Phần II: CÁC CUỘC TRANH LUẬN TẠI HỘI NGHỊ LẬP HIẾN

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trong khi các đại biểu cuối cùng đang lần lượt ký tên vào bản Hiến pháp thì đại biểu đáng kính nhất là Franklin chỉ tay vào hình mặt trời sau lưng ghế Chủ tịch Hội nghị, nói với một vài đại biểu đứng gần đó rằng những họa sĩ vẽ nó khó phân biệt được đó là cảnh mặt trời đang mọc hay đang lặn. Ông nói, trong cuộc họp này, ông thường nhìn vào hình mặt trời với những niềm hy vọng đan xen những nỗi sợ hãi và ông không thể nói được đó là cảnh mặt trời đang mọc hay đang lặn. Nhưng giờ đây, cuối cùng, ông đã cảm thấy hạnh phúc, vì biết chắc rằng đó là cảnh mặt trời đang mọc, chứ không phải đang lặn.

Ghi chép của Madison tại Hội nghị Lập hiến

Ngày 17 tháng Chín năm 1787

Hội nghị Lập hiến tiến hành theo hình thức thảo luận lần lượt từng điều khoản và từng mô hình chính quyền do các đại biểu đệ trình. James Madison được coi là tác giả chính của bản Hiến pháp, như sau này nhiều người gọi ông là "Cha đẻ bản Hiến pháp Mỹ". Không chỉ tham gia tích cực vào các cuộc thảo luận và đề xuất những giải pháp, Madison còn là người duy nhất không bỏ sót một buổi họp nào và ghi chép lại đầy đủ những cuộc tranh luận tại Hội nghị. Ngoài bản ghi chép của Madison, còn có các bản chép tay của Rufus King, của Robert Yates và cả Biên bản chính thức của Hội nghị Lập hiến do Thư ký Jackson ghi lại. Nhưng bản ghi chép của Madison đầy đủ hơn bất cứ một bản ghi chép nào, kể cả biên bản của Hội nghị vì Jackson chỉ chép lại những ý kiến đề xuất của các đại biểu, sơ lược nội dung các cuộc tranh luận và kết quả bỏ phiếu cuối cùng.

Tới năm 1840, tức là 53 năm sau khi Hội nghị Lập hiến kết thúc và sau khi Madison mất được 4 năm, theo di chúc của ông, bản ghi chép này mới được công bố với tiêu đề "Những cuộc tranh luận tại Hội nghị Liên bang năm 1787" . Có thể vì ông phải thực hiện đúng qui định của Hội nghị là cấm không công bố bất cứ thông tin nào về quá trình hội họp mà bản thân ông bị ràng buộc. Chỉ sau khi tất cả các đại biểu tham dự Hội nghị qua đời, thì Madison mới quyết định cho công bố văn kiện này .

Những cuộc thảo luận này có thể kéo dài một ngày hoặc lâu hơn, thảo luận về từng điểm trong mô hình chính quyền. Mỗi điểm của chính quyền, sau khi thảo luận xong, theo qui định của Ủy ban Ðiều lệ, Hội nghị sẽ tiến hành bỏ phiếu với mỗi bang có một phiếu bầu. Một điều khoản được phê chuẩn khi nhận được sự tán thành của đa số các bang có mặt tại Hội nghị, nhưng sẽ không có giá trị nếu không đủ 7 tiểu bang có mặt. Trong những lập luận rất sắc sảo này, đôi khi các đại biểu cũng đầy mâu thuẫn về những khía cạnh của chính quyền.

Bản viết tay nguyên gốc của Madison đầy những nét gạch xóa và những chỗ viết tắt vì ông ghi chép vội vàng trong quá trình thảo luận hoặc ngay sau buổi họp. Ðối với những người muốn nghiên cứu tìm hiểu quá trình soạn thảo Hiến pháp Mỹ, đây là bản ghi chép có giá trị nhất. Thực tế, rất khó chọn lọc các phần cần trích dịch vì thực sự tất cả những bài phát biểu đều rất có giá trị, nhưng do điều kiện có hạn, tôi chỉ chọn dịch khoảng trên 30 nội dung thảo luận, theo tôi là cần thiết và quan trọng nhất. Trong quá trình dịch, tôi cố gắng bám sát và dịch đầy đủ theo bản ghi chép của James Madison.

Phương án Virginia Ngày 29 tháng Năm

Ngay ngày đầu tiên khai mạc Hội nghị, Edmund Randolph, Thống đốc đương nhiệm của Virginia, được sự ủy quyền của những đại biểu Virginia, đã trình bày những đề xuất về mô hình nhà nước liên bang với ba nhánh quyền lực riêng biệt. Mô hình này thể hiện đòi hỏi của các bang lớn, muốn chiếm ưu thế tại cả hai viện của Quốc hội. Những nét chính trong Phương án Virginia trở thành nền tảng chủ yếu cho các cuộc tranh luận sau này và là nền tảng cho mô hình nhà nước Liên bang Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Mô hình này được các đại biểu Virginia xây dựng, trong đó có sự đóng góp chủ yếu của Madison. Các đại biểu của Virginia không chỉ có công lớn trong việc thiết lập Hiến pháp mà còn giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính phủ Mỹ.

Ngài Randolph mở đầu quá trình thảo luận. Ông cảm thấy bối rối vì công việc này lại được trao cho ông, chứ không phải những người khác, những người lớn tuổi hơn và có kinh nghiệm chính trị nhiều hơn, để bắt đầu một công việc trọng đại mà lẽ ra là bổn phận của họ. Nhưng do Hội nghị này được tiểu bang Virginia khởi xướng và các đồng nghiệp của ông đề xuất một số kiến nghị nên họ đã trông đợi và giao nhiệm vụ này cho ông.

Sau đó, ông trình bày những nguy cơ và khó khăn trong cuộc khủng hoảng hiện nay và sự cần thiết phải ngăn chặn sự sụp đổ của nước Mỹ.

Ông nhận thấy rằng để sửa đổi hệ thống Hợp bang cần phải nghiên cứu sâu vào các đặc tính cần thiết phải có của một chính quyền Liên bang; nghiên cứu những khiếm khuyết của hệ thống Hợp bang hiện nay; chỉ ra những mối hiểm họa và tìm giải pháp thích đáng cho các vấn đề này.

I. Một chính quyền Liên bang phải đảm bảo:

• chống lại sự xâm lược của nước ngoài;

• chống lại những bất đồng gây chia rẽ giữa các thành viên của Liên bang, hay sự nổi loạn của một tiểu bang nào đó;

• mang lại nhiều điều tốt đẹp cho các tiểu bang, điều mà hiện nay Hợp bang không thể làm được và các tiểu bang cũng không thể có được nếu tồn tại riêng biệt;

• có thể tự bảo vệ Liên bang chống lại bất kỳ sự tấn công nào;

• sẽ là luật tối cao đối với mọi Hiến pháp của các tiểu bang.

II. Trong khi phân tích những khiếm khuyết của hợp bang thì ông cũng thể hiện lòng kính trọng đối với những người đã soạn thảo ra bản Các điều khoản Hợp bang và cho rằng họ đã làm được những điều mà những người yêu nước có thể làm được trong thời kỳ sơ khai đó của đất nước, khi những vấn đề về Hiến pháp và những sự kém hiệu quả của hợp bang chưa nảy sinh, cũng như không có tranh chấp thương mại nào, cũng như chưa có cuộc nổi loạn nào như vừa xảy ra ở tiểu bang Massachusetts ; vấn đề nợ nước ngoài chưa trở nên cấp bách; sự mất giá của tiến giấy chưa được dự báo trước; các Hiệp ước chưa bị vi phạm và các mối hiềm khích về biên giới và chủ quyền giữa các tiểu bang đều không gây ra những vấn đề trầm trọng nào.

Sau đó, ông tiến hành liệt kê những khiếm khuyết này:

1. Hợp bang không thể bảo đảm chống lại sự xâm lược của nước ngoài. Quốc hội Lục địa cũng không có quyền ngăn chặn hay tiến hành chiến tranh. Về điều này, ông trích dẫn nhiều ví dụ. Hầu hết cho thấy các Hiệp ước hay các luật pháp của đất nước đều bị vi phạm và cần phải bị trừng phạt. Một số tiểu bang có thể gây ra các cuộc chiến tranh không kiểm soát được. Không thể có đội quân nào thích hợp cho việc bảo vệ trong những trường hợp đó. Chỉ có thể tuyển quân, nhưng điều này không thể thực hiện được nếu không có tiền.

2. Chính quyền Liên bang không thể kiểm soát được những tranh cãi giữa các bang, cũng không thể kiểm soát được bất kỳ cuộc nổi loạn nào tại các tiểu bang, cũng không có quyền hợp hiến hay bất kỳ biện pháp nào để can thiệp khi khẩn cấp.

3. Hợp chúng quốc có thể giành được nhiều thuận lợi cho liên bang mà sẽ không thể đạt được nếu căn cứ theo bản Các điều khoản Hợp bang như hành động trả đũa đối với trừng phạt, hay hạn chế thương mại của các quốc gia khác...

4. Chính quyền Liên bang không thể tự bảo vệ chống lại sự xâm phạm của các tiểu bang.

5. Đó không phải là một bộ luật tối thượng đối với các Hiến pháp tiểu bang...

III. Tiếp theo ông xem xét tình trạng nguy hiểm chung của đất nước mà nhiều người ủng hộ chính quyền của nước Mỹ đã nói về nguy cơ một tình trạng vô chính phủ có thể xuất hiện do sự lỏng lẻo của chính quyền ở khắp mọi nơi và nhiều đánh giá khác.

IV. Sau đó, ông tiến hành đề xuất giải pháp với nền tảng là các nguyên tắc cộng hòa và liệt kê từng điểm một:

Kiến nghị rằng Các điều khoản Hợp bang cần phải được sửa đổi và mở rộng để đáp ứng những mục tiêu đã nêu ra bao gồm "sự bảo vệ chung, an toàn, tự do và sự thịnh vượng trên toàn quốc".

Kiến nghị rằng theo đó, quyền phê chuẩn các bộ luật tại cơ quan lập pháp quốc gia phải căn cứ vào tỷ lệ đóng góp tiền bạc, hay căn cứ theo số lượng các công dân tự do, tùy trường hợp nguyên tắc này hay nguyên tắc kia phù hợp hơn.

Kiến nghị rằng cơ quan lập pháp quốc gia phải bao gồm hai viện [Hạ viện và Thượng viện].

Kiến nghị rằng các thành viên viện thứ nhất trong cơ quan lập pháp quốc gia [Hạ viện] phải do dân chúng các tiểu bang bầu chọn, với nhiệm kỳ hạn định và phải đạt một độ tuổi nhất định; sẽ nhận một khoản trợ cấp đền bù cho thời gian cống hiến của họ; không được làm việc cho bất kỳ một cơ quan nào khác của tiểu bang, hay của liên bang trong suốt nhiệm kỳ phục vụ và cả một thời gian nhất định sau khi mãn nhiệm, ngoại trừ những cơ quan đặc biệt thực hiện quyền và chức năng của Viện này; có thể bị bãi miễn và không được bầu chọn lại trong một khoảng thời gian nào đó sau khi mãn nhiệm.

Kiến nghị rằng các thành viên của Thượng viện phải được những đại biểu của Hạ viện lựa chọn trong số những ứng cử viên do các cơ quan lập pháp tiểu bang đề cử; phải đạt một độ tuổi nhất định; với nhiệm kỳ thích hợp để đảm bảo sự độc lập của họ; sẽ nhận một khoản trợ cấp đền bù thời gian cống hiến cho công chúng; nhưng không được làm việc cho bất kỳ một cơ quan nào của các tiểu bang, hay của liên bang, trừ những những cơ quan đặc biệt thực hiện những nhiệm vụ của Viện này, trong suốt nhiệm kỳ phục vụ và cả một thời gian nhất định sau khi mãn nhiệm.

Kiến nghị rằng mỗi Viện đại biểu đều có quyền khởi thảo các dự luật. Cơ quan lập pháp quốc gia phải được trao những quyền lập pháp do Quốc hội Hợp bang hiện nay đang giữ theo qui định của Các điều khoản Hợp bang và có quyền lập pháp trong mọi trường hợp các tiểu bang không đủ thẩm quyền, hay khi sự hòa thuận và thống nhất của đất nước bị các cơ quan lập pháp tiểu bang phá hoại; có quyền phủ quyết mọi đạo luật của tất cả các tiểu bang nếu theo sự phán xét của cơ quan lập pháp quốc gia là vi phạm các điều luật của Liên bang; có quyền tổ chức một đội quân của Liên bang để tấn công bất kỳ tiểu bang nào không thực hiện bổn phận của mình theo như Hiến pháp qui định.

Kiến nghị rằng cần phải thiết lập cơ quan hành pháp quốc gia, do cơ quan lập pháp quốc gia bầu chọn, với một nhiệm kỳ nhất định; tại những thời điểm nhất định, được nhận các khoản tiền không tăng cũng không giảm, là khoản thù lao cho công việc đảm nhiệm và không được bầu chọn lại lần hai. Ngoài thẩm quyền chung điều hành các bộ luật của quốc gia, cơ quan này cũng được trao thêm các quyền hành pháp, hiện do Quốc hội Hợp bang nắm giữ.

Kiến nghị rằng người đứng đầu bộ máy hành pháp và một số lượng thích hợp các thẩm phán liên bang lập ra Hội đồng Thẩm định có quyền phê chuẩn mọi đạo luật, do Quốc hội Liên bang ban hành, trước khi các bộ luật này có hiệu lực; có quyền phê chuẩn sự phủ quyết của Quốc hội Liên bang đối với mọi đạo luật của tiểu bang. Quyền bác bỏ của Hội đồng này được coi như quyền phủ quyết, trừ phi các dự luật này lại được Quốc hội Liên bang thông qua một lần nữa, hay các dự luật tiểu bang lại một lần nữa bị các thành viên của cả hai Viện phủ quyết.

Kiến nghị rằng phải thiết lập bộ máy tư pháp quốc gia, bao gồm một hay nhiều tòa án tối cao và các tòa án cấp thấp hơn, do cơ quan lập pháp quốc gia bầu chọn. Các viên thẩm phán này được giữ chức vụ suốt đời nếu có tư cách đạo đức tốt và tại những thời điểm qui định, được nhận các khoản tiền không tăng và không giảm trong suốt nhiệm kỳ phục vụ, để đền bù cho công việc của họ. Các tòa án cấp thấp hơn có quyền nghe và phán quyết sơ thẩm, còn các tòa án tối cao nghe và phán quyết phúc thẩm đối với mọi hành động tội phạm nghiêm trọng, hay xảy ra tại hải phận quốc tế, hoặc bị kẻ thù bắt, những vụ xét xử công dân nước ngoài, hay công dân của các tiểu bang khác, những vụ liên quan đến việc thu thuế quốc gia, những vụ luận tội bất kỳ viên chức chính quyền nào, và những vụ liên quan đến chiến tranh, hòa bình, hay sự thống nhất của đất nước.

Kiến nghị rằng những điều khoản này phải được các chính quyền tiểu bang, hay chính quyền của một vùng đất trong phạm vi lãnh thổ của Hợp chúng quốc, phê chuẩn hợp pháp với sự ưng thuận của đa số đại biểu trong cơ quan lập pháp quốc gia.

Kiến nghị rằng chính quyền Hợp chúng quốc phải đảm bảo mọi tiểu bang đều có chính quyền cộng hòa và đảm bảo lãnh thổ của mỗi tiểu bang, ngoại trừ các vùng đất mà chính quyền tiểu bang tự nguyện trao nộp cho chính quyền liên bang.

Kiến nghị rằng Quốc hội Hợp bang, với các thẩm quyền và đặc ân của họ, vẫn tiếp tục làm việc cho tới một ngày nhất định, sau khi việc sửa đổi các điều khoản trong Hiến pháp Liên bang được chấp thuận, để hoàn thành mọi nhiệm vụ của mình.

Kiến nghị rằng các sửa đổi và bổ sung cho Các điều khoản của Liên bang có thể làm ra bất cứ khi nào thấy cần thiết mà không cần sự chấp thuận của Quốc hội Liên bang .

Kiến nghị rằng các viên chức nắm giữ quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp của tiểu bang phải tuyên thệ bảo vệ và tuân thủ Hiến pháp Liên bang.

Kiến nghị rằng sau khi có sự phê chuẩn của Quốc hội Liên bang, các tu chính án sẽ được đệ trình lên một Hội nghị các đại biểu do dân chúng chọn ra trong số những người được các cơ quan lập pháp tiểu bang đề xuất, để xem xét và quyết định.

Ông kêu gọi đừng bỏ lỡ cơ hội hiện nay để cải thiện hòa bình, ổn định, thống nhất, hạnh phúc và tự do của nước Mỹ.

Hội nghị dừng họp tại đây.

Tranh luận về cách thức bầu chọn Hạ nghị sĩ Ngày 31 tháng Năm và ngày 6 tháng Sáu

Sau khi Randolph trình bày Phương án Virginia, Hội nghị bắt đầu tiến hành thảo luận từng điểm một và sửa đổi, bổ sung những điểm mới. Ngày 31 tháng Năm và ngày 6 tháng Sáu, Hội nghị bắt đầu thảo luận đến các điểm về quyền đại diện của các tiểu bang tại Quốc hội và cách thức bầu chọn người đại diện. Đây là một điểm sửa đổi mấu chốt nhất trong các đề xuất của Randolph so với Các điều khoản Hợp bang trước đó. Đề xuất của Randolph là việc đại diện tại Hạ viện phải căn cứ vào số dân. Các bang đông dân phải có nhiều đại diện hơn. Về cơ bản, các đại biểu đều đồng ý việc đại diện theo qui mô dân số, nhưng lại bất đồng về cách thức bầu chọn bởi dường như không có cách thức nào hoàn toàn tốt đẹp. Hàng loạt các cách bầu cử được trình bày và cuối cùng, Hội nghị đồng ý rằng Hạ viện sẽ do dân chúng trực tiếp bầu chọn. Trong cuộc tranh luận này, các lập luận của Madison là đặc biệt có giá trị và sau này, được ông sử dụng trong tác phẩm Người Liên bang.

Hội nghị tiếp tục xem xét các đề xuất của Ngài Randolph.

Đề xuất thứ ba: "Kiến nghị rằng cơ quan lập pháp quốc gia phải bao gồm hai Viện" được hoàn toàn nhất trí và không ai phản đối.

Đề xuất thứ tư: phần đầu qui định "các thành viên viện thứ nhất trong cơ quan lập pháp quốc gia phải do dân chúng các tiểu bang bầu chọn" được đưa ra Hội nghị thảo luận.

Ngài SHERMAN: Phản đối việc người dân bầu chọn. Ông khẳng định việc này phải do cơ quan lập pháp các tiểu bang bầu chọn. Những người dân thường hiểu biết quá ít về chính quyền. Họ không đủ thông tin nên thường xuyên nhầm lẫn.

Ngài GERRY: Những điều xấu xa mà chúng ta vừa trải qua đều bắt nguồn từ việc lạm dụng quyền dân chủ. Công chúng không những không chọn ra những người có tư cách mà lại ủng hộ những kẻ bịp bợm, giả danh yêu nước. Thực tế ở Massachusetts cho thấy dân chúng thường xuyên bị nhầm lẫn do những mưu mô thâm độc và những bài báo giả dối từ những kẻ xảo quyệt lưu hành, điều mà không ai có thể chống lại được. Mối tai họa chính yếu xuất phát từ sự tham nhũng của những kẻ làm việc trong chính quyền. Dường như thứ dân chủ giả dạng sẽ bóp chết những người làm việc cho nền cộng hòa. Ví dụ như những lời la ó khắp Massachusetts chống đối và đòi giảm lương của Thống đốc, dù điều này được chính Hiến pháp bảo vệ. Ông khẳng định ông đã là một người cộng hòa và sẽ còn là một người cộng hòa, nhưng kinh nghiệm đã dạy ông về những mối nguy hiểm của tư tưởng bình đẳng cào bằng.

Ngài MASON: Mạnh mẽ đấu tranh bảo vệ quyền bầu cử Hạ viện của toàn bộ dân chúng bởi đó là đặc ân cao cả về nguyên tắc dân chủ của chính quyền. Có thể nói rằng đó chính là "Viện bình dân" của Hợp chúng quốc. Phải hiểu và thông cảm với mọi tầng lớp trong xã hội. Do vậy, việc bầu chọn không thể chỉ được một số tầng lớp khác biệt nào đó của xã hội thực hiện mà phải do mọi thành phần, mọi địa phương trong nền cộng hòa bầu chọn. Nhiều ví dụ, điển hình là ở Virginia, những khác biệt về quan điểm và lợi ích nảy sinh từ những khác biệt về tầng lớp, tập quán... Ông đồng ý rằng nền dân chủ ở Mỹ hơi thái quá, nhưng cũng e ngại rằng liên bang sẽ rơi vào một tình thế hoàn toàn đối lập. Chúng ta cần phải tôn trọng quyền của mọi tầng lớp trong xã hội. Ông lo ngại các tầng lớp trên sẽ thờ ơ và lãnh đạm đối với các vấn đề nhân đạo và bình đẳng. Tuy nhiên, không chỉ có thể mà chắc chắn sau một thời gian, hoàn cảnh sống và địa vị của các tầng lớp dưới sẽ được cải thiện, khi tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội trở nên giàu có hơn. Chúng ta phải xóa bỏ mọi động cơ ích kỷ và những đặc ân quý tộc để chấp nhận chính sách đảm bảo quyền và hạnh phúc cho những tầng lớp thấp kém nhất cũng không kém những tầng lớp cao quý nhất trong xã hội.

Ngài WILSON: Kiên quyết đòi trao cho toàn thể dân chúng quyền bầu chọn trực tiếp Viện đông đại biểu nhất của cơ quan lập pháp [tức là Hạ viện] và muốn việc bầu chọn này được mở rộng tới mức có thể. Không có chính quyền nào có thể tồn tại lâu dài, nếu thiếu niềm tin của dân chúng. Trong một chính quyền cộng hòa, thì niềm tin này lại đặc biệt cần thiết. Việc tăng quyền lực cho các cơ quan lập pháp tiểu bang khi cho phép họ bầu chọn cơ quan lập pháp Quốc gia là sai lầm. Mọi dính líu giữa các chính quyền địa phương và trung ương phải càng giảm tối đa càng tốt. Thực tế cho thấy sự chống đối của các tiểu bang 'đối với liên bang chủ yếu phát sinh từ chính các viên chức chính quyền tiểu bang hơn là từ phía dân chúng.

Ngài MADISON: Coi việc bầu cử của toàn thể dân chúng đối với một viện của nhánh lập pháp là điều sống còn cho mọi mô hình chính quyền tự do. Tại một số tiểu bang, cơ quan lập pháp bao gồm những đại biểu do các đại cử tri chọn ra. Vì thế, nếu Hạ viện do cơ quan lập pháp tiểu bang bầu chọn, Thượng viện được Hạ viện bầu, bộ máy hành pháp [tức là Tổng thống] sẽ được cả Thượng viện và Hạ viện kết hợp lại lựa chọn, và hơn nữa còn những chức vụ khác lại do nhánh hành pháp bổ nhiệm thì dân chúng sẽ hoàn toàn mất quyền. Do vậy, sự cảm thông cần thiết giữa dân chúng và các nghị sĩ, các viên chức chính quyền hầu như chẳng còn. Ông cũng tán thành chính sách "tinh chế" việc bổ nhiệm bởi một lần bầu chọn tiếp nữa của dân chúng, nhưng cho rằng cách này đã đi quá xa. Ông muốn cách thức này chỉ áp dụng cho việc bầu chọn các thành viên của Thượng viện, của bộ máy hành pháp và các cơ quan tư pháp. Một công trình vĩ đại sẽ được xây dựng ổn định và bền vững hơn nếu nó dựa trên nền tảng vững chắc là dân chúng hơn là thuần tuý dựa vào các cơ quan lập pháp tiểu bang.

Ngài GERRY: Không muốn cho dân chúng có quyền bầu cử. Những đặc ân của Hiến pháp nước Anh thường là sai lầm khi áp dụng cho thực tế Hợp chúng quốc vì đây là một môi trường hoàn toàn khác. Kinh nghiệm cũng chỉ ra rằng các nghị sĩ tiểu bang được dân chúng bầu chọn trực tiếp không phải lúc nào cũng được dân chúng tin tưởng. Tuy nhiên, ông không phản đối quyền bầu cử của dân chúng nếu có nhiều công dân có địa vị, có tên tuổi sẵn lòng tham gia vào trong danh sách những người ứng cử. Dân chúng nên đề cử một số lượng đại biểu nhất định nào đó và từ số này, các cơ quan lập pháp tiểu bang sẽ chọn ra những đại biểu cuối cùng.

Ngài BUTTLER: Mô hình để dân chúng bầu cử trực tiếp là không thực tế.

Kết quả bỏ phiếu về việc dân chúng trực tiếp bầu chọn Hạ Viện:

MA: đồng ý; CT: không quyết định; NY: đồng ý; NJ: phản đối; PA: đồng ý; DE: không quyết định; VA: đồng ý; NC: đồng ý; SC: phản đối; GA: đồng ý.

...

Ngày 6 tháng Sáu

Ngài PINKNEY: Căn cứ vào những ghi chép và qui định của Hội nghị, đề xuất "Hạ viện phải do các cơ quan lập pháp tiểu bang bầu chọn, chứ không phải do dân chúng". Trong trường hợp này, dân chúng không thể là những người chọn lựa thích hợp. Hơn nữa, nghị viện các tiểu bang sẽ khó lòng ủng hộ việc phê chuẩn mô hình chính quyền mới nếu họ không có quyền thiết lập nó.

Ngài RUTLIDGE: Ủng hộ ý kiến này.

Ngài GERRY: Rất nhiều điều sẽ phụ thuộc vào phương pháp bầu cử. Tại nước Anh, công chúng có thể bị mất quyền tự do vì chỉ có một tỷ lệ nhỏ dân chúng mới có quyền bầu cử. Mối nguy hiểm của chúng ta nảy sinh từ thái cực ngược lại. Như ở Massachusetts, những kẻ tồi tệ nhất, tầm thường nhất lại được bầu vào cơ quan lập pháp. Nhiều thành viên của cơ quan này mới đây đã bị kết án vì liên quan đến những tội lỗi xấu xa. Những kẻ hèn hạ, xấu xa, thấp kém... dùng những ý kiến bẩn thỉu của chúng chống lại những người vượt trội về kinh nghiệm và đạo đức. Ông không muốn sa vào hai thái cực đối lập này. Nguyên tắc của ông là chống lại chế độ quân chủ và chống lại chính quyền do tầng lớp quý tộc điều hành. Phải trao vào tay dân chúng quyền tham gia thiết lập một nhánh của chính quyền để truyền cho chính quyền niềm tin cần thiết. Nhưng mặt khác, ông muốn sửa đổi mô hình bầu cử này để đảm bảo chọn lựa được những người có phẩm chất và năng lực xứng đáng. Ý kiến của ông là dân chúng trong các quận bầu cử sẽ đề cử một số đại biểu, còn các cơ quan lập pháp tiểu bang sẽ chọn lựa Hạ nghị sĩ trong số các ứng cử viên này.

