lẽ nào, anh trai em mới là đồ đần kia chứ?"

Chu Tử Thư đương nhiên là biết mục đích của Đường Hoàng, cũng biết em gái mình tính toán thế nào. Nhưng cậu vẫn giả vờ nghiêm mặt nói: "Như vậy đó hả? Thế em đã nghĩ đến chuyện, sẽ có những khách hàng và cửa hàng bắt tay với nhau chưa? Khách hàng sẽ móc nối với các cửa hàng khác Bách Bảo Các, cầm tờ rơi của hàng đó đến nhà mình mua sắm. Sau khi mua xong, Bách Bảo Các chúng ta trả tiền hoa hồng cho cửa hàng kia, cửa hàng lại chia đôi với khách. Hai bên hợp tác, kiếm chác từ nhà mình?"

"Vậy thì đã làm sao?" Đường Hoàng nói, "Em chỉ biết, khách hàng đó đến Bách Bảo Các của mình để mua hàng. Em còn biết, dù họ có tính toán riêng với nhau thế nào, thì Bách Bảo Các nhà ta vẫn phải chi bằng đấy tiền. Tại sao phải quan tâm đến việc các cửa hàng khác cạnh tranh tiền hoa hồng từ tờ rơi của chúng ta thế nào chứ? Chỉ cần một khách hàng không có ý định mua sắm ở Bách Bảo Các bỗng trở thành khách hàng của Bách Bảo Các, là chúng ta có lợi nhuận rồi."

Chu Tử Thư lặng yên nhìn em gái mình, khiến Đường Hoàng cũng thấy dựng tóc gáy.

"Anh nè, anh nhìn cái gì vậy."

"Nhìn xem sau này em sẽ cưới ai."

"Anh biết xem cả tướng số nữa à?"

"Không phải xem tướng số đâu, anh đang ngẫm xem nếu không ai thèm cưới em thật, thì anh phải tốn bao nhiêu tiền mới nuôi nổi em."

"..."

Có sáng kiến của Đường Hoàng, việc buôn bán của Bách Bảo Các càng phát triển hơn. Rất nhiều khách hàng định mua sắm ở những tiệm tạp hóa xung quanh, thấy tờ rơi của Bách Bảo Các, biết rằng cầm đến sẽ được giảm giá thêm, bèn nô nức sang phố lớn Chính Dương môn để mua sắm.

Chỉ trong hai tháng, mỗi con ngõ trong thành Thịnh Kinh đều có ít nhất hai cửa hàng có phát tờ rơi của Bách Bảo Các.

Lúc này, trong ánh nến leo lắt, Chu Tử Thư nhìn tờ rơi trên tay, mắt khẽ nheo.

Hôm sau, trong dịch quán.

Một thị vệ người Liêu thay ca lúc sáng sớm thì bắt gặp một quan sai trong dịch quán cầm tập giấy đi từ cổng vào, đặt trong phòng gác cổng, rút một tờ ra, dựa lưng vào tường, chăm chú đọc.

Thị vệ nước Liêu tò mò lắm, nhưng anh ta không biết tiếng Tống. Tay thị vệ nghênh ngang đi đến, huơ huơ trường đao dắt bên eo, chỉ trỏ vào tờ giấy quan sai đang cầm.

Đoàn sứ giả nước Liêu ai nấy mắt cao hơn đầu, hoành hành ngang ngược trong dịch quán. Quan sai thấy động tác của tên thị vệ, nào dám bất tuân, vội vàng đưa tờ rơi Bách Bảo Các cho tên thị vệ. Tên thị vệ cầm đến tờ rơi, lại càng đau đầu hơn: Hắn đâu có đọc được chữ Tống!

Thị vệ bèn đem tờ rơi của Bách Bảo Các vào nhà tìm một quan văn nước Liêu. Viên quan văn đó lại đi tìm Gia Luật Cần.

Đến trưa, Gia Luật Cần dẫn theo mấy thị vệ, lẳng lặng đến Bách Bảo Các. Ông ta ăn mặc như người Tống, sau khi vào trong Bách Bảo Các rồi thì hoa cả mắt, kinh hãi không thôi. Không nán lại, Gia Luật Cần trở về dịch quán ngay. Sau khi ngẫm nghĩ một hồi, ông bèn đến gặp tam hoàng tử Gia Luật Hàm, nói: "Tam điện hạ, người Tống hiện giờ, khác xa so với tưởng tượng của chúng ta."

Gia Luật Hàm mới ngủ dậy, nghe thế thì hỏi: "Hán Nhi Ty đại nhân, ông nói thế nghĩa là sao?"

Gia Luật Cần cúi mình hành lễ, thưa: "Tuy thần là quan phương Nam, nhưng thần xin nói thật với điện hạ, việc quan hệ giữa hai nước Liêu Tống, xưa nay vẫn do các quan phương Nam đảm trách. Vốn hoàng đế bệ hạ không muốn phái Thái bảo đại nhân, nhưng lúc đi lại có cả Thái bảo đại nhân, thần trộm đoán, Thái bảo đại nhân và tam điện hạ đến đây là để nghe ngóng tình hình, thăm dò thực hư nước Tống ra sao."

Gia Luật Hàm sững sờ, gã không ngờ Gia Luật Cần lại có thể đoán không sai một li như thế.

Gia Luật Cần trông sắc mặt của tam điện hạ là biết mình đoán đúng rồi. Gia Luật Cần thở dài, nếu lần này đi sứ Tống là những hoàng tử khác, ông ta đâu đến nỗi tốn lắm nước bọt thế này? Gia Luật Cần bèn nói tiếp: "Thần không biết điện hạ và Thái bảo đại nhân muốn tìm hiểu cụ thể điều gì, nhưng thần cho rằng, vua Tống không triệu kiến chúng ta ngay ngày đầu tiên, thật ra chưa chắc đã là chuyện xấu. Bọn họ đang chờ đợi, nhưng trong lúc họ đợi chờ, chúng ta cũng có thể thăm dò thành Thịnh Kinh!"

Gia Luật Hàm nhớ đến chuyện Gia Luật Ẩn nói hôm qua, bèn bảo: "Nhưng hôm qua, Thái bảo đại nhân vừa mới nói rằng, sau này chúng ta thích nhìn ngắm Thịnh Kinh nước Tống bọn chúng thế nào thì tha hồ làm thế ấy mà."

Gia Luật Cần nghĩ bụng: Ngu xuẩn! Nếu đánh chiếm nước Tống dễ đến thế, cớ gì hơn trăm năm qua, nước Liêu chưa thôn tính nước Tống chứ?

Rõ ràng là bởi đánh chiếm Tống xong, Đại Liêu sẽ tổn thất nặng nề, tạo cơ hội cho các nước thù địch lân cận tấn công.

Nếu đã vậy, thà rằng cứ thỉnh thoảng dọa dẫm nước Tống một phen, chẳng tốn binh tốt nào mà vẫn chiếm được tiền tài của người Tống, chưa biết chừng, Tống còn phải cắt đất cầu hòa.

Đó là kế hoạch của nước Liêu.

Họ lặn lội đường xa làm sứ giả đến Đại Tống, không phải vì đột nhiên gặp trở ngại ở U Châu, mà phần nhiều là để thương thảo với vua Tống, bắt người Tống phải cống nộp tiền bạc để họ lui binh.

Gia Luật Cần nói: "Hôm nay thần đã đến phố lớn Chính Dương Môn, nơi tấp nập nhất kinh thành nước Tống. Quả nhiên, cửa hàng cửa hiệu san sát, người đổ về như lũ, còn phồn vinh hơn cả Trung Kinh Đại Định phủ1 của nước ta. Xin Tam điện hạ và Thái bảo đại nhân hãy bàn kĩ chuyện này, thần cho rằng, đây cũng là một cách để chúng ta thăm dò thực lực nước Tống, một lối tắt để biết xem hiện tại họ giàu có nhường nào."

[1] Một trong những trung tâm chính trị lớn của nhà Liêu, có thời điểm phát triển vượt cả thủ đô Thượng Kinh. Xem thêm chú thích

Buổi chiều, Chu Tử Thư vừa dẫn các quan đến dịch quán thì thấy Gia Luật Hàm đã chễm chệ trên ghế thượng tọa, cao ngạo nói rằng: "Hôm nay Tống đế vẫn chưa triệu kiến chúng ta, là cớ gì?"

Chu Tử Thư liếc nhìn Gia Luật Hàm, Gia Luật Cần và Gia Luật Ẩn một lượt rồi cung kính cúi mình hành lễ: "Tam hoàng tử điện hạ đến Đại Tống ta, các sứ thần xin được đón tiếp điện hạ. Hạ quan là đặc sứ do Lễ bộ Thượng thư Mạnh đại nhân phái đến, phụ trách khoản đãi các sứ thần đại nhân. Hôm nay, hạ quan đã thiết yến bày rượu ở lầu Thiên Lý để mời điện hạ và các vị đại nhân đây đón gió tẩy trần. Điện hạ chưa biết, lầu Thiên Lý chính là..."

Giọng điệu của Chu Tử Thư hết sức từ tốn và đúng mực, kiên trì giải thích cho đoàn sứ Liêu.

Sau khi trình bày xong, Chu Tử Thư ngẩng lên nhìn Gia Luật Hàm: "Không biết ý Tam hoàng tử thế nào ạ?"

Gia Luật Hàm đăm chiêu một lát, hai người trao đổi thêm vài câu, gã mới nói: "Cũng không phải không được."

Hôm đó, Chu Tử Thư thuận lợi dẫn đoàn sứ Liêu đến lầu Thiên Lý thành Thịnh Kinh, thết tiệc khoản đãi.

Hôm sau, Chu Tử Thư lại nghĩ ra bài mới, cậu dẫn bọn Gia Luật Hàm ra ngoại ô cưỡi ngựa, rồi leo lên nóc tòa lầu cao ngất mà Cung Tuấn xây riêng cho Triệu Phụ ở phía Bắc thành – lầu Hư Cực. Người bình thường thì không thể lên lầu nhưng Triệu Phụ đặc cách cho Chu Tử Thư dẫn người Liêu lên, khiến họ phải đứng trên cao mà chiêm ngưỡng Đại Tống bao la và huy hoàng giữa thời thịnh thế.

Mấy hôm sau, Chu Tử Thư trước rước sau đưa, chăm sóc đoàn sứ giả tận tình chu đáo.

Nhưng Lý Cảnh Đức thì không thể chịu nổi.

Về điện Cần Chính, hắn lột mũ quan văn xuống, than: "Hầy, mệt hơn cả đánh trận! Trước đây ta không biết các ngươi làm quan văn khổ đến thế. Tên Gia Luật Hàm kia không coi ai ra gì, hễ thấy mặt hắn là ta chỉ muốn dần cho một trận, tống cổ về Liêu. Đường đại nhân, mấy hôm nay ngươi vất vả quá."

Chu Tử Thư nghiêm chỉnh đáp: "Lý tướng quân quá lời rồi, hạ quan là mệnh quan triều đình, ăn lộc vua ban, dốc sức phụng sự, sao có thể nói là khổ được, chỉ là thực thi bổn phận thôi."

Lý Cảnh Đức nhìn cậu, nói: "Ngươi khác xa CungTử Phong và Tô Phỉ Nhiên đấy."

Chu Tử Thư cười: "Ta chỉ là một tiểu quan tứ phẩm, đương nhiên không thể sánh với với sư huynh và Tô đại nhân rồi."

Lý Cảnh Đức than: "Hai tay đó có tử tế gì cho cam. Chẳng cứ ngươi là sư đệ CungTử Phong, trước mặt hắn ta cũng dám nói vậy."

Chu Tử Thư nghĩ thầm: Vậy ngươi nói thẳng mặt sư huynh xem!

Lý Cảnh Đức đội nón quan văn lên, khẽ khàng biến khỏi điện Cần Chính.

Trời vừa tối, Chu Tử Thư đã sang phủ Thượng thư bán đứng Lý Cảnh Đức.

Dù thế nào đi chăng nữa, Lý tướng quân cũng không nghĩ rằng Đường đại nhân mà chính hắn phải ngợi ca là "khác xa bọn họ", thoắt cái đã đem cuộc nói chuyện giữa hai người bọn họ kể củ tỉ âm ti cho Cung Tuấn. Cung Tuấn chậm rãi thở dài: "Lý tướng quân hiểu lầm ta rồi."

Chu Tử Thư rất muốn nói rằng, đệ nghĩ hắn không hiểu lầm đâu, Lý tướng quân tuy hơi hiền lành chất phác, nhưng người ta đâu có ngốc.

Cung Tuấn: "Tiểu sư đệ, Lý tướng quân có vẻ rất thích đệ nhỉ?"

Chu Tử Thư: "...Có thể do đệ biết cách ăn nói chăng?" Mấy hôm nay ngoài việc tiếp đãi người Liêu ra, Chu Tử Thư cũng hay nịnh Lý Cảnh Đức. Hoàng đế cực kì ưu ái Lý Cảnh Đức, thế nên kiểu gì cậu cũng phải nịnh hắn cho bằng được. Cậu đã đắc tội với Tô Ôn Duẫn rồi, không thể làm mích lòng thêm một người nữa. Giờ đang có cơ hội, cậu phải tranh thủ mà lôi kéo Lý Cảnh Đức, phòng khi Tô Ôn Duẫn muốn ngáng chân còn có người giang tay giúp đỡ.

Hai sư huynh đệ uống xong chén trà nóng, Cung Tuấn nói: "Ngày mai là đệ sẽ được nhàn một chút rồi."

Chu Tử Thư sửng sốt, ngẩng lên nhìn chàng: "Sư huynh?"

Cung Tuấn mỉm cười: "Không thể để Mạnh đại nhân rỗi dài mãi được, ông ta ăn lộc vua ban thì phải dốc sức vì vua, những việc này đều thuộc bổn phận của ông ấy. Nếu không làm, lại bị ngôn quan2 tố cáo rằng làm quan mà chẳng nên quan, ngồi mát ăn bát vàng thì không ổn. Tiểu sư đệ thấy thế nào?"

[2] Các quan có nhiệm vụ can gián, phê bình

Chu Tử Thư tròn mắt: "Sư huynh, huynh..."

Cung Tuấn rót nước sôi vào trà cho Chu Tử Thư: "Bích Loa Xuân Cô Tô năm nay đấy, trước giờ tiểu sư đệ vẫn thích, uống thêm đi."

Chu Tử Thư: "..."

Té ra chẳng cần cậu "mách lẻo", CungTử Phong đã biết tất tần tật nhưng chuyện xảy ra trong điện Cần Chính hôm nay!

Ăn lộc vua ban, vì vua phụng sự, chuyện thuộc bổn phận...

Toàn là những điều cậu nói với Lý Cảnh Đức chiều nay đây mà!

Chu Tử Thư bỗng thấy mừng quá, may mà lúc cậu băn khoăn "CungTử Phong không chào cờ được" đã không tâm sự với bất cứ ai, cũng không lỡ miệng nói bậy bạ. Chẳng may bị Cung Tuấn phát hiện thì không thể hình dung nổi chuyện gì sẽ xảy ra!

||

[1] Nhà Liêu có lãnh thổ rộng lớn chia làm 5 đạo, trung tâm của 5 đạo này là các kinh, lấy tên kinh đặt cho cả đạo. Mỗi đạo lại có thể chế chính trị riêng để quản lý các dân tộc khác nhau, hoặc các vùng đất đánh chiếm được. Trung Kinh trong truyện nhắc đến được đề tên là Dading trên bản đồ phía dưới. Một đặc điểm của nhà Liêu là sự đa sắc tộc (do lãnh thổ trải dài và quá trình thôn tính các nước/dân tộc lân cận của người Khiết Đan). Người Hán chiếm số lượng lớn nhất nhưng sống tập trung ở phía Nam trong khi người Khiết Đan thì chủ yếu ở phương Bắc, hình thành thế Bắc triều – Nam triều như trong truyện nhắc đến. Văn hóa của hai dân tộc vừa có tính độc lập, vừa ảnh hưởng lẫn nhau. Nhà Liêu có nền kinh tế nông nghiệp/du mục rất phát triển, có chữ viết riêng và văn hóa đặc sắc riêng. Sự hùng mạnh của nhà Liêu và Tây Hạ là một trong những nguyên nhân nhà Tống phát động chiến tranh với Đại Việt nhân lúc vua Lý Nhân Tông còn nhỏ, thái hậu Ỷ Lan nhiếp chính; nhưng đắng lòng cho Tống là Đại Việt dưới thời Lý cũng mạnh và giàu vl :)

------oOo------

Chương 88

Nguồn: EbookTruyen.Net

CungTử Phong... chào cờ được không?

Rốt cuộc CungTử Phong có "chào cờ" được hay không, Chu Tử Thư đương nhiên không thể biết được.

Sứ thần nước Liêu chờ năm ngày, hoàng đế mới mở tiệc ở lầu Thăng Bình để chiêu đãi sứ giả. Chu Tử Thư là quan tiếp đón, đương nhiên cũng dự tiệc theo.

Trong lầu Thăng Bình đương rộn ràng ca múa, lả lướt tay tiên1.

Không phải Cungtôn, quan viên nào cũng được dự yến mừng sứ giả nước

Liêu ở lầu Thăng Bình. Trong buổi tiệc này chỉ xuất hiện các Cunggia được hoàng đế sủng ái hơn cả, một số quan lớn, cộng thêm các quan phụ trách tiếp xúc với sứ thần, dẫn đầu bởi Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng. Chu Tử Thư ngồi tít ở phía cuối trong nhóm quan lại. Từ góc xa, cậu thấy Triệu Phụ trong bộ long bào đang uống rượu, trò chuyện với Tam hoàng tử nước Liêu Gia Luật Hàm.

Đây là lần đầu Gia Luật Hàm đến Thịnh Kinh và cũng là lần đầu gã được gặp Triệu Phụ. Gã cứ tưởng hoàng đế Đại Tống cũng giống với phụ Cunggã, uy nghiêm hà khắc, không ai dám nhìn thẳng, nói sai một câu cũng có thể bị lôi ra chém đầu. Ngờ đâu, thái độ của Triệu Phụ hết sức vồn vã, dường như có ý lấy lòng, khiến Gia Luật Hàm phổng cả mũi.

Phải lắm! Nước Đại Liêu của họ binh hùng tướng mạnh, đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi. Trước mặt người Liêu, người Tống dĩ nhiên phải nịnh nọt, a dua. Hoàng đế Đại Tống đã là gì? Thiết kỵ nước Liêu mà xuôi Nam, chẳng cần đến một tháng cũng thừa sức tắm máu thành Thịnh Kinh.

Trong lòng Gia Luật Hàm tự phụ là thế, nhưng gã không ngu đến mức cuồng ngôn. Gã bảo Triệu Phụ: "Đa tạ sự quan tâm của hoàng đế bệ hạ, ta ở dịch quán rất thoải mái, hiềm nỗi mãi mới được gặp bệ hạ, kể cũng lạ. Sáng nay, bản điện hạ còn nghĩ, có nhẽ nào hoàng đế Đại Tống không bằng lòng gặp chúng ta chăng?"

Triệu Phụ kinh ngạc: "Sao Tam hoàng tử lại hiểu lầm thế." Nói rồi, ông ta quay ra chất vấn: "Mạnh đại nhân, trẫm ra lệnh cho khanh tiếp đón sứ giả nước Liêu từ sớm, cớ làm sao khanh lại để sứ giả hiểu lầm thế này?"

Mạnh Lãng than thầm trong bụng, lập tức đứng dậy, liếc mắt về phía Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư ngồi tuốt đằng sau chứ không được ở gần Cung Tuấn – người được xếp ngồi đối diện Mạnh Lãng. Hiện giờ, Cungđại nhân đang không nhìn lên, chỉ thong thả ung dung thưởng thức các món ăn, còn cái người ngồi lù lù cạnh Chu Tử Thư là Đại nguyên soái nhị phẩm trắng trẻo đẹp trai kia. Lúc này, ngài nguyên soái đương trợn trừng trừng cặp mắt to như chuông đồng, hung tợn nhìn chòng chọc Mạnh Lãng.

Ánh mắt hắn đang nói: Những việc xương xẩu nhất lão đã quẳng tuốt cho ông đây gánh rồi, giờ sao, vẫn tính đùn đẩy trách nhiệm tiếp hử?

Mạnh Lãng kêu trời không thấu kêu đất chẳng hay, khổ sở lắm mà chịu chết không nói được.

Làm sao ông ta đoán nổi mọi chuyện sẽ thành ra thế này? Mình sai Chu Tử Thư đi làm việc kia mà, Lý Cảnh Đức nhảy vào làm gì cơ chứ!

CungTử Phong là kiểu người mật miệng gươm lòng. Nếu hôm nay ông ta tâu với Triệu Phụ rằng mình giao việc cho Chu Tử Thư nhưng Chu Tử Thư làm hỏng, CungTử Phong sẽ không vội vã trả thù ngay. Sự trả thù của y sẽ kéo dài dai dẳng như mưa phùn mỗi dịp gió mùa về, lúc nhặt lúc khoan ròng rã cả tháng.

Nhưng Lý Cảnh Đức thì hoàn toàn khác.

Lý Cảnh Đức mà đã rắp tâm trả thù, chỉ e Mạnh Lãng vừa bước chân ra khỏi lầu Thăng Bình đã bị Lý tướng quân hốt ngay vào bao tải, lôi đến xó xỉnh nào đó trong cung dần cho một trận!

Mạnh Lãng rên rỉ trong lòng, tâu với Triệu Phụ: "Thần kém cỏi, không làm tròn chức trách."

Triệu Phụ giả vờ nghiêm giọng: "Thiếu chu đáo với khách quý của trẫm, phạt ngươi một tháng bổng lộc."

Mạnh Lãng: "Thần lĩnh mệnh."

Gia Luật Hàm cố tình bắt bẻ, cốt là để thấy hoàng đế Đại Tống trừng phạt bề tôi vì sứ giả nước Liêu. Còn chuyện ai là người phải chịu trận thì gã chẳng cần biết. Đây là việc mà trước khi đến lầu Thăng Bình, Hán Nhi Ty Gia Luật Cần đã dặn dò kĩ lưỡng: Phải đánh phủ đầu quan Tống hòng bẻ gẫy uy thế của họ, sau này đàm phán mới không thiệt cho bên ta.

Mạnh Lãng bị phạt xong, Gia Luật Cần mới vờ vĩnh can: "Hoàng đế bệ hạ, chỉ là chuyện nhỏ thôi, đâu cần làm vậy."

Triệu Phụ mỉm cười hòa ái, nét mặt hiền hậu nhân từ: "Sứ thần Đại Liêu là khách quý của trẫm, không thể sơ suất được."

Gia Luật Hàm nghe thế thì sướng rơn, gã vừa vuốt ria mép vừa cười khoái trá. Sau lưng gã, Gia Luật Cần và Gia Luật Ẩn nhìn Triệu Phụ bằng ánh mắt khinh miệt. Chuyện Triệu Phụ say mê tu tiên, cả ngày chỉ tâm niệm xem làm cách nào mới đắc đạo không phải bí mật trong giới quan chức nước Liêu. Hôm nay xem ra, hoàng đế Đại Tống đúng là một tên hôn quân tầm thường, không đáng nhắc đến.

Buổi yến ở lầu Thăng Bình kết thúc, song phương chuyện trò hết sức thân tình, ai nấy đều phấn khởi.

Sau khi Triệu Phụ rời khỏi lầu Thăng Bình, các quan Đại Tống chờ sứ giả nước Liêu đi hết rồi mới ra về.

Chu Tử Thư và Lý Cảnh Đức đi cùng với nhau; Lý Cảnh Đức vẫn đang đóng giả quan tùy tùng của Chu Tử Thư. Vừa ra khỏi lầu Thăng Bình, hai người bị một thái giám ngăn lại. Thái giám ấy cúi mình thi lễ: "Nô tỳ xin được diện kiến Lý tướng quân, Đường đại nhân. Bẩm tướng quân, thánh thượng cho đòi ngài đến đài Đăng Tiên, mời tướng quân đi theo tôi."

Lý Cảnh Đức dụi mũi, nói với Chu Tử Thư: "Ta đi đã nhé."

Chu Tử Thư: "Lý tướng quân đi thong thả."

Lý Cảnh Đức theo thái giám đến đài Đăng Tiên.

Hôm sau, Chu Tử Thư không còn gặp Lý Cảnh Đức ở điện Cần Chính nữa. Mạnh Lãng dẫn đầu các quan, đích thân thương thảo với sứ Liêu. Hai bên không chọn điện Cần Chính hay bất cứ nơi nào trong cung, mà chọn nha môn bộ Lễ để đàm phán. Bao nhiêu phép tắc trang trọng khi trước, đến lúc này đều thành lời suông nước lã cả. Người Liêu vừa xuất hiện đã yêu sách ngay: "Trong cuộc chiến tại thành U Châu lần này, quân Liêu ta phải chịu tổn thất vô cùng nghiêm trọng. Các ông định bồi thường thế nào đây?" Đòn ngậm máu phun người này mới trắng trợn làm sao!

Chu Tử Thư dù sao cũng còn trẻ, chỉ có ba năm kinh nghiệm làm quan, da mặt hẵng còn mỏng lắm. Cậu nghe sứ Liêu nói thế thì sôi mật sôi gan.

Mạnh Lãng với Dư Triều Sinh lại khác. Hai người họ kẻ tung người hứng, vừa đấm vừa xoa.

Dư Triều Sinh chất vấn: "Gia Luật đại nhân nói vậy là có ý gì? Hai nước Tống – Liêu kí hòa ước từ hai mươi năm trước, đôi bên thống nhất không khai chiến, không giao tranh, chung sống hòa bình. Hòa ước do chính tiên đế nước Liêu các ông kí, lẽ nào Liêu Thành Tông băng hà, hòa ước cũng hết hiệu lực sao? Lần này quân Liêu các ông tấn công thành U Châu trước, cớ gì các ông lại đổ lỗi cho Đại Tống? Đại Tống chúng ta còn chưa tính sổ chuyện ấy với các ông đâu!"

Gia Luật Cần cười hằn học: "Các ngươi cũng có gan nhắc đến tiên đế nước Đại Liêu ta ư? Tiên đế nhân từ nên mới kí hòa ước với Đại Tống các ngươi. Ấy vậy mà suốt hai mươi năm qua, Đại Tống đã làm những gì? Hai tháng trước, một viên quan Đại Liêu vô duyên vô cớ chết trên đất Tống, các ngươi lấy gì để giải thích đây?"

Dư Triều Sinh toan nổi giận, Mạnh Lãng đã xen vào dập lửa ngay: "Dư đại nhân, không thể nói vậy được. Hoàng đế nước Liêu cử sứ giả tới nước ta, ngay cả tam hoàng tử điện hạ cũng đích thân thăm viếng, ấy là thật lòng muốn đàm phán với chúng ta..."

Tròn hai ngày, đôi bên vẫn tranh cãi dằng dai về việc ai mới phải chịu trách nhiệm cho chiến dịch U Châu lần này.

Phải sang đến ngày thứ ba, nước Liêu mới đồng ý nhượng bộ. Đương nhiên, họ không nhượng bộ vì quá cắn rứt lương tâm khi trơ tráo đổ vấy trách nhiệm về phía Đại Tống, mà vì quân Tống nhân lúc đêm khuya đã bí mật tập kích doanh trại quân Liêu ở Tây Bắc, thắng lợi áp đảo. Bấy giờ người Liêu mới chợt phát hiện rằng nước Tống ở phương Nam có lẽ không yếu như bọn họ tưởng. Hai mươi năm trước, cũng chính đất nước này đã từng đánh bại bọn họ.

Với chức vị của Chu Tử Thư hiện giờ, cậu chưa thể tham dự vào quá trình đàm phán. Song để nước Liêu phải nhận một phần lỗi, họ vừa phải tốn ba ngày trời, vừa phải hi sinh máu xương binh lính Đại Tống.

Chu Tử Thư đứng trong phòng, nghe Mạnh Lãng và Dư Triều Sinh nói về con số thương vong.

Những con số chỉ là ngôn từ lạnh lẽo, nhưng đằng sau những con số không biết nói ấy là biết bao sinh mạng phải lụi tàn.

Đại Tống sung túc hơn Đại Liêu, chi phí đổ vào quân sự cũng nhiều hơn Đại Liêu. Nhưng binh sĩ Đại Tống không mạnh bằng binh sĩ nước Liêu được trui rèn quanh năm trên chiến trường thảo nguyên. Nước Tống giàu có, song chiến tranh không chỉ đơn thuần là cuộc so găng về tiền bạc. Chiến tranh là cuộc đọ sức của thực lực quân sự.

Chu Tử Thư lắng nghe từng câu nói, lẳng lặng, bình tĩnh quan sát động tác và biểu cảm của bọn Gia Luật Hàm từ xa.

Đến chiều, một quan sai gọi Chu Tử Thư ra khỏi phòng. Cậu đi xuống hậu viện nha môn bộ Lễ, liền thấy Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức chờ sẵn trong sân.

Chu Tử Thư lập tức bước đến hành lễ: "Hạ quan Chu Tử Thư bái kiến Lý tướng quân."

Lý Cảnh Đức nói: "Đường đại nhân, sao giờ này mà ngươi còn đa lễ với ta thế! Bản tướng quân đến là để cảm ơn ngươi. Thời gian vừa qua bắt ngươi dẫn ta theo, cuối cùng lại thành ra liên lụy đến ngươi. Ngày mai ta phải về Tây Bắc rồi, hôm nay không tới cảm ơn thì hết cơ hội mất."

Chu Tử Thư kinh ngạc: "Lý tướng quân phải về Tây Bắc rồi ư?"

"Đúng thế. Ngoài thành U Châu, quân Liêu chưa thôi rình rập, ta không thể không trở về."

Lý Cảnh Đức sớm muộn gì cũng phải quay lại Tây Bắc, nhưng Chu Tử Thư không ngờ ngày ấy đến nhanh như vậy. Cậu hơi ngạc nhiên, đêm hôm đó Triệu Phụ gọi Lý Cảnh Đức vào đài Đăng Tiên nói chuyện, ngặt nỗi cậu không thể hỏi đó là chuyện gì. Chu Tử Thư bèn nói: "Hạ quan chúc Lý tướng quân thuận buồm xuôi gió."

Lý Cảnh Đức khoát tay: "Ha ha, xin cảm ơn. Được rồi, ta nghe đồn Đường đại nhân giàu lắm đúng không nhỉ?"

Chu Tử Thư bỗng cảnh giác, không biết hắn ta tự dưng nói thế với ý đồ gì.

"Ngươi đừng lo, bản tướng quân chỉ hỏi chơi thôi. Giàu thế chứ giàu nữa cũng chả vượt nổi CungTử Phong!" Lý Cảnh Đức bĩu môi, "Dù y có là sư huynh ngươi đi chăng nữa, ta cũng chẳng ngại nói thẳng mặt y. Nhà CungTử Phong giàu nứt đố đổ vách, y còn làm Thượng thư bộ Hộ, cả ngày lo kiếm tiền cho triều đình. Cứ hễ chiến tranh, ông đây vừa phải xin y tiền, vừa phải lựa theo sắc mặt y. Y là cái giống gì ấy chứ chẳng phải giống người!"

Chu Tử Thư chỉ tủm tỉm cười, bụng bảo dạ: Để tối nay ta nhắn nhủ sư huynh giùm Lý tướng quân nhé.

Lý Cảnh Đức: "Nhưng ông đây cũng có bản lĩnh của riêng mình chứ bộ. Ta biết đánh giặc, sống nửa đời người cũng chỉ biết đánh giặc thôi. Binh sĩ Đại Tống chúng ta quả thực không bằng quân Liêu, nhưng ta cam đoan chỉ mười, hai mươi năm nữa, thiết kỵ nước ta sẽ không thua kém bọn họ! Hiềm nỗi mười năm vừa qua, mỗi trận đánh lại tiêu tốn của bọn ta cơ man tiền của. Trận đánh úp doanh trại vừa rồi còn tốn kém gấp mấy lần. Việc kiếm tiền, xin trông cậy cả vào các ngươi!"

Trong nắng vàng rực rỡ, nụ cười của Lý tướng quân sáng láng vô cùng.

Chu Tử Thư ngắm nhìn vị tướng quân trẻ hồi lâu mới nói: "Lý tướng quân, có chuyện này hạ quan hết sức tò mò..."

"Ngươi cứ nói."

"Hôm ấy Thánh thượng triệu ngài đến đài Đăng Tiên, phải chăng là do hạ quan chưa làm tròn bổn phận, dẫn tướng quân đến dịch quán tiếp sứ Liêu, gây liên lụy đến tướng quân?"

Vẻ mặt Lý Cảnh Đức bỗng trở nên hết sức khó tả.

Chu Tử Thư: "Tướng quân?"

"Chắc là bị Thánh thượng mắng cho một trận tối tăm mặt mày chứ gì." Tiếng ai du dương trầm bổng cất lên từ phía sau hai người.

Chu Tử Thư lập tức ngoái nhìn. Dưới dàn hoa tường vi thắm đỏ, Cung Tuấn khoác trên mình bộ quan bào đỏ thẫm, tay chàng cầm cây quạt, khóe môi cong hững hờ, cười mà cứ như không, lướt ánh nhìn về phía Lý Cảnh Đức.

Lý Cảnh Đức: "..."

Chu Tử Thư nhoẻn cười.

Ha, xem ra chưa cần mình chuyển lời, sư huynh đã biết.

||

Manh: Đã bận thì chớ mạng còn hỏng....

Chú thích

[1] Gốc: tiên duệ phiêu phiêu. Dịch nghĩa là tay áo tiên bồng bềnh. Ý tả chuyển động duyên dáng, lả lướt.

------oOo------

Chương 89

Nguồn: EbookTruyen.Net

Ỷ chiều sinh kiêu

"Ai bảo Thánh thượng mắng ta tối mặt tối mũi? CungTử Phong, bộ ngươi núp trên xà nhà nghe lén hay sao?" Lý tướng quân ban đầu cũng ngượng chín mặt, nhưng hắn ta nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, lí sự ngay: "Chả nhẽ ngươi cứ nói thế nào thì sự thật là thế ấy? Thánh thượng triệu ta đến để thưởng công đại thắng quân Liêu, ngươi thì biết cái gì!" Cung Tuấn bước đến, liếc mắt trao đổi với Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư: Sư huynh, hắn vừa mới nói xấu huynh đấy, đệ không trả lời hắn, đệ không liên quan.

Cung Tuấn cười tủm tỉm, Chu Tử Thư không hiểu ý chàng, nhưng cậu nghĩ mình không làm gì sai, lại thân với CungTử Phong đến thế, chắc chàng chẳng giận dỗi mình đâu.

Cung Tuấn thủng thẳng hỏi: "Lý tướng quân nói Thánh thượng ban thưởng cho tướng quân, thế phần thưởng ấy đâu?"

Lý Cảnh Đức: "..."

Đúng là không bói ra nổi kẻ nào tử tế trong lũ quan văn tầm xàm bọn mi!

Lý Cảnh Đức hùng hổ khoát tay, sải bước đi vun vút: "Thôi đi đây, nói chuyện nhạt thếch!"

Bóng lưng phóng khoáng của Lý Cảnh Đức khuất dần trong khu vườn điện Cần Chính. Chẳng hiểu sao, Chu Tử Thư thấy hắn hớt hải cứ như chạy nạn. Đối đầu với các quan văn khác, Lý Cảnh Đức sẵn sàng móc mỉa không thương tiếc. Ngay như Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng cùng hàm nhị phẩm, hắn cũng có gan nửa đêm chụp bao tải, tẩn ông ta một trận nhớ đời. Ấy thế mà đụng phải CungTử Phong thì đố hắn dám. Lương bổng của quân đội đang nằm cả trong tay bộ Hộ kia kìa! Xưa nay đâu phải Lý tướng quân chưa bao giờ chống đối CungTử Phong? Khốn nỗi, những lần ngang tàng ấy chẳng đem lại kết quả tốt đẹp gì cho cam!

Kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, Lý tướng quân là anh hùng kiệt xuất của thời đại này, càng phải biết thời biết thế hơn người khác.

Thật ra, Cung Tuấn chỉ đi ngang qua chốn này thôi chứ không hề chủ tâm theo dõi Chu Tử Thư hay Lý Cảnh Đức. Ai biết đâu, đương băng qua vườn thì tự dưng nghe tên mình được nhắc đến, chàng mới dừng bước nghe thêm mấy câu.

Cung Tuấn bình thản nhìn Chu Tử Thư: "Phía Mạnh đại nhân thế nào rồi?"

Ấy là chàng hỏi thăm tình hình tranh luận giữa Mạnh Lãng và đoàn sứ giả nước Liêu. Chu Tử Thư đáp: "Mạnh tướng công và Dư thị lang phối hợp nhịp nhàng, có thể nói là khá thuận lợi."

Cung Tuấn: "Năm nay rồi cũng khép lại êm thấm thôi."

Chu Tử Thư ngầm hiểu: "Ý của sư huynh là..."

Cung Tuấn mỉm cười: "Tối nay, tiểu sư đệ ghé phủ Thượng thư uống rượu nhé?"

Mạnh Lãng chủ trì việc đàm phán với sứ Liêu, Chu Tử Thư bỗng hết phận sự. Ngày ngày rỗi rãi, cậu cũng định bụng ghé thăm Cung Tuấn để thắt chặt tình cảm. Vừa nghe chàng nói thế, Chu Tử Thư đáp liền: "Vâng, lại xin quấy quả sư huynh."

Đã vào tháng Chạp. Ở Thịnh Kinh, ngoảnh đi ngoảnh lại trời đã sập tối. Các quan tan làm đều phải thắp đèn lồng.

Chu Tử Thư về nhà thay thường phục rồi mới đến phủ Thượng thư. Đầu bếp phủ Thượng thư đã chuẩn bị một mâm cơm kiểu Giang Nam. Kỳ thực, kiếp trước, ẩm thực Giang Nam với khẩu vị thanh đạm không phải gu của cậu. Thế mà sang kiếp này, cứ mỗi lần thăm nhà Cung Tuấn là Chu Tử Thư đành phải làm thực khách bất đắc dĩ. Không chỉ có vậy, đầu bếp phủ Thượng thư là đầu bếp được Lang Gia Cungthị tuyển chọn kĩ càng trước khi gửi đến, tay nghề có một không hai. Thành thử theo Cung Tuấn lâu ngày, dần dà khẩu vị của Chu Tử Thư cũng thanh đạm hơn.

Sư huynh nhà mình có những thú vui phong nhã gì sau bữa cơm, Chu Tử Thư cũng nắm rõ như lòng bàn tay.

Hoạt động vui chơi giải trí của người thời xưa thật ra không nghèo nàn như người hiện đại vẫn lầm tưởng, song cũng không lấy làm nhiều nhặn. Đêm xuống, thắp nến hay đốt đèn đều tốn kém nên phần lớn người dân sẽ đi ngủ. Ai không ngủ thì có thể tiêu khiển bằng những trò như cờ đá ngựa1, hoặc chơi bài diệp tử hí2. Cao nhã hơn thì có cầm, kỳ, thư, họa, gì cũng sẵn.

[1] Đả mã – trò chơi gần giống như cờ cá ngựa. [2] Trò chơi thẻ bài cổ, trên thẻ vẽ hình của các anh hùng Lương Sơn Bạc và có số điểm khác nhau.

Cung Tuấn tinh thông đủ mấy nghề cầm kỳ thư họa. Là "nửa" học trò của chàng, Chu Tử Thư cũng "học đòi văn vẻ", võ vẽ mỗi thứ mỗi tí.

Hai người vào thư phòng, trong phòng bày một ván cờ họ bắt đầu từ nửa tháng trước.

Chu Tử Thư nhác thấy bàn cờ đã ong cả đầu, vội xin tha: "Sư huynh, đệ thua rồi."

Cung Tuấn ngạc nhiên: "Đã đi hết cờ đâu, sao tiểu sư đệ chóng đầu hàng thế?"

"Con mắt tinh tường của sư huynh cố nhiên phải thấy cuộc cờ này đệ đã bại. Chúng ta bày ván khác thì hơn."

Cung Tuấn than thở: "Tiểu sư đệ coi thường bản thân quá đấy." Nói đoạn, chàng thu cờ, "Thế thì chơi ván khác vậy."

Chu Tử Thư nghĩ thầm: Huynh nhất định phải thấy ta thua liểng xiểng mới vừa lòng ư?

Đâu ra cái thú vui xấu xa thế không biết!

Trước giờ Chu Tử Thư đánh cờ với Cung Tuấn đều theo lối cờ địch thủ, tức là hình thức chơi giữa hai người có trình độ ngang nhau, không nhường quân nào hết. Chẳng hiểu sao hôm nay Chu Tử Thư lại đề nghị: "Sư huynh, đệ muốn chơi cờ nhiêu tử, huynh nhường đệ năm quân nha?"

Cờ nhiêu tử là hình thức mà người chơi kém hơn được cầm quân đen đi trước. Đã thế, Chu Tử Thư còn đòi Cung Tuấn phải nhường mình những năm quân.

Cung Tuấn lấy làm lạ: "Tiểu sư đệ chọn cờ nhiêu tử để làm chi?"

Chu Tử Thư: "... Tài đánh cờ của đệ đâu bằng sư huynh. Trước giờ chúng ta nên chơi cờ nhiêu tử mới đúng."

Cung Tuấn: "Ta chẳng thấy thế."

Chu Tử Thư: "..."

"Đệ thấy thế, sư huynh, nhường đệ năm quân đi mà."

Cung Tuấn bình tĩnh mỉm cười: "Ta tôn trọng tiểu sư đệ, ta nghĩ đệ nên chơi theo lối cờ địch thủ."

Chu Tử Thư nghĩ bụng, huynh có thể chuyển sự nghiêm túc ấy sang những lĩnh vực khác được không? Ví dụ như kéo ta thăng quan tiến chức chẳng hạn, còn chuyện cờ quạt thì phiên phiến thôi. Nhưng ai lại nói thế kia chứ? Một câu của CungTử Phong nhẹ tựa lông hồng, mà trong đầu Chu Tử Thư phải nghĩ lòng vòng mấy ngả.

CungTử Phong bảo chàng tôn trọng mình, cho rằng về tài cờ họ ngang hàng với nhau, nên chơi cờ địch thủ.

Chàng không chỉ nói chuyện cờ, mà còn đang ám chỉ cái khác.

Phải đáp lại thế nào đây?

Mất một lúc, Chu Tử Thư tuổi mười chín mới trả lời sư huynh: "Ta nhỏ hơn sư huynh chín tuổi, còn chưa làm lễ đội mũ, sư huynh nhường ta một chút thì mất gì đâu?" Giọng cậu còn pha chút nũng nịu, song Chu Tử Thư chẳng nói ngoa. Giờ cậu mới mười chín, phải chờ sang tháng sau, qua năm mới, cậu mới tròn hai mươi. Thế nên, hiện tại, Chu Tử Thư vẫn đang là trẻ vị thành niên ở thời đại này.

Cung Tuấn lớn hơn cậu những chín tuổi, ở thời đại này có thể coi là chênh nhau một thế hệ rồi. Là bậc cha chú, chàng cưng yêu chiều chuộng con cháu mình cũng là chuyện thường tình.

Cung Tuấn phì cười, nhìn Chu Tử Thư bằng ánh mắt hết sức kinh ngạc. Mãi sau, chàng mới chầm chậm thở dài, buồn bã nói: "Cảnh Tắc, đệ rõ thật là..." Cung Tuấn bỏ lửng câu nói.

Chu Tử Thư tò mò: "Là gì ạ?"

Cung Tuấn cầm hộp cờ trắng: "Được rồi, thế thì đánh cờ nhiêu tử." Chu Tử Thư: "???" Đang nói dở kia mà?

Cung Tuấn không chịu tiết lộ, Chu Tử Thư chẳng thể cạy miệng chàng bắt nói ra. Nhưng coi thái độ Cung Tuấn, Chu Tử Thư nghĩ bụng chắc chàng không định nói gì xấu.

Cung Tuấn cho Chu Tử Thư đi trước năm quân, hạ cờ theo phép nhiêu tử. Phải như thế, Chu Tử Thư mới có sức cạnh tranh với Cung Tuấn.

Chu Tử Thư có thắng lợi sớm trước tiên, bắt được ba mắt5 của Cung Tuấn. Nhưng ngay lập tức, Cung Tuấn cắt thành công ba mạch cờ của Chu Tử Thư, liên tục trên nước.

[5] Một hoặc một nhóm các điểm giao trên bàn cờ được bao quanh bởi các quân cờ. Mất mắt thì dễ bị bắt quân hơn (bất lợi). "Trên nước" là thuật ngữ trong chơi cờ, ý là có lợi thế.

Cuộc cờ tựa nhân sinh.

Rất lâu về trước, trong ván cờ chính thức đầu tiên của Chu Tử Thư, Lương Tụng đã nói với cậu như thế.

Bản tính thật của một người có thể được bộc lộ thông qua một ván cờ. Tỷ như Lương Tụng, phong cách của ông khi chơi cờ thiên về ổn định, vững vàng hơn là xông xáo, một lối chơi nghiêm chỉnh. Còn như Phó Vị, khi Chu Tử Thư đánh với ông, nước cờ của Phó Vị thoắt biến thoắt hóa khôn lường. Đánh được nửa ván thì ông chẳng buồn chơi nữa, đứng dậy đi cho chim ăn vì một lẽ rất đơn giản: "Cảnh Tắc ơi là Cảnh Tắc, con chơi cờ dở khiếp!"

Riêng với Cung Tuấn, Chu Tử Thư không thể đoán được bất cứ điều gì về con người chàng dựa vào cách chơi cờ.

Cung Tuấn khi thì vững vàng tựa núi Thái, lúc thì mạo hiểm được ăn cả, ngã về không. Chàng như con mãnh hổ nằm phục bên bờ nước, thường ngày duỗi người lim rim. Mặt hồ xanh thẳm êm đềm giống hệt cốt cách cao nhã ung dung của chàng vậy. Thình lình gió giật mây sa, chúa sơn lâm choàng tỉnh giấc nồng, cất tiếng gầm rền vang rừng núi, ngàn chim muông nháo nhác tan bầy.

Giữa lúc địch thủ hẵng còn hoảng hốt, chàng điềm nhiên bắt một cụm cờ đen, dịu dàng cười với Chu Tử Thư: "Tiểu sư đệ ơi."

Một lát sau, Chu Tử Thư mới hoàn hồn, phát hiện mình lại thua ván nữa. "Tài cờ của sư huynh bỏ xa đệ quá." Câu này vừa là nịnh, vừa là lời thán phục thật lòng.

"Tiểu sư đệ còn chưa làm lễ đội mũ mà. Chín năm nữa, khéo ta lại thua đệ ấy chứ."

Chu Tử Thư: "..."

Đâu ra! Sao huynh lại để bụng chuyện đấy hả CungTử Phong?

Không thể lờ vụ này đi được, Chu Tử Thư nhạy bén phát hiện Cung Tuấn rất chi là quan tâm đến vấn đề này. Cậu bèn vỗ về: "Sư huynh à, đệ đâu có chê huynh già."

"Hở?"

"Sư huynh vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa." Chu Tử Thư thổ lộ tâm can, "Trong lòng đệ, khắp cả triều đình Đại Tống, giữa toàn thể các quan, có thể nói, sư huynh chính là người phi thường nhất!"

Hai mươi tám tuổi đã là quyền thần của cả một quốc gia, có đặt vào bối cảnh hiện đại cũng thừa tiêu chuẩn thanh niên ưu tú.

Thật ra, Chu Tử Thư đã từng nghĩ thế này.

Đường Hoàng mười lăm tuổi, tức là đủ tuổi để bàn chuyện hôn nhân. Nếu tạm bỏ qua sở thích cá nhân của Đường Hoàng, để Chu Tử Thư chọn, liệu ai mới xứng là chàng rể hiền giỏi giang nhất Đại Tống đây?

Chỉ tính riêng trong quan trường, người ấy không thể là Tô Ôn Duẫn tuổi hai nhăm phơi phới, mà phải là Cung Tuấn tuổi hai tám cơ!

Ví bằng được lấy Cung Tuấn làm chồng, tháng ngày sau xem như thuận buồm xuôi gió, trọn đời chẳng vướng sầu ưu.

Mình mà chẳng phải con trai thì cũng động lòng đấy.

Biểu cảm của Chu Tử Thư được thu gọn trong đôi mắt tĩnh tại của Cung Tuấn. Ánh nhìn của cậu mới chân thành làm sao, trong veo như ánh mắt trẻ thơ vậy. Cung Tuấn cười khẽ, bày thêm ván nữa.

"Chơi tiếp nào."

Chu Tử Thư yên lặng đánh cờ cùng sư huynh.

"Nhân sinh như cuộc cờ." Tiếng nói thanh nhã cất lên, Chu Tử Thư ngây dại, ngước mắt nhìn Cung Tuấn. CungTử Phong cầm quân trắng, vừa đặt quân, vừa hướng ánh nhìn xuống bàn cờ, nói: "Cuộc cờ, cũng giống như cuộc đời, như thế thái muôn màu, như quan trường chìm nổi. Tiểu sư đệ, đệ đọc sử Liêu có suy ngẫm gì không?"

Chu Tử Thư ngồi ngay ngắn, đáp: "Người Liêu dựng nước trên lưng ngựa, toàn dân ai ai cũng là lính, ngựa khỏe quân hay. Cứ theo lời Lý tướng quân, mười năm, hai mươi năm sau, Đại Tống ta cũng có thể xây dựng một đội thiết kỵ dũng mãnh như vậy. Song ngay lúc này đây, nước Liêu đã sở hữu đội quân kiên gan và quả cảm đó rồi. Mặc dù thế, do thể chế đặc thù, triều đình bọn họ không được như nước Tống chúng ta."

"Khác thế nào?"

"Quan miền Nam và quan miền Bắc có mâu thuẫn quá sâu sắc, khó mà hòa giải được."

Cung Tuấn đặt một quân cờ, diệt được ba mắt khí của Chu Tử Thư6. Chàng bắt quân, nói: "Thế này mà cứ đòi đánh cờ nhiêu tử. Rõ ràng tiểu sư đệ đang tiến bộ dần mà."

Chu Tử Thư ngẫm nghĩ, sư huynh đang khen mình chăng?

Cung Tuấn không để cậu nghĩ ngợi lâu, nói: "Quan miền Nam giống như đệ, cầm quân đen đi cờ nhiêu tử. Quan miền Bắc giống như ta, chiếm hơn nửa giang sơn nước Liêu, hùng dũng oai nghiêm, thanh thế sừng sững." Chu Tử Thư giật mình: "Sư huynh đã biết từ sớm rồi ư?"

Cung Tuấn: "Không phải ngẫu nhiên ty Ngân dẫn được thành lập."

Chu Tử Thư hoảng hồn: "Ngoài chuyện 'đổi giấy thành tiền', ty Ngân dẫn còn ngầm điều tra tình hình chính trị nước Liêu?"

Cung Tuấn như thể vừa nghe điều gì lạ lùng lắm: "Tiểu sư đệ hãy thận trọng lời lẽ, ta chưa bao giờ nói thế cả." Chu Tử Thư trật tự ngay.

"Đại hoàng tử và Nhị hoàng tử nước Liêu giống như đệ, xuất thân thấp kém, vì thân thế mà tình cảnh không thuận nên phải cầm quân đen hạ cờ nhiêu tử. Tam hoàng tử Gia Luật Hàm ví như ta, xuất thân cao quý, được phe Cungtử Thái sư và nhiều quan nước Liêu hết lòng phù trợ, nhưng bản tính dốt nát không biết tính toán, cầm quân trắng hạ sau."

Chu Tử Thư: "..."

Chu Tử Thư: "Sư huynh, huynh vừa nói rằng ty Ngân dẫn không thăm dò việc chính trị nước Liêu."

Cung Tuấn: "Ta có nói vậy à?" Chu Tử Thư quả quyết: "Huynh có nói."

Cung Tuấn nhìn Chu Tử Thư, khẽ nhíu mày.

Trước đây, Chu Tử Thư nhất định sẽ đổi giọng ngay, giả vờ như mình lỡ lời. Nhưng lúc này đây, Chu Tử Thư nhìn Cung Tuấn không chớp mắt, cứng đầu không chịu khuất phục "cường quyền".

Trong chốc lát, Cung Tuấn bỗng mỉm cười. Chàng lấy ngón tay gõ yêu lên trán Chu Tử Thư một cái, chẳng câu nệ gì, bảo: "Đệ đúng là ỷ chiều sinh kiêu!"

||

Trường tui bị cyberattack, mạng hỏng rồi chập chờn như cánh bướm gần 2 tuần nay mà công việc thì một đống, mệt sml :) edit đến chương 91 rồi mà không beta được vì không có mạng TvT sẽ nhả từ từ nốt trong tuần này hoặc tuần sau. Chú thích

– nhiêu, có thể hiểu là khoan dung; là con/ non trẻ. Trong địch thủ kỳ thì người cầm quân trắng đi trước, còn nhiêu tử kỳ thì người cao thủ cầm quân trắng đi sau.

Người Trung Quốc quan niệm cứ sang một năm là tăng thêm một tuổi, nên hay có cách nói "năm nay X tuổi", hoặc "năm nay bao nhiêu tuổi".

Câu này mình không chắc. 截杀唐慎的三目气. Khí là điểm trống có thể nối quân xung quanh một quân cờ hay một nhóm cờ. Bạn nào thạo cờ vây xin hãy giải thích giúp

------oOo------

Chương 90

Nguồn: EbookTruyen.Net

Ngươi nói xem, sao đệ ấy cứ trêu đùa với trái tim ta mãi thế?

Tim Chu Tử Thư rớt mất một nhịp, cậu ngơ ngác đưa tay lên xoa trán.

Cung Tuấn bảo cậu ỷ chiều sinh kiêu... Lẽ nào, cậu vượt quá khuôn phép thật ư?

Nhưng CungTử Phong trông vui vẻ thế kia cơ mà, chẳng mảy may tức giận. "... Sư huynh."

"Ơi?"

Chu Tử Thư thấy lồng ngực mình chật ních những cảm xúc khó mà gọi tên, không biết phải nói sao. Nên phủ nhận rằng mình không hề ỷ được chiều mà kiêu ngạo, hay nên nhận lỗi rằng mình lỡ lời, sau này sẽ không nói thế nữa? Song mấy chữ ỷ chiều sinh kiêu khiến lời nói của cậu cứ nghẹn lại. Im lặng hồi lâu, Chu Tử Thư mới hỏi: "Sư huynh, hình như... đến lượt đệ rồi nhỉ?"

Cậu thiếu niên khôi ngô non trẻ chăm chú nhìn chàng bằng đôi mắt sáng ngời.

Cung Tuấn làm thinh một lúc lâu mới đáp: "Ừ." Chu Tử Thư thở phào nhẹ nhõm.

Hai người lại tiếp tục đánh cờ.

Cung Tuấn không nhắc đến chuyện triều đình nước Liêu nữa, nhưng chàng chỉ cần điểm qua mấy nét ấy thôi là đủ khiến Chu Tử Thư nhận ra sóng ngầm dữ dội trong quan trường nước Liêu. Quan trường của họ cũng máu lửa, sục sôi như tác phong quân đội của họ vậy. Trước hết, phải kể đến sự phân hóa giữa quan miền Bắc và quan miền Nam trong hệ thống quan lại nước Liêu.

Tập đoàn quan miền Bắc chiếm số đông, hầu hết thuộc dòng dõi quý tộc và các bộ tộc lớn, nắm quyền chủ chốt trong triều đình. Quan miền Nam phụ trách mọi hoạt động liên lạc giao lưu với người Tống, tuy nhân số ít hơn, nhưng cũng là thế lực đáng gờm. Bên cạnh đó, Chu Tử Thư còn được tiếp xúc với Tam hoàng tử nước Liêu là Gia Luật Hàm.

Gia Luật Hàm hữu dũng vô mưu; nghe ý Cung Tuấn, mối quan hệ giữa Gia Luật Hàm và Đại hoàng tử, Nhị hoàng tử nước Liêu cũng cạnh tranh gay gắt như cờ trắng với cờ đen.

Xưa nay, sự tranh giành quyền lực giữa các hoàng tử là chuyện bất khả kháng. Ngay cả chuyện đấu đá, kèn cựa nhau giữa các phe phái quyền thần trong triều đình cũng quá đỗi bình thường. Tuy vậy, đến bây giờ Chu Tử Thư mới ý thức được rằng Đại Tống cũng có rất nhiều hoàng tử, Đại Tống cũng có rất nhiều quyền thần và vô số đảng phái, nhưng Đại Tống có Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ.

Hiện giờ, Nhị hoàng tử Triệu Thượng được giao nhiệm vụ tiếp đoàn sứ Liêu. Triệu Thượng không hề lóng ngóng, anh ta biết dưỡng sức nuôi quân chờ cơ hội nên đã nhiều lần thắng thế trong quá trình đàm phán với sứ Liêu. Tuy nhiên, trên Triệu Thượng còn có Đại hoàng tử Triệu Kính cũng rất tài danh, nghe đồn từng được Chu Đại học sĩ của viện Hàn Lâm tán thưởng vì tài viết chữ đẹp.

Ngoài ra, trên triều đình, phe thế gia và phe hàn môn, lớp quyền thần gạo cội và những gương mặt trẻ được tin dùng, đều là những quân cờ đen trắng đối chọi lẫn nhau.

Nhưng cả bàn cờ ấy nằm gọn trong lòng bàn tay Triệu Phụ.

Dẫu Triệu Phụ tạo nên bố cục ấy vì lí do gì đi chăng nữa, thì thành quả cũng là một nước Đại Tống không bị chia rẽ sâu sắc trong nội bộ.

Chu Tử Thư ôm tâm trạng phức tạp, thầm than một tiếng, cúi đầu đặt cờ.

Chu Tử Thư nói: "Mâu thuẫn trên triều đình và trong cung đình nước Liêu cũng giống như mưa mùa hạn cho Đại Tống vậy. Nếu có thể lợi dụng được thì ắt thành diệu kế." Quay lại đề tài ban đầu, đây chính là điều Chu Tử Thư đã nghĩ đến.

Cung Tuấn đi thêm một nước nữa, bấy giờ mới làm như vừa nghe thấy những gì Chu Tử Thư nói. Chàng tỏ ra hơi ngạc nhiên, hỏi Chu Tử Thư: "Chẳng phải ta và tiểu sư đệ đang chơi cờ ư? Sao bỗng dưng nhắc đến chuyện nước Liêu thế? Tiểu sư đệ quả là hết lòng vì nước, không lúc nào thôi đau đáu việc dân; rời nha môn, ngồi vào bàn cờ, lòng vẫn Tuấn trở chuyện sứ Liêu. Hiền tài như đệ, chẳng nên bị mai một lãng phí thế này."

Chu Tử Thư nghĩ bụng, ta đường đường là Trung thư xá nhân tứ phẩm, quan điện Cần Chính, về quê thăm họ hàng, phủ doãn Cô Tô còn phải khom lưng cúi đầu, huynh lại bảo ta bị mai một là sao!

"Chung quy cũng vì hơi nhỏ tuổi." Cung Tuấn lại nói.

Đương nhiên, Chu Tử Thư có ngại chi chuyện thăng quan tiến chức nhanh nhanh chóng chóng, tuyệt nhất là sang năm vào điện Cần Chính làm tể tướng luôn. Tuy nhiên, nếu có thể ẵm được chức vụ của Tô Ôn Duẫn, trở thành Thiếu khanh Đại lý tự, cậu cũng chẳng thèm quan tâm có thăng tiến nữa không.

Thiếu khanh Đại lý tự tuy chỉ là chức quan tứ phẩm, nhưng được quyền xử lí quan có tội khắp cả nước.

Nếu cậu được làm Thiếu khanh Đại lý tự thì muốn điều tra chuyện gì cũng dễ dàng nhanh gọn. Đây cũng là ý đồ ban đầu của Chu Tử Thư khi tiếp cận Tô Ôn Duẫn, tiếc rằng bởi vụ việc Thứ Châu ngáng đường mà Tô Ôn Duẫn có thành kiến lớn với Chu Tử Thư. E là cậu với anh ta khó mà giao hảo nổi với nhau.

Chu Tử Thư bất lực lắc đầu, tiếp tục đánh cờ. Kết quả không có gì đáng ngạc nhiên hết, Cung Tuấn thắng đậm.

Chu Tử Thư khoác áo lông cáo, từ biệt Cung Tuấn, chuẩn bị về nhà.

Cung Tuấn khuyên: "Chẳng thà lần sau tiểu sư đệ để hẳn một bộ triều phục ở nhà ta ấy, đỡ mất công cứ phải về nhà mỗi bận."

Mùa đông giá buốt thấu xương, mỗi lần sang đây Chu Tử Thư đều phải đội gió đội rét về phủ, quả đúng là bất tiện. Nếu để triều phục ở nhà Cung Tuấn, sau này Chu Tử Thư có thể ngủ luôn ở phủ Thượng thư, không nhất thiết phải về để thay quần áo trước khi vào triều nữa. Cậu suy nghĩ một chốc, đáp: "Lần tới qua đây đệ sẽ mang theo triều phục, gửi lại chỗ sư huynh."

Cung Tuấn cầm đèn lồng, tiễn Chu Tử Thư ra cửa.

Chu Tử Thư nhìn chiếc đèn lại nhớ cái lần CungTử Phong nói "Có đốt đèn lồng cũng không tìm được chàng trai nào tốt như ta đâu", liền bật cười.

Cùng lúc ấy, Cung Tuấn cũng cất tiếng nói: "Năm nay tiểu sư đệ mới mười chín tuổi đã là quan tứ phẩm. Trong vòng hai năm tới, nếu không lập công lớn, tuyệt đối không thể tấn thăng."

Chu Tử Thư làm sao không rõ chuyện ấy kia chứ. Cậu đáp: "Sư huynh chớ hiểu lầm, đệ không phải người hám danh lợi."

"Thật ra, ta có thể chỉ cho tiểu sư đệ cách này, đảm bảo hoạn lộ thênh thang, thậm chí được thăng đến nhị phẩm chỉ trong năm năm cũng không phải không thể."

Chu Tử Thư tròn mắt: "Sư huynh?" Còn có cách đấy kia à?

Cung Tuấn giơ đèn lồng, cười: "Phương pháp đơn giản lắm, tiểu sư đệ và ta cát bào đoạn nghĩa, mỗi người một ngả, từ rày về sau không dính líu gì đến nhau nữa."

Chu Tử Thư: "..."

Nghe thì như đang trêu cậu đấy, nhưng Chu Tử Thư ngẫm nghĩ kĩ mới thấy rùng cả mình.

Điều Cung Tuấn nói, có mấy khi là đùa cợt?

Chu Tử Thư rất được lòng hoàng đế, làm quan ba năm đã được vào điện Cần Chính đảm nhiệm chức Trung thư xá nhân tứ phẩm. Cậu với Cung Tuấn khăng khít keo sơn, tương lai đầy triển vọng, mười năm sau hoàn toàn có thể trở thành quan nhị phẩm. Song nếu cậu muốn thâu tóm quyền lực một cách nhanh chóng chỉ nội trong năm năm, thì không có con đường nào nhanh hơn là đoạn giao trở mặt với Cung Tuấn.

Nếu Chu Tử Thư trở thành kẻ thù của Cung Tuấn trong khi cậu không hợp với Tô Ôn Duẫn, cậu sẽ lập tức trở thành quân cờ hoàn hảo để khống chế cả hai người này từ góc nhìn của Triệu Phụ. Chính nguyên nhân ấy sẽ khiến Triệu Phụ ra sức trọng dụng, nâng đỡ cậu để cậu đủ sức làm đối trọng với cả Cung Tuấn và Tô Ôn Duẫn.

Nhưng...

Chu Tử Thư nói: "Sư huynh nói thế, có nghĩ đệ sẽ đau lòng chăng? Mỗi người đều có tương lai của riêng bản thân, vì thế mà có câu 'làm hết sức mình, mới hay thiên mệnh2.' Chưa một lần nào đệ có ý nghĩ phân biệt giữa đệ và huynh. Sư huynh là sư huynh của đệ kia mà. Như ban nãy đệ nói đấy thôi, Tử Phong sư huynh, đệ không phải người hám danh lợi."

[2] Con người có sức mạnh thay đổi số phận. Thay vì tin rằng mọi sự được sắp đặt sẵn thì phải cố gắng hết sức. Kết quả đạt được chính là vận mệnh do mình tạo ra.

Cậu nói ngần ấy lời chung quy cũng chỉ vì một ý: Ta không muốn lợi dụng huynh.

Ban đầu quả đúng là Chu Tử Thư có ý đồ mượn sức CungTử Phong để trèo cao, nhưng cho đến ngày hôm nay, cậu không chỉ đem lòng kính nể và tôn trọng vô bờ bến với sư huynh, mà còn coi chàng như ngọn hải đăng soi đường dẫn lối.

Lương Tụng là ân sư vỡ lòng của cậu, còn Cung Tuấn là người thầy trên cả quãng đường đời về sau.

Đong đếm làm sao nổi những điều Cung Tuấn đã dạy cậu kia chứ? Trước biển cả quan trường cuồn cuộn mênh mông, chàng là người dẫn cậu rẽ sóng bước vào. Đến giờ, Chu Tử Thư bỗng nhận ra, có những thói quen đã đâm chồi bám rễ trong tâm thức cậu, tỷ như thói quen ngưỡng mộ Cung Tuấn, tỷ như thói quen có một người vừa là thầy giáo, vừa là sư huynh đứng sau lưng mình. Cậu tin tưởng Cung Tuấn vô điều kiện, thậm chí cậu dám trao cả tính mạng mình cho chàng.

Giữa lúc nước sôi lửa bỏng trong cái đêm ở trạm dịch Thứ Châu ngày ấy, ngay từ giây phút Cung Tuấn đẩy cánh cửa phòng chứa củi cứu sống Chu Tử Thư...

Thì người sư huynh này, đối với cậu, đã không còn là tảng đá lót đường để cậu thăng tiến, mà hoàn toàn trở thành người chí hữu3 độc nhất trong cả kiếp này.

[3] Bạn thân thiết. Nhớ lại đối thoại giữa ĐT và VT

Chu Tử Thư chắp tay: "Những gì cần nói đã nói hết. Sư huynh, đệ cáo từ." Cung Tuấn ngây người.

Chu Tử Thư kéo áo khoác cho thật kín người, leo lên xe ngựa. Xà ích đánh xe về phủ Thám Hoa.

Sau lưng cậu, Cung Tuấn giơ đèn lồng dõi nhìn theo. Ánh mắt chàng miên man, chất chứa muôn vàn tâm sự.

Một lúc sau, quản gia bước đến nhắc: "Công tử, ban đêm gió lớn, nên vào nhà sớm thôi."

Cung Tuấn: "Ngươi nói xem, sao đệ ấy cứ trêu đùa với trái tim ta mãi thế?

Quản gia không biết nên nói gì, ông ta cũng nghe thấy cuộc đối thoại vừa rồi giữa Cung Tuấn và Chu Tử Thư. Ông theo Cung Tuấn từ khi chàng còn tấm bé. Chu Tử Thư nghe Cung Tuấn nói câu kia thì tưởng Cung Tuấn trêu chọc mình, còn có ý thăm dò lòng mình nữa, song quản gia lại biết, Cung Tuấn không nói thế để dò xét xem Chu Tử Thư có ôm lòng riêng không. Cái CungTử Phong muốn thử thăm dò là vị trí của mình ở trong lòng sư đệ.

Công tử nhà mình nghiêm túc và thận trọng từng li từng tí thế, khiến quản gia ngẫm mà thương.

Cúi đầu, quản gia nói khẽ: "Công tử, đến lúc về rồi."

Cung Tuấn thở dài thườn thượt, tiếng chàng lạc đi trong cơn gió dữ đêm đông giá buốt, cuốn theo nỗi ưu tư, phiền muộn trĩu nặng cõi lòng.

Nhưng Cung Tuấn không phải chờ lâu, hai hôm sau, Chu Tử Thư đã thắp đèn lồng sang phủ Thượng thư.

Cung Tuấn nhìn cậu, Chu Tử Thư tay cầm đèn, miệng ấp úng: "Sư huynh là trang nam nhi tốt đến mức đốt đèn cũng không tìm được, huynh đừng giận đệ nha."

Cung Tuấn chậm rãi nhoẻn cười: "Ta giận đệ hồi nào?"

Chu Tử Thư: "Huynh không giận ư?"

Cung Tuấn: "Lại đây chơi cờ với ta."

Chu Tử Thư: "..."

Thế mà bảo không giận?

Không giận mà còn đòi đánh cờ để hành cậu!

Thực ra Cung Tuấn đang xếp dở bàn cờ thì Chu Tử Thư đến nên chàng mới rủ chơi chung. Tài trí cách mấy chàng cũng chẳng nghĩ ra rằng tiểu sư đệ chỉ vì chuyện ấy mà ấm ức trong lòng. Hai người chơi mấy cuộc liền, Cung Tuấn hỏi: "Mang triều phục đến chưa?"

Chu Tử Thư sửng sốt: "Quên rồi."

"Vậy lần sau đem sang nhé."

"Vâng."

Chơi cờ xong, Chu Tử Thư đằng hắng, nói rõ lí do mình sang đây: "Sư huynh phụ trách ty Ngân dẫn, chẳng hay hiện giờ công việc của ty Ngân dẫn đến đâu rồi?"

Cung Tuấn ngước mắt liếc Chu Tử Thư: "Sao tự dưng tiểu sư đệ lại hỏi chuyện ty Ngân dẫn?'

Do dự một lúc, Chu Tử Thư quyết định giãi bày hết những suy nghĩ gần đây của mình: "Lúc trước, Lý tướng quân có đề cập chuyện nuôi quân với đệ. Sư huynh, người Liêu luôn nhòm ngó Đại Tống ta, đối sách nào cũng như uống rượu độc giải khát, trị ngọn mà không trị gốc. Đại Tống ta phải kiêng dè nước Liêu, chẳng qua là vì lực lượng thiết kị thần tốc dũng mãnh của nước họ. Hai hôm trước, sư huynh đã nói với đệ về mâu thuẫn nội bộ của nước Liêu, đệ thiết nghĩ, mọi sự tranh đấu trên đời, đều quy về hai chữ 'đổi quân'4 mà thôi..."

[4] Chiến thuật trong cờ tướng

Mười ngày sau, hai nước Tống Liêu đàm phán thành công hiệp ước. Mỗi bên nhường một bước trong trận chiến thành U Châu năm Khai Bình thứ ba mươi.

Người Liêu đòi hỏi tiền bạc, người Tống không từ chối. Điều người Tống muốn là nước Liêu phải thả con tin, cũng như cho phép Đại Tống mua một bầy Hãn Huyết bảo mã từ nước Liêu.

[5] Giống ngựa quý Akhal-Teke có nguồn gốc Turkmenistan, tương truyềngiống này đổ mồ hôi (hãn) đỏ như máu (huyết). Rất khỏe, nhanh và dẻo dai. Bấm số để xem ảnh.

Bảo mã đắt nhưng không ai bán, ngàn vàng khó mua.

Nhưng mọi chuyện không dừng ở đấy, Hán Nhi ty Gia Luật Cần của đoàn sứ Liêu còn đưa ra một yêu cầu khiến các quan nước Tống phải hãi hùng.

Gia Luật Cần nói: "Bấy lâu nay Đại Liêu vẫn nghe danh nước Tống là miền đất mĩ nhân, người đẹp nước Tống u nhàn hiền dịu. Chuyến này đến đây, bản sứ thần cũng được giao trọng trách rước công chúa Đại Tống về thành hôn với hoàng đế Đại Liêu."

Buổi triều sớm hôm sau, cả triều đình Đại Tống xôn xao ầm ĩ cả lên.

Triệu Phụ ngồi trên ngai vàng, nói: "Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu. Nữ nhi Đại Tống ta nết na thùy mị, không ngờ tiếng thơm vang đến tận đế đô nước Liêu. Thật đáng tiếc, trẫm không có công chúa nào vừa tuổi cả. Chư vị ái khanh, các khanh nghĩ nên làm thế nào đây?"

Chu Tử Thư biết, thật ra Triệu Phụ không quan tâm con gái mình có cưới vua Liêu hay không. Ông ta chỉ nói tiếc ngoài miệng thôi chứ trong lòng không hề có cảm giác gì hết. Trái lại, trong triều đình Đại Tống, có rất nhiều người lo cho con gái mình.

Nhất thời, các Cungtôn quý tộc, văn võ bá quan trong triều đình đều cảm thấy bất an.

Một hôm, vào ngày nghỉ cuối tuần, Chu Tử Thư đến lầu Tế Hà thì gặp một vị khách không ngờ tới.

Chu Tử Thư bước qua hành lễ: "Hạ quan Chu Tử Thư bái kiến Cảnh CungThế tử. Ngọn gió nào đưa Thế tử tới đây thế này?" Chàng trai ấy chính là Cảnh CungThế tử Triệu Quỳnh.

Triệu Quỳnh nâng ly rượu, cười ái ngại: "Mượn rượu giải sầu... sầu càng sầu! Cảnh Tắc à, vua Liêu đòi rước công chúa Đại Tống về làm dâu, chắc ngươi biết rồi chứ nhỉ."

Chu Tử Thư ngồi xuống: "Tôi cũng nằm trong số các quan phụ trách tiếp đón sứ Liêu mà."

Triệu Quỳnh than thở: "Thánh thượng không có công chúa đúng tuổi lấy chồng, đương nhiên phải chọn con gái nhà khác thế vào. Trong số ấy, con gái các gia đình hoàng tộc như chúng ta sẽ bị chấm đầu tiên. Nếu trong hoàng gia không có ai thích hợp, hoặc Thánh thượng không muốn thiệt thòi cho con cháu hoàng gia, bấy giờ mới chọn đến các nhà đại thần, chấm cô nào thì phong cô đấy làm công chúa rồi gả sang Liêu."

Chọn con gái nhà đại thần là vì họ chẳng phải ruột rà máu mủ với mình, bắt bừa một cô gánh kiếp hẩm hiu là chuyện quá đỗi phổ biến. Mặc dù thế, Triệu Phụ không phải vị vua giàu tình cảm. Dẫu là con đẻ, ông ta còn sẵn sàng gả đi nữa là cháu gái.

Triệu Quỳnh bấy giờ mới giãi bày: "Tiểu muội nhà ta năm nay vừa tròn mười bảy, cả nhà nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Vốn muốn giữ con bé ở nhà thêm vài năm, nên giờ vẫn chưa hứa hôn cho ai cả!"

||

Hết bị gọi là bố lại bị friendzone, thương anh. Yêu đơn phương nó buồn thế đấy!

Tranh: Bu2ma (họa sĩ chuyên vẽ hổ béo ị với mèo lộ bi ấy)

Chú thích

Cát bào đoạn nghĩa: Ám chỉ việc cắt đứt tình nghĩa bạn bè. "Cát" cũng có nghĩa là "cắt".

Hình như chưa chú thích. Thời xưa cứ 10 ngày tính làm một tuần, một tháng có thượng tuần, trung tuần, hạ tuần là vì thế. Ngày nghỉ tắm gội – nghỉ cuối tuần của các quan cũng là mười ngày một hôm.

[5] Giống ngựa này có nhiều màu lông, nhưng nổi tiếng nhất là màu qua (vàng). Xem để đọc thêm về các sắc lông ngựa cũng như về chiến mã thời xưa.

Akhal-Teke lông màu qua ánh hoàng kim

------oOo------

Chương 91

Nguồn: EbookTruyen.Net

Đệ không muốn thành thân

Chu Tử Thư mới chỉ gặp Triệu Quỳnh vài lần, nhưng cậu biết Triệu Quỳnh không phải người dễ để lộ cảm xúc. Chu Tử Thư mở lầu Tế Hà, mở Bách Bảo Các ở Thịnh Kinh, nhưng lại giao xà phòng, Hoàng Kim Lũ cho người khác kinh doanh hộ. Mà người hợp tác với cậu chính là Thế tử Cảnh Cung– Triệu Quỳnh.

Chu Tử Thư còn nhớ như in lần đầu gặp anh ta ở phủ Cảnh Vương. Triệu Thế tử chủ trì yến Hội Nguyên, mở tiệc khoản đãi tài tử trong thiên hạ, xử lí đâu ra đó. Nhưng hôm nay trông Triệu Quỳnh mặt ủ mày chau, như biến thành con người khác hẳn.

Hiển nhiên, Triệu Quỳnh vô cùng yêu thương em gái mình.

Chu Tử Thư nói: "Thế tử, thật sự không còn cách nào sao?"

Triệu Quỳnh thở dài: "Bọn ta là hoàng thân quốc thích, danh tiếng vẻ vang, xuất thân tôn quý, nhưng Đại Tống ta chẳng so được với triều đại xưa, hoàng thân quốc thích không được can dự triều chính, chúng ta chỉ là quý tộc trên danh nghĩa mà thôi. Cảnh Tắc cũng biết đấy, vua Liêu muốn hòa thân với Đại Tống, cưới công chúa Đại Tống làm phi, ấy là chuyện quá đơn giản, chẳng khó khăn gì. Thánh thượng đã đồng ý rồi thì không thể nuốt lời. Chúng ta làm gì có đường lui chứ."

Chu Tử Thư suy nghĩ một chút, khuyên: "Hẳn nhà Thế tử cũng biết, nữ nhi các nhà quyền quý không muốn bị chọn vào hậu cung, thường hay giả vờ ngã bệnh."

Triệu Quỳnh: "Ấy cũng là một kế, nhưng cùng quẫn lắm mới phải viện đến thôi. Kỳ thực, nhà ta định...tìm gấp một lang quân cho tiểu muội."

Chu Tử Thư nghe mà toát mồ hôi, bỗng có dự cảm không lành. Cậu dò hỏi: "Ý Thế tử là..."

Triệu Quỳnh cười khổ: "Em gái ta từ bé đã ham mê đọc sách, cầm kỳ thư họa gì cũng tinh thông, nữ công thêu thùa chẳng hề chểnh mảng. Tính nó lại hiền thục, nhu mì, bẽn lẽn. Vốn song thân muốn giữ em ta ở nhà, chờ đến sang năm cho nó tự chọn một mối ưng ý chứ không tùy tiện gả đi. Hôm nay, cơ sự ra nông nỗi này..." Triệu Quỳnh im lặng chốc lát, đoạn chắp tay: "Đường đại nhân, nghe nói ngươi vẫn chưa đính hôn." Chu Tử Thư nheo mắt, lại đau đầu rồi đây.

"Nếu Cảnh Tắc bằng lòng, ta sẵn sàng làm mai, thu xếp mối duyên lành này cho ngươi và em ta."

Chu Tử Thư trợn tròn mắt, chẳng biết phải đáp sao. Triệu Quỳnh thì cứ nhìn cậu tha thiết, mà não Chu Tử Thư thì đặc quánh như tương, ngây ngây ngẩn ngẩn, nghĩ ngay đến Cung Tuấn đầu tiên. Trong vô thức, cậu đã coi Cung Tuấn là bùa hộ mệnh của mình, thiếu điều thốt lên với Triệu Quỳnh: "Việc này mình tôi không quyết được, phải hỏi ý kiến sư huynh tôi đã." Phúc tổ bảy mươi đời, Chu Tử Thư không buột miệng. Chu Tử Thư: "...Thế tử, tôi chưa có ý định thành gia."

Triệu Quỳnh cuống lên hỏi: "Ngươi ngại em gái ta không đủ xinh đẹp ư?"

Chu Tử Thư dở khóc dở cười: "Đương nhiên không phải thế. Thế tử, tôi quả thật chưa có ý định hứa hôn với ai hết!"

Triệu Quỳnh hỏi thêm mấy lần, Chu Tử Thư vẫn cương quyết chối từ. Triệu Quỳnh thở dài thườn thượt, rầu rĩ bội phần. "Chẳng giấu Cảnh Tắc, thật ra chuyện đính ước gấp cho tiểu muội cũng không phải ý hay. Kế ấy cố nhiên bảo vệ được tiểu muội, để nó không bị gả đi Liêu, nhưng tất sẽ khiến Thánh thượng chú ý, rồi chướng mắt phủ Cảnh Cungchúng ta. Chẳng cùng đường, ai lại tính nước ấy!"

Chu Tử Thư rót trà cho Triệu Quỳnh.

Triệu Quỳnh lại nói: "Cảnh Tắc cũng không phải người duy được chấm đâu, nhưng chỉ có ngươi là lựa chọn tốt nhất. Ngươi với ta là chỗ quen thân, ba năm trước đã kết giao, gặp gỡ. Nếu nói rằng ngươi và em gái ta có ý với nhau từ sớm nhưng hai nhà chưa chính thức hứa hôn, vẫn có thể giấu giếm được Thánh thượng, chí ít là tránh cho Thánh thượng giận cá chém...phủ Cảnh Vương. Hơn nữa, ta hoàn toàn tin tưởng vào nhân phẩm, tài năng lẫn tướng mạo của ngươi. Ngươi là rể hiền, gả em gái cho ngươi, ta cực kì an tâm."

Chu Tử Thư: "Tạ ơn Thế tử khen tặng, hạ quan hổ thẹn."

Biết Chu Tử Thư không thành em rể của mình được, Triệu Quỳnh cũng thả lỏng hơn. Thế tử mượn khổ mua vui: "Cảnh Tắc chớ khiêm tốn làm gì. Ở thành Thịnh Kinh này, ngươi đang là miếng bánh thơm phưng phức kia mà. Lẽ nào ngươi không biết rằng mấy năm gần đây mình đã lọt vào mắt xanh của vô số nhà Cungtôn quý tộc, quyền thần quan lớn ư? Ối nhà muốn gả con cho ngươi đấy!"

"Ơ?"

"Hà hà hà, ngươi cứ chờ xem. Không chỉ riêng nhà ta đâu, từ từ rồi nhiều nhà khác sẽ đến gõ cửa phủ Đường Thám hoa!"

Triệu Quỳnh mới dứt lời, xế chiều hôm đó, Chu Tử Thư về nhà đã thấy có một người nô bộc chờ ngoài cổng phủ Thám hoa.