Ngài WILSON: Mong ước có một chính quyền mạnh, nhưng muốn những quyền hạn mạnh mẽ này phải xuất phát từ những thẩm quyền lập hiến hợp pháp. Chính phủ không chỉ sở hữu những quyền lực to lớn đó mà còn phải thể hiện được ý muốn và tâm trạng của đa số dân chúng. Viện đại diện này sẽ phải là nơi thể hiện chính xác nhất ý nguyện đó của toàn xã hội.

Những người đại diện cần thiết được chọn ra vì lẽ toàn thể dân chúng không thể hợp tác với nhau được. Ông cho rằng sự chống đối sẽ xuất phát từ các chính quyền tiểu bang chứ không phải từ dân chúng. Các viên chức tiểu bang sẽ là những người bị mất quyền lực. Dân chúng sẽ gắn bó với chính quyền quốc gia hơn là chính quyền các tiểu bang, vì chính quyền liên bang quan trọng hơn và thỏa mãn lòng kiêu hãnh của họ. Nếu việc bầu cử tiến hành trong các quận lớn, thì không hề có mối nguy hiểm nào bởi các cuộc bầu cử gian trá. Các cuộc bầu cử tồi tệ xuất phát từ những quận nhỏ khi tạo ra cơ hội cho những kẻ xoàng xĩnh dùng mưu đồ để trúng cử.

Ngài SHERMAN: Nếu xóa bỏ chính quyền tiểu bang thì các cuộc bầu cử phải thuộc về dân chúng. Nếu chính quyền các tiểu bang vẫn tiếp tục tồn tại thì cần thiết phải duy trì sự hài hòa giữa chính quyền quốc gia và các chính quyền tiểu bang, cho nên chính quyền quốc gia phải do chính quyền tiểu bang bầu chọn. Quyền tham dự việc điều hành đất nước của dân chúng sẽ được bảo đảm một cách hiệu quả bởi họ có quyền bầu ra cơ quan lập pháp tiểu bang.

Liên bang có những mục đích sau:

1. Bảo vệ đất nước chống lại các mối nguy hiểm ngoại bang.

2. Sử dụng vũ lực chống lại những tranh chấp bên trong.

3. Ký kết các hiệp ước với nước ngoài.

4. Ðiều hành vấn đề thương mại với nước ngoài và thu thuế.

Ðây là những mục tiêu làm cho sự thành lập Liên bang là cần thiết. Đối với các vấn đề dân sự và hình sự, thì chính quyền tiểu bang sẽ kiểm soát tốt hơn. Dân chúng thường hạnh phúc ở các tiểu bang nhỏ hơn là ở các bang lớn. Nhưng các tiểu bang quá nhỏ như Rhode Island lại là nơi rất dễ xuất hiện những phe phái. Một số tiểu bang khác lại quá lớn nên quyền lực của chính phủ không thể lan khắp mọi vùng được. Ông tán thành việc trao cho chính quyền quốc gia quyền hành pháp và lập pháp trong một số lĩnh vực nhất định.

Ðại tá MASON: Trong Hợp bang hiện nay, Quốc hội đại diện cho các bang chứ không đại diện cho người dân. Những đạo luật của Quốc hội là áp dụng đối với các chính quyền tiểu bang chứ không trực tiếp với dân chúng. Điều này phải được thay đổi trong chính quyền mới. Dân chúng có quyền được đại diện, nên họ phải được quyền chọn các đại diện cho họ, tức là các Hạ nghị sĩ. Những người đại diện là rất cần thiết vì chỉ họ mới cảm thông được với dân chúng, mới suy nghĩ như dân chúng suy nghĩ, mới cảm nhận được những điều dân chúng cảm nhận. Điều này cho thấy các Hạ nghị sĩ phải được chính những người dân bầu ra. Rất nhiều điều đã được viện dẫn để phản đối các cuộc bầu cử dân chủ và dù nhiều điều có lý, nhưng cũng phải thấy rằng không có chính quyền nào là thoát khỏi sai lầm và trục trặc cả.

Trong nhiều trường hợp, các chính quyền cộng hòa không thể thoát khỏi những cuộc bầu cử tồi tệ, nhưng cần so sánh những điều này với các thuận lợi [của mô hình chính quyền được đề nghị] để ủng hộ quyền của dân chúng, ủng hộ bản chất tự nhiên của loài người. Nếu dân chúng được chia vào các quận bầu cử lớn, thì những cuộc bầu cử của họ sẽ có khả năng tốt đẹp hơn [những cuộc bầu cử] được cơ quan lập pháp tiểu bang tiến hành. Tiền giấy bị cơ quan lập pháp ngăn cấm, trong khi dân chúng lại đòi hỏi. Ðiều đó cho thấy các cơ quan lập pháp tiểu bang sẽ không muốn trao cho cơ quan lập pháp quốc gia quyền bảo vệ những vấn đề này nếu tiểu bang có quyền bầu chọn.

Ngài MADISON: Việc dân chúng trực tiếp bầu chọn một viện của cơ quan lập pháp rõ ràng là nguyên tắc không thể thiếu của một chính quyền tự do. Mô hình này, khi có những qui định thích đáng, sẽ tạo thuận lợi để chọn được những đại biểu tốt, đồng thời tránh được ảnh hưởng quá lớn của chính quyền tiểu bang trong chính quyền liên bang. Ông không đồng ý khi Ngài Sherman cho rằng những mục tiêu được đề cập trên đây là những mục tiêu cơ bản của một chính quyền quốc gia. Ðó là những mục tiêu quan trọng và rất cần thiết, nhưng quyền của dân chúng nhất thiết phải được đảm bảo một cách hiệu quả hơn và công lý phải được thi hành chắc chắn hơn. Nếu đi ngược lại những nguyên tắc đó thì Hội nghị này sẽ chẳng mang lại được điều gì ngoài việc gây ra những tội lỗi mới. Nếu quyền của công dân bị lạm dụng như đã xảy ra ở một số tiểu bang thì sự tự do của nền cộng hòa có thể tồn tại lâu dài không?

Ngài Sherman cho rằng tại các bang rất nhỏ, nạn phe phái, bè cánh và sự đàn áp sẽ thịnh hành, thì liệu có thể nói ngược lại rằng bất cứ ở đâu có những tội lỗi này đều là những tiểu bang quá nhỏ bé không? Nếu ở các tiểu bang lớn nhất, những nguy cơ này đều ở mức độ nhỏ hơn các bang nhỏ, thì sao chúng ta không mở rộng vùng đất này đến mức bản chất của chính quyền có thể chấp nhận được. Ðây chỉ là một cách bảo vệ chống lại những bất lợi mà nền dân chủ thường gây ra trong xã hội.

Xã hội văn minh nào cũng đều chia thành những phe phái, những tầng lớp và những lợi ích khác nhau, tất yếu phải bao gồm người giàu và người nghèo, những chủ nợ và con nợ, những lợi ích nông nghiệp, thương mại hay sản xuất, những công dân cư trú ở vùng này, hay vùng kia, những người ủng hộ chính trị gia này hay chính trị gia kia, những con chiên theo tôn giáo này hay tôn giáo khác. Trong mọi trường hợp khi đa số thống nhất cùng một mục đích hay tâm trạng chung thì quyền của thiểu số sẽ bị nguy hiểm.

Vậy đâu là động cơ kiềm chế những nguy cơ này? Nghiên cứu cẩn thận vấn đề này sẽ cho thấy sự trung thực là chính sách tốt nhất, nhưng kinh nghiệm cho thấy điều này ít được các tổ chức cũng như các cá nhân coi trọng... Lương tâm, sự ràng buộc duy nhất còn lại, thì không giống nhau ở các cá nhân: đa số hầu như có rất ít lương tâm. Bên cạnh đó, bản thân tôn giáo cũng có thể trở thành động cơ cho sự ngược đãi, hay chèn ép. Những điều này đã được lịch sử của tất cả các quốc gia cổ đại cũng như hiện đại chứng minh. Ở Hy Lạp và La Mã, người giàu và người nghèo, con nợ và chủ nợ, cũng như quý tộc và bình dân, thường đàn áp nhau một cách không thương tiếc. Nguồn gốc của những áp bức này là mối quan hệ giữa các thành phố mẹ như Roma, Athens và Carthage với các tỉnh lệ thuộc vào họ. Các thành phố mẹ nắm giữ quyền lực, còn những tỉnh lệ thuộc bị chia tách để dễ kiểm soát. Tại sao nước Mỹ phải lo sợ sự bất công của Nghị viện Anh? Bởi nước Anh có lợi ích khác với nước Mỹ nên nếu chúng ta chấp nhận những phán quyết đó, thì nước Anh sẽ giành được lợi lộc trong khi nước Mỹ phải gánh chịu phần thua thiệt.

Chúng ta đã thấy là chỉ sự khác biệt về màu da, ngay cả trong thời kỳ khai sáng, cũng gây ra sự đàn áp và bóc lột tồi tệ nhất giữa con người với con người. Vậy đâu là nguồn gốc của những luật pháp bất công đó mà bản thân chúng ta từng lên án? Không phải là vì lợi ích của đa số sao? Các con nợ thường lừa gạt chủ nợ. Lợi ích nông nghiệp thường phá hỏng những lợi ích thương mại. Những người sở hữu một loại tài sản nào đó thường muốn đánh thuế cao đối với những người sở hữu các loại tài sản khác.

Bài học mà chúng ta rút ra được là nơi nào đa số thống nhất một mục đích chung và có cơ hội, thì quyền của thiểu số sẽ không được bảo đảm. Trong chính quyền cộng hòa, đa số nếu thống nhất, luôn luôn có cơ hội chèn ép thiểu số. Giải pháp duy nhất là mở rộng lãnh thổ để xã hội chia thành rất nhiều những phe phái và lợi ích khác nhau và tại cùng một thời điểm, đa số không thể tập hợp lại để có một lợi ích chung khác biệt với lợi ích của toàn thể, hay của thiểu số. Dù trong trường hợp họ có chung một lợi ích như vậy thì họ cũng không thể tập hợp thống nhất để theo đuổi lợi ích này. Bổn phận của chúng ta phải thực hiện giải pháp này và với quan điểm đó xây dựng mô hình Nhà nước Cộng hòa với mức độ và hình thức sao cho kiểm soát được mọi tội ác mà chúng ta từng chứng kiến.

Ngài DICKINSON: Cho rằng nhất thiết một Viện của cơ quan lập pháp phải do dân chúng bầu cử trực tiếp. Khi đó, nhánh kia sẽ được các cơ quan lập pháp tiểu bang chọn lựa. Sự kết hợp giữa các chính quyền tiểu bang với chính quyền quốc gia, về mặt chính trị, là không thể tránh khỏi. Để bầu chọn Thượng viện, chúng ta cần tiến hành thông qua một cách thức "tinh tế" và "chắt lọc", tương tự như cách bầu chọn Viện quý tộc ở Anh. Ông nhắc lại những lời tán dương nồng nhiệt đối với thể chế nước Anh. Ông ủng hộ một chính quyền quốc gia mạnh, nhưng phải cho phép các tiểu bang có quyền lực trong hệ thống này. Việc các tiểu bang chống đối sự hình thành chính quyền liên bang sẽ được ngăn ngừa bằng cách trao cho Thượng viện thẩm quyền vĩnh viễn và không thể xâm phạm trong thời hạn ba, năm hay bảy năm. Ðược độc lập như vậy, họ sẽ phát biểu và quyết định tự do hơn.

Ngài READ: Có quá nhiều điều đang phản bội lại chính quyền tiểu bang nhưng chúng ta phải tiếp tục duy trì sự tồn tại của chính quyền tiểu bang. Một chính quyền quốc gia sẽ nhanh chóng "nuốt chửng" họ nên chính quyền tiểu bang chỉ còn là một cơ quan thuần tuý lựa chọn Thượng nghị sĩ Liên bang. Ông phản đối việc sửa chữa chắp vá hệ thống liên minh cũ vì điều đó cũng chỉ như việc may bộ quần áo mới bằng những mảnh vải cũ. Hợp bang chỉ được xây dựng trên những nguyên tắc tạm thời, không thể kéo dài, không thể sửa chữa. Nếu chúng ta không thiết lập một chính quyền tốt trên những nguyên tắc mới, chúng ta sẽ sụp đổ hoặc là lại phải làm lại từ đầu. Mối ác cảm đối với chính quyền liên bang đang có trong suy nghĩ của những viên chức tiểu bang.

Ngài PIERCE: Ủng hộ việc Hạ viện do người dân trực tiếp bầu chọn, còn Thượng viện do các cơ quan lập pháp tiểu bang chọn. Với mô hình này, công dân các tiểu bang vừa có quyền đại diện cá nhân, vừa có quyền đại diện tập thể.

Tướng PINKNEY: Mong muốn có một cơ quan lập pháp quốc gia tốt, nhưng đồng thời vẫn phải giữ lại quyền hạn đáng kể cho các tiểu bang. Việc để dân chúng, những người sống rải rác trong nhiều bang, đặc biệt là tại bang Nam Carolina, bầu cử bất kỳ Viện nào là hoàn toàn không thực tế. Ông không cho rằng việc dân chúng bầu chọn sẽ là cách bảo vệ tốt hơn các cơ quan lập pháp tiểu bang trong việc chống lại những mưu mô toan tính xấu xa. Đa số dân chúng ở bang Nam Carolina hoàn toàn ủng hộ tiền giấy như là một hình thức trao đổi hợp pháp, nhưng Nghị viện lại bác bỏ. Lý do là vì một số thành viên cơ quan lập pháp lo ngại và không dám bênh vực. Quốc hội tiểu bang sẽ ghen tị và hiềm khích đối với chính quyền quốc gia nếu họ không được tham gia. Vì thế, ý tưởng loại bỏ các cơ quan lập pháp này sẽ không bao giờ được hoan nghênh.

Ngài WILSON: Không có sự bất tương hợp nào giữa các chính quyền tiểu bang và liên bang, miễn là chính quyền tiểu bang vẫn được giữ lại để thực hiện những mục đích ở địa phương và cũng không thể bị chính quyền Liên bang nuốt chửng được. Trong mọi hệ thống chính quyền cổ xưa và hiện đại thì điều ngược lại mới xảy ra. Chính quyền trung ương sẽ dần dần bị sự tiếm quyền của những quốc gia thành viên phá hỏng.

Đề xuất của Ngài Pinkney rằng cơ quan lập pháp tiểu bang bầu chọn Hạ viện bị Hội nghị bỏ phiếu bác bỏ: MA: phản đối; CT: tán thành; NY: phản đối; NJ: tán thành; PA: phản đối; DE: phản đối; MD: phản đối; VA: phản đối; NC: phản đối; SC: tán thành; GA: phản đối.

Tranh luận về bộ máy hành pháp Ngày 1 tháng Sáu và ngày 4 tháng Sáu

Cuộc họp này lại tiếp tục thảo luận về đề xuất của Randolph về nhánh hành pháp. Mọi đại biểu đều tán thành mô hình phân chia quyền lực nhằm kiểm soát và đối trọng lẫn nhau giữa các nhánh chính quyền. Dù đều thống nhất quan điểm thiết lập một cơ quan tối cao có nhiệm vụ thực thi mọi đạo luật của Quốc hội, nhưng các đại biểu lại bất đồng về cách thức bầu chọn và mô hình của nhánh chính quyền này. Trên thực tế, cơ quan hành pháp là một điểm rất quan trọng và gây nhiều tranh cãi. Thậm chí, có đại biểu lại đề xuất mô hình "tam đầu chế" hoặc một Hội đồng Tổng thống với số lượng không cố định. Nhiều đại biểu lo sợ việc nhánh hành pháp chỉ gồm một người sẽ dẫn tới thể chế độc tài.

Từ ngày 1 đến ngày 4 tháng Sáu, các đại biểu đã thảo luận sơ bộ về cách thức và nhiệm kỳ của Tổng thống, nhưng tới cuối tháng Tám, vấn đề này lại được đưa ra bàn. Vấn đề bầu chọn, nhiệm kỳ và quyền lực của Tổng thống là một trong những chủ đề quan trọng nhất và được tranh luận kỹ lưỡng nhất tại Hội nghị.

Hội nghị tiếp tục xem xét đề xuất thứ bảy của Ngài Randolph. "thiết lập một cơ quan hành pháp quốc gia, do cơ quan lập pháp quốc gia bầu chọn, với một nhiệm kỳ nhất định, không được bầu chọn lần thứ hai, để nắm giữ các quyền hành pháp của Quốc hội".

Ngài PICKNEY: Ủng hộ một chính quyền mạnh, nhưng lo sợ các quyền hành pháp của Quốc hội Hợp bang hiện nay về chiến tranh và hòa bình mà trao cho nhánh hành pháp, thì chính quyền có thể biến thành chế độ quân chủ, một dạng tồi tệ nhất nếu chỉ do một người điều hành.

Ngài WILSON: Cho rằng quyền lực hành pháp cần phải được trao vào tay một người.

Ngài C. PICKNEY: Ủng hộ quan điểm này và muốn bản Hiến pháp viết: "thiết lập nhánh hành pháp quốc gia do một người điều hành".

Học giả FRANKLIN: Đề nghị tạm dừng các tranh luận vì đây là một vấn đề cực kỳ quan trọng nên muốn tất cả các đại biểu đều trình bày ý kiến của mình trước khi tiến hành biểu quyết.

Ngài RUTLEDGE: Chỉ trích sự e ngại của các đại biểu trong việc trình bày quan điểm của họ về vấn đề này cũng như các vấn đề khác. Ông nói rằng cứ như thể các đại biểu tự cho phép mình rút khỏi các cuộc tranh luận và không trình bày thẳng thắn các quan điểm của mình, điều mà bất cứ trường hợp nào ông cũng không bao giờ làm.

Ông ủng hộ việc trao quyền hành pháp cho một người duy nhất, nhưng ông không tán thành việc trao cho ông ta quyền tuyên bố chiến tranh và hòa bình. Một người điều hành sẽ có được trách nhiệm lớn lao nhất và điều hành công việc cộng đồng một cách tốt nhất.

Ngài SHERMAN: Coi Hội đồng hành pháp tối cao không khác gì cơ quan thực thi mọi ý muốn của Quốc hội, nên một hay nhiều người đều phải do Quốc hội bổ nhiệm và là những người được Quốc hội tin cậy, vì chỉ có Quốc hội mới nhận thức và thể hiện được ý muốn tối cao của dân chúng.

Các nghị sĩ cũng là các quan tòa tốt nhất trong việc phát xét cách điều hành của chính quyền, nên ông cho rằng số lượng người trong nhánh hành pháp không nên cố định mà có thể thay đổi tùy theo nhu cầu công việc và hoàn toàn do Quốc hội tự do bổ nhiệm.

Ngài WILSON: Tán thành việc trao quyền hành cho một người duy nhất, bởi một người sẽ có trách nhiệm cao nhất và có nhiều quyền hành nhất. Ông không coi các đặc quyền của Vua Anh là hình mẫu đúng đắn và thích hợp cho việc xác định quyền lực hành pháp. Một số đặc quyền này bản chất thuộc về Quốc hội, bao gồm các quyền về chiến tranh và hòa bình. Ông thừa nhận những quyền phải được trao cho nhánh hành pháp là các quyền thi hành luật pháp, quyền bổ nhiệm viên chức chính phủ, những quyền này sẽ không thích hợp nếu trao cho Quốc hội.

Ngài GERRY: Tán thành mô hình Hội đồng hành pháp, bao gồm nhiều người để có thêm sức mạnh và tăng thêm lòng tin của công chúng.

Ngài RANDOLPH: Chống đối kịch liệt sự đơn nhất trong chính quyền hành pháp vì coi đó là mầm mống của nền quân chủ. Ông cho rằng không có lý do nào để noi theo mô hình chính quyền Vương quốc Anh. Tuy nhiên, ông không định phê phán mô hình tuyệt vời này. Nhưng nếu các đại biểu khác dự định áp dụng mô hình đó, thì ông không biết có nên phản đối hay không. Nhưng những đặc tính đã định hình của người Mỹ đòi hỏi một mô hình chính quyền hoàn toàn khác. Ông không hiểu được tại sao những điều thiết yếu nhất về nhánh hành pháp: sự mạnh mẽ, sự khẩn trương và trách nhiệm lại không thể tìm thấy trong một nhóm gồm ba người như là đối với một người. Nhánh hành pháp phải đảm bảo tính độc lập và để đảm bảo sự độc lập thì cơ quan này phải gồm nhiều hơn một người.

Ngài WILSON: Cho rằng nhánh hành pháp một người không phải là mầm mống của nền quân chủ mà thực ra là cách bảo vệ tốt nhất chống lại nền độc tài. Ông không coi mô hình chính quyền Anh là phù hợp với tình hình nước Mỹ hiện nay. Lãnh thổ nước Mỹ quá rộng lớn và phong tục tập quán đã quá cộng hòa, nên không có gì khác ngoài một nền cộng hòa liên bang vĩ đại mới thích hợp.

Ý kiến về một nền hành pháp nhất thể, quyền lực trao cho một người như Ngài Wilson đề nghị tạm thời bị hoãn lại. Hội nghị dường như chưa được sẵn sàng quyết định vấn đề này, nhưng hoàn toàn nhất trí với điều khoản "phải thiết lập một cơ quan hành pháp quốc gia".

Ngài MADISON: Trước khi quyết định nhánh hành pháp sẽ gồm một hay nhiều người, tốt hơn nên thảo luận về phạm vi quyền lực của cơ quan này, những quyền tất nhiên thuộc về hành pháp thì phải trao cho nó. Dù được một người hay nhiều người điều hành, việc xác định phạm vi quyền lực sẽ góp phần quyết định rằng liệu việc trao mọi quyền đó vào tay một người duy nhất có an toàn không. Vì điều khoản này chủ yếu liên quan đến quyền lực của nhánh hành pháp nên sau câu "phải thiết lập một cơ quan hành pháp quốc gia", cần bổ sung "với quyền thi hành các bộ luật quốc gia, bổ nhiệm các viên chức chính phủ và trong các trường hợp không thuộc phạm vi quyền lực của nhánh tư pháp và lập pháp, hoặc đôi lúc được cơ quan Lập pháp ủy nhiệm các quyền lực khác".

Câu "không thuộc phạm vi quyền lực tự nhiên của nhánh tư pháp và lập pháp" nên đưa thêm vào theo đề nghị của Tướng Pinkney, bởi ông sợ nhánh hành pháp sẽ giành cả những quyền lực không chính đáng khác.

Ngài WILSON: Tán thành ý kiến này.

Ngài PINKNEY: Đề nghị bỏ đoạn cuối cùng "để thi hành những quyền không thuộc về nhánh lập pháp và tư pháp, hay các quyền khác khi được ủy nhiệm" trong điều khoản này. Câu này không cần thiết vì đối tượng của qui định này đã nằm trong tuyên bố "có quyền thi hành mọi đạo luật quốc gia".

Ngài RANDOLPH: Ủng hộ ý kiến này.

Ngài MADISON: Không biết chắc liệu những câu chữ này có thật sự cần thiết hay không, hay thậm chí cả những từ trước đó như "bổ nhiệm các viên chức chính phủ...". Toàn bộ những điều này có thể đã bao gồm trong vế đầu tiên của điều khoản này. Nhưng ông cũng không thấy sự bất lợi hay phiền phức nào trong việc giữ lại đoạn này. Trong các trường hợp cần thiết, việc ghi cụ thể như vậy sẽ tránh được những mập mờ và hiểu nhầm.

Tiếp theo đề nghị của Ngài Pinkney, Hội nghị bỏ phiếu bất phân thắng bại về đề xuất do Ngài Madison đặt ra, nhưng những đề xuất của Ngài Pinkney thì bị bác bỏ với các phiếu của Connecticut, New York, New Jersey, Pennsylvania, Delaware, Bắc Caroline và Georgia so với các phiếu tán thành của Massachusett, Virginia và Nam Carolina, còn đoạn đầu tiên của điều khoản này thì hoàn toàn nhất trí với sự chấp thuận của tất cả các tiểu bang, trừ Connecticut bỏ phiếu hòa.

Tiếp đó, phần còn lại của đề xuất thứ bảy, phần liên quan đến hình thức bầu chọn và nhiệm kỳ của nhánh hành pháp, được đem ra xem xét.

Ngài WILSON: Nói rằng ông không muốn tuyên bố mô hình bầu chọn mà ông muốn vì hiểu rằng điều đó có thể quá hão huyền. Tuy nhiên, ít nhất ông cũng nói rằng về mặt lý thuyết, ông ủng hộ việc dân chúng bầu cử trực tiếp. Những kinh nghiệm, đặc biệt là tại New York và Massachusetts cho thấy việc bầu chọn người điều hành tối cao bởi tất cả dân chúng là một mô hình thành công và thích hợp. Những người được chọn lựa theo mô hình này là những người có phẩm chất và tư cách cao quý, nổi tiếng và dân chúng đều biết tiếng.

Ngài SHERMAN: Ủng hộ việc cơ quan lập pháp sẽ bổ nhiệm Tổng thống và muốn việc bầu chọn này hoàn toàn chỉ phụ thuộc vào cơ quan đó mà thôi, bởi nhánh hành pháp là cơ quan thực thi mọi ý muốn của nhánh lập pháp. Sự độc lập của cơ quan hành pháp với nhánh lập pháp, về bản chất, theo ông, chính là sự độc tài.

Ngài WILSON: Đề xuất rằng nhiệm kỳ của nhánh hành pháp nên là 3 năm vì ông nghĩ với một nhiệm kỳ ngắn như vậy sẽ thích hợp với việc được tái cử.

Ngài PINKNEY: Đề xuất nhiệm kỳ 7 năm.

Ngài SHERMAN: Ủng hộ nhiệm kỳ 3 năm và phản đối quan điểm luân phiên vì như vậy sẽ loại bỏ những người có năng lực nhất trong việc điều hành nhánh hành pháp.

Ngài MASON: Tán thành một nhiệm kỳ ít nhất là 7 năm và ngăn cấm sự tái cử, sẽ là biện pháp tốt nhất, vừa để ngăn chặn những đánh giá sai lệch của cơ quan lập pháp đối với những người không có tài năng, cũng như loại bỏ khả năng người điều hành này mưu mô thông đồng với Quốc hội tìm cách được tái cử.

Ngài BEDFORD: Kịch liệt phản đối nhiệm kỳ dài tới 7 năm. Ông cầu xin Hội nghị xem xét lại tình hình đất nước hiện nay, nếu Nhà hành pháp tối cao này sẽ điều hành đất nước trong một giai đoạn quá dài như vậy thì sẽ khó bị loại bỏ dù ông ta không đủ năng lực điều hành, hoặc chúng ta sẽ không thể kiểm soát được ông ta ngay sau khi ông ta vừa được bổ nhiệm. Ông cho rằng việc luận tội sẽ không thể thích hợp với trường hợp này, vì việc luận tội chỉ có thể tiến hành đối với hành động lạm quyền chứ không thể áp dụng cho việc thiếu năng lực. Ông ủng hộ nhiệm kỳ 3 năm và không thể bầu lại sau một thời gian 9 năm, tức là 3 nhiệm kỳ.

Kết quả bỏ phiếu về vấn đề nhiệm kỳ 7 năm:

MA: chia rẽ; CT phản đối; NY: tán thành; NJ: tán thành; PA: tán thành; DE: tán thành; VA: tán thành; NC: phản đối; SC: phản đối; GA: phản đối.

Tiếp theo, Hội nghị thảo luận về hình thức bầu chọn nhánh hành pháp.

Ngài WILSON: Ông ủng hộ việc bầu chọn bởi dân chúng. Ông mong muốn không chỉ cả hai viện của Quốc hội đều do dân chúng bầu chọn, không có sự can thiệp của các cơ quan lập pháp tiểu bang mà cả các nhánh hành pháp tiểu bang, để họ hoàn toàn độc lập với nhau và độc lập với các tiểu bang.

Đại tá MASON: Ủng hộ ý kiến này, nhưng nghĩ rằng điều đó không thực tế. Dẫu sao, ông cũng mong ước Ngài Wilson có thêm thời gian tìm ra được mô hình thích hợp cho riêng mình và như vậy mệnh đề "sẽ được bầu chọn bởi cơ quan Lập pháp Quốc gia" cần phải hoãn lại

Ngài RUTLIDGE: Đề xuất chỉ nên cho Thượng viện bầu chọn nhánh hành pháp mà thôi.

Hội nghị dừng họp tại đây.

...

Ngày 4 tháng Sáu

Theo đề xuất của Ngài Pinkney và Ngài Wilson, "nhánh hành pháp do một người điều hành" được đưa ra thảo luận.

Ngài WILSON: Ủng hộ quan điểm này. Dù quý ngài từ Virginia [Ngài Randolph] phản đối, nhưng những lập luận đó không thuyết phục và không đủ để bác bỏ mô hình này. Ông cũng không thấy bằng chứng nào được viện dẫn về sự cảm thông của dân chúng đối với nhánh hành pháp gồm nhiều hơn một người. Ngược lại, ông tin rằng không hề có sự cảm thông đó. Mọi người đều biết là một người hành pháp không có nghĩa ông ta là ông vua. Một điều có ý nghĩa quan trọng liên quan đến ông ta. 13 tiểu bang có thể ít thống nhất ý kiến về các vấn đề khác, nhưng sẽ hoàn toàn nhất trí về việc một người điều hành cơ quan hành pháp. Ý tưởng "ba đầu" sẽ không được ủng hộ. Mức độ quyền lực của ba người đó là khác nhau và sẽ không có những người biết cách hợp tác. Ngoài những lý do đưa ra trước đây ủng hộ sự đơn nhất, ông muốn đưa ra những lý do khác.

Sự ổn định của chính quyền cũng không kém phần quan trọng so với sức mạnh của nó mà điều này chỉ có thể có nếu là một người. Nếu ba người có quyền lực ngang bằng nhau, ông không thấy gì khác ngoài sự mất kiểm soát, liên tục xung đột, mâu thuẫn, không những chỉ cản trở việc điều hành mà còn làm rối rắm thêm các nhánh chính quyền khác, cả với chính quyền các tiểu bang và dân chúng. Nếu quyền lực của các thành viên không tương đương nhau, thì nguyên tắc đối trọng nhằm phản đối sự đơn nhất của nhánh hành pháp hoàn toàn trở nên vô nghĩa. Nếu quyền lực cân bằng, việc bầu chọn số lẻ người cũng không phải là giải pháp. Ở tòa án, luôn luôn chỉ có hai phe trong mọi vụ kiện. Trong cơ quan hành pháp và lập pháp, các vấn đề thường có nhiều phe. Do vậy, mỗi thành viên có thể có ý kiến riêng nên ba người cũng chẳng thể nhất trí được việc gì.

Đại tá MASON: Những thuận lợi chính ủng hộ sự đơn nhất trong bộ máy hành pháp đó là Bí mật, Nhanh chóng, Mạnh mẽ. Đó cũng là những ưu việt của chính quyền này, đặc biệt trong thời gian chiến tranh. Ông hoàn toàn thừa nhận đó là những thuận lợi chủ yếu và quan trọng, nhưng những nền quân chủ cũng có tất cả những ưu điểm này. Một điều không thể chối cãi là những điểm này trong chế độ quân chủ còn ở mức độ lớn hơn nhiều so với chế độ cộng hòa.

Suy ngẫm một chút, chúng ta nghi ngờ rằng đây chỉ là những thuận lợi về mặt lý thuyết hơn là thực tế và buộc chúng ta phải xem xét rằng đó không phải là những nguyên tắc chủ yếu của chính quyền cộng hòa. Nhiều bằng chứng cho thấy: tính ưu việt này từng bị chế giễu, coi thường và phá nát. Đó là cái giá mà hầu hết các chế độ quân chủ phải trả, và những nền cộng hòa cũng tương tự như vậy.

Tình yêu, thiện ý và sự quyến luyến của dân chúng với các bộ luật, với sự tự do và với đất nước là điều không thể đánh bại. Mọi người dân, ngay lập tức, đều có thể trở thành một người lính khi nhận thức và hiểu rằng mình chiến đấu không phải vì bảo vệ quyền lợi của một hoàng gia nào cả, không phải vì triều đình mà vì chính bản thân gia đình mình. Một sự thật hiển nhiên rằng vì chính mồ mả tổ tiên và gia đình, thì dù già hay trẻ đều thể hiện một tinh thần kỳ diệu. Ðó chính là nguyên nhân khiến chiến binh các thành bang Hy Lạp bé nhỏ ở thời kỳ cổ đại đương đầu và liên tục đánh bại các đế chế quân chủ Ba Tư. Ðó cũng chính là động lực giúp các tiểu quốc Hà Lan chống lại những đội quân dày dạn kinh nghiệm trận mạc trong suốt cuộc chiến tranh 30 năm với Tây Ban Nha, vương triều mạnh nhất ở châu Âu thời đó và cuối cùng đã chiến thắng. Cũng chính điều đó đã duy trì tự do và độc lập của các tiểu quốc Thụy Sĩ, đưa các tiểu quốc này trở thành những quốc gia hùng mạnh nhất. Trong giai đoạn nguy ngập nhất của nước Mỹ, khi cuộc chiến tranh vừa qua mới chỉ bắt đầu, không có vũ khí, không có binh sĩ, không có thương mại, không có tiền và thiếu mọi nguồn lực, thì ai là người mang lại thắng lợi? Ðó không phải là một nguyên tắc chủ yếu chăng?

Chúng ta vẫn chưa thể xác định những quyền lực sẽ trao cho nhánh hành pháp và dù một số đại biểu ôn hòa có thể suy tính và tranh luận về chủ đề này, ông vẫn tin rằng khuynh hướng chung là ủng hộ một chính quyền mạnh vì coi chính quyền mạnh là cần thiết. Nếu các quyền lực mạnh và mở rộng này được trao cho bộ máy hành pháp, nhưng cơ quan này chỉ có một người, thì tất nhiên chính quyền này sẽ suy thoái thành một chế độ quân chủ: một chính quyền đi ngược lại ý muốn của công chúng, thậm chí sẽ bác bỏ bất cứ ý muốn nào của công chúng. Như vậy, có thể coi cuộc nhóm họp của chúng ta lúc này là một trong những nguyên nhân phá vỡ chính quyền liên bang. Liệu chúng ta có nhận thấy những mối nguy hiểm do sự trì hoãn, chần chừ giữa thời điểm giải thể Quốc hội Hợp bang và việc chấp thuận một hệ thống chính quyền mới không? Ông lo sợ cái khoảng thời gian gián đoạn này. Nếu năm đầu tiên [của chính quyền mới này] không mang lại được kết quả tốt đẹp nào thì những hậu quả có thể rất khủng khiếp. Nếu những vùng đất khác nhau của các tiểu bang không được tham dự một cách bình đẳng trong chính quyền liên bang mới này, thì đâu sẽ là cách đảm bảo tốt nhất sự bình đẳng về lợi ích của họ? Nếu một cuộc nổi dậy, một vụ phiến loạn, hay một cuộc xâm lược xảy ra ở New Hampshire, trong khi nguyên thủ quốc gia duy nhất lại là công dân của Georgia thì dân chúng của New Hampshire sẽ nghĩ gì, nếu có bất kỳ sự trì hoãn nào trong việc bảo vệ họ và ngược lại?

Nếu quyền lực hành pháp được trao cho ba người, một người được chọn từ miền Bắc, một từ miền Trung và một từ miền Nam, thì điều này sẽ mang lại sự yên bình, an toàn trong suy nghĩ của dân chúng và thuyết phục họ rằng chính quyền sẽ có những mối quan tâm tương xứng với những điều họ lo ngại. Liệu ba người được chọn này không mang cùng với họ vào chính quyền một kiến thức mở rộng hơn, hoàn hảo hơn về Liên minh vĩ đại này chăng? Một mô hình bổ nhiệm như vậy không phải là phương pháp có hiệu quả nhất nhằm ngăn chặn những âm mưu và sự thông đồng giữa cơ quan lập pháp và ứng cử viên cho chức vụ này, đặc biệt là với những người cùng tiểu bang đang nhăm nhe những chiếc ghế của chính quyền liên bang, những người có những cơ hội lớn nhất và sự cảm dỗ lớn nhất chăng? Liệu đây không phải là biện pháp hiệu quả nhất để kiểm soát và chống lại những mưu đồ nguy hiểm và những kẻ đầy tham vọng, và sẽ bảo đảm tốt nhất cho sự ổn định và bền vững của chính quyền chúng ta trên những nguyên tắc vô giá về sự tự do?

Đó chính là những lý lẽ của ông ủng hộ một bộ máy hành pháp gồm ba người hơn là một người duy nhất.

Ngài SHERMAN: Đây là một vấn đề vô cùng quan trọng và cần phải xem xét kỹ lưỡng trước khi quyết định. Ngài Wilson cho rằng ở mọi tiểu bang, quyền lực đều được trao vào tay một người đứng đầu là Thống đốc. Ông đồng ý điều đó và cũng muốn áp dụng mô hình này cho chính quyền liên bang. Nhưng cần nhớ rằng tất cả các tiểu bang đều có một Hội đồng Cố vấn. Thiếu cơ quan này, Thống đốc không thể tùy tiện hành động. Nên cần phải thiết lập một Hội đồng như vậy để bản Hiến pháp được dân chúng chấp nhận. Thậm chí ở Anh, Nhà Vua cũng có một Hội đồng và dù ông ta tự bổ nhiệm các quan chức ở cơ quan này thì lời khuyên của nó cũng có trọng lượng với ông ta và cơ quan này cũng được dân chúng tin tưởng.

Ngài WILLIAMSON: Hỏi Ngài WILSON có muốn bổ sung thêm một Hội đồng Cố vấn không?

Ngài WILSON: Trả lời là không cần Hội đồng Cố vấn, vì cơ quan này chỉ mang tính hình thức và thường không hiệu quả.

Ngài GERRY: Rất lúng túng khi đánh giá về mô hình Hội đồng hành pháp tối cao gồm ba người. Điều này sẽ vô cùng bất lợi trong nhiều trường hợp, đặc biệt là các hoạt động quân sự, liên quan đến quân đội, hay hải quân. Nó sẽ là vị Thống chế với ba đầu [ý nói khó hoạt động].

Đối với vấn đề một nền hành pháp nhất thể, quyền lực chỉ trao cho một người được gọi là Tổng thống kết quả phiếu bầu như sau:

MA: tán thành; CT: tán thành; NY: phản đối; PA: tán thành; DE: phản đối; MD: phản đối; VA: tán thành; NC: tán thành; SC: tán thành; GA: tán thành.

Tranh luận về cách bầu chọn Thượng nghị sĩ Ngày 7 tháng Sáu

Nhiệm kỳ và cách thức bầu chọn Thượng viện cũng là một điểm quan trọng được các đại biểu thảo luận rất kỹ càng. Hàng loạt cách thức bầu chọn được đưa ra, nhưng việc qui định tỷ lệ đại diện tại Thượng viện căn cứ vào qui mô dân số đã làm các bang nhỏ rất lo sợ. Cuộc họp ngày 7 tháng Sáu chỉ thảo luận về cách thức bầu chọn Thượng nghị sĩ, nhưng vấn đề này không chấm dứt trong ngày hôm đó mà còn kéo dài và là một trong những điểm gây tranh cãi nhất trong suốt thời gian Hội nghị.

Điều khoản Hạ viện sẽ bầu chọn Thượng viện, do Ngài Randolph đề xuất, được đưa ra xem xét.

Ngài DICKENSON: Đề nghị "các cơ quan lập pháp tiểu bang sẽ bầu chọn thành viên của Thượng viện".

Ngài SHERMAN: Tán thành ý kiến này, vì như vậy, các tiểu bang sẽ ủng hộ chính quyền quốc gia và sự hài hòa giữa hai hệ thống chính quyền Liên bang và tiểu bang sẽ được duy trì. Ông cũng đề nghị hai hệ thống chính quyền này phải có các hệ thống tư pháp tách biệt, nhưng các cơ quan tư pháp phải ủng hộ lẫn nhau vì những lợi ích chung.

Ngài PINCKNEY: Nếu các tiểu bang nhỏ được phép có một Thượng nghị sĩ, [và số lượng Thượng nghị sĩ tỷ lệ với số dân], thì số thành viên Thượng viện có lẽ sẽ rất lớn, ít nhất là 80 người.

Ngài DICKINSON: Trình bày hai lý do cho quan điểm của ông.

(1) Chính quyền tiểu bang sẽ chọn ra những Thượng nghị sĩ giỏi và có năng lực tốt hơn nếu để dân chúng chọn;

(2) Ông mong muốn Thượng nghị viện sẽ bao gồm những cá nhân xuất chúng nhất, cả về phẩm chất và trí tuệ, và càng vững mạnh càng tốt như Viện quý tộc của nước Anh. Để tìm được những con người như vậy, nên để các cơ quan lập pháp tiểu bang chọn ra, hơn là bất kỳ phương pháp nào khác. Ông không lo ngại và phản đối số lượng lớn Thượng nghị sĩ và cho rằng số lượng này sẽ trong khoảng 80 đến 160. Thượng viện với số lượng nghị sĩ quá ít sẽ không đủ sức mạnh đối trọng với Hạ viện. Cơ quan lập pháp đại diện cho đông đảo quần chúng, thì cũng phải có một số lượng đông đảo thích hợp.

Ngài WILLIAMSON: Ủng hộ một số lượng nhỏ các Thượng nghị sĩ, nhưng muốn mỗi bang phải có ít nhất một người. Ông cho rằng con số 25 Thượng nghị sĩ là thích hợp nhất. Sự khác biệt về cách thức bầu chọn đại biểu của hai Viện cũng sẽ có tác dụng kiểm soát lẫn nhau.

Ngài BUTLER: Băn khoăn về tỷ lệ đại diện, nên chưa thể trình bày quan điểm của mình.

Ngài WILSON: Nếu mục đích của những người có mặt tại Hội nghị này là để thiết lập một chính quyền quốc gia, chính quyền đó phải bắt nguồn từ đông đảo nhân dân. Nếu một Viện được các cơ quan lập pháp tiểu bang bầu chọn, còn Viện kia lại do người dân trực tiếp bầu ra thì hai Viện này sẽ dựa trên hai nền tảng khác nhau và tất yếu sẽ phát sinh mâu thuẫn. Ông mong muốn Thượng viện cũng phải do nhân dân trực tiếp bầu ra như Hạ viện. Dân chúng sẽ được chia vào những khu vực bầu cử phù hợp với mục đích này và ông ủng hộ quan điểm của đại biểu Dickinson, hoãn lại vấn đề quan trọng này.

Ngài MORRIS: Tán thành ý kiến đó.

Ngài READ: Đề xuất rằng: "Thượng nghị sĩ sẽ do Nhà hành pháp tối cao của liên bang [tức là Tổng thống] bổ nhiệm trong số những người được các cơ quan lập pháp tiểu bang đề cử"... Nhưng quan điểm này không được ai ủng hộ.

Ngài MADISON: Nếu quan điểm của Ngài Dickinson được chấp nhận [quan điểm cơ quan lập pháp tiểu bang chọn Thượng nghị sĩ] thì chúng ta sẽ hoặc phải từ bỏ lý thuyết đại diện theo tỷ lệ, hoặc phải chấp nhận rằng Thượng viện sẽ rất đông. Hướng thứ nhất là không thể chấp nhận được, vì điều này rõ ràng không công bằng. Hướng thứ hai cũng không hợp lý. Mục đích của Thượng viện là để các quá trình lập pháp trở nên chín chắn và thận trọng hơn, có hệ thống và sáng suốt hơn Hạ viện.

Ông không đồng ý với quan điểm của Dickinson cho rằng việc tăng số lượng đại biểu sẽ tăng thêm quyền lực và sức mạnh của cơ quan này. Ngược lại, sức mạnh của cơ quan này tỷ lệ nghịch với số lượng các đại biểu. Cần phải xem xét ví dụ điển hình về mô hình Quan bảo dân của La Mã . Họ đánh mất ảnh hưởng và quyền lực của mình khi có thêm thành viên. Nguyên nhân của việc này rất rõ ràng: họ được bổ nhiệm để đảm bảo những quyền lợi và thực thi đòi hỏi của dân chúng La Mã, bởi dân chúng quá đông, không thể phối hợp hành động được. Nhưng ngay lập tức, chính họ lại chia thành các phe phái để trở thành con mồi của giới quý tộc. Dân chúng càng đông thì càng có nhiều đại biểu. Họ càng trở nên không kiên định và dễ bị chia rẽ ngay chính trong nội bộ hoặc là càng trở nên ngờ nghệch trước những mưu mô của các phe phái đối lập, tất yếu không thể thực hiện được bổn phận của mình. Nếu sức mạnh và uy quyền của một nhóm người phụ thuộc vào phẩm chất của từng cá nhân thì số lượng càng đông, uy quyền càng lớn. Nhưng khi các thẩm quyền chính trị được trao cho họ, số lượng càng ít thì sức mạnh càng lớn. Cần nghiên cứu những xem xét này để áp dụng cho Thượng viện.

Ngài GERRY: Đã có bốn mô hình chọn lựa Thượng nghị sĩ được nêu ra.

1. Bởi Hạ viện, nhưng điều này sẽ tạo ra sự phụ thuộc [của Thượng viện đối với Hạ viện] đi ngược lại mục đích cần đạt đến [là sự độc lập giữa hai viện].

2. Bởi nhánh hành pháp Liên bang. Ðiều này có thể dẫn đến nền quân chủ mà một số đại biểu đã lo ngại.

3. Bởi người dân. Dân chúng có hai mối quan tâm chính, nông nghiệp và thương mại, bao gồm cả những người đang nắm giữ cổ phiếu. Nếu cả hai Viện đều do dân chúng bầu ra, lợi ích thương mại có thể không được đảm bảo bởi đa số dân chúng chỉ quan tâm lệch lạc đến những lợi ích nông nghiệp mà quên đi những lợi ích khác, thậm chí các lợi ích khác còn bị xóa bỏ.

4. Bởi các cơ quan lập pháp tiểu bang. Quá trình bầu chọn này được tiến hành bởi một cơ quan rất am hiểu, do vậy, những lợi ích thương mại cũng được đảm bảo chứ không chỉ các lợi ích nông nghiệp và không có lợi ích nào bị chèn ép quá mức. Không một chính quyền tự do nào có thể tồn tại lâu dài, nếu lợi ích của bất kỳ tầng lớp dân chúng nào bị chèn ép. Do vậy, ông ủng hộ việc bầu chọn Thượng nghị sĩ theo cách này.

Ngài DICKINSON: Việc duy trì chính quyền tiểu bang ở một mức độ nhất định là không thể thiếu được. Điều này sẽ tạo ra sự xung đột giữa những quyền lực khác nhau, nhưng cũng là một sự kiểm soát cần thiết vì chúng có tác dụng kiểm tra lẫn nhau. Cố gắng giảm bớt thẩm quyền tiểu bang bằng cách biến cơ quan này thành các hội đồng đại biểu thuần tuý cũng không thể được bởi điều này sẽ dẫn đến sự suy tàn. Ông so sánh hệ thống quốc gia được đề xuất với hệ mặt trời, trong đó, các tiểu bang là các hành tinh chuyển động tự do trong quĩ đạo thích hợp cho mình. Ngài Wilson của Pennsylvania mong muốn hủy bỏ các quĩ đạo này. Nếu chính quyền các tiểu bang bị loại khỏi mọi công việc quốc gia thì chính quyền quốc gia sẽ đi theo hướng như chính quyền các tiểu bang hiện nay và rồi cũng sẽ gặp phải tất cả những sai lầm tương tự.

Việc cải cách là nhằm thống nhất 13 dòng suối nhỏ vào một con sông lớn để chúng cùng chảy theo một hướng, để không gây cản trở lẫn nhau. Tuy nhiên, ông tán thành quan điểm cho rằng Thượng viện phải bao gồm nhiều đại biểu, vì khi đó ảnh hưởng của họ cũng sẽ tăng lên nhờ dòng dõi và các yếu tố khác. Ông không đồng ý rằng Quan Hộ dân La Mã bị mất quyền lực khi tăng thêm người và giải thích nguyên nhân vấn đề này. Nếu lập luận của Ngài Madison là đúng, thì số lượng Thượng nghị sĩ cần phải giảm xuống dưới 10, con số lớn nhất của các quan hộ dân La Mã.

Ngài WILSON: Cách thức chọn lựa Thượng nghị sĩ chắc chắn gặp phải nhiều khó khăn và ngờ vực, nhưng chúng ta cần phải vượt qua. Mô hình chính quyền nước Anh không thể là hình mẫu của nước Mỹ vì sự khác biệt về cách sống, luật pháp, chế độ con trưởng thừa kế bị bãi bỏ và tính cách của toàn thể công chúng. Ông không cho rằng tồn tại nguy cơ chính quyền quốc gia sẽ nuốt chửng chính quyền các tiểu bang. Ngược lại, ông muốn chính quyền quốc gia không bị chính quyền các tiểu bang thôn tính. 

Ông đồng ý với ý kiến của Ngài Dickinson cho rằng không nên loại bỏ những hành tinh cũng như những quỹ đạo của nó. Tuy nhiên, ông cũng không tin rằng các hành tinh này sẽ sưởi ấm hay chiếu sáng Mặt trời. Trong phạm vi quĩ đạo đích thực của mình, chính quyền tiểu bang phải chấp nhận hoạt động vì những mục tiêu ít quan trọng hơn [những mục tiêu của địa phương]. Với mục đích này, sự tồn tại của các chính quyền tiểu bang là cần thiết, bởi chính quyền Liên bang không thể điều hành hết phạm vi quá rộng lớn của nền Cộng hòa.

Ông không thể hiểu được tại sao Thượng viện, nếu do các cơ quan lập pháp tiểu bang chọn, sẽ ít quan tâm đến những lợi ích nông nghiệp hơn nếu do chính dân chúng bầu chọn. Nếu các cơ quan lập pháp này, như bị chỉ trích hiện nay, hy sinh lợi ích thương mại vì lợi ích nông nghiệp thì tại sao lại trông đợi họ sẽ ủng hộ lợi ích nông nghiệp nếu điều này đi ngược lại quan điểm và lợi ích của chính họ. Ông ủng hộ việc bầu cử bởi dân chúng trong các quận lớn, vì cách này sẽ chọn được những người xứng đáng nhất về trí tuệ cũng như nhân cách. Còn việc chia nhỏ các quận bầu cử chỉ làm cho các cử tri bỏ phiếu dễ dàng hơn mà thôi. [vì dân chúng không phải đi quá xa để bỏ phiếu-ND]

Ngài MADISON: Cho rằng uy tín và truyền thống gia đình trong Thượng viện, như mong muốn của Ngài Dickinson, nếu thông qua cuộc bầu cử do cơ quan lập pháp tiểu bang tiến hành, sẽ mạnh hơn là bất cứ cách thức bầu cử nào khác. Câu hỏi thật sự đặt ra là cách thức nào sẽ mang lại sự lựa chọn tốt nhất? Nếu một cuộc bầu cử của dân chúng, hay thông qua một hình thức nào đó, không phải do các cơ quan lập pháp tiểu bang tiến hành, hứa hẹn chọn được những người trung thực và công bằng thì việc các cơ quan lập pháp tiểu bang bổ nhiệm các Thượng nghị sĩ chắc chắn là không cần thiết.

Thượng viện do cơ quan lập pháp tiểu bang bầu chọn không chắc chắn tốt hơn nếu do dân chúng bầu chọn. Những sai lầm lớn nhất bị chỉ trích là vấn đề tiền giấy mà các cơ quan lập pháp tiểu bang bác bỏ, bất chấp sự khẩn nài của dân chúng nên đôi khi, dân chúng không biết phản đối thế nào. Khi đó, với việc kiểm soát ý muốn của cơ quan lập pháp quốc gia, dân chúng sẽ có ảnh hưởng trong việc thúc đẩy chương trình tiền giấy.

Thật vô lý khi cho rằng cơ quan lập pháp quốc gia, nếu không có sự kiểm soát thích hợp, sẽ đi theo vết xe đổ của các cơ quan lập pháp tiểu bang. Cũng rất vô lý khi cho rằng cơ quan lập pháp tiểu bang là sự kiểm soát thích hợp duy nhất đối với Quốc hội Liên bang.

Ngài SHERMAN: Phản đối việc dân chúng trong các khu vực bầu cử có quyền bầu chọn vì không thể chọn được những cá nhân xuất sắc như các cơ quan lập pháp tiểu bang. Ngài GERRY: Nhấn mạnh rằng các lợi ích thương mại và tài chính đặt trong tay các cơ quan lập pháp tiểu bang sẽ an toàn hơn nếu đặt trong tay dân chúng. Đức hạnh và tư cách cao quý của các nghị sĩ sẽ kiểm soát cơ quan này tránh khỏi những bất công trong việc bầu cử. Công chúng ủng hộ tiền giấy, trong khi các cơ quan lập pháp chống lại. Tại Massachusetts, đại hội đại biểu của các quận đã tuyên bố ước muốn xóa bỏ mọi thứ tiền giấy mất giá trị đó. Ngoài ra, cơ quan lập pháp một số tiểu bang đều bao gồm hai viện, trong đó một viện có vẻ quý phái hơn và cho đến nay, các quyết định của viện này thường sáng suốt hơn.

Ông cho rằng có ba lý do chính phản đối việc bầu cử trong các quận bầu cử :

(1) Ðiều đó không thực tế. Dân chúng không thể tập trung về một nơi cho mục đích này và dù tập trung về một nơi thì cũng không thể tránh được vô số những vụ gian lận.

(2) Các tiểu bang nhỏ, dù kết hợp với một bang lớn hình thành một phần của quận bầu cử, hay kết hợp với một phần lãnh thổ của một bang lớn, sẽ không có cơ hội bầu chọn những công dân ưu tú của tiểu bang mình.

(3) Sẽ xuất hiện những mối bất hòa giữa các vùng lãnh thổ khác nhau trong cùng một quận.