Người nô bộc thấy Chu Tử Thư liền vội vàng chạy tới, dâng thiếp mời: "Cho hỏi có phải Chu Tử Thư – Đường đại nhân đấy không ạ? Đại nhân nhà ta có lời mời Đường đại nhân ghé phủ." Chu Tử Thư mở thiếp ra đọc.

"..."

Thượng thư bộ Công Viên Mục đích thân viết thiệp mời!

Ở kinh đô, không phải nhà nào có con gái đúng tuổi cũng có bệnh thì vái tứ phương, cố tìm cho con một mối tốt. Nhưng số nhà có con gái chưa chồng mà như ngồi trên đống lửa thì đông không kể xiết. Chính Chu Tử Thư cũng chẳng hề hay biết, bấy lâu nay tiếng thơm rể hiền hạng nhất của cậu đã vang lừng cả cõi Thịnh Kinh. Tuy xuất thân bần hàn, nhưng cậu đã là quan tứ phẩm ngay từ khi tuổi đời còn trẻ, được vua tin yêu, và vô cùng khôi ngô tuấn tú nữa. Người con gái làm vợ cậu sẽ vừa không phải e sợ nhà chồng, vừa được sánh duyên với lang quân lý tưởng. Còn gì đáng mừng hơn một cuộc hôn nhân vẹn cả đôi đường!

Giờ có chuyện hòa thân Tống – Liêu thúc giục, các nhà quyền quý bấy nay vẫn lưỡng lự đều ráo riết hành động ngay.

Chu Tử Thư chịu làm sao thấu, ngay hôm sau gói ghém hành lí, trốn biệt sang phủ Thượng thư.

Cung Tuấn hỏi: "Tiểu sư đệ đến có việc gì?" Chàng nhìn cậu ôm đồm túi lớn túi nhỏ thì cười: "Mang nhiều quà tặng ta thế cơ à?"

Chu Tử Thư: "Khụ...đây toàn là hành lý của đệ thôi. Sư huynh ơi, đệ muốn sang đây ở mấy ngày, có lẽ phải quấy rầy huynh rồi."

"Sao tự dưng lại muốn ở nhà ta?"

"Sư huynh, đệ nhớ huynh." Chu Tử Thư đáp như thật.

Cung Tuấn cười thành tiếng: "Nhận được mấy cái thiếp mời?"

Chu Tử Thư tròn mắt: "Huynh biết cả rồi ư?"

Cung Tuấn: "Ta với Viên đại nhân Thượng thư bộ Công chỉ là đồng liêu bình thường, nhưng ta nghe nói, Viên đại nhân cưng yêu cô cháu nội hết mực. Khéo sao, cháu gái ông ta vừa đến tuổi cập kê, chưa đính ước với ai cả. Ta và Viên đại nhân không thân, từ sau vụ việc U Châu thì ít khi liên lạc riêng với nhau. Song vì chuyện này, hôm qua ông ấy đã đích thân đến tận cửa, bày tỏ nguyện vọng nhờ ta làm mối cho đệ với cháu gái ruột của ông ấy."

Chu Tử Thư khiếp đảm: "Kìa sư huynh, huynh không làm mai hộ đệ đấy chứ? Lẽ nào đệ vừa trốn khỏi hang hùm đã rơi vào miệng sói?"

Cung Tuấn: "Ta đã từng nghe danh cháu gái Viên đại nhân. Tài nữ nức tiếng kinh thành đấy! Giỏi giang, xinh xắn hơn cả tiểu quận chúa phủ Cảnh Vương."

Chu Tử Thư nuốt nước bọt.

"Đến con gái Hữu thị lang bộ Lễ cũng chẳng mĩ miều bằng cháu gái Viên đại nhân đâu."

Tay Chu Tử Thư run bần bật.

"Còn đích nữ của Định Quốc công, tuy cũng là trang tuyệt sắc, nhưng so tài năng, học vấn thì cũng bị cháu gái rượu của Viên đại nhân vượt mặt."

Chu Tử Thư: "Thế là sư huynh biết hết rồi còn gì!" Ai đến làm mai với cậu mấy hôm nay, sư huynh đều biết tuốt!

Cung Tuấn cười giòn tan, vờ như vô ý nói với Chu Tử Thư: "Nếu chọn trong số mấy cô ấy thì thiên kim nhà Viên đại nhân đích thị là nàng dâu hoàn hảo. Tiểu sư đệ thấy sao?"

Chu Tử Thư: "Đệ không muốn thành thân."

"Ồ?"

Chu Tử Thư cười gượng: "Sư huynh, đừng trêu đệ nữa mà. Đệ mới mười chín thôi, nào đã đến tuổi lấy vợ! Tuy bằng tuổi đệ đầy người đã thành gia lập nghiệp từ sớm, nhưng đệ chưa làm nên sự nghiệp gì, tâm trí đâu mà tơ tưởng chuyện tư tình nhi nữ? Sư huynh cũng mãi chưa lấy vợ, lẽ nào sư huynh không hiểu đệ ư?"

Mãi một lúc lâu mà Chu Tử Thư không nhận được câu trả lời của Vương

Tuấn. Cậu tò mò ngó sư huynh, chỉ thấy rèm mi Cung Tuấn khẽ rủ, đôi mắt trong trẻo nhìn cậu một cách thản nhiên. Chàng nhẹ giọng hỏi: "Đệ muốn ta hiểu đệ thế nào?"

Chu Tử Thư thấy cổ mình nghèn nghẹn.

Cung Tuấn thở dài. Chàng đang vẽ dở, lúc này bèn gác bút, hỏi Đường

Thận tiếp: "Vì sao đệ không muốn thành thân?"

Chu Tử Thư nghiêm túc trả lời: "Đệ còn quá trẻ."

Cung Tuấn nhướng một bên mày: "Lí do thật."

Chu Tử Thư nghĩ bụng, ta đang nói thật mà, sao huynh không chịu tin!

CungTử Phong này, không ngờ huynh cũng có lúc tính sai câu trả lời đấy.

Chu Tử Thư vốn là người hiện đại, đã thế còn độc thân từ trong trứng, sinh viên tiến sĩ hai mươi mấy tuổi mà chưa một mảnh tình vắt vai. Thực lòng mà nói, cậu không muốn thành thân ở tuổi mười chín. Từ góc nhìn của cậu, thanh niên mười chín tuổi chỉ mới lên đại học thôi, hẵng còn trẻ dại, chừng ấy tuổi thì cưới xin nỗi gì! Cậu dự định sẽ bắt chước Cung Tuấn, hoặc chí ít là như Tô Ôn Duẫn, trước năm hai mươi lăm tuổi sẽ không cân nhắc bất cứ ai.

Trong lòng nghĩ thế, nhưng Chu Tử Thư không thể lí luận kiểu đấy với

Cung Tuấn. Cậu nghĩ mãi mà chẳng ra đáp án nào khả thi. Bỗng Chu Tử Thư nảy ra một ý, hỏi ngược lại: "Vì sao đến giờ sư huynh vẫn chưa thành hôn?"

"Ta đâu có bảo ta chưa hứa hôn với ai?"

Chu Tử Thư sững sờ: "Ơ?"

Trời đất! CungTử Phong đã hứa hôn rồi ư?

Thấy Chu Tử Thư trợn tròn hai mắt, Cung Tuấn mỉm cười: "Đương nhiên, ta cũng chưa bảo là có."

Chu Tử Thư: "..."

Huynh mà không phải CungTử Phong, thì sớm muộn gì cũng bị người ta đánh chết.

Cung Tuấn: "Chỉ chưa gặp được người phù hợp thôi."

Câu trả lời này thoạt tiên nghe như đáp cho có lệ; song Chu Tử Thư ngẫm nghĩ một chút lại thấy, có lẽ Cung Tuấn đang nói thật. Trong ba tội bất hiếu, không có con là tội nặng nhất. Nhưng làm quan đến địa vị của Cung Tuấn, người có thể xì xào chỉ trỏ chàng, trừ người nhà ra thì chỉ có hoàng đế mà thôi.

Triệu Phụ đã không quản, hiển nhiên, với uy vọng của Cung Tuấn ở Lang Gia Cungthị, cũng chẳng ai trong họ dám chỉ tay năm ngón chuyện cưới xin của chàng cả. Thế nên, rất có khả năng, tình huống của chàng đúng như những gì chàng nói. Chàng chưa gặp được người phù hợp, chưa gặp được cô gái kia. Vì lẽ đó, tới giờ chàng vẫn ở vậy.

CungTử Phong không lập gia đình vì chàng không tìm được người có thể nắm tay mình đến cuối đời.

Chu Tử Thư thầm nhủ: Nhưng trên đời này, ai mới có tư cách bạc đầu giai lão cùng CungTử Phong đây?

Nhất thời, cậu không tài nào hình dung nổi, cô gái ấy phải là tiên nữ phương nào mới có thể lọt vào mắt xanh của chàng, mới có tư cách sánh vai cùng Cung Tuấn.

Chu Tử Thư hết sức thông cảm: "Đệ hiểu." Cậu đã biết vì sao Cung Tuấn độc thân đến tận bây giờ.

Cung Tuấn: "Đệ không hiểu."

Chu Tử Thư lắc đầu: "Không, sư huynh, đệ hiểu." Đệ hiểu, huynh không thành thân, là bởi không ai xứng với huynh hết.

Cung Tuấn lặng yên nhìn Chu Tử Thư. Hồi lâu sau, chàng mỉm cười, không phủ nhận nữa.

Hai người không nhắc lại chuyện đó.

Cung Tuấn: "Đệ định đối đáp với họ thế nào?"

Chu Tử Thư đau đầu lắm: "Chuyện đó đệ cũng chịu. Sư huynh biết đấy, những người gửi thiếp mời cho đệ hay thậm chí là tự mình thăm viếng, nếu không phải hoàng thân quốc thích thì cũng là đại thần quyền cao chức trọng hơn xa đệ. Ai đệ cũng không dám đắc tội, nên mới phải viện tới hạ sách này, nương náu ở chỗ sư huynh."

"Không muốn lôi thôi với họ phải không?"

Chu Tử Thư nói như đinh đóng cột: "Không muốn."

"Soạt" một tiếng, Cung Tuấn xòe quạt trắng: "Thế thì khỏi bàn nữa thôi." Hôm sau, thế mà không còn ai tới làm mai cho Chu Tử Thư nữa thật.

Chu Tử Thư trốn ở phủ Thượng thư, dĩ nhiên sẽ không có ai đến tận nơi để mai mối. Nhưng ngoài lúc ở phủ, cậu còn phải làm việc ở điện Cần Chính. Ấy thế mà mấy vị đại nhân hôm trước còn quấn quít lấy cậu, hôm nay đã lặn mất tăm hơi, không ai sốt sắng khuyên nhủ cậu nữa.

Chu Tử Thư hết hồn, theo dõi nửa ngày, cậu bèn đưa ra kết luận...

"Sư huynh nhà mình quả là thâm tàng bất lộ!"

CungTử Phong xem ra còn đáng sợ hơn cả những gì cậu tưởng tượng.

Tiểu thư các nhà khác Chu Tử Thư không quản được, nhưng cậu với Thế tử Cảnh CungTriệu Quỳnh vốn là chỗ thân tình, dù sao đôi bên đã hợp tác hết sức ăn ý trong chuyện kinh doanh xà phòng. Cho nên, sau khi về phủ Thượng thư từ chỗ làm, Chu Tử Thư nghĩ ngợi một hồi, bèn thương thảo kế sách với Cung Tuấn. Đêm xuống, cậu viết một phong thư, ngầm sai người gửi tới phủ Cảnh vương.

||

Năm lần bảy lượt thăm dò lòng sư đệ. Nếu chẳng yêu thương và trân trọng hết mực, có lí nào CungTử Phong lại cẩn thận đến nhường ấy? Chu Tử Thư không vô tâm, chỉ là trong mắt cậu sư huynh làm gì cũng có cái lí của mình, còn cậu thì chưa từng trải nghiệm "tình yêu" để mà biết gọi tên cảm xúc ấy. Âu cũng vì CungTử Phong là người quá kín đáo và tinh tế. Chàng luôn biết đâu là giới hạn, dù là lúc chơi cờ, vẽ tranh, hay nắm tay, khoác áo, chàng luôn giữ kín tình ý của mình để mối quan hệ của hai người là trong sáng. Ngờ đâu, chàng càng ân cần bao nhiêu thì Chu Tử Thư càng yêu mến chàng và đáp lại nhiều bấy nhiêu. Giữ nhiều tâm sự trong lòng thế có mệt chăng, CungTử Phong?

------oOo------

Chương 92

Nguồn: EbookTruyen.Net

Hoàng đảng

Phủ Cảnh Vương. Mấy nay, hôm nào Cảnh Cungphi cũng rửa mặt bằng nước mắt, còn Tiêu Dao Cunggia Triệu Ngao mặt ủ mày chau, thở vắn than dài.

Thế tử Triệu Quỳnh như ngồi trên đống lửa. Đúng lúc ấy, người hầu mới bẩm rằng Chu Tử Thư có gửi một phong thơ. Cảnh Cungphi hỏi: "Có nhẽ nào, Chu Tử Thư có ý với Uyển nhi nhà mình, muốn đính hôn với Uyển nhi chẳng?"

Triệu Quỳnh bóc thư, anh ta "Ồ" lên một tiếng, rồi đưa cho Lục Cunggia Triệu Ngao: "Phụ vương, người đọc mà xem." Triệu Ngao xem thư xong cũng sững người.

Cảnh Cunggọi con trai vào thư phòng, hai cha con bàn bạc suốt một canh giờ, Cảnh Cungmới rời phủ tiến cung.

Đến khuya, tiểu thái giám trong cung đến truyền lời rằng hoàng đế giữ Cảnh Cungngủ lại.

Nghe thế, Triệu Quỳnh thở phào nhẹ nhõm. Anh ta nói với Cảnh Cungphi: "Muội muội không phải làm dâu nước Liêu rồi."

Hôm sau, Cảnh Cungvề phủ, gọi Triệu Quỳnh vào thư phòng, lấy một cuốn sách từ trên giá xuống. Ông giở sách, rút bao thư kẹp trong trang sách ra. Triệu Ngao nhìn phong thư bằng ánh mắt phức tạp, cảm thán: "Ta và hoàng huynh biết nhau từ thuở ấu thơ, lớn lên bên nhau, nhưng năm mươi năm rồi mà ta vẫn không thể nhìn thấu tâm tư hoàng huynh. Quỳnh nhi, các quan trên triều đình tuy không chảy chung dòng máu hoàng tộc, nhưng giỏi đoán thánh ý hơn cha con ta không biết bao nhiêu lần!" Nhìn phong thư, Triệu Quỳnh cũng xúc động.

Dạo gần đây, vì chuyện hòa thân mà phủ Cảnh Cungcứ như đưa đám, ai nấy khóc than. Triệu Quỳnh không nghĩ rằng Chu Tử Thư lại gửi cho anh ta phong thư này. Trong thư, Chu Tử Thư vạch ra ba hướng đi cho nhà họ.

"Chuyện hòa thân giữa Tống – Liêu như tên đã lên dây, không thể không bắn. Lòng thương em của Thế tử, trời đất cũng phải động lòng. Vì không thể giúp Thế tử tháo gỡ mối ưu phiền này, mấy hôm nay, không lúc nào Cảnh Tắc thôi Tuấn trở. Nay xin dốc chút tài hèn sức mọn, có đôi lời nhắn nhủ Thế tử như sau. Nếu muốn giữ gìn cho lệnh muội, Cảnh Tắc xin hiến ba kế."

"Kế thứ nhất, đau yếu bệnh tật, khó lòng sang Tây."

"Gió mây trên trời khó đoán, họa phúc đời người khó lường. Chuyện hòa thân là đại sự của hai nước, há phải chuyện chơi? Nếu quận chúa đau yếu trong người, tất nhiên không thể hòa thân. Song kế sách này có hai cái dở. Một là khiến Thánh thượng nghi kị, hai là hại đến danh tiếng của quận chúa."

"Kế thứ hai, trời se duyên lành, đã có hôn phối."

"Nếu dùng kế này, chỗ khó thứ nhất là phải kén được rể hiền; chỗ khó thứ hai là phải che dấu sao cho Thánh thượng không sinh nghi. Ngoài ra, kế này có thể làm lỡ dở chuyện chung thân đại sự của quận chúa."

"Kế thứ ba, lấy tiến làm lùi, lấy công làm thủ."

"Cảnh Cunglà anh em ruột thịt của bệ hạ, nghĩa nặng tình sâu. Trời đông rét mướt, Cảnh Cungthường bầu bạn với bệ hạ, san sẻ đỡ đần. Anh em như thể tay chân, bệ hạ ắt không quên tình ấy. Nếu Cảnh Cungcầu kiến bệ hạ, chủ động xin gả ấu nữ rồi để bệ hạ thấy Cunggia không nỡ, may ra có thể cứu vãn tình thế."

"Mong Thế tử sớm được toại lòng, cầu được ước thấy."

Hai kế đầu tiên không phải phủ Cảnh Cungchưa từng nghĩ đến, nhưng y như Chu Tử Thư phân tích, làm theo hai kế ấy chẳng những khiến Triệu Phụ sinh nghi mà còn khiến quận chúa lỡ làng hôn nhân. Mà kế thứ ba đích thị là được ăn cả, ngã về không. Nếu Triệu Ngao chủ động gả con gái, Triệu Phụ chấp thuận ngay, thì Triệu Ngao mất cả chì lẫn chài.

Ngặt nỗi cả thành Thịnh Kinh chỉ có tiểu quận chúa phủ Cảnh Cunglà nữ quý tộc phù hợp với yêu cầu nhất. Thậm chí hôm qua Triệu Ngao còn nghe phong thanh, Triệu Phụ đã có ý định gả con gái rượu của Cảnh Cungsang nước Liêu rồi. Đến nước này, chỉ đập nồi dìm thuyền mới có cơ may thắng lợi, không thành công thì thành nhân. Vì vậy, Triệu Ngạo bèn tiến cung, chủ động cầu kiến Triệu Phụ, xin cho con gái hòa thân với vua Liêu.

Trong điện Thùy Củng, Triệu Phụ nghe Cảnh Cungnói thế thì giật mình.

Hoàng đế Đại Tống cầm bút son, ngạc nhiên hết sức, lo lắng hỏi Triệu Ngao: "Sao bỗng dưng hoàng đệ lại nảy ra ý đấy?"

Triệu Ngao tâu: "Thần đệ là Cunggia Đại Tống, có lí nào lại không góp sức vì Đại Tống? Dầu hoàng huynh không nói, thần đệ cũng biết không còn ai thích hợp hơn Uyển nhi. Dân chúng Thịnh Kinh gọi thần đệ là 'Tiêu dao Cunggia', hai chữ 'Tiêu Dao' ấy chẳng phải là mỉa mai thần đệ quá đỗi bất tài ư? Hiện giờ, vua Liêu đòi cưới công chúa Đại Tống, thần đệ giá nào cũng không thể nhắm mắt làm ngơ."

Giọng Triệu Ngao hết sức khẩn khoản, nhưng bàn tay ông run rẩy, đến cả chòm râu cũng lẩy bẩy theo câu từ. Triệu Ngao cố nén nỗi xót xa không đành lòng, song chẳng thể giấu nổi đôi mắt Triệu Phụ. Ánh mắt Triệu Phụ nhìn Triệu Ngao sâu thăm thẳm. Hồi lâu, ông ta mới hỏi: "Hoàng đệ, những lời đệ nói có thật lòng không?"

Triệu Ngao run bắn: "Có ạ."

Triệu Phụ than: "Từ bao giờ giữa huynh đệ chúng ta phải nói năng trang nghiêm đến thế!"

Vì thế, Triệu Phụ bèn giữ Triệu Ngao ngủ lại hoàng cung, hai anh em gối kề gối, tâm sự miên man, ôn lại biết bao chuyện từ thuở thơ ấu. Đế Cungvui lắm, nhắc đến chuyện xưa, ông ta như được trở về thời thanh xuân. Sau ba mươi năm trị vì với trái tim máu lạnh, Triệu Phụ nhìn người anh em ruột thịt của mình, lòng trắc ẩn bỗng dậy lên.

Triệu Phụ vỗ về bàn tay Cảnh Vương, nói: "Hoàng đệ chớ lo, trẫm đã có cách."

Triệu Ngao bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm.

Quả nhiên, mấy hôm sau, người được Triệu Phụ chọn làm dâu nước Liêu là quận chúa của cố Cửu Cunggia. Từ khi Cửu Cunggia qua đời, Cungphủ không có ai dẫn dắt, Triệu Phụ cũng không ngó ngàng gì đến, thế là thành một chi hoàng tộc sa sút. Triệu Phụ kết nạp quận chúa vào hoàng thất, phong làm công chúa, rồi gả sang Liêu.

Cungphủ Cửu Cunggia khóc than dậy trời dậy đất đến cỡ nào, người ngoài chẳng thể phán xét. Trái lại, các nhà khác trong thành Thịnh Kinh thì hân hoan ra mặt.

Gần đến năm mới, sứ thần Đại Liêu lục tục trở về nước.

Ngày hai mốt tháng Chạp, Chu Tử Thư mặc triều phục, khoác áo choàng lông cáo ra đường. Cậu giơ tay, hứng lấy một bông hoa tuyết.

Vòm trời ảm đạm một màu xám ngắt, những bông tuyết nhẹ tênh mềm xốp rơi xuống đất, lặng lẽ trải thảm bạc trên mặt đường. Chu Tử Thư quấn áo khoác kín mít đi bộ vào cung. Dự buổi chầu xong, cậu trở về điện Cần Chính, trước hết là đọc mấy bản tấu, rồi mới đệ trình lên. Được tầm một canh giờ thì Triệu Phụ gọi cậu vào điện Thùy Củng.

Chu Tử Thư chỉnh trang quan phục, đội tuyết lớn đến điện Thùy Củng.

Vì không được mặc áo khoác đi diện kiến hoàng đế, nên cả quãng đường, Chu Tử Thư rét đến nỗi tím bầm môi. May mà đến điện Thùy Củng, khi tiểu thái giám vén rèm cửa dày sụ lên cho cậu vào thì hơi ấm ùa ra.

Triệu Phụ ôm lò sưởi nhỏ, ngồi trên giường La Hán xơi hạch đào. Thái giám nhỏ đập vỡ vỏ hạch đào bằng một cây búa nhỏ, cẩn thận tách phần hạt ra, hoàng đế thỉnh thoảng lại ăn chút một.

Thấy Chu Tử Thư đến, Triệu Phụ ngó cậu một hồi, bảo Quý Phúc: "Cảnh Tắc rét cóng luôn kìa, hôm nay càng lúc càng lạnh."

Quý Phúc là người nhạy bén, lão hiểu Triệu Phụ quan tâm đến Chu Tử Thư nên mới nói vậy. Quý Phúc mau mắn thưa: "Vừa rồi nô tỳ có ra ngoài một lúc. Quan gia không biết đó thôi, tuyết lớn mịt mùng, tai nô tỳ cứng đờ hết cả. Quan gia có cho phép nô tỳ lấy lò sưởi cho Đường đại nhân không ạ?"

Triệu Phụ không đáp mà phất tay: "Ban tọa."

Hai tiểu thái giám kê một chiếc ghế cạnh chậu than, Chu Tử Thư thi lễ rồi mới ngồi xuống: "Tạ ơn bệ hạ."

Triệu Phụ không nói chuyện, vẫn thủng thẳng ăn hạch đào. Một lát sau, ông ta mới bảo: "Cảnh Tắc, có việc gì khiến ngươi muốn gặp trẫm đây? Bản tấu ngươi viết có ý hay, mỗi tội tuổi ngươi còn nhỏ quá!"

Chu Tử Thư giật mình thon thót, nào dám ngồi thêm, vội vàng đứng lên cúi mình hành lễ. "Cách đây một tháng, thần có cơ hội tiếp xúc rất nhiều với các sứ giả nước Liêu trong quá trình tiếp đón họ. Là quan viên Đại Tống, thần dân Đại Tống, một tháng ấy khiến thần ăn không ngon, ngủ không yên.

Càng tiếp xúc với sứ Liêu, thần càng thêm choáng váng khiếp đảm." "Cách..." Thái giám trẻ đập vỡ vỏ một quả hạch đào, tiếng nứt vỡ âm vang trong điện Thùy Củng.

Triệu Phụ ngẩng đầu, nói: "Nhắc tới chuyện này, hình như từ lúc Lý Cảnh Đức hồi kinh, hắn vẫn đi cùng ngươi đúng không?"

Chu Tử Thư suy nghĩ một chút: "Lòng Lý tướng quân gắn liền với miền Tây Bắc. Tướng quân lo sứ Liêu vào kinh có âm mưu khác, nên mới cùng thần gặp sứ Liêu."

Triệu Phụ cười mắng: "Có chuyện gì xảy ra nổi kia chứ? Để đứa mãng phu như hắn đi giao thiệp với sứ giả mà ngươi cũng nghĩ ra được thì tài!"

"Thần có tội."

"Chỉ cho phép một lần này thôi đấy." Triệu Phụ nói, "Quan hệ Tống – Liêu thân thiết hòa hợp, công chúa cũng gần sang đến nước Liêu rồi. Cảnh Tắc à, ngươi đừng nghĩ ngợi quá làm gì."

Chu Tử Thư nhủ thầm: Tống – Liêu thân thiết hòa hợp ấy à? Chẳng biết ai là người làm bộ giả lả, vờ lẩm cẩm vô dụng trong buổi yến ở lầu Thăng Bình đặng chiều lòng sứ giả, rồi đến khi tan cuộc thì gọi Lý Cảnh Đức vào đài Đăng Tiên mắng như tát nước. Nếu Cung Tuấn không nhắc chuyện này, Chu Tử Thư còn không biết hôm ấy Triệu Phụ đã khiển trách Lý Cảnh Đức xử lí người Liêu thiếu chu toàn, khiến Triệu Phụ mất hết thể diện trước sứ giả!

Đại Tống không đánh lại Đại Liêu; Đại Liêu tạm thời không muốn hao phí sức nước vào việc thôn tính Đại Tống.

Đây là tình thế hiện tại.

Vậy mà lúc này Triệu Phụ lại nói "Tống Liêu hòa hợp với nhau"?

Đúng là sĩ diện chỉ tổ hại thân!

Song Chu Tử Thư không thể vạch trần chuyện ấy, bèn nương theo ý hoàng đế để khuyên: "Bệ hạ dạy phải, thần hiểu. Có điều, mép giường há để người dưng ngủ kềnh? Bệ hạ, phòng bệnh hơn chữa bệnh. Thần xin cả gan khuyên, tuyệt đối không được khinh thường người Liêu."

Triệu Phụ tỏ vẻ trầm tư, thở dài nói: "Thôi thì, Cảnh Tắc lo cũng không phải vô căn cứ."

Trong điện Thùy Củng, Quý Phúc phất cây phất trần, khôn khéo đứng nép sang bên. Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân múa bút hăng say, ghi chép cuộc gặp gỡ giữa Chu Tử Thư và hoàng đế.

Chu Tử Thư chắp tay vái, cung kính thưa: "Thần cho rằng, đối mặt với nước Liêu, chúng ta không thể vờ như không thấy được. Trước khi trở lại U Châu, Lý tướng quân có nói với thần rằng, nếu cho tướng quân mười năm, ngài ấy có thể xây dựng được một lực lượng không thua kém gì thiết kỵ nước Liêu."

Bàn tay bốc hạch đào của Triệu Phụ sững lại. Mắt sáng lấp lánh, ông ta ngẩng lên nhìn Chu Tử Thư, nôn nóng hỏi: "Lý Cảnh Đức nói thế ư?"

Chu Tử Thư gật đầu, nói như đinh đóng cột: "Vâng, Lý tướng quân đã nói vậy."

Nơi ngàn dặm xa xôi, Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức đang luyện quân dở trong thành U Châu, bỗng hắt xì hơi một cái. "Thằng người Liêu chết đâm nào đang mưu hại ông thế nhỉ?"

Trong điện Thùy Củng, Chu Tử Thư nói tiếp: "Tuy vậy, việc luyện quân không thể diễn ra chỉ trong một sớm một chiều, cũng không thể làm một lần xong ngay. Để rèn giũa quân đội chẳng những cần thời gian mà cần cả tiền bạc. Ty Ngân Dẫn ở Tây Bắc có nhiệm vụ hết sức then chốt. Thần cho rằng, nếu ty Ngân Dẫn và quân Phi Long phối hợp với nhau, chung sức đồng lòng, nhất định có thể tạo nên một đội kỵ binh hùng dũng không thua kém gì đội quân nước Liêu."

Nghe vậy, nét mặt Triệu Phụ giãn hẳn ra, vui vẻ nhẹ nhõm. Chợt, ông ta sực nhớ ra điều gì, vẻ mừng rỡ trong ánh mắt nhạt đi đôi chút. Ông ta nhẹ giọng hỏi Chu Tử Thư: "Tử Phong nói với ngươi thế à?"

Chu Tử Thư ngẩn người, cẩn thận đáp: "Cungđại nhân có thảo luận chuyện này với thần."

Điện Thùy Củng lặng im trong chốc lát. Triệu Phụ thở dài: "Sư huynh đệ các ngươi đúng là đồng tâm hiệp lực, cống hiến vì trẫm." Chu Tử Thư cúi đầu, không nói câu nào.

Triệu Phụ lại nói: "Chuyện ty Ngân Dẫn và những điều ngươi trình bày trong bản tấu, trẫm đã đọc rồi. Những việc này đều thuộc bổn phận của CungTử Phong chứ không can hệ gì đến ngươi. Nhưng Cảnh Tắc này, trong tấu chương của ngươi có đề cập đến chuyện kia...Thực ra trẫm vẫn chưa hiểu lắm. Ý tưởng của ngươi là gì?"

Chu Tử Thư ngẩng đầu lên tâu: "Thần cho rằng, ty Ngân Dẫn không nên chỉ giới hạn ở việc quân sự. Nếu dùng ty Ngân Dẫn như vậy thì không phát huy hết được hiệu quả." Cậu không hề nhắc rằng mục đích trên hết của Triệu Phụ khi thiết lập ty Ngân Dẫn là để thúc đẩy công cuộc chuyển đổi tiền tệ trên cả nước thông qua ty Ngân Dẫn sau nhiều năm nữa, vì chuyện này Chu Tử Thư không được phép biết. Thế là cậu nói: "Ty Ngân Dẫn cũng có thể xâm nhập vào nội bộ nước Liêu, thăm dò tình hình địch!"

Triệu Phụ lặng yên nhìn Chu Tử Thư, Chu Tử Thư bị săm soi đến mức trống ngực đổ liên hồi.

Chu Tử Thư là Trung Thư xá nhân, chức quan này không có chức trách cụ thể như Thượng thư Lục bộ hay Đại nguyên soái. Quan thuộc Trung Thư tỉnh phần lớn đều giống Chu Tử Thư, chức vụ của bọn họ chỉ là bề ngoài, còn nhiệm vụ chính của họ là phụng sự hoàng đế, san sẻ lo toan với hoàng đế.

Hôm nay, việc Chu Tử Thư trực tiếp xin yết kiến Triệu Phụ mà không thông qua Từ Bí không thể coi là vượt quyền, nhưng cũng đồng nghĩa với việc cậu không coi mình là thành viên của Từ đảng.

Chu Tử Thư là người của Hoàng đảng, chỉ trung thành với hoàng đế mà thôi.

Hai năm qua, Từ Bí không bao giờ lôi kéo Chu Tử Thư về phe mình, ông tin tưởng cậu thực sự. Đổi lại, Chu Tử Thư cũng tin tưởng ông.

Thình lình Triệu Phụ cười phá lên: "Trẫm không ngờ, chuyện này ngươi và Phỉ Nhiên chẳng mưu mà hợp!" Chu Tử Thư giật thót.

...Phỉ Nhiên?

Tô Ôn Duẫn?!

||Chú thích

Nguyên văn là 卧榻之侧岂容他人鼾睡: Không thể để người ta ngủ ngáy bên mép giường mình được. Trong ngữ cảnh truyện, Chu Tử Thư muốn nói không thể để người Liêu tự tung tự tác ngay sát bên nước Tống được.

------oOo------

Chương 93

Nguồn: EbookTruyen.Net

Lễ đội mũ

Mùa đông tháng Chạp lạnh thấu xương, thành Thịnh Kinh trắng phau màu tuyết. Cả hoàng cung chìm trong trận tuyết lớn trắng toát mù mịt đất trời.

Hữu thị lang bộ Công kiêm Đại lý tự Thiếu khanh Tô Ôn Duẫn trong bộ quan bào đỏ thẫm đang tiến vào hoàng cung. Dưới làn mưa tuyết liên miên bất tận, Tô Ôn Duẫn bước tới điện Thùy Củng. Anh ta không được vào điện yết kiến ngay mà phải chờ thái giám vào thông báo. Xong xuôi, Tô Ôn Duẫn mới được đặt chân vào điện Thùy Củng. Trước tiên, Tô Ôn Duẫn hành lễ với Triệu Phụ. Lúc ngẩng đầu lên, ánh nhìn của anh ta đột nhiên khựng lại ở Chu Tử Thư – người đang đứng giữa điện Thùy Củng.

Hai người chạm mắt, Chu Tử Thư lia mắt đi, nét mặt bình thản.

Triệu Phụ vẫn ngồi trên giường La Hán, ấp tay lên lò sưởi nhỏ, nói: "Phỉ

Nhiên cũng đến rồi, tuyết đầy trên mũ quan kìa."

"Thần – Tô Ôn Duẫn xin diện kiến Thánh thượng."

Triệu Phụ cười: "Ngồi đi."

Tiểu thái giám lập tức bê ghế sang. Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn cùng nhau ngồi xuống.

Triệu Phụ nói: "Ngươi hãy đọc kĩ bản tấu của Cảnh Tắc." Đại thái giám Quý Phúc lập tức đưa quyển tấu của Chu Tử Thư cho Tô Ôn Duẫn.

Tô Ôn Duẫn mở bản tấu ra xem. Càng đọc, nét mặt anh ta càng khó hiểu. Cuối cùng, anh ta kìm nén mong muốn được hỏi chuyện Chu Tử Thư để tâu với Triệu Phụ: "Bẩm bệ hạ, xem ra thần và Đường đại nhân không mưu mà hợp."

Hình như tâm trạng của Triệu Phụ rất tốt, ông ta cười ha hả: "Đúng thế. Hôm nay lúc ta đọc bản tấu xong cũng ngạc nhiên như vậy. Hôm qua ngươi vừa dâng tấu, hôm nay Cảnh Tắc cũng dâng theo."

Nghe thế, Chu Tử Thư liền biết hôm qua Tô Ôn Duẫn đã đề xuất gì với Triệu Phụ.

Tô Ôn Duẫn tâu với Triệu Phụ rằng, cần cài mật thám vào nước Liêu!

Chu Tử Thư không biết Tô Ôn Duẫn định lợi dụng con đường nào để cài mật thám vào nước Liêu. Nhưng về lí thuyết, anh ta sẽ không nghĩ đến ty Ngân Dẫn. Ty Ngân Dẫn thuộc quyền quản lí của Cung Tuấn, Tô Ôn Duẫn và Cung Tuấn xưa nay không hợp nhau, chỗ có người này thì không có người kia. Nếu Cung Tuấn không lén tiết lộ cho Chu Tử Thư chuyện ty Ngân Dẫn, cậu chắc chắn đã không nảy ra ý tưởng mượn ty Ngân Dẫn để dò xét tình hình nước Liêu.

Đang nói chuyện dở thì có thái giám bê một tô canh bồ câu nấu với nấm Tùng Nhung lên, thưa rằng có vị nương nương trong hậu cung tự tay nấu dâng hoàng đế. Triệu Phụ ngồi nghiêng mình, nhẹ nhàng húp canh. Mí mắt ông ta rủ xuống, thần thái bình thản, tựa như mọi ông lão tuổi sáu mươi trên đời. Sau hai hớp canh, Triệu Phụ nói: "Canh bồ câu hôm nay chẳng còn ngon như ngày xưa."

Quý Phúc cười xòa: "Tài nấu nướng của Thục phi nương nương có thể nói là đứng đầu hậu cung, có lẽ hôm nay thời tiết lạnh quá, thái giám dâng canh bồ câu đến điện Thùy Củng thì đã nguội bớt nhiều, khiến quan gia thấy canh kém ngon so với thuở xưa."

Triệu Phụ nói: "Trẫm không cho là vậy. Trẫm nghĩ, nếu nấm Tùng Nhung này có thể tươi ngọt hơn, thịt bồ câu có thể mềm non hơn, hai yếu tố trung hòa, bổ trợ cho nhau, thì dù tuyết lớn gấp mấy đi chăng nữa, canh vẫn sẽ ngon."

Quý Phúc hết sức căng thẳng, lão biết Triệu Phụ đang mượn chuyện nọ để nói chuyện kia, nhưng rõ ràng Triệu Phụ không hề nói với lão. Ánh mắt có phần hoang mang của Quý Phúc liếc về phía Tô Ôn Duẫn và Chu Tử Thư. Nếu không nói với lão, thì chỉ có thể là nói với hai vị đại nhân này thôi.

Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn cũng đều có suy tính trong lòng cả.

Không lâu sau, Chu Tử Thư rời khỏi điện Thùy Củng trước, Tô Ôn Duẫn lưu lại.

Bước ra ngoài điện Thùy Củng, Chu Tử Thư xòe ô. Hoa tuyết khẽ đậu trên tán ô, tiếng rơi nhẹ đến nỗi chẳng thể nhận ra được. Chu Tử Thư lên đường về điện Cần Chính, lúc gần đến cổng điện, cậu dừng bước, khóe miệng bỗng nhếch lên.

Triệu Phụ muốn cậu và Tô Ôn Duẫn liên thủ thực hiện nhiệm vụ này, chưa chắc đã là chuyện xấu.

Từ vụ việc hai năm trước đến nay, đây là cơ hội hiếm hoi để cậu tiếp xúc với Tô Ôn Duẫn. Nếu có thể tận dụng dịp này, cạy được chút tin tức từ miệng họ Tô, thì chuyến này coi như không uổng.

Chiều hôm ấy, Triệu Phụ hạ chỉ, ra lệnh cho Chu Tử Thư khởi hành đi Tây Bắc vào tháng hai, sau dịp đầu xuân năm mới. Cậu có nhiệm vụ chỉ huy và giám sát tình hình xây dựng ti Ngân Dẫn, thay mặt Thiên tử tuần tra.

Thái giám ty Lễ cầm thánh chỉ vào gian nhà Chu Tử Thư làm việc, tuyên đọc ý chỉ của đức vua. Chu Tử Thư lĩnh chỉ xong thì tin tức đã truyền ngay đến chỗ Từ Bí. Từ Bí đang thong thả nghiên cứu một cuốn sách cổ. Nghe tin ấy, ông gật đầu, kèm theo chút suy tư, nhưng không có phản ứng gì khác.

Trước khi ngày làm việc kết thúc, chuyện này cũng truyền đến gian làm việc của các Tướng công còn lại.

Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng nghe tin mà sửng sốt. Quay ra nhìn người đồng nghiệp cùng phòng của mình – Thượng thư bộ Hộ Cung Tuấn, Mạnh đại nhân đảo mắt, hỏi: "Cungđại nhân, bản quan nghe phong thanh là Hữu thị lang bộ Công Tô Ôn Duẫn – Tô đại nhân – hôm nay cũng nhận được chiếu thư, lệnh rằng năm sau lên Tây Bắc giám sát quân tình?"

Cung Tuấn đang ngắm nghía một viên ngọc trắng trong veo tuyệt đẹp, dường như chàng quá nhập tâm vào việc thưởng thức mà không nghe thấy những gì Mạnh Lãng nói.

Mạnh đại nhân rủa thầm "Viên ngọc báu kia là của đút của biếu từ phương nào không biết, liệu hồn chớ để ông bắt thóp mi", đoạn ông ta gập ngón tay gõ bàn một cái, hỏi tiếp: "Ta nhớ ty Ngân Dẫn do Cungđại nhân quản lí cũng ở ngay U Châu mà nhỉ? Đường đại nhân đến U Châu, Tô đại nhân cũng đến U Châu, chẳng lẽ Tô đại nhân và Đường đại nhân đi U Châu cùng nhau à?"

Bấy giờ Cung Tuấn mới thôi ngắm viên ngọc đẹp, chàng ngẩng lên nhìn Mạnh Lãng, mỉm cười.

Cung Tuấn: "Hình như ta chưa nghe chuyện Tô Thị lang cũng đi?

Mạnh Lãng: "Hôm nay vừa nhận thánh chỉ đấy."

Cung Tuấn: "Mạnh đại nhân là Thượng thư bộ Lễ mà thân với các quan bộ Công thật."

Mạnh Lãng: "Hả?"

"Ngay cả Trung thư Xá nhân dưới quyền Từ tướng công, đại nhân cũng hết lòng quan tâm."

"...?"

"Vừa rồi nói đến ty Ngân Dẫn, Mạnh đại nhân cũng nắm rõ như lòng bàn tay..."

"Khoan khoan, CungTử Phong kia, từ bao giờ ta nắm rõ ty Ngân Dẫn như lòng bàn tay? Ngươi chớ có ngậm máu phun người."

Mạnh Lãng không đời nào muốn dính líu đến ty Ngân Dẫn. Mỗi viên quan trong triều đều ôm một suy đoán riêng về ty Ngân Dẫn, Mạnh Lãng cũng không ngoại lệ. Tuy ông ta không biết Triệu Phụ thiết lập cơ quan này với mục đích gì, nhưng chắc chắn là có mục đích trọng đại. Chuyện hay chẳng tới phần mình, chuyện dở thì ông ta không muốn dây. Thượng thư bộ Lễ Mạnh đại nhân xưa nay không ưa rớ tay vào phiền toái bao giờ.

Cung Tuấn cất viên ngọc quý đi rồi đứng dậy. Chỉ giây lát sau, ngoài cửa vang tiếng quan sai gióng cồng báo hiệu giờ giấc.

Đã đến giờ ra về.

Cung Tuấn nghiêm túc nhìn Mạnh Lãng, rạp người vái chào, xúc động than: "Mạnh đại nhân chỉ được giữ chức Thượng thư bộ Lễ, ấy là có tài mà chẳng được phát huy."

Mạnh đại nhân ngây người, đến khi Cungđại nhân đi mất hút, ông ta mới phản ứng lại.

"Gượm đã, CungTử Phong đang khen mình đấy ư? Sao cứ thấy là lạ thế nào ấy nhỉ?"

Hạ tuần tháng chạp, năm mới cận kề, các quan đều được nghỉ.

Năm nay Chu Tử Thư không về Tô Châu vì cậu vừa nhận thánh chỉ đi Tây

Bắc đầu xuân năm sau. Hôm giao thừa, cả nhà ăn bữa cơm tất niên ở lầu Tế Hà. Mấy tháng trước, Đường phu nhân đã lặn lội từ Cô Tô lên Thịnh Kinh để búi tóc cài trâm cho Đường Hoàng.

Đường Hoàng tròn mười lăm tuổi, đã là một cô gái trưởng thành, có thể gả chồng, lập gia đình.

Về lý thuyết thì Đường Hoàng nên về Cô Tô làm lễ, nhưng Đường phu nhân lại đích thân đến đây, khiến Chu Tử Thư có chút áy náy.

Đường phu nhân cười: "Biết các con bận mà. Bá mẫu sống quá nửa đời đã bao giờ được đặt chân đến Thịnh Kinh? Dịp này ta lên đây, cũng tiện chiêm ngưỡng phong cảnh ngoài phủ Cô Tô." Dẫu Đường phu nhân có là tiểu thư nhà quyền quý, cả đời bà vẫn chỉ quanh quẩn chốn Cô Tô.

Qua thời khắc giao thừa, Đường Hoàng mời Chu Tử Thư ly rượu: "Đến lượt anh trai em đội mũ rồi."

Diêu Tam cũng nói: "Sinh nhật của tiểu đông gia là tháng ba, vốn nên tổ chức lễ đội mũ ở Thịnh Kinh, nhưng đầu tháng hai cậu phải đi U Châu rồi, e rằng buổi tiệc sinh nhật sẽ không cử hành được."

Chu Tử Thư nói: "Chờ tôi về rồi tổ chức cũng không sao."

Không chỉ riêng Diêu Tam để tâm chuyện Chu Tử Thư sẽ phải làm lễ đội mũ ở thành U Châu. Trong dịp năm mới, Chu Tử Thư đến Phó phủ chúc Tết, Phó Vị cũng ý thức được vấn đề này. Gần đây Phó Vị tập trung biên soạn sách vở ở viện Hàn Lâm, người ốm đi nhiều, nhưng tinh thần quắc thước, thần thái sáng láng. Ông cau mày, vuốt râu: "Cũng dở nhỉ."

Chu Tử Thư cười: "Tiên sinh chớ lo chi, chừng nào học trò công cán ở U Châu xong, về đây làm lễ cũng không muộn. Đến lúc ấy con còn phải mời tiên sinh làm đại tân, giúp con cử hành lễ đội mũ."

"Chuyện ấy thì đương nhiên rồi."

Con trai hai mươi tuổi đội mũ, con gái mười lăm tuổi cài trâm.

Lễ đội mũ cần phải có một người chủ trì gọi là đại tân, một người phụ giúp gọi là tán tân. Ở các nhà khác, đại tân là vị trí thường dành cho cha ruột của người được đội mũ, còn thầy của người ấy sẽ được mời làm tán tân. Nhưng phụ thân của Chu Tử Thư mất sớm vì bệnh tật, cậu chỉ có thể nhờ Phó Vị chủ trì lễ đội mũ, mà tán tân thì...

Chu Tử Thư nói: "Con muốn mời Tử Phong sư huynh làm tán tân ạ."

Phó Vị đáp: "Tán tân nên là thầy tốt, bạn hiền, là ân nhân, trưởng bối của con. Để Tử Phong làm cũng là hợp lẽ. Nhưng việc này con phải bàn với nó. Làm tán tân không phải chuyện nhỏ, ấy là đại sự cả đời của con và cũng là đại sự cả đời của nó. Nếu nó không muốn, vi sư cũng không có cách nào."

"Vâng."

Chúc mừng năm mới Phó Vị xong, Chu Tử Thư cũng không đến tìm Cung Tuấn ngay, vì năm nay Cung Tuấn về phủ Kim Lăng đón năm mới.

Từ Phó phủ về đến nhà, Chu Tử Thư bỗng cảm thấy hơi cô đơn quạnh quẽ, như là thiếu vắng một điều gì đó. Ngẫm nghĩ kĩ, cậu không khỏi bật cười: "Mấy năm vừa qua mình toàn đón Tết cùng sư huynh mà!"

Quả đúng thế. Những năm Chu Tử Thư không về Cô Tô thì Cung Tuấn cũng ở lại Thịnh Kinh. Lần duy nhất cậu về Cô Tô thì Cung Tuấn cũng ăn Tết ở Kim Lăng. Nhờ đó, hai người mới gặp nhau ở nhà họ Vương, Chu Tử Thư với Cung Tuấn còn chung chăn sẻ gối, gác chân lên nhau mà ngủ.

Năm nay tự dưng lại không có CungTử Phong ở bên, Chu Tử Thư thấy chỗ nào cũng bứt rứt.

Mười ngày trôi qua, Cung Tuấn từ Kim Lăng về kinh thành. Vừa hay tin, ngay hôm sau Chu Tử Thư đã sắm nắm quà cáp sang thăm hỏi, chúc Tết Cung Tuấn.

Cung Tuấn sai quản gia nhận quà Tết, lại lấy quà mình mang từ Kim Lăng lên cho Chu Tử Thư. Thư đồng của Chu Tử Thư nhận quà thay chủ.

Cung Tuấn hỏi: "Nghe tiên sinh bảo, tiểu sư đệ muốn mời ta làm tán tân trong lễ đội mũ phải không?"

Chu Tử Thư "Ồ" lên trong lòng, có lẽ nào? Nghe giọng CungTử Phong, phải chăng chàng bằng lòng làm tán tân cho cậu?

Chu Tử Thư nói: "Vâng, năm nay đệ đã hai mươi, sắp đến lúc đội mũ rồi. Phụ mẫu mất sớm, nên đệ muốn mời tiên sinh và sư huynh cử hành lễ cho đệ."

Cung Tuấn nhấp một ngụm trà, nói: "Ngồi đi." Chu Tử Thư chỉnh vạt áo, ngồi xuống.

Cung Tuấn không trả lời ngay câu hỏi của cậu, mà chỉ nói: "Ta nhớ sinh nhật tiểu sư đệ là mùng bảy tháng ba."

"Dạ."

"Nhưng tháng hai là đệ đi U Châu công tác rồi đúng không?"

"Vâng, chuyện ấy bất khả kháng, nên đệ dự tính bao giờ công tác ở U Châu xong sẽ làm lễ."

Cung Tuấn gạt nắp chén trà bằng một tay. Hồi lâu, chàng mới nói: "Cũng chưa hẳn là phải thế."

"Ấy?" Chu Tử Thư kinh ngạc ngẩng đầu nhìn Cung Tuấn.

Nửa tháng sau, Triệu Phụ bỗng hạ chỉ, lệnh cho Chu Tử Thư cuối tháng ba mới phải đi U Châu. Chu Tử Thư thoạt tiên không hiểu nguyên do, nhưng cậu sực nhớ đến những gì Cung Tuấn nói thì không nhịn được cười.

"Rốt cuộc, sư huynh nhà mình bỏ bùa gì mà hoàng đế nghe lời huynh ấy thế chứ nhỉ? Lạm quyền để mưu việc riêng mà cũng để yên cơ à?"

||Chú thích

Tân ở đây có nghĩa là khách.

------oOo------

Chương 94

Nguồn: EbookTruyen.Net

Tư vô tà

Rốt cuộc CungTử Phong đã làm gì, Chu Tử Thư nghĩ mãi mà không đoán ra được trọng điểm.

Đương nhiên cậu không biết, lần này CungTử Phong chưa hề làm gì cả, nghi ngờ thế là oan cho chàng lắm.

Cung Tuấn chỉ gợi chuyện về ty Ngân Dẫn trong một dịp chàng và hoàng đế đàm luận với nhau. Khéo thay, vua tôi cùng nói tới việc Chu Tử Thư phải đi đốc tra ty Ngân Dẫn. Không chỉ thế, chính Triệu Phụ lại là người dẫn dắt vào đề tài này. Vốn ty Ngân Dẫn do Cung Tuấn phụ trách, Chu Tử Thư được giao việc giám sát, Triệu Phụ tiện thể nhắc một câu, thế là hai người chuyển sang bàn về Chu Tử Thư.

Vì vậy, Cung Tuấn phất tay áo thở dài, nối vào cái đề tài ấy một cách hết sức trơn tru: "Hai tháng nữa là sinh nhật Đường đại nhân đấy ạ. Nhân nói đến, thần lại nhớ vào lễ đội mũ chín năm về trước, thần được bệ hạ ban thưởng một thỏi mực ngọc Thanh Đô, ánh ngời như ngọc, hương mực nồng nàn. Năm ngoái, thần lấy từ trong kho ra để lau chùi, vẫn còn nguyên như mới."

Triệu Phụ cũng như sực tỉnh: "Năm nay đến lễ đội mũ của Chu Tử Thư đó ư?"

Cung Tuấn thưa: "Vâng."

Triệu Phụ ngẩn ngơ: "Trẫm quên đấy. Hóa ra Cảnh Tắc mới hai mươi. Thế mà trẫm cứ nghĩ cậu ta không nhỏ tuổi hơn Phỉ Nhiên là bao."

Nhờ cuộc nói chuyện này mà sau đó Triệu Phụ đã ban chiếu chỉ, cho phép Chu Tử Thư ở lại Thịnh Kinh cử hành lễ đội mũ.

Đầu đuôi sự việc đều được Khởi Cư lang chép lại trong Khởi Cư chú của Triệu Phụ, nhưng Chu Tử Thư không được biết.

Chu Tử Thư lĩnh chỉ, bản thân cậu chưa hết ngỡ ngàng, lễ đội mũ đã được mọi người xúm vào chuẩn bị.

Biết Chu Tử Thư được ở lại Thịnh Kinh để làm lễ, Diêu Tam và Phụng Bút lập tức bận rối rít cả lên. Đầu tiên là phải đến Khâm Thiên Giám, xin các quan bốc giùm quẻ bói, chọn tháng tốt ngày lành.

Nhà thường dân làm gì có vinh hạnh được Khâm Thiên Giám bốc quẻ, chỉ có thể nhờ thầy phong thủy bình thường, hoặc nhờ thầy bói tính ngày tốt cho mình thôi. Riêng các quan trong triều thì có thể nhờ Khâm Thiên Giám tính giúp con cháu nhà mình ngày thích hợp nhất cho lễ đội mũ.

Chu Tử Thư là quan tứ phẩm, cậu muốn cử hành lễ, các quan Khâm Thiên Giám đương nhiên hết sức nhiệt tình.

Có người đồn Giám chính Khâm Thiên Giám Lý Tiêu Nhân nghe tin ấy, còn cố ý dặn dò thuộc hạ: "Lễ đội mũ của Đường đại nhân được Thánh thượng ban thưởng, không thể qua loa. Các ngươi phải làm cẩn thận cho ta, cấm được sơ sẩy."

Chu Tử Thư được Triệu Phụ trọng dụng, chưa đến tuổi hai mươi đã được cử đi U Châu giám sát tình hình xây dựng ty Ngân Dẫn. Sau này, chẳng biết cậu còn vươn xa đến đâu. Hơn nữa, chỗ dựa của Chu Tử Thư không hề thua kém ai cả. Tuy xuất thân bần hàn, nhưng sư môn của cậu sừng sững như núi, thế lực nguy nga. Lý Tiêu Nhân coi trọng Chu Tử Thư đến thế, có tới bảy phần là vì nể mặt Phó Vị và Cung Tuấn.

Quan Khâm Thiên Giám đích thân tính ngày lành cho Chu Tử Thư, vừa khéo, ngày mồng sáu tháng ba năm nay là ngày đẹp, cách sinh nhật hai mươi tuổi của Chu Tử Thư đúng một ngày.

Chọn ngày xong thì phải mở tiệc chiêu đãi tân khách, chuẩn bị trang phục cho lễ đội mũ và các đồ dùng trong nghi lễ.

Chu Tử Thư giao chuyện này cho Diêu Tam và Phụng Bút lo rồi đi đến phủ Thượng thư.

"Xin sư huynh hãy làm tán tân ở lễ đội mũ của đệ, tán quan giúp đệ."

Cung Tuấn nói: "Đệ cũng biết đấy, hai vị trí đại tân và tán tân, nếu không phải do bậc bề trên đức cao vọng trọng đảm nhiệm, thì cũng phải chọn người không có khiếm khuyết gì."

Chu Tử Thư lấy làm lạ: "Sư huynh mà cũng có chỗ thiếu sót ư?"

Thế này là sao? Thần tiên như CungTử Phong thì có khuyết điểm gì kia chứ? Đẹp trai quá à? Hay nhiều tiền quá đây? Chức vị quá cao? Hay quá được hoàng đế tin cậy?

Cung Tuấn tự chỉ vào mình, thản nhiên nói: "Sư huynh của đệ đến nay vẫn chưa yên bề gia thất."

Chu Tử Thư: "..."

Bấy giờ Chu Tử Thư mới nhớ ra rằng Cung Tuấn chưa cưới vợ!

Sang năm nay, Cung Tuấn đã hai mươi chín. Tuy ở thời hiện đại, nam giới hai chín tuổi độc thân không hiếm, nhưng tuổi ấy chẳng còn sớm sủa gì nữa, cũng đến lúc nên tìm kiếm đối tượng kết hôn rồi. Chu Tử Thư nói: "Tiêu chuẩn của sư huynh rất cao, đệ biết mà."

"Đệ biết cơ à?"

"Biết chứ. Người bình thường đâu có xứng với sư huynh. Ba tháng trước, sư huynh có kể cho đệ nghe về mấy cô gái đến tuổi lấy chồng ở kinh thành, bàn một hồi thì hình như kết luận tiểu thư nhà Thượng thư bộ Công – Viên đại nhân là tuyệt nhất. Nhưng sau đó đệ lại nghe được một chuyện, làm đệ nghĩ cô ấy cũng chưa hẳn là đẹp đôi với sư huynh."

Chuyện Chu Tử Thư nghe nói được là cháu gái Viên đại nhân vốn đam mê chơi bài diệp tử. Thế là cậu bèn tưởng tượng, sau bữa tối, sư huynh nhà mình đứng giữa đình viện, bỗng nổi hứng vẽ tranh. Màn đêm se lạnh như nước mát, quả là thời điểm thích hợp để ngắm sao Khiên Ngưu, sao Chức Nữ. CungTử Phong khoác bộ y phục trắng, như chàng tiên không gợn bụi trần, bất cứ lúc nào cũng có thể vút bay. Tự dưng giữa lúc ấy, tiểu thư nhà họ Viên lại hô hào một lũ người, rủ rê nhau về phòng đánh bài diệp tử.

Chu Tử Thư lắc đầu quầy quậy, xua ngay khung cảnh ấy đi.

Cô nàng này làm sao mà xứng đôi với sư huynh tiên khí bay bổng của cậu được!

Lúc ấy, Chu Tử Thư nào có nghĩ rằng, ngoài vẽ tranh với thư pháp ra, sư huynh nhà cậu còn biết giết nghịch đảng, biết trừ phản tặc nữa cơ. Tiểu thư nhà họ Viên chỉ thích chơi bài diệp tử để tiêu khiển chút đỉnh, còn CungTử Phong nhà cậu lấy mạng người ta kia kìa!

Chung quy vẫn là không hợp.

Còn về phần ai mới xứng đôi với sư huynh, Chu Tử Thư nghĩ mãi không ra, nhưng cậu quả quyết rằng người ấy không thể nào là tiểu thư nhà họ Viên được.

Cung Tuấn không nén nổi nụ cười: "Đệ cũng biết, chuyện này mà đến tai Viên Thượng thư thì kiểu gì cũng có một hồi gió tanh mưa máu chứ hả?

Chu Tử Thư nhẹ nhàng nói: "Sư huynh chưa thành thân, nhưng sư huynh là quý nhân của đệ. Đệ muốn mời sư huynh làm tán tân."

"Được."

Có lời hứa hẹn của CungTử Phong, Chu Tử Thư liền bớt một nỗi bận lòng.

Sau khi về tới nhà, cậu suy nghĩ lại những gì mình nói với CungTử Phong hôm nay. Chu Tử Thư gọi Diêu đại nương đến hỏi thăm. Nghe bà nói xong, Chu Tử Thư nhíu mày.

Cách người cổ đại kết hôn rất khác với người hiện đại.

Cung Tuấn năm nay tuy đã hai mươi chín tuổi, nhưng ngoại hình vẫn trẻ trung tuấn mỹ, hơn nữa chàng nắm quyền cao chức trọng, vừa giàu sang vừa nổi tiếng. Con gái trong thành Thịnh Kinh muốn làm vợ chàng phải xếp hàng dài dằng dặc. Nếu Cung Tuấn thực sự muốn cưới cháu gái Thượng thư bộ Công Viên Mục, dầu quan hệ giữa Cung Tuấn với Viên Mục không thân, đạo bất đồng bất tương vi mưu, Viên Mục cũng nhất định không từ chối.

Nhưng cứ thế này mãi, khéo cả đời sư huynh phải độc thân cũng nên.

Chu Tử Thư nghĩ thầm: "Thế thì đã sao, cùng lắm thì đã có mình chăm sóc, lo chuyện ma chay cho huynh ấy lúc về già." Cậu chẳng buồn nghĩ mình chỉ kém Cung Tuấn có chín tuổi, đến lúc ấy chả biết ai dưỡng lão cho ai. Song ý tưởng đấy vừa bật ra trong đầu, Chu Tử Thư bỗng nhớ cái năm mới đỗ Thám hoa, trong vườn hoa Phó phủ, cậu vừa thấy Cung Tuấn đã vô thức gọi "Ba".

"..."

Thế là cậu thành con trai CungTử Phong rồi còn gì!

Quên đi quên đi, không thể ôm đồm việc dưỡng lão ma chay cho CungTử Phong được!

Lễ đội mũ nghe thì có vẻ phức tạp nhưng kì thực khá đơn giản. Cha mẹ

Chu Tử Thư mất sớm, nhà chẳng còn ai là người lớn, cũng không phải thế gia đại tộc để có nhiều quy củ. Bởi thế, trình tự lễ đội mũ của cậu khá giản lược.

Sáng sớm mùng sáu tháng ba, Chu Tử Thư rửa mặt chải đầu, thay y phục, đi tới miếu thờ tổ tiên trong nhà Phó Vị.

Phủ Thám hoa không có chỗ thích hợp để cử hành nghi lễ, nên Chu Tử Thư phải mượn Phó phủ để làm lễ đội mũ.

Hôm tổ chức lễ đội mũ, các quan thân với Chu Tử Thư đều có mặt để mừng cho cậu. Vì Chu Tử Thư là quan lớn tứ phẩm, cả Khâm Thiên Giám lẫn bộ Lễ đều cử quan đến dự. Tổng cộng có bảy, tám vị quan kinh thành mặc quan bào, chia nhau đứng thành hai hàng dọc theo con đường lát đá xanh trước tông miếu trong Phó phủ.

Cuối con đường lát đá xanh bóng loáng là Phó Vị. Chu Tử Thư liếc mắt sang bên, cạnh Phó Vị chính là Cung Tuấn.

Trong tông miếu, khói trắng lững lờ cuộn lên từ đỉnh hương đồng thau.

Chu Tử Thư mặc bộ lễ phục Huyền Đoan dày và nặng, mái tóc dài của cậu được búi gọn trên đỉnh đầu. Cậu bước đến trước mặt Phó Vị, đặt tay trái lên trên tay phải dưới ống tay áo rộng, quỳ xuống tấm đệm mềm. Phó Vị cúi đầu nhìn Chu Tử Thư đã trưởng thành hôm nay, lòng bùi ngùi xúc động. Những cảm xúc ấy nén lại thành tiếng thở dài thật dài, xen lẫn niềm vui và nỗi hoài niệm người đã khuất.

Chu Tử Thư cúi người xuống, Phó Vị giơ tay lên, Cung Tuấn bưng chiếc khay gỗ tiến lên một bước. Ông nhấc chiếc mũ truy bố làm từ vải gai đen, nhẹ nhàng đội lên búi tóc của Chu Tử Thư.

Giọng Phó Vị trầm bổng du dương: "Ta có người học trò là Chu Tử Thư, nay đội mũ vải thâm cho trò ấy. Khổng Tử nói, quân Cungsai sử bề tôi, bề tôi phụng sự quân vương, như thế nào mới tốt?"

Chu Tử Thư chắp hai tay làm lễ, cao giọng đáp: "Quân Cungsai sử bề tôi phải dùng lễ, bề tôi phụng sự quân Cungphải trung thành."

Phó Vị: "Tốt lắm."

Như thế, chiếc mũ thứ nhất đã được đội lên, đồng nghĩa với việc Chu Tử Thư có thể tham chính, dốc sức vì đất nước.

Tiếp theo, Chu Tử Thư thay lễ phục Bì Biền màu trắng, bước tới trước mặt Phó Vị lần thứ hai. Cậu lại đặt tay trái lên trên tay phải, quỳ xuống chiếc đệm mềm. Từ trên chiếc khay gỗ mà Cung Tuấn bưng, Phó Vị nâng chiếc mũ Bì Biền làm từ da hươu trắng, đội cho Chu Tử Thư.

[3] Bì Biền: mũ dành cho quan võ

Ý nghĩa của chiếc mũ thứ hai là Chu Tử Thư có thể tòng quân bảo vệ nước nhà.

Cuối cùng, Chu Tử Thư khoác lên mình lễ phục Tước Biền đỏ thắm. Phó Vị đội lên đầu cậu chiếc mũ hai màu đen – đỏ, làm từ vải tơ sống.

[4] Tước Biền: mũ cho quan văn

Chiếc mũ thứ ba mang ý nghĩa Chu Tử Thư đã trưởng thành, từ giờ trở đi, cậu được phép tham gia lễ nghi, thờ cúng.

Ba chiếc mũ đã được đội đủ, Chu Tử Thư đứng dậy. Phó Vị cười với cậu:

"Theo lệ thường, bây giờ là lúc vi sư chọn chữ và tặng cho con tên tự. Nhưng con khác với người bình thường, mười sáu tuổi đã đỗ Thám hoa, hai mươi tuổi làm quan tứ phẩm. Tên tự con đã có rồi, cái tên ấy là Cảnh Tắc. Hôm nay, vi sư không có gì để tặng con, nên viết mấy chữ này làm quà."

Phó Vị nói xong, Ôn Thư đồng tử đứng hầu kế bên bèn lấy một cuộn thư pháp đã được bồi, từ từ giở ra.

[5] Sau khi vẽ tranh, hoặc viết thư pháp, người ta sẽ dán chồng lên một vàilớp giấy hoặc lụa bằng loại hồ chuyên dụng để giúp tác phẩm bền lâu, đẹp lâu

Trên nền giấy Tuyên trắng như tuyết là ba con chữ đại tự rồng bay phượng múa, bút pháp tuyệt vời.

"Khổng Tử nói: Kinh Thi có ba trăm bài, nếu tóm gọi lại thì có thể gọi là: Tư vô tà6. "

[6] Không có suy nghĩ xấu xa, lệch lạc.

Phó Vị tặng Chu Tử Thư ba chữ, "tư vô tà"!

Chu Tử Thư trào dâng xúc động, cậu nhận bức thư pháp bằng cả hai tay: "Học trò xin khắc ghi lời tiên sinh dạy bảo." Phó Vị vuốt râu, nhẹ nhàng cười.

Như vậy, lễ đội mũ của Chu Tử Thư đến đây là kết thúc.

Lễ nghi đã hoàn thành, nhưng Chu Tử Thư còn phải mở tiệc chiêu đãi tân khách. Người nhà họ Đường đều ở Cô Tô, chỉ có mình Đường Vân lặn lội đường xá đến Thịnh Kinh để dự lễ. Vì thế, khách khứa dự tiệc hôm nay không quá đông, chủ yếu là các quan ở Thịnh Kinh.

Chu Tử Thư tất bật trước sau, các quan thi nhau chúc mừng cậu trưởng thành, cậu cũng phải mời rượu lại, cảm ơn mọi người đã tặng quà mừng.

Phó Vị và Cung Tuấn mặc lễ phục, ngồi ở vị trí chủ trì.

Trời tối dần, đèn đã rạng. Phó Vị cầm đũa, chẳng câu nệ mà chỉ vào Chu Tử Thư – người đang đi tới đi lui như con thoi. Ông nói: "Tử Phong ơi, sư đệ của con hôm nay đã trưởng thành thật rồi. Chớp mắt một cái, năm năm đã trôi qua. Năm năm rồi đấy."

Cung Tuấn chỉ nhấm nháp chút rượu chứ không uống nhiều. Người chàng không ám mùi rượu gay mũi mà thơm lừng vị trái cây. Chàng nhìn theo hướng Phó Vị trỏ đũa, ngắm Chu Tử Thư trong bộ lễ phục Tước Biền màu đỏ sẫm, lần đầu búi hết mái tóc dài lên, vài sợi tóc đen còn sót lơ thơ rủ trên vầng trán. Đôi mắt cậu sáng ngời, lễ phục sẫm mầu càng tôn lên ánh mắt long lanh tựa hai vì sao đêm.

Ánh sáng trong đôi mắt Cung Tuấn như bị hút cạn, chàng nhếch môi, cúi đầu uống rượu.

Phó Vị hỏi: "Con thấy sư đệ con thế nào?"

Chén rượu bên môi Cung Tuấn khựng lại.

Phó Vị nâng li, nét mặt hết sức thỏa mãn, sung sướng uống cạn.

Ông cảm khái: "Quả đúng là tư vô tà!" Tư vô tà.

Một tấm lòng trong sáng vô ngần, không chứa chấp cặn đục, không thấy điều tà ác.

||

Chúc mừng Tiểu Thư Lang trưởng thành.

Chương này edit có tham khảo chương "Lễ đội mũ" trong của Phạm Đình Hổ, bản dịch

Nguyễn Hữu Tiến, "" của dịch giả Huỳnh Chương Hưng và , tác giả Nguyễn Đình. Mời

các bạn đọc thêm nếu quan tâm. Minh họa xem phía dưới.

Minh họa

Lễ phục Huyền Đoan. Các loại mũ và lễ phục đề cập trong bài được sử dụng rộng cho cả giới quý tộc, vua chúa. Chữ 弁 theo mình tìm hiểu thì vừa có phiên âm là "biện" vừa có phiên âm là "biền". Mình chọn "Biền" theo cách phiên âm của tác giả Trần Quang Đức (Ngàn năm áo mũ)

Huyền Đoan

Truy bố quan

Bì Biền (trái) – Tước Biền (phải)

------oOo------

Chương 95

Nguồn: EbookTruyen.Net

Đệ nghĩ, sư huynh ắt phải là người phong thần tuấn lãng

Bữa tiệc đương dang dở thì có người từ hoàng cung đến. Triệu Phụ ban cho Chu Tử Thư một cây bút lông sói.

Nam giới cổ đại làm lễ trưởng thành vào năm hai mươi tuổi. Số người có thể đỗ đạt công danh ở trước tuổi hai mươi là rất hiếm. Còn những người chưa đội mũ mà đã đỗ tiến sĩ, lại chiếm được lòng tin yêu của hoàng đế thì càng hiếm hoi hơn. Mỗi khi có quan viên cử hành lễ đội mũ, Triệu Phụ đều ban thưởng, nhưng không phần thưởng nào giống với phần thưởng nào.

Trong ba mươi mốt năm kể từ khi Triệu Phụ lên ngôi, đã có sáu vị quan được hưởng vinh dự ấy. Có ba người trong số ấy trở thành quyền thần được hoàng đế trọng dụng ngay, còn ba người kia chức vụ thấp, đều bị phân công đến vùng khác ngoài kinh thành.

Được Triệu Phụ ban thưởng, Chu Tử Thư nhận chiếc bút bằng hai tay rồi ra lệnh Phụng Bút lì xì cho thái giám chịu trách nhiệm tặng quà.

Thái giám thoạt tiên còn lịch sự từ chối, nhưng rồi cũng mau chóng nhận tiền mừng. Kẻ ấy cười tươi rói: "Nô tỳ xin chúc mừng Đường đại nhân. Đường đại nhân tuổi trẻ tài cao, tiền đồ vô lượng."

Đến khi Tuấng lơ lửng ngang trời, Chu Tử Thư mới đích thân tiễn từng vị quan đến chung vui rời tiệc.

Khi tiễn Phó Vị và Cung Tuấn, Chu Tử Thư nói: "Tối mai, con mở tiệc tại nhà, tiên sinh và sư huynh phải sang đấy nhé." Dĩ nhiên cả hai người đều nhận lời.

Năm Khai Bình thứ ba mươi mốt, mùng bảy tháng Ba. Hôm nay mới chính thức là sinh nhật Chu Tử Thư.

Vì trung tuần tháng Ba Chu Tử Thư phải lên đường đến U Châu để đốc tra việc xây dựng ty Ngân Dẫn, nên cậu không cần đến điện Cần Chính trong mấy ngày đầu tháng này. Thay vào đó, cậu được phép ở nhà để tập trung sửa soạn cho chuyến đi. Buổi trưa, Chu Tử Thư bày tiệc rượu ở lầu Tế Hà chiêu đãi bè bạn. Những người tham gia cũng không phải tai to mặt lớn gì, chỉ có Diêu Thiện là người giữ chức cao nhất.

Diêu Thiện và Chu Tử Thư là tiến sĩ cùng khoa. Cách đây bốn năm, Diêu

Thiện đỗ Trạng Nguyên, cùng vào cung làm quan Khởi Cư với Đường

Thận. Hai năm trước, Tả tướng Kỷ Ông Tập chủ trương xây dựng lại ty Độ Chi dưới sự giúp sức của quan Tham tri Chính sự Triệu Tĩnh và Hữu thị lang bộ Hộ Tần Tự. Lúc đó, ty Độ Chi là điểm đến vàng cho các quan trong triều. Diêu Thiện được lòng đế vương, đã chuyển từ vị trí Khởi Cư lang ngũ phẩm sang ty Độ Chi làm việc.

Khi đó, Diêu Thiện hoàn toàn không nghĩ rằng rồi đây, ty Độ Chi sẽ phải đối mặt với kết cục như vậy. Anh ta và Mai Thắng Trạch, bạn đồng môn thân thiết của Chu Tử Thư, cùng nhau làm quan ở ty Độ Chi. Nào ngờ chưa đầy một năm, ty Độ Chi vấp phải biến cố lớn, bị hoàng đế loại bỏ thẳng thừng. Triệu Tĩnh và Tần Tự đều bị cách chức, các quan thấp cổ bé họng như họ cũng lâm vào cảnh khốn đốn.

Năm ngoái, Mai Thắng Trạch bị biếm đến Quý Nam làm huyện lệnh, tạm thời không gặp được Chu Tử Thư.

Diệu Thiện thì đỡ hơn, dù sao anh ta cũng có hai năm làm Khởi Cư lang bên Triệu Phụ. Triệu Phụ khiển trách anh ta rất nặng nề, nhưng không hề cách chức mà còn cho anh ta làm Thông nghị Đại phu, hàm tứ phẩm. Cuối cùng, anh ta và Chu Tử Thư vẫn cùng phẩm cấp với nhau, nhưng xét thực quyền và độ tin sủng của hoàng đế thì Diêu Thiện kém xa Chu Tử Thư.

Song với Diêu Thiện, thế đã là thỏa mãn lắm rồi.

Sống ở đời, có mười chuyện thì đến tám, chín chuyện không theo ý mình. Được ở lại kinh thành đã là điều đáng mừng với anh ta.

Trong bữa tiệc, Diêu Thiện uống rượu, dặn dò Chu Tử Thư: "Cảnh Tắc, lần này đệ đến U Châu, tuyệt đối không được chủ quan. Ty Ngân Dẫn có thể coi là hậu thân của ty Độ Chi, nước sâu lắm đấy. Tuy ta không biết có bí mật sâu xa gì ẩn sau ty Ngân Dẫn, nhưng thành U Châu là chốt giao giữa hai nước Tống – Liêu, vàng thau lẫn lộn. Ty Ngân Dẫn đặt ở đó để quản lí lương bổng của tướng sĩ, chỉ nghĩ thôi cũng thấy hiểm nguy trùng trùng rồi. Đệ phải hết sức cẩn thận."

Chu Tử Thư cảm động, nói: "Đạ tạ Vấn Cơ huynh đã quan tâm, lần này đi U Châu, ta nhất định sẽ thận trọng."

Diêu Thiện bỗng thấy hâm mộ đến xanh cả mắt.

"Hầy, đúng là thua xa, thua xa quá thể. Cảnh Tắc, bao giờ đệ hồi kinh, kiểu gì cũng phải mời ta uống vài chén cho vơi cái nỗi chua chát này đi. Đệ có ngửi thấy thùng giấm trong bụng ta không? Ta ghen tị với đệ quá đi mất!"

Chu Tử Thư cười ha hả: "Nhất trí!"

Buổi trưa khoản đãi thân bằng hảo hữu, đến tối, Chu Tử Thư mở tiệc tại nhà, mời riêng Cung Tuấn và Phó Vị.

Thầy trò ba người chén tạc chén thù, tiệc tùng say sưa. Phó Vị hắng giọng, hớn hở khoe khoang một bức họa ông mới vẽ hôm nay. Ông khen bức họa mình vẽ sinh động cực kì, giống y như thật.

Chu Tử Thư lúc đầu tưởng thật. Cậu nghĩ bụng, tiên sinh nhà mình tuy được xưng là Điêu Trùng Trai Chủ, thư pháp thuộc hàng đỉnh cao của Đại Tống, song khoản vẽ vời thì khá xoàng; thế mà hôm nay ông lại vẽ nên kiệt tác? Đến khi cậu ngoảnh sang nhìn Cung Tuấn, bắt gặp ánh mắt chàng nhìn lại...

Đôi mắt thấu sự đời của Cung Tuấn lộ rõ ý cười, chàng chẳng nói chẳng rằng, chỉ lẳng lặng cúi đầu ăn, ngồi nghe Phó Vị ba hoa.

Bấy giờ Chu Tử Thư mới phát hiện ra, mình và tiên sinh rất giống nhau ở cái tài nịnh hót thành thần. Điểm khác biệt duy nhất nằm ở chỗ, Chu Tử Thư tâng bốc người khác, còn Phó Vị thì tâng bốc chính bản thân ông!

Xì, thế thì hẳn bức tranh ấy chẳng đẹp chút nào rồi, hoàn toàn khớp với trình độ của tiên sinh xưa nay.

Ăn tiệc xong, do Phó phủ cách nhà Chu Tử Thư hơi xa nên Phó Vị đi về trước. Cung Tuấn nán lại thêm.

Diêu đại nương dọn dẹp bàn ăn, Chu Tử Thư và Cung Tuấn đi vào trong đình viện.

Phủ Thám Hoa không rộng lắm, chỉ có ba tiến thôi, chái nhà phía Đông1 kéo dài hết dọc bên phải của tòa phủ. Vườn hoa trong phủ nằm ở phía Tây Bắc, trong vườn có một ao nhỏ, bao quanh là rừng trúc. Hiện giờ là tháng ba, đúng dịp đầu xuân, gió đêm mơn man trên mặt, chẳng hề lạnh mà mát lịm đến tim gan.

[1] Đông sương. Thường là nơi ở của trưởng nam trong gia đình. Chủ nhà ở gian phía Bắc.

Chu Tử Thư thả bước quanh bờ ao, nói: "Sư huynh chọn tòa nhà này làm phủ Thám Hoa cho đệ, nhưng hình như đây là lần đầu sư huynh vào tham quan phải không?"

Cung Tuấn: "Nếu tính việc đi hết mọi chỗ trong phủ, thì đây đúng là lần đầu tiên."

"Đệ thích rừng trúc này lắm." Chu Tử Thư dừng chân bên khóm trúc, ngoảnh đầu lại nhìn Cung Tuấn, "Cây trúc là quân tử trong rừng xanh, mỗi độ xuân về không ngào ngạt hương hoa, trồng cạnh thư phòng quả là đẹp đẽ và thanh tịnh không gì bằng."

Hai người nhanh chóng bước vào thư phòng của Chu Tử Thư.

Đây không phải lần đầu Cung Tuấn đến phủ Thám Hoa, nhưng đây là lần đầu chàng đặt chân vào thư phòng của Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư xuống bếp lấy trà nước cho Cung Tuấn, trước khi đi cậu bảo: "Sư huynh cứ ngắm nghía tùy thích nhé. Sách trong nhà đệ không nhiều như ở nhà sư huynh, nhưng cũng phong phú lắm."

Một lúc sau, Chu Tử Thư bưng khay trà về. Vừa vào cửa, cậu đã thấy Cung Tuấn đứng ở góc giá sách, xem xét mấy quyển tạp thư về nghệ thuật trà. Chu Tử Thư giật mình thon thót, nhưng cậu nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, không để lộ sự bất thường. Cậu đặt khay trà lên bàn, cười nói: "Sư huynh khát nước chưa? Uống trà nhé? Trà Bích Loa Xuân anh họ đệ đem từ Cô Tô lên đấy."

Cung Tuấn cất sách, nhận chén trà nhấp một ngụm.

"Sư huynh đang xem dở tạp thư về trà nghệ à?"

Cung Tuấn liếc nhìn cuốn sách vừa cất về giá, khóe môi khẽ nhếch: "Ừ, đúng là tiểu sư đệ có mấy cuốn sách mà nhà ta không có. Đệ có thể cho ta mượn về đọc được không?"

"Tất nhiên rồi." Nói đoạn, Chu Tử Thư chủ động lấy giúp mấy quyển sách về trà cho Cung Tuấn. Động tác lấy sách của cậu khiến mấy cuốn xếp kế bên ngả xuống, khéo léo che đi chỗ hổng lộ ra vì thiếu sách. Chu Tử Thư lặng lẽ chỉnh lại chỗ sách đó, đảm bảo cái hốc được che kín, rồi mới cười với Cung Tuấn: "Sư huynh muốn đọc gì nữa không?"

Cung Tuấn tựa như không phát hiện ra hành động mờ ám của Chu Tử Thư, chàng nói: "Vừa nãy hình như còn thấy một quyển tiểu thuyết chí quái từ triều đại trước."

Chu Tử Thư ngạc nhiên: "Sư huynh cũng thích đọc tiểu thuyết chí quái à?"

Cung Tuấn hỏi ngược lại: "Chẳng phải tiểu sư đệ cũng thích nên mới giữ một quyển sao?"

Chu Tử Thư: "Đệ ngẫu nhiên bắt gặp, thấy tên truyện khá thú vị nên mới mua về đọc thử."

"Thì ta cũng thế mà."

Chu Tử Thư tự biết so tài ăn nói, mười cậu cộng lại cũng không thắng nổi CungTử Phong. Cậu xếp sách ngụy trang xong bèn ngồi lên giường với chàng, hai huynh đệ ôn chuyện quá khứ.

Hôm nay là lần đầu Chu Tử Thư kể chuyện hồi mười ba tuổi được xem bức tranh Phó Vị vẽ, Cung Tuấn vịnh thơ.

Cung Tuấn hết sức ngạc nhiên: "Có chuyện đấy kia à?"

Chu Tử Thư thấy sư huynh bất ngờ thì mở cờ trong bụng. Khiến CungTử Phong giật mình nào phải chuyện chơi? Cậu hãnh diện nói: "Vâng. Hồi đó đệ còn chưa biết Điêu Trùng Trai Chủ là tiên sinh, nhưng ngay lúc thấy chữ viết tay của sư huynh, đệ liền thuộc luôn cái tên CungTử Phong. Nhắc đến mới nhớ, hồi xưa đệ còn nghĩ mãi xem tên của sư huynh có nghĩa gì cơ."