Ngài PICKNEY: Vì Thượng viện phải là một cơ quan ổn định và độc lập nên các thành viên của cơ quan này phải được các cơ quan lập pháp tiểu bang bổ nhiệm. Mô hình này sẽ tránh được sự kình địch và bất đồng nếu thiết lập các quận bầu cử. Ông ủng hộ việc chia các tiểu bang thành ba loại, căn cứ theo diện tích đất đai, cho phép nhóm thứ nhất có ba Thượng nghị sĩ, nhóm thứ hai có hai Thượng nghị sĩ và nhóm thứ ba có một Thượng nghị sĩ.

Đại tá MASON: Bất kể mức độ quyền lực nào trao cho chính quyền liên bang, thì một phần nhất định phải giữ lại cho các tiểu bang. Nếu có một quyền lực quá lớn bao trùm khắp mọi lĩnh vực và lãnh thổ của nước Mỹ thì không thể có một quyền lực nào khác đủ sức đối trọng với nó. Các nghị viện tiểu bang cũng phải có một số biện pháp tự bảo vệ mình chống lại sự xâm phạm của chính quyền quốc gia. Chúng ta cố gắng tìm những biện pháp và quyền lực cần thiết để mọi nhánh quyền lực của chính quyền liên bang đều có thể tự bảo vệ mình. Nhưng tại sao chúng ta lại không làm điều đó đối với các chính quyền tiểu bang? Liệu chúng ta có thể lập ra những biện pháp nào tốt hơn để chính quyền các tiểu bang được tham gia vào việc hình thành chính quyền liên bang. Không nghi ngờ gì nữa, mối nguy hiểm đều xuất hiện từ cả hai phía [liên bang và tiểu bang]. Nhưng chúng ta mới chỉ chứng kiến những sai trái và lỗi lầm phát sinh từ phía chính quyền tiểu bang và những điều này vẫn đang tồn tại. Ví dụ về Quốc hội Hợp bang không thể áp dụng cho trường hợp này, vì Quốc hội Hợp bang hiện nay không có những quyền lực như chính quyền quốc gia sẽ có sau này.

Kết quả bỏ phiếu về đề xuất bổ nhiệm Thượng viện Liên bang các cơ quan lập pháp tiểu bang tiến hành theo đề nghị của Ngài Dickinson:

MA: tán thành ; CT: tán thành; NY: tán thành; PA: tán thành; DE: tán thành; MD: tán thành; VA: tán thành; NC: tán thành; SC: tán thành; GA: tán thành. (Tất cả các bang đều đồng ý).

Hội nghị dừng họp tại đây.

Phương án New Jersey Ngày 15 tháng Sáu

Ngày 14 tháng Sáu, khi một số đề xuất chủ yếu về mô hình chính quyền Liên bang của Randolph đã được Hội nghị thảo luận và nói chung tán thành một chính quyền quốc gia mạnh, với quyền lực hầu hết nằm trong tay các bang lớn, đã khiến các đại biểu của các bang nhỏ rất bất bình. Đại biểu William Paterson của New Jersey đề nghị hoãn cuộc họp lại một ngày để đại biểu các tiểu bang nhỏ có thời gian chuẩn bị kế hoạch của riêng họ. Một ngày sau, ngày 15 tháng Sáu, Paterson đệ trình một mô hình chính quyền do các bang nhỏ soạn thảo. Về thực chất, mô hình này không khác gì việc sửa đổi một vài điểm của Các điều khoản Hợp bang, nhằm mục đích duy trì chủ quyền của các bang nhỏ. Đó chỉ là một liên minh thuần tuý giữa các quốc gia có chủ quyền độc lập.

Mặc dù bị bác bỏ, nhưng một số đề xuất trong mô hình này sau đó được chấp nhận và được đưa vào bản Hiến pháp.

Ngài PATERSON: Đệ trình bản kế hoạch mà nhiều đại biểu muốn thay thế cho các đề xuất của Ngài Randolph. Sau một số thảo luận ngắn, mọi người đều nhất trí đưa cả hai mô hình này ra toàn Hội nghị xem xét.

Các đề nghị của tiểu bang New Jersey do William Paterson trình bày như sau:

Kiến nghị rằng Các điều khoản Hợp bang cần phải sửa đổi, hiệu chỉnh và mở rộng để xây dựng được một bản Hiến pháp Liên bang tương xứng với những nhu cầu cấp bách của chính quyền hiện nay và sự tồn tại của liên minh.

Kiến nghị rằng ngoài những quyền đã trao theo Các điều khoản Hợp bang, Quốc hội Hợp bang sẽ được trao thêm quyền ban hành các đạo luật để thiết lập ngân sách quốc gia bằng việc áp đặt một hay nhiều mức thuế đối với các loại hàng hóa, với việc buôn bán với nước ngoài, với các hàng hóa được sản xuất trong nước, với việc nhập khẩu vào bất kỳ vùng nào trên nước Mỹ, bởi các con tem và bởi bưu phí trên mọi bức thư hay hàng hóa bưu kiện được gửi qua sở bưu điện. Những khoản tiền thu được này sẽ được sử dụng cho các mục đích liên bang nếu Quốc hội cho là đúng đắn và cần thiết. Quốc hội có quyền ban hành các qui định và luật lệ đối với việc thu thuế này. Và đôi lúc, Quốc hội có quyền tiến hành những thay đổi và bổ sung [những điều luật này] theo cách thức mà Quốc hội cho là cần thiết; có quyền thông qua các đạo luật điều hành vấn đề thương mại và buôn bán với các quốc gia khác cũng như giữa các tiểu bang với nhau; có quyền thi hành mọi sự trừng phạt, hay ấn định các khoản tiền phạt mà các tiểu bang phải chịu khi làm trái các điều luật này. Các tòa án luật dân sự tiểu bang có quyền tài phán sơ thẩm mọi vi phạm đối với các qui định và điều luật liên bang. Tuy nhiên, trong mọi vụ kiện này, quyền phúc thẩm sẽ trao cho Tòa án Liên bang.

Kiến nghị rằng bất cứ khi nào cần sự đóng góp thì thay cho những qui định của Các điều khoản Hợp bang, Quốc hội Liên bang có thẩm quyền qui định những khoản đóng góp này, căn cứ theo số lượng những người da trắng, những công dân tự do khác ở mọi lứa tuổi, giới tính và tầng lớp, bao gồm cả những người từng là nô lệ và 3/5 những người còn lại [ám chỉ các nô lệ-ND], ngoại trừ những người da đỏ không đóng thuế. Nếu những đòi hỏi này không được tuân thủ trong một thời hạn được chỉ ra, Quốc hội có quyền đặt ra và thông qua những đạo luật cưỡng ép các tiểu bang không tuân thủ phải thực hiện; miễn là không có quyền lực nào trong số này được, thì hành mà không được sự chấp thuận của ít nhất...... bang và có thể thay đổi khi số lượng các bang của liên minh tăng lên, hay giảm đi.

Kiến nghị rằng Quốc hội Liên minh có quyền chọn lựa bộ máy hành pháp quốc gia bao gồm........ người, giữ chức vụ trong nhiệm kỳ........ năm, nhận chính xác một lượng tiền nhất định, tại những thời điểm nhất định, bồi thường cho công việc của họ. Khoản tiền này sẽ không tăng, cũng không giảm, được thanh toán từ nguồn ngân sách của liên bang. Họ không được giữ chức vụ nào, hay sự bổ nhiệm nào khác, trong thời gian họ vẫn còn đang tại chức và...... năm sau đó; không được bổ nhiệm lần hai; có thể bị Quốc hội sa thải, nếu có đa số phiếu thuận của những Thống đốc tiểu bang. Cơ quan hành pháp này, ngoài quyền điều hành các đạo luật liên bang, sẽ có quyền bổ nhiệm các quan chức liên bang để chỉ đạo cho mọi hoạt động quân sự. Nhưng không ai trong số những người điều hành chính quyền liên bang được giữ chức vụ chỉ huy bất kỳ đội quân nào, không được giữ bất kỳ chức vụ nào, bao gồm chức Thống chế hay bất kỳ chức vụ quân sự nào khác.

Kiến nghị rằng một bộ máy tư pháp liên bang sẽ được thành lập, bao gồm một Tòa án tối cao với các thẩm phán do cơ quan hành pháp liên bang bổ nhiệm, giữ chức vụ suốt đời miễn là có tư cách đạo đức tốt, nhận chính xác một mức lương tại thời điểm nhất định, không tăng không giảm để bồi thường cho việc phục vụ công chúng. Bộ máy tư pháp sẽ có quyền tài phán sơ thẩm trong mọi vụ luận tội các viên chức liên bang, hay liên quan đến các đại sứ, hay các vụ bắt giữ kẻ thù, cướp bóc và trọng tội trên vùng biển quốc tế, hay liên quan đến người nước ngoài, hình thành bất kỳ Hiệp ước nào, hay bất kỳ vấn đề nào nảy sinh trong lĩnh vực thương mại và thu thuế liên bang. Không thẩm phán nào, trong thời kỳ đương chức, lại được giữ bất kỳ chức vụ nào khác trong thời gian đương chức và ...... năm sau khi mãn nhiệm.

Kiến nghị rằng mọi đạo luật của liên bang sẽ do Quốc hội Hợp bang phê chuẩn căn cứ theo quyền hạn mà bộ luật Các điều khoản Hợp bang trao cho họ. Mọi hiệp ước được làm và thông qua dưới thẩm quyền của Hợp chúng quốc sẽ là các bộ luật tối thượng cho mọi tiểu bang, nếu các bộ luật hay Hiệp ước này liên quan đến các tiểu bang đó hay công dân của họ. Do vậy, bộ máy tư pháp tiểu bang bị ràng buộc trong bất kỳ quyết định nào. Bất cứ điều gì trong các bộ luật tiểu bang, nếu mâu thuẫn [với luật liên bang] sẽ là vô hiệu. Nếu bất kỳ tiểu bang nào, hay bất kỳ viên chức nào của tiểu bang chống đối, hay ngăn chặn việc thi hành các bộ luật, hay Hiệp ước liên bang, thì chính quyền liên bang có quyền dùng hết sức mạnh của liên bang, với mức độ cần thiết, để buộc tiểu bang này tuân thủ các đạo luật đó, hay các Hiệp ước đó.

Kiến nghị rằng những tiểu bang mới muốn gia nhập liên bang phải được chấp thuận bằng điều luật.

Kiến nghị rằng luật nhập quốc tịch phải giống nhau ở mọi tiểu bang.

Kiến nghị rằng công dân của một tiểu bang phạm tội ở một tiểu bang khác trong liên bang, sẽ phải bị coi là phạm cùng tội đó tại tiểu bang này, bởi chính công dân của tiểu bang này.

Hội nghị dừng họp tại đây.

Tranh luận về Phương án New Jersey Ngày 16 tháng Sáu

Những đề xuất của Paterson đã gây rất nhiều tranh cãi. Mặc dù nhận thức được sự cấp thiết phải thiết lập một chính quyền quốc gia mạnh, nhưng nhiều đại biểu lo sợ điều đó vượt quá thẩm quyền của họ. Những đặc điểm trong cả hai mô hình đều được đưa ra xem xét và so sánh. Cuối cùng, sau những tranh luận kỹ càng, Hội nghị đã bỏ phiếu bác bỏ mô hình của Paterson mà quay về tìm cách sửa chữa những đặc điểm trong mô hình Virginia. Trong buổi thảo luận này, đại biểu Wilson đã thể hiện một kiến thức và trí tuệ về nhà nước đặc biệt xuất sắc để bênh vực mô hình chính quyền liên bang mạnh. Nhưng đại biểu Lansing của tiểu bang New York và Paterson kiên quyết đấu tranh đòi giữ lại quyền của tiểu bang. Sau này, quyền của tiểu bang là một trong những nguyên nhân chủ yếu hình thành các đảng phải chính trị ở Mỹ.

Ngài LANSING: Tiến hành so sánh điểm đầu tiên trong mỗi phương án mà ông ta coi là có nguyên tắc cơ bản trái ngược nhau. Ngài Paterson đòi duy trì chủ quyền của các tiểu bang, còn Ngài Randolph thì đòi xóa bỏ. Phương án của Ngài Randolph đòi quyền phủ quyết mọi đạo luật của các tiểu bang, còn phương án của Ngài Paterson chỉ là sự mở rộng thẩm quyền của chính quyền trung ương.

Phương án của Ngài Randolph, nói ngắn gọn, là thu hết mọi quyền của tiểu bang trừ những những quyền điều hành các vấn đề địa phương, vào tay chính quyền trung ương. Bản thân ông ủng hộ phương án của Ngài Paterson, vì có hai lý do chủ yếu chống lại phương án của Ngài Randolph:

(1) Hội nghị này chỉ có quyền thảo luận và đề xuất những sửa đổi đối với Các điều khoản Hợp bang;

(2) Những kiến nghị của Ngài Randolph là không thể chấp nhận được.

1. Ông kiên quyết cho rằng quyền lực của Hội nghị này bị hạn chế chỉ là đưa ra các sửa đổi cho chính quyền Hợp bang, nhằm mục đích xây dựng nền tảng cho nhà nước Hợp bang. Quyết định của Quốc hội và của các tiểu bang bổ nhiệm các đại biểu tham dự Hội nghị này đã chứng tỏ điều đó. Vì vậy, quyền lực của Hội nghị chỉ là giới hạn trong việc sửa chữa Các điều khoản Hợp bang, nên không cần thiết và không đúng đắn nếu đi quá xa. Ông tin chắc rằng đây là quan điểm của tiểu bang ông. Tiểu bang New York sẽ không bao giờ tán thành việc cử đại biểu tham dự Hội nghị này, nếu biết Hội nghị sẽ quay sang hướng thảo luận việc hợp nhất các tiểu bang vào một chính quyền quốc gia mạnh.

2. Liệu các tiểu bang có chấp nhận và phê chuẩn một kế hoạch mà họ chưa bao giờ cho phép chúng ta thẩm quyền đề xuất không nếu mô hình đó đi quá xa điều mà họ cho là thích hợp? Chúng ta đã chứng kiến hàng loạt các đạo luật liên quan đến việc thu thuế để thiết lập ngân sách, do Quốc hội Hợp bang đề xuất năm 1783, đã không được thông qua. Đó là những quyền không được Các điều khoản Hợp bang cho phép và là quan điểm chung của các tiểu bang. Như vậy, liệu sự thay đổi lớn lao như vừa được đề xuất có thể được thi hành không? Chỉ dựa vào quan điểm và tâm trạng của dân chúng sẽ tán thành mô hình này là điều hoàn toàn không chắc chắn. Chúng ta chỉ biết tâm trạng và suy nghĩ của dân chúng lúc này mà thôi. Sẽ là vô ích, nếu đề xuất kế hoạch không phù hợp với quan điểm của họ. Các tiểu bang sẽ không bao giờ đủ niềm tin vào chính quyền quốc gia để trao cho họ quyền phủ quyết mọi đạo luật do tiểu bang ban hành. Mô hình đó hoàn toàn mới lạ và là ảo tưởng. Trong mô hình đó, không có điều nào phù hợp. Mọi quyền lực của Quốc hội đều xuất phát từ nhân dân, nên mọi sự thay đổi và bổ sung các quyền này cũng phải do chính nhân dân đồng ý.

Ngài PATERSON:

Ông ủng hộ phương án của ông vì phương án này phù hợp với:

1. Phạm vi thẩm quyền của Hội nghị.

2. Tâm trạng của dân chúng.

Nếu mô hình Hợp bang là sai lầm nghiêm trọng, thì các đại biểu cần trở lại tiểu bang quê nhà để xin thêm quyền lực, chứ không tự cho phép mình có những thẩm quyền đó. Ông đến đây để nói ra không chỉ những suy nghĩ cá nhân mà cả tâm trạng của những người cử ông đến. Mục tiêu của chúng ta không phải là tìm ra mô hình chính quyền nào là tốt nhất mà là nghiên cứu đề xuất mô hình để những người ủy nhiệm cho chúng ta chấp thuận.

Nếu chúng ta tranh luận rằng giả sử Hợp bang hiện nay không tồn tại, thì một điều không thể chối cãi là mọi tiểu bang đều có chủ quyền bình đẳng. Điều này cần được bảo đảm trước khi thảo luận các điều khoản khác. Nếu quyền đại diện theo tỷ lệ dân số là đúng, tại sao chúng ta không bỏ phiếu theo tỷ lệ đó ngay ở đây ? Nếu chúng ta tranh luận về một liên bang chặt chẽ thực sự tồn tại và tìm cách thảo luận các điều khoản liên bang, chúng ta sẽ thấy quyền bình đẳng là nền tảng của mô hình liên bang này.

Ông đọc lại điều 5 của Các điều khoản Hợp bang, điều khoản trao cho mỗi bang một phiếu bầu và điều 13 tuyên bố "không có bất cứ thay đổi nào nếu không được tất cả các tiểu bang chấp thuận". Đó là bản chất của mọi Hiệp ước.

Nếu điều gì chỉ được thực hiện khi hoàn toàn nhất trí thì khi không được hoàn toàn nhất trí, cũng không thể được thực hiện. Ngài Wilson cũng nhận thấy là các tiểu bang lớn phải chấp thuận điểm này, không phải vì điều này đúng mà vì bối cảnh cấp bách lúc đó đòi hỏi sự nhượng bộ. Đúng là như vậy. Đó có phải là lý do để thu lại những điều đã trao không? Liệu người tặng quà nào dám lấy lại món quà đã tặng mà không cần sự chấp thuận của người được tặng không?

Học thuyết đó [học thuyết về nhà nước trung ương mạnh-ND] có lẽ phù hợp, nhưng đó là một học thuyết hy sinh các tiểu bang nhỏ. Các bang lớn nhanh chóng chấp thuận liên minh, trong khi các bang nhỏ chấp nhận một cách chậm chạp và miễn cưỡng. New Jersey và Maryland là hai tiểu bang cuối cùng phê chuẩn Các điều khoản Hợp bang. New Jersey phản đối việc trao quyền điều hành thương mại cho Quốc hội, còn cả hai tiểu bang đó đều phản đối việc trao quyền sở hữu các vùng đất hoang vu, chưa được khai phá và không thuộc quyền của tiểu bang nào, cho chính quyền Hợp bang vì lợi ích của cả liên minh.

Nếu chủ quyền của các tiểu bang được duy trì, thì những đại diện tại Quốc hội Hợp bang phải do các tiểu bang bầu chọn, chứ không phải do dân chúng. Chúng ta không có quyền thay đổi ý tưởng bình đẳng giữa các tiểu bang. Cách thức duy nhất để xử lý khó khăn này là ném tất cả các tiểu bang vào một mớ hổ lốn, nhưng điều này là không thể làm được và cũng không thể làm như vậy được. Cứ thử xem, chúng ta sẽ thấy liệu các công dân Massachusetts, Pennsylvania và Virginia có chấp thuận mô hình này không? Lý do phản đối là sự cưỡng ép này không thể thực hiện được. Nhưng liệu những kế hoạch khác thì sao? Hiệu quả của kế hoạch này tùy thuộc vào phạm vi quyền hạn có được chứ không phụ thuộc vào việc các tiểu bang, hay dân chúng có quyền bầu chọn. Theo kế hoạch của ông, các cá nhân sẽ trực tiếp bầu chọn người đại diện, cũng giống như kế hoạch của Ngài Randolph. 

Kế hoạch của ông cũng tạo ra một bộ máy hành pháp và tư pháp riêng biệt. Sự cần thiết phải có hai viện trong cơ quan lập pháp là vì mục đích kiểm soát, nhưng sự cẩn trọng đó không cần thiết áp dụng cho trường hợp này. Trong phạm vi tiểu bang, nơi những tranh chấp phe phái rất mạnh, thì việc kiểm soát như vậy là cần thiết. Nhưng trong một cơ quan như Quốc hội thì ít cần thiết hơn. Ngoài ra, các đoàn đại biểu của các tiểu bang khác nhau đã kiểm soát lẫn nhau. Hay là vì dân chúng chỉ trích Quốc hội Hợp bang? Không, điều họ muốn là Quốc hội có thêm quyền hạn. Nếu các quyền hạn như được đề nghị chưa đủ thì dân chúng sẵn sàng trao thêm quyền cho họ. Với quyền hạn thích đáng, Quốc hội Hợp bang sẽ hoạt động hiệu quả hơn, mạnh mẽ hơn và hiểu biết hơn cơ quan lập pháp quốc gia như trong Phương án Virginia. Quốc hội Hợp bang cũng sẽ ít người hơn và được chọn lọc tốt hơn nhờ cách thức bầu cử này.

Phương án của Ngài Randolph vô cùng tốn kém. Nếu cho phép mỗi tiểu bang Georgia và Delaware có hai đại biểu trong Hạ viện thì tổng số đại biểu có thể lên tới 180. Và cứ giả sử nhánh kia - Thượng viện có một nửa số đó, thì tổng cộng sẽ có 270 đại biểu. Ít nhất là một năm một lần, các đại biểu này, từ trung tâm của liên minh cũng như những vùng xa xôi nhất của nền Cộng hòa, phải đến tập trung hội họp. Trong giai đoạn tài chính khó khăn như hiện nay, thì một thể chế tốn kém như vậy liệu có là một suy nghĩ nghiêm túc không? Việc tăng thêm quyền hạn của Quốc hội sẽ tiết kiệm được phần lớn số chi phí này, trong khi vẫn đáp ứng mọi mục đích đề ra.

Ngài WILSON tiến hành so sánh các điểm cơ bản của hai Phương án. Các điểm so sánh là:

1. Phương án Virginia có hai viện và ở một mức độ nào đó thì có tới ba viện trong bộ máy lập pháp, còn Phương án New Jersey chỉ có một viện duy nhất.

2. Sự đại diện của dân chúng là nền tảng trong Phương án Virginia, còn nền tảng của Phương án New Jersey là cơ quan lập pháp tiểu bang.

3. Trong Phương án Virginia, cơ quan lập pháp đại diện theo tỷ lệ dân số, còn Phương án New Jersey là đại diện bình đẳng của tất cả các tiểu bang.

4. Trong Phương án Virginia, một bộ máy hành pháp tối cao đứng đầu chính quyền, còn Phương án New Jersey thì do một nhóm cá nhân lãnh đạo.

5. Trong Phương án Virginia, đa số dân chúng sẽ luôn chiếm ưu thế, còn trong phương án kia, thiểu số sẽ chiếm ưu thế.

6. Trong Phương án Virginia, cơ quan lập pháp quốc gia ban hành các bộ luật trong mọi trường hợp các tiểu bang riêng rẽ không thể thực hiện được. Trong phương án kia, Quốc hội chỉ được bổ sung thêm quyền lực trong một số trường hợp nhất định mà thôi.

7. Trong Phương án Virginia, liên bang có quyền phủ quyết mọi đạo luật của các tiểu bang còn trong Phương án New Jersey là việc cưỡng ép thi hành bằng sức mạnh.

8. Trong Phương án Virginia, Tổng thống có thể bị cách chức, nếu bị kết án và luận tội, còn trong Phương án New Jersey thì sẽ bị thay thế bởi sự đồng ý của đa số các Thống đốc tiểu bang.

9. Phương án Virginia cho phép quyền phê duyệt luật, còn Phương án New Jersey thì không có điều khoản này.

10. Phương án Virginia thiết lập các tòa án cấp dưới, còn Phương án New Jersey thì không nêu ra.

11. Trong Phương án Virginia, quyền xét xử của các tòa án quốc gia được mở rộng; còn Phương án New Jersey chỉ cho phép sự kháng án.

12. Trong Phương án Virginia, quyền xét xử [của tòa án] được mở rộng trong mọi trường hợp liên quan đến hòa bình và sự hài hòa của quốc gia, còn trong Phương án New Jersey, tòa án chỉ có quyền lực trong một số ít trường hợp phát sinh mà thôi.

13. Cuối cùng, trong Phương án Virginia chính dân chúng thông qua Hiến pháp, còn trong Phương án New Jersey thì chỉ cần sự chấp thuận của các cơ quan lập pháp tiểu bang căn cứ theo điều 13 bộ luật Các điều khoản Hợp bang.

Bản thân ông thừa nhận rằng Hội nghị này không được trao thẩm quyền phán quyết, nhưng được tự do đề nghị bất cứ điều gì. Còn bản thân ông trung lập, không thiên về một phương án nào.

Về tâm trạng của dân chúng, ông nghĩ là rất khó để biết được chính xác. Tâm trạng của một nhóm nhỏ dân chúng thường bị một số đại biểu nhầm lẫn là quan điểm của toàn thể dân chúng. Ông không tin dân chúng tôn sùng chính quyền và các chủ quyền tiểu bang, còn chính quyền quốc gia cũng không đáng ghét đối với họ, như một số đại biểu nhận xét. Tại sao chính quyền quốc gia sẽ ít được kính trọng hơn? Vì ít giá trị hơn chăng? Hay vì công dân ít được tự do hơn hay ít được bảo vệ hơn? Hay công dân của tiểu bang Delaware sẽ bị giảm giá trị nếu trở thành công dân của Hợp chúng quốc?

Hiện nay, dân chúng trông đợi điều gì để giảm bớt những sai lầm và khó khăn họ đang phải gánh chịu? Từ sự cải cách bên trong bộ máy chính quyền từng tiểu bang chăng? Không, mà là từ những Hội đồng quốc gia. Đó là nơi dân chúng mong đợi sẽ có những thay đổi. Vì những lý do như vậy, ông không hề lo ngại dân chúng sẽ không ủng hộ việc xây dựng một chính quyền quốc gia mạnh. Vì thế, Phương án của Ngài Randolph nên được gửi cho dân chúng phê chuẩn, chứ không nên gửi tới các cơ quan lập pháp tiểu bang.

Ðối với điểm so sánh đầu tiên giữa hai phương án, ông lo ngại về một số quyền lực mở rộng của liên bang, ông cảm thấy miễn cưỡng phải chấp thuận việc trao các quyền này cho Quốc hội vì hai lý do: (1) Quốc hội là bộ máy lập pháp nhưng lại không đại diện cho dân chúng; (2) Quốc hội Hợp bang là một nghị viện đơn nhất.

(1) Ông không muốn nhắc lại những điều ông đã phát biểu về nguyên tắc đại diện trong chính thể cộng hòa mà chỉ muốn nhắc lại rằng nếu cơ quan này không được đại diện một cách bình đẳng, thì đó sẽ là một chất độc phá hỏng mọi cơ quan của chính quyền. Tại Vương quốc Anh, chất độc này gây rất nhiều tai hại. Việc đảm bảo quyền của cá nhân hoàn toàn phụ thuộc vào sự trong sạch của các tòa án. Còn các thẩm phán không được bổ nhiệm mà cũng chẳng được một Nghị viện dễ bị mua chuộc trả lương. Tự do chính trị tại đất nước này, do quyền đại diện không bình đẳng, bị phó mặc cho những người cai trị.

Ông không định ám chỉ điều xấu xa nào giữa nước Anh với tình hình nước Mỹ hiện nay. Nhưng một bài học mà chúng ta không thể bỏ qua, đó là những cơ quan nhỏ nhất của Vương quốc Anh đều nổi tiếng là những cơ quan tham nhũng và thối nát nhất. Ảnh hưởng của các cơ quan có ít người sẽ mạnh hơn các cơ quan đông người. Ngài Chesterfield đã từng nhận xét rằng một tỉnh nhỏ chứ không phải cả quốc gia Hà Lan đã bị người Pháp dụ dỗ. Nhiều đại biểu cũng biết điều này. Ông cho là việc nhập khẩu, vấn đề bị lo ngại nhiều nhất, sẽ không bị bất cứ bang lớn nào trong Liên minh phá hoại.

(2) Quốc hội Hợp bang là một Viện đơn nhất. Chế độ chuyên quyền xuất hiện trong lịch sử loài người ở những hình thức khác nhau. Đôi khi ở chính quyền hành pháp, đôi khi ở dạng độc tài quân sự. Nhưng liệu một nghị viện độc tài có gây nguy hiểm nào không? Lý thuyết và cả thực tiễn đều chứng minh điều đó. Nếu thẩm quyền của Quốc hội không được kiềm chế, thì không thể có tự do hay ổn định. Nhưng chỉ có thể kiềm chế bằng cách phân chia chính cơ quan này thành những viện độc lập và tách biệt. Một viện duy nhất sẽ không thể kiểm soát hiệu quả sự trong sạch và ý thức của những thành viên của chính viện này.

Một điểm quan trọng khác là sự so sánh này cho thấy sự ủng hộ đối với Phương án Virginia được Ủy ban Tổng thể đệ trình. Phương án này trao quyền hành pháp cho một người tối cao duy nhất. Phương án New Jersey thì trao cho một nhóm người. Ðể kiểm soát thẩm quyền của bộ máy lập pháp cần phải phân chia cơ quan này, nhưng để kiểm soát bộ máy hành pháp, thì cơ quan này phải thống nhất. Một người sẽ chịu trách nhiệm hơn là ba người. Ba người sẽ luôn ganh đua và tranh giành nhau để rồi cuối cùng, sẽ có một người chiếm ưu thế và lấn át hai người kia. Trong chế độ Tam hùng của Ðế chế La Mã, Caesar và sau đó là Augustus là minh chứng cho sự thật này. Những nhà vua của Sparta , và các quan Chấp chính tối cao của La Mã chia bè phái trong khi chiếm giữ quyền tối cao. Ðây là những điều mà ông trăn trở nhiều ngày. Số phận của rất nhiều người phụ thuộc vào quyết định của chúng ta.

Ngài PINKNEY: Thừa nhận rằng rất nhiều điều phụ thuộc vào vấn đề này. Nếu cho New Jersey một lá phiếu bình đẳng, tiểu bang này sẽ không do dự trong việc ủng hộ chính quyền Liên bang. Ông nghĩ Hội nghị có đủ thẩm quyền đưa ra bất cứ đề xuất nào nếu thấy cần thiết để cứu chữa những tai họa và sai lầm hiện nay. Đó là lý do tổ chức Hội nghị này.

Ngài RANDOLPH: Không quá lo lắng về phạm vi quyền lực của Hội nghị. Khi nền Cộng hòa bị đe dọa, thì cần phải đề nghị bất cứ điều gì thấy cần thiết. Ông chỉ trích những yếu kém của chính quyền Hợp bang và mối nguy hiểm của việc trì hoãn những cải cách quan trọng... Bản thân ông sẽ không bao giờ do dự hay chần chừ trước những gì ông cảm thấy cần thiết. Thời điểm hiện nay là thích hợp và có lẽ sẽ là thời điểm cuối cùng cho công việc này.

Vấn đề thật sự là liệu chúng ta sẽ theo đuổi liên minh, hay đề xuất một mô hình quốc gia hoàn toàn mới mẻ? Sự thiếu hiệu quả của mô hình liên minh rõ ràng bị phô bày trước những thách thức mới đây. Nhưng có hai mô hình đáp ứng yêu cầu của một chính quyền chung: (1) Bởi sự ép buộc như phương án Ngài Paterson đề xuất; và (2) Bởi một quá trình lập pháp thực sự như trong phương án kia. Sự ép buộc theo ông là không thể thực hiện được vì phải trả giá quá lớn và quá tàn nhẫn với người dân.

Dường như điều này sẽ nuôi dưỡng những công cụ gây tội ác và bạo lực trên mảnh đất này và tiếp theo, sẽ nuôi dưỡng những tham vọng xấu xa trong một số người. Do vậy, chúng ta thấy cần thiết phải lập ra một cơ quan lập pháp quốc gia để giải quyết những vấn đề mà Quốc hội Hợp bang hiện nay không đáp ứng được. Việc trao mọi quyền lực cho một cơ quan duy nhất có nghĩa là pha trộn bộ máy lập pháp với hành pháp. Điều này đi ngược lại mục đích đã được công nhận của cơ quan này. Nếu Liên minh của chúng ta chỉ muốn trao những quyền hạn an toàn cho Quốc hội thì cơ quan này không đủ khả năng điều hành đất nước. Hơn nữa, Quốc hội Hợp bang lại không phải do dân chúng trực tiếp bầu ra mà do các cơ quan lập pháp tiểu bang. Các cơ quan này vẫn giữ quyền triệu hồi các đại biểu nên Quốc hội Hợp bang sẽ không có ý chí của chính mình mà chỉ thuần tuý là một cơ quan ngoại giao, luôn luôn tuân theo sự sai khiến của các tiểu bang, nơi luôn chiếm đoạt và vi phạm thẩm quyền liên bang.

Lúc này hay lúc khác, một điều khoản thống nhất giữa các tiểu bang, như trong lĩnh vực thương mại, nhập quốc tịch, dập tắt những cuộc bạo loạn... nhất định phải được lập ra vì những lợi ích chung. Các quyền lực này không thể được trao cho một cơ quan duy nhất và không tương xứng về khía cạnh quyền đại diện, được bầu chọn theo mô hình hiện nay, không giành được niềm tin, thậm chí còn ngược lại. Kinh nghiệm bản thân ông cho thấy sự mất niềm tin đó có nguồn gốc sâu xa. Ông cầu khẩn mọi đại biểu xem xét kỹ lưỡng vấn đề đó, bởi thời điểm hiện nay là khoảnh khắc cuối cùng để thiết lập một chính quyền tốt đẹp. Nếu cuộc thử nghiệm này thất bại, dân chúng sẽ hoàn toàn mất hết hy vọng.

Hội nghị dừng họp tại đây.

Phương án xây dựng nhà nước quốc gia của Hamilton Ngày 18 tháng Sáu

Sau khi hai Phương án Virginia và New Jersey được trình bày, Hamilton, khi đó mới 32 tuổi, là người đã cùng với Madison đề xuất tổ chức Hội nghị Lập hiến, đã trình bày một mô hình chính quyền quốc gia mạnh, xóa bỏ mọi chủ quyền của các tiểu bang và biến những tiểu bang này như những tỉnh lệ thuộc hoàn toàn vào chính quyền trung ương. Ý định của Hamilton là thống nhất tất cả 13 tiểu bang riêng rẽ vào một "Nhà nước hùng mạnh duy nhất", bởi ông lo sợ không một chính quyền nào khác có thể kiểm soát được một lãnh thổ rộng lớn như nước Mỹ. Hamilton đặc biệt ca ngợi mô hình chính quyền Anh là "chính quyền tốt nhất trên thế giới".

Mặc dù những điều ông đề xuất không được ai hưởng ứng, nhưng sau này, Hamilton đã mạnh mẽ bênh vực bản Hiến pháp mới. Với những đóng góp to lớn của mình, ông được coi là một trong những kiến trúc sư, không chỉ của bản Hiến pháp Mỹ mà còn của hệ thống tòa án, hệ thống chính quyền và nền kinh tế - tài chính Mỹ. Những nguyên lý Hamilton trình bày tại Hội nghị sau này đã được ông áp dụng trong thời kỳ làm Bộ trưởng Tài chính, đặc biệt là các chương trình về khoản nợ, ngân hàng trung ương và các hoạt động tài chính, kinh tế khác. Cho đến ngày nay, những lập luận của Hamilton đã được thực tế chứng minh khi chính quyền liên bang Mỹ trở nên rất mạnh, hầu như lấn át mọi chính quyền tiểu bang.

Ngài HAMILTON: Đã giữ im lặng cho tới tận lúc này, một phần vì kính trọng các đại biểu khác có uy tín và tuổi tác lớn hơn đã làm ông không muốn trình bày những quan điểm khác với họ và một phần vì tình thế khó xử đối với tiểu bang của ông và tâm trạng của tiểu bang này đã được các đồng nghiệp cùng tiểu bang trình bày, dù ông không chấp nhận quan điểm đó.

Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng đang xảy ra tại Hội nghị trầm trọng đến mức không cho phép bất kỳ sự đắn đo, cân nhắc, lưỡng lự nào. Bổn phận của mọi đại biểu là phải đóng góp công sức và mọi nỗ lực, vì sự an toàn và hạnh phúc của toàn xã hội.

Do vậy, ông buộc phải tuyên bố rằng ông không tán thành bất cứ mô hình nào trong số hai phương án đã được đệ trình. Ông đặc biệt phản đối Phương án New Jersey vì tin rằng nếu tiếp tục duy trì chủ quyền của các tiểu bang, thì không một sự sửa đổi nào đối với Hợp bang nào có thể đáp ứng được mục tiêu của Hội nghị này. Mặt khác, ông thừa nhận rất lo ngại bởi với lãnh thổ quá rộng lớn như nước Mỹ, khó lòng có thể trông đợi những điều tốt lành bằng việc thiết lập một chính quyền trung ương. Những mối nghi ngờ về phạm vi quyền hạn của Hội nghị này xuất hiện do khác biệt quan điểm và từ những lập luận quá xảo quyệt. Ông cho rằng chính quyền liên bang là cách thức hợp nhất các cộng đồng độc lập vào một nhà nước duy nhất.

Những mô hình liên minh khác nhau sẽ có phạm vi quyền hạn khác nhau và thi hành các quyền này theo các cách khác nhau. Trong một số quốc gia, quyền hạn được thi hành đối với các nhóm dân chúng, còn trong trường hợp khác lại điều hành trực tiếp các cá nhân, như Nghị viện Ðức và ngay trong bản thân chính quyền chúng ta đối với những trường hợp phạm tội như cướp biển... Do vậy, phải trao cho chính quyền quốc gia những quyền lực tương xứng với lãnh thổ rộng lớn này. Phương án New Jersey đề xuất những điểm quá xa lạ với mô hình liên bang, bởi mô hình này, về thực chất, chỉ là sự điều hành đối với cá nhân các tiểu bang. Ông tán thành hơn đối với các đề xuất của Ngài Randolph và cho rằng chúng ta đang mắc nợ đất nước. Trong giai đoạn cấp thiết này, chúng ta phải làm bất cứ điều gì nếu thấy cần thiết để mang lại hạnh phúc của dân chúng. Các tiểu bang cử chúng ta đến đây để tìm giải pháp cho tình thế khẩn cấp của liên minh. Việc đề xuất hay dựa vào bất cứ mô hình nào đều không đáp ứng được nhu cầu cấp thiết này, bởi vì phạm vi quyền hạn của chúng ta không rõ ràng là lãng phí công sức chứ không thể đạt được mục tiêu đề ra. Có quý ngài nói rằng các tiểu bang sẽ không phê chuẩn bất kỳ sự thay đổi và sửa chữa nào không nằm trong phạm vi quyền hạn của Các điều khoản Hợp bang. Nhưng chính bản thân các cơ quan lập pháp tiểu bang cũng không đủ thẩm quyền hợp hiến tương xứng với quyền của dân chúng về vấn đề này. Thượng viện New York đề xuất một điều khoản rằng không có quyết định nào của Hội nghị này được thông qua nếu không gửi cho dân chúng phê chuẩn. Nhưng đề xuất này bị bác bỏ chỉ bởi một phiếu duy nhất. Lý do bác bỏ là dự luật này có thể gây ra những ràng buộc bất lợi cho tiểu bang này.

Vấn đề lớn đặt ra là chúng ta sẽ làm gì để mang lại sự thịnh vượng cho đất nước. Trước hết, ông muốn so sánh hai phương án này để chỉ ra thiếu sót của cả hai mô hình. Từ đó, đưa ra những thay đổi, để xây dựng một quốc gia có hiệu quả.

Một chính quyền như vậy phải được xây dựng dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:

1. Phải có một lợi ích bền vững và tích cực ủng hộ chính quyền. Các động cơ hậu thuẫn cho chính quyền liên bang không tồn tại trong các tiểu bang bởi họ không có tinh thần hợp tác ở mức độ cao. Họ thường xuyên theo đuổi những lợi ích riêng rẽ và đi ngược lại lợi ích của toàn thể. Các tiểu bang đang gánh chịu những khoản nợ riêng nên có những kế hoạch tài chính riêng. Tất cả những điều này thường mẫu thuẫn và phá hỏng qui định và kế hoạch của Quốc hội Hợp bang.

2. Lòng đam mê quyền lực. Con người bao giờ cũng ham mê quyền lực. Các tiểu bang có xu hướng muốn giành lại những quyền lực mà họ đã trao, hoặc muốn có ảnh hưởng đối với những kế hoạch của liên bang. Tất cả mọi người đều biết rằng vì tham vọng cá nhân mà những kẻ mị dân đều căm ghét sự kiểm soát của chính quyền trung ương. Mọi người cũng biết rằng dân chúng không lo sợ về việc giải tán chính quyền trung ương như sự giải tán các chính quyền địa phương. Sự giải tán chính quyền địa phương thật sự là tai hoạ, bởi chính quyền trung ương vẫn muốn duy trì chính quyền địa phương ở một mức độ nào đó. Hãy xem xét một tiểu bang như Virginia, trong một vài năm tới sẽ thế nào? Về qui mô và diện tích, tiểu bang này có thể được so sánh với một quốc gia lớn ở châu Âu. Bản thân tiểu bang này quá tự mãn và kiêu ngạo về vai trò quan trọng của mình trong liên minh.

3. Thói quen và sự gắn bó của dân chúng. Toàn bộ sức mạnh của mối quan hệ này nằm trong tay các chính quyền tiểu bang. Dân chúng chỉ nhìn thấy chủ quyền của tiểu bang, bởi họ chỉ nhận được sự bảo vệ của tiểu bang. Chính quyền tiểu bang là nơi thi hành công lý. Mọi đạo luật và hành động của tiểu bang sẽ làm cho dân chúng cảm thấy gần gũi và quen thuộc với chính quyền tiểu bang.

4. Sức mạnh và vũ lực. Vũ lực có thể được hiểu là sự cưỡng ép của các đạo luật, hay của quân đội. Quốc hội không có quyền ban hành đạo luật nào, ngoại trừ một số trường hợp ít ỏi. Trong các tiểu bang, hầu hết các trường hợp, sự cưỡng ép này là rất có hiệu quả dù không hoàn toàn đủ. Quân đội, với một qui mô nào đó, là cần thiết cho mọi cộng đồng dân cư lớn. Tiểu bang Massachusetts nhận thức được sự cần thiết của quân đội nên đang tìm cách ban hành đạo luật thiết lập nó. Nhưng liệu đội quân này sẽ được thi hành thế nào, nếu chỉ một số tiểu bang nào đó thiết lập ra? Điều này là không thể thực hiện được bởi chỉ gây ra chiến tranh giữa các bang. Các đội quân ngoại quốc cũng sẽ không bàng quan đứng nhìn. Họ sẽ can thiệp, sẽ gây ra những rắc rối và chắc chắn sẽ tìm cách chia rẽ liên minh chúng ta.

5. Những tác động khác. Ông không ám chỉ sự hối lộ, nhưng những đặc ân mà chức vụ và lương bổng sẽ tạo ra sự gắn bó đối với chính quyền. Nhưng hầu như mọi vấn đề này đều thuộc phía các chính quyền tiểu bang và sẽ tiếp tục tồn tại cho tới khi còn các tiểu bang. Mọi cảm xúc như chúng ta đã thấy, về tính hám lợi, về tham vọng, những lợi ích sẽ tác động và sai khiến mọi cá nhân, mọi cơ quan, đều rơi vào "dòng chảy" các tiểu bang chứ không chảy chung trong "dòng sông" chính quyền trung ương. Do đó, nói chung, chính quyền tiểu bang luôn thắng thế so với chính quyền trung ương và sẽ làm cho bất kỳ hợp bang nào cũng trở nên bất ổn.

Trong trường hợp này, lý thuyết hoàn toàn được thực tế chứng minh. Hội đồng đại nghị của Hy Lạp cổ đại có thẩm quyền rộng lớn vì những mục đích chung, đặc biệt là quyền sử dụng quân đội trừng phạt những thành viên sai trái. Vậy hậu quả tiếp theo sẽ là gì? Những hành động đó là dấu hiệu cho chiến tranh. Cuộc chiến tranh Phocis là ví dụ điển hình . Vua Philip lợi dụng mối hiềm khích để gây chia rẽ nội bộ giữa các thành bang Hy Lạp, để rồi đánh bại họ và cướp đi mọi tài sản. Một bài học khác là Liên minh Phổ. Vua Charlemagne có uy quyền vô cùng to lớn, nhưng những lãnh chúa đã tìm cách giành quyền kiểm soát, làm uy quyền của đế chế La Mã chỉ còn là hình thức... Những ví dụ khác cũng chứng tỏ sự thật này. Các tổng của Thụy Sĩ không muốn thống nhất thành bất cứ liên minh nào, nên nhiều cuộc chiến tranh giữa các tổng đã nổ ra. Vậy những lỗi lầm này có thể tránh được bằng cách nào? Chỉ bằng cách trao vào tay chính quyền trung ương một thẩm quyền đủ mạnh để lôi cuốn mọi tâm trạng và các động cơ bền vững nói ở trên về phía mình.

Liệu mô hình New Jersey có mang lại hiệu quả này không? Liệu mô hình này có đưa ra giải pháp nào không? Không có giải pháp nào mà hoàn toàn ngược lại bởi mô hình này rất nhiều khiếm khuyết. Những khiếm khuyết trong một số điều khoản của mô hình này sẽ phá hỏng mọi tính hiệu quả của các điều khoản khác. Mô hình này cho Quốc hội quyền thu thuế, nhưng qui định này cũng không đủ hiệu lực. Sự bình đẳng chỉ có thể đạt được bởi sự cưỡng buộc, nhưng kinh nghiệm đã chứng tỏ rằng điều này không thể thực hiện được. Nếu các tiểu bang xem xét kỹ lưỡng mô hình này, họ cũng sẽ xem xét kỹ lưỡng mục đích của việc đóng góp, còn việc đóng nộp, hay không đóng nộp, là tùy theo việc họ có chấp thuận nó hay không.

Một tiểu bang không đóng góp sẽ khiến các bang khác cũng làm theo. Hạn mức đóng góp, về bản chất, là một điều khó có thể qui định công bằng và do vậy, sẽ gây nhiều bất công. Các Ngài sẽ căn cứ vào tiêu chuẩn nào để qui định hạn mức này? Dựa trên cơ sở đất đai là sai lầm. Hãy so sánh Hà Lan với nước Nga, so sánh Pháp, hay Anh với các quốc gia khác ở châu Âu, so sánh Pennsylvania với Bắc Carolina về tiềm lực tài chính và về giá trị tương đối của đất đai để thấy việc sử dụng đất đai làm tiêu chuẩn đánh giá là hoàn toàn sai lầm. Hay lấy số dân làm cơ sở so sánh giữa các quốc gia khác nhau, các Ngài cũng sẽ thấy là không công bằng. Trình độ sản xuất và sự phát triển khác nhau của ở các quốc gia này làm cho sự đánh giá giàu nghèo trở nên không chính xác. Rất nhiều điều phụ thuộc vào tiêu chuẩn đánh giá này. Connecticut, New Jersey và Bắc Carolina không có nền thương mại phát triển, nên không thể gánh chịu một hạn mức đóng góp theo giá trị đất đai như các bang thương mại khác. Họ sẽ không thể thực hiện được bổn phận của mình nên các bang khác sẽ bắt chước họ và Liên minh của chúng ta buộc phải giải tán.

Vậy liệu ngân sách của liên minh thu được bằng cách nào? Nhờ việc đánh thuế vào các mặt hàng thương mại, hay xuất nhập khẩu chăng? Cách đó cũng không công bằng. Trong mô hình này tồn tại một mầm mống phá hoại. Đó là sự bình đẳng phiếu bầu chỉ để làm hài lòng các bang nhỏ. Nhưng Virginia và các bang lớn không thể chấp nhận điều này. Và dù có chấp nhận thì các bang lớn cũng không thể tuân thủ mãi qui định này được, bởi điều đó đi ngược lại mọi nguyên tắc công bằng và không phù hợp với lòng người.

Những nguyên tắc sai trái trong một chính quyền, dù nhỏ bé, nhưng dần dần trong quá trình hoạt động, chúng sẽ phá hỏng chính quyền. Nhiều người nghi ngờ liệu Quốc hội Hợp bang hiện nay có quyền tổ chức và duy trì hạm đội và quân đội trong thời bình không? Ông nghĩ là không. Mô hình của Ngài Paterson không đưa ra giải pháp cho vấn đề này. Nếu chỉ trao các quyền hạn chế như vậy thì Quốc hội sẽ không bao giờ là một tổ chức vận hành đúng đắn và có hiệu quả. Đại biểu Quốc hội, do các bang chọn lựa và có thể bị triệu hồi, sẽ chỉ đại diện cho các lợi ích cục bộ địa phương. Nhưng để cơ quan đó hoạt động có hiệu quả, thì dần dần họ phải chiếm đoạt thêm các quyền khác để rồi cuối cùng, một thể chế độc tài sẽ được thiết lập. Thẩm quyền liên bang muốn duy trì sự tồn tại của liên bang sẽ phải nuốt chửng mọi quyền của tiểu bang. Nếu không, các tiểu bang sẽ chiếm lấy các quyền này của liên bang.

Việc trao những quyền lực đó cho một cơ quan như Quốc hội Hợp bang là đi ngược lại những nguyên tắc của một chính quyền tốt. Hai chủ quyền không thể cùng tồn tại trong cùng một giới hạn. Trao những quyền đó cho Quốc hội, cuối cùng, sẽ dẫn tới một chính quyền tồi hoặc sẽ không có chính quyền nào tồn tại. Phương án New Jersey, do vậy, sẽ không thực thi được. Đến khi đó, chúng ta phải làm gì? Ông không biết phải làm gì cả. Qui mô quá rộng lớn của quốc gia làm ông nản lòng.

Chi phí cho chính quyền trung ương cũng rất tốn kém, trừ phi các tiểu bang giảm bớt chi tiêu của mình. Nếu chính quyền tiểu bang không tồn tại, ông tin rằng việc một chính quyền trung ương thay thế sẽ thiết lập được một nền kinh tế vĩ đại. Ông không muốn làm chấn động ý kiến của dân chúng với việc đề xuất một mô hình như vậy, nhưng mặt khác, ông không thấy lý do gì để từ chối mô hình đó. Chính quyền tiểu bang là không cần thiết, vì bất kỳ mục tiêu thương mại, đánh thuế, hay nông nghiệp nào. Nhưng ông hiểu rằng các thẩm quyền phụ là cần thiết. Đó là các tòa án quận, các cơ quan điều hành những vấn đề địa phương. Nhưng theo nguyên tắc kẻ có lợi phải chịu trách nhiệm về việc đã làm, nên các chính quyền tiểu bang sẽ phải là nơi gánh chịu những chi phí tốn kém đó.

Khó khăn duy nhất là việc tập trung tất cả các đại biểu từ khắp mọi miền đất nước về trung tâm của liên bang. Điều gì có thể lôi kéo các đại biểu về trung tâm đất nước? Lương bổng cho các Hạ nghị sĩ chỉ là "cái mồi câu" cho những kẻ mị dân tầm thường. Ông nghĩ ba đô la, hay chừng đó là tối đa.

Ông e sợ Thượng viện cũng vậy, sẽ do những nhà buôn chiếm giữ, những kẻ thèm muốn các chức vụ của chính quyền. Suy nghĩ đó làm ông hầu như tuyệt vọng về khả năng một Nhà nước Cộng hòa có thể được thiết lập trong một phạm vi lãnh thổ rộng lớn như Hợp bang hiện nay. Nhưng ông cũng thấy là dại dột nếu không đề xuất mô hình khác.

Về ý kiến cá nhân, ông không hề đắn đo mà tuyên bố rằng chính quyền Anh là tốt nhất trên thế giới. Nhận xét này cũng được nhiều quý ngài khôn ngoan và hiểu biết tán thành. Ông cũng rất nghi ngờ bất cứ mô hình nào khác được đề xuất cho nước Mỹ. Ông hy vọng các quý ngài ở đây cùng chia sẻ quan điểm đó và cầu xin những người khác hãy thay đổi quan điểm về vấn đề này.

[Khi thành lập liên minh năm 1781], nhiều người từng nghĩ rằng những quyền lực rộng lớn trao cho Quốc hội Hợp bang đủ để đáp ứng được mục đích của Liên minh. Nhưng đến lúc này, mọi người đều nhìn ra sai sót trong mô hình đó. Ông nhận thấy những đại biểu kiên trì theo chủ nghĩa cộng hòa cũng lớn tiếng như bất kỳ người nào khác trong việc tố cáo những thói xấu xa và đồi bại của nền dân chủ. Sự thay đổi này trong suy nghĩ của dân chúng làm ông tiên đoán rằng đến một lúc nào đó, những người khác cũng như ông sẽ cùng nhau ca ngợi bản Hiến pháp Anh như những lời Ngài Neckar nhận xét: đó là chính quyền duy nhất trên thế giới "thống nhất được sức mạnh của dân chúng với sự an toàn cá nhân".

Mọi xã hội, nơi ngành kinh doanh được khuyến khích phát triển, sẽ luôn luôn chia thành phe thiểu số và phe đa số. Do đó, các lợi ích riêng rẽ sẽ phát sinh, sẽ có những con nợ và chủ nợ... Đa số, khi được trao mọi quyền lực, sẽ đàn áp thiểu số. Vì thế, cả hai phe đều phải có quyền tự bảo vệ mình chống lại phe kia. Vì thiếu sự kiểm soát này, chúng ta không thể ban hành tiền giấy và các qui định về lãi suất... Để có những điều chỉnh đúng đắn, nước Anh đã lập ra thể chế tuyệt vời cho họ. Viện quý tộc là một thể chế cao quý và được kính trọng nhất. Nhờ tài sản lớn lao và trung thành với lợi ích quốc gia, Viện quý tộc trở thành một rào cản vững chắc ngăn cản mọi cải cách độc hại, dù là do Vua hay tầng lớp bình dân cố gắng đề ra. Một Thượng viện tạm thời, với nhiệm kỳ ngắn, không thể đủ vững chắc để đáp ứng mục đích này. Thượng viện Maryland dù rất mạnh nhưng vẫn không thể trở thành một cơ quan kiềm chế hiệu quả. Nếu dân chúng đồng lòng và thật sự mong muốn ban hành tiền giấy, họ sẽ đạt được mục đích này. Sự đồng thuận đó của dân chúng là một bằng chứng cho thấy sự cần thiết của một Thượng viện vững chắc.