Tử Phong là tự của Cung Tuấn, còn Tuấn là tên của chàng.

Theo lẽ thường, tự của người xưa bao giờ cũng có hàm nghĩa riêng, mang theo niềm hi vọng trưởng bối gửi gắm cho Cung Tuấn, và sẽ có liên quan đến tên của chàng.

Ví dụ như Khổng Tử có tên là Khâu, tự là Trọng Ni. Trọng có nghĩa là thứ hai; Khổng Tử là con thứ hai trong nhà, nên tự của ông là Trọng Ni. Lại ví như Khuất Nguyên có tự là Bình. "Nguyên" là tên gọi của vùng đất "bằng phẳng"; tức là tên và tự có liên quan đến nhau.

Tự của Cung Tuấn là Tử Phong, hồi Chu Tử Thư mười ba tuổi đã vụng trộm nghĩ rằng, "Tử" là mỹ từ3 thôi chứ không có ý nghĩa sâu xa, tự thật của Cung Tuấn là chữ "Phong" kia.

[3] "Tử" chỉ đàn ông con trai

Phong, vừa có nghĩa là tươi tốt, vừa có nghĩa là dồi dào, vừa có nghĩa là đẹp đẽ.

Nhẽ nào cái anh chàng CungTử Phong này đẹp trai lạ thường, nên mới có tên tự là "Phong"?

Thực tế chứng minh, sau này khi gặp Cung Tuấn lần đầu, Chu Tử Thư quả thực đã bị diện mạo của sư huynh nhà mình hớp hồn. Nhưng Chu Tử Thư luôn cảm thấy đó chưa phải là lời giải thích đúng.

Cung Tuấn cố tình tỏ ra huyền bí: "Thế đệ đoán là gì nào?"

Chu Tử Thư lại nịnh theo bản năng: "Đệ nghĩ, sư huynh ắt phải là người phong thần tuấn lãng lắm, nên mới được đặt tự là 'Tử Phong'."

Cung Tuấn: "Đoán vậy cũng đúng."

Chu Tử Thư: "..."

Ngài thiếu khiêm tốn quá đi mất thôi ạ.

"Hồi trước tiểu sư đệ có nói, đệ đoán được rằng chữ 'Tuấn' trong tên ta – Cung Tuấn, được lấy từ bài thơ 'Tuấn Vị' trong Kinh Thi. Sông Tuấn, sông

Vị là hai nguồn nước dồi dào. Năm ta ra đời, cha ta một mình làm quan ở Giải Châu – nơi có con sông Tuấn cắt qua. Năm ấy, nước sông Tuấn đầy ăm ắp nhưng không gây ngập lụt nên hai bên bờ được vụ mùa bội thu. Cha ta có công cai quản Giải Châu, được Thánh thượng ban thưởng. Ta chào đời vào đúng thời điểm ấy. Ở Giải Châu, nhận được thư nhà từ Lang Gia Cungthị, cha ta bèn đặt luôn chữ 'Tuấn' làm tên cho ta."

Cung Tuấn ngâm thơ: "Dòng sông Vị với sông Tuấn, thuỷ triều vào khoảng mùa xuân dẫy đầy. Cũng vì thế, khi ta làm lễ đội mũ trưởng thành thì được đặt tự là 'Phong', với ước nguyện dòng sông Tuấn năm nào cũng dồi dào, vạn dặm được ấm no."

Ai cũng thích nghe kể chuyện, Cung Tuấn kể chuyện còn hay ơi là hay, Chu Tử Thư nghe chàng kể hết mà vẫn thòm thèm.

Chu Tử Thư: "Không ngờ tên và tự của sư huynh có nguồn gốc sâu xa như thế."

Cung Tuấn: "Ta còn nhớ, tiểu sư đệ từng đọc bài thơ 'Tuấn Vị' cho ta nữa cơ."

Nghe thế, Chu Tử Thư thấy có gì đó sai sai.

Thế nào gọi là ta đọc 'Tuấn Vị' cho huynh nghe?

'Tuấn Vị' là bài thơ tình nổi tiếng trong Kinh Thi, là lời thổ lộ tình yêu trai gái dành cho nhau. Đọc bài thơ này cho ai tức là tỏ tình với người ấy! Bốn năm trước, đúng là cậu từng đọc bài thơ này cho CungTử Phong nghe, nhưng cậu chỉ đọc vì nó có liên quan đến tên Cung Tuấn, chứ đâu có ý định bày tỏ tình cảm!

Nhưng Cung Tuấn nói thế cũng không sai chỗ nào.

Chu Tử Thư ngắc ngứ: "... Đúng là đệ từng đọc bài thơ ấy cho sư huynh."

"Hôm ấy là sinh nhật ta, tiểu sư đệ còn tặng ta một miếng ngọc bội, một chiếc túi hương."

Chu Tử Thư ngẩng đầu: "Vâng?"

Ánh nến ve vuốt gương mặt đẹp tuyệt trần của CungTử Phong, cặp mắt chàng sáng và trong trẻo như tuyết lạnh trên non cao. Rồi bỗng chốc, tuyết chợt tan, để lại nét cười điềm nhiên chứa chan nơi đáy mắt. Những ngón tay của Cung Tuấn khẽ chuyển động. Một thoáng ấy, Chu Tử Thư thấy thứ gì lóa lên, cậu chăm chú nhìn theo tay phải Cung Tuấn.

Trong ánh nến lung linh, chàng Cungnhẹ nhàng nâng tay, sợi dây tua rua trượt xuống từ những ngón tay thon đẹp đẽ, phía cuối sợi dây móc vào một miếng ngọc quý trắng tinh khôi, sáng long lanh.

Một miếng ngọc đẹp đến sững sờ. Ngay cả ánh nến lờ mờ cũng không tài nào che lấp vẻ nhẵn mịn, mướt mát đầy tinh tế của nó. Miếng ngọc nhẹ nhàng đong đưa, mặt ngọc óng ánh theo từng chuyển động. Được chiêm ngưỡng nhiều ngọc ngà đá quý là thế, Chu Tử Thư vẫn phải ngây dại trước báu vật này. Theo bản năng, cái bàn tính trong bụng cậu lại bắt đầu gẩy... Miếng ngọc này đáng giá hàng đống vàng ấy chứ!

Trong đêm xuân, giọng Cung Tuấn trầm ấm dịu dàng: "Một món quà mừng sinh nhật hai mươi tuổi của em, tiểu sư đệ."

||

Tui thích đoạn đứng bên rừng trúc ngoảnh lại nói chuyện với sư huynh lắm. Lãng mạn. Một miếng ngọc bội được đấu giá sương sương 6.2 tỷ VNĐ

Chú thích

Tọa tháp; gần giống với chiếc sập của người Việt. Bên Đại Việt Cổ Phong dùng từ "tháp" để phân biệt với các loại giường ngồi của Việt Nam, song trong văn thơ và từ điển thì từ này thường được dịch là "giường" nên mình dùng "giường" :) Gốc là "phong phái" – lấy chữ Phong làm tự cho Tử Phong.

------oOo------

Chương 96

Nguồn: EbookTruyen.Net

Thiên hạ Binh mã Đại nguyên soái

Chu Tử Thư vươn đôi tay đón lấy miếng bạch ngọc cực phẩm từ Cung Tuấn.

Vàng bạc có giá, nhưng ngọc là vô giá. Bốn năm trước Chu Tử Thư đã từng tặng Cung Tuấn một miếng ngọc, miếng ngọc ấy là bảo ngọc thượng hạng mà cậu phải tìm kiếm rất lâu mới có được. Nhưng so với miếng ngọc hôm nay Cung Tuấn tặng cậu, thì miếng ngọc kia rõ là thầy đồng tay mơ gặp đại phù thủy.

Miếng ngọc bạch trên tay Chu Tử Thư lúc này đây, chỉ chạm vào thôi đã thấy ấm áp, nhẵn nhụi và êm mướt. Cứ hễ chuyển động, nền ngọc bóng bẩy sẽ loáng lên một vệt sáng lung linh, hệt như chú rồng trắng bé xíu. Tuy Chu Tử Thư không nghiên cứu sâu về ngọc và đá quý, chỉ hù được người ngoài nghề, nhưng cậu nhận ra đây là một miếng ngọc thượng hạng, được chạm trổ hết sức tài tình và công phu. Trên ngọc khắc hoa văn lưu vân bách phúc1, những đám mây trùng trùng uốn lượn thành hình Như Ý, thay cho lời chúc mọi sự vĩnh viễn được như ước ao.

[1] Mây và dơi. Dơi đồng âm với Phúc trong tiếng Trung nên rất hay xuất hiện trong các họa tiết trang trí.

"Sư huynh tặng đệ món quà quý nhường này, đệ không dám nhận." Chu Tử Thư ngẩng đầu, đẩy đưa một câu khách sáo.

Cung Tuấn: "Có phải sinh nhật năm nào của đệ ta cũng tặng quà quý thế này đâu."

Chu Tử Thư: "Ơ?"

Khoan đã, huynh nói thế là thế nào?

Theo lẽ thường, bây giờ là lúc huynh nên bảo "Sư đệ cứ yên tâm mà nhận" chứ! CungTử Phong, sao huynh có thể đổi phắt kịch bản như vậy!? Cung Tuấn giấu ý cười trong đáy mắt: "Năm nay là lễ đội mũ của đệ."

Ngụ ý rằng, mọi năm vẫn tặng đệ quà quý, nhưng không quý báu bằng năm nay. Năm nay đặc biệt hơn vì đây là quà mừng đệ trưởng thành. Sang năm sau, chúng ta lại quay về nếp cũ.

Chu Tử Thư: "..."

Cậu tiu nghỉu: "Sư huynh xuất thân Lang Gia Cungthị, gia nghiệp bề thế giàu sang, sao lại keo kiệt như vậy."

Cung Tuấn nghe thế liền xòe quạt đánh "soạt" một cái, điềm nhiên nói: "Lang Gia Cungthị nào đã đến phiên ta thừa kế? Chưa bàn tới chuyện sau này ta có được thừa hưởng nhà họ Cungkhông, kể cả có đi chăng nữa, tiểu sư đệ cũng muốn hưởng một phần gia sản của ta ư?"

Chu Tử Thư: "???"

Cái chủ đề này từ đâu chui ra vậy?

Hi vọng của Chu Tử Thư tắt ngúm, thực tình mà nói, xưa nay cậu đã bao giờ cãi thắng Cung Tuấn cái gì. So tài hùng biện chẳng bằng, chỉ đành thỉnh thoảng giả vờ làm nũng mới gỡ bí được. Chu Tử Thư bèn lấy ngay viên ngọc, miễn cho Cung Tuấn lại kiếm cớ trêu ghẹo cậu rồi tịch thu bảo ngọc về.

Trông cái điệu bộ cất ngọc nhanh thoăn thoắt của Chu Tử Thư, Cung Tuấn vừa thấy hài hước vừa thấy dễ thương quá chừng, ánh nhìn tiểu sư đệ càng say sưa hơn.

Chu Tử Thư để ý thấy điều ấy, bèn hỏi: "Sao sư huynh lại nhìn đệ thế?"

Cung Tuấn hỏi ngược lại: "Sư đệ vội cất bạch ngọc thế, có phải sợ ta tịch thu nó không?"

Chu Tử Thư nghĩ thầm, huynh tự biết thế là tốt lắm.

Cung Tuấn thở vắn than dài: "Không ngờ, trong lòng tiểu sư đệ ta lại là người như vậy. Thôi, đêm đã khuya, ta đây chẳng quấy rầy đệ nữa, về phủ." Nói đoạn, Cung Tuấn làm bộ như đau lòng lắm, quay lưng toan bỏ đi.

Trong lúc nhất thời, Chu Tử Thư không rõ CungTử Phong thất vọng thật hay đang cố tình trêu cậu, nhưng cậu không thể để Cung Tuấn đi như vậy được. Chẳng may vì chuyện này mà giữa hai người có khoảng cách thì hỏng bét. Chu Tử Thư vội vàng níu tay áo Cung Tuấn, Cung Tuấn dừng bước, ngoái đầu nhìn bàn tay đang túm áo mình.

Chu Tử Thư nói: "Trong lòng đệ sư huynh sánh ngang thần tiên, đệ tôn kính và ngưỡng mộ sư huynh đến nhường nào, đâu phải sư huynh không biết? Huynh đừng nói đệ thế!" Núi có thể đổi, sông có thể dời, nhưng vuốt mông ngựa mãi trường tồn cùng thời gian. Mở màn bằng chiêu nịnh, cấm có sai bao giờ.

Quả nhiên, nét mặt Cung Tuấn tươi lên ngay. Chàng nói với vẻ sâu xa: "Kính ngưỡng kia à?"

Chu Tử Thư thốt lên mà chẳng kịp nghĩ suy: "Lòng kính ngưỡng của đệ với sư huynh dạt dào bất tận như con sông cuồn cuộn nước, có thể ví với Hoàng Hà mùa lũ về, trào dâng không ghìm nổi."

Cung Tuấn ngây người, dường như chính chàng cũng không phản ứng kịp với một tràng ngợi ca của Chu Tử Thư.

Mãi sau Cung Tuấn mới bật cười. Chàng gập cây quạt, gõ nhẹ một cái lên đầu Chu Tử Thư, động tác dịu dàng hệt như đang dạy dỗ vãn bối mà thôi. Chàng trách: "Chín quá hóa nẫu!"

Chu Tử Thư liền tỉnh ra. Cung Tuấn đang răn cậu rằng sau này nịnh nọt phải có chừng mực, thổi phồng lên quá thì mất hay.

Chu Tử Thư gật đầu: "...Vâng."

Cung Tuấn: "Sau này đệ kính ngưỡng hơn nữa cũng được, hoặc đừng chỉ dừng lại ở kính ngưỡng."

Chu Tử Thư ngẩng đầu: "Ơ?"

Cung Tuấn ném cho cậu một ánh mắt và một nụ cười, không giải thích gì thêm, cứ thế ung dung lướt đi.

Chu Tử Thư tiễn Cung Tuấn ra khỏi phủ Thám Hoa thì trở lại thư phòng, cẩn thận suy ngẫm về câu cuối Cung Tuấn nói với cậu.

"Kính ngưỡng nhiều hơn? Đừng chỉ dừng lại ở kính ngưỡng?" Chu Tử Thư nhíu mày, chìm trong suy tư. Sau một hồi vắt óc, cậu thở dài bất lực: "Huynh hay thật đấy CungTử Phong à, chẳng khiêm tốn tí nào cả! Hơn cả kính ngưỡng ư? Lẽ nào huynh thật lòng muốn ta cung phụng huynh như cha ruột?"

Nghĩ đến đây Chu Tử Thư lại suy ngẫm, nếu cậu có một người cha như Cung Tuấn thật, nhất định cuộc sống hiện tại của cậu sẽ thảnh thơi gấp mấy.

Quẳng chuyện này ra sau đầu, nét mặt Chu Tử Thư lạnh lẽo dần. Cậu ngẩng đầu, bình tĩnh lia mắt tới góc giá sách. Thế rồi Chu Tử Thư nhấc ngọn đèn dầu trên bàn, cầm ra chỗ đó. Cậu dựng thẳng những cuốn sách nằm nghiêng về vị trí cũ, thò tay di mấy lượt lên mặt tường sau giá sách, mở một ô bí mật.

Chu Tử Thư sai Diêu Tam thuê người chế tạo riêng ô bí mật này, cơ chế mở khóa của nó cực kì tài tình, ngay cả Chu Tử Thư cũng phải cạn chén trà mới mở được ô bí mật.

Sau khi mở ngăn mật, Chu Tử Thư lấy thứ cất giấu bên trong ra.

Quay lại án thư, cậu bình tĩnh nhìn chỗ sách vở và giấy tờ bày trên mặt bàn.

Bấy nhiêu đây là tin tức mà cậu thu thập được trong suốt bốn năm qua!

Từ Khởi Cư chú của Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ, đến những hồ sơ không bị bảo mật quá nghiêm trong Đại Lý tự. Là đại quan tứ phẩm, Chu Tử Thư dễ dàng mượn danh chức vụ để nhiều lần tiếp cận với các ghi chép từ đời vua trước đến đời vua này. Ròng rã bốn năm, đến giờ cậu mới gom góp được một chút thông tin liên quan tới biến cố Thái tử ép vua thoái vị ba mươi mốt năm trước.

Cậu gồng hết sức mình, mà chỉ có thể làm được đến vậy.

Có một số việc cậu chắc chắn tuyệt đối, ví dụ như chuyện Thái tử bức vua thoái vị hoàn toàn không thể xảy ra. Nếu năm xưa Thái tử cướp ngôi thật để rồi cuối cùng bị Triệu Phụ bắn chết trong cung, Lương Tụng không đời nào khảng khái chịu chết vì Chung Thái Sinh. Năm năm trước, các đại nho không hẹn mà cùng đem cái chết tỏ chí, chính là để nói với người sau rằng, biến cố Thái tử soán ngôi chắc chẳn còn có uẩn khúc!

Thậm chí Chu Tử Thư có thể đoán được, bàn tay đằng sau vụ việc này rất có khả năng là Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ.

Nhưng ngoài những chuyện đó thì sao?

Vì cớ gì Triệu Phụ – người năm xưa chỉ là Nhị hoàng tử – lại có thể bày ra một vở kịch hết sức quy mô, lật đổ đảng phái Thái tử đương vững mạnh như mặt trời ban trưa?

Ông ta không chỉ loại bỏ được Thái tử, mà còn dẹp tan cả đảng Tùng Thanh khi ấy đang ở đỉnh cao thế lực!

"Liệu... CungTử Phong có phát hiện ra không?"

Bên kia, Cung Tuấn đã trở lại phủ Thượng thư. Chàng đem những cuốn sách lấy từ nhà Chu Tử Thư bày lên án thư.

Trong thư phòng yên ắng, ngọn đèn cầy nổ tanh tách như tiếng pháo. Cung Tuấn ngồi trên ghế Thái sư, lặng lẽ nhìn tập sách. Hồi lâu, chàng vươn tay nhấc mấy quyển tạp thư về nghệ thuật trà lên. Những cuốn sách này chàng đã đọc một lần ở phủ Thám Hoa. Với tài đọc một lần là nhớ từ bé, giờ đây khi chàng xem lại sách, từng câu từng chữ đều như khắc sẵn trong đầu.

Ấy thế mà chàng vẫn thủng thẳng lật từng trang sách, mắt nhìn theo con chữ, nhưng suy nghĩ đã dạt trôi về phương xa tự bao giờ.

Không biết bao thời gian đã trôi qua, trong thư phòng có tiếng thở dài rất trầm.

Nửa canh giờ sau, thư đồng nghe lệnh vào thư phòng, Cung Tuấn giao cho người ấy một phong thư, lãnh đạm nói: "Gửi về nhà họ Cungphủ Kim Lăng."

Người thư đồng sửng sốt: "Công tử, trời đã tối, ban đêm cấm đi lại trong thành, có nên để mai hẵng đưa không ạ?"

"Dùng lệnh của Thượng thư bộ Hộ, gửi ngay trong đêm nay."

"Vâng."

Ngày mười bốn tháng ba, Chu Tử Thư rời khỏi Thịnh Kinh.

Chuyến này Chu Tử Thư đi U Châu chỉ dẫn theo mỗi thư đồng Phụng Bút. Xe ngựa lộc cộc lăn bánh ra ngoài cổng thành, thẳng đường lên Tây Bắc.

Từ Thịnh Kinh đến U Châu, ngựa khỏe dồn roi cũng phải mất một ngày rưỡi. Chu Tử Thư đi xe ngựa, nhanh nhất cũng tốn năm sáu ngày. Xe ngựa chẳng bằng ô tô thời hiện đại, đường xá thời này cũng không làm bằng bê tông mà được lát bằng đất đá nghiền vụn. Cuốc xe ngựa xóc nảy đến nỗi cặp mông của Chu Tử Thư đau ê ẩm. Đến tối viết thư nhà gửi về kinh, cậu nghĩ ngợi một lát, cố tình thêm vào một câu.

"....Việc lúc trước cậy nhờ Diêu Tam là chuyện hết sức hệ trọng, nhất thiết phải đặt lên hàng đầu."

Viết thư xong, Chu Tử Thư xoa bóp cổ tay, than thở: "Đường xá kiểu này nào phải cho người đi!"

Người ta hay nói các quan bị biếm trích đến những nơi hoang vu xa vắng thường hay phải chết ở nơi đất khách quê người, như chiếc lá chẳng được rụng về cội. Nhận xét ấy không hề vô căn cứ. Vốn nguồn cơn của việc bị cách chức thường đã là chuyện khiến con người ta uất ức tủi nhục, người xưa đôi khi không nghĩ thoáng, dễ lâm vào cảnh buồn bực kém vui, lâm bệnh mà mất. Còn như người nào lòng dạ rộng rãi, lạc quan độ lượng, dầu không suy sụp vì chuyện biếm trích thì cũng phải đối mặt với vô vàn gian khổ trên con đường đến làm quan ở miền hẻo lánh. Những khốn khó trên đường giống như chín chín tám mươi mốt kiếp nạn, chẳng may thân thể yếu, có khi chưa tới nơi nhậm chức đã lìa đời.

Phụng Bút đồng tử nói: "Công tử à, từ khi có quan đạo mới, đường đến U Châu dễ dàng hơn trước nhiều." Chu Tử Thư thở dài.

Đúng thế, nếu Triệu Phụ không xây con đường này, thì hành trình đến U

Châu càng gian nan gấp bội.

Sáu ngày sau, Chu Tử Thư đến U Châu.

Vào tháng ba, Thịnh Kinh đã có liễu xanh nảy mầm, cả thành bừng bừng sắc xuân. Trái lại, ở thành U Châu tít miền Tây Bắc Đại Tống, cảnh tượng vẫn nhuốm màu lạnh lẽo. Gió cuốn theo cát bụi thốc vào mặt, rát bỏng như cạo gió. Trời rất lạnh, Chu Tử Thư mặc áo choàng dày sụ, lặng lẽ vào thành.

Chu Tử Thư vào thành U Châu mà không làm kinh động đến bất cứ quan viên nào, nhưng sau khi cậu vào thành, phủ nha U Châu liền nhận được tin báo ngay.

Phủ doãn phủ U Châu họ Quý, tên là Triệu Tư, tiến sĩ khoa thi năm Khai Bình thứ sáu. Chức phủ doãn là quan văn tứ phẩm, nhưng ở phủ này, người có chức cao nhất không phải phủ doãn, mà phải là Thiên hạ Binh mã Đại Nguyên soái Chu Thái Sư – bậc nhất phẩm!

Đại Tống không chỉ phế bỏ chế độ Tam Ty của triều đại trước mà còn bỏ hẳn chức Thái sư. Từ thời Thái Tổ, Đại Tống chỉ có đúng ba vị Thái sư, nhưng họ chỉ được ban tặng hàm tước Thái sư khi qua đời và được truy phong thụy hiệu. Riêng Thiên hạ Binh mã Đại Nguyên soái thì khác. Ông là Thái sư còn sống duy nhất trong lịch sử Đại Tống hơn một trăm năm qua.

Năm Khai Bình thứ mười, Đại Nguyên soái có công cầm quân đại thắng quân Liêu, thúc đẩy việc kí kết hiệp ước hòa bình giữa hai nước.

Triệu Phụ vui mừng khôn xiết. Ngày Đại Nguyên soái khải hoàn về kinh,

Triệu Phụ đích thân ra ngoài thành nghênh tiếp, hứa hẹn sau này khi Đại Nguyên soái trăm tuổi sẽ phong cho cho ông làm Thái sư. Thế nên tuy hiện tại Đại nguyên soái chưa phải là Thái sư, nhưng việc mai đây ông được phong Thái sư là chuyện ván đã đóng thuyền.

Quan văn ở thành U Châu phần lớn có phẩm cấp làng nhàng, nhưng quan võ cũng chẳng khá hơn là mấy. Tuy vậy, Đại nguyên soái rất hiếm khi về thành U Châu mà chủ yếu ở doanh trại năm này qua năm khác.

Chu Tử Thư đến dịch quán U Châu, quan ở dịch quán đã chờ cậu từ sớm. Chu Tử Thư vừa ổn định nơi nghỉ thì một viên quan phụ trách dịch quán đến bẩm báo rằng có người tới bái phỏng.

Chu Tử Thư lấy làm lạ, đến khi thấy mặt vị khách ấy, cậu lập tức bước tới vái chào.

"Hạ quan bái kiến Chinh Tây Nguyên soái."

Lý Cảnh Đức mặc quân phục, đội mũ điêu, chân xỏ ủng, khoác áo choàng trắng, dáng dấp oai vệ hiên ngang. Chỉ có mỗi một thứ cản trở tầm mắt người ta, ấy là bộ râu quai nón sum suê của hắn. Vừa gặp Chu Tử Thư, Lý Cảnh Đức đã cười giòn giã: "Đường đại nhân vẫn khách khí với bản tướng quân thế kia à? Không cần hành lễ đâu. Hôm nay ta vừa nghe tin Đường đại nhân đến thành U Châu thì đi từ quân doanh đến ngay. Lâu không gặp, Đường đại nhân vẫn khỏe chứ?"

Chu Tử Thư đáp: "Đa tạ tấm lòng của tướng quân, hạ quan vẫn khỏe."

Lý Cảnh Đức cười: "Hồi trước, Thịnh Kinh không phải địa bàn của ông đ... của bản tướng quân, bản tướng chỉ có thể cậy nhờ ngươi chiếu cố. Giờ ngươi đã đến thành U Châu – địa bàn của Lý Cảnh Đức ta đây, hễ có việc gì cứ hô tên bản tướng, khỏi phải bận tâm nhé."

Khóe môi Chu Tử Thư máy một cái, nghĩ thầm: Ta đến đây để đôn đốc ty Ngân Dẫn chứ có phá nhà cướp của, làm xằng làm bậy gì đâu? Làm sao mà gặp rắc rối được?

Bụng nghĩ thế nhưng ngoài mặt Chu Tử Thư nói: "Hạ quan đa tạ tướng quân!"

Lý Cảnh Đức hào phóng khoát tay: "Hầy, nói chi vậy!"

||

Nói trước khó bước qua nha Chu Tử Thư.

Chú thích

Họa tiết lưu vân bách phúc

Quá do bất cập – xuất phát từ Luận ngữ

10 phút. Phương pháp tính thời gian cổ nên để nguyên cho có không khí ^^

------oOo------

Chương 97

Nguồn: EbookTruyen.Net

Thành U Châu

Kì thực, Lý Cảnh Đức không hề rảnh rỗi chút nào. Vì Chu Tử Thư chân ướt chân ráo đến U Châu nên hắn mới bớt chút thì giờ tạt qua dịch quán chào hỏi. Chuyện trò mấy câu, hắn cũng không thăm dò xem Chu Tử Thư tính làm gì, chỉ bảo: "Ta đã nhận chỉ của Thánh thượng từ tháng trước, ngươi muốn làm gì cứ làm thoải mái đi. Có xảy ra sai sót khiến Đại nguyên soái khiển trách cũng không nghiêm trọng đâu."

Nghe thế, Chu Tử Thư quả có chút kinh ngạc. Sau một thoáng im lặng, cậu đáp: "Đa tạ Lý tướng quân."

Lý Cảnh Đức không nán lại lâu, chỉ một lúc sau là đi.

Ngoài miệng, Lý Cảnh Đức hay tự nhận mình là phường vũ phu thô thiển.

Song hắn làm đến chức Nguyên soái nhị phẩm, há có thể là người ngu dốt?

Lần này, tuy Lý Cảnh Đức không biết mục đích thật của Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn là gì, nhưng hắn biết nhiệm vụ của cả hai không hề đơn giản, bèn tạo điều kiện cho Chu Tử Thư được thỏa sức hành động.

Đại trí giả ngu, đơn giản là thế đấy.

Mới sang buổi chiều, Chu Tử Thư lại có khách đến thăm. Cậu tiếp khách ở gian nhà chính.

Trong nhà, một người đàn ông trung niên với dáng người thẳng thắp đang đứng chờ. Ngoài sân nhà có tám lính canh xếp hàng tề chỉnh; những mũi giáo của họ lạnh lẽo, loang loáng sát khí. Tám người lính đứng nghiêm như đá như tùng, không mảy may xê dịch. Chu Tử Thư vừa bước vào sân, tám người đồng loạt đặt tay lên giáo. Chỉ khi thấy rõ Chu Tử Thư, họ mới thả tay ra, mặt không biến sắc.

Chu Tử Thư đi vào phòng, đón lấy một tia nhìn sắc lẻm từ người đàn ông trung nhiên. Tiếng người ấy sang sảng như chuông: "Mạt tướng Lư Thâm bái kiến Khâm sai đại nhân."

Chu Tử Thư đến U Châu với danh nghĩa Khâm sai, vờ như đi giám sát ty Ngân Dẫn.

Chu Tử Thư: "Thì ra là Lư tướng quân, mời ngồi."

Lư Thâm liếc Chu Tử Thư một cái, lẳng lặng ngồi vào chỗ.

Chu Tử Thư nói: "Ban đầu, đáng lí ta phải đến U Châu từ tháng hai. Cuối cùng thành ra Lư tướng quân phải đợi cả tháng."

"Khâm sai đại nhân quá lời."

Chu Tử Thư: "Trong tháng vừa qua, Lư tướng quân có làm gì không?"

Lư Thâm đáp: "Từ khi nhận được thánh chỉ, mạt tướng dẫn binh đến ty Ngân Dẫn ngay. Thứ nhất là đảm bảo an toàn cho ty Ngân Dẫn, thứ hai là phụ giúp đại nhân đốc tra."

Chu Tử Thư có chút ngạc nhiên: "Lư tướng quân đến ty Ngân Dẫn rồi à?"

Lư Thâm hờ hững đáp: "Vâng."

Chu Tử Thư nhíu mày nhìn Lư Thâm.

Lư Thâm nói: "Mạt tướng dẫn theo tám binh sĩ đến gặp Khâm sai đại nhân, để lại mười người ở ty Ngân Dẫn. Không dám giấu đại nhân, một tháng trước, mạt tướng bất ngờ nhận được thánh chỉ, vẫn chưa hiểu rốt cuộc phải sắp xếp thế nào. Mong đại nhân có thể giải thích rõ."

Chu Tử Thư nói: "Chuyện ấy phải chờ ta bàn bạc với Tô đại nhân đã rồi mới thống nhất được. Tạm thời Lư tướng quân cứ về đi."

Lư Thâm im lặng trong chốc lát rồi đứng lên chắp tay chào Chu Tử Thư, ra về.

Lư tướng quân vừa dời gót, Chu Tử Thư đã thấy nhức hết cả đầu, thở dài thườn thượt.

Tòa thành U Châu này cũng đầy rẫy hiểm nguy chẳng thua gì Thứ Châu năm xưa!

Những tháng ngày làm Khởi cư lang của Chu Tử Thư đã xa rồi. Hiện giờ cậu là Trung thư xá nhân hàm tứ phẩm, phẩm cấp cao hơn trước một bậc đã đành, quan trọng hơn, cậu là tâm phúc của hoàng đế ở điện Cần Chính. Lần này cậu không phải làm tai mắt cho hoàng đế như hồi ở Thứ Châu, cũng không đến làm bia đỡ đạn cho bất cứ ai hết. Chính cậu sẽ đóng vai trò chủ đạo trong nhiệm vụ lần này. Đương nhiên, Triệu Phụ không để Chu Tử Thư đơn thương độc mã một cách vô ích; ông chỉ thị cho quân lính thuộc đại doanh U Châu đến giúp sức cho cậu.

Người vừa ghé qua chính là Tham tướng Lư Thâm của doanh trại U Châu, hàm lục phẩm.

Hồi nãy, liếc mắt một cái là Chu Tử Thư biết ngay Lư Thâm bất mãn với mình. Chuyện đó rất kì lạ, vì Chu Tử Thư mới gặp Lư Thâm lần đầu, hai người không thù không oán, không có lí do gì để Lư Thâm phải ôm thái độ thù địch. Chu Tử Thư đăm chiêu suy nghĩ, chỉ biết đoán rằng: "Chắc gã chẳng muốn dây vào cái chuyện xúi quẩy này chăng?" Nói đoạn, Chu Tử Thư lắc đầu cười khổ.

Ai mà biết vì sao cậu vừa tới U Châu đã xích mích với thuộc hạ!

Nhưng Chu Tử Thư không phải chờ lâu để có câu trả lời. Chạng vạng hôm đó, lại có người đến dịch quán xin gặp Chu Tử Thư. Lần này người ghé thăm không thuộc hàng ngũ quan võ vốn nhan nhản trong thành U Châu, mà là quan văn chính hiệu. Được gặp Chu Tử Thư, người ấy cúi mình vái chào trước, tươi cười thưa: "Hạ quan Lâm Hủ, Ty Chính ty Ngân Dẫn, xin bái kiến Đường đại nhân. Hạ quan biết đại nhân đến từ sớm, ngặt nỗi ty Ngân Dẫn nhiều việc quá, mãi đến giờ hạ quan mới tới bái kiến đại nhân được."

Chu Tử Thư sửng sốt: "Thì ra là Lâm đại nhân. Lâm đại nhân tới đây có việc gì thế?"

Lý Cảnh Đức quen Chu Tử Thư nên mới đến gặp cậu; Lư Thâm thì không có lựa chọn nào khác, phải miễn cưỡng mà đến. Còn Lâm Hủ tìm cậu vì lí do gì, Chu Tử Thư hoàn toàn không đoán được.

Chỉ thấy Lâm Hủ mỉm cười, khẽ giọng nói một cách bí ẩn: "Hồi còn làm quan ở Thịnh Kinh, hạ quan từng có vinh hạnh được gặp Cungtướng công."

"Hữu tướng CungThuyên đó ư?"

"Là Thượng thư bộ Hộ Cung Tuấn kia ạ."

Môi Chu Tử Thư mấp máy, cậu ngỡ ngàng nhìn Lâm Hủ, không biết nói sao mới phải.

Lâm Hủ cười: "Trước khi Đường đại nhân tới, hạ quan đã nắm được tin tức rồi. Khổ nỗi, hạ quan tưởng đại nhân đến từ hôm qua, nên từ hôm qua đã sửa soạn tiệc rượu tẩy trần trong thành cho đại nhân. Hôm nay, ty Ngân Dẫn mới tiếp nhận một khoản lương bổng cho binh sĩ, hạ quan làm việc không ngơi tay, không tài nào ra cổng thành đón đại nhân cả. Tội ấy đáng trách lắm! Đại nhân mới đến đây, nếu có chỗ nào chưa tường tận, hạ quan xin được dẫn đại nhân đi xem xét, và xin giải thích cặn kẽ cho đại nhân."

Khi Lâm Hủ tự giới thiệu là thuộc hạ của Cung Tuấn, Chu Tử Thư gần như tin chắc. Nếu không phải thuộc hạ của Cung Tuấn, Lâm Hủ còn lâu mới cả gan nói không thành có. Bằng không, Cung Tuấn không đời nào giao chức Ty Chính ty Ngân Dẫn cho Lâm Hủ.

Chu Tử Thư suy nghĩ đôi chút, hỏi: "Ngươi có biết Lư Thâm không?"

Nét mặt Lâm Hủ trông khá kì lạ: "Đương nhiên hạ quan biết."

"Sao, có chuyện gì không ổn à?"

"Tướng quân Lư Thâm dẫn theo khoảng hai mươi binh sĩ, đóng quân ở ty Ngân Dẫn của chúng ta đã một tháng nay rồi!"

Chu Tử Thư ho nhẹ một cái, kể chuyện Lư Thâm đến bái phỏng mình hôm nay rồi hỏi: "...Lâm đại nhân có biết, tướng quân Lư Thâm ấy là người thế nào không?"

Thuộc hạ của Cung Tuấn tất nhiên phải là người nhạy bén. Tuy Chu Tử Thư chỉ nói chung chung, nhưng Lâm Hủ biết ngay rằng cậu muốn biết lí do Lư Thâm không vừa mắt cậu. Lâm Hủ bèn nói: "Đường đại nhân không biết đấy thôi, Lư tướng quân hành xử như thế mới là bình thường. Lư tướng quân không phải người Đại Tống, mà là quy chính nhân!"

Chu Tử Thư nhíu mày, bình tĩnh liếc Lâm Hủ một cái, gật đầu: "Người ấy là quy chính nhân thật sao?"

"Chính vậy. Thành U Châu khác Thịnh Kinh và các châu phủ còn lại của Đại Tống. Ở đây, tướng võ nhiều hơn quan văn, mà ở phe tướng võ, quy chính nhân lại chiếm đa số. Lư Thâm nổi tiếng là kẻ khó nhằn nhất trong nhóm quy chính nhân." Lâm Hủ nói, "Trước khi ty Ngân Dẫn được thành lập, hạ quan đang làm quan ở thành U Châu nên có biết sơ sơ về các quan võ. Lư Thâm bốn mươi hai tuổi, sức vóc hơn người nên được đề bạt làm Tham tướng hàm lục phẩm. Tiếc thay, y là kẻ hữu dũng vô mưu, nên chưa bao giờ được trọng dụng. Mặc dù vậy, y vẫn được nhiều người biết đến vì là một trong những quy chính nhân hiếm hoi ghét quan văn!"

Chu Tử Thư: "Ghét quan văn ư?"

"Chuyện này nói ra thì dài lắm, hạ quan chẳng dám dông dài với Đường đại nhân. Mấy năm gần đây, Lư Thâm và các quan văn trong thành U Châu hục hặc suốt, hai bên đều không vừa mắt nhau. Không dám giấu đại nhân, hạ quan cũng từng đụng độ Lư Thâm mấy lượt, bởi trước đây Lư Thâm lãnh việc quản lí cổng thành. Có hai nguyên nhân đơn giản khiến hắn không thích đại nhân. Thứ nhất, hắn vốn không ưa quan văn, nhất là quan văn người Tống; thứ hai, hắn quản lí cổng thành U Châu ngần ấy năm, cái chức ấy ở thành này có lợi lộc gì không, thiết nghĩ hạ quan không cần nhiều lời, đại nhân cũng hiểu. Thế nên..."

Lâm Hủ đã nói hết những gì có thể nói. Nguyên nhân sâu xa của sự việc, nhất thiết phải tự hiểu trong lòng.

Chu Tử Thư không tiếp tục chủ đề này nữa, chỉ thở dài, hỏi: "Lâm đại nhân có thể dẫn ta đi tham quan thành U Châu không?"

"Tất nhiên, mời đại nhân."

Hai người cùng ra khỏi dịch quán.

Thành U Châu nằm ở Tây Bắc đại Tống, đâu đâu cũng thấy cát vàng, ngay cả nền trời xanh cũng bị che phủ.

Chu Tử Thư đi trong thành U Châu, thấy người dân trên đường hầu hết đều bọc kín tóc bằng vải sợi gai, cả nam lẫn nữ. Ở U Châu nhiều cát kinh khủng, nếu không lấy vải quấn tóc, chưa hết ngày cát đã đầy đầu. Chu Tử Thư mới tới U Châu nên không biết mà chuẩn bị, nghe Lâm Hủ nhắc mới lần lên đầu, quả nhiên tay lổn nhổn toàn cát.

Lâm Hủ dẫn Chu Tử Thư dạo quanh thành U Châu khá lâu, đến khi trời tối mịt hai người mới về dịch quán."

Lâm Hủ: "Ngài mai Đường đại nhân có định đến ty Ngân Dẫn không?"

"Ta đang muốn đi đây."

"Vậy hạ quan xin chờ đại nhân ở ty Ngân Dẫn." Hai người bèn hàn huyên thêm một lúc.

Chu Tử Thư về đến dịch quán thì đã qua giờ lên đèn từ lâu, Tuấng sáng rực rỡ cả vòm trời. Trong dịch quán rộng thênh thang, chỉ có mỗi hai sai dịch đang lom khom quét sân và một sai dịch đầu quấn khăn vải, xách bình nước đi tưới cây. Ở những vùng như U Châu, nếu không quét tước thường xuyên thì chỉ mấy chốc là mặt đất phủ đầy cát.

Chu Tử Thư đi ngang qua sân, đang định vào nhà thì bỗng khựng lại.

Cậu xoay người nhìn cái gã sai dịch tưới cây trong sân.

Gã sai dịch này phải cao trên năm thước1, người thanh mảnh, đội một cục khăn vải dày sụ trên đầu, quấn cả xuống mặt, chỉ để lộ mỗi hai mắt. Hiện giờ, gã đang chăm chú tưới nước cho cây, nào có ngó ngàng gì đến Chu Tử Thư. Tất nhiên, phải quan sát kĩ mới phát hiện, gã sai dịch này sở hữu đôi mắt hoa đào diễm lệ, đuôi mắt bén nhọn, cặp lông mày thấp thoáng dưới lần khăn vải trông sắc nét và gọn gàng. Gã cứ cúi đầu tưới cây mãi, trời lại tối, thế nến chẳng ai để ý tới gã.

[1] Trên 167cm

Nhưng gã làm sao giấu được tấm lưng không quen khom cúi và vòng eo thon hơn hẳn hai người sai dịch quét sân?

Chu Tử Thư đứng nguyên trước cửa phòng nhìn gã sai dịch nọ.

Hồi lâu sau, cậu mới cất tiếng gọi: "Tô đại nhân đến từ bao giờ thế?"

Gã sai dịch dừng tưới cây, quay lại cười một cái: "Đường đại nhân phát hiện ra ta từ lúc nào vậy?

Chu Tử Thư điềm nhiên hành lễ: "Hạ quan Chu Tử Thư bái kiến Tô đại nhân."

Tô Ôn Duẫn tiện tay lẳng cái bình tưới đi, làm nó lăn lạch cạch trên đất. Anh ta chẳng buồn cởi khăn trùm tóc và che mặt, sải bước đến trước cửa, mặt đối mặt với Chu Tử Thư. Tô Ôn Duẫn nói: "Dĩ nhiên ta phải đến đây từ tháng trước rồi, ai như Đường đại nhân, chẳng biết vì duyên cơ gì mà nán lại Thịnh Kinh đến cả tháng. Quả nhiên Thánh thượng rất quyến luyến Đường đại nhân, thành thử lúc nào đại nhân cũng làm nên những chuyện ít ai ngờ."

Chu Tử Thư chẳng bận tâm đến lời châm chọc của anh ta, nói: "Vì sao Tô đại nhân phải giả trang?"

Tô Ôn Duẫn không đáp, chỉ phủi tay rồi quay gót về phòng mình.

Chu Tử Thư nghĩ ngợi giây lát, hô lên: "Chẳng lẽ Tô đại nhân đang giám thị hạ quan?"

Tô Ôn Duẫn dừng bước, ngạc nhiên quay lại hỏi: "Sao ngươi lại nghĩ thế?"

Chu Tử Thư nhủ thầm: Tô Ôn Duẫn ơi, người ta còn lạ gì anh? Anh đường đường là đại quan tam phẩm của triều đình, tâm phúc của hoàng đế, gần gũi với bệ hạ gấp mấy lần ta. Nếu không cần giám thị ta, tội gì mà anh phải ăn mặc rách rưới tưới cây trong sân như thế?

||

Tô đại nhân của chúng ta có vẻ bé bỏng nhỉ 😊

------oOo------

Chương 98

Nguồn: EbookTruyen.Net

Quan hệ gia đình

Tuy ít khi cố ý phô bày thể hiện, nhưng Tô Ôn Duẫn cũng là con nhà danh môn thế gia giống Cung Tuấn, tác phong rất mực cao nhã, hơn xa người thường. Ví dụ như hồi nãy anh ta xách cái bình tưới cây, tuy đã che mặt bằng khăn vải, nhưng khi đi ngang qua anh ta, Chu Tử Thư vẫn phát hiện được sự khác thường.

Tô Ôn Duẫn xưa nay quen gấm vóc lụa là, sao tự dưng lại cải trang bần hàn đến tưới cây trước phòng Chu Tử Thư cơ chứ?

Chu Tử Thư hiểu nhưng giữ kín trong lòng, hờ hững nói: "Hạ quan chỉ tiện miệng thôi."

Tô Ôn Duẫn săm soi Chu Tử Thư một hồi, nhếch mép: "Ta cũng tình cờ tạt qua thôi ấy mà."

Chu Tử Thư: "..."

Tô Ôn Duẫn: "Đường đại nhân có vấn đề gì khác không?"

"Không."

Tô Ôn Duẫn chỉ cười một tiếng rồi rời đi luôn.

Chu Tử Thư nhìn theo anh ta đến khi bóng lưng Tô Ôn Duẫn biến mất sau cánh cổng nhỏ của tòa viện. Hồi lâu sau cậu mới lắc đầu, nghĩ bụng rõ nực cười, mà cũng chả biết làm sao. Tay Tô Ôn Duẫn này rỗi hơi thật! Anh ta cố ý chờ cậu ở chỗ này, hẳn là để rình xem cậu đến U Châu thì gặp những ai đây mà!

Hiện tại, thành U Châu là địa bàn của doanh trại U Châu và ty Ngân Dẫn.

Xét trong hai thế lực này thì doanh trại U Châu là sân nhà của Thiên hạ Binh mã Đại nguyên soái, Lý Cảnh Đức cũng coi như nắm nửa quyền hành. Chiếu theo thái độ giữa Lý Cảnh Đức và Tô Ôn Duẫn hồi ở Thịnh Kinh, quan hệ giữa hai người kiểu gì cũng như nước với lửa. Về phần ty Ngân Dẫn thì từ trên xuống dưới đều thuộc quyền kiểm soát của Cung Tuấn. Quan hệ giữa Tô Ôn Duẫn với Cung Tuấn không thể nào khá khẩm hơn quan hệ giữa anh ta và Lý Cảnh Đức được.

Vì những lí do trên, Tô Ôn Duẫn đến U Châu từ tháng hai mà tới tận bây giờ vẫn chưa làm được gì mấy.

Năng lực của Tô Ôn Duẫn là chuyện không cần bàn cãi, nhưng ở U Châu anh ta là người thế đơn lực bạc, không sai phái được ai, thành thử muốn làm gì cũng khó.

Chu Tử Thư vào phòng, thắp đèn dầu bằng dụng cụ đánh lửa. Nhìn ngọn lửa bập bùng, cậu thở dài một hơi.

Giờ cậu mới hiểu, nhiệm vụ kia chỉ là một trong những lí do Triệu Phụ phái cậu đến U Châu thôi. Điều ông ta mong muốn hơn cả là cậu phải hỗ trợ cho Tô Ôn Duẫn!

Lợi dụng ty Ngân Dẫn để cài gián điệp vào nước Liêu vốn là đề xuất của Chu Tử Thư, song cậu biết Tô Ôn Duẫn dày dạn kinh nghiệm hơn mình nhiều. Tiếc rằng ở thành U Châu thân cô thế cô, anh ta chẳng thi triển được bản lĩnh. Thế nên, Triệu Phụ bèn phái cậu đi cùng để hợp sức với anh ta.

Hơn nữa, Chu Tử Thư là vây cánh của Cung Tuấn, cậu và Tô Ôn Duẫn có thể giám sát chéo lẫn nhau.

Hai người hợp lại tạo nên thế cân bằng hoàn hảo.

Tâm tư của Triệu Phụ như rãnh vực thẳm im lìm và tối tăm. Dưới đáy vực là một con rồng vĩ đại, thoạt trông như đang say giấc nồng. Thân rồng cuộn tròn, đầu ngẩng lên từ khe sâu, quan sát toàn bộ những biến động ngoài kia qua đôi con ngươi lạnh lẽo.

Thịnh Kinh, một tiểu viện yên tĩnh ở ngoại ô thành.

Tiểu viện này được xây trong một rừng trúc tươi xanh và u tĩnh, bề ngoài trông không mấy bắt mắt, phải vào trong mới biết là cõi tiên động trời. Núi giả nguy nga, đá lân1 khí phách; nhịp cầu bé xinh, êm đềm nước chảy. Cả tòa viện đậm đà hơi thở Giang Nam. Những hành lang uốn khúc lượn quanh như dòng sông bất tận; lối đi với lan can chạm trổ được xây liền mạch, dẫn vào tòa đình nho nhỏ mang dáng vẻ thảnh thơi nằm biệt lập ở trung tâm hồ nước.

[1] Đá với hình thế lởm chởm, mô phỏng núi. Thể hiện khí phách, sự cứng cỏi.

Cung Tuấn mặc áo gấm, khoác bào trắng. Vén tay áo lên một chút, chàng nhấc ấm bằng một tư thế rất đẹp và tao nhã, thong thả pha trà. Cách pha trà của Cung Tuấn mới khéo léo làm sao! Chỉ ngắm thao tác thuần thục của chàng thôi đã thấy trong người thảnh thơi khoan khoái. Chàng dịch chén trà trên bàn đến trước mặt người ngồi đối diện. Người ấy nâng chén bằng cả hai tay, hớp một hớp thưởng thức.

Hữu tướng đương nhiệm CungThuyên mỉm cười: "Tuyệt."

Cung Tuấn cười đáp: "Nhị thúc tổ quá khen."

CungThuyên nói: "Nhắc đến mới nhớ, đã nửa năm rồi ta mới đến tiểu viện Lưu Kỳ của con. Sông Tuyền cuồn cuộn chảy đi, lướt xuôi nhập với sông Kỳ ra xa. Sao hôm nay con lại muốn sang đây?"

Cung Tuấn: "Đợt trước con mới chuyển một tảng đá Thái Hồ từ phủ Cô Tô về ạ."

CungThuyên: "Ồ? Đặt ở đâu rồi?"

Cung Tuấn chỉ một tảng đá lớn với dáng nghiêng trên mặt hồ.

CungThuyên đứng dậy bước ra ven đình, ngắm nghía rồi bình phẩm:

"Tảng đá này hình thù độc đáo, màu sắc đậm đà, chất đá đẹp đồng đều,

Quật Lung Thạch thế này là xuất sắc đấy. Tên của nó là gì?"

Cung Tuấn: "Nó còn chưa có tên."

"Con có muốn nhị thúc tổ đặt tên cho nó không?" CungThuyên vui miệng hỏi.

Ông hỏi vậy cũng là hỏi chơi thôi. Tiểu viện Lưu Kỳ này là tư dinh của Cung Tuấn. Mười hai năm trước, Cung Tuấn đỗ Trạng Nguyên vinh hiển, chính thức bước vào con đường làm quan. Chàng không ở lâu tại phủ Trạng Nguyên hoàng đế ban thưởng, mà chuyển vào tòa viện mà Lang Gia Cungthị ưu ái dành cho chàng tại Thịnh Kinh, cũng chính là phủ Thượng thư sau này.

Họ Cungquận Lang Gia giàu có ức vạn, thế lực vô biên, dư sức chu cấp cho Cung Tuấn đầy đủ mọi thứ. Nhưng từ khi chàng lên làm quan tam phẩm thì sự giúp đỡ của gia tộc không còn quá quan trọng với Cung Tuấn nữa. Tiểu viện Lưu Kỳ chính là tư dinh mà Cung Tuấn tự mua tám năm về trước.

Những người con Lang Gia thường có tham vọng giữ cho riêng mình và lòng cố chấp đến lạ lùng với những thứ thuộc về bản thân.

Tiểu viện Lưu Kỳ tuy nhỏ nhưng mang một phong cách hết sức độc đáo. Để thiết kế được một lâm viên kiểu Giang Nam lộng lẫy như vậy ở Thịnh Kinh, Cung Tuấn chẳng những không tiếc tiền của mà còn gửi gắm vào rất nhiều tâm tư. Song nơi đây là không gian riêng tư của Cung Tuấn, hãn hữu lắm CungThuyên mới đến một lần, và chỉ khi Cung Tuấn có lời mời thì ông mới xuất hiện.

Mặc dù vậy, CungThuyên cũng không ngờ đứa cháu lớn lại không chút do dự mà đáp lại ông rằng: "Cảm ơn nhị thúc tổ, nhưng không cần đâu ạ. Đã có người đặt tên cho tảng đá này rồi."

CungThuyên ngạc nhiên: "Ai vậy?"

"Em ấy chưa về Thịnh Kinh."

CungThuyên sửng sốt giây lát rồi hiểu ngay. Ông lắc đầu, lòng bao tiếc nuối cho cậu cháu trai giỏi giang xuất chúng của mình, nhưng không định bình phẩm gì về chuyện ấy cả.

CungThuyên: "Chu Tử Thư – Đường Cảnh Tắc, hình như đang ở U Châu nhỉ?"

Cung Tuấn: "Vâng."

CungThuyên im lặng, cực chẳng đã phải nói: "Tử Phong à, vươn tay dài quá chưa hẳn đã hay. Trọn đời trọn kiếp, tức là thấu hiểu và ủng hộ lẫn nhau suốt đời, không phải con cứ lấy tay che trời cả đời là nên chuyện. Con làm quan rất linh hoạt, sao lại không hiểu đạo lí này?"

Những khoảnh khắc khiến một CungTử Phong điển trai và thanh lịch thường ngày phải ngạc nhiên như thế này khá hiếm hoi. Một lát sau, chàng mới cười rồi thưa: "Nhị thúc tổ dạy phải."

Sau khi CungThuyên ra về, Cung Tuấn ngồi trong đình, chăm chú ngắm tảng đá Thái Hồ vươn mình giữa ao xanh.

Hồi lâu, chàng bật cười giễu: "Nhị thúc tổ ơi là nhị thúc tổ, người khuyên con nhẹ bẫng như không thế, nhưng ngay đến chuyện nhà mình người đã lo liệu êm thắm đâu!"

Vừa mới về đến phủ Hữu tướng, CungThuyên chợt thấy lành lạnh sau lưng. Vị Hữu tướng quyền uy của triều đình nghĩ bụng: Chả nhẽ thằng nhóc CungTử Phong lại nói xấu sau lưng mình?

Không thể không công nhận rằng người làm quan đến bậc này giác quan thứ sáu cũng nhạy bén hơn người thường.

Chu Tử Thư đương nhiên không nắm được những chuyện xảy ra ở thành

Thịnh Kinh. Cậu cũng không biết, mình chẳng làm chi mà cũng khiến CungTử Phong bị CungThuyên răn dạy phải xử lí quan hệ gia đình sao cho ổn thỏa. Tuy cả thành Thịnh Kinh đều biết vợ chồng CungThuyên tướng công cơm không lành canh chẳng ngọt, nhưng chuyện ấy nào có ảnh hưởng gì đến việc Hữu tướng "dạy bảo" người ta?

Đương nhiên, kể mà Chu Tử Thư có biết thì chắc chuyện cũng trôi tuột đi ngay. Ai bảo cậu với sư huynh có quan hệ gia đình? Người ta là sư huynh đệ hẳn hoi.

Sáng sớm hôm sau, Ty chính ty Ngân Dẫn Lâm Hủ lại đến bái kiến.

Cùng lúc ấy, Lư Thâm cũng dẫn quân đến gặp Chu Tử Thư, thế là hai phe đụng độ nhau ở ngay dịch quán. Lâm Hủ và Lư Thâm đã ghét nhau sẵn, chạm mặt một cái là trừng trộ nhau ngay. Chu Tử Thư mới bước chân ra khỏi cửa đã thấy cảnh này, bỗng nhức đầu đến lạ.

Chu Tử Thư nói: "Đi thôi, hôm nay đến ty Ngân Dẫn."

Lâm Hủ: "Vâng, mời Đường đại nhân, hạ quan xin dẫn đường cho ngài."

Đoàn nhân mã hùng dũng đi được nửa đường thì Chu Tử Thư hỏi: "Hữu thị lang bộ Công – Tô đại nhân, đã đến thành U Châu được một tháng. Vừa rồi, ta và ngài ấy tình cờ được Thánh thượng phái đến U Châu cùng một đợt. Tuy nhiệm vụ của chúng ta khác nhau, nhưng là đồng liêu, ta cũng hơi tò mò về công việc của ngài ấy. Lâm đại nhân, ngươi có biết Tô đại nhân đến U Châu đã làm những gì không?"

Cung Tuấn và Tô Ôn Duẫn không bè đảng gì với nhau, thành ra Lâm Hủ cũng không coi trọng Tô Ôn Duẫn, bèn đem hết những chuyện Tô Ôn Duẫn làm gần đây kể cho Chu Tử Thư.

Giống Chu Tử Thư, Tô Ôn Duẫn cũng có thuộc hạ do Triệu Phụ sắp xếp để hỗ trợ mình tại U Châu. Chỉ khác ở chỗ anh ta không có ty Ngân Dẫn giúp sức, cũng không nối được quan hệ với Lý Cảnh Đức, nên cả tháng qua anh ta chẳng làm được gì nhiều, tiến độ khá chậm chạp mà lại không hiệu quả mấy.

Chu Tử Thư nghe Lâm Hủ nói thế thì gật gù.

Chẳng mấy chốc, mọi người đã đến ty Ngân Dẫn.

Về lí thuyết thì Chu Tử Thư là Khâm sai đến thanh tra hoạt động của ty Ngân Dẫn, đáng lẽ các quan trong ty phải hết sức cảnh giác với cậu hơn là kính trọng. Nhưng dưới sự dẫn dắt của Lâm Hủ, Chu Tử Thư dễ dàng lấy được sổ sách hơn một năm qua của ty Ngân Dẫn để kiểm tra.

Sổ sách của ty Ngân Dẫn kê khai từng giao dịch vô cùng chi tiết và cẩn thận, không bắt được lỗi nào cả. Nếu thực sự không có vấn đề gì, thì người giữ sổ hẳn là nhân tài hiếm có.

Ty Ngân Dẫn là lãnh địa của Cung Tuấn, mà Chu Tử Thư thì tin tưởng tuyệt đối vào nhân phẩm của sư huynh nhà mình, chắc chắn không có chuyện làm giả sổ sách.

Thực ra, CungTử Phong vốn không phải quan thanh liêm thuần túy, thậm chí Chu Tử Thư đoán rằng sư huynh cũng nhận hối lộ và che đậy nhiều chuyện. Nhưng là Thượng thư bộ Hộ, Cung Tuấn không thiếu chỗ kiếm tiền phi pháp đến mức phải động vào ty Ngân Dẫn. Mười năm, rồi trăm năm nữa, thiên hạ Đại Tống có hưng thịnh và phồn vinh hay không, phụ thuộc rất nhiều vào ty Ngân Dẫn.

Rà soát sổ sách xong, Lâm Hủ dẫn Chu Tử Thư đi gặp một số quan viên.

Đến tối, ty Ngân Dẫn mở tiệc thết đãi Chu Tử Thư. Chè chén linh đình, hết ba tuần rượu, Chu Tử Thư về dịch quán trong trạng thái ngất ngư. Từ khi cậu đến U Châu, Lư Thâm không chỉ đảm nhiệm việc giám sát ty Ngân Dẫn mà còn bảo vệ an toàn cho Chu Tử Thư và nghe lệnh cậu. Chu Tử Thư uống say, Lư tướng quân bèn sai thuộc hạ đưa cậu về dịch quán.

Chu Tử Thư say bí tỉ, mặt đỏ nhừ, nằm thẳng cẳng trên giường. Nhờ đẹp trai nên dù ngấm men, trông Chu Tử Thư vẫn phong độ chán chứ không bết bát như mấy tay nát rượu. Thế mà Lư tướng quân khiêng Chu Tử Thư lẳng lên giường xong còn lầu bầu khinh rẻ: "Hôn quan!" Đoạn hùng hổ dẫn quân ra về.

Chỉ chốc lát, dịch quán lặng im như tờ.

Màn đêm đen đặc, ngoài cửa sổ, bóng quạ thảng thốt vụt qua.

Trong phòng ngủ tối như hũ nút, Chu Tử Thư bất ngờ mở mắt, ho khẽ hai tiếng, khô rát cả họng. Cậu đứng dậy rót cho mình chén trà. Tuy cậu vẫn hơi say, tai chưa hết đỏ, nhưng nhìn ánh mắt là biết cậu đang tỉnh như sáo, hoàn toàn không giống cái người chân đăm đá chân chiêu hồi nãy tí nào.

Uống trà cho tỉnh rượu xong, Chu Tử Thư thay áo tối màu, nhanh chóng ra khỏi phòng.

Cậu khẽ chân đi qua mấy tiểu viện, tránh quan sai tuần tra, rồi dừng lại trước một gian nhà. Trong nhà tịnh không ánh đèn, tựa như vắng chủ, hoặc cũng có thể người ở phòng ấy đã ngủ từ lâu. Chu Tử Thư sẽ sàng gõ lên cửa một cái, không lâu sau thì có người đi ra.

Dưới ánh Tuấng, Tô Ôn Duẫn mở cửa, nhìn ngó Chu Tử Thư một hồi, khịt mũi cười ruồi: "Đường đại nhân uống rượu à?"

Chu Tử Thư lạnh lùng nói: "Hạ quan bái kiến Tô đại nhân. Đêm qua Tô đại nhân cố ý đến tìm hạ quan, ngầm hẹn gặp ở viện của ngài. Hôm nay hạ quan tránh tai mắt mọi người để tới gặp đại nhân đây."

Tô Ôn Duẫn không mỉa mai Chu Tử Thư nữa, nghiêng người: "Ta đã rút hết người xung quanh viện này, vào nhà đi rồi nói." Chu Tử Thư bước vào phòng Tô Ôn Duẫn.

Cửa phòng vừa khép, thái độ của cả hai nghiêm trọng hẳn lên.

Tô Ôn Duẫn – người mới sáng nay còn bị Lâm Hủ chê là "tối ngày rảnh rang" – nói như đinh đóng cột: "Dùng ty Ngân Dẫn làm cầu nối, mượn đường buôn bán xâm nhập nước Liêu!"

||Chú thích

Trích "Tuyền Thủy 1", Vệ Phong, Kinh Thi. Tạ Quang Phát dịch. Hai chữ "Lưu Kỳ" lấy từ câu thứ 2 "diệc lưu vu Kỳ".

Quật Lung là loại đá nhiều lỗ. 窟窿 Tự search hình nhé, mình hơi gai cái quả lỗ chi chít, mọi người thông cảm.

------oOo------

Chương 99

Nguồn: EbookTruyen.Net

Ai chẳng thích Triệu Tuyền?

Năm Khai Bình thứ ba mươi mốt, tháng ba.

Từ năm ngoái, Thái Hậu bệnh tật liên miên, suốt một thời gian dài không gượng dậy nổi. Đến Tết thì sức khỏe Thái Hậu khởi sắc, Triệu Phụ mừng rỡ khôn cùng, ban thưởng lớn cho viện Thái Y; chẳng ai nghĩ rằng đó chỉ là hồi quang phản chiếu. Đến tháng ba, Thái Hậu ốm liệt giường. Qua ngày mười chín thì Thái Hậu băng.

Lúc Thái hậu băng hà, Triệu Phụ đang tu luyện trong đài Đăng Tiên.

Những lúc tu tiên, Triệu Phụ tuyệt đối không cho phép ai quấy rầy. Từ khi đài Đăng Tiên được xây dựng, ngoài các đại thần, nguyên soái nhất phẩm ra, chỉ có nhóm tâm phúc như Cung Tuấn là được phép ra vào.

Hôm ấy, Triệu Phụ đương khoanh chân tĩnh tọa giữa vòng đèn Trường Minh, hô hấp thổ nạp, vận chuyển chu thiên. Ngoài đài Đăng Tiên, bất chấp trời tối mịt mờ, có một thái giám cầm cây phất trần hớt hải chạy đến. Tiểu thái giám canh ngoài đài Đăng Tiên trông vậy thì biết là có chuyện chẳng lành. Người Thái giám kia chính là Uông Kỳ – Thủ lĩnh Thái giám ở cung Duyên Phúc.

Đến giờ phút này thì chẳng còn ai quan tâm đến việc thông báo trước. Uông Kỳ xông thẳng vào đài Đăng Tiên, thảng thốt kêu: "Bệ hạ, bệ hạ, Thái hậu không dậy được nữa rồi."

Triệu Phụ mở mắt, liếc nhìn Uông Kỳ một cái rồi bật dậy, tức tốc sang cung Duyên Phúc.

Hoàng đế túc trực ở cung Duyên Phúc suốt cả đêm. Trước khi trời kịp sáng, Thái hậu đã trút hơi thở cuối cùng. Triệu Phụ nắm tay Thái hậu, ngơ ngác nhìn bà cụ gầy yếu hom hem nằm trên giường. Cung Duyên Phúc chìm trong tiếng khóc than, dù thật lòng hay giả dối, toàn thể thái giám, cung nữ trong cung đều sụp xuống rơi lệ.

Trái lại, Triệu Phụ không nhỏ một giọt nước mắt, ông chỉ ngồi đó nhìn Thái hậu thôi.

Gần nửa canh giờ sau, đến khi bầy thái giám, cung nữ cạn hết nước mắt, Triệu Phụ mới vươn tay gọi Quý Phúc.

"Thái hậu đi rồi à?" Hoàng đế nghẹn ngào.

Hầu hạ Triệu Phụ suốt bao năm nay, thấy hoàng đế như vậy, Quý Phúc bỗng thấy xót xa. Lão khóc: "Quan gia, Thái hậu băng rồi." Triệu Phụ hít sâu một hơi, bật khóc nức nở.

Màn đêm buông xuống, tám hồi chuông nguyện hồn vang vọng trong cung cấm.

Lục Cunggia Triệu Ngao được gọi vào cung. Đến cung Duyên Phúc, Triệu

Ngao phát hiện nơi đây đã vắng bóng kẻ hầu người hạ tự bao giờ, chỉ còn Triệu Phụ một mình ngồi canh bên di hài Thái hậu. Triệu Ngao vỡ òa, người nằm trên giường kia chính là sinh mẫu của ông!

"Mẫu hậu!"

Thái hậu băng hà, cả nước để tang, nghỉ triều năm ngày.

Tất cả các quan đều phải mặc áo sô gai và cầu nguyện cho Thái hậu. Về phần mình, hoàng đế lưu lại cung Duyên Phúc chép kinh Phật. Cảnh CungTriệu Ngao là Cunggia duy nhất còn sống và là em trai ruột của Triệu Phụ, nên cũng ở lại chép kinh cùng.

Tới tối, Triệu Phụ quá mệt mỏi bèn đi ngủ trước. Đến nửa đêm tỉnh lại, Triệu Phụ phát hiện Triệu Ngao vẫn cặm cụi chép kinh trên bàn.

Triệu Phụ lặng yên quan sát hồi lâu. Triệu Ngao cảm nhận được ánh mắt của ông ta bèn nhìn sang, rồi lập tức đứng dậy, hành lễ: "Bái kiến hoàng huynh."

Triệu Phụ khoát tay: "Chớ đa lễ vậy."

Triệu Ngao rơm rớm nước mắt: "Hoàng huynh..."

Triệu Phụ kéo ghế đến trước chiếc bàn Triệu Ngao đang ngồi, lâu lắm rồi ông mới lại trò chuyện thân tình với Triệu Ngao thế này. Ông hồi tưởng vô số chuyện khi còn bé, hầu hết là những việc liên quan đến Thái hậu.

Triệu Phụ: "Năm xưa, Hiếu Kính hoàng hậu được tiên đế sủng ái tột bậc. Hoàng đệ chắc không biết, cái đêm mẫu hậu trở dạ sinh đệ, người đã gọi tiên đế tới. Tiếc thay, Hiếu Kính hoàng hậu bất chợt bị cảm, trong người mệt mỏi khó chịu, thế là tiên đế liền sang cung Thanh Ninh thăm bà ấy. Lúc ấy, mẫu hậu đã kiệt sức, không cách nào hạ sinh nổi đệ. Vậy mà nghe cung nữ bẩm chuyện ấy xong, người bỗng trở nên mạnh mẽ lạ thường, nhờ đó mà đệ mới được chào đời đấy."

Triệu Ngao: "Hiếu Kính hoàng hậu đối xử rất tốt với huynh đệ chúng ta. Hoàng huynh, đệ không ngờ từng có chuyện như thế."

Triệu Phụ nở nụ cười: "Không phải lỗi của Hiếu Kính hoàng hậu đâu. Tiên đế là người thế nào, đệ còn lạ gì nữa?" Triệu Ngao cúi đầu làm thinh.

Triệu Phụ dám chỉ trích tiên đế, còn ông ta thì không, bởi ông ta không phải hoàng đế.

Triệu Phụ lại nói: "Nhớ hồi đệ sáu tuổi, trẫm chín tuổi, Triệu Tuyền dẫn huynh đệ chúng ta ra ngoại ô kinh thành săn bắn."

Nghe đến cái tên ấy, mắt Triệu Ngao máy một cái, không dám thở mạnh.

"Triệu Tuyền săn cho trẫm một con hươu bé, săn cho đệ một con thỏ con. Giờ ngẫm lại, chẳng phải tự nhiên mà tiên đế thích Triệu Tuyền. Hắn là hoàng tử độc nhất của Hiếu Kính hoàng hậu, lại thông minh cơ trí, mạnh mẽ oai phong, mười hai tuổi đã kéo được cây cung năm thạch. Hồi ấy, đệ suốt ngày bám theo sau hắn gọi 'Thái tử ca ca', dường như quên luôn rằng trẫm mới là anh ruột của đệ."

Triệu Ngao khiếp đảm, thiếu điều quỳ mọp xuống. Ông ta sợ sệt thanh minh: "Thần đệ chưa bao giờ dám nghĩ vậy!"

Triệu Phụ thấy Triệu Ngao tá hỏa như vậy thì vẫy tay: "Ôi chao, ngồi xuống đi, có gì đâu mà sợ. Ngày ấy có ai không thích Triệu Tuyền? Trẫm cũng thích hắn kia mà. Trẫm nào có khác gì đệ, suốt ngày đứng ngóng ở cửa điện

Hàm Tượng, từ sáng chí tối chỉ trông về hướng tây, nghĩ xem bao giờ Triệu Tuyền sẽ đi từ cung Thanh Ninh tới để dắt trẫm đi chơi."

Sự lúng túng của Triệu Ngao khiến Triệu Phụ thầm khinh rẻ, rồi bất giác thở dài.

Tự dưng ông ta không biết phải nói gì với Triệu Ngao nữa.

Ông ta có quá nhiều điều muốn nói, nhưng người huynh đệ một thuở kia đã bị chính tay ông ta bắn chết, xác ghim trên cổng Tuyên Võ, rồi lại bị chính ông ta phao tin là qua đời trên giường vì "bệnh nặng nguy kịch". Triệu Ngao là một đứa em ngu xuẩn, ngu xuẩn đến nỗi Triệu Phụ chẳng buồn hãm hại. Nhưng giờ đây, khi Thái hậu đã băng hà, ông ta chỉ còn mỗi mình Triệu Ngao mà thôi.

Nếu Thái hậu còn sống để nghe những lời ông giãi bày hôm nay, liệu Thái hậu sẽ nói gì với ông đây?

Triệu Phụ trầm ngâm suy nghĩ.

Rất lâu sau, ông ta đứng dậy, cất giọng lạnh nhạt: "Chép kinh tiếp đi."

Đây mới đúng là vị hoàng đế mà Triệu Ngao quen thuộc. Cảnh Cunggia thở phào nhẹ nhõm, lau mồ hôi trên trán, cung kính thưa: "Vâng."

Hoàng cung vẫn không ngớt tiếng khóc bi ai. Các phi tần đều rơi lệ xót thương cho Thái hậu, bọn thái giám, cung nữ cũng sụt sùi theo.

Ngoài cung, trăm quan mặc áo tang tưởng niệm Thái hậu.

Trong phủ Tả tướng, Tả tướng Kỷ Ông Tập đang đọc một phong thư. Lát sau, phu nhân Tả tướng bưng bát xúp được hầm kĩ tiến vào thư phòng. Tả tướng và phu nhân nhìn nhau cười.

Kỷ tướng nắm bàn tay thô ráp của vợ, dịu dàng nói: "Phu nhân vất vả rồi."

Kỷ phu nhân hiền hậu hỏi: "Thư của Bá An đấy hả mình?"

"Ừ, thư của Bá An. Nó vừa đến Tần châu thì mắc phong hàn, lúc đỡ lúc không mãi tới giờ mới khỏe hẳn, bèn viết thư nhắn tôi an lòng." Kỷ Ông Tập nói, "Mình đi ngủ đi kẻo lại mệt."

Kỷ phu nhân đáp: "Em chẳng tài nào an giấc nổi. Mới năm ngoái, em với các cáo mệnh phu nhân khác còn tiến cung diện kiến Thái hậu. Thái hậu hiền từ và ân cần lắm, hết lòng tử tế với chúng em. Nào ngờ chưa đầy một năm, Thái hậu đã băng rồi."

Kỷ Ông Tập: "Có người còn khó ngủ hơn cả mình đấy."

Kỷ phu nhân: "Ơ?"

Kỷ tướng nở nụ cười bí ẩn trên gương mặt già nua. Kỷ phu nhân nhìn là biết chồng lại trêu mình. Bà như trở về thuở thiếu nữ Tuấng tròn, e thẹn ngả lên vai Kỷ tướng, thủ thỉ: "Sao mình chẳng nói hẳn ra?"

Kỷ Ông Tập không trả lời, chỉ điềm nhiên bảo: "Dù làm việc thiện hay việc ác, con người đều không sợ bị cả thiên hạ biết việc mình làm, mà chỉ sợ không có ai sát cánh với mình thôi."

Kỷ phu nhân nghe mà ngơ ngác chẳng hiểu sao.

Kỷ tướng thở dài thườn thượt: "Đêm nay tôi xem tinh tượng, thấy mấy ngày tới e vẫn phải nghỉ triều. Phu nhân hãy chuẩn bị cơm nước thêm dăm hôm nữa nhé."

Hoàng đế để tang cho Thái hậu, nghỉ triều năm ngày. Ngờ đâu năm ngày trôi qua, vì ưu sầu quá đỗi, Triệu Phụ cũng ngã bệnh theo.

Trận ốm đấy kéo dài suốt nửa tháng.

Ở tít tận U châu, đương nhiên Chu Tử Thư không nắm được tin tức, song chuyện Thái hậu băng hà vẫn có ảnh hưởng đến quan viên địa phương như bọn họ. Thái hậu đột ngột băng hà đúng lúc Phủ doãn U châu định mở tiệc thết đãi Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn. Trong tình huống ấy, quan chức Đại Tống còn ai dám chè chén tiệc tùng?

Sang tháng tư, Phủ doãn U châu Quý Triệu Tư mới khoản đãi Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn ở phủ nha được.

Tuy Phủ doãn U Châu là quan tứ phẩm, nhưng từ ngày xưa, hồi Chu Tử Thư mới là Khởi cư lang ngũ phẩm, các quan cỡ Quý Triệu Tư đã thua xa cậu rồi. Cậu không trực thuộc đại doanh U châu, cũng không liên quan đến ty Ngân dẫn. Trước đây, Quý Triệu Tư chỉ cần lấy lòng doanh trại U châu là đủ, giờ mọc ra thêm ty Ngân dẫn, tự dưng ông ta lại bị kẹp ở giữa, xoay bên nào cũng không xong.

Gặp Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn, Quý Triệu Tư vồn vã chào hỏi: "Hạ quan Quý Triệu Tư xin bái kiến Hữu thị lang đại nhân và Trung thư xá nhân đại nhân."

Tô Ôn Duẫn và Chu Tử Thư cùng ngồi xuống.

Quý Triệu Tư rót đầy hai chén mời bọn họ. Tô Ôn Duẫn cười nhẹ: "Ta đợi mãi mới được dự bữa tiệc này của Quý đại nhân đấy." Nghe thế, Chu Tử Thư liếc anh ta một cái.

Quý Triệu Tư đảo mắt, nói: "Hạ quan nóng lòng muốn mở tiệc chiêu đãi hai vị đại nhân đã lâu, chẳng ngờ Thái hậu đột ngột băng hà, hạ quan đau lòng khôn xiết, không còn lòng dạ đâu mà bày tiệc, chỉ muốn thành tâm để tang cho Thái hậu thôi."

Tô Ôn Duẫn và Chu Tử Thư đều là tâm phúc của hoàng đế, nên Quý Triệu Tư nói năng hết sức cẩn thận. Lão chẳng trông chờ hai ngài nói tốt về mình trước hoàng đế, chỉ cần hai ngài chớ buông lời đâm thọc là lão đã thỏa mãn lắm rồi.

Trong bữa tiệc, Quý Triệu Tư nhiệt tình rào đón: "Hai vị đại nhân lần đầu ghé thăm U châu, nghe nói Đường đại nhân còn là người Cô Tô nữa. Ẩm thực phương nam khác với ẩm thực phương bắc đã đành, những món ngon ở U châu còn khác hẳn những món ngon miền bắc nói chung. Xin mời đại nhân nếm thử món dê nướng nguyên con này..."

Chu Tử Thư ngó món dê nướng nguyên con, lẩm bẩm: "Sư huynh thích ăn món này lắm đấy."

Mắt Quý Triệu Tư sáng ngời: "Cungtướng công thích ăn dê nướng nguyên con kiểu U châu thật ấy ạ? Thế mà hạ quan chẳng hề hay biết. Mấy năm trước Cungtướng công đã từng đến U châu, mỗi tội Cungđại nhân bận bịu suốt nên hạ quan chưa có cơ hội được diện kiến, đâm tiếc nuối mãi."

Tô Ôn Duẫn khinh thường: "Đường đại nhân hiểu Cungđại nhân quá nhỉ."

Chu Tử Thư nhìn anh ta: "Tình cảm của ta với sư huynh vô cùng sâu sắc."

Tô Ôn Duẫn mỉa mai rất thâm: "Sâu sắc ấy à, tình cảm kiểu gì mà sâu sắc thế? Nói mới nhớ, Cungđại nhân hình như đã hai mươi chín cái xuân xanh rồi, thế mà mãi chẳng thấy thành gia..."

Chu Tử Thư cả giận, gác đũa, lạnh lùng nói: "Tô đại nhân, đặt điều sau lưng người khác chẳng hay hớm gì đâu."

Tô Ôn Duẫn cười khẩy: "Đặt điều ư? Chả chắc."

Quý Triệu Tư trợn mắt, sợ toát mồ hôi. Chỉ thấy Tô Ôn Duẫn cũng gác đũa, cãi cọ nảy lửa với Chu Tử Thư. Hai người bọn họ ăn miếng trả miếng, châm chọc đối phương không tiếc lời. Cuối cùng, bữa tiệc kết thúc trong hậm hực. Lúc gần về, Tô Ôn Duẫn nói với Quý Triệu Tư: "Quý đại nhân, buổi tiệc hôm nay khá lắm, phải tội khách khứa chẳng ra gì." Nói rồi, anh ta phất tay áo bỏ đi thẳng.

Chu Tử Thư nói: "Quý đại nhân, xin được cáo từ."

Hai người mạnh ai nấy về, bỏ lại Quý Triệu Tư hoang mang ngơ ngác. Lão ta quýnh lên, không biết rốt cuộc mình sai ở đâu mà khiến hai đức ngài cãi cọ ầm ĩ ngay trước mặt mọi người trong buổi tiệc mình tổ chức.

"Chẳng lẽ chuyện người ta đồn là thật? Tô Phỉ Nhiên và Đường Cảnh Tắc xưa nay bất hòa, Cungđảng và Tô đảng là địch thủ? Hầy, biết thế mình đã chẳng mời cả hai người bọn họ cùng một bữa! Nhưng nhỡ mời một người xơi tiệc trước, người kia lại thù mình thì sao?" Quý Triệu Tư sầu muộn đến hói cả đầu.

Làm Phủ doãn đã khó, làm Phủ doãn U châu càng vất vả hơn!

Vào khuya, phòng Chu Tử Thư tắt đèn tối om. Ngoài cửa, Lư Thâm ôm trường kiếm đứng gác.

Lúc trở về dịch quán, Chu Tử Thư đã nói với Lư Thâm: "Tối nay bản quan uống say, phiền Lư tướng quân gác đêm hộ."

Lư Thâm tức trợn cả mắt mà không cự cãi được, đành phải đứng gác cho Chu Tử Thư.

Màn đêm đen thẳm tĩnh mịch, lác đác vài ngôi sao.

Lư Thâm khép hờ đôi mắt, cất tiếng ngáy nhè nhẹ. Bất chợt, hắn ta nghe loáng thoáng tiếng ồn ào. Lư Thâm mở bừng mắt, nhìn về hướng phát ra âm thanh. Lát sau, chỉ thấy đúng một con chuột lỉnh ra từ bụi cây hoa. Lư Thâm quan sát một chốc rồi lại nhắm mắt vào. Ngay sau đó, hắn đột ngột tuốt kiếm, đâm thẳng vào người xông đến.

Tô Ôn Duẫn trong bộ trang phục tối màu giật mình, nghiêng đầu né kiếm. Lưỡi kiếm sượt qua, cứa đứt chút tóc bên trán anh ta.

Tô Ôn Duẫn gằn giọng quát: "Láo xược!"

Lư Thâm đương nhiên đã nhận ra Tô Ôn Duẫn, nhưng sẵn có mối thù với quan văn từ xưa đến nay, hắn mới vờ như không phát hiện ra, cố tình muốn giết Tô Ôn Duẫn.

Đúng lúc ấy Chu Tử Thư mở cửa, nói: "Không phải đánh." Lư Thâm hừ một tiếng hằn học, thu bảo kiếm về.

Chu Tử Thư ra lệnh: "Lư tướng quân, ngươi hãy đi một mình ra giếng múc nước cho ta, ta muốn rửa mặt."

Lư Thâm lạnh lùng lườm Chu Tử Thư một cái rồi mới đi múc nước. Chu Tử Thư bảo: "Ta sai ngươi đi một mình thì ngươi chỉ được đi một mình thôi, cấm để ai phát hiện."

Bước chân Lư Thâm chững lại giây lát, rồi mới tiếp tục đi.

Phía sau, Tô Ôn Duẫn đi vào phòng Chu Tử Thư. Vừa vào tới nơi, Tô Ôn Duẫn đã vặn hỏi: "Đường đại nhân thậm khéo, biết tối nay bản quan đến nên ra lệnh cho đức ôn thần trấn ngoài cửa đấy hả?"

"Lư tướng quân được phái đến bảo vệ cho hạ quan, hạ quan sai y canh ngoài cửa thì có gì sai?"