Những đánh giá khác nhau về tình cảm và tâm trạng của con người làm cho các Ngài không thống nhất ý kiến về những kiểm soát cần thiết. Họ cho là 7 năm là một thời gian hợp lý để Thượng viện đạt sự vững vàng tương xứng, không bị bạo lực và rối loạn của tư tưởng dân chủ thái quá kích động.

Khi tâm trạng của hết thảy dân chúng hòa nhập với nhau, họ sẽ bùng lên như một ngọn lửa hoang dại và trở nên không thể kiểm soát được. Ông kêu gọi các quý ngài vùng New England cần cân nhắc kỹ càng, dù thực tế của các tiểu bang này chưa chứng kiến điều đó. Còn đối với nhánh hành pháp, dường như phải chấp nhận rằng không thể thiết lập được một bộ máy hành pháp tốt đẹp nào trên các nguyên tắc cộng hòa. Vấn đề đặt ra là liệu có thể thiết lập một chính quyền tốt mà không cần bộ máy hành pháp tốt được không? Mô hình của nước Anh là mô hình duy nhất làm được điều này. Lợi ích từ việc truyền ngôi Vua được kết hợp với lợi ích của cả đất nước. Bổng lộc cá nhân của Nhà Vua Anh lớn tới mức ngoại bang không thể mua chuộc hoặc hối lộ được ông ta. Đồng thời, quyền lực của Vua đủ độc lập và được kiểm soát hiệu quả sẽ đáp ứng những đòi hỏi của nhánh hành pháp trong các vấn đề đối nội.

Một trong những điểm yếu của chính quyền cộng hòa, đó là rất dễ bị ngoại bang mua chuộc và lôi kéo. Những kẻ có tư cách tầm thường, khi giành được quyền lực lớn lao, sẽ rất dễ trở thành công cụ để ngoại bang can thiệp và lợi dụng. Thụy Điển là một ví dụ điển hình. Những cuộc nổi loạn vừa qua ở Thụy Điển đều có sự can thiệp của Anh và Pháp. Vậy từ những quan sát trên có thể rút ra được những gì? Đó là chúng ta phải đạt được một sự bền vững và ổn định tới mức những nguyên tắc cộng hòa chấp nhận được. Hãy để một Viện của Quốc hội giữ chức vụ với nhiệm kỳ suốt đời, hay ít nhất trong thời gian có tư cách tốt. Hãy để bộ máy hành pháp được làm việc suốt đời. Ông chất vấn rằng liệu nhiệm kỳ bảy năm có đủ để các Thượng nghị sĩ hy sinh những lợi ích cá nhân để được dân chúng tin tưởng không? Liệu nhiệm kỳ đó có thu hút được những cá nhân xuất sắc nhất, sẵn lòng làm việc cho đất nước không? Chúng ta cần một Thượng viện có một ý chí vững chắc, có một lợi ích to lớn, để đáp ứng những đòi hỏi đề ra.

Nhưng dân chúng sẽ nghi ngờ rằng liệu đó có phải là một chính quyền Cộng hòa không? Nếu nguyên thủ quốc gia và các quan chức chính quyền được dân chúng bầu chọn, hay một quá trình bầu chọn xuất phát từ nhân dân, thì đó là nền Cộng hòa. Nhưng ông cho rằng bộ máy hành pháp như Ngài Randolph đề xuất, trên thực tế, vẫn có quá ít quyền lực và sự độc lập cần thiết. Với nhiệm kỳ bảy năm, Tổng thống sẽ là người có tham vọng, sẽ tìm cách xây dựng bè lũ chân tay. Vì tham vọng đi cùng với quyền lực, nên trong trường hợp chiến tranh, ông ta sẽ tự ban cho mình những đặc ân để lảng tránh hay từ chối bàn giao quyền lực. Một Tổng thống với nhiệm kỳ suốt đời sẽ không tìm cách sao nhãng sự chính trực của mình và do vậy, sẽ giữ quyền lực một cách an toàn nhất.

Có Ngài phản đối rằng một Tổng thống như vậy rất có thể trở thành một thể chế quân chủ được bầu ra và sẽ tạo ra một chính quyền lộn xộn. Nhưng quân chủ là một khái niệm không rõ ràng, cả về phạm vi quyền lực hay thời hạn nhiệm kỳ. Nếu một quan chấp chính tối cao như ông đề xuất trở thành một nền quân chủ suốt đời, thì mô hình, theo Phương án Virginia, cũng sẽ là một dạng quân chủ độc tài trong bảy năm. Các nhà luật pháp sáng suốt đã từng nhận xét rằng các chế độ quân chủ do bầu cử sẽ là mô hình tốt nhất nếu kiểm soát được những rối loạn, lộn xộn gây ra do tham vọng và mưu mô của những người tranh cử. Những rối loạn đó không phải là không thể tránh được. Đặc điểm này của chính thể quân chủ do bầu chọn chỉ xảy ra trong một số trường hợp nhất định, chứ không phải là đặc điểm phổ biến của mọi chính quyền dạng này.

Ở La Mã, các Hoàng đế do quân đội bầu chọn. Ở Ba Lan, việc bầu chọn được các nhà quý tộc chủ chốt kình địch nhau tiến hành. Các nhà quý tộc này có quân đội riêng nên sẽ gây ra những rối loạn. Tại Đế chế Ðức, việc bổ nhiệm là do các đại cử tri và các quý tộc. Họ đều có động cơ, có thủ đoạn và quân đội, để lập ra những phe đảng và những mưu đồ xấu xa. Liệu chúng ta có thể tìm ra được mô hình nào phù hợp để bảo vệ cả cộng đồng và chống lại bất cứ tác hại xấu xa nào không?

Ông có một mô hình chính quyền, theo ông, phù hợp hơn hai phương án đang được nghiên cứu. Đề xuất của ông có thể sẽ vượt quá sự hình dung của nhiều đại biểu. Nhưng liệu dân chúng có chấp nhận một kế hoạch như ông đề xuất không? Hoặc dân chúng có chấp nhận các phương án khác đang được thảo luận không? Hiện nay, họ chẳng chấp nhận mô hình nào cả. Nhưng liên minh đang tan rã, thậm chí có lẽ là tan rã rồi. Những sai trái và tội lỗi đang hoành hành ở mọi tiểu bang sẽ nhanh chóng cho dân chúng biết thế nào là sự ảo tưởng thái quá về nền dân chủ. Nhưng ông thấy một sự biến chuyển lớn lao đã và vẫn đang diễn ra trong tâm trí của hết thảy mọi người dân.

Dân chúng sớm hay muộn cũng phải từ bỏ những định kiến sai lầm. Dù có bất cứ điều gì xảy ra thì bản thân họ sẽ không thể hài lòng với kế hoạch của Ngài Randolph đưa ra mà sẵn sàng tiến xa tới mức có thể...

Sau đó, Ngài Hamilton đọc phác thảo của ông như sau:

I. Quyền lập pháp tối cao của Hợp chúng quốc được trao cho hai Viện. Viện thứ nhất được gọi là Hội đồng Lập pháp (Assembly), Viện kia được gọi là Thượng viện (Senate), để cùng nhau hình thành cơ quan lập pháp của Hợp chúng quốc, có quyền thông qua bất cứ đạo luật nào và có quyền phủ quyết như được trình bày sau đây.

II. Hội đồng Lập pháp sẽ do dân chúng bầu với nhiệm kỳ ba năm.

III. Thượng viện bao gồm những người được bầu chọn và làm việc suốt đời nếu có tư cách tốt. Việc bầu chọn này do những đại cử tri bầu ra. Các đại cử tri lại được nhân dân bầu ra. Để thực hiện việc bầu chọn, các tiểu bang sẽ được chia thành các quận bầu cử. Khi bất kỳ Thượng nghị sĩ nào chết, bị sa thải, hay từ chức thì ghế của ông ta sẽ được thay thế bởi một cuộc bầu cử tại chính quận mà ông ta được bầu chọn.

IV. Quyền hành pháp tối cao của Hợp chúng quốc được trao cho một viên Thống sứ (Governour), có nhiệm kỳ suốt đời nếu có tư cách đạo đức tốt. Việc bầu chọn sẽ do những đại cử tri tiến hành. Các đại cử tri này lại được dân chúng bầu ra tại các quận bầu cử như trên đã trình bày. Thẩm quyền và chức năng của bộ máy hành pháp như sau: có quyền phủ quyết mọi đạo luật đã được thông qua; quyền điều hành mọi đạo luật đã được phê chuẩn; quyền điều hành chiến tranh khi được cơ quan lập pháp cho phép; quyền ký kết mọi Hiệp ước với sự tư vấn và phê chuẩn của Thượng viện; có toàn quyền bổ nhiệm các viên chức đứng đầu các bộ Tài chính, Chiến tranh, Ngoại giao; quyền đề cử mọi viên chức khác (bao gồm các đại sứ tại nước ngoài) để Thượng viện phê chuẩn; có quyền ân xá mọi tội lỗi, trừ tội phản quốc. Ông ta không được thi hành quyền này nếu không được phép của Thượng viện.

V. Trong trường hợp Thống sứ chết, từ chức, hay bị cách chức, mọi quyền hành của ông ta được trao cho Chủ tịch Thượng viện cho đến khi bầu ra một viên Thống sứ khác thay thế.

VI. Chỉ Thượng viện mới có quyền tuyên bố chiến tranh; quyền tư vấn và ký kết Hiệp ước; quyền chấp thuận, hay bác bỏ mọi sự bổ nhiệm quan chức của các Bộ Tài chính, Chiến tranh và Ngoại giao.

VII. Thẩm quyền của Tối cao Pháp viện được trao cho các thẩm phán giữ chức vụ suốt đời nếu có tư cách đạo đức tốt, được trả lương tương xứng và không thay đổi. Tòa án này có quyền xét xử sơ thẩm mọi trường hợp bắt giữ và quyền xét xử phúc thẩm mọi trường hợp liên quan đến ngân sách, thuế khóa của chính quyền Liên bang, hay liên quan đến công dân nước ngoài.

VIII. Cơ quan lập pháp liên bang có quyền thiết lập các tòa án ở tiểu bang để phán xét các vụ kiện thông thường.

IX. Thống sứ, Thượng nghị sĩ và mọi viên chức của Hợp chúng quốc có thể bị luận tội vì tư cách sai trái hay tham nhũng. Ngay khi bị kết tội, ông ta sẽ bị sa thải và không thể nắm giữ bất kỳ chức vụ nào liên quan đến niềm tin và tiền bạc. Mọi vụ luận tội sẽ được xét xử bởi một tòa án bao gồm Chánh án hay thẩm phán của các Tòa án cao cấp của mỗi tiểu bang, miễn là những thẩm phán đó giữ chức vụ suốt đời nếu có tư cách đạo đức tốt và có lương không thay đổi.

X. Mọi đạo luật tiểu bang, nếu trái với Hiến pháp hay luật pháp của Hợp chúng quốc, đều không có hiệu lực. Để ngăn chặn việc thông qua những bộ luật này, chính quyền Liên bang sẽ bổ nhiệm một viên Thống đốc (Governour), hay viên Chủ tịch Tiểu bang (President of State) có quyền phủ quyết các đạo luật sắp được ban hành tại tiểu bang đó .

XI. Không tiểu bang nào có quyền thiết lập bất kỳ đội quân hay hạm đội nào. Quân đội của mọi tiểu bang đều đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp và duy nhất của chính quyền Hợp chúng quốc. Các sĩ quan và tướng lĩnh quân đội sẽ được chính quyền Liên bang bổ nhiệm và phong chức.

Mỗi điều khoản đưa ra đều được Hamilton giải thích cụ thể theo những nguyên tắc đã nói ở trên.

Hội nghị dừng họp tại đây.

Những lập luận của Madison phản đối Phương án New Jersey Ngày 19 tháng Sáu

Ngày 19 tháng Sáu, Madison đã có một bài phát biểu dài phản đối mọi đề xuất của Paterson. Với những lập luận rất chặt chẽ, ông đã viện dẫn rất nhiều ví dụ về lịch sử những Liên bang của châu Âu, để chứng minh sự cần thiết phải xây dựng một liên bang duy nhất. Trong đó, các tiểu bang phải đại diện theo qui mô dân số. Đó là con đường duy nhất để duy trì sự ổn định và thịnh vượng của 13 tiểu bang Bắc Mỹ. Chính nhờ những lập luận sắc bén của ông mà Hội nghị đã đồng ý sử dụng Phương án Virginia làm nền tảng cơ bản cho mô hình chính quyền liên bang. Sau này, những lập luận đó lại được Madison sử dụng trong các bài luận văn Người Liên bang.

Ngài MADISON: Nhiều đại biểu gây áp lực vì cho rằng Hội nghị này không được trao đủ quyền lực cần thiết để đề xuất bất cứ mô hình nào khác ngoài mô hình liên bang. Ngoài những điều đã được các đại biểu khác trình bày, ông muốn bổ sung thêm rằng không có một kế hoạch liên bang nào như vậy đáp ứng được đòi hỏi cấp bách hiện nay. Một đặc điểm trong chính quyền liên bang là quyền lực không áp đặt trên các cá nhân mà là áp đặt trên tập thể, trên các tiểu bang. Nhưng trong một số trường hợp, như những vụ cướp biển, chiếm đoạt tài sản trên biển, theo Các điều khoản Hợp bang hiện nay và trong nhiều trường hợp được mở rộng như Ngài Paterson đề nghị, là điều hành trực tiếp đối với các cá nhân. Một đặc điểm khác là chính quyền liên bang không phải trực tiếp do dân chúng mà do các chính quyền tiểu bang chọn ra. Nhưng đại biểu Quốc hội Hợp bang của Connecticut và Rhode Island lại được chọn do dân chúng, chứ không phải do cơ quan lập pháp. Phương án của Ngài Paterson không dự định thay đổi điều này.

Ngài Paterson cũng viện lý lẽ rằng Hợp bang được toàn thể chấp thuận, thì khi muốn giải tán cũng phải được toàn thể chấp nhận. Đó có phải là bản chất của mọi Hiệp ước hay không? Lập luận này có phải được rút ra từ những điều khoản đặc biệt trong Các điều khoản Hợp bang không? Nếu chúng ta coi liên minh Hợp bang như một bản khế ước cơ bản, để nhờ đó, các cá nhân thiết lập nên xã hội, thì ít nhất Hợp bang phải là sự đồng lòng của mọi thành viên. Nhưng không thể nói rằng sự hủy bỏ bản khế ước này không thể có hiệu lực nếu không được tất cả các bên đồng lòng nhất trí. Việc một nhóm công dân trong xã hội vi phạm các qui định cơ bản chắc chắn sẽ giải phóng những công dân khác khỏi nghĩa vụ thực hiện bản khế ước đó. Nếu bất cứ bên nào vi phạm bất cứ điều khoản nào nhưng lại không cho phép những bên còn lại được tự do là vì điều ngược lại đã được ngầm hiểu ngay trong bản khế ước. Đặc biệt là có những điều luật của bản Hiệp ước trao quyền cho đa số bắt buộc toàn thể phải tuân theo trong mọi trường hợp. Trường hợp sau chỉ ra rằng chúng ta không thể coi liên minh Hợp bang như một bản khế ước xã hội giữa các cá nhân. Nếu vậy, đa số có quyền ràng buộc tất cả, thậm chí có thể hình thành một bản hiến pháp mới cho tất thảy mọi người, điều mà Ngài Paterson sẽ khó lòng chấp nhận.

Nếu chúng ta xem xét liên minh không phải như một khế ước xã hội của những cá nhân riêng rẽ mà là sự thỏa thuận của các chính quyền tiểu bang, thì điều gì có thể rút ra được từ những thỏa thuận này? Rõ ràng là căn cứ theo những điều qui định về luật của các quốc gia, sự vi phạm bất cứ điều khoản nào, bởi bất kỳ bên nào, sẽ cho phép những bên còn lại được hoàn toàn tự do. Coi như toàn bộ thỏa thuận này được hủy bỏ, trừ phi họ chọn một cách thức khác cưỡng ép bên vi phạm phải thay đổi. Điều này đặc biệt được minh chứng trong các Hiệp ước liên minh trong chiến tranh. Khi một bên vi phạm thì bản Hiệp ước đó coi như không còn có hiệu lực. Nhưng bản Các điều khoản Hợp bang lại không có qui định nào cho phép việc sử dụng vũ lực để cưỡng buộc thành viên chống đối phải tuân thủ luật pháp.

Ông nhận thấy Các điều khoản Hợp bang bị vi phạm rất nhiều và rất rõ ràng, đặc biệt là hành động của New Jersey, khi bang này khước từ tuân thủ những qui định hợp hiến của Quốc hội, công khai hủy bỏ phiếu bầu của mình và từ chối thông qua bất cứ đạo luật nào.

Ông không muốn đưa ra những can thiệp thô bạo với những nhận xét này. Tuy nhiên, ông nghĩ bản chất thật sự của Hợp bang cần phải được nghiên cứu kỹ càng và ông không hề băn khoăn về việc cần củng cố nền tảng cho chính quyền. Sau khi xem xét phương án của Ngài Paterson, ông tuyên bố rằng một mô hình tốt đẹp phải đạt được hai mục tiêu:

(1) Duy trì Liên minh.

(2) Cho phép chính quyền xử lý những vi phạm của các tiểu bang.

Chúng ta cần xem xét mô hình của Ngài Paterson để kết luận: liệu phương án này có đáp ứng các đòi hỏi nêu trên không?

1. Liệu Phương án này có ngăn chặn được những vi phạm luật pháp và các Hiệp ước không? Nếu không ngăn chặn được, thì chắc chắn sẽ dẫn chúng ta tới thảm họa chiến tranh với ngoại bang. Xu hướng vi phạm của các tiểu bang thể hiện ở nhiều ví dụ. Báo cáo mới đây của Quốc hội cho thấy tất cả các quốc gia khác đều vi phạm các Hiệp ước đã được ký kết với chúng ta. Cho đến nay, chúng ta chỉ cam chịu, nhưng đó không thể là giải pháp lâu dài. Mối quan hệ trục trặc với các quốc gia hùng mạnh khác cũng là một tai họa lớn nhất cho cả nước. Do vậy, cần đảm bảo rằng không vùng đất nào có quyền gây tại họa này cho cả nước, nhưng liên minh Hợp bang hiện nay không có khả năng xử lý những sai trái này một cách hiệu quả. Những đề nghị sửa đổi cũng không đáp ứng được yêu cầu này khi để các tiểu bang không hề được kiểm soát.

2. Liệu phương án này có ngăn chặn được việc các tiểu bang chiếm đoạt quyền của liên bang không? Chúng ta đều biết mọi liên minh cộng hòa cổ xưa cũng như hiện đại đều có xu hướng tiếm quyền. Các điều khoản Hợp bang đã qui định rằng việc quan hệ với người Da đỏ là thuộc quyền hạn của Quốc hội, nhưng nhiều tiểu bang đã ký kết những Hiệp ước riêng rẽ, hay gây chiến với họ. Hiến pháp cũng không cho phép hai hay nhiều tiểu bang được quyền ký kết bất kỳ Hiệp ước nào với nhau nếu không được Quốc hội chấp thuận. Nhưng Virginia và Maryland là một ví dụ, Pennsylvania và New Jersey là một ví dụ khác. Các bang này đều đàm phán những Hiệp ước mà chưa hề có tiền lệ hay có lời biện bạch sau đó. Cũng không tiểu bang nào có quyền tổ chức quân đội trong thời bình nếu không được Quốc hội chấp thuận. Qui định này đòi hỏi có sự tuân thủ nghiêm ngặt nhất. Nhưng Massachusetts, tiểu bang mạnh nhất của liên bang, thì không tuân thủ khi họ thành lập một đội quân riêng. Ngay lúc này, tiểu bang đó đang thành lập một đội quân mà chẳng đoái hoài đến việc báo cáo cho Quốc hội.

Nếu như chúng ta xem xét các thể chế hợp bang hay các liên minh khác, chúng ta sẽ thấy các thành viên trong những liên minh này đều có khuynh hướng vi phạm thẩm quyền của liên minh. Sau đó, ông phân tích các Nhà nước Liên bang Hy Lạp cổ đại và các Hợp bang Thụy Sĩ, Đức và Bỉ, tìm xem những điểm tương đồng đối với Hợp chúng quốc về mặt thể chế và thẩm quyền liên minh, để thấy việc vi phạm thẩm quyền đều dẫn các liên bang này tới sự hỗn loạn và rồi sụp đổ. Ông thấy kế hoạch của Ngài Paterson không kiểm soát các tiểu bang trong công việc phòng thủ chung mà đó phải là đặc quyền của liên bang. Trong đó, hai điều khoản có thiếu sót rất nghiêm trọng.

1. Hiến pháp được phê chuẩn không phải do dân chúng mà do các cơ quan lập pháp tiểu bang. Do đó, bản Hiến pháp không thể trở thành các điều luật tối thượng cho tất cả các tiểu bang.

2. Bản Hiến pháp đó chỉ trao cho tòa án liên bang quyền phúc thẩm, nhưng chỉ trong một số vụ nhất định. Sự thiếu vắng điều khoản này có thể dẫn tới mối nguy hiểm về sự tha tội quá mức trong các tòa án tiểu bang. Và sau việc tha tội như vậy thì liệu còn phúc thẩm được điều gì nữa? Ngoài ra, ở hầu hết nếu không nói là tất cả các tiểu bang, các bản Hiến pháp tiểu bang đều cho phép các cơ quan hành pháp có quyền ân xá. Vậy quyền này sẽ được thu lại thế nào nếu bản Hiến pháp chỉ do các cơ quan lập pháp thông qua?

3. Liệu mô hình đó có ngăn chặn được sự vi phạm giữa các tiểu bang không? Chúng ta đã chứng kiến quá nhiều các ví dụ như vậy. Luật pháp của Virginia và Maryland đều ưu ái dân chúng tiểu bang mình hơn dân chúng các tiểu bang khác trong các vụ kiện trong khi Các điều khoản Hợp bang qui định rằng mọi quyền và đặc ân của tất cả dân chúng là như nhau. Ông coi việc ban hành tiền giấy và các đạo luật tương tự là những hành động phạm pháp. Các tiểu bang đối với nhau vừa là con nợ và chủ nợ. Như vậy, các tiểu bang "chủ nợ" sẽ phải chịu tổn hại khi các tiểu bang "con nợ" ban hành tiền giấy. Chúng ta đã chứng kiến những hành động trả đũa và gây hấn về lĩnh vực này đe dọa không chỉ sự hài hòa thống nhất mà còn đe dọa sự yên bình của liên minh. Phương án của Ngài Paterson không cho Quốc hội Hợp bang quyền phủ quyết các bộ luật tiểu bang mà để họ tự do không bị kiểm soát thi hành những kế hoạch sai trái nhằm chống lại nhau.

4. Liệu mô hình này có đảm bảo được sự bình yên của các tiểu bang không? Những vụ rối loạn ở Massachusetts đã cảnh báo mọi tiểu bang khác về mối nguy hiểm mà họ có thể phải gánh chịu. Nhưng kế hoạch của Ngài Paterson không có những điều khoản cho phép liên minh có giải pháp đối phó với những vấn đề này. Căn cứ theo lý thuyết về nền Cộng hòa, lẽ phải, quyền lực và sức mạnh phải thuộc về đa số và phải do đa số nắm giữ. Nhưng thực tế và kinh nghiệm cho thấy đôi khi thiểu số có thể đánh bại đa số: (1) Nếu như thiểu số ngẫu nhiên có đủ mọi kỹ năng và trình độ quân sự điêu luyện, chiếm giữ những nguồn tài nguyên và tiền bạc lớn, thì 1/3 có thể chiến thắng 2/3 còn lại. (2) 1/3 những người có quyền bầu chọn người lãnh đạo có thể trở thành đa số bằng cách cho phép những người nghèo, những người không đủ tài sản và những người chỉ muốn nổi loạn chứ không muốn thiết lập chính quyền được quyền bỏ phiếu. (3) Những nơi có nô lệ thì lý thuyết cộng hòa càng trở nên sai lầm.

5. Liệu mô hình đó có đảm bảo thiết lập nền hành pháp và lập pháp tốt ngay trong các tiểu bang không? Khi những tội ác và sai trái dần dần phát triển, phá hỏng hệ thống chính trị liên minh và tất yếu, cũng sẽ phá hỏng chính quyền tiểu bang. Do từng tiểu bang riêng biệt đều tác động gián tiếp đến tổng thể nên đó là một lý do quan trọng để tin rằng các tiểu bang đều cảm nhận được sức ép mà họ phải chịu đựng, và đó là động cơ thúc đẩy việc tổ chức Hội nghị này. Về điểm này, ông tiến hành liệt kê hàng loạt những sai trái và các vi phạm: (1). Các tiểu bang thông qua vô số các bộ luật sai trái. (2). Các bộ luật này thất thường, dễ thay đổi. (3). Các bộ luật này không công bằng. (4). Những bộ luật này chẳng được thi hành nghiêm chỉnh. Vì Phương án của Ngài Paterson không mang lại giải pháp cho những sai trái cực kỳ nguy hiểm này, nên cũng không mang lại câu trả lời tương xứng cho nhu cầu cấp thiết hiện nay của đất nước.

6. Liệu mô hình đó có đảm bảo sự an toàn cho liên minh chống lại các thế lực ngoại bang tìm cách lôi kéo và gây ảnh hưởng đến các thành viên của liên minh không? Những điều đó tất yếu sẽ xảy ra. Những âm mưu xuất hiện trong số các Nhà nước Hợp bang Hy Lạp cổ đại là bài học cho ngày nay. Đầu tiên là những xúi giục do vua Ba Tư gây ra và sau đó là tai họa khủng khiếp do vua Philip của Macedonia gây ra . Còn các thành bang của liên minh Achaea , lúc đầu bị Macedonia và sau đó bị La Mã tìm cách chia rẽ. Các tổng của Thụy Sĩ bị Áo, Pháp và các quốc gia láng giềng can thiệp. Các vương quốc của đế chế Phổ bị Pháp, Đức, Anh, Tây Ban Nha và cả Nga tìm cách chia rẽ. Còn trong Liên bang Bỉ, mọi quốc gia láng giềng đều tìm cách can thiệp. Kế hoạch của Ngài Paterson không trao cho chính quyền trung ương quyền phủ quyết bất kỳ ý muốn nào của các tiểu bang nên sẽ chỉ mở rộng cánh cửa cho những âm mưu xấu xa và nguy hiểm giữa chính chúng ta mà thôi.

7. Ông cầu xin các bang nhỏ đang tán thành kế hoạch của Ngài Paterson nên xem lại tình huống họ sẽ phái đương đầu. Trước tiên, họ vẫn phải gánh chịu những chi phí để duy trì các đại biểu tại Quốc hội. Nếu họ muốn giảm bớt những chi tiêu cho các đại biểu của mình, thì có thể họ sẽ mắc phải những sai lầm khác. Những ghi chép của Quốc hội cho thấy các công việc của Quốc hội thường xuyên bị trì hoãn do quá nhiều đại biểu vắng mặt. Các tiểu bang thường vắng mặt lại không phải là các bang lớn. Ông nhắc Hội nghị cần tính đến hậu quả sẽ xảy ra nếu các bang nhỏ vẫn phải chịu toàn bộ các chi phí để duy trì sự đại diện tại Quốc hội. Trong giai đoạn chiến tranh, một đại biểu của Delaware trước khi ký Các điều khoản Hợp bang, đại biểu duy nhất của tiểu bang này, lại là công dân của Pennsylvania. Vào thời gian khác, cũng tiểu bang Delaware có ba đại biểu, nhưng hai người là công dân của Pennsylvania, còn người thứ ba lại là công dân của New Jersey. Việc bầu chọn những đại biểu này nhằm giảm nhẹ chi phí của tiểu bang đó. Nhưng bất kể vì lý do gì, thì phiếu bầu của tiểu bang này cũng bị nghi ngờ và ảnh hưởng của tiểu bang khác sẽ tăng lên.