"Đường Cảnh Tắc, ngươi đừng có vờ vĩnh!"

Mặt Chu Tử Thư lạnh tanh, đập bàn quát: "Tô Ôn Duẫn! Diễn thì cứ việc diễn, sao phải lôi sư huynh của ta ra để châm ngòi? Trước giờ chính kiến của sư huynh ta và ngươi luôn mâu thuẫn, nhưng ngươi không được phép bôi nhọ danh dự của huynh ấy! Dù bây giờ huynh ấy không ở đây, ta cũng cấm ngươi đặt điều xằng bậy về huynh ấy ngay trước mặt ta!"

||

Lời tác giả: Chữ Tuyền trong Triệu Tuyền đọc là xuán (*) Tuyền là ngọc tuyền, một thứ ngọc đẹp.

Chú thích hít thở vận chuyển khí trong người và đả thông kinh mạch (phép luyện trường sinh của Đạo gia)

------oOo------

Chương 100

Nguồn: EbookTruyen.Net

Họa mi trầm lặng

Đêm khuya, bốn bề dịch quán lặng im như tờ.

Tô Ôn Duẫn nghe Chu Tử Thư nói xong, suýt chút nữa đã cười thành tiếng. Đôi mắt cánh đào như cười như không, dường như trong mắt anh ta, Đường

Thận chỉ là một đứa trẻ tội nghiệp. Anh ta nói: "Ta đặt điều về CungTử

Phong ư? Đường đại nhân, CungTử Phong mà ngươi nói có phải là Thượng thư bộ Hộ CungTử Phong mà ta biết không? Tuy trời đã tối, nhưng thánh thần lúc nào cũng ngự trên cao, ngươi đừng nói chuyện nực cười như thế nữa. Ta mà thèm gièm pha CungTử Phong?"

Chu Tử Thư bật cười, lạnh lùng nói: "Tô đại nhân, tuy quan điểm của hai ta khác nhau, nhưng hiện giờ chúng ta đều phụng sự hoàng thượng ở thành U Châu này, nhất thiết phải chung sức đồng lòng. Ty Ngân Dẫn là địa bàn của Cung Tuấn đại nhân, những việc chúng ta cần làm sắp tới không thể thiếu sự hỗ trợ của họ. Ngươi đặt điều xằng bậy về ngài ấy như thế, liệu có thỏa đáng không?"

Tô Ôn Duẫn không đáp lại Chu Tử Thư mà thong thả đi lại trong phòng. Khi dừng lại, anh ta mới nghiêm túc nhìn Chu Tử Thư.

"Chu Tử Thư Đường Cảnh Tắc?"

Chu Tử Thư khép hờ đôi mắt, lờ phắt đi.

Nói gì thì nói, ba năm trước cậu đã trở mình từ chỗ chết để quật ngược lại Tô Ôn Duẫn, giờ có đắc tội thêm một lần nữa cũng chẳng hề hấn gì. Cách đây ba năm Tô Ôn Duẫn không giết được cậu ở Thứ Châu, giờ anh ta có thể làm gì cậu đây?

Tô Ôn Duẫn: "CungTử Phong năm nay hai mươi chín tuổi, không sai chứ?"

"Không sai."

"Hai mươi chín tuổi chưa một lần thành hôn, thậm chí còn không đính hôn với ai, ngươi nghĩ là vì sao?"

Nghe thế, Chu Tử Thư mở mắt: "Vì sao?"

Tô Ôn Duẫn: "Vì hắn ham mê Long Dương."

Chu Tử Thư bàng hoàng, tuy ngoài mặt cậu tỏ ra bình tĩnh, nhưng ánh mắt đã dao động rồi.

"Ai dám khẳng định?"

"Thế thì ngươi giải thích đi. Nếu hắn ta không đoạn tụ, tại sao ngần ấy tuổi rồi còn chưa thành gia?"

Chu Tử Thư: "Trên đời này có đến hàng nghìn, hàng vạn nguyên do, làm sao ta biết sư huynh nghĩ gì trong lòng?" Vả lại, sao cứ nhất thiết phải là đoạn tụ mà không phải vì họa mi không chịu hót? Đương nhiên, câu ấy không được nói cho Tô Ôn Duẫn nghe. Anh ta mà nghe được, khéo lại mượn cớ ấy để bôi nhọ Cung Tuấn vào dịp khác. Chu Tử Thư nói: "Nhắc tới mới nhớ, sư huynh ta hai mươi chín tuổi chưa thành thân, nhưng Tô đại nhân có khác mấy đâu? Sang năm là Tô đại nhân hai mươi lăm tuổi rồi nhỉ?"

Gương mặt diễm lệ của Tô Ôn Duẫn ánh lên vẻ sắc lạnh, anh ta nói:

"Chuyện ta lập gia đình thì liên quan gì đến ngươi?"

Chu Tử Thư: "Dĩ nhiên là chẳng can hệ gì tới hạ quan, nhưng chuyện thành gia lập thất của sư huynh ta cũng đâu phải việc của Tô đại nhân? Tô đại nhân thân với sư huynh ta lắm ư? Nào phải! Ta quen sư huynh đã năm năm nay; đối với ta, huynh ấy như anh ta, như cha ta. Ta hiểu huynh ấy hơn Tô đại nhân nhiều. Con người huynh ấy thế nào chẳng nhẽ ta còn không biết? Sư huynh ta không thể nào đoạn tụ được. Hiện giờ ở U Châu, ta và Tô đại nhân cần phải đồng lòng thực hiện chức trách thánh thượng giao phó. Xin Tô đại nhân chớ đem chuyện này ra cợt nhả thêm. Thứ nhất là chẳng hài hước gì, sư huynh chắc chắn không ham thích Long Dương. Thứ hai.." Chu Tử Thư ngừng lời một lát, rồi mới lạnh nhạt nói nốt: "Ngươi không thích bị người ta suy đoán bậy bạ về chuyện của bản thân, vậy khi ngươi gièm pha, đặt điều sau lưng huynh ấy, lẽ nào ngươi không nghĩ đến câu 'điều mình không muốn, đừng làm với người khác'?"

Chu Tử Thư nói bằng thái độ đầy cứng rắn và kiên định, Tô Ôn Duẫn nghe mà ngẩn người.

Tuy Tô Ôn Duẫn giỏi ở chỗ sắc sảo hơn người, thủ đoạn trác việt, nhưng dù sao anh ta vẫn còn trẻ. Anh ta chưa vợ, cũng không có kinh nghiệm về chuyện hôn nhân. Hai năm trước, khi Hữu thừa Từ Bí tiết lộ cho đệ tử ruột Dư Triều Sinh về xu hướng tính dục của Cung Tuấn thì ông dám quả quyết, không hoài nghi gì hết. Về phần Tô Ôn Duẫn, khi chứng kiến sự phẫn nộ của Chu Tử Thư, anh ta không kiềm được suy tư... Chẳng lẽ mình đoán sai thật rồi sao?

Cung Tuấn chưa từng công khai mình thích nam hay nữ, các quan trong triều chỉ biết đoán già đoán non. Tô Ôn Duẫn bỗng nghi ngờ rằng phán đoán của mình trật lất rồi. Cứ y theo lời Chu Tử Thư, anh ta chẳng thân quen gì với CungTử Phong, thậm chí còn là địch thủ trên chính trường, có lẽ đây là một sự nhầm lẫn thật. Chu Tử Thư với Cung Tuấn là sư huynh đệ, tình cảm keo sơn khăng khít từ xưa tới nay, Cung Tuấn ắt sẽ không dối gạt Chu Tử Thư trong chuyện này.

Lí do không thành gia có đến hàng nghìn hàng vạn, cứ như bản thân Tô Ôn Duẫn đây, anh ta không cưới vợ là bởi chẳng vừa mắt nổi ai. Trong mắt anh ta, người con gái ưu tú nhất trên đời cũng như cỏ rơm cát bụi, chẳng có giá trị gì cả.

Lẽ nào CungTử Phong cũng giống thế?

Mãi lâu sau, Tô Ôn Duẫn mới nói: "Vậy coi như ta nói nhầm."

Nếu các quan Đại Lý tự và bộ Công trông thấy Tô Ôn Duẫn lúc này, có lẽ họ sẽ phải chạy hết ra cửa sổ để xem ông trời có đi vắng không. Tô Ôn Duẫn mà chịu lép vế kia à? Trái lại, Chu Tử Thư chẳng để tâm, cậu chỉ thủng thẳng nói: "Thôi chuyện ấy cho qua. Tô đại nhân, vừa nãy hạ quan quá đỗi xúc động, đắc tội ngài rồi."

Hai người không nhắc lại việc này nữa.

Ngoài phòng có tiếng bước chân nặng nề. Chu Tử Thư tới bên cửa sổ, xốc mành nhìn ra. Lư tướng quân lưng hùm vai gấu đang khiêng một thùng nước vào sân, bước đi không chút vất vả. Hắn đặt thùng nước xuống đất rồi ngẩng lên nhìn Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư nói nhẹ tênh: "Đổ nước vào cái lu to, rồi múc thêm thùng nữa về đây."

Ánh mắt Lư Thâm tràn ngập phẫn uất, Chu Tử Thư lại vờ như không thấy, che cửa sổ lại.

Một lát sau, tiếng bước chân lại xa dần, Lư tướng quân đi múc nước tiếp rồi.

Quay lại phòng, thấy Tô Ôn Duẫn đang uống trà, Chu Tử Thư bỗng phát hiện ra rằng: Cậu và Tô Ôn Duẫn lúc nào cũng bàn bạc vào lúc đêm hôm khuya khoắt thì phải.

Rũ chuyện kì quái đó ra khỏi đầu, Chu Tử Thư nói: "Sau hôm nay, chuyện chúng ta bất hòa ắt sẽ lan truyền khắp thành U Châu. Phủ doãn U Châu Quý Triệu Tư là người phù hợp nhất để loan tin, ông ta không trực thuộc đại doanh U Châu, cũng không phải người của ty Ngân Dẫn. Có tin đồn ấy thì chúng ta sẽ dễ bề làm việc kín đáo, yểm trợ lẫn nhau. Tô đại nhân, lần đầu xâm nhập vào Liêu... nên cử ai đi?"

Tô Ôn Duẫn: "Lần đầu tiếp cận cần có sự hỗ trợ của ty Ngân Dẫn. Đường đại nhân nghĩ để ai làm thì hơn?"

Chu Tử Thư trầm ngâm giây lát: "Vậy hạ quan sẽ đi trước dò đường." Nói thì nói thế, nhưng trong bụng Chu Tử Thư mắng thầm: Phải chuyện béo bở liệu ngươi có nhường ta không? Ai chẳng biết việc dò đường là việc nguy hiểm nhất!

Hai người thương nghị rất lâu, tranh luận liên tục từ việc chọn người xâm nhập vào nước Liêu đến các đường dây chính trị trong nước Liêu. Mãi đến giờ Sửu, cả hai mới thống nhất.

Tô Ôn Duẫn khoác áo choàng đen, đội mũ trùm đầu lên, giấu gương mặt trong bóng mũ.

Cánh cửa phòng ken két mở ra, hai người ra khỏi phòng thì thấy Lư Thâm khiêng thùng nước, bước thình thịch về. Cái lu miệng rộng trong sân đã đầy nước. Thùng nước Lư Thâm mới khiêng về không có chỗ đổ thêm vào nữa. Hắn bèn thả uỵch xuống đất, làm nước nôi bắn tóe tung.

Lư Thâm ngẩng đầu, gương mặt kiên nghị lạnh lùng hết sức, mắt trợn lên nhìn Chu Tử Thư đầy tức tối.

Chu Tử Thư ngẩng lên nhìn sắc trời, nói: "Trời chưa sáng, mời Lư tướng quân múc hết nước trong lu trả về giếng."

Lư Thâm: "Ngươi...!"

Chu Tử Thư: "Lư tướng quân định cãi lệnh phỏng?"

Lư Thâm hít sâu một hơi, vác thùng nước lên, dợm bước đi. Ngay lúc ấy có tiếng Tô Ôn Duẫn cười nhạt: "Đổ về giếng thì bẩn quá, mà để cái lu trong sân thì đến sáng quan sai dịch quán lại phát hiện. Nên tính sao đây nhỉ?" Chu Tử Thư nhìn Tô Ôn Duẫn.

Tô Ôn Duẫn: "Chi bằng cứ thế này đi. Lư tướng quân, mỗi viện trong dịch quán đều có ba lu nước. Ngươi hãy đổ nước vào từng lu một ấy, mỗi lu đổ một thùng thôi thì không ai phát hiện được. Như thế hẳn là kín kẽ rồi chứ?"

Lư Thâm ngoái đầu lại, hai mắt hắn trợn ngược lên, tia nhìn như đốt xuyên người Tô Ôn Duẫn.

Ấy thế mà Tô Ôn Duẫn chẳng buồn để ý, chỉ cười hì hì bỏ đi.

Chu Tử Thư ngẫm nghĩ một lát, nói: "Làm theo lời Tô đại nhân đi."

Lư Thâm: "..."

Ông lại đổ cha cả thùng nước lên đầu hai thằng quan văn chết bầm chúng mi bây giờ chứ lại!

Tô Ôn Duẫn về rồi, tuy Lư Thâm không bằng lòng một tí nào nhưng vẫn phải nghe lệnh Chu Tử Thư. Trước khi trời sáng, hắn đã chia hết nước trong lu vào lu nước ở các viện khác. Hắn hành động kín đáo đến nỗi thần không biết, quỷ chẳng hay. Sáng sớm hôm sau, Chu Tử Thư ra khỏi nhà đã thấy Lư Thâm cầm trường kiếm, đứng canh bên ngoài như ông thần gác cửa, song thần thái hắn khá uể oải, hiển nhiên tinh thần rệu rã lắm rồi.

Chu Tử Thư nói: "Lư tướng quân, vào nhà đi." Lư Thâm lầm lì bước vào phòng.

Chu Tử Thư kiểm tra xung quanh thấy không có ai, bèn đóng cửa phòng lại.

"Lư tướng quân có ngầm thóa mạ, thù oán ta không đấy?"

"Mạt tướng chẳng dám."

"Vậy là có rủa rồi."

"..."

Chu Tử Thư: "Sư huynh ta đã từng nói, nhục mạ kẻ địch là đòn đánh trả hời hợt nhất. Một khi đã trả thù thật thì phải chôn vùi hi vọng, bóp nghẹt yết hầu, ép kẻ thù vào đường cùng cho bằng được. Triệt hạ kẻ thù từng phút từng giây, triệt hạ kẻ thù trong âm thầm lặng lẽ."

Lư Thâm nghe mà chẳng hiểu sao. Những điều Chu Tử Thư nói nằm ngoài tầm với của kẻ vũ phu một chữ bẻ đôi cũng không biết như hắn.

Chu Tử Thư cũng không hi vọng rằng Lư Thâm sẽ hiểu, cậu nghĩ bụng: Ôi, đạo làm quan của sư huynh, một tham tướng nhỏ nhoi làm sao thấu được?

"Không bàn chuyện ấy nữa. Lư tướng quân, ngươi vốn làm tham tướng trông coi cổng thành của đại doanh U Châu, nhưng trước giờ vẫn bất hòa với các quan văn trong thành, ta nói thế có đúng không?"

Lư Thâm tuy ít mưu mô nhưng không ngờ nghệch, hắn không hề đáp lại Chu Tử Thư, chỉ cúi gằm mặt.

Chu Tử Thư: "Ngươi không nói nhưng cả thành U Châu ai cũng biết. Ngươi căm thù quan văn vì lẽ gì? Ta biết, ngươi căm thù bởi ngươi là quy chính nhân."

Lư Thâm cứng người, ngẩng phắt đầu lên.

"Ngay cả khi đi thi, quy chính nhân cũng phải đeo băng đen trên đầu để tỏ rõ thân phận. Lúc chấm bài, quy chính nhân không bao giờ được vinh danh trong hai giáp đầu ở kì thi Đình. Quy chính nhân cũng không được phép giữ các chức quan từ tứ phẩm trở lên. Cả nước Đại Tống, chỉ có mình tướng quân Lý Cảnh Đức có thể trở thành Chinh Tây đại nguyên soái nhị phẩm lẫy lừng, hắn là quy chính nhân duy nhất nắm chức vụ quan trọng trong triều, chức vị mà hắn đã đổi bằng máu thịt." Chu Tử Thư nói, "Ngươi coi thường quan văn là bởi ở thành U Châu, tướng võ phải chém giết trên sa trường đẫm máu, còn quan văn thì ngồi chơi xơi nước, phải không?"

Lư Thâm: "... Mạt tướng không hề nói vậy!"

Chu Tử Thư: "Chính thế rồi."

Lư Thâm: "...."

Luận về đầu óc, Chu Tử Thư không chơi lại mấy lão cáo già ở Thịnh Kinh, nhưng đối phó với Lư Thâm thì thừa sức.

Chu Tử Thư: "Vốn ta không định giao việc này cho ngươi, nhưng hành động múc nước đêm qua đã chứng minh cho bản quan rằng, ngươi là một người lính biết phục tùng mệnh lệnh. Đã thế, việc xâm nhập nước Liêu sắp tới, ta sẽ giao phó cho ngươi."

Lư Thâm nghe vậy thì kinh hãi: "Xâm nhập nước Liêu ư?!"

Chu Tử Thư cười: "Đúng, xâm nhập nước Liêu. Chẳng phải ngươi nghĩ quan văn chẳng được tích sự gì, suốt ngày chỉ biết núp sau lưng tướng võ như mấy con rùa rụt cổ đấy ư? Chuyến này, hãy để bản quan dẫn ngươi đi xem quan văn có thể làm gì, xem liệu bọn ta có phải lũ sống chật đất, phí thời giờ không! Chỉ có điều, trong chuyến đi Liêu lần này, Lư tướng quân, bản quan xin phó thác hoàn toàn tính mệnh vào tay ngài." Nói đoạn, Chu Tử Thư chắp tay vái một cái.

Lư Thâm nào dám nhận lễ, vội vàng đỡ lấy Chu Tử Thư. Xem ra Lư Thâm đã hiểu ý Chu Tử Thư, hắn dè dặt hỏi: "Đại nhân, mạt tướng chỉ muốn hỏi kín một câu... vì sao ngài lại muốn sang nước Liêu, và qua đó rồi ngài định làm gì?"

Chu Tử Thư cười ha hả: "Làm cái việc mà ngươi đang nghĩ đấy!"

Mắt Lư Thâm sáng ngời, hắn chắp tay, thi lễ với Chu Tử Thư: "Mạt tướng nguyện theo đại nhân xâm nhập nước Liêu, quyết không phụ lòng tin cậy!"

Chu Tử Thư nhìn dáng vẻ hừng hực khí thế, chết cũng không từ của Lư Thâm bằng ánh mắt thản nhiên, thầm cảm thán: Tướng võ đúng là dễ lừa thật!

Ngay từ đầu Chu Tử Thư đã muốn đưa Lư Thâm sang Liêu cùng để bảo vệ mình, đồng thời thực hiện một số việc nguy hiểm. Bảo vệ cậu không phải mục đích duy nhất để hoàng đế phái Lư Thâm đi theo cậu, ông ta còn muốn Lư Thâm làm gián điệp, xâm nhập vào nước Liêu thu thập tin tình báo. Chỉ hiềm Lư Thâm uy mãnh có thừa mà mưu lược không tới, còn có thành kiến với quan văn, Chu Tử Thư muốn dùng hắn, sợ phải đắn đo nhiều.

Ngờ đâu, Chu Tử Thư mới nói hai câu, thái độ Lư Thâm đã quay ngoắt, sẵn sàng đầu rơi máu chảy, lên núi đao xuống biển lửa, tận tụy đến chết.

So với bầy cáo già nghìn tuổi ở Thịnh Kinh, tướng võ U Châu đúng là đáng yêu quá thể!

||

*tung hoa* Chương 100 rồi huhu.

Chú thích

Khổng Tử

------oOo------

Chương 101

Nguồn: EbookTruyen.Net

Con đi ngàn dặm mẹ âu lo

Hôm sau, Chu Tử Thư đến phủ Chinh Tây nguyên soái tìm Lý Cảnh Đức.

Lý Cảnh Đức đi vắng, đợi tầm nửa canh giờ mới thấy Lý tướng quân trong bộ quân phục chỉnh tề sải bước vào phủ nguyên soái. Thấy Chu Tử Thư, hắn hỏi ngay: "Chu Tử Thư, nghe nói ở bữa tiệc hôm qua của Phủ doãn U Châu Quý Triệu Tư, ngươi với Tô Ôn Duẫn ăn miếng trả miếng, cãi nhau ầm trời, rồi mặt nặng mày nhẹ ra về à?"

Phản ứng đầu tiên của Chu Tử Thư là: Thì ra Lý tướng quân cũng có thể nói một câu dùng đến hai thành ngữ.

Chu Tử Thư thở dài: "Quả thực là vậy, không ngờ chuyện bê bối như vậy lại đến tai Lý tướng quân. Đúng là chuyện tốt chẳng ra khỏi nhà, chuyện xấu truyền đi vạn dặm."

Lý Cảnh Đức khoát tay: "Hầy, sao lại nói thế? Chỉ có một vài người biết thôi mà. Chẳng qua thành U Châu là địa bàn của ta, cơn gió nào thổi, ngọn cỏ nào lay cũng không qua được đôi mắt tinh tường của bản tướng quân. Sao, Tô Ôn Duẫn bày trò ác ôn gì? Ngươi cứ kể ta nghe, giờ gã đang ở U Châu, bản tướng quân sẽ xả giận giúp ngươi."

Chu Tử Thư chắp tay: "Đa tạ Lý tướng quân, chuyện vặt vãnh thôi, phiền nhọc tướng quân quan tâm rồi."

Chu Tử Thư không nói thì Lý Cảnh Đức cũng không hỏi lại. Chinh Tây nguyên soái ngày ngày bận rộn huấn luyện binh sĩ, phòng chống quân Liêu, đâu rảnh mà đi trả thù Tô Ôn Duẫn cho Chu Tử Thư nguôi giận? Lý Cảnh Đức cứ nói thế, còn Chu Tử Thư không muốn nhận cái ơn đấy thì thôi.

"Hôm nay ngươi đến đây có việc gì?"

Chu Tử Thư nghiêm túc đáp: "Quả thực là có việc." Nói đoạn, Chu Tử Thư đứng lên, bước tới trước mặt Lý Cảnh Đức, cúi mình hành đại lễ. Lý Cảnh Đức vội vàng đỡ cậu: "Đường đại nhân làm gì thế, không được đâu. Lễ này chỉ để bái trời đất, vua, thầy, chứ đâu dành cho ta. Đừng nghĩ tướng võ như ta không biết phép tắc, ngươi có chuyện gì, nói mau."

Chu Tử Thư: "Nếu tướng quân đã thẳng thắn thế thì hạ quan cũng không giấu giếm. Hôm nay hạ quan tới đây để mượn lệnh bài của tướng quân."

Lý Cảnh Đức sửng sốt, chỉ nhìn Chu Tử Thư mà không nói gì. Trở lại U Châu mấy tháng, gương mặt đẹp trai hoang dại của hắn đã toàn râu là râu, che kín nửa mặt. Chẳng ai đoán nổi nét mặt và suy nghĩ của hắn sau bộ râu vĩ đại ấy, mà Lý Cảnh Đức cũng không vụng về lỗ mãng như người ta dễ lầm tưởng.

Một lúc lâu sau, Lý Cảnh Đức mới hỏi: "Cần dùng gấp hả?"

Chu Tử Thư: "Phòng xa thôi."

Lý Cảnh Đức cười ha hả: "Được, bản tướng quân biết rồi. Năm ngoái ở Thịnh Kinh, ngươi đã mấy dịp tương trợ bản tướng. Giờ ngươi chỉ cần mỗi một chiếc lệnh bài, chuyện vặt vãnh ấy thì có sá chi. Chu Tử Thư, ngươi hãy đi theo ta."

Chu Tử Thư đi theo Lý Cảnh Đức đến thư phòng của hắn.

Trong thư phòng của Lý tướng quân có mấy giá sách lớn, chật kín toàn sách là sách. Chu Tử Thư nhìn lướt qua, thấy có đủ Tứ thư Ngũ kinh, ngay cả những cuốn cho trẻ học vỡ lòng như Tam Tự kinh, Thiên Tự văn cũng đều được xếp trên giá. Quyển nào quyển nấy mới tinh, bóng bẩy, cứ như chưa có ai đọc bao giờ, chỉ để đó trưng bày thôi.

Lý Cảnh Đức lấy lệnh bài Chinh Tây nguyên soái, giao cho Chu Tử Thư.

"Tuy lệnh bài này không thể điều động thiên quân vạn mã, những hễ có nó, ngươi ở U Châu như giẫm trên đất bằng."

Chu Tử Thư chắp tay: "Đa tạ Lý tướng quân, chậm nhất là nửa tháng sau, hạ quan xin kính trả."

Lý Cảnh Đức cười ha hả: "Không cần không cần. Chỉ là cái lệnh bài thôi mà, mất thì đúc cái khác, thay hình dáng đi rồi báo cho mọi người biết cách nhận diện là được. Ngươi mà làm mất, ta càng có cớ để nổi cáu với CungTử Phong. Sư huynh ngươi đúng là đồ chẳng ra gì. Chớ tưởng ta chỉ dám nói thế ở U Châu nhé! Có đứng ngay trước mặt sư huynh ngươi ở Thịnh Kinh, ông đây cũng không sợ! Cái ty Ngân Dẫn rõ là đồ bỏ, không dưng bày vẽ ra thứ lạ lùng như ngân khế, làm đời sống doanh trại U Châu bấp bênh quá thể!"

Chu Tử Thư: "..."

Câu "đời sống bấp bênh" dùng thế là sai rồi!

Lý Cảnh Đức tiếp tục lên án Cung Tuấn, song, ăn của chùa phải quét lá đa, Chu Tử Thư không tiện tranh cãi. Cũng may, Lý Cảnh Đức chỉ được vài câu là chuyển sang nói xấu Tô Ôn Duẫn. Cung Tuấn đối nhân xử thế quá đỗi khôn khéo, không để lộ khuyết điểm nào. Lý Cảnh Đức chê tới chê lui cũng chỉ có thể mắng chàng mưu mô gian xảo, rồi phê phán ty Ngân Dẫn làm khổ nhân dân.

Còn Tô Ôn Duẫn thì Lý Cảnh Đức có đủ thứ mà nói.

"... Chẳng riêng gì ngươi, ta cũng cóc vừa mắt cái đồ giẻ cùi tốt mãđấy. Hai năm trước ta về Thịnh Kinh đúng lúc gã lên làm Thiếu khanh Đại lý tự. Thành U Châu có một người lính bị kết án, phải dẫn đến cho Đại lý tự thẩm tra, xử lí. Ôi cái thứ giẻ cùi đấy mới gớm ghê làm sao! Ông đây lù lù ngay đó mà gã dám tra tấn lính của ông gần chết. Cái ngữ ấy, đừng hòng ông quên tên. Ngươi chớ coi thường gã, trông mặt mũi sáng sủa thế thôi, tính tình còn ác ôn hơn cả CungTử Phong!"

Chu Tử Thư lẩm bẩm: "Sư huynh của ta còn ác được hơn thế."

Lý Cảnh Đức nghe không rõ: "Ngươi bảo gì cơ?"

Chu Tử Thư: "Tướng quân anh minh, nhìn thấu cả những điều nhỏ nhặt nhất. Hạ quan sẽ lưu ý."

Lý Cảnh Đức khoát tay: "Có gì to tát đâu. Bản tướng quân vừa mắt ngươi lắm đó, ngươi không giống lũ quan văn xấu bụng kia."

Chỉ được một chốc, Lý Cảnh Đức lại phải về đại doanh U Châu, Chu Tử Thư cũng cáo từ.

Nhìn bóng lưng Lý Cảnh Đức trên con tuấn mã phóng vụt đi, Chu Tử Thư nhẹ nhàng mân mê tấm lệnh bài giấu kín trong ống tay áo, lòng thầm cảm khái.

Tô Ôn Duẫn mà đòi sánh với sư huynh ta ư?

Tô Ôn Duẫn ngày xưa hẵng còn non tay lắm, làm ăn thế nào lại để Lý Cảnh Đức ghét cho. Phải sư huynh mình thì khéo miệng vừa tủm tỉm người đã lìa đời. Chưa biết chừng, Lý Cảnh Đức còn phải rối rít cảm ơn sư huynh ấy chứ!

Nhưng sau khi tiếp xúc với Lý Cảnh Đức, Chu Tử Thư thấy lợi ích của việc đóng kịch cùng Tô Ôn Duẫn bắt đầu bộc lộ rồi.

Ở buổi tiệc tại phủ nha U Châu hôm qua, Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn trở mặt thành thù trước sự chứng kiến của bao người. Tuy vụ việc không gây xôn xao, nhưng chắc chắn đã đến tận tai những người cần biết, trong đó có Lý Cảnh Đức.

Với vỏ bọc ấy, từ giờ, Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn sẽ dễ bề kiếm cớ làm rất nhiều việc. Đến lúc cần hỗ trợ lẫn nhau cũng không sợ bị ai nghi ngờ.

Việc này nhờ ai cũng không được, chỉ có Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn mới làm được thôi. Âu cũng là bởi nhiều quan lại đã biết chuyện Tô Ôn Duẫn và Chu Tử Thư có xích mích từ vụ sập cầu Thứ Châu ba năm trước. Từ bấy trở đi, hai người lúc nào cũng kình nhau. Vin vào cớ này, họ cố tình cãi vã thêm, khiến vỏ bọc càng thêm phần hợp lí.

Chu Tử Thư trộm nghĩ, khi Triệu Phụ sai cậu và Tô Ôn Duẫn hợp tác với nhau, liệu ông ta đã tính đến những chuyện này chưa?

Nếu quả đúng vậy thì quá đáng sợ!

Sau mấy ngày chuẩn bị ở thành U Châu, mùng sáu tháng tư, Ty Chính ty Ngân Dẫn Lâm Hủ dẫn theo vài người đến gặp Chu Tử Thư. Lâm Hủ đưa những người đó vào dịch quán, để họ chờ ở chỗ gác cổng, còn ông ta vào gặp Chu Tử Thư một mình. Lâm Hủ thưa: "Hạ quan bái kiến Khâm sai đại nhân. Chiều hôm qua, hạ quan đã nhận được thư của Cungtướng công từ Thịnh Kinh. Mọi chuyện Cungtướng công dặn dò trong thư, hạ quan đã thu xếp thỏa đáng. Những người hạ quan dẫn tới đây hôm nay đều là những người có thể tin tưởng tuyệt đối, đại nhân có muốn gặp họ không?"

"Dẫn vào ta xem."

Lâm Hủ nhanh chóng dẫn người vào phòng.

Tổng cộng có bốn người được Lâm Hủ đưa đến đây. Cả bốn đều là đàn ông trung niên, có hai người cao to phốp pháp, trông ra dáng người sống trong nhung lụa nhiều năm. Hai người còn lại tuy gầy nhưng tinh thần quắc thước, mặt mũi hồng hào, hiển nhiên cuộc sống cũng đầy đủ sung túc. Cả bốn trông đều giống nhà buôn, nhưng khi gặp Chu Tử Thư, họ không hề tỏ ra khúm núm sợ sệt như lái buôn thông thường gặp quan lớn. Tất cả cúi đầu đứng nghiêm, dường như đã thành nếp, biết rõ điều gì không nên làm, chuyện gì không nên nghe.

Chu Tử Thư quan sát kĩ cả bốn người, cuối cùng cậu dừng mắt ở một người đàn ông gầy và thấp. Người đàn ông trung tuổi gầy gò này có gương mặt góc cạnh, hao hao Lý Cảnh Đức. Cả hai đều không có huyết thống Liêu nhưng diện mạo lại khá tương đồng với dân Liêu. Hiện hắn đang buông thõng hai tay trước người, cử chỉ cung kính.

Lâm Hủ để ý thấy Chu Tử Thư quan sát kĩ, bèn thưa: "Cungtướng công cũng khuyên nên dùng người này đấy ạ." Chu Tử Thư ngạc nhiên nhìn ông ta.

Lâm Hủ: "Trong thư, Cungtướng công có dặn, nếu Đường đại nhân chọn người khác thì không cần nói gì thêm, bởi cả bốn người đều đáng tin cậy như nhau. Song nếu Đường đại nhân chọn người này thì Cungtướng công dặn ngài cứ sai sử không cần nghĩ ngợi. Tất cả những gì đại nhân từng nghe, từng nghĩ, từng đoán, đều do người này điều tra." Chỉ một câu đơn giản mà lòng Chu Tử Thư dậy sóng.

Thì ra Lâm Hủ là tâm phúc của sư huynh thật!

Ngay cả "bí quyết thăm dò tình báo nước Liêu qua ty Ngân Dẫn", sư huynh cũng không giấu Lâm Hủ, xem ra mình nên tín nhiệm người này hơn nữa.

Chu Tử Thư bình thản nói: "Chọn hắn ta đi."

Người đàn ông trung niên ấy cũng nhanh nhẹn, nói luôn: "Thảo dân Kiều

Dần, là con thứ chín trong nhà nên mọi người vẫn gọi là Kiều Cửu. Kiều Cửu xin hết lòng làm việc cho đại nhân, tuyệt đối không làm đại nhân thất vọng."

Chu Tử Thư: "Ngươi biết về lá trà không?"

Kiều Cửu: "Bẩm, thảo dân có biết. Thảo dân buôn bán nhiều, thời trẻ từng xuống miền Nam, theo bè bạn buôn trà, song đã lâu chưa quay lại nghề ấy."

Chu Tử Thư: "Khá lắm, ta lệnh cho ngươi trong vòng một ngày phải nhập vai thành lái buôn trà. Ngươi đến từ phủ Cô Tô, vùng Giang Nam, bán trà

Bích Loa Xuân nhất phẩm thượng hạng."

Kiều Cửu vâng dạ một phép.

Lâm Hủ đưa những người khác về, mình Kiều Cửu ở dịch quán thêm một lúc.

Đến chiều tối, thư Cung Tuấn gửi riêng Chu Tử Thư cũng tới dịch quán U Châu.

Chu Tử Thư vừa nhận thư từ quan sai, đã nóng lòng bóc ra. Trên tờ giấy

Tuyên mỏng manh là những con chữ phóng khoáng tuyệt đẹp của Cung Tuấn, tuy chàng viết thể chữ Khải nhỏ khá nho nhã, nhưng vẫn bộc lộ khí khái ngời ngời.

Trong thư, Cung Tuấn nói cho Chu Tử Thư biết chuyện chàng dặn dò Lâm Hủ lo việc chọn người giúp Chu Tử Thư, nhắn nhủ cậu đừng suy nghĩ nhiều, không cần phải nhúng tay, ty Ngân Dẫn đã lót đường hết bên Liêu, hiện giờ chỉ hợp thức hóa mọi việc bằng cách chuyển giao cho Chu Tử Thư mà thôi.

"... Hôm nay ta và tiên sinh cùng ngắm một gốc hải đường tơ rủ, vô số nhành cây lả xuống như suối tóc giai nhân. Nhớ đến Cảnh Tắc đang ở mãi tận U Châu, nơi cát vàng ngút trời, gió xuân chẳng tới, ta không nén được tiếng thở dài. Tiên sinh hỏi, cớ sao Tử Phong ưu sầu thế, ta bèn đáp rằng vì nhớ mong sư đệ. Biết xưa nay em vẫn thích trêu ta, rồi lại chẳng nói trúng, thất bại nhiều lần, chi bằng để ta kể em nghe tiên sinh trêu ta như thế nào nhé."

Cả một đoạn dài đầu thư Cung Tuấn viết chuyện chính sự nên Chu Tử Thư đọc rất nghiêm túc. Không ngờ đến cuối thư, Cung Tuấn lại kể chuyện lí thú của chàng. Mắt Chu Tử Thư sáng lấp lánh; tới thành U Châu đã nửa tháng nay, hầu như ngày nào Chu Tử Thư cũng căng thẳng, không dám thả lỏng chút nào. Giờ nhận được thư của Cung Tuấn, lòng Chu Tử Thư ấm áp xiết bao. Cậu khẽ lẩm bẩm: "Sư huynh ơi, ta cũng nhớ huynh lắm."

Rồi cậu đọc tiếp phần sau.

"Tiên sinh nói, người xưa có câu này, tặng cho Tử Phong thì quá hợp. Ta bèn hỏi tiên sinh, câu gì thế? Tiên sinh ngửa mặt lên trời thở dài, buông một câu: 'con đi ngàn dặm mẹ âu lo'! Tiểu sư đệ, em nói xem ta có nên lo cho em không đây?"

Chu Tử Thư đọc thư mà dở khóc dở cười, ngón tay cậu ve vuốt từng con chữ của CungTử Phong. Ban đầu cậu cứ cười chúm chím, nhưng sau một hồi, nụ cười của Chu Tử Thư tan đi. Cậu xúc động thốt lên: "Sư huynh vừa kể chuyện tiếu lâm cho mình, thậm chí không ngại lấy bản thân ra đùa vui, cốt là để mong mình thoải mái hơn và bớt áp lực lên bản thân đây mà."

Nghĩ vậy, nỗi thương nhớ CungTử Phong trong lòng Chu Tử Thư càng thêm da diết, Nỗi nhớ như chất rượu Thiêu Đao Tử khoái khẩu của những người lính U Châu, rót vào lòng Chu Tử Thư bao cháy bỏng.

Thế mà chỉ được một chốc, ngẫm lại những gì Tô Ôn Duẫn nói, cậu lặng người đi.

Ba ngày trước, có lẽ Tô Ôn Duẫn không lường được rằng mình sẽ bị Đường

Thận thẳng thừng quy kết là đặt điều bôi nhọ Cung Tuấn. Sự hù dọa của

Chu Tử Thư đã khiến Tô Ôn Duẫn tin ngay và tưởng mình hiểu lầm Cung Tuấn thật. Suy bụng ta ra bụng người, thậm chí anh ta còn xin lỗi Cung Tuấn.

Nào ai hay, chính Chu Tử Thư mới là người lung lay vì những điều anh ta nói trước! Cậu chỉ trích Tô Ôn Duẫn bằng những lí lẽ hết sức ngay thẳng, cốt là để bảo vệ Cung Tuấn thôi, chứ cậu không hề có chứng cứ nào thuyết phục cả.

Chuyện Cung Tuấn chăn đơn gối chiếc ở cái tuổi hai chín, không thể nằm ngoài ba nguyên nhân sau.

Thứ nhất, tiêu chuẩn của chàng cao quá, không vừa mắt ai mà cũng không chịu hạ mình, thế nên chàng chưa đính ước.

Thứ hai, Cung Tuấn bị "bất lực". Tuy cũng có người che đậy chuyện này, cưới bừa một cô vợ, thậm chí đổ tội không con lên đầu người phụ nữ để trốn tránh trách nhiệm, nhưng Chu Tử Thư biết Cung Tuấn không phải hạng người đó. Nếu sư huynh cậu bất lực thật, huynh ấy không đời nào làm khổ con gái nhà người ta.

Thứ ba...

"Nhẽ nào CungTử Phong thích nam giới thật?"

Đôi mày Chu Tử Thư như sắp xô cả vào nhau, mặt mũi cậu nhăn nhó chẳng khác nào trái khổ qua. Tình thế này quả là khó xử. Vắt óc suy nghĩ chán chê, Chu Tử Thư than thở: "Bất lực và đoạn tụ, cái nào đỡ hơn đấy?" Cậu im lặng trong chốc lát, rồi kết luận: "Dù thế nào thì chăng nữa, chuyện ấy cũng chẳng ảnh hưởng đến mình. Sư huynh thích con trai thì đã sao, huynh ấy vẫn là sư huynh của mình mà."

Mải ngắm nghía lá thư mỏng manh, Chu Tử Thư không nhận ra rằng khi nghĩ đến chuyện CungTử Phong có thích con trai không, bàn tay cậu vô thức vò suýt nát cả tờ giấy. Nhưng sau khi nghĩ kĩ càng, Chu Tử Thư lại thở phào nhẹ nhõm. Thậm chí, sâu thẳm trong tim cậu đã nảy sinh chút mong mỏi mơ hồ.

Chu Tử Thư cười tủm tỉm: "Tất nhiên, mình sẽ bầu bạn với huynh ấy trọn đời, đối xử với huynh ấy như người thân."

Quyết định ấy khiến tâm trạng của Chu Tử Thư thư thái biết bao. Cậu lấy giấy Tuyên, viết thư hồi âm cho Cung Tuấn.

Sáng sớm hôm sau, Chu Tử Thư lặng lẽ chuẩn bị hành lí, cất trong phòng ở dịch quán. Để che giấu tai mắt người ngoài, cậu để Phụng Bút ở lại U Châu, đi Liêu một mình. Buổi sáng, Chu Tử Thư gọi một quan sai đến, giao thư gửi Cung Tuấn cho người đó: "Chừng mấy ngày thì đến Thịnh Kinh?"

Quan sai thưa: "Bẩm đại nhân, thư này không phải việc quân, không thể gửi hỏa tốc được. Bình thường gửi thư tốn khoảng sáu ngày. Nếu đại nhân cần, tiểu nhân có thể dặn riêng, chừng bốn ngày là thư đến ạ."

"Bốn ngày à... Không cần đâu, sáu ngày là được."

"Vâng."

Lúc đi gửi thư thì Chu Tử Thư gặp phải Tô Ôn Duẫn.

Hai người đứng giữa hành lang nhìn nhau.

Tô Ôn Duẫn nở nụ cười giả dối: "Đường đại nhân, tình cờ ghê nhỉ!"

Chu Tử Thư chắp tay hành lễ: "Hạ quan bái kiến Công bộ Hữu thị lang đại nhân."

Tô Ôn Duẫn lườm nguýt rồi cất bước. Khi hai người họ lướt qua nhau, Chu Tử Thư rì rầm một câu: "Khuya hôm nay."

Tô Ôn Duẫn sững lại giây lát, rồi nghênh ngang đi tiếp.

Đêm đến, thành U Châu lặng im không tiếng động, chỉ có gió mùa xuân ào qua những tán cây Hồ dương trong thành, tiếng cành lá nghe xào xạc.

Phía Đông thành U Châu, hai xe ngựa chở quân lương lịch kịch chạy qua.

Xe ngựa đến cổng thành thì bị chặn lại, tướng sĩ gác cổng lớn tiếng hỏi: "Xe gì đây, nửa đêm ra ngoài thành có việc gì?"

Quan sai đi theo xe ngựa lập tức gửi tờ giấy phép đến tận tay tướng sĩ, cười xòa: "Đại nhân, tiểu nhân là sai dịch của ty Ngân Dẫn. Ty Ngân Dẫn mới nhập quân lương về, Chinh Tây đại nguyên soái Lý tướng quân cần gấp nên mới phải vận chuyển gấp lúc đêm hôm thế này. Ngài hãy xem, đây là ấn quan của ty Ngân Dẫn và ấn phê chuẩn của Lý tướng quân."

Binh tướng thành U Châu và ty Ngân Dẫn trước giờ vẫn bất hòa với nhau, người lính gác cổng săm soi kĩ tờ giấy phép, thấy đúng là ấn quan của ty Ngân Dẫn. Còn ấn lệnh bài của Chinh Tây nguyên soái ở trên chắc cũng là thật.

Ty Ngân Dẫn bị thù ghét như vậy vì hai lí do. Một là ty này quản lí hết lương thực, tiền bạc và đồ quân dụng của toàn bộ đại doanh U Châu. Hai là ty này vận hành theo một cách rất khó đoán. Ngoài chuyện ngân khế ra, những việc bất thường như vận chuyển quân lương vào lúc nửa đêm ty Ngân Dẫn đều đã làm hết, còn không chỉ thực hiện một lần.

Người lính ấy định gây khó dễ, nhưng tay lính gác cùng đã bảo: "Ôi chao, đúng là kiểu của Lý tướng quân đây. Tính tình tướng quân thế nào ông với tôi biết quá rồi còn gì, cho đi đi."

Người lính ấy cân nhắc một chút, cực chẳng đã đành nói: "Đi đi."

Cổng thành kĩu kịt mở ra, đám lính chẳng hề kiểm tra xem trên xe có gì, cứ thể thả hai cỗ xe ngựa ra cổng.

Xe chở quân lương rời khỏi thành U Châu là chuyện quá đỗi bình thường, không thể khiến ai chú ý. Thậm chí, chuyện còn chưa đến tai Lý Cảnh Đức. Bản thân hắn không hề biết rằng mình đã điều hai xe quân lương từ ty Ngân Dẫn vào lúc nửa đêm.

Mùng tám tháng tư, mây che dầy đặc, vắng bóng Tuấng sao.

Trong dịch quán U Châu, Tô Ôn Duẫn cả đêm không ngủ. Anh ta ngồi ở bàn trà, tự châm trà uống. Đến khi trời hửng sáng, Tô Ôn Duẫn muốn rót thêm một chén thì bỗng phát hiện ấm trà rỗng không, còn bụng mình đã no nước lạnh.

Về phía Chu Tử Thư, cậu thuận lợi dẫn các thuộc hạ ra ngoài thành U Châu mà không đánh động bất kì ai.

Đến biên giới Tống – Liêu, hai cỗ xe ngựa được ngụy trang kiểu khác.

Chàng trai trẻ tự xưng là sai dịch của ty Ngân Dẫn chính là con trai ruột của

Kiều Cửu. Họ cải trang rất nhanh, Kiều Cửu đóng vai lái buôn trà vùng Giang Nam, còn nhóm Chu Tử Thư thì hóa thân thành bạn buôn đồng hành cùng Kiều Cửu. Nhóm tướng võ của Lư Thâm thì cải trang thành đội võ sĩ đi theo đoàn.

Trên xe chở quân lương là một bao lá trà đóng gói.

Tại biên giới Tống – Liêu, Kiều Cửu lấy giấy phép của phủ nha U Châu được chuẩn bị sẵn, thuận lợi thông quan, tiến vào nước Liêu.

Ở sát biên giới hai nước thì bên Liêu cũng không khác gì so với bên Tống. Thành quách, thị trấn, tửu lầu, cái gì cần thì đều có đủ. Khi đi sâu vào hơn, số đô thành bắt đầu giảm dần. Dọc đường đi, họ chủ yếu gặp những bộ lạc di chuyển thành đoàn lớn. Mỗi lần gặp thành nhỏ, tất cả mọi người sẽ dừng chân để tiếp tế thêm hàng hóa, vật tư.

Song có một chuyện đi ngược với dự kiến của họ.

Khi mới vào lãnh thổ Liêu, khu vực biên giới Liêu – Tống, nhóm Chu Tử Thư thường xuyên thấy người Liêu hằm hè nhìn mình như thể kẻ thù muôn kiếp. Trái lại, khi vào sâu trong nội địa, những người Liêu không trực tiếp tham gia vào giao tranh giữa Liêu và Tống đều không tỏ ý thù địch dữ dội với nhóm Chu Tử Thư, mặc dù họ không ngần ngại thể hiện sự ngạo mạn và khinh miệt trong cử chỉ và lời nói.

Cả đoàn đương đầu với gió cát suốt sáu ngày trời mới đến được Nam Kinh Tích Tân phủ của nước Liêu trong trạng thái mệt nhoài.

Lúc vào cổng thành, Kiều Cửu khom lưng uốn gối, lót tay liên tục cho lính gác thành người Liêu. Chu Tử Thư đứng trước phủ Tích Tân nguy nga bề thế, chậm rãi ngẩng đầu. Nhìn hai chữ "Tích Tân" vĩ đại tạc trên cổng thành, cậu thấy lòng mình trào dâng xúc động, mãi không bình tĩnh nổi.

"Công tử nhìn gì thế ạ?"

Chu Tử Thư quay đầu lại. Người vừa hỏi là con trai của Kiều Cửu. Ở đội buôn, con trai Kiều Cửu đóng vai người làm thuê, còn Chu Tử Thư lại đóng vai con trai Kiều Cửu.

Lái buôn nước Tống đến Liêu đều chuộng trùm vải bố để chắn gió cát.

Vải bố nâu che kín mặt Chu Tử Thư, chỉ chừa ra đôi mắt. Cậu gật đầu, trỏ lên hai chữ Tích Tân trên cổng thành, nói: "Hai chữ này viết khá lắm, còn là chữ Hán nữa."

Kiều Hạnh nói: "Tên cũ của Nam Kinh vốn không phải phủ Tích Tân.

Mười năm trước, Cungtử Thái sư của nước Liêu mới đổi tên cho thành, nghe đồn chính ông ta viết hai chữ này đấy ạ." Nói đoạn, anh ta hạ giọng, thì thầm vào tai Chu Tử Thư: "Đại nhân thích chữ của Cungtử Thái sư nước Liêu không? Việc sở hữu tác phẩm của ông Thái sư này không đến nỗi bất khả thi. Nếu ngài muốn, sẽ có cách kiếm." Chu Tử Thư cười nhạt.

Người Liêu viết chữ Hán, dẫu đẹp đi chăng nữa thì có thể đẹp cỡ nào?

Chữ của Cungtử Thái sư nước Liêu không tệ, nhưng cũng chỉ ngang trình độ Chu Tử Thư là cùng. So với Phó Vị hay Cung Tuấn thì chẳng khác nào múa rìu trước cửa Lỗ Ban.

Kiều Hạnh phát hiện rằng mình xun xoe nhầm chỗ, bèn im re.

Kiều Cửu đút hết ba túi tiền mới đẫy diều bọn lính gác. Dầu vậy, tiền qua trót lọt là tín hiệu tốt, nhóm lính Liêu để mặc họ vào thành, không hề nghi ngờ gì cả.

Vào phủ Tích Tân, mọi người nghỉ chân ở nhà trọ mà Kiều Cửu đã thu xếp từ trước.

Chu Tử Thư đứng bên cửa sổ ngắm nhìn phủ Tích Tân. Người hầu sắp xếp đồ đạc giúp cậu không hiểu cậu đang nhìn gì, nhưng Chu Tử Thư biết, cảnh tượng trước mắt cậu không phải Tích Tân, mà là Bắc Kinh sung túc tột đỉnh của nghìn năm sau!

Đúng, Nam Kinh Tích Tân phủ của nước Liêu chính là Bắc Kinh sau này.

Nước Liêu được thành lập chủ yếu từ sự liên minh của các bộ lạc, không có quá nhiều thành thị lớn. Năm đô thành quan trọng nhất được gọi là Ngũ Kinh, theo thứ tự là Thượng Kinh Lâm Hoàng phủ, Trung Kinh Đại Định phủ, Đông Kinh Liêu Dương phủ, Tây Kinh Đại Đồng phủ, và Nam Kinh Tích Tân phủ. Thượng Kinh Lâm Hoàng phủ là thủ đô của nước Liêu, bốn kinh còn lại được gọi là bồi đô.

Đến phủ Tích Tân, Chu Tử Thư trào dâng xúc động. Song cậu không hề biết, nghìn năm nữa, vùng đất mình đang đứng sẽ không trở thành Bắc Kinh trong trí nhớ của cậu.

Chu Tử Thư nhắm mắt, thở dài, hỏi: "Bên Kiều Cửu sao rồi?"

Người hầu này biết rõ mọi tình hình, nghe đâu là tâm phúc của Kiều Cửu. Người ấy nói: "Bên lão gia đã sắp xếp ổn thỏa từ trước rồi ạ. Hôm nay muộn rồi, mời đại nhân tạm nghỉ sớm. Ngày mai, đoàn ta sẽ tìm kế tiếp cận các hiệu buôn nước Liêu."

Chu Tử Thư gật đầu, chờ người hầu ấy đi, cậu thổi tắt nến, phòng trọ liền tối om.

Cùng lúc đó, ở phủ Thượng thư bộ Hộ trong thành Thịnh Kinh cách đó ngàn dặm.

Cung Tuấn mới về từ hoàng cung, hôm nay chàng bị hoàng đế gọi vào đài Đăng Tiên, nói chuyện hơn một canh giờ.

Sau khi Thái hậu qua đời và chính ông ta cũng đổ bệnh nặng, khó có thể nói rằng tính tình Triệu Phụ không có sự đổi thay. Chu Tử Thư vẫn đang ở U Châu nên không biết, nhưng Cung Tuấn thì cảm nhận hết sức rõ ràng. Sau khi vào cung, giờ Cung Tuấn đã về đến nhà. Chàng đang giang tay cho thư đồng hầu mình thay y phục thì quản gia gõ cửa xin vào, cầm theo phong thư, nói: "Công tử, có thư từ U Châu gửi đến."

Đôi mày Cung Tuấn khẽ máy một cái, chàng cất tiếng nói thanh nhã: "Thư

Cảnh Tắc à?"

"Vâng."

Khóe môi Cung Tuấn nhếch lên, chàng nhẹ giọng bảo: "Tạm thời không thay y phục, ngươi lui xuống đi." Thư đồng ngoan ngoãn dạ vâng.

Cung Tuấn chẳng màng quần áo đang thay dở, cũng chẳng buồn nghĩ xem dáng vẻ hiện giờ có khiến phong thái công tử thế gia hao hụt phần nào. Chàng tới chỗ quản gia lấy lá thư của Chu Tử Thư. Đặt những ngón tay thon thả lên mặt lá thư, Cung Tuấn bình tĩnh nhìn bốn chữ "Thân gửi sư huynh", đoạn bóc bao thư ra.

Vừa thấy hàng chữ đầu tiên, Cung Tuấn đã cười mất một lúc.

Ngay đầu lá thư, Chu Tử Thư dùng nét chữ hệt như chữ Cung Tuấn, viết một câu thật bất ngờ: "Kính thỉnh sư huynh:

Lý an kính khấu3..."

[3] Dùng hỏi thăm sức khỏe bề trên

Cung Tuấn chưa đọc tiếp vội, đôi mắt sâu thẳm của chàng lưu luyến mãi hai dòng giữ đầu. Hồi lâu sau chàng mới nghiêng mặt, cười hiền lành hỏi quản gia: "Hồi ở Lang Gia Cungthị ngươi đã từng đọc nhiều sách vở. Không biết ta có lẫn không, khi viết thư, những cụm từ như 'kính thỉnh' hay 'lý an kính khấu' đều dùng để thưa gửi với cha mẹ phải không?"

Quản gia nào biết Cung Tuấn đang nói ở đâu, ông ta nghiêm chỉnh thưa: "Bẩm công tử, đúng thế ạ."

Ngụ ý: Ngài không nhớ lầm đâu, thường con gái sẽ dùng hai cụm từ ấy để thưa với cha mẹ.

Cung Tuấn mỉm cười điềm nhiên, huơ lá thư trên tay: "Thư con ta gửi, phải đọc cho kĩ. Ngươi lui xuống trước đi."

||

Siêu bận mà chương này vừa dài vừa nhiều thành ngữ xD Lời tác giả:

Tiểu Thư Lang: Cha ơi ~ Con có phải đứa con trai mà cha cưng nhất không hả cha?

Anh Cunghàng xóm: "Ngoan quá, con thích được cha cưng chỗ nào?" *cười*

Lưu ý (bấm vào để đọc)

Tình tiết truyện không phản ánh quan điểm của người edit :D Nhiều truyện Tàu hay có mấy đoạn kiểu "Trung Hoa là cái rốn văn minh vũ trụ", rồi những tình tiết trong những chương về U châu, Chu Tử Thư tỏ ra coi thường những người ít học hơn. Đây là những suy nghĩ mà mình không bao giờ tán thành. Có thể tác giả muốn khắc họa sát thái độ của tầng lớp sĩ phu quyền lực thời xưa (mà Chu Tử Thư bị ảnh hưởng dần theo thời gian), nhưng mình nghĩ là một sinh viên hiện đại, một người mong muốn thay đổi cuộc sống của nhân dân, Chu Tử Thư nên suy nghĩ cởi mở hơn nữa. Thực tế, quan điểm coi thường người có bằng cấp thấp hơn/không có điều kiện học hành, hay sự kì thị với chủng tộc, nền văn

hóa khác vẫn còn quá phổ biến. Có lẽ nó không chỉ là vấn đề của riêng Chu Tử Thư và những người Tống, Liêu trong truyện. Mình tin rằng các bạn đọc đều tỉnh táo, và không bị những góc nhìn phiến diện thế này chi phối :)

Chú thích

Ý là Chu Tử Thư đang có việc nhờ Lý Cảnh Đức nên phải nhún nhường

Gốc là cụm "tiểu bạch kiểm" với nghĩa chỉ hạng người chỉ được cái mã nhưng vô tích sự. Giẻ cùi là loài chim có lông rất đẹp nên thành ngữ mới ví von thế. Đọc lại

Hải đường tơ rủ

------oOo------

Chương 102

Nguồn: EbookTruyen.Net

Thương buôn nước Liêu

Cứ theo tính toán của Chu Tử Thư, khi cậu đến Tích Tân phủ thì lá thư cũng đến tay Cung Tuấn rồi.

Nếu gửi hỏa tốc thì chỉ cần bốn ngày là thư tới nơi, nhưng Chu Tử Thư chọn sáu ngày vì một lẽ đơn giản. Giờ cậu đã đến phủ Tích Tân, dầu Cung Tuấn đọc thư xong có nổi giận, biên thư trách móc vài câu, thì ở phương trời xa tít tắp cậu cũng chẳng nhận được.

Đúng, Chu Tử Thư cố tình viết thế đấy.

Chỉ cho CungTử Phong "con đi ngàn dặm mẹ âu lo", không cho Đường Cảnh Tắc cậu "ta coi sư huynh như cha hiền" à?

Chu Tử Thư tự hỏi: Không biết CungTử Phong có giận không nhỉ?

Nghĩ kĩ thì chắc huynh ấy chẳng giận đâu.

Với phong cách của sư huynh nhà cậu, dẫu có giận thật, huynh ấy cũng để trong lòng chứ chẳng thể hiện ra. Có khi bao giờ cậu về Thịnh Kinh sư huynh mới trả đũa cậu. Song, chuyện tương lai để mai hẵng tính, Chu Tử Thư chẳng để bụng làm gì, chỉ cần trêu sư huynh được hai câu là cậu đã sướng tỉnh cả người rồi.

Đến Tích Tân phủ, Chu Tử Thư vẫn chưa xuất đầu lộ diện để hành động. Phần lớn công việc cậu đều giao cho Kiều Cửu xử lí.

Kiều Cửu là thuộc hạ của Cung Tuấn, tuy hắn chưa gặp Cung Tuấn nhiều, nhưng hắn phải là người có tài mới được Cung Tuấn trọng dụng. Chỉ trong ba ngày ngắn ngủi, hắn đã quen hết những thương gia người Liêu có nhu cầu mua lá trá, dần thâm nhập vào vòng buôn bán ở Tích Tân phủ.

Ở nước Liêu, dân thường không có họ. Ngoài quý tộc ra, ai muốn có họ phải được quý tộc ban cho.

Người Liêu chỉ có hai họ: Gia Luật và Tiêu.

Đêm khuya, trong sương phòng của nhà trọ, Kiều Cửu thì thầm với Chu Tử Thư: "Đại nhân, tiểu nhân đã làm quen được với ba thương lái người Liêu, một người tên là Tiêu Luật, một người tên là Gia Luật Kỳ, người còn lại chưa được ban họ. Đại nhân có chỗ chưa biết, dòng họ Gia Luật nắm hoàng quyền của cả nước Liêu, quyền cao chức trọng, còn họ Tiêu là dòng họ của các hoàng hậu. Hoàng hậu nước Liêu luôn luôn mang họ Tiêu. Phần lớn các vùng ở nước Liêu đều do họ Gia Luật cai trị, nhưng ở Tích Tân phủ thì khác. Tích Tân phủ gần Đại Tống ta, ở nơi đây, tục lệ của người Hán khá phổ biến, phủ nha của các quan miền Nam cũng đặt tại đây."

Chu Tử Thư: "Điều này ta đã biết."

Kiều Cửu xấu hổ: "Tiểu nhân mạo phạm, đại nhân nhìn xa trông rộng, mưu tính sâu xa, chút chuyện mọn này hiển nhiên không lọt qua mắt thần của ngài."

Chu Tử Thư liếc nhìn Kiều Cửu.

Xưa này thường chỉ có Chu Tử Thư đi nịnh người khác chứ chả mấy ai nịnh cậu. Kỳ thực, Chu Tử Thư mới làm lễ đội mũ đã là quan lớn tứ phẩm, dẫu ở thành Thịnh Kinh, địa vị của cậu trong giới quan kinh thành cũng rất cao. Song, Chu Tử Thư lại làm việc ở điện Cần Chính, nơi tứ phẩm là cấp bậc thấp nhất. Hằng ngày, cậu không tiếp xúc với hoàng đế thì tiếp xúc với quyền thần như Cung Tuấn, Tô Ôn Duẫn, thành thử mỗi khi so sánh, lúc nào cậu cũng chỉ là một viên quan "tép riu" mà thôi.

Cảm giác được người khác nịnh nọt khiến Chu Tử Thư thở dài. Kiều Cửu cũng khá vất vả; là thương nhân, bản thân không đỗ đạt công danh, hắn toàn tâm toàn ý làm việc cho Cung Tuấn, Chu Tử Thư, âu cũng là để lót đường cho con cháu mai sau.

Chu Tử Thư thông cảm với tâm lí của hắn ta, cậu nói: "Ngươi làm việc tốt lắm, ba thương nhân ngươi tiếp xúc cũng có thân phận hợp với điều kiện của chúng ta."

Kiều Cửu thấy Chu Tử Thư hài lòng thì biết mình không nói gì sai, bèn thở phào nhẹ nhõm. "Bẩm đại nhân, ngài thật sáng suốt khi sai tiểu nhân đóng giả thương lái trà để xâm nhập nước Liêu." Câu này không phải chỉ để nịnh, Kiều Cửu khen thật lòng, "Trà và gốm sứ đều là những mặt hàng xa xỉ mà chỉ quý tộc và quan lớn ở nước Liêu mới sử dụng được. Nếu đóng giả nhà buôn đồ sứ thì việc vận chuyển hàng hóa tương đối lỉnh kỉnh. Thế nên, lái buôn trà chính là cách che giấu thân phận hợp lí nhất."

Thực ra ý tưởng này không phải của Chu Tử Thư mà là của Tô Ôn Duẫn.

Nhưng chuyện ấy không cần giải thích làm gì. Chu Tử Thư suy nghĩ rồi nói: "Trong ba nhà buôn, tạm thời không cần quá gần gũi với người chưa được ban họ. Nhiệm vụ cấp thiết của chúng ta không phải là buôn trà mà là xâm nhập vào nội bộ nước Liêu. Họ Gia Luật và họ Tiêu..." Chu Tử Thư trầm tư một thoáng, mỉm cười: "Quan miền Nam và quan miền Bắc, ngươi nhắc ta mới nhớ. Nội bộ nước Liêu không đoàn kết vững mạnh như vẻ bề ngoài! Ngươi hãy làm thế này..."

Thương nhân người Liêu rất hoan nghênh việc thương nhân Tống sang Liêu để làm ăn, bởi trên đời này chẳng ai từ chối tiền cả. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc Kiều Cửu sẽ có chỗ đứng trong mắt những nhà buôn người Liêu cao ngạo.

Dẫu quà cáp, đãi mời đến táng gia bại sản, Kiều Cửu cũng không thể lấy lòng người Liêu.

Nhưng nước Liêu lại có mâu thuẫn nội bộ hết sức gay gắt!

Chu Tử Thư: "Vấn đề lớn nhất của nước Liêu là sự phân chia quan miền Nam, miền Bắc. Ngươi cũng nói rằng Tích Tân phủ là thành trì của quan miền Nam, vậy ngươi hãy dần dần xa lánh lái buôn họ Gia Luật kia đi mà làm thân với người họ Tiêu, chúng ta sẽ móc nối việc làm ăn với người ấy."

Kiều Cửu: "Đại nhân, làm thế có sợ mất lòng không?"

"Cái chúng ta cần là mất lòng đấy. Ngươi nghĩ mình có thể suôn sẻ chiếm được lòng tin của cả hai người họ ư?"

"Tiểu nhân không dám."

Chu Tử Thư: "Được ban họ tức là hai người ấy đều có chỗ dựa. Những người như vậy đi buôn, đa phần đều không chỉ kinh doanh cho bản thân mà còn phục vụ người đứng sau lưng họ nữa. Nếu ngươi thân với thương nhân họ Tiêu, thì người họ Gia Luật kia tất sẽ sinh lòng thù hận, thậm chí cố tình ngáng chân việc buôn trà chúng ta. Ở Liêu chúng ta thân cô thế cô, họ muốn làm gì cũng dễ như trở bàn tay."

Kiều Cửu không ngu dốt, hắn hiểu ý Chu Tử Thư: "Nhà buôn Tiêu Luật kia hiển nhiên sẽ không khoanh tay đứng nhìn."

Chu Tử Thư cười: "Nếu cứ quà cáp để lấy lòng, chưa chắc Tiêu Luật đã nể trọng hay coi ngươi là bạn thực thụ. Có được phải có mất, khi hắn thấy ngươi phải hi sinh rất nhiều chỉ để buôn bán với hắn, cùng chung hoạn nạn với hắn, hắn mới chấp nhận đánh bạn với ngươi."

Kiều Cửu nở nụ cười gian manh của con buôn: "Tiểu nhân đã hiểu. Mưu kế của đại nhân, tiểu nhân học nữa, học mãi cũng không theo kịp."

Chu Tử Thư bật cười, không nói thêm nhưng nghĩ bụng: Riêng điệu bộ nịnh hót của ngươi đã kém xa ta rồi!

Kiều Cửu là thuộc hạ của Cung Tuấn, để hắn làm việc, Chu Tử Thư vẫn hết sức yên tâm.

Chu Tử Thư triệu Lư Thâm vào.

Lư Thâm phiền muộn đã lâu, cả ngày rầu rĩ buồn bực.

Tướng võ đúng là ruột để ngoài da, Chu Tử Thư vừa trông biểu cảm của hắn là biết trong lòng Lư Thâm đang nghĩ gì. Chu Tử Thư nói: "Lư tướng quân đang nghĩ, trước khi đi ta bảo dẫn ngươi theo làm chuyện trọng đại, ai ngờ tới đây, ngươi và thuộc hạ phải chôn chân ở quán trọ bình dân này, trông hàng hóa cả ngày. Ngươi nghĩ ta lừa ngươi phải không?"

Thái độ của Lư Thâm với Chu Tử Thư đã thay đổi, không bất kính như trước nữa. Hắn chắp tay: "Mạt tướng không dám, mạt tướng biết, thời gian gần đây tuy đại nhân chỉ ở quán trọ, nhưng Kiều Cửu làm gì cũng do đại nhân sai sử cả, đại nhân không thư thả chút nào."

"Còn ngươi thì đang thư thả quá đấy."

Lư Thâm không đáp, hiển nhiên hắn ta rất bức xúc chuyện này.

Chu Tử Thư: "Yên tâm, giờ gọi ngươi đến là vì có việc cần giao." Mắt Lư Thâm sáng ngời: "Xin đại nhân cứ sai bảo, mạt tướng tuyệt đối không làm đại nhân thất vọng."

"Ngươi cũng không được phép làm ta thất vọng đâu!" Chu Tử Thư chợt nghiêm giọng. Cậu mô tả sơ công việc mình định giao cho Kiều Cửu, rồi nói: "Mâu thuẫn trong nội bộ nước Liêu không chỉ xảy ra giữa quan miền Nam và quan miền Bắc. Vua Liêu nay đã ngoài năm mươi tuổi, thuở trẻ từng chinh chiến sa trường nên về già không tránh khỏi bệnh tật. Liêu đế có tổng cộng bốn vị hoàng tử, trong số đó, ta đã gặp tam hoàng tử ở Thịnh Kinh. Người này thân thế hiển hách, chiếm được sự ủng hộ vững chắc của các quan miền Bắc. Giờ ta cần ngươi điều tra rõ xem trong các quan miền Nam và miền Bắc ở Tích Tân phủ, ai về phe hoàng tử nào."

Lư Thâm nghĩ kĩ càng, nói: "Đại nhân, mạt tướng nhất định sẽ làm tròn nhiệm vụ. Hiềm nỗi, chưa chắc các quan Liêu đã về dưới trướng các hoàng tử, Liêu đế hẵng còn khỏe mạnh mà."

Chu Tử Thư mỉm cười: "Tích Tân phủ và Thượng Kinh Lâm Hoàng phủ có xa nhau không?"

Lư Thâm: "Ngàn dặm xa xôi."

Chu Tử Thư: "Gần đây, Liêu đế yếu dần, liệu ông ta có muốn phái tâm phúc của mình đến nơi muôn trùng cách trở như Tích Tân phủ không? Làm người, ai cũng có toan tính riêng. Huống hồ..." Chu Tử Thư ngừng một lát rồi mới nói tiếp: "Huống hồ, hồi ở Thịnh Kinh ta đã phát hiện, Cungtử Thái sư, một người có địa vị cao trong giới quan miền Bắc, có dấu hiệu ngả về phe Tam hoàng tử Gia Luật Hàm. Ngay cả Cungtử Thái sư còn mưu tính riêng, chẳng nhẽ các quan khác lại không biết đường?"

Lư Thâm nghe thế thì giật mình hiểu ra, cái nhìn của hắn với Chu Tử Thư càng thêm phần kính nể. Lư Thâm không khua môi nịnh nọt, hắn chỉ hùng hồn nói: "Đại nhân nói rất phải, mạt tướng xin đi làm ngay!"

Chờ Lư Thâm đi rồi, Chu Tử Thư rót cho mình chén trà, từ từ thả mình vào dòng suy nghĩ.

"Nếu sư huynh ở đây, chắc huynh ấy cũng sẽ bảo, quan nước Liêu có toan tính riêng phần nhiều là do tính tình Liêu đế!" Cậu thở dài khe khẽ, bỗng cảm nhận được nỗi quạnh quẽ khi vắng bóng một người tri âm tri kỉ trong đời.

Tính tình vua Liêu nóng nảy, kiêu dũng thiện chiến, thời trẻ được mệnh danh Thường Thắng tướng quân. Về già, thương tích thành bệnh tật, dẫu ông ta có lòng đa nghi, nhưng rốt cuộc chỉ là một tay vũ phu. Những toan tính của các quan nước Liêu, có thể ông ta biết, mà cũng có thể không biết. Nhưng dù sao đi chăng nữa, tất cả đã muộn màng rồi.

Trong triều đình nước Liêu, bè phái các quan đã vững mạnh. Dẫu Liêu đế muốn trị họ thì cũng không phải chuyện một sớm một chiều.

Muốn diễn cũng phải tìm đúng khán giả.

Nói chuyện triều chính nước Liêu với người chậm hiểu như Lư Thâm, Chu Tử Thư thấy chẳng khác nào đàn gảy tai trâu, lãng phí nước bọt, thế nên cậu không nói.

Tuy Lư Thâm thiếu nhạy bén, nhưng được cái làm việc đâu ra đấy, nếu không Triệu Phụ đã không sai hắn phụ giúp Chu Tử Thư.

Chưa tới mười ngày, Kiều Cửu đã gửi tin tốt về. Lá trà vận chuyển vào U Châu của họ bị một quan sai nước Liêu chặn lại, chắc chắn có sự giật dây của thương lái người Liêu Gia Luật Kỳ. Kiều Cửu ấm ức lắm, khiếu nại lên quan Liêu để chứng minh rằng mình bị oan. Nhưng quan người Liêu còn lâu mới quan tâm đến lái buôn người Tống. Hắn bị vụt cho mười hèo rồi bị đuổi cổ ra khỏi phủ nha.

Kiều Cửu đã đứng tuổi, mười hèo như trời giáng khiến hắn hút chết. Kiều Cửu nằm liệt giường không dậy nổi, sốt cao mười ngày. Khi tin ấy đến tai Tiêu Luật, Kiều Cửu đã có thể xuống giường đi lại.

Tiêu Luật đích thân đến nhà trọ gặp Kiều Cửu.

Thấy Kiều Cửu lảo đảo xuống giường, Tiêu Luật vội vàng đỡ hắn. Gã hỏi bằng tiếng Tống lưu loát: "Sao Kiều đại ca bị đòn nặng thế này? Huynh đã làm gì kia chứ? Sao họ dám đối xử với huynh như vậy?"

Kiều Cửu cười đắng ngắt: "Tiểu nhân chỉ là một lái buôn tầm thường, phạm lỗi gì...chắc Tiêu tiên sinh cũng đoán được."

Nghe vậy, Tiêu Luật thở dài, không giả bộ mù mờ nữa.

Tiểu Luật: "Không thể tưởng tượng nổi Gia Luật Kỳ lại quá quắt như thế, đúng là không coi ai ra gì. Huynh cứ yên tâm, tôi đã bẩm báo việc này lên đại nhân rồi."

Đây là lần đầu tiên Kiều Cửu nghe Tiêu Luật nhắc đến "đại nhân", đôi mày hắn rung lên, nhưng ngoài mặt hắn vẫn vờ như bình thản. Kiều Cửu cảm kích nói: "Đa tạ Tiêu tiên sinh có lòng ghé thăm, tôi đã khỏe lên nhiều rồi, không việc gì đâu. Phải nỗi, lô hàng kia của tôi vẫn đang bị giữ ở phủ nha..."

Tiêu Luật: "Chớ lo, cứ để tôi xử lí."

Lúc này, Chu Tử Thư mặc áo gấm, bê một bát canh thuốc hầm đi vào phòng. Tiêu Luật thấy cậu thì ngây người, Kiều Cửu cười: "Đứa này là khuyển tử nhà tôi, tên Kiều Cảnh. Nó theo tôi đến Đại Liêu bán hàng."

Chu Tử Thư vái dài: "Bái kiến Tiêu tiên sinh."

"Ừ." Ánh nhìn của Tiêu Luật chững lại trên gương mặt Chu Tử Thư trong chốc lát, đoạn gã bình tĩnh lia mắt đi, nói: "Kiều đại ca, hai hôm nữa tôi thết yến tại nhà, có mời một số thương nhân hay vãng lai chốn này. Huynh có muốn dự tiệc không? Ôi, tôi quên mất huynh đang bị thế này, chẳng nhẽ đành chịu không đến được ư?"

Kiều Cửu vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ: "Xin Tiêu tiên sinh yên tâm, tiểu nhân nhất định sẽ có mặt."

Tiêu Luật nói thêm hai câu rồi rời khỏi nhà trọ. Lúc gần đi, gã nói mình có một căn nhà nhỏ ở phía đông Tích Tân phủ, bảo cả đoàn Kiều Cửu hãy sang đó mà ở. Kiều Cửu từ chối mấy lần mà Tiêu Luật không cho, nên cuối cùng hắn cũng nhận lòng tốt ấy của Tiêu Luật.

Tiêu Luật về rồi, Chu Tử Thư khẽ chau mày. Tối ấy, cậu triệu Lư Thâm vào: "Ngươi đã từng nghe ngóng về Tiêu Luật, liệu gã có dính dáng đến việc đoạn tụ không?"

Lư Thâm ngơ ngác, không hiểu sau tự dưng Chu Tử Thư hỏi thế, đành thật thà trả lời: "Không đâu ạ. Tiêu Luật có hai cô vợ bé, gã vừa không thích đàn ông lại vừa phong lưu hiếu sắc. Vì chuyện cưới vợ bé, gã còn đánh luôn vợ cả, ầm ĩ đến nỗi bao người cười chê."

Lư Thâm nhìn Chu Tử Thư, mặt viết rõ câu "Sao đại nhân lại hỏi chuyện này?"

Bị hắn nhìn bằng ánh mắt đấy, Chu Tử Thư cũng không biết phải nói sao.

Có lẽ là cậu cả nghĩ rồi. Vốn hôm nay Chu Tử Thư vào phòng chỉ để xem mặt Tiêu Luật, thăm dò coi người này thực hư ra sao, nhưng rồi cậu để ý ánh mắt Tiêu Luật cứ liếc sang cậu mấy lần. Chắc vì bữa trước Tô Ôn Duẫn nói chuyện đoạn tụ với Chu Tử Thư khiến cậu nhạy cảm, thành ra nghĩ quá lên.

Chu Tử Thư nhủ thầm: Dù sao đi chăng nữa, từ giờ không lộ mặt thì tốt hơn.

Chu Tử Thư gọi Kiều Cửu tới: "Bản quan đã ở Tích Tân phủ nửa tháng, cũng đến lúc quay lại U Châu rồi. Sau khi người dự buổi yến đó xong, ta sẽ trở về. Ngươi chớ lo lắng nhiều, sau khi ta đi, Tô Ôn Duẫn sẽ đến, lúc ấy ngươi hãy bàn bạc với y."

||

Hán khinh Liêu rồi Liêu lại khinh Hán :)) vòng tròn bất diệt

------oOo------

Chương 103

Nguồn: EbookTruyen.Net

Oan gia ngõ hẹp

Khác với Đại Tống, nước Liêu là một đất nước du mục theo chế độ bộ lạc.

Nước Liêu được xây dựng dựa trên sự hợp nhất của nhiều bộ lạc, hầu hết người Liêu là người dân du mục, sống bằng nghề chăn thả trên thảo nguyên, quanh năm không ở trong các đô thành. Hơn trăm năm về trước, Liêu Thái Tổ lập nên nhà Liêu, đặt ra Ngũ đô, học tập văn hóa Nho gia của người Hán, đề cao mối quan hệ "trời đất – vua chúa – cha mẹ – thầy giáo". Nhưng tính cách ngang tàng, tự do đã ăn vào xương máu họ, khó mà thay đổi được, thế nên họ tiếp thu những tư tưởng này không mấy trọn vẹn, song vẫn có ảnh hưởng nhất định.

Triều đình nước Liêu chia thành hai phe phái: quan miền Bắc và quan miền Nam.

Phần đông quan miền Bắc là quý tộc, có tôn ti thức bậc nghiêm ngặt, hình thành một thế lực riêng. Quan miền Nam đa phần xuất thân từ các bộ lạc nhỏ, bao gồm cả người Hán. Nhóm này phụ trách việc giao thiệp với Đại Tống và không đội trời chung với nhóm quan miền Bắc.

Chu Tử Thư sai Lư Thâm điều tra tình hình các quan miền Nam, Lư Thâm thực hiện khá suôn sẻ, chưa đến nửa tháng đã nắm được tình huống.

Giống như Chu Tử Thư nói, sự đối đầu giữa các quan miền Bắc và miền Nam là mâu thuẫn nền tảng không thể tránh khỏi của triều đình nhà Liêu. Hơn nữa, nội bộ quan miền Bắc cũng thiếu sự đoàn kết.

Lư Thâm: "Đại nhân hẳn đã biết, quan miền Bắc chủ yếu là quý tộc thuộc các bộ lạc lớn, thân thế hiển hách, nhiều lúc vua Liêu cũng phải nể vì họ. Tuy nhiên, một số bộ lạc của nước Liêu coi thường việc quý tộc làm quan, nhiều bộ lạc có lịch sử lâu đời không hề cử người ra làm quan nước Liêu, nhóm này có mâu thuẫn gay gắt với các quan miền Bắc."

Chu Tử Thư ngạc nhiên: "Còn có chuyện này?"

Lư Thâm gật đầu: "Quả đúng ạ. Chỉ có điều, các bộ lạc này tuy hùng mạnh nhưng lại khá bảo thủ, không chịu tiếp xúc với người ngoài. Không chỉ thế, hai bộ lạc lớn nhất nước Liêu đã là hoàng tộc và bộ tộc của hoàng hậu rồi. Những bộ lạc khác dù bất mãn cũng phải ngậm bồ hòn làm ngọt." Lư Thâm chỉ nói đến thế, rồi báo cáo kết quả điều tra những ngày vừa qua.

"Y như những gì đại nhân nói, trong số các quan miền Nam có rất nhiều người chuyển sang ủng hộ hoàng tử. Liêu đế có bốn hoàng tử, Tam hoàng tử thuộc dòng dõi bộ lạc lớn, thân phận của mẫu phi tôn quý, phần lớn các quan miền Bắc đều ủng hộ hoàng tử này. Mẫu phi của ba hoàng tử còn lại đều có xuất thân bình thường. Tiêu hoàng hậu của Liêu đế không có con nối dòng, thế nên những năm gần đây, không gì kiềm chế nổi việc tranh đoạt ngôi vị giữa các hoàng tử. Trong số những hoàng tử này, các quan miền Nam ngả về phe Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca."

"Gia Luật Xá Ca?"

Lư Thâm: "Vâng. Có người đồn rằng Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca là hoàng tử thông tuệ nhất nước Liêu. Mẫu phi của vị hoàng tử này chỉ là công chúa của một bộ lạc nhỏ, nhưng Nhị hoàng tử lại rất được lòng vua Liêu. Người Liêu đều ngưỡng mộ văn hóa Đại Tống ta, học tập theo kinh điển

Nho gia của ta, nhưng chẳng cần nói nhiều chắc đại nhân cũng biết, người Liêu đều giống mạt tướng thôi, chẳng hiểu Nho gia mấy, chữ nghĩa thì biết võ vẽ. Chỉ riêng Nhị hoàng tử là rất có tài học. Có người nói rằng hắn thuộc lòng Tứ thư Ngũ kinh, am hiểu thi từ ca phú, cưỡi ngựa bắn cung không gì không thành thạo, nên Liêu đế cực kì thích hắn ta."

Chu Tử Thư suy tư chốc lát: "Năm ngoái đoàn sứ Liêu đến Thịnh Kinh, ta có nghe được vài tin tức liên quan đến Nhị hoàng tử nước Liêu. Tuy hắn có thiên phú về học tập, nhưng theo Mạnh tướng công – Thượng thư bộ Lễ, hắn cũng không phải người lương thiện gì."

Lư Thâm: "Đại nhân nói không sai, Gia Luật Xá Ca là người tàn nhẫn, nhưng các hoàng tử nước Liêu có ai không tàn bạo, cuồng vọng đâu? Người Liêu là dân tộc sống trên lưng ngựa, những ai tri thư đạt lý như người Tống chúng ta mới hay bị coi thường." Hai người nói lạc sang chủ đề khác, Lư Thâm bèn kéo câu chuyện về trọng tâm: "Rất nhiều quan miền Nam ủng hộ Gia Luật Xá Ca, tỷ như Tả tướng của Nam Kinh Tích Tân phủ, ông ta chính là người thuộc phủ Nhị hoàng tử."

Lư Thâm thuật lại kĩ lưỡng những gì mình thăm dò được.

Sau khi hắn về, Chu Tử Thư tỉ mỉ ngẫm kĩ mọi chuyện.

Không còn nghi ngờ gì nữa, bây giờ họ đã lên chiếc thuyền của Tiêu Luật rồi, mà sau lưng Tiêu Luật, nếu đúng với suy đoán, ắt phải là một viên quan miền Nam.

Địa vị của quan miền Nam ở triều đình nước Liêu thua thiệt hơn so với quan miền Bắc, nhưng chính vì thế, họ mới có thể giao thiệp với người Hán. Muốn thăm dò tình báo nước Liêu, cài cắm mật thám, cách tốt nhất là dụ địch theo mình.

Gõ nhẹ ngón tay trên mặt bàn, Chu Tử Thư lim dim mắt suy nghĩ.

Vấn đề là...nên dụ ai, và dụ như thế nào mới được?

Hai ngày trôi qua trong chớp mắt, Tiêu Luật gửi thiệp mời dự tiệc cho Kiều

Cửu, dặn Kiều Cửu nhất định phải có mặt. Hiện giờ họ đều đang ở trạch viện ở phía Đông thành của Tiêu Luật, quả là một nơi thanh nhã, u tĩnh, cách xa đô thị ồn ào, rất phù hợp để dưỡng bệnh.

Trước khi đi, Kiều Cửu đến phòng Chu Tử Thư hỏi xem cậu có muốn đi cùng không.

Nếu là lúc trước, Chu Tử Thư sẽ mượn ngay thân phận con trai Kiều Cửu để dự tiệc, song hiện giờ cậu có chút chần chừ. Chu Tử Thư nói: "Bản quan không đi. Kiều Cửu, ngươi hãy để ý kĩ thân phận của tất cả những người dự tiệc, song không được làm gì khác thường. Phải nhớ rằng ngươi chỉ là một lái buôn trà người Tống giàu có thôi." Kiều Cửu luôn miệng đáp: "Tiểu nhân rõ rồi." Đêm đến, phủ Tích Tân nổi trận gió to.

Cát vàng mù mịt khắp trời, ập vào những cây hồ dương lớn nghe lạo xạo.

Kiều Cửu đội loại mũ nỉ rất phổ biến ở nước Liêu, mặc quần áo của người Liêu, mang theo mấy túi trà Bích Loa Xuân thượng hạng, đội gió cát đến dự tiệc.

Kiều Cửu đến Tiêu phủ, chưa gặp được Tiêu Luật, người hầu đã dẫn hắn vào phòng tiệc.

Phòng tiệc bày biện sẵn bàn ghế, vì vai vế của Kiều Cửu thấp quá nên hắn phải ngồi tít ở chỗ dưới cùng. Kiều Cửu tỏ vẻ cảm kích lắm, hào hứng ngồi xuống. Thỉnh thoảng hắn thò cổ ngó nghiêng rồi lại rụt về, tựa như hết sức tò mò với buổi tiệc, song vì sợ sệt mà không dám nhìn lung tung.

Những người ngồi xung quanh không ai để ý tới Kiều Cửu hết, nhưng hắn vẫn phải diễn cho tròn vai, không dám để lộ sơ hở.

Đợi nửa canh giờ, Tiêu Luật mới khoan thai xuất hiện. Gã cười xun xoe, đi sát theo sau một viên quan người Liêu bụng phệ, mời viên quan ấy ngồi lên ghế chủ tọa. Chờ khi viên quan ấy cho phép bắt đầu tiệc, Tiêu Luật mới ra lệnh: "Dọn thức ăn lên." Nhà bếp liền bưng một mâm thịt dê quay và thịt bò quay lên.

Từ đầu chí cuối, Kiều Cửu không có cơ hội nói với Tiêu Luật một câu, hắn lúng túng ngồi ở ghế dưới cùng, lủi thủi ăn tiệc một mình.

Một canh giờ sau, bữa tiệc mới kết thúc. Tiêu Luật tiễn viên quan người

Liêu kia về rồi mới tìm gặp Kiều Cửu. Vừa giáp mặt, Tiêu Luật đã áy náy bảo: "Kiều đại ca, vừa nãy bận quá, không để ý đến huynh được, huynh đừng trách tiểu đệ nhé." Nói đoạn, Tiêu Luật bắt trước lễ nghi của người Tống, chắp tay hành lễ xin lỗi Kiều Cửu.

Kiều Cửu sao có thể để gã hành lễ với mình được, hai tay vội đỡ Tiêu Luật, nói: "Sao Tiêu tiên sinh lại nói thế? Được dự buổi tiệc này và gặp biết bao nhiêu người quyền thế, đã là phúc đức tổ tiên của Kiều mỗ rồi! Đêm nay quả là một dịp mở mang tầm mắt cho Kiều mỗ. Không dám dối tiên sinh, Kiều mỗ đến phủ Tích Tân buôn bán cũng có điều tra đôi chút. Vị đại nhân ngồi ghế trên trong buổi tiệc đêm nay, phải chăng là Tiêu Châm – Tiêu đại nhân?"

Tiêu Luật mỉm cười, không giấu nổi vẻ đắc ý: "Chính là Tả Bình chương chính sự của phủ Tích Tân, Tiêu Châm – Tiêu đại nhân đó."

Kiều Cửu tròn mắt: "Hóa ra là Tiêu đại nhân thật!"

Tiêu Luật cười: "Tôi và Tiêu đại nhân có họ hàng xa, bấy lâu nay vẫn được đại nhân chiếu cố."

Kiều Cửu gật đầu lia lịa, hắn hiểu ý Tiêu Luật, hai người chỉ nhìn nhau cười, không cần nói cũng biết.

Bản thân Kiều Cửu cũng không ngờ, chỗ dựa của Tiêu Luật lại là Tả Bình chương chính sự phủ Tích Tân – Tiêu Châm!

Phủ Tích Tân được chia làm phủ Tả tướng và phủ Hữu tướng. Tả, Hữu tướng là hai vị quan có quyền lực tối cao ở nơi đây. Ngay dưới hai vị này là Tả, Hữu Bình chương chính sự. Thảo nào, khi nghe chuyện Kiều Cửu bị Gia Luật Kỳ chơi khăm, thu giữ sạch lá trà, Tiêu Luật phản ứng thản nhiên như không, còn cam đoan sẽ giúp Kiều Cửu xử lí chuyện ấy. Té ra là gã có chỗ dựa rất mực quyền uy!

Tiêu Luật đích thân tiễn Kiều Cửu ra về, còn sai người hầu tặng một hộp thuốc cho Kiều Cửu, nói rằng thuốc chữa ngoại thương rất tốt.

Khi tiễn Kiều Cửu ra cửa, Tiêu Luật hạ giọng, bí mật nói với hắn: "Là chỗ anh em, tôi không muốn giấu Kiều đại ca. Sau năm ngày nữa, một người có địa vị cực kì cao sẽ xuất hiện ở phủ Tích Tân. Vụ làm ăn này to đấy, tiểu đệ phải mượn quan hệ của Tiêu đại nhân mới có thể mở tiệc chiêu đãi vị tai to mặt lớn kia. Lá trà nước Tống lúc nào cũng được quý tộc, quan lớn ưa chuộng, đến lúc đó, Kiều đại ca chớ bảo tiểu đệ chưa nhắc huynh đấy nhé." Kiều Cửu nghe thế thì tròn mắt ngạc nhiên: "Tiêu tiên sinh, ngài..."

Tiêu Luật vỗ tay hắn, cười nói: "Yên tâm, có phúc cùng hưởng." Kiều Cửu mừng nỡ, lâng lâng rời khỏi Tiêu phủ.

Dõi theo bóng lưng Kiều Cửu, nụ cười của Tiêu Luật dần nhạt đi. Gã gọi người hầu: "Kiều Cửu đi một mình hay còn dẫn theo ai khác?"

Người hầu lắc đầu thưa: "Hắn tới một mình ạ."

Tiêu Luật nhíu mày: "Một mình à..."

Tiên sinh kế toán được Tiêu Luật tín nhiệm nhất thì thầm bên tai gã: "Vị đại nhân kia chuộng nam sắc, nhưng ghét nhất những kẻ a dua nịnh hót. Tiên sinh muốn lợi dụng cậu con trai tuấn tú của Kiều Cửu để mời ngài ấy đến phủ dự yến, nhưng giờ ngài ấy đã đồng ý tới rồi, chúng ta không nên dâng con trai Kiều Cửu lên. Một là đắc tội Kiều Cửu, hỏng đường buôn bán; hai là chưa chắc đại nhân ấy đã thích, khéo còn trách tội chúng ta."

Tiêu Luật gật đầu: "Ngươi nói cũng phải. Nghe nói hai năm trước có một viên quan 'biếu quà' cho vị ấy, bị ngài quở trách nặng nề. Ngài còn tuốt đao chém 'quà' làm đôi ngay tại chỗ, viên quan 'biếu xén' cũng bị cách chức luôn."

Tiên sinh kế toán nói: "Cứ thuận theo tự nhiên, tự khắc sẽ ổn."

Tiêu Luật nghĩ mà kinh hồn, nói: "Vậy thì chúng ta chớ nên đoán bừa tâm tư ngài ấy."

Lúc này, Chu Tử Thư hoàn toàn không biết, cậu đường đường là Trung thư xá nhân, mệnh quan tứ phẩm của triều đình Đại Tống, thế mà suýt thì bị dâng làm quà cho người ta!

Ngay cả Triệu Phụ cũng không có gan biến quan lớn tứ phẩm thành quà biếu, kẻo sử sách bêu danh cho nhơ nhuốc muôn đời. Chẳng ngờ hôm nay, ý đồ ấy lại nảy sinh trong đầu một lái buôn người Liêu nho nhỏ.

Tạm không nói đến chuyện này, sau khi trở về, Kiều Cửu kể hết chuyện cho Chu Tử Thư nghe.

Chu Tử Thư kinh ngạc: "Không ngờ hắn lại được chống lưng bởi Tả Bình chương chính sự. Ở phủ Tích Tân chức ấy không hề nhỏ, y giậm chân một cái có mà rung cả phủ. Còn vị tai to mặt lớn năm ngày nữa sẽ đến mà ngươi bảo thì..."

Suy tư hồi lâu, Chu Tử Thư nói: "Tạm thời ta không về U Châu. Năm ngay sau, chắc chắc Tô Ôn Duẫn chưa tới đây ngay được. Một mình ngươi ở Tích Tân phủ e là không xử lí được việc này. Chờ mọi chuyện xong xuôi, ta hẵng trở lại U Châu."

Kiều Cửu: "Xin nghe theo sắp đặt của đại nhân."

Năm ngày sau, Tiêu Luật lại phái người gửi thiếp mời đến tận nhà. Lần này, gã tặng đến hai tấm thiệp. Kiều Cửu lấy làm lạ, hỏi người hầu gửi thiếp: "Này cậu em, sao Tiêu tiên sinh lại tặng những hai tấm thiếp thế?"

Người hầu đáp: "Tiên sinh dặn, đại nhân mới bị thương, thân thể chưa khỏe hẳn, nếu cần thì có thể dẫn thêm người dự tiệc cùng."

Kiều Cửu nói chuyện với người hầu bằng tiếng Liêu, Chu Tử Thư không hiểu. Chờ kẻ đó đi rồi, Chu Tử Thư mới hỏi Kiều Cửu. Nghe Kiều Cửu trả lời xong, Chu Tử Thư cau mày: "Phong thiếp thứ hai là cho ta đây."

Kiều Cửu nghi ngờ: "Lần trước tiểu nhân dự tiệc, Tiêu Luật chỉ gửi một tấm thiếp, sao lần này lại cho hai? Đại nhân, ngài có định dự tiệc cùng tiểu nhân không?"

Đây là một cơ hội tốt. Chu Tử Thư cũng do dự.

Ngẫm nghĩ hồi lâu, buổi chiều, Chu Tử Thư gọi Lư Thâm vào: "Ngươi hãy đi dò la thử xem rốt cuộc đêm nay Tiêu Luật mở tiệc chiêu đãi ai."

Gần chạng vạng, Lư Thâm mới tất tả về nhà, bẩm báo lại cho Chu Tử Thư: "Thưa đại nhân, mạt tướng không điều tra được người ấy là ai, nhưng mạt tướng hỏi thăm được một tin tức. Sáng hôm nay, Hành cung Đô bộ thự nước Liêu – Gia Luật Cần đã đến Tích Tân phủ!"

Chu Tử Thư sửng sốt: "Ngươi bảo ai cơ?"

"Hành cung Đô bộ thự, Gia Luật Cần."

"..."

Chu Tử Thư thình lình bật cười, thở dài một tiếng: "Rõ là oan gia ngõ hẹp!"

Nửa năm trước, Chu Tử Thư từng làm sứ thần Đại Tống, lo việc tiếp đãi sứ đoàn nước Liêu. Khi ấy, trong đoàn sứ Liêu, viên quan miền nam có chức cao nhất chính là Hành cung Đô bộ thự Gia Luật Cần. Chu Tử Thư không ngờ mình và ông ta còn có mối nghiệt duyên này. Bôn ba ngàn dặm đường đến phủ Tích Tân mà cũng đụng độ nhau.

"Tiệc này ta buộc phải vắng mặt rồi."

Chu Tử Thư gọi Kiều Cửu tới: "Ngày mai, ta sẽ khởi hành về U Châu ngay. Tối nay, ngươi cần hành động cực kì thận trọng. Ta biết Gia Luật Cần, ông ta khác hẳn quan chức người Liêu khác. Gặp kẻ giảo quyệt như ông ta, ngươi phải hết sức cảnh giác mới được."

||

Rừng hồ dương

------oOo------

Chương 104

Nguồn: EbookTruyen.Net

Gia Luật Xá Ca

Phủ của Tiêu Luật nằm ở phía Nam thành Tích Tân. Khi xe ngựa của Kiều

Cửu đến nơi, ngoài Tiêu phủ đã chật kín ngựa xe, nườm nượp khách khứa. Hầu như toàn bộ quan to, quý tộc trong phủ Tích Tân đều tề tựu ở đây. Chớ kể riêng một lái buôn trà vô danh từ nước Tống như Kiều Cửu, ngay cả Tiêu Luật cũng phải khom lưng uốn gối trước các quan lớn, gặp ai cũng cười nịnh.

Tiêu Luật đứng ở cổng chính, đích thân nghênh đón tân khách.

Kiều Cửu mang quà biếu đến. Tiêu Luật thấy hắn lẻ loi một mình thì vô thức liếc ra sau, chỉ thấy mỗi một thằng hầu đi theo Kiều Cửu đến dự tiệc.

Tiêu Luật đảo mắt, mặt không đổi sắc, hỏi: "Sao Kiều đại ca không dẫn cháu theo? Mấy hôm trước huynh sang phủ dự tiệc, tôi thấy huynh đi đứng bất tiện quá, nên lần này cố ý gửi huynh thêm thiếp mời đó."

Kiều Cửu: "Tiêu tiên sinh không biết đấy thôi, khuyển tử nhà tôi không

được khỏe. Nếu chẳng vì thế, lí nào tôi lại không dẫn nó tới buổi tiệc lớn nhường này để mở mang tầm mắt?"

Tiêu Luật không nói thêm nữa, sai người hầu mời Kiều Cửu vào.

Kiều Cửu giả đò như nhà quê lên tỉnh. Trong phòng toàn các tai to mặt lớn nước Liêu không dây vào nổi, hắn lủi vào góc một mình. Hắn muốn bắt chuyện với các quan lớn mà chẳng có gan, chừng như đang ngại ngùng giữ kẽ.

Tuấng lên ngang trời thì chỗ ngồi trong phòng tiệc đã kín quá nửa, riêng hai vị trí chủ toạ trên cùng vẫn vắng người ngồi.

Lần này, chỗ dựa của Tiêu Luật, Tả Bình chương chính sự phủ Tích Tân Tiêu Châm cũng có mặt ở yến hội. Giống như Tiêu Luật, lão ta cũng đang sốt ruột đứng chờ ngoài cửa chứ chưa an toạ. Tân khách trò chuyện, xu nịnh lẫn nhau, nhưng chốc chốc lại ghếch mắt ra phía cửa, dường như chờ mong ai đó xuất hiện.

Gần nửa canh giờ sau, một cỗ xe ngựa lộc cộc rẽ tới từ góc đường. Nhác thấy cỗ xe này, bọn Tiêu Châm, Tiêu Luật mừng húm. Xe ngựa chưa tới cổng, cả hai đã vồn vã đón rước.

Người Liêu có một tập quán cổ hủ là lấy thân người làm bậc giẫm xe ngựa.

Tiêu Châm cung kính vén rèm cho chủ nhân của cỗ xe, còn Tiêu Luật thì càng khỏi cần nói, xun xoe quỳ rạp xuống, hai tay chống đất, mông chổng tít lên, tự biến mình thành bậc giẫm cho người.

Tiêu Châm hô vang: "Cung nghênh Nhị điện hạ!"

Trong Tiêu phủ, các quan thấp thỏm nãy giờ vội đứng bật dậy khỏi ghế, xúm xít ra ngoài cổng. Nghe ba tiếng "Nhị điện hạ", Kiều Cửu cũng giật mình, bèn đi ra theo mọi người. Màn xe được vén lên, một người đàn ông trung tuổi với gương mặt quằm quặm xuống xe trước. Ông ta không bước lên cái bậc giẫm là Tiêu Luật, mà xuống bằng bậc gỗ ở cạnh xe.

Đi ngay sau ông ta là một thanh niên trẻ trung mặc bào gấm, diện mạo vừa tuấn tú vừa âm hiểm. Y giẫm thẳng lên lưng Tiêu Luật để xuống xe.

Gã thanh niên này có đôi mắt hẹp dài, mặt mày thanh tú song không giấu được vẻ tàn nhẫn. Y cầm cây quạt mà người Tống vốn ưa chuộng, trông điệu bộ thực là nho nhã. Dầu vậy, người lõi đời như Kiều Cửu chỉ cần nhìn là biết vẻ ngoài thanh nhã ấy chẳng nói lên bản chất thật của gã thanh niên. Ngoài Tiêu phủ, các quan phủ Tích Tân nhất tề hành lễ với Gia Luật Xá Ca.

Gia Luật Xá Ca khẽ mỉm cười, y nói: "Xá Ca vướng chút việc trên đường nên tới chậm, mong các vị đại nhân bỏ qua cho."

Trong thoáng chốc, Kiều Cửu thấy bóng dáng một quan văn Đại Tống ở Nhị hoàng tử nước Liêu, nhưng hắn tỉnh táo lại ngay. Vỏ bọc nho nhã như người Tống mà Nhị hoàng tử khoác lên cho mình chỉ lừa được người Liêu thôi, còn xa mới bắt chước được các quan Tống đích thực.

Gia Luật Xá Ca cất bước vào phủ trước, những người khác nối đuôi vào sau.

Đợi khi các quan vào phủ hết, Tiêu Luật mới thôi quỳ, đứng dậy tất tả vào nhà.

Buổi yến này tiếng là do Tiêu Luật chủ trì, địa điểm tổ chức là Tiêu phủ, nhưng từ đầu chí cuối Tiêu Luật không khác gì thằng hầu bưng bê thức ăn. Trong buổi yến, các quan trên dưới chỉ chăm chăm phỉnh nịnh Gia Luật Xá Ca và Gia Luật Cần. Thi thoảng, Tả Bình chương chính sự Tiêu Châm sẽ đệm vào đôi câu.

Gia Luật Xá Ca là một hoàng tử nước Liêu đích thực.

Kiều Cửu không biết các hoàng tử Liêu khác có thế không, nhưng trong buổi tiệc này, bất luận người thưa bẩm là các quan hay thương nhân như Tiêu Luật, Gia Luật Xá Ca đều tỏ ra kiên nhẫn lắng nghe.

Cuối cùng, các quan người Liêu đều phải dành cho Gia Luật Xá Ca ánh mắt kính phục. Ngay cả Kiều Cửu cũng phải công nhận, Gia Luật Xá Ca là người hòa nhã, dễ gần nhất trong số quan lớn, quý tộc nước Liêu mà hắn từng gặp.

Dù diễn hay thật, Gia Luật Xá Ca cũng là một nhân vật hiếm có khó tìm trong triều đình nước Liêu.

Kết thúc buổi yến, Kiều Cửu muốn nói chuyện thêm với Tiêu Luật, tốt nhất là nhờ gã dắt mình gặp thẳng Gia Luật Xá Ca, hoặc nếu khó quá, thì gặp người tháp tùng Gia Luật Xá Ca – Hành cung Đô bộ thự Gia Luật Cần cũng được. Nhưng Tiêu Luật không rảnh để ý đến hắn, Kiều Cửu bèn hậm hực ra về.

Về trạch viện, hắn lập tức trình báo lên Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư cả kinh: "Gia Luật Xá Ca, Nhị hoàng tử nước Liêu ư? Sao y lại tới phủ Tích Tân cơ chứ?"

Chu Tử Thư chỉ nghĩ tai to mặt lớn mà Tiêu Luật nhắc đến là Hành cung Đô bộ thự Gia Luật Cần, nào ngờ, té ra là Gia Luật Xá Ca!

Trong bốn người con trai của Liêu đế, Đại hoàng tử Gia Luật Triển được tiếng là con trưởng, Tam hoàng tử Gia Luật Hàm dòng dõi cao quý, Tứ hoàng tử Gia Luật Long Chân là cậu con cưng mà về già vua Liêu mới có, yêu chiều không để đâu cho hết. Tuy thế, người mà Liêu đế tin cậy hơn cả là Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca.

Hai hoàng tử có cơ hội được vua Liêu chọn làm người kế nghiệp nhất chỉ có thể là Gia Luật Hàm hoặc Gia Luật Xá Ca.

Phủ Tích Tân cách Thượng Kinh cả ngàn dặm, tại sao Gia Luật Xá Ca không quản ngại đường xa mà đến tận chốn này? Tại sao Gia Luật Cần lại tháp tùng y?

Chu Tử Thư nhíu mày suy ngẫm. Cậu gọi Lư Thâm tới, không vòng vo, hỏi thẳng: "Nếu ta sai ngươi giám sát hành tung của bọn Gia Luật Cần và Gia Luật Xá Ca với điều kiện không để họ phát hiện, liệu ngươi có làm được không?"

Mấy ngày nay, Lư Thâm vẫn ngấm ngầm thăm dò tin tức hoàng triều nước Liêu, nghe Chu Tử Thư hỏi liền biết ngay hai người ấy là ai. Lư Thâm trầm tư đáp: "Tuy mạt tướng không điều tra ra được rằng Gia Luật Xá Ca cũng đến phủ Tích Tân, nhưng mạt tướng đã nắm được hành tung của Gia Luật Cần từ sớm. Gia Luật Cần không dẫn theo hộ vệ, như xung trận mà mặc giáp nhẹ, không có cao thủ theo sát, nên mạt tướng mới dễ dàng thăm dò được đường đi nước bước của ông ta. Còn Hoàng tử nước Liêu thì nhiều khả năng có ám vệ bảo hộ, không giống với Gia Luật Cần. Nếu chỉ theo dõi Gia Luật Cần thì cẩn thận thêm một chút là ổn."

Chu Tử Thư: "Hiện giờ cả Gia Luật Xá Ca và Gia Luật Cần đều ở phủ của tên lái buôn nước Liêu Tiêu Luật, chờ chúng ra về, ngươi nãy bám theo Gia Luật Cần."

"Mạt tướng tuân lệnh."

Tình hình ở phủ Tích Tân đã vượt ngoài dự liệu của Chu Tử Thư. Việc Gia Luật Cần có mặt ở đây khiến Chu Tử Thư phải đề cao cảnh giác. Hành lí đã sửa soạn đâu ra đấy, cậu quyết định sáng sớm ngày mai sẽ khởi hành về U Châu.

Trong lúc đó, ở phủ Tiêu Luật, khi chúng quan đã lui về hết, Gia Luật Xá Ca và Gia Luật Cần còn nán lại.

Tiêu Luật biết Gia Luật Xá Ca ngưỡng mộ văn hóa của người Hán, am hiểu thi họa, nên cố tình mua thật nhiều bức tranh nổi tiếng về để Gia Luật Xá Ca thưởng thức. Thấy tranh của nhiều danh họa thế, Gia Luật Xá Ca cũng thoáng giật mình. Y liếc Tiêu Luật, cười bảo: "Tiêu tiên sinh tàng trữ nhiều của báu ghê nhỉ."

Tiêu Luật nào dám để Gia Luật Xá Ca nói vậy, gã xun xoe: "Tiểu nhân nghe nói điện hạ thích thư họa, nên mới sưu tập để dâng lên ngài. Nếu điện hạ vừa mắt, kính xin điện hạ thoải mái chọn lựa."

"Người Tống có câu này rất hay, người quân tử không tước đoạt thứ kẻ khác thích. Sao ta có thể chiếm đoạt những thứ ngươi thích cho được?"

Gia Luật Xá Ca không nói thêm nữa, y ngắm nghía những tác phẩm thư họa một cách tinh tế, cũng ngầm cho phép Tiêu Luật đi theo mình. Tiêu Luật sướng rơn, không dám hé răng, cẩn thận theo sau Gia Luật Xá Ca.

"Tiểu nhân làm gì có mắt thưởng thức những tác phẩm này đâu ạ, được vào tay điện hạ mới là may mắn cho những bức thư họa này."

Ở phòng kế bên, người quen cũ của Chu Tử Thư – Gia Luật Cần – đang nói chuyện với Tiêu Châm bằng bộ mặt lạnh tanh.

Hiện giờ, Tiêu đại nhân quyền uy hễ giậm chân là rung chuyển cả phủ Tích Tân đang khúm núm hết sức, chỉ sợ nói sai một câu khiến Gia Luật Cần phật lòng. Hai người trò chuyện về tình hình ở phủ Tích Tân, nói xong xuôi, Gia Luật Cần thấy cũng đến giờ rồi, bèn đứng dậy định đi.

Tiêu Châm chợt nhớ ra một chuyện, do dự một thoáng mới cất lời: "Đại nhân, trong bữa tiệc hôm nay có một thương nhân người Tống, chẳng biết ngài có thấy không ạ?"

Gia Luật Cần nghĩ một lát: "Kẻ ngồi ở góc ngoài cùng ấy hả?" "Chính y." Tiêu Châm nháy mắt với Gia Luật Cần, mập mờ nói: "Tay lái buôn người Tống ấy kinh doanh trà, buôn bán to lắm, y muốn hợp tác với hạ quan. Nhưng ngoài việc ấy ra...y còn có một đứa con trai, tướng mạo khôi ngô đẹp đẽ. Nghe Tiêu Luật nói kẻ đó là một văn nhân, nom văn nhược đúng kiểu thư sinh nước Tống, hạ quan trộm nghĩ..." "Choang!"

Một chén trà phang thẳng lên trán Tiêu Châm. Tiêu Châm sợ trố cả mắt, không dám thở mạnh.

Gia Luật Cần cười lạnh ngắt: "Việc của Nhị điện hạ mà ngươi cũng dám chõ vào? Điện hạ ghét nhất là lũ tiểu nhân chuyên biếu xén nịnh nọt, xem ra các ngươi chưa nghe chuyện tên người Tống được dâng tận giường Nhị điện hạ bị ngài chém đứt đôi người, máu me lênh láng thế nào phải không?"

Tiêu Châm run như cầy sấy: "Tiểu nhân không dám, tiểu nhân không dám."

Gia Luật Cần: "Không dám là phải. Cấm có lần sau đấy, đi thôi!"

"Vâng."

Tiêu Châm, Tiêu Luật tiễn Gia Luật Xá Ca và Gia Luật Cần ra về. Gia Luật Xá Ca chọn vài bức họa, trước khi đi còn nói với Tiêu Luật: "Buổi yến hôm nay tuyệt lắm, vất vả cho ngươi rồi." Giọng điệu y mới hòa nhã, thân tình làm sao.

Sự ưu ái ấy khiến Tiêu Luật choáng ngợp: "Tiểu nhân nguyện dốc sức khuyển mã vì điện hạ!"

Gia Luật Xá Ca cười, không nói nữa, lên xe ra về.

Chờ họ đi rồi, Tiêu Châm tát vào mặt Tiêu Luật, lạnh lùng mắng: "Này thì 'biếu quà' cho Nhị điện hạ! Nhị điện hạ là ai kia chứ? Bậc tôn quý như ngài, muốn cái gì mà chẳng có, còn cần ngươi dâng lên sao? Cút xéo ngay, cấm nhắc lại những chuyện tương tự trước mặt ta!"

Tiêu Luật ăn cái tát nảy lửa, trong bụng tức anh ách, nhưng cơn tức ấy chẳng là gì so với niềm hân hoan. Sau đêm nay, Tiêu Luật gã sẽ vượt xa lũ người thường, tương lai như diều gặp gió của gã chỉ mới bắt đầu thôi!

Trong đêm tối, một bóng người đen sì vụt qua, theo sát xe ngựa của Gia Luật Xá Ca, không một ai phát giác.

Trên đường đi, Gia Luật Xá Ca nhắm mắt dưỡng thần, Gia Luật Cần cũng im lặng. Ông ta không hề đem chuyện Tiêu Châm muốn "biếu quà" kể cho Gia Luật Xá Ca. Chuyện ấy nhắc đến chỉ tổ làm Gia Luật Xá Ca nổi trận lôi đình, lợi bất cập hại.

Hai người về tới phủ của Gia Luật Cần.

Xuống xe ngựa, Gia Luật Cần mời Gia Luật Xá Ca vào sương phòng. Lúc ông ta ra ngoài, Gia Luật Xá Ca gọi lại, cười bảo: "Gia Luật tiên sinh, tối nay hãy nghỉ sớm nhé. Ngày mai, ông còn phải tháp tùng bản điện hạ thị sát quân doanh phủ Tích Tân."

Gia Luật Cần liếc nhìn Gia Luật Xá Ca bằng ánh mắt sâu xa. Ông ta nắm bàn tay phải, giơ ngang ngực hành lễ: "Thần đã rõ."

Lư Thâm bám theo Gia Luật Cần đến thư phòng của ông ta.

Gia Luật Cần không về phòng ngủ luôn mà vào đọc thư một lát, đoạn, ông ta đứng dậy mở ngăn bí mật trong thư phòng, lẳng lặng giấu một phong thư vào ngăn. Đêm đã khuya, dường như nhớ đến lời dặn của Gia Luật Xá Ca, ông ta bèn tính thổi tắt đèn đi ngủ. Đúng lúc ấy, một bóng người phá tung cửa sổ xông vào, ánh đao lóe sáng, kẻ đó gầm một tiếng, tuốt đao đâm thẳng về phía Gia Luật Cần.

"Thích khách! Có thích khách!"

Gia Luật Cần hoảng hốt, ngay cả Lư Thâm theo dõi ở ngoài phòng cũng trợn mắt choáng váng.

Đêm khuya yên ắng, tiếng hô hoán của Gia Luật Cần vang dội cả phủ, thoắt cái, từ đằng xa dồn dập tiếng bước chân. Thích khách múa đao toan giết Gia Luật Cần, nhưng Gia Luật Cần né tránh liên tục. Thấy hộ vệ sắp đến, tên thích khách nghiến răng, chém vỡ ngăn bí mật, cướp bức thư Gia Luật Cần giấu trong đó rồi tháo chạy.

Thư phòng tan hoang lộn xộn. Quan sát từ bên ngoài, Lư Thâm mắt tròn mắt dẹt, nghĩ bụng không biết có nên trốn lẹ không, kẻo bị tóm cổ thì hỏng đại sự của Chu Tử Thư mất.

Đúng lúc ấy, Lư Thâm thấy Gia Luật Cần nhíu mày, nét mặt có vẻ không hài lòng. Sau một thoáng do dự, ông ta bất ngờ rút con dao găm trong tay áo cắm phập lên vai.

Tức thì, máu túa ròng ròng.

Hộ vệ chạy ào vào thư phòng, Gia Luật Xá Ca cũng vội vàng có mặt. Y mặc nội sam, chỉ kịp khoác thêm chiếc áo choàng có mũ.

Gia Luật Xá Ca hốt hoảng: "Gia Luật đại nhân?!"

Mặt Gia Luật Cần tái nhợt, ông ta bụm chặt lấy bả vai đẫm máu: "Điện hạ, có, có thích khách, có thích khách..." Nói dứt câu, Gia Luật Cần kiệt sức, ngã vật xuống đất, ngất lịm đi.

||

Trước tác giả viết Gia Luật Cần giữ chức Hán Nhi ty, giờ lại thành Hành cung Đô bộ thự (chức quan coi sóc hành cung của vua). Có thể là kiêm chức hoặc nhầm, nhưng thực ra cũng không ảnh hưởng gì lắm. Chắc mấy ông hành lễ trông thế này

------oOo------

Chương 105

Nguồn: EbookTruyen.Net

Chu Tử Thư – Đường đại nhân

Mây trùm khuất Tuấng, khí trời giá buốt.

Gia Luật Cần là Hành cung Đô bộ thự nước Liêu, tức đại quan tam phẩm. Việc ông ta bị ám sát ở ngay phủ nhà đã kinh động đến Tả, Hữu tướng của phủ Tích Tân. Tả Bình chương chính sự Tiêu Châm đích thân dẫn quân đến thẳng phủ Gia Luật Cần, vừa tróc nã thích khách, vừa bảo đảm an toàn cho Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca.

Nhất thời, cả phủ Tích Tân nháo nhác, đang đêm mà đèn đuốc sáng trưng, rầm rộ hết cả.

Nhân lúc rối loạn, Lư Thâm bèn trốn đi ngay. Hắn không dám nán lại thêm nữa, sợ bại lộ hành tung. Nhờ thân thủ cao siêu, Lư Thâm tránh được hết sự truy lùng và các cuộc tuần tra của đám thị về, suôn sẻ quay về tiểu viện ở phía đông thành. Chu Tử Thư cũng thức trắng đêm đợi hắn quay lại.

Vừa gặp nhau, Chu Tử Thư bèn hỏi: "Tình hình trong thành thế nào rồi, có liên quan đến Gia Luật Xá Ca không?"

Lư Thâm nghĩ lại mà rùng mình, nói: "Không liên quan đến Gia Luật Xá Ca, nhưng liên quan đến Gia Luật Cần. Đại nhân, mạt tướng tận mắt chứng kiến Gia Luật Cần bị tấn công. Có một tên thích khách bịt mặt xông vào thư phòng của lão ta, cướp mất một lá thư. Thế nhưng, thế nhưng..." Thấy Lư Thâm ấp a ấp úng, Chu Tử Thư bèn hỏi thẳng: "Nhưng làm sao?"

Lư Thâm vẫn chưa dám tin, hắn bèn thuật lại cho Chu Tử Thư tình huống mình quan sát được: "Gia Luật Cần vừa cất bức thư ấy đi thì thích khách xông vào, hiển nhiên là y đến vì phong thư ấy. Song kẻ đó xuất hiện quá hấp tấp, Gia Luật Cần hô hoán ầm lên, gọi ngay thủ vệ tới. Thích khách không giết được Gia Luật Cần, bèn lấy thư rồi vội vã đào tẩu. Nhưng ngay khi y trốn đi, Gia Luật Cần lại rút dao găm trong tay áo đâm vào người mình!"

Chu Tử Thư nghe mà sửng sốt.

Gia Luật Cần... tự đâm vào người?

Chuyện này đúng là hoang đường quá đỗi!

Kỳ thực Lư Thâm cũng không tài nào tin nổi. Gia Luật Cần không bị thương vì thích khách, nhưng lại nhẫn tâm gây thương tích cho chính bản thân! Nếu không tận mắt trông thấy, hắn không đời nào tin một quan văn yếu đuối có thể ra tay ác độc như vậy, tự đâm gãy cả xương vai.

Chu Tử Thư ngẫm nghĩ cẩn thận, nhanh chóng phác ra mấy tình huống khả thi.

Song nghĩ thế nào cậu cũng thấy thiếu chặt chẽ. Chu Tử Thư hỏi: "Ngươi hãy thuật hết lại từng lời nói và hành động của Gia Luật Cần và Gia Luật Xá Ca sau buổi tiệc rượu ở Tiêu phủ cho ta, bao gồm cả thời điểm họ về đến phủ, nói thật cụ thể."

Lư Thâm bèn kể lại kĩ lưỡng cho Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư nghe xong thì suy ngẫm một lát, chợt cậu ngẩng đầu: "Ngươi bảo, Gia Luật Xá Ca dặn Gia Luật Cần nghỉ ngơi sớm, sáng ngày mai phải tháp tùng y duyệt binh ở quân doanh ư?"

Lư Thâm: "Vâng, chuyện này mạt tướng tuyệt đối không nhớ lầm."

Chu Tử Thư hít một hơi lạnh: "E rằng Gia Luật Xá Ca cũng dính líu đến việc này đây!"

Lư Thâm cả kinh: "Ý của đại nhân là thích khách kia do Gia Luật Xá Ca phái tới ư?"

"Ý ta không phải thế. Hiện giờ, chúng ta vẫn chưa biết rốt cuộc Gia Luật Cần theo phe ai, cũng không biết Gia Luật Xá Ca có vai trò gì trong sự việc này. Nhưng chắc chắn, y đã nhúng tay vào chuyện này." Im lặng một lát, bỗng nhiên Chu Tử Thư sầm mặt: "Hỏng rồi, không khéo mai không ra khỏi thành được mất!"

Ngay khi Chu Tử Thư ý thức được vấn đề, Tả tướng Tích Tân phủ Gia Luật Hàn đã có mặt ở phủ của Gia Luật Cần. Lúc này, Gia Luật Cần đã dần hồi tỉnh. Vết thương không nặng, nhưng do tuổi tác và mất máu nhiều nên ông ta mới ngất đi. Bên giường, Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca đã thay sang bào gấm, nét mặt nặng nề.

Gia Luật Cần muốn đứng dậy hành lễ, nhưng bị Gia Luật Xá Ca cản lại: "Đô bộ thự đại nhân bị thương, hãy cứ nghỉ ngơi trên giường."

Gia Luật Hàn nói: "Hạ quan bái kiến Nhị điện hạ, bái kiến Đô bộ thự đại nhân. Vụ việc này rất nghiêm trọng, hạ quan đã phái người phong tỏa toàn bộ phủ Tích Tân đề phòng thích khách tẩu thoát. Thằng giặc ấy đúng là gan cùng mình mới dám xông vào phủ Đô bộ thư giữa đêm hôm, hạ quan nhất định sẽ bắt nó về trị tội. Dám hỏi Đô bộ thự đại nhân, ngài có thấy được mặt thích khách không?"

Gia Luật Cần thều thào: "Y bịt mặt nên ta không thấy, nhưng tên thích khách đó rất trẻ, rất khỏe và có võ công." Tả cũng như không!

Gia Luật Hàn quay sang thưa với Gia Luật Xá Ca: "Nhị điện hạ, xin ngài cứ yên tâm, thần nhất định sẽ bắt được tên giặc ấy."

Cơn thịnh nộ bừng lên trên gương mặt trắng trẻo anh tuấn mà cũng rất nham hiểm của Gia Luật Xá Ca. Y nhíu mày, cả giận: "Ngang nhiên đột nhập phủ Đô bô thự, hành hung ngay trước mắt bao người. Hôm nay y làm Đô bộ thự của Đại Liêu bị thương, ngày mai chắc mạng của bản điện hạ y cũng dám lấy! Cứ theo sắp đặt của Tả tướng, phong tỏa phủ Tích Tân, truy lùng thích khách, nhất định phải bắt gọn cả người lẫn tang vật." Nghe thế, lông mày Gia Luật Hàn máy một cái.

Bắt cả người lẫn tang vật?

Nói cách khác, thích khách kia còn trộm được cái gì ư?

Gia Luật Hàn ngẩng đầu nhìn Gia Luật Xá Ca đầy cương quyết, đưa nắm đấm tay phải lên ngang ngực, cúi mình: "Thần quyết không làm nhục mệnh!"

Chớp mắt gió đã giục, mây đã vần trên bầu trời Nam Kinh Tích Tân phủ.

Gia Luật Hàn là Tả tướng Tích Tân phủ, để chuyện lớn như thế xảy ra, ông ta phải gánh hết trách nhiệm. Gia Luật Hàn đích thân suất quân, gắt gao truy lùng khắp phủ Tích Tân. Trong lúc ấy, một thích khách bịt mặt len lén đẩy cửa đi vào một ngôi nhà hoang phế ở phía tây thành. Y thở phì phò mệt nhọc, vội vã lôi phong thư ra khỏi tay áo, bóc mở ngay lập tức.

Vừa đọc hết nội dung bức thư, tên thích khách trợn trừng mắt, hoảng sợ nói: "Chuyện tày trời thế này nhất định phải bẩm báo với đại nhân!"

Nhưng tên thích khách nhanh chóng phát hiện rằng toàn bộ phủ Tích Tân đã bị phong tỏa đến nỗi con ruồi cũng chẳng bay lọt. Y sốt ruột như kiến bò chảo lửa, vừa muốn truyền tin gấp, vừa không biết phải liệu sao.

Trong phủ Đô bộ thự, Gia Luật Cần mặt mày nhợt nhạt, uống thuốc xong thì cho người hầu lui.

Cửa phòng cọt kẹt khép lại, trong phòng không còn ai lạ, Gia Luật Cần liền muốn đứng dậy hành lễ. Gia Luật Xá Ca xoè quạt đánh "soạt", nét u ám phảng phất trong nụ cười hiền như chàng công tử văn nhã. Y nhẹ nhàng đè mặt quạt lên người Gia Luật Cần, không để ông ta đứng dậy.

Phe phẩy chiếc quạt, Gia Luật Xá Ca nói bằng chất giọng êm ru: "Vết thương có nặng không?"

Gia Luật Cần nghiêm túc nói: "Thần tự đâm nên không nặng mấy ạ."

Gia Luật Xá Ca ngạc nhiên: "Tên thích khách đó vô dụng đến thế cơ à? Y không đâm trúng nổi ngươi sao?"

Tên thích khách mà nghe được câu này chắc buồn thiu mất.

Gia Luật Xá Ca đã biết trước là sẽ có thích khách đến ám sát, bèn để Gia Luật Cần làm mồi nhử, thậm chí y còn khinh thường thích khách vì không gây thương thích nổi cho Gia Luật Cần. Tuy nhiên, Gia Luật Cần chẳng phải người tầm thường; ông ta không vì thế mà căm tức Gia Luật Xá Ca. Trái lại, Gia Luật Xá Ca phải máu lạnh vô tình thì mới đáng để ông ta kính nể và ủng hộ.

Gia Luật Cần thưa: "Mật thư giả đã bị thần 'đưa' cho thích khách kia rồi. Nếu y có thể trốn thoát khỏi phủ Tích Tân thì coi như chúng ta đã gài được một quân bài giả vào phe địch hòng xoay chuyển tình thế lúc cần kíp. Nếu y không trốn thoát được, vậy mật thư sẽ vô dụng."

Chuyện mật thư đương nhiên Gia Luật Xá Ca biết, thậm chí chính y là người đã viết bức mật thư ấy.

Nét chữ của Gia Luật Xá Ca cũng rất nổi tiếng ở Liêu, thư do y viết càng dễ khiến kẻ thù mắc bẫy.

Gia Luật Xá Ca cười khẩy: "Thế thì cũng mong tên thích khách ấy gửi thư đi được, còn để chúng ta bắt lại làm chứng cứ."

Đến cuối đời tên thích khách kia chắc cũng không ngờ, bức thư y trải trăm đắng nghìn cay mới trộm được lại là thư giả!

Kế này của Gia Luật Xá Ca và Gia Luật Cần chính là gậy ông đập lưng ông.

Gia Luật Xá Ca và Gia Luật Cần cất công bày mưu hiểm, làm giả mật thư, cốt là để đánh lừa kẻ địch và tạo một đường rút cho phe mình. Tuy thế, họ không trông đợi phong thư lọt ra khỏi phủ Tích Tân; mục tiêu thực của cả hai là bắt được tên thích khách hòng vạch mặt kẻ đứng sau, còn phong mật thư giả thì phó mặc ý trời.

Sáng sớm hôm sau, Chu Tử Thư thay quần áo, lên xe ngựa, ôm hi vọng ra khỏi thành.

Chưa đến cổng, xe ngựa đã bị lính canh chặn lại.

"Ai ở trên xe đây?"

Lư Thâm đóng giả phu xe, nhảy xuống xe trình bày: "Bẩm các quan, chúng con là lái buôn đến phủ Tích Tân làm ăn. Giờ ở nhà có việc nên phải về gấp." Vừa nói hắn vừa đấm mõm bọn lính canh.

Lư Thâm nói bằng giọng Liêu nhưng lính canh vẫn phát hiện ra: "Người Tống hả?"

Trong xe ngựa, tâm trạng Chu Tử Thư rất nặng nề.

Lư Thâm cười xòa: "Dạ dạ dạ, tiểu nhân là người Tống."

Lính canh ngang nhiên thu tiền rồi đạp Lư Thâm, khinh bỉ: "Xéo xéo xéo, cút về cho ông. Không biết người ta phong tỏa phủ Tích Tân à? Người Liêu còn chẳng được ra khỏi thành nữa là một thằng người Tống như mày? Giờ mày xéo ngay thì ông đây coi như chưa thấy."

Lư Thâm: "Mày...!"

Chu Tử Thư vén rèm lên: "Vị quan này nói phải lắm, lão Lư, về thôi." Mọi người đành quay về.

Trở về tiểu viện, Chu Tử Thư gọi Kiều Cửu đến, thái độ rất nghiêm nghị: "Bản quan phải về thành U Châu. Mười mấy hôm trước, Tô Ôn Duẫn gửi thư từ thành U Châu báo rằng đã có người chú ý tới hành tung của ta, hắn không bao che cho ta được nữa. Chưa chắc thành U Châu đã trên dưới đồng lòng, rất có thể có mật thám nước Liêu trà trộn, ta không ở lại đây lâu được, phải về U Châu ngay."

Kiều Cửu suy tính cẩn thận, nói: "Quan hệ của tôi với Tiêu Luật không tồi.

Đại nhân, để tiểu nhân nhờ Tiêu Luật thử xem?"

Chu Tử Thư: "Vậy cũng là một kế."

Kiều Cửu bèn đi tìm Tiêu Luật ngay tức khắc, nói rằng mẹ già gặp chuyện không may, hắn muốn sai con về Đại Tống xem tình hình.

Gần đây bận nịnh nọt Gia Luật Xá Ca, Tiêu Luật đã quên béng Kiều Cửu và cậu con trai Kiều Cảnh từ tám đời. Giờ nghe thế, gã chợt nhớ đến Chu Tử Thư và ngoại hình thư sinh phong nhã thanh cao của cậu.

Tiêu Châm cấm Tiêu Luật mưu đồ "biếu xén" Gia Luật Xá Ca, nhưng mấy nay Tiêu Luật làm cách nào cũng không lấy lòng được Gia Luật Xá Ca, giờ cùng đường, Kiều Cửu lại dâng mỡ đến miệng mèo, gã không thể không nghĩ về cách ấy.

Chuyện Gia Luật Xá Ca thích con trai, nhất là những thư sinh người Tống tuấn tú văn nhã chẳng phải bí mật trong giới chức quyền nước Liêu. Tiêu Luật nghe được chuyện này từ chỗ Tả Bình chương chính sự Tiêu Châm. Muốn lấy lòng Gia Luật Xá Ca thì chẳng thể dùng lũ luyến đồng xinh tươi bình thường, phải là loại văn nhân vừa có cốt cách, vừa lịch thiệp tao nhã mới có thể lọt vào mắt xanh của y.

Tiêu Luật hồi tưởng lại diện mạo và cách nói năng của Chu Tử Thư, chắc mẩm cậu sẽ khiến Gia Luật Xá Ca đẹp lòng lắm.

Mắt Tiêu Luật đảo một cái, gã nói: "Kiều đại ca yên tâm, chuyện của huynh tiểu đệ sao có thể mặc kệ. Chỉ có điều hiện giờ phủ Tích Tân đang phong tỏa, việc này khó liệu lắm. Thế này đi, huynh cứ về trước, tôi thay huynh nghĩ cách xem sao."

Kiều Cửu không biết Gia Luật Xá Ca thích nam giới, cũng không biết Tiêu Luật có mưu đồ với Chu Tử Thư. Hắn tặng quà cho Tiêu Luật rồi khấp khởi về tiểu viện. Hắn vừa đi, Tiêu Luật liền đến phủ Đô bộ thự xin gặp Gia Luật Xá Ca.

Gia Luật Xá Ca đã quên tiệt gã là ai, phải có người hầu nhắc y mới nhớ.

Gia Luật Xá Ca cười tế nhị: "Tiêu Luật đến tìm ta có việc gì đấy?"

Y gọi Tiêu Luật đến, Tiêu Luật kính cẩn ngợi ca y một tràng rồi mới bày tỏ ý đồ đến đây: "Tiểu nhân có một người bạn là thương nhân nước Tống, người Giang Nam, mẹ của anh ta bị bệnh nặng đột ngột, anh ta muốn cho đứa con trai vừa cập quan về nước Tống để chăm sóc mẹ. Tâu Nhị điện hạ, tiểu nhân không còn cách nào khác nên mới cầu xin ngài. Tiểu nhân lấy họ tên để cam đoan, thương gia người Tống và con anh ta hoàn toàn trong sạch. Tiểu nhân đã từng gặp con trai anh ta, cậu này là một thư sinh tao nhã, lễ độ. Giờ cậu ta phải ra khỏi thành, tiểu nhân chỉ biết đến gặp điện hạ..."

Nghe thế, cặp mắt híp đen nhánh âm hiểm của Gia Luật Xá Ca rọi thẳng về phía Tiêu Luật.

Hồi lâu, Gia Luật Xá Ca mới mỉm cười. Y xòe quạt, nói: "Thư sinh nước Tống hả? Mong là Tiêu tiên sinh không có dụng ý nào khác. Nhưng cũng không sao, đây chỉ là chuyện nhỏ với bản điện hạ thôi. Dẫn kẻ đó tới đây cho bản điện hạ xem mặt. Phàm việc ra khỏi thành, cứ có chỉ thị ta viết khắc sẽ xong."

Tiêu Luật mừng rỡ, rối rít dạ vâng, không hề nhận ra sát ý trong giọng của Gia Luật Xá Ca.

Màn đêm buông xuống, Tiêu Luật phái người đến tiểu viện, nói với Kiều Cửu rằng mai gã sẽ dẫn Chu Tử Thư đến gặp Nhị hoàng tử; gã đã mời được Nhị hoàng tử giúp Chu Tử Thư ra khỏi thành rồi.

Kiều Cửu vừa nghe đã biết hỏng việc.

Chu Tử Thư biết chuyện cũng sa sầm nét mặt. Cậu còn lâu mới muốn thành lễ vật dâng lên cho người ta. Chu Tử Thư nghĩ: "Gia Luật Xá Ca đang ngụ ở phủ Đô bộ thự cùng với Gia Luật Cần. Ngày mai mình không thể đi được." Đăm chiêu hồi lâu, Chu Tử Thư cười khẩy, gọi Lư Thâm vào bảo: "Muốn ra khỏi thành, chỉ có hai cách sau. Cách một, bí mật trốn ra ngoài. Cách hai, Gia Luật Xá Ca và Gia Luật Cần đang muốn bắt thích khách phải không? Chúng ta bắt giúp chúng là được."

Lư Thâm nói: "Mạt tướng đã thấy thích khách trốn về phía tây, việc này ngay cả Gia Luật Cần cũng không biết."

Chu Tử Thư gật đầu: "Thế thì giao cho ngươi." Đoạn, cậu bảo Kiều Cửu: "Chúng ta đã tốn công tốn của bấy lâu nay, nhất định phải cắm rễ được ở phủ Tích Tân, chiếm được lợi thế nhất định, không thể vứt bỏ hết. Lần này ta sơ sẩy để Tiêu Luật biết mặt, cả phủ Tích Tân, chỉ có mình gã biết diện mạo của ta. Sau khi Lư Thâm bắt được thích khách thì cơ hội của ngươi sẽ đến, Kiều Cửu ạ. Ngươi phải tìm cách lợi dụng chuyện này mà tạo dựng quan hệ, khiến Gia Luật Cần phải chú ý đến ngươi. Ngoài ra..."

Chu Tử Thư im lặng một thoáng, ngẩng lên nhìn vầng Tuấng sáng rỡ trên bầu trời.

Bỗng dưng, cậu hơi nhớ Cung Tuấn.

Nếu Cung Tuấn ở đây và nghe những gì cậu sắp thốt lên, liệu chàng sẽ cảm nhận ra sao, sẽ nghĩ thế nào về cậu?

Giây lát sau, Chu Tử Thư nói nhẹ tênh: "Giết Tiêu Luật."

||

Lời tác giả:

Nói thật thì, giờ Tiểu Thư Lang mới trở thành một vị quan đích thực.

Đúng, không biết các chị em có nhận ra không, tình tiết chuyện ở nước Liêu chậm hơn là vì lần này Tiểu Thư Lang đã trở thành một trong những người chủ mưu, sắp đặt mọi việc. Trong những màn kịch trước, Tiểu Thư Lang luôn là người quan sát cuộc cờ, tuy tham dự nhưng cậu chưa phải là người chơi. Lần này, cậu đích thân cầm quân, thế nên rất nhiều chuyện không cần viết ở những phần trước (vì những người điều binh khiển tướng lần trước không phải nhân vật chính của chúng ta) sẽ phải viết rõ ở phần này.

Nhưng mọi người cứ yên tâm, phụ bản này sắp kết thúc rồi, chỉ một đoạn nữa là đổi chỗ cho Tô Ôn Duẫn thôi.

Tô đại nhân định xử lí thế nào, các bạn thử đoán xem nhé ~ đương nhiên, lão Tô không phải nhân vật chính nên sẽ không viết chi tiết đâu. Chú thích

[Đấm mõm này là đút lót, hối lộ nhé, không phải nghĩa đen đâu.

------oOo------

Chương 106

Nguồn: EbookTruyen.Net

Về U Châu

Đêm đó, chuyện Gia Luật Cần bị ám sát, thích khách trộm mật thư rồi bỏ chạy về hướng tây đã bị Lư Thâm chứng kiến hết.

Chính Lư Thâm mới là người nhớ rõ tướng mạo thích khách nhất chứ không phải Gia Luật Cần.

Lư Thâm có cách riêng để truy tìm tung tích một người. Từ phủ Đô bộ thự, hắn lùng tìm theo hướng tây. Đầu tiên, Lư Thâm loại trừ tất cả những quán trọ bình dân, vì mấy hôm nay quân Liêu đã lục soát hết các quán trọ trong thành mà không tìm được thích khách. Sau đó, hắn loại trừ hết các hộ gia đình bình thường. Phủ Tích Tân là lãnh địa của các quan miền nam, địa bàn của Gia Luật Cần, nên thích khách chắc chắn không dám tiếp xúc với ai cả.

Nếu có, y sẽ bị phát giác ngay tức thì.

Lư Thâm nhanh chóng xác định được mười mấy căn nhà bỏ hoang không ai ở, cần kiểm tra kĩ từng căn.

Về phần mình, Kiều Cửu mang lễ vật đến tận nơi xin lỗi Tiêu Luật, nói rằng mới đây con trai mình bị cảm chưa khỏe hẳn, giờ bệnh tái phát đột ngột, quả thật không thể diện kiến Nhị hoàng tử.

Tiêu Luật tức điên người. Kìm cơn giận, gã nói: "Kiều Cửu, huynh nói huynh cần đưa con trai ra khỏi phủ Tích Tân gấp, tôi phải mất bao công sức mới xin được Nhị hoàng tử ban cho cơ hội này. Tôi thưa chuyện với điện hạ xong hết rồi, giờ huynh làm thế thì bảo tôi tính sao đây!"

Kiều Cửu vốn khôn khéo hơn người, hắn tinh ý nhận ra ngay sự bất thường trong thái độ của Tiêu Luật. Tại sao Tiêu Luật lại nôn nóng muốn Chu Tử Thư gặp Nhị hoàng tử đến thế? Lẽ nào gã đã phát hiện ra thân phận của Chu Tử Thư rồi ư?

Không thể thế được! Nếu biết sự thật, Tiêu Luật sẽ không chờ đợi Chu Tử Thư đến gặp Gia Luật Xá Ca; gã sẽ bắt ngay Chu Tử Thư nộp cho Gia Luật Xá Ca để tranh công mới phải.

Kiều Cửu khóc lóc kể lể: "Tiêu tiên sinh, tôi cũng khổ lắm! Kiều Cửu này trên có mẹ già, dưới còn con thơ, thế mà giờ đều ốm bệnh hết. Biết làm sao cho phải đây! Khuyển tử không thể xuống giường nổi, ngài cứ đến mà xem, nó ốm rất nặng. Tôi sợ nó mà đến gặp Nhị điện hạ thì lây cho điện hạ tôn quý mất. Nếu không được, tiên sinh có thể để tôi đi theo đặng phân trần với điện hạ không?

Tiêu Luật hết cách, đành dẫn Kiều Cửu đến bái kiến Gia Luật Xá Ca.

Gia Luật Xá Ca nghe tin con trai Kiều Cửu bị ốm thì hơi ngạc nhiên. Y cười lạnh buốt: "Ốm đúng lúc thật, cơn bệnh này cứu mạng hắn rồi đấy. Nếu ốm liệt giường thì chẳng ra khỏi thành được, Tiêu Luật cũng khỏi cần vào gặp bản điện hạ."

Tiêu Luật ăn phải "chè bế môn" thì tức anh ách, phất tay áo bỏ đi, không thèm đếm xỉa đến Kiều Cửu nữa.

Kiều Cửu đuổi theo gã, luôn mồm xin lỗi, Tiêu Luật lờ phắt. Đến lúc Tiêu Luật lên xe ngựa ra về, Kiều Cửu cũng thôi tỏ ra bợ đỡ. Hắn nghĩ thầm: "Giờ thì bắt buộc phải giết Tiêu Luật rồi. Lần này trở mặt với gã, nếu để gã sống, việc ở phủ Tích Tân của ta ắt chẳng thành."

Chu Tử Thư giả bộ ốm liệt giường, định bụng chờ Lư Thâm bắt được thích khách thì rời khỏi phủ Tích Tân.

Không ngờ chỉ mấy hôm sau, cậu đã nhận được mật thư của Tô Ôn Duẫn.

Phủ Tích Tân chỉ có đường vào mà không có đường ra, Tô Ôn Duẫn gửi thư vào phủ được, nhưng Chu Tử Thư vẫn bị cầm chân ở đây. Trong mật thư, Tô Ôn Duẫn viết một bài thơ. Giải mật thư xong, Chu Tử Thư rùng mình hãi sợ. Thư viết: "Thịnh Kinh phái sứ giả!" Thịnh Kinh lại phái thêm người đến ư?

Chu Tử Thư tạm thời không phán đoán được mức độ nghiêm trọng của việc này, nhưng cậu không dám coi thường. Âm mưu thiết lập đường dây tình báo trong nước Liêu là việc hệ trọng không thể tiết lộ cho bất cứ ai; ngay cả với Cung Tuấn, Chu Tử Thư cũng giữ bí mật, chàng phải tự suy luận tất cả mọi thứ. Không ai có thể biết được liệu viên quan Thịnh Kinh sắp xuất hiện có làm đổ bể nhiệm vụ quan trọng này không.

Chu Tử Thư siết chặt bức mật thư, giam mình trong phòng suy tính cả buổi chiều. Chập tối, khi sắc trời sâm sẩm, Chu Tử Thư mới đứng dậy thắp nến, đốt mật thư. Nhìn mẩu giấy Tuyên quắt lại thành than, Chu Tử Thư thở dài. Cậu gọi Kiều Cửu vào, nói: "Chậm nhất là mai ta phải rời khỏi thành, ngươi có cách nào không?"

Kiều Cửu: "Đại nhân bắt buộc phải rời thành sao?"

"Đúng thế, ta nhất định phải ra khỏi thành."

Kiều Cửu vắt hết óc: "Có! Xin đại nhân yên tâm, việc này cứ giao cho tiểu nhân lo liệu."

Sớm hôm sau, từ lúc tinh mơ mờ sáng, trên con đường đá lổn nhổn xóc nảy có một người đàn ông gầy đét nom hệt đầy tớ đang đẩy một xe nước gạo, nghiêng ngả đi ra cổng Tây. Đến cổng thành, anh ta bị lính thủ thành chặn lại. Người đầy tớ khổ sở van lơn: "Xin các ông rủ lòng xót thương, đã mấy hôm nay tửu lầu chúng con không thể chuyển nước gạo ra ngoài thành. Nếu cứ để mãi trong quán thì thối um lên mất."

Chưa kịp nghe rõ người đầy tớ nói gì, hai tên lính thủ thành vừa lại gần đã mửa ra vì thứ mùi tanh tưởi gớm ghiếc.

Một tên lính gắt: "Cái quái gì đây, sao thối thế! Có biết phủ Tích Tân đang phong tỏa không? Không ai được ra ngoài hết!"

Người đầy tớ thưa: "Tiểu nhân là tiểu nhị của quán rượu Nha Tước khu tây thành, tiểu nhân mang nước gạo ra ngoài thành để đổ."

Tên lính muốn nói tiếp, nhưng vừa mở miệng thì mùi thối hoăng hoắc xộc lên tận mũi. Hắn nín thinh tức thì, nghĩ bụng giờ mà há miệng có khác nào đớp phân không.

Tuy có lệnh phong tỏa, nhưng hiển nhiên phủ Tích Tân không thể cấm vào ra hoàn toàn. Nếu nội bất xuất ngoại bất nhập thật thì chỉ mấy ngày nữa thôi, cả tòa thành sẽ thối um lên vì các xe chở phân, xe chở nước gạo bị mắc kẹt.

Lính canh cố nhịn cơn buồn nôn để kiểm tra xe nước gạo.

Trên xe có bốn thùng nước gạo to đùng, tên lính mở nắp hai thùng, mùi cơm thừa canh cặn tích trữ mấy hôm xộc lên làm hắn ói ra nước chua. Hắn kêu bạn gác kiểm tra hai thùng còn lại, người đầy tớ đẩy xe rất hợp tác, chủ động nhấc nắp một thùng nước gạo lên. Ai ngờ, tên lính đó bịt mũi, lầu bầu: "Được rồi được rồi, đi đi."

Người đầy tớ mừng quá, vội vàng quỳ xuống khấu đầu với hai tên lính, nhấc xe lên toan đẩy đi.

Đúng lúc ấy, một tên lính nói: "Hai thùng này đã kiểm tra đâu?"

"Có vấn đề gì được chứ? Thối inh như thế thì giấu ai?"

Tên lính còn muốn nói thêm, bạn gác của hắn đã nhăn nhó rút kiếm thọc bừa vào hai thùng nước gạo còn lại. "Thế này được chưa? Ối làng nước ơi, hôi hám quá đi mất, nước gạo chảy cả ra này! Tanh lòm cả kiếm của tao rồi! Quỷ tha ma bắt, thằng kia mau cẳng lên, đừng lề mề nữa."

Trước giờ mỗi khi kiểm tra hàng hóa, bọn lính thủ thành thường lấy kiếm đâm bừa vào mấy lượt. Lần này tên lính bị hơi thối làm cho lú đầu, quen tay xọc kiếm vào mà quên béng đi đây là xe nước gạo. Đâm xong hắn mới thấy hối hận ghê gớm.

Người đầy tớ thì trợn mắt hãi hùng. Tên lính rút kiếm đâm vào thùng quá nhanh làm anh ta không phản ứng kịp. May sao, khi anh ta tưởng không qua được thì hai tên lính gác đã xua lấy xua để anh ta ra khỏi cổng thành, tránh để nước gạo chảy đầy đất.

Ra khỏi thành, người đầy tớ đẩy xe đi vun vút.

Đến nơi hoang vu không người, anh ta vội vàng mở nắp thùng nước gạo ra.

Mở hết cả bốn cái nắp, người đầy tớ cũng quên béng là mình giấu Chu Tử Thư ở thùng nào. Anh ta lần tìm cơ quan ngầm trong thùng, cuối cùng cũng tìm được cái thùng có tấm ngăn nước gạo. Mở tấm ngăn, anh này quýnh quáng hỏi: "Đại nhân có sao không?"

Chịu ngộp cả một canh giờ, vừa hít được không khí trong lành, Chu Tử Thư liền bò vội ra khỏi thùng, nôn thốc nôn tháo bên lề đường.

Kiều Cửu phải tìm người gia công suốt đêm mới chế tạo xong cơ quan trong thùng nước gạo, nên hệ thống này rất thô sơ, không thể ngăn nước gạo rò rỉ từ trên tấm ngăn xuống. Người ngợm, tóc tai Chu Tử Thư nhớp nháp nước bẩn vừa chua vừa hôi, nếu không nhờ ý chí siêu phàm thì cậu đã chẳng chịu đựng nổi đến giờ phút này.

Người đầy tớ hộ tống Chu Tử Thư ra khỏi thành chính là thuộc hạ tâm phúc của Lư Thâm, anh ta đưa cho Chu Tử Thư túi nước, Chu Tử Thư uống nước vào rồi cứ nôn liên tục đến khi dạ dày rỗng tuếch, chẳng nôn được nữa mới thôi.

Người đầy tớ nói: "Đại nhân, vừa nãy tên lính kia đâm hai nhát có làm ngài bị thương không?"

Chu Tử Thư lau nước chua dính quanh miệng, giơ cánh tay lên: "Bị sượt qua một chút, nhưng vết thương không sâu, không đáng ngại. Trong thùng ta ngồi, nước gạo đã rò xuống đầy nửa thùng, gã có đâm vào cũng không phát hiện ra điều bất thường. Đừng chần chừ nữa, khẩn trương về thành U Châu thôi."

Người đầy tớ kiểm tra kĩ càng thì thấy vết thương trên cánh tay Chu Tử Thư nông thật, máu rỉ từ vết thương đã khô hết trong thời gian ra khỏi thành.

Họ vội vàng lên đường, giữa chốn đồng không mông quanh, họ chẳng lo nghĩ được nhiều. Hai người nhanh chóng tìm được một thị trấn, thay quần áo, mua hai thớt ngựa rồi giục ngựa về thành U Châu.

Từ thành U Châu đến phủ Tích Tân, Chu Tử Thư phải đi mất sáu ngày. Chuyến về, họ giục ngựa hối hả thì chỉ tốn hai ngày mà thôi.

Bất chấp cảnh màn trời chiếu đất suốt cả hành trình, Chu Tử Thư vẫn nghiến răng thúc ngựa về phương nam.

Chẳng mấy chốc, họ đã tới thành U Châu. Giữa đêm khuya, Chu Tử Thư bất chợt ghìm cương. Người lính bảo vệ cậu không biết chuyện gì xảy ra, liền ngoái đầu nhìn lại. Dưới ánh Tuấng, mặt Chu Tử Thư trắng bệnh như tờ giấy, cậu siết chặt nắm đấm tay phải, che miệng ho khù khụ. Lúc cất lời, giọng Chu Tử Thư thều thảo khản đặc: "Ta vẫn sơ suất quá, có lẽ nước gạo đã ngấm vào vết thương gây loét rồi."

Người lính choáng váng, vội vàng xuống ngựa kiểm tra vết thương cho Chu Tử Thư. Vết thương rõ ràng không sâu nhưng lại mưng mủ trắng. Anh ta sờ lên da Chu Tử Thư, người cậu nóng hầm hập. Người lính sợ quá: "Hỏng rồi, vết thương này phải xử lí gấp mới được. Xin đại nhân cố gắng nhịn đau." Nói đoạn, người lính rút dao găm, dùng ống đựng mồi lửa thắp lửa lên, hơ con dao trên ngọn lửa.

Khi dao đã nóng đỏ, anh ta nói với Chu Tử Thư: "Đại nhân, ráng chịu đựng nhé."

Chu Tử Thư thở hổn hển từng hơi nóng rẫy, khẽ gật đầu. Tích tắc sau, con dao găm đỏ rực cứa vào cánh tay cậu, đau đớn tưởng chừng nứt hai con mắt. Từ cánh tay, cơn đau thấu xương lan ra khắp mình mẩy. Quanh vết thương, những bắp cơ co giật dữ dội trong vô thức.

Chu Tử Thư chết giấc ngay tức thì.

Đến khi cậu tỉnh lại, hai người đã tới chân thành U Châu. Người lính không kịp nghĩ nhiều, định vào thành luôn: "Phải khẩn trương vào thành tìm đại phu chữa trị vết thương cho ngài, vừa nãy tiểu nhân chỉ xử lí đơn giản, không có tác dụng chữa thương."

Trong cơn sốt thiêu cháy người, Chu Tử Thư níu lấy người lính, run rẩy rút lệnh bài trong tay áo ra: "Không được vào thành. Ngươi đến đại doanh U Châu tìm Lý tướng quân, kể sự tình cho hắn, nói hộ ta một câu...ơn huệ ở Thịnh Kinh, tướng quân trả được rồi."

Thảo nguyên mênh mông vầng Tuấng rủ, muôn sao quây tựa bầy con thơ.

Người lính nhỏ con cầm lệnh bài Chinh Tây Nguyên soái của Lý Cảnh Đức, thớt ngựa khỏe phi như bay, xé toạc màn đêm phóng vào đại doanh U Châu. Đến tận lúc tảng sáng, người lính ấy vẫn chưa ra khỏi doanh trại. Từ đằng đông thành U Châu, khi ánh bình minh ló rạng, có hai cỗ xe ngựa đủng đỉnh lăn bánh về thành.

Sau khi vào thành, một cỗ xe ngựa đến phủ nha U Châu, cỗ kia về ty Ngân Dẫn.

Cỗ xe vào phủ nha chỉ dừng lại đó nửa canh giờ rồi cũng sang ty Ngân Dẫn luôn.

Trời đã sáng hẳn, Hữu thị lang bộ Lại Dư Triều Sinh xuống xe ngựa, ngẩng đầu nhìn tấm biển đề ba chữ "Ty Ngân Dẫn" treo cao trên cổng chính. Phủ nha ty Ngân Dẫn nhộn nhịp, các quan viên đã tới nha môn từ sớm để bắt đầu một ngày làm.

Một quan sai ra ngoài cổng đón Dư Triều Sinh, dẫn anh ta đi vòng qua hai tòa nhà, tiến vào hậu viện ty Ngân Dẫn.

Dư Triều Sinh đứng ngoài cửa nói: "Hạ quan Dư Triều Sinh bái kiến Hộ bộ Thượng thư đại nhân."

Cửa phòng kẽo kẹt mở ra, Cung Tuấn mặc quan bào đỏ thẫm phẳng phiu, mỉm cười nói: "Dư đại nhân vừa đến phủ nha U Châu đã sang ty Ngân Dẫn ngay rồi à?"

Dư Triều Sinh đáp: "Hạ quan phụng chỉ đốc tra ty Ngân Dẫn, không dám chậm trễ."

Cung Tuấn cười điềm nhiên: "Vậy thì vào đây đi."

Dư Triều Sinh vào nhà, hai người trò chuyện một lát. Đoạn, anh ta hỏi Cung Tuấn: "Quan viên trong ty Ngân Dẫn vô cùng mẫn cán, hạ quan vào cửa đã thấy họ bắt đầu làm việc. Mỗi tội, đi tới tận đây mà hạ quan vẫn chưa gặp Đường đại nhân. Cách đây một tháng, Đường đại nhân đã đến U Châu để đốc tra ty Ngân Dẫn, hạ quan cần tiếp quản công việc của cậu ta. Chẳng hay đại nhân có biết vì sao cậu ấy lại vắng mặt không?"

Cung Tuấn không trả lời, chỉ cười khẽ một tiếng. Chàng bắt đầu pha trà.

Tuy Dư Triều Sinh không phải con cháu thế gia, nhưng ở quê nhà, họ Dư cũng là dòng tộc có địa vị. Cung Tuấn khi không lại pha trà, Dư Triều Sinh chỉ đành trật tự quan sát quá trình pha trà của Cung Tuấn theo đúng lễ

nghi. Anh ta có chút bực dọc, song chẳng thế đoán được suy nghĩ của CungTử Phong. Nhẽ nào CungTử Phong sai Chu Tử Thư làm gì nên bây giờ mới không muốn tiết lộ hành tung của Chu Tử Thư cho anh ta?

Ấy vậy mà trông Cung Tuấn vẫn nho nhã, chính trực như ánh Tuấng trong vắt rọi tỏ nhân gian.

Dù ôm một bụng ngờ vực, song Dư Triều Sinh chẳng thể phủ nhận rằng, được xem Cung Tuấn thực hành trà đạo quả là một trải nghiệm vô cùng mãn nhãn.

Lúc này, hai người đã lãng phí gần nửa canh giờ trong phòng.

Dư Triều Sinh thưởng thức trà, đang muốn gợi lại chuyện thì một quan sai đã bước vào phòng, hành lễ thưa: "Sáng sớm hôm nay, Lý tướng quân và Đường đại nhân đi săn thú ở ngoài thành, hiện vẫn chưa về. Tiểu nhân đã ra đó mời rồi ạ."

Ánh mắt Cung Tuấn thoáng lay động, chàng thầm khen tiểu sư đệ thông minh, về kịp ngay phút chót, còn biết nhờ Lý Cảnh Đức bao che cho.

Cung Tuấn "Ừ" một tiếng: "Không vội. Dư đại nhân, uống thêm chén trà nữa nhé?"

Dư Triều Sinh đã no bụng nước và muốn đi về từ lâu rồi, nhưng Cung Tuấn không nói gì thì anh ta chẳng dám nhúc nhích. Về danh nghĩa, anh ta được hoàng đế phái tới giám sát ty Ngân Dẫn, nhưng ai mà chẳng biết ty Ngân Dẫn là địa bàn của CungTử Phong? Ở thành U Châu, anh ta vẫn phải cúi đầu, tránh làm phật lòng CungTử Phong thì mới yên thân được.

Chờ thêm nửa canh giờ, người lính được Lý Cảnh Đức phái tới đưa tin quay lại bẩm báo, chính xác như đã căn giờ.

Dư Triều Sinh hỏi: "Đường đại nhân và Lý tướng quân về rồi hả?"

Người lính thưa: "Lúc đi săn Đường đại nhân không may trúng phải tên lạc, đang chẩn trị ở đại doanh U Châu."

Cung Tuấn nhướng mày, nhất thời chỉ cho đây là kế hoãn binh của Chu Tử Thư. Chàng vờ sửng sốt: "Trúng tên lạc ư? Thương thế ra sao, có nguy hiểm không?"

Nghe thế, Dư Triều Sinh trộm liếc nhìn Cung Tuấn, nghĩ thầm: CungTử

Phong trông không có vẻ gì là lo lắng, chẳng nhẽ sư huynh đệ họ bằng mặt không bằng lòng, tình cảm sứt mẻ sao?

Người lính thành thật bẩm báo đúng như những gì Lý Cảnh Đức dặn dò: "Đường đại nhân hôn mê bất tỉnh, Lý tướng quân đã mời hai quân y đến khám. Lúc tiểu nhân đến, quân y đã đắp thuốc kim sang tốt nhất rồi ạ."

Một tia sáng mảnh nháng lên trong đôi mắt tinh tường của Cung Tuấn, dường như chàng đã nhận ra điều gì đó. Cung Tuấn lẳng lặng siết chặt chén trà, đột nhiên hỏi: "Đệ ấy đang ở đại doanh U Châu ư?"

Người lính và Dư Triều Sinh ngây người, cùng nhìn Cung Tuấn bằng ánh mắt khó hiểu.

Vừa nãy người lính đã bẩm rằng Chu Tử Thư bị thương, đang chữa trị ở doanh trại, lẽ nào CungTử Phong không nghe thấy?

Người lính nghiêm chỉnh đáp: "Vâng, Đường đại nhân đang ở quân doanh."

Tay Cung Tuấn run lên khe khẽ, chén trà sượt khỏi tay chàng, đổ nghiêng trên bàn, nước trà lênh láng. Căn phòng lặng ngắt như tờ, Dư Triều Sinh âm thầm quan sát Cung Tuấn. Không thể nhận ra bất cứ cảm xúc nào từ gương mặt thanh nhã của Cung Tuấn cả, nhưng chàng im lặng quá đỗi, tuyệt nhiên không nói lời nào, cứ như thể đã quên mất điều mình cần nói.

Hồi lâu sau, Cung Tuấn mới thở dài một hơi, bình tĩnh hỏi: "Dư đại nhân có muốn đến quân doanh xem tình hình Đường đại nhân không?"

CungTử Phong muốn đi thăm sư đệ, Dư Triều Sinh đương nhiên phải thuận nước đẩy thuyền: "Được thôi."

Cung Tuấn đứng bật dậy ngay rồi khựng lại ngay. Có lẽ chàng thấy động tác của mình có phần quá nôn nóng, bèn gật đầu với Dư Triều Sinh rồi bảo người lính kia: "Ngươi hãy về trước, thông báo cho Lý tướng quân rằng lát nữa chúng ta sẽ tới."

Cung Tuấn và Dư Triều Sinh nhanh chóng lên một chiếc xe ngựa, thẳng tiến đến đại doanh U Châu.

Dư Triều Sinh vẫn ngấm ngầm quan sát Cung Tuấn, chỉ thấy CungTử Phong lãnh đạm nhắm mắt dưỡng thần, không nói năng gì cả. Anh ta thu ánh nhìn, không phán đoán được liệu Cung Tuấn có đang lo cho Đường Cảnh Tắc hay không. Nếu lo lắng, tại sao lúc đầu nghe tin Đường Cảnh Tắc bị thương, trông Cung Tuấn lại bình tâm đến thế? Nếu không lo, thì những biểu hiện vừa rồi của hắn ta hoàn toàn bất hợp lí.

"Cungđại nhân?"

Cung Tuấn mở mắt nhìn Dư Triều Sinh.

Đối diện với ánh mắt Cung Tuấn, Dư Triều Sinh bỗng giật mình khiếp đảm. Anh ta khẩn trương lia mắt đi, lầm rầm bảo: "Không có gì, hình như sắp tới nơi."

Xe ngựa đỗ ở ngoài đại doanh U Châu, hai người xuống xe đi bộ. Họ vào trong doanh trại một lát thì Lý Cảnh Đức vén cửa lều đi ra.

Dư Triều Sinh chắp tay thi lễ: "Hạ quan bái kiến Lý tướng quân."

Lý Cảnh Đức thấy Cung Tuấn điềm nhiên như không thì rất khó hiểu: "Lạ chưa kìa, người ta là sư đệ ngươi đấy, sao trông ngươi dửng dưng thế hả CungTử Phong?"

Cung Tuấn hỏi: "Tình trạng đệ ấy thế nào?"

Lý Cảnh Đức định bụng bảo "Nghiêm trọng lắm, chết đến nơi rồi", mà đúng là hắn nói thế thật, nhưng chỉ được ba chữ đầu rồi im bặt. Trước cái nhìn đầy hăm dọa của CungTử Phong, Lý Cảnh Đức đành sửa lời: "Không quá tốt, nhưng không đến nỗi tệ."

Cung Tuấn nhắm mắt lại, mãi chẳng cất lời. Đến lúc mở mắt ra, chàng mới bảo: "Vào thôi."

||

*Spoil chương sau:

------oOo------

Chương 107

Nguồn: EbookTruyen.Net

Em ấy thuộc về ta

Trong quân trướng, đại phu đang sắc thuốc cho Chu Tử Thư. Thấy ba người đến, ông ta liền đứng dậy hành lễ.

Cung Tuấn bước tới bên giường, bình tĩnh quan sát Chu Tử Thư. Chu Tử Thư mặc nội sam trắng, vai áo đã bị cắt đi, phơi cánh tay nhẵn mịn. Một lớp thuốc rất dày được đắp chỗ ngay gần khuỷu tay cậu, vết thương không cần cuốn băng vải cũng không chảy máu, nhưng nhìn kĩ sẽ thấy vệt nước mủ đã khô.

Tim Cung Tuấn thắt lại, chàng hỏi: "Vết thương bị loét ra à?"

Đại phu: "Đúng là đã bị loét ạ."

Cung Tuấn: "Có phải cắt bỏ không?"

"Vết thương nhỏ nên chỗ loét không quá nghiêm trọng. Có điều, hẳn đại nhân cũng biết, chứng viêm loét xưa nay rất khó trị, thật tình mà nói thì thảo dân không dám chắc. Hiện giờ xem chừng cơ thể Đường đại nhân vẫn chống chọi được, chờ đến tối mà tỉnh thì sẽ không sao. Sau này còn cần điều trị thêm, sẹo trên cánh tay cũng không lặn được."

Dư Triều Sinh bước tới hỏi: "Nếu chỉ bị thương ở cánh tay, sao cậu ta vẫn còn hôn mê bất tỉnh?"

Đại phu: "Chuyện này..."

Trong quân trướng, chỉ có mình Dư Triều Sinh tưởng sáng sớm hôm nay Chu Tử Thư mới bị thương. Đại phu đã được Lý Cảnh Đức dặn dò rằng không được phép tiết lộ bệnh tình của Chu Tử Thư, giờ tự dưng bị Dư Triều Sinh hỏi thế, đại phu lúng túng không biết phải lấp liếm ra sao.

Lý Cảnh Đức cũng bất ngờ, hắn toan bảo "Chu Tử Thư không hôn mê mà chỉ đang ngủ" thì Cung Tuấn đã lên tiếng: "Dư đại nhân không biết đấy thôi, tuy vết thương của Đường đại nhân không lớn, nhưng vì lên mủ nên mới bị viêm loét. Chứng viêm loét làm suy yếu cơ thể, gây sốt cao liên tục, thành ra Đường đại nhân mới hôn mê bất tỉnh."

Dư Triều Sinh nhìn khuôn mặt dâm dấp mồ hôi của Chu Tử Thư, nói:

"Đường đại nhân ở hiền gặp lành, chắc chắn sẽ bình an."

Dù sao cũng không thân với Chu Tử Thư, Dư Triều Sinh chỉ ở một lúc rồi về thành trước.

Cung Tuấn là sư huynh của Chu Tử Thư, chàng ở lại chăm sóc sư đệ là điều hiển nhiên, không có gì đáng thắc mắc. Lý Cảnh Đức còn phải chạy đôn chạy đáo lo việc quân, bỗng chốc trong lều chỉ còn lại Cung Tuấn và đại phu. Lúc này, đại phu đương phe phẩy chiếc quạt hương bồ sắc thuốc.

Cung Tuấn nói: "Ngươi lui xuống đi, để thuốc đấy ta sắc cho."

Đại phu sửng sốt: "Đại nhân, thế thì..."

"Có gì cần chú ý không?"

Đại phu không biết Cung Tuấn là ai, nhưng ban nãy thấy cách Lý Cảnh Đức đối đáp với Cung Tuấn, ông ta đã phần nào khiếp sợ. Cung Tuấn có sai bảo gì đi chăng nữa đại phu cũng không dám chối từ. Vả lại, việc sắc thuốc rất đơn giản, bệnh nhân không tỉnh lại sớm được, có khi chẳng cần uống thang thuốc này. Đại phu nói: "Thuốc cần sắc trên lửa nhỏ, khoảng chừng hai canh giờ thì đạt yêu cầu."

Đại phu hành lễ với Cung Tuấn, chuẩn bị rời khỏi lều. Bỗng Cung Tuấn gọi ông ta lại: "Có thật là không làm mờ được vết sẹo trên cánh tay không?"

Đại phu không rõ Cung Tuấn biết được bao nhiêu phần sự thật, cũng không dám hỏi lộ liễu, đành nói chung chung: "Nếu không bị loét thì vẫn có cách xóa sẹo. Nhưng vết loét này hơi nghiêm trọng, dù sử dụng thuốc xóa sẹo linh nghiệm nhất cũng khó có thể làm mờ."

"Không xóa cũng tốt. Để ta nhìn vào đó hằng ngày làm bài học, cả đời không được quên."

Đại phu không hiểu ý Cung Tuấn, ông ta ngạc nhiên hỏi: "Đại nhân?"

"Hết việc rồi, ngươi lui đi."

"Vâng." Đại phu vái chào rồi đi ra ngoài.

Trong lều thật yên tĩnh, chỉ nghe tiếng dược liệu sôi liu riu trên bếp thuốc. Cung Tuấn kiểm tra thuốc trước, thấy không có vấn đề gì mới về ngồi bên giường. Chàng ngắm gương mặt nhợt nhạt của Chu Tử Thư một hồi, rồi ngó xuống vết thương trên cánh tay cậu.

Bàn tay thanh mảnh của Cung Tuấn xoa nhẹ lên gò má Chu Tử Thư.

Tay của Cung Tuấn đẹp vô cùng, đốt nào ra đốt nấy, ngón tay thon gọn, dù đánh đàn hay viết chữ cũng đều thanh thoát như được họa nên. Tay chàng hơi trắng, nhưng chẳng thể nhợt nhạt bằng gương mặt mà chàng đang vuốt ve. Đến đôi môi Chu Tử Thư cũng trắng bệch, trán vẫn hâm hấp sốt, may nhờ vết thương rất nhỏ nên tình trạng của cậu mới không nghiêm trọng.

Tay Cung Tuấn chần chừ trên gò má Chu Tử Thư, dường như chàng phải hạ quyết tâm, bàn tay ấy mới chầm chậm lần xuống bờ môi khô ran.

Khô quá.

Vì cơn sốt cao hay vì đã lâu không uống nước đây?

Cung Tuấn rót chén nước, nhúng ngón tay vào nước trà rồi nhẹ nhàng dấp lên môi Chu Tử Thư. Thấm nước, bờ môi khô ráp của cậu tươi hơn một chút, nhưng nước khô rất nhanh, chỉ chốc lát môi Chu Tử Thư đã lại bợt đi. Vì thế, Cung Tuấn tiếp tục thoa nước lên.

Cứ thế kiên nhẫn lặp đi lặp lại, cuối cùng sắc hồng nhạt cũng mươn mướt trên làn môi Chu Tử Thư.

Cung Tuấn đặt chén xuống, ngồi bên giường ngắm nhìn Chu Tử Thư. Chàng không nói gì hết, chỉ lẳng lặng nhìn cậu mà thôi. Không biết bao lâu sau, trong lều có tiếng thở dài thườn thượt.

"Ta đã cho em cơ hội để em được đi xa. Nhưng tiểu sư đệ à, em lại chẳng chăm sóc bản thân chu đáo."

"Chỉ duy nhất một lần này thôi."

Đến đêm, bệnh tình của Chu Tử Thư quả nhiên có chuyển biến tốt. Cậu đã hạ sốt, nhưng mãi vẫn chưa tỉnh.

Cung Tuấn ra ngoài lều, sai người đi gọi người lính đã hộ tống Chu Tử Thư về U Châu. Lúc đầu người lính ấy giả vờ không hay biết, một mực khăng khăng rằng Chu Tử Thư bị thương trong lúc đi săn thú ở ngoại ô cùng Lý Cảnh Đức sớm nay. Song Cung Tuấn hỏi thẳng: "Tình hình ở Tích Tân phủ thế nào?" Người lính ngẩn ra.

"Nói đi."

"... Vâng."

Anh ta đem hết những gì mình biết bẩm lại với Cung Tuấn, mỗi tội vì cấp bậc thấp, có rất nhiều chuyện người lính này hoàn toàn mù mờ.

Cung Tuấn vừa nghe vừa nheo mắt: "Gia Luật Xá Ca và Gia Luật Cần đến phủ Tích Tân cơ à?"

"Vâng ạ. Chính vì có thích khách bất ngờ ám sát Gia Luật Cần nên phủ Tích Tân mới phong tỏa toàn thành, khiến Đường đại nhân khó quay về được."

"Thích khách ám sát Gia Luật Cần à..." Cung Tuấn ngẫm lại câu này rồi nhếch khóe môi, vẻ mặt rất thâm. Chàng trở vào lều, lấy giấy bút của Lý Cảnh Đức viết một lá thư giao cho người lính: "Bây giờ ngươi hãy quay về phủ Tích Tân, bằng mọi giá phải đến nơi trong vòng hai ngày. Gửi thư này cho Kiều Cửu, hắn tự biết phải làm thế nào."

Nghe đến tên Kiều Cửu, người lính càng tin tưởng Cung Tuấn hơn: "Tuân lệnh!"

Cung Tuấn dặn dò xong việc ở phủ Tích Tân thì đi vào lều. Vừa ngẩng lên, chàng liền bắt gặp ánh mắt Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư đang chống tay dậy muốn xuống giường, thấy Cung Tuấn, cậu bỗng ngây ra. Chu Tử Thư không tin nổi vào mắt mình, gọi chàng bằng giọng khản đặc: "Sư huynh?"

Cung Tuấn vốn là người tinh tế, chàng rảo bước đến bên, rót một chén nước: "Có khát không?"

"Có ạ."

Chu Tử Thư nhận chén nước, uống ừng ực hết hai chén liền mới thôi. Cậu đang định hỏi tại sao Cung Tuấn lại ở đây, bỗng nhận ra Cung Tuấn đang nhìn mình chăm chú. Rèm mi khẽ buông, ánh mắt sâu lắng, trông nét mặt chàng dường như không vui. Chu Tử Thư nghĩ bụng thôi xong, mình chạm phải cái nọc nào của CungTử Phong không biết, sao trông huynh ấy cứ như sắp cáu đến nơi.

"Sư huynh... giận đấy à?"

"Ừ."

"Huynh giận gì thế?"

"Tại sao để bị thương?"

Cung Tuấn đã nghe người lính thuật lại quá trình Chu Tử Thư bị thương, nhưng chàng vẫn hỏi lại. Chu Tử Thư mới nghĩ thôi đã thấy ấm ức ghê gớm, cậu đâu có ngờ Gia Luật Cần tự nhiên lại bị ám sát, Triệu Phụ tự dưng phái người đến U Châu, còn cậu thì bỗng chẳng có cách nào thoát khỏi phủ Tích Tân!

Chu Tử Thư tủi thân kể lại hết nguồn cơn sự việc.

Cung Tuấn rót cho cậu thêm chén nước, hỏi: "Nói nhiều thế có khát không?"

Chu Tử Thư: "..." Tại huynh hỏi còn gì!

Cung Tuấn: "Đệ ấy, đừng làm ta lo như thế nữa."

Đang nâng chén nhấp nước thì nghe thế, Chu Tử Thư liền ngẩng lên theo bản năng. Cậu ngồi trên giường ngước mắt nhìn Cung Tuấn. Khi ánh mắt họ hòa quyện với nhau, Chu Tử Thư cảm thấy mình có thể chạm tới tận đáy mắt chàng, trong đôi mắt ấy chứa đựng cả nỗi âu lo lẫn sự nuông chiều âu yếm. Chưa khi nào Chu Tử Thư trông thấy Cung Tuấn biểu lộ cảm xúc một cách thẳng thắn thế này. Dường như sư huynh của cậu vĩnh viễn là Tuấng sáng giữa trời quang, vò võ đơn côi, vạn vật thế gian cũng không thể khiến chàng mảy may xúc động.

Vậy mà ánh mắt này lại thổi bừng lên sức sống trong con người CungTử Phong.

Càng chân thực, càng khiến Chu Tử Thư... không tài nào dứt mắt.

Chu Tử Thư cảm nhận được những xao động mãnh liệt đang dấy lên trong lồng ngực. Cậu hé môi, muốn nói lắm mà không biết tại nơi đây, trong khoảnh khắc này, mình nên nói gì mới phải.

Cụp mắt xuống một cách vội vã, Chu Tử Thư bảo: "Đệ nào có muốn bị thương, nhưng hết cách rồi, ai lại muốn bị thương bao giờ chứ..."

"Dù sao cũng chẳng còn cơ hội nữa đâu."

Chu Tử Thư bỗng không nghe rõ: "Dạ?"

Cung Tuấn mỉm cười: "Không có gì."

Chu Tử Thư nhìn Cung Tuấn mà chẳng hiểu ra làm sao, hồi lâu, cậu mới bảo: "Đệ thấy hôm nay sư huynh cứ khang khác thế nào ấy."

"Ồ? Khác chỗ nào vậy?"

"Trước giờ sư huynh cứ như tiên, đệ lúc nào cũng phải đoán xem mỗi ngày sư huynh đang nghĩ gì, nhưng thường chẳng đoán ra bao giờ. Hôm nay cũng thế, đệ không đoán được suy nghĩ của sư huynh, nhưng đệ có cảm giác, hình như sư huynh vừa quyết định một điều gì đó, huynh rất kiên định."

Vốn Cung Tuấn chỉ hỏi đùa thôi, nào ngờ khi cậu trả lời vậy, chàng lại sững người hồi lâu.

"Đệ nghĩ... Ta đã quyết định điều gì đó ư?"

"Lẽ nào không phải?"

Ánh mắt Cung Tuấn có chút kì lạ, chàng đi hai bước quanh lều, rồi chợt quay đầu lại cười dịu dàng: "Đúng thế, đệ không lầm đâu, ta quyết định rồi, một quyết định hết sức quan trọng."

Chu Tử Thư hiếu kì hỏi: "Huynh đã quyết định gì thế?"

Cung Tuấn đáp: "Trước đây, ta từng lấy được một bức tranh từ chỗ tiên sinh. Đó là một bức họa cực kì đẹp, đẹp đến nao lòng, khiến ta vô cùng yêu thích. Hiềm nỗi, bức họa ấy chưa chắc đã thích ta, ta với 'nó' cũng không phải người chung lối. Lòng ta do dự muôn phần, đêm đêm Tuấn trở, không biết liệu có nên giữ lấy 'nó' cho riêng mình, có nên bất chấp ý nguyện của 'nó' để định đoạt số phận cả đời thay 'nó' không."

Chu Tử Thư cười khúc khích, vạch ra chỗ sai của Cung Tuấn: "Tranh đâu phải lại người, có biết 'thích' đâu? Nếu sư huynh muốn dùng vật để so sánh, nên chọn vật khác thì hơn."

Cung Tuấn: "Tìm ra cách để bóc mẽ ta rồi đó hả?"

Chu Tử Thư giờ mới hiểu: "Tại sư huynh nhiệt tình tạo cơ hội cho đệ, bắt đệ phải trêu huynh đấy thôi! Thế sư huynh quyết định làm gì với bức tranh kia? Cất giữ nó hay sao?"

"Em ấy thuộc về ta."

Chu Tử Thư có chút khó hiểu: "Gì cơ?"

Cung Tuấn bình tĩnh nhìn cậu, cười thản nhiên: "Ta bảo, em ấy đã thuộc về ta rồi."

Chu Tử Thư: "?"

CungTử Phong nói gì lạ thế!

Như mọi khi, CungTử Phong lại không nói tiếng người, Chu Tử Thư gặng hỏi mà chàng không chịu tiết lộ, chỉ bảo "Vẫn chưa đến lúc liễu rủ hoa cười1". Chu Tử Thư cạn lời, chỉ biết ca thán trong lòng chứ chẳng thế từ mặt quách cái anh sư huynh này.

[1] Ý là chưa đến lúc có hi vọng. Trích câu thơ "Sơn cùng thủy tận ngờ hết lối, liễu rủ hoa cười lại gặp làng."

Đợi khi Chu Tử Thư khỏe hơn một chút, hai người bắt đầu nói chuyện phủ Tích Tân.

Hiển nhiên, Chu Tử Thư nắm được nhiều thông tin hơn người lính kia. Sau khi cậu kể xong, rất nhiều chuyện Cung Tuấn dự đoán cuối cùng cũng được kiểm chứng. Phần lớn mọi việc diễn biến y như phán đoán của chàng.

Chu Tử Thư: "Vụ ám sát Gia Luật Cần rất có thể là màn kịch ông ta cùng mưu với Gia Luật Xá Ca để dàn dựng. Thích khách không hề làm hại ông ta, ông ta lại gây thương tích cho chính mình. Mấy ngày vừa qua đệ đã suy nghĩ rất nhiều, đệ đoán, Gia Luật Cần hùa theo màn kịch, tự đâm vào người là để gây áp lực lên phủ Tích Tân hòng bắt giữ thích khách. Về thân phận của thích khách kia...dễ là có liên quan đến các hoàng tử còn lại. Sư huynh nghĩ là ai?"

Cung Tuấn hỏi ngược lại: "Thế đệ nghĩ là ai?"

Chu Tử Thư suy nghĩ một lát, đáp: "Tam hoàng tử nước Liêu, Gia Luật Hàm!"

||

"Những người con Lang Gia thường có tham vọng giữ cho riêng mình và lòng cố chấp đến lạ lùng với những thứ thuộc về bản thân." – chương 98 Lời tác giả:

Kỳ thực trước sự kiện lần này, lão Cungvẫn chưa quyết định được mình có muốn "bắt cóc" Tiểu Thư Lang không.

Những gì anh ta nói với Tứ thúc trước đây là hoàn toàn nghiêm túc, "Em ấy (Chu Tử Thư) vốn không phải người chung đường". Đây là điều khiến anh ta lăn tăn không biết có nên khiến "bẻ lái" cuộc đời Tiểu Thư Lang sang hướng không bao giờ biết đến phụ nữ và không có một "gia đình bình thường".

Về phần phải chăng Tiểu Thư Lang đã sớm động lòng với sư huynh...

Mọi người đoán đi nhé ~

Chú thích

Có thể bạn đã biết: anh ấy, cô ấy, nó trong tiếng Trung đều đọc là tā

------oOo------

Chương 108

Nguồn: EbookTruyen.Net

Trên đời này chỉ có sư huynh là tốt nhất

Từ lúc Gia Luật Cần bị ám sát đến nay đã năm ngày trôi qua.

Vì sự xuất hiện của Gia Luật Cần ở phủ Tích Tân quá đột ngột, ngay đêm ông ta đến lại xảy ra ám sát, nên Chu Tử Thư không có quá nhiều thời gian để tìm hiểu chân tướng. Nhưng sau một vài ngày trôi qua, cậu đã ngẫm ra được dần dần: "Phủ Tích Tân là đại bản doanh của quan miền Nam. Là Nhị hoàng tử nước Liêu, không phải ngẫu nhiên mà Gia Luật Xá Ca lặn lội đến tận đây. Như vậy, bọn họ không phải là người điều khiển thích khách, bằng không Gia Luật Cần đã không cần tự đâm mình, cứ sai thích khách làm mình bị thương là được. Tuy thích khách là thật, nhưng mật thư thì chưa hẳn. Chuyện Gia Luật Cần vô duyên vô cớ bị ám sát cũng chưa chắc đã là thật. Toàn bộ chuyện này, e đều do Gia Luật Xá Ca và Gia Luật Cần sắp đặt hết!"

Đây đích thị là tình huống trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã tường.

Nhờ Lư Thâm nhìn thấy Gia Luật Cần tự đâm dao vào người mà Chu Tử Thư vén màn được một nửa bí mật.

Chu Tử Thư nói tiếp: "Gia Luật Xá Ca cố tình tới phủ Tích Tân mới dàn dựng chuyện này là bởi giới cầm quyền ở Tích Tân phần lớn đã ngả về phe hắn. Trong triều đình nước Liêu, vua Liêu lâu nay không màng chính sự, quan miền Bắc ủng hộ Tam hoàng tử Gia Luật Hàm, quan miền Nam ủng hộ Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca. Gia Luật Xá Ca muốn tương kế tựu kế, khiến phe đối địch gậy ông đập lưng ông. Chỉ cần bắt được thích khách, bọn họ có thể gây khó dễ cho Gia Luật Hàm bất cứ lúc nào. Thậm chí rất có thể bức mật thư cũng là giả. Để đối phó với Gia Luật Hàm, Gia Luật Xá Ca và Gia Luật Cần dày công toan tính thật đấy."

Chu Tử Thư phân tích rành rọt, không có chỗ nào bất hợp lí cả, và thật ra cũng khớp với suy đoán của Cung Tuấn.

Khắp nước Liêu, người muốn diệt trừ Gia Luật Xá Ca nhất đích thị là Gia Luật Hàm. Ngược lại, Gia Luật Xá Ca cũng là người nóng lòng diệt trừ Gia Luật Hàm nhất.

Song có điều Chu Tử Thư chưa tính đến, bởi dù sao cậu cũng mới sang Liêu, chưa nắm bắt được hết thông tin về nội bộ nước này. Cung Tuấn bèn bổ sung: "Nếu chỉ để xử lí Gia Luật Hàm thì không cần tốn công tốn sức đến vậy."

Chu Tử Thư thắc mắc: "Ý của sư huynh là...?"

Cung Tuấn nói: "Phần đông các quan miền Nam ngả về phe Gia Luật Xá Ca, nhưng cũng chỉ là đa số thôi chứ không phải toàn bộ. Gia Luật Hàm thì khác, sau lưng Gia Luật Hàm đã sừng sững Cungtử Thái sư nước Liêu – Gia Luật Định." Dường như nhớ lại điều chi, Cung Tuấn cảm thán: "Gia Luật Định. Người này chẳng khác nào định hải thần châm! Nếu không vì ông ta, hai mươi mốt năm trước, đại chiến Tống Liêu chưa chắc đã kéo dài suốt mười năm ròng không dứt."

Chu Tử Thư hiểu ngay: "Gia Luật Xá Ca và Gia Luật Cần hợp mưu cài bẫy

Gia Luật Hàm, nhưng thực chất là để đối phó với Cungtử Thái sư Gia Luật Định."

Cung Tuấn cười bảo: "Tiểu sư đệ cũng biết nếu chọn bừa lấy một người trong số bốn hoàng tử, kể cả không tính Gia Luật Xá Ca – người có học thức và phẩm chất xuất chúng nhất, thì hai người còn lại cũng hơn xa Gia Luật Hàm hữu dũng vô mưu. Thế nhưng Gia Luật Định cứ khăng khăng ủng hộ Gia Luật Hàm là cớ làm sao?"

Chu Tử Thư sửng sốt, cậu suy nghĩ giây lát, đáp: "Gia Luật Định xuất thân quý tộc, thế nên ông ta sẽ thiên vị Gia Luật Hàm là người cùng thuộc dòng dõi cao quý."

"Đó là một nguyên nhân."

"Còn nguyên nhân khác ư?"

Cung Tuấn nhếch môi, mỉm cười: "Kiểm soát một kẻ ngu dốt bao giờ chẳng dễ hơn kiểm soát một kẻ khôn ngoan!" Chu Tử Thư bừng tỉnh.

Ty Ngân Dẫn đã thành lập được hai năm nên Cung Tuấn hiểu biết nhiều về nước Liêu hơn Chu Tử Thư. Nước Liêu thua Đại Tống ở chỗ, vua Liêu thuở trẻ chinh chiến quá nhiều nên về già sinh bệnh tật. Quyền lực trong triều đình bị thâu tóm bởi Gia Luật Định, mà các quan thì cũng chia bè kết phái giống như Đại Tống. Về phần mình, vua Tống Triệu Phụ có sở trường dùng thuật đế vương, thế nên dù Triệu Phụ già hơn vua Liêu rất nhiều nhưng trong triều đình không có đại thần nào dám cả gan ủng hộ hoàng tử.

Không tính nhóm Hoàng đảng như Cung Tuấn, Tô Ôn Duẫn, ngay cả các quyền thần ngoài Hoàng đảng cũng không tỏ rõ thái độ với việc lập trữ.

Bởi vì một mình Triệu Phụ đủ sức đánh bạt cả nghìn, cả vạn hoàng tử không ra hồn!

Nếu các đại thần được lựa chọn, giả sử bây giờ Chu Tử Thư hỏi thẳng Cung Tuấn xem chàng mong Triệu Phụ băng hà sớm cho hoàng tử nối ngôi, hay mong Triệu Phụ hoàn thành được tâm nguyện "Tu tiên thành đạo", thọ dài thêm trăm năm nữa, Cung Tuấn nhất định sẽ quả quyết đáp rằng: "Chúng hoàng tử chẳng bằng một góc của bệ hạ."

Thậm chí nếu được hỏi, Chu Tử Thư cũng sẽ nhận xét: "Triệu Phụ sống thêm ngày nào thì hòa bình Tống – Liêu kéo dài thêm ngày ấy."

Đêm xuống, Cung Tuấn trông Chu Tử Thư đến khi cậu khỏe hơn và hạ sốt, rồi lại phải về lo việc ở ty Ngân Dẫn.

Chu Tử Thư hỏi: "Trễ thế này rồi, sao sư huynh không ngủ lại đại doanh U Châu luôn?"

Cung Tuấn: "Tiểu sư đệ biết Dư Triều Sinh đến U Châu làm gì không?" Vừa tỉnh dậy thì nhận được thánh chỉ, đương nhiên Chu Tử Thư đã biết:

"Thánh thượng phái Dư đại nhân đến tiếp quản việc đôn đốc kiểm tra ty

Ngân Dẫn của đệ."

Cung Tuấn hỏi luôn: "Thế đệ đã đôn đốc kiểm tra chưa?"

Chu Tử Thư: "..."

Cung Tuấn: "Nếu tối nay ta không về ty Ngân Dẫn giải quyết đống việc chất chồng mấy hôm nay của đệ, thì ngày mai ai sẽ lấp liếm hộ đệ trước Dư đại nhân?" Cungđại nhân thở dài, than: "Không ngờ cũng có ngày CungTử Phong này phải vì tình riêng mà trái luật, vì người mà phạm pháp."

Cung Tuấn nói thống thiết đến nỗi Chu Tử Thư quên béng luôn rằng: Bộ xưa nay huynh chưa vì tình riêng trái luật, dối trên gạt dưới bao giờ hả CungTử Phong?

Nói ra đến Lý Cảnh Đức cũng chả thèm tin!

Còn giờ phút này Chu Tử Thư đang cảm động rớt nước mắt, ước ao được hát bài "Trên đời này chỉ có sư huynh là tốt nhất", nhưng nghĩ bài đó vốn là để hát cho mẹ, cậu lại liên tưởng đến câu "con đi ngàn dặm mẹ âu lo" của Cung Tuấn. Chu Tử Thư méo mặt, buồn bã nói: "Sư huynh tử tế với đệ quá, đệ cảm động lắm...mỗi tội, đệ hơi ngại."

Cung Tuấn: "Đệ ngại cái gì?"

Chu Tử Thư không trả lời, chỉ nói: "Để đệ hát cho sư huynh nghe bài này."

Cung Tuấn tò mò nhìn cậu, không hiểu sao bỗng dưng Chu Tử Thư lại hát cho mình nghe.

Thế là Chu Tử Thư cất giọng ca liền: "Trên đời chỉ có sư huynh là tốt nhất, không có sư huynh, đứa trẻ thơ có khác nào ngọn cỏ!"

Vốn nhạy bén hơn người, Cung Tuấn chỉ im lặng một thoáng rồi nghi ngờ ngay: "Sao ta cứ có cảm giác bài này vốn không được hát như thế."

Chu Tử Thư nói: "Tối rồi, ngoài thành có sói hoang đi kiếm mồi đấy. Sư huynh về thành mau lên, muộn nữa thì không về được đâu."

Cung Tuấn bỗng bật cười: "Đệ đúng là..." Chàng ngắt câu ở đó, tựa như muốn nói thêm điều gì mà lại thôi.

Cung Tuấn lên xe ngựa, rời đại doanh về thành U Châu.

Chu Tử Thư thấy chàng đi rồi mới thở phào nhẹ nhõm. Đến lúc chỉ còn một mình, cậu chợt nhớ: "Trước khi đi CungTử Phong định nói gì thế nhỉ?" Không hiểu sao, một câu nọ bỗng bật lên trong trí óc cậu, Chu Tử Thư thốt lên: "Ỷ chiều sinh kiêu?!"

Nửa năm trước, Cung Tuấn đã từng nói thế với Chu Tử Thư, hôm nay bỗng dưng cậu lại nhớ đến. Chu Tử Thư trầm ngâm hồi lâu, thì thầm: "Rốt cuộc từ bao giờ, mình và CungTử Phong đã thành như vậy?" Sự dè chừng và cẩn trọng khi mới gặp đã biến mất, thay vào đó, cậu luôn dành trọn niềm tin cho chàng.

Chu Tử Thư một mình lặng lẽ hồi tưởng lại từng chút, từng chút khoảng thời gian bốn năm ở bên Cung Tuấn. Cậu còn chưa phát hiện ra manh mối, binh sĩ gác ngoài trướng đã vào thông báo rằng có người đến gặp cậu.

Chu Tử Thư ngạc nhiên nói: "Cho vào đi."

Không lâu sau, một người đàn ông dáng người mảnh dẻ mặc chiếc áo choàng có mũ màu đen bước vào quân trướng. Người này cao trên năm xích, chiếc áo choàng màu đen che kín toàn thân anh ta, khuôn mặt khuất sau vành mũ, chỉ để lộ chiếc cằm thon trắng trẻo. Chờ đến khi trong lều chỉ còn lại mình và Chu Tử Thư, Tô Ôn Duẫn mới cởi mũ ra. Đôi mắt hoa đào diễm lệ rà từ đầu đến chân Chu Tử Thư xong, anh ta nhếch mép: "Nghe nói Đường đại nhân bị trọng thương, hôn mê bất tỉnh, được Cungđại nhân chăm sóc tỉ mẩn suốt cả ngày. Ta cứ ngỡ Đường đại nhân kiểu gì cũng đi đời nhà ma, bèn đến đây gặp ngươi lần cuối. Giờ xem ra không vấn đề gì rồi nhỉ?"

Chu Tử Thư: "..."

Đúng là mồm chó khó mọc ngà voi!

Chu Tử Thư không thèm hơn thua với chó, cậu nói chẳng mấy mặn mà: "Hạ quan bái kiến Tô đại nhân. Đội ơn Tô đại nhân đã gửi mật thư, bằng không ta về muộn một ngày thôi thì hỏng cả đại sự."

Nhắc đến việc chính, Tô Ôn Duẫn không nói năng càn rỡ nữa: "Tối nay ta sẽ đi Tích Tân ngay, giục ngựa chạy gấp thì chỉ hai ngày là đến." Chu Tử Thư: "Lư Thâm có nhắn là đã bắt được thích khách không?"

"Vẫn chưa thấy nhắn." Tô Ôn Duẫn ngừng một chút, nghiêm túc nói:

"Trước khi ngươi đi có kịp sắp xếp gì không?"

Xưa nay hai người vẫn đứng ở hai đầu chiến tuyến, mỗi người một đảng phái, thường xuyên đối chọi gay gắt, nhưng giờ thì cả Tô Ôn Duẫn lẫn Chu Tử Thư đều gạt mâu thuẫn qua một bên để bàn bạc cùng nhau. Chu Tử Thư nói: "Ta có sắp xếp một chút, trước tiên Tô đại nhân hãy nghe ta nói..."

Tô Ôn Duẫn ở trong lều Chu Tử Thư chừng nửa canh giờ.

Đến giờ Sửu, lúc đêm khuya, anh ta mới khoác áo choàng lên, chuẩn bị xuất phát đến phủ Tích Tân. Lúc gần đi, Tô Ôn Duẫn bỗng dừng bước, quay lại bảo: "Chuyện ở phủ Tích Tân lộn xộn thật, ta đành phải đi thu dọn thôi. Đường đại nhân cứ an tâm tĩnh dưỡng nhé, khỏi cần nhúng tay."

Chu Tử Thư nghĩ thầm: Đây thèm mà rớ vào, ta sẽ chờ ngươi thâm nhập trại địch, giải quyết hết Gia Luật Xá Ca với Gia Luật Cần một thể hộ ta luôn.

Ngoài mặt, Chu Tử Thư nói: "Cảm phiền Tô đại nhân."

Tô Ôn Duẫn trông điệu bộ kính cẩn của Chu Tử Thư thì phì cười, quay gót ra ngoài.

Tiễn ôn thần xong, Chu Tử Thư tắt đèn đi ngủ. Cậu nào biết, Tô Ôn Duẫn vừa mới ra khỏi lều chưa được bao xa đã bị người ta chụp bao tải lên đầu. Tô đại nhân hoảng loạn, hô hoán ầm ĩ, nhưng chẳng ai buồn để ý đến anh ta hết. Kẻ chụp bao tải không nói không rằng, thoi cho anh ta một quả.

Ăn quả đấm đau điếng, Tô Ôn Duẫn tỉnh ra ngay. Anh ta giận tái mặt, rít lên từ trong bao tải: "Lý Cảnh Đức! Dừng lại ngay!" Lý tướng quân bèn thôi không đấm nữa.

Chu Tử Thư không biết rằng trong lúc cậu đi Liêu, vì nhiệm vụ vỏ bọc là thị sát đại doanh U Châu nên Tô Ôn Duẫn thường xuyên đến doanh trại kiếm chuyện với các võ quan. Tô Ôn Duẫn là Hữu thị lang bộ Công bậc tam phẩm, thấp hơn một cấp so với Lý Cảnh Đức, nhưng vì kiêm chức Khâm sai quân phòng U Châu, anh ta bảo gì Lý Cảnh Đức phải nghe nấy. Mấy ngày nay, các tướng võ U Châu đã cay Tô Ôn Duẫn đến ngứa cả răng, giờ anh ta vào doanh trại một mình giữa đêm khuya, làm gì mà không bị chụp bao tải đánh cho?

Lý Cảnh Đức giả giọng ồm ồm: "Mày nói gì ông chẳng biết. Ông không phải Lý Cảnh Đức."

"Họ Lý kia, ngươi có tin ta về Thịnh Kinh sẽ tố cáo ngươi không? Ta giết ngươi bây giờ!"

"Tiên sư, cái thằng giẻ cùi này ác thế chứ lại!"

Tô Ôn Duẫn quát ầm lên: "Đồ ngu, ngươi thử đánh nữa xem?!"

Lý Cảnh Đức: "..."

Khóe môi Lý tướng quân máy một cái, hắn móc tấm lệnh bài từ trong tay áo ra quẳng cho Tô Ôn Duẫn. "Ông sợ quan văn chúng mày rồi. Cầm đi, ông đấm mày một quả, cho mày mượn một cái lệnh bài Chinh Tây nguyên soái này. Giở bài nham hiểm thì ông không chơi lại tụi bây được. Hai ta sạch nợ nhé, bao giờ về nhớ trả lệnh bài cho ông."

Nói xong, Lý tướng quân bỏ chạy nhanh như chớp. Tô Ôn Duẫn lột bao tải ra khỏi đầu, tức mình sút một phát vào cái lều trong doanh trại.

Hôm sau biết chuyện này, Chu Tử Thư than: "Lý tướng quân dụng tâm lương khổ."

Hai ngày sau, Chu Tử Thư về thành U Châu, bàn giao công việc cho Dư Triều Sinh.

Về phần mình, Tô Ôn Duẫn đóng giả người hầu, bí mật lẻn vào phủ Tích Tân. Anh ta cải trang đến gặp Kiều Cửu và Lư Thâm.

Tô Ôn Duẫn: "Bắt được thích khách rồi hả?"

Lư Thâm chắp tay: "Vừa bắt được sáng nay, đã nhốt ở hậu viện." Tô Ôn Duẫn "Ồ" lên một tiếng ngạc nhiên, nhếch môi cười: "Xem ra bản quan đúng là ngôi sao may mắn, vừa tới nơi là bắt được y ngay. Đi thôi, xuống hậu viện xem thử, cho tên thích khách ấy chọn coi thích chết kiểu gì."

||

------oOo------

Chương 109

Nguồn: EbookTruyen.Net

Tất cả cũng vì lợi ích

Sống hơn ba mươi năm trên đời, gần đây Tiêu Luật mới nếm mùi lận đận đủ đường, cứ như thể gã đã dùng cạn vận may khi cuộc đời mới đi được nửa chặng.

Nhờ cất công thết đãi tiệc tùng, mua tranh nổi tiếng để lấy lòng Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca, gã mới có thể gây ấn tượng ngay lần đầu tiên trình diện, mà Nhị hoàng tử hình như cũng nhớ mặt gã. Ai ngờ chỉ trong một đêm, Hành cung Đô bộ thự Gia Luật Cần bị thích khách đả thương, Nhị hoàng tử cũng lờ luôn hạng tiểu tốt như Tiêu Luật, chẳng buồn nhớ đến gã là ai.

Vuốt mông ngựa là một kĩ nghệ sinh tồn, không phải ai cũng thành thạo được.

Tiêu Luật ra sức lấy lòng Gia Luật Xá Ca hết lần này đến lần khác, nhưng cánh cửa đến với Gia Luật Xá Ca cứ đóng im ỉm.

Tiêu Luật than: "Rõ là xui, nếu không phải tại con trai Kiều Cửu đột nhiên lâm bệnh không thể đi gặp Nhị điện hạ, khiến Nhị điện hạ giận cá chém thớt lên ta, thì làm sao ta lại ra nông nỗi này?"

Đương ăn sáng dở, gã càng nghĩ càng tức tối, vung tay áo: "Từ rày, Tiêu Luật này không bao giờ giao thiệp với tên Kiều Cửu ấy nữa!"

Gã chưa nói dứt câu, đã có người gia nô đến bẩm: "Lão gia, tay buôn trà người Tống Kiều Cửu lại đến nữa rồi!"

Tiêu Luật bừng bừng lửa giận: "Nó còn dám vác mặt tới đây hả?"

Người gia nô bối rối thưa: "Kiều Cửu ngày nào cũng đợi ngoài cổng, ngày nào cũng tới xin gặp, hôm nay đã chờ nửa canh giờ rồi ạ. Tiểu nhân thấy y mang theo nhiều lễ vật lắm, y còn nói..."

"Nó nói cái gì?"

"Y nói, nếu hôm nay không gặp được lão gia, y sẽ không về."

Tiêu Luật cười khẩy: "Nó chỉ là một tên buôn trà mà thôi, không gặp là không gặp. Bảo nó cút đi."

"Gượm đã." Người quản lí tin cẩn của Tiêu Luật bỗng lên tiếng. Sau một thoáng suy tư, ông ta nói: "Lão gia, thế chưa phải là kế hay. Kiều Cửu là thương nhân, gần đây y cứ ghé thăm liên tục cũng là vì mấy ngày trước trót đắc tội lão gia. Y làm thế, âu cũng là để giữ mối buôn bán với nhà mình. Tiểu nhân xin hỏi lão gia một câu, ngài căm ghét Kiều Cửu đến mức nào? Có còn mưu việc làm ăn với y được nữa không? Hay chỉ muốn không bao giờ phải gặp lại y nữa?"

Tiêu Luật: "Ta không bao giờ muốn gặp tên Kiều Cửu ấy nữa. Nó làm hỏng việc tốt của ta, ta ước nó chết quách đi cho rồi."

Người quản lí cười: "Thế thì lão gia càng nên gặp Kiều Cửu. Giờ ngài không gặp y thì chỉ khiến y hết cửa buôn bán với nhà chúng ta, nhưng phủ Tích Tân rộng lớn nhường này, tuy không buôn bán với chúng ta sẽ thiệt thòi đấy, song y vẫn móc nối với các hiệu buôn khác được. Nếu lão gia căm hận y đến xương tủy, chi bằng hãy giả vờ hòa hảo với y, đợi đến khi thương thảo chuyện làm ăn xong xuôi, chúng ta sẽ ngấm ngầm thọc y một nhát."

"Quả là diệu kế!" Tiêu Luật quay ra bảo người gia nô, "Cho gọi Kiều Cửu vào đây."

Kiều Cửu dẫn theo người hầu, bưng một đống lễ vật vào phủ Tiêu Luật.

Vừa giáp mặt, Kiều Cửu đã rạp mình vái chào: "Tại hạ xin lỗi Tiêu tiên sinh, xin tiên sinh chớ giận tôi nữa."

Tiêu Luật cười giả dối: "Ôi chao, huynh nói lạ chưa kìa? Tôi nhất thời nổi nóng mà giận lây sang Kiều đại ca. Giờ nghĩ lại mới thấy mình giận chó đánh mèo, mong Kiều đại ca chớ để bụng."

Kiều Cửu: "Thế Tiêu tiên sinh nhất định phải nhận chỗ lễ vật này, ngài có nhận, lòng tôi mới yên."

Hai người cùng nhìn nhau cười vang.

Tiêu Luật: "Lại ăn bữa cơm chung chứ?"

Kiều Cửu: "Xin vâng."

Trên bàn ăn, Kiều Cửu tỏ vẻ sợ sệt, cứ như thể hắn lo Tiêu Luật sẽ nổi trận lôi đình. Tiêu Luật trông cái điệu bộ run như cầy sấy của hắn mà khinh, nhưng gã vẫn khoác lên nụ cười dối trá, vờ như rộng lượng chứ không cáu kỉnh nữa. Sau khi ăn xong, Kiều Cửu để lễ vật lại rồi dẫn người hầu ra về. Hai người hẹn đầu tháng sau Kiều Cửu sẽ nhập lá trà tới rồi bán ở hiệu buôn của Tiêu Luật.

Đợi Kiều Cửu đi, Tiêu Luật mới sai gia nô cất lễ vật vào nhà kho.

Toàn là của tốt, tội gì mà phải từ chối chỉ vì muốn hãm hại Kiều Cửu!

Trông theo bóng lưng Kiều Cửu, Tiêu Luật cười hết sức gian trá. Gã nào biết, Kiều Cửu vừa trở về trạch viện, Tô Ôn Duẫn đã hỏi hắn ngay: "Nhận hết đồ chứ? Tên Tiêu Luật có phát hiện ra điều gì bất thường không?"

Kiều Cửu cung kính thưa: "Bẩm đại nhân, Tiêu Luật không phát giác ra điều gì lạ hết."

Tô Ôn Duẫn chậm rãi nhếch môi, gương mặt trắng bóc ra chiều khinh khi: "Rõ quân ngu xuẩn."

Ba ngày sau, Tiêu Luật và quản lí đang rà soát, đối chiếu thu chi nửa đầu năm, bỗng gia nô Tiêu phủ chạy vào thư phòng, mồm liến thoắng: "Lão gia lão gia, nghe nói thích khách đã bị tóm cổ rồi!"

Tiêu Luật cả kinh, đứng phắt dậy: "Bắt được rồi à?"

Gia nô gật đầu thưa: "Lão gia đã dặn phải sát sao chú ý động tĩnh của thích khách, nếu hắn bị bắt thì báo về trước tiên. Nghe nói Tả tưởng đại nhân bắt được thích khách, hiện đang giải về phủ nha để thẩm vấn kĩ càng."

Tiêu Luật mừng quýnh: "Cuối cùng cũng bắt được! Đồ thích khách chết bầm, sớm chẳng đến, muộn chẳng đến, lại nhè đúng lúc ta có việc quan trọng mà phá bĩnh. Ngươi hãy xuống kho lấy quà mừng, lát nữa ta sẽ đến thăm hỏi Nhị điện hạ, chúc mừng ngài nhân tin vui này."

Quản lí cười nói: "Chúc mừng lão gia, thời vận đã đến, nhất định sẽ phất lên như diều gặp gió." Tiêu Luật cười khả ố.

Lúc trước Gia Luật Xá Ca bận tróc nã thích khách nên không có thời gian để ý đến Tiêu Luật. Mỗi lần Tiêu Luật đến xin gặp lại bị người hầu viện cớ "điện hạ đang bận việc truy lùng thích khách, không rảnh tiếp" để chối từ. Hôm nay, gã đã có lí do danh chính ngôn thuận, có thể xu nịnh Gia Luật Xá Ca tiếp rồi.

Nỗi âu lo phiền chán suốt bao ngày cuối cũng đã được giải tỏa.

Gia nô thay y phục cho Tiêu Luật trong khi gã mải miết mường tượng ra những chiêu trò lấy lòng Nhị điện hạ khi gặp mặt. Đang yên đang lành, bỗng có tiếng bước đi thậm thịch ngoài sân. Tiêu Luật thấy quái lạ, bèn ra ngoài cửa ngó xem. Chưa kịp nói năng gì, cổng viện nhà gã đã bị đạp tung bởi một viên tướng mình khoác giáp trụ, tay cầm bảo kiếm.

Tiêu Luật hãi hùng: "Anh là ai, sao dám tự tiên xông vào nhà dân!"

Viên tướng thấy vẻ hãi hùng của Tiêu Luật thì cười gằn, hỏi: "Mày là Tiêu Luật hả?"

Tiêu Luật lòng đầy ngờ vực: "Đúng thế. Nếu anh biết ta là ai, hẳn cũng biết ta có họ hàng với Tả Bình chương chính sự Tiêu Châm – Tiêu đại nhân. Có hiểu lầm gì ở đây chăng?"

Viên tướng ấy thoáng ngạc nhiên, đoạn cười ha hả: "Hiểu lầm hả? Tao đến để bắt Tiêu Luật mày đây! Người đâu, gô cổ nó lại, giải tới chỗ Nhị điện hạ."

Ruột gan Tiêu Luật lạnh toát, cả người như ngã xuống hầm băng. Phải đến lúc hai tên lính lấy thừng trói gã, gã mới bắt đầu giãy dụa điên cuồng, miệng la bai bải: "Tao trung thành tận tâm với Nhị điện hạ, mày là cái thá gì mà dám bắt trói tao, hãm hại tao?"

Viên tướng ấy lườm gã một cái, rồi nhét luôn nùi giẻ rách vào mồm Tiêu Luật.

Cứ thế, Tiêu Luật bị trói gô lại giải đến phủ nha Tích Tân.

Đến phủ nha, Tiêu Luật dáo dác nhìn quanh, những mong tìm thấy Tiêu Châm, nhưng Tiêu Châm làm gì có ở đây mà tìm. Gã bị binh lính áp tải đến đại đường phủ nha, ngẩng đầu lên, chỉ thấy Gia Luật Xá Ca trong bộ áo gấm màu lam đang ngồi ghế trên, mỉm cười với gã. Nụ cười y âm hiểm lạnh lẽo thấu xương, như nụ cười quỷ dữ dưới địa ngục. Tiêu Luật muốn la lên rằng "Nhị điện hạ cứu mạng, tiểu nhân chưa hề làm gì cả, tiểu nhân bị oan", nhưng bị bịt miệng bằng giẻ, gã chỉ có thể nức nức nở nở mà thôi.

Rồi gã thấy Gia Luật Xá Ca nhìn xuống mình, cất giọng mềm mỏng: "Nếu đã đến đây thì ít nhiều cũng phải có quà ra mắt. Sát Lộc, ngươi hãy chặt tay trái của gã, cầm lên cho bản điện hạ xem."

"Tuân lệnh."

Tiêu Luật không dám tin vào tai mình, trợn trừng cả mắt. Gã thấy một tên đàn ông lực lưỡng khôi ngô đi về phía mình, rút soạt thanh đao bên thắt lưng.

Thời khắc này, Tiêu Luật bỗng nhớ đến lời đồn đại rằng Gia Luật Xá Ca từng chém đôi một nam sủng được dâng lên giường y.

Chỉ trong tích tắc, cơn đau kinh hoàng như đục tủy khoét xương nuốt chửng gã.

Tin thích khách bị bắt giữ nhanh chóng lan truyền khắp phủ Tích Tân, đến cả tai Tả Bình chương chính sự Tiêu Châm. Tiêu Châm vui mừng khôn xiết, thích khách bị bắt tức là lão ta đỡ phải đi sớm về khuya, lùng sục khắp cả thành. Ai ngờ chưa tới nửa canh giờ, quan sai đã về báo tin, hóa ra Tiêu Luật là đồng đảng của thích khách, bị Gia Luật Xá Ca bắt về thẩm vấn!

Mặt Tiêu Châm tái me tái mét, lão gắt lên: "Mi nói tầm bậy tầm bạ gì thế? Tiêu Luật làm sao mà là đồng đảng của thích khách được?"

Quan sai nào có tội tình gì, đáp: "Chuyện chắc mười mươi rồi ạ. Đại nhân, sau khi bị Tả tướng đại nhân bắt giữ, tra tấn đủ đường, thích khách kia cuối cùng cũng khai ra đồng bọn, chỉ đích danh Tiêu Luật. Hắn khăng khăng rằng Tiêu Luật giúp hắn ẩn náu, còn bảo giờ đã muộn rồi, mật thư đã bị hắn tuồn ra khỏi phủ Tích Tân từ lâu. Nói xong chỉ được một chốc, hắn nhè lúc mọi người không chú ý, nuốt thuốc độc tự tử luôn."

Tiêu Châm ngồi phịch xuống ghế, giương mắt líu lưỡi: "Thế nào mà lại thành Tiêu Luật..."

Chuyện này thì đến Tiêu Luật cũng chẳng tài nào hiểu nổi vì sao tên thích khách cứ đổ riệt cho mình là đồng lõa của y!

Suốt một ngày đêm, Tiêu Luật bị đày đọa đến nỗi người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm, toàn thân be bét máu me.

Gã quỳ rạp trên mặt đất như một cục thịt chết. Gia Luật Xá Ca gọi gã lại gần, Tiêu Luật run như cầy sấy, hoảng sợ rụt về phía sau. Gia Luật Xá Ca là mỹ nam trứ danh trong hoàng thất nước Liêu, nhưng trong mắt Tiêu Luật lúc này, trông y còn đáng sợ hơn cả quỷ sứ.

Đôi mắt đen nhánh của Gia Luật Xá Ca nhìn chằm chằm vào Tiêu Luật một hồi, y nở nụ cười, cúi xuống hỏi: "Ngươi có phải đồng lõa của thích khách không?"

Tiêu Luật lắc đầu quầy quậy, giọng khàn đặc rất khó nghe, khô cằn như cát đá: "Tôi không, không quen thích khách. Điện hạ hỡi, oan cho tôi quá!"

Gia Luật Xá Ca thở dài: "Nhưng giữa sự chứng kiến của bao nhiêu người, thích khách đã chỉ điểm ngươi. Dù có đúng là ngươi hay không thì cũng chẳng quan trọng. Nói cho bản điện hạ biết, kẻ nào đã xúi giục ngươi?"

Tiêu Luật như thể phát rồ, gào lên: "Tôi không làm gì, tôi không làm gì hết!"

Mặt Gia Luật Xá Ca đột nhiên lạnh tanh: "Khai ra, kẻ nào là chủ mưu?" Tiêu Luật đần độn nhìn y, lúng túng không biết đường đáp.

Chợt Gia Luật Xá Ca mỉm cười, nụ cười mới dịu dàng làm sao. Y vươn tay vỗ vỗ lên mặt Tiêu Luật, máu dây đầy ra tay. Bằng chất giọng êm như ru, y nói: "Kẻ chủ mưu sai phái ngươi là Gia Luật Ẩn, Cungtử Thái bảo Gia Luật Ẩn, nhớ lấy cái tên ấy."

Trong phòng giam lạnh lẽo chỉ có tiếng nước nhỏ tí tách. Giọng nói mê hoặc của Gia Luật Xá Ca lại cất lên: "Nhớ lấy lão ta, bản điện hạ hứa sẽ cho ngươi chết toàn thây."

Đầu óc Tiêu Luật trống rỗng, trông gã như cái xác không hồn. Miệng gã há hốc, mắt đờ đẫn nhìn Gia Luật Xá Ca. Gia Luật Xá Ca mớm đi mớm lại ba chữ "Gia Luật Ẩn" vào tai gã. Mãi lâu sau, Tiêu Luật gầm rít lên như con thú hoang. Rồi, gã chợt lặng đi. Gã nói: "Người đã sai sử tôi, là Cungtử Thái bảo...Gia Luật Ẩn." Khi gã nói hết câu, nước mắt trào ra từ khóe mắt.

Tiêu Luật đã chỉ đích danh chủ mưu, Gia Luật Xá Ca bèn sai người đi khám nhà gã ngay tức khắc, quả nhiên phát hiện một số chứng cứ phạm tội trong phòng kho.

Tiêu Châm hay tin thì xây xẩm mặt mày, đổ bệnh tức thì.

Hôm sau, lão ta có một vị khách không mời mà đến. Gia nô dẫn Kiều Cửu tới trình diện Tiêu Châm, Tiêu Châm kiệt sức nhìn hắn, lạnh lùng hỏi: "Hình như ngươi là bạn Tiêu Luật?"

Kiều Cửu quỳ rạp xuống đất, rống lên nức nở: "Van xin đại nhân cứu tiểu nhân một mạng, xin hãy cứu lấy tiểu nhân!"

Tiêu Châm sửng sốt: "Tên lái buôn nước Tống nhà mi nói gì thế hả?"

Kiều Cửu khóc lóc: "Đại nhân còn chưa biết ư? Sáng sớm hôm nay Tiêu Luật đã thú tội, khai báo chủ mưu giật dây y. Khốn nạn thay, y dám ngang nhiên cắn ngược, vu cho tiểu nhân với đại nhân đều biết việc này, là đồng lõa!"

Tiêu Châm đang nằm bỗng ngồi bật dậy trên giường. Thân mình to béo sồ sề nện xuống ván giường, làm lão đau quá kêu oai oái.

"Ngươi nói thật ư?"

"Thật trăm phần trăm ạ!"

||

------oOo------

Chương 110

Nguồn: EbookTruyen.Net

Chẳng bằng một phần vạn của sư huynh

Ngay đêm bị bắt giữ, thích khách đã khai ra Tiêu Luật.

Trong tù, Tiêu Luật bị Gia Luật Xá Ca tra tấn gần chết, cuối cùng bị ép cung, khai ra chủ mưu sau màn. Nếu ở Thượng Kinh, chuyện dùng cực hình để ép cung tuyệt đối không thể xảy ra. Chí ít tay chân của Gia Luật Xá Ca sẽ không can thiệp nổi, bởi ở Thượng Kinh có Cungtử Thái sư Gia Luật Định một tay che trời. Chính vì lí do đó, Gia Luật Xá Ca và Gia Luật Cần mới vượt ngàn dặm đường xa để đến phủ Tích Tân, đại bản doanh của các quan miền Nam.

Sau khi Tiêu Luật khai tên chủ mưu, Gia Luật Xá Ca làm bộ như không tin vào tai mình, y tròn mắt hoang mang, luôn miệng nói: "Sao có thể là Thái bảo đại nhân, sao có thể?"

Kỳ thực, không phải toàn bộ chứng cứ phạm tội thu giữ được từ phủ Tiêu Luật đều là tang vật do Gia Luật Xá Ca sai người tuồn vào để giá họa.

Quan sai tìm được trong kho ở phủ Tiêu Luật một số thứ, tất cả đều là bảo vật trân quý chỉ có ở Thượng Kinh. Thậm chí họ còn tìm được một tang vật khác ở hậu viện của Tiêu Luật, chính là bộ quần áo vấy máu của thích khách. Vậy là đủ chứng minh Tiêu Luật là đồng đảng của thích khách. Song liệu người sai sử gã có phải Cungtử Thái bảo Gia Luật Ẩn không, chỉ mình gã mới biết được.

Gia Luật Cần bị thương nên không thẩm vấn Tiêu Luật. Chờ tới lúc Tiêu Luật khai tên chủ mưu rồi, ông ta mới nghi ngờ hỏi: "Nhị điện hạ, về lí mà nói thì Tiêu Luật phải là tay sai của Tam hoàng tử, những thứ thu giữ được từ phủ hắn đều là chứng cớ rành rành. Chỉ có điều, xét biểu hiện của hắn, thần có cảm giác rất khó đoán. Thần đã kinh qua bao phen chìm nổi trong quan trường, theo thần thấy, hình như hắn không ở phe ấy."

Gia Luật Xá Ca bèn nói: "Ta cũng cảm thấy có sự kỳ lạ. Nhưng Đô bộ thự đại nhân này, trong phủ Tích Tân nhất định phải có người trợ giúp thích khách kia. Bằng không chỉ với sức mình y, làm sao có thể ẩn náu nhiều ngày trong thành như thế mà không bị phát hiện?"

Vẻ mưu mô lạnh lùng toát lên từ gương mặt Gia Luật Cần, ông ta đăm chiêu suy nghĩ một lát, nói: "Chẳng lẽ, Tiêu Luật không phải là thuộc hạ của Tam hoàng tử..." Ông chìa tay phải ra, vỗ một cái lên mu bàn tay trái, hạ giọng: "Mà do hai hoàng tử kia cài cắm để vu oan giá họa, ly gián điện hạ và Tam điện hạ, hòng tạo thế ngao cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi?"

"Điều Đô bộ thự đại nhân lo, Xá Ca cũng đã lường trước rồi. Nhưng quả thật chuyện ấy nực cười quá đỗi." Gia Luật Xá Ca nói một cách giễu cợt, "Người Hán có câu 'ngao cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi', về bản chất, ngư ông cũng là một thế lực có sức tranh giành chứ không ngồi duỗi mà xơi. Chẳng phải Xá Ca coi thường đại ca và tứ đệ, song Gia Luật Triển nghĩ gì viết hết lên mặt, còn Gia Luật Long dẫu muốn viết cũng chẳng có tâm cơ để mà viết. Nếu quả là bọn họ được cao nhân tương trợ, sắp đặt tình huống này khiến ta và Gia Luật Hàm đấu đá lẫn nhau, thì đã làm sao?"

Gia Luật Cần: "Ý điện hạ là?"

Gia Luật Xá Ca mở "soạt" chiếc quạt ra, nhẹ nhàng phe phẩy, trông y như một công tử Giang Nam, song nét mặt âm hiểm khiến y chỉ họa được cái vỏ chứ không họa được cốt cách của công tử thế gia. "Người Xá Ca muốn đối phó chỉ có Gia Luật Hàm, hoặc nên nói là Thái sư đại nhân sau lưng nó. Về phần nó thì có gì đáng để quan tâm đâu, chẳng qua chỉ là thằng hề nhảy nhót trên sân khấu mà thôi."

Gia Luật Cần bừng tỉnh, ông ta hành lễ thưa: "Điện hạ cao minh, thần cam nguyện xông pha khói lửa vì điện hạ, không đời nào hối tiếc!"

Hai người bọn họ tự cho là đã suy xét chu toàn, lại không ngờ tới bàn tay Đại Tống ngấm ngầm giật dây trong vụ việc này.

Việc bí mật đằng này tạm thời không nhắc đến, bên kia, phủ Tả Bình chương chính sự, Tiêu Châm vốn đã tức phát bệnh vì chuyện Tiêu Luật phạm phải lệnh cấm, giờ hay tin Tiêu Luật còn vu cho mình là đồng đảng, lão ta càng tức nổ đom đóm mắt, thiếu điều lăn vật ra chết ngay tại chỗ.

Tiêu Châm với Tiêu Luật là bà con xa đến nỗi bắn đại bác cũng không tới. Khốn nỗi vì cả dòng họ chẳng bói ra gương mặt nào ưu tú, nên khi Tiêu Luật mang lễ mẹ lễ con đến biếu xén lấy lòng Tiêu Châm, Tiêu Châm chỉ thoái thác đôi lần rồi cũng nhận, đồng thời giữ Tiêu Luật làm tâm phúc của mình.

Mà việc Tiêu Luật trở giáo đâm ngược cũng không phải cắn quàng.

Ban đầu khi quan sai lục soát nhà gã, thu giữ được những lễ vật quý báu có liên quan đến thích khách, thì một món Tiêu Luật khai là quà do lái buôn trà nước Tống Kiều Cửu tặng, món kia gã khai được Tiêu Châm tiện tay ban thưởng cho. Khi Tiêu Luật biết hai món đó có vấn đề, gã căm hận Tiêu Châm và Kiều Cửu tột độ. Bị hành hạ mất lí trí không còn nghĩ được nữa, lại biết mình chết chắc rồi, Tiêu Luật chỉ hận không thể dìm hết những kẻ khác xuống theo.

Kiều Cửu đến xin Tiêu Châm cứu mạng, Tiêu Châm cũng hoảng loạn như kiến bò chảo nóng. Lão tập tức thay quan bào, tự mình đến bái phỏng phủ Đô bộ thự. Tất nhiên, Gia Luật Xá Ca cho phép lão vào diện kiến. Vừa thấy Gia Luật Xá Ca, Tiêu Châm liền quỳ mọp xuống, khóc lóc inh ỏi: "Oan cho thần quá, thần thật tình không biết Tiêu Luật là đồng bọn của thích khách! Nhật nguyệt chứng giám cho lòng trung thành của thần với bệ hạ, với điện hạ!

Gia Luật Xá Ca kinh ngạc nói: "Sao lại quỳ rạp xuống thế, đứng lên mà nói nào."

Tiêu Châm nào dám đứng lên: "Thần thật sự không biết gì cả, xin Nhị điện hạ soi xét."

Gia Luật Xá Ca cười bảo: "Xem ra Tả Bình chương chính sự đã biết việc Tiêu Luật nhận tội. Không sai, quả thực hắn đã khai ra ngươi, nhưng Tiêu đại nhân là người thế nào, chẳng nhẽ bản điện hạ không biết sao? Ngươi hãy đứng lên mà thưa chuyện."

Tiêu Châm sửng sốt, lập tức đứng dậy.

Nửa canh giờ sau, Tiêu Châm rời khỏi phủ Đô bộ thư mà vẫn chưa hoàn hồn. Chờ lão đi rồi, Gia Luật Cần mới bước ra từ buồng sau. "Mấy hôm nay thần bị thương không thể tiếp khách. Phải phí nước bọt với kẻ ngu dốt đần độn như y, thật vất vả cho Nhị điện hạ quá."

Gia Luật Xá Ca: "Sao lại nói thế? Tên Tiêu Châm ấy tuy ngu xuẩn, nhưng chức của y không nhỏ, vẫn hữu dụng cho chúng ta. Sau hôm nay, y đã bị chúng ta bắt thóp, y sẽ không dám sinh lòng sai khác đâu." Ngừng một lát, "Được rồi, Kiều Cửu là ai, tại sao Tiêu Luật lại khai tên hắn và muốn giá họa cho hắn?"

Nét mặt Gia Luật Cần hơi khác thường: "Kẻ này...đúng là thần đã nghe tên. Điện hạ biết đấy, Tiêu Luật vẫn muốn lấy lòng điện hạ, giờ xem ra y đã nung nấu dã tâm từ trước và có mưu đồ hẳn hoi. Ngày ấy dự tiệc ở Tiêu phủ, sau buổi yến, trong lúc điện hạ và Tiêu Luật thưởng thức tranh, Tiêu Châm có nói với thần rằng Kiều Cửu là một thương gia buôn trà nước Tống mà y quen, gia tài bạc triệu, còn có một đứa con trai tuấn tú, xinh đẹp tuyệt trần."

Gia Luật Xá Ca ngây người, y nở nụ cười thấu hiểu: "Ta nhớ ra rồi, Tiêu Luật cũng từng bẩm với ta thế, thì ra người y bảo chính là tên Kiều Cửu này."

"Vì chuyện của Kiều Cửu mà điện hạ xa lánh Tiêu Luật nên gã đâm thù hằn Kiều Cửu. Sau khi bị bắt giữ, quản lí thân tín nhất của Tiêu Luật cũng khai rằng Tiêu Luật căm thù Kiều Cửu, vẫn muốn giết Kiều Cửu. Lại nói, lần này Tiêu Luật biết rõ mình hết đường sống rồi nên gã mới cố ý hãm hại Kiều Cửu."

Gia Luật Xá Ca nhẹ nhàng gật đầu, cả căn phòng im phăng phắc.

Lát sau, Gia Luật Xá Ca bỗng hỏi: "Con trai của hắn có xinh đẹp thật không?"

Khi nhận xét nam giới, người ta không bao giờ dùng những từ như "xinh đẹp" hết. Song khi Gia Luật Xá Ca nói thế, Gia Luật Cần không hề cảm thấy có gì sai. Ông ta nói nhẹ như không: "Thần chưa gặp kẻ đó, nếu điện hạ vừa ý, cứ giáng bừa một tội mà bắt người về là được."

Gia Luật Xá Ca: "Bản điện hạ không phải phường giặc cướp, sao có thể tùy tiện bắt bớ người ta."

Gia Luật Cần lập tức đổi giọng: "Dạ, thần lỡ lời, xin điện hạ trách phạt."

Gia Luật Xá Ca thở dài: "Thời buổi rối ren, bản điện hạ không có hứng thú với chuyện phong hoa tuyết nguyệt."

Đằng kia, khi Tiêu Châm về phủ, Kiều Cửu đã đợi lão từ lâu.

Thấy Kiều Cửu, tâm tình Tiêu Châm rất phức tạp. Lão tự biết mình đã bị ép lên thuyền giặc của Nhị hoàng tử, từ nay về sau chính thức trở thành kẻ thù của phe Tam hoàng tử, Cungtử Thái sư Gia Luật Định chắc chắn không tha cho lão một cách dễ dàng.

Kiều Cửu: "Đại nhân, chúng ta đúng là bị tai bay vạ gió! Tiểu nhân chỉ muốn buôn bán ở phủ Tích Tân, ai ngờ lại vướng phải chuyện này."

Tiêu Châm: "Nhị điện hạ anh minh thần võ, không bị Tiêu Luật lừa bịp mà tin chuyện hoang đường của hắn đâu."

Vừa nói xong, Tiêu Châm liền thấy thân thiết hơn hẳn với Kiều Cửu. Người ta hay bảo hoạn nạn có nhau, lão cảm khái: "Nhưng không thể vì thế mà lơi lỏng cảnh giác. Nhị điện hạ bảo rằng ngài tin chúng ta, nhưng ai biết được lúc nào ngài gây khó dễ bất thình lình. Ôi, đúng là càng lúc càng khó sống." Kiều Cửu quà cáp xong thì cũng về trạch viện.

Tô Ôn Duẫn hay tin liền giật mình: "Gia Luật Xá Ca buông tha Tiêu Châm đơn giản thế thôi à?" Anh ta không ngờ Tiêu Châm không hề bị hoài nghi. Nếu như vậy, mưu đồ xúi giục Tiêu Châm của anh ta e là khó thành.

Kiều Cửu bèn kể hết lại những gì Tiêu Châm nói.

Tô Ôn Duẫn cười khẩy: "Gia Luật Xá Ca không ngu, biết mua chuộc lòng người đấy, ắt hẳn y đã làm thế rất nhiều lần rồi. Song lần này, chúng ta và Tiêu Châm đã thành châu chấu chung dây. Lúc trước Tiêu Luật lấy lòng

Tiêu Châm thế nào, ngươi có học theo được không?"

Kiều Cửu: "Xin đại nhân cứ yên tâm."

Tô Ôn Duẫn: "Cũng không nhất thiết phải xúi giục lão ta, chỉ cần trở thành tâm phúc của lão ta là có thể moi tin được rồi. Sau việc này, lão nhất định sẽ không nghi ngờ chúng ta nữa. Hơn nữa, sau khi lão quy phục phe Nhị hoàng tử, chúng ta càng khai thác được nhiều tin tức hơn. Tái Ông mất ngựa, ai biết họa hay phúc?" Ngừng một lát, anh ta lại nói: "Lúc trước Tiêu Luật thường xuyên đòi cho Đường Cảnh Tắc gặp Nhị hoàng tử, làm ta thấy rất kì lạ. Ngươi hãy điều tra kĩ càng, ắt có chỗ bất thường."

Kiều Cửu: "Vâng."

Liên tục mấy ngày sau, hôm nào Kiều Cửu cũng đến bái phỏng Tiêu Châm, biếu quà hậu hĩnh. Dần dần Tiêu Châm cũng coi hắn như người phe mình. Cuối cùng, lão ta cũng nói toạc hết chân tướng trong một lần say rượu. Kiều

Cửu kinh hãi, lập tức quay về bẩm báo cho Tô Ôn Duẫn."

Tô Ôn Duẫn: "...."

Đêm đến, Tô đại nhân đích thân viết thư, cho người gửi suốt đêm về thành U Châu.

Vì được gửi hỏa tốc nên mật sứ chỉ mất một ngày đêm đã đưa thư đến U Châu. Chu Tử Thư nhận thư, biết việc cực kì quan trọng, cậu sốt ruột bóc thư ra đọc ngay: "..."

Lá thư chỉ viết hai dòng ngắn ngủn:

"Gia Luật Xá Ca ham mê Long Dương. Đường đại nhân quả là tài trí tột bậc."

Chu Tử Thư cạn lời, đốt thư đi, nghĩ thầm: "Làm sao ta biết y đoạn tụ chứ, ta có cố tình đổi với ngươi đâu? Tài trí cái con khỉ, dù Gia Luật Xá Ca có không đoạn tụ thì phủ Tích Tân cũng là đầm rồng hang hổ. Đến cũng đến rồi, ngươi còn sợ một tên Nhị hoàng tử ư?"

Lúc Chu Tử Thư nhận thư thì Cung Tuấn đang ở bên cậu, Chu Tử Thư cũng không giấu giếm chàng.

Cung Tuấn thấy Chu Tử Thư không vui thì hỏi: "Có chuyện gì xảy ra thế?"

Chu Tử Thư im im một lát, cuối cùng cậu bĩu môi, "tố cáo" hết những gì Tô Ôn Duẫn làm với Cung Tuấn.

Chu Tử Thư thấy mình rõ oan: "Sư huynh thấy đấy, Gia Luật Xá Ca có đoạn tụ cũng chẳng phải do đệ ép, trời sinh y thế kia mà. Từ đầu Tô Ôn Duẫn đã muốn đến phủ Tích Tân, chuyện đấy có liên quan gì đến đệ, đệ có bắt y đi đâu?"

Cung Tuấn nhíu mày, không nói.

Chu Tử Thư: "Sư huynh ơi?"

Cung Tuấn như choàng tỉnh từ cơn mơ, nói: "Tình hình phủ Tích Tân hiện giờ thế nào?"

Hai người đổi sang chủ đề này, Chu Tử Thư bèn thuật lại tình hình ở phủ Tích Tân. "Tô Ôn Duẫn đúng là rất thủ đoạn, chỉ tiếc là không thể xúi giục được Tiêu Châm. Ban đầu đệ chỉ muốn lợi dụng thích khách hãm hại Tiêu Luật hòng nối quan hệ với Tiêu Châm. Nhưng vì gấp quá, đệ cũng không nghĩ ra cách nào ngoài cách ấy. Thế mà Tô đại nhân đã giải quyết gọn ghẽ rồi."

Cung Tuấn: "Đệ có biết vì sao thánh thượng thích Tô Ôn Duẫn không?"

Câu hỏi của chàng khơi dậy hứng thú của Chu Tử Thư: "Vì sao?"

Triệu Phụ thích Lý Cảnh Đức vì Lý Cảnh Đức đã lập vô số chiến công mà chẳng có dã tâm gì, chỉ muốn tiêu diệt người Liêu. Lí do ông ta thích mình, Chu Tử Thư cũng biết, chủ yếu là vì thấp cổ bé họng, không có thế lực nào chống lưng, còn rất giỏi tâng bốc, khiến Triệu Phụ hết sức yên tâm khi sai sử cậu. Về phần Cung Tuấn, thay vì nói Triệu Phụ tin tưởng chàng tuyệt đối thì nên nói ở phương diện nào chàng cũng khiến Triệu Phụ quá đỗi vừa lòng.

Những điều Triệu Phụ định làm, cần làm, hay muốn làm, Cung Tuấn đều thực hiện đến nơi đến chốn.

Dù người ở ngôi cửu ngũ có không phải Triệu Phụ đi chăng nữa, chỉ cần là hoàng đế thì ai cũng sẽ sủng tín Cung Tuấn.

Còn Tô Ôn Duẫn thì sao?

Cung Tuấn nhìn lên trời, mây đen che lấp cả Tuấng, chàng chỉ tay bảo:

"Trời tối rồi. Lúc nào cũng có một số việc thánh thượng không thể làm nhưng lại muốn làm, mà Tô Ôn Duẫn chính là người không bận tâm đến giới hạn luật pháp. Để đạt được mục đích lớn, y sẵn sàng viện đến bất cứ thủ đoạn nham hiểm nào. Người như thế, thánh thượng đương nhiên sẽ thích, đương nhiên sẽ trọng dụng."

Chu Tử Thư vờ như vô tình hỏi: "Vì đại sự mà không từ thủ đoạn. Sư huynh, y đã làm việc gì tàn nhẫn lắm ư?"

Cung Tuấn lẳng lặng liếc Chu Tử Thư một cái, mỉm cười điềm nhiên: "Đệ có thể nghĩ rằng tất cả những việc hoàng thượng muốn làm mà không thể làm một cách lộ liễu, đều do Tô Ôn Duẫn xử lí hộ hết."

Chu Tử Thư choáng váng, cậu cười cười, lái câu chuyện đi hướng khác: "Thế giữa Tô Ôn Duẫn và sư huynh, thánh thượng tín nhiệm ai hơn?" Hình như đây là một câu hỏi hóc búa với Cung Tuấn.

Chàng đăm chiêu hồi lâu, hỏi ngược lại: "Tuy không nên đoán bừa thánh ý, nhưng giờ chỉ có mỗi hai ta, thảo luận một chút cũng không sao. Tiểu sư đệ nghĩ, thánh thượng sẽ thích ai hơn?" Chuyện này thì cần gì phải nghĩ?

Chu Tử Thư thốt lên ngay: "Đương nhiên là đệ về phe sư huynh rồi. Dù thánh thượng chọn thế nào đi chăng nữa, đối với đệ, Tô Ôn Duẫn chẳng bằng một phần vạn của sư huynh."

||Chú thích

(bấm vào để đọc)

------oOo------

Chương 111

Nguồn: EbookTruyen.Net

Đệ khiến ta quá thất vọng

Chu Tử Thư nói đầy chân thành và tha thiết.

Cung Tuấn lẳng lặng nhìn cậu, tình ý sâu đậm đong đầy trong ánh mắt, chàng bỗng nhoẻn cười.

Cõi lòng khẽ rung rinh, Chu Tử Thư hỏi chàng: "Sư huynh cười gì thế?"

Cung Tuấn: "Trong lòng tiểu sư đệ, Tô đại nhân được mấy phần nhỉ?"

Chu Tử Thư không hề nghĩ ngợi: "Được mấy phần ư? Một phần cũng chẳng có!" Lòng cậu làm sao mà có chỗ cho Tô Ôn Duẫn kia chứ? Họ còn chẳng phải bạn bè nữa là.

Cung Tuấn thở dài: "Vậy xem ra trong lòng tiểu sư đệ cũng chẳng có chỗ cho ta rồi."

"Ơ kìa?"

"Tiểu sư đệ nói, trong lòng đệ, Tô đại nhân chẳng bằng một phần vạn của ta, nói cách khác, nếu so sánh ta với Tô đại nhân, tiểu sư đệ thấy ta quan trọng gấp một vạn lần y." Cung Tuấn trông cảm động lắm, nhưng chàng chỉ xúc động thoáng qua rồi đổi giọng u oán ngay: "Tô đại nhân là số không tròn trĩnh, nhân một vạn lên chẳng phải vẫn bằng không à?"

Chu Tử Thư: "..."

Biết huynh giỏi toán rồi, huynh im đi.

Trời đã tối, Cung Tuấn không nán lại lâu, Chu Tử Thư tiễn chàng ra về. Hai người lưu luyến bên cửa phòng, Cung Tuấn dặn dò: "Tiểu sư đệ, tuy đã sang tháng sáu, nhưng vùng ngoài biên ải như U Châu vẫn chưa vào xuân, không giống ở Thịnh Kinh. Gió xuân có tới Ngọc Môn đâu nào, mấy bữa nữa về Thịnh Kinh, đệ nhớ đổi xiêm y, đừng mặc như mọi khi nữa nhé."

Chu Tử Thư ngơ ngẩn: "Sư huynh?" Cung Tuấn mỉm cười: "Không cần tiễn đâu."

Chu Tử Thư đứng ở cửa, nhìn Cung Tuấn ra về.

Quay trở lại phòng, Chu Tử Thư cau mày. Cậu suy nghĩ thật lâu, cực chẳng đã thở dài: "Rõ rành rành có điều muốn nói, vậy mà cứ úp úp mở mở. CungTử Phong, huynh đúng là... đã bốn năm rồi, sao huynh ấy cứ không chịu tìm cách nói cho người ta hiểu chứ!" Mặc dù vậy, Chu Tử Thư cũng hiểu có một số việc Cung Tuấn không thể nói trắng ra, hoặc chàng cứ thích đùa cậu thế cơ. Có lẽ chàng cảm thấy thiệt là đắc thắng mỗi khi nhìn vẻ mặt ngạc nhiên, ngơ ngác của Chu Tử Thư.

Chẳng trách sao Chu Tử Thư cứ năm lần bảy lượt tìm cách trêu chọc sư huynh. Không có lửa làm sao có khói? Rõ ràng là vì CungTử Phong suốt ngày trêu cậu nên cậu mới muốn thỉnh thoảng trả đũa một phen.

"Có biến động ở Thịnh Kinh ư? Thay đổi ở chỗ nào nhỉ?"

Nếu chỉ tính riêng câu cuối của Cung Tuấn, Chu Tử Thư có thể đoán đại khái ý chàng, nhưng điều họ nhận xét về Tô Ôn Duẫn trước đó khiến nét mặt Chu Tử Thư đanh lại. Cậu nhớ về những thông tin mình thu thập mấy năm nay về tiên thái tử, Chung đại nho, về tiên đế, tiên hoàng hậu, thậm chí cả về vụ cung biến năm xưa.

Tô Ôn Duẫn mới hai mươi sáu tuổi, vụ cung biến cách đây ba mươi mốt năm hiển nhiên không dính dáng gì đến anh ta. Song Cung Tuấn nói, Tô Ôn Duẫn là người lòng dạ thâm hiểm, không từ thủ đoạn. Những việc Triệu Phụ không tiện làm đều giao cho Tô Ôn Duẫn hết.

"Sư huynh nói thế có lẽ là để chỉ điểm cho mình. Chuyện ba mươi năm trước không liên quan đến Tô Ôn Duẫn. Năm năm trước, cái chết trong tù của Chung Thái Sinh liệu có liên quan đến anh ta không?"

Chu Tử Thư nhắm mắt, hít sâu một hơi. Khi đôi mắt khép lại, dường như có một giọng nói trầm ấm cất lên bên tai cậu, tiếng ông cụ pha chút bất đắc dĩ, vừa như bực dọc lại vừa như buồn cười, mắng: "Ngài phắn đi!"

Đến giờ, Chu Tử Thư sắp quên gần hết những gì Lương Tụng từng nói với cậu khi trước, nhưng cậu không bao giờ quên Lương Tụng đã dặn đi dặn lại rằng chớ nhúng tay vào chuyện tiên thái tử. Ông chỉ mong Chu Tử Thư có thể sống đời an vui của một phú ông. Dẫu hi sinh bản thân mình vì nghĩa cả, ông chưa bao giờ muốn lôi kéo Chu Tử Thư theo.

"Mình phải làm thế nào mới được đây?"

Càng biết nhiều thêm về cuộc đảo chính trong cung đình, Chu Tử Thư càng khiếp hãi.

Lương Tụng nghĩ Chung Thái Sinh bị oan, tức tiên thái tử cũng phải chịu oan khuất. Mà khi ấy, bè phái thái tử đương lớn mạnh như mặt trời ban trưa, muốn mưu hại phe thái tử, sức của một mình Triệu Phụ không thể kham nổi. Sau lưng ông ta nhất định có bàn tay thúc đẩy của kẻ khác.

Rốt cuộc chân tướng nằm ở đâu?

Nơi hang hùm miệng rắn ấy, Chu Tử Thư chỉ có thể đơn độc xông pha.

Bên kia, Cung Tuấn về phòng cũng không đi nghỉ ngay. Chàng gọi Lâm Hủ thuộc ty Ngân Dẫn đến. Lâm Hủ cung kính vái chào, Cung Tuấn hỏi ông ta: "Những người đến Thượng Kinh nước Liêu vào tháng chạp năm ngoái, giờ còn lại mấy người?" Lâm Hủ báo một con số.

Cung Tuấn: "Thế mà ngay cả ta cũng không biết, Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca của nước Liêu là đoạn tụ."

Nghe thế, Lâm Hủ cũng bàng hoàng, ông ta vô thức nhìn lên Cung Tuấn, bởi ông ta biết Cung Tuấn cũng là người chuộng Long Dương, chuyện này rất nhiều quan viên đã ngờ tới. Giờ Cung Tuấn đột nhiên nói thế là có hàm ý gì đây?

"Thượng thư đại nhân, giờ hạ quan cũng mới biết việc này. Phủ Gia Luật Xá Ca vẫn có cơ thiếp, e là sự tình không chỉ đơn giản thế."

"Hoàng tử của một nước, dẫu đoạn tụ thì cũng phải lấp liếm bớt đi." Cung Tuấn suy nghĩ một chút, "Hình như Gia Luật Xá Ca hơi tò mò về 'con trai' của Kiều Cửu?"

Việc này Lâm Hủ càng không biết.

Cung Tuấn cười: "Tóm lại là y muốn gặp cậu ta, Tô đại nhân hẳn đã có phương án đề phòng. Nắm được điểm yếu của Tả Bình chương chính sự thôi chưa chắc đã đầu xuôi đuôi lọt. Ngươi phái người đến phủ Tích Tân báo cho Tô đại nhân rằng, Đường đại nhân phải về kinh ngay lập tức, 'con trai' Kiều Cửu nên lộ mặt hay nên chết bất thình lình, tùy y quyết định."

Lâm Hủ: "Nên báo như thế nào ạ?"

Cung Tuấn ngẫm một lát: "Cứ nói thẳng thế là được."

"Vâng."

Khi lời nhắn được gửi đến phủ Tích Tân đã là chuyện của ba ngày sau.

Kiều Cửu dần dần chiếm được lòng tin của Tiêu Châm, nhóm Lư Thâm cũng bắt đầu vững gót ở phủ Tích Tân. Quan sai thuật lại lời Cung Tuấn cho Tô Ôn Duẫn, Tô Ôn Duẫn sa sầm nét mặt, cười gằn: "Đường Cảnh Tắc đi về rồi không quay lại, CungTử Phong muốn ta dọn dẹp cái đống hổ lốn sư đệ hắn bày ra phải không? Mơ đẹp gớm!"

Quan sai chỉ thuật lại đúng lời, nào dám đối đáp với Tô Ôn Duẫn.

Tô Ôn Duẫn mỉa mai dè bỉu ý tưởng hão huyền của Cung Tuấn và sự ngu xuẩn thái quá của Chu Tử Thư, im im một hồi rồi cân nhắc: "Thực ra cũng không phải không được. Chậc, CungTử Phong à, ngươi tính kiểu khôn lỏi thế, kể cũng có chỗ hay, nhưng ngươi có nghĩ nếu ta giúp Đường Cảnh Tắc dọn dẹp vụ này, cậu ta sẽ mắc nợ ta không?"

Tức thì, Tô Ôn Duẫn gọi Kiều Cửu đến, sai hắn lợi dụng Tiêu Châm để mở tiệc thết đãi Gia Luật Cần và Gia Luật Xá Ca.

Đại Tống, thành U Châu.

Chu Tử Thư đến U Châu từ tháng ba, giờ đã hơn ba tháng trôi qua, Triệu Phụ cũng phái Dư Triều Sinh đến tiếp quản công việc của cậu, cậu làm việc với anh ta mấy hôm rồi cũng phải về Thịnh Kinh.

Sau khi bàn giao công việc xong, Dư Triều Sinh cười nói: "Chúc mừng Đường đại nhân."

Chu Tử Thư giả vờ kinh ngạc: "Đa tạ Dư đại nhân. Chỉ có điều hạ quan không rõ, đại nhân nói thế là..."

Dư Triều Sinh vuốt chòm râu ngắn ngủn, cười ôn hòa: "Đường đại nhân về kinh tất sẽ gặp cơ duyên tốt. Ta không thể về cùng Đường đại nhân nên báo tin vui trước."

Chu Tử Thư vui mừng ra mặt.

Đợi đến khi gặp riêng được Cung Tuấn, Chu Tử Thư mới hỏi: "Sư huynh ơi, có phải vì đệ mà hoàng thượng phái Dư Triều Sinh đến không?"

Cung Tuấn nhướng một bên mày: "Hử?"

Chàng bảo Chu Tử Thư nói tiếp, Chu Tử Thư bèn bảo: "Việc nước Liêu lần này, tuy đệ không làm đến nơi đến chốn, nhưng cũng không phạm sai lầm nào. Giờ Tô đại nhân đã sang đó thì càng có khả năng thành công. Tuy thế, chuyện này chỉ có mấy người chúng ta được biết, thánh thượng không thể công khai, nên ngài khó lòng ban thưởng cho đệ. Sư huynh từng nói nếu không có gì bất ngờ thì trong vòng năm năm nữa đệ không thể thăng lên hàm nhị phẩm, cao nhất là tam phẩm thôi. Mà bây giờ, đệ lại nghĩ thánh thượng có ý thăng chức cho đệ."

Cung Tuấn bật cười dịu dàng: "Chỉ bốn năm mà thăng bốn cấp, thánh thượng quả là tinh mắt biết ngọc, tiểu sư đệ cũng là rường cột nước nhà!"

Chu Tử Thư: "Nói nghiêm túc đi nào."

Cung Tuấn ngạc nhiên, chàng không ngờ Chu Tử Thư lại thẳng thắn vậy. Sau khi hồi thần, chàng hạ giọng nói: "Em càng ngày càng ỷ lại ta."

Chàng nói nhỏ quả, gần như chỉ cho mình mình nghe, Chu Tử Thư hỏi: "Sư huynh mới nói gì vậy?"

Cung Tuấn: "Nói đệ đoán không sai."

Chu Tử Thư vốn đang đoán già đoán non rằng lần này về kinh mình sẽ được thăng chức, giờ được Cung Tuấn tán thành, cậu vừa mừng vừa bất ngờ, rồi bỗng đâm chán nản. Cậu áy náy nói: "Nhưng để đệ thăng quan, hoàng thượng cố tình phái Dư Triều Sinh đến tước bớt quyền hành của sư huynh."

Chu Tử Thư mà thăng quan thì quyền thế của phe cậu và Cung Tuấn tự nhiên sẽ tăng lên. Để cân bằng triều đình, Triệu Phụ mới phái Dư Triều Sinh tới. Dư Triều Sinh tham gia vào việc ty Ngân Dẫn, lúc về kinh tất cũng được ban thưởng như Chu Tử Thư. Ngoài ra, Chu Tử Thư đến U Châu không phải vì ty Ngân Dẫn, Dư Triều Sinh cũng vậy.

Chỉ e mấy tháng nữa, Dư Triều Sinh sẽ biết được một số tin tức về ty Ngân Dẫn, mà thầy của anh ta – Từ Bí, cũng sẽ nắm được đôi điều.

Việc Chu Tử Thư hai mươi tuổi đã thành quan tam phẩm sẽ kéo theo xáo trộn trong các đảng phái, tuyệt đối không thể làm ngơ.

Chu Tử Thư cảm thấy mình đã liên lụy đến Cung Tuấn, hại chàng bị Dư Triều Sinh kiềm chế, thành thử trong lòng cậu rất hổ thẹn. Cung Tuấn lại nói: "Dù không có đệ, hoàng thượng cũng sẽ phái người đến. Đây là chuyện bất khả kháng, ta cũng không thể độc chiếm ty Ngân Dẫn cho riêng mình."

Chu Tử Thư: "Nhưng trước khi Dư Triều Sinh tới đâu phải vậy. Ty Ngân Dẫn là của sư huynh mà."

Môi Cung Tuấn mấp máy, chàng nhìn Chu Tử Thư bằng ánh mắt thẳm sâu, im lặng mãi. Chu Tử Thư bị chàng nhìn thì bắt đầu hoảng, cậu nén nỗi sợ, hỏi nhỏ: "Sư huynh?"

Cung Tuấn bỗng nghiêm giọng: "Ta chợt tự hỏi, rốt cuộc trong lòng tiểu sư đệ, ta là người thế nào?"

Chu Tử Thư: "Dạ?"

Cung Tuấn không trả lời, Chu Tử Thư chỉ biết đăm chiêu suy nghĩ rồi đáp: "Trong mắt đệ, sư huynh sáng suốt thông minh, linh hoạt nhưng không khôn lỏi, thận trọng nhưng không cổ hủ. Bất cứ việc gì, dù khó đi chăng nữa, chỉ cần có sư huynh, đệ sẽ thấy yên tâm. Sư huynh hơn đệ chín tuổi, nhưng chín năm nữa đệ chắc chắn vẫn thua xa sư huynh."

Cung Tuấn: "Vậy đệ nghĩ vì sao ta phải làm nhiều việc như thế?"

Chu Tử Thư mông lung quá, cậu không hiểu rốt cuộc Cung Tuấn muốn nói gì.

Cung Tuấn có phần thất vọng, chàng nhìn Chu Tử Thư thật kĩ, nói: "Chúng ta là tri kỷ, ta đã xem tiểu sư đệ là người hiểu lòng ta nhất, hiểu con người ta nhất trong suốt hai mươi chín năm qua. Ta cứ ngỡ sau hai mươi chín năm đợi chờ trong cô độc, cuối cùng cũng có người hiểu ta. Vậy mà đệ chẳng hề nghĩ xem tại sao ba năm trước ta phải xuất hiện ở Thứ Châu, tại sao năm ngoái ta lại gánh vác ty Ngân Dẫn. Thậm chí, đệ cũng không buồn nghĩ xem hôm ấy trên lầu Hư Cực, ta nói với đệ rằng đồng môn là bằng, đồng chí là hữu, rốt cuộc là vì lẽ gì."

Sóng lòng Chu Tử Thư đổ dồn, Cung Tuấn nhìn cậu với vẻ thất vọng, nhưng từ giọng nói của chàng, Chu Tử Thư thấy nhiều hơn cả là sự tổn thương và nỗi cô đơn.

Nói hết lời, Cung Tuấn quay lưng bỏ về.

Chu Tử Thư quá đỗi choáng váng, cậu níu tay áo Cung Tuấn, lớn tiếng hỏi: "Sư huynh làm quan để làm gì?"

Cung Tuấn dừng bước. Chàng quay lại, lặng yên nhìn Chu Tử Thư, đáy mắt đầy ắp hi vọng và trông mong.

Chu Tử Thư hít sâu một hơi. Cậu nghiêm túc nhìn Cung Tuấn, nói rành rọt: "Đệ biết, từ trước tới giờ đệ vẫn biết. Sư huynh làm quan không phải vì công danh lợi lộc, cũng không vì quyền thế nghiêng trời. Sư huynh không phải quan thanh liêm, cũng không rập khuôn cứng nhắc theo lễ nghĩa và lề lối thông thường, nhưng huynh là một vị quan chân chính. Vì thế, khi đệ thấy quyển tấu chương về giao tử ở đất Thục, người đầu tiên đệ nghĩ đến chính là sư huynh, bởi đệ biết, chỉ có sư huynh mới không ngại gian nan hiểm trở, chỉ có huynh mới bắt được ánh ban mai ở cuối con đường dài tăm tối."

Cung Tuấn sững sờ.

Chu Tử Thư siết chặt tay áo chàng. Hồi lâu sau, Cung Tuấn mới cầm lấy tay Chu Tử Thư. Chàng giật tay cậu khỏi áo mình, song không buông ra mà vẫn nắm chặt lấy.

Họ lẳng lặng nhìn nhau, một đáp án vô cùng chân thực ngỡ như đã hiện ra trong trái tim Chu Tử Thư. Dường như cậu đã hiểu ra điều gì đó, mà dường như cậu vẫn chẳng hiểu chút nào.

Lúc này, Cung Tuấn cười khẽ: "Ta không phải quan thanh liêm ư?" Chu Tử Thư ngây người.

Một tay Cung Tuấn nắm tay Chu Tử Thư, tay kia nhẹ nhàng đưa lên ngang trán cậu, gõ một cái êm ru. Động tác của chàng dịu dàng quá đỗi, không hề có một chút trách cứ nào.

Cung Tuấn: "Rốt cuộc tiểu sư đệ đang khen ta hay đang phỉ nhổ ta vậy?"

Chu Tử Thư vô thức sờ lên chỗ bị gõ vào trên trán, bỗng cậu tỉnh táo lại:

"Sư huynh, huynh lại trêu đệ rồi!"

||Chú thích

Trích bài Lương Châu từ của CungChi Hoán đời Đường. Dịch giả: Nguyễn Minh.

------oOo------

Chương 112

Nguồn: EbookTruyen.Net

Một đêm bạc đầu

Dư Triều Sinh đến U Châu để tiếp quản công việc của Chu Tử Thư; Cung Tuấn đến U Châu nhằm hỗ trợ việc chuyển giao này. Giờ việc đã bàn giao xong, Cung Tuấn và Chu Tử Thư cùng nhau lên đường về Thịnh Kinh. Vì Chu Tử Thư bị thương, hai người nán lại U Châu thêm vài ngày. Chờ khi Chu Tử Thư khỏe hơn một chút, họ mới xuất phát.

Xe ngựa cũng đi chậm để tránh ảnh hưởng đến vết thương của cậu. Hai người đi thong thả, thỉnh thoảng lại nghỉ chân, coi như ngắm cảnh dọc đường luôn. Cứ thể, chừng mười ngày thì về tới Thịnh Kinh. Cung Tuấn đưa Chu Tử Thư về phủ Thám Hoa trước. Lúc xuống xe, Chu Tử Thư dừng lại trước xe ngựa, bất đắc dĩ phải hỏi Cung Tuấn: "Sư huynh, huynh làm thế này có tính là lấy việc công làm việc tư không?" Cung Tuấn ngạc nhiên hết sức: "Tiểu sư đệ nói gì vậy?"

Chu Tử Thư: "Đáng lẽ chỉ cần đi năm, sáu ngày, chúng ta lại tiêu tốn gấp đôi thời gian ấy. Thế chẳng phải là lấy quỹ công để đi du lịch như người ta hay đồn sao?"

Cung Tuấn ngẩn ra: "Đi du lịch bằng công quỹ à? Cách nói này mới nhỉ?"

Chàng mỉm cười: "Tây Bắc cát vàng mù mịt, không thấy trời xanh; gần về Thịnh Kinh, hai ta chủ yếu đi đường nhỏ thôn quê chứ ít khi lên quan đạo hay vào thị trấn. Thế mà ta không biết tiểu sư đệ thích đi du lịch ở những nơi hoang vắng không người, thú vị thật đấy."

"Ơ kìa?"

"Lần tới nhất định sẽ làm hài lòng đệ."

Chu Tử Thư: "..."

Huynh nói cái gì vậy trời?!

Bấy giờ hai người mới chia tay.

Trở về Thịnh Kinh, Chu Tử Thư không về điện Cần Chính làm việc ngay. Chuyến đi đốc tra ty Ngân Dẫn của cậu kéo dài những bốn tháng liền, giờ đang là giữa tháng sáu, Thịnh Kinh nóng như đổ lửa, Chu Tử Thư phải đến bộ Lại báo cáo tình hình công tác trước, chờ xét duyệt xong rồi quay về điện Cần Chính.

Lúc ở U Châu, Cung Tuấn nhắc cậu rằng Thịnh Kinh đã thay đổi, dặn Chu Tử Thư phải "thay áo mới", chớ nên mặc giống như mọi khi.

Nhưng về Thịnh Kinh mấy ngày nay, Chu Tử Thư không hề phát hiện ra sự khác thường nào cả. Kinh thành vẫn sầm uất náo đông vui như trước. Dòng người ùn ùn như thủy triều trên phố lớn Tiền Môn phía tây Đại Vận Hà. Chu Tử Thư tranh thủ "cải trang vi hành", đến thăm Bách Bảo Các. Lưu lượng khách của Bách Bảo Các đã ổn định, mỗi ngày phải có hàng nghìn lượt dân chúng Thịnh Kinh đến đây mua sắm. Đồng thời, Đường Hoàng đã mở xong dịch vụ "chế tạo theo yêu cầu."

Từ năm ngoái, Bách Bảo Các bắt đầu bán gương lưu ly. Gương lưu ly rõ nét vượt trội, lại rẻ hơn gương bạc, chẳng mấy chốc đã trở thành mặt hàng ưa chuộng của các gia đình giàu có, quyền thế ở Thịnh Kinh. Nhưng gương lưu ly không phải mặt hàng cao cấp thực thụ của Bách Bảo Các, bởi tại thời điểm Chu Tử Thư mở Bách Bảo Các, cậu cũng được Triệu Phụ giao việc đổi toàn bộ cửa sổ trong hoàng cung thành cửa sổ kính.

Hoàng đế đương nhiên không ăn bớt của Chu Tử Thư, ông ta thanh toán tiền công sòng phẳng, song đơn hàng này ngốn sức lao động ghê gớm, Bách Bảo Các phải làm suốt nửa năm mới hoàn thành. May mắn là kể từ khi đó, cửa sổ trong suốt của hoàng cung đã biến thành bảng hiệu di động cho Bách Bảo Các.

Cungcông đại thần, có ai vào hoàng cung mà không thấy những cánh cửa sổ thủy tinh ngay ngắn, sạch sẽ tinh tươm?

Những tấm kính cửa sổ ấy tinh xảo quá đỗi, khiến nhiều quan to nghe ngóng được rằng Bách Bảo Các đã chế tạo chúng đều sai người đến Bách Bảo Các đặt hàng. Chẳng mấy chốc, quyền thần quan lớn từ nhị phẩm đổ lên, trừ những người xuất thân hàn môn như Tả tướng Kỷ Ông Tập làm quan liêm khiết sống đời thanh bạch, còn lại quan nào cũng muốn đặt làm riêng cửa sổ kính.

Số lượng đơn hàng khổng lồ như vậy đủ cho Đường Hoàng và Diêu Tam bận tối mắt tối mũi cả năm trời!

Chỉ hai ngày sau khi Chu Tử Thư đến bộ Lại báo cáo, còn chưa được Triệu Phụ triệu vào cung, một chuyện tày đình đã xảy ra.

Giám sát Ngự sử Cao Mính thuộc Sát Viện – Ngự Sử Đài, dâng tấu. Trong bản tấu, Cao Ngự sử liệt kê mười bảy tội trạng, tố cáo Giám chính Khâm Thiên Giám Lý Tiêu Nhân cùng bè lũ đồ tử đồ tôn của y. Trên triều đình, Giám sát Ngự sử Cao Mính lên án gay gắt sự lộng hành của bọn đạo sĩ ở quê nhà, hết làm điều xằng bậy lại coi mạng người như cỏ rác, khẩn cầu hoàng đế thực thi công lí, diệt trừ quân vô lại.

Giám chính Khâm Thiên Giám Lý Tiêu Nhân là quan tứ phẩm, lúc bấy giờ cũng có mặt trong điện Tử Thần. Lý Tiêu Nhân nghe cáo trạng, sợ nhũn cả chân, thiếu điều quỳ phục xuống. Tuy nhiên, vì quan viên Đại Tống không phải quỳ trước hoàng đế, nên Lý Tiêu Nhân chỉ đứng run lẩy bẩy và khóc lóc thảm thiết rằng mình chưa từng nghe tới những việc này, cũng không hề hay biết lũ đồ đệ phạm tội tày trời như vậy.

Đó cũng chẳng phải chuyện gì ghê gớm, dù sao Cao Ngự sử tố cáo bọn đồ đệ của Lý Tiêu Nhân là chính chứ không đụng đến y. Tuy Cao Mính rất muốn lật đổ tên đạo sĩ rởm chuyên môn xu nịnh a dua này, nhưng ông ta không tóm được đuôi của Lý Tiêu Nhân, đành phải tấn công vào lũ đồ đệ rồi khép tội Lý Tiêu Nhân dạy dỗ không nghiêm.

Mặt Triệu Phụ sầm sì, ông ta nghe bọn họ lời qua tiếng lại hồi lâu rồi mới cất tiếng tằng hắng. Tất cả các quan im bặt, ngẩng lên nhìn hoàng đế.

Trên ngai rồng, Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ điềm nhiên hỏi: "Giám chính Khâm Thiên Giám, có chuyện này thật không?"

Mặt Lý Tiêu Nhân tái mét, y tiến lên tâu: "Thần cũng không biết. Nhưng nếu quả là có chuyện như vậy, thần tuyệt đối không nương tay."

Triệu Phụ bèn nói với Cao Mính: "Xem ra Cao ái khanh đã nắm chắc tang chứng vật chứng, vậy theo ý ái khanh, việc này nên xử trí thế nào?"

Cao Mính chỉ mong Triệu Phụ sẽ xử lí Lý Tiêu Nhân, nhưng dường như Triệu Phụ không có ý định trừng phạt y. Cao Mính đành phải tâu: "Thần xin nghe theo phán quyết của bệ hạ."

Triệu Phụ phất tay: "Thế thì để Đại Lý Tự điều tra cho rõ ràng, nên xử sao thì cứ y theo vậy mà thực hiện."

Vốn chỉ là một việc cỏn con, Lý Tiêu Nhân lại bị Triệu Phụ phạt ba tháng bổng lộc, kiểm điểm tại nhà. Nhưng đố ai ngờ, sau hôm ấy, Triệu Phụ đột nhiên vời một hòa thượng từ chùa Định Quốc đến. Hòa thượng này tên là Thiện Thính, tuổi chạc tứ tuần, là cao tăng lừng danh ở chùa Định Quốc, nghe đâu đã được chọn để kế vị chức trụ trì.

Triệu Phụ chưa bao giờ thờ Phật mà chỉ thờ Đạo, nên Lý Tiêu Nhân mới có cơ hội thắp đèn trường minh, luyện chế đan dược cho ông ta. Vậy mà bỗng dưng Triệu Phụ lại bắt đầu sùng bái Phật giáo.

Dù là đạo Phật hay đạo Lão thì người bình thường chỉ theo một đạo mà thôi, riêng Triệu Phụ thì thờ phụng cả hai đạo liền.

Hòa thượng Thiện Thính được triệu vào cung chỉ điểm và khai sáng cho hoàng đế, thế mà ông ta lại giúp hoàng đế luyện chế đan được luôn. Quả là cứ có tiền thì tha hồ sai quỷ khiến ma! Đời thuở nào có hòa thượng nhà Phật làm việc của Đạo gia? Nhưng trước đấng cửu ngũ chí tôn, ngài muốn anh làm gì anh phải làm đúng y như vậy. Thế nên, hòa thượng Thiện Thính và Lý Tiêu Nhân mới cùng nhau luyện đan dược và truyền thụ thuật trường sinh bất lão cho Triệu Phụ.

Triệu Phụ vẫn lên triều từ sớm tinh mơ như mọi ngày, không hôm nào ngơi nghỉ, nhưng tính cách của ông ta càng lúc càng quái gở khó lường.

Có một hôm Cung Tuấn được gọi đến đài Đăng Tiên, chàng thấy Triệu Phụ ngồi ở giữa đại điện, xung quanh là ba lò luyện đan làm từ đồng thau. Ông ta đã trút bỏ y phục hoàng đế xa hoa cầu kì để khoác lên mình bộ đạo bào nhẹ nhõm. Lửa cháy rừng rực trong ba lò luyện đan, gió mát thổi vào qua cửa sổ lưu ly rộng mở, phớt qua dãy đèn trường minh trước mặt Triệu Phụ, hắt lên gương mặt võ vàng càng lúc càng giống đạo sĩ của ông ta.

Cung Tuấn im lặng đứng hầu, đợi Triệu Phụ hoàn tất quá trình tu tiên.

Nhưng lần này, Triệu Phụ tu tiên xong lại không về hậu cung ngay. Ông ta tự cầm quạt hương bồ, đến luyện đan bên cạnh ba chiếc lò. Triệu Phụ phất tay gọi Cung Tuấn. Ông ta chỉ vào một lò đan, hỏi: "Tử Phong có biết trong lò kia luyện vật gì không?"

Cung Tuấn đáp rành rọt và nhũn nhặn: "Thần không biết, cúi xin bệ hạ chỉ dạy."

Triệu Phụ cười: "Đây là Cửu Chuyển đan làm từ chì mà Thiện Thính dâng cho trẫm. Mỗi ngày dùng một viên, trẫm thấy tỉnh táo sảng khoái vô cùng, cứ như trẻ ra mười tuổi. Tử Phong có muốn thử không?"

Cung Tuấn ngẩng đầu, kinh ngạc quá đỗi: "Niềm vinh hạnh tột bậc nhường ấy, thần chưa xứng được hưởng ạ."

Triệu Phụ bình thản nhìn chàng, lắc đầu nói: "Ôi chao, thứ tiên đơn này, mỗi ngày chỉ có đúng một viên, trẫm không nỡ tặng cho ngươi." Im lặng một thoáng, Triệu Phụ nói: "Trẫm nhớ lần đầu tiên trẫm gặp ngươi là mười hai năm về trước. Ngươi và Dư Triều Sinh cùng đứng trong điện Tử Thần, trẫm chấm hắn làm Bảng Nhãn, chấm ngươi làm Trạng Nguyên. Giờ ngẫm lại, hóa ra chuyện đã xưa như thế rồi. Trẫm ở ngôi ba mươi mốt năm, từng gặp mười Trạng Nguyên, nhưng trẫm chỉ ban bốn chữ 'Trạng Nguyên vô song' cho ngươi, ngươi có biết vì sao không?"

Ngón tay Cung Tuấn giật khẽ, chàng trấn định thưa: "Thần không biết."

"Bởi vì cứ hễ trông dáng vẻ hào hoa phong nhã của người trẻ các ngươi, trẫm thấy trẻ trung hơn hẳn!"

Hôm sau, đến lượt Chu Tử Thư được Triệu Phụ gọi vào. Ông ta không gặp Chu Tử Thư ở đài Đăng Tiên mà triệu cậu đến điện Thùy Củng.

Chu Tử Thư thay quan bào tinh tươm, vào điện theo thái giám. Từ đầu chí cuối cậu luôn cúi mặt, suy ngẫm những lời Cung Tuấn nói với mình đêm đó. Đúng lúc ấy, một giọng cười hiền hòa cất lên: "Cảnh Tắc đi U Châu về sao lại câu nệ thế này? Ngẩng đầu lên nhìn trẫm nào."

"Vâng." Chu Tử Thư ngẩng đầu, khi đường nhìn của cậu chạm đến Triệu Phụ, Chu Tử Thư bỗng sững người. Song vì phản ứng rất nhanh nên khi chưa ai kịp phát hiện ra sự giật mình của cậu, nét mặt Chu Tử Thư đã trở về như cũ.

Trong điện Thùy Củng rực rỡ sáng sủa, Triệu Phụ ngồi nghiêm trang trên ngai vàng, trên môi ông ta vẫn là nụ cười bí ẩn, nhưng ông ta đã già rồi! Dường như sau một đêm, trời đã xoay, đất đã chuyển, hai bên tóc mai Triệu Phụ chi chít tóc bạc. Thực ra ở độ tuổi này, dù Triệu Phụ có bạc trắng đầu cũng không phải chuyện lạ. Điều khiến Chu Tử Thư choáng váng chính là sự sống bỗng chốc đã lụi tàn trong ánh mắt Triệu Phụ.

Trước đây, Triệu Phụ lúc nào cũng tràn trề nhiệt huyết. Dường như ông ta luôn cảm thấy mình còn trẻ khỏe chứ chưa bao giờ già. Chính vì thế, ông ta cho xây dựng ba tuyến quan đạo, ông ta thành lập ty Ngân Dẫn; ông ta cảm thấy mình vẫn còn làm được rất nhiều việc. Vậy mà bỗng dưng, Triệu Phụ đã mang dáng vẻ già nua ứng với tuổi tác của mình.

Chu Tử Thư nghĩ thầm, khuya hôm ấy khi Cung Tuấn đến thăm mình, chàng muốn nói với cậu rằng bây giờ Triệu Phụ dễ tính hơn mà cũng càng khó tính hơn. Lúc đó cậu không hiểu ý Cung Tuấn, bởi việc hệ trọng liên quan đến sống còn như tiếp xúc với đế vương, Cung Tuấn không đời nào đánh đố cậu hết. Nhưng lúc Chu Tử Thư hỏi, Cung Tuấn im lặng rồi chỉ nói: "Khi nào tiểu sư đệ thấy thì sẽ hiểu thôi."

Đến khi được diện kiến Triệu Phụ, Chu Tử Thư mới hiểu, cảm giác này không thể diễn tả bằng lời.

Rốt cuộc điều gì đã thay đổi Triệu Phụ?

Chu Tử Thư nghĩ Tần nghĩ Sở, chỉ có thể đoán rằng đó là cái chết của Thái hậu. Thái hậu băng hà khiến hoàng đế bàng hoàng, tinh thần sa sút.

Nhìn Triệu Phụ thế này, lòng Chu Tử Thư rối bời, thật khó để miêu tả tâm trạng hiện giờ của cậu.

Triệu Phụ: "Cảnh Tắc đi U Châu có gặp chuyện gì lí thú không?"

Chu Tử Thư nghĩ nhanh, đáp: "Thần là người Giang Nam, lần đầu lên Tây Bắc mới được biết thế nào là phong cảnh đại mạc. U Châu không giống với những vùng miền khác của Đại Tống, phong cảnh hùng vĩ tráng lệ, khoáng đạt rộng mở. Miền đất ấy tuyệt vời đến nỗi thần bịn rịn chẳng nỡ chia xa, chẳng qua vì công việc đã thu xếp đâu ra đấy, nên đành phải quay về."

||

Lời tác giả:

Triệu Phụ: Các ngươi có biết tại sao F4 mà trẫm tin yêu lại toàn người đẹp trai xuất chúng thế không? Bởi cứ thấy bọn họ là trẫm ngỡ như đang thấy chính trẫm thuở trẻ! Trẫm cũng đẹp trai lắm chứ bộ!

Triệu Tuyền, Triệu Ngao: ...

Tiên đế, Thái hậu: ...

Mọi người: Thật không biết xẩu hổ!

------oOo------

Chương 113

Nguồn: EbookTruyen.Net

Xa tận chân trời

"Bao năm qua, thực ra trẫm chưa từng được chiêm ngưỡng phong cảnh đại mạc. Cảnh Tắc mau kể cho trẫm nghe xem."

Chu Tử Thư kính cẩn mô tả lại cảnh tượng hùng vĩ bao la mà cậu được chứng kiến trên đường đến U Châu cho Triệu Phụ.

Triệu Phụ nghe say sưa, đoạn ông ta bảo Quý Phúc: "Ngươi đã được thấy bao giờ chưa?"

Quý Phúc tỏ ra khốn khổ: "Nô tỳ vào cung từ nhỏ để theo hầu phụng dưỡng quan gia. Chớp mắt đã hơn năm mươi năm, chưa lúc nào nô tỳ rời Thịnh Kinh cả."

Triệu Phụ giật mình: "Ngươi chưa từng ra khỏi thành Thịnh Kinh ư?" Quý Phúc ngoan ngoãn cười trừ, gật đầu.

"Lần sau đi tránh nóng ở hành cung, trẫm sẽ dẫn ngươi theo."

Quý Phúc xúc động đến nỗi quỳ sụp xuống đất: "Nô tỳ đội ơn quan gia ban thưởng."

Triệu Phụ quay sang hỏi Chu Tử Thư: "Ẩm thực U Châu, Cảnh Tắc ăn có quen không?"

Chu Tử Thư: "Tuy không được tinh tế như ẩm thực Thịnh Kinh, song cũng có đặc sắc riêng ạ."

Triệu Phụ cười: "Có được thưởng thức món ngon nào độc đáo không?"

Linh quang lóe lên trong lòng Chu Tử Thư, cậu suy nghĩ một lát mới đáp: "Đúng là có nhiều món ngon mà ở Thịnh Kinh không thể bắt gặp. Nhiều món phải đích thân đến tận nơi mới có thể thưởng thức, ví dụ như giống dưa chuột chỉ sinh trưởng ở Tây Bắc, hay đặc sản thịt dê vùng Tây Bắc. Thần may mắn bắt gặp một con dê to béo tốt mỡ màng, thịt dê non tươi, được nướng chậm trên ngọn lửa bập bùng, thơm ngon không gì sánh được." Sau một thoáng lặng yên nhìn Chu Tử Thư, Triệu Phụ cười khà khà rồi bảo Quý Phúc: "Ngươi trông Đường đại nhân của chúng ta đi, bảo là quan có ai thèm tin, phải là một tâm hồn ăn uống mới đúng! Cảnh Tắc rõ thật thanh niên! Ngươi vừa mới làm lễ đội mũ, đến U Châu lại ăn uống thỏa thuê, vậy công việc có lo liệu chu toàn không?"

Chu Tử Thư lập tức vái dài cung kính: "Thần không dám phụ kì vọng của bệ hạ." Đoạn cậu trình bày việc kiểm tra ty Ngân Dẫn.

Sau khi cậu nói xong, Triệu Phụ bảo: "Cảnh Tắc quả nhiên là cánh tay đắc lực của trẫm."

Lời khen ngợi to lớn ấy khiến Chu Tử Thư vừa mừng vừa sợ, tuôn một tràng những lời khách sáo. Quý Phúc cũng phải nhìn Chu Tử Thư bằng con mắt khác. Là người túc trực thường xuyên bên Triệu Phụ, hiển nhiên lão ta đoán được rằng chuyến này Chu Tử Thư đi U Châu không phải để đốc tra ty Ngân Dẫn. Song cụ thể ra sao, một thái giám như lão ta không thể tìm hiểu được.

Trước đây tuy Triệu Phụ sủng tín Chu Tử Thư nhưng ông ta chỉ coi cậu như một thanh đao tốt chứ không coi cậu là tâm phúc thật sự. So với CungTử Phong, Tô Phỉ Nhiên, Chu Tử Thư hiển nhiên kém xa. Nhưng từ giờ, mọi chuyện có thể sẽ khác.

Quý Phúc nghĩ thầm: Từ rày càng phải thắt chặt quan hệ với Đường đại nhân. Mình với cậu ta đều phụng sự quan gia, quân tâm khó dò, một cây chẳng làm nên non. CungTử Phong là trang kiệt xuất; Đường Cảnh Tắc là sư đệ hắn ta, ắt cũng là kẻ cơ trí và dễ làm thân.

Triệu Phụ lại hỏi thêm vài câu rồi mới thả Chu Tử Thư về điện Cần Chính.

Đợi Chu Tử Thư đi rồi, Triệu Phụ bỗng nói: "Lần đầu trẫm gặp cậu ta, cậu ta bao nhiêu tuổi ấy nhỉ?"

Tự dưng Triệu Phụ hỏi không đầu không đuôi, trong điện Thùy Củng chỉ có hai tiểu thái giám đang túc trực cùng với một Khởi Cư lang và một Khởi Cư xá nhân. Bốn người này nào biết Triệu Phụ đang nói gì, chỉ có mình Quý Phúc biết, khi hoàng đế nói chuyện mà không gọi đích danh ai thì thường ngài muốn nghe lão ta trả lời.

Quý Phúc gập mình, cười nhỏ nhẹ: "Quan gia gặp Đường đại nhân cách đây năm năm, khi đó Đường đại nhân mới khoảng mười lăm tuổi thôi ạ."

Triệu Phụ ngẫm một lát: "Lần ở Quốc Tử Giám ấy hả?"

"Chính là lần quan gia đến cung Ích Ung giảng bài."

Triệu Phụ: "Ngươi trông cậu ta mà xem, dường như thay đổi rất nhiều." Lần này không đợi Quý Phúc trả lời, Triệu Phụ đã tự lẩm bẩm: "Cao hơn, cũng không còn non nớt và sắc bén như hồi ấy." Đột nhiên, Triệu Phụ cười ha hả. Quý Phúc chẳng hiểu mô tê gì nên chẳng dám nói tiếp. Ông ta cười rất lâu, cười đến nỗi nếp nhăn hằn trên khóe mắt rồi mời ngừng lại, bảo Quý Phúc rằng: "Trông cậu ta bây giờ giống CungTử Phong lắm!" Quý Phúc sửng sốt, nghĩ thầm: Giống chỗ nào?

Song lão ta luôn mồm hùa theo: "Quả đúng vậy, quan gia chỉ ra nô tỳ mới phát hiện, giống nhau lắm."

Chu Tử Thư trở về điện Cần Chính thì đi gặp Từ Bí trước tiên. Từ Bí là cấp trên trực tiếp của cậu, Chu Tử Thư đi công tác về dĩ nhiên phải gặp ông. Từ Bí thấy cậu thì cho ngồi ngay, còn cho cậu uống một chén nước ô mai.

Từ Bí: "Thịnh Kinh chẳng được như U Châu, sang tháng sáu nắng như đổ lửa, ngươi đã quen chưa?"

Chu Tử Thư cẩn thận đáp lời: "Hạ quan về đã được mấy hôm nên cũng quen rồi ạ."

Từ Bí: "Lúc ngươi về có gặp Hiến Chi không? Nó vẫn ổn chứ?" Hiến Chi là tên chữ của Dư Triều Sinh.

Chu Tử Thư: "Hạ quan có gặp Dư đại nhân một lần. Tinh thần của Dư đại nhân tốt lắm, cũng đã quen với khí hậu và lề thói ở U Châu."

Từ Bí gật đầu, lúc Chu Tử Thư phải về, ông ta lại nói: "Đường đại nhân, ngươi mới đi U Châu thì hãy đọc thêm tấu chương gửi từ U Châu về, dù sao ngươi đọc cũng quen hơn."

Chu Tử Thư cung kính thi lễ: "Vâng."

"Sau nay e không còn nhiều tấu chương mà xem đâu."

Chu Tử Thư ngẩng phắt đầu, thấy Từ Bí đang cầm chén nước ô mai, nhìn cậu bằng ánh mắt hiền từ. Chu Tử Thư không đoán được thái độ của ông, cậu máy môi, đành cáo từ ra về.

Y như những gì Từ Bí nói, trung tuần tháng sáu, Chu Tử Thư về điện Cần

Chính làm việc chưa được ba ngày đã có thánh chỉ ban xuống từ điện Thùy Củng, phong cho Chu Tử Thư chức Gián nghị đại phu, Hữu phó ngự sử ty Ngân Dẫn, hàm tứ phẩm.

Chiếu lệnh được ban bố, mọi người tuy ngạc nhiên song không lấy làm lạ.

Chu Tử Thư năm nay mới hai mươi tuổi, đỗ Thám hoa từ năm mười sáu tuổi. Bốn năm tăng liền ba bậc là chuyện cực kì hiếm gặp. Trong khoảng thời gian tại vị của Khai Bình hoàng đế, cũng chỉ có CungTử Phong thăng tiến nhanh hơn cậu. Thậm chí, Tô Ôn Duẫn cũng phải hai mươi tuổi mới được thăng làm Thiếu khanh Đại lý tự, hàm tứ phẩm, hai mươi bốn tuổi mới lên chức Hữu thị lang bộ Công, hàm tam phẩm.

Chu Tử Thư xử lí việc ở ty Ngân Dẫn rất hợp ý Triệu Phụ, vì thế cậu được nhậm chức Hữu phó ngự sử ty Ngân Dẫn. Còn Gián nghị đại phu chỉ chức quan trên danh nghĩa, song nó mang ý nghĩa rằng rất có khả năng Chu Tử Thư còn thăng tiến nữa.

Sở dĩ Triệu Phụ chưa muốn nâng Chu Tử Thư lên bậc tam phẩm cũng vì cậu còn quá trẻ. Cùng thời điểm với chỉ lệnh này, một chiếu lệnh khác cũng vượt ngàn dặm đến thành U Châu xa xôi, phong cho Hữu thị lang bộ Lại Dư Triều Sinh kiêm nhiệm chức Tả phó ngự sử ty Ngân Dẫn.

Một nước đi đáng để suy ngẫm.

Đều là Phó ngự sử ty Ngân Dẫn, nhưng Dư Triều Sinh là quan tam phẩm, Chu Tử Thư là quan tứ phẩm.

Triệu Phụ đang ám chỉ tuy hiện giờ Chu Tử Thư vẫn là quan tứ phẩm, nhưng cậu rất được lòng vua, có thể ngầm coi là đại thần tam phẩm rồi.

Dư Triều Sinh là Hữu thị lang bộ Lại, kiêm chức Tả phó ngự sử ty Ngân

Dẫn. Chu Tử Thư thì khác, chức vụ chính của cậu là Gián nghị đại phu Hữu phó ngự sử ty Ngân Dẫn. Không còn là Trung Thư xá nhân, như Từ Bí nói, từ giờ cậu sẽ không được xem tấu chương dâng lên Triệu Phụ nữa. Tuy mất vị trí ở điện Cần Chính, nhưng giờ Chu Tử Thư đã nắm thực quyền trong tay.

Rốt cuộc là thăng hay giáng, tất cả phải trông vào ý đồ của Triệu Phụ.

Chu Tử Thư tiếp thánh chỉ xong thì dạt dào cảm xúc: Dù không biết tại sao

Triệu Phụ bất ngờ suy sụp, nhưng ông ta vẫn đường đường là Khai Bình hoàng đế, là vị vua Đại Tống thao túng triều chính suốt ba mươi mốt năm!

Giữ chức Hữu phó ngự sử ty Ngân Dẫn, đúng ra Chu Tử Thư phải bị điều đến U Châu xa xôi. Song Triệu Phụ ban cho cậu thêm cái chức suông là Gián nghị đại phu nên mấy hôm nữa cậu sẽ chuyển sang Ngự Sử đài, làm việc cùng các Ngự Sử thừa và Ngự Sử đại phu khác.

Việc Chu Tử Thư và Dư Triều Sinh được thăng quan không khiến quá nhiều người chú ý, hoặc nên nói, phần lớn mọi người quan tâm đến việc quyền lực của Cung Tuấn bị hai người bọn họ san sẻ ra sao!

Trên triều đình, thanh thế của Cungđảng quá mức to lớn, tự nhiên sẽ hình thành đảng phái đối địch.

Biết tin này, nhiều người kín đáo vỗ tay mừng thầm, hả lòng hả dạ. Có người lại đem lòng hoài nghi, ở ngàn dặm xa xôi còn viết thư gửi về kinh, sai người đưa thư nhà gửi hộ đến tận tay thầy mình.

Từ Bí nhận được thư của Dư Triều Sinh thì lắc đầu cười. Ông nhấc bút lông phúc đáp một câu rồi gửi về U Châu.

Dư Triều Sinh nhận được thư thầy thì mở ra đọc. Lá thư viết một dòng rất đơn giản:

"Lòng ưu ái Thánh thượng dành cho Hiến Chi, dầu nhân lên bội phần, cũng không bì kịp lòng ưu ái sâu sắc mà Thánh thượng dành cho Phong."

Dư Triều Sinh như được vén màn mây mù, bừng tỉnh đại ngộ. Anh ta đọc thư giữa đêm khuya, ngồi tại bàn một mình suy ngẫm hồi lâu, cuối cùng thiêu hủy lá thư. Nhìn giấy viết thư quắt lại thành tro tàn, Dư Triều Sinh tưởng như thấy quá khứ mười hai năm về trước. Thuở ấy anh ta mới hai mươi lăm tuổi, vừa đỗ Bảng nhãn, đáng lí tiền đồ làm quan phải hết sức rộng mở. Không may thay, năm ấy, CungTử Phong – người trẻ hơn anh ta bảy tuổi đã giành hết mọi sự chú ý, khiến một Bảng Nhãn như anh ta đi vào lãng quên cứ như thể đỗ tiến sĩ từ khoa thi trước!

Dẫu vậy, Dư Triều Sinh không sinh lòng đố kị oán ghét. Những năm qua, anh ta vẫn chăm chú theo dõi xem tại sao CungTử Phong lại được Triệu Phụ tin dùng đến mức ấy?

Hiện giờ rốt cuộc chân tướng đã hé lộ một chút.

Lang Gia Cungthị, Hữu tướng CungThuyên, những yếu tố này đều là ngoại lực. Một người nhìn thấu thế sự giỏi lắm chỉ nhìn trước được một tháng, hai tháng, hay nửa năm, một năm. Về phần mình, từ bốn năm trước CungTử Phong đã gài sẵn một quân cờ mang tên Đường Cảnh Tắc.

Dư Triều Sinh thở dài: "Hay cho một chiêu lấy lui làm tiến! Người ngoài chỉ nói ngươi phải chia bớt quyền lực, nhưng hai năm trước, Triệu Tĩnh chia quyền với ngươi, cuối cùng lại bị biếm đến Tần Châu, thanh thế của ngươi càng lớn mạnh. Đường Cảnh Tắc là đồng môn với ngươi, sư huynh đệ các ngươi nghĩa tình khăng khít, giờ lẽ nào ngươi muốn xuống tay với cả ta và tiên sinh ư?"

Dư Triều Sinh ở tít tận U Châu, tình hình ở Thịnh Kinh đã nằm ngoài tầm với của anh ta, những gì anh ta nhìn thấy được chỉ là cái đốm trên mình con báo chứ chẳng phải toàn cục.

Gần đây Cung Tuấn mới tậu một chú chim vàng anh, chàng yêu vàng anh lắm, đặt lồng chim ngay ngoài thư phòng, ngày ngày chăm bẵm vàng anh.

Lúc Chu Tử Thư tới gặp chàng thì Cung Tuấn đang chơi đùa với chim. Hai bàn tay chàng khum khum vốc nắm mồi, nhẹ nhàng dùng đầu ngón tay đút cho chú chim nhỏ. Chu Tử Thư đứng bên cạnh xem một lúc thì Cung Tuấn hỏi: "Tiểu sư đệ có muốn thử không?"

Chu Tử Thư: "Có ạ."

Cung Tuấn san nửa nắm mồi vào lòng bàn tay Chu Tử Thư.

"Sao bỗng dưng sư huynh lại có hứng chơi với chim thế?"

"Thứ ta muốn chơi cùng lúc nào cũng ở xa tận trời, đành phải trêu con chim này, trông mơ giải khát1 thôi."

[1] Xuất phát từ tích Tào Tháo nói với quân sĩ rằng sắp đến rừng mơ, để họ ứa nước miếng ra cho đỡ cơn khát trên đường hành quân.

Chu Tử Thư: ... Nói gì vậy trời?

"Không phải sư huynh nói đệ đấy chứ?"

Cung Tuấn hết sức ngạc nhiên: "Sao lại nói thế?" Chàng trút chỗ mồi còn dư vào trong khay thức ăn, phủi tay, chân thành hỏi: "Cớ sao tiểu sư đệ hiểu lầm như vậy?"

Nhìn nét mặt chính trực của Cung Tuấn, Chu Tử Thư nghi lắm nhưng chỉ biết thừa nhận là mình tưởng tượng.

Mà vốn cũng phải thế, cậu là người trưởng thành sờ sờ ra đây, kia là con chim vàng anh, giống nhau thế nào được? Hơn nữa, đâu phải CungTử Phong cứ muốn là chơi được cậu? Chỉ sợ sẽ bị cậu trêu chọc lại thôi!

Cung Tuấn quan sát sự biến đổi trong nét mặt Chu Tử Thư, thản nhiên nở nụ cười, thỏa mãn nói: "Hôm nay chơi vui quá đi mất, thích ghê." Chu Tử Thư nghệt mặt.

Cung Tuấn: "Đệ đến đúng lúc lắm, sáng nay bên phủ Kim Lăng mới gửi cá bạc hảo hạng lên đây cho nhà bếp nấu. Bữa cơm hôm nay coi như ta mở tiệc chiêu đãi tiểu sư đệ, cảm tạ ơn dìu dắt của tiểu sư đệ nhé."

Chu Tử Thư lấy làm lạ: "Ơn dìu dắt? Ý sư huynh là sao?"

"Đệ đến đây có việc gì?"

Chu Tử Thư hơi ngại ngùng: "Đệ thăng quan, lại tước bớt quyền lực của sư huynh."

"Trùng hợp quá, ta đang nói việc ấy mà. Tháng trước ta đến đài Đăng Tiên, Thánh thượng có nói mấy câu, giải đáp được một vài thắc mắc mấy năm nay của ta."

"Thắc mắc gì cơ?"

"Từ cổ chí kim, các bậc đế Cungđều phải Tuấn trở, phiền lòng vì chuyện lập trữ. Riêng thánh thượng của chúng ta thì chẳng bao giờ lo lắng về việc này."

Chu Tử Thư cả kinh, cậu không ngờ đấy lại là chuyện Cung Tuấn muốn nói. Cậu suy nghĩ thoáng qua, hỏi: "Thánh thượng không có nhiều hoàng tử, chỉ có mỗi ba người. Sư huynh cho rằng trong lòng thánh thượng đã có sự lựa chọn từ lâu rồi ư?"

Cung Tuấn đặt ngón trỏ lên môi, mỉm cười: "Suỵt, thiên cơ bất khả lậu."

||

Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo ~~~

------oOo------

Chương 114

Nguồn: EbookTruyen.Net

Khách từ Kim Lăng

Chu Tử Thư nhíu mày: "Sư huynh đã biết gì chăng?"

Với quan hệ hiện giờ của hai người, nếu có việc thì Cung Tuấn sẽ không giấu Chu Tử Thư. Chu Tử Thư mà gặp khúc mắc gì cũng sẽ hỏi Cung Tuấn chứ không dè chừng cảnh giác, thăm dò năm lần bảy lượt như trước đây nữa. Suy nghĩ một hồi, Chu Tử Thư nói: "Hoàng thượng có ba vị hoàng tử là Nhị hoàng tử, Tứ hoàng tử và Ngũ hoàng tử. Năm ngoái khi sứ

Liêu vào kinh, người phụng mệnh tiếp đón sứ Liêu là Nhị hoàng tử Triệu

Thượng; đệ từng may mắn được gặp ngài ấy vài lần."

Cung Tuấn: "Ồ, tiểu sư đệ biết Nhị hoàng tử kia à?"

Chu Tử Thư: "Không tính là biết, chỉ có cơ may gặp gỡ thôi." Cậu ngừng một thoáng trước khi nói tiếp: "Trong thời gian tiếp đón sứ Liêu, Nhị hoàng tử trực tiếp tham gia vào việc đàm phán. Mặc dù sứ giả nước Liêu huênh hoang kiêu ngạo, chèn ép chúng ta liên tục, nhưng Nhị hoàng tử không hề tức giận mà phối hợp với Mạnh Thượng thư để hóa giải hết hiểm nguy."

Hoàng tử Đại Tống chưa bao giờ tham dự triều chính nên các quan không có cơ hội tiếp xúc với họ. Làm quan được bốn năm, Chu Tử Thư mới chỉ gặp một vị hoàng tử là Triệu Thượng. Tuy vị hoàng tử này không để lại nhiều ấn tượng cho cậu, nhưng anh ta làm việc đến nơi đến chốn, không hề kiêu căng hay nóng nảy. Hiềm nỗi, Nhị hoàng tử không phải là người cơ trí, chỉ có thể nhận xét là không dở cũng chẳng hay.

Trên thực tế, ba hoàng tử của Triệu Phụ đều không hề nổi trội. Nếu họ có bản lĩnh thực sự thì dù Triệu Phụ thờ ơ đến mấy, họ cũng phải có chút tiếng tăm trong triều đình chứ không im hơi lặng tiếng như bây giờ. Chu Tử Thư: "Chẳng lẽ sư huynh nghe ngóng được gì rồi chăng?"

Cung Tuấn: "Ta cũng không biết gì hết. Việc chọn người nối ngôi xưa nay vẫn là chuyện tối kị của nhà đế vương, tiểu sư đệ nghĩ Thánh thượng có bàn chuyện đó với ta không?"

Chu Tử Thư cũng biết dù CungTử Phong có được tin yêu hơn nữa cũng không thể đạt tới mức độ ấy. "Thế sư huynh suy nghĩ ra sao về việc này?"

Cung Tuấn thản nhiên hỏi: "Còn tiểu sư đệ nghĩ sao?"

Cung Tuấn lúc nào cũng thế, rất thích đá bóng sang Chu Tử Thư để cậu phải nêu ý kiến của mình trước. Chu Tử Thư xoa ngón tay cho rơi vụn mồi, bắt chước Cung Tuấn trút cả vào máng ăn cho chim. Phủi tay, Chu Tử Thư thờ ơ bảo: "Sư huynh muốn nói gì thì cứ nói thẳng. Trong mắt đệ, đệ với sư huynh xưa nay luôn thuộc Hoàng đảng. Thiên hạ hiện giờ vẫn là thiên hạ của thánh thượng. Thái tử có là ai cũng chẳng can hệ đến chúng ta."

Một bên mày của Cung Tuấn nhếch lên: "Không ngờ tiểu sư đệ lại có cái nhìn thoáng đến vậy. Lời thật lòng đấy chăng?"

Chu Tử Thư: "Dĩ nhiên là thật lòng rồi."

Cung Tuấn bỗng mỉm cười, nói đầy ẩn ý: "Thì ra tiểu sư đệ trung thành với Hoàng đảng..."

Chu Tử Thư bỗng căng thẳng, cậu không biết Cung Tuấn đang ám chỉ điều gì. Lẽ nào chàng nghĩ cậu không phải Hoàng đảng? Tuy Chu Tử Thư lên kinh thành làm quan nhằm điều tra chân tướng vụ cung biến ba mươi mốt năm trước, đặng trả tiếng thơm cho các vị đại nho đã khuất, nhưng quả thực cậu cũng về phe Hoàng đảng và được Triệu Phụ hết mực tin dùng. Chu Tử Thư nhìn vào đôi mắt sáng của Cung Tuấn: "Sư huynh..."

Cung Tuấn: "Ta chợt nhớ hôm qua mới lấy được một bức tranh của Mễ

Phất1. Tiểu sư đệ có muốn ngắm không?"

[1] 1051-1107. Danh họa thời Bắc Tống

"Ơ?"

Cung Tuấn chưa gì đã nắm tay Chu Tử Thư dắt vào thư phòng. Bị chàng dắt đi, Chu Tử Thư không kịp phản ứng. Đến khi tỉnh táo lại, cậu vô thức nhìn xuống đôi bàn tay đan vào nhau của hai người. Tay Cung Tuấn hơi lạnh; rõ ràng đang là mùa hè nóng bức, vậy mà lòng bàn tay chàng mát rượi như băng, thật dễ chịu biết bao. Hai người vào phòng rồi, Cung Tuấn mới điềm nhiên thả tay Chu Tử Thư ra. Chu Tử Thư hơi xấu hổ, cậu ngẩng lên nhìn Cung Tuấn.

"Tiểu sư đệ không thích tranh Mễ Phất à?"

Hơi mát vấn Cungtrên những ngón tay Chu Tử Thư, cậu nói: "Đâu có. Tranh đâu rồi? Cho đệ xem với."

Cung Tuấn cười trầm ấm. Hai người bắt đầu thưởng thức, bình phẩm bức tranh.

Dùng bữa tối xong, Cung Tuấn tiễn Chu Tử Thư rời phủ. Trời đêm đen sẫm như mực, CungTử Phong thắp ngọn đèn lồng sáng rỡ, tiễn Chu Tử Thư ra tận cửa. Lúc gần về, Chu Tử Thư hỏi: "Hôm nay sư huynh nói thế... có phải vì đã phát hiện ra gì rồi không?"

Ánh đèn lồng chiếu sáng nửa dưới gương mặt Cung Tuấn, eo chàng thắt chiếc túi hương mà Chu Tử Thư tặng bốn năm về trước. Trong đêm tối, tiếng gió vi vu, giọng Cung Tuấn nghe mới êm ái và thanh nhã làm sao: "Tiểu sư đệ, ta đâu phải thần tiên."

"Dạ?"

"Tất cả chỉ là phỏng đoán thôi. Ta nghĩ, miễn là tiểu sư đệ giữ vững bản tâm, mọi sự chẳng khó gì."

Chu Tử Thư mông lung rời khỏi phủ Thượng thư.

Về đến nhà, cậu nghĩ ngợi mãi mới kết luận: "Có lẽ CungTử Phong không có tin tức chính xác thật, nhưng chắc huynh ấy đoán Triệu Phụ sẽ có động thái liên quan đến việc chọn người nối ngôi. Huynh ấy dặn mình giữ vững bản tâm, bản tâm của mình là gì kia chứ?" Chu Tử Thư bỗng nghẹn lời, không thể trả lời được. Cậu cười gượng, buông tiếng thở dài: "Bản tâm của mình à? Bản tâm của mình là Hoàng đảng, bản tâm của mình là trung thành với Triệu Phụ! Chính mình đã nói thế với CungTử Phong chiều nay kia mà!"

Chu Tử Thư ngẫm nghĩ trong thư phòng rất lâu, cậu vừa suy đoán ý tứ của Cung Tuấn, vừa dựa vào quá trình tiếp xúc với Triệu Phụ mấy hôm nay để có cái nhìn riêng.

Gác chuyện này lại, Chu Tử Thư giơ tay phải lên, yên lặng ngắm nghía.

Ngón tay giựt khẽ, chợt cậu thấy có gì đó sai sai, bèn nắm chặt bàn tay thành nắm đấm. Không lâu sau, Chu Tử Thư gọi Diêu Tam vào, hỏi thăm tình hình kinh doanh của lầu Tế Hà dạo gần đây.

Quá nửa đêm còn bị Chu Tử Thư bất chợt gọi ra hỏi chuyện làm ăn, Diêu

Tam hơi hoang mang nhưng vẫn thật thà trả lời. Lúc anh ta chuẩn bị đi, Chu Tử Thư đột nhiên nói: "Diêu đại ca, gần đây tôi mới học xem chỉ tay, anh chìa tay ra đây, tôi xem thử cho."

Diêu Tam lấy làm lạ: "Tiểu đông gia học từ bao giờ thế?" Anh ta không nghĩ nhiều, bèn chìa tay phải cho Chu Tử Thư luôn.

Chu Tử Thư kéo tay Diêu Tam lại, tỉ mỉ xem xét. Cậu có biết xem chỉ tay đâu, chỉ nói bừa rằng "Nhân duyên của anh cực kì tốt, phúc thọ bền lâu, suốt đời phú quý." Đoạn Chu Tử Thư bình tĩnh cầm tay Diêu Tam, nhè nhẹ nắm thử; Diêu Tam không thấy có gì bất thường. Sau khi Chu Tử Thư thả tay anh ta ra, anh ta hành lễ rồi đi về luôn.

Diêu Tam đi rồi Chu Tử Thư mới nhìn xuống bàn tay mình, mí mắt nháy một cái: "... Sao mà rợn tóc gáy thế nhỉ?"

Diêu Tam nào biết, tự dưng bị Chu Tử Thư nắm tay một hồi, đã chẳng được một câu tử tế còn bị chê là rợn tóc gáy. Đúng là oan uổng quá thể!

Cái nắm tay của Cung Tuấn là một cử chi rất vô tư, ấy thế mà Chu Tử Thư cứ khắc ghi trong lòng chẳng tài nào quên được. Một suy nghĩ vô thức vụt lên trong tâm trí cậu, song Chu Tử Thư lắc đầu, gạt ý nghĩ hoang đường ấy đi.

Tới tháng Tám, gần ngày minh thọ2 của Thái hậu.

[2] Ngày sinh nhật của người đã khuất

Thái hậu mới băng, Triệu Phụ canh cánh nhớ thương không nguôi. Giờ đến ngày thọ của Thái hậu, ông ta muốn gióng trống khua chiêng, tổ chức lễ minh thọ thật long trọng cho Thái hậu chứ không làm qua quýt. Thường những việc này đều do Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng đảm nhiệm, nhưng năm nay, Triệu Phụ không giao cho Mạnh Lãng. Đầu tháng Tám, ông ta triệu ba hoàng tử vào cung.

Ba vị hoàng tử thường xuyên vào cung, nhưng hiếm có khi nào họ cùng tiến cung hoặc vào điện Thùy Củng cùng lúc.

Cả ba đều ôm thắc mắc trong lòng. Khi vào điện, Triệu Phụ mới nói với bọn họ: "Nửa tháng nữa là đến minh thọ của Hoàng tổ mẫu các con. Lúc sinh thời, Hoàng tổ mẫu hết lòng thương yêu các con; trẫm còn nhớ trong buổi gia yến năm ngoái, Thái hậu đích thân nấu canh..." Nói đến đây, giọng Triệu Phụ nghẹn ngào dần. Ông ta nhắm mắt nghỉ một lát rồi mới nói tiếp: "Minh thọ năm nay của Thái hậu, trẫm sẽ giao cho các con lo liệu, các con có làm được không?"

Ba vị hoàng tử sửng sốt vô cùng, nào dám lơ là: "Nhi thần quyết không làm phụ hoàng thất vọng."

Triệu Phụ phất tay: "Lui đi."

Ba hoàng tử đều đã có toan tính riêng trong bụng, họ cùng nhau rời khỏi điện Thùy Củng. Sau khi các con ra về, Triệu Phụ nhìn chén trà trên mặt bàn hồi lâu, đoạn ông ta khẽ giọng bảo: "Từ thuở trẫm bé, cứ mỗi dịp gia yến, Thái hậu lại xắn tay áo vào bếp nấu canh. Lúc trẫm nhỏ tuổi, bậc phi của Thái hậu còn thấp, lần nào người cũng phải nấu rất nhiều canh. Về sau, Thái hậu chỉ phải nấu cho một vài người mà thôi. Trẫm thích, Triệu Ngao cũng thích. Tiên đế mến sự hiền tuệ của Thái hậu; Thái hậu là người hết sức chu đáo, lúc nào cũng tử tế với mọi người."

Ông ta nói hết câu nhưng không ai đủ can đảm tiếp lời, ngay cả hai quan Khởi Cư lang phụ trách ghi chép chuyện hằng ngày của hoàng đế cũng phải cúi đầu không dám thở mạnh.

Triệu Phụ như chìm trong cơn mê, ông ta nói: "Tiên hoàng hậu thuộc dòng dõi tôn quý, ung dung rộng lượng, người phàm chẳng ai sánh kịp. Nếu Thái hậu không được tiếng là hiền huệ, chỉ e tiên đế đã chẳng buồn ngó ngàng tới." Yên lặng hồi lâu, Triệu Phụ mới lẩm bẩm: "Thì ra trẫm và Triệu Ngao giống Thái hậu như đúc, mà Triệu Tuyền thì giống hoàng hậu, hắn giống hoàng hậu vô cùng..."

Giây lát sau, Triệu Phụ vụt mạnh chén trà từ trên bàn xuống đất, vỡ tanh bành.

Quý Phúc giật mình sợ hãi, hốt hoảng đi tới: "Tay quan gia bị thương rồi, nô tỳ gọi thái y ngay đây. Người đâu! Đứa nào rót trà để nóng thế này, làm quan gia không cầm chắc được!" Đoạn, Quý Phúc đánh mắt với một tiểu thái giám, chính là con nuôi của lão ta – Tạ Bảo.

Cái liếc mắt của Quý Phúc làm Tạ Bảo hết hồn, gã hiểu ngay ý cha nuôi, bèn vội vã quỳ xuống đất, khóc lóc: "Chính nô tỳ rót trà đây ạ, nô tỳ biết lỗi rồi, xin bệ hạ trừng phạt."

Triệu Phụ không bị bỏng; ông ta ngẩng lên, bình thản nhìn Tạ Bảo đang quỳ, thủng thẳng nói: "Phạt năm hèo."

Tạ Bảo chỉ biết than thầm, gã bị thị vệ lôi ra ngoài, vụt cho năm hèo đau điếng.

Tối đến, Quý Phúc mới lấy thuốc kim sang tốt nhất từ viện Thái y về cho con trai nuôi. Tạ Bảo nằm bẹp trên giường không nhúc nhích nổi. Quý Phúc ngăn gã hành lễ, cười bảo: "Mày có giận cha nuôi không? Cha nuôi làm thế cũng vì mày mà thôi. Người thường há có thể thấy lúc thất thố của bệ hạ? Hôm nay mày thay bệ hạ che đậy mà phải chịu năm hèo, sau này mày sẽ hưởng lợi to."

Mông Tạ Bảo đau tấy, gã ôm nỗi căm hờn ngút trời mà phải cười xòa: "Con biết rồi ạ, cha nuôi chỉ mong điều tốt cho con thôi."

Quý Phúc để thuốc cạnh giường, dặn dò: "Chớ dại mà phỏng đoán thánh ý. Bệ hạ của chúng ta là đấng minh quân thiên cổ, chút lòng riêng của mày thoát được con mắt cha nuôi, nhưng không giấu nổi mắt bệ hạ đâu. Hôm nay trên điện Thùy Củng, mày có nghe được gì không?" Mắt Tạ Bảo láo liên: "Không, con không hề nghe thấy gì hết." Quý Phúc nở nụ cười.

Việc hoàng đế không ngần ngại tổ chức lễ minh thọ của Thái hậu thật trọng thể đã nhanh chóng lan truyền khắp triều đình. Chưa hết một ngày, ai ai cũng biết tin Triệu Phụ giao việc tổ chức cho ba vị hoàng tử.

Bá quan sửng sốt, nhạy bén đánh hơi, bán tín bán nghi: "Chẳng nhẽ Thánh thượng đang ám chỉ rằng đã tới lúc ba vị hoàng tử tham dự triều chính?"

Lúc rời điện Cần Chính hôm nay, Chu Tử Thư cũng đã hay tin. Cậu không khỏi nghĩ tới những gì Cung Tuấn nói với mình.

Chu Tử Thư bật cười: "Huynh còn chối mình chẳng phải thần tiên ư? Thế này còn không phải thần tiên thì là gì!"

Minh thọ của Thái hậu gần kề, ba vị hoàng tử bận tối mắt tối mũi.

Trung tuần tháng Tám, Chu Tử Thư trở về phủ Thám hoa thì nghe Diêu Tam báo rằng có một vị khách chờ trong phủ đã lâu, đợi Chu Tử Thư suốt cả buổi chiều.

"Khách của tôi ấy à?" Chu Tử Thư lấy làm lạ, bảo Diêu Tam dẫn người ấy đến gặp.

Đó là một người đàn ông trung tuổi mặc áo vạt ngắn. Trông thấy Đường

Thận thì người đó choáng váng, dường như hắn ta không ngờ Đường Cảnh

Tắc nổi tiếng trong triều đình gần đây lại tuấn tú đến vậy. Hắn ta biết Chu Tử Thư còn trẻ, nhưng trẻ tuổi là một chuyện, khôi ngô anh tuấn lại là chuyện khác. Người đàn ông trung niên do dự một thoáng mới vái chào Chu Tử Thư: "Hạ quan là Phi kỵ úy Thôi Hiểu phủ Kim Lăng, xin bái kiến Đường đại nhân."

Chu Tử Thư: "Phi kỵ úy phủ Kim Lăng? Thì ra là Thôi đại nhân. Chẳng hay Thôi đại nhân bôn ba đường dài đến Thịnh Kinh gặp riêng ta có việc gì?"

Chu Tử Thư đến phủ Kim Lăng rất nhiều lần, nhưng chưa lần nào gặp viên Phi kỵ úy này cả.

Sự ngần ngại hiển hiện trong ánh mắt Thôi Hiểu. Đắn đo một hồi, hắn mới nghiến răng trình bày: "Sáu năm trước, hạ quan từng mấy lần có duyên gặp Phủ doãn Cô Tô bấy giờ là Lương đại nhân, giúp đỡ Lương đại nhân một số việc. Hồi ấy, nghe nói đại nhân chính là học trò của Lương đại nhân." Chu Tử Thư trợn tròn mắt, kinh hãi tột độ.

Thôi Hiểu cười ái ngại: "Không dám dối gạt đại nhân, hạ quan vướng phải chút phiền phức cá nhân, quả thực không còn cách nào đậy điệm, cực chẳng đã mới phải đến đây cầu cạnh đại nhân. Cúi xin đại nhân niệm tình cố nhân mà cứu tiểu nhân một mạng. Ngày sau tiểu nhân xin làm trâu làm ngựa, nhất định báo đền đại nhân."

||

Thỉnh thoảng sẽ có một loạt những chương đọc thì dễ lắm mà edit với beta thấy đau cả đầu vì chả biết diễn đạt thế nào xD

------oOo------

Chương 115

Nguồn: EbookTruyen.Net

Tam thập nhi lập

Giữa đêm khuya thanh vắng, Thôi Hiểu cúi gằm mặt, thấp thỏm không yên, nói năng thẽ thọt. Chờ hồi lâu không thấy Chu Tử Thư trả lời, hắn mới dè dặt ngẩng đầu lên. Dưới ánh nến, gương mặt Đường Cảnh Tắc như hòn ngọc quý, ánh mắt sắc lẻm, chỉ liếc một cái đã nhìn thấu lòng dạ hắn ta. Thôi Hiểu rụng rời tay chân, rõ ràng chàng trai trước mặt ít tuổi hơn hắn ta nhiều, nhưng oai thế của cậu ta đè bẹp hắn.

Chu Tử Thư cười khẩy: "Tối nay Thôi đại nhân đến đây với mong muốn bản quan sẽ vì tình riêng mà làm trái pháp luật giúp ngươi hả?"

Thôi Hiểu vội đáp: "Tiểu nhân không dám."

Chu Tử Thư trợn mắt, nghiêm giọng mắng: "Không dám cơ đấy! Nếu không dám thì cớ gì ngươi lại đến đây? Như ngươi nói, đúng là bản quan có duyên gặp gỡ Lương Bác Văn – Lương đại nhân vài lần, được ông ấy chỉ điểm đôi điều, vậy thì đã làm sao? Lương đại nhân qua đời đã lâu, việc của ông ấy thì có can hệ gì đến bản quan? Ngươi có biết hiện giờ bản quan đang giữ chức gì không?"

Gần đây Thôi Hiểu bị "phiền phức cá nhân" dày vò đến héo mòn rệu rã. Làm sao mà hắn – một kẻ thấp cổ bé họng lặn lội từ phủ Kim Lăng đến Thịnh Kinh, biết được những thay đổi trong chốn quan trường hiện giờ? Thôi Hiểu ngỡ ngàng nhìn Chu Tử Thư, chỉ nghe Chu Tử Thư lạnh lùng quát: "Bản quan chính là Gián nghị đại phu của Ngự Sử đài!" Như sét đánh ngang tai, Thôi Hiểu chết trân.

Ngự Sử đài là cơ quan giám sát tất cả quan lại, là thanh gươm sắc lẻm treo lơ lửng trên đầu quần thần.

Hôm nay vì phạm tội mà Thôi Hiểu đến cầu cạnh Chu Tử Thư, nào ngờ lại thành chui đầu vào rọ. Thôi Hiểu hắng giọng: "Đường đại nhân, hạ quan là chỗ quen biết cũ với Lương đại nhân. Hạ quan từng giúp đỡ Lương đại nhân, ngài không thể như thế được."

Chu Tử Thư lạnh lùng lườm hắn ta, Thôi Hiểu run bắn, im bặt. Đường

Thận gọi Diêu Tam vào, sai anh ta giải ngay Thôi Hiểu đến Đại Lý tự. Thôi Hiểu dù sao cũng là Phi kỵ úy, thấy Chu Tử Thư muốn bắt giữ mình thì chống cự dữ dội. Không may thay, suốt mấy ngày vừa qua hắn ăn không ngon ngủ không yên, tâm thần mệt mỏi, sức lực cạn kiệt, còn Diêu Tam vừa đô con vừa dũng mãnh. Hai người xông vào đánh nhau, Diêu Tam tay không cũng tóm nghiến được Thôi Hiểu.

Mắt Thôi Hiểu đỏ vằn: "Đường đại nhân, ngài không thể qua cầu rút ván thế được."

Chu Tử Thư bảo Diêu Tam: "Giải hắn ta đến Đại Lý tự." Nhưng sau một thoáng im lặng, Chu Tử Thư lại nói: "Tôi đi với anh."

Giữa đêm khuya, Chu Tử Thư tự mình áp tải Thôi Hiểu đến Đại Lý tự.

Viên quan đang trực Đại Lý tự biết tin liền đến gặp Chu Tử Thư ngay. Chu Tử Thư tống giam Thôi Hiểu rồi nghiêm nghị nói với viên quan trực ban: "Đây là phạm quan do Ngự Sử đài phụ trách. Kể từ hôm nay, hãy canh gác hắn thật nghiêm ngặt. Nếu bản quan không đích thân triệu tập thì không được để bất kì ai gặp hắn. Việc này hết sức hệ trọng, ngươi có đảm đương được không?"

Viên quan Đại Lý tự nghe thế vội đáp: "Hạ quan tuân lệnh."

Chu Tử Thư quay đầu liếc nhìn Thôi Hiểu – kẻ chưa hết bàng hoàng, đoạn xoay gót ra về.

Về tới nhà, Chu Tử Thư liền nói với Diêu Tam: "Sớm mai, anh hãy cầm theo quan lệnh của tôi xuôi nam về Kim Lăng, tôi có việc cần anh điều tra."

Chỉ trong chốc lát mà có quá nhiều sự việc phát sinh trong tối nay, Diêu Tam đâm hoảng sợ và hoang mang vô cùng. Anh ta hỏi: "Tiểu đông gia muốn tôi làm việc gì?"

Chu Tử Thư: "Viên quan trong ngục Đại Lý tự tên là Thôi Hiểu, làm chức Phi kỵ úy ở phủ Kim Lăng. Anh hãy đến phủ Kim Lăng dò la xem hắn phạm phải tội gì, khẩn trương tra xét thật rõ ràng rồi về bẩm báo lại cho tôi."

"Vâng." Diêu Tam quay đầu chực đi.

"Khoan đã."

Diêu Tam quay lại nhìn Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư suy tính trong thoáng chốc: "Các quan ở phủ Kim Lăng không có ai là người quen của tôi cả, anh cầm quan lệnh của tôi đi, chỉ e gặp khó khăn cũng không ai giúp đỡ. Nếu vướng phải chuyện ngoài ý muốn, anh hãy đến Lang Gia Cungthị xin người nhà họ Cungtrợ giúp. Song hãy nhớ rằng nếu không phải trường hợp bất khả kháng thì tuyệt đối không được nhờ."

Diêu Tam: "Tôi hiểu, xin tiểu đông gia yên tâm."

Phái Diêu Tam đến Kim Lăng, nhốt Thôi Hiểu vào đại lao, Chu Tử Thư mới tạm yên lòng.

Sự xuất hiện của Thôi Hiểu quá đáng ngờ. Lương Tụng qua đời đã năm năm nay, từ trước đến giờ không ai nhắc đến ông trước mặt Chu Tử Thư cả. Vậy mà bỗng dưng nảy đâu ra tên Thôi Hiểu này, Chu Tử Thư kiểu gì cũng phải đề phòng. Cậu không biết Thôi Hiểu có đúng là Phi kỵ úy phủ Kim Lăng không, càng không rõ liệu hắn ta biết được bao nhiêu về mối quan hệ giữa cậu và Lương Tụng.

Việc Lương Tụng từng là thầy của Chu Tử Thư không phải bí mật. Triệu Phụ cũng ngầm biết nhưng không đả động đến bao giờ.

Chu Tử Thư đã tôn Phó Vị làm thầy, trở thành sư huynh đệ đồng môn với Cung Tuấn từ lâu, cắt đứt hoàn toàn quan hệ với Lương Tụng. Chuyện ba mươi mốt năm trước Lương Tụng là thành viên đảng Tùng Thanh và chuyện Triệu Phụ không ưa những ai thuộc đảng này đều là sự thật. Mặc dù vậy, Triệu Phụ không hề diệt trừ tận gốc đảng Tùng Thanh. Những người như Lương Tụng hay La đại học sĩ vẫn được làm quan và vẫn sống đến thời điểm năm năm về trước.

Vì muốn giữ tiếng thơm, Triệu Phụ chỉ bắt giữ thủ lĩnh của đảng Tùng Thanh là Chung Thái Sinh. Cách ông ta trừng phạt những thành viên khác của đảng Tùng Thanh cũng rất cẩn trọng và kín đáo, tỷ như "lưu đày" Lương Tụng đến Cô Tô, khiến ông xa rời trung tâm quyền lực, an hưởng tuổi già ở phủ Cô Tô nho nhỏ.

Vì Chu Tử Thư chủ động cắt đứt quan hệ với Lương Tụng và cậu còn nhỏ tuổi khi bái Lương Tụng làm thầy, Triệu Phụ sẽ không vin vào cớ này để giáng tội cho cậu.

Vậy mà thình lình vụt đâu ra một Thôi Hiểu, khiến Chu Tử Thư phải sợ toát mồ hôi.

Không lâu sau, Diêu Tam đã khởi hành đến Kim Lăng.

Chu Tử Thư sang thăm nhà Cung Tuấn, cố tình cầm theo một hộp bánh Trung thu. Gần đến dịp Trung Thu, cậu lấy cớ tặng bánh cho Cung Tuấn để ở chơi phủ Thượng thư cả ngày. Cậu bầu bạn với Cung Tuấn chăm bẵm chim chóc, ngắm nghía hoa cỏ. Cung Tuấn viết thư pháp đã có cậu mài mực, Cung Tuấn đánh đàn đã có cậu lắng nghe.

Đàn xong một khúc, Cung Tuấn giữ yên những dây cầm còn rung, nghiêng đầu nhìn Chu Tử Thư. Chàng dịu dàng hỏi: "Sao hôm nay tiểu sư đệ lại có nhã hứng nghe ta chơi đàn thế?"

Chu Tử Thư: "Xưa nay đệ vẫn mến tiếng đàn của sư huynh, sư huynh đừng nghĩ oan cho đệ chứ. Sư huynh gẩy khúc đàn này vừa cao nhã vừa mượt mà, đệ nghe mà say sưa mê mẩn."

Cung Tuấn nhẹ nhàng "Ồ" một tiếng, hỏi: "Đúng là non cao nước chảy gặp người tri âm. Ta được gặp gỡ tiểu sư đệ, ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây. Đã vậy, đệ có biết khúc nhạc ta mới đàn vừa xong là khúc gì không?" Ba sinh: kiếp trước, kiếp này, kiếp sau.

Chu Tử Thư giật mình, nhưng cậu chợt nhớ hai canh giờ trước, lúc giở cầm phổ, Cung Tuấn đã nấn ná hồi lâu ở một bản nhạc cổ. Cậu bèn đáp: "Lá táo non, hoa hạnh thắm, nét thuyền nan. Làn nước xanh trong uyên ương lội, vang điệu hò. Nước xuân sóng êm gió lặng, trời xuân thoáng tạnh thoáng mưa. Hồng nhan bầu bạn chiều cửa bể, đượm bao tình..." Sư huynh vừa gảy khúc Hạc Trùng Tiêu, đệ nói có đúng không?"

Chỉ một cái liếc mắt là Chu Tử Thư nhớ được hết nội dung nên giờ cậu rất tự tin, cứ như thể mình đã nghe hiểu khúc nhạc vậy.

Cung Tuấn nhìn cậu đầy ẩn ý: "Đúng thế, đệ hiểu bài này thật đấy à?"

Chu Tử Thư: "Đệ đã ngâm cả lời ca lên, sư huynh còn cho là đệ không hiểu sao?"

Cung Tuấn cười: "Được rồi, vậy đệ hiểu."

Lúc ăn cơm tối, Chu Tử Thư khơi chuyện về phủ Cô Tô: "Lâu rồi đệ chưa về Cô Tô, hôm nay chợt ngẫm cũng đã hai năm trôi qua, quả thật hơi nhớ nhà. Sư huynh có nhớ Lang Gia Cungthị, có nhớ phủ Kim Lăng không? Sư huynh xa nhà đã lâu, sợ rằng lúc về lại thấy cảnh còn người mất, nơi nào cũng lạ lẫm."

Cung Tuấn dừng đũa, đưa mắt quan sát Chu Tử Thư, nhìn chăm chú như thể muốn soi ra điều gì đó. Nhưng dù sao chàng cũng không phải thần tiên, chỉ nhìn một lúc rồi cười bảo: "Tết năm nay ta đã về Kim Lăng, sang năm sau, ta và tiểu sư đệ cùng về Giang Nam đón Tết có được không?"

Chu Tử Thư cười nói: "Dĩ nhiên rồi. Mấy năm trước đệ từng đến Lang Gia Cungthị một lần, phủ nhà họ Cungvừa kì vĩ vừa lâu đời, khiến đệ nhớ mãi."

Ăn tối xong xuôi, Chu Tử Thư cáo từ. Hai người hẹn tết Trung thu Chu Tử Thư lại sang ngắm Tuấng ở phủ Thượng thư.

Rời khỏi phủ Thượng thư, nét mặt Chu Tử Thư liền thay đổi. Cậu kết luận: "CungTử Phong không biết chuyện Thôi Hiểu!"

Phủ Kim Lăng là gốc gác của Lang Gia Cungthị, cũng coi như địa bàn của Cung Tuấn. Nếu quả thực Thôi Hiểu có mưu đồ bất chính, hắn ta không thể che mắt Lang Gia Cungthị được, mà nhà họ Cungcũng sẽ báo tin cho Cung Tuấn. Nhưng lúc này Cung Tuấn vẫn không hề hay biết, chứng tỏ là Thôi Hiểu gặp rắc rối thật nên mới cầu cạnh Chu Tử Thư chứ không có âm mưu gì khác.

Chu Tử Thư đã thầm phán đoán xong xuôi, nhưng cậu vẫn giam Thôi Hiểu trong ngục, chờ Diêu Tam về.

Ngày mười hai tháng Tám, Diêu Tam còn ở Kim Lăng chưa về, minh thọ của Thái hậu đã tới.

Trước lễ minh thọ, Triệu Phụ cho ba hoàng tử mười ngày để chuẩn bị thọ yến.

Lần đầu tiên được Triệu Phụ giao phó trọng trách bực này, còn giao cho cả ba anh em, các hoàng tử đều ý thức được tầm quan trọng của sự việc. Ai nấy đều dốc hết bản lĩnh để hoàn thành tốt nhiệm vụ này. Thọ yến của Thái hậu không phải việc khó, ba hoàng tử phân công đâu ra đấy, lo liệu công việc chu toàn tươm tất, không chê vào đâu được. Song trong quá trình chuẩn bị có một sự kiện nhỏ xảy ra. Một hôm trong lúc đang chơi với chim vàng anh, Cung Tuấn đã mang chuyện ấy ra kể cho Chu Tử Thư, nói như đùa.

Chuyện rằng vào ngày thứ hai sau khi các hoàng tử nhận việc, Nhị hoàng tử Triệu Thượng đã đến điện Cần Chính tìm Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng.

Được hoàng tử tôn quý ghé thăm tận nơi, Mạnh Lãng cũng bất ngờ hết sức.

Triệu Thượng nói rõ ý đồ của mình: "Năm ngoái, Mạnh đại nhân là người phụ trách thọ yến của bà nội ta. Hiện giờ ta đảm nhận công việc này, song ngẫm bản thân còn trẻ người non dạ, không hiểu hết ý nghĩa sâu xa, e sẽ phạm phải một vài điều cấm kỵ. Triệu Thượng hổ thẹn vì học thức kém cỏi, không hiểu thấu đáo Chu lễ mà chỉ biết sơ sơ đôi điều. Thế nên, ta đến đây cầu kiến Mạnh đại nhân, mong được Mạnh đại nhân chỉ điểm những chỗ thiếu sót."

Mạnh Lãng thở phào nhẹ nhõm: "Thì ra là việc này, hạ quan là Thượng thư bộ Lễ, đương nhiên phải giúp sức điện hạ rồi."

Triệu Thượng đã lo liệu mọi chuyện thỏa đáng, không khiến Mạnh Lãng phải lo lắng, mà Mạnh Lãng cũng không thể tìm ra sai sót nào. Mặc dù vậy, cuộc nói chuyện mang tính hình thức này vẫn diên ra, vì anh ta muốn thắt chặt quan hệ với Mạnh Lãng. Nhờ việc đoàn sứ nước Liêu năm ngoái mà Triệu Thượng có thời gian cộng tác với Mạnh Lãng; giờ ba hoàng tử được giao việc lớn, Triệu Thượng lại đến viếng thăm Mạnh Lãng, quan hệ giữa hai người càng thêm thân thiết.

Cung Tuấn rắc thức ăn cho con chim vàng anh, giọng chàng vừa êm ái vừa sáng sủa: "Giờ tiểu sư đệ nghĩ nhị hoàng tử là người thế nào?"

Chu Tử Thư cũng quá đỗi ngạc nhiên: "Xem ra đệ đã đánh giá thấp Nhị điện hạ rồi."

Cung Tuấn gõ nhẹ một cái giữa đôi mày Chu Tử Thư, cậu giơ tay lên xoa xoa trán.

Cung Tuấn: "Con người ai chẳng có lòng tư lợi. Một khi đã nảy sinh ham muốn làm lợi cho bản thân, tức là có mưu đồ. Mạnh Lãng cũng thế, mà Triệu Thượng càng thế."

"Sư huynh cũng có lòng ích kỷ ư?"

Cung Tuấn im lặng một thoáng, thản nhiên cười: "Đương nhiên rồi."

Chu Tử Thư tò mò: "Sư huynh muốn điều gì cho bản thân vậy?" "Xưa có câu, tam thập nhi lập. Năm sau, ta sẽ bước sang tuổi ba mươi." Chu Tử Thư: "...?" Hể?

Cung Tuấn mỉm cười, không nhiều lời thêm.

Tam thập nhi lập, tức là người đàn ông phải xây tổ ấm trước tiên rồi mới gây dựng cơ nghiệp.

Về phương diện này Cung Tuấn luôn cảm thấy hổ thẹn, chàng nghĩ mình đã đổ sông đổ bể hai mươi năm nghiền ngẫm thi thư. Những tưởng rằng không thẹn với trời đất, không thẹn với quân vương, nhưng rốt cuộc chàng không sống đúng với răn dạy của tổ tiên, làm trái ngược lễ nghi. Đã lập nghiệp trước, còn trễ nải việc thành gia. Một hành động vi phạm lễ phép như vậy, dĩ nhiên Cungđại nhân sẽ không đời nào để yên, chàng phải chấn chỉnh cho bằng được. Giờ vẫn còn kịp để sửa chữa.

Ngày mười hai tháng tám, trong lễ minh thọ của Thái hậu, Triệu Phụ mặc lễ bào, dẫn quần thần đến chùa Định Quốc cầu phước tế trời cho Thái hậu.

Chu Tử Thư là Gián nghị đại phu nên được đứng trên các quan, sau lưng cậu, các quan tứ phẩm quỳ đông nghìn nghịt. Lúc tế trời, cả Triệu Phụ cũng quỳ. Triệu Phụ mặc lễ phục cầu kì và nặng trịch, bước từng bước tới Đàn Trời. Ông ta ngước nhìn linh vị Thái hậu, rưng rưng nước mắt, quỳ xuống, cầu phúc cho Thái hậu.

Thiên tử quỳ, chúng quan dập đầu.

Toàn thể quần thần cúi rạp xuống đất, không ai dám ngẩng lên.

Trong ngôi chùa Định Quốc rộng thênh thang có đến mấy trăm người, nhưng lặng lẽ đến nỗi cây kim rơi cũng nghe rõ tiếng.

Lúc ấy, Chu Tử Thư nghe thấy tiếng tụng kinh trầm bổng cất lên, như tiếng nhạc thiền vọng về từ phương Tây cực lạc, hễ ngân lên là trăm loài chim ngừng hót, muôn bầy trùng thôi kêu. Vị tăng ấy đều đặn lần tràng hạt làm từ gỗ đàn hương, lầm rầm tụng kinh chúc phúc cho Thái hậu. Khi ông ta tụng xong bài kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện thì thiên tử chậm rãi đứng dậy từ đệm cói, toàn thể các quan cũng được phép ngẩng đầu.

Chu Tử Thư chăm chú nhìn lên phía trên, cuối cùng cũng thấy được vị hòa thượng đó.

Trên Đàn Trời, Giám chính Khâm Thiên Giám quỳ ở bên trái hoàng đế, còn sư thầy thì đứng ở bên phải. Vị hoà thượng này có khuôn mặt tròn trịa và hiền hậu. Chỉ một ánh mắt tình cờ cũng khiến người ta cảm nhận được sự thông thoáng yên ả trong lòng và sự biến ảo khôn lường của muôn vàn giới hạn.

Chu Tử Thư ngây ra nhìn hồi lâu, trong tâm trí bỗng lóe lên một cái tên.

Đây là hòa thượng Thiện Thính.

Sau khi cầu phúc lành cho Thái hậu ở chùa Định Quốc, trăm quan theo hoàng đế trở về cung dự thọ yến.

Khi mọi người ra khỏi chùa Định Quốc, có một kẻ mặc đạo bào lấm la lấm lét chạy ù đến chỗ xe ngựa của quan nhị phẩm. Đợi mãi, Lý Tiêu Nhân mới thấy Cung Tuấn. Mắt y sáng ngời, vội vàng bước tới gọi: "Cungđại nhân."

Cung Tuấn quay lại thì thấy Lý Tiêu Nhân. Vị quan Thượng thư với gương mặt điển trai bèn nở nụ cười ấm áp, lịch thiệp nói: "Thì ra là Lý đại nhân."

||

Chương này làm mất bao nhiêu lâu vì bịa mấy câu cảnh xuân ToT

Chú thích

Chắc nhiều bạn đã biết đến câu "tam sinh hữu hạnh", câu thành ngữ chỉ sự kỳ ngộ – may mắn gặp được một người nào đấy. Mình có tìm hiểu qua thì nhận thấy trong văn thơ Nôm, người Việt mình dùng "ba sinh" (Nôm: 𠀧生) thay thế cho "tam sinh" (Hán: 三生), đặc biệt trong Truyện Kiều cụm từ này xuất hiện nhiều lần, cụm "duyên nợ ba sinh" trong Kiều cũng trở nên phổ biến để nói duyên nợ tình cảm. Mời đọc thêm về điển tích "ba sinh" ở .

"Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây" là câu thơ thứ 282 trong Truyện Kiều (). Cụm này được dịch giả Nhượng Tống dịch là "ba sinh âu cũng duyên trời chi đây" (chỉ khác chữ "cũng") trong bản dịch Tây Sương Ký (1944). Mình nghĩ đây là cách chuyển ngữ tuyệt hay, truyền tải được hết sự trân trọng, mừng rỡ của người nói cũng như duyên phận tình cảm được hiểu ngầm trong cụm "tam sinh"/ "ba sinh", nên dùng theo và dẫn nguồn để bạn đọc cùng biết.

Tên bài từ là "Bình diệp nộn" (tạm dịch: Lá táo mơn mởn). Bài từ viết theo làn điệu "xuân quang hảo" (tạm dịch: cảnh đẹp ngày xuân). Theo ý hiểu của mình thì bài từ tả cảnh ngày xuân hài hòa; trời nước, thiên nhiên ngày xuân khơi dậy tình cảm lứa đôi.

Bài gốc: 苹叶嫩, 杏花明, 画船轻. 双浴鸳鸯出渌汀, 棹歌声. 春水无风无浪, 春天半雨半晴. 红粉相随南浦晚, 几含情.

Đoạn trong chương mình edit khá vụng và không có giá trị tham khảo gì đâu nhé :P

------oOo------

Chương 116

Nguồn: EbookTruyen.Net

Con tin ngài ấy

Lý Tiêu Nhân đi một mình đến gặp Cung Tuấn hiển nhiên là vì có việc cần bàn.

Cung Tuấn biết ý, nói: "Giờ hẵng còn sớm, vừa nãy lúc lên chùa Định Quốc, ta thấy dưới chân núi có một quán trà để nghỉ chân."

Lý Tiêu Nhân hiểu ngay ám hiệu của chàng: "Nếu Cungđại nhân đã muốn vậy, hai chúng ta ghé quán trà đó dừng chân một lúc được không?"

Cung Tuấn cười: "Được."

Hai người cùng đến quán trà.

Quán trà này mở ở dưới chân chùa Định Quốc, coi như được hưởng ké đèn nhang thịnh vượng của ngôi chùa này. Tuy ở trong thung nhưng quán vẫn đông khách uống trà – họ đều là những người lên núi dâng hương lễ Phật, dừng chân nghỉ lại nơi đây. Cung Tuấn và Lý Tiêu Nhân vào quán, lựa riêng một nhã gian.

Vừa vào phòng, Lý Tiêu Nhân đã ủ rũ hỏi: "Hôm nay Cungđại nhân có thấy Thiện Thính không?"

Cung Tuấn: "Trước đây ta đã gặp Thiện Thính đại sư ở đài Đăng Tiên. Lý đại nhân có việc gì?"

Lý Tiêu Nhân bỗng hoài nghi thái độ của Cung Tuấn với Thiện Thính, đâm không biết phải nói thế nào. Nhưng quả tình y đang cùng đường lắm, thành thử y chỉ do dự một thoáng rồi nói với Cung Tuấn ngay: "Chẳng giấu Cungđại nhân, từ khi Thiện Thính vào cung, bệ hạ sủng tín hắn vô cùng. Ngày nào hắn ta cũng luyện chế đan dược, tụng niệm kinh văn cho bệ hạ. Những chuyện bình thường thì thôi không nói, kẻo Cungđại nhân lại hiểu nhầm rằng Lý Tiêu Nhân này chỉ chăm chăm bài trừ gian thần đối lập với mình." Nói tới đây, Lý Tiêu Nhân cũng im lặng mất một lúc vì tự chột dạ. Y hắng giọng nói tiếp: "Chẳng qua ta cứ thấy có gì đó không phải."

Cung Tuấn thản nhiên nói: "Lý đại nhân bầu bạn với bệ hạ hơn hai mươi năm, lòng trung thành trước sau như một của ngài trong triều có ai mà không biết?"

Lý Tiêu Nhân biết thừa Cung Tuấn đang nói mỉa, nhưng y vẫn thấy xuôi tai lắm. Giờ thì y yên tâm hẳn vì biết Cung Tuấn vẫn đứng về phe mình. Mà ngẫm ra, y và Cung Tuấn quen biết đã bao nhiêu năm nay, trong khi Thiện Thính chỉ vừa chân ướt chân ráo vào kinh thành. Muốn gạt y ra để đôn Thiện Thính lên, Cung Tuấn sẽ phải hao tâm tổn sức, lợi bất cập hại.

Lý Tiêu Nhân: "Từ mười mấy năm trước, sau cơn bệnh nặng gây hôn mê bất tỉnh hơn mười ngày, bệ hạ liền đi theo con đường tầm đạo thành tiên. Trước giờ Thánh thượng luôn tu tiên trong đài Đăng Tiên hằng ngày, hấp thụ linh khi thiên địa, nhưng thường chỉ tu một canh giờ. Bệ hạ kiểm soát bản thân rất nghiêm ngặt, dù bận tu tiên nhưng người luôn tận tụy lo việc nước. Song từ khi Thiện Thính xuất hiện, thời gian bệ hạ giải quyết chính vụ đã giảm sút, mỗi ngày bệ hạ đều ở trong đài Đăng Tiên tận ba canh giờ!" Cung Tuấn nghe thế liền sửng sốt.

Thái độ của chàng khiến Lý Tiêu Nhân hết sức hài lòng, y nói tiếp: "Ta đã thử khuyên can bệ hạ, chớ vì tu tiên mà tổn hao long thể. Linh khí đất trời vào từ huyệt Bách Hội, đi tới huyệt Thần Đình, xuyên qua huyệt Tinh Minh. Khi hội tụ ở huyệt Tam Âm Giao rồi đi ra từ huyệt Dũng Tuyền thì đạt đến trạng thái cực kì nhàn hạ của việc hô hấp thổ nạp1. Cưỡng cầu thái quá chỉ tổ hại thân, thánh thượng phải chú ý gìn giữ long thể. Vậy mà thánh thượng không hề nghe ta, ngài triệu ngay hòa thượng Thiện Thính tới để giảng tụng kinh văn."

[1] BH: Đỉnh đầu. TĐ: chính giữa phía trước tóc. TM: gần mắt. TAG: trên mắt cá. DT: dưới bàn chân.

"Ý của Lý đại nhân là..."

Lý Tiêu Nhân ưu sầu hết sức, lo lắng nói: "Hạ quan lo bệ hạ ngày ngày tiêu tốn nhiều tâm huyết vào việc luyện đan tu tiên như vậy, lỡ may ảnh hưởng đến long thể thì biết tính sao đây?"

Hai người từ biệt nhau ở quán trà rồi ai nấy về kinh.

Sau khi từ biệt Cung Tuấn, thái độ của Lý Tiêu Nhân quay phắt lại như thường.

"Không biết CungTử Phong có lập mưu triệt hạ quách cái tay Thiện Thính chết bầm ấy được không đây!"

Đồ đệ của Lý Tiêu Nhân chờ bên ngoài quán trà đã lâu, thấy y đi ra, tiểu đạo đồng vội vã chạy tới che ô quạt mát cho sư phụ. Dĩ nhiên nó cũng nghe được lời phàn nàn của Lý Tiêu Nhân. Mắt liến láu, tiểu đạo đồng hỏi: "Sư phụ ơi, CungTử Phong có thể giúp chúng ta hất cẳng con lừa đần kia thật sao?"

Lý Tiêu Nhân: "Làm sao mà ta biết được!"

Tiểu đạo đông ngớ người: "Ơ?"

"Hầy, ta cũng chỉ bí quá hóa liều thôi. Đã ba ngày nay vi sư không được thấy mặt rồng, còn tên Thiện Thính ngày nào cũng được gọi đến đài Đăng Tiên truyền tụng kinh văn cho bệ hạ. Những điều ta vừa nói với CungTử Phong đều là lời gan ruột, nếu cứ tiếp tục tình hình này, long thể thánh thượng bị ảnh hưởng là cái chắc. Than ôi, đến giờ ta vẫn không hiểu được lòng dạ hắn, chỉ hi vọng giờ hắn cứu chúng ta được một bàn thua. Nếu hắn có ơn với mình, tự khắc ta sẽ ghi lòng chờ ngày sau báo đáp."

Triệu Phụ tầm đạo tu tiên cũng đã được hơn hai mươi năm, giờ tự dưng ông ta chuyển sang ăn chay niệm phật làm các đại thần trong triều thấy hoang đường quá thể. Song phàm những việc hoàng đế muốn làm thì có ai dám cả gan xen vào? Ngự Sử đài vờ như không biết đến sự tồn tại của Thiện Thính, tuyệt nhiên không có quan Ngự Sử nào đàn hặc ông ta hết.

Năm Khai Bình thứ ba mươi mốt, triều đình dậy cơn sóng cả. Trận sóng thần này không đến từ việc Triệu Phụ đột nhiên chuyển từ tầm Đạo sang thờ Phật, mà vì chuyện ba hoàng tử bắt đầu tham dự triều chính, lo việc quốc gia.

Năm nay Triệu Phụ đã sáu mươi bảy tuổi nhưng các hoàng tử của ông ta hẵng còn trẻ. Nhị hoàng tử Triệu Thượng – người lớn tuổi nhất cũng chỉ mới ba mươi hai tuổi. Ba hoàng tử đã trưởng thành từ lâu nhưng bị Triệu Phụ ghẻ lạnh bao năm nay; việc ông ta cho bọn họ tham dự triều chính là một tín hiệu cực kì nhạy cảm.

Thịnh Kinh, phủ Hữu tướng.

Ở thành Thịnh Kinh, bọn nhi đồng vẫn truyền tai nhau câu vè nơi đầu đường cuối ngõ về hai vị thừa tướng của Đại Tống. Câu vè ấy rằng: "Phủ Tả tướng – củi gạo mắm muối, phủ Hữu tướng – tiên cảnh trần gian" ý chỉ Tá tưởng Kỷ Ông Tập làm quan liêm khiết, thanh bạch, trong nhà chỉ có dăm ba món đồ đạc, còn Hữu tướng CungThuyên thì ngược lại. Cungtướng công không phải hạng tham quan ô lại, song ngài vốn thuộc dòng dõi danh môn thế gia, gia cảnh sung túc sẵn. Phủ Hữu tướng mang đậm vẻ đẹp hài hòa của một lâm viên Giang Nam, ngắm chơi thôi thì không có gì đáng kể, nhưng nơi này sẽ là cảnh tiên nơi trần thế nếu so sánh với phủ Tả tướng đơn sơ.

Hiện giờ, Hữu tướng CungThuyên đang đứng trước thư trai3, mở cửa sổ ngắm hoa sen nở kín mặt ao phía đằng xa trong khu vườn.

[3] Tương tự như thư phòng

Thư trai này có tên là "Bát Cầu Trai", trên cửa treo một tấm biển với ba chữ "Bát Cầu Trai" rồng bay phượng múa. Nguồn gốc của những con chữ này không hề tầm thường chút nào, bởi chúng được chính tay hoàng đế Triệu Phụ ban tặng. Nguồn gốc của cái tên "Bát Cầu Trai" là "Cầu thư bát pháp" của một nhà sưu tầm sách triều đại trước, cũng là thú vui yên bình và cao nhã của người đọc sách.

Tám phương pháp sưu tầm sách.

Trong Bát Cầu Trai, CungThuyên cho bày sáu giá sách, vừa vào phòng là nghe thoang thoảng hương mực.

Ngắm hoa sen trong hồ, Hữu tướng thoáng nhíu mày, thở dài một tiếng: "Kể mà có trận mưa to, thì những đóa sen kia phải náu mình nơi nao mới tránh khỏi kết cục mưa dập gió vùi?"

"Sao thúc tổ lại cảm khái vậy?"

CungThuyên quay lại nói: "Con chớ có bảo mình không thấy cái thế mây vần đang nổi lên trong triều đình gần đây!"

Cung Tuấn đang đứng bên giá sách, nghe vậy thì cười: "Hiện giờ con chỉ thấy gió êm sóng lặng thôi, việc gì mà phải sửa nhà trước khi trời mưa hả thúc tổ?"

CungThuyên: "Tử Phong đã nghe ngóng được gì đấy ư?"

"Chưa hề."

"Thế vì đâu mà con thong dong đến vậy?"

CungThuyên nắm quyền hành trong triều đình đã bao năm nay, cũng đã đọ sức với Kỷ Ông Tập ngần ấy năm. Nếu giờ bảo ông đối mặt với Kỷ Ông Tập, ông dám khẳng định rằng mình đã hiểu tường tận đối phương. Vậy mà đối với đứa cháu của mình, đôi lúc CungThuyên không tài nào hiểu nổi. Chẳng biết tự bao giờ, Cung Tuấn đã gần kề với tâm tư đế Cunghơn cả ông. Quả là quân tâm khó dò, quân tâm khó lường! Triệu Phụ tín nhiệm nhóm quan viên trẻ như Cung Tuấn, Tô Ôn Duẫn còn hơn cả ông và Kỷ Ông Tập.

Cung Tuấn: "Vì từ trước đến giờ Tử Phong chỉ tin vào một thứ."

CungThuyên bị khơi dậy hứng thú: "Ồ, thứ gì thế?"

Cung Tuấn giơ tay chỉ lên trời, mỉm cười nói: "Con tin ngài ấy."

CungThuyên tròn mắt, hồi lâu mới nói: "Hồi trước có một mình Lý Tiêu Nhân thì không sao, giờ lại phát sinh thêm một Thiện Thính. Sau khi Thái hậu băng, con cũng thấy Thánh thượng thay đổi ra sao rồi đấy." Chợt ông im bặt, vẻ ngạc nhiên hiện lên trên khuôn mặt. CungThuyên bỗng bật cười, chẳng thể làm gì hơn ngoài lắc đầu: "Đều là cận thần của thiên tử, vậy mà giờ ta chẳng hiểu rõ thánh ý bằng con."

Cung Tuấn: "Con cũng chỉ suy đoán thôi mà."

CungThuyên khoát tay, cười sang sảng: "Không bàn chuyện ấy nữa.

Trong nhà đã chuẩn bị sẵn cơm nước cho con, toàn những món đặc sản Tô

Châu mà con thích ăn đấy. À phải rồi, bao giờ con mới dẫn Đường Cảnh

Tắc về nhà ra mắt đây?"

Cung Tuấn dở khóc dở cười: "Hẵng còn sớm quá!"

CungThuyên: "Đêm dài lắm mộng!"

Trong lúc Cung Tuấn thưởng thức của ngon vật lạ ở phủ Hữu tướng, Chu Tử Thư đang ở nhà một mình. Vừa và miếng cơm thì Diêu Tam trở về, cậu lập tức buông đũa, gọi Diêu Tam vào thư phòng, mặc bụng đói, nghe Diêu Tam báo cáo.

"Tiểu đông gia, tôi đã điều tra kĩ càng, Thôi Hiểu đúng là Phi kỵ úy phủ

Kim Lăng."

Chu Tử Thư: "Anh chắc chắn là người đó chứ?"

Diêu Tam: "Chắc chắn ạ. Vì việc này, tôi đã bỏ tiền ra mời một quan sai ở phủ nha Kim Lăng đi uống rượu ở tửu lầu. Tôi nói với hắn rằng mình có một người bà con xa công tác ở phủ nha, làm chức Phi kỵ úy phủ Kim Lăng. Hắn bảo tôi mô tả kĩ tướng mạo người ấy, tôi bèn tả Thôi Hiệu, người quan sai ấy nói ngay: 'Chẳng phải Thôi đại nhân đó sao!'"

Mấy năm nay Diêu Tam theo Chu Tử Thư vào nam ra Bắc, làm việc ngày càng chu đáo cẩn thận, khiến Chu Tử Thư cực kì yên tâm.

Chu Tử Thư gật đầu: "Anh có điều tra được hắn phạm tội gì không?"

Diêu Tam cười ảo não: "Thôi Hiểu có thể lặn lội đường xa đến Thịnh Kinh xin gặp tiểu đông gia, hiển nhiên tội lỗi của hắn chưa đến nỗi gây xôn xao dư luận, tôi không điều tra được. Nhưng tôi nghe tin rằng Thôi Hiểu là một tên quan cực kì tham lam, không ai bì được. Chỉ cần được mớm tiền, hắn sẵn sàng làm bất kể điều gì. Thế nên, tội mà hắn phạm phải có khi liên quan đến tiền bạc."

Anh ta nói vậy, Chu Tử Thư lập tức tỉnh ra ngay, cậu đã đoán được vì sao Thôi Hiểu lại đến tìm mình, cũng đoán được nguyên do Thôi Hiểu và Lương Tụng quen biết năm năm về trước.

Năm năm về trước, Lương Tụng đột nhiên nhận được tin Chung Thái Sinh bị giam ở thiên lao hơn hai mươi năm bỗng mắc bệnh nặng, e chẳng còn thọ được bao lâu. Nếu không cứu chữa gấp, chỉ sợ chẳng chóng thì trầy cũng từ trần. Lương Tụng ở tít tận Cô Tô, làm sao biết được tình hình trên Thịnh Kinh. Ông chỉ còn cách đi sang Kim Lăng để thám thính tin tức, tìm kế sách cứu mạng Chung Thái Sinh.

Lương Tụng là một trong Tứ nho thiên hạ, nhưng đây là việc ông phải giữ bí mật chứ không thể gióng trống khua chiêng. Chính vì thế, ông không thể tìm đến những quyền thần đại quan mà mình quen biết mà phải lén lút thu lượm tin tức. Chiếu theo lẽ đó, việc ông dùng tiền mua chuộc Thôi Hiểu, mong mượn tay hắn dò la nội tình cũng không phải bất khả thi.

Hồi trước Chu Tử Thư hoàn toàn không tham dự vào việc này, lần duy nhất cậu nhúng tay vào là lần Từ Tuệ – cháu Lương Tụng tìm đến cậu, nhờ giúp đỡ điều tra một đạo sĩ về thăm người thân ở phủ Cô Tô.

Việc này chỉ có mình Từ Tuệ biết đến, người nhân viên giúp dò la tin tức thuộc Hậu cần Đường thị cũng được Chu Tử Thư cho tiền để rời khỏi Cô Tô, chẳng biết hiện giờ đang ở phương nào.

Không biết vì đâu mà Thôi Hiểu nghe ngóng được quan hệ giữa Chu Tử Thư và Lương Tụng, nhưng không có chứng cứ rõ ràng mà chỉ nói suông thì đừng hòng lay chuyển địa vị hiện giờ của Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư yên tâm rồi, cậu cười nói: "Nếu liên quan đến tham ô thì có gì phức tạp đâu, chỉ đơn giản là hắn bị ai đó tố cáo hành vi phạm pháp, gửi cáo trạng lên tận Thịnh Kinh khiến Thôi Hiểu không dìm xuống được!"

Cậu suy nghĩ một lát, "Việc này dễ thôi, nhưng có lí nào ta phải làm hộ

Thôi Hiểu!"

Chu Tử Thư lạnh nhạt nói: "Cứ nhốt hắn ở Đại lý tự đi!"

||Chú thích

Bạn nào chưa biết thì "đàn hặc" tức là tố giác tội lỗi của quan lại.

Khá thú vị nên edit sơ qua cho các bạn cùng đọc. Bài luận về tám phương pháp sưu tầm sách (thời Nam Tống) khuyên rằng:

1. Tìm theo thể loại. Tức là phải hỏi người có chuyên môn về thể loại đó, ví dụ sách nhạcthì hỏi nhạc công.

2. Tìm theo thể loại liên quan. Tương tự, chuyên gia trong một lĩnh vực thường sẽ biết ítnhiều về các lĩnh vực liên quan.

3. Tìm theo vùng miền. Sách liên quan đến vùng nào thì nên đến vùng đó tìm.

4. Tìm theo gia tộc. Một số sách có liên quan đến các dòng họ nhất định, phải đến nhừngdòng họ đó mà tìm.

5. Tìm trong kho tàng công. Một số sách không có trong dân gian nhưng còn ở quan phủ(VD: sách về án kiện, lễ nghi, bản đồ)

6. Tìm trong kho tàng tư: Một số sách được bảo quản ở kho tàng riêng của gia đình, đôi khiđược cất giấu bí mật, cần xây dựng quan hệ tốt với chủ nhà thì mới lấy được.

7. Tìm theo người: Một số người sau khi công tác ở địa phương sẽ sưu tầm sách liên quanđến địa phương đó. Có thể hỏi những người này.

8. Sưu tầm theo thời đại: Có những sách để lâu năm sẽ bị mai một hoặc thất lạc. Thế nêncần tranh thủ sưu tập thật nhiều sách trong thời điểm hiện tại, tránh để lâu rồi khó sưu tầm.

------oOo------

Chương 117

Nguồn: EbookTruyen.Net

Tuấng rằm tháng tám

Ngày mười lăm tháng Tám, Hữu thị lang bộ Công Tô Ôn Duẫn về kinh báo cáo công tác.

Chu Tử Thư không còn làm việc ở điện Cần Chính lâu rồi, nhưng vì việc của Phi kỵ úy Kim Lăng Thôi Hiểu mà cậu phải đến Đại Lý tự. Thôi Hiểu chỉ là một viên quan lục phẩm nhãi nhép, tấu chương tố cáo tội trạng của hắn đã được gửi từ Kim Lăng lên cách đây mấy ngày. Chuyện nhỏ nhặt thế này thẩm tra cũng phải mất ba tháng, đồng nghĩa với việc Thôi Hiểu sẽ phải ngồi tù ba tháng. Tuy nhiên, Chu Tử Thư đã cố tình dặn riêng các quan Đại Lý tự đẩy vụ án này lên xử lí ngay.

Lúc ra khỏi Đại Lý tự thì Chu Tử Thư chạm mặt Tô Ôn Duẫn.

Thấy Chu Tử Thư, Tô Ôn Duẫn hơi ngạc nhiên, anh ta ngẩng lên nhìn tấm biển nha môn Đại Lý tự, nói: "Bản quan cứ tưởng đi nhầm sang Ngự Sử đài cơ đấy. Giờ mới được chúc mừng Đường đại nhân lên chức Gián nghị đại phu. Lâu rồi mới gặp, trông Đường đại nhân sáng sủa, phởn phơ ra phết."

Giọng Tô Ôn Duẫn sặc mùi mỉa mai châm chích, Chu Tử Thư chẳng biết mình lại đắc tội đức ôn thần chỗ nào.

Cậu nghiêm chỉnh cúi mình hành lễ: "Hạ quan bái kiến Công bộ Hữu thị lang đại nhân."

Tô Ôn Duẫn: "Gió cát ngoài ải thổi rát cả mặt, vừa về Thịnh Kinh bản quan đã thấy thảnh thơi sảng khoái. Đường đại nhân có cảm thấy thế không?"

Chu Tử Thư ngẩng mặt nhìn anh ta, hồi lâu mới đáp: "Hạ quan cũng cảm thấy thế, chẳng biết từ lúc hạ quan đi, tình hình lũ cường đạo gây rối ngoài thành U Châu thế nào rồi."

Tô Ôn Duẫn hếch mày: "Suôn sẻ lắm."

"Hạ quan xin cáo lui." Nói xong, Chu Tử Thư phất tay áo ra về.

Đây là lần đầu tiên họ chạm trán nhau kể từ khi hồi kinh.

Chu Tử Thư về rồi, Tô Ôn Duẫn liền đi giải quyết công việc trước tiên. Phải mấy ngày sau anh ta mới nhớ ra việc Chu Tử Thư đến Đại Lý tự. Anh ta gọi quan viên Đại Lý tự tới, tra hỏi: "Mấy hôm trước Đường Cảnh Tắc đến Đại Lý tự có việc gì?"

Đương nhiên, viên quan ấy tâu bẩm hết những gì mình biết, run rẩy thưa sạch chuyện Thôi Hiểu cho anh ta nghe.

Tô Ôn Duẫn hết sức ngạc nhiên. Suy nghĩ một chốc, anh ta chợt mỉm cười: "Phi kỵ úy phủ Kim Lăng sao? Giải hắn đến đây cho bản quan."

Viên quan kia quẹt mồ hôi trán: "Phạm quan Thôi Hiểu đã bị áp tải sang đại lao bộ Hình rồi ạ."

Tô Ôn Duẫn nhíu mày, đi vòng quanh mấy bước rồi bỗng khựng lại. Dõi mắt nhìn bầu trời xanh thẳm ngoài khung cửa sổ, anh ta nghĩ tới dáng vẻ đối đầu gay gắt của Chu Tử Thư và mình ở Thứ Châu hai năm về trước. Tô Ôn Duẫn cười khẩy, đi sang đại lao bộ Hình. Anh ta gọi quan bộ Hình tới, sai dẫn Thôi Hiểu lên để thẩm vấn. Nào ngờ, viên quan bộ Hình thưa: "Mấy hôm trước Thôi Hiểu đã đâm đầu vào tường, chết trong tù rồi ạ." Tô Ôn Duẫn sững sờ.

Anh ta đã đoán được rằng rất có thể tên Thôi Hiểu từ Kim Lăng này có liên quan đến Chu Tử Thư, thậm chí liên quan đến Lương Tụng – người đã qua đời cách đây năm năm. Không chỉ thế, anh ta còn biết, hồi ấy Lương Tụng từng đi Kim Lăng rất nhiều lần để tìm cách cứu vãn việc của Chung Thái Sinh. Việc này không phải bí mật, Tô Ôn Duẫn là thanh đao đắc lực của hoàng đế, nếu anh ta thật sự muốn ngáng chân Chu Tử Thư thì khi nói chuyện với hoàng đế hai năm về trước, anh ta đã đế thêm mấy câu khiến Triệu Phụ sinh nghi.

Có thể không đến mức trừ khử Chu Tử Thư, nhưng chắc chắn sẽ không tín nhiệm như bây giờ.

Hồi ấy, Tô Ôn Duẫn coi việc đó là ân huệ trả cho Chu Tử Thư, bởi hồi ở Thứ Châu, cậu đã suýt bỏ mạng khi bị anh ta dùng làm mồi nhử. Thật không ngờ, giờ đây Thôi Hiểu tự dưng chết trong tù. Tô Ôn Duẫn trầm ngâm: "Đường Cảnh Tắc mà lại nham hiểm thủ đoạn thế ư?"

Rồi anh ta chợt tỉnh ra ngay, bật cười giễu cợt: "Đường Cảnh Tắc làm quan mới có mấy năm, làm sao mà với tay vào tận bộ Hình được? CungTử Phong ơi là CungTử Phong, ngươi làm sư huynh tử tế quá rồi đấy!" Đương nhiên, chuyện này để sau hẵng nói.

Tạm thời bây giờ Chu Tử Thư còn chưa biết mấy ngày nữa Thôi Hiểu sẽ bỏ mạng trong đại lao bộ Hình.

Đêm Trung thu, Chu Tử Thư cầm lồng bánh sang gặp Cung Tuấn, cậu đã hẹn chàng ngắm Tuấng vào lễ Trung Thu ở phủ Thượng thư.

Đêm rằm tháng Tám, gió thu vi vu mát rười rượi. Cung Tuấn kê một cái bàn nhỏ trong sân, khoảnh sân thơm ngát hương hoa, quyện vào ánh Tuấng chan chứa khiến lòng người vui tươi thanh thản. Chu Tử Thư và Cung Tuấn ngắm Tuấng trong sân. Chu Tử Thư ăn bánh trung thu, uống rượu hoa quả. Vừa nhấp một hớp rượu, cậu đã reo lên: "Rượu này vừa trong, vừa ngọt lại thơm dịu, đậm đà mà không nặng mùi, quả là rượu ngon hiếm có có tìm. Nhà sư huynh có còn không thế?"

Cung Tuấn nâng chén nhìn cậu: "Còn chứ. Tiểu sư đệ thích thì lúc về hãy cầm theo hai vò."

Chu Tử Thư hớn hở: "Vâng."

Kiếp trước Chu Tử Thư không thích uống rượu; kiếp này cậu phải uống, nhưng rượu thời cổ đại hầu như không được ngon, loại thì thiếu đậm đà, loại thì không tinh khiết, phàm những thứ ngon thì đều ở chỗ CungTử Phong cả. Hiếm hoi lắm mới được thưởng thức rượu hảo hạng, Chu Tử Thư hứng chí uống nhiều hơn hẳn ngày thường.

Chu Tử Thư không biết, rượu hoa quả thơm dịu nhẹ nhưng ngấm rất chậm.

Hai người vừa ngắm Tuấng, vừa ngâm thơ, bình rượu. Uống hết hai bầu rượu, Chu Tử Thư bỗng thấy hoa mắt, cậu mơ màng nói với Cung Tuấn: "Đệ say rồi, thấy những hai sư huynh lận."

Cung Tuấn không ngờ Chu Tử Thư lại say nên cũng ngẩn ra. Chàng chưa kịp phản ứng, Chu Tử Thư đã trịnh trọng hô lên: "CungTử Phong!"

Cung Tuấn ngạc nhiên quá đỗi, cũng thấy râm ran trong lòng. Chàng dở khóc dở cười: "Đệ chẳng bao giờ gọi tên tự của ta mà toàn kêu sư huynh, thế mà uống say lại có gan gọi thẳng. Việc này hiếm đấy, hay là gọi vài lần nữa đi?"

Chu Tử Thư dường như hiểu những gì chàng nói, bèn gọi thật vang.

"CungTử Phong..."

"CungTử Phong..."

"CungTử Phong..."

Được nghe cậu gọi tên mình, Cung Tuấn sướng tê cả người, chén đã nâng mà chẳng buồn uống, cứ lim rim mắt ngắm Chu Tử Thư say ngất ngư.

"CungTử Phong."

"Ơi?"

"Huynh nói gì đi."

"... Muốn nghe gì nào?"

Chu Tử Thư đăm chiêu một hồi, bảo: "Huynh hát một bài nhé." Cung Tuấn ngẩn người.

Hát ư?

Chàng dở khóc dở cười: "Ta chẳng hay mình còn có nghề ca hát cơ đấy. Ta giỏi đánh đàn này, tiểu sư đệ muốn nghe đàn không? Khúc Phượng cầu hoàng, khúc Trường tương tư, khúc nào ta cũng thạo."

Chu Tử Thư yên lặng nhìn Cung Tuấn, bỗng cậu nói: "Đệ chóng mặt quá, đệ muốn đi ngủ."

Cung Tuấn nhíu mày, chàng chưa kịp nói lời nào, Chu Tử Thư chợt kêu lên "Ôi đệ ngất đây", rồi gục đầu xuống ngủ khò khò mà chẳng hề báo trước. Mãi một lúc sau Cung Tuấn mới hồi thần. Chàng vừa buồn cười vừa bó tay với cậu, bèn kêu thư đồng tới, sai dẫn Chu Tử Thư đi ngủ.

Thư đồng xốc Chu Tử Thư lên, mới đi được hai bước, Cung Tuấn đã gọi cậu ta lại.

Thư đồng dừng bước, thắc mắc nhìn công tử nhà mình.

Cung Tuấn ngắm nghía một lát, bảo: "Để ta cõng em ấy."

Cậu thư đồng hơi ngạc nhiên, rồi cũng đỡ Chu Tử Thư ngả lên lưng Cung Tuấn. Cung Tuấn nắm hai cánh tay Chu Tử Thư choàng quanh cổ mình. Chàng đứng dậy, cõng Chu Tử Thư đang ngoan ngoãn nằm úp sấp trên lưng mình, thong thả đi về phòng cho khách. Khi đến chỗ rẽ trước viện của mình và phòng cho khách, chàng dừng lại một thoáng, cuối cùng vẫn rẽ vào phòng khách, thu xếp cho Chu Tử Thư ngủ bên đó.

Chu Tử Thư quả thật đã say đến bất tỉnh nhân sự.

Cung Tuấn đứng bên mé giường, cúi đầu nhìn cậu thật là lâu. Cuối cùng, chàng mới thò tay véo nhẹ má cậu.

"Gọi CungTử Phong lần nữa xem nào?"

Đáp lại chàng là tiếng thở đều đều của Chu Tử Thư.

Cung Tuấn nhéo má Chu Tử Thư một lát rồi ra khỏi phòng khách, bởi quản gia có việc bẩm báo cho chàng. Song chàng không ngờ rằng mình vừa đi về được một lúc, Chu Tử Thư bỗng choàng tỉnh. Cậu hẵng còn hoa mắt, mặt mũi còn đỏ phừng phừng vì say rượu. Nhưng trong lúc mơ màng, Chu Tử Thư bỗng thấy đầu óc tỉnh táo.

Cậu sờ lên má mình, đó là chỗ Cung Tuấn mới nhéo hồi nãy.

Lòng Chu Tử Thư rối như tơ vò, không thể nào bình tĩnh được. Hễ nhắm mắt, cậu lại thấy Cung Tuấn nâng chén rượu ngắm nhìn mình. Dưới ánh Tuấng, chàng như hóa thành tiên chứ chẳng còn mang lốt phàm. Song, tình cảm nồng nàn sâu lắng trong đôi mắt Cung Tuấn khiến trái tim Chu Tử Thư run rẩy.

Khi cậu gọi "CungTử Phong" lần thứ nhất thì đúng là bạo vì men say, vừa thốt lên, chính bản thân cậu cũng ngây ngẩn. Cậu cứ ngu ngơ mà gọi "CungTử Phong" mấy bận, nhưng càng lúc cậu càng tỉnh táo hơn. Cậu nghĩ mình không thể thất kính với Cung Tuấn thế vì sẽ làm mích lòng chàng, nào ngờ Cung Tuấn lại nghe đến mê mẩn.

Sự tình cứ chầm chậm thành ra vậy.

Chu Tử Thư nhắm đôi hàng mi, quẩn quanh bên tai cậu là chất giọng trìu mến, êm dịu của Cung Tuấn.

Rồi hốt nhiên, câu nói của Tô Ôn Duẫn bật ra trong đầu cậu.

"Bởi CungTử Phong ham thích Long Dương! "

Câu buộc tội ấy nổ đùng đùng như sấm đánh ngang tai Chu Tử Thư.

Ngày đó, ở phủ nha U Châu, Tô Ôn Duẫn bị cậu thuyết phục đến nỗi tưởng mình hiểu lầm Cung Tuấn, nhưng trong tim Chu Tử Thư cũng có một hạt mầm được gieo xuống. Hạt mầm đó từ từ mọc rễ đâm chồi, để giờ đây khi bàn tay chàng lướt trên gò má cậu, Chu Tử Thư cảm thấy làn da mình rạo rực dưới những ngón tay chàng. Cảm giác nóng bỏng đấy là thứ cậu không thể kiềm chế được, nó khiến trái tim cậu đập rối rít trong lồng ngực, nó khiến lòng cậu dâng trào thứ cảm xúc cậu không tài nào cắt nghĩa.

"CungTử Phong..." Cậu nhẩm tên chàng, giọng hơi khan.

Ở đầu này, Chu Tử Thư suy nghĩ miên man trong men say, cậu thực sự không hiểu nổi CungTử Phong.

Ở đầu kia, Cung Tuấn đã về đến thư phòng. Áo chàng còn Cunghơi rượu của Chu Tử Thư, chàng bèn đổi sang bộ bào gấm màu trắng, làm vơi đi chất "đời" của một người từng trải chốn quan trường, tăng thêm khí phách của chàng công tử thế gia. Vào phòng, thấy người vừa có mặt, Cung Tuấn không hề tỏ ra kinh ngạc mà chỉ hỏi: "Tra xét thế nào rồi?"

"Bẩm công tử, tiểu nhân về Kim Lăng mấy tháng, quả thực đã phát hiện một số việc."

"Vậy thì bẩm báo hết đi."

Đúng, đây chính là người hầu cận mà Cung Tuấn phái về Kim Lăng mấy tháng trước.

Phủ Kim Lăng vốn là đại bản doanh của Lang Gia Cungthị, cơn gió nào thổi, ngọn cỏ nào lay, chỉ cần Cung Tuấn muốn biết, chàng sẽ điều tra được bằng hết. Có điều năm năm trước, lúc sang Kim Lăng, Lương Tụng hành động cực kì kín kẽ, vậy nên Cung Tuấn tốn khá nhiều công sức mới nắm được chân tướng sự việc. Nghe người hầu cận trình bày tường tận những gì tra xét được, Cung Tuấn ngồi im lìm không biết bao nhiêu lâu. Thái độ của chàng bình tĩnh đến lạ thường, chàng không thốt lên một câu nào cả.

Sau khi tâu trình hết, người hầu cận lại nói thêm: "Còn một việc nữa thưa công tử."

Cung Tuấn không hề lên tiếng.

Người hầu cận ngẩng đầu: "Đại công tử?" Theo bản năng, anh ta gọi luôn vai vế của Cung Tuấn ở nhà họ Vương.

Cung Tuấn hồi thần, hỏi: "Việc gì?"

Người hầu cận cung kính thưa: "Mấy hôm trước, đúng lúc đang rời Kim

Lăng, tiểu nhân tình cờ gặp một người trên đường. Người đó chính là Diêu Tam – thuộc hạ của Đường công tử. Tiểu nhân đã từng gặp Diêu Tam lúc anh ta đi theo Đường công tử nên sinh nghi, bèn nán lại thêm vài ngày để dò la xem Diêu Tam đến phủ Kim Lăng có việc gì." Người hầu cận này theo Cung Tuấn từ nhỏ. Khi làm việc cho Cung Tuấn, có nhiều chuyện Cung Tuấn không cần dặn anh ta cũng xử lí đâu ra đấy nên rất được lòng chàng. Nếu không vì thế, chàng cũng không phái anh ta về Kim Lăng.

Người hầu cận nói: "Diêu Tam đến phủ Kim Lăng để tìm hiểu về một tên Phi kỵ úy là Thôi Hiểu. Điều tra một hồi thì phát hiện ra tên Thôi Hiểu ấy cực kì tham lam, có vẻ như đã bị tố giác. Nửa tháng trước, y đã rời Kim Lăng để lên Thịnh Kinh."

Cung Tuấn bỗng đánh hơi ra sự bất thường: "Ngươi bảo hắn đến Thịnh Kinh từ cách đây nửa tháng ư?"

"Vâng, tiểu nhân đã dựa vào quan hệ của nhà họ Cungđể dò la ngay tại phủ nha Kim Lăng."

Cung Tuấn đứng dậy đi lại trong thư phòng, đoạn chàng dừng bước, xoay người hỏi: "Diêu Tam có thấy ngươi không?"

"Không hề ạ. Hơn nữa Diêu Tam cũng không biết mặt tiểu nhân."

Cung Tuấn thở dài: "Ta biết rồi, ngươi lui đi."

"Vâng."

Sáng sớm hôm sau, Chu Tử Thư vờ như mình đã say khướt thật, xấu hổ nói với Cung Tuấn: "Đêm qua đệ quá chén, không biết đã làm những gì, tỉnh lại đã thấy mình ở phòng khách. Đệ chưa bao giờ quá chén, cũng không biết lúc say mình như thế nào. Liệu đệ có nói hay làm điều chi mạo phạm đến sư huynh không?"

Cung Tuấn vốn chẳng để bụng chuyện tối qua vì chàng nghĩ Chu Tử Thư say thật. Nào ngờ Chu Tử Thư lại hỏi cái kiểu giấu đầu hở đuôi thế, thành ra chàng lại sinh nghi. Cung Tuấn nhìn Chu Tử Thư chăm chú một hồi, mỉm cười đáp: "Chưa hề."

Chu Tử Thư thở phào nhẹ nhõm: "Thế thì may quá."

Chu Tử Thư đi rồi, Cung Tuấn liền gọi người hầu vào hỏi xem sau khi ngủ dậy Chu Tử Thư hành xử ra sao. Tiếc là chỉ với chút thông tin ít ỏi đấy, Cung Tuấn không thể suy luận được rằng Chu Tử Thư có giả vờ say hay không.

Cung Tuấn không để bụng, chỉ nhẹ nhàng cười: "Nếu giả say thì cũng không tệ."

Chuyện Thôi Hiểu ở kinh thành, Cung Tuấn liền bắt đầu điều tra. Mặt khác, sau buổi chầu, Triệu Phụ gọi ba hoàng tử đến điện Thùy Củng.

Ánh mặt trời trong veo rọi qua cửa sổ lưu ly, điện Thùy Củng vắng vẻ thấm đẫm mùi long diên hương. Triệu Phụ lật từng trang tấu trên bàn, nói: "Trẫm ở ngôi ba mươi mốt năm nay, không có nhiều con trai nối dõi, giờ chỉ còn lại các con. Gần đây các con đã bắt đầu giúp việc triều chính, lễ minh thọ của Thái hậu các con lo liệu rất chu đáo, trẫm hết sức hài lòng. Đêm qua trẫm suy nghĩ rất lâu, ngẫm rằng cứ giữ các con ở gần trẫm mãi cũng không hay. Kể từ hôm nay, các con hãy rời Thịnh Kinh mà bắt tay vào những công việc thực thụ!"

Ba hoàng tử đồng loạt sững người.

||

------oOo------

Chương 118

Nguồn: EbookTruyen.Net

Tình cảm thắm thiết

Ba mươi mốt năm ở ngôi, Triệu Phụ chẳng ngó ngàng gì đến các hoàng tử. Giờ hiếm hoi lắm họ mới được ban cơ hội tham dự triều chính thì chưa đầy một tháng, ông ta đã đuổi họ đi tuốt khỏi Thịnh Kinh.

Tin tức này khiến cả triều đình choáng ngợp.

Ba hoàng tử hoàn toàn không rõ mình phạm lỗi gì, luống cuống, loay hoay không biết làm sao. Chẳng riêng gì họ mà ngay cả giới quyền thần trong triều cũng hết sức ngạc nhiên và khó hiểu.

Trong lúc bàn bạc, phụ tá của Tả tướng Kỷ Ông Tập – tức Trung thư thị lang Kỳ Trạch bày tỏ băn khoăn: "Nếu muốn xa lánh các hoàng tử thì sau lễ minh thọ, bệ hạ chỉ cần ngừng giao việc cho bọn họ là được. Vì sao bệ hạ phải làm mọi việc phức tạp, rối rắm lên thế?"

Kỷ Ông Tập đang uống một một loại trà rẻ tiền, ông cau mày đăm chiêu, bản thân ông cũng không thấu được toan tính vô cùng kín kẽ của Triệu Phụ. Kỳ Trạch nói: "Kỷ tướng, phải chăng bệ hạ có ý định khác?"

Kỷ Ông Tập đặt chén trà lên bàn, thở dài thườn thượt: "Những năm gần đây, thánh thượng càng lúc càng thay đổi, lão phu dần dần không hiểu ngài nữa rồi!"

Bên kia, CungThuyên và Cung Tuấn cũng đang thảo luận chuyện hoàng đế xua các hoàng tử đi xa khỏi Thịnh Kinh. Hai ông cháu thương thảo hồi lâu mà vẫn không đi tới kết luận. Gương mặt tuấn tú của Cung Tuấn thường ngày ung dung, thanh nhã là thế, vậy mà giờ đây nét mặt chàng đầy ắp nỗi hoài nghi. Chàng đã ngẫm nghĩ rất lâu mà chưa nắm bắt được mấu chốt vấn đề.

Cung Tuấn không suy luận vô căn cứ. Những năm gần đây chàng là sủng thần của hoàng đế, đương nhiên chàng có đường lối của riêng mình.

Nhưng nước đi quá đột ngột của hoàng đế khiến không một ai kịp trở tay. Bất cứ ai cũng không giải thích được suy nghĩ của hoàng đế Đại Tống.

Thế mà Hữu tướng CungThuyên lại rất vô tư: "Ta cảm thấy, câu lần trước Tử Phong nói đúng ra phết."

Cung Tuấn ngẩng đầu nhìn CungThuyên.

Vị Hữu tướng quắc thước đang thưởng thức trà Bích Loa Xuân thượng hạng một cách hết sức thảnh thơi. Ông mỉm cười: "Bệ hạ của chúng ta trị vì hơn ba mươi năm, đã làm gì sai bao giờ đâu?"

Cung Tuấn trầm ngâm một hồi, cười hỏi: "Thúc tổ muốn Phong nói thật ư?"

CungThuyên lúng túng: "Ta chỉ nói thế thôi, Tử Phong chớ có so đo tính toán."

Triệu Phụ không phải một minh quân hoàn hảo, thậm chí có thể nói ông ta không phải minh quân, bởi những việc ông ta làm phần lớn là vì lợi ích cá nhân, phục vụ khát khao lưu danh thiên cổ. Chính vì thế, trong hai mươi năm đầu đăng cơ, ông ta đã phạm phải nhiều sai lầm dẫn đến sự bất ổn trong cục diện chính trị và cuộc đại chiến với nước Liêu, khiến dân chúng lầm than cơ cực. Nhưng mười năm gần đây, Triệu Phụ cai trị giang sơn càng ngày càng nhuần nhuyễn, ông ta thao túng các quần thần dễ như bỡn, khiến họ kiềm chế lẫn nhau, cùng mưu nghiệp lớn để Đại Tống được hưởng thái bình thịnh thế.

Cung Tuấn: "Phong không dám."

CungThuyên bỗng thở dài: "Nếu quả thực trong thời khắc sống còn Thánh thượng đã tỉnh ngộ triệt để, tính tình thay đổi hoàn toàn, vậy thì chúng ta không còn cách nào xoay chuyển tình thế nữa. Điều duy nhất chúng ta có thể làm là chuẩn bị mọi thứ chu toàn nhất có thể, gìn giữ kỉ cương triều đình. Nhưng bệ hạ của chúng ta có phải người dễ dàng thay đổi vì tác động bên ngoài không? Có thể những năm gần đây, con thân cận với bệ hạ hơn lão phu, hiểu rõ tâm ý của ngài hơn. Nhưng mối tương tri giữa vua tôi của ta và thánh thượng đã được vun đắp hơn ba mươi năm nay. Ta chỉ nhắc lại những gì Tử Phong từng nói, tin tưởng bệ hạ, thế là đủ rồi!"

Một ý tưởng lóe lên, Cung Tuấn đã hiểu suy nghĩ sâu xa của Vương

Thuyên. Chàng lập tức cúi mình hành lễ: "Phong tạ ơn thúc tổ chỉ giáo!"

Sau khi mật mưu với CungThuyên, Cung Tuấn lên xe ngựa về phủ Thượng thư. Chàng vừa về đến nhà và sai người hầu thay quan bào xong thì đầy tớ vào báo có Lang trung bộ Hình đến bái phỏng. Người này chính là quân cờ Cung Tuấn gài vào bộ Hình.

Lang trung bộ Hình Cao Phùng Đức gặp Cung Tuấn trong phòng, nói thẳng: "Hạ quan đã tìm được người mà Thượng thư đại nhân muốn tìm. Kẻ ấy hiện đang ở đại lao bộ Hình."

Cung Tuấn kinh ngạc: "Việc thẩm tra xét tội phạm quan, xưa nay vẫn do Đại Lý tự phụ trách kia mà." Đây cũng là lí do mấy hôm nay chàng dồn nhiều tâm sức vào Đại Lý tự. Tô Ôn Duẫn đã về kinh, muốn tránh tai mắt anh ta để dò la tung tích một người không hề đơn giản.

Cao Phùng Đức giải thích: "Quả thực là vậy, chỉ có điều án kiện của người này đã được thẩm tra và kết án, nên mới bị giải đến đại lao bộ Hình."

"Nhanh thế cơ à?" Vừa dứt lời, Cung Tuấn hơi sửng sốt, chàng hỏi Cao

Phùng Đức: "Đường Cảnh Tắc – Đường đại nhân có tác động vào không?"

"Có."

Câu trả lời này là quá đủ để Cung Tuấn hiểu ra chân tướng. Một phạm quan lặn lội từ phủ Kim Lăng đến Thịnh Kinh, Chu Tử Thư cố ý sai người đến Kim Lăng dò la tin tức, còn nhúng tay vào án kiện để tống kẻ này vào đại lao bộ Hình. Cung Tuấn thở dài thườn thượt, xúc động: "Đệ ấy vẫn nhân từ mà nương tay."

Vì trẻ tuổi và cũng vì non nớt.

Nhưng CungTử Phong chợt nghĩ: Nếu Chu Tử Thư còn trẻ thế mà đã nham hiểm độc ác, diệt cỏ tận gốc, thì làm gì có chuyện mình phải lòng em ấy?

Thôi thôi, cái việc "không từ thủ đoạn" cứ để chàng đây gánh vác vậy.

Vì thế, vầng Tuấng sáng giữa bầu trời quang, người sư huynh thân thương, đức độ vô ngần trong lòng Chu Tử Thư gạt nhẹ nắp chén trà, dửng dưng nói: "Bộ Hình gần đây phải giam giữ rất nhiều nghi phạm, chi phí tăng cao. Quốc khố hơi eo hẹp vì hao hụt nhiều sau cuộc chiến ác liệt với nước Liêu năm ngoái, khó mà đáp ứng được. Bộ Hình cũng thuộc Lục bộ, có trách nhiệm san sẻ mối lo với bệ hạ, suy nghĩ cho chúng sinh. Cao đại nhân thấy sao?"

Cao Phùng Đức đã giúp Cung Tuấn làm biết bao nhiêu việc đen tối. Cùng phe cánh với nhau, họ không coi đó là đáng hổ thẹn mà còn lấy làm vẻ vang.

Cao Phùng Đức răm rắp nghe lệnh, nghiêm túc đáp: "Hạ quan rõ rồi."

Đang đêm, trong đại lao bộ Hình, một nghi phạm vì quá sợ tội đã đập đầu vào tường tự tử.

Cái chết của một Phi kỵ úy nhỏ nhoi phủ Kim Lăng chỉ như hạt muối giữa bể kinh thành mênh mông, không đáng để thông báo cho bất cứ ai hết.

Sau khi ra lệnh cho ba hoàng tử rời kinh, chỉ mấy ngày sau, Triệu Phụ hạ chỉ giao việc cho riêng từng người.

Nếu quả thực Triệu Phụ muốn xa lánh các hoàng tử, ông ta chỉ cần đày họ đến phương xa thôi, nhưng ông ta không làm thế. Mỗi hoàng tử có một nhiệm vụ riêng song nhiệm vụ nào cũng đầy hứa hẹn. Chỉ cần hoàn thành tốt, sự tăng tiến về địa vị là điều không cần phải lo ngại.

Chu Tử Thư đang ở chơi nhà Cung Tuấn, cậu hỏi Cung Tuấn: "Sư huynh có hiểu ẩn ý của bệ hạ không?"

Cung Tuấn đang pha trà cho cậu, từng cử chỉ toát lên phong độ của một bậc thầy. Chàng đẩy chén trà tới trước mặt Chu Tử Thư, thản nhiên nói: "Chẳng phải sư huynh đệ mình đang thưởng thức thư pháp tiên sinh viết hôm qua hay sao? Tự nhiên lại nói chuyện triều đình là thế nào?"

Chu Tử Thư ngẩn người, nhận chén trà: "Dạ."

Lòng lại chắc mẩm: CungTử Phong ơi là CungTử Phong, chứng tỏ huynh cũng chẳng hiểu gì rồi!

Tuy Cung Tuấn không đoán được ý đồ của Triệu Phụ, nhưng thái độ của chàng vẫn ung dung, tự tin như mọi khi. Ở chàng luôn toát lên vẻ quyền lực của người nắm gọn thế cục trong lòng bàn tay, không mảy may hoảng loạn. Chu Tử Thư vừa thưởng thức trà vừa quan sát chàng, nhưng tuyệt nhiên không nhìn ra kẽ hở. Cậu vừa tiếc nuối vừa hâm mộ, sư huynh nhà mình quả nhiên hơn xa người phàm.

Hạ tuần tháng Tám, ba hoàng tử sẽ phải rời kinh.

Thế tử Cảnh CungTriệu Quỳnh mở tiệc thết đãi Chu Tử Thư ở lầu Thiên Lý, lúc mời còn ám chỉ với cậu rằng sẽ có người khác đến dự yến. Chu Tử Thư ngầm hiểu, cậu suy nghĩ kĩ càng, quyết định dự tiệc.

Khi Chu Tử Thư đến lầu Thiên Lý, cậu và Triệu Quỳnh đợi một hồi, quản lí liền dẫn đường cho Nhị hoàng tử Triệu Thượng vào nhã gian.

Triệu Quỳnh lập tức đứng lên, nói với Chu Tử Thư: "Lần này đã giấu Cảnh Tắc rồi, kì thực ta còn mời cả Nhị điện hạ. Có điều ngươi cũng biết, hiện giờ tình hình trong triều hết sức xáo trộn, Nhị điện hạ không dám tùy tiện gặp thần tử, thành thử ta buộc lòng phải mượn danh nghĩa huynh đệ mời ngài dự tiệc. Hôm nay là gia yến, không bàn chính sự."

Chu Tử Thư cũng đứng dậy ngay, nghênh tiếp Triệu Thượng cùng với Triệu Quỳnh: "Hạ quan hiểu tấm lòng của thế tử điện hạ." Triệu Thượng được hai người mời vào phòng.

Triệu Quỳnh hành lễ: "Triệu Quỳnh bái kiến Nhị điện hạ."

Triệu Thượng cười: "Anh em một nhà, sao mà khách sáo thế? Hôm nay là gia yến, không có Nhị điện hạ ở đây đâu." Nói đoạn, anh ta nhìn về phía Chu Tử Thư: "Vị này là Đường Cảnh Tắc – Đường đại nhân phải không?"

Chu Tử Thư: "Hạ quan Chu Tử Thư bái kiến Nhị điện hạ."

"Đã bảo là không có Nhị điện hạ rồi mà, Đường đại nhân mau ngồi đi." Triệu Thượng ân cần vô kể, anh ta nói: "Ta với Đường đại nhân từng có duyên gặp gỡ từ trước kia. Năm ngoái khi sứ nước Liêu đến kinh thành, Đường đại nhân là một trong những quan viên đón sứ thần, tiếc là khi ấy ta chưa có dịp trò chuyện với Đường đại nhân. Ngươi thấy đấy, lỡ một dịp là trễ tràng đến tận bây giờ."

Nói một thôi một hồi coi như bắt xong mối quan hệ với Chu Tử Thư, ba người cùng ngồi xuống bàn ăn tiệc.

Triệu Thượng: "Hôm qua ta nhận được chỉ lệnh, sắp tới ta sẽ đến phủ Cô Tô, giữ chức Phòng Ngự sứ Cô Tô."

Chu Tử Thư chợt khựng lại.

Triệu Thượng: "Hình như phủ Cô Tô là quê nhà của Đường đại nhân nhỉ?"

"Đúng ạ."

"Vậy phải phiền Đường đại nhân chiếu cố thêm rồi."

Chu Tử Thư lập tức buông đũa, đứng dậy hành lễ: "Hạ quan không dám." Ba người trò chuyện rất cởi mở, đến khi trời tối mới tan cuộc.

Làm sao Chu Tử Thư không hiểu dụng ý của Triệu Thượng cho được?

Nếu không có duyên cớ, Triệu Quỳnh không đời nào mời Chu Tử Thư rồi còn cố ý mới Triệu Thượng để kết nối hai người với nhau. Có bữa tiệc hôm nay là vì Triệu Thượng có lời mời Triệu Quỳnh trước, nhờ anh ta mở tiệc để móc nối quan hệ với Chu Tử Thư.

"Mình cứ tưởng anh ta muốn mượn sức mình, hay thậm chí là mượn sức sư huynh, nhưng giờ xem ra, chuyện này dễ liên quan đến cái chức Phòng ngự sứ Cô Tô đây."

Song, Chu Tử Thư vốn rất trung thành với phe Hoàng đảng. Trong buổi tiệc, Triệu Thượng nói bóng gió nhiều lần liền, nhưng cậu đều khéo léo né tránh, coi như không nghe thấy.

Nhị hoàng tử làm sao đáng tin cậy bằng sư huynh nhà mình!

Sang tháng chín, trời lúc nóng lúc lạnh, ba hoàng tử cũng rời kinh thành.

Vào thu, chứng đầu phong của Triệu Phụ đột nhiên tái phát khiến ông ta phải nghỉ triều suốt mười ngày. Ba hoàng tử vừa rời kinh, Triệu Phụ đã phát bệnh đột ngột. Cả triều đình đâm xôn xao bàn bạc, ai nấy đều bồn chồn không yên. May mà đến trung tuần tháng chín thì Triệu Phụ tỉnh táo lại. Ông ta uể oải nằm trên giường nghe quần thần báo cáo việc triều chính.

Là Gián nghị đại phu kiêm Hữu Phó ngự sử ty Ngân Dẫn, Chu Tử Thư mang tấu chương đến gặp Triệu Phụ. Triệu Phụ cho tất cả lui hết, hỏi: "Việc nước Liêu đến đâu rồi?"

Chu Tử Thư bẩm báo tỉ mỉ từ đầu đến cuối.

Triệu Phụ tỏ ra rất hài lòng: "Hay lắm. Cảnh Tắc luôn hiểu nỗi lòng trẫm, không khiến trẫm lo lắng bao giờ."

Chu Tử Thư kinh sợ: "Thần phụng sự bệ hạ, dầu thịt nát xương tan cũng chẳng quản, đến chết mới thôi."

Triệu Phụ mỉm cười, ông ta bảo Quý Phúc bưng đĩa điểm tâm dành cho hoàng đế ban cho Chu Tử Thư. Chu Tử Thư nhận đĩa đặc sản điểm tâm Giang Nam, kính cẩn rời khỏi điện Thùy Củng. Không ngờ, lúc rời cung, cậu gặp phải Tô Ôn Duẫn. Hai người chạm trán trước cổng cung, cùng dừng bước.

Chu Tử Thư biết, ngoài miệng Triệu Phụ khen cậu làm tốt lắm, nhưng ông ta không đời nào chỉ nghe mọi chuyện từ phía cậu. Giờ Tô Ôn Duẫn có mặt ở đây hẳn cũng để báo cáo tình hình U Châu.

Chu Tử Thư thờ ơ nói: "Hạ quan bái kiến Công bộ Hữu thị lang."

Tô Ôn Duẫn: "Đường đại nhân, lâu lắm rồi mới gặp, ngươi vẫn khỏe chứ?"

Chu Tử Thư: "Đa tạ đại nhân đã quan tâm, hạ quan vẫn khỏe."

Chuyện không hợp giọng nửa câu nhiều, hai người khách sáo cho có lệ rồi đường ai nấy đi. Tô Ôn Duẫn nhìn đĩa ngự thiện trên tay Chu Tử Thư một thoáng, đi mấy bước rồi chợt dừng lại. Vẻ ranh mãnh lóe lên trên gương mặt diễm lệ, Tô Ôn Duẫn ngoái đầu lại gọi Chu Tử Thư: "Đường đại nhân."

Chu Tử Thư dừng bước, quay lại nhìn anh ta.

Giọng Tô Ôn Duẫn đầy mỉa mai: "Năm nay Đường đại nhân làm lễ đội mũ rồi phải không nhỉ?"

Chu Tử Thư không rõ anh ta có ý gì: "Vâng."

"Hóa ra là cập quan rồi à?" Tô Ôn Duẫn làm bộ ngạc nhiên ghê gớm. Anh ta xuýt xoa: "Không ngờ Đường đại nhân đã trưởng thành mà vẫn cư xử hệt như đứa trẻ, làm việc gì cũng phải để người lớn dọn dẹp cho. Lần trước ở U Châu ngươi trách móc ta, bảo ta hiểu lầm, làm ta suýt thì bị ngươi qua mặt. Giờ xem ra, chẳng giấu đầu hở đuôi đấy thì gì? Tình cảm thắm thiết giữa hai người các ngươi, Phỉ Nhiên đây chẳng tài nào đua theo kịp."

Thấy nét mặt sững sờ của Chu Tử Thư, Tô Ôn Duẫn hả hê lắm. Anh ta cười phá lên rồi sải bước bỏ đi.

Câu nói của anh ta như sấm sét giáng bên tai Chu Tử Thư. Đầu cậu ong ong.

Chu Tử Thư hiểu loáng thoáng ý Tô Ôn Duẫn, nhưng cậu hoàn toàn không hiểu tại sao bỗng dưng Tô Ôn Duẫn lại nói xấu CungTử Phong. Chưa kể, chuyện Cung Tuấn "dọn dẹp" cho cậu là sao? Cậu đã làm gì mà cần Cung Tuấn "dọn dẹp"? Nếu quả thật có chuyện này thì tại sao Cung Tuấn không nói cho cậu biết, để Tô Ôn Duẫn được dịp chõ vào?

Chu Tử Thư về nhà vắt óc suy nghĩ, bỗng cậu sực tỉnh, trợn tròn mắt.

"... CungTử Phong!"

||Chú thích

Đây là vế sau trong câu "Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu, thoại bất đầu cơ bán cú đa." Dịch bởi: Tố Hinh.

Vọng trần mạc cập (chỉ thấy bụi mà chẳng đuổi kịp nổi). Xuất phát từ sách Trang Tử. Cách nói khiêm nhường để thể hiện sự thua kém về trình độ. Nói kiểu hiện đại là "hít khói".

------oOo------

Chương 119

Nguồn: EbookTruyen.Net

Hoa dung nguyệt mạo

Chu Tử Thư đến bộ Hình, tìm ngay viên quan đang trực.

Người trực bộ Hình tối nay là một viên Chiêm sự Lang trung hàm lục phẩm. Thấy Chu Tử Thư, viên quan ấy lập tức hành lễ, đoạn gọi sai nha đến, sai đi tìm Phi kỵ úy phủ Kim Lăng Thôi Hiểu vừa bị hạ ngục cách đây mấy ngày. Sai nha vâng lệnh, khẩn trương vào nhà lao kiếm người, nhưng chỉ chốc lát, hắn đã chạy về thưa: "Bẩm đại nhân, mấy hôm trước Thôi Hiểu đã đập đầu vào tường chết rồi."

Chiêm sự Lang trung sửng sốt: "Ta nhớ rồi! Thì ra phạm quan chết cách đây mấy hôm chính là Thôi Hiểu." Người ấy hết sức hổ thẹn, nói với Chu Tử Thư: "Đại nhân đến trễ quá, Thôi Hiểu đã bỏ mạng mất rồi. Đại nhân không biết đấy thôi, chuyện phạm quan tự tử trong đại lao bộ Hình tuy không phổ biến nhưng cũng không hiếm gặp. Hầu hết các phạm quan đều quen sống trong nhung lụa, vào tù làm sao chịu được khổ sở? Thế nên thỉnh thoảng cũng có người tự kết liễu tính mạng luôn."

Chu Tử Thư giật thót, phong ba ầm ầm trong dạ, nhưng ngoài mặt cậu vẫn bình tĩnh hết sức có thể. Cậu thờ ơ: "Thì ra là thế, nếu Thôi Hiểu đã chết, bản quan cũng khỏi phải để ý đến hắn ta. Triệu đại nhân không cần tiễn, cáo từ."

"Vâng."

Chiêm sự Lang trung đích thân tiễn Chu Tử Thư ra cổng chính nha môn bộ Hình, Chu Tử Thư ngồi lên kiệu, mành kiệu vừa buông, cậu đã mím chặt môi, ngón tay run bần bật.

Thôi Hiểu chết rồi.

Không ngờ Thôi Hiểu chết thật rồi!

Mười mấy ngày trước, Chu Tử Thư đích thân giải hắn đến đại lao bộ Hình, thế mà chưa được nửa tháng hắn đã chết trong ngục.

Chuyện quan lại không chịu nổi đày đọa trong tù mà tự sát có thể là thật, nhưng lí nào lại trùng hợp đến thế?

Từ trước đến giờ Chu Tử Thư vẫn biết, chỉ có miệng người chết mới ngậm chặt. Rất nhiều người biết Chu Tử Thư từng là học trò của Lương Tụng, ngay cả Triệu Phụ có khi cũng đã biết, nhưng Thôi Hiểu biết đến đâu, Chu Tử Thư không hề nắm được. Cậu không tin tưởng Thôi Hiểu nên mới tống hắn vào đại lao bộ Hình hòng loại bỏ hắn đi. Không phải Chu Tử Thư không muốn ngầm giết Thôi Hiểu, nhưng có hai vấn đề. Thứ nhất, cậu không có quá nhiều ảnh hưởng ở bộ Hình, khó lòng làm việc; thứ hai, cậu không nỡ ra tay.

Án tham ô của Thôi Hiểu đã được Đại Lý tự thẩm tra, chuyển sang cho bộ Hình kết án.

Tội của hắn ta không đáng chết.

Nhưng giờ hắn ta chết thật rồi.

Trong màn đêm, chiếc kiệu sẫm màu được rước đi chầm chậm trên phố lớn

Chính Dương Môn, hướng về phía đông thành. Phu kiệu đi đến cầu Tô

Phường thì có tiếng ra lệnh trầm thấp phát ra từ trong kiệu: "Đến phủ

Thượng thư bộ Hộ."

Phu kiệu hơi ngạc nhiên, đáp: "Vâng."

May mà phủ Thám hoa và phủ Thượng thư khá gần nhau và cũng tiện đường. Các phu kiệu chuyển hướng, khênh cỗ kiệu đến phủ Thượng thư. Mới đi được nửa dặm, Chu Tử Thư lại vén mành kiệu lên bảo: "Ra phố lớn Tiền Môn, ghé Quan Chỉ trai."

Phu kiệu đành đổi hướng đi tới Quan Chỉ trai.

Chu Tử Thư vào Quan Chỉ trai xong rồi mới đến phủ Thượng thư.

Quản gia phủ Thượng thư không ngờ tối nay Chu Tử Thư sẽ đến, nhưng vì Chu Tử Thư thường xuyên đến gặp Cung Tuấn nên quản gia không lấy làm lạ. Ông ta dẫn Chu Tử Thư vào phủ, nói: "Đường công tử tới đúng lúc quá, công tử có nhà, đang dùng bữa." Quản gia liếc nhìn chiếc hộp gỗ trên tay Chu Tử Thư một cái.

Cung Tuấn đã nghe người hầu báo rằng Chu Tử Thư đến, chàng gác đũa, miệng cười tủm tỉm, ngồi đợi cậu ở bàn ăn.

Thấy Chu Tử Thư còn mang theo chiếc hộp, một bên mày của Cung Tuấn khẽ nhếch lên. Chàng hỏi: "Trong hộp của tiểu sư đệ có gì đấy?"

Chu Tử Thư đưa hộp gỗ cho quản gia: "Sư huynh thử đoán xem." Cậu quay sang bảo quản gia: "Phiền quản gia giữ hộ ta chiếc hộp này trước."

Cung Tuấn sai người lấy thêm đũa cho Chu Tử Thư, lại dặn dò nhà bếp: "Nấu thêm món cá giấm Tây Hồ1 và viên chiên chay." Bấy giờ chàng mới quay sang hỏi Chu Tử Thư: "Nếu không mở ra ở đây, xem ra thứ trong hộp không phải thức ăn rồi. Theo trí nhớ của mình, ta chẳng bao giờ đoán mò, cũng không làm việc gì vô nghĩa. Tiểu sư đệ à, nếu ta đoán đúng, đệ có thưởng gì không?"

[1] Cá chép sốt giấm đen, đặc sản Chiết Giang

Chu Tử Thư: "..."

Ngài còn muốn thưởng nữa à?

Tựa như nghe được nỗi oán thầm của Chu Tử Thư, Cung Tuấn cười nhẹ: "Lẽ nào ta đã tạo ấn tượng cho tiểu sư đệ là một người sai gì làm nấy, tùy tiện hứa hẹn, suy đoán hay sao?"

Cực chẳng đã, Chu Tử Thư nói: "Thế sư huynh muốn thưởng gì nào?"

Giờ đến lượt Cung Tuấn vấp phải câu hỏi hóc búa, chàng nói: "Tạm thời cứ gửi phần thưởng ở chỗ tiểu sư đệ đã nhé." Cung Tuấn trầm ngâm một lúc, đoán: "Tiểu sư đệ cầm vật này suốt trên đường, đến lúc ngồi vào bàn ăn thì giao cho quản gia, hẳn đây là vật quý giá, cần được nâng niu." Quản gia nghe thế thì càng cẩn thận với cái hộp hơn.

Cung Tuấn cười nói: "Hôm qua đến phủ Thượng thư không thấy tiểu sư đệ nhắc tới vật này, vậy là hôm nay mới có đúng không?"

Chu Tử Thư vốn chỉ nói chơi thôi, nhưng giờ cậu tò mò muốn biết CungTử Phong có đoán đúng không. Hứng chí lên, cậu gác đũa, cùng chơi trò giải đố với Cung Tuấn: "Đúng, hôm nay đệ mới có nó."

Bỗng nhiên, Cung Tuấn hỏi: "Phải chăng là thứ gì đó mà đệ nợ ta?"

Chu Tử Thư ngạc nhiên, cậu suy nghĩ một hồi mới đáp: "Có thể nói thế, mà cũng không hẳn là thế."

Cung Tuấn thở phào: "Tiểu sư đệ từng vẽ chân dung cho ta, nhưng lần đó đệ nói tranh chưa đủ đẹp, sau này nếu có dịp, đệ nhất định sẽ bổ sung thêm một bức."

Chu Tử Thư choáng váng luôn.

Cung Tuấn nhấc đũa, trỏ về phía hộp gỗ. Người bình thường mà làm động tác này thì có phần khiếm nhã, nhưng với chàng thì trông nó lại hết sức đúng mực. Cung Tuấn mỉm cười thích thú: "Hộp này đựng họa cụ chứ gì?"

Chu Tử Thư nín thinh, cậu nhìn Cung Tuấn trân trối, thốt lên: "Sư huynh là thần tiên đấy à?!"

Bấy giờ Cung Tuấn mới bật mí: "Thần tiên thì chẳng phải, nhưng Quan Chỉ trai cũng là chỗ quen. 'Bút mặc chỉ nghiên, thán vi quan chỉ'2, giấy bút mực nghiên ở Quan Chỉ trai không nơi đâu trong Thịnh Kinh sánh nổi. Tiểu sư đệ cất công đến tận Quan Chỉ trai mua họa cụ về vẽ chân dung ta, thật lòng ta cảm động quá đỗi, không lời nào tả xiết." CungTử Phong chân tình thủ thỉ: "Tiểu sư đệ tử tế với ta quá!"

[2] Được chiêm ngưỡng thứ tuyệt nhất rồi thì không cần xem những cái khác nữa. Câu ca ngợi.

Chu Tử Thư: "..."

Cậu quả thực không biết phải nói sao, bèn đứng dậy tới gần chiếc hộp.

Kiểm tra kĩ càng một hồi, cậu mới phát hiện ở góc hộp có khắc ba chữ "Quan Chỉ trai", không nhìn kĩ thì không thấy được. Khá khen cho huynh đấy, CungTử Phong! Biết thừa là đồ của Quan Chỉ trai còn bày đặt cá cược giải đố với ta?

Người như CungTử Phong, đến cái dấu chấm câu cũng không tin được!

Sư huynh đệ hai người ăn tối xong thì mang hộp gỗ đến thư phòng Cung Tuấn. Cung Tuấn hơi tiếc nuối: "Tiểu sư đệ muốn vẽ chân dung ta thì nên lựa lúc ban ngày mới phải. Tối mịt mờ thế này, ánh nến leo lắt, làm sao mà thấy rõ được."

Chu Tử Thư cố tình đáp: "Sư huynh yên tâm, hoa dung nguyệt mạo của sư huynh đã in sâu vào lòng đệ từ sớm rồi."

Nghe bốn chữ "hoa dung nguyệt mạo", hai đầu mày Cung Tuấn khẽ máy một cái. Chàng tủm tỉm cười, xòe quạt che môi, giấu đi nụ cười.

Lát sau, Cung Tuấn trong bộ y phục trắng muốt đứng tựa bên khung cửa sổ, Chu Tử Thư thi thoảng ngẩng lên rồi lại cúi xuống họa chân dung chàng.

Giờ đã là cuối tháng tám, gió đêm mát rượi phe phẩy mái tóc dài của Cung Tuấn. Ánh Tuấng nhẹ nhàng sà xuống, khoảnh sân thơm nức hương hoa. Chu Tử Thư ngẩng lên, đáp lại cậu là ánh mắt khép hờ và nụ cười mỉm của Cung Tuấn. Cậu ngây ngẩn, chợt nghĩ "Có lẽ đây mới đích thực là hoa dung nguyệt mạo". Tiếc rằng lúc này, Chu Tử Thư tới Thượng thư phủ có mục đích riêng, cậu chỉ vẽ chơi cho Cung Tuấn thôi chứ không hề có ý định làm cái việc lãng mạn này, cũng không muốn nghĩ đến những điều đó.

Vẽ được một nửa, Chu Tử Thư vờ như lơ đãng mà hỏi: "Đệ và sư huynh quen nhau năm năm nay. Lúc mới gặp, sư huynh cũng là Thượng thư bộ Hộ rồi. Khi ấy, sư huynh chỉ mới hai mươi tư tuổi, vậy mà đã lên tới hàng nhị phẩm. Trộm nghĩ trước khi đệ quen huynh, con đường làm quan của sư huynh chắc cũng gập ghềnh."

Cung Tuấn nghĩ thầm: Thực ra ta thấy nó bằng phẳng lắm.

Nhưng Chu Tử Thư nói thế thì chàng cũng phải thuận theo: "Gập ghềnh thế nào, tiểu sư đệ có hay chăng?"

"Mười bảy tuổi, sư huynh đỗ Trạng nguyên, trở thành Khởi cư lang ngũ phẩm. Hai năm sau huynh về phủ Kim Lăng giữ chức Phòng ngự sứ Kim Lăng. Hai mươi mốt tuổi thì huynh quay lại Thịnh Kinh, sau đó vào điện Cần Chính, làm chức Thông nghị đại phu kiêm Tả thị lang bộ Hình, được phong làm quan tam phẩm ngay lập tức. Đến năm hai mươi ba tuổi huynh tiếp tục thăng làm Thượng thư bộ Hộ." Chu Tử Thư vừa vẽ vừa cảm thán: "Đệ thua kém sư huynh nhiều lắm. Đệ cứ hay tự hỏi, không biết phong thái của sư huynh lúc giữ chức Tả thị lang bộ Hình thế nào. Bộ Hình giống với Đại Lý tự, đều là cơ quan thẩm tra vụ án, tróc nã phạm nhân. Sư huynh ngày ấy và sư huynh bây giờ, liệu có giống nhau không?"

Nghe Chu Tử Thư nói, Cung Tuấn chầm chậm nheo mắt lại.

Dường như Chu Tử Thư chỉ kể lại con đường làm quan của Cung Tuấn chứ không có ý đồ khác. Cung Tuấn phe phẩy chiếc quạt giấy trong tay, không nói không rằng, chỉ im lặng nhìn Chu Tử Thư. Đợi lâu mà không thấy CungTử Phong trả lời, ngoài mặt Chu Tử Thư rất bình tĩnh, nhưng trong lòng cậu đang ầm ào dậy sóng. Cậu ngẩng đầu, muốn nhìn thử xem Cung Tuấn đang làm gì, nào ngờ vừa chạm phải đáy mắt sâu thăm thẳm của Cung Tuấn, Chu Tử Thư bỗng thấy họng mình nghẹn cứng.

"... Sư huynh?"

Chu Tử Thư ngừng bút nhìn Cung Tuấn.

Cung Tuấn đứng bên cửa sổ, mỉm cười với cậu: "Chưa bao giờ ta nghĩ, hôm nay tiểu sư đệ vẽ tranh cho ta mà chẳng hề thật lòng." Chàng đang cười đấy, nhưng giọng điệu tràn trề nỗi thất vọng và tự trào.

Chu Tử Thư bỗng bối rối, cậu vội vàng nói: "Sư huynh đừng hiểu lầm, đệ thật lòng muốn vẽ chân dung sư huynh mà. Huynh xem này, đệ đã học tập rất lâu rồi, mãi hôm nay mới dám thực hiện lời hứa họa chân dung cho sư huynh." Vừa nói, Chu Tử Thư vừa cầm bức tranh của mình lên, muốn đưa cho Cung Tuấn xem.

Chỉ trong thoáng chốc, khi Chu Tử Thư còn chưa kịp nhấc tranh lên, Cung Tuấn đã cất tiếng thở dài. Bằng một giọng dịu êm, chàng từ tốn hỏi: "Đệ phái người đến phủ Kim Lăng để làm gì?"

Chu Tử Thư dừng tay, ngước mắt nhìn Cung Tuấn.

Hồi lâu, cậu mới đặt tranh xuống, nói: "Thế đệ cũng hỏi thẳng, sư huynh... có biết Thôi Hiểu không?" Cung Tuấn: "Không biết."

Chu Tử Thư thở phào nhẹ nhõm. Không ngờ ngay sau đó, Cung Tuấn cười nhẹ tênh: "Ta cần gì phải biết hắn." Chu Tử Thư tròn mắt sững sờ.

Thấy vẻ thảng thốt và lo âu trên gương mặt cậu, Cung Tuấn muốn trêu vài câu mà cuối cùng lại không nỡ. Trái tim chàng tê tái vì đớn đau, chất ngất bao phiền muộn. Chàng biết thừa trước đây Chu Tử Thư vẫn dối gạt mình, vẫn không chịu mở lòng thành thật với mình, thậm chí ngay bây giờ cậu vẫn đang lừa chàng, giấu giếm chàng, không dám tin chàng. Chỉ muốn hỏi một việc thôi mà phải úp úp mở mở, dùng đủ những lời lẽ sắc bén.

Nhưng chàng vẫn không nỡ buông tay.

Vì không nỡ dứt bỏ nên phải đau lòng, vì không nỡ dứt bỏ, nên chỉ biết ôm hết về mình chông gai sắc nhọn.

CungTử Phong thở dài khe khẽ, chàng khép cửa sổ, cất bước về phía Chu Tử Thư. Chu Tử Thư đứng như trời trồng; cậu không biết phải phản ứng thế nào, cũng không biết nên nói gì. "Soạt" một tiếng, Cung Tuấn gấp quạt, tay cầm quạt vẩy khẽ, mũi quạt tì lên mặt tường. Tay kia chàng lần xuống bàn tay cầm bút vẽ tranh của Chu Tử Thư, dịu dàng nắm lấy. Chậm rãi nhưng không hề khoan nhượng, Cung Tuấn nghiêng mình, dồn Chu Tử Thư vào góc.

Như gió mát Tuấng thanh, chất giọng khoan thai vẫn cứ khiến lòng người xao xuyến: "Bởi thế, hãy nói với ta đi, tiểu sư đệ sai người đến Kim Lăng... vì duyên cớ gì?"

||

------oOo------

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro

#123