Vấn đề thứ hai là sự cưỡng ép, hiệu quả của phương án Ngài Paterson đề xuất tùy thuộc vào điều này, sẽ chỉ sử dụng đối với chính họ [các tiểu bang nhỏ-ND] mà thôi. Không thể cưỡng ép được các bang lớn, còn các bang nhỏ, nếu bị cưỡng ép, sẽ muốn trả thù. Ông minh họa vấn đề này bằng lịch sử Nhà nước Hợp bang Hy Lạp cổ đại và Đế chế Phổ. "Cái mạng nhện" đó chỉ làm kẻ yếu thêm rối rắm và là sự mua vui cho kẻ mạnh!

8. Các đại biểu của các bang nhỏ cũng cần xem xét tương lai cho chính mình nếu ngoan cố theo đuổi một kế hoạch không thể chấp nhận được và chỉ càng ngăn cản việc chấp thuận các mô hình khác. Kế hoạch này chỉ mang lại tai họa mà thôi. Cần phải trù tính những điều có thể xảy ra và tìm ra giải pháp trước khi chấp nhận nó. Nếu liên minh các tiểu bang bị giải tán, thì họ có thể chọn lựa một trong hai giải pháp. Các tiểu bang có thể duy trì sự độc lập của mình, hoặc tham gia vào một hay hai hợp bang nhỏ sẽ hình thành. Nếu trường hợp thứ nhất xảy ra, liệu các tiểu bang riêng rẽ có thể chống lại những tham vọng và sức mạnh của các bang lớn láng giềng như họ được hưởng dưới một chính quyền trung ương lan tỏa sức mạnh của mình tới khắp mọi vùng trên vương quốc này và quan tâm bình đẳng đối với việc bảo vệ mọi vùng lãnh thổ chống lại sự xâm chiếm của ngoại bang hay không? Trong trường hợp thứ hai, liệu các bang nhỏ có thể trông đợi các bang lớn láng giềng sẽ liên minh với họ theo nguyên tắc bình đẳng, và trao cho mỗi thành viên một lá phiếu bình đẳng không? Hay họ muốn bị mất ít quyền hơn như trong mô hình của Ngài Randolph?

Khó khăn lớn nhất nằm ở vấn đề đại diện. Nếu điều này được giải quyết, thì mọi vấn đề khác đều có thể vượt qua được. Hai quý ngài từ New Jersey (Ngài Brearly và Ngài Paterson) đều đồng ý rằng nếu cho Virginia, có diện tích lớn gấp nhiều lần Delaware, lại có lá phiếu bình đẳng với nhau là không công bằng. Nhưng họ lại cho rằng Delaware sẽ không an toàn nếu cho phép Virginia có nhiều lá phiếu hơn của Delaware. Đề xuất của họ là ném mọi tiểu bang vào một "mớ hổ lốn", rồi phân chia thành 13 phần bằng nhau. Liệu mô hình như vậy có thực tế không? Sự khác biệt giữa các qui định về tài sản, về phong tục, lối sống và quan điểm không đồng nhất tại các tiểu bang khác nhau làm cho kế hoạch này không thể thực thi được.

Dù là với quyền lực tối cao của một trong những nhà vua ở châu Âu như Vua nước Pháp, với sự cố vấn khôn ngoan của một trong những viên Thượng thư yêu nước và có học hành nhất như Ngài Neckar, thì ở bất cứ thời đại nào cũng không thể tạo ra sự bình đẳng trong những lãnh thổ quá khác biệt về phong tục và tập quán. Nhưng việc chấp nhận một sự pha trộn chung và phân chia lại các tiểu bang là hoàn toàn có thể và mối nguy hiểm mà các bang nhỏ lo sợ, từ việc đại diện theo tỷ lệ, là có thực. Một liên minh tự nguyện và đặc biệt của các tiểu bang này với các tiểu bang láng giềng sẽ thuận lợi hơn cho cả cộng đồng và mang lại sự an toàn hơn cho chính họ. Nếu New Jersey hay Delaware nghĩ rằng sự bình đẳng giữa các tiểu bang sẽ mang lại thuận lợi cho họ và coi đó là điều kiện thiết yếu để thiết lập liên minh với các tiểu bang láng giềng thì tại sao mục đích này không thể đạt được nếu Hiến pháp cho phép họ tự do hình thành bất cứ liên minh nào họ muốn? Tại sao họ lại muốn nhất định phải thiết lập liên minh bao gồm tất cả các tiểu bang, khi điều này vô cùng khó khăn, và nhiều tiểu bang khác chẳng dễ dàng chấp nhận, trong khi họ vẫn phải gánh chịu những gánh nặng tài chính? Triển vọng nhiều tiểu bang mới ở miền Tây sẽ tham gia liên minh là một xem xét quan trọng khác. Họ sẽ tham gia liên minh nhưng sẽ có rất ít cư dân. Nếu họ có quyền bỏ phiếu theo tỷ lệ dân số, mọi việc sẽ đúng đắn và an toàn. Nhưng nếu họ có lá phiếu bình đẳng thì một thiểu số nhỏ chưa từng có, khi chống đối, sẽ chiến thắng tất cả các tiểu bang khác.

Toàn thể Hội nghị đều chấp thuận không xem xét kế hoạch của Ngài Paterson, trừ tiểu bang New York và New Jersey.

Cuộc bỏ phiếu về đề xuất sử dụng kế hoạch của Ngài Randolph làm nền tảng cho Hội nghị:

MA: đồng ý; CT đồng ý; NY: không; NJ: không; PA: đồng ý; DE: không; MD: không quyết định; VA: đồng ý; NC: đồng ý; SC: đồng ý; GA: đồng ý.

Tranh luận về chủ quyền liên bang và nhiệm kỳ của Hạ nghị sĩ Ngày 21 tháng Sáu

Ngày 21 tháng Sáu, các đại biểu đã tranh luận về việc duy trì hay xóa bỏ chính quyền tiểu bang và nhiệm kỳ của Hạ nghị sĩ. Nói chung, hầu hết các đại biểu đều mong muốn duy trì chính quyền tiểu bang để kiểm soát và điều hành những vấn đề địa phương. Còn đối với Hạ viện, những phân tích về thời gian nhiệm kỳ của Hạ nghị sĩ là rất cụ thể và sâu sắc. Các đại biểu đã phân tích mọi khía cạnh của việc bầu cử Hạ nghị sĩ và tình hình nước Mỹ để xác định nhiệm kỳ thích hợp nhất, vừa đảm bảo hiệu quả của Hạ viện, vừa đảm bảo các cuộc bầu cử được tiến hành thuận lợi và ít tốn kém.

Bác sĩ JOHNSON: Việc so sánh hai phương án đề xuất của Virginia và New Jersey cho thấy Phương án New Jersey được tính toán để duy trì quyền lợi riêng rẽ của các tiểu bang. Phương án của Virginia không định xóa bỏ chính quyền các tiểu bang, nhưng có lẽ là đi theo hướng này. Chỉ riêng Ðại tá Hamilton, với việc chỉ trích Phương án New Jersey, đã mạnh mẽ tranh luận và kiên quyết đòi xóa bỏ chính quyền tiểu bang. Ngài Wilson và một đại biểu từ Virginia [Ngài Madison], cũng phản đối Phương án New Jersey ở mức độ khác nhau. Họ muốn các tiểu bang vẫn giữ một phạm vi quyền lực nhất định, dù chỉ là những quyền không quan trọng. Tuy nhiên, họ không chỉ ra những quyền này bao gồm những quyền gì để bảo đảm các tiểu bang không thể chống lại thẩm quyền liên bang.

Nếu những quyền dành cho các tiểu bang đó chỉ để làm hài lòng những người ủng hộ mô hình New Jersey rằng các tiểu bang riêng rẽ sẽ không bị nguy hiểm thì nhiều lập luận của họ, không nghi ngờ gì nữa, cần phải loại bỏ. Ông muốn xem xét kỹ lưỡng liệu các tiểu bang, như trong trường hợp đề xuất, ít nhất vẫn duy trì được một mức độ quyền lực nào đó thì những quyền này có được đảm bảo không nếu không cho họ tham gia một cách hiệu quả vào chính quyền trung ương và không trao cho họ một lá phiếu bình đẳng trong các hội đồng liên bang để tự bảo vệ mình.

Ngài WILSON: Tầm quan trọng của vấn đề này buộc ông dù chưa được chuẩn bị nhưng cũng phải nỗ lực trình bày nhằm giải quyết những khó khăn đặt ra. Có Ngài sẽ hỏi rằng liệu chính quyền liên bang và tiểu bang có thể hòa thuận với nhau được không và liệu tiểu bang sẽ được đảm bảo thế nào để chống lại chính quyền liên bang? Nhưng tại sao không hỏi ngược lại rằng liệu chính quyền liên bang có được bảo đảm chống lại các tiểu bang hay không? Nói chung, cần chấp nhận rằng sự ghen tị và hiềm khích sẽ xuất hiện giữa chính quyền liên bang và tiểu bang. Như kế hoạch hiện nay, dù ông không đồng ý như vậy, cho phép cơ quan lập pháp tiểu bang chọn một Viện của Quốc hội Liên bang là Thượng viện. Do đó, việc tham gia vào chính quyền liên bang này sẽ giúp các cơ quan lập pháp tiểu bang có cơ hội bảo vệ quyền lợi của mình. Liệu có cần thiết lập một qui định tương hỗ, như trao cho chính quyền liên bang quyền tự bảo vệ, bằng việc được bổ nhiệm một nhánh nào đó của chính quyền tiểu bang không? Nếu sự đảm bảo này là cần thiết ở một phía thì phía kia cũng đòi hỏi như vậy. Nhưng khi xem xét quan điểm này kỹ lưỡng hơn, ông thấy không có mối nguy hiểm nào từ chính quyền liên bang đối với các tiểu bang. Việc các bang lớn kết hợp với nhau sẽ cảnh báo các bang còn lại và ý đồ đó sẽ bị ngăn chặn. Nhưng không có nguy cơ nào về một ý đồ như vậy bởi nói chung, các tiểu bang đều có những lợi ích giống nhau.

Trong trường hợp bất kỳ đề xuất nào của cơ quan lập pháp quốc gia vi phạm chủ quyền của tiểu bang, ông thừa nhận rằng ngay lập tức, sự cảnh báo sẽ xuất hiện tại chính cơ quan lập pháp quốc gia. Ý định đó sẽ truyền xuống các cơ quan lập pháp tiểu bang và cuối cùng sẽ lan rộng ra dân chúng. Chính quyền Liên bang vẫn sẵn sàng duy trì quyền của các tiểu bang để các tiểu bang duy trì quyền của các cá nhân. Mọi thành viên của liên bang đều có những lợi ích chung. Trong chính quyền liên bang, việc những nghị sĩ đại diện cho lợi ích của dân chúng tiểu bang vẫn sẽ cho phép các tiểu bang duy trì những quyền mà dân chúng mong muốn họ nắm giữ. Do đó, ông không hề phát hiện thấy bất cứ mối nguy hiểm nào về khía cạnh này như những quý ngài khác lo ngại. Ngược lại, ông thừa nhận rằng bất kể mọi sự cẩn trọng, chính quyền liên bang sẽ thường xuyên phải gánh chịu mối đe dọa chiếm quyền từ phía các tiểu bang.

Ngài MADISON: Cho rằng: (1) Ít có mối đe dọa từ phía chính quyền liên bang như từ phía chính quyền tiểu bang. (2) Tác hại của sự vi phạm nếu do liên bang gây ra sẽ ít nguy hiểm hơn nếu do tiểu bang gây ra.

1. Mọi mô hình hợp bang khác đều có xu hướng trở thành một xã hội vô tổ chức hơn là trở thành một nền độc tài, các thành viên thường bất tuân lệnh chính quyền trung ương hơn là sự lạm quyền từ phía trung ương. Kinh nghiệm của riêng chúng ta cũng chứng tỏ điều này. Nhưng những thay đổi đề xuất về nguyên tắc và hình thức của liên minh sẽ làm thay đổi xu hướng này. Các chính quyền trung ương cần có quyền lực mạnh thực sự và phải có ít nhất một Viện lập pháp do dân chúng bầu ra chứ không phải do các chính quyền tiểu bang. Để hiểu toàn bộ lập luận phản đối này, hãy xem xét rằng giả sử quyền lực vô hạn được trao cho cơ quan lập pháp liên bang, còn các tiểu bang trở thành một tổ chức phụ thuộc vào cơ quan lập pháp liên bang. Tại sao điều này lại buộc chính quyền liên bang phải giành mọi quyền lực của tiểu bang, nếu sự tồn tại của chính quyền tiểu bang là có lợi và đó là mong ước của dân chúng? Tại một số tiểu bang, đặc biệt là tại Connecticut, mọi thị trấn đều hợp tác với nhau và đều có quyền hạn nhất định. Vậy tại sao các đại biểu của các thị trấn tại cơ quan lập pháp tiểu bang lại cố gắng cướp đoạt quyền của thị trấn? Nếu chính quyền địa phương có lợi cho dân chúng, họ sẽ gắn bó với nó. Còn những đại diện do họ chọn lựa sẽ phải gắn bó với quyền và lợi ích của cử tri. Mối quan hệ giữa chính quyền liên bang và tiểu bang cũng tương tự như vậy.

2. Những sự phòng vệ nhằm chống lại sự lạm quyền của chính quyền tiểu bang đối với liên bang là cần thiết hơn hướng ngược lại. Lý do chủ yếu phản đối việc xóa bỏ chính quyền tiểu bang là vì chính quyền liên bang không thể chăm lo mọi điều nhỏ nhặt thuộc quyền hạn của địa phương. Điều đó không có nghĩa là chống lại sự lạm quyền của trung ương mà chống lại việc không thể áp dụng hoàn hảo nguyên tắc này trên một đất nước quá rộng lớn như Hợp chúng quốc với quá nhiều vấn đề cần quan tâm. Nếu chính quyền liên bang không thể kiểm soát được mọi vấn đề trên một lãnh thổ rộng lớn như vậy, thì lợi ích của chính quyền liên bang cùng với lợi ích của dân chúng đòi hỏi phải duy trì các chính quyền địa phương.

Nếu chính quyền trung ương đủ khả năng kiểm soát được mọi lĩnh vực mà không cần đến các chính quyền tiểu bang, thì dân chúng một Nhà nước Cộng hòa vĩ đại sẽ chẳng mất tự do như tự do họ được hưởng với tư cách là công dân của 13 nước cộng hòa nhỏ. Một công dân của Delaware không được tự do như công dân của Virginia chăng? Hay họ sẽ mất bớt tự do nếu là công dân Hợp chúng quốc chăng? Do đó, khuynh hướng của chính quyền liên bang thôn tính các chính quyền tiểu bang sẽ không dẫn tới hậu quả tai hại. Hãy xem xét quan điểm ngược lại, khi chính quyền tiểu bang có khuynh hướng vi phạm sự độc lập của chính quyền liên bang. Những hậu quả tăm tối đó không cần phải nói ra.

Hãy hình dung ra những tai họa này. Đó chính là lý do buộc chúng ta đang phải thảo luận tại đây, để tìm ra giải pháp để ngăn chặn tai họa đó. Đó cũng là một nhiệm vụ rất khó khăn.

Đề xuất thứ ba trong Phương án của Randolph được đưa ra xem xét. [đề xuất về cách thức bầu chọn Hạ viện].

Tướng PINKNEY: Đề xuất viết rằng: "Viện thứ nhất, thay vì do dân chúng bầu trực tiếp, sẽ được bầu chọn theo một cách thức do Nghị viện tiểu bang đó quyết định".

Ông cho rằng: 1. Sự tự do này sẽ làm các tiểu bang hài lòng hơn vì các Nghị viện tiểu bang sẽ tìm ra cách thức phù hợp với ý kiến của dân chúng. 2. Điều này sẽ tránh được ảnh hưởng thái quá của các quận lớn thường thắng thế nếu các cuộc bầu cử được tiến hành theo quận như nhiều đại biểu đề xuất. 3. Những cuộc bầu cử gây tranh cãi, nếu để cho Quốc hội Liên bang quyết định, sẽ rất tốn kém, nhất là ở những vùng xa xôi của nước cộng hòa.

Ngài L. MARTIN: Tán thành đề xuất này.

Đại tá HAMILTON: Coi đề xuất này là định chuyển quyền bầu chọn của dân chúng cho các cơ quan lập pháp tiểu bang nên trên thực tế sẽ phá hỏng mô hình này. Điều đó chỉ làm tăng ảnh hưởng của các Nghị viện tiểu bang mà khó có thể tìm được giải pháp ngăn ngừa hiệu quả. Mọi người đều nhận thức được nguy cơ này. Nếu chính quyền liên bang muốn duy trì sự tồn tại của mình, thì các chính quyền tiểu bang sẽ phải dần dần suy yếu và có thể mất đi. Do đó, không thể đưa vào bản Hiến pháp một điều khoản sai trái.

Ngài MASON: Đòi tiếp tục duy trì quyền bầu cử của dân chúng. Bất kể nguyên tắc dân chủ có gây bất lợi nào đi nữa, thì đó vẫn là sự bảo đảm duy nhất quyền của dân chúng.

Ngài SHERMAN: Cho rằng việc bầu chọn do cơ quan lập pháp tiểu bang tiến hành sẽ là tốt nhất, nhưng đồng ý với kế hoạch hiện nay [do dân chúng bầu chọn].

Ngài RUTLIDGE: Không nghĩ rằng có sự khác biệt quá mức giữa việc bầu cử trực tiếp và gián tiếp của dân chúng. Điều đó giống như việc tự mình làm và người khác làm. Một cuộc bầu cử của cơ quan lập pháp thường sẽ tinh lọc, lựa chọn và sẽ phù hợp với tâm trạng của cả cộng đồng, tốt hơn là do dân chúng trực tiếp bầu. Nếu chính Hội nghị này do dân chúng, chứ không phải các cơ quan lập pháp chọn ra, thì khó lòng tìm được các cá nhân có phẩm chất và tư cách đứng đắn. Các đại biểu do Quốc hội bầu chọn sẽ là những người chân chính và khôn ngoan hơn nếu do dân chúng bầu.

Ngài WILSON: Coi việc dân chúng bầu cử không chỉ là một hòn đá tảng then chốt mà còn là nền tảng cho cả công trình. Sự khác biệt giữa việc dân chúng bầu chọn trực tiếp và gián tiếp là rất lớn và đặc biệt có ý nghĩa, vì các cơ quan lập pháp tiểu bang hiện nay không đại diện cho ý muốn của dân chúng mà thường là chống lại chính quyền liên bang và có thể chống lại chính dân chúng.

Ngài KING: Mở rộng quan điểm này. Ông cho rằng các cơ quan lập pháp thường bầu chọn những đại biểu quị lụy ý muốn của mình và đi ngược lại lợi ích của toàn thể dân chúng. Thậm chí, họ có thể "sáng chế" ra được một cách bầu cử để đáp ứng mục đích này. Ông kể ra hàng loạt ví dụ, trong đó, ý muốn của các tiểu bang mâu thuẫn với chính quyền liên bang, đặc biệt là sự cạnh tranh trong việc vay tiền giữa hợp bang và tiểu bang.

Tướng PINKNEY: Cho rằng chính quyền tiểu bang sẽ là một bộ phận của chính quyền liên bang. Nếu hủy bỏ chính quyền tiểu bang hoặc giảm bớt quyền lực của tiểu bang, Nam Carolina và các tiểu bang khác sẽ chẳng là gì ngoài việc phục vụ lợi ích của chính quyền liên bang.

Về đề xuất của Tướng Pinkney rằng "Viện thứ nhất, thay vì do dân chúng bầu trực tiếp, sẽ được bầu chọn theo một cách thức, do Nghị viện tiểu bang đó quyết định":

MA: phản đối; CT tán thành; NY: phản đối; NJ: tán thành; PA: phản đối; DE: tán thành; MD: không quyết định; VA: phản đối; NC: phản đối; SC: tán thành; GA: phản đối.

Về đề xuất Hạ viện sẽ do dân chúng bầu chọn: MA: tán thành; CT: tán thành; NY: tán thành; NJ: phản đối; PA: tán thành; DE: tán thành; MD: không quyết định; VA: tán thành; NC: tán thành; SC: tán thành; GA: tán thành.

Đề xuất "Hạ viện sẽ có nhiệm kỳ ba năm" được đưa ra xem xét.

Ngài RANDOLPH: Muốn gạch bỏ chữ "ba năm" và thay bằng "hai năm". Ông cho rằng nhiều cuộc bầu chọn nhiệm kỳ hằng năm là nguồn gốc nhiều sai trái lớn ở nhiều tiểu bang, nhưng đó là do thiếu vắng sự kiểm soát cần thiết chống lại sự can thiệp thái quá của công chúng. Nhưng nhiệm kỳ ba năm sẽ rất tai hại. Ông tán thành một nhiệm kỳ hằng năm hơn là hai năm, nhưng do lãnh thổ quá lớn của Hợp chúng quốc, nên những đại biểu từ những miền xa xôi nhất của đất nước khó có thể tập trung về trung tâm để hội họp. Dân chúng cảm thấy gần gũi và gắn bó với các cuộc bầu cử thường xuyên. Mọi bản Hiến pháp của các tiểu bang, ngoại trừ Nam Carolina, đều qui định các cuộc bầu cử thường niên.

Ngài DICKENSON: Ý tưởng về các cuộc bầu cử thường niên vay mượn từ thói quen tập quán xa xưa của nước Anh, một quốc gia nhỏ bé hơn đất nước của chúng ta rất nhiều. Ông nghĩ rằng việc bầu chọn hai năm một lần cũng là bất tiện và tán thành nhiệm kỳ ba năm để ngăn chặn những khó khăn của việc thay phiên toàn bộ các đại biểu vào cùng một thời điểm. Ông đề xuất sự quay vòng, một cuộc bầu cử thường niên cho 1/3 số Hạ nghị sĩ.

Ngài ELSEWORTH: Phản đối nhiệm kỳ ba năm. Ông cho rằng nhiệm kỳ một năm tốt hơn là hai năm. Dân chúng mong chờ và gắn bó với các cuộc bầu cử hằng năm vì điều đó sẽ thiết lập một Hạ viện an toàn hơn.

Ngài STRONG: Tán thành ý kiến này.

Ngài WILSON: Cho rằng Hạ viện thực chất là đại diện cho toàn thể dân chúng nên ủng hộ nhiệm kỳ một năm. Các cuộc bầu cử thường niên sẽ gần gũi với dân chúng và làm dân chúng hài lòng. Điều đó cũng chẳng bất tiện và khó khăn cho dân chúng các tiểu bang hơn các cuộc bầu cử ba năm. Bởi dân chúng ở tất cả mọi nơi đều có các cuộc bầu cử hằng năm để chọn ra Nghị viện tiểu bang, nên sẽ kết hợp luôn với việc bầu chọn người đại diện ở liên bang. Ông không nghĩ rằng Quốc hội Liên bang cần phải thường xuyên hội họp mà có thể chỉ cần 1/2 năm hoặc 1/4 năm là đủ.

Ngài MADISON: Cho rằng cuộc bầu cử hằng năm là vô cùng bất lợi và các cuộc bầu cử hai năm cũng vậy. Không phải bất lợi cho các cử tri mà cho những người đại diện. Họ khó có thể đi 7 hay 800 dặm từ những vùng xa xôi của đất nước và có thể không được hoàn trả chi phí này. Hơn nữa, không ai trong số những người muốn được bầu lại nghĩ rằng sự vắng mặt của họ tại Hạ viện không ảnh hưởng đến việc tái cử sau này. Các đại biểu của Quốc hội Hợp bang thường vắng mặt đã phải chịu nỗi thất vọng [không được tái cử]. Nhưng do cuộc bầu cử này sẽ do chính dân chúng tiến hành, những người rất khắt khe với các ứng cử viên và thường rất nhạy cảm với sự có mặt của địch thủ, nên thường thì các đại biểu từ những tiểu bang xa xôi nhất đều phải đi đi, về về, khi các cuộc bầu cử diễn ra. Ngoài ra, các thành viên mới được bầu phải dành nhiều thời gian để tìm hiểu tình hình thực tế tại tiểu bang đó, bởi nếu không làm như vậy, họ sẽ không được dân chúng tin tưởng và bầu chọn.

Ngài SHERMAN: Tán thành cuộc bầu cử hằng năm hơn, nhưng cũng sẽ chấp nhận nhiệm kỳ hai năm. Ông nghĩ rằng các đại biểu sẽ phải trở về quê nhà để hòa đồng với dân chúng. Nếu muốn tiếp tục giữ ghế tại chính quyền, họ phải tiếp tục hiểu biết và gần gũi với quê hương họ.

Đại tá MASON: Các tiểu bang có vị trí địa lý rất khác biệt, nên cần một qui định phù hợp để họ trở nên tương đồng và bình đẳng tới mức có thể. Trong các cuộc bầu cử thường niên, các tiểu bang miền Trung sẽ có lợi nhất so với các bang ở xa xôi nên ông muốn nhiệm kỳ hai năm. Cuộc bầu cử này nên xảy ra đồng thời với các cuộc bầu chọn định kỳ ở Nam Carolina cũng như các tiểu bang khác.

Đại tá HAMILTON: Ủng hộ nhiệm kỳ ba năm. Với nhiệm kỳ này, các đại biểu sẽ không quá phụ thuộc mà cũng không quá độc lập với tâm trạng của dân chúng. Viện Bình dân ở Anh được bầu với nhiệm kỳ bảy năm, nhưng tính dân chủ trong bản Hiến pháp vẫn không giảm đi. Các cuộc bầu cử quá thường xuyên sẽ làm cho dân chúng bớt quan tâm đến các đại biểu và làm cho các mưu mô xấu xa, bẩn thỉu dễ thành công hơn. Những mưu đồ đó đều xuất hiện ở mọi tiểu bang. Vì thế, Virginia đã phải ban hành những qui định chặt chẽ để buộc dân chúng phải đi bầu cử.

Về vấn đề gạch bỏ chữ "ba năm" và thay bằng nhiệm kỳ "hai năm": MA: tán thành; CT đồng ý; NY: phản đối; NJ: chia rẽ; PA: tán thành; DE: phản đối; MD: phản đối; VA: tán thành; NC: tán thành; SC: tán thành; GA: tán thành.

Hội nghị dừng họp tại đây.

Tuy nhiên, sau này, khi tiến hành thảo luận chi tiết từng điều khoản của Hiến pháp, thì với sự điều chỉnh của các nhánh chính quyền khác, Hội nghị lại bỏ phiếu qui định nhiệm kỳ của Hạ viện là hai năm.

Tranh luận về nhiệm kỳ của Thượng nghị sĩ Ngày 26 tháng Sáu

Trong ngày 26 tháng Sáu, Hội nghị tiến hành xem xét thời hạn nhiệm kỳ của Thượng viện. Để một chính quyền trở nên vững vàng, tránh ban hành những đạo luật quá vội vàng, thì Thượng viện phải là một cơ quan bền vững và kiên định. Vì thế, vai trò của Thượng viện trong nền chính trị Mỹ là rất quan trọng. Các đại biểu đã phân tích rất kỹ lưỡng và chi tiết mọi khía cạnh về nhiệm kỳ của Thượng viện. Trong đó, những lập luận của Madison là rất sắc sảo và chính xác, trong đó, ông tiếp tục lặp lại lập luận về mẫu thuẫn giữa các tầng lớp trong xã hội. Ngoài ra, Ghorum và Wilson cũng có đóng góp lớn với đề xuất quay vòng bầu chọn 1/3 Thượng nghị sĩ nhằm tạo ra sự đối trọng ngay giữa những Thượng nghị sĩ với nhau.

Điều khoản qui định nhiệm kỳ của Thượng viện được đưa ra xem xét.

Ngài GHORUM: Đề xuất nhiệm kỳ sáu năm, cứ hai năm lại một lần bầu chọn lại 1/3 số đại biểu.

Ngài WILSON: Ủng hộ ý kiến này.

Tướng PINKNEY: Phản đối nhiệm kỳ sáu năm mà muốn có nhiệm kỳ bốn năm. Ông nói rằng các tiểu bang có những lợi ích khác nhau. Những bang miền Nam và đặc biệt là Nam Caroline rất khác so với các bang miền Bắc. Nếu các Thượng nghị sĩ được bổ nhiệm với nhiệm kỳ quá lâu, họ sẽ sống tại tiểu bang, nơi họ thi hành phận sự của mình và chẳng còn mấy thời gian làm người đại diện cho tiểu bang đã bầu chọn họ.

Ngài READ: Đề xuất nhiệm kỳ chín năm. Điều này lại rất thuận lợi vì cứ ba năm lại quay vòng 1/3 đại biểu. Dù ông tán thành nhất là nhiệm kỳ "suốt đời nếu có tư cách tốt", nhưng chẳng mấy người ủng hộ ý định này. Vì thế, ông sẵn lòng tán thành nhiệm kỳ dài nhất tới mức có thể.

Ngài BROOME: Ủng hộ quan điểm này.

Ngài MADISON: Ðể phán quyết chọn nhiệm kỳ dài bao lâu, cần phải xem xét Thượng viện được lập ra nhằm mục đích gì. Thứ nhất, để bảo vệ dân chúng chống lại những người cai trị. Thứ hai, để bảo vệ dân chúng chống lại những tâm trạng và quan điểm nhất thời mà chính bản thân họ có thể rơi vào. Với kinh nghiệm từ các quốc gia khác trước đây, dân chúng sẽ suy nghĩ thận trọng về mô hình chính quyền nào sẽ bảo đảm tốt nhất hạnh phúc của họ, và hiểu rằng có những điều chỉnh ban đầu mang lại hạnh phúc cho cộng đồng, nhưng sau này có thể phản bội niềm tin của họ. Để chống lại nguy cơ này, sự thận trọng cần thiết là phải phân chia sự phó thác của dân chúng vào các Viện khác nhau để các cơ quan này theo dõi và giám sát lẫn nhau. Nhờ đó, dân chúng sẽ được hưởng sự cai trị khôn ngoan trong mọi cơ quan của chính quyền. Mọi quyền lực dễ bị lạm dụng cần phải được tiến hành thông qua những người khác nhau, người này sẽ kiểm tra người kia.

Tiếp theo, một lúc nào đó, chính dân chúng cũng có thể mắc phải những nhầm lẫn nhất thời vì sự thiếu hụt các thông tin chính xác và cần thiết về lợi ích của họ. Cũng tương tự như vậy, những người đại diện được chọn lựa với một nhiệm kỳ ngắn để điều hành một số công việc chung cũng có thể mắc sai lầm. Nhận xét này cho thấy chính quyền phải được thiết lập sao cho ít nhất một nhánh chính quyền phải có cơ hội hiểu biết đầy đủ về mọi lợi ích của dân chúng. Một nhận xét khác là dân chúng và một số người đại diện cho họ đôi khi cũng mắc sai lầm vì những tình cảm và quan điểm không vững vàng. Một lá chắn cần thiết chống lại nguy cơ này là phải chọn ra được những công dân khôn ngoan, với một số lượng nhất định. Nhờ sự kiên định của mình, họ sẽ can thiệp và kiềm chế sự bốc đồng thái quá trong chính quyền. Cuối cùng, dân chúng cũng muốn mô hình chính quyền đảm bảo mọi lợi ích khác nhau của con người bởi đa số, vì lợi ích của mình, có thể đột nhiên chèn ép và gây bất công đối với thiểu số.

Trong mọi xã hội văn minh, tất yếu, dân chúng đều phân chia thành những tầng lớp khác nhau với những lợi ích, hoặc ủng hộ những lợi ích khác nhau. Có những con nợ và chủ nợ, những nông dân, nhà buôn và những người sản xuất. Đặc biệt là sự khác biệt giữa người giàu và người nghèo. Một sự thật hiển nhiên đã được Ngài Pinkney nhận xét rằng sự khác biệt giữa chúng ta không mang tính cha truyền con nối về tầng lớp, nguồn gốc cho mọi xung đột trong các chính quyền cổ xưa, cũng như các nhà nước hiện đại của châu Âu. Chúng ta cũng không phải là những người vô cùng giàu có hay vô cùng nghèo hèn mà đó là đặc điểm chung của những quốc gia châu Âu. Nhưng hiện nay, chúng ta cũng không phải là một xã hội đồng nhất, nơi mọi người có chung lợi ích và tâm trạng. Trong việc xây dựng một nhà nước mà chúng ta mong ước sẽ tồn tại mãi mãi, chúng ta không nên phớt lờ những thay đổi mà thời đại sẽ tạo ra. Dân số tất yếu sẽ phải tăng lên và số lượng những người nghèo khổ cũng sẽ tăng lên. Những người đó sẽ âm thầm khát khao sự bình đẳng hơn về hạnh phúc và tài sản. Có thể sẽ đến lúc nào đó, số người nghèo khổ sẽ rất đông đảo.

Căn cứ theo luật bỏ phiếu bình đẳng, quyền lực sẽ rơi vào tay những người nghèo này. Trên đất nước này chưa có những cuộc nổi dậy của nông dân, song những dấu hiệu về tư tưởng cào bằng như chúng ta đều biết, đôi khi đã xuất hiện tại một số vùng. Đó là những dấu hiệu cảnh báo về mối nguy hiểm trong tương lai. Vậy cần đề phòng và ngăn chặn nguy cơ này thế nào trên những nguyên tắc cộng hoà? Liệu mối nguy hiểm này trong mọi trường hợp xung đột lợi ích sẽ khiến lợi ích của thiểu số bị chà đạp, sẽ được ngăn chặn thế nào?

Một trong những biện pháp này là phải thiết lập một cơ quan trong chính quyền có đủ sự khôn ngoan và đức hạnh, để trợ giúp trong những trường hợp nguy cấp đó và cần phải trao cho cơ quan này một sức mạnh công lý vượt trội. Những mục đích đó của Thượng viện làm ông nghĩ rằng phải cho viện này một nhiệm kỳ dài đáng kể. Ông không cho rằng nhiệm kỳ chín năm lại gây ra bất cứ nguy hiểm nào. Để đáp ứng những mục đích ông đã nêu ra, ông cho là Thượng viện cần phải có một nhiệm kỳ dài, nhưng không phải là nhiệm kỳ suốt đời, để những kẻ có tư cách tầm thường không thể được tái cử.

Ông thấy rằng chúng ta nhất thiết phải suy nghĩ kỹ càng về mô hình chính quyền mà trong quá trình vận hành, nó sẽ quyết định số phận của một Nhà nước Cộng hòa, nên chúng ta không chỉ thiết lập những bảo đảm cần thiết để duy trì tự do mà còn phải đặc biệt cẩn trọng thiết lập các biện pháp cần thiết để kiểm soát sự tự do, điều mà kinh nghiệm đã chỉ cho chúng ta thấy.

Ngài SHERMAN: Chính quyền được lập ra cho những người sống trong đó. Vì thế, nó phải được thiết lập để đảm bảo tự do của họ. Nếu có một chính quyền tồi tệ, thì nó càng kéo dài sẽ càng gây tai hại. Do vậy, những cuộc bầu cử thường xuyên với nhiệm kỳ ngắn là cần thiết để duy trì và đảm bảo tư cách đạo đức tốt của những người cai trị. Họ cũng muốn duy trì sự tồn tại lâu dài của chính quyền này bằng cách giữ tư cách đạo đức tốt, bởi việc này sẽ đảm bảo họ được tái cử.

Tại Connecticut, các cuộc bầu cử tiến hành rất thường xuyên, nhưng cực kỳ ổn định và thống nhất, cho đến giờ đã kéo dài hơn 130 năm. Ông cũng mong ước điều khoản đảm bảo sự ổn định và khôn ngoan của chính quyền này sẽ được Hội nghị chấp nhận. Bốn hay sáu năm đều phù hợp và vì vậy, ông sẽ đồng ý với bất kỳ nhiệm kỳ nào.

Ngài READ: Muốn các bang nhỏ xem xét kỹ lợi ích của chính mình bởi những khác biệt giữa các tiểu bang là rất lớn. Thượng nghị viện cần phải được thiết lập để đại diện cho ý chí và quan điểm của toàn thể công dân.

Ngài HAMILTON: Không muốn đi sâu vào từng chi tiết cụ thể của vấn đề này. Ông đồng ý với Ngài Madison khi cho rằng bây giờ là lúc chúng ta phải quyết định số phận của chính quyền cộng hòa. Nếu chúng ta không thiết lập một chính quyền ổn định và khôn ngoan, nó sẽ sớm suy đồi và tự biến mất khỏi chúng ta, mãi mãi suy đồi và biến mất khỏi loài người. Bản thân ông không tán thành Nhà nước Cộng hòa, nhưng muốn trình bày những nhận xét của ông cho những người ủng hộ mô hình đó, để họ biện minh và ủng hộ chính quyền này tới mức có thể. Ông cũng là người đấu tranh cho tự do như bất kỳ quý ngài nào khác và tin rằng ông sẵn lòng hy sinh vì tự do, dù ông không đồng tình với mô hình có thể là hợp lý nhất này.

Ông cũng đồng ý với các ý kiến chung của Ngài Madison về vấn đề này và nhiều quý ngài khác sẽ tán thành điều đó. Một sự thật hiển nhiên là không thể tồn tại sự bình đẳng về tài sản. Sự bất bình đẳng này sẽ còn tồn tại cho tới khi còn có tự do, bởi đó là kết quả tất yếu từ chính bản thân sự tự do. Sự bất bình đẳng về sở hữu tài sản là sự khác biệt cơ bản và lớn lao nhất trong xã hội. Khi quyền lực của Quan hộ dân ở La Mã làm cân bằng ranh giới giữa tầng lớp quý tộc và bình dân, thì điều gì sẽ xảy ra? Khi đó, sẽ xuất hiện sự khác biệt giữa người giàu và người nghèo .

... Việc điều hành tiểu bang Connecticut rất đơn giản vì chỉ liên quan đến các công việc lặt vặt. Mới đây, chính quyền Connecticut đã hoàn toàn nhượng bộ dân chúng và trên thực tế đã hoãn lại mọi hoạt động bình thường nhằm ngăn chặn những rối loạn xảy ra ở khắp tiểu bang. Ông chất vấn Ngài Sherman: liệu tiểu bang này, hiện nay, có dám đánh và thu thuế của dân chúng không? Chính vì những lý do đó, nên các cuộc bầu cử dù tiến hành thường xuyên thì tiểu bang này vẫn ổn định.

Ngài GERRY: Muốn mọi người thống nhất ý kiến về một chính quyền bền vững. Tất cả mọi người đều có chung mục đích nhưng khác biệt lớn về các biện pháp thi hành. Ông nghĩ rằng cần cẩn thận xem xét một trường hợp. Chỉ có khoảng 1/1000 những đồng bào của chúng ta không chống lại xu hướng thiết lập nền quân chủ. Vậy liệu dân chúng có chấp thuận một mô hình theo hướng quân chủ không? Hội nghị này cần đặc biệt cẩn trọng khi gửi bất cứ thông tin nào cho dân chúng. Bất cứ kế hoạch nào được đề xuất tại đây, được nhiều đại biểu đáng kính hoan nghênh, tất yếu, kế hoạch đó cũng sẽ được dân chúng chấp thuận. Nhưng nếu một kế hoạch gây ra chống đối căng thẳng, có thể dễ dàng nhận thấy rằng sự bất bình và rối loạn tất yếu sẽ xảy ra.

Thậm chí, chúng ta sẽ trở thành con mồi cho các thế lực ngoại bang. Ông không phản đối quan điểm của Ngài Madison cho rằng đa số sẽ vi phạm công lý khi họ có chung lợi ích để làm việc đó. Nhưng ông không nghĩ rằng mối nguy cơ đó lại có thể xảy ra trên đất nước này. Hoàn cảnh và tình trạng của chúng ta rất khác biệt với nước Anh. Một lãnh thổ vô cùng rộng lớn, chia thành nhiều vùng đất định cư, sẽ còn kéo dài tình trạng khác biệt. Bất chấp một số dấu hiệu bất bình đã xuất hiện trong nhiều cộng đồng thì chúng không lớn quá mức đến nỗi dập tắt mọi hy vọng của chúng ta trong việc thiết lập một chính quyền mới, công bằng và khôn ngoan. Ông cũng cho rằng những cuộc bầu cử quá thường xuyên sẽ phát sinh nhiều sai trái và tội lỗi, nên đồng ý trao cho Thượng viện nhiệm kỳ bốn hoặc năm năm. Một nhiệm kỳ dài hơn có thể sẽ không được chấp nhận. Dân chúng sẽ không bao giờ phê chuẩn mô hình đó.

Ngài WILSON: Không muốn nhắc lại những điều mà các quý ngài khác đã trình bày, song chỉ muốn nói đến những điều chưa được đề cập ở đây. Mọi quốc gia cần được xem xét trong hai mối quan hệ:

1. Với chính những công dân của mình.

2. Với các quốc gia khác.

Do đó, một quốc gia không chỉ có nguy cơ rơi vào sự độc tài hay vô chính phủ mà còn phải tránh chiến tranh và giành được những Hiệp ước với ngoại quốc. Do vậy, Thượng viện phải là nơi nắm giữ những quyền lực liên quan đến vấn đề đối ngoại. Vì thế, cơ quan này phải được kính trọng trong con mắt của các quốc gia nước ngoài. Lý do thực sự cho việc nước Anh không muốn ký một Hiệp ước thương mại với chúng ta như hiện nay là bởi vì họ không tin vào sự ổn định và hiệu quả của chính quyền chúng ta. Nhiệm kỳ chín năm, sẽ đảm bảo những yêu cầu ổn định đó và sẽ làm cho chính quyền chúng ta có được lợi thế này của nền quân chủ. Trong một nền quân chủ, rất nhiều điều tùy thuộc vào tính khí của một ông vua. Nhưng trong một Thượng viện gồm nhiều đại biểu, tính cách cá nhân sẽ bị mất đi. Còn một điều khác nữa. Sự chống đối của dân chúng đối với việc bổ nhiệm bất cứ cơ quan nào có nhiệm kỳ dài như vậy là vì cơ quan này có thể dần dần chiếm quyền để có nhiệm kỳ suốt đời, và rồi sẽ trở thành một thứ cha truyền, con nối. Một giải pháp thích hợp cho vấn đề này là cứ 3 năm sẽ bầu lại 1/3 Thượng viện. Như vậy, sẽ luôn luôn có ba nhóm đại biểu, giữ chức vụ của mình với các nhiệm kỳ khác nhau, sẽ hành động với những quan điểm và tâm trạng khác nhau.

Về vấn đề chín năm, cứ ba năm lại bầu lại 1/3:

MA: phản đối; CT phản đối; NY: phản đối; NJ: phản đối; PA: tán thành; DE: tán thành; MD: phản đối; VA: tán thành; NC: phản đối; SC: phản đối; GA: phản đối. (8 bang phản đối, 3 bang tán thành)

Về vấn đề nhiệm kỳ sáu năm, cứ hai năm bầu lại 1/3:

MA: tán thành; CT: tán thành; NY: phản đối; NJ: phản đối; PA: tán thành; DE: tán thành; MD: tán thành; VA: tán thành; NC: tán thành; SC: phản đối; GA: phản đối. (7 bang tán thành, 3 bang phản đối).

Tranh luận về sự bình đẳng của các tiểu bang tại Quốc hội Từ ngày 28 tháng Sáu đến ngày 2 tháng Bảy

Quyền đại diện là vấn đề rất nan giải trong quá trình thảo luận bởi mẫu thuẫn quá lớn giữa các bang lớn và nhỏ. Đây là điểm gây bất đồng lớn nhất và là cuộc tranh luận căng thẳng nhất tại Hội nghị. Trong khi các bang lớn khăng khăng đòi đại diện theo dân số, thì các bang nhỏ lại đòi sự bình đẳng. Hội nghị Lập hiến đã thảo luận về vấn đề quyền đại diện từ ngày 27 tháng Sáu đến tận ngày 2 tháng Bảy, nhưng cũng chưa dứt điểm hoàn toàn. Vì sự bất đồng này mà Hội nghị gần như đứng trước ngưỡng cửa tan rã, buộc các đại biểu phải đề xuất một Ủy ban hòa giải. Nhận thấy những cuộc tranh luận này rất quan trọng trong Hội nghị Lập hiến, nên tôi chọn giới thiệu khá đầy đủ, dù không phải toàn bộ.

Ngày 28 tháng Sáu: Điều khoản thứ 6 "quyền bỏ phiếu tại Hạ viện sẽ căn cứ vào số dân" được đưa ra thảo luận.

Ngài L. MARTIN: Lại tiếp tục bài phát biểu đang bỏ dở hôm qua, kiên quyết khẳng định rằng chính quyền liên bang được hình thành là vì các tiểu bang, chứ không phải vì cá nhân dân chúng. Vì thế, nếu các tiểu bang đại diện theo tỷ lệ dân số, thì dù những đại biểu này được cơ quan lập pháp tiểu bang hay dân chúng bầu chọn, cũng chẳng khác gì nhau. Các bang nhỏ sẽ bị nô lệ hóa và phụ thuộc vào các bang lớn. Nếu các bang lớn có cùng lợi ích như các bang nhỏ, việc cho mọi tiểu bang quyền bỏ phiếu bình đẳng sẽ chẳng gây mối nguy hiểm nào. Họ sẽ không làm tổn hại bản thân mình và nếu không làm hại chính mình, thì cũng không làm hại các bang lớn. Nhưng nếu những lợi ích đó trái ngược nhau thì sự bất bình đẳng về quyền bỏ phiếu sẽ gây nguy hiểm cho các bang nhỏ.

Như vậy, việc đề xuất bất cứ kế hoạch nào xúc phạm các bang nhỏ đều vô ích, vì chắc chắn viên chức chính quyền các bang nhỏ sẽ sử dụng ảnh hưởng của mình để ngăn cản dân chúng chấp thuận mô hình này. Hiện nay, các bang lớn, nhưng quyền bỏ phiếu lại không tương xứng với qui mô to lớn của mình, chỉ có cách chèn ép các bang nhỏ nhờ sức mạnh trong lá phiếu của họ . Nếu Liên minh giải tán thì các bang nhỏ chẳng có gì phải e sợ sức mạnh của các bang lớn. Nếu ba bang lớn nhất liên minh với nhau thì 10 bang nhỏ còn lại cũng sẽ làm như vậy. Ông thà ủng hộ mô hình nhiều hợp bang nhỏ, còn hơn tán thành một Nhà nước Liên bang bỏ phiếu theo số dân như thế này.

Ngài LANSING và Ngài DAYTON: Đề nghị viết rằng: "quyền bỏ phiếu tại Hạ viện sẽ căn cứ vào qui định đã được Các điều khoản Hợp bang thiết lập".

Ngài DAYTON: Lo ngại rằng vấn đề này sẽ không thể giải quyết cho tới tận ngày mai.

Ngài WILLIAMSON: Nghĩ rằng nếu chính trị giống như toán học, thì sẽ chia lại các tiểu bang thành những lãnh thổ bằng nhau để họ sẽ có quyền hạn như nhau. Ông không thể hình dung được các bang nhỏ sẽ bị thiệt hại thế nào nếu qui định quyền bầu cử theo số dân. Mọi đại biểu cần nỗ lực hết sức để tìm giải pháp cho vấn đề này. Nếu các bang nhỏ giành được đa số phiếu, họ đều muốn chất mọi gánh nặng nợ nần trên đôi vai của họ sang đôi vai của những bang lớn. Các đại biểu nên nhớ rằng rồi đây sẽ có thêm những tiểu bang mới ở miền Tây gia nhập liên minh. Đó sẽ là những bang nhỏ và là những bang nghèo. Họ sẽ không thể thanh toán các khoản thuế đóng góp theo qui mô dân số được. Khoảng cách xa xôi của họ với thị trường làm cho hàng hóa của họ trở nên rẻ mạt. Do vậy, họ sẽ kết hợp lại với nhau đặt ra những khoản thuế thương mại và các khoản chi phí lớn nhất lên vai các tiểu bang cũ.

Ngài MADISON: Sẵn sàng tán thành bất cứ giải pháp nào không đi ngược lại những nguyên tắc cơ bản [các nguyên tắc cộng hòa và dân chủ-ND], nhưng giải quyết được mọi trở ngại về quyền đại diện. Nhưng ông không tin việc đòi hỏi quyền đại diện bình đẳng đó là công bằng và cũng chẳng phải vì sự cần thiết đảm bảo an toàn cho các bang nhỏ chống lại các bang lớn. Bản thân các Ngài Breerly và Paterson cũng thừa nhận rằng đòi hỏi đó là không công bằng. Sự ngụy biện rút ra từ sự bình đẳng của các chủ quyền tiểu bang trong việc hình thành những thỏa ước là việc nhầm lẫn giữa những Hiệp ước, qui định bổn phận của các bên phải thực hiện với một thỏa thuận thiết lập uy quyền tối cao cho tất cả các bên để ban hành luật lệ cho họ.

Nếu Pháp, Tây Ban Nha và Anh ký kết một hiệp định thương mại với Công quốc Monaco, hay với những vương quốc nhỏ nhất ở châu Âu, họ sẽ không do dự đối xử bình đẳng với các vương quốc này. Nhưng việc thiết lập những hội đồng gồm những đại biểu để thu thuế, phát hành tiền, thiết lập quân đội, qui định giá trị của tiền bạc... có thể làm như vậy không? Liệu 30 hay 40 triệu người sẽ trao nộp tài sản của họ vào tay của vài ngàn người chăng? Nếu họ làm như vậy là vì họ tin vào sức mạnh và uy quyền vượt trội của mình [so với các tiểu quốc bé nhỏ kia], chứ không phải do nỗi sợ hãi tính ích kỷ và hám lợi của những người đồng bào muốn cướp đoạt tài sản của họ.

Tại sao các quận của cùng một tiểu bang lại đại diện theo qui mô dân số? Liệu có phải vì những người đại diện này là được bầu chọn trực tiếp từ dân chúng chăng? Vậy thì việc đại diện tại cơ quan lập pháp liên bang cũng phải như vậy, vì các bang lớn phải gánh chịu nhiều đóng góp hơn các bang nhỏ.

...

Không cần thiết phải có những đảm bảo cho các bang nhỏ chống lại các bang lớn. Liệu các bang lớn sẽ hợp sức với nhau như các Ngài lo sợ chăng? Động cơ hợp tác của các bang lớn như Virginia, Massachusetts và Pennsylvania là phải có một lợi ích chung khác với lợi ích của các bang nhỏ khác, hay lợi ích đó chỉ thuần tuý xuất phát từ sự tương đồng về lãnh thổ rộng lớn? Liệu có bất kỳ lợi ích chung nào tồn tại giữa các bang lớn không? Về vị trí, họ không thể khác biệt nhau hơn được nữa . Về cách sống và phong tục tập quán, tôn giáo và các yếu tố khác, đôi khi sinh ra sự tương hợp và tình cảm giữa những cộng đồng khác nhau, nhưng các bang lớn này cũng chẳng giống nhau hơn các bang nhỏ khác.

Về các hàng hóa sản xuất trong liên minh, thì ba tiểu bang này cũng khác nhau như bất cứ ba tiểu bang nào khác. Hàng hóa của Massachusetts là cá, của Pennsylvania là bột mì, của Virginia là thuốc lá. Liệu các bang lớn sẽ kết hợp với nhau như thế nào từ hoàn cảnh này? Kinh nghiệm cho thấy không có mối nguy hiểm nào như vậy cả. Các ghi chép của Quốc hội Hợp bang chứng tỏ rằng chưa bao giờ, ba tiểu bang này hợp tác bỏ phiếu riêng rẽ về cùng một vấn đề. Các quận khác nhau của cùng một tiểu bang, tương đồng về qui mô, nhưng khác nhau về điều kiện địa lý và sản xuất, cũng chưa bao giờ đi theo hướng kết hợp như vậy.

Thực tiễn đã dạy một bài học ngược lại. Những cá nhân xuất chúng và có quyền thế trong xã hội thường đối địch và hiềm khích hơn là liên minh với nhau. Lịch sử các quốc gia độc lập, ưu việt hơn các nước láng giềng, cũng khẳng định nhận xét này. Carthage và La Mã đánh nhau để rồi Carthage bị chia cắt thành những mảnh nhỏ, chứ không thống nhất sức mạnh để ăn sống, nuốt tươi những quốc gia yếu hơn. Nghị viện Áo và Pháp nuôi mối thù địch trong suốt thời gian họ là những cường quốc ở châu Âu. Sau đó, Anh và Pháp trở thành cường quốc và cũng thù địch nhau. Nền độc lập và tự do của chúng ta giành được chính là nhờ sự đối địch này . Một liên minh giữa các cường quốc đó sẽ thực sự là mối hiểm họa chí tử đối với chúng ta.

Trong những thành viên chủ chốt của các Hợp bang cổ xưa và hiện đại, chúng ta cũng tìm thấy cùng hiện tượng và cùng động cơ đó. Sự tranh chấp chứ không phải đoàn kết giữa Sparta, Athens và Thebes , là mối tai họa cho các thành bang nhỏ hơn trong Liên minh Amphyctionic. Sự tranh chấp chứ không phải hợp tác giữa Phổ và Áo đã tàn phá Đế chế Đức. Liệu các bang lớn, nếu tồn tại riêng rẽ, có nguy hiểm đối với các nước láng giềng nhỏ bé không? Về giả thiết này, các nước nhỏ chắc hẳn phải mong ước một chính quyền chung đối xử với họ bình đẳng như các nước lớn. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro