Đạo mộ bút ký - Quyển 7 - Âm sơn cổ lâu

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Chương 1: Bút ký trộm mộ

Tiết trời Hàng Châu vào tháng tám rất dễ chịu, tuy mùa hè mấy năm gần đây ngày càng nóng bức, nhưng ở cạnh Tây Hồ, bạn vẫn có thể cảm nhận được cái gọi là "Trời trong xanh nước long lanh".

(*) Nguyên văn là "Thủy quang liễm diễm tình phương hảo", một câu trong bài "Hồ thượng sơ tình hậu vũ" của Tô Thức.

Tôi ngả lưng trên chiếc ghế dựa trong cửa hàng, xem xét lại những việc mình thu xếp trong mấy tháng qua. Trở về từ Cách Nhĩ Mộc đã hơn ba tháng, nhưng dường như tôi vẫn chưa lấy lại được nhịp sống bình thường. Chuyện xảy ra vào phút cuối quả thực vượt quá giới hạn chịu đựng của tôi, thật không sao tưởng tượng nổi mọi việc lại kết thúc theo cái cách ấy.

Trong suốt ba tháng, tôi vẫn không tài nào thoát khỏi cơn ác mộng đó. Gần như đêm nào tôi cũng mơ, mơ thấy vô số hình ảnh mình từng trải qua.

Nhưng tôi thực sự có thể thoát ra được không? Tôi ngờ rằng những khúc mắc đọng lại trong lòng mình sẽ không hề bớt đi dù cho bí mật này đã có lời giải.

Những chuyện người ta đã liều mạng che giấu, hiển nhiên bạn đừng hòng nhìn ra được, cho nên muốn lần ra bí mật của người khác tất phải gánh vác hậu quả khi nắm nó trong tay.

Đây là những điều cuối cùng tôi ngộ ra được, thế nhưng ngay đến Muộn Du Bình còn không thoát khỏi vận mệnh này, thì tôi biết phải làm sao? Liệu có mấy người sống được cả đời với cõi lòng chất chứa hoài nghi cơ chứ?

Sau khi trở về, tôi bắt đầu ghi chép lại tất cả những chuyện đã xảy ra trong suốt một năm, bắt đầu từ cuốn bút ký của ông nội tôi cho đến hiện tại. Tôi biết rồi đến một ngày nào đó mình sẽ quên đi, giống như mặt nạ của chú Ba, mang quá lâu sẽ không gỡ xuống nổi. Thời gian có thể khiến một vài thứ đổi thay. Bây giờ, tôi chỉ mong ngày này có thể đến sớm một chút.

Trong tổng thể câu chuyện, vẫn còn rất nhiều phần tôi chưa hiểu rõ. Ví dụ như, chú Ba thật của tôi đang ở đâu? Thân phận đích thực của Muộn Du Bình? Văn Cẩm thuở nhỏ đã đến nơi nào? Chung cực rốt cuộc là gì? Di tích ngầm đồ sộ kia do ai xây nên? Nhóm người Văn Cẩm có thân phận ra sao, bọn họ rốt cuộc đang tiến hành kế hoạch gì?

Những câu hỏi này vẫn là bí ẩn trùng trùng, ban đầu luôn khiến tôi để tâm, nhưng cho đến bây giờ, xem ra cũng không còn quá quan trọng nữa.

Sau khi Muộn Du Bình trở về, chúng tôi đã đưa hắn đến bệnh viện số một của Đại học Bắc Kinh để khám toàn thân. Thân thể hắn cơ bản là vẫn bình thường, chỉ có thần trí không được tỉnh táo. Chúng tôi để hắn lại bệnh viện, tìm chuyên gia chăm sóc, nhưng đây cũng không phải kế lâu dài. Tôi đã hỏi vài người ở Trường Sa, mong hiểu được chút ít về lai lịch của Muộn Du Bình, nhờ bọn họ đi nghe ngóng giùm tôi, nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa thấy ai nhắn lại.

Bàn Tử nói mình có cách, thế mà cũng cóc thấy hồi âm, xem ra tìm hiểu câu chuyện đằng sau Muộn Du Bình là việc khó khăn hơn tôi tưởng rất nhiều. Giờ tôi chỉ biết hi vọng hắn sớm bình phục mà khai ra thông tin gì đó có ích, bằng không chúng tôi cũng chỉ còn cách nuôi hắn cả đời. Đối với hắn mà nói, đây có lẽ không phải là chuyện xấu.

Rất ít người có cơ hội quên đi mọi thứ, mà những người may mắn quên đi lại bất chấp tất cả để nhớ lại, cái vòng luẩn quẩn này thật đúng là một nghịch lý thất thường. Đứng trên góc độ cá nhân, thật ra tôi không lo hắn vĩnh viễn mất trí, mà trái lại chỉ sợ hắn nhớ ra điều gì đó nhưng mơ hồ không rõ.

Phan Tử được đưa tới bệnh viện, anh có thể sống sót quả là một kỳ tích, làm tôi cứ cảm thấy khó tin sao đó. Thật ra anh ấy bị thương cũng không nặng, chẳng mấy chốc mà bình phục.

Phía Trường Sa bây giờ đang rối tinh rối mù. Phan Tử cho tôi biết, trước kia khi lão gia nhân thân tín còn sống, những lúc ông Ba đi vắng cục diện bên kia vẫn được kiểm soát tốt. Nhưng giờ thì nguy rồi, tổ vỡ ong tan, tin đồn nhan nhản khắp nơi, anh cũng không biết phải làm sao. May mà sản nghiệp nhà chú Ba đã hao hụt khá nhiều vì đấu đá với Trần Bì A Tứ, bằng không còn khó xử lý nữa. Giờ anh chỉ còn nước đi đến đâu tính đến đó, nếu vẫn không trụ được thì đành giải tán thôi. Những năm qua anh cũng tích cóp được chút tiền, từ lâu đã không phải lo kế sinh nhai, giờ có lẽ cũng đến lúc nghỉ ngơi rồi.

Tôi bảo anh mau mau tìm một cô mà lập gia đình đi thôi, đừng bận tâm đến sản nghiệp nhà chú Ba làm gì. Chú Ba cũng đã lớn tuổi, lại không có con cái, chuyện này chẳng chóng thì chầy sẽ đến. Căn cơ tích tụ đã lâu, chỉ dựa vào chúng tôi cũng chẳng thể nào xoay chuyển được tình thế.

Phan Tử không hề phản ứng. Chú Ba sống chết còn chưa rõ, tôi nghĩ anh ấy sẽ vĩnh viễn không yên tâm, có khi còn tiếp tục tìm kiếm ấy chứ, tôi cũng đành chúc anh may mắn.

Bàn Tử tạm biệt xong lại quay về Bắc Kinh. Hắn là tên vô cảm nhất, về đến nơi vẫn mở cửa hàng buôn bán như thường. Theo như lời Phan Tử thì người này chẳng những không hề nông cạn, mà lòng dạ còn vô cùng thâm sâu, nhưng tôi thật sự không nhìn ra hắn thâm sâu chỗ nào. Trước khi đi, Bàn Tử còn nói một câu rất khuôn sáo: Non xanh còn đó nước biếc vẫn đây, hẹn ngày gặp lại. Nói nghe rất chi là xúc động, nếu tôi không đi cùng hắn bấy lâu, lại đã từng vào sinh ra tử thì thật khó mà cảm nhận được câu nói này thê lương sầu thảm đến chừng nào.

Trát Tây tạm biệt chúng tôi ở Cách Nhĩ Mộc. Nếu không nhờ anh ta, chúng tôi chắc chắn không thể thoát ra khỏi Tháp Lý Mộc, vậy nên lúc ấy chúng tôi đã tính đưa cho anh ta ít tiền. Trát Tây nói chuyện lần này coi như một trải nghiệm cho mình, có thể đưa chúng tôi sống sót trở ra cũng nhờ Bồ Tát phù hộ, anh không thể lấy tiền của chúng tôi nữa. Sau đó tôi tặng chiếc đồng hồ đeo tay của mình cho anh ấy, coi như kỷ niệm.

A Ninh đã chết, tôi tạm thời không liên lạc gì với công ty của Cầu Đức Khảo. Mấy e-mail viết cho người quen đều bị gửi trả về, chẳng biết bọn họ có còn muốn tiếp tục nữa không. Nhưng dù sao đi chăng nữa, sau lần thất bại này, lão quỷ kia chắc cũng hết dám mơ hão rồi. Còn nếu lão cứ tiếp tục chấp nhất thì cũng chỉ còn biết tự cầu phúc cho mình.

Cát bụi lại về với cát bụi, cuộc sống của mọi người dường như đều quay về quỹ đạo bình thường. Khi đó tôi mới trở lại Hàng Châu, tiếp tục cuộc sống cậu ấm an nhàn sáng chín giờ mở cửa chiều năm giờ tan ca của mình, ngồi vào ghế mây đánh một giấc, tỉnh rồi lại chán ngán giở cuốn bút ký của ông nội ra, chợt cảm thấy thời gian chảy ngược, chớp mắt đã qua mấy đời.

Trang Chu mơ hóa bướm, tỉnh giấc rồi lại không biết mình là người mơ hóa bướm hay bướm mơ hóa người. Trước nghe kể cứ thấy mơ hồ, mà giờ đây tôi bỗng dưng hiểu được cảm giác của ông ấy. Chỉ cảm thấy mọi chuyện xảy ra trong suốt một năm ròng giống như mộng ảo, xẹt qua rất nhanh, lại cảm thấy dường như mình vẫn còn trong ao rắn. Sự bình thản lúc này, không chừng chính là dự cảm của tôi trước cái chết.

Dù sao đi chăng nữa, tôi đều muốn vui vẻ chấp nhận. Có đôi khi, dấu chấm hết của một sự kiện còn khiến người ta mong chờ hơn kết quả của nó.

Nhưng sâu tận đáy lòng tôi hiểu rất rõ, chuyện này nếu nói đã chấm dứt thì e là quá sớm.

Chương 2: Bàn bạc

Hai tuần sau, Muộn Du Bình xuất viện, tôi đến Bắc Kinh gặp họ, tiện thể bàn bạc luôn những chuyện sắp tới.

Sau khi trở về, chuyện làm tôi đau đầu nhất chính là làm sao xử lý cục diện hỗn loạn mà chú Ba để lại. Những việc tôi làm trong năm qua tuy hoành tráng nhưng đều âm thầm lén lút, người trong nhà hoàn toàn không hay biết về những biến đổi lớn lao đã xảy ra với tôi. Nhưng lần này chú Ba thực sự mất tích, có thể sẽ vĩnh viễn biến mất, làm sao để giải thích chuyện này là cả một vấn đề.

Lại nói đến Muộn Du Bình, bây giờ hắn đã thực sự biến thành cục nợ, cùng với quá trình khôi phục ý thức của hắn, tôi lại phải đối mặt với vấn đề làm sao để làm quen lại từ đầu.

Hắn không có người thân, lẻ loi một mình trên đời, cũng không biết nhà ở đâu, hỏi thăm biết bao nhiêu người mà chẳng đào ra chút tin tức nào, đúng như lời hắn nói, hắn gần như không có mối liên hệ nào với thế gian này. Tất cả hành lý hắn mang theo đều để lại trong thung lũng, không tiền bạc không giấy tờ, nếu bỏ mặc vào lúc này, e rằng hắn cũng chỉ biết lang thang đầu đường xó chợ.

Bàn Tử xoay sở cũng không tệ, đã mở được một chi nhánh ở Lưu Ly Hán. Chúng tôi gặp nhau trong cửa hàng mới mở của hắn, sau mấy tháng không gặp, Muộn Du Bình đã khôi phục khí sắc như xưa, ngoại trừ ánh mắt bỡ ngỡ nhìn thế gian thì những thứ còn lại đều cho tôi cảm giác quen thuộc, chuyện này khiến lòng tôi có phần nhẹ nhõm. Khi tôi nhìn thấy hắn, hắn đang tựa cửa sổ, không hề nhìn tôi, ánh mắt trong veo, còn lãnh đạm hơn ngày trước, giống như tâm tư đã không còn tồn tại trên nhân gian vậy.

Ban đầu tôi nói vài câu khách sáo, hắn không hề phản ứng, bèn quay sang hỏi Bàn Tử tình hình hắn ra sao, thầy thuốc bảo thế nào.

Bàn Tử lắc đầu: "Không như cậu nghĩ đâu, nghe nói đã nhớ ra vài đoạn ngắn rồi. Bác sĩ bảo hắn đã phải chịu kích thích mãnh liệt, bây giờ cũng phải kích thích tinh thần hắn mới có hy vọng bình phục, bằng không thì ngày ngày chưng óc heo cho hắn cũng vô ích".

Tôi thở dài, cũng không biết trong tảng thiên thạch ấy, vào thời khắc cuối cùng đã xảy ra chuyện gì khiến hắn biến thành thế này.

"Cậu có dự định gì không?", nói vài câu chuyện phiếm, Bàn Tử liền hỏi tôi: "Chỗ tôi ở hơn bốn mươi mét vuông, nhưng thật ra vẫn hơi chật, cậu muốn để cậu ta ở lại đây, tôi muốn cua gái cũng không được, người ta thấy tôi giấu một cậu trai tơ trong nhà không chừng lại hiểu lầm Bàn gia đây có sở thích đó."

"Anh đúng là cái đồ vô lương tâm, người ta từng cứu mạng chúng ta đâu chỉ một lần, anh lo mấy cái chuyện tầm phào đó làm gì?", tôi nổi giận.

*Phải dồi, nếu sợ thì cứ ủn Bình sang nhà Tà, thằng Tà nó cóc sợ điều tiếng gì đâu =)))*

"Cậu ta có ở chỗ cậu qué đâu mà cậu chả mạnh mồm, cậu muốn tôi chi tiền tìm cho Tiểu ca một gian nhà thì cứ nói một câu, cậu ta có muốn ở tứ hợp viện (1) tôi cũng chiều tuốt, nhưng ở chung với tôi thì không được, cái đó đâu có liên quan gì với chuyện cứu mạng hay không." Bàn Tử nói: "Cậu xem hay là thế này, tôi đi thuê phòng trọ, cậu tìm một bảo mẫu, chúng ta thu xếp cho cậu ta một chỗ gần đây, cơm bưng nước rót, cuối tuần rảnh rỗi thì ghé chơi."

"Khỉ gió, anh thu xếp kiểu gì mà cứ như kim ốc tàng Kiều." Tôi nói, "Hắn ta đâu phải tên ngốc, anh cũng phải hỏi xem hắn muốn gì đã chứ."

Nghe thế, Bàn Tử liền quay sang Muộn Du Bình: "Tiểu ca, cậu nói đi, sau này có dự định gì không?"

Muộn Du Bình nhắm nghiền hai mắt, dường như đang cân nhắc, rất lâu sau mới lên tiếng: "Tôi muốn lang bạt bốn phương."

Tôi nói: "Lang bạt? Anh định đi đâu? Có đích đến cụ thể không?"

Hắn hờ hững đáp: "Không biết, cứ đến những nơi hai người đã nói, Trường Sa, Hàng Châu, Sơn Đông, thử xem có thể nhớ ra chuyện gì không."

Tim tôi hẫng đi một nhịp, đây là điều tôi không muốn nghe nhất - hắn muốn tìm lại ký ức. Hiện giờ đầu óc hắn căn bản là trống rỗng, quá khứ của hắn là một bí ẩn lớn lao, song bí ẩn càng lớn, sự giày vò của nó lại càng nhỏ. Nhưng nếu trong cuộc hành trình, trí nhớ của hắn bắt đầu khôi phục, những mảnh xúc cảm vụn vặt hiện ra trong đầu có sức mê hoặc rất lớn đối với người mất đi ký ức như hắn, mỗi gợi ý đều có thể biến thành vô vàn manh mối, làm hắn khốn khổ không chịu được.

Tôi hiểu, đối với một người mất đi trí nhớ thì mục tiêu lớn nhất của cả cuộc đời hẳn là tìm lại quá khứ của mình. Điều này dù sao cũng không thể tránh, nhưng tôi thật sự không muốn hắn lại tiếp tục dấn thân vào con đường năm xưa.

Bàn Tử thấy sắc mặt tôi biến đổi, biết lòng tôi có vướng mắc, bèn vỗ vai tôi nhắc nhở: "Nên thuận theo tự nhiên đi, không phải chúng ta đã nói rồi sao, cậu có muốn ép cậu ta ở lại đây cũng không ổn."

Tôi thở dài, nếu đã vậy thì chỉ có cách thực thi phương án hai, chính là để mắt đến hắn, cân nhắc việc này cùng hắn. Suy cho cùng chúng tôi cũng là người từng trải, trong nhiều tình huống có thể giúp hắn tránh phương án cực đoan.

Ý tưởng này tôi cũng từng nghĩ đến, thậm chí từng lên kế hoạch dẫn hắn đến Trường Sa gặp những người khác, nhưng bây giờ Trường Sa đang rối loạn, tôi cũng không biết nên đi tìm ai. Lúc này tôi chợt nhớ ra một chuyện, liền hỏi Bàn Tử: "Lần trước không phải anh đã nói mình có cách để thăm dò tin tức về Tiểu ca ở Bắc Kinh, về sau sao lại lặn mất tăm thế?"

"Đừng nhắc vụ này nữa, cứ nhắc là tôi muốn điên tiết." Bàn Tử nói: "Bàn gia đây lúc ấy đang định tìm đám người gắp Lạt ma hỏi thăm, bọn họ làm trung gian nên tin tức rộng, chú Ba cậu đã liên lạc với Tiểu ca qua mạng lưới này thì nhất định sẽ để lại chút tin tức ở nơi gắp Lạt ma, chúng ta có thể nhúng tay vào đó."

Tôi nghe đến đây, thầm nghĩ đúng là cách hay, sao lại điên tiết? Bàn Tử nói tiếp: "Không ngờ ai nấy đều lắc đầu, bảo cái gì mà không nói được. Cậu xem, đám cò mồi này ngày thường chuyên môn dẫn mối, mà đến lúc ấy lại giở chứng muốn làm thánh nhân quân tử."

Tôi "À" một tiếng, thì ra là vậy, nghề nào cũng có quy tắc riêng, chuyện này thật sự không thể trách họ. Bát cơm của bọn họ chỉ trông chờ vào những tin tức này, một khi để lộ, chỉ e sẽ tuyệt đường làm ăn, có khi còn bị xử lý.

"Cái đám đó tìm đủ cách cũng không cạy miệng nổi, đường này coi như đường cụt rồi." Bàn Tử nói: "Còn bên cậu thì sao?"

Tôi thở dài, nói nếu có chú Ba ở đây không chừng còn thăm dò được ít tin tức, chứ những người tôi tiếp xúc bây giờ vẫn còn non lắm. Mấy lão trùm tính tình quái đản, giờ đều đang lăm lăm theo dõi tình hình chỗ tôi, tôi đi gặp riêng bọn họ còn không bị bắt nạt. Đây không phải chuyện một người như tôi có thể làm.

"Vậy thì cậu cũng đừng suy tính nhiều làm gì, tôi thấy vẫn nên thuận theo lời Tiểu ca nói, chúng ta đăng ký một tour du lịch cho cậu ấy, chuẩn bị ít tiền, để Tiểu ca tự ra ngoài thăm thú, " Bàn Tử nói: "Hay là mình cứ dứt khoát làm chủ hôn cho cậu ta đi, gói cậu ta lại gả cho một phú bà, với nhan sắc của Tiểu ca, không chừng chúng ta còn kiếm được món hời, sau đó để mặc bọn họ với nhau, cậu thấy sao nào?" *No comment =)))))))))*

Đây không phải mấy câu đùa cợt vô nghĩa sao, tôi thầm nghĩ, lẳng lặng lắc đầu, cân nhắc phương án vừa rồi của Bàn Tử, cảm thấy đó đúng là cách hay, chẳng qua Bàn Tử còn chưa nghĩ đến điểm mấu chốt. Nghĩ đến đây lại nhớ ra một người: "Không đúng, cách tìm người gắp Lạt ma của anh, có lẽ cũng không phải đường cụt."

"Là sao?"

"Đám người đó không chịu nói chẳng qua là sợ đắc tội với người ta, cũng có thể là không biết, sợ nói ra lại lòi đuôi. Nhưng có một người không phải nghĩ ngợi nhiều đến thế, chúng ta có thể nhắm vào gã."

"Là ai?" Bàn Tử hỏi, Muộn Du Bình cũng quay sang.

"Cái lần lên núi Trường Bạch đó, người thay chú Ba tôi gắp Lạt ma là một gã họ Sở, anh còn nhớ chứ?"

"Cậu muốn nói gã đầu trọc?"

Tôi gật đầu. Gã họ Sở trọc đầu, là ông chủ quỹ tín dụng đen mà chú Ba hợp tác, sau khi bị Trần Bì A Tứ mua chuộc thì bị cớm tóm cổ, giờ không biết đang bóc lịch ở đâu. Gã từng liên hệ với Muộn Du Bình và Bàn Tử, nhất định phải biết tin tức về bọn họ, hơn nữa hiện giờ gã đang ngồi tù, không có gì vướng bận hết. Cơ mà không biết tìm gã kiểu gì đây, tìm được rồi cũng chưa biết phải cạy miệng gã thế nào. Dù sao gã không ngại nói, nhưng im cũng chả mất gì.

Bàn Tử vỗ tay: "Ai nha, thật đúng là." Gật đầu ra ý đã hiểu, hắn tiếp, "Chuyện này tôi thật sự không nghĩ tới, nhưng nếu đi tìm gã, gã lại tố ngược chúng ta thì biết làm sao?"

"Hạng người này rất khôn khéo, nắm trong tay vô vàn tin tức, nếu gã cố ý muốn nhả ra thì một dải Trường Sa sẽ chao đảo. Gã ngậm miệng không nói chính vì biết như thế mới có lợi cho mình." Tôi tiếp, "Giờ gã đang gặp nạn, có rất nhiều việc cần người khác giúp đỡ, tôi thấy không khó mở lời đâu." Nói đến đây tôi đã biết mình nên làm gì. Những chuyện khác không thể làm phiền Phan Tử, riêng việc này không mẫn cảm, có thể nhờ anh đi dò hỏi tình hình.

Vậy là quyết định điều tra giúp Muộn Du Bình, có chúng tôi nhúng tay vào vẫn hơn là để hắn chạy lung tung. Nhưng việc này một người không làm nổi, bên tôi còn đang chật vật muốn chết, vả lại thế cục hỗn loạn, chắc chắn không thể để Muộn Du Bình chạy theo tôi khắp nơi. Mà hạng người như hắn tôi cũng không khống chế nổi, lỡ đang yên đang lành hắn tự dưng nhớ ra chuyện gì rồi đùng đùng bỏ đi thì không biết tôi còn gặp rắc rối gì, chi bằng kéo luôn Bàn Tử xuống nước.

Bàn bạc một lúc, Bàn Tử cũng đành đồng ý. Hắn nói: "Chuyện khác tạm thời chưa nói nói, tốt nhất là tìm ra chỗ ở của Tiểu ca, vậy là chúng ta đã tiết kiệm được rất nhiều công sức."

Chuyện này cứ thế mà ước định, tôi đi nhờ Phan Tử giúp, Muộn Du Bình tạm thời ở với Bàn Tử, có manh mối rồi chúng tôi sẽ bàn bạc lại sau. Dù sao với quan hệ giữa ba người thì việc này cũng không thể tránh được, chi bằng coi nó là việc của mình mà làm, xem như trả nợ ân tình cho Muộn Du Bình.

Người ta thường nói lời hay khó khuyên quỷ đáng chết, ngoảnh đi ngoảnh lại, mấy chuyện thị phi đã kéo đến rồi.

Trở về Hàng Châu, tôi gọi điện cho Phan Tử kể rõ đầu đuôi gốc tích. Phan Tử cũng là người nghĩa khí, khảng khái chấp thuận ngay. Anh làm việc rất năng suất, ba ngày sau tôi đã nhận được điện thoại của anh.

Tôi tưởng đã có manh mối, liền hỏi anh tình hình thế nào rồi.

Anh thở dài, nói với tôi: "Phiền toái rồi, tôi đã tìm đến nơi hỏi gã, đúng là gã biết chuyện cậu muốn biết, nhưng không chịu nói suông, mà phải có điều kiện."

"Điều kiện gì?" Tôi hỏi. Đây là chuyện nằm trong dự liệu, tôi mà là gã thì cũng ra điều kiện.

"Gã muốn mười vạn đồng, còn bảo cậu đến tận nơi, gã muốn đích thân nói cho cậu biết."

"Gặp tôi?" Tôi sững sờ giây lát, hơi bất ngờ, thầm nghĩ: đòi tiền cũng đúng thôi, nhưng gặp mình làm gì? Nghe có vẻ không thỏa đáng.

"Chẳng lẽ gã muốn dụ tôi đến cho cớm tóm, lấy công chuộc tội?" Tôi lạnh người nói, bên tai vang vang tiếng xích sắt leng keng.

"Tôi cảm thấy khả năng này cũng có." Phan Tử "a" một tiếng, "Nhưng gã còn bảo tôi đưa cho cậu xem một thứ, nói cậu nhìn thấy thứ này rồi nhất định sẽ đến gặp gã."

"Là cái gì thế?" Tôi hiếu kỳ hỏi.

"Là một tấm ảnh cũ." Phan Tử dừng một chút, "Rất cũ, là kiểu ảnh đen trắng lưu hành vào thời thế hệ chúng tôi còn trẻ."

Toàn thân tôi bỗng nổi da gà. Phản ứng đầu tiên của tôi là nghĩ đến tấm ảnh chụp chung của chú Ba ở Tây Sa trước khi rời bến, tấm ảnh chó má đã hao phí mất bao nhiêu thời gian của tôi. Trong lòng thoáng cân nhắc, không lẽ gã cũng biết ẩn tình đằng sau chuyện này? Nhưng đến bây giờ gã mới đem nó ra làm điều kiện thì cũng lề mề quá.

Nghĩ vậy bèn hỏi: "Trên đó chụp cái gì?"

Phan Tử ậm ừ cả buổi mới nói: "Tôi không dám chắc, có cảm giác tấm ảnh kia chụp một con "ma".

----------------

(1) Tứ hợp viện: Kiểu nhà có 4 gian phòng quây quanh một khoảnh sân vuông (có thể là chữ nhật). Đặc trưng của tứ hợp viện là chiếm chỗ, mà đất ở Bắc Kinh đắt đỏ khỏi bàn, nên "ở tứ hợp viện" cũng tức là ở sang ~

Chương 3: Tấm ảnh cũ thứ hai

Tấm ảnh được gửi qua email, mà Phan Tử mù tịt cái này. Tôi dạy anh cả buổi, đến khi thông thạo thì đã là một tiếng sau khi tôi gọi điện thoại cho anh.

Đó là một tấm ảnh cũ kỹ ố vàng, bề mặt còn có dấu hiệu phai màu. Nhưng dù là thế, tôi vẫn có thể nhìn ra cảnh tượng trong đó, cũng vỡ lẽ vì sao Phan Tử không thể khẳng định, và "ma" có nghĩa là gì.

Tấm ảnh kia hẳn là được chụp trong gian nhà cũ nào đó, lấy phông nền là một tấm bình phong. Ảnh chụp bạc phếch, không nhìn rõ từng chi tiết mà chỉ thấy phía sau bình phong có một bóng người đứng thẳng.

Nắng chiếu xuyên qua bình phong, bóng người nhìn tương đối rõ. Điều khiến người ta nổi gai ốc chính là tư thế của cái bóng đó, người thường khi đứng luôn có xu hướng nghiêng về trọng tâm, nhưng bóng người này gần như đứng thẳng. Hơn nữa bả vai người đó còn lõm xuống, liếc qua đã thấy bất thường, cảm giác đầu tiên của tôi chính là người kia đang treo lơ lửng giữa không trung.

Sau bình phong treo một xác chết?

Tôi rùng mình ớn lạnh, bỗng chốc bừng tỉnh. A, đây là ảnh chụp trong viện điều dưỡng bỏ hoang ở Cách Nhĩ Mộc. Trong đầu tôi lập tức hiện ra tình cảnh lúc đó, đây không biết là hành lang ở lầu mấy.

Viện điều dưỡng kia là nơi nhóm Văn Cẩm chọn làm chốn ẩn thân để tránh khỏi sự truy lùng của chú Ba. Nhóm Văn Cẩm thân thế bí hiểm, theo như lời chú Ba thì không biết bọn họ đang tiến hành nghiên cứu cái gì. Trong viện điều dưỡng bỏ hoang, bọn họ đã quay rất nhiều băng hình, giám sát nhất cử nhất động của bản thân, trong số đó thậm chí còn một người giống hệt tôi, chuyện này hoàn toàn là một mớ bòng bong.

Vì sao gã họ Sở lại có ảnh chụp nơi đó, chẳng lẽ gã cũng dây dưa vào chuyện này?

Lòng tôi hơi khó chịu, mà nghĩ mãi không ra bức ảnh này có chỗ nào khơi gợi hứng thú của mình. Nhìn ảnh sẽ đi tìm người? Không hề có cảm giác ấy.

Nhìn xuống bên dưới, sàn nhà lát gỗ, bên trái bức ảnh có một cảnh ở xa, là hành lang phía sau bình phong, một nửa bị bình phong che mất, một nửa vẫn thấy được. Chỗ đó đã nhăn nhúm, thoạt nhìn không rõ ràng lắm, nhưng nhìn kỹ thì thấy một bên hành lang có vài khung cửa.

Trong một thoáng, tôi đã cảm thấy cảnh tượng này có phần quen thuộc. Cái cảm giác xưa cũ cổ kính này, thêm vào đó là cách sắp xếp các phòng, tôi chắc chắn đã từng gặp ở đâu đó, hơn nữa ấn tượng còn tương đối sâu sắc.

Tôi rê chuột xuống dưới, trong email còn gửi kèm ảnh scan, bên trên có chữ viết tay của gã họ Sở, hiển nhiên là viết cho tôi.

Trên đó viết: Năm 1984, ở viện điều dưỡng Cách Nhĩ Mộc của quân giải phóng.

Không đúng, tôi thử nghĩ, gã rất thân với chú Ba, không chừng chú Ba đã để lại vật gì ở chỗ gã chăng? Hoặc là chú từng nhờ gã giúp việc gì. . . . . . nên gã mới biết chút tin tức.

Khả năng này khá lớn, nếu gã thật sự biết ở viện điều dưỡng đã xảy ra chuyện gì thì quả là một tin vui bất ngờ cho tôi. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, bức ảnh này chụp cái gì mới được chứ?

Đối với người bình thường, chụp ảnh dĩ nhiên là vì mục đích chủ quan, hoặc để giữ làm kỷ niệm, hoặc để bảo tồn tư liệu, không có chuyện rỗi hơi đi chụp một tấm hình vô nghĩa. Lúc ấy trong viện điều dưỡng hiển nhiên đã xảy ra chuyện gì đó, tạo cơ hội cho một người chụp được bức ảnh này.

Xem ra đây khó có thể là ảnh lưu niệm, vì tấm bình phong chẳng có gì bắt mắt, hành lang thô sơ nằm ngoài rìa bức ảnh chắc chắn cũng không phải lý do chụp hình. Vậy thứ người này muốn chụp hiển nhiên là cái bóng sau bình phong rồi.

Đây là chuyện khá kỳ lạ, một mặt cái bóng khiến người ta sởn gai ốc, mặt khác cách chụp ảnh quả thực gây cho người ta cảm giác có thể nó đang chụp "ma", vì nhìn thoáng qua trông nó hơi giống ảnh ma trên internet. Hơn nữa lòng tôi hiểu rất rõ, đó không thể là ma, đằng sau tấm bình phong nhất định phải có vật gì. Mà người chụp, vì lý do nào đó, đã đứng cách một tấm bình phong để chụp bức ảnh này. Có điều chúng tôi không ở hiện trường, chỉ thấy được thành quả, nên có hơi khó tưởng tượng.

Trong viện điều dưỡng đúng là ẩn chứa nhiều bí ẩn, bọn họ ghi hình lại nhất cử nhất động của mình, giờ còn lòi ra tấm ảnh này, rốt cuộc họ đã làm cái quỷ gì trong đó chứ?

Nghĩ đi nghĩ lại, tôi cũng không thể đắn đo quá nhiều, xem ra đúng là phải đi gặp người này một chuyến. Tôi gọi điện cho Phan Tử, nói rõ suy nghĩ của mình. Phan Tử suy tính một lát rồi bằng lòng, nói để anh thu xếp, thu xếp thỏa đáng rồi sẽ báo cho tôi sau.

Bỏ qua mấy chuyện râu ria, chẳng bao lâu sau, tôi đã gặp được gã họ Sở ở trại giam Bình Đường, quá trình thuận lợi hơn tôi nghĩ. Phan Tử đưa tôi đến, đây là lần đầu tiên tôi đặt chân vào nhà đá, trên đường vào mồ hôi lạnh túa ra như mưa, qua vài cánh cửa sắt, tôi đã thấy gã ngồi trong phòng nghỉ.

Người này rõ ràng đã gầy đi kha khá, quả đầu trọc cũng không còn sáng bóng như xưa, xem ra đã già đi mấy tuổi, run rẩy nhíu nhíu mày. Tôi cho gã điếu thuốc, gã rít mấy hơi mới bắt đầu thả lỏng. Nhớ lại mặt mũi bóng nhẫy của gã ngày trước, lòng tôi không khỏi cảm khái, lăn lộn trong cái nghề này phất nhanh mà tàn cũng nhanh, sa chân đến nước này cũng đành chấp nhận.

Gặp rồi lung túng mất một chặp, tôi không biết phải nói gì, trái lại là gã mở lời trước: chú Ba nhà cậu ra sao rồi? Giọng nói cũng khản đặc đi nhiều.

Tôi kể sơ lược về tình hình ở Trường Sa, nói chú Ba đã bặt vô âm tín, cũng không thấy xuất hiện trong giới tai to mặt lớn, chẳng biết lại chạy đi đâu rồi.

"Báo ứng, đi con đường này tất gặp báo ứng!" Gã hung hăng rít một ngụm khói, hình như hơi thất thần, ngẫm nghĩ rồi ngước lên nhìn tôi nhìn chằm chằm, lại hỏi, "Cậu đang thăm dò chuyện về Trương câm điếc?"

"Trương câm điếc?" Tôi ngây ra một chặp mới phản ứng, "Anh đang nói Tiểu ca kia? Các anh gọi hắn là Trương câm điếc?"

"Trên đường đi mọi người đều gọi hắn như thế." Lúc này gã đã hít xong, tốc độ cực nhanh. Tôi thấy tay gã bắt đầu run, liền đưa cả thuốc lẫn bật lửa của mình qua, gã lập tức lấy thêm một điếu. "Vì hắn không thích mở miệng, cậu hỏi thăm chuyện của hắn làm gì?"

Tôi thầm nghĩ cái này liên quan đếch gì đến anh, tạm thời không biết trả lời sao. Phan Tử bên cạnh liền xen ngang: "Mẹ kiếp, anh hỏi nhiều thế làm gì?"

Gã họ Sở rít vài hơi, liếc qua Phan Tử, ỷ thế làm càn: "Anh thích vậy đấy, hỏi mấy câu thì có làm sao?"

Phan Tử vừa thấy gã đã nổi điên, "hừ" một tiếng định buông lời độc địa. Tôi ngăn anh lại, giờ có thể coi như thời gian gã họ Sở sa sút nhất, có xỉa xói cũng vô dụng. Gã đã không còn gì để mất, anh mắng vài câu thì ích gì? Tôi liền mở lời: "Anh Sở, anh dấn thân vào giang hồ lâu hơn em, hẳn cũng biết có một số việc thật sự khó nói."

"Ái dà, cậu Ba cũng tính khua môi múa mép với tôi, khá lắm." Gã gật đầu nhìn tôi, nói bằng giọng xách mé.

Tôi trái lại không hề bị khiêu khích, chỉ nhìn thẳng vào gã. Gã làm bộ run run nhịn cười một lát, thấy tôi không tỏ thái độ thì cũng hơi cụt hứng, đột ngột quay sang Phan Tử hỏi: "Chú Phan, đã chuyển tiền cho ông già nhà anh chưa?"

Phan Tử lấy ra một tờ biên lai, đại khái là Phan Tử trả giùm tôi mười vạn đồng, quẳng đến trước mặt gã. Gã nhặt lên xem, nói: "Đúng là người của ông Ba, sảng khoái lắm!"

"Tiền tụi em đã trả, người anh cũng gặp rồi, giờ anh nói được chưa?" Phan Tử nói dỗi.

Gã gật đầu rồi nói với anh: "Mời chú Phan ra ngoài một lát, đây là chuyện giữa anh và cậu Ba nhà chú."

Phan Tử cau mày, có vẻ bực bội. Tôi vội nháy mắt ra hiệu cho anh nghe lời gã đi, lỡ đâu gã có cách thì sao. Phan Tử rủa thầm một tiếng rồi đứng dậy ra ngoài.

Gã họ Sở nhìn theo anh, cho đến khi cửa đóng hẳn lại mới quay sang tôi. Tôi phát hiện gã đổi sắc mặt, nhả ra một ngụm khói rồi nói với tôi: "Cậu Ba, cậu không thể tiếp tục điều tra nữa."

Tôi giật mình nhìn gã họ Sở, không ngờ gã lại nói thế.

"Vì sao?" Tôi buột miệng hỏi.

"Cậu cứ xem kết cục của tôi, của chú Ba cậu, của Trương câm điếc và của mọi người là hiểu ngay thôi." Gã thở dài rồi đứng lên: "Bí mật đằng sau rất ghê gớm, cỡ như chúng ta không dây được đâu."

Tôi ngồi thẳng lại, nhớ tới bức ảnh kia, liền hỏi gã: "Thật ra anh biết những gì?"

Chương 4. Người cùng cảnh ngộ

Gã họ Sở nói thế làm tôi có cảm cảm giác gã biết khá nhiều chuyện, không khỏi trở nên căng thẳng, đành mở miệng thúc giục, chỉ lo gã lại như chú Ba, nói được một nửa rồi ngừng.

Cứ thế thành ra vô tình để lộ tâm lý sợ hãi của mình. Gã họ Sở nhìn tôi cười cười, nói: "Cậu đừng vội, tôi sẽ kể hết cho cậu nghe những gì mình biết, nhưng trước tiên cậu phải đồng ý với tôi một vài chuyện." "Là chuyện gì?" Tôi hỏi, thầm nghĩ không phải gã thấy được đà mà muốn hét giá chứ?

Gã nhìn nhìn ra cửa, run rẩy nói: "Chuyện này tôi chỉ kể riêng với cậu, cậu không được nói lại cho người khác biết. Dù sao tôi đã kể cho cậu chuyện của Trương câm điếc thì cũng có thể vì tiền mà tiết lộ chuyện của những người khác, lỡ bất cẩn để người ta nghe được mấy tin tức này, không biết chừng lại tìm người xử lý tôi mất. Án tù của tôi không phải chung thân, vẫn còn mong đến ngày mãn hạn, hơn nữa nơi này cũng không an toàn như tôi nghĩ. Nếu chưa rơi vào đường cùng thì tôi cũng không bán mấy tin tức này đâu."

Tôi gật đầu. Chuyện này tôi hiểu, cho nên gã mới đòi tôi đích thân đến gặp, còn phải đuổi Phan Tử ra ngoài, những chuyện kiểu này càng ít người biết càng tốt.

"Tôi và chú Ba cậu là bạn bè lâu năm rồi, có rất nhiều chuyện năm đó là do tôi làm, ví dụ như điều tra Trần Văn Cẩm. Cho nên chuyện mà tôi biết nhiều hơn cậu nghĩ rất nhiều." Gã run rẩy nói, "Cũng biết vực thẳm đằng sau nó sâu đến đâu. Có lẽ cậu không biết, ông Ba thường xuyên nhắc đến cậu, cho nên tôi cũng biết chuyện về cậu. Cậu không phải người trong nghề, nên tôi mới dám bán tin cho cậu." A, lòng tôi khuấy đảo một trận, vậy là có thể lý giải vì sao gã có được tấm ảnh kia. Lại hỏi: "Thế rốt cuộc là có chuyện gì?"

Gã nói tiếp: "Tôi không biết ông Ba đã kể cho cậu nghe chuyện về những người đó chưa?"

"Ý anh là đội khảo sát kia?" Tôi hỏi, trong đầu vang vang lời chú Ba: Bọn họ không bình thường đâu. "Có kể chút ít, nhưng không nhiều lắm."

"Đời này chú Ba cậu dành trọn cho việc điều tra hành tung của nhóm người kia. Hồi còn hợp tác với ông ấy, tôi thường xuyên nghe ông ấy ba hoa chém gió, nhưng càng điều tra, ông ấy phát hiện nhóm người này càng bất thường." Gã hút hết một điều thuốc nữa, lại rút điếu khác ra châm lửa mà hút tiếp, "Những người này dường như đều lẻ loi, tách biệt khỏi thế giới này, không hề có mối liên hệ nào với xã hội. Bọn họ là ai, đến từ đâu, rốt cuộc đang khảo sát cái gì, chẳng ai biết cả."

"Chuyện này tôi biết."

"Nhưng khi tôi khuyên ông ấy buông tay, ổng lại nói mình tuyệt đối không tin trên thế giới này lại có chủng người như thế tồn tại. Trong mấy năm đó chúng tôi gần như đã dùng hết mọi biện pháp mà vẫn không hề có tiến triển, cuối cùng chú Ba cậu đành nghe lời tôi, buông bỏ hy vọng. Tôi cứ tưởng chuyện đến đây là kết thúc rồi, ai ngờ một năm trước, sau khi ông Ba, cậu, và cả Trương câm điếc trở về từ Sơn Đông, ông Ba tự dưng nói cho tôi biết Trương câm điếc kia chính là một người trong nhóm đó, hơn nữa cũng không già đi. Sửng sốt, chúng tôi lập tức bắt tay vào điều tra, mục tiêu đương nhiên là Trương câm điếc." Tôi ngồi thẳng dậy, thấy gã lại châm thêm một điếu thuốc, không biết đây đã là điếu thứ bao nhiêu rồi. Gã hít sâu một hơi, "Khi đó Trương câm điếc là người của ông Tư, chú Ba cậu mượn hắn từ chỗ ông Tư. Tôi nhờ người qua đó thăm dò thân thế của hắn, kết quả là nghe được vài chuyện khó tin."

Gã dừng lại một chút, "Nghe nói lần đầu tiên ông Tư gặp Trương câm điếc là vào một tình huống rất lạ lùng, chuyện xảy ra vào bốn năm trước, trong một lần bộ thi ở Quảng Tây. Cậu đã nghe nói đến bộ thi chưa?"

Tôi gật đầu. Bộ thi là chuyện từ thời xưa, thường xuất hiện khi xảy ra tai họa nào đó. Ở những nơi có truyền thuyết về cương thi thì nó lại càng thịnh hành, đánh hạn bạt chính là một loại trong số đó. Vào những lúc như thế người ta thường đào mồ quật xác, đôi khi thật sự có thi biến, thôn dân sẽ chọn ra những người can đảm, lấy thừng lấy chão quấn quanh bánh tông lôi ra khỏi cổ mộ, phơi dưới nắng gắt trừ hại.

Còn bộ thi mà người của Trần Bì A Tứ kể cho gã thì không giống vậy, chuyện này lại phải nói từ việc làm ăn của Trần Bì A Tứ ở Quảng Tây.

Quảng Tây trước kia là nơi tập trung văn hóa nhiều dân tộc, văn vật di tích vô số kể, có điều do văn hóa khác biệt quá xa với trung nguyên mà những chiêu trò của người trung nguyên hoàn toàn vô dụng ở Quảng Tây. Hoạt động sôi nổi nhất ở Quảng Tây thường là mấy tay săn đồ cổ hoặc hiệu buôn đồ cổ, đều tìm đến các thôn xóm thu mua hàng. Do Quảng Tây giáp ranh với Việt Nam mà dần dà có vài người Việt Nam phát hiện con đường phát tài này, họ liền kết bạn vượt biên sang Trung Quốc đào một vài cổ mộ. Quảng Tây có nền văn hóa Lĩnh Nam, cổ mộ rất nhiều, hơn nữa đa số đều phô ra công khai, người Việt Nam tuy không hiểu cách trộm mộ, nhưng đào lung tung vẫn lấy được vài món đồ. Thời đó việc làm ăn ở Trường Sa, Thiểm Tây thật ra đã rất khó khăn rồi, cậu hỏi chẳng lẽ không có đấu à thì thật ra vẫn có, còn rất nhiều đấu mỡ, trộm đến hơn mười lần mà bên trong vẫn còn đồ, đi vào cũng chẳng đến mức trắng tay. Nhưng số đấu có đồ quý, có long tích bối thực sự quá ít, muốn mở một cái đấu mới thì đã có mấy nhà ngồi chồm hỗm nhòm ngó giành hàng, với cục diện này chắc chắn phải tìm đường thay đổi, nên có rất nhiều ông trùm đều có ý muốn mò sang tình khác kiếm ăn. Có thời gian họ đã đào được kha khá mộ nước Kim ở Hắc Long Giang; Quảng Tây cũng là một tuyến trong đó.

Trần Bì A Tứ làm ăn rộng, liên hệ với cả người Việt Nam ở Quảng Tây, lần đó phái người đi Quảng Tây chính vì bên kia nói có một nhóm người Việt Nam phát hiện ra một cái đấu to, không rõ lai lịch thế nào, nhìn quy mô thì thấy tương đối lớn, cần bên này phái người qua "chỉ đạo" vì bọn họ không biết vật nào đáng giá vật nào không.

Lần ấy có ba người đi, bọn họ theo chân người Việt Nam vào rừng mưa nhiệt đới, lần đầu tiên thấy người Việt Nam hành sự ra sao. Người Việt Nam vũ trang đầy đủ, mà xem ra nhóm người này không chỉ làm một nghề, còn khiêng theo một cái sọt, hỏi họ giấu hàng gì trong đó, họ chỉ nói bên trong là "A Khôn". Người của Trần Bì A Tứ dù hiểu tiếng Việt, nhưng cũng không biết đó là ý gì.

Đi suốt ba ngày trong khu rừng ở biên cảnh Việt Trung, bọn họ mới đến nơi. Cổ mộ gần như là bày tơ hơ ra đó, bọn họ dùng lá chuối tây che lên cửa vào, hình như đây là một cái hầm. Đúng vào lúc người của Trần Bì A Tứ định đi vào, người Việt Nam liền ngăn cản, ra hiệu bằng tay với họ, đại để là "cẩn thận". Nói rồi một người Việt Nam dỡ hết lớp ngụy trang bên trên cái sọt ra, lúc này bọn họ mới phát hiện trong cái sọt kia hóa ra là một thanh niên toàn thân trần trụi.

Chân tay người kia bị trói, tóc tai bù xù, toàn thân lấm lem bùn đất; người Việt Nam khiêng hắn theo vào trong miệng hầm.

Dưới cửa vào chính là mộ đạo dẫn thẳng xuống thềm đá bên dưới, nhóm người Việt Nam rút dao, người phía Trần Bì A Tứ cũng lăm lăm móng lừa đen, càng đi càng thấy cổ mộ này quy mô rất lớn, đi chừng mười phút mới đến mộ thất. Xuống đến đáy mộ bắt đầu ngửi thấy mùi hôi thối, họ đi tìm nơi phát mùi thì thấy chính giữa mộ thất có một giếng vuông lớn cỡ cái chậu rửa mặt, mùi thối truyền ra từ lòng giếng.

Đây là một ngôi mộ hai tầng, hơn nữa còn là mộ quần táng kiểu Lĩnh Nam. Chiếu đèn pin xuống, dưới miệng giếng là một mộ thất khá thấp, đại khái chỉ cao tầm mét rưỡi, có thể thấy những quan tài gỗ bày theo hình vầng mặt trời bị dầm trong nước, tỏa ra mùi tanh tưởi nồng nặc từ dưới đáy.

Người Việt Nam đẩy thẳng thanh niên bị trói kia xuống, sau đó thòng dây thừng, lấy đèn pin ra soi, hình như đang chờ đợi con mồi nào đó.

Người phía Trần Bì A Tứ thấy vậy là biết cổ mộ này nhất định có vấn đề, có lẽ lần đầu tiến vào đã có người phải chết, nên lần này họ mới dẫn người theo. Thanh niên kia có thể coi là mồi câu, bọn họ muốn dùng người sống để dụ cái thứ bên trong ra, sau đó thả dây thừng xuống trói lại lôi cổ lên, đây đích xác là một kiểu bộ thi.

Nghe vậy tôi không khỏi cảm thấy quá tàn nhẫn, trộm cắp văn vật đơn giản là để cầu tài, biến thành muốn lấy mạng người khác thì sự việc đã biến chất rồi. Nhưng chuyện này còn có nguyên nhân lịch sử, rất khó vơ đũa cả nắm. Người phía Trần Bì A Tứ đều biết người Việt Nam rất liều mạng, mình không thể can thiệp vào chuyện này, bằng không chẳng biết bọn họ rồi sẽ làm ra chuyện gì.

Nhưng bọn họ chờ cả buổi vẫn không thấy chút xíu động tĩnh nào. Người Việt Nam ở lại bên trên cảm thấy rất quái gở, bàn nhau bằng tiếng Việt một lát rồi đầu lĩnh ép một người Việt khác phải xuống xem.

Người kia xuống đến nơi, nhìn quanh một vòng rồi ngoắc tay ra hiệu không sao, mấy người Việt Nam khác cũng xuống theo, bắt đầu kéo đồ lên. Người của Trần Bì A Tứ lúc ấy cũng sơ ý, không xuống cùng họ. Kết quả chưa lấy nổi hai món thì bỗng dưng bên dưới đã phát sinh biến cố, chỉ nghe tiếng người kêu gào thảm thiết, máu bắn tung tóe ra khỏi miệng giếng.

Mấy người Việt Nam này tương đối lực lưỡng, lập tức có người trốn lên. Nhưng mới trốn được hai người thì sau đó loáng cái đã thấy một cánh tay thi thể móng dài loằng ngoằng thò ra khỏi miệng giếng, suýt nữa đã túm được đầu lĩnh lôi xuống. Bọn họ sợ chết khiếp, không còn cách nào khác, đành lấy đá tảng chẹn miệng giếng lại, chồng thêm hơn mười khối đá lớn rồi hốt hoảng bỏ chạy.

Chuyện này sau đó đến tai Trần Bì A Tứ, đối với một ông trùm kinh nghiệm phong phú thì mấy cái bánh tông không đủ để bỏ qua một ngôi mộ cổ. Do đó Trần Bì A Tứ đích thân dẫn người quay lại Quảng Tây, một tuần sau mới đến ngôi mộ cổ kia. Sau khi dời mấy tảng đá đi, bọn họ liến phát hiện bên dưới rất bề bộn, tay chân gãy rời văng tung tóe khắp nơi, bốn bề tanh tưởi.

Trần Bì A Tứ nghĩ mọi người đã chết sạch, nhưng xuống đến nơi lại thấy hơn mười con bánh tông đổ dồn vào một góc mộ thất, cổ đều bị vặn đứt. Một người toàn thân trần trụi ngồi trên nóc quan tài, giữa đống bánh tông, đang nhìn lão chằm chằm bằng nét mặt vô cảm.

Gã họ Sở nói: "Người này, chính là "A Khôn" trước kia bị người Việt Nam dùng làm mồi câu, cũng chính là Trương câm điếc của hiện tại. Đó là lần đầu tiên họ gặp nhau."

Tôi rùng mình ớn lạnh: "Sao nghe như kịch thế."

"Câu chuyện này nhất định có phần khoa trương, cái nghề này rất dễ chém gió." Gã nói đến đây, dường như cũng rất vui vẻ, cứ như đang quay về khoảng thời gian trước khi vào tù, "Nghe nói nhóm người Việt Nam kia phát hiện ra Trương câm điếc trong một thôn làng ở Quảng Tây. Khi đó thần trí hắn còn mơ hồ, bọn họ coi hắn là thằng đần, trói lại làm mồi câu. Nhưng đại khái là có chuyện như thế xảy ra, khoa trương có chăng là số lượng bánh tông thôi. Sau này hắn trở thành gia nhân của Trần Bì A Tứ, chuyện này truyền đi rất rộng giữa mấy tay thủ hạ đắc lực của ông Tư, có điều bọn họ lại không hé răng nửa lời với người ngoài."

"Còn chuyện xảy ra trước đó thì sao?"

"Không ai biết gì cả. Trương câm điếc khá là lợi hại, ông Tư rất coi trọng hắn, nhưng tôi e là ông Tư cũng không nắm rõ gốc gác của hắn. Nghề này có quy củ riêng, mấy chuyện kiểu thế cũng không mấy ai hỏi đến."

Tôi mới nói, Trần Bì A Tứ có biết cũng chẳng ích gì, bây giờ lão ta đang ở đâu tôi còn không rõ thì biết đến chỗ nào mà hỏi cho được.

"Tuy câu chuyện này chỉ là truyền thuyết, nhưng ít nhất cũng có thể cho chú Ba cậu một chỉ dẫn." Gã nói. "Nhưng sự tình chuyển biến bất ngờ, chú Ba cậu đi Tây Sa gấp, tôi mới thay ông ấy đến Quảng Tây, cầm tấm ảnh của Trương câm điếc đến vùng đó hỏi thăm. Tiên sư nó, điều kiện sống ở đó không dành cho người, ông đây mất hai tháng ròng tìm kiếm mới tìm ra chút manh mối từ một thôn nhỏ tên Ba Nãi -"

Thôn làng kia ở miền núi, nằm kề biên giới Việt Trung. Nơi đó còn có người nhận ra Trương câm điếc, người bản địa gọi là A Khôn, hơn nữa còn đưa gã đến chỗ A Khôn ở.

Tôi a lên một tiếng, thật không ngờ: "Anh nói hắn sống ở vùng nông thôn Quảng Tây?"

"Tuy khá hẻo lánh, nhưng nơi này lại là địa bàn của Trần Bì A Tứ, có rất nhiều người Việt Nam sinh sống. Hẳn là hắn sống ở đấy, nhưng tôi cũng không dám khẳng định trăm phần trăm. Trong chuyến đi gắp Lạt ma ở núi Trường Bạch, tôi liên hệ với hắn thông qua ông Tư. Phần lớn thời gian hắn đều ra ngoài xuống mộ, có thể thấy căn phòng kia không ai ở, có lẽ năm đó sau khi rời Quảng Tây, hắn cũng chưa bao giờ về."

"Phòng hắn ở trông như thế nào?" Tôi hỏi, hơi tò mò nhà của Muộn Du Bình rốt cuộc là cái dạng gì.

"Rất bình thường, đó là một gian nhà sàn thấp, trông giống nhà đất mà người dân tộc thiểu số vẫn ở, bên trong kê giường và một cái bàn, mặt bàn phủ một lớp kính, bên dưới chèn khá nhiều ảnh. Tôi phải lén chui vào, bởi vì đó là địa bàn của ông Tư, tôi không dám đường đột, cũng không dám khuân đồ ra, chỉ lục lọi bên trong một lát, lấy một tấm ảnh trong đó ra - cũng chính là tấm ảnh mà tôi đã gửi cho cậu, chuẩn bị bàn bạc với chú Ba cậu rồi quyết định bước tiếp theo. Ai ngờ Trần Bì A Tứ đã theo dõi tôi từ lâu, còn chưa kịp rời Ba Nãi đã bị tóm cổ, chuyện sau đó thì cậu cũng đã biết rồi đấy." Gã dừng một chút rồi tiếp, "Tôi có cảm giác từ khi tôi hỏi thăm về Trương câm điếc ở Trường Sa, ông Tư đã để mắt đến tôi rồi. Có thể ông ấy biết một vài chuyện, nên tôi vừa đến Ba Nãi đã bị theo dõi. Lúc ấy tôi không còn lựa chọn nào khác, đành hợp tác với ông ta để đối phó với chú Ba cậu."

Tôi hỏi: "Vậy bí mặt đằng sau những chuyện anh vừa kể là gì?"

Gã họ Sở nhìn tôi, lại bắt đầu run rẩy: "Cái này tôi không thể nói..."

Tôi hừ một tiếng, ghét nhất là có người đánh đố mình, "Có cái quái gì mà không thể nói? Hay anh chê ít tiền?"

Gã run run: "Cậu Ba, thật không dám giấu, hồi chú Ba cậu còn chưa mất tích, ông ấy kị nhất là dò hỏi đến ngọn nguồn. Giờ ông ấy sống chết không rõ, lỡ có ngày đột ngột xuất hiện, việc này nếu cậu tự tra ra thì không nói làm gì, chứ ông ấy mà biết tôi mách cho cậu thì chỉ e cái mạng nhỏ này cũng khó giữ nổi. Chú Ba cậu đâu phải thiện nam tín nữ gì, tôi đã bán đứng ông ấy một lần rồi, nhưng tình thế lúc đó còn có thể coi là bất đắc dĩ, chứ lần này tôi mà còn dám bán nữa, thì xét về đạo nghĩa tôi có cãi đằng trời. Cậu cũng đã nói, chuyện giang hồ có phép tắc của giang hồ, cậu muốn biết thì cứ đến gian nhà kia, nhìn những tấm ảnh khác ép dưới lớp mặt bàn thủy tinh là tự nhiên sẽ hiểu vì sao tôi bảo cậu thu tay lại. Tôi chỉ cho cậu biết đến đây được thôi, còn nội dung cụ thể thì tôi tuyệt đối không thể nói ra miệng được."

Gã còn muốn hút thêm, nhưng thuốc đã hết, ho khan một tiếng, ánh mắt lờ đờ, vậy mà lại trông nhang nhác ánh mắt của Muộn Du Bình. 

Chương 5: Li xut phát

Thôn làng ở Quảng Tây, trong thôn có người câm điếc, mẹ kiếp, càng nói càng lan man. Nhưng những điều gã họ Sở nói ra lại làm tôi ngứa ngáy trong lòng, rốt cuộc gã đã thấy gì trong nhà Muộn Du Bình, tôi truy hỏi vài lần mà gã cứ khăng khăng ngậm miệng không chịu khai ra. Xem cái kiểu của gã, tôi cảm thấy hơi quái quái, cứ như gã đang cố làm bộ làm tịch vậy. Cuối cùng đến cả giám thị trại giam cũng vào hỏi có chuyện gì thế, đến nước này nếu cứ ép uổng khéo lại sinh sự nên tôi đành thôi.

Phan Tử cũng ức chế không kém, anh bảo hay cứ tìm người đến tẩn cho gã một trận, cạy miệng gã ra. Tôi bảo không cần, trông tay này cứ giả giả sao đó, không chừng gã cũng chả biết cái qué gì đâu.

"Vì sao? " Phan Tử hỏi.

"Đây gọi là phô trương thanh thế. Có thể gã biết trong nhà có một cái bàn, trên bàn có ảnh, nhưng lại không biết chính xác ảnh chụp cái gì. Loại người chuyên bán tin tức và cho vay nặng lãi này đều thích phô trương như thế đấy." Tôi nói. "Nhưng gã đương nhiên phải đến tận nơi rồi mới dám quả quyết như vậy."

Đây cũng chỉ là phỏng đoán của tôi, mà thật ra có phỏng đoán cũng chẳng để làm gì, dù sao đi chăng nữa tôi cũng muốn đích thân đi kiểm chứng một lần. Đến lúc đó, tự nhiên sẽ biết chuyện gã nói có quá khoa trương hay không.

Theo địa chỉ thôn Ba Nãi mà tay họ Sở đưa, chúng tôi chốt kế hoạch đến Quảng Tây.

Ba Nãi là một sơn trại của người Dao, nằm lọt giữa Thập Vạn Đại Sơn của Quảng Tây. Mọi người vẫn gọi nó là Siberia của Quảng Tây, ám chỉ sự nghèo khó lâu đời của vùng này. Nhìn địa chỉ, e rằng chỗ đó còn không nằm trong thôn Ba Nãi mà chỉ là cụm dân cư sống giữa bốn bề rừng núi mà thôi.

Trần Bì A Tứ là người cổ hủ, chắc lão thích chọn cái chốn lỡ có đứa nào báo công an thì cũng phải mất ít nhất hai ngày mới đến được này làm căn cứ vì gặp chuyện không may chỉ cần chạy lên núi là thoát, chỉ có bọn tôi là khốn khổ.

Bàn Tử và Muộn Du Bình đến Hàng Châu trước chờ ngày hội họp. Hắn nói thế cũng tốt, thừa dịp này móc nối với đám người phía Nam tăng nguồn hàng, chớ dạo này làm ăn chật vật, hắn sắp đói ăn đến nơi rồi. Thế là chúng tôi nghỉ ngơi vài ngày rồi bay từ Hàng Châu tới Nam Ninh, sau đó chuyển sang đi tàu hỏa đến Thượng Tư.

Không phải đi đổ đấu, thành ra cả bọn chẳng mang gì. Chúng tôi trang bị nhẹ nhàng, cười đùa suốt dọc đường đi, một toa có sáu người, hai tay từ vùng khác đến Thượng Tư làm thuê, người còn lại là hướng dẫn viên du lịch. Tay hướng dẫn viên dạy cả đám chơi bài Đại Tự (1), kiểu na ná mạt chược, rất vui vẻ.

Đến gần Thượng Tư, xung quanh đã bạt ngàn đồi núi. Tàu hỏa nhích dần qua các đường hầm, xa xa núi non chìm trong sương, tay hướng dẫn viên nói đó là vùng trung tâm của Thập Vạn Đại Sơn.

Vùng núi của Quảng Tây được gọi là Thập Vạn Đại Sơn, gồm những rặng núi chạy dài mấy trăm km quây quần lại với nhau, rừng rậm rộng hơn ngăn trăm vạn mẫu, trung tâm của nó là vài chục vạn mẫu là rừng nguyên sinh. Núi non trùng điệp, rừng rậm xanh tươi, thác reo suối chảy, nghe nói là danh lam thắng cảnh nơi chư tiên tụ hội. Có điều địa hình kiểu này khiến việc đi lại cực kỳ khó khăn, chúng tôi chọn tàu hỏa cũng vì lẽ đó. Dân đồng bằng mà đòi đi ô tô vào khu trung tâm Quảng Tây ấy à, có mà nôn mửa đến khô người đi.

Tôi ngắm những ngọn núi lớn, tâm trạng rất khác thường. Trước kia thấy cảnh tượng này thường đồng nghĩa với việc sau đó tôi sẽ dấn thân vào giữa núi non trùng điệp, truy tìm một vài bí mật chôn giấu bên trong. Còn lúc này đây, đích đến của chúng tôi lại là một huyện thành nằm sâu trong núi.

Cảm giác này hết sức kỳ lạ, không biết là thất vọng hay là vui mừng. Nhìn những mỏm núi đá hoa cương hòa lẫn vào rừng núi ngút ngàn đằng xa, tôi bất chợt sởn da gà.

Tới Thượng Tư, chuyển sang Nam Bình rồi đến Ba Nãi, ngồi trên xe vào giữa trưa hè, phong cảnh tươi đẹp trên đường đi khiến người ta muốn tan chảy. Tôi và Bàn Tử mải mê ngắm đến hoa mắt, ngay cả ánh mắt của Muộn Du Bình cũng trở nên có thần.

Thời gian đi đường có vẻ chậm trễ hơn dự tính, đến Ba Nãi đã gần chạng vạng. Trước đó tôi đã hỏi thăm vài người qua đường lấy thông tin, biết có thể xin tá túc qua đêm ở làng người Dao. Hỏi thăm suốt dọc đường, đến khi hỏi một người bản địa tên A Quý mới coi như tìm được đúng đường.

A Quý đã ngoại tứ tuần, có hai gái một trai, tuổi đó cũng chưa phải là già. A Quý có hai căn nhà sàn gỗ kiểu người Dao, mội căn để ở, một căn dùng làm quán trọ, cũng được coi là người tài ba trong làng, rất nhiều du khách đến đây đều do anh ta giới thiệu. A Quý liếc nhìn Muộn Du Bình, tôi cứ tưởng anh ta sẽ nhận ra, ai dè lại chẳng có phản ứng gì. Bàn Tử giới thiệu lai lịch của chúng tôi, A Quý khoát tay bảo không cần, cũng chẳng thèm cò kè mặc cả đã đồng ý cho ở trọ. A Quý khá quen với dạng khách như chúng tôi, rất có phong thái ông chủ nhà nông, còn ra ý trên địa bàn này chuyện gì anh ta cũng có thể giúp chúng tôi giải quyết.

Dọc đường tàu xe mệt mỏi, tôi cũng chẳng nghĩ ra có việc gì cần anh ta giúp, chỉ thấy bụng mình đói meo, bèn bảo giờ cứ giúp tôi bữa cơm chiều cái đã!

A Quý bảo hai cô con gái làm cơm, còn mình thì đi bố trí chỗ ở cho chúng tôi. Quăng hành lý xuống sàn gỗ, tôi lấy nước suối lau người. Ngồi trên nhà sàn cao cao, vô cùng mát mẻ khoan khoái, toàn thân thả lỏng, lại nhìn hai cô gái yểu điệu người Dao bận rộn bếp núc, tôi bống dưng cảm thấy đây mới chính là cuộc sống mà tôi ao ước.

Nhân lúc còn chưa đến bữa, Muộn Du Bình liền hỏi A Quý địa chỉ mà tay họ Sở cung cấp cho chúng tôi nằm ở đâu, hắn có vẻ sốt ruột.

A Quý nói nằm ngay trong làng, cơ mà hơi chếch lên trên. Bàn Tử khuyên hắn đừng vội: "Tuy đấy là nhà cậu, nhưng muộn thế này rồi còn bảo người ta dẫn cậu đi, mà cậu cũng không có chìa khóa, rất dễ khiến người ta nghi ngờ. Chúng ta đã đến đây rồi, thời gian còn nhiều lắm, chờ đến mai hẵng đi cũng chả sao."

Tôi cũng đồng ý, Muộn Du Bình liền gật đầu, tôi tin hắn chắc chắn có đủ kiên nhẫn.

Cơm chiều có thịt hầm ăn với rượu ngọt, người trong làng Dao còn làm nghề săn, nghe nói đây là thịt sóc, cảm giác rất quái. Nhưng rượu ngọt thì tương đối ok, vừa vào miệng đã ngọt lịm, hơn nữa nước ở đây cũng ổn, vào đến miệng là mát rười rượi. Bàn Tử uống say, bắt đầu bốc phét, ba hoa với A Quý mình là ông chủ lớn, giờ chỉ muốn ở lại đây thôi, còn bảo A Quý gả cả hai cô con gái cho mình, mình sẽ chăm chỉ "cày cấy".

Tôi sợ hắn nói lung tung lại đắc tội với người ta, vội vàng thu mâm, giúp hai cô con gái dọn dẹp, để Bàn Tử nằm chỏng chơ một mình hứng gió lạnh cho tỉnh ra một chút.

Vừa lau dọn vừa chuyện phiếm với hai cô gái, hỏi hình hình trong làng người Dao. Hai cô cho tôi biết, trước kia nơi này rất nghèo, ăn không đủ no, sau này có người đến du lịch thì mới khá khẩm lên. Cha họ dẫn người về trọ lại, tiền kiếm được cũng đủ ăn, ông không cần lên núi đi săn nữa, có thể mua những món đồ người ta mang tới, nhà họ còn đủ dư dả để nuôi vài gia nhân.

Tôi chú tâm hỏi thăm tình hình của Trần Bì A Tứ, lại hỏi hai cô nơi này có người Việt Nam ở không.

Các cô nói người Việt Nam cũng có, nhưng không ở Ba Nãi mà ở sâu trong núi cơ. Nơi này hiện có khá nhiều người, các cô cũng chẳng rõ trong đó có người Trường Sa không.

Thu dọn xong tôi vẩy tay, thầm nghĩ xem ra Trần Bì A Tứ đúng là cẩn thận, thậm chí còn không dám ở lại trong thôn.

Mà có khi bọn họ hóa trang thành khách du lịch đến Ba Nãi, còn người Việt Nam thì đi thẳng vào rừng, hai bên gặp gỡ trao đổi trong núi cũng nên. Nếu là như thế thì thứ được trao đổi trong đó e là phải nhiều hơn chúng tôi nghĩ rất nhiều, chí ít cũng được Trần Bì A Tứ cực kỳ coi trọng. Mối quan hệ này, có thể cũng là do lão cài cắm vào hồi còn chạy nạn ở Quảng Tây.

Nghĩ vậy, tôi bước vào phòng ăn định xin A Quý ít trái cây, đúng lúc này thì thấy Bàn Tử toàn thân chếnh choáng men say đang nhìn đăm đăm vào bức tường.

Tôi cứ tưởng hắn uống quá chén nên đầu óc cũng lơ tơ mơ đi rồi, ai ngờ hắn vừa thấy tôi đã kéo đi, bảo: "Tiểu Ngô, cậu qua đây."

Tôi bước qua, hỏi hắn có chuyện gì thế? Hắn đưa mắt ra hiệu cho tôi nhìn về một hướng, tôi thấy trên bức tường gỗ trong phòng ăn có treo một khung hình, bên trong chèn rất nhiều ảnh. Hắn hất cằm về phía một tấm ảnh trong số đó, hỏi tôi: "Cậu nhìn xem, ai kia?"

-----------

(1) Bài Đại Tự là loại bài rất phổ biến ở Quảng Tây, một bộ có 80 lá cho 3 người chơi, luật có vẻ khá rắc rối, ai thích tìm hiểu kỹ thì vào chớ mình đọc một hồi mà cóc hiểu =))

Chương 6: Kế thừa

Đó là một tấm ảnh đen trắng đã ngả nâu, trông na ná tấm ảnh mà gã họ Sở cho tôi xem, kẹp giữa vô vàn tấm ảnh tương tự, không dễ dàng nhận ra. Tấm ảnh chụp chung hai người, tôi giật mình phát hiện ra một trong hai chính là Trần Văn Cẩm!

Tấm ảnh này lớn hơn nhiều so với tấm gã họ Sở cho tôi xem, cho nên nhìn tương đối rõ. Người đàn ông trong ảnh mặc trang phục dân tộc Dao, nét mặt căng thẳng, còn Văn Cẩm thì cười tươi như hoa. Ngoài hai người kia ra, nền tấm ảnh còn có một đứa bé.

Đây là chuyện quái quỷ gì vậy? Ảnh chụp Văn Cẩm sao lại xuất hiện ở chỗ này? Tôi nổi hết da gà, lập tức hỏi A Quý: "Tấm ảnh này chụp vào lúc nào?"

A Quý bước qua xem: "Vài thập niên trước." Anh ta chỉ vào người đàn ông mặc đồ dân tộc, "Đây là cha tôi, còn cô gái này chính là thành viên của đội khảo cổ."

"Đội khảo cổ? Nơi này đã có đội khảo cổ đến?" Tôi gần như nhảy dựng lên, "Chuyện là thế nào vậy?"

"Tôi cũng không rõ lắm, hình như họ nói đã phát hiện ra thứ gì ở ngọn núi bên kia." A Quý chỉ về một hướng, "Chuyện xưa lắc xưa lơ rồi, sau bỗng dưng chẳng ai nhắc đến nữa."

Trong lòng tôi thầm than, đi nát đôi giày không manh mối, thu được kết quả chẳng phí công, chuyến đi này đúng là không uổng! Bèn vội vàng kéo A Quý ngồi xuống, bảo anh ta kể ngay cho tôi nghe chuyện về đội khảo cổ.

A Quý chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, có khi còn đang nghĩ đám người này chập mạch rồi chắc? Sao vừa nghe đến chuyện này đã hưng phấn làm vậy?

Bàn Tử liền nói: "Chúng tôi hiếu kỳ thôi, ông đừng để ý làm gì, cứ kể chi tiết chuyện này đi, chúng tôi sẽ trả công hậu hĩnh, ngàn chữ đổi ba mươi đồng."

A Quý nghe đến tiền là tươi tỉnh ngay, vội vẫy tay gọi con gái qua đếm chữ, thuật lại câu chuyện từ đầu đến đuôi cho chúng tôi nghe.

Khi chuyện này xảy ra, A Quý mới hơn mười tuổi. Thuở ấy Ba Nãi vẫn còn nghèo khổ, gần như cách biệt với thế giới bên ngoài, cho nên sự xuất hiện của đội khảo cổ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng anh ta.

A Quý vẫn còn nhớ đội khảo cổ có hơn mười người, do một cô gái đứng đầu, họ theo chân những người ra ngoài họp chợ mà vào làng. Do cha anh ta hồi đó là liên lạc viên trong thôn, nên phải đi tiếp đãi.

Cô gái kia nói với cha A Quý, họ là thành viên đội khảo cổ đến từ thành phố, phải tiến hành khảo sát ở vùng phụ cận, mong anh hãy giúp sức. Bọn họ có văn kiện đóng dấu đỏ của chính phủ, việc này ở trong làng có thể coi như đại sự, cha A Quý không dám thờ ơ, lập tức giúp bọn họ thu xếp chỗ nghỉ chân và người dẫn đường.

Đội khảo cổ ở đây khoảng sáu bảy tháng, nhưng suốt bấy lâu, họ dành phần lớn thời gian lần mò trong núi, người ở làng căn bản không hề tiếp xúc với họ. Người có mối liên hệ mật thiết nhất với họ, chính là tay dẫn đường được cha A Quý thu xếp.

Sau khi đội khảo cổ đi rồi, người làng mới hỏi tay dẫn đường, những người này rốt cuộc làm gì trong núi? Hắn cũng bảo không rõ. Suốt mấy tháng trời gần như lặn lội khắp các ngọn núi quanh vùng, cuối cùng hình như mới tìm được mục tiêu. Không tiếp tục thăm dò trong núi thì không cần người dẫn đường nữa, hắn cũng rời khỏi đội. Cô gái kia chỉ bảo hắn cách ba ngày đi trình diện một lần, còn đặc biệt lưu ý là đúng ba ngày không sớm không muộn.

Về sau, lại xảy ra một chuyện nghe rất quái gở.

Thời gian đầu tay dẫn đường cứ ba ngày đi một lần, không xảy ra vấn đề gì lớn. Nhưng có một lần hắn phải giúp nhà thông gia cắt cỏ, nghĩ bụng đi sớm một ngày có làm sao, kết quả đến nơi thì phát hiện doanh địa của đội khảo cổ kia trống huơ trống hoác, không biết mọi người đã đi đâu. Hắn sợ hãi, tưởng họ gặp tai họa gì, mà lại không dám nói ra, bèn một mình đi tìm, tìm khắp các ngọn núi xung quanh cũng không thấy họ đâu.

Hắn hoảng hồn quay về thôn, cả đêm mất ngủ, hôm sau lại lên đường thì phát hiện ra những người đó đã trở về, trong doanh địa tưng bừng náo nhiệt, giống như chưa có chuyện gì xảy ra. Lúc ấy hắn đã cảm thấy bất thường, tưởng sơn thần tác quái, cũng không dám nói ra, chờ đội khảo cổ đi rồi mới kể cho người trong thôn nghe.

Lúc rời đi, đội khảo cổ mang theo hơn mười rương đồ, nghe nói đều tìm được từ chỗ kia. Chẳng ai biết bên trong đựng những gì. Tấm ảnh này là cha A Quý chụp chung với nữ đội trưởng kia trước khi họ đi, mang vào thành phố rửa ra rồi gửi về. Nhờ sự kiện này mà về sau cha Quý được lên làm cán bộ thôn, cho nên ông vẫn coi đây là quá khứ huy hoàng của mình mà đem trưng lên tường.

A Quý kể xong, Bàn Tử đã không kiềm chế nổi cảm giác hưng phấn, lại hổi tiếp: "Chuyện xảy ra vào năm nào, ông còn nhớ chứ?"

A Quý lấy tẩu thuốc chỉ vào đứa bé đứng lẫn vào phông nền tấm ảnh: "Đây là tôi, khi ấy vẫn còn nhỏ xíu, không nhận ra là mấy tuổi nữa. Hồi đó không biết chữ mà ghi lại, nhưng chắc chắn vẫn còn người nhớ rõ, nếu các anh muốn biết kỹ càng hơn thì ngày mai tôi sẽ đi hỏi thăm giùm."

Tôi nói cảm ơn mà bụng dạ quay cuồng, xem ra chuyện này quả thực không hề đơn giản. Đội khảo cổ từng xuất hiện ở đây, Muộn Du Bình cũng sống ở đây, làm quái gì có chuyện trùng hợp ngẫu nhiên thế, đằng sau nhất định có nguyên nhân sâu xa. Tuy tin tức A Quý cung cấp cũng không nhiều, nhưng đã có thể khẳng định, bọn họ quả thực đã tiến hành một loạt hoạt động khảo cổ trong núi, chuyện này hiển nhiên có liên quan đến kế hoạch đó.

Tôi nhìn sang ngọn núi kia, lại hỏi A Quý: "Ông là người địa phương, xin hỏi người vùng này gọi ngọn núi kia là gì? Liệu có gì trong đó không?"

"Vùng đó gọi là núi Dương Giác, không rõ trong đó có gì, mà thật ra tôi cũng tò mò muốn biết lắm. Về sau tôi có hỏi thăm vài người, nghe mấy ông cụ kể, ban đầu trong khe núi kia có một sơn trại cổ, không biết là từ đời nào. Về sau hoàng đế đánh giặc, phóng lửa đốt rừng, sơn trại bị thiêu rụi quá nửa, rất nhiều người chết cháy, thế là thành hoang phế. Có khi bọn họ nghiên cứu cái đó cũng nên."

A Quý hỏi: "Sao nào? Các anh cũng thấy hứng thú?"

"Tương đối hứng thú." Bàn Tử thành thật đáp.

"Ngọn núi kia hơi xa, đường lại khó đi, hơn nữa lạ cái là dã thú rất ít, bình thường chúng tôi không qua đó làm gì. Trong đó còn một lũng sông, có thể bắt cá, nhưng mùa này trời mưa lớn, dễ gặp nguy hiểm, tôi nghĩ các anh không nên vào."

"Ông đã đến đó bao giờ chưa?" Muộn Du Bình đột ngột hỏi.

"Tôi thì chưa, chỉ có ông nội tôi là đã từng đến. Ông nói ngọn lửa năm đó rất dữ dội, gần như quét sạch mọi thứ có thể nhìn thấy trên mặt đất, còn trong lòng đất có lẽ vẫn sót lại vài công trình ngầm. Chuyện qua cũng lâu rồi." A Quý nói, "Nếu các anh muốn biết chuyện về đội khảo cổ kia, chi bằng ngày mai tôi đưa các anh đi tìm người dẫn đường năm đó mà hỏi, lão chắc chắn phải biết nhiều hơn tôi, tốt nhất đừng đi vào trong núi."

Muộn Du Bình cũng không để ý, chỉ hỏi: "Nếu nhất định muốn đi, thì phải đi đường nào?"

"Phải đi dọc con suối, chứ đi đường bộ khó lắm. Nếu các anh muốn đi thì tôi có thể tìm người dẫn đường, trả công hai trăm đồng, thế nào? Nhưng ngày mai vẫn chưa đi được, phải chờ ít nhất hai ngày, chứ giờ này nhà kia vẫn đi săn chưa về."

Muộn Du Bình nhìn sang tôi, tôi liền gật đầu. Dù sao đi chăng nữa cũng phải đến đó xem, thời gian hai ngày là vừa đủ. Trước tiên chúng tôi có thể vào thôn hỏi thăm chút chuyện về Muộn Du Bình, sau mới vào trong núi, không có mâu thuẫn về mặt thời gian.

A Quý thì thào: "Vấn đề là cái chỗ kia chán lắm, chỉ có mỗi cánh rừng thôi, các anh đi cũng chẳng thấy gì đâu."

Bàn Tử đáp: "Tụi tôi đi ngó qua một cái thôi cũng được."

A Quý cười khổ, lắc đầu thở dài: "Đường kia rất khó đi, các anh là người thành phố, chả hiểu sao lại thích bỏ tiền ra mua lấy khổ cực vào người."

Nói rồi lại đột ngột nghĩ ra chuyện gì, liền hỏi chúng tôi, "Phải rồi, các anh hỏi thăm chuyện này làm gì? Không lẽ các anh là kẻ trộm văn vật?"

Bàn Tử uống say, vừa nghe đã chửi um lên: "Cái gì mà buôn bán văn vật? Nói năng rõ hãm tài! Cho ông biết nhé, thật ra chúng tôi là dân đổ. . . . . ."

(*) A Quý hỏi đám Ngô Tà có phải là "đạo mại văn vật" (trộm văn vật đen bán) không, Bàn Tử nghe thành "đảo mại văn vật" tức là đám trung gian mua qua bán lại văn vật, mới giãy nảy lên, định thanh minh mình là dân "đảo đấu" aka đổ đấu nhưng mới nói đến chữ đảo đã bị Tà cấu véo rồi =))

Tôi vội vàng huých tay hắn, tiếp lời: "Là hướng dẫn viên du lịch! Có một đoàn khách muốn đến thăm, mà ở đây lại không có hướng dẫn viên địa phương, nên chúng tôi đành đi trước dò đường tìm cảnh quan."

A Quý vừa nghe đã hứng thú: "Hay lắm, cứ đưa khách đến đây đi, tôi sẽ giúp các anh thu xếp. Vùng này còn nhiều cảnh đẹp lắm, ngọn núi kia chẳng có gì hay cả, các anh đi thì không sao chứ khách du lịch người ta không thích đâu."

Tôi tươi cười gật đầu đồng ý, trong lòng âm thầm rủa xả Bàn Tử.

Bàn Tử cũng biết mình lỡ lời, nên không dám làm nhảm thêm, cun cút đi giải quyết nỗi buồn.

Tôi còn muốn hỏi A Quý một vài chi tiết cụ thể, nhưng anh ta nói mình không nhớ, xem cái điệu này, có thể anh ta ra ngoài làm thuê khá lâu nên cũng không hiểu rõ lắm những chuyện xảy ra trong thôn. Tôi đành bỏ cuộc, chờ đến mai tìm những người khác hỏi thăm. Việc này cứ thế mà kết thúc, sau đó chúng tôi ngồi ngoài trời hóng gió, tiếp tục bàn bạc chi tiết.

Bàn Tử vừa thấy A Quý đi, liền hạ giọng nói: "Mẹ kiếp, cái đội khảo cổ kia xuất quỷ nhập thần, ban ngày không thấy mặt, đến khi đi còn mang theo một đống đồ, rõ ràng vùng núi này có một ngôi mộ cổ! Đúng là mèo mù vớ cá rán, chúng ta đi du lịch đến đây lại nghe được tin béo bở. Sao hả? Hai vị, chúng ta có nên thuận theo ý trời, tiện tay dốc tuột cái đấu này không?"

Tôi đáp: "Tôi biết ngay anh sẽ nói vậy mà! Hiện giờ ngọn núi kia có cổ mộ cũng chỉ là phỏng đoán của anh thôi, phải đến tận nơi mới biết chính xác được. Hơn nữa những cổ mộ mà nhóm người kia chui vào cái nào cái nấy đều quái dị khác thường, tôi thật sự không muốn đi."

"Lần này nhất định không sao, cậu không thấy bọn họ đều an toàn trở ra đấy à!" Bàn Tử nói, "Hơn nữa còn mang theo vài rương minh khí, con mẹ nó, cái đống ấy đáng giá bao nhiêu tiền cơ chứ?"

"Mà nói cũng lạ, theo lời A Quý mà suy ra thì nhóm người này rõ ràng không hề áp dụng phương pháp "đại yết đỉnh" (*) của đội khảo cổ, mà xem ra cũng đào đạo động chui xuống, đúng là hiếm gặp." Tôi nói. Nếu từ đầu không biết nhóm người này thuộc chính phủ, tôi dứt khoát sẽ nghĩ bọn họ là dân trộm mộ chuyên nghiệp ngụy trang làm thành viên đội khảo cổ.

(*) Tức phương pháp khai quật đào từ trên xuống dưới không bỏ sót chỗ nào, thường được những đội khảo cổ chuyên nghiệp áp dụng (mà cách này cần thời gian dài với lượng nhân lực vật lực lớn nên cũng chỉ có đội khảo cổ chuyên nghiệp làm được).

"Đấy là tại kiến thức cậu hạn hẹp đó thôi, trong điều kiện không thích hợp, đội khảo cổ cũng sẽ dùng đạo động để cứu lấy một vài văn vật. Tôi thấy có khi là vì quy mô của cổ mộ này tương đối lớn, với điều kiện của Thượng Tư hồi ấy không thể tiến hành khai quật được." Bàn Tử nói, nước dãi nhỏ tong tong, "Không phải cô bé kia đã nói rồi sao, người Việt Nam vẫn còn trong núi, tôi chỉ e bọn họ cũng đã nghe câu chuyện này, giờ đang đi tìm cổ mộ đó. Dù chúng ta không tham tiền thì cũng không thể mất trắng món hời này vào tay cái đám ngay cả xẻng Lạc Dương cũng không biết dùng kia."

Tôi thở dài, thầm nghĩ tôi thật sự không muốn xuống đất lần nữa, anh có nói kiểu gì cũng vô ích thôi. Nhưng nếu nơi đó thực sự có cổ mộ thì dĩ nhiên nó phải liên quan đến thứ mà đội khảo cổ truy tìm, không xuống thì lại có phần không cam tâm.

Đúng là khó xử mà.

Bàn Tử tiếp tục lải nhải bên tai tôi, nên tôi đành dùng kế hoãn binh, bảo hắn đừng kích động, hai ngày nữa chúng ta đến tận nơi xem xét rồi tính sau. Nhưng dù có cổ mộ thật thì chỗ kia rộng thênh thang thế, cũng chưa chắc đã tìm ra; còn nếu tìm được thật thì hắn muốn xuống chúng tôi cũng sẽ giúp một tay. Nói đến thế hắn mới chịu ngừng, nhưng đã không thể kiềm chế bản thân được nữa, A Quý vừa quay lại đã bị hắn bám lấy hỏi tới hỏi lui.

Ban đầu tôi còn sợ hắn lòi đuôi, nhưng lúc này lòng dạ đã rối như tơ vò, chẳng còn hơi sức đâu mà để ý, đành mặc kệ hắn. Tôi tựa vào cột nhà, vừa học Muộn Du Bình ngắm trăng, vừa cân nhắc xem mình nên làm gì.

Buổi tối trời hơi nồm, chúng tôi vừa quạt tay vừa hứng làn gió mát mang theo hương cây cỏ trong lành từ núi thổi ra. Chẳng mấy chốc men say đã bốc lên đầu, tôi đã hơi váng vất, nghe không rõ Bàn Tử đang tán dóc chuyện gì với A Quý, cũng không nghĩ ngợi gì nổi. Chỉ cảm thấy mình đứng đây ngắm sao trên trời, thật giống như quay về thuở thơ ấu ở quê nhà, hết sức tự nhiên mỹ mãn.

Còn đang ngơ ngẩn, bỗng dưng chú ý đến một ô cửa sổ bên phía gian nhà gỗ gia đình A Quý ở, trong đó hình như có người đang nhìn chúng tôi.

Bên đó không thắp đèn, chỉ thấy một cái bóng mơ hồ quái đản. Tôi dụi dụi mắt, phát hiện bả vai nó hoàn toàn lõm xuống, giống y như cái bóng sau bình phong trên tấm ảnh mà gã họ Sở gửi cho tôi.

Chương 7: Truyn thuyết cái bóng

Gió núi mùa hè thổi qua ngọn đèn treo trước nhà, chao đèn lắc lư kéo theo cả lũ côn trùng bám xung quanh, in hình một cái bóng loang lổ. Ban đầu tôi còn tưởng mình nhìn lầm, nhưng gió đã ngừng thổi mà cái bóng ấy vẫn ở nguyên chỗ cũ.

Tôi nhìn nó, ban đầu còn chưa có cảm giác gì, sau càng nhìn càng ớn lạnh sống lưng, chẳng lẽ trong nhà A Quý có người treo cổ?

Bèn cố nén cảm giác hoảng loạn mà ngồi dậy, dụi mắt nhìn cho kỹ.

Nhìn lại lần nữa thì cái bóng đó đã biến mất, sau cửa sổ tối đen như mực, chẳng có cái khỉ gì hết.

Là ảo giác? Tôi ra sức nhíu mày, hỏi A Quý: "Bên kia là phòng ai vậy?"

A Quý ngó sang rồi đáp: "Là phòng con trai tôi."

"À," Tôi ngẫm nghĩ nhưng chẳng nghĩ được gì, chỉ cảm thấy đầu óc váng vất, tự nhủ nhất định là con anh ta đang nhìn qua bên này rồi, tôi uống hơi nhiều nên mới nhìn lộn thôi.

Sắc trời cũng đã tối, A Quý nhìn sang phòng mình rồi nói phải về nghỉ ngơi.

Bàn Tử thanh toán phí tin tức ba mươi đồng một ngàn chữ, chúng tôi chào anh ta rồi cũng vào phòng. Bàn Tử bực bội nói: "Đệch, chỉ nói vài ba câu mà thằng rùa con này moi hết ba trăm đồng của tôi rồi, trí tuệ của nhân dân lao động đúng là vô biên."

Tôi nói: "Ai bảo anh thích ra vẻ giàu có, khoe của ở cái chỗ khỉ ho cò gáy này rõ là dở hơi, mẹ kiếp lại còn hối hận, đúng là dở hơi trong những thằng dở hơi mà."

Bàn Tử lẩm bẩm mấy câu, bảo tôi đạo đức giả, ngụy quân tử, tôi cũng chẳng hơi đâu mà để ý. Người bình thường đến Quảng Tây đều khó ngủ, mấy đêm trước chúng tôi đều ngủ không ngon giấc, nhưng tối nay có men rượu, đầu óc mơ mơ màng màng, nhanh chóng thiếp đi, lại còn ngủ rất say, đến quá mười một giờ hôm sau mới dậy. Ăn xong bữa trưa A Quý làm, chúng tôi đi theo con gái anh ta đến địa chỉ mà tay họ Sở cho, chưa đầy mười phút đã tới nơi.

Đó là một ngôi nhà sàn cũ kỹ, tường đất màu vàng lợp ngói đen, chỉ có một tầng, trông nhỏ hơn những căn nhà sàn khác - mà hình như nhà cửa nơi đây đều cùng một kiểu dáng này - thoạt nhìn như bỏ hoang, không hề bắt mắt, nằm lẫn vào những căn nhà khác trong thôn.

Con gái A Quý rất tò mò về mục đích đến đây, nên chúng tôi đành giả bộ chụp ảnh. Bàn Tử cho cô gái ít tiền đuổi khéo đi chỗ khác, thấy bốn bề vắng tanh, chúng tôi liền thử trèo vào.

Nhà sàn dựng trên sườn dốc, dựa lưng vào núi, cửa sổ đã hư hỏng hoàn toàn, cửa chính đóng kín như bưng, trên dán tranh môn thần đã phai màu, đẩy hai lần mà đến cái kẽ cửa cũng chẳng thèm hé ra.

"Có ấn tượng gì với căn nhà này không?" Tôi hỏi Muộn Du Bình.

Hắn chạm tay vào cột và cửa nhà, lắc đầu. Tôi thở dài, lúc này Bàn Tử đã mở được cửa sổ bên hông nhà, vẫy tay gọi bọn tôi: "Mau lên, lối này vào được."

"Sao mà thành thục thế, mẹ kiếp có phải hồi trước anh từng đi đào tường khoét vách rồi không?" Tôi mắng.

"Bàn gia đây là nhân vật cỡ nào, cái này tôi suy luận mà ra đó hiểu không? Trộm mộ với trộm cướp chỉ khác nhau có một chữ thôi." Bàn Tử vừa nói vừa giục chúng tôi.

Chúng tôi để một người trông chừng rồi lén trèo vào từ đường cửa sổ, sau đó đóng kỹ lại. Vào trong rồi tim lại đập thình thình, cảm thấy cực kỳ kích thích, đến cả quần cũng bị móc trúng, suýt nữa thì phơi mông ra, nghĩ bụng trộm của người sống còn căng thẳng hơn trộm của người chết.

Trong nhà hơi tối, có điều kết cấu rất đơn giản. Đầu tiên tôi thấy một gian phòng ăn lớn kèm bếp lửa như của nhà A Quý, trên tường treo rất nhiều công cụ, đều đã rỉ sét cả.

"Tiểu Ca, thật không ngờ cậu vốn là nông dân." Bàn Tử vơ bừa lấy một cái cuốc: "Cày đồng đang buổi ban trưa, cậu là dân cày, tôi là ban trưa." (*)

(*) Trích từ bài Mẫn nông của Lý Thân. Nguyên văn: "Sừ hoà nhật đương ngọ/Hãn trích hoà hạ thổ/Thuỳ tri bàn trung xan/Lạp lạp giai tân khổ." Bản dịch bài này chính là bài ca dao nổi tiếng: "Cày đồng đang buổi ban trưa/Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày/Ai ơi bưng bát cơm đầy/Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần."

Chúng tôi phớt lờ hắn, thấy một bên có tường gỗ ngăn cách, đằng sau hẳn là gian phòng mà gã họ Sở nói mình đã tìm ra. Nhà sàn kiểu này chỉ có một gian phòng, chắc chắn không sai được.

Không có cửa, chỉ có một tấm mành cũ kỹ loang lổ bụi bặm. Muộn Du Bình cau mày nhìn quanh một vòng, dường như hơi do dự, nhưng chỉ vài giây sau đã vén mành đi vào. Tôi hơi căng thẳng, cái con người gần như lơ lửng trong hư không này rốt cuộc đã tìm được một điểm dừng chân thuộc về mình, vậy mà lại chẳng nhớ ra, không biết có phải ông trời đang đùa giỡn với hắn hay không. Nhưng chẳng còn thời gian ngẫm nghĩ, Bàn Tử đã đẩy tôi vào.

Vừa vào phòng, mùi ẩm mốc đã xộc đến, bên trong tối om, không nhìn rõ được gì. Tôi thấy Bàn Tử muốn đi mở cửa sổ, rồi lại phát hiện phòng kín như bưng.

Không ngờ đến tình huống này nên chẳng ai mang đèn pin, chúng tôi chỉ còn cách cột rèm lại để ánh sáng bên ngoài chiếu vào. Nương theo ánh sáng mờ mờ, có thể thấy gian phòng rất chật chội, sát tường kê một cái giá trống không. Chúng tôi thấy vài quyển sách và mấy cái hộp, mặt đất rơi đầy bùn, trừ mấy thứ này ra thì còn một tấm phản và một cái bàn gỗ, là loại bàn học sinh cũ kỹ. Bề mặt các đồ vật đều phủ một lớp bụi mỏng.

Không khí trên núi rất trong lành nên bụi bám không dày lắm, nếu là ở thành phố lớn thì chỉ e bụi ở đây có thể xúc đi trồng cây chứ chẳng đùa. Điều này cũng cho thấy nơi đây rất lâu không có ai vào.

"Đây là nhà anh à?" Tôi hơi giật mình, nhìn căn phòng này, cảm thấy bình thường quá, đây là nơi Muộn Du Bình ở ư? Loại người như hắn, đáng ra nhà cửa phải quái quái một tí mới đúng chứ?

Nhưng ngẫm lại thì tôi cũng không tưởng tượng ra được cụ thể là phải cổ quái như thế nào, suy cho cùng hắn vẫn là một con người, mà người thì phải ngủ trên giường chứ chẳng lẽ trèo vào quan tài ngủ. Manh mối cũng không thể viết lên vách tường, mà hẳn là nằm trong mấy món đồ bài trí này.

Chúng tôi bước vào trong, Bàn Tử đến gần cái giá, phát hiện nó căn bản là trống không, lẩm bẩm: "Chẳng ngờ cậu còn là một nông dân nghèo mạt rệp."

Đồ đạc trong phòng tuy không nhiều, nhưng khá lộn xộn, nào sách nào hộp vứt bừa bãi, dễ chừng đã bị gã họ Sở lục lọi. Tôi tiện tay vớ đại một quyển sách lên, thấy nó ngấm nước, là một quyển sách đóng gáy bằng chỉ cũ lắm rồi, giở vài trang thì thấy bên trong đã hơi mốc. Trong lòng lấy làm lạ, tại sao lại có loại sách này?

Thứ duy nhất còn coi được là giường và bàn, nghĩ đến đây tôi lập tức lại gần cái bàn, tìm những tấm ảnh mà tay họ Sở nói. Tấm thủy tinh phủ trên mặt bàn bám đầy bụi, bên dưới có thể thấy loáng thoáng rất nhiều ảnh, xem ra gã không lừa tôi.

Chương 8: Bí ẩn của bức ảnh

Bàn Tử nhéo tôi một cái, ra hiệu cho tôi nhìn Muộn Du Bình. Tôi quay đầu lại, thấy Muộn Bình vẫn lặng thinh, cẩn thận chạm vào từng cuộn sách, mà nhìn vẻ mặt hắn thì hình như đang nghi ngờ điều gì đó.

"Anh đã nhớ ra chuyện gì chưa?" Lòng tôi thoáng động, liền hỏi.

Hắn phớt lờ tôi, mở miệng muốn nói lại ngừng, đôi mày nhíu càng thêm chặt.

Tôi thầm nghĩ, không lẽ đã có manh mối rồi? Nhưng không dám lên tiếng quấy rầy hắn, chỉ đành đứng sau lẳng lặng mà nhìn. Chỉ thấy hắn nghiêng đầu, dạo một vòng quanh phòng rồi nói: "Hình như có gì đó không ổn."

"Không ổn chỗ nào?" Bàn Tử khó hiểu.

Hắn nhíu chặt đôi mày, dường như dốc hết tinh lực của mình mà nhớ lại: "Không ổn, căn phòng này cho tôi cảm giác bất thường."

"Chẳng lẽ đây không phải phòng của anh?"

Hắn lắc đầu, bỗng dưng chuyển ánh mắt về phía cái giường, nhanh chóng ngồi xổm xuống nhòm vào gầm giường. Tôi cũng nằm bò ra nhìn, nhưng chỉ thấy dưới đó tối om om. Muộn Du Bình quay đầu lại, Bàn Tử hiểu ý, lập tức chuyển cho hắn cái bật lửa. Hắn thắp lửa lên, đưa xuống dưới gầm giường.

Dưới đó trống không, chỉ rặt những mạng nhện, nhưng hắn vẫn chưa từ bỏ ý định mà tiếp tục chui vào, bắt đầu lần mò khắp những khe hở trên sàn gỗ. Chợt thấy ngón tay hắn cong lại, móc một mảng sàn nhà lên. Muộn Du Bình khí lực kinh người, chỉ nghe một tiếng đứt gãy đinh tai, một mảnh sàn đã bị lôi lên. Rồi hắn quẳng nó qua một bên, tiếp tục cạy sàn, động tác quả đúng là điên cuồng.

Tôi và Bàn Tử đều mệt mỏi rã tời, nhất thời không biết làm gì. Bàn Tử la lên: "Tiểu Ca, cho dù bất thường thì cũng không nên đập phá căn phòng này." Nhưng vô ích, đến khi chúng tôi kịp phản ứng thì Muộn Du Bình đã đào ra một lỗ hổng lớn trên nền nhà. Bấy giờ tôi mới tỉnh ngộ, chỉ thấy hắn thò tay vào trong động, ra sức lôi một cái rương sắt màu đen ra.

Đệch, thì ra là thế! Tôi bắt đầu hưng phấn, vội vàng xáp lại, chỉ thấy bên dưới sàn gỗ còn có một ngăn phụ, rõ ràng đã được thiết kế cực kỳ công phu. Thầm nghĩ hẳn là đã tìm được điểm mấu chốt, tôi lập tức giúp Muộn Du Bình giữ chặt rồi kéo cái rương ra. Cái rương nặng muốn chết, kéo ra đến nơi mồ hôi đã đầm đìa lưng áo, Bàn Tử giúp chúng tôi nâng nó đặt lên giường.

"Mẹ kiếp đây là cái gì?" Bàn Tử hỏi. "Nặng quá, chẳng lẽ là ống heo của Tiểu Ca?"

"Làm gì có chuyện đó." Tôi nói, thổi đi lớp bụi bám trên mặt, cẩn thận quan sát nó. Đây là một cái rương sắt đen khá lớn, rộng 1×0.5, thoạt nhìn có thể chứa được một người.(nghe đến câu mà mà lạnh sống lưng ó.ó) Mặt rương phủ kín hoa văn đã rỉ sét, niên đại có vẻ khá xa, trông như vật dụng trong nhà địa chủ thời trước, có thể là đồ cổ. Tôi nhìn ổ khóa xoay kiểu cổ bên trên, nghĩ bụng rương này hẳn là có từ thời Dân Quốc, dễ chừng là rương đựng quần áo của nhà giàu, hoặc là rương đựng trang phục của gánh hát.

Muộn Du Bình thở hổn hển bò ra, chúng tôi nhìn hắn hỏi: "Sao vậy?"

Hắn không đáp lời, ánh mắt trở nên mờ mịt, thần trí cũng mê muội đi.

Xem ra hắn chỉ nhớ được một đoạn ký ức rời rạc, cơ mà hắn đã nhớ ra chuyện này, chứng tỏ cái rương do hắn đích thân cất giấu, suy ra bên trong phải có thứ gì đó quan trọng, có khi còn chứa manh mối về thân thế của hắn. Chúng tôi đều phấn khởi, tôi bảo Bàn Tử: "Mau mở ra xem nào."

Bàn Tử lập tức bẻ khóa, ai ngờ còn chưa kịp động thủ thì Muộn Du Bình đã đưa tay đè lên nắp rương, la lớn: "Tuyệt đối không được mở."


Chương 9: Tài liệu

Chúng tôi bị hắn dọa cho phát hoảng, chỉ thấy sắc mặt hắn tái nhợt cứ như đang cực kỳ căng thẳng.

"Sao vậy?" Tôi hỏi.

Hắn cau mày nhìn cái rương, rất lâu sau mới đáp: "Đừng mở nó ra, dự cảm của tôi... rất xấu."

"Anh nhớ ra chuyện gì rồi? Anh nhớ không thể mở cái rương này ra?"

Muộn Du Bình gật đầu: "Tôi không biết, chỉ có dự cảm cực kỳ xấu. Mở cái rương này, nhất định sẽ gặp chuyện không hay."

Nhìn sắc mặt hắn, tôi phát hiện ra hắn đang toát mồ hôi lạnh, cũng không khỏi đổ mồ hôi đầy lưng. Hắn mà còn căng thẳng đến mức này, trong rương rốt cuộc chứa thứ gì, chẳng lẽ là bom mìn? Lập tức bảo Bàn Tử thu cái tay đang cạy khóa về.

Bàn Tử nói: "Móa nó, Tiểu Ca cậu dừng dọa tôi chứ. Rốt cuộc cậu đã nhớ ra chuyện gì rồi?"

Muộn Du Bình day day trán, có phần khổ sở: "Tôi không biết diễn tả cảm giác này ra sao."

Bàn Tử tặc lưỡi: "Có khi nào cái rương này không mở theo cách thông thường, mà bên trong có cơ quan? Nếu chúng ta cứ mở nó ra như thường, không chừng sẽ có độc châm bắn ra hay nọc độc chảy ra?"

Tôi nghĩ bụng cũng có thể lắm, Muộn Du Bình hiểu biết khá sâu về cơ quan, cái rương sắt này có vẻ là thứ gì đó khá quan trọng đối với hắn, rất dễ bố trí cơ quan, mở ra rất nguy hiểm.

Lần này rầy rà to rồi đây, lòng tôi ngứa ngáy khó chịu, nhưng trong tình thế này tôi lại không thể cắn răng nói cứ đánh liều mở ra xem sao. Giờ đây trong đầu tôi chỉ nghĩ, nếu vừa rồi Bàn Tử nhanh tay một chút thì có thể đã ngăn được chuyện phiền toái này. Nhưng nghĩ lại, nếu vừa rồi Bàn Tử nhanh tay hơn một chút, không khéo đời chúng tôi sẽ chẳng còn cơ hội gặp thêm bất cứ chuyện phiền toái nào nữa.

Tôi bảo Bàn Tử giúp tôi cẩn thận khuân cái rương lên bàn rồi quan sát kỹ càng ổ khóa. Cái loại khóa xoay kiểu cổ này thật ra không phải khóa, mà là một dạng chốt bình thường, chỉ cần đẩy nhẹ một cái là mở ra. Với trình độ của chúng tôi, có nhìn đến mòn mắt cũng không thể thấy đằng sau ổ khóa xoay này có vấn đề gì chăng.

"Thế bây giờ phải làm gì đây?" Bàn Tử cũng phiền muộn.

"Xem ra chỉ còn nước khuân cái của nợ này về rồi tìm vài cao thủ đến xem, sau đó tiếp tục tìm kiếm trong này xem còn chỗ nào đáng chú ý." Tôi nói. Nhìn quanh bốn phía, giờ cũng chỉ còn cách này thôi.

Bàn Tử gõ gõ vào vỏ sắt: "Tiên sư nó chứ, thế phải chờ đến bao giờ mới được mở cái này ra, không chừng phải nửa năm mất. Hay chúng ta cứ dứt khoát tìm A Quý hỏi mượn con dao, cạy thẳng vào từ vỏ sắt?"

Tôi còn chưa kịp lắc đầu thì Muộn Du Bình đã lắc trước: "Không đúng, có lẽ vấn đề không phải ở cơ quan." Nói rồi hắn vươn hai ngón tay thon dài đè lên ổ khóa xoay kia, hơi hơi nhúc nhích, "Không cảm nhận được cơ quan, khóa không có vấn đề."

"Không phải cơ quan, thế sao không được mở?"

Muộn Du Bình lắc đầu. Tôi đăm chiêu nói: "Chẳng lẽ là do thứ bên trong cái rương này có vấn đề?"

Trong này có thể là gì? Chẳng lẽ bên trong là rắn độc? Bị nhốt chừng ấy năm, có mà thành rắn khô luôn rồi. Bàn Tử vẫn rất kiên trì, nói: Bằng không thì thế này, các cậu dẹp hết đi để Bàn gia đây tới, ông đây mạng cứng, không tin mình lại bị một cái rương xử đẹp.

"Tuyệt đối không thể, chưa nói đến vật sống, nhưng bên trong có thể là kịch độc gì đó, anh mở ra không chỉ liên lụy đến chúng tôi mà có khi còn ảnh hưởng đến mọi người trong thôn."

Bàn Tử chửi thề, ngồi phịch xuống giường: "Cái gì cũng không được, thôi tống xừ nó đến xưởng cơ khí nung chảy ra đi, chúng ta bắt tay nhau giấu nhẹm chuyện này."

Tôi cảm thấy bầu không khí này có hơi buồn cười, lại có chút quỷ dị. Chúng tôi từ một vùng rất xa lặn lội đến đây, cũng đã mò đến tận nhà Muộn Du Bình và tìm ra manh mối quan trọng, nhưng lại vì cảm giác mơ mơ hồ hồ của Muộn Du Bình mà ngay cả cái rương chứa manh mối cũng không dám mở ra. Đúng là bực mình, nhưng mạo hiểm ở cái khâu này thì quả thực không đáng.

Tôi vỗ vỗ vai Bàn Tử, bảo hắn bình tĩnh đừng nóng, chi bằng lại gõ thử mặt sàn xem bên dưới có còn tường kép nữa không. Xem cái cách Muộn Du Bình phá tanh banh sàn nhà thì thấy tường kép này làm bằng ván gỗ đóng đinh, chứng tỏ anh ta không định lấy nó ra trong thời gian ngắn. Loại công trình chứa tường kép như thế này, dễ chừng còn có cái thứ hai thứ ba.

Thế nên chúng tôi bắt đầu sờ đông gõ tây, có điều căn nhà này lơ lửng trên không, gõ kiểu gì cũng cảm thấy bên dưới ván gỗ có thứ gì đó.

Nền nhà sàn không được lát theo kiểu công nghiệp, chỉ đơn giản là dùng những tấm ván gỗ dài bắc lên, khe hở giữa chúng rất lớn. Bàn Tử bèn quỳ rạp lên sàn nhà mà nhòm xuống. Bên dưới có một nửa là chuồng gà (nuôi gà kìa :)) ) có thể nhìn thấy cả bùn đất.

Bàn Tử đúng là không sợ bẩn, quan sát cẩn thận từng li từng tí, toàn thân nhoe nhoét bùn nhưng cũng chẳng thu hoạch được gì, cứ như chỉ có đúng một ngăn bí mật đó thôi.

Chúng tôi rà đi rà lại ba lần khắp mọi ngóc ngách trong ngoài, xác định không còn gì khả nghi nữa, Bàn Tử mới phủi quần áo, nói: "Thôi được rồi, cái cần tìm thì tìm không ra, cái cần mở cũng chẳng mở được, chúng ta mau khua khoắng vài món đồ rồi rút lui thôi, tránh cho đám A Quý nảy sinh nghi ngờ. Chui vào một căn nhà đổ nát chụp ảnh đâu có lâu đến thế."

Tôi nghĩ cũng phải, định khuân cái rương kia đi, nhưng Bàn Tử đã ngăn lại: "Thứ này không thể để lộ được, giờ khuân nó ra ngoài, A Quý thấy chúng ta lúc đi tay không, lúc về lại khuân theo một món đồ to kềnh càng như thế, chỉ e khó mà giải thích cho xuôi. Nếu chuyện này đồn đãi ra ngoài, có khi còn đến tai Trần Bì A Tứ. Tôi thấy tốt nhất chúng ta nên nhét cái rương vào chỗ cũ, trước khi đi lựa một đêm thích hợp mà khuân nó ra là được."

Bàn Tử suy nghĩ rất thấu đáo, tôi gật đầu, sau đó hắn chui xuống gần giường, đẩy cái rương kia vào trong hầm rồi lấy mấy tấm ván gỗ gác qua loa lên trên, giấu cái hầm đó đi.

Kế đó tôi thu dọn ảnh và tài liệu cho vào trong túi, chuẩn bị mang về xem lại cho kỹ, bỗng dưng lại nghe tiếng gõ sàn nhà.

Tôi bảo Bàn Tử: "Đừng gõ nữa, không phải anh nói muốn đi sao?"

Bàn Tử đứng bên cạnh hút thuốc, giơ hai tay lên ra ý mình đâu có gõ. Tôi lại nhìn sang Muộn Du Bình, hắn đang sắp xếp chỉnh tề nào hộp nào sách lên giá, hiển nhiên cũng nghe thấy tiếng gõ, liền nhìn sang chúng tôi.

Ơ? Tôi hơi sửng sốt, vậy là ai đang gõ sàn nhà?

Chúng tôi lẳng lặng nín thở, nghe lại thật kỹ, nhận ra tiếng "cộc cộc cộc" kia phát ra từ dưới gầm giường, rất khẽ mà cũng rất dồn dập.

Bàn Tử và tôi nhìn nhau, rồi hắn dụi tắt điếu thuốc, thật cẩn thận cúi người nhòm xuống dưới gầm giường, tôi cũng ngồi xổm xuống theo.

Dưới đó nhất định không có ai, cái này khỏi cần nói. Chúng tôi áp sát sàn nhà, phát hiện nó không hề chấn động, vậy âm thanh này không phải tiếng gõ sàn, hơn nữa nghe hơi xa xăm, không cảm nhận được cụ thể là ở góc nào dưới sàn nhà.

Bàn Tử ra hiệu: Bên dưới mặt sàn.

Tôi gật đầu, thầm nghĩ: Chẳng lẽ có con chuột con gà nào chạy dưới gầm căn nhà sàn này? Rồi bỗng dưng tôi thấy đống ván gỗ phủ trên cái rương sắt khẽ nhúc nhích.

Cmn kì quái, tôi trợn mắt há mồm, chẳng lẽ cái rương sắt kia đang cử động?

Chương 10: Con chuột

Suy nghĩ đầu tiên lóe lên trong đầu tôi, chính là có chuột.

Trong những thôn làng kiểu này, có chuột là chuyện hết sức bình thường. Một căn nhà gỗ bỏ hoang, quả đúng là thiên đường của loài chuột. Nhưng vừa rồi khi di chuyển đồ đạc tôi đâu phát hiện ra dấu vết của chuột, cho nên cảm thấy hơi bất ngờ, có thể nó bị tiếng gõ sàn nhà dọa cho kinh hãi nên mới chui ra. Chúng tôi gõ thử khắp nơi, chỉ có gầm giường là không đụng tới, nên nó mới trốn xuống đấy.

Tình huống này tôi thật không ngờ tới. Tôi không lo cái rương sắt kia bị cắn hỏng, nhưng nếu con chuột gặm lung tung, khiến ổ khóa xoay bật mở thì có thể sẽ gây nguy hiểm.

Tôi hơi lo lắng, lập tức bò lại gần cái ngăn bí mật kia, ra sức vỗ mạnh hai cái xuống sàn để dồn con chuột chạy ra.

Quả nhiên tôi vừa vỗ sàn nhà, bên kia giống như hoảng sợ, thoáng cái tiếng động đã to lên, nhưng không thấy chuột chạy ra từ đống ván gỗ. Những con vật sống gần người đều hết sức tinh ranh, xem ra nó phán đoán ở vào tình thế này thì núp bên trong an toàn hơn là nhảy ra ngoài chạy trốn.

Tôi vốn không ưa chuột, hơn nữa chuột ở đây hẳn là chuột rừng, là giống chuột hung hãn hơn bình thường, có thể chủ động cắn người, nên nhất thời cũng không dám tùy tiện lật tấm ván gỗ này lên, mà chờ Bàn Tử đến xử lý.

Bàn Tử lúc ấy đang phớt lờ tôi, bao nhiêu uất ức nghẹn lại trong lòng trước kia giờ được dịp xả, liền khinh khỉnh nói: "Láo(*), cũng không thèm hỏi xem ông nội mi cầm tinh con gì." Hắn bảo tôi điều chỉnh vị trí, chặn hết các hướng mà con chuột kia có thể chạy, rồi cẩn thận nhấc một tấm ván gỗ lên, cúi người xuống, một tay khom lại như vuốt chim ưng.

(*) Nguyên văn là "Động thủ trên đầu thái tuế": Thái Tuế là một thiên thể giả định, đi đến đâu sẽ hạ xuống đó một vật có dạng khối thịt, nếu động thổ ở nơi có khối thịt này sẽ kinh động đến Thái Tuế và gặp tai họa.

Tôi và hắn liếc nhìn nhau, ra hiệu sẵn sàng. Bàn Tử hít sâu một hơi, vận sức đẩy mạnh tấm ván gỗ rồi thò tay xuống, mới quơ được hai cái đã kích động ngã bổ chửng ra đằng sau, đập đầu vào ván giường, đau đến nỗi phải rụt ra ngay. Nhưng hắn khá là chuyên nghiệp, trước khi kêu đau còn kịp bảo tôi mau quơ thử coi!

Trong ngăn bí mật vang lên tiếng va chạm, tôi sợ con chuột giật mình sẽ cắn đứt ổ khóa xoay, cũng không nghĩ được nhiều, thò tay xuống quơ quào, tính dồn ép nó chạy ra, ai ngờ vừa quơ một cái đã tóm được vật gì lớn bằng miệng bát. Vật kia lập tức ngọ ngoạy, khiến đầu tôi ong lên. Đệch! Chẳng lẽ không phải chuột mà là rắn?

Thôi chết cha Bàn Tử rồi, đây chính là vùng nhiều rắn độc nhất ở Quảng Tây Trung Quốc! Vừa tính buông tay thì Bàn Tử nhào vào giúp, nhoáng cái đã túm tay tôi mà nói: "Nắm chặt lấy, đừng buông!"

Mặt tôi tái xanh, cứ để mặc cho hắn cầm tay mình rồi ra sức kéo lên, lại còn nói: "Má nó, cũng coi như có thành quả, đợi lát nữa đưa cho A Quý nấu ch... - Đệch! Đây là cái quái gì?"

Bàn Tử giãy ra, tôi nhìn lại, thứ kéo ra từ ngăn bí mật kia không ngờ lại là một bàn tay người xám ngoét!

Tôi hét toáng lên, lập tức vung vẩy cho bàn tay kia rớt ra, thầm nghĩ cái quái gì vậy? Bàn tay đó nhanh chóng rụt vào hầm ngần, túm lấy rương sắt bắt đầu kéo bằng lực rất mạnh, kéo hai lần không được thì bắt đầu bẻ ván gỗ xung quanh.

Tôi và Bàn Tử đều ngây ra mà nhìn, phải mất rất lâu Bàn Tử mới phản ứng, la to: "Chết tiệt! Kế rút củi đáy nồi! Là trộm!"

Tôi cũng bắt đầu phản ứng, có người bên dưới sàn muốn thó cái rương này. Bàn Tử lập tức nổi giận, quát to một tiếng, nhoáng cái đã ôm lấy rương sắt lôi ra khỏi ngăn bí mật. Lúc này tôi thấy ván gỗ ở một bên vách của ngăn bí mật đã bị bẻ gãy, bàn tay thò vào từ chính cái lỗ kia, mỗi tội miệng lỗ quá nhỏ, không thể kéo cái rương ra theo đường đó.

Cánh tay kia phát hiện rương đã bị khuân đi, lập tức rút vào trong động. Bàn Tử đâu chịu để yên? Bèn nhảy qua chộp lấy cổ tay nó trong chớp nhoáng rồi bảo tôi giúp. Nhưng tôi còn chưa kịp làm gì thì bàn tay kia đã vùng ra rồi chui tọt vào trong động, sau đó chợt nghe một loạt tiếng va đụng vọng lên từ dưới sàn nhà, tên kia hiển nhiên đang bò như điên khỏi đây.

Bàn Tử vội lao ra, la lên với Muộn Du Bình: "Tiểu Ca, ra ngoài chặn nó lại!"

Ngẩng đầu nhìn lên, đã thấy Muộn Du Bình phá cửa sổ nhảy ra từ đời nào rồi. Bàn Tử nổi cơn hưng phấn, dặn dò tôi: "Tiểu Ngô, cậu ở lại canh chừng cái rương!" Nói đoạn cũng nhấc thân hình phì nhiêu mà lao ra ngoài, vừa chạy vừa kêu to: "Tiểu Ca, trái phải vây đánh!"

Tôi kéo cái rương ra khỏi gầm giường, chỉ cảm thấy tim mình muốn vọt ra khỏi lồng ngực, mẹ kiếp chuyện gì đang xảy ra vậy? Cái tay kia rốt cuộc là của ai? Sao trông ghê thế? Đệt! Má nó dọa tôi sợ muốn chết!

Thở dốc cả buổi, chẳng biết có phải vì khí hậu nóng ẩm nơi này hay không mà tôi không sao hít thở cho bình thường được, liền kéo cái rương vào một góc. Tôi nghe bên ngoài truyền đến tiếng la lớn của Bàn Tử: "Mẹ kiếp, người biến đâu mất rồi? Chui xuống đất à?" Giọng hắn ngày càng xa, rõ ràng là đang chạy.

Tôi hít mấy hơi thật sâu, định đi giúp bọn họ, chợt nghe dưới gầm giường lại phát ra tiếng ván gãy. Tôi ngây ra một thoáng, ơ một tiếng, nhận ra có gì đó không ổn. Đệt! Chẳng lẽ tên kia còn chưa đi? Đây là kế điệu hổ ly sơn?

Vội cúi đầu ngó xuống gầm giường, chỉ thấy từ miệng hầm ngầm kia chui ra một người, đang bò về phía tôi.

Chương 11: Chạm trán

Phản ứng đầu tiên của tôi chính là chuồn, vội vàng ôm cái rương lên rồi tính đường chạy ra. Nhưng cái rương quá nặng, một mình tôi không sao nâng nổi, mới gắng gượng đẩy được vài cái chân tay đã luống cuống, đầu óc căng thẳng. mà chẳng hiểu sao cái rương vẫn nằm ì dưới sàn không thèm nhúc nhích.

Ngoảnh lại nhìn, người kia đã bò ra khỏi gầm giường, toàn thân lấm lem, giống như Văn Cẩm chui ra từ vũng bùn.

Tôi chợt nhận ra, đây không phải bánh tông mà là người! Tôi việc gì phải sợ? Nhớ ra ban nãy Bàn Tử có nghịch cái cuốc, tôi lập tức chạy ra lấy rồi quay vào.

Lúc quay lại, đã thấy tên kia ôm cái rương sắt loạng choạng lao về phía tôi. Tôi vung cuốc đánh, hắn khom lưng rồi trở người một cái là thoát, còn huých khuỷu tay vào lưng rôi. Tôi đau nhói, suýt nữa đã ngã nhào ra đất. Hắn cũng không thèm quay đầu lại nhìn mà chạy thẳng ra cửa.

Tuy tôi không thích ẩu đả, nhưng trong thâm tâm cũng là một người khá cố chấp, lại mang dòng máu thổ phu tử, nên phút chốc đã nổi trận lôi đình, nhặt cuốc lên đuổi theo.

Ra khỏi cửa, quang cảnh trước mắt sáng sủa hẳn lên, thấy ngay Bàn Tử đang ngồi xổm một bên ngó nghiêng gầm căn nhà sàn. Tên kia rất khỏe, ôm rương sắt lảo đảo, tính chạy vòng ra sau lưng hắn.

Tôi la lên với Bàn Tử: "Chặn nó lại!"

Bàn Tử còn chưa hiểu có chuyện gì xảy ra, mới quay sang nhìn tôi. Tôi lại quát: "Cái rương bị cướp đi rồi!"

Bàn Tử cũng coi như phản ứng nhanh, nháy mắt đã đưa tay ra, vừa hay túm được áo tên kia.

Cái rương quá nặng, tên kia lập tức mất thăng bằng, ngã lăn xuống đất, cái rương văng ra. Hắn đứng lên tính giật lại, nhưng Bàn Tử nào phải tôi, sao có thể để hắn dễ dàng được như ý? Lại bồi thêm một cú Thái Sơn áp đỉnh nữa khiến hắn té lăn quay.

Lúc này tôi đã lao đến gần cái rương, ôm gọn lấy nó.

Đây là một sai lầm cực kỳ nghiêm trọng, vào lúc này lẽ ra tôi nên giúp Bàn Tử khống chế tên kia mới đúng, vì bắt được hắn rồi thì cái rương đương nhiên sẽ an toàn. Nhưng chuyện xảy ra quá nhanh, tôi không kịp suy tính rõ ràng. Hậu quả là Bàn Tử không ngăn nổi hắn, hắn thấy không còn hy vọng đoạt lại cái rương, liền lộn nhào một vòng rồi đứng lên bỏ chạy.

Bàn Tử quát: "Đứng lại!" rồi đuổi theo ngay, tôi cũng lập tức nối gót. Nhưng lại phát hiện ra tên kia chạy cực nhanh, lao vào thôn, nhoáng cái đã mất dạng. Nhà cửa trong thôn đan xen phức tạp, nối với nhau bằng những con hẻm lát đá xanh, nếu không phải dân bản địa thì rất dễ lạc đường, căn bản không xác định nổi hắn chạy theo hướng nào.

Bàn Tử thở dốc, không hiểu sao lại có người từ trong nhà phi ra, mới hỏi tôi đã xảy ra chuyện gì? Tôi thuật lại mọi việc, hắn mới chửi ầm lên, hối hận đã không đuổi kịp.

Nhìn theo hướng tên kia biến mất, tôi chỉ cảm thấy khó hiểu. Kẻ kia rốt cuộc là ai? Vì sao lại đột ngột xuất hiện, muốn cướp cái rương sắt? Chúng tôi bây giờ không đối địch với ai, đến đây cũng chẳng mấy người biết! Lẽ nào chỉ là tên trộm vặt bình thường? Nhưng nếu là vậy thì thủ pháp của tên trộm vặt này cũng quá mới mẻ.

Trong khi Bàn Tử vẫn hùng hổ chửi bới thì Muộn Du Bình đã chạy tới. Vừa rồi hắn bị Bàn Tử phân công núp vào một góc, chứ nếu hắn có ở đây, tôi dám cá tên kia chạy không thoát.

Khi quay về phòng, cái rương sắt kia vẫn nằm trong vũng bùn, dính một mảng bùn lớn. Bàn Tử nói: "May nhờ ông trời phù hộ, cái rương vẫn chưa mở, bằng không thì chẳng đoán được sẽ còn chuyện gì xảy ra."

Tôi đáp:" Xem ra bây giờ không thể đặt vật này vào chỗ cũ, tôi thấy hay là mang về nhà A Quý, cho anh ta ít tiền là tự khắc biết mình phải làm gì thôi."

Bàn Tử gật đầu đồng ý: "Dù có câu nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất, nhưng khuân nó theo vẫn chắc ăn hơn." Không chờ ai phản đối đã đi khuân cái rương. Nhưng vừa đặt tay vào một khe hở trên cái rương để nhấc lên thì nghe một tiếng "cạch", ổ khóa xoay đã rời ra khỏi rương.

Cái rương rơi xuống đất, lộn nhào, vật bên trong nhoáng cái đã lăn ra.

Chương 1: Khởi nguồn

Để giúp Muộn Du Bình tìm lại ký ức đã mất, chúng tôi đến Ba Nãi nằm ở vùng trung tâm của Thập Vạn Đại Sơn, nơi được mệnh danh là Siberia của Quảng Tây.

Tôi vốn cho rằng tình huống mất trí nhớ và đi tìm lại trí nhớ đã mất này rất khó xảy ra trên thực tế, nên ban đầu vẫn cảm thấy có gì đó khác thường. Quá khứ của người khác có lẽ không có gì hấp dẫn, nhưng câu chuyện đằng sau Muộn Du Bình chắc chắn không giống vậy, việc này giống như đọc một cuốn tiểu thuyết huyền bí mà bản thân bạn cũng bước vào trong đó, lòng vừa thấp thỏm lại vừa hưng phấn.

Muộn Du Bình vẫn trầm lặng ít nói như xưa, người như hắn liệu có mang chút tâm tính nào của người bình thường hay không thì tôi không dám chắc, nhưng chí ít sự kiên trì mà hắn biểu lộ ra đã đủ khiến tôi bội phục. Tôi cũng hơi do dự, giúp hắn đi tìm quá khứ đồng nghĩa với việc kéo hắn từ cuộc sống bình yên này trở về với hiện thực, đây rốt cuộc là chuyện tốt hay xấu?

Quá trình vào núi không nhắc lại nữa, chúng tôi dựa theo manh mối gã họ Sở cung cấp, tìm được căn nhà sàn mà Muộn Du Bình ở trước đây, hơn nữa còn phát hiện ra một cái rương sắt nằm trong ngăn bí mật dưới gầm giường cũ nát. Sau đó xảy ra một loạt sự kiện, có kẻ đứng dưới gầm nhà muốn kéo cái rương đi, may mà chúng tôi phát hiện kịp thời. Nhưng gã kia rõ ràng là rất thông thạo đường xá trong thôn, trốn vào một con hẻm rồi hoàn toàn mất dạng.

Trong khi chúng tôi còn đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì vừa xảy ra thì ổ khóa của cái rương cũ nát Bàn Tử đang ôm đã gãy rời, nháy mắt cái rương liền lộn nhào xuống đất.

Chuyện xảy ra quá nhanh, ba người căn bản chưa kịp phản ứng thì cái rương đã rơi xuống đất, nắp bật tung, một vật to cỡ nắm tay từ bên trong rớt ra, lăn lóc dưới chân Bàn Tử.

Trước kia Muộn Du Bình từng nói hắn có chút ấn tượng mơ hồ với cái rương này, trong rương có thể là thứ gì đó cực kỳ nguy hiểm, bảo chúng tôi tuyệt đối không được mở ra. Do vậy vừa thấy nó rơi xuống, tôi đã giơ tay cúi người, làm tư thế phòng thủ.

Bàn Tử không có thời gian phản ứng, chỉ kịp rụt cổ lại, hai người chúng tôi nhoáng cái đã đứng im không dám nhúc nhích.

Tôi cứ đinh ninh sẽ có một vụ nổ lớn, lúc này cũng không có nhiều thời gian cân nhắc, tất cả đều là phản xạ tự nhiên. Nhưng nghiến răng rụt cổ suốt mấy giây vẫn chẳng thấy gì, không cháy nổ, cũng không có ám khí bay ra.

Tôi thận trọng mở mắt nhìn xuống chân Bàn Tử, vật rơi ra ngoài trông giống một khối gỗ xù xì, tôi chưa thấy bao giờ nhưng hình như không phải vật nguy hiểm. Bàn Tử từ từ thả lỏng, tiến lên vài bước, tôi cũng chầm chậm buông tay, lòng đầy hoài nghi, chẳng lẽ Muộn Du Bình nhớ lộn? Hay là để lâu quá, thứ nguy hiểm cũng hết hạn sử dụng luôn rồi?

Nhìn sang Muộn Du Bình, hắn không có biểu cảm gì đặc biệt, nhưng rõ ràng cũng đang hoảng sợ.

Giống như một quả pháo tịt ngòi, chẳng ai dám bước lên xem trước. Chúng tôi giằng co mất một lúc, Bàn Tử vừa rồi còn quả quyết số mình sống dai mới nhích lại gần, tôi cũng nối gót hắn. Vật rơi ra từ rương trông hơi giống một cái hồ lô lớn bằng cốc miệng loe (1), bề ngoài lại xù xì như có mụn nhọt, nhìn giống da cóc ghẻ, không dễ chịu chút nào. Nhìn kỹ có thể thấy trong đám mụn nhọt trên cái "hồ lô" xấu xí này thấp thoáng những vệt sáng của kim loại, hình như là sắt.

Bàn Tử định thò tay ra nhấc lên thì Muộn Du Bình ngăn lại, hắn hái một cái lá bí ngô bên cạnh lót tay rồi mới cầm "hồ lô sắt" lên.

Nhìn cảm giác của hắn khi cầm nó lên thì đúng là sắt thật, hơn nữa cũng không nhẹ. Đống mụn cóc kia trông như bị acid mạnh ăn mòn, hoặc là khi đúc bị lẫn vào nhiều bọt khí, còn mấy cái đốm đỏ vàng vàng là vết rỉ sét, vật này chính là một cục sắt hình hồ lô. Bề mặt nó có vài hoa văn cổ đại, tuy đã mờ đến độ nhìn không rõ nữa, nhưng có thể mơ hồ nhận ra đây đúng là một món đồ cổ.

Bàn Tử bực mình nói: "Cái quái gì thế này? Trông như đạn pháo, chẳng lẽ lại là lựu đạn thời cổ?"

Tôi lắc đầu ngay: "Đừng có đoán mò, anh thích chôn lựu đạn xuống gầm giường lắm hay sao?"

Vào thời Minh, hỏa khí đã phát triển cực thịnh, "Chấn Thiên Lôi" và "Quốc Tính Bình" đều có lực sát thương rất lớn. Mấy món này cũng từng qua tay tôi vài lần, nhưng đều đã rút ruột - nói cách khác là không còn thuốc nổ nữa (vì không ai được phép mua bán đồ thật, vậy khác nào buôn súng đạn). Mấy thứ này mới đầu mắc vào lưới đánh cá ngoài biển của ngư dân Phúc Kiến, sau được dân buôn đồ cổ đổi bằng vật dụng sinh hoạt. Nhưng cái món đồ sắt xù xì này trông không giống hàng từ biển, nên chắc là không phải. Hơn nữa hắn dám chôn thứ này dưới gầm giường, lỡ gặp hôm trời hanh khô nó phát nổ thì sao? Muộn Du Bình tuyệt đối sẽ không làm chuyện thiếu đầu óc như vậy.

Muộn Du Bình lắc lắc vài cái, lắng nghe, rồi lắc đầu. Tôi hỏi hắn cảm giác nguy hiểm vừa rồi giờ đã hết chưa? Hắn không đáp, nhưng thần sắc đã thay đổi, nhìn cái hồ lô sắt kia một lát rồi nói: "Lớp sắt này chẳng qua chỉ là vỏ bọc, đồ thật ở bên trong."

Tôi sửng sốt: "Làm sao anh biết?"

Muộn Du Bình đáp: "Vì nó quá nhẹ."

Bàn Tử kinh ngạc: "Con mẹ nó cậu có thể ước lượng được hả?"

Chuyện này cũng không lạ, những người hay tiếp xúc với đồ cổ đều phải luyện được tay nghề này. Hơn nữa ai đã từng ước lượng sắt tinh khiết hay từng làm khuôn đúc đều biết trọng lượng một khối sắt chênh lệch rất lớn so với tưởng tượng của người bình thường, sức người bình thường không thể dùng hai ngón tay kẹp một khối sắt lớn cỡ cái hộp bút lên được.

Tôi bảo Bàn Tử: "Với cái kiến thức cơ bản nửa vời của anh dĩ nhiên là không rành rồi, loại công phu thượng đẳng này chúng tôi phải luyện cỡ mấy đời mới được."

Bàn Tử xì một tiếng khinh khỉnh: "Bàn gia ta đâu rảnh rỗi mà luyện cái món đó, mua cái cân điện tử thì đáng mấy đồng."

Tôi cũng làm bộ khinh thường rồi lại hỏi Muộn Du Bình: Anh có ấn tượng hay là manh mối gì về thứ nằm trong lớp sắt này không?"

Muộn Du Bình lắc đầu, Bàn Tử liền nói: "Trước kia có một loại vàng bọc sắt, trong khi vận chuyển vàng được bao vỏ sắt bên ngoài nên không ai thấy. Có điều lớp vỏ sắt này trông như được đúc lên, hơn nữa còn quá nhẹ, bên trong chắc chắn không phải vàng."

Tôi chưa từng nghe nói đến "vàng bọc sắt", chỉ biết có một giống ngao Tạng tên là Thiết Bao Kim, ông nội tôi từng nuôi một con, do không thích nghi được với khí hậu nên không nuôi nổi, về sau nó bị con bò trong thôn đá chết. Không biết Bàn Tử nói vậy là khoác lác hay hắn đã gặp thật rồi.

Điểm thu hút sự chú ý của tôi chính là những hoa văn mờ mờ bên trên, đã có hoa văn thì chí ít nó cũng có tác dụng trang trí.

"Hay nó là một linh kiện cơ khí?" Bàn Tử nói tiếp "Ví như chân lư hương bằng sắt, hay là mấy cái đồ trang trí gắn trên bánh xe hồi trước ấy. "

Tôi nghĩ cũng có thể. Hiểu biết của tôi về đồ sắt không sâu, vì sắt dễ gỉ, rất khó bảo quản trong cổ mộ nên độ phổ biến thua xa đồ đồng và đồ sứ. Vả lại giá trị của đồ sắt thường không cao, cho nên dân chơi đồ cổ chẳng mấy ai hiểu rõ, tôi thực sự không có manh mối gì.

Nhưng nếu đã là đồ cổ thì phải có gốc tích, hẳn là liên quan đến những việc hắn đã trải qua trong thôn này.

Tôi nhớ lại giả thiết của Bàn Tử hôm trước, nảy ra một suy đoán. Hắn nói gần núi Dương Giác có thể có một ngôi mộ cổ, chuyện hẳn là thế này: Có thể Muộn Du Bình cũng là thành viên trong đội khảo cổ của Văn Cẩm năm đó, cái hồ lô này có thể là một món đồ bọn họ lấy ra từ cổ mộ, nhưng vì lý do nào đấy, Tiểu Ca đã giấu nó đi. Cái món đồ chơi này chắc là từ cổ mộ kia mà ra, nếu không rất khó lý giải nguồn gốc của nó.

Bàn Tử cau mày ú: "Tôi cũng đoán thế, vậy năm đó Tiểu Ca giấu nó đi chắc là để đề phòng điều gì đó, tình hình lúc ấy chắc là rất phức tạp."

Có đề phòng thì ắt có kẻ địch, điều này cho thấy chuyện xảy ra với đội khảo cổ e rằng không đơn giản như lời A Quý nói.

Ba người im lặng giây lát, tôi cảm thấy vừa vui vẻ lại vừa buồn bực. Vui vì ở đây tìm được nhiều thông tin hơn tôi tưởng, bực vì những tin tức này chỉ luẩn quẩn xung quanh "một sự kiện" rất chung chung, chứ không chạm được vào tình tiết cụ thể.

Văn Cẩm đã từng ở đây, A Quý trong hình mới lên bảy lên tám, mà đến giờ cũng ngoại tứ tuần rồi, tức là chuyện đã xảy ra từ hai mươi đến ba mươi năm. Trong khoảng thời gian này vừa hay xảy ra sự kiện Tây Sa, vậy thời điểm Văn Cẩm xuất hiện ở đây hẳn là không bao lâu trước sự cố Tây Sa - họ rời khỏi đây rồi mới đến Tây Sa. Tôi thấy trong hình không còn ai nữa, nên cũng không rõ cô ấy đến đây cùng nhóm đi Tây Sa, hay là cùng một nhóm khác.

Muộn Du Bình bị người Việt Nam trói lại làm mồi là vào khoảng năm sáu năm trước, vậy khoảng thời gian mười lăm năm ở giữa hắn đã làm gì? Không lẽ cuộc gặp gỡ với Trần Bì A Tứ là do hắn sắp đặt trước? Tất cả đều là nghi vấn.

"Cái tên cướp đồ của chúng ta ban nãy liệu có liên quan đến chuyện này không nhỉ?" Bàn Tử hỏi.

Tôi muốn tra từ hướng này, bèn hỏi: "Hai anh có nhìn rõ tên đó không?"

"Chịu, tên kia chạy còn nhanh hơn thỏ, loáng cái đã mất dạng, chỉ thấy gã xấu xấu bẩn bẩn, dáng người xấp xỉ cậu."

Tôi thầm nghĩ, tên kia là ai mới được chứ? Chúng tôi đến đây căn bản không gây chú ý, hắn đơn giản chỉ là một tên trộm vặt bám đuôi chúng tôi hay là người trong cuộc? Chuyện này nằm ngoài dự liệu của tôi, có cảm giác dây dưa không rõ, nếu hắn có liên quan đến chuyện này thì chúng tôi gay go lớn rồi, ban đêm phải đóng chặt cửa mới dám ngủ mất.

"Để lát nữa chúng ta hỏi A Quý xem, tên kia trông như thằng điên, không chừng A Quý biết." Bàn Tử nói: "Giờ biết làm sao đây? Chúng ta có lấy cái hồ lô sắt này về cũng chả biết làm gì, hay tìm một thợ rèn xem xem có thể nung chảy phần nào không."

Tôi nói khỏi cần làm vậy, trí tuệ của nhân dân lao động là vô biên, tôi biết một cách xử lý món đồ này, đó là dùng acid sulfuric nhỏ lên để mài mòn dần lớp vỏ sắt của nó. Anh nhìn những vết rỗ trên hồ lô mà xem, không chừng đã có người từng làm vậy, nhưng vì lý do nào đấy mà chưa xong đã ngừng.

Có khi người làm việc này chính là Muộn Du Bình cũng nên. Tôi còn có cảm giác, sự cảnh giác của hắn đối với vật này có thể là do trong lúc dùng acid sulfuric hòa tan lớp vỏ sắt, hắn bỗng dưng phát hiện ra dấu hiệu gì đó nguy hiểm, dấu hiệu này để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí, khiến hắn phải phải ngừng lại ngay lập tức. Bây giờ tuy hắn đã quên tuốt luốt, nhưng ấn tượng ấy vẫn lưu lại trong đầu, làm hắn cảm thấy bất an.

Đương nhiên đây chỉ là phỏng đoán, nhưng tôi cảm thấy rất có khả năng này.

Bàn Tử gật đầu: "Vậy thì dễ rồi, ta cứ đến hiệu bán phân hóa học lấy một ít là được."

Tôi thầm nghĩ tốt nhất không nên tùy tiện mang cái món đồ chơi kia đi, đợi lát nữa dẫn A Quý đến đây cân nhắc cho cẩn thận, rồi để Muộn Du Bình xem xét tỉ mỉ cái đã.

Muộn Du Bình lại bỏ hồ lô sắt vào trong rương, đậy nắp vào. Bàn Tử khuân nó lên: "Được rồi, hôm nay coi như cũng có thu hoạch, từ giờ chúng ta phải mang cái món đồ chơi này theo bên mình. Các cậu mau vào trong khua khắng nốt đi, lát nữa khuê nữ kia sẽ quay về đấy, nhớ canh thời gian cho khớp."

Tôi nhớ ra mấy tấm ảnh gã họ Sở nhắc đến mình còn chưa xem, đấy mới là việc chính, liền đứng dậy bước ra gần cửa sổ.

Vừa đứng lên, còn chưa đi nổi hai bước, tôi bỗng cảm thấy có gì đó bất thường. Quay đầu nhìn lại thì sửng sốt, tôi thấy trên sườn dốc phía trên căn nhà sàn không biết từ bao giờ đã đứng lố nhố mấy thôn dân, đang nhìn chúng tôi bằng sắc mặt âm trầm.

------------

(1) Nguyên văn 广口杯, trông như thế này:

Chương 2: Thôn làng kỳ lạ

Muộn Du Bình kéo tôi lại, trái tim tôi đập thình thình, suy nghĩ đầu tiên lóe lên là: bọn họ đã đứng ở đây từ hồi nào?

Chúng tôi vốn là dân thành phố, đã quen nhìn mọi thứ ngang tầm mắt, khi đến những nơi thế này thì thường không có phản xạ nhìn lên đỉnh núi, cho nên lúc vừa đến đây, tôi hoàn toàn không nhớ trên sườn núi có người hay không. Nếu bọn họ đã ở trên đó từ đầu, vậy thì lúc chúng tôi tiến vào nhà sàn chắc chắn đã bị phát hiện, giả thiết này không ổn cho lắm.

Hơn nữa nhìn vẻ mặt của mấy người đó chẳng thấy tốt lành gì, ánh mắt đem đến cảm giác lạnh lẽo.

Tôi hơi luống cuống, nhất thời cũng đứng yên, đối diện với bọn họ, phát hiện ra mấy người này đều trong khoảng bốn mươi đến năm mươi. Người miền núi sinh sống vất vả nên thường già sớm, vậy nên tuổi thực của họ có thể thấp hơn một chút.

Bọn họ cũng không hề nhúc nhích, chỉ nhìn chúng tôi chằm chằm.

Trước kia từng bị tẩy chay ở quê nhà, cũng đã trải qua hoàn cảnh này, tôi dám chắc thái độ này cho thấy sự cảnh giác và nghi ngờ cao độ của họ với chúng tôi, xem ra hồi nãy chúng tôi leo ra ngoài đã bị nhìn thấy thật rồi.

Ở trong thôn tuyệt đối không thể đắc tội với dân bản xứ, bằng không hậu quả khó lường, nhẹ thì bị đuổi đi, nặng có thể bị gô cổ tống vào đồn công an. Lý lịch của tôi với Bàn Tử cũng chả sạch sẽ gì cho cam, đã vào đó thì khó tránh khỏi chuyện bé xé ra to.

Giờ mà tiếp tục đi vào thì đúng là muốn ăn đòn, Bàn Tử ở đằng sau búng tay mấy cái, ra hiệu cho chúng tôi mau đi, đừng có đứng đấu mắt với họ nữa. Làm thế khác nào khiêu khích, chọc cho người ta nổi khùng lên mà nhào xuống tẩn cho đâu.

Vốn đang đi chôm chỉa, trong thâm tâm vẫn hơi chột dạ, lúc này tim đập càng thêm mạnh, thoáng chốc đã trở nên căng thẳng, cảm giác như có một luồng áp lực từ trên núi ép xuống, làm tôi muốn biến khỏi đây ngay. Nhưng nhìn lại căn nhà sàn kia, tôi lại cảm thấy mình không thể đi, một thứ tưởng chừng trở tay là lấy được lại không thể nào chạm đến, cứ như khi đọc tiểu thuyết, những lúc tưởng chừng bí ẩn sắp được vạch trần mà tác giả lại cứ thích vòng vo Tam Quốc. Đứng ngẩn ra giây lát, Bàn Tử liền túm lấy tôi, vừa thì thào: "Đến tối mình quay lại, chỉ chậm vài giờ chứ mấy.", vừa kéo tôi đi.

Ba đứa căng người ra, cố gắng bỏ đi một cách tự nhiên. Vào đến thôn rồi, đi được một quãng xa rồi quay đầu lại, thấy những thôn dân kia không bám theo mới thở phào nhẹ nhõm.

Tình cảnh này hơi cái lần tôi với lão Dương chui vào vườn nhà người ta hái trộm cam hồi nhỏ, trộm xong chui ra đụng ngay chủ vườn, lúc đó trong túi cả hai đầy cam nên sợ hết vía, đành phải giả vờ vô tình đi ngang qua, cái cảm giác hồi hộp đó khiến đôi chân cũng không chịu nghe lời mình nữa. Bây giờ tất nhiên không giống hồi nhỏ, nhưng cảm giác cũng không hề dễ chịu, lại còn hơi buồn cười.

Dựa theo trí nhớ, chúng tôi đi dọc theo mấy con đường quanh co trở về nhà A Quý. Anh ta không ở nhà, chỉ có cô con gái lớn đang quét dọn, thấy chúng tôi liền hỏi sao các anh quay về sớm thế, tôi bảo trời nóng quá chịu không nổi.

Bàn Tử lập tức trở về phòng, giấu cái rương sắt xuống gầm giường, lúc này chúng tôi mới yên tâm. Bàn Tử ra ngoài tìm nước uống, còn tôi vẫn không quên nổi mấy tấm ảnh mình còn chưa được xem, cảm thấy toàn thân nóng ran, tâm trạng không yên.

Đầu óc Bàn Tử nhanh nhạy hơn tôi, hỏi ngay con gái A Quý xem con đường mòn sau lưng nhà sàn dẫn đi đâu, bình thường có nhiều người qua lại không? Cô gái trả lời là dẫn vào trong nương, giờ đang vào hè, đúng vụ dưa hấu chín nên người ta thường lên núi hái dưa. Còn căn nhà sàn kia đã ở đó từ lâu rồi, nghe đâu trước kia từng có một bà lão ở đó.

Tôi ngó sang Muộn Du Bình, thầm hỏi "bà lão"? Không lẽ trước kia Muộn Du Bình chung sống với một bà lão? Vậy mười lăm năm còn trống đó không chừng hắn bị giam ở đây làm nô lệ tình dục, thật là thê thảm quá xá.

*Câm nín trước sự biến thái đội lốt thiên chân của Tà =__=*

Tôi không biết mấy cái suy nghĩ bậy bạ trong đầu từ đâu mà đến, có thể do dọc đường đi nghe Bàn Tử kể nhiều chuyện cười tục tĩu quá chăng.

Nhưng cái "trước kia" mà con gái A Quý nói không rõ là bao lâu, có khi là trước khi Muộn Du Bình đến, hoặc cũng có thể là sau khi hắn rời đi.

Bàn Tử liền bảo tôi, cậu đã nghe chưa, phải bình tĩnh, ở đây không giống như vùng hoang sơn dã lĩnh mà muốn làm gì cũng được. Chi bằng chúng ta cứ chờ thêm một chút đến tối, còn hơn là đi làm chuyện liều lĩnh.

Tôi bảo mình không chờ được, cơm trưa xong tôi sẽ đi thăm thú xung quanh một lượt, hắn nói tùy tôi.

Nói tóm lại, cơm trưa xong tôi và Muộn Du Bình quay lại gian nhà sàn kia, phát hiện dưới gốc đại thụ trước cửa có mấy lão già đang ngồi hóng mát.

Truyện với đời khác nhau ở chỗ, trong truyện bạn có thể đẩy nhanh tiết tấu vào những thời điểm mấu chốt, mà ngoài đời thì cmn toàn là chuyện ngoài ý muốn. Tôi ngồi dưới một gốc cây gần đó chờ mấy lão kia lượn đi, phơi nắng muốn nổ não mà mấy lão ngược lại càng tám càng hăng say.

Thật khó diễn tả cảm giác lo âu bức bối trong lòng tôi lúc này, nhưng tôi lại không muốn quay về cho Bàn Tử cười nhạo, đành thấp thỏm không yên ngồi chờ mấy tiếng đồng hồ. Sau đó Bàn Tử đến tìm chúng tôi, hắn thấy hai đứa đi mãi không về, còn tưởng chúng tôi bị bắt.

Lúc này tôi đã dần dần lãnh tĩnh lại, hay phải nói là nhit tĩnh mới đúng, vì mặt trời sáng chói trên cao đã dần dần hâm bầu không khí thành nóng ẩm. Chúng tôi có quạt phành phạch cũng vô ích, đều bị hấp cho mềm người, nóng đến lả đi. Muộn Du Bình thực sự khiến tôi bội phục, dù nóng cỡ nào hắn vẫn ngồi yên bất động, không nhìn ra chút bực bội nào, nhưng toàn thân hắn cũng ướt đẫm mồ hôi. Thì ra khốc ca lạnh lùng như núi băng cũng phải đầu hàng trước ánh nắng chói chang của Quảng Tây.

Bàn Tử chế giễu tôi một hồi, tôi cũng chẳng còn hơi sức đâu mà đốp lại. Hắn ở Bắc Kinh đã lâu, không sao chịu được thời tiết nóng ẩm nơi này nên lại càng khó chịu, liền bảo chúng tôi: "Mợ nó đừng chờ nữa, chúng ta ra ngoài đi dạo tìm con suối mà ngâm mình, bằng không người tôi thiu lên mất."

Đi vòng ra ngoài thôn có một khe núi, trên đường đến đây chúng tôi đã đi ngang qua, tuy không rộng nhưng nước chảy rất xiết, lúc nhìn thấy đã nghĩ đó hẳn là một nơi nghỉ mát tuyệt vời, mỗi tội không biết từ trong này phải đi đường nào để ra đó.

Tôi cũng chịu hết nổi rồi, vừa nghe đã thấy chí lý, cả ba liền đứng dậy cùng đi, dọc đường hỏi thăm mấy thôn dân. Được họ chỉ đường, Bàn Tử bẻ một tàu lá chuối tây che đầu, vừa xỉ vả mặt trời vừa đi vòng vo qua một loạt khúc quanh mới ra khỏi thôn.

Con suối nằm sát hàng rào vây quanh thôn, những thôn làng miền núi đa số đều xây gần suối, giữa thôn làng và con suối là một ghềnh đá. Những hôm trời mưa to nước dâng cao, ghềnh đá này sẽ có tác dụng làm vùng đệm. Chúng tôi đứng trên đó phóng mắt nhìn ra xa, thấy có khá đông người đang bơi lội, xem ra dân bản xứ cũng vẫn sợ nóng.

Làn nước biếc uốn lượn trong khe trông yên ả hơn so với khi chúng tôi nhìn nó từ hạ du, vừa đến gần đã cảm nhận được một luồng không khí mát mẻ ùa đến. Bơi lội dưới suối đa phần là trẻ con, đám con gái mười lăm mười sáu đều mặc áo sơ mi, quấn áo thấm nước dán sát vào thân thể, lộ ra vóc dáng uyển chuyển, khiến Bàn Tử bỗng chốc trở nên hăng hái, vội vàng cởi đồ nhảy ùm xuống suối, chẳng khác nào Trư Bát Giới thấy nhện tinh.

Tôi cảm thấy mình mặc quần sịp trông thật khó coi, bèn mặc quần đùi xuống nước. Dưới ánh mặt trời, nước suối trở nên ấm áp, tôi bơi đến bóng râm dưới ghềnh đá, còn Muộn Du Bình không xuống cùng, chỉ ngồi dưới một gốc cây bên bờ hóng mát.

Ngâm mình chốc lát, nóng bức đã tiêu tan, cảm giác khoan khoái dễ chịu ùa đến. Bàn Tử đang nô đùa với mấy cô bé, Muộn Du Bình bắt đầu gà gật. Tôi nhìn từ khe suối về phía thôn làng, có thể thấy căn nhà sàn của Muộn Du Bình cách đó không xa, ra đây đúng là thoải mái hơn nằm chờ trong nhà A Quý.

Giống như thí sinh đi thi chờ điểm, đứng chờ trước bảng vàng vẫn thoải mái hơn nằm chờ ở nhà. Cảm giác lo âu vừa rồi khiến tôi cảm thấy tội nghiệp cho chính mình, bèn tự nhủ với bản thân đừng căng thẳng làm gì, lần này chúng tôi không đi đổ dấu, ở đây sẽ chẳng có chuyện gì đâu, không có bánh tông, từ từ rồi khoai khắc nhừ.

Nghĩ vậy liền nằm xuống cho thân thể chìm vào trong nước, nhắm mắt lại rồi thả lỏng người.

Không biết đã nằm bao lâu, đến khi tôi đã mơ mơ hồ hồ thì bỗng nghe có người gọi mình. Tôi dần dần tỉnh lại, vừa ngồi xuống thì một gáo nước đã ụp thẳng vào mặt, khiến tôi tỉnh táo ngay lập tức. Tôi đứng lên mới phát hiện ra mấy đứa trẻ nghịch nước ban nãy đều đã trở lên bờ, vừa gọi nhau í ới vừa chạy về một hướng. Bàn Tử vừa hắt nước vừa gọi: "Dậy mau!"

Tôi đứng dậy, chợt thấy xa xa có khói nhẹ bốc lên từ một chỗ nào đó trong thôn, bèn hỏi có chuyện gì? Bàn Tử trả lời: "Hình như là cháy nhà."

Tôi nhìn về phía đó, phát hiện ra đó chính là hướng căn nhà sàn của Muộn Du Bình, lập tức có linh cảm xấu.

Chương 3: Hỏa hoạn

Lúc này tôi chỉ cảm thấy mơ hồ, nhưng trong lòng vẫn tự nhủ, không thể có chuyện trùng hợp như thế, với thời tiết này, một gian nhà cũ bằng gỗ rất dễ bốc cháy, nhưng cảm giác mơ hồ dâng cao trong lòng lại khiến tôi nghẹt thở.

Chạy theo mấy đứa bé về hướng đám cháy, càng tới gần tôi lại càng cảm thấy không ổn. Khi đến tận nơi, tôi gần như không tin nổi vào mắt mình, chỉ thấy căn nhà sàn của Muộn Du Bình cuồn cuộn khói đặc, thế lửa dữ dội, hơi nóng ngút trời, căn bản không thể lại gần, nhìn thoáng qua đủ biết nó đã cháy đến độ không thể cứu vãn, mà ngọn núi phía sau căn nhà sàn cũng vừa bắt lửa, cây cối cháy đen, lửa còn đang lan lên đỉnh núi.
Thôn dân từ bốn phương tám hướng kéo đến, lao lên núi dập lửa. Chúng tôi đã từng gặp đám cháy rừng, biết rừng đã cháy thì đáng sợ khó mà tưởng nổi, cho nên cứu rừng trước là rất chính xác.

Lửa này dường như là lan từ trên núi xuống, nhà sàn của Muộn Du Bình lại nằm ngay dưới chân mới hứng tai ương. Nhưng tôi cứ đứng ngẩn người ra đó, biết chuyện chắc chắn không xảy ra theo hướng này.

Lửa quá lớn, chúng tôi ra suối chưa được bao lâu, cho dù bị sét đánh trúng cũng không thể cháy nhanh cỡ đó, mà rõ ràng nhất chính là trong không khí nồng nặc mùi dầu hỏa.

Nơi này không có chốt phòng cháy (1), muốn cứu hỏa đều phải múc nước bằng thùng. Nhưng số thùng có hạn, bọn họ múc nước từ trong chum đi dập lửa, chờ đám cháy rừng được dập tắt, dám cá nhà của Muộn Du Bình đã cháy trụi rồi. Tôi sốt ruột định xông vào thì bị Bàn Tử giữ chặt, nói thôi hết cách rồi, chui vào đó quá nguy hiểm, mất mạng ở đây thì thật không đáng.

Đầu óc tôi rối tinh rối mù, quỳ sụp xuống đất, nhưng đúng vào lúc này, bỗng có bóng người lướt qua bên cạnh. Chúng tôi còn chưa kịp phản ứng thì đã thấy Muộn Du Bình lao vụt qua, xông đến trước gian nhà cháy, lăn vào khoảng không bên dưới sàn nhà.

Bàn Tử và tôi đều kinh hoàng, nên biết rằng lao vào trong đám cháy trong tình trạng không có đồ bảo hộ chắc chắn sẽ bỏng nặng. Đừng nói không chạm vào lửa thì không sao, nhiệt độ ở trung tâm đám cháy cao trên ngàn độ, chỉ cần ở đó trong nháy mắt cũng đủ chín người.

Bàn Tử lập tức hô to "Cứu người!", rồi tôi và hắn cùng xông lên, nhưng mới đến cách căn nhà được năm sáu mét, thì hơi nóng khủng khiếp đã ập thẳng vào mặt, nướng cho tóc gáy của tôi xoăn tít thò lò, lông mày tóc tai đều nổ lép bép. Tôi cắn răng chịu đựng cái bỏng rát trên da thịt, lao đến sát căn nhà, ngồi xổm xuống, nhưng rồi phát hiện ra mình căn bản không thể chui vào. Sức nóng bên trong tuôn ra ào ào cứ như một con rồng lửa đang hít thở. Tôi phải nằm rạp xuống miễn cưỡng nhìn, mới thấy bên dưới có bùn, Muộn Du Bình đắp một lớp bùn lên người, đang đi vào bên trong.

Còn muốn quan sát kỹ hơn, nhưng chúng tôi cứ bị hơi nóng sấy cho không tài nào mở mắt, nhìn không được rõ, đành phải lăn vài vòng ra ngoài, mấy người cứu hỏa bên cạnh liền xông lên giữ chúng tôi lại.

Vừa được nâng dậy, tôi đã nghe tiếng thứ gì đó ầm ầm sụp đổ phát ra từ đám cháy, thế rồi Muộn Du Bình cũng lăn ra từ khoảng trống dưới gầm nhà sàn. Người hắn bốc khói trắng, lảo đảo đứng dậy, chạy về phía chúng tôi. Lập tức có người tiến lên dội nước cho hắn, còn nghe bên cạnh có ai đó nói điên rồi điên rồi.

Tôi lao tới, thấy cả người hắn đắp đầy bùn nhão dưới gầm nhà, chẳng biết có bị bỏng hay không, nhưng tay trái có vài chỗ phủ tro đen xì, hiển nhiên hắn đã dùng tay đào bạt mạng. Tôi mắng ầm lên: "Anh chán sống rồi hả!", còn Bàn Tử thì đỡ hắn dậy rồi hỏi: "Sao rồi?"

Mặt hắn không hề đổi sắc, chỉ lạnh lùng đáp: "Đã cháy sạch rồi." Nói đoạn nhìn sang mấy người cứu hỏa, "Cả sàn nhà cũng bị đốt thủng."

Động tác này có ý gì, khỏi cần nói cũng biết. Bàn Tử cũng liếc qua đám người cứu hỏa, nhìn tôi bằng nét mặt hình sự. "Tiểu Ngô, xem ra cái thôn này có vấn đề."

Tôi mải xem vết thương của Muộn Du Bình, không rảnh đi suy xét chuyện đó. Bên cạnh có người giục tôi mau đưa hắn đến trụ sở thôn tìm y tá khám xem vết bỏng nặng nhẹ thế nào, gian nhà kia đâu có ai ở, bắt chước đi cứu người làm gì.

Chúng tôi nhờ một đứa trẻ đến xem cháy dẫn đường, đưa Muộn Du Bình đến trụ sở thôn. Đứa bé kia bảo chúng tôi ngồi lại, để nó đi gọi y tá đến. Tôi nhớ lại tình hình ban nãy mà phát sợ, liền oán trách Muộn Du Bình. Bàn Tử bảo tôi đừng gây chuyện, cẩn thận người ta nghe được. Tôi đành ngậm miệng, lồng ngực uất nghẹn khó thở, cũng không biết nói gì cho phải.

Muộn Du Bình dường như không hề để ý đến vết thương trên người, chỉ ngồi ngẩn ra đó, không biết đang nghĩ gì, bầu không khí đóng băng.

Cảm giác bực bội này tôi cũng không biết phải diễn tả thế nào, ai mà ngờ lại xảy ra chuyện này chứ. Nếu biết từ sớm, tôi thà bị họ túm được tẩn cho một trận cũng phải xông vào xem cái đã, chứ bây giờ nói gì cũng muộn.

Lửa cháy tầm bốn tiếng mới tắt, rất nhiều người bị bỏng. Chẳng bao lâu đã có một ông lang vườn tới, dùng thảo dược đắp lên vết thương cho người bệnh. Kiểm tra Muộn Du Bình thì hắn vẫn bình thường, đại khái là nhờ bùn nhão dưới đất cách nhiệt nên vết bỏng của hắn tuy nhiều nhưng không sâu. Riêng cánh tay trái thì bỏng khá nặng, thầy lang hình như đã gặp nhiều ca còn kinh khủng hơn thế nên cũng không gấp gáp, lề mề đắp thuốc cho họ, nói chỉ cần chăm thay thuốc thì nửa vết sẹo cũng chẳng còn. Vào mùa hè, vùng này liên tục cháy rừng, nên từ thời xa xưa thôn dân đã tích lũy đầy đủ kinh nghiệm xử lý vểt bỏng.

Mấy người chúng tôi lẳng lặng trở về nhà A Quý, vừa rửa một cái mà lông mày tóc tai cháy xém của tôi thi nhau rụng, đúng là tổn thất nặng nề.

Muộn Du Bình hoàn toàn rơi vào im lặng, trong phòng nồng nặc thứ mùi quái lạ của thảo dược chữa bỏng, rất khó ngửi. Tôi có ý trách Bàn Tử, bảo nếu lúc ấy anh không bàn lùi thì chúng tôi đã cương quyết chui vào lấy ảnh ra, vậy là có thể tránh được chuyện này.

Bàn Tử liền nổi cáu, bảo chuyện này sao có thể trách tôi, có người phóng hỏa tức là chúng ta đã bị người ta theo dõi từ lâu, gặp chuyện xúi quẩy cũng chỉ là vấn đề sớm muộn. Lần này mới chỉ đốt một gian nhà cũ, nếu xem ảnh rồi thì thứ mà chúng đốt có thể chính là chúng ta. Hơn nữa ở vào tình thế ấy chẳng ai cứng đầu cứng cổ chui vào, giữa ban ngày ban mặt mà anh dám lẻn vào nhà người ta thì cũng to gan lớn mật quá rồi.

Cục tức của tôi không có chỗ xả, quả thật không thể trách Bàn Tử, nhưng nghe Bàn Tử nói thế lòng tôi vẫn vô cớ nổi giận, đành cố nhịn khao khát muốn gây lộn với hắn, đập đầu vào tường vài cái mới dịu đi được một chút.

Bàn Tử nghĩ tới cái gì đó, liền "Á" một tiếng rồi nói với tôi: "Tôi thấy trong chuyện này chúng ta đúng là hết cách, tôi đoán tên trộm rương cũng chính là người phóng hỏa. Cậu nghĩ mà xem, lúc trộm rương gã gây tiếng động rõ lớn, còn cố ý gõ sàn nhà cho chúng ta chú ý, nhất định là muốn dụ chúng ta ra ngoài." Hắn dừng lại một chút: "Sau đó đồng bọn của gã đứng lù lù bên ngoài, chúng ta ra ngoài thấy thế thì nhất định không dám vào nữa, chờ mình đi là chúng nó châm lửa đốt nhà. . . . . . Mẹ kiếp, chuyện này nhất định là như thế."

Có lý, tôi gật đầu. Nếu là như thế, thì có lẽ bọn họ tình cờ phát hiện ra chúng tôi, trong lúc cấp bách tạm thời dụ ba đứa ra ngoài, chứ giả như họ biết trước kế hoạch của chúng tôi thì đã ra tay từ đời nào rồi. Kẻ phóng hỏa rất có thể là mấy thôn dân đứng trên sườn núi nhìn chúng tôi. . . . . . . Bọn họ là ai? Tôi chưa từng gặp họ, họ cũng chưa chắc đã biết tôi.

"Chúng nó chắc chắn không biết mình đang tìm cái gì, nếu biết mình tìm ảnh thì chỉ cần đốt ảnh đi là xong, không cần phải đốt cả gian nhà." Bàn Tử nói. "Nhưng những tên này cũng dốt, để lộ mặt rồi, tôi không tin tụi mình không tìm ra được. Cậu còn nhớ mặt mũi chúng nó không?"

Tôi cũng có chút ấn tượng mơ hồ, nhưng khoảng cách quá xa nên ấn tượng không sâu lắm, muốn nhận dạng thì hơi khó, không khỏi thở dài.

Nếu Muộn Du Bình không đột ngột nhớ ra cái rương kia, thì cũng sẽ không xảy ra chuyện này. Nhưng nếu hắn quên cái rương thật thì không khéo giờ này nó cũng bị chôn vùi dưới đống phế tích cháy rụi kia rồi. Nghĩ đến đây, tôi cũng hơi nhẹ lòng. Trời không tuyệt đường người, hơn nữa gian nhà kia bị đốt cũng cho tôi biết một điều: trong thôn này nhất định có người biết chuyện gì đó, mà không phải là chuyện bình thường, dù sao đi chăng nữa đây cũng coi như một manh mối.

Nhưng không biết đám người này còn có hành động gì nữa không, có thể gây chuyện bất trắc với chúng tôi hay không. Bàn Tử nói hẳn là không đến mức lấy mạng, bằng không thì chẳng cần đốt nhà làm gì, cứ giết phứt chúng ta là xong. Nhưng chúng ta vẫn phải cẩn thận, sau này tất phải để ý nhiều hơn nữa.

Bàn Tử hơi bất an, liền vào sân nhà A Quý cầm về mấy lưỡi liềm nhét dưới gầm giường phòng thân, còn mua mấy cái lục lạc bò treo lên cửa sổ, khẽ động là reo.

Lúc này tôi rất bực bội, cứ cảm thấy lòng dạ không yên. Tôi có một dự cảm---- việc A Quý giúp chúng tôi đi tìm ông lão dẫn đường năm xưa cũng sẽ gặp sự cố. Có người không muốn chúng tôi tiếp tục điều tra thêm nữa.

-------------

(1) Nguyên văn: 消防栓, có thể hiểu là một cái vòi nước được lắp đặt ở nơi công cộng chuyên cung cấp nước cho công tác cứu hỏa (xe cứu hỏa đến chỉ việc bắt vòi vào và hút nước ra), trông như thế này:

Chương 4: Biến c

Đám cháy rừng cuối cùng cũng tắt, nghe A Quý nói thì hình như là do thời tiết nóng bức, còn cụ thể vì sao lại cháy thì không rõ. Dù sao vùng này cứ đến hè là kiểu gì cũng cháy rừng, có điều đây là lần đầu tiên cháy gần thôn đến thế, cũng may nó chỉ thiêu rụi một căn nhà hoang, không gây tổn thất quá lớn.

Trong lòng tôi âm thầm chửi rủa, nhưng tôi thì tổn thất to đấy, thế là tiêu tùng hết manh mối mà gã họ Sở cho chúng tôi rồi. Giờ chỉ còn một đường duy nhất là sau khi đi khỏi đây phải nghĩ cách cạy miệng gã, đây nhất định không phải chuyện chơi, vả lại tôi cũng rất khó chấp nhận dùng đến thủ đoạn uy hiếp. Nhưng chưa đến nỗi tuyệt vọng hoàn toàn, nên tôi cũng chẳng phiền muộn cho lắm --- chỉ cần gã họ Sở không bị thiêu cháy là được rồi.

Tôi bảo Bàn Tử, xem ra chúng ta không nên ở lại đây lâu, tìm được người dẫn đường rồi, nếu không có lý do đặc biệt thì chúng ta có thể phải quay về Trường Sa, vì ở lại đây cũng chẳng để làm gì nữa. Cái gọi là đổ đấu ở núi Dương Giác, có lẽ phải chờ hồi sau phân giải.

Bàn Tử cũng đành chịu, tuy có phần tiếc nuối, nhưng lần này chúng tôi chẳng mang công cụ gì đến đây cả, kể ra có muốn vào núi Dương Giác cũng quá viển vông. Hắn vẫn kiên trì muốn vào núi xem một lượt rồi mới về, nên cuối cùng chúng tôi quyết định sẽ bàn chuyện này sau.

Sau đó tôi cứ thấp thỏm không yên, cảm thấy chuyện đi tìm người dẫn đường nhất định cũng sẽ xảy ra sự cố, nghĩ tới tình huống xấu nhất, để đến lúc nó thật sự xảy ra tôi còn thoải mái được một chút.

Có chút ngoài dự liệu đó là, chuyện tìm người dẫn đường lại vô cùng thuận lợi. A Quý trở về, bảo chúng tôi là anh ta đã hẹn với lão thợ săn kia rồi, ngày mai lão ở nhà, chúng tôi có thể đến thăm. Người già thường trái tính trái nết, anh ta giới thiệu chúng tôi là người của chính phủ thì lão mới hăng hái hơn chút ít, đến lúc đó chúng tôi đừng để lòi đuôi là được.

Bàn Tử nhìn qua đủ biết không phải quan chức chính phủ gì rồi, nên tôi bảo hắn đừng đi. Hắn nói mình sẽ đến hiệu phân bón tìm cách kiếm một ít acid sulfuric về, xem có thể hòa tan cái "hồ lô sắt" kia ra được không, xem trong đó có cái quái gì. Rồi lại đi đào bới đống đổ nát sau đám cháy, không khéo lại bới được món gì hay.

Tôi cảm thấy phân chia công việc như thế cũng ổn, nhưng vẫn dặn đi dặn lại rằng kiếm được acid rồi tuyệt đối đừng manh động, phải chờ chúng tôi về đông đủ rồi tinh sau, chứ cái "hồ lô sắt" trông thế mà nguy hiểm đấy. Bàn Tử ậm ừ luôn mồm, bảo ơ hay tôi có phải trẻ ranh đâu.

Bàn bạc xong chúng tôi đi ngủ, cả đêm không trò chuyện, mỗi người ôm một tâm tư mà thiếp đi, đến rạng sáng ngày hôm sau thì chia nhau hành sự, tôi và Muộn Du Bình theo A Quý đi tìm lão thợ săn kia. Cứ tưởng mọi việc sẽ thuận buồm xuôi gió, ai ngờ chúng tôi đến nơi rồi lão già kia lại thả một con bồ câu nói đêm qua mình vào núi, đến giờ vẫn chưa về.

Thợ săn đã đi săn là sẽ chạy khắp nơi, không biết ở đâu mà lần. Tôi tự hỏi đây là chuyện quái quỷ gì vậy, sao đã hẹn trước mà còn đùng đùng bỏ vào núi, chẳng lẽ đã bị tôi đã nắm đúng thóp? Con trai lão cũng hơi ngại, thanh minh lão đã già nên hồ đồ, hai năm trước không dưng bắt đầu có biểu hiện bất thường, thỉnh thoảng lại vào trong núi, không biết là đi làm gì. Ai nói ông ấy cũng bỏ ngoài tai, nói đi là đi, hôm sau có việc quan trọng cũng mặc kệ. Anh xem súng săn của ông ấy vẫn treo trên tường, nhất định không phải đi săn thú, chờ một lát chắc sẽ về thôi.

Tôi thầm nghĩ thôi đành đợi chứ biết làm sao, mới ngồi xuống, chợt có một người bước vào cử, vừa vào đã cất tiếng: "Lão Bàn Mã có nhà không?"

Lão Bàn Mã chính là tên thường gọi của lão dẫn đường kia, xem ra không chỉ có chúng tôi tìm lão. Điều khiến tôi bất ngờ, chính là người này nói chuyện đặc sệt giọng Bắc Kinh.

Chúng tôi nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy một gã đàn ông trung niên lùn tịt bước vào, vừa nhìn mặt đã cảm thấy hơi khác thường. Người này dáng vẻ đường bệ mà cách ăn mặc cũng rất chỉnh tề, nước da rám nắng nhưng không có vẻ gì là người lao động chân tay.

Con trai lão Bàn Mã lập tức đứng dậy tiếp đón, A Quý liền bảo tôi: "Đây là cháu họ xa của lão Bàn Mã, nghe đồn là người giàu có."

Tôi nghe khẩu âm của gã là giọng Bắc Kinh gốc, thầm nghĩ họ hàng kiểu này chắc là bắn đại bác cũng không đến.

Gã trung niên kia hình như rất quen thuộc với nơi này, không hề do dự bước thẳng vào trong sân. Đưa cho con trai lão Bàn Mã một điếu thuốc, gã nhìn sang tôi, nét mặt tỏ vẻ nghi ngờ, ơ một tiếng: "Có khách à?"

Con lão Bàn Mã đáp bằng tiếng phổ thông nói bằng giọng địa phương nặng sệt: "Dạ, anh ấy cũng đến tìm cha em, hai vị này là người của chính phủ ----"

Gã trung niên kia hình như không có hứng với chuyện này, liền xen ngang: "Cha cậu đâu?"

Con trai lão Bàn Mã có vẻ lúng túng, kể lại một lần chuyện cha mình hành tung không rõ. Gã trung niên kia à một tiếng, gật đầu: "Ông cụ có ý gì vậy? Lại đi vắng nữa rồi, đến là bó tay, giờ anh biết ăn nói sao với ông chủ đây." Nói đoạn quay sang gườm gườm nhìn chúng tôi: "Hay cậu chê ít tiền, đi tìm mối khác định lừa anh."

Con trai lão Bàn Mã vội chối không phải không phải, nói chúng tôi đúng là người của chính phủ đến tìm lão Bàn Mã.

Gã trung niên lại liếc chúng tôi một cái, bán tín bán nghi, đến trước mặt chúng tôi hỏi: "Các cậu ở cơ quan nào? Người trong trấn này tôi biết hết, sao chưa thấy các cậu bao giờ?"

Câu hỏi này có hơi sỗ sàng, tôi ngẩng đầu nhìn gã, cũng không tiện nổi giận, đáp: "Chúng tôi là người trên tỉnh đến tìm ông ấy phỏng vấn."
"Trên tỉnh?" Gã nghi ngờ nhìn chúng tôi, nhưng thấy hai đứa cũng giống người trong cơ quan nhà nước, liền lẩm bẩm gì đó rồi quay sang nói với con trai lão Bàn Mã: "Được, vậy cậu khuyên cha cậu thêm đi. Con người ta sinh ra với hai bàn tay trắng, chết đi cũng chẳng mang gì theo được, ông chủ tôi ra giá hời, cứ giữ riệt lấy cái món đồ chơi kia mà làm gì chứ. Đừng cố chấp nữa, bán đi nhất định là có lợi, bảo ông cụ cầm lấy ít tiền mà hưởng nốt mấy năm an nhàn."

Con trai lão Bàn Mã gật đầu lia lịa.

Gã trung niên lại nói: "Thôi cậu đang có khách, anh cũng không tiện ở lại, xin phép về trước." Nói rồi lại mỉm cười, "Xong việc này tôi sẽ đưa mọi người đi ngắm cảnh, buổi tối nhớ tìm tôi uống rượu ăn chút điểm tâm. Giờ tôi đi trước, đợi lát nữa quay lại."

Nói rồi hùng hổ bước ra khỏi sân, cũng không quay đầu lại. Tôi chả hiểu gì sất, liền hỏi con trai lão Bàn Mã xem người kia là ai? Muốn gì?

Con trai lão Bàn Mã thấy gã đã đi xa mới thở phào, than vãn rằng người kia có họ hàng xa với nhà mình, là cháu của lão Bàn Mã, cũng là anh em họ của anh ta. Gã là một tên côn đồ lưu manh, ở Bắc Kinh không được như ý, hai bên từ lâu đã không qua lại, chẳng biết dạo gần đây theo ông chủ nào chạy lên Quảng Tây thu mua đồ cổ, khắp nơi mời gã làm mối. Người này xưa nay vốn sành sỏi, lại cực kỳ xảo trá, nên không dám đắc tội.

Tôi hỏi: "Nghe cái điệu này thì gã đã ưng ý món đồ nào đó của nhà anh và muốn thu mua, chẳng lẽ nhà anh còn có bảo bối gia truyền gì?"

Chương 5: Soát núi

Anh con trai của lão than thở với tôi: "Cứ nhắc đến chuyện này là tôi lại bực mình, ông cụ nhà tôi có một cục sắt vụn, xưa nay vẫn luôn cất giấu như bảo bối, bảo là trước kia nhặt được trên núi, là đồ quý giá, còn bảo tôi đi khắp huyện tìm người hỏi xem có bán được không. Tôi cũng coi như ông cụ lẩm cẩm thôi, chẳng hiểu sao việc này lại đến tai gã họ hàng xa kia. Quả nhiên gã đã tìm được người mua, ra giá rất hời, ngờ đâu kết quả đúng là điên rồ, ông cụ lại cương quyết không bán. Còn thằng cha kia cũng nhất định không đi, cứ ở riết trong khe núi ngày ngày đến năn nỉ ỉ ôi, thật là phiền muốn chết luôn."

Tôi nhìn sang Muộn Du Bình, trong lòng kích động, xem ra lão già kia lỡ hẹn không phải do chúng tôi, mà vì muốn tránh mặt thằng cháu họ xa nhà mình. Cục sắt? Chẳng lẽ trong tay lão già kia cũng có cái thứ mà chúng tôi tìm được dưới gầm giường Muộn Du Bình?

A Quý bên cạnh hút thuốc cười nói: "Sao chú không chôm nó ra từ chỗ ông cụ, đem bán lấy tiền không hơn à, chần chừ thêm ít lâu chính phủ đến tịch thu thì đến một xu cũng chẳng được."

Anh con trai đáp: "Không phải tôi không muốn, nhưng ông cụ đúng là khôn ngoan, có lần tôi bảo muốn vứt cái của nợ kia đi cho ổng đừng làm mấy chuyện điên rồ nữa, ổng mới giấu nó vào xó nào đấy mà tôi không tìm nổi. Ài, ngẫm lại thật muốn tát cho mình một cái, không ngờ cục sắt vụn kia đúng là đồ quý, nếu phi vụ mua bán này mà thành thì đúng là trứng vàng từ trên trời rơi xuống, tôi cũng chẳng cần lo lắng chuyện học hành của con tôi nữa."

Tôi nghe vậy mà ngấm ngầm cảm thán, thoạt nhìn anh con trai này có vẻ kỳ cục, chán ngán ông bố nhà mình, nhưng xem kỹ thì nhà này cũng có cái khó, mấy cái chuyện riêng trong gia đình này chúng tôi cũng không chen mồm vào được.

Đúng lúc này, Muộn Du Bình đột ngột hỏi: "Có phải cha anh giấu thứ đó đi vào hai năm trước?"

Con trai lão ngẫm nghĩ rồi gật đầu: "Ơ, làm sao anh biết?"

Tôi lập tức hiểu ra ẩn ý của Muộn Du Bình, bèn tiếp lời: "Chắc chắn cha anh đem giấu cái đó trên núi, trong lòng ông cụ lo lắng không yên nên cứ cách dăm ba ngày lại đi kiểm tra, đây là nguyên nhân cha anh trở nên khác thường."

Anh ta nghe vậy, thở dài công nhận là có lý. A Quý liền nói: "Xem ra ông cụ nhà chú rất để tâm đến chuyện này, anh thấy chú vẫn nên khuyên nhủ thêm thì hơn. Chứ chú mà dám chôm đồ, ông cụ lại chẳng vác súng ra bắn cho vỡ sọ."

Anh con trai đáp: "Dạ, ông cụ nhà em tính tình nóng nảy, em cũng lười cự cãi với ổng, không khuyên được thì thôi. Cơ mà gã họ hàng xa kia cứ dai như đỉa, em sợ với tính thằng cha đó thì nhà em về sau khó mà sống yên."

Chúng tôi cứ thế ngồi chuyện phiếm chờ lão Bàn Mã trở về, anh con trai kể cho chúng tôi nghe rất nhiều chuyện, cũng đủ cho chúng tôi hiểu sơ sơ về lão.

Bàn Mã là dân bản xứ, gia đình đã sống ở đây được mấy đời rồi, là một trong những thợ săn già còn đủ sức trụ lại nghề của vùng này. Thế hệ sau của bọn họ bị Hán hóa nghiêm trọng, những lúc nông nhàn mới đi săn, còn đa số thời gian ra ngoài làm thuê, cả con gái cũng ra ngoài làm ăn cả, cho nên ở đây cũng dần dần vắng vẻ. Từ sau khi vùng này phát triển du lịch, tình hình mới khởi sắc.

Lại nói tiếp, ở vùng này lão Bàn Mã cũng có thể coi là người nổi tiếng, tài bắn súng trăm phát trăm trúng (*), hơn nữa thân thủ linh hoạt, đặc biệt giỏi trèo cây, trước kia mỗi dịp lễ tết đến Bàn Mã đều được người ta thăm hỏi tới tấp. Sau này kinh tế phát triển, lão cũng già đi, dần dần không còn được coi trọng nữa, nên sinh ra tâm lý hận đời, tính tình trở nên cực kỳ cố chấp, thường bất hòa với các con.

(*) Nguyên văn là "bách bộ xuyên dương" aka bắn trúng cái lá dương từ khoảng cách 100 bước chân.

Mấy ông già kiểu này cứ như đúc từ một khuôn, tôi còn biết rất nhiều người như thế. Hàng xóm cũ của tôi là một lão Hồng quân, cũng thường xuyên than thở lũ trẻ bây giờ chán quá, không thèm giao du với đám nít ranh không hiểu sự đời chúng tôi, đây là kiểu người điển hình không thể vượt qua cái bóng của bản thân. Ngẫm lại thì mình cũng thế, hình như bản lĩnh siêu phàm nhất của con người ta chính là tự dằn vặt mình.

Chúng tôi ngồi lì ở nhà lão đợi đến chiều vẫn chưa thấy lão về, dù che đậy giỏi đến đâu tôi vẫn không thể đè nén cảm giác lo âu của mình, phần vì sợ nảy sinh thêm phiền phức, phần vì đã chờ lâu lắm rồi.

Anh con trai lão tỏ ra rất ngại, bảo chúng tôi để mình đi tìm xem sao, không ngờ cũng đi tít hút luôn, bỏ chúng tôi chờ đến chập tối, thật sự là chờ hết nổi.

A Qúy cảm thấy rất mất mặt, luôn mồm chửi rủa cha con nhà này rõ là kỳ cục. Nhưng ra đến cửa, vừa hay chúng tôi bắt gặp anh con trai đang gấp gáp đi ngang qua, theo sau là một nhóm người, không chào hỏi gì chúng tôi mà đi thẳng lên núi.

Tôi thấy sắc mặt anh ta không tốt, A Quý bực bội túm lấy một người hỏi có chuyện gì thế, người nọ mới đáp: "Con trai nhà A Lại tìm thấy quần áo bê bết máu của lão Bàn Mã trên núi, có thể lão đã gặp nạn, chúng tôi đang tìm người đi lục soát vùng núi đó."

"Tìm thấy ở đâu? "A Quý vội hỏi.

"Ở Rạch Đầu Trâu, con trai nhà A Lại săn thú về, đi ngang qua thì gặp."

"Ở tít đằng đó?" A Quý tỏ ra rất kinh ngạc.

Tôi không hề có ấn tượng về phương hướng địa danh vùng này, bèn hỏi: "Đấy là đâu?"

"Đấy là cái khe nằm giữa núi Chu Độ và núi Dương Giác, phải đi cả ngày mới đến." A Quý bảo chúng tôi: "Hai cậu về trước đi, tôi phải đến nơi xem thế nào." nói rồi đi theo họ.

Tôi và Muộn Du Bình nhìn nhau một cái, cảm giác trong lòng thật khó mà diễn tả. Thầm nghĩ thôi mình lại đoán trúng thật rồi, chuyện lần này cũng gặp rắc rối.

Sắc mặt Muộn Du Bình hoàn toàn phẳng lặng, không một gợn sóng, nhưng chân đã bước theo nhóm người kia. Tôi vội vã đuổi theo, thầm nghĩ việc này thật quái gở, chúng tôi nhất định phải làm cho ra nhẽ mới được.

Chương 6: Rạch Đầu Trâu

Chúng tôi muốn đi giúp họ soát núi, ban đầu A Quý còn không chịu, hai đứa phải năn nỉ hết nước hết cái mới được đi theo. A Quý bảo con gái nhỏ của mình là Vân Thái đi cùng chúng tôi, căn dặn không được tách đoàn, người trong thôn gom lại được chừng hai mươi, giơ cao đuốc và đèn pin, dắt theo chó săn hướng về rạch Đầu Trâu.

Đường núi bốn bề tối tăm lạnh lẽo, chúng tôi vừa gọi vừa đưa quần áo cho chó săn ngửi mùi.

Lâm trường này đã bị chặt một lần, con đường phía trước cũng không quá khó đi, khổ nỗi vùng này mưa nhiều, nước đọng lại thành vũng trên núi, trong đó nhung nhúc những đỉa rừng. Đến khu rừng bảo tồn đường mới bắt đầu khó đi, được cái những người miền núi này đều là thợ săn, kinh nghiệm đầy mình, đi cũng không vất vả cho lắm. Mà đối với chúng tôi, so với lối dẫn ra khỏi Tháp Mộc Thác thì đi con đường này khác gì tản bộ. Đoàn người cứ thế tiến sâu vào ngọn núi lớn.

Tôi vừa đi vừa hỏi Vân Thái, rạch Đầu Trâu là nơi thế nào, có nguy hiểm gì không?

Vân Thái ngoảnh đầu lại đáp: "Đó là ranh giới giữa mặt sau khu rừng bảo tồn và rừng phòng hộ của thôn chúng tôi, núi Dương Giác nằm trong khu rừng bảo tồn còn núi Chu Độ nằm trong rừng phòng hộ, giữa hai ngọn núi là rạch Đầu Trâu, sau lưng núi Dương Giác chính là rừng già sâu thẳm. Người ở lâm trường căng một tấm bảng chỗ sơn khẩu, trên bảng viết chúng tôi không được đi vào, cho nên ngoại trừ những thợ săn già thời trước, đám chúng tôi thường không đặt chân đến núi Dương Giác, càng chưa nghe nói có ai đã từng tiến vào cánh rừng sau núi."

A Quý đi sau tôi nói: "Trong thôn này, người thông thạo núi Dương Giác nhất e rằng chỉ có lão Bàn Mã. Cánh rừng sau núi nghe đâu trước kia chỉ có dân buôn lậu người Việt cổ mới dám đặt chân vào, thời xưa dân buôn ngọc người Việt trốn thuế thường đi xuyên rừng ròng rã cả tháng để bán ngọc thạch, không biết đã có bao nhiêu người đi qua vùng rừng sâu núi thẳm này rồi."

Buôn bán ngọc thạch là cái ngành thương mại hái ra tiền nhất, khắc nghiệt nhất, mà cũng thần bí nhất ở biên giới Trung Việt thời xưa. Tôi đã từng nghe kể về cuộc cạnh tranh vô cùng khốc liệt trong giới buôn ngọc Việt Nam và Myanmar, sau một đêm trở nên giàu sụ hoặc trắng tay đều là chuyện thường. Trước những món lợi khổng lồ lấy một đổi vạn, nhân tính hoàn toàn không có đất dung thân.

A Quý bảo nơi này còn cách khá xa địa điểm giao dịch ngọc thạch lý tưởng nhất. Dân buôn ngọc từ Ba Nãi đến Quảng Tây đều có mối làm ăn với một vài ông chủ bên Quảng Đông, đều là người nghèo khổ nên cũng đặc biệt hung ác. Nhất là vào thời nhà Thanh, khi đó người Việt Nam một nửa là dân buôn một nửa là thổ phỉ, đến đây theo tốp, trở thành một mối nguy của vùng này.

Tôi thầm nghĩ, nếu tìm được di hài của dân buôn ngọc Việt Nam trong cánh rừng này, thì không chừng cũng sẽ tìm được ngọc thạch nguyên khối mà họ mang đến. Dạo gần đây những khối ngọc thạch lấy từ mạch ngọc tốt cực kỳ hiếm hoi, giá ngọc thạch bị hét lên cao chót vót. Vả lại chất lượng đá hồi đó tốt hơn bây giờ nhiều, tìm được vài khối ngọc tốt còn đáng giá hơn bất cứ món minh khí nào. Nhưng nghĩ lại thì dân buôn ngọc Việt Nam thời đó coi ngọc thạch còn quý hơn mạng mình, giờ cứ thế lấy đi là rất bất nghĩa, cái này không giống với trộm mộ, e rằng sẽ gây ra chuyện chẳng lành.

Đi một mạch đến nửa đêm, chúng tôi mới tiến vào trong rạch. Người phát hiện ra bộ quần áo nhuốm máu chỉ vào một gốc cây, nói bộ đồ này tìm thấy trên kia. Hắn nói mình thấy có máu dính vào thân cây, ngẩng đầu lên mới phát hiện ra nó, mới đầu còn tưởng có con cú bị mèo hoang cắn chết, sau mới nhận ra là quần áo của người.

Chiếu đèn pin lên cây, loại đèn pin vỏ đồng này chiếu sáng rất kém, nhưng cũng đủ để xác định bên trên không còn gì khác nữa. Hiển nhiên lão Bản Mã đã trèo lên cây rồi để bộ quần áo dính máu đó lại.

Lão già ấy đã gần tám mươi, dù trước kia là cao thủ trèo cây, nhưng theo lý mà nói cũng không thể vô duyên vô cớ leo lên đó, hiển nhiên là gặp chuyện gì nguy hiểm. Tôi hỏi Vân Thái nơi này có thú dữ không, Vân Thái đáp hồi xưa nghe nói có hổ, chứ bây giờ trong núi chỉ còn báo.

Tôi nghe vậy liền nghĩ thời nay đào đâu ra hổ nữa, nhưng báo lại leo cây rất giỏi, lỡ gặp báo thì phiền phức to. Vả lại báo có tập tính tha thức ăn lên cây giấu, không khéo lão già gặp nạn rồi cũng nên.

A Quý lại nói báo sống sâu trong núi, rừng chỗ này chưa đủ sâu, rất khó gặp báo. Nhưng lão Bàn Mã không mang súng, chẳng biết đi vào tít vào trong đây làm gì nữa.

Tôi nhớ lại chuyện tiểu binh giấu những khẩu súng thu được trong tổ chim, thầm nghĩ lẽ nào lão Bàn Mã cũng học theo cái chiêu này. Nhưng trên cây làm gì có tổ chim cơ chứ?

Chúng tôi lùng sục quanh gốc cây một lúc mà không tìm thấy gì ngoài vài vết máu, nhưng rải rác khắp mọi hướng. Lúc này mấy con chó dắt theo đã có chỗ dùng, mấy tay thợ săn đều mang súng, nạp đạn đầy đủ rồi chia nhau ra mà tìm.

Rạch Đầu Trâu vừa sâu vừa dài, chưa có ai đi đến tận cùng, đoạn giữa rạch chính là sơn khẩu của núi Dương Giác và Chu Độ. Nơi đây mang dáng dấp của một cánh rừng rậm nhiệt đới, cho cảm giác giống như hồi ở Tháp Mộc Thác. Tôi không hề cảm thấy dễ chịu, lúc nào cũng nghe mang máng như có tiếng cười khanh khách, sau đó rớt mồ hôi lạnh. Nhưng cũng chẳng còn cách nào khác, tự mình muốn đến đây mà, đành phải miễn cưỡng đi theo nhóm A Quý cùng với ba con chó, hướng về núi Dương Giác.

Chó miền núi rất khỏe, con nào đứng thẳng lên cũng cao hơn đầu tôi. Tuy chúng là chó lai tạp nhưng đều được huấn luyện thành thục, nhanh chóng đánh hơi được mùi, dẫn chúng tôi đi một mạch vào sâu trong khe núi.

Dọc đường đi không ai nói câu nào, đi đến quá nửa đêm trăng đã treo đỉnh đầu, chúng tôi mới dừng lại ở một nơi gần sơn khẩu núi Dương Giác. Đó là một con dốc nằm trên sườn núi, do đất đá thường xuyên sạt lở nên cây cối trên sườn dốc này khá thưa thớt. Hình như chó đã tìm được mục tiêu, nó kéo chúng tôi đến dưới một tán cây, sủa oang oang vào một bụi rậm đằng sau đó.

Vân Thái hơi hoảng, tim tôi cũng treo lơ lửng trên không. Nếu ông lão bị con báo tấn công, thì thứ ẩn trong bụi cỏ kia hẳn là thê thảm đến không nỡ nhìn.

A Quý tiến lên, cầm nhánh cây vén bụi cỏ ra, chiếu đèn pin vào, không thấy có thi thể bên trong. Chúng tôi qua đó, phát hiện ra đó là mảnh vỡ của một tấm bia đá có niên đại rất lâu đời, hẳn là từ đầu công nguyên, in rõ dấu vết gió mưa, hoa văn trên bề mặt đã bị mài mòn sạch sẽ.

Đám người A Quý nhổ hết đám cỏ cao đến thắt lưng xung quanh mà tìm kiếm, bỗng một người thợ săn "a" lên một tiếng, lùi lại mấy bước. Chúng tôi vội vã qua xem, chỉ thấy sườn dốc phía sau bụi cỏ có một hố bùn nhão, chắc là do bùn đất bị nước mưa cuốn trôi đến đây. Vừa nhìn vào trong hố, tôi và Muộn Du Bình liếc nhau, tim nảy lên một nhịp. Trong lòng hố có thể thấy loáng thoáng vài khúc gỗ mục ngâm bùn, nhìn hình dáng này tôi dám chắc đó là một cỗ quan tài đã nát vụn. Nơi này có một ngôi mộ cổ đơn sơ bị đào ra sao?

Chương 7: M c

Ánh trăng ảm đạm chiếu lên sườn núi, bốn bề tăm tối mịt mùng, chỉ nghe vô vàn âm thanh kỳ lạ phát ra từ cánh rừng rậm sâu thẳm dưới khe núi. Cái hố này dọa cho đám A Quý ngớ người, bọn họ coi đây là điềm gở, quay ra liếc nhìn nhau. A Quý không hiểu gì cả, lẩm bẩm: "Đêm hôm khuya khoắt nhìn thấy quan tài, về nhà phải rửa mắt mới được."

Một người khác nằm bò ra nhìn xuống dưới đó, hỏi: "Mộ ai thế nhỉ, sao lại đào trong cái chốn rừng sâu núi thẳm này?"

Không ai đáp lời, Vân Thái hoảng sợ trốn ra sau lưng Muộn Du Bình.

Tôi dám chắc đây là một ngôi mộ hoang, không phải mộ nhà giàu, niên đại chắc là từ thời Minh Thanh, vì với dạng quan tài thô sơ thế này, nằm trong khu vực mưa dầm quanh năm mà có thể lưu giữ được đến bây giờ thì niên đại không thể quá sớm. Bùn đất trong quan tài cũng có cỏ mọc, vậy là nó đã bị mưa xối trơ ra đó ít nhất một năm trời, thi cốt bên trong nhất định đã bị hủy hoại.

Cái hố không lớn, chúng tôi chiếu đèn pin vào nhưng không tìm thấy tung tích của lão Bàn Mã. Người chắc chắn không thể ở trong hố, nhưng tôi cảm thấy đây có thể chính là nơi Bàn Mã giấu đồ, bởi vì nó đúng là rất thích hợp. Cục sắt mà con trai lão Bàn Mã nói có thể được giấu ngay bên dưới.

Lũ chó vẫn đang sủa ầm ĩ, nghe mà phát bực. A Quý kéo chúng ra xa, thả cho chúng lang thang khắp nơi, kế đó nhặt cành cây chọc xuống hố dò dẫm.

Họ cũng không dám leo xuống, trong hố có quan tài, người thường đều kiêng kỵ, nhưng phản ứng của lũ chó cho chúng tôi biết trong hố chắc chắn có vật gì, tìm kiểu này có khướt mới thấy.

Tôi ngắm nghía thế núi ở đây, tuy chỉ là kẻ gà mờ về phong thủy nhưng tôi vẫn có thể nhận ra chỗ này tuyệt đối không hợp để chôn cất. Đây là sơn khẩu, nước từ trên núi dồn cả về đây, chôn người chết vài hôm là thối, mộ này ắt hẳn không phải ngôi mộ lớn trong núi Dương Giác mà Bàn Tử phỏng đoán, có thể chỉ là mộ cổ núi hoang bình thường, hẳn không có gì nguy hiểm. Tôi liền bảo A Quý đừng chọc nữa, để mình xuống đó lục lọi với Muộn Du Bình.

Tôi trộm mộ đã thành quen, mở một cái quan tài thì có là gì, huống chi Muộn Du Bình còn ở bên cạnh, cho nên cũng không hề lúng túng. A Quý lại kinh ngạc vô cùng, thắc mắc cớ sao người thành phố như tôi lại to gan đến vậy, còn Vân Thái thì tròn mắt nhìn tôi đầy chờ mong, dường như còn chưa kịp phản ứng.

Hai người một trước một sau nhảy xuống hố, do cái hố nằm trên sườn dốc nên có bên thấp bên cao, có thể thấy rõ vách đá dựng đứng hình thành từ triền núi sạt lở, một nửa quan tài còn kẹt trong đó, phần đầu không nhỏ, qua lớp còn sơn sót lại trên bề mặt, có thể thấy đây là một cỗ một quan tài cũ bằng gỗ sơn đen. Bùn lỏng tràn vào mộ đến nửa thước, nếu không phải do đất nơi này dễ lún thì là do cỗ quan tài quá nặng.

Tuy cách chôn cất khá thô sơ, nhưng người dân bình thường cũng không thể làm được. Quan tài trông na ná mấy cái được bày bán ven đường, có lẽ là của địa chủ thời trước. Quan tài đã cũ nát tả tơi, bên trong rặt bùn loãng.

Chẳng biết có phải bị lây từ Bàn Tử hay không mà nhìn thấy quan tài tim tôi cũng bắt đầu đập rộn, nhưng lúc này tôi phải giả vờ lơ ngơ một tí, bằng không rất dễ bị hội A Quý hoài nghi.

Muộn Du Bình nhận lấy cây đèn pin, vén đám cỏ dại, nhìn khắp một vòng, chúng tôi đã thấy có vết máu ở một góc khuất trên quan tài. Muộn Du Bình nhờ tôi soi đèn giúp, còn hắn đưa tay ra ước lượng, dấu tay trên quan tài hẳn là in lên khi người kia cúi xuống lấy thăng bằng. Bên dưới chính là khe hở của quan tài, Muộn Du Bình ngồi xổm xuống, không hề nghĩ ngợi đã thò tay vào trong đó, bắt đầu đào bới trong lớp bùn.

Nghe tiếng khuấy nước bùn, tôi hơi rợn tóc gáy. Hắn chỉ mò mẫm vài vòng rồi rút tay ra, cầm theo một vật dính đầy bùn. Muộn Du Bình vẩy vẩy bùn bám bên trên, thì ra đó là một cái bịch nilon dính máu, nhưng hắn rũ rũ vài cái, chúng tôi mới phát hiện trong bịch trống không.

"Quái nhỉ?" Tôi lấy làm lạ hỏi. "Đồ bên trong đâu mất rồi?"

"Vết máu còn mới, ông ta đã tới đây mang đồ đi trong vòng vài tiếng," Muộn Du Bình nhìn quanh bốn phía, bình thản nói tiếp: "Chắc chắn ông ta chỉ quanh quẩn đâu đây thôi."

"Ông ta đến lấy đồ sau khi đã bị thương?" Vậy là lão đã bị thương từ trước khi đến đây. Tôi thở phào, từ chỗ bị thương đến nơi này cũng khá xa, đã lết được đến tận đây chứng tỏ vết thương cũng không nặng lắm.

Muộn Du Bình lại mò thêm lần nữa nhưng không tìm được gì, sau đó chúng tôi trèo lên, tôi kể sơ qua tình hình cho A Quý biết.

Khả năng Bàn Mã gặp báo không cao lắm, một tay thợ săn không mang theo súng, dù dũng mãnh và và lão luyện đến đâu, cũng tuyệt đối không thể tránh thoát đòn tấn công của một con báo. Mà khó hiểu hơn là sau khi bị thương vì sao lão còn muốn đến đây, đáng ra lão nên quay về thôn ngay lập tức mới đúng. Lão chảy một đống máu còn đến đây mang cục sắt kia đi làm gì mới được chứ, lẽ nào lão cảm thấy để nó ở đây sẽ gặp nguy hiểm?

Chúng tôi gọi lũ chó về, lấy ngôi mộ cổ làm mốc, chia ra mấy nhóm tìm kiếm xung quanh. Hai người chúng tôi đi theo cha con A Quý, tôi bèn hỏi Vân Thái, trong rừng ngoài báo ra thì còn con gì có thể tấn công người?

Vân Thái nói trước kia nhiều lắm, chứ bây giờ đều bị thịt hết rồi. Hồi trước đến cả con trăn cũng hay gặp, nhưng lâu lắm rồi không thấy nữa, có thể tấn công người chắc chỉ còn lợn rừng thôi.

Tôi thầm nghĩ cũng có thể, nhưng vẫn không tài nào giải thích được nguyên nhân lão Bàn Mã đến đây mang đồ đi. Lúc này trong lòng tôi mơ hồ có linh cảm, phải chăng mối nguy hiểm mà lão Bàn Mã gặp không phải động vật, phải chăng mấy kẻ đốt nhà bí ẩn đã úp sọt lão?

Đang suy nghĩ, chợt nghe xa xa từ một hướng khác có tiếng chó sủa dồn dập. Thế rồi, một tiếng súng nổ cắt ngang khe núi tĩnh mịch, dọa lũ chim bay nháo nhác.

Chương 8: Ông lão

Tiếng la hét hoảng loạn nghe như tiếng kêu của lệ quỷ, chúng tôi lập tức nhìn về hướng ấy, chỉ nghe được bên kia đang nháo nhào hết cả lên mà không biết đã xảy ra chuyện gì. Chúng tôi đờ ra mất một lúc, rồi lập tức vơ vét đồ nghề chạy về nơi phát ra tiếng hét.

Do cách nhau không quá xa, chẳng mấy chốc đã đến chỗ họ, nhưng chỉ thấy mấy con chó đang sủa nhặng xị, dưới bóng cây rậm rạp tôi cũng không nhìn ra vì sao bọn họ lại la ầm lên như thế. A Quý quát lên: "Có chuyện gì vậy?"

"Coi chừng! Trong bụi cỏ có vật gì đó!" Những người phía trước kêu lên. Lời vừa dứt, cánh rừng bên cạnh chợt có động, hình như có con gì đó băng ngang bụi cây trong chớp nhoáng, gây ra tiếng động cực lớn, có lẽ là một động vật cỡ đại.

A Quý giương cao cây súng của mình, nã một phát, không biết đã bắn trúng nơi nào, tiếng súng nổ đùng đoàng như tiếng sấm dọa đàn chim phía xa giật mình nháo nhác bay đi, còn cái thứ gây ra tiếng động kia cũng lao đi băng băng rồi biến mất trong màn đêm.

Chúng tôi nhào đến trước mặt bọn họ, những người trên núi cũng lao tới, rọi đèn pin khắp cánh rừng mà chỉ thấy mấy lùm cây đang rung rinh. A Quý lập tức thét to: "Thả chó ra!"

Mấy người thợ săn huýt sáo, đám chó săn lập tức lao ra ngoài, khí thế hoàn toàn khác với đám chó cảnh trong thành phố, nhoáng cái mặt trước đã trở nên hỗn loạn, bên tai là tiếng bụi cây va quệt và tiếng chó sủa liên miên không dứt. Đám A Quý lập tức bám đuôi, mấy người này đều có kinh nghiệm săn thú, hô to mấy tiếng bằng giọng địa phương rồi chia nhau ra, chạy theo đàn chó vào rừng.

Chúng tôi muốn đi cùng, nhưng A Quý đã quay lại la to vài tiếng với Vân Thái, cô bé liền ngăn cản chúng tôi, bảo đừng đi theo, bọn họ không rảnh mà để mắt đến chúng tôi. Trong bóng đêm mịt mùng, thợ săn không thể tùy tiện nổ súng, dã thú kia bị dồn ép quá có thể sẽ nổi điên mà tấn công người. Dã thú, đặc biệt là loại mãnh thú cực kỳ hung hữ như báo, chỉ cào một phát cũng đủ gây trọng thương, cho nên phải hết sức cẩn thận. Chúng tôi không có kinh nghiệm nên rất dễ gặp nạn, hơn nữa tôi không biết vây săn là gì, đi giúp họ chỉ tổ vướng víu tay chân.

Tôi đương nhiên không chịu, thầm nghĩ luận về thân thủ, Muộn Du Bình mà làm vướng víu tay chân mấy người sao? Nhưng đuổi theo được vài bước, lại phát hiện cái vướng víu mà cô nói lại là chuyện khác.

Chó săn đã được huấn luyện thuần thục, ba con tách khỏi đội hình lao đến trước mặt con thú kia; con thú kia bị vây kín, lập tức quay sang hướng khác mà chạy. Phía sau là mấy tay thợ săn quây kín, chó và người một trước một sau, vừa vặn hình thành một vòng vây. Mỗi người trong vòng vây này đều cần phải có kinh nghiệm, bằng không con mồi sẽ tìm được điểm yếu mà phá vòng vây chạy mất.

Đám A Quý không ngừng la hét, đánh lạc hướng con mồi, khiến nó luẩn quẩn trong vòng vây không biết nên trốn chạy theo phương nào. Đồng thời nhóm thợ săn đều đồng loạt giương súng, không ngừng siết chặt vòng vây, đây chính là cách săn lợn rừng. Tôi đã từng thấy cảnh tượng như thế này ở quê, săn động vật lớn đều dùng cách thức này.

Đã lâu không được tận mắt chứng kiến một màn săn thú, tôi chỉ biết nín thở mà nhìn. Đám A Quý càng siết càng gần, chẳng mấy chốc con mồi kia đã vừa vặn rơi vào tầm bắn của súng săn, chỉ có điều con mồi không ngừng di chuyển, ánh đèn pin không thể tập trung vào nó được. Chó săn ở đây đều vào cỡ trung bình, cùng lắm cũng chỉ săn được mấy con vật nhỏ như gà rừng hay thỏ hoang, nên chúng không dám tùy tiện xông lên. Nếu là giống chó săn sói cỡ lớn ở phương bắc, với hình thức lấy một chọi ba, thì đã sớm xông lên đánh sáp lá cà rồi.

Dằng dai cả buổi, đám A Quý vẫn chưa nổ súng. Những con mồi bình thường vào lúc này đều phạm sai lầm, đều đột ngột lao về một phương hướng nào đó, thoáng chốc là tới gần thợ săn đã chuẩn bị sẵn sàng. Thợ săn nổ súng ở cự ly gần là chắc chắn trúng, tiếp đó chó săn sẽ đuổi theo, con vật cơ bản là không trốn chạy nổi nữa. Nhưng con vật này không những không muốn phá vây ngay, mà trái lại còn dần dần trở nên bình tĩnh, mấy lần ẩn nấp vào bụi cỏ mà không thể biết được vị trí chính xác, cứ thế trái lại khiến đám A Quý không dám tới gần.

Tôi thấy vậy mà kinh ngạc, thầm nghĩ lợi hại nha, đổi khách thành chủ, con này rốt cuộc là cái giống gì, xảo trá như thế, không lẽ là hồ ly?

A Quý chiếu đèn pin vài lần vẫn không trúng, tốp thợ săn này đâu phải đám sơn tinh cả đời kiếm ăn trong núi như lớp thợ săn trước, kinh nghiệm dù sao vẫn còn thiếu sót, cũng không nghĩ ra cách nào hay, liền gào lên gọi Vân Thái ném đá ép con mồi phải chạy ra. Hai đứa tôi nhặt vài hòn đá lên định ném, lại bị Muộn Du Bình giữ lại cả đôi. Tôi ngẩng đầu lên nhìn hắn, chợt nhận ra không biết từ bao giờ sắc mặt hắn đã biến đổi, ánh mắt hắn không nhìn vào vòng vây săn mà nhìn ra sau lưng A Quý, hô to: "Cẩn thận đằng sau!"

Tôi nhìn theo hắn, phát hiện bụi cỏ sau lưng A Quý lại nổi sóng, giống như có gió thổi qua. Nhưng bốn bề đều lặng gió, nên hẳn là có thứ gì đó đang nấp trong bụi cỏ, nhích dần về phía A Quý.

A Quý lập tức quay đầu, gợn sóng kia cũng ngưng ngay lập tức.

"Cái gì vậy?" Tôi ngạc nhiên hỏi: "Còn một con nữa?"

"Không chỉ có vậy." Muộn Du Bình nhìn khắp bốn phía, nói bằng giọng hờ hững. Tôi cầm đèn pin chiếu rọi khắp bốn vùng quanh, lập tức phát hiện những bụi cỏ đằng xa đang lan truyền những đợt sóng kỳ lạ, dồn về phía chúng tôi.

Thợ săn ở đây chưa bao giờ gặp cảnh tượng này, cả đám trợn mắt há mồm, cô bé Vân Thái lại là người đầu tiên phản ứng, lập tức huýt sáo gọi đám chó quay về.

Tôi kêu mấy người bọn họ tụ tập lại đây, cẩn thận quan sát động tĩnh bốn phía, chỉ thấy những gợn sóng này cứ thoắt ẩn thoắt hiện không ngừng.

Ba con chó săn còn cảm nhận được tình cảnh kỳ lạ này rõ ràng hơn chúng tôi, không ngừng quay khắp bốn phía sủa loạn xạ, phiền phức không chịu nổi. Những làn sóng vận động bất quy tắc dần dần áp sát chúng tôi, tuy nói mình không sợ nhưng tôi cũng bắt đầu căng thẳng, tim đập như nổi trống.

"Chui vào giữa đi con." A Quý bảo Vân Thái, có lẽ anh ta cũng không nắm rõ tình huống lúc này rốt cuộc là gì. Người miền núi quả đúng là dũng mãnh, không một ai sợ hãi, mấy người kia đều giương súng lên, lúc này cũng không hơi đâu để mắt đến chúng tôi nữa. Tôi nhặt một hòn đá làm vũ khí, quan sát cảnh tượng bốn phía, nói: "Chỗ này rậm rạp quá, chúng ta lui về phía triền núi có ngôi mộ cổ bên kia đi."

Mấy người lập tức lên đường, vừa cảnh giác vừa nhanh chân rút lên núi, không ngờ chúng tôi vừa động, mấy đợt sóng kia lập tức vây lại, đến khi còn cách tôi hơn ba mươi mét thì đều nhanh chóng biến mất. Chúng tôi gần như không có thời gian căng thẳng, mà lập tức hoảng loạn, không đi theo đường chính mà leo thẳng lên dọc sườn núi.

Bùn trên núi nhão nhoẹt, mấy gã đàn ông đã lên cả, nào ngờ Vân Thái bất ngờ trẹo chân, trượt xuống dưới vài mét. Tôi đưa tay ra kéo, kết quả là chính mình cũng trượt theo luôn, bùn dưới chân đều lún cả xuống.

Muộn Du Bình và A Quý dừng lại kéo tôi, nháy mắt đã tụt lại sau đoàn vài mét. Cỏ dại mọc trên sườn núi dày như một tấm thảm, lúc này tôi chợt nghe từ các bụi rậm xung quanh phát ra tiếng cây cỏ bị giẫm gãy liên tục trong lòng nổi lên cảm giác cực kỳ bất an.

Được kéo lên rồi, tôi lại tìm Vân Thái. Vân Thái bị trẹo chân suýt khóc, đôi chân đổ đầy mồ hôi lạnh của tôi cũng không chịu nghe lời tôi nữa, đành cắn răng vén đám cây cỏ ra, chật vật đỡ Vân Thái lên triền núi. Bùn nhão bên kia lại lún xuống thành một cái hố, tôi ủn mông cô bé lên còn Muộn Du Bình đứng bên trên thì vươn một tay ra kéo.

Tôi thử leo vài cái, phát hiện ra mình quá nặng, lại chẳng có ai đứng sau ủn mông ( :)) ), đám bùn kia không chịu nổi sức nặng của tôi nên cứ lún dần xuống, bèn lách người sang bên cạnh. Ai ngờ tôi xui xẻo đến độ uống nước cũng mắc răng, còn chưa đi được mấy bước, bùn nhão dưới chân đã tiếp tục lún xuống khiến tôi ngã nhào xuống triền núi, ngày càng trượt sâu hơn. Giãy dụa bò lên, chợt nghe A Quý trên đỉnh đầu la to: "Chạy! Mau chạy đi!"

Nghe vậy, bản năng mách bảo cho tôi biết chắc chắn anh ta đã thấy được gì đó, liền rẽ sang trái, lại nghe A Quý la to: "Sai rồi! Không phải bên đó!" Ngay lập tức, tôi thấy bụi cỏ phía trước lay động một chập, thế rồi một con vật to cỡ con nghé nhỏ, mắt xếch trán trắng (1), giống báo mà không phải báo nhô nửa người lên từ bụi cỏ, đôi ngươi xanh biếc lóe hàn quang, mặt mày dữ tợn giống như gương mặt hung yêu trong Kinh kịch.

Vừa đối diện với nó, tôi đã biết ngay cái thứ của nợ này là gì rồi, trong lòng hết sức kinh ngạc - thì ra đó là một con linh miêu. (2)

Linh miêu là một loài mèo lớn, nhỏ hơn báo nhưng lớn hơn mèo rất nhiều. Loài động vật họ mèo này có khuôn mặt y chang yêu quái, nét tà độc hung ác đều hiện lên mặt. Khác biệt rõ ràng nhất giữa linh miêu và báo là trên lỗ tai linh miêu có hai nhúm lông mao thô dài ngoằng, giống như lông công trong Kinh kịch.

Loài vật này cực kỳ thông minh, tuy thích sống riêng lẻ, nhưng những khi thức ăn khan hiếm cũng sẽ đi săn thành bầy; ngoại trừ sư tử, thì đây là loài động vật họ mèo duy nhất có thể đi săn theo đàn. Linh miêu cỡ lớn ở Tây Tạng được gọi là "Ma rừng", nghe nói còn biết tha con gái trẻ về ổ giao phối. Nhưng do có bộ da đẹp, nên thời cận đại gần như đã bị bắt giết sạch sẽ, sao lại xuất hiện ở một vùng có nạn săn trộm trầm trọng như Quảng Tây cơ chứ?

Nhưng nếu là linh miêu, thì lại giải thích được vì sao lão Bàn Mã bị tấn công mà chưa chết. Linh miêu rất giống mèo, thích đùa giỡn con mồi cho đến khi sức cùng lực kiệt mới giết chết, nhưng bản tính lại rất thận trọng, không dễ mà vật lộn sáp lá cà.

Giữa những luồng suy nghĩ biến đổi chớp nhoáng, bên tôi lại thêm một con linh miêu thò đầu ra. Con này còn bự hơn, vả lại trên đầu còn có bùn nhão chảy ròng ròng. Muộn Du Bình đã trượt từ trên xuống đến bên cạnh tôi, tay cầm đao săn của A Quý, vừa xuống đến nơi lập tức kéo tay tôi: "Cứ giẫm lên lưng tôi." Hắn nói như chém đinh chặt sắt.

"A, vậy thì ngại quá." Tôi nhất thời không kịp phản ứng.

"Lên mau!" A Quý đứng bên trên la to, mồ hôi đầy đầu.

Bản năng của động vật họ mèo là tấn công vào cổ họng con mồi, một đòn chết tươi. Tôi rụt cổ lại, thầm nhủ vậy tôi không khách khí nữa, gạt đi chút bùn đất rồi giẫm lên vai Muộn Du Bình. Muộn Du Bình vung người đẩy tôi lên, A Quý đứng bên trên nhoáng cái đã túm được tay tôi, tôi quơ quào tay chân loạn xạ, vất vả lắm mới đứng vững được trên triền núi. Chợt nghe Vân Thái thét lên một tiếng sợ hãi, thoáng chốc từ bụi cỏ bên dưới có một con vật lớn lao ra. Vừa mới nhún người mượn lực, tôi đã trông thấy một con "mèo bự" gần như bám vào vách núi mà phi đến trước mặt mình.

A Quý thả tay theo phản xạ, tôi lập tức rơi xuống, bị ngoạm lấy giữa không trung.

Cũng may hình thể con linh miêu vẫn còn quá nhỏ, không thể đè tôi xuống đất. Nháy mắt tôi đã ngã vào bụi cỏ, lăn xuống vài mét, hung hăng đá nó một cú bay vèo đi, đứng lên nhìn lại thì thấy bả vai mình gần như đã bị cắn thủng.

Cỏ cây bốn phía dường như đều lay động, cái con bị tôi đá bay xuống đất cũng đã lấy lại tư thế tấn công, nhào về phía tôi một lần nữa.

Tôi hoàn toàn không có thời gian để mà sợ hãi, kiếp thám hiểm trong những năm gần đây đã trang bị cho tôi một bản năng sống mạnh mẽ. Vừa đưa tay lên che cổ họng tôi đã bị đẩy ngã, bèn dứt khoát xoay người lăn vèo vèo từ triền núi xuống.

Cú lăn này đúng là tối tăm mặt mũi, vừa đứng lên tôi liền bất chấp tất cả mà lảo đảo bỏ chạy. Đám A Quý sau lưng đã bắt đầu nổ súng, tôi cũng không phân biệt nổi phương hướng nữa, đành cắm đầu chạy sâu vào trong khe núi, chạy được vài mét chợt nghe sau lưng có luồng gió quét qua. Tôi biết tuyệt đối không thể dâng phần gáy của mình cho động vật họ mèo xơi được, xương sọ sẽ bị cắn thủng mất, thế nên lập tức xoay người.

Vừa xoay người một cái, tôi đã thấy một bóng đen đuổi tới với khí thế như sấm sét, căn bản không thể nào ước đoán được tốc độ, chớp mắt đã lao đến trước mặt tôi. Tôi nghĩ bụng thôi tiêu rồi, lần này sau khi bị đốn gục tôi hoàn toàn không có thời gian bố trí phòng ngự nữa. Nào ngờ trong khoảnh khắc bóng đen ập đến trước mặt, bụi cỏ bên người tôi đột ngột rẽ ra, sau đó một luồng hàn quang lóe lên, có bóng người lao khỏi bụi cỏ như một tia chớp, nhanh chóng quấn riết lấy bóng đen.

Bóng đen lao tới với khí thế hung mãnh, hai cái bóng nhảy đi rất xa. Tôi ngây ra tại chỗ, hoàn toàn không thể phản ứng, giống như đang nằm mơ.

Trong bụi cỏ rối tung rối mù, nhưng rồi nhanh chóng trở về với yên lặng. Không lâu sau có một bóng đen đứng lên từ trong đó, tôi thở phào nhìn bóng người nọ bước ra, đi đến dưới ánh trăng thì nhận ra đó là một ông lão gầy gò xa lạ, toàn thân nhuốm máu, tay cầm một cây đao săn đặc biệt của người Mèo. Con linh miêu kia bị ông lão vác trên lưng, hình như đã tắt thở.

Ông lão đi đến trước mặt tôi, thấy tôi thì đờ người. Ổng dùng tiếng địa phương hỏi tôi một câu, tôi cũng không hiểu ổng đang nói gì, đành ý tứ lắc đầu, trong lòng thầm nghĩ ông tiên này là ai vậy? Nhưng sau đó tôi lại thấy một hình ảnh còn đáng kinh ngạc hơn: trên người ông lão đó, không ngờ cũng xăm một con kỳ lân đen giống y chang con trên người Muộn Du Bình.

---------------

(1) Nguyên văn là 吊睛白额 (điếu tinh bạch ngạch). 吊睛 nghĩa đen là con ngươi treo lên, nghĩa bóng là đuôi mắt vênh lên, hay mắt xếch. 白额 là trán có vệt trắng. Cụm từ 吊睛白额 vốn để tả hổ, hổ mắt xếch trán trắng tạo cảm giác rất hung dữ, như em này chẳng hạn:

(2) Iem chỉ là con mều thôi, mắc chi mấy người nhìn? :3

Chương 9: Lão Bàn Mã

Ông lão gầy gò, so với con linh miêu vác trên vai nom càng thêm quắt queo, nhưng nhìn kỹ sẽ thấy những bắp thịt đã khô quắt trên thân thể ông lão vẫn rắn rỏi như sắt thép, có thể mường tượng ra những bắp thịt này vào thời trai trẻ đã từng tráng kiện đến thế nào. Dưới ánh trăng, ánh mắt lão ngời sáng có thần, gây cho người một cảm giác khó nói thành lời.

Ông lão tra thanh đao vào vỏ trên thắt lưng, lại ngắm nghía tôi một chặp, chuyển con linh miêu sang vai bên kia, sau đó dùng giọng địa phương bảo tôi đi cùng.

Cây cỏ bốn bề vẫn còn lay động nhưng ông lão chẳng thèm để mắt, cứ vác con linh miêu bước phăm phăm về phía trước, chẳng bao lâu tiếng động xung quanh cũng dần dần lùi xa, chỉ nghe trong cánh rừng sâu thẳm truyền đến tiếng gừ gừ của một đàn thú khác. Đàn linh miêu chỉ tập hợp trong thời gian ngắn để săn mồi, đây có thể là con khỏe nhất trong đám, phụ trách ra đòn chí mạng cuối cùng; con này vừa chết, cả đàn cũng tan luôn. Bản tính linh miêu cực kỳ thận trọng, tuyệt đối sẽ không mạo hiểm đến lần thứ hai.

Ông lão vừa quát tháo, vừa hướng về ngôi mộ cổ. Có ánh đèn pin phát ra từ phía bên kia nhưng thủy chung vẫn dừng lại từ trên núi. Rõ ràng tay A Quý này cũng chẳng phải người tốt, không chịu xuống dưới cứu tôi.

Chỉ có một cái đèn pin ném về hướng này, chúng tôi bắt lấy, rồi thấy Muộn Du Bình đi về phía chúng tôi với dáng vẻ hoảng hốt hiếm có. Thấy tôi không sao hắn mới thở phào nhẹ nhõm, rồi lại nhìn sang ông lão kia.

Cánh tay Muộn Du Bình đẫm máu, ông lão trở tay nắm lấy đao săn. Hai người liếc nhau một cái, Muộn Du Bình thấy hình xăm kia thì ngây người, nhưng ông lão hình như không hề để ý đến hắn, bước thẳng qua bên cạnh hắn.

Tôi thầm nghĩ ôi cái đệt, ông lão này quá siêu phàm, lại mang đầy phong thái của Muộn Du Bình, lẽ nào chính là cha hắn?

Muộn Du Bình muốn bước lên hỏi, nhưng tôi ngăn hắn lại. Ông lão này không phải hạng hồ đồ, vả lại ngôn ngữ bất đồng, có hỏi cũng vô ích, ta cứ về đã rồi tính sau.

Đi ngang qua chỗ tôi ngã xuống, thấy trên mặt đất cũng có xác một con linh miêu cổ bị vặn gãy, hiển nhiên là kiệt tác của Muộn Du Bình. Ông lão ra hiệu cho chúng tôi khiêng nó lên, Muộn Du Bình liền vác xác nó trên vai rồi leo lên triền núi. Người bên trên lập tức chạy tới, nhìn thấy ông lão đều tỏ ra hết sức kinh ngạc.

Ông lão và bọn họ bắn ra một tràng tiếng địa phương, tôi nghe ù ù cạc cạc, liền lén hỏi Vân Thái xem ông lão này là ai.

Vân Thái đáp: "Còn ai vào đây nữa, ông ấy chính là lão Bàn Mã mà các anh muốn tìm."

"Ông ấy chính là Bàn Mã?" Tôi thoáng giật mình, nhưng đúng là trước kia tôi cũng từng nghĩ đến chuyện này rồi. Ai cũng bảo lão Bàn Mã là thợ săn cừ khôi nhất, ngoài lão ra còn ai đủ sức tay không giết chết một con linh miêu lớn cỡ này ở tuổi xế bóng cơ chứ. Phải biết rằng một con linh miêu có thể săn được cả sói Tạng đi riêng lẻ, họ mèo là họ động vật ăn thịt có vú đã tiến hóa đến đỉnh cao, nếu không phải là người cực kỳ am hiểu tập tính của nó thì không thể nào hạ thủ được.

Vừa rồi Lão Bàn Mã nhất định đã bị linh miêu tấn công, sau đó dây dưa với đàn linh miêu đến tận nơi này thì nghỉ ngơi chờ đợi thời cơ. Mẹ kiếp, cái đòn tất sát cuối cùng kia tôi thấy ngay cả Muộn Du Bình cũng không thể ra tay dứt khoát đến vậy, chỉ chậm một giây thôi là tôi hoặc lão nhất định sẽ phải chết .

A Quý quan sát vết thương của tôi, xong giới thiệu đôi bên cho nhau. Lão Bàn Mã hình như không có hứng với chúng tôi, chỉ chào hỏi lấy lệ rồi bắt đầu lau rửa những vết bẩn trên người.

Lau đi vết máu trên người, tôi mới nhận ra hình xăm của lão và Muộn Du Bình na ná như nhau. Sau xương sống lão có một vết thương sâu đến ghê người, có thể là do bị linh miêu tập kích bất ngờ mà ra.

Có vài người quây thành tốp, xì xào kể về về hành trình vào núi. Tôi nửa đoán nửa suy luận, lại nhờ Vân Thái phiên dịch nên cũng hiểu được lờ mờ. Nửa đầu câu chuyện cũng gần giống như tôi phán đoán, đúng là lão vì chuyện của con trai mới vào núi, không ngờ lại chạm trán cái giống kia ở đây. Cũng may những khi vào núi lão có thói quen buộc một cành cây trên lưng, trước hết có thể làm gậy chống, ở nơi đất bằng lại có thể đề phòng điểm yếu phía sau bị đánh úp. Đây là quy tắc lưu truyền từ thời xa xưa khi dã thú hoành hành, cả đời chẳng có ích gì, ai ngờ lần này lại cứu được một mạng. Tuy quần áo bị xé nát, nhưng gáy không bị cắn đứt, đúng là nguy hiểm khôn cùng.

Bao nhiêu năm trời không gặp linh miêu, giờ bỗng dưng xuất hiện ở vùng này, có thể là do mấy hôm trước trời mưa to, trong núi sâu xảy ra chuyện bất thường buộc chúng phải chạy ra. Chỗ này có người ở nên chuột cũng lắm, chúng mới bị con mồi thu hút đến đây.

Thấy lão tỏ ra rất phấn chấn, như thể tìm lại được cảm giác của một thời oanh liệt đã qua, tôi cảm thấy giờ không thích hợp để hỏi những chuyện khác. A Quý liền gọi đoàn quay về, nói giờ này người trong thôn chắc là đang rất sốt ruột. Vết thương của tôi và lão Bàn Mã đều sâu, phải về còn xử lý.

Vài người đem đốt hai cái xác linh miêu, trời cũng dần sáng, không còn sớm nữa, đã qua cả một đêm rồi, nên họ dập tắt đống lửa rồi lập tức lên đường.

Bộ da linh miêu rất có giá, cứ thế đốt đi thật là uổng phí. Nhưng A Quý nói không thể để ai khác biết ở đây xuất hiện linh miêu, bằng không thì chưa đến một tuần đám săn trộm đã ùn ùn kéo đến. Những tên này tham lam vô độ, dù không bắt được linh miêu thì cũng chuyển sang những loài thú khác, nơi này nhất định sẽ sạch bách chẳng còn gì.

Dọc đường đi không ai nói thêm lời nào, về đến thôn thì trời đã sáng. Những cán bộ trong thôn cũng thức trắng cả đêm, đang dẫn theo vài người chuẩn bị vào núi đi tìm, đến sơn khẩu thì gặp chúng tôi.

Chúng tôi ăn sáng trong trụ sở thôn, có bánh rán (1) và cháo trứng, tôi đói quá làm luôn hai bát to. Trong thôn vui như tết, liên tiếp có người đến hỏi han.

Bả vai tôi gần như bị cắn thủng, phải sát trùng rồi tiêm một mũi phòng uốn ván, còn đắp thêm cả thảo dược. Lưng lão Bàn Mã khâu mười mấy mũi, tay y tá thôn kia thật chẳng biết nương tay là gì, khâu vết thương mà cứ như khâu chăn đệm, khâu dăm ba nhát đã xong. Trong khi lão Bàn Mã vẫn yên lặng không nói lời nào thì mấy người trông như cán bộ thôn kia lại cứ thao thao bất tuyệt.

Tạm thời bỏ qua những chuyện lặt vặt, xử lý xong vết thương chúng tôi định về nghỉ ngơi, chờ sức khỏe phục hồi sẽ đến thăm lão Bàn Mã sau. Ai ngờ trước khi đi, lão lại bảo chúng tôi cùng về nhà mình.

Tôi và Muộn Du Bình liếc nhau, nghĩ bụng ông lão này tính tình cũng thật cổ quái, rồi vội vã đi theo. Đi chưa nổi hai bước, lão đã chỉ chỉ Muộn Du Bình nói cái gì đó.

Chúng tôi không hiểu, nhìn sang A Quý đi cùng. Nét mặt A Quý nom cũng rất kỳ quái, nói với lão Bàn Mã vài câu, lão lại dùng giọng điệu cương quyết đáp lại, nói rồi đi thẳng.

Tôi ngơ ngác nhìn A Quý, hỏi ổng nói cái gì vậy? Anh ta có vẻ lúng túng đáp: "Muốn biết hãy đến một mình, người kia không thể đi theo."

Tôi nhíu mày nhìn Muộn Du Bình, thầm nghĩ lão nói vậy có ý gì chứ? A Quý lại tiếp "Ông ấy còn nói..."

"Nói gì nữa?"

"Nói nếu hai người còn đi chung với nhau, sớm muộn gì cũng có ngày một người bị người kia hại chết."

--------------

(1) Nguyên văn là 烙饼, món này không có bên mình nên chịu không biết dịch sao:

Chương 10: Ngồi xuống bàn bạc

Nghe những lời này, tôi có hơi sửng sốt. Lão Bàn Mã không dưng nói ra một câu không đầu không cuối, thật khiến người ta không kịp phản ứng, nhưng đầu óc cũng đồng thời căng thẳng, cảm thấy câu nói vừa rồi nghe có hơi rợn người.

Còn chưa kịp suy nghĩ tường tận, Muộn Du Bình đã đuổi đến trước mặt lão Bàn Mã, giữ chặt lão lại hỏi: "Nói vậy, tức là ông biết tôi?"

Lão Bàn Mã ngẩng đầu nhìn hắn bằng gương mặt vô cảm, cũng không đáp lời. Muộn Du Bình lập tức lột áo, lộ ra nửa thân trên, "Ông nhìn đi, ông có biết tôi là ai không?"

Hình xăm màu đen rõ mồn một, tựa như hai con kỳ lân ở hai phía đang lao vào nhau, mà ánh mắt hai người nhìn nhau cũng hết sức kỳ lạ.

Giằng co một hồi, lão Bàn Mã vẫn lặng thinh không nói, chỉ âm thầm đi qua bên cạnh Muộn Du Bình, hoàn toàn phớt lờ hắn, nét mặt cũng không hề biến đổi.

Tôi không tài nào diễn tả được cảm giác khi đó, thật kỳ lạ, nếu bắt buộc phải diễn đạt thành lời, tôi chỉ có thể nói rằng dường như tôi đã thấy đến hai Muộn Du Bình của hai thời điểm khác nhau, nhập lại rồi tách rời ra trong tích tắc.

"Muộn Du Bình cuối cùng cũng gặp phải đối thủ." Lúc ấy trong lòng tôi nảy ra một suy nghĩ kỳ cục, nếu không phải rơi vào thời điểm không thích hợp thì tôi còn có cảm giác hả hê. Xưa nay tôi vẫn tưởng trên đời không ai khó trị hơn hắn, thì ra không phải vậy, quả nhiên nhiều lúc phải lấy độc trị độc, lấy muộn trị muộn. (=)))

Muộn Du Bình không đuổi theo nữa, hắn lẳng lặng nhìn lão Bàn Mã nghênh ngang bỏ đi, ngẩn ngơ mất vài giây, mọi thứ lại tan thành mây khói.

A Quý không biết phải làm sao, hết nhìn tôi rồi nhìn theo lão bàn Mã đã đi xa, lại nhìn đến Muộn Du Bình, sắc mặt có vẻ ngán ngẩm, hiển nhiên anh ta không hiểu nổi mấy câu nói úp mở làm màu vừa rồi. Tôi sợ A Quý chán nản, vội vỗ vai anh ta vài cái rồi đến bên Muộn Du Bình khuyên hắn về đi, đừng sốt ruột. Lão Bàn Mã bảo tôi đi thì tôi cứ đi đã, hỏi lão xong sẽ lập tức quay về kể lại cho anh biết.

Muộn Du Bình chẳng ừ hữ gì, chỉ gật đầu, ánh mắt vẫn dõi theo lão Bàn Mã đằng xa, không biết đang nghĩ gì.

Không hiểu vì sao, đúng lúc này, tôi cảm thấy ánh mắt hắn đột ngột biến đổi, giống như đã thiếu đi điều gì, đồng thời cũng cho tôi cảm giác hình như mình từng gặp ánh mắt này ở đâu đó.

Vừa rồi khi bốn mắt họ giao nhau chắc chắn đã gửi đi tín hiệu gì đó, thái độ của lão Bàn Mã là một sự gợi ý rất rõ ràng. Lão nhất định đã biết một vài chuyện, hơn nữa lão chắc chắn phải biết Muộn Du Bình là ai, thậm chí còn có khúc mắc sâu xa gì đó với hắn. Mà nhìn thái độ của lão, thì đảm bảo cái khúc mắc này cũng chả vui vẻ gì.

Tôi gấp gáp đuổi theo.

Một lần nữa theo A Quý vào ngồi trong phòng ăn nhà Bàn Mã, tâm trí tôi cứ không ngừng nghĩ ngợi xem những lời lão Bàn Mã nói có ý gì? Và phải trao đổi với lão bằng cách nào mới hiệu quả.

Nếu hai người còn đi chung với nhau, sớm muộn gì cũng có ngày một người bị người kia hại chết.

Lão Bàn Mã đột ngột nói ra một câu kỳ lạ như thế, nếu lão thực sự không biết gì, thì một thợ săn miền núi như lão cũng chẳng lý gì lại vô duyên vô cớ bày trò dắt mũi tôi. Nhưng thái độ của lão lại rất quái gở, hơn nữa rõ ràng lão không ưa Muộn Du Bình.

Tôi thật sự không luận ra những mối liên hệ trong đó. Đây có thể chỉ là một câu nói hết sức bình thường, cũng có thể ẩn chứa điều gì đó. Tôi vẫn luôn tự nhắc nhở bản thân đừng nghĩ ngợi quá nhiều, có lẽ ý của lão Bàn Mã chỉ là bản lĩnh của Muộn Du Bình rất cao cường, nhưng của tôi lại quá cùi bắp, nên sẽ có ngày tôi vạ lây đến hắn. Nhưng trực giác mách bảo cho tôi biết, nếu xem xét những lời này một cách có đầu có đuôi, thì người bị cảnh cáo dường như lại chính là tôi.

Nhưng Muộn Du Bình làm sao hại chết được tôi chứ? Nếu không có hắn, tôi đã thành bánh tông thứ thiệt vài lần rồi; cho dù hắn muốn hại chết tôi thì tôi cũng chỉ biết bó tay chịu chết, nói kiểu gì cũng không thấy hợp lý. Mà với tính tình lập dị của hắn, người khác cũng rất khó kết thân.

Con trai lão Bàn Mã xách nước đến cho chúng tôi tắm rửa, do vết thương sau lưng nên lão để con làm thay, còn mình thì lấy loại thuốc lá riêng của người Dao cho vào điếu cày (1) hút.

Tôi ngửi mùi này thấy giống mùi thảo dược của Muộn Du Bình, xem ra trong loại thảo dược đó cũng có thành phần thuốc lá. Vốn định mượn chi tiết này nói vài câu xoa dịu bầu không khí, lại không tìm được chủ đề nào.

Sắc trời mỗi lúc một âm u, hình như lại muốn mưa, Quảng Tây đúng là đất mưa nhiều. Cô con dâu lão Bàn Mã đóng cửa sổ lại rồi ngồi xuống chiếu, gió lùa qua khe hở thổi vào làm bầu không khí nhanh chóng dịu đi. Lúc này lão mới làm một động tác giống hành lễ kiểu địa phương với tôi, tôi cũng dựa theo đó mà đáp lại.

Lúc này tôi mới có điều kiện quan sát kỹ càng vẻ ngoài lão Bàn Mã. Ngũ quan rõ ràng, gương mặt đầy những vết nhăn ngăm đen như bao người miền núi khác, tướng mạo hết sức bình thường. Nhìn ông lão bây giờ rất khó tưởng tượng được dáng vẻ của ông tiên này lúc trước, đúng là không thể trông mặt bắt hình dong. Mặt mũi như này thì chắc chắn không thể có họ hàng gì với Muộn Du Bình được, nghĩ đến đó tôi mới hơi yên tâm.*Gián tiếp khen Bình đợp trai kìa =))*

A Quý ngồi bên cạnh kể qua một lượt về mục đích đến của tôi, nhắc lại tôi là cán bộ chính phủ. Lão Bàn Mã liền nhìn tôi nói một câu, A Quý phiên dịch: "Lão nói, cậu thật ra là ai lão cũng đoán được lờ mờ, từ lâu lão đã đoán trước đến một ngày sẽ có người hỏi chuyện này. Cậu muốn hỏi gì thì cứ hỏi đi, hỏi xong thì mau cút, đừng đến quấy rầy lão nữa."

Tôi lại ngây ra mất một lúc, cảm thấy lời lão đều mang ẩn ý gì đó, cứ như lão hiểu lầm tôi là một người nào khác.

Nhưng tôi lại không thể cảm nhận một cách rõ ràng nguyên nhân của sự hiểu lầm này. Nghĩ đến đây tôi liền phản ứng, biết lúc này căn bản không nên nghĩ nhiều, cứ coi như mình không phát hiện ra là tốt nhất, chờ có thêm manh mối rồi nói cho rõ ràng cũng chưa muộn.

Tôi nghiêm mặt, chỉnh đốn lại tâm tư rồi bảo lão: "Cháu chỉ muốn hỏi thăm ông vài chuyện về đội khảo sát ngày trước, mong ông có thể kể sơ sơ một lượt cho cháu nghe tình hình năm đó. Nhưng trước đó, cháu cũng muốn biết câu nói vừa rồi của ông là có ý gì?"

Lão Bàn Mã rít một hơi thuốc dài, tôi còn chưa nói xong lão đã lắc đầu cười, nói mấy câu, A Quý ngây ra một lúc mới dịch lại: "Ông ấy nói cậu nghĩ sai rồi, đó không phải đội khảo sát."

Tôi liếc qua A Quý, anh ta phiên dịch xong cũng hết sức kinh ngạc, "Vậy họ là ai?"

Lão đáp: "Bọn họ là lính." Lão nói bằng tiếng địa phương nhưng tôi cũng miễn cưỡng nghe ra.

Ban đầu tôi còn tưởng mình nghe lầm, A Quý phiên dịch lại, tôi mới khẳng định là không lầm.

Cân nhắc một lát, tôi cảm thấy lão Bàn Mã hẳn đã nhầm. Lúc đó bọn họ đều mặc đồ lục quân nên lão mới tưởng họ là binh lính.

"Tình hình khi ấy rất căng thẳng. Có rất nhiều binh lính đến đây, đều đeo súng tự động sau lưng, nói mình muốn đến núi Dương Giác rồi nhờ tìm người dẫn đường. Vậy là cha A Quý đến tìm ta, ta mới đưa bọn họ vào núi." Lão nói với tôi.

(Đoạn đối thoại kế tiếp đều nhờ A Quý làm phiên dịch, để cho thuận tiện, sẽ không nhắc lại nữa.)

Tôi nhíu mày, chợt nhớ ra hồi đó đang có tranh chấp biên giới với Việt Nam. Những năm 70 nơi này chỉ có giặc cỏ, tôi không nghĩ ra thời ấy nó chính là chiến khu, vậy thì tình hình khi đó lại càng thêm phức tạp.

Tình huống này tôi thật sự không ngờ tới, thoáng chốc đã rơi vào trầm tư, vô vàn suy nghĩ hiện lên trong đầu.

Trong hoàn cảnh lúc ấy, chắc chắn không có đội khảo sát nào tới đây làm nhiệm vụ, chuyện này thật kỳ lạ... Nhóm Văn Cẩm đúng là thần thông quảng đại. Chẳng lẽ hạng mục cần khảo sát cũng là hạng mục do quốc gia cắt cử, có cả súng ống chứng tỏ có sự bảo vệ của quân đội rồi.

Phải là hạng mục nào mới đủ khiến quốc gia cử một đội khảo sát đến chiến khu? Lẽ nào trong núi Dương Giác thực sự tồn tại một cổ mộ có giá trị rất lớn?

"Những kẻ đó đều là quái vật..." câu nói của chú Ba chợt vang lên trong đầu khiến tôi rùng mình.

Lão Bàn Mã nói tiếp: "Cậu không biết vị bằng hữu kia của cậu là hạng người nào đâu, đi cùng hắn cậu chắc chắn sẽ không có kết cục tốt."

"Ông biết hắn?" Tôi hỏi, "Vì sao lại nói vậy?"

Lão Bàn Mã nhìn tôi: "Tuy không biết mặt, nhưng ta nhận ra được mùi vị chết chóc trên người họ."

---------------

(1) Thực ra nguyên văn 水烟袋 chỉ có nghĩa là cái ống hút thuốc có nước, search hình thì ra ít nhất hai loại, mình không biết trong truyện nhắc đến loại nào nên cứ để là điếu cày cho dân dã, vì chắc dân miền núi xài ống tre thôi chứ không xài cái món cầu kỳ này đâu:

Chương 11: Mùi vị

Tôi không hiểu lão Bàn Mã đang nói gì, "mùi vị chết chóc" là sao? Mùi xác thối?

Lão Bàn Mã không nói thẳng ra, chỉ bảo mùi vị chết chóc chính là mùi người chết.

Xem ra trong lòng lão Bàn Mã chắc chắn còn giấu nhiều chuyện, tuy không thể hiện ra ngoài, nhưng không câu nói nào không ngầm ám chỉ với tôi rằng lão biết rất nhiều chuyện. Nhưng dường như lão lại muốn che che đậy đậy, thái độ rất mâu thuẫn; từ thái độ bình thản khi đối mặt với Muộn Du Bình, có thể thấy lão già này nhất định là một người từng trải.

Đầu óc tôi cứ quay mòng mòng, đặt mình vào địa vị người khác mà nghĩ xem, một người sẽ tỏ thái độ này vào lúc nào?

Một là khi đang muốn bán đồ với giá cao, trước kia tôi đã tiếp xúc với một vài tay lái buôn, cũng có cái kiểu nói năng nhát gừng như thế. Khổ nỗi lão quỷ này lại không giống cho lắm.

Hai là trong lòng ẩn giấu một bí mật, tuyệt đối không thể tiết lộ, nhưng anh ta lại chứng kiến một chuyện nào đó xảy ra có liên quan đến bí mật của mình; nếu không chịu tiết lộ, có thể sẽ gây ra hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Trong tình cảnh mâu thuẫn này, anh ta chỉ có thể nói một câu lập lờ nước đôi. Ví dụ như có một đặc vụ đã bị nghi ngờ, lúc này anh ta thấy một thằng nhóc đang nghịch một khối tròn bằng sắt; anh ta biết khối tròn đó chính là mìn, nhưng nếu nói ra điều này với thằng nhóc thì thân phận đặc vụ của anh ta có thể bại lộ. Nên anh ta mới bảo thằng nhóc kia: "Cháu nghịch món đồ này, sớm muộn gì cũng bị nó hại chết."

Tôi cảm thấy khả năng này rất lớn. Khi mới tới nơi này tôi chỉ muốn biết chút ít về tình hình và thời gian nhóm Văn Cẩm vào núi; nhưng sau khi lão trông thấy Muộn Du Bình, lại tỏ thái độ khiến tôi buộc phải để ý. Nói cách khác, theo lý mà suy thì lão cho rằng Muộn Du Bình chính là quả mìn có thể nổ chết tôi. Trong lòng lão chứa một bí mật cho lão biết Muộn Du Bình chính là quả mìn đó, nhưng bí mật này lão lại không muốn nói ra.

Sau đó tôi ngồi nói chuyện với lão Bàn Mã suýt soát ba tiếng đồng hồ, cố gắng dò xét bí mật này.

Tôi biết nếu từ đầu đã để lộ ý định dò xét của mình thì sẽ khiến lão cảnh giác ngay, nên tôi quyết định trước hết phải tỏ ra bình tĩnh, bắt đầu dò hỏi từ hành trình Văn Cẩm vào núi.

Nội dung cuộc trò chuyện hết sức rời rạc, lão Bàn Mã nói phải có A Quý phiên dịch, có khi còn phải giải thích khái niệm với nhau, rất tốn thời gian. Hơn nữa lão cũng thường trả lời không đúng trọng tâm, mà có lẽ A Quý phiên dịch cũng sai lêch đi chút ít. Cho nên trò chuyện xong, đầu óc tôi hoàn toàn bị chia ra làm những mảnh rời rạc.

Đội khảo cổ của Văn Cẩm vào núi đại khái là năm 1976, lão không thể nói ra thời gian chính xác.

Đội trưởng lúc ấy hẳn là Văn Cẩm, nhưng khi tôi lấy bức ảnh chụp chung ở Tây Sa ra cho lão xem thì lão lại không phân biệt nổi những người khác. Thời gian đã quá lâu, mà người cũng nhiều, trong hoàn cảnh lúc ấy, tóc tai quần áo mọi người đều như nhau, lão chỉ nhớ duy nhất người đội trưởng cũng rất hợp lý.

Ban đầu mọi chuyện diễn ra bình thường, khi ấy vùng này thường xuyên xảy ra tranh chấp biên giới, trong thôn xuất hiện quân đội cũng rất bình thường. Phải biết rằng những năm 1978 vùng Thượng Tư hầu hết đều có quân giải phóng, đường trong núi này phần lớn đều được đào vào thời điểm diễn ra chiến dịch phản kích quân Việt, bộ đội phải vào trong núi tìm người dẫn đường cũng là nhiệm vụ quân sự.

Lão Bàn Mã nhận tiền phụ cấp của bộ đội, bấy giờ lão vẫn còn là tráng niên, trong khi săn thúthường một mình lặn lội vào những nơi xa nhất, sâu nhất, dĩ nhiên tìm lão làm người dẫn đường là thích hợp nhất.

Bọn họ lên đường vào sáng sớm ngày hôm đó, nhiệm vụ của bộ đội lão không tiện hỏi nhiều, cứ thế dẫn bộ đội vào núi Dương Giác, sau đó đi cùng đoàn luôn. Tâm tư của lão đặt cả vào việc nhớ đường, núi Dương Giác là nơi không hay lui tới, lão phải đảm bảo có thể trở về.

Bọn họ đi khá lâu, nghỉ trong núi một đêm rồi đến một cái hồ trong núi.

Nơi này lão Bàn Mã mới đến có một lần vào năm ba mốt tuổi, lão cưới vợ nên muốn bắt mấy con hoẵng về biếu nhà ngoại. Năm ấy trong núi không yên ổn, dã thú đều trốn vào rừng sâu. Lão dắt chó đi một mạch vào đây, tìm được cái hồ này, nấp ven hồ một ngày thì săn được một con lợn rừng, sau đấy cũng không vào đây thêm lần nào nữa.

Những cái hồ kiểu này hiển nhiên không có tên, có lẽ ngoại trừ lão Bàn Mã thì người trong thôn cũng không ai biết nơi này có hồ. Đây là một cái hồ khép kín, không có suối chảy vào, đáy hồ có thông đến đâu hay không thì lão chịu. Bọn họ dựng lều căng bạt bên hồ, thế là nhiệm vụ của lão Bàn Mã đã xong.

Sau đó, lão nhận nhiệm vụ cứ cách vài ngày lại đi cấp dưỡng cho bộ đội. Nguồn dự trữ của bộ đội cũng rất đầy đủ, cho nên mỗi lần vào núi lão cũng chỉ mang theo chút gạo hoặc muối ăn, chuyện quái lạ mà A Quý kể cũng xảy ra trong một lần tiếp tế như thế. Trong suốt quãng thời gian đó, không ai biết đội quân kia trú đóng ở đó làm gì.

Trong quá trình tiếp tế lão Bàn Mã cũng rất hiếu kỳ, nhưng lão biết vào thời buổi này, dòm ngó những bí mật kiểu này sẽ phải trả giá rất đắt, cho nên lão cố nhịn trí tò mò của mình xuống. Sau đó, khi nhóm người nhổ trại, họ đã có thêm khoảng hơn ba mươi cái hộp, cái nào cũng to bằng cỡ hộp giày, được những người lính hết sức cẩn thận đưa ra ngoài.

Lão tò mò, cũng từng muốn cầm thử một hộp, nhưng lại bị một người lính khéo léo ngăn lại. Người lính nói trong hộp này chứa một thứ rất nguy hiểm, khi anh ta cầm nó lên, lão chỉ cảm thấy cái hộp rất nặng, không biết bên trong chứa vật gì.

Tôi nghe tới đây, trong đầu hình như cũng lờ mờ có ấn tượng. Loại hộp lớn cỡ hộp giày này, tên là "hộp thu nạp", biệt danh là hộp đồ cổ, là dụng cụ đội khảo cổ dùng để lưu giữ những mảnh văn vật nhỏ khai quật được. Loại hộp này thường được đánh số nghiêm ngặt, lớn có nhỏ có, nhưng hầu hết đều to cỡ cái hộp giày. (Văn vật khai quật được thường khá nặng, hộp lớn cỡ hộp giày chứa được khối lượng phù hợp nhất cho việc vận chuyển)

Lão Bàn Mã rất buồn bực, vì ven hồ chẳng có chỗ nào đặc biệt, vậy thứ chứa trong những cái hộp kia rốt cuộc từ đâu mà đến? Khi ấy lão cứ đinh ninh hộp này nhất định phải chứa đá, bởi vì ven hồ kia toàn đá là đá.

Nhưng lão nhanh chóng phát hiện ra khả năng này không lớn, vì đi vào núi được một thời gian, bên trong cái hộp bắt đầu tỏa ra một thứ mùi kỳ lạ, rất khó ngửi, không biết phải miêu tả thế nào. 

Chương 12: Tâm lý chiến

Tôi nghĩ ngay đến mùi thịt ôi, nhưng Bàn Mã nói không phải. Người đi săn quanh năm suốt tháng tiếp xúc với thịt nên lão dễ dàng nhận ra mùi thịt ôi. Chứ còn cái mùi này, quả đúng là không tài nào mô tả nổi. 

Bình thường muốn tả mùi phải dựa vào vật, ví dụ "thơm như hoa lài" hoặc "hôi như tất thối". Lão Bàn Mã không tài nào mô tả được, dĩ nhiên là vì lão chưa từng ngửi qua mùi này,thậm chí mùi na ná thế cũng chưa.

Tôi muốn hỏi lão mùi này có phải là "mùi người chết" hay không, nhưng rồi lại thôi. Nếu lão đã không muốn nhắc đến đề tài này thì nửa chừng thắc mắc cũng không có lợi cho tôi.

Sau đó lão Bàn Mã càng thêm hiếu kỳ, nhưng những người kia lại bắt đầu đề phòng, nên lão vẫn chưa có cơ hội tiếp xúc với những cái hộp này. Về đến thôn, nhóm người ấy nhanh chóng rời đi, từ đó về sau biệt tăm biệt tích. Chuyện này ảnh hưởng rất lớn đến lão, mỗi lần vào núi săn thú lão đều nghĩ về cánh quân kia. Bọn họ vào núi nhằm mục đích gì, đã làm gì ven hồ; vật đừng trong hộp là gì, từ đâu mà tới?

Khi ấy lão đã có linh cảm, rồi sẽ có người đến thăm dò chuyện này. Nhưng không ngờ lại đến quá muộn, gần ba mươi năm sau chúng tôi mới xuất hiện.

Tôi hỏi lão hồ nước trông như thế nào, lão bảo hồ dẹt như một thanh loan đao. Bốn phía đều là đá tảng, có những tảng rất to, to hơn thân người, mà cũng có những viên nhỏ bằng đá cuội. Hồ vẫn còn đó, nhưng vì khí hậu biển đổi nên mực nước rút xuống rất nhanh, ba năm trước lão quay lại thì thấy hồ chỉ còn một nửa so với ban đầu.

Nghe đến đó, tôi rơi vào trầm tư. Thứ được giấu trong hộp, rất có thể chính là khối sắt mà chúng tôi đã tìm thấy ở nhà Muộn Du Bình. Nếu có đến ba mươi cái rương được khuân ra ngoài thì hiển nhiên số lượng không nhỏ, rất khả năng nó là mảnh vỡ của món đồ nào đó như lời Bàn Tử nói.

Những thứ này từ đâu mà ra? Trước kia trong điều kiện thiếu thốn thông tin, Bàn Tử từng suy đoán trong núi Dương Giác có một ngôi mộ cổ. Giờ nghe chuyện lão kể, tôi lại nghĩ phải chăng những món đồ này được vớt từ đáy hồ lên?

Lẽ nào bọn họ phát hiện ra một cỗ máy bằng sắt cỡ lớn dưới đáy hồ, tháo nó ra ngay tại chỗ rồi mang từng khối ra ngoài?

Khả năng này không lớn, vì nếu thế thì thứ này khác nào sắt vụn, hơn nữa cũng không thể đựng bằng hộp nhỏ cỡ hộp giày.

Tôi không nén nổi trí tò mò, lòng đã ngầm đồng ý với giả thiết của Bàn Tử, mà dù sao đi chăng nữa cũng phải đến núi Dương Giác ngó thử một lần.

Lão Bàn Mã cũng có một khối sắt, nói là nhặt được trong núi, vả lại lão cứ đinh ninh có cực kỳ quý giá; rõ ràng là sau khi đội khảo sát rời đi, lão Bàn Mã còn động tay động chân vào nữa.

Đây chính là bí mật trong lòng lão, khối sắt và "mùi người chết" có mối liên hệ với nguy hiểm, lão nhất định đã gặp chuyện gì đó mới kết nối ba cái này lại với nhau. Trong ký ức của Muộn Du Bình, khối thép kia là một vật vô cùng nguy hiểm; mà trong hồi ức của lão Bàn Mã, người lính kia cũng bảo lão rằng khối sắt này rất nguy hiểm.

Tôi nghĩ cách cạy miệng lão ra, xét về độ gian trá, tuy tính tôi an phận thủ thường nhưng chơi với đám Phan Tử Bàn Tử đã lâu, muốn gian trá cũng có thể nặn ra một ít gian trá. Vào lúc này, tôi có thể lợi dụng việc lão không nắm rõ thân phận của tôi để lừa lão một chặp.

Bí quyết lừa người chính là để người khác lầm tưởng bạn đã biết cả rồi, cho nên về hình thức cuộc đối thoại, bạn phải biến câu hỏi thành chất vấn.

Tôi im lặng giây lát, trong đầu đã vạch ra phương án sơ lược, liền hỏi: "Vậy sau đó trở lại ven hồ, ông đã phát hiện ra khối sắt này như thế nào."

Đó hoàn toàn là suy đoán, vì nếu khối sắt này tìm được trong núi thì rất khó có thể là nơi nào khác ngoài cái hồ. Tôi thử đánh cuộc một phen, dù sao có đoán sai cũng không mất mát gì.

Lão Bàn Mã đờ người, tôi biết ngay mình đã đoán đúng. Nhưng trừ khoảnh khắc đứng hình ấy ra, lão cũng không có biểu hiện gì khác, mà chỉ nhìn sang tôi.

Tôi biết lúc này mình phải bồi thêm một cú nữa, lại tiếp: "Ông yên tâm, tôi chỉ cần biết chuyện xảy ra khi đó, còn những chuyện khác tôi không có hứng."

Lão Bàn Mã biến sắc, buông điếu thuốc xuống hỏi: "Thật ra cậu là ai?"

Lòng tôi thở phào, muốn toát mồ hôi lạnh. Câu tiếp theo sẽ tiếp nối thành công trong phán đoán của câu trước, mùi vị người chết, khối sắt nguy hiểm, chuyện của Muộn Du Bình. Tôi đoán lý do khiến lão giữ bí mật là vì một sự cố, sự cố này nhất định cực kỳ nguy hiểm, dễ chừng còn có người chết. Đáng ra tôi có thể hỏi: "Tôi sẽ không hỏi đến cái chết của hắn." Nhưng tôi không biết rốt cuộc đã chết bao nhiêu người, nên đổi sang một biện pháp chắc ăn hơn.

Người có "tim đen", trừ phi hiểu rõ về tôi, bằng không tất sẽ lộ ra sơ hở.

Tôi thầm nghĩ đây chính là lúc đổi khách thành chủ, lập tức trưng ra bộ mặt cao thâm khó dò - những khi chặt chém khách hàng tôi vẫn thường làm thế - lạnh nhạt nói: "Ông đừng hỏi gì thì hơn, chuyện này ông chỉ cần kể rõ đầu đuôi cho tôi biết là được." Nói đoạn vuốt túi áo, lấy ra một xấp tiền vốn dành để trả phí tư liệu cho Bàn Mã. Đáng ra chỉ trả hai ba trăm, nhưng để trông có vẻ hoành tráng nên trong túi có bao nhiêu tôi lôi ra bằng hết, đập xuống trước mặt. "Tôi biết một vài chuyện nhưng không rõ ràng lắm, nên ông đừng lo gì cả, chỉ cần nói ra sự thật là được. Ông cầm tiền là xong, về sau sẽ không làm sao hết, cũng không ai biết chúng ta đã nói gì ở đây."

Bàn Mã nhìn tôi, có vẻ thấp thỏm không yên. Tôi nhìn lão bằng ánh mắt cực kỳ bình tĩnh và tập trung, chờ lão nổi giận hoặc đầu hàng.

"Làm sao cậu biết chuyện này?" Lão hỏi. "Nói ta nghe thử xem."

Hừ, tôi chửi thầm, nghĩ bụng lão quỷ này đúng là ngoan cố, cái này làm sao mà nói ra được. Ngoài mặt tôi không đổi sắc, nhưng tâm trí tức khắc xoay chuyển điên cuồng.

Trong một giây phản ứng, tôi gần như buột miệng hỏi: "Lẽ nào các người không biết có người đi theo mình sao?"

Lời vừa nói ra, còn chưa còn chưa kịp định thần thì đã thấy nét mặt Bàn Mã thả lỏng, tim rớt mất một nhịp, thầm nghĩ thôi tiêu rồi, mình đã bị lật tẩy.

Bàn Mã liền nhìn tôi nói: "Tuy không biết cậu là ai, nhưng ta cũng không phải lão già hồ đồ. Cậu về rồi đừng quay lại tìm ta nữa, cậu chẳng biết gì hết, ta cũng không nói cho cậu biết." Nói đoạn liền ra ý muốn tiễn khách.

Tôi lập tức phản ứng, thầm nghĩ làm sao lão phát hiện ra được nhỉ. Vì lão có thể xác định không ai bám theo mình, hay là vì tình hình khi đó không thể bị bám theo được? Tôi cố nghĩ làm sao để vớt vát, lại phát hiện mình chẳng có cách nào hay, nhanh chóng chán nản buông xuôi.

Con trai lão mở cửa, có ý muốn mời chúng tôi ra. Cửa vừa mở ánh sáng liền ùa vào, tôi đang định đứng lên, chợt phát hiện chân lão run rẩy nhè nhẹ.

Tôi nhìn sang lão, phát hiện lão cũng đang nhìn tôi, tuy nét mặt vẫn điềm tĩnh không chút gợn sóng nhưng sắc mặt lại xấu một cách đáng sợ, rõ ràng trong lòng lão đang căng thẳng cực độ.

Tôi nhanh chóng hiểu ra, lão cũng đang lừa tôi!

Tôi lập tức biến tư thế nhổm người đứng dậy của mình thành một động tác vươn vai, sau đó ngồi trở về chỗ cũ, nói bằng ngữ điệu không thể phản bác: "Đừng cứng đầu nữa, nói thật, tôi không còn nhiều kiên nhẫn đâu."

Bàn Mã nhìn tôi, con trai lão cũng nhìn tôi. Tôi hoàn toàn tự tin, có thể cảm nhận được vẻ mặt của bản thân vào lúc đó đúng là cực kỳ âm hiểm và khó nắm bắt.

Rất lâu sau, Bàn Mã rốt cuộc cũng cúi đầu, nháy mắt ra hiệu cho con trai. Anh con trai nói gì đó với A Quý, A Quý liền bị nửa lôi nửa kéo ra ngoài. Con lão trở lại ngồi vào chỗ của A Quý, cửa bị đóng lại lần nữa. Lão Bàn Mã hành lễ cực kỳ trịnh trọng với tôi, rồi ngẩng đầu lên nói: "Dù cậu là ai, thì cũng mong cậu nói lời giữ lời, nếu muốn tính nợ cũ thì cứ tính cả lên đầu ta. Người đều do ta giết, mấy người kia chỉ giúp ta khiêng đồ thôi."

Chương 13: Đó là một hồ ma

Tôi kinh ngạc không hiểu câu nói này có ý gì, nhưng ngay sau đó Bàn Mã đã kể đầu đuôi câu chuyện, mới nghe vài câu toàn thân tôi đã lạnh toát, nhanh chóng hiểu rõ hoàn toàn lai lịch của mùi người chết. Nhưng chuyện này thật sự quá kinh khủng, nằm ngoài dự kiến của tôi, sau khi nghe xong, cảm giác đầu tiên của tôi không phải nghi hoặc mà là ghê tởm.

Tôi thật sự không thể ngờ lại có chuyện như thế xảy ra, cũng chẳng hiểu nổi mục đích của lão khi ấy, càng không tài nào tưởng tượng được lòng người thời đó sao lại ra nông nỗi này. Nếu điều Bàn Mã nói là thật thì thứ lão đang gánh không phải bí mật gì cả, mà là nghiệp chướng nặng nề.

Quá trình trước đó hoàn toàn giống như những gì Bàn Mã đã kể, vấn đề mấu chốt nằm ở cái lần lão vào núi rồi phát hiện ra đội khảo cổ biến mất.

Bàn Mã đã nói dối, lần ấy lão lên núi, đội khảo cổ không hề biến mất; hơn nữa lão cũng không đi một mình, mà còn dẫn theo bốn người anh em nữa. Họ vác đồ đạc giúp lão, như thế trên đường về họ còn có thể đi săn.

Giao lương thực xong họ vẫn chưa về ngay, bởi vì nán lại đó đến chập tối sẽ được ăn một bữa cơm trắng. Đối với họ thì đây quả là đãi ngộ của bậc vua chúa, thế nhưng đội khảo cổ không cho ở lại trong doanh địa, họ đành đứng bên ngoài tán phét mãi đến giờ cơm chiều.

Trong khoảng thời gian này, một trong số bốn người anh em của lão khi nhìn đồ tiếp tế quân dụng của đội khảo sát, đã nảy lòng tham.

Sự nghèo khó của Thập Vạn Đại Sơn hồi ấy, người bây giờ không tưởng tượng nổi đâu. Nhiều năm liền xung đột biên giới khiến muông thú trốn hết vào núi thẳm, lũ trẻ không có thịt mà ăn, chỉ có bông lúa với rau dại, thành ra đều suy dinh dưỡng cả. Cơm trắng với họ chẳng khác nào bánh kẹo, cho nên đồ tiếp tế của bộ đội trở nên quá sức hấp dẫn, mấy bao gạo đó phải ăn được cả năm.

Để thôn dân vận chuyển giúp thì nhất định sẽ bị ăn bớt dọc đường, nên bộ đội khi nhận lương thực đều phải cân lại, nếu phát hiện thiếu cũng không truy xét gì, nhưng lần sau sẽ đổi người khác. Người anh em kia tính chờ họ cân xong đi ngủ rồi sẽ lẻn vào xúc trộm vài bát, như thế không lo mất việc mà lại có thể mang lợi lộc về nhà.

Đây vốn là một việc hết sức đơn giản, Bàn Mã không đồng ý vì tay nghề lão tốt, gia cảnh cũng tạm ổn, chưa khổ đến nỗi để con cái chết đói, nhưng ba người kia đều động tâm.

Bàn Mã đành phải để họ đi còn mình đứng chờ bên ngoài, ai mà ngờ ba người vào rồi lại sinh chuyện chứ.

Trong góc lều chứa gạo, họ xúc trộm mỗi bao ba bát, lúc ra vừa hay lại đụng phải một tiểu binh vào đó kiểm tra. Tiểu binh lập tức giương súng, nhưng cậu ta không nhìn thấy một người nấp phía sau; trong tình thế cấp bách, người này thình lình đè tiểu binh xuống, rồi cả ba chụp bao gạo lên đầu cho cậu ta chết ngạt.

Giết người rồi, bọn họ sợ đứng tim. Tội giết người, đặc biệt là giết quân nhân sẽ bị xử bắn ngay tại chỗ, nếu để người ta phát hiện chắc chắc sẽ bị bắn thẳng tay. Họ vội chạy ra kể lại cho Bàn Mã, Bàn Mã liền nghĩ bụng ôi thôi hỏng bét rồi.

Chuyện này kiểu gì cũng dây đến lão, vì đội khảo sát mời lão, còn mấy người anh em là do lão nhờ đến giúp, toàn bộ trách nhiệm lão đều không thể trốn thoát. Hơn nữa vào thời điểm nhạy cảm này, dù lão chối mình không tham dự thì cũng chẳng ma nào tin.

Lão lập tức nghĩ ra một cách, phải lôi xác tiểu binh kia ra ngoài coi như mất tích, nếu không họ nhất định sẽ bị tra ra.

Họ lén quay về trả hết gạo, sau đó lôi cái xác tiểu binh ra khỏi lều, kết quả là chưa đi được bao xa đã bị người canh gác phát hiện. Đối phương đuổi theo hỏi họ đang làm gì, bọn Bàn Mã nhất thời chột dạ, để lộ thi thể, tay lính canh lập tức giương súng; nhưng kẻ trước đó đưa ra chủ ý ăn trộm đã chuẩn bị sẵn sàng, thình lình cắt đứt cổ người kia.

Gần như không hề suy xét, bọn họ cứ như bị tẩu hỏa nhập ma mà giết hai người liền. Bàn Mã thầm nghĩ toi đời rồi, lão đề nghị trốn đi, nhưng tay giết người kia lại nổi điên nói đã giết hai người rồi, giết hai là giết mà giết sạch cũng là giết, nếu để họ trở về báo cáo lên quân đoàn thì chúng ta phải trốn trên núi cả đời. Chi bằng giết hết cho xong, rồi cứ nói là không thấy họ đâu nữa, mọi người chắc clão sẽ tưởng là người Việt Nam làm.

Đây là sự kích động bất ngờ xảy đến trong bầu không khí quỷ dị. Đội khảo sát không đông, hiện giờ phần lớn đều ngủ say không biết trời trăng gì nữa, nghĩ đến số gạo trắng và súng tiểu liên, cùng chuyện xảy ra sau đó, ngay cả Bàn Mã cũng không thể kiềm chế tạp niệm nổi lên trong lòng.

Chuyện xảy ra sau đó thật ghê tởm, họ cầm súng tiểu liên và dao găm lần lượt lẻn vào từng lều, dùng thắt lưng siết chết bằng sạch những người bên trong.

Giết người xong họ ném xác xuống hồ rồi đem giấu hết súng ống đạn dược lẫn vật tư, lén lút vác gạo và thức ăn về thôn, giấu dưới gầm giường, cùng hẹn nhau quyết giữ bí mật này đến chết.

Khi đó Bàn Mã chột dạ, tính tới tính lui rồi bắt đầu lan truyền khắp thôn câu chuyện đội khảo cổ mất tích một cách kỳ lạ, chuẩn bị sẵn đường lui. Bởi dạo đó thường xảy ra xung đột biên cảnh, nếu có một đoàn người mất tích ở biên giới Việt Nam thì thường bị đổ cho đặc công Việt Nam làm.

Mấy người họ cứ đinh ninh mình không làm gì sơ hở, ai ngờ đây lại là khởi đầu cho một cơn ác mộng.

Ba ngày sau, Bàn Mã làm bộ muốn đi đưa lương thực, nhân cơ hội quay lại ven hồ, định đến chỗ kia lục tìm mấy món đồ đáng giá. Chuyện điên khùng đêm đó khiến lão vẫn còn e ngại vùng giữa hồ, nên ban đầu chỉ dám đứng từ xa nhìn lại. Đáng sợ làm sao, lão lại trông thấy ven hồ xuất hiện một doanh địa, mà còn có người hoạt động nữa chứ.

Có một đội quân khác? Thi thể đã bị phát hiện? Lão sởn da gà, mất một lúc lâu mới bình tĩnh lại, cho đến khi gắng gượng lấy dũng khí đi vào doanh địa, lão lại trố mắt đứng nhìn: đội khảo sát trước kia ấy thế mà lại xuất hiện ngay trước mặt lão.

Bàn Mã hoàn toàn không hiểu nổi cảm giác của mình lúc này, cũng không thể xác định rõ rốt cuộc là chuyện gì đang xảy ra. Nhìn những bóng người lướt qua trong doanh địa, lão cữ ngỡ mình đang rơi vào ảo ảnh. Họ dường như không hề hay biết trước kia đã xảy ra chuyện gì, rối rít chào hỏi lão.

Lão còn tưởng mình đang nằm mơ, tự véo mấy cái mới phát hiện ra đây là thật. Những gương mặt ấy tuy không quen lắm, nhưng đều đã gặp trong đội khảo cổ kia; thậm chí lão còn thấy mấy người bị chính tay mình siết cổ đang đứng đó chuyện trò vui vẻ.

Lão hoảng hốt chạy về thôn, hồn bay phách lạc, vội vàng kể lại mọi chuyện với mấy người kia. Cả đám quay lại xem thì thấy quả nhiên là thế, ai nấy đều hoảng sợ, suy nghĩ xem chuyện này rốt cuộc là sao. Lẽ nào đó là một hồ ma có thể hồi sinh người chết?

Nhưng bọn họ đều sống sờ sờ, không giống cương thi chút xíu nào.

Bàn Mã nghĩ mãi mà không ra. Người trong thôn rất mê tín, cứ đinh ninh đây nhất định là do sơn thần hồ quỷ tác quái, sợ đến mất vía. Bàn Mã suy tính hồi lâu mới dám lấy hết dũng khí trở lại bên hồ đưa lương thực cho họ nhân tiện ướm hỏi chuyện hôm ấy, nhưng mọi người đều nói không có việc gì, biểu cảm vẫn như bình thường.

Ngày hôm ấy giống như đã bị lật sang trang, thiên thần đã xóa bỏ mọi việc xảy ra trong ngày đó. Hoặc là, mấy kẻ thủ ác đều đã mơ cùng một giấc mơ, họ căn bản không hề giết người.

Bàn Mã không phải là người dễ chịu thua, lão không tin mình nằm mơ, nhưng nghĩ mãi mà không thông được. Sau đó lão vẫn luôn chú ý đến nhóm người này, muốn biết bọn họ rốt cuộc là người hay quỷ? Nhưng dù có quan sát kỹ lưỡng đến đâu, lão cũng không thấy mảy may sơ hở.

Điểm duy nhất khiến lão cảm thấy kỳ quặc là, lão ngửi thấy trên người họ xuất hiện một thứ mùi lạ mà trước kia không có.

Chương 14: Trúng tà

Thứ mùi đó chính là mùi mà Bàn Mã ngửi thấy trong hộp, chẳng qua mùi phát ra từ hộp nồng nặc hơn thôi.

Đối với Bàn Mã, đó hoàn toàn là mùi của người chết. Thứ mùi trên thân thể những ác ma không biết là người hay quỷ đó chắc chắn được mang ra từ địa phủ.

"Trên người cậu ta cũng có thứ mùi đó, nếu không bị mùi thảo dược át đi thì ta đã ngửi được nó từ lần đầu gặp mặt." Bàn Mã nhìn tôi nói: "Cậu ta giống bọn họ, đều là yêu quái cả."

Trên người Muộn Du Bình có mùi qué gì chứ ? Tôi không mẫn cảm với mùi vị cho lắm, cũng không phải thợ săn để mà có khứu giác nhạy bén hơn người, nghe lời lão nói thì nửa tin nửa ngờ. Lần sau phải lén ngửi thử xem sao. 

Nếu chuyện đến đây là hết, có lẽ mọi việc sẽ qua đi, một thời gian sau người ta sẽ hoài nghi trí nhớ của chính mình, những sự việc không lời giải sẽ tự động chìm vào quên lãng. Nhưng tôi biết chắc chuyện vẫn chưa dừng ở đây, vì nếu chỉ đơn giản như thế thì lão Bàn Mã đã không đưa ra kết luận Muộn Du Bình sẽ hại chết tôi.

Quả nhiên lão lại nói: Chuyện xảy ra sau đó khiến cả đời lão không quên nổi thứ mùi này.

Sau khi chuyện lạ xảy ra, Bàn Mã luôn cảm thấy tinh thần mình bất ổn. Tuy đám người ấy dường như không hề thay đổi, nhưng Bàn Mã luôn cảm thấy ánh mắt vẻ mặt họ toát ra nét gì đó yêu dị, cảm giác này không dựa trên căn cứ nào mà hoàn toàn là một loại hiệu ứng tâm lý. Lão có dự cảm: trong thôn sẽ sinh chuyện.

Vài ngày sau, trong thôn xảy ra một chuyện khiến lão rợn tóc gáy.

Tham gia hành hung với lão còn có bốn người, tính ra thì bọn họ đều là họ hàng dây mơ rễ má cả, người xa người gần. Trong số đó người tên Bàng Nhị Quý nhát gan hơn cả bỗng dưng mất tích; Bàn Mã và mấy người kia trong lòng đều ôm ấp bí mật, đã thử nhắc đến chuyện này nhưng rốt cuộc không ai dám nói ra. Người trong thôn vào núi tìm suốt hai ngày, cuối cùng đám Bàn Mã quyết tâm trở lại ven hồ, nào ngờ lại phát hiện gã Bàng Nhị Quý kia đang ngồi trong doanh trại cười nói vui vẻ với người của đội khảo sát.

Bọn họ chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả, đành đưa gã về. Khi Bàn Mã kéo gã, chợt ngửi thấy thứ mùi thần bí kia toát ra từ người gã.

Bàn Mã nhìn Bàng Nhị Quý mà nổi da gà giữa ban ngày ban mặt, lão bỗng nhận ra nét mặt của Bàng Nhị Quý không giống trước đây, cứ như đã biến thành con người khác.

Cảm giác sợ hãi này không thể nói rõ thành lời, lão nghĩ Bàng Nhị Quý nhất định đã bị quỷ ám rồi. Về tới thôn, lão dặn vợ Bàng Nhị Quý nếu phát hiện chồng mình có biểu hiện bất thường thì phải báo ngay cho lão.

Nhưng vợ gã không có cơ hội phát hiện ra điều gì. Ngày hôm sau, chị ta vừa tỉnh dậy đã thấy chồng mình treo cổ bên giường, cả căn phòng nồng nặc thứ mùi quỷ quái kia.

Người trong thôn cứ đinh ninh Bàng Nhị Quý nghĩ quẩn hoặc bị hồ ly tinh quyến rũ. Bàn Mã hiểu rõ sư tình, lòng thấp thỏm lo âu, lại càng thêm chắc chắn những người kia đúng là yêu quái, Bàng Nhị Quý nhất định đã trúng tà.

Vợ Bàng Nhị Quý bị dọa cho hết hồn, không dám ở lại căn nhà cũ, đành dọn về nhà mẹ đẻ, căn nhà kia trở nên hoang phế. Những người khác thì sợ chết khiếp, hai người trong số đó liền dọn ra khỏi thôn, chỉ còn Bàn Mã và một người nữa ở lại. Ban đêm hai người tuyệt nhiên không dám ngủ, phải mượn vài con chó, chỉ lo người tiếp theo sẽ là mình.

Nhưng nuôi chó cũng vô ích, một tuần sau đó, cái người ở lại thôn cùng lão cũng mất tích. Chờ thêm hai ngày, một đứa bé tìm thấy hắn treo cổ trong ngôi nhà hoang của Bàng Nhị Quý, vị trí treo cổ trùng khớp với Bàng Nhị Quý lúc trước.

Bàn Mã bản tính cứng cỏi, thuở nhỏ đã làm bạn với núi non nên hết sức kiên cường. Sau cơn sợ hãi cùng cực, lão trái lại không còn vướng bận gì nữa, vác cây súng quay lại cái hồ kia, trong lòng tự nhủ nếu đằng nào cũng chết thì mình phải chết cho mình bạch, chứ tuyệt đối không ngồi yên chờ chết. Nhưng khi lão vào núi thì vừa hay đội khảo sát cũng nhổ trại.

Bàn Mã đi được nửa đường thì gặp đội khảo sát, hình như họ không cần người dẫn đường. Bàn Mã trước khi đi đã hạ quyết tâm, nhưng vừa nhìn thấy bọn họ liền nhanh chóng dao động, khiếp hãi theo cả đội xuống núi.

Chuyện sau đó giống như Bàn Mã đã kể, đội khảo sát rời thôn mang theo những cái hòm tỏa ra mùi lạ, từ đó trở đi không quay lại đây nữa. Hai người trốn khỏi thôn cũng bình an vô sự, Bàn Mã thấp thỏm sống qua một năm mới dần dần yên tâm, đinh ninh bọn họ đã đi thật rồi.

Chuyện này giống như một cơn ác mộng cứ ám ảnh Bàn Mã không thôi, cảm giác khiếp sợ này tôi có thể hiểu được. Đội khảo sát đi được chừng nửa tháng, lão tò mò muốn biết chuyện gì đã xảy ra, bèn quay lại cái hồ. Đi một vòng quanh hồ, lão phát hiện một bộ quần áo đương thời không hiểu sao lại bị quẳng lên bờ, bọc trong bộ quần áo ấy chính là khối sắt kỳ cục kia.

Phát hiện ra khối sắt này, lão kết luận những người kia nhất định đã bò từ dưới hồ lên, vì khối sắt kia bọc trong quần áo, tuyệt đối không thể bị sóng xô lên bờ. Cái mùi tỏa ra từ khối sắt khiến lão sởn gai ốc, lão nghĩ đây không phải chuyện đùa nên vẫn luôn mang nó theo người. Trước kia thỉnh thoảng gặp cơn túng quẫn lão đã định bán đi, nay điều kiện sống đã khá giả hơn trước, nhớ tới chuyện năm đó mà hoảng, định bụng sẽ mang theo bí mật này xuống mồ.

Sau đó, chúng tôi xuất hiện. Bí mật của Bàn Mã, cuối cùng cũng chấm dứt.

Nghe xong câu chuyện, tôi rơi vào trầm tư. Lạ một nỗi tôi không cảm thấy mọi chuyện thêm mơ hồ, trái lại lần đầu tiên có cảm giác dường như mình đã tìm được một sợi xích có thể kết nối những nghi vấn trong lòng.

Những bí ẩn này giống như ống thép có ren ở hai đầu, mỗi đầu tiếp xúc đều là nghi vấn. Nhưng nếu ta nối liền hai nghi vấn lại với nhau, như thế bốn bí ẩn sẽ mất đi hai; lại nối liền tất cả các ống thép, thì vô vàn bí ẩn có lẽ chỉ còn hai cái ở hai đầu. Cho nên nối liền từng nghi vấn lại với nhau là một công việc rất thú vị.

Nếu là trước đây, tôi nhất định sẽ phát điên; nhưng bây giờ đã học được cách không chỉ nhìn vào bản thân vấn đề, tôi liền hiểu rõ chân tướng sự việc. Cái này lại phải chứng thực, nếu tôi suy luận đúng, thì vấn đề mà chú Ba - hay có thể là Giải Liên Hoàn - vẫn luôn nghi hoặc đã có câu trả lời.

Mà muốn chứng thực chuyện này, lại phải đến cái hồ kia.

Lão Bàn Mã đưa khối sắt kia cho tôi xem, quả nhiên nó giống y xì đúc khối sắt dưới gầm giường Muộn Du Bình, cũng xù xì thô ráp, bề mặt có những hoa văn cổ. Có điều khối sắt của Bàn Mã lớn hơn một chút, tôi ngửi thử, quả nhiên có mùi quái lạ nhưng chỉ thoang thoảng, hầu như không thể nhận ra. Lão nói lúc vừa phát hiện thì mùi của nó rất nồng, dần dần mới nhạt đi; đặt khối sắt này trong nhà, côn trùng sâu bọ đều không dám bén mảng.

Tôi tạm thời mất hứng với vật này, trong lòng nổi lên đủ loại suy đoán.

Bàn Mã không chịu đến cái hồ kia nữa, tôi định bảo A Quý tìm người dẫn đường khác, đưa tiền cho Bàn Mã rồi đứng dậy cáo từ.

Ra đến cửa, tôi sực nhớ ra một việc khác, bèn quay lại hỏi lão "À phải rồi, hình xăm trên người ông có lai lịch thế nào?"

Bàn Mã nhìn tôi, tỏ ra ngạc nhiên vì câu hỏi đột ngột này. Con lão giải thích: "Đây là hình xăm phòng cổ độc do một vu sư người Mèo xăm cho cha tôi hồi nhỏ. Lần đó ông ta được ông nội tôi cứu mạng, bèn xăm hình này cho cha tôi để tạ ơn. Nghe nói có hình xăm này trên người là được quyền thoải mái đi lại trong làng người Mèo mà không ai dám gây khó dễ."

Chương 15: Kế hoạch

A Quý chờ tôi ở cửa, ngồi xổm trên đất bực dọc hút thuốc, hiển nhiên cũng không biết đám Bàn Mã đang làm cái quái gì. Nhìn thấy tôi, tôi liền bảo anh ta: Đi, chúng ta về.

Trên đường về tôi hỏi anh ta có biết cái hồ trong núi Dương Giác mà Bàn Mã nhắc đến hay không? A Quý gật đầu, bảo trước kia từng nghe nói nhưng cũng chưa đến đấy bao giờ. Tôi liền bảo mình ra giá cao, mau tìm giúp một thợ săn đưa nhóm tôi vào đó.

A Quý gật đầu lia lịa, rồi hỏi dò xem Bàn Mã rốt cuộc đã nói với tôi chuyện gì? Cơ mà A Quý hỏi rất e dè, tôi thầm nghĩ nói cho anh tức là hại anh, bèn thuận miệng đáp lấy lệ.

Vội vã trở về nhà A Quý, tôi nóng lòng muốn kể cho Muộn Du Bình nghe phát hiện của mình, nhưng trong nhà chỉ có Vân Thái đang đun bếp với em, không thấy Bàn Tử và Muộn Du Bình đâu cả.

Tôi nghĩ bụng, quái, bèn hỏi em của Vân Thái xem họ đâu rồi? Em Vân Thái đáp cái anh lầm lì kia về đến nơi thấy anh béo chưa về mới hỏi em, em bảo anh béo đi cả đêm chưa về, anh ấy liền vội vã đi tìm.

Tôi còn đang phấn chấn, nghe tới đây liền mất hứng, thầm nghĩ Bàn Tử cả đêm chưa về?

Trong thôn không có mấy chỗ chơi bời cho hắn la cà như ở thành phố, hắn đi thâu đêm kể cũng lạ. Tôi khá hiểu Bàn Tử, nhớ lại trước kia hắn đã nói muốn đi tìm acid sunfuric, chợt có dự cảm mơ hồ.

Hẳn là Muộn Du Bình cũng như tôi, nghĩ ngay tới khả năng này, cho nên mới lập tức đi tìm.

Tôi lập tức bảo A Quý dẫn mình đến trụ sở thôn, nếu Bàn Tử gặp chuyện ngoài ý muốn, nhất định sẽ ở đó. Đi được vài bước đã thấy Bàn Tử với Muộn Du Bình quay lại, trên mặt Bàn Tử còn quấn băng, vừa đi vừa chửi um lên, hình như là bị thương.

Hỏi ra mới biết Bàn Tử đi mua acid sunfuric, trên đường về thấy một tổ ong vò vẽ, thế là bản tính lộ ra, kết quả dự đoán sai thân thủ của mình, dính chưởng nghiêm trọng, phải ngâm nước muối rồi ngủ lại cả đêm ở trụ sở thôn. Bàn Tử nói ong vò vẽ ở đây không giống ong mình hay gặp, ong vò vẽ mình gặp trước kia đều phải chọc vào tổ mới xông ra, chứ ong này mới mon men đến gần đã đột ngột vây kín, hung ác cực kỳ.

Tôi bảo anh đừng đổ tội cho khách quan, cứ thẳng thắn thừa nhận mình rút lui xem nào. Lão Bàn Tử không khoe chuyện quá khứ (*), mấy cái trò như chọc tổ ong vò vẽ từ sau anh hạn chế đi, tránh cho người khác chê cười.
(*) Chế từ câu tục ngữ "Hảo hán bất đề đương niên dũng" nghĩa là hảo hán không khoe khoang ngày xưa mình anh dũng thế nào, nói cách khác là không ngủ quên trong quá khứ.

Về phòng thay thuốc cho Bàn Tử, thay thuốc hiển nhiên là rất đau, nếu không ráng nhịn đau để chứng tỏ khí khải nam tử trước mặt Vân Thái thì hắn nhất định đã gào rống ầm ĩ như heo bị cắt tiết rồi.

Tôi tiến lên hỗ trợ, Vân Thái trái lại khá bình tĩnh, thay thuốc cho hắn nhẹ nhàng như chuồn chuồn lướt nước. Tôi phát hiện trên cằm hắn có mấy mảng thịt sưng vù nhỏ bằng móng tay, Vân Thái lấy thanh nứa cắt hết những chỗ sưng rồi bôi thuốc, quả thực chính là róc thịt sống, chẳng trách hắn đau chết ngất đi được.

Thay thuốc xong muốn ăn cơm cũng chật vật, khó khăn lắm mới ăn xong bữa, sắc trời cũng tối sầm lại. Cả đám đứng trên hành lang căn nhà sàn hóng gió, tôi thuật lại một lần tất tật những chuyện mình nghe được.

Nghe xong câu chuyện, hai người đều nhíu mày. Bàn Tử hỏi tôi: "Lại có chuyện như thế nữa à, má nó còn ghê hơn mấy chuyện ma quỷ tôi đem dọa bọn con gái hồi nhỏ. Chuyện này có thật không, cậu nói xem giả thiết của cậu là gì?"

"Tôi cho rằng, Bàn Mã tuyệt đối không bịa chuyện. Việc này chắc chắn là thật, nhưng cái "thật" của ổng không phải là "thật" theo nghĩa đen."

"Ý cậu là sao?"

"Chúng ta đi tìm giả thiết hợp lý nhất, bỏ qua mấy cái nhảm nhí như hồ ma với chả yêu quái. Anh cảm thấy giả thiết hợp lý nhất trong trường hợp này là gì?"

Bàn Tử lắc đầu: "Thôi đừng vòng vo nữa, não tôi bị ong chích thủng cả rồi, không đoán được cậu nghĩ gì đâu, cậu cứ xổ toẹt ra đi."

Tôi gượng cười, khó khăn lắm mới tìm được cơ hội thể hiện chút ít mà Bàn Tử cũng không chịu phối hợp: "Được rồi, chúng ta loại bỏ hết những yếu tố không thể xảy ra, không có sống lại, không có yêu quái, nhưng câu chuyện phải logic, lời Bàn Mã nói phải đứng vững, thế thì chuyện này rõ ràng chỉ có duy nhất một khả năng."

"Rõ ràng cái gì cơ?"

Tôi đáp: "Người chết sống lại thế quái nào được, suy ra đội khảo sát vào núi không phải đội khảo sát rời núi."

Bàn Tử dừng một chút, lĩnh ngộ nói: "Ý cậu là, người chết không sống lại, những kẻ trở ra là một nhóm người khác?"

"Những người bị bọn Bàn Mã giết quả thực đã chết, Bàn Mã cũng không hiểu rõ về đội khảo sát kia, nếu có một nhóm người khác dịch dung, tôi nghĩ không cần phải giỏi hoá trang cũng lừa được Bàn Mã."

"Nhưng vì sao bọn họ phải làm thế? Chẳng lẽ chỉ để đùa bỡn lão."

"Tôi chỉ phỏng đoán thôi, thông qua tình hình của Bàn Mã và đội khảo sát kia, tôi cảm thấy chuyện này có thể có sai sót. Chúng ta đặt giả thiết đây là một âm mưu đã được tính toán từ lâu, vậy có thể trong âm mưu đó, vào cái ngày Bàn Mã giết chết cả đội thì đội khảo sát này cũng đã bị sắp đặt để biến mất. Nhưng kế hoạch này có thể xuất hiện sai sót, có lẽ sát thủ đến giết đội khảo sát đã gặp chuyện ngoài ý muốn trong rừng nên không đến nơi được, trái lại để Bàn Mã hoàn thành nhiệm vụ. Sau đó đội khảo sát giả đến đây thay thế tưởng sát thủ đã hoàn thành nhiệm vụ, nên cứ dựa theo kế hoạch mà bắt đầu nhiệm vụ ngụy trang. Bàn Mã không hiểu rõ câu chuyện, mới nói nó là 'hồ ma'." Tôi nói: "Đây là một phỏng đoán hợp lý thôi, sự thật có thể khác hoàn toàn, nhưng nó chứng minh chuyện này có thể xảy ra."

"Ờm, giả thiết này nghe cũng hợp lý đấy, cơ mà hình như Bàn gia đây đã từng nghe cái mô tuýp này ở đâu đó rồi?" Bàn Tử nói."Cậu có bằng chứng không?"

"Chỉ có một vài chi tiết nhỏ, ví dụ như đội khảo cổ do Bàn Mã dẫn vào, nhưng lúc quay ra họ tự đi chứ không chờ Bàn Mã dẫn đường, chứng tỏ nhóm người sau có khả năng tìm đường ra. Chuyện xảy ra sau đó có thể là vì đội khảo sát phát hiện ra manh mối gì đó, bèn giết đám Bàng Nhị Quý diệt khẩu. Giờ tôi vẫn chưa biết đội khảo sát này có phải chính là đội đi Tây Sa không, nhưng tôi có cảm giác, dù không phải tất cả thì nhất định cũng có vài người trong số họ đi Tây Sa. Nếu là như thế thì anh nói xem, liệu có ai vì muốn vào đội khảo cổ đi Tây Sa mà tiến hành một vụ đánh tráo?" Tôi suy luận hết sức thành thục.

Bàn Tử hỏi: "Mẹ kiếp, nhưng cậu chứng minh kiểu gì được?"

"Cách trực tiếp nhất có lẽ là chúng ta đến chỗ cái hồ nằm trong núi Dương Giác xem sao. Bây giờ hồ đã thu hẹp, tôi nghĩ có thể lặn xuống nước thăm dò đáy hồ, xem liệu có những cái xác bị vứt xuống hay không."

"Mẹ kiếp, chuyện này cũng khó nói lắm, từ đó đến giờ đã qua 40 năm, xác người lại chẳng nát bấy từ đời tám hoánh."

"Xương cốt nhất định vẫn còn." Tôi nói: "Đám Bàn Mã không có thuyền, chắc chắn chỉ vứt xác quanh hồ thôi, tôi nghĩ chúng ta có thể đi thử vận may."

Chương 16: Dường như đã từng quen

Bàn Tử cảm thấy giả thiết của tôi rất mơ hồ, nhưng cũng phải thừa nhận đây là khả năng hợp lý duy nhất.

Hắn ta vốn tích cực ủng hộ phương án vào chơi trong núi Dương Giác một ngày, thấy tôi nói muốn đi thì đương nhiên là đồng ý nhiệt tình. Sau đó chúng tôi bàn bạc cụ thể về công việc, vì chuyến này coi như đi du lịch, chẳng mang theo đồ nghề gì nên vấn đề trang bị cũng hơi khó nhằn. Lỡ đâu phải đào mồ quật mả cần có đồ nghề mà mang theo hai bàn tay trắng thì chỉ còn nước trơ mắt mà nhìn.

Nhưng ở những nơi thế này lại không có sẵn trang bị để mà mua, Bàn Tử nói có vài thứ cũng không khó giải quyết, chúng ta có thể mua cái khác bù vào, tuy không thuận tay cho lắm, nhưng lần này không đi xa thôn lắm nên cũng không cần đòi hỏi quá cao.

Hắn bảo, thợ săn nào mà chẳng có những vật dụng để sinh tồn nơi hoang dã, chúng ta cần gì phải vác theo nhiên liệu rắn và lò không khói. Nhưng chứng kiến độ hung hãn của dã thú rồi, tôi cảm thấy vẫn nên chuẩn bị vũ khí cho chu đáo thì hơn.

Tôi gọi A Quý tới để thương lượng về những chuyện này. Bản thân A Quý cũng đi săn, có ba khẩu súng săn đều là súng cũ không rõ tên tuổi được sửa sang lại, niên đại cũng không đồng đều. Khẩu cũ nhất được A Quý lấy ra từ chuồng gà, tuy nòng súng vẫn còn nguyên vẹn nhưng bên trong đã hoen gỉ cả rồi, chẳng ai dám xài đến, vả lại cũng không biết đào đâu ra đạn. Hai khẩu còn lại vẫn bắn được, xem ra là di vật từ thời chiến tranh.

Mấy năm trước có lệnh cấm súng, nhưng người vùng này sống bằng nghề săn thú, đã là cần câu cơm thì dễ gì giao ra. Cấp trên hiểu chuyện nên cũng mắt nhắm mắt mở cho qua, có điều bây giờ đạn là hàng hiếm, A Quý phải nhờ cán bộ thôn lên tận huyện mới mua được.

A Quý cũng chỉ là thợ săn nghiệp dư nên không giữ nhiều đạn trong nhà. Bàn Tử kiểm tra hai khẩu súng rồi nói: "Súng của A Quý tuyệt đối không có vấn đề gì, một khẩu đã lâu không đụng đến nhưng được bảo dưỡng tốt lắm, phải bắn thử một phát mới biết có xài được không."

Chúng tôi trả cái giá cắt cổ năm mươi đồng một viên đạn, mua được bốn năm mươi viên từ mấy nhà hàng xóm của A Quý. Tôi nhìn viên đạn hình trụ bằng đồng thau, biết ngay đây hàng thủ công làm ra trong xưởng nhỏ. Cái của nợ này mà mua mất năm mươi đồng, mẹ kiếp đúng xót ruột. Bàn Tử bèn khuyên đừng có bủn xỉn như vậy, năm mươi đồng mà cứu được mạng cậu thì cũng đáng chứ.

Nhà A Quý đã có sẵn dao phát, anh ta mài lại cho sắc; những món đồ khác chúng tôi viết ra giấy rồi bảo A Quý đi quanh thôn tìm xem có vật thay thế hay không. Thiếu dây thừng leo núi thì xài dây gầu dưới giếng, thiếu đèn pin công suất lớn thì mượn mấy cái đèn pin nhỏ buộc lại, thiếu dao găm thì xài tạm lưỡi liềm.

A Quý bảo chúng tôi giờ đang vào mùa mưa, trong núi nhiều muỗi kiến độc, đặc biệt là vùng ven hồ, muỗi ở đấy to bằng con ong vò vẽ; đề nghị phải mang theo nhang muỗi và màn, quây quanh đống lửa, bằng không mấy người thành phố chúng tôi nhất định sẽ không chịu nổi. Tôi lại thầm nghĩ, có Muộn Du Bình ở đây còn lo gì nữa?

Sắp xếp ổn thỏa, A Quý liền nói mấy món đồ này sẽ phải mất một hai ngày để chuẩn bị. Dù sao thợ săn vào đó cũng chưa ai trở về, nên chuẩn bị cho chu đáo rồi hẵng xuất phát.

Trong lúc này, Bàn Tử lại hỏi có thể nghĩ cách dùng acid sunfuric mình mang về để xem trong khối sắt kia chứa vật gì không? Việc này cần những thao tác tinh vi, phải kiếm bãi đất nào khá khẩm hơn một chút.

Tôi nghĩ đến câu chuyện Bàn Mã kể, thấy không ổn cho lắm. Từ khối sắt này tản ra một thứ mùi, hơn nữa cái mùi này còn nhạt dần đi theo thời gian, cho thấy bên trong chứa một loại vật chất bay hơi, có quỷ mới biết loại vật chất này có gây hại cho cơ thể người hay không. Tôi cảm thấy vẫn chưa đến lúc dùng acid hòa tan vật này, tốt nhất là chờ đến khi tra được chút manh mối rồi mới phán đoán xem có cần thiết phải mạo hiểm như thế hay không.

Bàn Tử tò mò muốn chết đi được, nhưng lời tôi nói cũng rất có lý. Nghĩ đến chuyện có thể ảnh hưởng đến những người khác, hắn cũng chỉ còn cách từ bỏ.

Sau đó Bàn Tử tỏ ra hết sức hào hứng, thứ nhất hắn tin chắc vào giả thiết cổ mộ của mình, thứ hai hắn đã lâu không đi săn nên chân tay ngứa ngáy lắm rồi, bất chấp khuôn mặt nở toe toét như hoa loa kèn (1), cả đêm không ngừng ba hoa về chuyện mình đi săn thú hồi xưa. Tôi cũng đang cao hứng, trong đầu nảy ra một vài giả thiết; còn Muộn Du Bình vẫn ngậm hột thị, tôi thấy anh ta cứ nhìn đăm đăm vào ngôi nhà A Quý nằm kế bên, nhìn cái cửa sổ kia đến xuất thần.

Tôi nhớ lại cái bóng mình nhìn thấy trong căn nhà đó vào đêm hôm trước, nhưng bây giờ khung cửa sổ kia tối om om, chẳng nhìn thấy gì. Con trai A Quý hình như không thích gặp người, ít khi giao du. Tôi hoài nghi không biết có phải cậu ta mắc bệnh gì nên mới phải ru rú trong nhà, ở nông thôn thường có chuyện như thế.

Một đêm thức trắng, cộng thêm một ngày nghĩ ngợi căng thẳng, chẳng bao lâu đầu óc tôi đã mơ màng không nghe rõ Bàn Tử đang nói gì nữa. Muộn Du Bình thì tựa vào đâu đó ngủ gà ngủ gật, ngoài này mát mẻ hơn trong nhà nhiều, xung quanh Muộn Du Bình không có lấy một con côn trùng, chúng tôi cứ thế nằm xuống ngủ mê mệt.

Ngày thứ hai ai nấy đều tự chuẩn bị hành lý phần mình, sang ngày thứ ba mọi việc đã xong xuôi, A Quý dẫn chúng tôi lên đường.

Chuyện khiến tôi bực bội nhất là không thấy người dẫn đường trong truyền thuyết đâu cả; người đi cùng lại chính là A Quý và Vân Thái.

Tôi hỏi có chuyện gì thế, A Quý không phải anh đã nói mình chưa đến đó bao giờ sao? Cớ gì anh lại đích thân dẫn chúng tôi đi.

A Quý đáp dạo này thợ săn vào núi chẳng biết gặp phải trở ngại gì mà mấy đội đi không một ai trở lại. Những người khác đều chưa từng đến đó, anh ta đành nhờ con gái Vân Thái dẫn đi; trước kia Vân Thái từng theo ông nội vào đó vài lần nên biết rõ đường. Anh ta dẫn theo chúng tôi cộng thêm Vân Thái biết đường, vả lại còn có chó nên chắc không có vấn đề gì lớn đâu.

Tôi thầm nghĩ thôi tiêu rồi, chắc mình trả giá quá cao nên A Quý không nỡ để đống tiền lọt vào tay người khác đây mà. Bàn Tử lập tức phản đối, nói chúng tôi đi làm công chuyện, có phải trò đùa đâu mà mang theo một con bé, lỡ bị thương kẻ làm cha như ông không đau lòng thì chúng tôi cũng đau.

A Quý vẫn khăng khăng nói không sao đâu mà, con gái ở đây lên năm lên sáu đã chơi súng, vào trong núi nó còn được việc hơn các anh. Với lại nó cũng thuộc đường trong núi hơn tôi, các anh đừng lo lắng.

Nói đến đây thì Vân Thái từ trong nhà bước ra, tôi và Bàn Tử vừa nhìn đã lóa mắt. Chỉ cảm thấy Vân Thái dương như đã biến thành con người khác, cô bé mặc trang phục đi săn của người Dao, dao săn buộc sau eo, lưng đeo một khẩu súng săn ngắn. Con gái người Dao vốn có dáng vóc đẹp, khoác bộ đồ này lên lại khoe trọn bắp chân và những đường cong trên thân thể, quả là đẹp mắt.

Thêm vào đó là vẻ mặt vừa tươi tắn lại vừa mạnh mẽ tinh anh, cộng thêm khí thế khiến người ta không thể chối từ của tuổi mười bảy mười tám, loáng cái đã chinh phục được Bàn Tử.

Cô bé lại gần chúng tôi, nhìn Bàn Tử đầy khiêu khích: "Ông chủ nói vậy là có ý xem thường người ta phải không?"

"Đâu có đâu có!" Bàn Tử chối lia lịa: "Em gái à, chớ có hiểu lầm, chẳng qua anh sợ em phải chịu khổ thôi, chứ thật ra em mới đúng là lựa chọn tốt nhất."

Tôi đá cho Bàn Tử một cú, khẽ mắng: "Sao ông anh trở mặt nhanh như chong chóng thế, ông anh đã đến tuổi này rồi còn muốn làm trâu già gặm cỏ non hay sao?"

"Đến tuổi này thì đã làm sao, tôi đây gọi là người đến tuổi tráng niên, cùng lắm thì làm tráng ngưu."

Tôi thở dài: "Ông anh nghĩ mà xem, người ta là đêm động phòng dưới chăn uyên ương, một nhánh hoa lê áp hải đường (*). Ông anh thì hay rồi, đúng là một con heo mập áp hải đường, nếu ông anh dám làm bậy, tôi sẽ đại diện cho trai tráng cả tộc Dao bắn chết tươi."

(*) Đây là hai câu thơ trong bài Nhất thụ lê hoa của Tô Đông Pha làm ra để trêu chọc một cặp chồng già lấy vợ trẻ. Cây lê sống lâu, vốn là biểu tượng của tuổi già; hoa lê màu trắng như mái tóc bạc phơ. Hải đường lại tươi tắn rực rỡ, tượng trưng cho cô gái trẻ. Nhưng Bàn Tử không hợp với hình tượng cành lê thanh mảnh nên đổi thành heo mập hợp hơn =))

Cười đùa một hồi, tôi cũng đành phải chấp nhận. Nhìn khí phách của Vân Thái, tôi cảm thấy A Quý nói không sai, vả lại tôi đoán chuyến đi này cũng không gặp nguy hiểm gì quá lớn.

Điều duy nhất khiến tôi bận tâm là khi chúng tôi gói ghém đồ đạc, Bàn Tử luôn trêu đùa Vân Thái, chọc Vân Thái cười khanh khách. Nhưng để ý thì thấy Vân Thái thỉnh thoảng lại len lén nhìn Muộn Du Bình, nhìn rất cẩn thận, chỉ liếc mắt một cái rồi quay đi ngay, nhưng tôi vẫn nhìn ra được chút manh mối từ đôi mắt trong veo ấy.

Chúng tôi xuất phát, đi dọc theo còn đường đi tìm lão Bàn Mã lần trước. Tôi cũng lờ mờ nhớ đường, chuyến đi này vui vẻ hơn lần đi tìm người kia nhiều. Bàn Tử quả thực đã bị mê hoặc rồi, cứ lượn lờ quanh Vân Thái suốt, chỉ thiếu điều bò bằng bốn chân làm ngựa cho cô cưỡi; mà Vân Thái cũng thật dễ thương và sôi nổi.

Cô hỏi chúng tôi rốt cuộc làm nghề gì, nhất định không phải hướng dẫn viên du lịch rồi vì làm gì có hướng dẫn viên du lịch nào lại đến cái chốn này chứ. Bàn Tử liền ra vẻ thần bí, nói tụi anh là nhân vật lớn đi làm nhiệm vụ bí mật, nếu em chịu hôn anh một cái thì anh sẽ tiết lộ cho em biết.

Tôi còn sợ Vân Thái hôn hắn ta thật, vậy cũng quá lãng phí rồi, may mà Vân Thái vẫn còn mắt thẩm mỹ, cương quyết không mắc mưu. Nhưng Muộn Du Bình vẫn dửng dưng trước bầu không khí náo nhiệt của chúng tôi, sắc mặt hắn không hề thay đổi khiến tôi cảm thấy có gì đó khác thường.

Đêm hôm ấy chúng tôi đến sơn khẩu nơi có ngôi mộ cổ, đi sâu thêm một vài km nữa rồi nghỉ ngơi, đến hửng sáng lại lên đường, đi suốt hai ngày trong núi là đến được mép hồ kia.

Tôi đứng trên triền núi, từ xa đã thấy cái hồ kia. Có lẽ là vì mấy ngày mưa to liên tiếp nên mặt hồ cũng lớn tưởng tượng của tôi một chút, dĩ nhiên bốn phía vẫn là đá tảng như lời Bàn Mã nói. Chúng tôi đi đến ven hồ, hoàn toàn không nhìn ra dấu vết có người đã từng đóng quân ở đây năm nào.

Nước hồ trong veo in bóng mây trên trời thành một cảnh tượng đẹp đẽ. Chúng tôi bỏ đồ đạc xuống, đến bên hồ rửa mặt. Nước hồ lạnh băng cho thấy đáy hồ thông với mạch nước ngầm trong đất, vào ngày tam phục (*) chạm tay vào mặt nước lạnh lẽo khiến người ta run rẩy toàn thân.

(*) Tam phục: chỉ thời kỳ nóng nhất trong năm, gồm sơ phục, trung phục mà mạt phục. Sơ phục là khoảng thời gian từ ngày thứ 21- 31 sau hạ chí; trung phục là 10 ngày nối tiếp sơ phục (trong năm nhuận thì là 20 ngày nối tiếp sơ phục); mạt phục là 10 ngày kể từ lập thu.

Rửa mặt xong, tôi ngẩng đầu nhìn lên bốn phía, nhìn mặt nước in bóng bầu trời và núi non xung quanh, chợt nhận ra nơi này dường như đã từng quen thuộc. Tôi liếc sang bên cạnh, thấy Muộn Du Bình cũng đang nhìn phong cảnh núi non bốn bề với vẻ nghi hoặc.

----------------

(1) Nguyên văn: 马蹄莲, là giống hoa này:

Chương 17: Câu đố

Trước đây đã từng xảy ra chuyện tương tự làm tôi sởn da gà, Muộn Du Bình cũng ngây ra mà nhìn với ánh mắt đầy nghi hoặc, chưa biết chừng hắn có cảm giác giống tôi.

Ở đâu nhỉ? Tôi đã từng thấy cảnh này ở đâu, hay từng thấy tình cảnh tương tự như vậy ở đâu rồi?

Tôi ra sức hồi tưởng, suy đi nghĩ lại mà vẫn không tài nào nhớ ra, chỉ biết rõ mình từng thấy cảnh tượng này cách đây không lâu, hơn nữa đi kèm với cảm giác thân thuộc còn có một loại cảm giác "không đúng". Hiển nhiên ấn tượng trong tâm trí tôi vẫn không hoàn toàn trùng khớp với nơi này.

Bàn Tử vô tâm vô phế, cởi sạch đồ chỉ còn mỗi quần đùi rồi nhảy xuống nước bơi. A Quý cẩn thận hơn, hồ nằm trong núi vốn là điềm chẳng lành nên không có việc gì thì hạn chế bơi lội.

Trở lại bờ, chúng tôi cởi giày và quần ướt đẫm ra, Bàn Tử phụ A Quý dựng lều che mưa. A Quý đi đốn củi trở về, Vân Thái giúp nấu cơm, tôi uống nước xong mới nhớ ra mình đã gặp thế núi này ở đâu.

Hình dạng và cảm giác về ngọn núi này không ngờ lại khá tương đồng với cảnh núi chúng tôi nhìn thấy khi vọc nước ở dòng suối ven thôn, đường nét và hướng núi đều giống nhau như đúc; có khác chăng là khi đó chúng tôi ở dưới suối, còn giờ thì ở trong hồ, điều này khiến tôi phải sững sờ trong giây lát.

Khi đó tôi đã cẩn thận quan sát cảnh vật xung quanh khe nước; đừng nhìn Muộn Du Bình có vẻ mất tập trung mà nhầm, hắn chắc chắn đã thu tất cả vào trong mắt. Còn sự chú ý của Bàn Tử lại dồn hết lên những cô bé kia, hèn gì không phát hiện ra.

Thật thú vị, bàn tay tạo hóa thật diệu kỳ, không biết đây chỉ đơn thuần là trùng hợp hay do nguyên nhân địa chất nào đó mà thành hình.

Sau đó tôi, Bàn Tử và Muộn Du Bình bắt đầu đi quanh hồ để thăm dò.

Hồ cũng chỉ còn rộng khoảng hai sân đá banh, đi một lát là xong. Dưới đáy hình như toàn là đá tảng nhưng thành hồ rất dốc, xem ra lòng hồ cũng khá sâu.

Tôi luôn có cảm giác sợ hãi một cách khó hiểu đối với những hồ nước sâu. Có câu nước cạn không chứa rồng, nước sâu tất có quái, lòng nước sâu cho thấy dung tích của hồ không nhỏ như chúng ta thấy từ bề mặt, mà có thể còn chứa đựng thứ gì kỳ quái bên trong. Trên thế giới có biết bao nhiêu hồ lớn chứa thủy quái, tuy bề mặt chúng không rộng nhưng lại rất sâu. Dù không có gì kỳ quái thì chỗ nước sâu cũng dễ có cá lớn, thi thoảng vào mùa nước lên sẽ phát hiện vài con cá khổng lồ.

Không thấy vết tích xương cốt rõ ràng, song những viên đá này đều nhỏ vụn, trong hơn 40 năm mực nước nơi này lên xuống vô định, đá núi không ngừng lăn xuống, những mảnh xương này kia có thể nằm bên dưới lớp đá.

Chúng tôi phán đoán tình hình lúc đó, dựa theo lẽ thường thì có lẽ đội khảo cổ dựng trại ở bờ nam. Bờ bên kia là núi, có nguy cơ gặp đất đá bùn lầy trôi xuống, vậy thì khu vực chúng tôi muốn tìm hẳn là bờ nam.

Đây là một công việc đồ sộ, may mà còn dẫn theo vài con chó, nhưng cũng chẳng biết có tác dụng gì không. Thi thể ngâm nước chừng ấy năm nhất định đã thành xương trắng, có lẽ trông cũng từa tựa đá tảng.

Ăn cơm trưa xong, A Quý đi thăm thú xung quanh xem có món gì tốt. Chúng tôi bắt đầu tìm kiếm trong khu vực, Vân Thái giặt mớ quần áo đẫm mồ hôi giùm chúng tôi. Vùng ven hồ rất rộng, tôi, Bàn Tử và Muộn Du Bình chia nhau mỗi người một khoảnh mà tìm kiếm.

Lấy tay không vần từng khối từng khối đá, nơi đây đá chất thành cụm hẳn là do những tảng đá gần bờ hồ không ngừng lăn xuống. Nhưng đáy hồ lại từ từ dốc xuống, vả lại bản thân những tảng đá tích tụ lại còn có tác dụng chống nước mưa bào mòn (nước mưa không chảy thành dòng bên trên bãi đá mà sẽ ngấm qua đá, hợp thành dòng nước ngầm bên dưới.) Nơi Bàn Mã vứt thi thể năm nào chắc chắn rất gần bờ, cho đến giờ cũng đã khô hạn nhiều năm và mọc đầy cỏ nên tôi nghĩ hài cốt sẽ không bị vùi quá sâu.

Bàn Tử nói thi thể bị ném xuống đó nếu không buộc lại thì ban đầu sẽ trôi lơ lửng, sau đó chìm xuống rồi bị tôm cá rỉa, xương cốt phân tán hết, đầu ở đây cái kia có thể trôi xa hơn 100m, muốn kiếm cũng kiếm không ra. Mà nếu thi thể không được ném xuống nơi đủ sâu thì có thể còn bị thú vật tha lên bờ xé ăn.

Tôi nói dù gì đi chăng nữa cũng khó có chuyện không lưu lại chút manh mối nào. Mao chủ tịch từng nói hai chữ đáng sợ nhất trên đời là niềm tin, chúng ta cứ tìm trước đã, tìm không thấy hẵng đi phân tích nguyên nhân sau.

Cứ thế cho đến khi trời chiều đã ngả về tây, ba người vẫn tay trắng. Mấy con chó săn chạy chơi ven hồ, hoàn toàn không đếm xỉa đến chúng tôi, cũng chả thèm giúp sức. Phơi dưới ánh nắng gay gắt bên bờ hồ cả ngày khiến đỉnh đầu tôi đau rát; từ trong rừng vang lên hai tiếng súng của A Quý, rồi anh mang về một con gà rừng đem nướng, chẳng mấy chốc mùi thơm đã tỏa ra ngào ngạt làm chúng tôi thèm nhỏ rãi.

Bàn Tử không nén nổi tâm trạng ủ rũ, lúc nghỉ ngơi chúng tôi quây quần bên nhau mà hút thuốc, Bàn Tử liền nói thôi đủ rồi, cậu nhìn thử xem khu này chỗ nào nhiều khả năng có mộ cổ?

Tôi bảo chẳng phải anh cũng biết sơ sơ đó sao, anh nói xem chỗ nào ở đây có mộ? Bàn Tử liền đáp: "Tôi thấy không ổn đâu, nhìn sơ qua thế núi nơi này chẳng ra cái dáng gì cả, khó có mộ lớn lắm. Nhưng Bàn gia đây trình độ nửa vời, nên mới hỏi lại cậu xem tôi có nhìn lầm không."

Tôi nghĩ bụng trình độ anh mà nửa vời thì trình độ tôi chắc là hạng bét, cũng chẳng còn bụng dạ đâu mà suy xét chuyện này, dù sao cũng phải nán lại vài ngày rồi mới về, từ từ khoai khắc nhừ thôi.

Hiếm khi trong lòng không vội vã, uống ít rượu gạo, chúng tôi quây quần quanh đống lửa ven hồ nghỉ ngơi hóng mát. Hồ nằm ven núi, không khí mát rười rượi. Vân Thái cũng đã thay sang một chiếc sơ mi mỏng, gội đầu xong bỗng khoác lên mình dáng dấp con gái thành phố hiện đại, sau bữa cơm còn nhảy múa cho chúng tôi xem. Vũ điệu của người Dao có rất nhiều động tác xoay tròn và đá cẳng chân, mà chân con gái Dao lại đẹp nõn nà làm Bàn Tử ngồi coi muốn rớt cằm, khăng khăng đòi học, nhưng tướng nhảy của hắn y như lên đồng làm tôi cười lăn cười bò cả ra.

Lâu rồi không cười sảng khoái đến thế, mãi mới ngưng lại được, tôi đảo mắt nhìn sang Muộn Du Bình thì đã thấy hắn dựa vào tảng đá, nét mặt không hề thoải mái, nếu nhìn lướt qua sẽ không phát hiện ra hắn đang tồn tại.

Tôi thầm nghĩ, mình tới đây truy tìm quá khứ của hắn liệu có phải sai lầm hay không? Nhưng nhìn những manh mối hiện đã thu thập được thì hiển nhiên trên lý thuyết chúng tôi đến đúng chỗ rồi. Đối với chúng tôi con đường đến đây có thể đi một cách ung dung, nhưng với hắn những thứ gặp phải trên đường luôn gợi mở cánh cửa quá khứ, muốn thả lỏng cũng khó.

Người này lại mang đặc trưng của kiểu nhân cách hướng nội, lòng ở ngoài chốn đào viên mà vẫn cười với gió xuân, chẳng để ai vào lòng. Tôi nhặt một hòn đá nhỏ ném hắn, nói: "Anh đừng cả nghĩ, nói cho anh biết, theo kinh nghiệm của tôi có nghĩ đến nát óc cũng chẳng để làm gì. Chúng ta đang chắp tranh, trước khi tìm ra tất cả mảnh ghép thì nghĩ ngợi ít thôi." Rồi đưa rượu gạo cho hắn.

Muộn Du Bình lặng lẽ nhận lấy rồi đặt sang một bên. Tôi thở dài: "Anh không thể uống lấy một ngụm sao."

Hắn lắc đầu, nhìn sang khoảng tối bên cạnh.

Tôi đành chuyển sự chú ý sang Bàn Tử, thấy hắn đang ra câu đố mẹo cho chúng tôi đoán, hỏi Vân Thái chiến đấu như thế nào thì gọi là "Giết địch một trăm, tự tổn ba ngàn."

Tôi sợ Bàn Tử lấy truyện cười bậy bạ ra cho Vân Thái đoán, nhuộm đen đầu óc trong sáng của cô bé, liền la rầy hắn. Bàn Tử nói yên tâm đi, câu đố này hoàn toàn đứng đắn.

A Quý cũng nốc kha khá rồi, chỉ biết cười ngô nghê, đoán tới đoán lui vẫn trượt, cuối cùng công bố đáp án hóa ra lại là xuông đối trận với xập xám chướng, chỉ chăm chăm nã pháo, thắng nhà con một trăm lại trúng pháo thua ba mươi lần.

(Đây là những thuật ngữ chỉ các thế bài trong mạt chược. Xuông (Nguyên văn: thí hồ) là thế bài tạp không được tính điểm (phán) nào, xập xám chướng (Nguyên văn: thập tam yêu) là thế bài có đủ 13 quân nhất vạn, cửu vạn, nhất tác, cửu tác, nhất đồng, cửu đồng, đông, tây, nam, bắc, bạch, phát, trung, là thế bài đặc biệt, nã pháo chính là "ù". Mỗi ván có một người đóng vai nhà cái, còn lại là nhà con, cách chơi của nhà cái và nhà con sẽ khác nhau đôi chút. )

Trò này không phổ biến trong thôn người Dao, Vân Thái chẳng hiểu mô tê gì sất, tôi mới mắng anh hỏi thế chẳng hóa bắt nạt người ta hay sao? Có câu đố mẹo nào mang tính địa phương một chút không hả?

Bàn Tử đáp có, rồi lại hỏi: "Tiếp nè, chiến đấu như thế nào thì gọi là "Giết địch một tên, tự tổn ba ngàn."

"Ong vò vẽ!" Vân Thái lập tức giơ tay đáp.

Bàn Tử lắc đầu: "Nha đầu thúi, cố ý đâm thọt anh hả?"

Cả đám cười rộ lên, rồi tôi nói vậy chắc chắn là kỵ binh đấu với xe tăng, Bàn Tử bảo nếu đấu với xe tăng thì có tổn thất một vạn kỵ binh cũng không hạ nổi một cỗ.

Chúng tôi tiếp tục đoán, người đoán chơi bài tây, người đoán con kiến, người lại đoán là ăn bào ngư, Bàn Tử đều nói sai rồi, cái mặt vênh vênh đắc ý cứ như đang cười nhạo trí khôn của chúng tôi.

Tôi phát cáu, bảo tiên sư thế anh nói coi đó là kiểu chiến đấu gì? Đáp án mà khiên cưỡng là tôi tẩn cho đấy.

Bàn Tử đáp: "Quá dễ, hầy, Bàn gia đây đúng là thiên phú dị bẩm, hạng phàm phu tục tử các người còn kém xa. Nghe cho kỹ lời tôi nói đây, giết địch một tên tự tổn ba ngàn, là trận chiến giữa chuối tiêu và voi."

Tôi nghe vậy lườm lườm Bàn Tử, mắng, anh nói bậy gì đó, chuối tiêu đấu với voi là cái của nợ gì, anh nói coi chuối tiêu đấu với voi kiểu gì mà giết địch một tên tự tổn ba ngàn?

Bàn Tử đáp: "Thì voi chết no chứ sao."

Chúng tôi cười ồ lên, Vân Thái cũng cười đến suýt ngạt thở. Song cười được vài tiếng chúng tôi cũng phải từ từ ngừng lại, bởi tôi thấy trong lúc cả đám cười lăn cười bò ra thì Muộn Du Bình lại lẳng lặng đứng lên, bước tới bên hồ, rồi ngồi ra một góc xa nơi ánh lửa trại phải khó khăn lắm mới chiếu đến.

Trong mắt Vân Thái lướt qua một tia hốt hoảng, nhìn sang chúng tôi: "Chúng ta ồn quá, làm phiền anh ấy sao?"

Bàn Tử thở dài, rít một hơi thuốc lá rồi an ủi: "Không đâu, hắn đi đại tiện ấy mà."

Tôi nhìn Muộn Du Bình, lòng âm thầm thở dài, đang định đứng lên đi xem xem có chuyện gì thì Vân Thái đã giành mất cơ hội, bước về phía hắn.

Chương 18: Hiệu ứng siphon

Vân Thái ngồi bên Muộn Du Bình, cách chúng tôi một quãng khá xa nên không biết hai người có nói chuyện không. Bàn Tử nhìn họ đăm đăm, tôi mới trêu rằng: "Thất tình hả, thôi hãy cố nén bi thương mà chấp nhận sự thật đi."

Bàn Tử phản bác: "Tôi tin Tiểu Ca chắc chắn là người có nghĩa khí." Nói rồi đưa rượu sang cho tôi, còn mình thì đứng dậy đi trút bầu tâm sự. Chẳng mấy chốc sau lưng đã truyền đến tiếng nước chảy tồ tồ, chảy mãi chưa dứt, không biết hắn đã phải nín bao lâu.

Tôi không nhịn nổi mà bật cười rũ rượi, cười chán chê mới nhìn về mặt hồ xa xa chìm trong ánh trăng mờ ảo, chợt cảm thấy mình đến được nơi đây có lẽ cũng là duyên số.

Chỉ nhìn cảnh sắc tươi đẹp nơi đây, ai mà ngờ được năm đó đã xảy ra chuyện quỷ quái đến vậy, cũng như nghe tiếng cười phóng khoáng bề ngoài, ai mà biết thực ra trên vai chúng tôi mang theo biết bao nhiêu gánh nặng. Mọi thứ trên đời đều vô cùng đơn giản, mà con người dường như lại là thứ phức tạp nhất, kiểu phức tạp này họ vốn muốn chống đối, nhưng rồi lại không thể trốn tránh được.

Suy nghĩ viển vông, quả đúng là suy nghĩ viển vông. Tôi nhắm nghiền hai mắt, hít sâu một hơi, nhớ lại tâm tư của mình ngày trước, rồi nghĩ đến tâm trạng của bản thân lúc này, chợt thấy hình ảnh cái kẻ cứ mãi quẩn quanh giữa muôn vàn câu đố quả có hơi tức cười.

Bàn Tử giải quyết xong nỗi buồn, lập cập quay lại, thấy Vân Thái vẫn ngồi bên đó liền thắc mắc: "Con bé kia còn chưa bị đuổi về à? Cũng lì lợm dễ nể nha."

Tôi bảo: "Đừng nói vậy, biết đâu Tiểu Ca lại thích kiểu này thì sao, có khi người ta đã trao tín vật hẹn ước luôn rồi."

Bàn Tử đáp: "Làm gì có chuyện đó, họ ngồi cách chúng ta rõ xa, lỡ có con yêu quái nổi lên dưới hồ kéo họ đi mất thì tôi cũng không cứu kịp. Thôi tôi qua đó bảo vệ hai người ấy đây." Dứt lời liền nhổm lên định đi.

Tôi giữ hắn lại, bảo anh đừng có quấy rối. Giờ này có lẽ Muộn Du Bình đang rất buồn bực, đầu óc chất chứa vô vàn câu hỏi, tình cảnh này tôi đã từng trải qua, cứ để hắn ngồi một mình thì hơn. Anh lắng nghe cho kỹ đi, Vân Thái không hề nói chuyện, chắc là đang ngắm trời trăng với hắn thôi.

Bàn Tử ngồi xuống dỏng tai nghe ngóng, lại nghe như Vân Thái đang hát. Tôi và Bàn Tử đều lặng đi, gió hồ hiu hiu mang theo tiếng ca trong trẻo, là một bài hát của người Dao, lời ca nhẹ bẫng lại hết sức rõ ràng.

Chẳng ai nói gì nữa, tôi thầm nhủ con bé Vân Thái kia đúng là không tệ, bèn thả lỏng người nằm xuống, ngắm bầu trời đầy sao tiếp tục lắng nghe.

Trên trời mây lững lờ trôi, lòng tôi nhanh chóng bình lặng như mặt nước hồ. Dần dần, giữa tiếng ca huyền ảo, tôi từ từ chìm vào mông lung, dường như muốn thiếp đi.

Nhưng giờ hãy còn sớm, tôi mơ mơ màng màng không biết bao lâu thì tiếng hát chợt ngừng. Tôi thoáng giật mình mở mắt, chỉ thấy Muộn Du Bình đằng kia đã đứng dậy nhìn xuống mặt hồ, bầy chó đang uể oải nằm kế bên cũng ngẩng đầu nhìn theo một hướng.

Bàn Tử còn đang nhắm mắt nghỉ ngơi, A Quý cũng cảm thấy có chuyện khác thường. Tôi lay Bàn Tử dậy, chợt nghe trong gió có tiếng "oàm oạp" truyền đến từ phía hồ, giống như có những bàn chân ngoại cỡ đang bước lên từ bãi cạn trong hồ.

Bầy chó đều đứng dậy nhìn chằm chằm đầy cảnh giác về hướng đó, những con chó săn này đều được huấn luyện nghiêm khắc, không hề sủa bậy. Tôi và Bàn Tử liếc nhìn nhau, tôi nhe răng với hắn, hắn chỉ cái đèn pin ở bên cạnh ý bảo tôi đưa sang. A Quý vừa ra hiệu cho chúng tôi trật tự ngồi xuống vừa xua tay ý nói chúng tôi đừng căng thẳng, rồi thì thào: "Không sao đâu, hình như là thú hoang đang uống nước."

"Là con thú gì vậy, nghe tiếng động thì cái đầu nó phải bự lắm." Bàn Tử hỏi nhỏ.

A Quý cầm chắc súng săn, ra hiệu cho chúng tôi ngồi yên đừng quậy, rồi bước chân trần dò dẫm trong bóng đêm, Vân Thái cũng theo sau. Bàn Tử không dằn lòng được liền nháy mắt ra hiệu, mà tôi cũng muốn hóng, bèn len lén bám đuôi sau vài mét.

Đi đến bên Muộn Du Bình, có thể lờ mờ thấy được một chút cảnh tượng trên mặt hồ. Chúng tôi tìm kiếm con thú hoang trong truyền thuyết nhưng không thấy gì cả, có thể con thú này uống nước thì ồn nhưng cái đầu cũng không lớn. Chúng tôi quét đèn pin qua, men theo âm thanh mà tìm kiếm, rồi nhận ra loại âm thanh này có nhịp diệu.

"Không phải thú hoang thì là tiếng gì chứ?" Bàn Tử làu bàu.

"Là tiếng thủy triều." Muộn Du Bình đáp.

Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, cái hồ nhỏ xíu này mà cũng có thủy triều? Chẳng lẽ hôm nay có siêu trăng? Ngẩng đầu nhìn lên, mặt trăng hôm nay hơi mờ.

A Quý buông súng, chúng tôi đi đến ven hồ. Tới gần mép nước, quả nhiên nước hồ đang sóng sánh nhịp nhàng như sóng biển vỗ bờ cát, có điều biên độ không lớn. Còn âm thanh giống như động vật uống nước kia là do tiếng nước vỗ vào một tảng đá vọng lại.

Tôi nhìn bãi đá dưới chân, lờ mờ nhận ra mực nước đã hạ xuống để lại một mảng ẩm ướt dưới chân. Nói cách khác trong khoảng thời gian chúng tôi chém gió ngó trăng rồi nghe Vân Thái hát hò, nước trong hồ vẫn liên tục hạ. Từ vùng đất ẩm đi đến mép nước ít ra cũng phải vài chục bước, xem ra mực nước đã vơi đi rất nhiều.

"Chuyện quái quỷ gì đây? Chẳng lẽ có hàng trăm con voi đang uống nước ở bờ bên kia?" Bàn Tử khum tay nhìn ra xa.

Tôi thông thạo địa lý, liền giải thích: "Đây là hiệu ứng siphon."

"Hiệu ứng siphon là cái gì? Rượu Hồng Tinh ấy hả?"

(Hiệu ứng siphon nguyên văn là 虹吸效应- hóngxīxiàoyìng, có thể hiểu nôm na là nguyên lý bình thông nhau, khi được nối liền qua một ống dẫn thì mực nước trong hai bình luôn cân bằng với nhau. Bàn Tử nghe nhầm thành 红星二锅头 - hóngxīngèrguōtóu, một loại rượu trắng giá rẻ rất phổ biến ở Trung Quốc.)

"Xem ra hồ này thật sự nối liền với mạch nước ngầm trong đất, gần đây có thể còn một cái hồ lớn hơn nữa nối liền với nó. Cái hồ kia bị tác động bởi thủy triều hoặc khí áp, kéo theo hồ bên này cũng chịu chung ảnh hưởng. Nếu ví hồ lớn và hồ nhỏ là hai khối nam châm, lại giả sử hiệu ứng siphon hình thành do lực hút của mặt trăng, vậy thì bản thân mặt trăng cũng là một khối nam châm lớn. Chắc chắn lực hút tác động lên hồ lớn sẽ mạnh hơn, nên giữa hai hồ xuất hiện chênh lệch áp suất, nước trong hồ nhỏ sẽ bị hút sang bên hồ lớn, khiến mực nước trong hồ nhỏ hạ xuống." Tôi ngẩng đầu nhìn lên trời mà giải thích, chợt nhận ra điều gì đó.

Chẳng trách chúng tôi không tìm thấy chút dấu vết nào của thi thể. Nếu ở đây tồn tại hiệu ứng siphon, hằng đêm đều xuất hiện thủy triều siphon, vậy thì thi thể năm đó có lẽ đã bị thủy triều siphon hút đến giữa hồ rồi, cái này cũng giống như nguyên lý của bồn cầu tự hoại.

Không riêng gì thi thể mà tất tật mọi thứ trong hồ đều bị hút đến giữa hồ, chẳng trách tôi cứ có cảm giác bờ hồ ngoài đá ra chẳng còn gì hết.

Đáy hồ rất dốc, một khi rơi xuống là khỏi mong sẽ được thủy triều đẩy lên. Nếu lúc đó không lấy đá neo lại, thì chắc chắn đã chìm nghỉm xuống rốn hồ rồi.

Nghĩ đến đây tôi không khỏi nản lòng, chẳng biết cái hồ này sâu bao nhiêu, chúng tôi lại không mang theo bình khí. Nếu mực nước quá sâu, thì coi như chúng tôi ra về tay trắng.

Nhưng cũng chưa hết hy vọng hoàn toàn, bởi con người có thể lặn xuống độ sâu hơn 100 mét mà không cần thiết bị gì. Tuy chúng tôi không chuyên nghiệp được tới mức đó, nhưng tôi nghĩ nếu hồ chỉ sâu độ hai ba mươi mét thì chắc không thành vấn đề, chỉ cần có người giỏi bơi lội là được. Dù gì chúng tôi cũng phải thử một lần, lặn đến giữa hồ cũng chẳng phải chuyện khó khăn gì.

Nghĩ vậy tôi bèn hỏi họ: "Các anh có thể nín thở trong bao lâu?"

Chương 19: Dưới đáy hồ

Trong nhóm thì ba người Bàn Tử, Muộn Du Bình và tôi đều bập bõm biết bơi. A Quý cũng vậy, nhưng quanh đây chỉ có mấy con suối nhỏ, anh không quen bơi đứng nên e rằng không giúp được nhiều. Ngược lại Vân Thái bơi rất giỏi, song không có áo tắm, tôi không thể để cô bé mặc độc cái áo con mà lặn xuống hồ, mà Bàn Tử chắc cũng không muốn.

Nói đến khả năng nhịn thở, Bàn Tử khoe mình phổi lớn, có thể nhịn năm phút liền. Tôi bảo làm gì có chuyện ấy, anh béo thế kia lúc lặn xuống sẽ phải chịu áp lực lớn hơn chúng tôi rất nhiều, mà người bình thường chỉ cần nhịn được ba phút cũng đã thần thánh lắm rồi. Tuyệt đối không nên khoe mẽ, đây nào phải chuyện chơi.

Bàn Tử nói thật ra mình không lo cái này, mà lo chúng tôi không đeo chân nhái, nếu lặn xuống quá chậm thì dễ chừng chưa đến đáy đã cạn khí rồi. Trước đó nên lặn thử ở vùng nước nông thì hơn.

Tôi gật đầu, thật ra lặn tự do (*) không hoàn toàn là tay không bắt giặc, mà cũng có thiết bị và phương pháp bảo hộ tương xứng, trong đó quan trọng nhất là yếu tố tâm lý. Hồi ở Tây Sa tôi đã nghe mấy người thợ lặn kể yếu tố then chốt khi lặn sâu xuống nước chính là tâm lý, vì thế tất cả thợ lặn, đặc biệt là thợ lặn tự do đều phải trải qua khóa huấn luyện ngồi thiền kiểu yoga. Dưới tầng nước sâu chỉ còn bóng đêm vô tận giống như đang lơ lửng trong vũ trụ, khiến con người bất giác sinh ra sợ hãi. Khi ấy, chỉ cần một thoáng hoang mang sẽ không thể tập trung được nữa, dễ dàng gặp chuyện bất trắc. Nếu có bình dưỡng khí thì lượng oxi tiêu thụ sẽ tăng đột biến, bằng không chỉ còn nước thở bằng niềm tin.

(*) Tức là lặn không dùng bình dưỡng khí.

Tiếc rằng vùng biển Tây Sa vừa cạn lại vừa trong xanh, tôi không có cơ hội trải nghiệm cảm giác ấy, nên cũng chẳng biết tình hình thực tế ra sao.

Nhưng được cái thiết bị lặn tự do cũng không quy củ cho lắm, hoàn toàn có thể tìm vật dụng thay thế. Ví như vấn đề của Bàn Tử, chúng tôi chỉ cần buộc thêm tảng đá để tăng tốc độ lặn là xong. Hồ này trước kia hẳn là rất sâu nhưng năm nay mực nước đã hạ, không thể sâu quá trăm mét được. Tôi đoán năm mươi mét là cùng, đương nhiên trước khi lặn chúng tôi cũng phải thăm dò độ sâu của nó.

Vùng hồ vào đêm tối đen như mực, chúng tôi cũng không thể suy xét mọi sự rõ ràng như trước, đành rút về trại nghỉ ngơi. Bàn Tử hỏi Vân Thái vừa rồi đã hát bài gì cho Muộn Du Bình nghe, có thể dạy lại cho mình không? Tôi chẳng còn bụng dạ nào mà đùa giỡn, đành nằm xuống học cách suy nghĩ như Muộn Du Bình, nghĩ tới những việc ngày mai cần làm.

Đêm đó không ai nói một lời, sáng hôm sau chúng tôi dậy từ sớm tinh mơ. Nhân lúc mặt trời còn chưa mọc, tôi tranh thủ đi thám thính quanh hồ lần cuối để khẳng định ấn tượng của mình hôm qua. Bốn bề phủ sương mờ, nhưng màn sương này chỉ lấp ló quanh quẩn ven hồ. Cha con Vân Thái đều quen dậy sớm, bữa sáng đã chuẩn bị xong xuôi từ lâu. Đó là món cháo loãng mà người như Bàn Tử có thể húp liền cả chục bát, nhưng đã là đồ Vân Thái nấu thì đời nào hắn dám chê.

Bàn Tử cũng dẫn theo một con chó đến giúp, vừa đi vừa trêu nó: tìm xương đi, tìm xương đi, tìm được xương tao cưới vợ cho mày. Con chó quay mông ra hồ uống nước đùa nghịch, hoàn toàn phớt lờ hắn.

Khi mặt trời lên cao, tôi cũng vừa dạo quanh một vòng hồ, xác định gần như không thể tìm ra. Vân Thái tò mò muốn biết chúng tôi đang tìm gì nên cũng đi sau nghe ngóng, Bàn Tử bịa chuyện hai đứa đi tìm vàng, cô bé nghe vậy thì nửa tin nửa ngờ.

Tôi bàn với họ rằng nhất định phải lặn xuống nước, nhưng cũng không thể khơi khơi mà lặn được. Cả đám phải đợi đến chiều cho nước ấm lên chút ít, lại cần chuẩn bị một sợi dây thừng thật dài, một cái bè nhỏ và vài tảng đá nặng vừa phải.

A Quý và Vân Thái giúp chúng tôi tết dây thừng cỏ, không cần quá chắc chắn, chỉ cần đủ dài để đo độ sâu là được. Bàn Tử dùng liềm cắt một đống cỏ lớn rồi rải ra phơi khô, nhưng không phải cỏ gì cũng tết được, mà đến quá nửa là đồ bỏ.

Tôi và Muộn Du Bình dùng dây thừng đánh số buộc hai bè nhỏ cỡ cái bàn bát tiên vào với nhau, rồi lại tìm tảng đá to cỡ bắp vế buộc vào đầu dây cho đầm.

Thừng cỏ tết làm ba đoạn, chỉ dài hơn mười mét, nhưng hai người mất một buổi sáng đã tết được chừng ấy cũng giỏi lắm rồi. Do chưa trải qua quá trình gia công tỉ mỉ nên vẫn còn khá thô sơ, nhưng tôi cũng chẳng câu nệ. Cần gì phải xài được đến mấy tháng, chỉ mong trụ nổi vài tiếng đồng hồ là ngon rồi.

Mặt khác lại cắt rời bao nilon của Bàn Tử, lấy dây nilon bên trong cuốn lại thành cuộn, bên trên buộc thêm hòn đá thành một cái neo nhỏ để đo độ sâu của hồ.

Chuẩn bị xong xuôi mọi thứ, chúng tôi xếp hết đồ đạc lên chiếc bè nhỏ rồi cởi sạch chỉ chừa lại cái quần đùi, chầm chậm đẩy bè vào sâu trong hồ. Quần của Muộn Du Bình là do Bàn Tử mua, bên trên in hình hai con gà con, làm Vân Thái cười đến suýt nghẹn thở.

(À vâng con gà huyền thoại của ĐMBK đã lên sàn như thế =)))))))))))

Lúc này khoảng hai giờ chiều mà mặt nước vẫn lạnh như băng, nhất định là do mạch ngầm nối liền với cái hồ kia. Nếu không có ánh nắng, chúng tôi lặn xuống không chừng còn bị chuột rút.

Bơi đứng liền một mạch, chẳng bao lâu màu nước dưới chân đã sâu hun hút khiến người ta có phần hoang mang. Những chốn sâu không thấy đáy luôn gây ra cho con người cảm giác bất an, nhưng tôi đã trải bao phen sóng gió nên thứ cảm giác ấy chỉ lướt qua như gió thoảng. Hồ cũng không rộng lắm, chúng tôi bơi một chặp đã ra đến giữa hồ.

Gió trên mặt hồ mát rượi xua tan đi nắng nóng ngày hè. Dừng lại giữa hồ, thế bơi đứng khiến chúng tôi càng phải ra sức giữ thăng bằng. Bàn Tử lấy tay vuốt mặt một cái rồi hỏi: "Thuyền trưởng, ta phải làm gì bây giờ?"

"Đo độ sâu cái đã." Tôi đáp.

Bàn Tử cầm sợi dây nilon buộc hòn đá ném xuống nước. Hòn đá kéo theo sợi dây chìm xuống không phanh, cuộn dây trong tay Bàn Tử quay tròn không ngớt, chẳng mấy chốc hòn đá đã chìm nghỉm mất hút, chỉ còn thấy mỗi sợi dây.

Sau hơn một phút cuộn dây mới ngừng quay, Bàn Tử bứt đứt đầu sợi dây rồi từ từ kéo ngược nó lên, cuốn lại thành vòng mà đếm, kéo xong thì cũng ước lượng được hồ sâu hơn ba mươi ba mét.

Tôi rùng mình ớn lạnh, tuy kết quả này cũng gần giống suy đoán của tôi nhưng khi nghe vẫn không khỏi kinh hãi. Hơn nữa đây chưa chắc đã là rốn hồ, với kiểu hồ đá như thế này thì nơi sâu nhất không phải lúc nào cũng nằm chính giữa.

"Ba mươi ba mét, da fuck, mình phải lặn sâu hơn mười tầng lầu cơ à."

"Hừ, sao vừa nghe đến ba mươi thước đã bó tay chịu trói?" Tôi cười nói: "Mười tầng lầu là cái đinh, mẹ kiếp anh sợ quái gì chứ".

Dứt lời, tôi và Muộn Du Bình lập tức bịt kín hai lỗ tai, trước tiên lặn vài lượt nông nông để thích nghi với nhiệt độ dưới nước, còn Bàn Tử tạm thời cứ cho ở lại quan sát. Người béo không giỏi lặn, nếu chúng tôi lặn một chuyến mà xong việc thì khỏi phiền hắn vác xác xuống. Nói đoạn tôi buộc sợi thừng nối với tảng đá vào thắt lưng, giắt thêm cái liềm, bỏ đèn pin vào túi nhựa rồi nháy mắt ra hiệu với Muộn Du Bình.

Chúng tôi hít một hơi thật sâu, khi khí đã đầy phổi lập tức đẩy tảng đá trên bè xuống nước. Tảng đá từ từ rơi xuống kéo theo chúng tôi chìm sâu vào lòng hồ.

Ở Sudan, phu nhân tù trưởng mà đi lăng nhăng sẽ bị xử tử kiểu này. Tôi ngẩng đầu nhìn lên mặt nước, ngoài nửa thân người Bàn Tử và cái bóng của bè gỗ còn thấy sắc nắng loang loang, nhưng cảnh tượng này chớp mắt đã vụt trôi, bốn phía hoàn toàn rơi vào tĩnh mịch. Nhìn xuống lại thấy vực thẳm đen ngòm, chỉ còn ánh sáng từ ngọn đèn pin của Muộn Du Bình, đầu hắn chúc xuống dưới, động tác linh hoạt như một con dơi biển.

Tình cảnh này sẽ qua nhanh thôi, tôi tự nhủ với lòng. Ánh sáng xung quanh mờ dần đi kèm với áp lực nước tăng vọt, khiến màng nhĩ và ngực bắt đầu khó chịu cực kỳ, buộc tôi phải xả bớt không khí trong phổi ra.

Chẳng mấy chốc, đèn pin trong tay tôi đã chiếu xuống đáy nước, đó là một phiến đá mờ mờ còn cách một quãng xa. Song tôi chợt nhận ra điểm bất thường, vì tiếp tục chiếu xuống sâu hơn vẫn thấy một bóng đen; nói cách khác nơi này quả nhiên vẫn chưa phải đáy hồ, mà chỉ là một bãi đá gồ lên đó thôi. Ngoài ra tôi còn còn thấy rất nhiều vật na ná cành cây vắt ngang đáy vực, hẳn là gỗ từ những cây khô.

Cũng đúng vào lúc này, tôi bắt đầu thấy khó chịu, nhìn đồng hồ mới biết mình lặn còn chưa đầy một phút, thế mà đã cảm nhận được một luồng áp lực xộc thẳng lên mũi, khát khao được hít khí trời.

Muộn Du Bình vẫn không ngừng lặn xuống, tôi ngẩng đầu nhìn lên, trời ơi sao mà xa hun hút. Trong lòng sợ hãi thì tay chân tự nhiên cũng luống cuống, tôi rút cái liềm đeo ở thắt lưng định cắt đứt sợi thừng cỏ giữ chân mình lại. Ai ngờ thừng cỏ ngâm nước lại dai nhách ra, tôi cứa hai nhát mà thừng chỉ đứt có một nửa, nửa còn lại cò cưa mãi cũng không chịu đứt cho.

Tôi nhanh chóng rơi vào sợ hãi tột cùng, mà phản xạ tự nhiên lại mách bảo bản thân nên hít một hơi sâu lấy lại bình tĩnh. Kết quả vừa hít đã đưa một ngụm nước xộc thẳng vào phổi, làm tôi ho đến gập người.

Dây thừng truyền đến một đợt chấn động, báo hiệu tảng đá đã chìm đến đáy. Tôi cố gắng trấn tĩnh mà lặn xuống, nhận ra mình đang từ từ đậu lên một sườn dốc, bên dưới còn một cái khe đen ngòm sâu hoắm, nhưng vẫn nhìn ra một vài thứ trong đó.

Tôi nhìn theo ánh đèn pin chiếu xuống mà sợ đến đứng tim. Trong khe sâu là một căn nhà gỗ kiểu cổ cũ nát, chỉ còn lại bộ khung mờ mờ, mặt trên bị trầm tích phủ kín. Chiếu đèn pin sang nơi khác, tôi thấy càng nhiều căn lầu gỗ, thậm chí còn có mấy căn nhà ngói hoang tàn. Lần dọc xuống theo khe dốc còn thấy đủ mọi thứ như thềm đá, bờ rào... tất cả lặng lẽ chìm dưới làn nước sâu.

Chương 20: Nổi lên

Đáy hồ xanh thăm thẳm đã chắp cánh cho trí tưởng tượng của tôi bay cao bay xa, nhưng tôi không thể ngờ mình lại thấy mấy thứ này dưới đó.

Những căn nhà gỗ ấy đã bị trầm tích bao phủ hoàn toàn, rất giống một bộ phận của con thuyền chìm. Dưới ánh sáng này không thể quan sát kĩ càng, nhưng có thể khẳng định trước mắt tôi hẳn là một khu trại cổ của người Dao chìm dưới đáy hồ.

Dưới chân con dốc chìm trong bóng đêm, thấp thoáng những bóng đen nhập nhoạng, nhất định còn có thứ gì đó. Tôi đoán, có lẽ chúng đều là những căn nhà sàn gỗ kiểu này.

Đây là chuyện quái quỷ gì thế? Sao dưới đáy hồ lại có những thứ này? Lẽ nào nơi đây từng xảy ra cơn lũ quét trên diện rộng, kéo sụp dãy núi, bao phủ lên nơi đã từng là thôn làng?

Nhìn tòa cổ lâu màu xanh u ám, đầu óc tôi rối tung, quên hết mọi thứ xung quanh, chỉ biết ngắm nhìn cảnh tượng trước mắt đến ngây ngẩn.

Còn đang ngẩn người, bỗng toàn thân tôi chấn động, bắt đầu nổi lên. Đưa tay kéo sợi thừng trông như cuống rốn, lại phát hiện nó đã đứt rời. Lúc này mới cảm nhận được áp lực nước ập thẳng vào mặt khiến người ta nghẹt thở, rốt cuộc không còn tâm trí đâu mà để tâm đến tình hình trước mắt, ra sức vùng vẫy ngoi lên.

Đó là một thứ cảm giác khiến người ta rất khó diễn tả, có lực nổi giúp sức nên tôi ngoi lên rất nhanh.

Bốn bề tối om, quầng sáng bên trên dần dần rõ nét. Não tôi bắt đầu thiếu oxi, chỉ cảm thấy ánh sáng cứ mờ dần, quả thực giống như đang bơi lên thiên đường.

Cảnh tượng người chết đuối trông thấy vào thời khắc lâm chung, đại khái cũng như thế này chăng!

Trong những giây cuối cùng, oxi trong phổi tôi gần cạn kiệt, đầu óc thoáng chốc trống rỗng, trước mắt chỉ còn một mảng trắng nhờ, sau đó cảm giác cơ mặt mình thả lỏng, ánh sáng xung quanh thu hẹp lại, đồng thời nghe được tiếng nước với những âm thanh nhập nhoạng không rõ ràng, nhìn thấy mặt hồ lấp loáng.

Tôi gần như không còn sức lực hớp ngụm khí đầu tiên, nhịp thở này phải dốc sức lực toàn thân mà bạo phát ra. Đợi cho lá phổi lần thứ hai ngập tràn không khí, tôi suýt nữa đã ngất xỉu. Ôi trời! Sống mấy chục năm, chưa bao giờ tôi cảm thấy hít thở lại là chuyện khoan khoái đến vậy.

Tôi bắt đầu thở hồng hộc, gần như là ngấu nghiến thô bạo từng ngụm không khí, rồi dần dần cũng thong thả trở lại.

Đợi đến khi tỉnh táo hoàn toàn, đưa tay lên nhìn đồng hồ, thì ra từ khi lặn xuống đến lúc trồi lên mới hết hơn một phút, thế mà tôi cảm thấy như đã qua vài giờ. Tình hình dưới đáy nước và quang cảnh tận mắt chứng kiến làm tôi kinh hoàng đến độ cảm giác cũng sai lệch đi.

Thường thì tôi nín thở được lâu hơn, xem ra bể bơi và hồ nước sâu chênh nhau một trời một vực, tôi suy nghĩ quá ngây thơ rồi.

Bàn Tử và chiếc bè còn cách tôi ba mươi mét, có thể vào lần cuối cùng lao lên mặt nước tôi xuất lực không chuẩn, thành ra bị chệch hướng.

Tôi bơi về phía hắn, trở lại bên chiếc bè.

Hắn hỏi tôi, sao cậu trồi lên nhanh dữ?

Tôi muốn đáp trả lời, lại cảm thấy môi trên âm ấm, sờ thử, té ra là chảy máu cam. Kế đó toàn thân nhất là lỗ tai bắt đầu đau, đầu váng mắt hoa, suýt nữa đã tuột tay khỏi cái bè mà chìm xuống nước.

Chợt tôi có cảm giác Bàn Tử đang kéo mình lại, nghe láng máng tiếng hắn nói: "Chết tiệt, cậu trồi lên nhanh quá, vỡ hết mạch máu rồi!"

Cũng may tôi chỉ hoa mắt chóng mặt chút xíu rồi nhanh chóng bình phục. Tôi không phải thợ lặn chuyên nghiệp, xem ra thân thể này quả thực không hợp với môn lặn tự do.

Lại nằm bò lên bè, nhìn máu mũi chảy ròng ròng qua mặt xuống cằm rồi hòa vào nước, tôi không khỏi lo lắng mơ hồ, chẳng biết ruột gan phèo phổi của mình có làm sao không đây?

Bàn Tử đưa tôi cái khăn tay để bịt mũi, rồi hỏi cậu làm sao thế? Sao chưa chi đã nổi lên rồi?

Tôi ngẩng đầu lên cho máu mũi chảy ngược, đồng thời kể lại những điều mình thấy. Hắn nghe đến há hốc mồm, lại còn không tin, bảo chuyện này không thấy tận mắt thì không hiểu rõ được, nóng lòng muốn xuống xem thử. Tôi vội vàng cản hắn lại, bảo bên dưới không nông như kết quá mình đo được đâu, một mình xuống đó nguy hiểm chết bà.

Lúc này lại nghe tiếng nước ào ào, Muộn Du Bình cũng ngoi lên, hít một hơi thật sâu. Nơi hắn nổi lên chỉ cách bè có hơn hai mét, rõ ràng hắn bình tĩnh hơn tôi rất nhiều.

Ngó đồng hồ, hắn lặn lâu hơn tôi chừng một phút.

Hắn ráng sức bơi đến cạnh cái bè, vịn một tay lên đó.

Bàn Tử định hỏi tình hình rsao thì bàn tay còn lại của hắn đã đột ngột cầm một vật quẳng lên bè, lập tức kéo theo bọt nước văng tung tóe vào mặt chúng tôi.

Tôi còn chưa kịp nhìn rõ, Bàn Tử đã hét toáng lên: "Tổ sư! Đây là cái của nợ gì?"

Tiếng hét của Bàn Tử đại khái đã cảnh tỉnh tôi, làm tôi phát sợ, vội vuốt hết nước trên mặt mà nhìn. Tôi linh cảm Muộn Du Bình có thể đã tìm thấy thi thể, cũng chuẩn bị tinh thần sẵn sàng thấy một bộ xương trắng ởn.

Chương thứ 22

Vớt được quái vật

Đại khái là do Bàn Tử đột nhiên kêu lên khiến tôi bị giật mình, nhất thời trong lòng cảm thấy sợ hãi, vội vàng lau sạch nước trên mặt để xem xét tình hình.

Cảm giác đầu tiên của tôi là Muộn Du Bình có lẽ đã tìm ra những thi thể kia, tôi còn chuẩn bị sẵn tâm lý để chứng kiến những bộ xương trắng bệch.

Tiếc là tôi đã đoán sai, thứ được vứt lên trên bè hình như là một con thú chết trôi to bằng cái túi du lịch. Nhìn lại thì thấy xung quanh "xác chết trôi" có đầy những đoạn xúc tu đã bị phân hủy thành màu đen xì, "xác chết trôi" bị ngâm nước tới trương lên, nhìn như một hình cầu vậy, theo hình dạng này thì chắc nó đã bị dìm trong nước một thời gian dài rồi.

Xem ra trận lũ lụt năm đó đã cuốn theo không biết bao nhiêu trâu bò chó lợn vào trong hồ, nhìn mà ghê bằng chết, tôi lập tức cảm thấy buồn nôn tận họng. Vội xoay người đạp cái thứ kia ra xa khỏi bè, thầm nghĩ sao Muộn Du Bình lại vớt nó lên làm gì chứ?

Bơi ra xa hơn một thước rồi tôi liền lấy nước trong hồ rửa sạch hết những dấu vết mà cái xác mục nát kia văng trúng, cảm giác vẫn dinh dính, Bàn Tử liền mắng ầm lên:

"Tiểu Ca, con mẹ nó chứ, cậu cũng được lắm, cái gì không vớt lại đi vớt cái kinh tởm này làm gì!"

Muộn Du Bình lại không để ý, anh ta trèo lên trên bè, một tay đè lên cái xác kia, ngay lúc đó nước bị ép chảy ra bè rồi từ bè rơi xuống mặt hồ. Tiếp theo Muộn Du Bình bắt đầu tiến hành ngắt hết những xúc tu mọc ra quanh cái xác vứt xuống hồ nước.

Tôi nhìn mà muốn ói đến nơi, nhưng ngay lập tức lại phát hiện có gì không đúng ở đây. Vì tôi không thấy mùi hôi thối nồng nặc, sau đó nhìn qua Bàn Tử hình nhưng cũng phát hiện cái gì bất thường, ngoắc ngoắc tôi lại xem.

Lần thứ hai tôi bơi qua, Muộn Du Bình gạt hết những xúc tu kia trôi nổi trong nước xung quanh bè, tôi nén ghê tởm vào trong mà tiến tới nhìn xem có chuyện gì. Lại thấy đó không phải là xúc tu gì hết mà là một loại rong kỳ quái. Nhìn kỹ lại cái thi thể chết trôi màu đen kia, tôi mới biết mình nhìn nhầm rồi. Cái bụng phềnh lên của nó bị xẹp xuống nhìn lại không giống xác chết nữa, ngược lại tựa như một quả bóng cao su hết hơi, mà những xúc tu xung quanh kia đều chỉ là rong rêu thôi.

Tôi lên bè phụ Muộn Du Bình dỡ đống rong rêu quấn quanh "xác chết trôi" ra, cuối cùng cũng thấy rõ được vật mục nát màu đen kia thực chất là một cái túi da trâu đã bị ngâm nước tới thâm lại. Bề mặt của nó cũng bị rữa ra hết cả, chỉ còn lại một tầng sần sùi rất mỏng.

Đây là kiểu ba lô hành lý cỡ lớn trước đây, bên trong có khung sắt, do đó nó không hề bị bục ra, nếu không chắc chắn giờ đã nát vụn chẳng còn ra hình thù gì nữa.

"Đây là..." Bàn Tử nghẹn giọng hỏi.

Muộn Du Bình nói:" ở chỗ tôi lặn xuống có một hàng rào, rất nhiều túi và tạp vật khác bị mắc trên hàng rào ấy, rải rác thành một vùng lớn, thấy có súng trường, ví da và vải lều bạt. Tôi chỉ có thể vớt lên được một cái này thôi."

Tôi liền hiểu ngay đây là cái gì:" đây nhất định là những gì Bàn Mã nói, bọn họ giết người xong sau đó ném thi thể cùng với trang bị súng ống vào trong hồ này, xem ra tôi nói không sai, thực ra những thứ này đều bị thủy triều hút xuống đáy hồ, rồi mắc lại trên hàng hàng rào đó."

Muộn Du Bình gật đầu, rõ ràng là đang đồng ý tới suy luận của tôi.

"Hàng rào ư? Con mẹ nó, trước đây hồ này là một thôn trại sao?" Bàn Tử vẫn chưa tín nghiệm hỏi.

Trong đầu tôi loạn thành một mớ bòng bong, thầm nghĩ tôi lừa anh để làm cái quái gì chứ, nếu không phải chính mắt tôi nhìn thấy thì chắc cũng chẳng tin được.

Nhìn qua thôn trại cổ dưới nước có quy mô không nhỏ, để tới mức phải chìm trong hồ nước này thì tình hình năm đó chắc rất đặc biệt, đại loại như là vật hi sinh cho việc xây dựng một công trình thủy lợi khổng lồ nào đấy. Ví như đập thủy điện Tam Hiệp*, có rất nhiều làng mạc thậm chí là danh lam thắng cảnh đều bị chìm trong biển nước. Cũng có thể là do động đất khiến núi bị sạt nở, nước trong đập tràn ra ngập hết thôn xóm làng mạc, hoặc là những thôn trại này được xây dựng trên nền đất trũng, chỉ cần động đất là có thể sẽ bị sụp xuống tức thì, nhấn chìm hết nhà của ruộng vườn trong nước.

Nhưng địa hình nơi này không giống như đã từng xảy ra động đất, bãi đá ven hồ cũng vô cùng kỳ quái, tất cả tầng đáy đều là sỏi cuội, không biết chúng được hình thành như thế nào.

Con mẹ nó chứ, thôn trang kia chắc chắn cũng có liên quan tới nội vụ. Đội khảo cổ năm đó hẳn là tới bên hồ này để vớt những khối sắt nằm dưới đáy hồ, mà chúng rõ ràng tồn tại bên trong cổ trại kia. Những yếu tố đó bắt nguồn từ đâu? Nơi quỷ quái này đã từng phát sinh chuyện gì?

Xem ra trong nước vẫn ẩn giấu một sự tình có thể còn ngoài sức tưởng tượng của tôi.

"Trước chưa cần nghĩ tới đó, cứ xem bên trong túi có gì đã?" Bàn Tử vội vã muốn mở cái túi ra, nhưng nó tương đối lớn, bè lại nhỏ, ba người chúng tôi không biết xoay xở thể nào cho tiện, Bàn Tử thử vài lần mà không tìm được cách mở nó ra. Đầu tôi vẫn đang rối tung lên, cũng không buồn suy xét những thứ này liền cản Bàn Tử lại, nói:" dục tốc bất đạt, chờ chút mọi thứ sẽ sáng tỏ ngay thôi, trước hết chúng ta cứ lên bờ đã".

"Không được!" Bàn Tử nói, "chúng ta không biết bên trong có cái gì, nếu như là một xác chết hoặc là một vật gì không thể để cho A Quý nhìn thấy, lẽ nào cậu cũng muốn giết người diệt khẩu luôn? Chúng ta phải xem trước ở đây đã."

Tôi nghĩ trong giây lát thấy cũng đúng, để cho hai người kia biết quá nhiều chuyện cũng không tốt, vì vậy bảo Bàn Tử làm nhanh tay lên một chút.

Hình dạng của túi vẫn còn nguyên vẹn, chúng tôi thử ấn vào lớp da trâu bên ngoài thấy đúng là nó vẫn còn rất dai, chất lượng của đồ công nghiệp quân sự lúc bấy giờ thật khiến cho người ta ngưỡng mộ. Loại túi này thường dùng khóa bằng sắt, chúng tôi trên bè cẩn thận từng li từng tí lật cái túi lại phía sau tìm khóa của nó. Lúc chạm vào cái túi cảm giác vật bên trong mềm mềm, như là ruột nhồi bông vậy.

Loại túi này vốn được dùng để đựng quần áo hoặc là vật liệu may mặc, tôi thầm nghĩ mở ra đừng có mà là chăn trải giường, nếu như vây thì thành chuyện tiếu lâm mất.

Sau khi lật lại cũng tìm được hai cái khóa đã gỉ còng gỉ cóng tới mức không thể cậy ra được. Bàn Tử rút liềm ra cắt một đường trên thân túi, bên trong hiện ra khuôn bằng thép.

Trước kia tôi từng được xem qua một bộ phim cảnh sát rất cũ do nước nhà sản xuất, trong phim cũng có loại túi này, khi đó chúng được dùng để chứa xác chết. Bên trong túi đựng thi thể, sâu trong ý niệm vẫn có chút hoang mang, Bàn Tử lại không hề tỏ ra lo lắng, dùng liềm rạch ngang túi ra. Quả nhiên bên trong chứa một đống ruột bông gần như đã mục rữa, bị ngâm nước tới nát ra chỉ còn sót lại vài thứ. Bàn Tử dùng liềm khua khắng bên trong một chút, ngay sau đó chúng tôi phát hiện ra dưới đáy túi có chứa mấy vật dụng linh tinh. Bàn Tử như một chuyên gia khảo cổ đang gẩy từng thứ ra, chúng đều là đồ dùng hàng ngày của một nữ nhân.

Để tôi có thể đi tới kết luận này, là do trong những thứ lấy ra có tới ba cái lược, đàn ông thường không mang theo những ba cái làm gì, hơn nữa một cây lại có răng đặc biệt to, khẳng định nó được dùng để chải tóc dài.

Còn có hai cái kẹp tóc, một huy hiệu Mao chủ tịch và một cái khung ảnh cùng với một hộp kem trang điểm Bách Tước Linh, ngoài ra còn một ấm pha trà nữa.

Kem trang điểm Bách Tước Linh và bình trà đều có vỏ bằng sắt, gỉ vô cùng, có điều là vì tình trạng dưới đáy hồ rất ổn định nên chỉ có thể gỉ tới một trình độ nhất định rồi ngưng lại.

Tôi cảm thấy hứng thú nhất với cái khung ảnh bằng gỗ kia, bên trong có một bức ảnh, nhưng nó đã bị ngấm nước tới nát vụn hoàn toàn, chỉ có thể lấy được vài mẩu con con. Nếu cậy cái đinh ốc cố định tấm chắn đằng sau khung ảnh ra là tất cả những thứ bên trong nó sẽ hỏng hết. Cho dù là không bị rớt vụn thì cũng hoàn toàn không thể nhìn ra là chụp thứ gì.

Lắc lắc trong bình trà phát ra tiếng động, rõ ràng là nó đã bị bịt kín. Bàn Tử muốn mở nhưng gỉ quá không làm gì được. Anh ta quyết không chịu, dùng liềm làm búa đập vào vỏ bình, nhưng bè nổi không chịu được lực xuống tay như vậy, Bàn Tử không còn cách nào khác đành phải vừa bơi ngửa vừa đặt bình lên trên bụng mà gõ, âm thanh lanh lảnh vang vọng trên mặt hồ, giống như một con rái cá béo ú vậy.

Tôi nhìn mà không nhịn được cười, nhưng cách này cũng có hiệu quả thật, rất nhanh sau đó bình đã bị phá ra, anh ta đổ ra từ bên trong một khối màu đen, sau đó lập tức thốt lên một tiếng kinh hoàng.

Tôi vừa nhìn lòng liền trùng xuống, kia là một khối sắt nhỏ rất giống với khối mà chúng tôi tìm được dưới gầm giường nhà Muộn Du Bình.

Bàn Tử lầm bầm:

"Lại là thứ này, xem ra cái túi da trâu này thực sự là của đội khảo cổ năm đó, Bàn Mã không lừa chúng ta, con mợ nhà lão, đây là thứ quỷ gì chứ?"

Tôi cầm khối sắt lên quan sát một chút lại lắc đầu không nói, vì tôi cảm thấy khối này so với khối của Muộn Du Bình hình như có chút gì đó bất thường.

Chú thích:

Đập thủy điện Tam Hiệp*: chặn sông Trường Giang (sông dài thứ ba trên thế giới) tại Tam Đẩu Bình, Nghi Xương, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Việc xây dựng bắt đầu vào năm 1994. Nó là đập thủy điện lớn nhất thế giới. Hồ chứa nước của nó đã bắt đầu có nước vào ngày 1 tháng 6 năm 2003, và sẽ chiếm toàn bộ vị trí hiện tại của khu vực Tam Hiệp thơ mộng, nằm giữa các thành phố Nghi Xương(tỉnh Hồ Bắc) và Bồi Năng (thành phố Trùng Khánh)

Đập Tam Hiệp là đập thủy điện lớn nhất trên thế giời và thường có động đất xảy ra xung quanh khu vực thi công đập.

Chương thứ 23

Khối sắt

Khối sắt này so với khối chúng tôi có trong tay thì nhỏ hơn rất nhiều, đại khái là chỉ có kích thước bằng ngón tay cái. Điều khiến tôi cảm thấy bất ngờ là khối sắt này tương đối nhẵn bóng, tuy rằng cũng loang lổ những vết gỉ sét, nhưng so với khối của Muộn Du Bình thì vẫn sạch sẽ hơn rất nhiều, hoa văn bên trên trông khá rõ ràng.

Tôi từng nghĩ khối sắt dưới giường nhà Muộn Du Bình có hình thù xấu xí như vậy không phải là bởi vì có người từng dùng acid xử lý qua nó, hiện giờ nhìn lại quả nhiên là như vậy thật. Khối sắt ban đầu có hình dạng là như thế này, không phải xù xì cóc ghẻ như của Muộn Du Bình, hơn nữa nhìn qua có thể thấy những hoa văn trang trí hết sức tinh tế. Rõ ràng là nó cũng được xếp vào hàng tác phẩm nghệ thuật vô cùng tuyệt vời.

Khối sắt nhỏ cũng không được cắt theo quy luật nào, dễ nhận thấy đây không phải là một chỉnh thể, chắc chắn là một mảnh tách ra từ món đồ khác. Những khối sắt này chắc phải đến từ một hoặc nhiều đồ sắt kích thước lớn.

Tôi vừa chèo bè vừa xoay chuyển suy nghĩ rất nhanh, cảm giác như sự tình vào lúc này đã cơ bản được liền mạch rồi. Hiện tại vấn đề cũng bắt đầu rõ ràng, đại khái là chỉ hướng vào hai điểm.

Những suy đoán của tôi có chính xác không? Có phải nơi đây đã từng xảy ra chuyện đội khảo cổ bị đánh tráo? Chúng tôi vẫn phải tiếp tục dò tìm những trang thiết bị và dấu vết mà năm đó đã bị vứt lại trong hồ. Tôi nghĩ những thi thể này khả năng cũng sẽ ở quanh đây, điều này xem ra cũng không phải vấn đề quá hóc búa.

Thêm nữa là chuyện cổ trại ở đáy hồ, một hồ nước trong núi sâu sao lại có thể dìm một thôn trại được? Những khối sắt đến từ cổ trại này nguyên bản là vật gì? Chúng có tác dụng gì? Vì sao đội khảo cổ biết chuyện này mà vớt chúng lên? Con mẹ nó chứ, chuyện này càng về sau càng lắm ma mị! Những sự tình liên quan tới hồ nước có thể hỏi qua A Quý, có điều là tôi linh cảm được anh ta không chắc sẽ cho chúng tôi được nhiều thông tin.

Đáp án cho hai nghi vấn đó đều ở dưới đáy nước kia. Tôi thở dài, hiểu được kế tiếp mình sẽ phải làm gì, chúng tôi cần phải xem xét thật cẩn thận đáy hồ. Đồng thời phải tìm xem bên dưới có gì dùng được thì vớt hết lên để kiểm tra. Xem ra tới đây phải xuống nước thường xuyên rồi.

Đáng tiếc là dây cỏ trên người chúng tôi đều đã bị giãn ra không thể tiếp tục dùng được, thể lực của tôi cũng không đủ để lặn thêm một lần nữa. Bằng không tôi rất muốn ngay lập tức xuống nhìn một cái.

Ở khu vực nước này chúng tôi dùng dây ni lông buộc thành cái ký hiệu qua loa, ba người trước tiên vẫn phải lên bờ nghỉ ngơi đã. Vân Thái thấy bộ dạng của tôi thì kinh hãi, vội qua xử lý giúp tôi. Mũi bị nhét hai miếng vải, tôi đứng trong bụi cỏ thay đồ, cảm thấy khớp xương trên người mình như bị nứt đôi ra, đau tới mức không còn hơi sức gì nữa. Bàn Tử và Muộn Du Bình đem bè từ dưới nước kéo lên bờ, nhìn như đang nâng cáng cứu thương, thêm cả cái bao da trâu bên trên một mạch đặt lên chỗ khô ráo.

Vân Thái hết sức hiếu kỳ hỏi chúng tôi vớt được từ dưới nước cái gì vậy, nhưng do bên trong không có gì đặc biệt nên Bàn Tử cũng cho cô ấy nhòm một chút. Nhìn xong cô ấy liền cảm thấy kinh tởm ghê người.

Ánh nắng gay gắt, phơi quần đùi trên tảng đá cho thật khô, trong lúc đó chúng tôi ăn mấy quả dại để bổ sung lượng đường, Bàn Tử vừa ăn vừa hỏi A Quý có biết chuyện thôn trại bị ngập trong nước không? A Quý không hiểu gì, hoàn toàn không có lấy bất kỳ một nhận thức nào về vấn đề này, anh ta nói chưa bao giờ nghe tới dưới hồ kia có một thôn trại.

Vừa rồi khi ở trong nước nhìn một khoảng mơ hồ, phần lớn là không thấy rõ nên không thể nói ra tỉ mỉ từng chi tiết. Nhưng dựa vào lớp trầm tích lắng đọng trên bề mặt nhà cửa nơi đó có thể khẳng định là chúng đã bị dìm trong nước rất lâu rồi. Tôi bảo A Quý nhớ lại xem, trong thôn có ai lưu truyền về chuyện này không, cho dù là truyền thuyết cổ thì chỉ cần trùng khớp là được. A Quý vẫn lắc đầu, quả quyết là không có, anh ta nói:

"Kỳ thực tôi cũng thấy có điểm kỳ quái, mọi người chúng tôi đều biết nơi này có một cái hồ, nhưng tới bây giờ nó cũng chưa hề được đặt cái tên, các lão nhân trong thôn thường không nhắc tới nó bao giờ."

Tôi và Bàn Tử nhìn nhau ngơ ngác, tôi chỉ đoán là anh ta không biết được nhiều chuyện, vì rốt cuộc thì đây cũng chỉ là truyện truyền miệng. Có thể tồn tại tới giờ xem ra cũng may mắn lắm rồi, thế nhưng tôi lại không ngờ tới anh ta lại hoàn toàn không biết gì như vậy.

Núi Dương Giác có rất nhiều truyền thuyết kỳ quái, bởi vì từ xưa tới nay nơi đây vẫn là một nơi rừng sâu núi thẳm và cũng là ranh giới đặc khu săn bắn. Những vết tích hoạt động của con người tại đây không nhiều, do đó mà nó có nhiều truyền thuyết cũng là chuyện rất bình thường. Nhưng trong núi Dương Giác có một hồ nước lớn như vậy đáng ra là phải tồn tại rất nhiều truyền thuyết, có điều giống như là nó bị cô lập hoàn toàn, không có bất kỳ một chuyện cũ nào nhắc tới nó, điều này đủ khiến cho tôi thấy rất khó hiểu.

Bàn Tử nói:" đây có phải là thôn trại mà mấy người bảo là bị hỏa hoạn trước kia không, tôi nhớ là có lần nghe ai nói trong núi Dương Giác có một thôn trại cổ bị lửa thiêu sạch, nhưng thật ra là nó bị chìm trong hồ nước này? Chắc là do mấy người không thấy có chút dấu vết nào sót lại trên mặt đất nên mới nhận định như vậy."

A Quý lắc đầu:" thời đó lâu quá rồi, dù có đúng là thôn trại cổ bị hỏa thiêu trong truyền thuyết thì cũng là từ thời nhà Minh. Hai thứ đó có liên quan gì không tôi cũng chẳng biết nữa."

Tôi nhìn A Quý cũng hiểu anh ta không phải nói dối, vì vậy liền nằm xuống rút một điếu thuốc, dùng ngón tay xoa xoa huyệt thái dương, thầm nghĩ quả nhiên là phải tự mình tìm hiểu thôi.

Bàn Tử chỉ về vị trí chúng tôi phỏng đoán là sâu nhất trong hồ, nói:" chất lượng đáy hồ này như vậy tôi thấy giống như bị búa đập ra vậy, cậu nói xem nó hình thành như thế nào?"

Tôi nói:" hồ này hẳn không phải mới được hình thành, mực nước chênh lệch như thế này thường chỉ xảy ra ở khe suối giữa núi này với núi kia mà thôi, có thể nó đã xuất hiện từ mấy trăm năm trước rồi."

"Do động đất sao?" Vân Thái bên cạnh tò mò hỏi.

Tôi lắc đầu:" thôn trại dưới nước được bảo trì tương đối hoàn hảo, nếu như do động đất thì chúng ta chắc chắn đã không thể nhìn thấy những đường làng ngõ xóm và hàng rào ngay ngắn như vậy. Điều đó chứng minh rằng thôn trại kia bị nước bao phủ trong tình huống rất bình tĩnh." Tôi cũng chỉ ra nơi vừa rồi Bàn Tử nói là sâu nhất trong hồ rồi nói tiếp suy luận của mình:" có thể là vì vận động địa chất, hoặc là một nguyên nhân khác mà trong mấy trăm năm trước tại sơn thể trước mặt chúng ta đây bỗng xuất hiện một vị trí nối liền với mạch nước ngầm, lại vừa đúng khu vực thôn trại này vì thế mà một trận đại hồng thủy bất ngờ ập đến kéo theo tất cả nhà cửa ruộng vườn nhấn chìm trong biển nước."

Vì sao lại nói là mạch nước ngầm thông với hồ nước? Do là tôi không nghe A Quý nhắc tới quanh đây có cái hồ nào lớn hơn, giữa vùng Thập Vạn Đại Sơn tôi cũng chưa thấy ai nói là có hồ lớn, nhưng mạch nước ngầm carter ở đây thì lại rất nổi tiếng. Nơi này giống như một vùng nhiệt đới, mưa rất nhiều, nước mưa chắc chắn phải có chỗ để chảy vào. Nước trong những sông ngòi trên mặt đất trước sau gì cũng phải ngấm xuống mạch nước ngầm,

Tối hôm qua diễn ra hiệu ứng Siphon nên có thể khẳng định là vì nơi này có thông với hồ khác.

Bàn Tử nói:" xem ra tôi nói không có sai, thứ chúng ta muốn tìm, chắc chắn đang ở ngay dưới chỗ sâu nhất của hồ, chúng ta không thể tìm được nó rồi."

Tôi lắc đầu:" cũng không hẳn, những căn nhà gỗ này có thể ví như một cái màng lọc, phần lớn những thứ bị thủy triều hút xuống đáy hồ đều sẽ mắc vào lớp hàng rào và trong những căn nhà gỗ đó. Vì vậy chúng ta chỉ cần tìm kiếm một vòng quanh nơi này thì cơ bản sẽ có thu hoạch. Nếu không có gì thì mới thực sự chấp nhận thất bại."

Độ sâu một vòng quanh đó cũng không phải là quá sức, tôi đoán là tầm khoảng hơn hai mươi thước, chỉ cần kiên trì một chút thì nhất định chúng tôi sẽ phát hiện ra được cái gì đó hữu ích.

Bàn Tử nhìn mặt trời một cái, bỗng chốc lấy lại tinh thần, nói:" chuyện hôm nay phải hoàn thành ngay, chúng ta xuống nước tiếp thôi."

Tôi lập tức lắc đầu, đó là điều không thể, như vừa rồi mới lặn xuống xem, tay không lặn trong nước quả thực có chút miễn cưỡng, nếu muốn từ từ điều tra kỹ càng thôn trại cổ đó, chắc chắn cần phải có những đồ lặn chuyên nghiệp. Chúng ta hoàn toàn không thể tiến hành ngay lập tức được, trước tiên phải về thị trấn, sau đó liên hệ người đem trang bị tới đây.

Đây là một công trình lớn, dụng cụ lặn xuống nước rất nặng, có thể phải thuê tới mười mấy người dùng la khuân vào trong núi, điều này thực không giống như dự tính khiêm tốn ban đầu của chúng tôi. Hơn nữa những thứ này không phải dễ chuẩn bị, ngoài bình dưỡng khí, chúng ta còn phải sắm thêm cả máy bơm oxi, đó không phải đồ trẻ con, la khả năng không thể kéo vào trong núi này được. Tách nó ra rồi thì lại phải vận chuyển, lúc đó thì lại càng lâu.

Lòng tôi cứ rối lên, đợi thêm một lúc nữa chắc tôi sẽ bị giày vò tới chết mất.

Bàn Tử cũng không muốn trở về, nhưng anh ta đầu óc nhạy bén hơn so với tôi, Bàn Tử suy nghĩ một lát rồi nói:" việc này không cần cân nhắc nữa, muốn tìm kiếm được trọn vẹn thì chúng ta nhất định phải trở về mang bình dưỡng khí tới đây, không còn lựa chọn nào khác cả. Có điều là vừa rồi lặn xuống xem qua tình hình, chỉ là đơn giản lặn vào trong nước tìm kiếm, cũng không cần tới bình dưỡng khí. Chúng ta có thể phân công nhau làm việc này, một người trở về mua trang bị, hai người còn lại ở đây bắt đầu vớt vật chìm, cả hai việc đều phải tiến hành cùng một lúc."

"Ai sẽ trở về?" tôi hỏi.

"Theo mức độ quan hệ mà nói thì người trở về đương nhiên là cậu thì phù hợp nhất, cậu có quan hệ rất rộng rãi, tôi và Tiểu Ca ở lại đây mò đồ cho. Cậu quen biết nhiều thủ hạ như vậy, cứ tìm vài người hỗ trợ đặt mua. Xong việc rồi lại tới, như vậy thì dễ dàng hơn nhiều so với chúng tôi."

Tôi mắng một tiếng:" bố khỉ, vậy chẳng khác nào ép tôi chết nghẹn"

"Một người chết nghẹn chung quy vẫn tốt hơn là cả ba người cùng chết nghẹn, hơn nữa cậu nghĩ mà xem, bảo Tiểu Ca đi chắc chắn không thể được, quan hệ của tôi ở Bắc Kinh so với cậu cũng bất tiện hơn nhiều. Tôi đi thì tốn thời gian hơn, ở nơi này ngắm phong cảnh cũng được, nhưng bắt cậu đợi một tháng thì chắc cậu không thể chịu được. Do đó nghe Bàn gia tôi nói đi, cậu trở về thu xếp trang thiết bị là lý tưởng nhất rồi." Bàn Tử đường đường chính chính nói.

Tôi nhìn biểu cảm trên mặt Bàn Tử, trông như một tên vỡ nợ,nhưng nghĩ kỹ thì cũng có lý phết. Tôi chỉ cần đánh một cuộc điện thoại cho Phan Tử là trong vài ngày có thể thu xếp được mọi chuyện, còn có thể đem Vương Minh và những người làm trong cửa hàng của chú Ba tới đây giúp một tay. Huống hồ Bàn Tử này lại không đáng tin cậy, để anh ta đi làm thì tôi thật không yên tâm. Tôi chỉ gật đầu, lập tức lên kế hoạch, cũng không chậm trễ mà ngay trong sáng ngày mai liền rời đi, cố gắng tốc chiến tốc thắng.

Sau đó tôi liền giao hẹn với A Quý, ngày mai anh ta sẽ đưa tôi trở về, Vân Thái sẽ ở lại đây trông chừng Bàn Tử và Muộn Du Bình. Tôi nghĩ A Quý cứ đi đi về về thế này cũng vất vả, hơn nữa hiện giờ chúng tôi không thể thiếu anh ta được. Cần phải tiếp tục lôi kéo anh ta, vì vậy liền ra giá cao hơn trước.

Cuối cùng tôi gần như tê liệt, suýt chút nữa thì không thể đứng lên được, Bàn Tử và Muộn Du Bình lại tiếp tục lặn xuống nước lần hai. Vớt lên được vài thứ nhưng đã rách nát ở trình độ kinh khủng nên không còn giá trị gì. Trong đó có một khẩu súng tự động, nát như một cái đuốc, Bàn Tử rất thích súng nên ra vẻ vô cùng tiếc nuối.

Khi Bàn Tử nhìn thấy thôn trang dưới nước kia thì không khỏi kinh hoàng vì cái quy mô của nó. Anh ta nói đáng tiếc ở chỗ không có kính lặn, nếu không thì có thể thấy rõ hơn một chút, cũng không phí công nhặt mấy thứ rác rưởi dưới này lên. Tiếp theo anh ta liền tìm kiếm trong tất cả những đồ thay thế của chúng tôi, cuối cùng cũng tìm được một cái đèn pin. Nhưng thứ này cũng không quá kín, Bàn Tử liền làm một quyết định hết sức khó tin. Anh ta lấy ống kính dán vào mắt, dùng băng dính và dầu trơn bít những khe hở lại, sau đó dùng lực ngăn chặn, như vậy có thể đảm bảo hai mắt nhìn được xa trong nước. Bàn Tử lặn xuống thử ở chỗ nước cạn, nhưng ngay lập tức áp lực lại khiến cho nước ùa vào trong hai ống kính, phương pháp này xem ra không thể thực hiện được. Bất đắc dĩ anh ta không thể làm gì khác ngoài việc ngồi đợi tôi quay lại. A Quý và tôi trở về trong thị trấn, trước tiên phải tìm mua thêm một vài đồ dùng cá nhân trong mấy cửa hàng để anh ta mang trở lại đây.

Màn đêm lặng lẽ buông xuống, sáng sớm ngày thứ hai tôi rời khỏi núi Dương Giác, mây đen vần vũ trên nền trời, hình như lại sắp có mưa to. Tôi vẫy tay tạm biệt bọn họ rồi lên đường xuống núi. Đi tới sườn núi tôi lại quay mặt nhìn về phía hồ nước một lần nữa, trông thấy đám mây đen kia mà trong lòng bỗng có một linh cảm rất lạ, tựa như là sắp có chuyện gì đó sẽ xảy ra.

Chương thứ 24

Dòng chảy.

Nói ngắn gọn là sau khi tôi trở lại Ba Nãi, trước tiên là phải ăn một bữa no nê rồi mới bắt đầu đi tới thị trấn gần đó mua đồ lặn. Dặn A Quý mang vào núi sau đó lên tàu rời khỏi đất Thập Vạn Đại Sơn.

Một đường xóc nảy, trong lòng lại có chút gấp gáp nên cảm thấy vô cùng khó chịu. Trên xe tôi còn bắt gặp người cháu họ xa nói giọng Bắc Kinh của lão Bàn Mã, nhìn ra được là ông ta cũng có một nỗi băn khoăn gì đó, suốt chuyến đi không nói lời nào, rõ ràng là đang đăm chiêu suy nghĩ. Ông ta cũng không hề nhận ra là tôi có mặt ở trên tàu.

Về tới Phòng Thành Cảng*, tôi quyết định qua khách sạn để bắt đầu hành động. Trước tiên là phải đặt mua đồ, biết là trong việc này có chút mờ ám và khó khăn nên tôi cần phải hành động thật cẩn trọng. Đầu tiên là gọi cho Phan Tử, bảo anh ấy giúp mình chuẩn bị một ít trang bị, anh ta quen biết rộng nên hiệu suất rất cao. Sau đó sẽ nhắn Vương Minh lập tức tới hỗ trợ mình một tay, tôi đang cần một người nằm vùng.

Phòng Thành Cảng*: Phòng Thành Cảng là một địa cấp thị ven biển phía nam thuộc tỉnh Quảng Tây, giáp biên giới với tỉnh Quảng Ninh (Việt Nam) ở phía tây nam, huyện Ninh Minh (địa cấp thị Sùng Tả) ở phía tây, địa cấp thị Khâm Châu ở phía đông, huyện Phù Tuy (địa cấp thị Sùng Tả) ở phía bắc, quận Ung Ninh (địa cấp thị Nam Ninh) ở phía đông bắc. Phía nam là Vịnh Bắc Bộ. Diện tích của địa cấp thị này là 6.181 km², trong đó 120 km² là các khu dân cư đô thị.

Phan Tử nghe tin tôi muốn đặt trang thiết bị thì có chút lo lắng, tôi đành phải lừa anh ta rằng mình đặt hộ người khác, anh ta mới chịu đồng ý. Năm ngày sau hàng và người tới, tôi ở Phòng Thành Cảng thuê một chiếc xe, đem những thứ này chuyển tới Ba Nãi. Đường quốc lộ Bàn Sơn dốc đứng vô cùng, tôi lại chỉ có bằng lái xe hạng C, lúc này cứ nhắm mắt phóng bừa, mạo hiểm vạn phần. Mấy lần suýt chút nữa thì lao xuống vách núi, do là toàn bộ lộ trình đều bám vào vách đá, hai bên đầu xe đều bị đâm cho biến dạng, lúc Vương Minh xuống xe hai chân mềm nhũn ra.

Ba Nãi chỉ có đường rải đá, đoạn cuối cùng thực sự không thể phóng vào được, ngày lại đổ mưa lớn, buộc lòng chúng tôi phải đổi sang xe kéo. Phải thuê tới ba xe thồ mới có thể mang hàng vào tới thôn. Đến giờ thì mọi chuyện vẫn thuận lợi, nhưng từ lúc tôi rời đi tới lúc quay lại thôn Ba Nãi này cũng đã qua hai tuần.

Vốn là đã giao hẹn trước với A Quý là đón mình ở cổng thôn, trước phải đem chuyển hết đồ đạc vào trong nhà anh ta. Nhưng tới cổng thôn dỡ hàng rồi mà vẫn không thấy bóng dáng anh ta đâu cả.

Bản thân tôi lúc đấy cũng mệt mỏi rã rời, không khỏi tức giận, bảo Vương Minh ở lại trông đồ đạc còn mình thì tới nhà A Quý tìm xem anh ta đâu. Cửa phòng khách kiêm phòng ăn mà chúng tôi trọ vẫn đóng chặt, gõ nửa ngày mà không thấy gì, đành tới tận nhà sàn của A Quý tìm.

Đây là nơi ở của nhà Vân Thái, đại sảnh không khác với phòng trọ của chúng tôi là mấy, vì không có nhà bếp ở đây nên có vẻ sạch sẽ hơn rất nhiều. Trong góc nhà có chất một vài cái khung gỗ màu, dùng để bán cho khách du lịch. Trên tường dán mấy bức tranh tết, khuê phòng của chị em Vân Thái ở trong nhà, A Quý ngủ ở phòng bên, còn có một cầu thang gỗ thông với tầng hai.

Nơi này đậm chất dân dã, cửa chính không khóa, bên trong gian phòng nào cũng chăng rèm. Tôi gọi vài tiếng, cẩn thận tiến vào thấy không có ai ở nhà. Nhìn lên lầu hô thêm hai tiếng nữa nhưng trước sau vẫn không có ai trả lời.

Trong lòng thầm mắng, con mẹ nó chứ, sao A Quý lại làm ra thế này? Đã hẹn chờ tôi vậy rồi mà người lại không thấy đâu cả? Chẳng lẽ anh ta đi vào núi? Vậy thì khốn rồi, ở đây tôi chỉ biết có mình anh ta, chẳng rõ khi nào anh ta mới chịu trở về!

Lập tức máu nóng trong người tôi dồn hết lên não, sợ là anh ta đang làm gì trên tầng nên không nghe thấy tôi gọi. Vì vậy nhanh chân bước lên cầu thang, tiếp tục hò hét.

Tầng một và tầng hai ngăn cách với nhau bằng một cánh cửa tre đan, đặt ở trên sàn gác, tôi đẩy nó ra rồi từ từ đi lên. Bên trên có một hành lang, bước tới phần cuối hành lang lại thông sang ban công gỗ, trông cũng cũ nát lắm. Thoạt nhìn đều như những nhà sàn gỗ từng thấy qua. Hai bên đều có phòng ở, bên cạnh là một đống đồ, cửa phòng toàn bằng những khung gỗ căng da thú khô. Tôi gõ một hồi lại không thấy có phản ứng, hình như người trong nhà đã đi hết không còn một ai.

Tôi thở hổn hền mấy hơi để mình tỉnh táo lại, thật cáu không có chỗ phát tiết. Lúc này bỗng nhiên nghĩ tới sau cửa này hình như A Quý bảo là phòng của con trai anh ta.

Con trai A Quý tôi mới chỉ nghe anh ta nhắc tới, chứ chưa hề được thấy mặt bao giờ. Nghĩ hắn chắc bị khuyết tật gì nên mới không gám gặp người lạ, vậy sao hôm nay cũng không có nhà? Tôi không nén được tò mò, nhòm qua khe cửa xem bên trong phòng. Phát hiện bên trong vô cùng tối tăm, chỉ có thể thấy trên tường treo rất nhiều đồ, không rõ là cái gì, hình như đều là tranh giấy. Quả thật không có người, hơn nữa cũng không thấy đồ dùng sinh hoạt, trống huểnh trống hoảng.

Tôi lấy làm lạ, con trai A Quý ngủ trong phòng này sao? Phòng này sao có thể cho người ở được chứ? Nghĩ đẩy vào xem kỹ một chút, lại thấy cửa không nhúc nhích, hình như đã cài then bên trong rồi.

Tôi không có thời gian để suy nghĩ tới những thứ này, thu lại lòng hiếu kỳ của mình, quay về tầng một. Sang nhà hàng xóm tìm hỏi thử, nghe bảo A Quý đã lâu chẳng thấy mặt, như là cả hai tuần vừa rồi vào núi mà không trở ra. Có điều họ cũng không dám chắc được, vì A Quý bình thường cũng đều phải đi tiếp khách. Con gái anh ta mấy ngày mưa vừa rồi lại sang thôn bên thăm ông nội.

Tôi mắng một tiếng, hai tuần trước chính là lúc tôi rời khỏi thôn, xem ra anh ta sau khi đi vào núi lần hai thì không có trở ra nữa. Rất có thể A Quý kia không nhớ tôi bảo anh ta ra đón tôi.

Vì thế buộc lòng phải tự mình bỏ tiền thuê mấy thôn dân giúp đỡ, trước là đem những trang bị kia chuyển tới nhà A Quý, để Vương Mình trông nom. Sau đó lại qua nhờ hàng xóm kia tìm hộ một người dẫn đường vào núi. Bản thân mang theo ít đồ vào núi trước, sau đó A Quý đi ra tìm người chuyển hết đồ vào sau.

Vừa hỏi thì biết được nguyên nhân do đâu mà A Quý không tới đón tôi, hóa ra là ngay sau khi tôi rời đi mấy ngày trời mưa tầm tã, đất đá và bùn nhão trong núi không ngừng trôi xuống. Không nói tới đi ra, ngay cả hiện tại mang theo mười mấy người kéo la vào núi cũng có thể dễ dàng gặp nạn chỉ trong một nốt nhạc. A Quý có khả năng đã bị kẹt lại trong núi.

Đây là chuyện rất bất ngờ, tôi lập tức không biết phải làm sao. Có điều hàng xóm kia nói với tôi không cần lo lắng qua, A Quý biết đối phó với tình huống này như thế nào, bọn họ chỉ cần đợi ở bên hồ, nhiều nhất là bị dính mưa, ngoài ra không có nguy hiểm lớn nào cả. Chỉ có điều tôi nếu muốn vào núi thì phải chờ thêm một tuần, nếu như mưa vẫn không dứt thì chắc còn phải đợi lâu hơn. Dưới thời tiết này thì không có bất cứ một thợ săn nào có thể giúp tôi được. Đó không phải vấn đề tiền nong gì cả.

Một tuần, tôi thầm tính chuyện này thật không đúng, A Quý nếu cứ ở trong đấy không về, vậy thì hai tuần vừa rồi bọn họ cũng không hề có tiếp tế, đồ ăn chẳng phải đã hết sạch rồi sao. Cho dù là A Quý có thể đi săn, dưới tình hình mưa lũ thế này có còn con thú nào không cũng là một vấn đề.

Kỳ thật cho dù anh ta chịu được thì tôi cũng không thể đợi những một tuần. Vì vậy liền ra giá cao gấp ba lần trước đề tìm một người liều mạng. Cuối cùng hàng xóm kia bị tôi hỏi nhiều quá liền nói, dưới tình hình thời tiết xấu thế này, dám đi vào núi chỉ có một người, đó chính là lão Bàn Mã, thử đi mà thỉnh cầu ông ta xem!

Chương thứ 25

Đấu tranh tâm lý 2

Tôi trở lại trong phòng của A Quý, Vương Minh cả người ước đẫm đang vắt kiệt nước trên quần áo, tôi cũng cởi đồ, không cần khách khí liền đi vào trong phòng A Quý lấy rượu của anh ta ra uống mấy hớp cho ấm người. Tiếp theo phải suy nghĩ xem nên làm gì bây giờ.

Nói thật ra thì tôi chưa từng nghĩ tới tình huống này, bản thân hoàn toàn bị bất ngờ, nó khiến tôi nhớ tới trước đây thầy giáo dạy tôtừng nói một câu:" ấn tượng ban đầu giữ vai trò chủ đạo". Đây là một khái niệm theo từng hoàn cảnh khác nhau, sau này được sử dụng trong rất nhiều ngành nghề, nói đúng là ở bất cứ một phân đoạn nào đều phải suy xét đầy đủ một lượt tất cả điều kiện. Không thể có chuyện "chắc hẳn phải vậy", trong một tình huống có quá nhiều thứ cần tính đến bao gồm cả thời tiết, tôn giáo, tập quán, tất cả chi tiết ở trong bất kỳ một hoàn cảnh nào cũng phải được suy nghĩ một cách trọn vẹn, vậy mới có thể đảm bảo sự việc diễn ra trôi chảy được.

Đối với tôi thời tiết nơi này giữ vai trò chủ đạo, không biết mùa mưa ở Quảng Tây khủng khiếp tới mức nào thì mới có thể không cảm thấy nhân tố thời tiết đáng lo ngại.

Vấn đề hiện tại trở lên vô cùng nan giải, nghe bọn họ nói, không thể đoán trước được thời điểm mưa ngừng, hơn nữa dù có ngừng thì đi vào trong núi vẫn rất nguy hiểm. Do đó lúc nào có thể đi vào núi ngắn nhất là một tuần nữa, còn dài nhất khả năng là tới hơn một tháng. Tôi không thể trông chờ vào ông trời được, vì vậy hiện giờ vào núi là chính xác nhất.

Nhưng nếu như lúc này đi tìm lão Bàn Mã xin giúp đỡ, tôi thật sự không thể thành công, trước khi lừa lão ta tôi đã nói là sau này sẽ không bao giờ tới tìm lão. Giờ lại đi cầu cứu, chắc chắn sẽ không phù hợp với kiểu có một thế lực ngầm rất lớn chống lưng, ngay lập tức sẽ bại lộ thân phận. Sau khi bị phát hiện may ra là lão không đánh tôi, chứ đừng nói gì tới việc lại quay ra giúp đỡ.

Nghĩ một lát, tôi tự nhủ mình không được lùi bước, nếu biện pháp duy nhất lúc này là phải đi tìm Bàn Mã thì chỉ có thể kiên trì đến cùng. Phải tìm một cách nói nào thật xảo diệu, khiến cho lão mắc câu lần nữa.

Bàn Mã đúng là một lão hồ ly, có trí tuệ sáng suốt hơn người, sao có thể kéo lão ta vào cuộc, thật sự đây là một chuyện phiền toái.

Tôi nghĩ đi nghĩ lại không có một biện pháp hay nào, chuyện này con mẹ nó thật khó khăn, bỗng nhiên tôi liền nảy ra một ý niệm. Cầu khẩn lão đưa tôi vào núi, chuyện này hoàn toàn không có sức thuyết phục. Vì nếu như ngay tới việc vào núi tôi cũng không thể làm được, thì sao có khả năng uy hiếp lão ta.

Thứ nhất là tôi có thể xác minh là thái độ của mình tuyệt đối không phải cầu khẩn van xin, tôi phải tiếp tục tỏ ra nguy hiểm, hoặc là thúc ép lão. Tôi thà bị lão cho là một kẻ lật lọng, một kẻ cực kỳ xấu xa, không từ thủ đoạn để đạt được mục đích, cũng không thể khiến cho lão nhìn ra tôi thực chất chỉ là thùng rỗng kêu to.

Thứ hai là tôi phải đánh lạc hướng lão, bất luận là phải tìm lý do gì để khiến lão đưa tôi vào núi, vào núi chính là vào núi, dùng lý do này đến tìm lão ta thì chứng tỏ tôi không có khả năng tự đi tới đó được. Một kẻ cường bạo xấu xa có thể ở những nơi khác không có năng lực, nhưng không thể nào không vào núi được. Tôi phải giấu kín cái mục đích thực sự này đi, khiến cho lão nghĩ tôi cần lão đưa đi vì chuyện khác, như là một nhiệm vụ nhất định phải làm.

Quan trọng nhất là tôi phải bức ép được lão, thứ hai là tôi không được ra vẻ cầu khẩn sự trợ giúp từ lão, không được thể hiện là tôi không có năng lực. Chuyện này phải làm thế nào chứ?

Cứu A Quý và Vân Thái ư?

Không thể nào, mục đích này rất chi là lương thiện, tôi nếu đã là một kẻ lãnh khốc bạc tình không từ thủ đoạn, phẩm chất lương thiện này sẽ không thể nào có trong người được. Hơn nữa, bản thân lão Bàn Mã trời sinh đã rất đa nghi, tôi chỉ cần biểu hiện một chút mềm lòng lão lập tức có thể áp đảo ngược lại tôi, tôi không được để lộ nhươc điểm nhân đạo này.

Nói là muốn lão tới nơi đó để xác minh thứ gì đó ư?

Hình như vẫn có chút gượng gạo, không đủ để thuyết phục được lão. Hơn nữa làm như vậy tôi cũng không biết nên có giọng điệu thế nào cho phải. Mặt khác, cho dù lão ta đồng ý, thấy chỉ có một mình tôi đi thì khó tránh khỏi nghi ngờ. Thân thủ của tôi trong mắt lão chắc chắn chỉ là một thứ hèn kém, nói không chừng gặp nguy hiểm còn phải nhờ lão cứu. Đi cùng nhau một thời gian tôi chắc chắn không có cách nào để kiểm soát được.

Càng nghĩ đầu càng đau, cảm giác chuyện này không giống như lời nói suông. Lời nói suông giống như một thương vụ buôn bán, bạn chỉ cần chém gió thật ác vào lúc thương lượng là được, nhưng sau khi nói chuyện xong, tôi còn phải cùng lão ta vào núi, trên đường đi tình hình ác liệt như vậy mà vẫn phải giả bộ. Mức độ khó này quá cao.

Tôi xoa xao hai huyệt thái dương, tưởng lôi hết những ý nghĩ kia ra, con mẹ nó chứ, thử nghĩ khác đi xem, nếu không thể giả bộ được thì có cần tới manh động không?

Bắt cóc? Tôi bỗng nảy ra ý niệm: hay là mình đánh ngất lão rồi lôi lên trên xe lừa?

Nhưng tôi cũng nhớ ra với thân thủ của Bàn Mã thì thấy ngay là không ổn, nhìn tôi và Vương Minh tốt nhất là quên luôn đi. Chết tiệt! Bắt cóc? Nói không chừng còn bị lão ta chém chết tại chỗ.

Bắc cóc không được, hay là tăng giá tiền, nguy hiểm một chút, cầm hai ba mươi vạn ra đập lão?

Nhớ tới nhà Bàn Mã cũng khó khăn, hơn nữa con của lão lại có thái độ đó, tôi nghĩ ra cho mình một kịch bản trong đầu. Nói là muốn những khối sắt đó, chỉ còn mấy ngày nữa thôi, một khối đó bao nhiêu tiền rồi khiến lão ta đi mò. Mò được một khối tôi sẽ đưa lão ngay một vạn, như vậy có lẽ bọn họ vì tiền sẽ tự khắc vào núi.

Thấy việc này cũng tương đối được, tôi bắt đầu móc hết túi trên người ra, ba mươi vạn không phải là con số quá lớn, có điều bên người không thể mang theo nhiều tiền như vậy. Tôi lôi hết tiền mình đang có ra, đếm qua chỉ có hơn bốn vạn. Trong thẻ tín dụng vẫn còn tiền, nhưng muốn lấy thì phải lên thị trấn trên mới rút được. Phỏng chừng cũng đủ, vừa định bảo Vương Minh đi thì bỗng trong đầu lại xuất hiện một ý niệm.

Không đúng! Đây không phải là một kế sách vẹn toàn! Tuy có thể là Bàn Mã sẽ đáp ứng nhưng vẫn không thể chắc chắn trăm phần trăm được. Nhỡ đâu lão ta cự tuyệt thì phải làm sao?

Lão mà cự tuyệt tôi chắc chắn sẽ không có cơ hội thứ hai nữa. Ông nội từng nói, làm việc gì cũng có thể thất bại, nhưng đừng để cho mình không có cơ hội thứ hai.

"Một biện pháp có thể không có năm mươi phần trăm xác suất thành công, thậm chí chỉ có mười phần trăm xác suất thành công, nhưng nhất định phải chừa cho mình một đường sống. Như vậy kỳ thật sẽ có vô số một trăm phần trăm trong những lần sau."

Tôi thấy cũng đúng, gãi đầu nhìn thẻ tín dụng của mình, thầm chửi, con mẹ nó chứ, thật sự rất nan giải. Ông nội chỉ nói làm việc gì cũng phải để cho mình một đường lui, tôi cũng muốn chừa ra lắm, nhưng phải làm thế nào đây chứ?

Tôi có chút lo lắng, nhớ tới trời bên ngoài vẫn đang mưa to gió lớn, đành bỏ dở tất cả những suy nghĩ trong đầu. Ngay sau đó liền đi sửa soạn đồ đạc của mình, lôi hết những thứ có được ra xem. Bỗng tôi lại sờ thấy một bọc đồ, chính là khối sắt tìm được dưới giường nhà Muộn Du Bình.

Nguyên là Bàn Tử bảo tôi mang về thành phố trước, tìm một chỗ để giấu kín đi, tôi lại quên mất. Cầm khối sắt lên, dỡ hết những giấy báo bọc ngoài ra nhìn, bỗng có ánh sáng lóe lên trong đầu, nhớ tới ông nội từng nói một câu:" đấu với người khác, phải tấn công trực tiếp vào điểm yếu ."

Cùng người khác đấu trí, cần đánh trực tiếp vào chỗ yếu hại của họ.

Điểm yếu của Bàn Mã là gì? Tôi nghĩ một lát, lại nhìn xuống khối sắt trên tay, trong đầu bỗng hiện ra một phương pháp vẹn toàn.

Cẩn thận nghĩ một chút, phát hiện quả là không chê vào đâu được. Tôi không nhịn được bất giác toàn thân nổi da gà, chính những ý nghĩ này cũng khiến tôi phải sợ hãi bản thân mình, cho tới giờ chưa từng nghĩ ra trăm phương ngàn kế hơn người như vậy. Qua việc này tôi cũng nhận thấy mình đã thay đổi, lại có thể tự nhiên bình tĩnh suy xét sâu được âm mưu như vậy. Nhưng vừa nghĩ tới tình cảnh Bàn Tử và Muộn Du Bình, tôi cũng không thể tính toán được gì nhiều.

Việc này không thể chậm trễ, tôi phải lập tức chuẩn bị, trước tiên phải để Vương Minh tìm cho tôi một cái lư hương, trong lắp đầy than gỗ, sau đó đem khối sắt và lư hương cho vào cùng một túi sấy lên.

Bàn Mã nói khối sắt này có tỏa ra mùi lạ, nhưng theo thời gian sẽ bị phai nhạt dần, tôi biết vật bên trong kia có thể bốc hơi, mà theo như quy luật, chỉ cần làm nóng nó thì mùi sẽ lập tức tỏa ra mạnh hơn lần trước.

Không ngoài suy luận của tôi, từ từ, khối sắt bắt đầu tỏa ra một mùi rất kỳ quái, càng lúc càng đậm đặc.

Lần đầu tiên tôi ngửi thấy thứ mùi này, cảm giác quả thực rất quái dị, không thể hình dung nổi, nếu nhất định phải miêu tả thì nó giống như mùi nhựa. Thứ mùi này nếu đưa cho Bàn Mã ngửi, lão chắc chắn không thể phân biệt ra là cái gì.

Tôi đem gói đồ vào trong cái khăn rộng, bỏ vào ba lô đeo sau lưng, tiếp đó đứng trước gương luyện qua một chút biểu cảm nguy hiểm, sau cùng che ô tiến tới nhà Bàn Mã.

Bàn Mã thấy tôi xuất hiện nét mặt rất khó hình dung, kinh ngạc không thốt lên lời, không biết là sợ hãi hay chán ghét nữa.

Nhưng chờ tôi đi vào trong phòng rồi ngồi xuống, một lúc sau trong nhà bắt đầu sực nức mùi lạ thì mặt ông già chỉ còn mỗi biểu cảm kinh hoàng. Tiếp theo, lão lập tức suy sụp.

Tôi ung dung ngồi đó, nhìn Bàn Mã toàn thân phát run, thốt ra một câu phủ đầu:

" Bọn họ đã trở về. Tôi tới đón ông đây."

Chương thứ 26

Bất chấp mưa gió

Ban đầu tôi vốn đã chuẩn bị rất nhiều lý do để giải thích, dự là sẽ khiến cho lão ta tăng thêm kinh hãi, nhưng giờ hoàn toàn không cần thiết phải làm thế. Tôi chỉ mới nói có một câu, lão đã suy sụp, hồn vía bay hết lên trời.

Đấu trí với người khác nên đánh trực tiếp vào điểm yếu của hắn.

Điểm yếu của Bàn Mã chính là nỗi sợ hãi trong lòng, không cần nói gì cả, tôi hoàn toàn có thể phá hủy lão ta từ sâu trong tâm can rồi.

Nhưng sự tình cũng không thuận lợi như tôi muốn, bởi vì lão thực sự rất sợ hãi, gần như muốn phá cửa mà chạy. Trên thực tế có thể lão thà chết chứ quyết không muốn quay lại gặp những người đó.

Tôi từng chút từng chút một thuyết phục lão, cuối cùng khiến lão hiểu ra lão nhất định phải kết thúc chuyện này, bằng không đời con đời cháu đều sẽ gặp phải rủi ro. Nói thế mới khiến lão hiểu ra vấn đề. Lúc đó Bàn Mã cũng thuận ý, mưa bão tới đâu cũng sẽ theo tôi vào trong núi. Còn sau khi vào núi phải làm gì thì tôi không nói, lão căn bản cũng không hề hỏi.

Tất nhiên, trên danh nghĩa là lão già theo tôi vào núi, nhưng thực tế là tôi theo lão ta. Dù sao đi ở trong núi thì ai đi trước ai đi sau cũng không phải vấn đề gì quan trọng.

Nhìn bộ dạng Bàn Mã như thế tôi lại cảm thấy áy náy vô cùng. Vốn là tôi vì lợi ích của bản thân mà ép một lão già sợ tới vậy thật không phải cử chỉ tốt đẹp gì, huống hồ tôi còn buộc lão ta đến một nơi nguy hiểm trong núi, loại hành vi như vậy khiến tôi tự cảm thấy mình thật đáng ghét. Tôi chợt phát hiện trong huyết quản mình thực sự có chảy cùng một dòng máu với chú Ba, sự tàn ác, gian trá vốn là bản năng của gia tộc mình.

Nói tóm lại thì chúng tôi chuẩn bị một hồi sau đó lên đường xuất phát. Lúc bắt đầu đi thì tôi bước trước Bàn Mã theo sau, nhìn qua thì như là tôi đang dẫn đường, thực ra thì tôi hoàn toàn không biết gì hết.

Đi suốt không dừng chút nào, trời lại mưa như trút nước, đường núi vô cùng khó đi. Cũng may mà tại Phòng Thành Cảng tôi đã tĩnh dưỡng phục hồi khí lực, do đó vẫn có thể chịu được. Bàn Mã dọc đường không thốt ra nửa lời, tôi cơ bản cũng không có chuyện gì để nói với lão già. C ả hai chỉ biết cắm đầu mà đi.

Vài ngày sau chúng tôi trở lại được bên hồ, xa xa vừa nhìn, mẹ ơi, mực nước đã tăng lên gần sát bờ, ước chừng phải năm sáu thước. Mặt hồ nhìn lớn hơn rất nhiều, soi với trước khi đi thì sóng nước hoàn toàn biến đổi. Núi Dương Giác chìm trong biển mưa bàng bạc, trên sườn núi bùn đổ xuống bắn tung tóe, diện mạo vô cùng dữ tợn.

Giờ ở trên núi thì quá nguy hiểm, chúng tôi vội vàng thúc con la lập tức lội qua bùn, từ đường nhỏ này thẳng tới bãi đá bên hồ.

Nước mưa trong núi rơi lên trên lá tạo ra âm thanh thật đinh tai nhức óc, đấy là chưa nói đến bên hồ. Mưa như trút trên mặt hồ, tiếng rào rào cùng một tần suất, gần như tràn ngập toàn bộ trời đất, khiến cho tôi cơ bản là không thể nào nói chuyện được. Mấy con chó săn của Bàn Mã vô cùng khó chịu và bất an nên không chịu theo đi. Bàn Mã đành phải mặc cho chúng nó trốn ở tàng cây trên bãi đá sát cạnh bờ hồ.

Không có tán lá che nên mưa rơi thẳng xuống mặt chúng tôi, tầm nhìn rất hạn chế, chúng tôi cố gắng lôi con la đạp mưa mà đi. Rất nhanh sau đó trong mưa rơi còn trông thấy một bóng người mơ hồ chợt lóe lên, hình như là Bàn Tử.

Tôi biết có gọi cũng vô dụng, cho dù có mặt đối mặt lúc này cũng không thể nào nói chuyện được, liền tiếp tục đi về phía trước. Lúc này không biết tại sao mà con la bỗng dừng lại, quay đầu nhìn, hóa ra là Bàn Mã giữ con la, đưa mắt nhìn về phía tôi, chắc lão cho rằng đã tới nơi nên đợi chỉ thị của tôi.

Trải qua nhiều ngày như vậy tôi thấy lão cũng đã nghĩ thông suốt, không còn sợ hãi như trước kia. Hơn nữa nhìn ánh mắt, hình như đã hạ quyết tâm gì đó, cả người u ám kinh khủng, tôi lại có chút kinh sợ.

Con người là như vậy, một ngày hai ngày có thể còn dọa chết khiếp được, dọa liên tục thì sẽ thành ra chai lì.

Đến đây rồi thì tôi cũng không cần phải giả bộ nữa, kỳ thực trên đường tôi cũng không tỏ vẻ gì, vì quá mệt mỏi, tôi trái lại bắt đầu suy nghĩ làm sao để giải thích cho ông già hiểu được tình hình. Nếu như nói cho lão ta biết tôi trước giờ chỉ hoàn toàn lừa lão, sợ là lão sẽ giết tôi, còn tiếp tục lừa thì lại rất khó khăn, mà cũng quá vô nhân đạo.

Tôi không biết nói với Bàn Mã như thế nào cho phải, chuyện này thực ra chỉ cần A Quý xuất hiện là mọi chuyện sẽ bại lộ. Tôi nghĩ trước hết phải bàn bạc với Bàn Tử một chút, có thể sau đó tôi sẽ chuồn êm. Chờ khi lão phát tiết xong rồi mới lại xuất hiện. Vì thế bảo lão không được nhúc nhích, tôi buông dây cương chạy qua bên kia tìm Bàn Tử, tiện thể báo cho bọn họ giúp giỡ hàng.

Chưa đi được mấy bước, nhìn về mà mưa phía trước phát hiện bóng người vừa rồi dần dần hiện ra, bộ dáng có chỗ kỳ quái.

Không đợi tôi kịp nhận ra đó là ai, đột nhiên gáy bỗng đau nhói, cả người lập tức đổ gục xuống mặt đất, may mà chưa ngất đi.

Tôi liền lăn một vòng tại chỗ bật dậy, thấy Bàn Mã mặt tái xanh đứng ở sau lưng tôi. Một tay dao săn đã rút ra cầm sẵn, trong mắt hằn lên sát khí.

"Ông làm cái gì vậy?" tôi mắng, bỗng chốc thấy lão ta lại giơ cao cây dao lên, lao tới chỗ tôi chém xuống.

Chết mợ con rồi! Tôi sợ tới kinh người, lập tức lăn một vòng tránh khỏi dao kia rồi bật người dậy, chỉ thấy Bàn Mã lại phóng tới trong mưa lượn một đường vòng cung vô cùng đẹp mắt, cắt thẳng lên cổ tôi. Tiếp theo tôi vừa kịp tránh thêm một dao liền ngã ngồi xuống đất, giờ mới hiều ra lão già đang hạ sát thủ với mình.

Tôi nhìn ánh mắt kia, nhớ tới trên đường đi lão không hề thay đổi biểu cảm, chợt nhủ không ổn, con mẹ nó, người này lúc đi đã nghĩ ra hết mọi sự, lão thấy là giờ tiên hạ thủ vi cường là an toàn nhất. Muốn cùng chúng tôi liều mạng, giết sạch toàn bộ người trong này.

Thế quái nào, chuyện này thật phiều toái, tôi lập tức muốn chạy trốn, vừa lao đi được vài bước, lão Bàn Mã đã vòng ngay ra trước mặt, một dao chém ngang người tôi. Tôi vội nói cuống cháu sai rồi, là cháu đã lừa ông! Không có chuyện gì hết, con mẹ nó chứ bọn họ không hề trở về.... Chó chết một lỗi là lão không để vào tai một từ nào.

Tôi suốt quãng đường dài phải cật lực di chuyển đã sớm không còn sức mà chạy nữa, trong mưa lượn vài vòng quanh lão già rồi vụt bỏ chạy, không ngờ là chân liền vấp ngay phải một tảng đá ngã úp mặt xuống. Bàn Mã lập tức đuổi tới nơi, tôi nhặt bừa vài cục đá bên cạnh mà ném lão, nhưng lão đều trành được hết. Mắt thấy lão chuyển tay cầm đao lao tới áp sát tôi, bỗng nhiên thân hình dừng một chút, hình như phát hiện thấy thứ gì đó, mắt lại liếc về một nơi khác.

Thừa cơ tôi đứng dậy tiếp tục bỏ chạy, đột nhiên phát hiện ra bốn phía trong màn mưa xuất hiện rất nhiều bóng người, đang bao vây xung quanh chúng tôi.

Chương thứ 27

Quỷ ảnh trong mưa

Ảnh của mấy người kia phiêu phiêu động động, khi đột nhiên hiện ra, khi lại bất ngờ mất dạng. Vừa nhìn là biết cũng không có ý tốt gì, hình như họ đang cẩn thận theo dõi nhất cử nhất động của chúng tôi để tùy cơ ứng biến. Cứ như mấy âm hồn đứng rình rập sau màn mưa loáng thoáng, chỉ hiện ra bóng dáng mờ ảo thật khiến cho người ta cảm thấy không rét mà run.

Chuyện gì đang xảy ra, sao ở đây lại đột nhiên xuất hiện nhiều người như vậy?

Ý niệm đầu tiên hiện lên trong suy nghĩ của tôi là: người trong thôn trước giờ đều âm thầm ngăn cản chúng tôi, tới lúc này mới ra mặt động thủ. Họ có thể sẽ giết hết chúng tôi ngay tại đây.

Điều này thật hỗn loạn, con mẹ nó chứ, một bên là Bàn Mã đang phát điên, một bên là đại đội đòi chặn giết, con mẹ nó lần này chết chắc rồi!

Tôi liếc qua một vòng, phát hiện đại khái ở đây có bảy người, không biết họ muốn làm gì đây? Xem ra những người này đã mai phục sẵn trong này từ trước?

Tôi lau mặt một cái, gạt hết nước mưa trên mặt xuống, nhưng mưa qua lớn, chớp mắt lại thấy nước chảy đầy cầm. Những bóng người này vẫn mơ mơ hồ hồ không thấy rõ, cũng chẳng biết họ có mang theo vũ khí gì.

Bên kia không biết nét mặt Bàn Mã giờ nhìn thể nào, tôi và lão vẫn duy trì khoảng cách, lão dừng lại vài giây, bỗng nhiên lại vung dao lao về một trong số những cái bóng kia.

Lúc đó tôi vẫn còn đang hoảng sợ, nhưng lập tức liền hiểu ngay ra ý định của lão già:" chết tiệt, lão tưởng những bóng người này là đội ngũ năm đó."

Trong hoàn cảnh này, bất luận là ai cũng không thể ung dung bố trí mai phục chặn giết người khác, cho nên thay vì chờ đồi phương nắm được tình hình, không bằng xông tới trước. Bọn họ trong hoàn cảnh rối ren thì chỉ cần loạn đả một chút sẽ khiến quân ta quân mình nhầm lẫn ngay. Lão có thể lợi dụng thời cơ đó.

Tôi không biết với tôi đây là chuyện tốt hay chuyện xấu, hiện giờ cũng không quản được nhiều như vậy, lập tức chạy theo, bọn họ bao vây quanh chúng tôi, Bàn Mã một mình tấn công bọn họ, chắc chắn sẽ có sơ hở, tôi có thể lợi dụng cơ hội mà thoát thân.

Không thể trở về lều tránh mưa, nếu như những người này đã sớm ở đây vậy Muộn Du Bình và A Quý bọn họ tình hình không biết thế nào. Dù cho là thân thủ của Muộn Du Bình và Bàn Tử, chỉ cần mỗi người trúng một phát đạn thì cũng chết, huống chi còn liên lụy tới A Quý và Vân Thái nữa.

Chạy trên bãi đá trơn trượt như diễn xiếc vậy, tôi chạy mấy thước mà đầu gối đã bầm dập hết cả, xa xa phía trước Bàn Mã đã vọt tới trước mặt một bóng người, vì khoảng cách di chuyển thay đổi, bóng người bốn phía đều không thể phân biệt được, cũng chẳng rõ là bọn họ đang làm động tác gì. Bàn Mã lao tới chỗ những cái bóng kia, dao trong tay chém lia lịa dưới mưa, nhìn không tưởng được đó là một lão già tám mươi tuổi.

Kỳ quái là bóng dáng kia vẫn lù lù bất động, hình như không hề để ý tới đòn tấn công sắc nhọn của Bàn Mã. Không tới mười giây, chúng tôi đã tiến tới trước mặt bóng đen kia, Bàn Mã chuyển mũi đao, chẳng những không chém tới nữa mà bỗng ngừng lại. Tiếp theo lão đột nhiên thét lên một tiếng thảm thiết, dao rơi trên mặt đất. Lão bắt đầu cuống cuồng thoái lui, sau thì bị tảng đá vướng vào chân liền ngã.

Tôi tới bên cạnh nhình quanh, lập tức phát hiện ra khuôn mặt thật của những cái bóng đen kia: đây hoàn toàn là những bộ xương khô. Khiến tôi kinh người sởn gai ốc là chúng trên người vẫn còn khoác y phục đã rữa nát hóa thành màu đen, là quân phục, trang bị vẫn còn, trên lưng đeo một khẩu súng tự động.

Đầu tôi tê rân rân, hai chân lập tức lùi lại từng bước, thầm nhủ chết cmnr, đây là cái quái gì! Lẽ nào những người này thực sự từ dưới nước leo lên bờ?

Nhưng sức chịu đựng của tôi tốt hơn nhiều so với Bàn Mã, ngay lúc đó mưa vẫn sối sả đổ xuống, tôi liền thấy đầu lâu của bộ xương khô kia lắc lư, giống như là đèn lồng treo lên vậy.

Định thần nhìn lại tôi phát hiện ra những bộ hài cốt này đều dùng cành cây làm giá đỡ, đằng sau lưng có một cái gậy chống.

Thế quái nào, nơi này sao lại có người chết, lẽ nào đây là những thi thể mà bọn họ tìm được dưới đáy hồ? Tôi hít một ngụm khí lạnh, nhìn kỹ những hài cốt kia, quả nhiên không sai, bộ quân phục cùng tư trang đeo trên người đều bị nước ăn mòn, nhất định đây là một người phục vụ trong quân đội. Xem ra suy luận của tôi là đúng.

Có điều tôi nhìn dáng vẻ của những hài cốt này lại thấy rất lạ. Thầm mắng một tiếng, đây là cái thể loại gì vậy? Tính dọa người sao?

Bàn Mã quá kinh sợ, lúc tôi quay đầu nhìn lại đã không thấy lão ta đâu, còn tưởng đây là trò đùa tai quái của Bàn Tử?

Tôi lập tức quay lại chỗ con la, cũng không thấy lão Bàn Mã ở đây, đầu tôi đau gần chết, ngoài bóng ma kia thì xung quanh toàn bộ những đốm đen đều giống như vậy, tổng cộng có tất cả là bảy bộ hài cốt, ở những chỗ khác có còn không thì không biết. Bàn Mã cũng không thấy bóng dáng đâu nữa, hình như đã trốn mất dạng rồi.

Mưa lớn như vậy, tôi không thể nào đi tìm lão Bàn Mã được, vì thế chuẩn bị tiếp tục di chuyển, phải gặp được A Quý nói cho bọn họ biết ở đây còn có những người khác. Con la hình như là sợ xác chết, làm thế nào cũng không kéo nó đi được, phải dắt nó lên trên tảng đá rồi vòng qua những thi hài kia, thẳng tới lều trú mưa. Lều trú mưa rõ ràng đã được gia cố lại rất nhiều, trong mưa to như vậy mà không đổ, tôi chui vào bên trong thấy bốn phía yên tĩnh hẳn, nhìn quanh một lúc mới nhận ra không có ai ở đây cả.

Tôi thầm mắng lần thứ hai, nghĩ mưa to như vậy chẳn lẽ bọn họ vẫn xuống hồ sao? Con mẹ nó, hay là đã có chuyện quỷ gì xảy ra rồi? Chỉ thấy trong lều trú mưa chất đầy đổ đạc vớt được từ dưới hồ lên, tôi không ở đây có hai tuần mà Bàn Tử và Muộn Du Bình đã đạt được thành quả tốt tới vậy.

Trong mấy thứ này cứ hễ là kim loại thì đều bị rỉ sét tới nát bét ra, tôi thấy có bình nước, súng trường súng lục, ống nhòm, một vài con chủy thủ, khảm đao, đều là vũ khí trang bị. Có thể suy ra là không khí vào thời điểm đó ám mùi chiến tranh. Ngoài ra còn có rất nhiều đồ dùng sinh hoạt, thầm chí còn có hộp bánh, vô cùng đấy đủ, cái gì cũng có, chắc là cũng vớt được phần lớn đồ dùng trong hồ rồi.

Tôi nghĩ bản thân đang không có đồ gì phòng thân, nhặt tạm lên một khẩu lưỡi lê súng trường tấn công Type 56*, đây là một loại súng rất nổi tiếng. Thời đó kiểu lưỡi lê này cũng không được dùng nhiều, dù sao cũng là gần thập niên tám mươi, mỗi vũ khí của đơn vị quân đội đều rất mạnh, lưỡi lê thường chỉ khi chấp hành nhiệm vụ đặc thù mới dùng tới. Chiến tranh trong rừng, người Việt Nam sẽ không đánh giáp lá cà với đối thủ.

Vì chính chất liệu của nó mà lưỡi lê không bị hỏng hóc quá nhiều, tôi nghe nói loại lưỡi lê gắn trên thường có độc, vì vậy phải đặc biệt cẩn thận. Cân nhắc xem giờ nên làm gì, mẹ kiếp, chủ yếu là do mưa quá lớn, nghe không ra một tiếng gì, đên cả nhìn cũng khó nữa.

Nghĩ mình nếu cứ rtong lều sẽ trở thành mục tiêu lớn, không chừng còn bị Bàn Mã lao vào giết, vì vậy mà lại chui ra ngoài trời mưa, chạy tới bên hồ nhìn xem A Quý và mọi người có ở đó không.

Chạy tới chạy lui mấy vòng, chợt thấy có bóng người đang kéo bè lên trên bãi đá ven hồ.

Tôi liền lao tới, phát hiện ra người kia đúng là A Quý rồi, bóng lưng đơn độc một mình kéo bè đi lên bờ, lúc tôi chạy tới trước mặt anh ta, thấy tôi tới, hai mắt anh liền ngây dại, sắc mặt tái nhợt kinh người.

" Sao chỉ có một mình anh? Bọn họ đâu hết rồi?" tôi hỏi.

A Quý ngơ ngác đứng ở trong hồ nước, nét mặt đờ đẫn, anh ta cứ nhìn tôi chằm chằm như vậy, tôi lại hỏi thêm lần nữa, A Quý vẫn không có phản ứng gì.

Tôi nhìn cái bè gỗ kia, biết ngay là A Quý từ trong hồ trở về, thầm nghĩ thế quái nào, quả nhiên những người này điên cmn rồi, mưa lớn như vậy mà vẫn lao vào hồ mà vớt. Lúc này tôi đột nhiên ý thức được có chỗ bất thường, vì sao A Quý lại kéo bè trở về? Anh ta phải ở trên mặt hồ chờ bọn họ chứ, nếu không trời mưa to như vậy mà đi bơi là vô cùng nguy hiểm, huống hồ là nước đã dâng lên rất nhiều. Nhìn biểu cảm trên mặt A Quý cũng hết sức không bình thường.

Tôi tới gần A Quý, muốn hỏi cho rõ, nhưng càng tới gần lại càng hiểu ra, nét mặt A Quý rất thẫn thờ, cảm giác như vừa trải qua một chuyện khiến anh ta vô cùng kinh hoàng, nhìn như người mất hồn vậy.

Tôi liền đi tới túm lấy tay anh ta hỏi lớn:" có chuyện gì xảy ra vậy?"

A Quý lúc đó mới bừng tỉnh, hai mắt đổ lệ, khóc lớn nói:

"Bọn họ....bọn họ... Chết hết rồi..!"

Chú thích:

Lưỡi lê súng trường tấn công Type 56*: Lưỡi lê 3 cạnh của súng trường tấn công Type 56 (phiên bản copy AK-47 của Trung Quốc) được gắn liền với súng, khi không ở trạng thái chiến đấu lưỡi lê được gấp gọn phía dưới ốp lót tay, khác biệt giữa lưỡi lê Type 56 với lưỡi lê súng trường SKS ở chỗ không có vòng khâu lê.

Chương thứ 28

Ma hồ quỷ dị

"Đã chết?"

Trong đầu tôi ong một tiếng, thầm nhủ, sao lại thế được?

A Quý nói xong câu đó, bao nhiêu cảm xúc đều suy sụp hết, cả người gần như tê liệt ngã xuống hồ nước. Tôi vội tới đỡ anh ta vào trong lều trú mưa. Rồi qua chỗ con la lấy chai rượu trắng rót cho anh ấy uống vài ngụm, sau mới thấy bình tĩnh được một chút, nhưng tâm trạng vẫn vô cùng hỗn loạn, còn nói năng lộn xộn không đầu không cuối.

Tôi vừa nghe vừa cố gắng sắp xếp lại, cuối cùng cũng hiểu đã có chuyện gì.

Thì ra là sau khi tôi rời khỏi đây, lúc A Quý trở lại lần thứ hai, anh ta tìm vài người chuyển đồ và lương thực tới bên hồ. Thấy chuyện cũng không có gì nên bảo Vân Thái cùng những người kia về nhà, ở đây chỉ còn lại có mình anh ta trông chừng thôi.

Khi đó Muộn Du Bình và Bàn Tử đã vớt lên rất nhiều thứ, cùng lúc bọn họ phát hiện ra chỗ giấu thi thể. Nhưng khi đó mưa đã đổ không dứt, mực nước lên cao, có thể khiến cho việc vớt đồ rơi vào bế tắc.

Lúc này, trong quá trình sắp xếp đồ mò được, lại thấy một bộ đầy đủ trang thiết bị, bao gồm cả đồ lặn, dây thừng, là đồ lặn mà đội khảo cổ đã dùng để vớt những khối sắt nên năm đó.

Bộ thiết bị này ngâm trong nước một thời gian rất lâu, phần lớn bộ phận đều đã không thể dùng được, nhưng mũ lặn chế tác trên chất liệu chống thấm, được bọc trong túi, nước không xâm nhập được vào nên bên trong vẫn còn tương đối ổn. Chỉ có bề mặt cao su đã bị tróc ra loang lổ một tầng.

Bàn Tử liền nảy ra một ý tưởng, muốn dùng cái mũ lặn này cùng với vài bộ phần cao su làm thành một dụng cụ lặn đơn giản, không khí trong mũ lặn có thể cung cấp gấp bảy đến tám lần, vì không khí mà con người thở ra cũng chứa một lượng lớn oxi. Điều này quả thực rất khả quan, nếu sử dụng tốt có thể giúp Bàn Tử kéo dài được năm phút.

Đối với việc lặn xuống nước mà nói thì có được năm phút so với một phút khác nhau một trời một vực. Bọn họ quyết định dùng trang bị này, sau tìm được hai bộ hài cốt dưới nước. Quá trình bọn họ sử dụng hai đoạn dây thừng, một cái buộc trên lưng Bàn Tử, vì mũ lặn tương đối nặng nên chỉ có thể dựa vào sức lực của Bàn Tử mới di chuyển ở trên cao mà không gặp nguy hiểm. Lúc này cần có hai người còn lại kéo anh ta lên. Đoạn dây thừng còn lại buộc vào một thanh sắt uốn thành hình móc câu- thanh sắt lấy ra từ khung của cái túi da trâu- sau khi Bàn Tử lặn xuống dưới nước, vớt được cái gì thì treo vào móc để người bên trên kéo lên. Như vậy một chuyến đi xuống sẽ mò vớt được không ít thứ.

Xương người hầu như đã rơi rụng hết, phân bố rải rác ở quanh hàng rào, bọn họ đem vớt chúng lên. Căn cứ vào vị trí để dùng cành cây cố định lại thành một bộ xương hoàn chỉnh, công việc hết sức đơn giản và thuận lợi.

Chờ cho bọn họ đem tất cả những xương cốt có thể vớt lên ghép lại thành từng bộ, thì bỗng phát hiện một vấn đề.

Toàn bộ những xương cốt sau khi được hợp lại thành hình, ba người phát hiện ra trong tất cả những hài cốt này đều thiếu mất bàn tay phải.

Căn cứ vào cách tính toán thi thể, theo số xương sọ và xương chậu sẽ đoán được là có tối đa bao nhiêu người, bởi vì những xương cốt khác đều tương đối vụn vặt, có thiếu sót cũng không đáng ngạc nhiên, nhưng riêng một bàn tay phải biến mất thật sự rất kỳ quái. Điều này hẳn không phải là một chuyện ngẫu nhiên được.

Bàn Tử và Muộn Du Bình bắt đầu cân nhắc xem nguyên nhân gì có thể hình thành tình huống như vậy, rốt cuộc là lúc ném xác chết phát sinh sự tình đặc biệt khiến cho bàn tay phải đều bị thiếu mất, hay là do bị người ta chém đứt?

Trong quá trình Bàn Mã nói với chúng tôi, hoàn toàn không đề cập tới việc chặt đứt tay những thi thể này, bọn họ cũng chẳng có lý do gì để làm như vậy. Trăm tư không thể giãi bày, Bàn Tử vẫn khó hiểu nghĩ chẳng lẽ những người này đều là gấu chó, vì bàn chân gấu thường bị người ta chặt để chế biến món ăn bí truyền.

Cuối cùng lại chính là A Quý đưa ra kết luận, anh ta nói có thể những người này bản thân đã không có tay phải? Tay phải của bọn họ đều là giả, làm bằng gỗ, kết quả là bị ngâm nước lâu quá tới mức mục nát hết cả rồi.

Tôi nghe thế cũng không cho là đúng, vì tất cả mọi người đều không có tay phải thì cái đội này cũng thật là quỷ dị, tôi thực sự không nghĩ ra nổi có chuyện gì mà phải làm như thế. Ngược lại lúc đó cảm thấy hay là tay phải của những người này có gì đặc biệt, người khác vì muốn che giấu đi thân phận của họ mà đã chặt đứt chúng. Hoặc là coi đó như chiến lợi phẩm, tay phải của họ đã bị lấy đi hết rồi, nhưng Bàn Mã không đề cập tới chuyện này, chẳng lẽ năm đó sau khi ném thi thể xuống hồ lại có người tới vớt lên xử lý lại lần nữa?

Nhưng ý nghĩ này sau đó lại được chứng minh là không thể nào, vì trong lời kể của A Quý Bàn Tử cũng nghĩ đến điều này, có qua xem những cổ tay hài cốt, nhưng không phát hiện có dấu vết bị cắt, tay phải dường như là tự nhiên bị đứt ra, từ cổ tay tới các đốt ngón tay đều không có.

Lão Bàn Mã từng kể, người của đội khảo cổ đều có tay phải, chắc chắn chúng chỉ biến mất sau khi bọn họ bị giết chết. Ba người kia thật sự không nghĩ ra cách giải thích nào, vì thế lại tiếp tục lặn xuống nước tìm manh mối.

Ở quanh hàng rào họ không hề phát hiện thêm cái gì nữa, Bàn Tử nghi ngờ những đoạn xương này đã bị cuối vào bên trong cổ trại.

Trước khi bọn họ bắt đầu lặn xuông nước có ngầm giao hẹn là tuyệt đối không được tiến vào bên trong cổ trại, chỉ được hoạt động ở bên ngoài. Vì thôn trại cổ so với xung quanh lại sâu hơn mấy thước, hơn nữa thám hiểm đáy hồ rất nguy hiểm. Chưa ai có kinh nghiệm với tình huống này, nói không chừng thôn trại cổ đã vô cùng yếu ớt, vừa đụng vào liền đổ ập xuống ngay được, nhất thiết phải có đầy đủ đồ lặn mới được tiến hành.

Bàn Tử không thể đợi kịp, cho rằng chính mình đi xem một chút thì cũng không có gì to tát. Vì thế lúc đó nảy sinh ra một vài mâu thuẫn, tôi lại không có mặt ở đấy, Muộn Du Bình không phàn nàn gì, A Quý cũng chẳng phản bác được ông chủ, vì thế Bàn Tử liền mặc định được lặn xuống nước.

Lúc này đây lại xuất hiện biết cố không tưởng.

Lúc ấy dây thừng mà A Quý mua từ trong thị trấn vào là loại dây ni lông, vô cùng chắc chắn, hơn nữa mua những ba trăm thước nên Bàn Tử tuyệt nhiên không lo lắng. Có thể lặn xuống nơi sâu nhất cũng được. Sau khi Bàn Tử lặn xuống, từ từ xâm nhập vào trong đáy hồ giống như lúc trước, A Quý cũng không bận tâm, anh ta nhìn thời gian, chú ý để tới đúng giờ là kéo Bàn Tử lên.

Bọn họ giao hẹn là bốn phút rưỡi, vì nhìn chung là phải cần tới ba mươi giây để bơi lên, nếu di chuyển lên mặt nước quá nhanh sẽ gặp sự cố.

Lúc lặn xuông sước, kỳ thật bốn phút cũng làm người ta cảm thấy rất dài, mà ở trên mặt nước chỉ thấm thoắt qua nhanh. Không lâu sau A Quý bắt đầu kéo dây thừng lên, không ngờ kéo vài cái bỗng thấy dây thừng bị căng ra, hơn nữa có kéo thế nào cũng không nhúc nhíc. Hình như là phía dưới bị vật gì giữ lại.

Ngay lúc đó chỉ có khả năng là bị mắc vào hàng rào, từng có vài lần trước cũng gặp phải tình huống này, hàng rào bị ngâm nước không biết bao nhiêu năm, tất cả đều yếu ớt như bánh bao, chỉ cần dùng sức một chút là có thể kéo được. A Quý cố gắng kéo mấy lần, quả nhiên là dây thừng cũng chịu di chuyển.

A Quý nhanh chóng kéo lên, nhưng càng kéo, anh ta càng cảm thấy có gì đó không đúng. Dây thừng chịu lực rất nhỏ, tay kéo vô cùng nhẹ.

Nhắc tới cảm giác ấy thật kinh khủng, giống như đi câu cá lúc cá cắn câu và lúc giằng co với nó vài giây lại trượt mất. Điều này thể hiện là mồi câu đã bị cắn rớt, cá không còn nữa. Mồi câu ở đây chính là Bàn Tử.

A Quý lúc đó lập tức toát đầy mồ hôi lạnh, càng kéo anh ta càng thấy bất thường. Cách mặt nước càng gần thì cảm giác tay lại càng nhẹ, dần dần có thể thấy được bóng đen dưới nước. A Quý cảm thấy nghẹn thở vô cùng, đợi cho tới khi lôi được cái bóng đen đó ra khỏi mặt nước, vừa nhìn không thấy Bàn Tử đâu mà chỉ kéo lên mỗi cái mũ lặn.

Anh ta suy đoán rất có thể là dây thừng bị mắc ở một chỗ nào đấy, Bàn Tử thấy tình thế không ổn nên đã lập tức tháo mũ ra rồi tự mình nổi lên. Sau khi cởi ra thì không hiểu vì sao mà chỗ mắc lại tháo được, nói như vậy thì Bàn Tử sẽ nổi lên ngay lúc đó thôi.

Nhưng thực chất là đợi hơn một phút cũng không thấy có bất kỳ vật gì nổi lên.

A Quý cảm giác có điều bất thường, tình hình không giống như những lần trước, đợi ở dưới nước một phút, người thường chắc chắn là chết chìm rồi.

Lúc ấy Muộn Du Bình đang ở trên bờ, A Quý luống cuống cả lên, ban đầu anh ta cứ tưởng là có thể kiếm được một mối béo bở từ chuyến này vì chỉ cần biết bơi là có thể dễ dàng phụ giúp ông chủ. Giờ thì bỗng dưng xảy ra tình huống như vậy, anh ta dễ phải chịu trách nhiệm. Đây lại là một vùng nhỏ ở trong núi nữa, chuyện như thế này loan ra dễ sẽ bị người ta lưu truyền cả đời.

A Quý vừa cởi đồ, vừa hướng lên bờ kêu gào, sau khi thấy Muộn Du Bình lao vào trong hồ liền tự mình ôm tảng đá nhảy xuống nước. Tiếc là anh ta không có kinh nghiệm nên vừa xuống được mấy thước liền buông tay, giãy dụa nổi lên. Cùng lúc đó Muộn Du Bình đã chạy tới, A Quý kể lại tình hình vừa rồi, Muộn Du Bình lập tức đội ngay mũ lặn rồi lao xuống nước.

A Quý kéo dây cầu trời phù hộ, nhưng không ngờ đợi tới năm phút mà không chỉ có Bàn Tử, ngay cả Muộn Du Bình cũng mất tăm, dây thừng liền buông thõng trong nước.

Anh ta kéo dây thừng lên, cảm giác quen thuộc kia lại xuất hiện, chờ tới khi lôi được dây ra khỏi nước, tinh hình quả thật rất giống nhau. Đầu kia của sợ dây cũng không thấy Muộn Du Bình, chỉ còn lại mỗi cái mũ lặn.

Tôi nghe xong mà đần cả người, trong đầu loạn thành một mớ bòng bong, bản thân không thể chấp nhận nổi việc này, cảm giác rất vô nghĩa. Chuyện thế này sao có thể phát sinh, nhưng đồng thời cũng biết rõ A Quý không hề nói dối. Chuyện này với tôi mà nói quả thực thật đáng sợ.

Tôi hỏi A Quý thời gian xảy ra chuyện đó là lúc nào, anh ta nói cách hai tuần rồi. Sau khi chuyện đó xảy ra anh ta ở trên mặt hồ đợi một ngày một đêm, nhưng cũng không thấy có vật gì xuất hiện cả.

Hai tuần? Phải là cá voi mới có thể ở được những hai tuần. Có là Muộn Du Bình thì ở trong nước từng ấy thời gian cũng phải chết. Khó trách A Quý nói bọn họ đã chết, bất kể là do nguyên nhân gì khiến bọ họ phải cởi mũ lặn ở trong nước, có thể xác định là đã bỏ mạng rồi.

Những ngày sau, A Quý không hôm nào là không tới trên mặt hồ tìm một vòng, muốn nhìn xem có thấy thi thể nào nổi lên hay không, nhưng hoàn toàn không thấy gì. Anh ta nghĩ đáy hồ này có quái ngư đã ăn thịt bọn họ rồi, nhưng không thấy vết máu hay là dấu hiệu tấn công trên mũ lặn.

Tôi cầm mũ lặn lên quan sát, phát hiện Bàn Tử đã chế tạo lại rất thú vị, có thể làm cho nó khó cởi khi xuống nước.

Tôi từng lặn xuống đáy nước kia rồi nên biết tình hình phía dưới kia thế nào, mặc dù tiến vào cổ trại có nguy hiểm nhưng cũng không thể khiến cho bọn họ phải tới mức cởi mũ lặn ra.

Tôi nghi ngờ có phải là bệnh lặn không? Vì càng xuống tới vị trí nước sâu, không khí hít vào phải được điều chỉnh thích hợp, nếu không sẽ rơi vào tình trạng say khí oxy. Nhưng nếu bị say thì không giống như say rượu, không có chuyện tháo hết cả đồ đạc quần áo ra.

Dưới nước chắc đã có chuyện xảy ra, khiến cho bọn họ không thể không cởi mũ lặn, hơn nữa, Muộn Du Bình cũng cởi mũ, điều đó giải thích rằng tình huống đã trải qua một quá trình chọn lựa. Muộn Du Bình không giống với kiểu đột phát kỳ tưởng như Bàn Tử.

Vậy thì sau khi cởi mũ lặn, bọn họ vì sao không xuất hiện chứ? Chẳng lẽ bọn họ cuối cùng vẫn là gặp phải chuyện bất trắc sao?

Tôi vừa phải lặn lội đường xa, thể xác và tinh thần đều mệt mỏi, lại vướng phải một vấn đề khó giải quyết như vậy chân tay thật có chút luống cuống. Nhưng tôi tuyệt đối không chấp nhận việc hai người kia đã chết, chúng tôi đã cùng nhau trải qua nhiều chuyện như vậy, có thể chết ở bất cứ nơi nào, nhưng chúng tôi đều đã vượt qua. Sao có thể chết tại đây, trong một lần du lịch kiêm khảo sát thế này được.

Tuy nói là nói thế, nhưng khi tôi cẩn thận cân nhắc chuyện này trong lòng vẫn có chút nhói lên, nó khiến tôi tưởng phải buông xuông hết hi vọng. Vì tôi biết, không ai học hết được chữ ngờ, dù cho bạn trước đây gặp nguy hiểm lớn hơn nhưng nếu đã tới thời điểm phải chết thì có chạy cũng không thoát được. Trong lịch sử có lưu danh rất nhiều đại anh hùng một đời đội trời đạp đất cuối cùng vẫn chết trong tay kẻ tiểu nhân. Lẽ nào ông trời đang đùa giỡn tôi, hai người bọn họ thực sự đã không còn nữa?

Suy nghĩ một chút, lòng tôi vẫn không thể chấp nhận được, tâm trạng phiền não, thầm nhủ lúc đó trời mưa to trên mặt hồ tầm nhìn chắc chắn không tốt, bọn họ có thể đã đi ngoi lên rồi nhưng cách xa chỗ vị trí của A Quý. Cho nên A Quý không nhìn thấy, sau lại không biết vì một nguyên nhân nào đó mà tự mình lên bờ.

Bất kể là như thế nào thì việc này tôi nhất định vẫn phải làm, không cần biết bọn họ đã xảy ra chuyện bất thường gì, tôi phải lặn xuống đáy hồ kia để nhìn xem tới cùng. Sống phải thấy người, chết phải thấy thi thể.

Chương thứ 29

Một mình hạ thủy

Mưa vẫn rơi xối xả, ở Hàng Châu có được trận mưa to thường không kéo dài như vậy.

A Quý vẫn không thể giúp gì được, tôi đoán là anh ta sợ tôi sẽ giống như bọn họ, rốt cuộc thì anh ấy cũng không thể chịu đựng nổi giai đoạn khủng khiếp này. Tôi nói với A Quý chính Bàn Mã đã dẫn tôi tới đây, bảo anh cẩn thận lão ta, tuy rằng tôi cảm thấy lúc này Bàn Mã có thể thực sự khó mà sống được.

A Quý muốn hạ những thi hài kia xuống, nhưng tôi nói không cần thiết. Những thi hài này cứ treo như vậy còn có thể đề phòng được Bàn Mã trở về, nhìn thần sắc của Bàn Mã như vậy là đủ biết rất kinh sợ rồi. Tôi thật không ngờ lão ta nhìn như vậy mà có thể hung bạo tới mức đó.

Trở lại bên cạnh con la, tôi gỡ một bình dưỡng khí trên lưng nó xuống, lại vội vã hướng tới trong hồ. Tôi không thể đợi thêm được phút nào nữa, bản thân rất nôn nóng muốn đi kiểm tra và xác nhận tình hình.

Mặc toàn bộ đồ trang bị vào, trước kia ở Hải Nam tôi đã hiểu rõ cách thức dùng đồ lặn, vì thế giờ cũng không quá căng thẳng, trong mưa như trút tôi đẩy bè xuống nước rồi chèo ra giữa hồ.

Vì có mang theo chân vịt, rất nhanh sau đó tôi đã chèo ra tới vị trí trung tâm hồ. Mưa vẫn đổ xầm xập xuống mặt nước, trong không gian chỉ nghe thấy độc một tiếng mưa rơi chẳng thế phân biệt được âm thanh nào khác, nhưng ngược lại nó khiến trong lòng tôi cảm thấy bình tĩnh hơn. Tìm kiếm chung quanh cái hoa tiêu đã lưu lại lúc trước, liền phát hiện trong hoàn cảnh này cơ bản là không thể thấy được, đành phải xác định đại khái một vị trí rồi đeo kính lặn, chìm vào trong nước.

Dựa theo kinh nghiệm lần trước, lần này tôi đã trấn tĩnh hơn nhiều, vì tôi biết kiểu này không thể một lần mà tới đáy ngay được, do đó đã mất một thời gian chuẩn bị trên bè, muốn quan sát sơ lược tình huống bên dưới.

Lặn xuống vị trí lần trước, tôi lại lần nữa cắt đứt sợ dây thừng, nhả bớt khí, làm như vậy tôi sẽ không bị nổi lên quá nhanh, đồng thời huy động tay chân để bản thân có thể trôi lơ lửng trong nước.

Có thêm kính lặn vào nên mọi thứ đều trở lên vô cùng rõ ràng, tiếc là, hiện giờ ánh sáng đã mờ đi rất nhiều, tôi dùng hai chân giữ thăng bằng, vừa cố gắng chìm sâu xuống, tay bắt đầu mở đèn pin, chiếu vào sâu bên trong nàn nước. Không lâu sau, dưới lớp trầm tích màu xanh hằn lên thành một đường viền nơi đáy hồ tương đối rõ ràng hiện ra trước mắt tôi. Tôi liền bơi về phía trước.

Vì đèn pin chỉ có thể chiếu ra từng vùng từng vùng một nên tôi không thể thấy rõ toàn cảnh, phải vận dụng trí nhớ của mình để lối những thứ vừa nhìn được thành một mảnh. Cũng may là tôi học khoa kiến trúc, có một trí nhớ đặc biệt, cho phép bản thân đem từng bộ phận riêng biệt trong đầu để ghép thành một chỉnh thể.

Đây là một thế giới đơn sắc, hết thảy đều phủ một mày xanh thẫm, bơi thêm phía trước một đoạn ngắn, tôi phát hiện quả nhiên đúng như mình suy nghĩ, phần từ miệng rãnh tới mãi đáy rãnh vô cùng tối tăm, bất ngờ lại xuất hiện một sườn dốc, tất cả nhà sàn đều chìm trong lớp trầm tích. Tuy là vậy nhưng đáy hồ không hề bằng phẳng mà nó là một vực sâu bất thường dưới nước, thôn trại được xây dựng tựa vào vách núi phía nam.

Thời gian sau đó tôi càng không ngừng bơi lên lặn xuống, thay đổi vị trí của mình, trong một phút ngắn ngủi quan sát xem tình hình dưới đáy nước.

Càng nhiều chi tiết hiện ra trước mắt tôi, trại cổ lặng lẽ nằm trong đáy hồ, quy mô tương tự như thôn trại người Dao mà chúng tôi tới, có khoảng năm mươi sáu ngôi nhà, phần lớn đều là nhà sàn. Nhưng có thể nhìn ra trong từng chi tiết, những nhà cổ này đều không được xây gần đây, kiểu dáng vô cùng cổ kính, những chi tiết mang tích đặc thù cho dân tộc Dao hiển hiện rất rõ ràng trong mỗi căn nhà. Không giống với những nhà sàn bây giờ, cũ không ra cũ mà hiện đại cũng không ra hiện đại.

Đối với vị trí ban đầu chúng tôi lặn xuống, tôi vẫn còn một chút ấn tượng, Bàn Tử đã từng đề cập qua những hàng rào. Tìm kiếm quanh nơi đó, vài giây sau tôi liền tìm được những vật chìm dưới đáy hồ rất nhỏ đồng thời cũng thấy cả hàng rào kia. Tôi lập tức lặn xuống, dưới nước không có gì cả, nhìn không ra một chút dấu vết thể hiện là họ từng ở đây, cũng không có bất cứ một điểm khác thường nào.

Chương thứ 30

Cổ thụ đầu sứa

Bàn Tử và Muộn Du Bình hẳn là đã gặp phải chuyện gì ở đây rồi, vì một điều tôi vẫn không thể hiểu được là lý do vì sao bọn họ lại tháo dây thừng, sau đó biến mất tại đáy hồ sâu hơn mấy chục thước này.

Không có bình dưỡng khí, bọn họ chỉ có thể duy trì được một phút đồng hồ ở dưới nước, một phút ấy họ có thể đi đâu được chứ? Tôi không tin là có thủy quái đã tấn công họ. Theo như thực tế mà suy đoán thì bọn họ nhiều nhất chỉ có thể bơi tiếp hai ba mươi thước, nói cách khác trừ khi là lúc ấy có tàu ngầm tiếp ứng nếu không chẳng thể làm được gì, cũng không thể đi được nơi nào cả. Bọn họ chắc chắn là ở ngay quanh đây thôi.

Nhưng bốn phía vẫn không có gì, đáy hồ hoàn toàn phẳng lặng.

Trong đó kỳ quái nhất là hai chi tiết, cởi mũ lặn và tháo dây thừng. Cùng lúc mũ lặn này hết sức khó cởi, khóa của nó ở sau lưng, hơn nữa lại vô cùng dài, cho dù người ta có dư dả thời gian muốn cởi được nó ra khả năng cũng phải mất tới mười tới hai mươi giây. Hơn nữa cởi dây thừng nhanh nhất cũng mất thêm năm giây nữa. Hai mươi năm giây là tính theo Muộn Du Bình, còn nếu như cỡ Bàn Tử dựa vào thể trạng và tính cách thì chắc cần nhiều thời gian hơn.

Mặt khác, mũ lặn này cũng không ảnh hưởng nhiều tới hành động của bọn họ, nếu bị tấn công còn có thể làm vật phòng thân. Vì vậy, dù là hữu tình hay vô ý thì bọn họ cũng không cần thiết phải tháo mũ lặn xuống.

Rốt cuộc là chuyện gì đã xảy ra, có thể khiến cho bọn họ phải nghĩ tới giải pháp cởi mũ lặn?

Ngay cả Muộn Du Bình cũng phải làm vậy thì phải biết chuyện này không còn là phát kiến bất ngờ, tính cách của anh ta rất cẩn thận, vì vậy để tới mức phải cởi mũ lặn chắc hành động này vô cùng cần thiết.

Tôi nghĩ chắc sẽ không phải quá nguy hiểm, bọn họ từ từ cởi mũ lặn, tất nhiên là sự tình lúc đó cũng không cấp bách thay đổi trong chớp mắt. Ví như bị động vật tấn công hoặc là gặp phải chuyện bất thường. Trái lại lúc đó bọn họ còn có thể thong thả suy nghĩ, rồi ra quyết định " có thể cởi mũ lặn, không có gì nguy hiểm.", hoặc là "có thể cởi mũ lặn, nguy hiểm trong phạm vi khống chế." Tình hình có thể phán đoán như vậy.

Nếu thế có thể xác định là chuyện này tất nhiên sẽ phải xảy ra ở quanh đây.

Từng bước từng bước phân tích khiến tôi dần bình tĩnh, nhìn quanh một chút vách đá phía dưới sườn núi sâu thăm thẳm nơi thôn trại cổ nằm. Bỗng nhiên tôi cảm giác có một luồng khí lạnh quái dị từ trong phế tích trào ra- bọn họ có phải đang ở bên trong cổ trại dưới đáy hồ này không? Nhưng từ nơi này tới cổ trại mà chỉ mất một phút thì không thể nào. Bọn họ có điên mới cởi mũ lặn để bơi vào đó, vậy chẳng khác nào tự sát.

Tôi thử tưởng tượng ra hoàn cảnh lúc đó, nhìn xung quanh một chút xem có chỗ nào mà phải cởi dây thừng mới có thể đi qua, hoặc là nhất thiết phải tháo mũ lặn xuống mới qua được không.

Bốn phía đều là bãi đá sạch trơn, tôi chậm dãi bơi đi, phát hiện tình hình vô cùng đơn giản. Nhờ vào ánh sáng mạnh từ đèn pin và kính lặn thì có thể thấy, nơi duy nhất có khả năng chính là phía dưới vách đá, chỗ sát với bên trong thôn trại cổ, nơi đó có mấy thân cây rất lớn.

Những khối gỗ này năm xưa chắc chắn toàn là đại thụ ngoài thôn, hiện giờ tất cả cành lá đều đã bị phân hủy thành bùn, chỉ còn thân cây chưa bị mục nát hoàn toàn. Vô số cành cây từ trên thân rơi xuống chồng chất ở xung quanh, tạo thành một đống như lùm cây héo rũ. Đa số cành cây giăng khắp nơi, cũng bị chất vôi trong nước bao trùm giống như nham thạch.

Nếu Bàn Tử phát hiện trong đó có vật gì, anh ta sẽ phải cởi dây mới bơi vào bên trong được, vì dây thừng rất dễ vướng vào trong những cành cây kia. Mà mũ lặn thì rất cồng kềnh cũng sẽ khiến cho anh ta không thể ghé vào mà quan sát được.

Nghĩ một lát, tôi chợt rùng mình, trong đầu hiện ra một ý niệm vô cùng khủng khiếp: có lẽ Bàn Tử phát hiện trong mớ cành cây kia có vật gì đó liền cởi mũ lặn và dây thừng ra để nhìn, kết quả là bị nhốt trong đó. Sau tới Muộn Du Bình vì cứu Bàn Tử mà cũng cởi mũ lặn, kết quả anh ta cũng bị nhốt ở bên trong, hai người vì thế mà đều bị chết chìm, cũng không thấy thi thể nổi lên.

Nếu quả thật có chuyện đó, tôi đây sẽ phải đối mặt với một cảnh tượng vô cùng kinh khủng- trong đống cành cây mục kia tôi phải chứng kiến hai người bọn họ bị dìm trong nước hai tuần thành hai các xác trương phềnh. Thi thể của bọn họ không nổi lên mặt nước được có thể là vì vẫn đang bị mắc kẹt trong cái mớ cành cây quỷ quái này.

Tôi đầu tiên không dám bơi qua nhưng ngay sau đó lại tự ép bản thân huy động chân vịt, bởi vì hiện giờ đã không thể trốn tránh được nữa.

Vẫn duy trì khoảng cách, tôi bơi tới trên đống gỗ mục, cho đèn soi vào trong để kiểm tra một chút, thấy phía dưới trong những khoảng trống to bằng quả bóng rổ, tất cả đều là cành cây bàng bạc như dây thép gai quấn vào nhau thành một đống. Ánh sáng xuyên qua những cành cây đó chiếu xuống dưới từng tầng từng tầng một, nếu như có thứ gì bị mắc ở trong này, thì có là thần tiên cũng không thể trốn thoát được.

Mà giữa đống cành cây chồng chéo lên nhau này, quả thật có một lỗ hổng rất lớn, hình như là có người đã dùng lực rất lớn để gạt chúng ra, trong đó cũng không thấy xác Bàn Tử và Muộn Du Bình.

Tôi tìm một vòng, phát hiện quả thực không có gì, nhẹ nhàng thở phào một cái, cắn răng ép mình lặn xuống tới sát bên ngoài mớ cành cây.

Tới gần tôi vừa nín thở vừa quan sát, lập tức phát hiện ra cành cây ở đây chắc chắn không thể vây chết được người, rất nhiều cành đã bị bẻ gãy, tôi nhìn những chỗ bị bẻ gãy kỳ thật bên trong đã mục rỗng mủn ra như bùn, lấy tay vừa chạm liền vỡ thành nhiều mảnh, chúng có thể giữ được nguyên vẹn hình dạng như vậy đơn giản là vì bên ngoài có một tầng vôi mỏng bảo vệ. Thứ này chịu không nổi lực, cho dù bị vây khốn thì chỉ cần dùng sức một chút là có thể khiến cho cả đống cành cây nát ra thành từng mảnh.

Trong khe hở này, quả thật có vô số đoạn mảnh vôi cùng những đoạn gãy nát của "cành cây vôi", hỗn độn ở bốn phía, có lẽ do Bàn Tử tìm hài cốt trong đây nên đã tạo thành cảnh tượng này. Lấy đèn pin ghé sát vào soi qua, nhưng không thấy có cái gì khác biệt. Rõ ràng là bọn họ không tìm được gì cả.

Tôi không khỏi cười khổ, thực sự không nghĩ nổi nơi này rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Vì sao họ ở đáy hố này bỗng nhiên biến mất, thật chẳng lẽ như A Quý nói, nơi này có thủy quái quấy phá?

Một lát sau, tôi thậm chí còn nghĩ cởi đồ lặn của mình ra xem rốt cuộc sẽ xảy ra chuyện gì, vất vả lắm mới có thể nhịn không làm ra cái chuyện hoang đường đó.

Dưới mấy thân cây mục này chắc chắn là thôn trại cổ, tôi dùng mắt quan sát một lượt, chỉ thấy tất cả đều là mái ngói, không thấy được bên trong. Đèn pin chiếu ánh sáng mạnh cũng vô dụng, một loáng ánh sáng lại xuyên qua, trái lại càng khiến cho cổ trại thêm âm u tịch mịch.

Tôi trấn an lại tinh thần, chuẩn bị tiếp tục tìm kiếm xung quanh, đèn pin vừa lay động bỗng giật mình. Trong nháy mắt lúc tôi quay đi nơi khác, bỗng cảm giác trong thôn trại cổ hình như có thay đổi, lại quay đầu nhìn. Ở sâu bên trong thông trại, chẳng biết từ lúc nào đã xuất hiện một ánh sáng xanh quỷ dị, tựa như là một ánh đèn u ám được người thắp sáng lên.

Dưới nước sâu, sắc xanh lạnh lẽo từ quầng sáng tỏa ra như ma trơi xuất hiện trong cõi u minh, mơ hồ, đầu óc tôi nhất thời trống rỗng, giữa cơn ác mộng như vậy, tim tôi đập rộn lên, chèn ép lồng ngực trong giây lát không thể nào hô hấp được.

Chết tiệt, đây là chuyện quái gì, ánh sáng kia là sao? Chẳng lẽ trong cổ trại kia có người?

Lẽ nào Muộn Du Bình và Bàn Tử vẫn đang ngồi trong cổ trại, bọn họn không chỉ còn sống mà hơn nữa còn đang hoạt động?

Nhưng đây là hơn mấy chục thước sâu dưới đáy hồ, cổ trại bị chôn vùi trong mấy nghìn năm, bọn họ không hề có dưỡng khí, sao có thể sống ở dưới nước trong thời gian dài như vậy? Cho dù là đèn pin thì hai tuần vừa rồi cũng đã sớm hết điện. Hơn nữa loại ánh áng này có cảm giác quỷ dị khó tả, không phải là ánh đèn, cũng không phải là ánh lửa.

Cảm giác nghẹn thở càng lúc càng mãnh liệt, hay đây là những oan hồn năm đó bị chết chìm không siêu thoát, vẫn luôn luẩn quẩn trong tòa cổ trại hoang phế dưới đáy hồ này? Đây là người báo củi lửa năm đó, xuyên qua cõi âm tào địa phủ để trở về nhân gian, tại đây chỉ dẫn cho những vong hồn người chết quay trở về với quỷ vực?

Một cơn kích động không hiểu từ đâu khiến tôi mất khả năng tự chủ muốn bơi theo ngọn đèn kia. Như trong đáy hồ băng lạnh tối tăm, một kẻ lạc đường bỗng tìm thấy ánh sáng vậy. Nhưng ở gần đó, tôi bỗng nhiên có một linh cảm lóe lên, chợt ý thức được có phải Bàn Tử cũng Muộn Du Bình đã rơi vào hoàn cảnh này, rồi cũng ở vị trí này thấy thứ ánh sáng kia nên bọn họ mới bị mất tích?

Đây chẳng lẽ chính là điểm mấu chốt? Tiếp theo, chuyện gì sẽ phát sinh đây?

Tôi không thể kiềm chế nổi tinh thần của mình, quan sát bốn phía, sợ rằng đột nhiên sẽ có chuyện xảy ra.

Nhưng nhìn quanh một vòng, tứ phía vẫn vô cùng tĩnh lặng, đèn pin chiếu đi, không thấy một tia di chuyển nào.

Quay đầu trở lại, ngọn đèn xanh kia càng lúc càng tăm tối. Bỗng nhiên, có một nỗi sợ hãi không hiểu vì sao lại bắt đầu dâng lên trong lòng tôi.

Chương thứ 31

Ánh đèn nơi đáy nước

Ngọn đèn cô độc trong thôn trại cổ không biết là từ nơi nào sáng lên, là ở sâu trong thôn trại hay là từ một cửa sổ nào đó rọi ra? Cái ánh sáng lẻ loi đó thật sự khó mà hình dung được, vô cùng kỳ dị, tựa như bị người ta nhốt lại trong một cái lồng màu xanh, mông mông lung lung không giống như đèn đuốc của nhân gian.

Vị trí hồ nước quỷ dị này đã làm tôi kinh ngạc rất nhiều, ánh sáng xanh u tịch dưới chốn yên tĩnh kia lại càng cất giấu nhiều bí mật. Nơi này rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, sao có thể khiến cho hết thảy đều giống như bị nguyền rủa vậy?

Trong hoàn cảnh âm u này, tôi đơn thân độc mã lặn xuống đáy hồ giữa núi sâu, không có bất kỳ một sự trợ giúp, không có bất kỳ một người tiếp ứng nào, đây là lần đầu tiên cảm giác được nỗi sợ hãi và cô độc như vậy. Cảm giác tuyệt vọng này so với chết còn khiến tôi kinh thần hơn nhiều. Trong giây lát tôi liền nhớ tới loài cá angelfish* dưới đáy biển sâu, một loài cá có khả năng săn mồi rất đáng sợ. Cổ trại này cho tôi cảm giác như một sinh vật khổng lồ đang sử dụng ngọn đèn để hấp dẫn con mồi chui đầu vào lưới.

Tôi nhìn đồng hồ dưỡng khí, nhịp tim thay đổi thất thường đã khiến tôi tiêu hao nhiều dưỡng khí hơn, những cảm giác rợn tóc gáy trước sau vẫn không thể xua đi được. Tôi cố gắng đàn áp hết những hoang mang trong lòng mình, thầm nhủ:" nếu như muốn biết rõ chân tướng thì phải đích thân mạo hiểm, nếu Bàn Tử và Muộn Du Bình bây giờ vẫn còn sống, vậy bọn họ chắc đã rơi vào một tình huống vô cùng quỷ dị, tôi có thể là hi vọng duy nhất của họ. Tôi đã đi tới nơi này, cơ bản là không còn đường lui, thứ đèn màu xanh kia bất luận là lành hay dữ cũng chính là đèn chỉ đường của tôi."

Đây gần như là bản thân mình bị thôi miên, nhưng ở trong hoàn cảnh này tôi thực sự không biết lấy đâu ra dũng khí để tiếp tục xâm nhập vào nơi đó. Tôi niệm ba lần mới thấy được cái cảm giác khủng hoảng giảm bớt được phần nào, rút lưỡi lê ra nắm ở tay trái- tuy không biết thứ này đối với vong hồn có tác dụng gì nhưng có nó cũng tiếp thêm cho tôi một chút can đảm.

Tôi huy động chân vịt, men theo bãi đá đáy hồ bắt đầu bơi vào trong khu vực thôn trại cổ. Lặn chưa được bao lâu, do góc độ của tôi thay đổi nên lục quang âm u kia dần bị cổ lâu che khuất, rất nhanh sau đó liền không thấy được nữa. Bốn phía tối tăm như cũ, vài giây sau sâu trong thôn trại ánh sáng u linh lại hiện ra.

Tôi từ từ từng bước trấn tĩnh bản thân, sợ hãi trong lòng cũng bắt đầu tiêu tan, xem ra những khủng hoảng đó dường như tới từ chính thứ ánh sáng màu xanh kia. Trong lòng không khỏi tạm thời nhẹ nhõm, với tính cách của tôi, nếu mắt thấy ánh đèn từ từ tới gần sẽ khiến tôi bị bức phát điên mất.

Vị trí của tôi cách cổ trại cũng không xa, sau khi dần dần tới gần tôi liền phát hiện bộ phận trên bãi đá sát ranh giới cổ trại nơi sườn dốc kia cũng có rất nhiều thân cây mục. Nhiều cây vẫn còn đứng thẳng, nhiều cây đã đổ sụp ngổn ngang đáy hồ. Rõ ràng là cổ trại này trước khi bị nước bao trùm đại thụ bốn phía mọc san sát như rừng. Nơi này quả nhiên thực vật rất phong phú đa dạng.

Lặn xuống chưa được bao lâu, tôi liền bơi tới chỗ gần với cổ trại nhất, những mái nhà sàn gỗ quanh đó chỉ cách tôi có hai ba thước. Vì là từ trên sườn núi trượt xuống, độ sâu lúc này có thể đã hơn bảy mươi thước, áp lực nước khiến tôi tương đối khó chịu:" không nhìn được rõ ràng núi Lư Sơn thì coi như chưa tới nơi này." Đến nơi rồi, tôi hoàn toàn không còn thấy được hàng rào kia nữa, chỉ thấy dày đặc những mái nhà sàn, chỉ mơ hồ nhìn tới một vài hàng rào bao quanh thôn trại trong sắc xanh u ám cách đó không xa. Đồng thời tôi còn thấy dưới chân mình, một nơi sát với bên trong thôn trại cón rất nhiều bia đá dựng thẳng như mộ bài.

Tôi lặn xuống thêm chút nữa, dùng đèn pin soi qua, liền phát hiện trên bia đá kia đã kết đầy bọt khí, rõ ràng những phiến đá này được làm từ loại đá vôi, có thể bị hòa tan trong nước, khiến cho bề mặt ngâm nước gồ ghề đầy những lỗ hổng. Đã hoàn toàn không thể thấy được những ký tự khắc bên trên nó, nhưng đây không phải là bia mộ, đây là loại bia đá đặc hữu của dân tộc Dao.

Thôn trại người Dao có lưu truyền loại bia pháp định truyền thống, người dân tộc Dao nếu gặp phải một vài chuyện cần tới sự thảo luận của tập thể thì sẽ tới "bảng họp mặt", sau đó lập một bia đá đặt ở giữa thôn, gọi là bia luật. Nó giống như bộ luật của dân tộc Dao, mọi người trong thôn bao gồm cả tộc trưởng người Dao sẽ phải tuân theo luật khắc trên bia đá, người dân tộc Dao đặt cho những bia đá đó cái tên là "A Thường"

Những luật pháp này vô cùng thiêng liêng, vượt quá cả tưởng tượng của người Hán, người Dao cho rằng:" bia đá lớn hơn trời."

Không ít cổ nhân Hán Dao nảy sinh mâu thuẫn chỉ vì người Hán động chạm tới những tấm bia luật phát của người Dao. Mỗi bia đá đó đều được giao cho một người quản lý, người đó được gọi là "thủ lĩnh bia đá", quyền lực rất lớn.

Bia đá ở đây nhiều như vậy, nếu là bia luật thì bên trên chắc chắn ghi lại rất nhiều sự kiện hết sức quan trọng, đáng tiếc là nét khắc đã không còn thấy rõ. Hơn nữa rất nhiều bia luật rất khó hiểu chủ yếu có liên quan tới các bí mật của tộc người Dao, vì vậy mà phần lớn đều sử dụng bia không khắc, hoàn toàn dựa vào những người trong cuộc tự giác duy trì những quy định trên.

Tôi nghĩ nếu có thể thấy những ký tự trên bia đá này biết đâu có thể hiểu ra rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra với cổ trại ở đây.

Lướt qua khu vực bia đá, tôi lại tiếp tục bơi tới bên trên thôn trại. Khoảng cách thật sự rất gần, đáy hồ với những căn nhà sàn đổ nát xen kẽ giữa các căn nhà gỗ nhỏ xiêu vẹo, toàn cảnh trở lên vô cùng rõ ràng. Màu xanh âm u lại hiện ra, nhìn không thấy nguồn sáng nhưng quần sáng ảm đạm đã ở ngay trước mặt. Đầu tôi bắt đầu tê đi, tim đập càng thêm dồn dập, cảm giác khủng hoảng hình như không thuyên giảm, trong giây lát lại lan tỏa khắp các giác quan trên cơ thể. Đồng thời tôi còn thấy nỗi sợ hãi này đặc biệt khác thường, nó như là tới từ sâu trong tiềm thức của tôi, không cách nào hình dung nổi, càng không thể xua tan đi. Rốt cuộc thì tôi cũng chẳng biết mình đang sợ cái gì?

Từ độ cao này nhìn xuống một tòa cổ trại nghìn năm tuổi, những người có thể trải qua cảm giác như tôi bây giờ trên thế giới chắc không tới một trăm mạng. Nhìn ngay bên dưới kia là những tòa gác cổ mục nát khơi gợi lên biết bao nhiêu xúc cảm tôn nghiêm. Bạn có thể cảm giác được mình như đang trôi trong con đường xưa cổ, giữa cái vắng lặng của thời gian. Cảnh tượng ngàn năm trước không thể tránh khỏi hiện lên trong tâm trí bạn, nhưng tiếp theo đó lại bị dòng nước xô đẩy, cuốn bản thân quay về với thực tại, những cảm xúc lẫn lộn cùng lúc khiến cho con người ta thấy rất mơ hồ.

Đây là lần đầu tiên tôi nhìn tới cổ trại ở đáy hồ này, phát hiện ra toàn bộ khuôn viên trong thôn cổ này rất giống với thôn Ba Nãi. Từ những căn nhà sàn xây dựng vô cùng bí mật, giữa hai ba tầng nhà gỗ còn có vài hành lang song song với thềm đá xanh xen kẽ. Toàn bộ nhà sàn gỗ đều đã bị mục nát nghiêng hẳn về một phía, nhìn qua có thể đổ sụp xuống bất kỳ lúc nào, có một vài mái nhà đã tựa vào tường nhà bên cạnh, tạo thành hình dạng một "cành cửa". Những cánh cửa phía trên lơ lửng phiêu động, thấy có một vài bọt khí thỉnh thoảng từ trong phun ra, bất giác trong lòng có chút nhói lên. Ví như khi lặn vào trong thôn, chỉ cần có một chút bất thường xảy ra, bốn phía nhà sàn gỗ nơi này lập tức có thể đổ sụp xuống, nếu như không chạy kịp thì kiểu gì cũng bị chôn sống trong đó. Mà đã bị chôn sống trong đáy hồ này đồng nghĩ với việc không có lấy một cơ hội được cứu thoát.

Lượn qua mấy tòa nhà đổ nát, ánh sáng bên kia càng lúc càng gần, tim tôi đập mạnh tới nghẹt thở, nhìn ánh đèn và phía nhà sàn phát ra nó, tôi đoán nguồn sáng kia tới từ bên trong tòa nhà, có thể là rọi ra theo cửa sổ. Đang định cắn răng bất chấp lặn vào thì đột nhiên mọi thứ tối sầm lại, ánh áng kia bỗng biến mất.

Tinh thần căng thẳng cao độ, tình hình lúc đó khiến tôi kinh thần tới mức gần như ngất đi, hô hấp trong giây lát cực độ khó khăn, nhưng chỉ chớp mắt sau, tôi lại thấy ánh sáng kia xuất hiện.

Tòa nhà trước mắt tôi giống như là từ rất nhiều căn nhà sàn khác hợp lại, nhìn qua thì có vẻ là một tòa tháp của đại gia tộc người Dao, giống với kiểu một gia tộc giàu có trong thôn trại sống quây quần với nhau. Trong tích tắc vừa rồi, tôi chưa kịp nhìn xem ánh sáng kia là từ khung cửa sổ nào hiện ra.

Tôi chầm chậm bơi xuống, đèn pin soi qua lập tức bản thân sững lại, trời ạ, đây là tòa nhà gì vậy?

Tòa tháp ấy quả nhiên có điểm rất khác biệt, dọc theo tường bao ngoài được cấu tạo bằng đá, hơn nữa, đỉnh của nó lại cong lên, kiểu cách rất đặc biệt.

Đây không phải là nhà của dân tộc Dao mà là kiểu kiến trúc của người Hán.

Tôi sững sờ, chuyện gì đang xảy ra đây? Sao ở trong một cổ trại người Dao lại có một tòa nhà mang kiểu cách của người Hán?

Chú thích:

Angelfish*: Anglerfishcó cái đầu to bự và cái miệng lớn hình lưỡi liềm lấp đầy những chiếc răng trongmờ, sắc nhọn. Một số con có thể khá lớn, dài tới 1 mét. Nhưng hầu hết chúng khánhỏ, thường chưa đầy 30 centimét.
Đặc điểm lỳ lạ nhất của chúng, chỉ có ở con cái, là một mảnh gai lưng thò ra ởngay phía trên miệng, trông giống như một cái cần câu. Với khả năng phát sáng,cái bẫy giả này thu hút các con mồi kéo đến. Nhờ cái miệng cực lớn và cơ thểmềm dẻo, Anglerfish có thể nuốt chửng con mồi lớn gấp đôi cơ thể nó.

Chương thứ 32

Dao gia đại viện

Miêu Dao từ rất lâu rồi đã bất hòa với người Hán, phân chia ranh giới để định cư, đối với quyền riêng tư và huyết thống của dân tộc mình lại càng đặc biệt lưu ý, nhất là nam nhân người Dao, từ cổ chí kim đây vẫn là dân tộc thiểu số gây mâu thuẫn nhiều nhất. Thời xưa thì còn có loạn ba tộc người Miêu, trước giải phóng còn có cả cửa thôn riêng cho người Hán, làm riêng một cái giếng, một con rạch, Hán Dao, Hán Miêu hay ngay cả giữa thôn trại Dao này với thôn trại Dao khác cũng có thể nảy sinh thảm sát vô cùng khủng khiếp. Thế cho nên tới trước khi thiên hạ thái bình, có thể nói lúc đó giữa các dân tộc luôn có một sự nghi kỵ và ngăn cách lẫn nhau, tình hình như nước với lửa.

Vì vậy Dao Hán ở cùng nhau là chuyện hoàn toàn không thể xảy ra, cho dù có người dân tộc Dao đồng ý tiếp nhận người Hán ở trong thôn trại của mình, người Hán tất nhiên là được ở trong nhà người Dao chứ tuyệt đối không thể có chuyện tộc trưởng người Dao cho phép người Hán xây nhà lớn như này trong Dao trại được.

Tôi hoàn toàn không thể hiểu được, đây thực sự giống như ở trong cây cao lương* mà tìm được một hột dưa hấu vậy.

Chậm rãi lặn xuống, tôi lẳng lặng nhìn tòa cổ tháp này, lại phát hiện thêm một chỗ kỳ quái nữa, vị trí của tòa cổ tháp này bị bao vây giữa bốn phía nhà sàn, hơn nữa ngói trên mái nhà màu sắc lại giống nhau như đúc. Hình như là những nhà sàn này được xây dựng nhằm mục đích bảo vệ tòa cổ tháp kia, nhìn từ bên ngoài, cơ bản là không thể phát hiện được bên trong có một tòa nhà cổ như vậy.

Lại nhìn tới quy mô của tòa nhà Hán này sẽ thấy vô cùng kỳ quái, cửa ra vào hình vòm, sau cửa khu vực giữa là một khoảng sân bao quanh bởi bốn phía ba tầng lầu gác, bậc tam cấp và tường bao được xây bằng đá, người học kiến trúc có con mắt sáng suốt chỉ cần liếc một cái liền nhìn ra được ngay. Đây là phong cách xây dựng nhà cửa của giới hào phú phía nam trong thời nhà Minh, giống như đều là do xây cho những gia đình danh da vọng tộc, nền nhà thấp hơn vài phần, mặt sau còn có vườn hoa và rất nhiều công trình kiến trúc khác. Một đường đá rất hoành tráng dùng để đề phòng trộm cướp, kiểu tu kiến này vô cùng quen thuộc, có thể bảo vệ cho gia chủ gồm cả mấy trăm người sống tự cấp tự túc ở bên trong.

Nói cách khác, sau mặt tiền này là cả một tòa nhà lớn âm u tịch mịch, cửa ra vào có đôi câu đối được đặt chính giữa ngã tư tường bao, vây quanh toàn bộ khu nhà cổ, bốn phía tả hữu còn có cổng chính cổng phụ, tường ngăn, còn có cửa ngách để cho gia nhân trong nhà ra vào, thêm cả một cửa hàng nhỏ mở ngay ngoài mặt tiền để buôn bán nữa. Sau khi đi vào cổng chính, có một hàng lang uống lượn vô cùng phức tạp thông xuống nhà dưới. Đây là một tòa điển hình cho kiểu kiến trúc nằm dọc trên hồ cá trắm đen ở Hàng Châu.

Nhưng mà nơi này chỉ có duy nhất một tòa nhà gác, hình như là phần đằng sau đã bị chặt đứt, toàn bộ cổ trại chỉ còn lại mỗi cái đầu.

Tôi chậm rãi bơi một vòng quanh nhà, quả thật là như vậy, đằng sau chính là bốn mặt đá tảng, xung quanh lại toàn là nhà sàn của người Dao, không còn thấy một kiến trúc nào mang phong cách Hán ở đây nữa, vô cùng kỳ lạ.

Tình hình tương tự tôi cũng không phải chưa từng gặp qua, sau giải phóng có một vài khu nhà lớn được chia cho người nghèo, một nhà tới mấy chục hộ sinh sống, lối đi ra sân sau hầu như bị phá hết, từ đầu tới cuối cả khuân viên chỉ nằm gọn trong một gian nhà. Vì vậy lại trở thành rất nhiều phòng riêng. Nhưng nơi này tình hình rõ ràng là không như vậy.

Tôi đọc rất nhiều sách, đặc biệt là đối với các điển cố kiến trúc Trung Hoa lại càng ấn tượng, trong đầu có vô vàn những ý niệm hiện lên, nhưng rốt cục vẫn không có cách nào lý giải nổi chuyện này. Người không thuộc chuyên môn có thể sẽ hiểu tôi đang làm to chuyện, nhưng với tôi mà nói, nó cứ nghẹn ở cổ, con mẹ nó chứ, nhà này là do ai xây lên? Tại sao lại có hình dáng như vậy?

Màu xanh tỏa ra từ ngọn đèn kia đến từ chính trong căn nhà cổ kiểu Hán, lúc tôi tới gần đột nhiên lại tắt lụi, chẳng lẽ trong đó có "người" phát hiện ra vị khách không mời mà đến này ư? Hay là muốn nói cho tôi biết, đây là mục đích của tôi? Tôi thậm chí còn nghĩ, đây là trong nhà Hán vậy thì quỷ hồn kia cũng là một người Hán, nếu thế e rằng hắn cũng nể tình tôi là người cùng mình nên tha cho tôi một mạng.

Nhưng bất kể thế nào đi chăng nữa, tôi cũng vẫn sẽ tiến vào bên trong tòa nhà cổ này để xem cho ra nhẽ. Nghi hoặc nhiều tới mức khiến tôi không còn cảm thấy sợ như trước nữa.

Bơi lơ lửng trên sân nhà, phía dưới giống như một miệng giếng rất lớn đen đặc quánh, mở đèn pin ở mức lớn nhất, vừa soi xuống liền nhìn không thấy có thứ gì phản chiếu lại, cũng không có tạp vật.

Tôi không cho mình có thời gian để hoang mang và tưởng tượng, bắt buộc bản thân bình tĩnh, cuộn thân mình lại, đầu hướng xuống dưới, vung chân vịt, lặn xuống bên dưới sân.

Không gian liền tụm lại, ánh sáng bừng lên, rất nhanh sau đó dưới ánh đèn mở hết cường độ, mắt tôi dần cũng có thể thích ứng được. Lúc đến nơi, người đã chạm xuống tới bề mặt sân.

Cảm giác thoáng có chút khác biệt, bốn phía trôi nổi những hạt cát bàng bạc, toàn bộ là do tôi hạ xuống đột ngột khiến cho dòng nước bị dịch chuyển. Phí dưới quả thực đầy những cặn lắng trên bàn đá, ghế đá. Đèn pin của tôi soi tới bốn góc sân nhà đều có cỏ dại mọc kín, giữa hai bên là hai cái cột lớn, tổng cộng tứ phía là mười hai cây, bơi vào bên trong hành lang bằng đá, lại bơi tiếp tới gian phòng phía sau. Đều là những cửa sổ khắc hoa, mục nát rơi rụng, tất cả bị phủ dày một lớp bụi trắng, nhìn qua tàn cũ vô cùng.

Những song cửa sổ gỗ đã bong tróc mủn ra hết cả, nhưng kỳ quái là phòng ốc nơi này kết cấu vẫn còn đầy đủ, khả năng là lúc đó người ta dùng một loại gỗ thượng hạng để xây dựng nơi này.

Chuyển động đèn pin, bốn phía đều có cửa, phía trước là thông với cửa sau của nhà khách, mặt sau thông xuống hậu viện, hai bên còn lại là rẽ sang hiên nhà. Cột trên cửa đều đeo câu đối, câu đối dùng chất gỗ kém hơn nên nhìn bám đầy những nấm như bông hoa vậy. Trong đó có hai câu đối đã bị rơi mất một nửa trên mặt đất, chỉ có cửa sau của phòng khách này là được bảo tồn nguyên vẹn.

Lại huy động chân vịt, bơi tới chỗ câu đối phía sau phòng khách, lau sạch những cặn bám trên bề mặt liền hiện lên hai câu đối:

Dĩ lặc yến nhiên cao tấu khải

Do tư khục phụ đê ngâm thi

(Hai câu đối này thực không hiểu nghĩa là gì :( mọi người thông cảm, vì trước giờ không nghiên cứu câu đối mấy, mình dịch ra nó lại không đối nhau thì ngại lắm :D )

Đây là đôi câu đối rất thông thường, nhưng tôi nhìn ngoài chữ đối hình như vẫn còn ý tứ, cho thấy là chủ nhân của tòa nhà này có mang công trạng. Chủ của tòa nhà này là người trong quân đội? Hơn nữa nhìn quy mô này hẳn phải là một sĩ quan.

Cửa sau của phòng khách đã mủn ra thành một đống bùn nát, một chỗ khung cửa nứt ra thành mấy vết vá lớn, tay vừa chạm liền vỡ vụn ra thành cát, trong nước lại giống sương khói cuồn cuộn bốc lên, tường như nơi này bất kỳ lúc nào cũng có thể tan thành mây khói được. Đèn pin cầm trong tay soi vào kẽ hở, bên trong hỗn độn vô cùng, tất cả đều là xà nhà và một vài tạp vật không hình dung ra là thứ gì, có thể thấy là bên trong đã bị phá hủy gần hết.

Mơ hồ còn thấy từ giữa vách tường hất lại là một bức vách lửng, trong phong thủy, khí từ cửa trước đi vào nên không thể để nó lại luồn ra cửa sau được. Giữa nhà nhất định phải có một bức vách lửng, đó gọi là xà cuốn, có nó khiến cho khí trong nhà lưu thông không quá nhanh, vì vậy phần nhiều sẽ được giữ lại bên trong phòng. Còn có người nói rằng để như vậy, sau khi mở cửa thì dọc theo chiều đó mà thay đổi hướng của đồ đạc sẽ càng có lợi cho tài vị.

Thực ra như vậy cũng có lý, ngộ nhỡ khi bạn đang tiến hành một âm mưu nào đó, chắc chắn trốn không được, có vách lửng kia còn thêm được một chút không gian để bạn xoay xở. Ngay cả khi có trộm cướp tiến vào, ít nhất là cũng kéo dài được ít giây để bản thân trốn tránh.

Tôi cẩn thận đi vào bên trong, sở dĩ vào phòng khách trước là vì câu đối khiến tôi nhớ tới một huyện ở Quảng Tây, phòng khách đại gia đình ở Quảng Đông phần lới có treo hoành phi và linh bài tại gác xếp. Hoành phi ở đó tất nhiên sẽ có liên quan tới chủ nhà, vì thế nên tôi mới quyết định vào nhòm một chút, muốn tìm thêm manh mối.

Vào tới bên trong, vừa ngước lên hai mắt liền choáng váng.

Đèn pin vừa soi, phát hiện trong phòng khách đã hoàn toàn mục nát, sàn gỗ đã hư hỏng hết, trên nhìn không thấy trần nhà, có thể từ đây nhìn thẳng lên mái nhà cao tít trên kia, chỉ có những phần làm bằng đá và vài xà nhà rất lớn bằng gỗ thô là chưa mủn ra. Phần lớn tạp vật đã rơi hết xuống nền nhà thành một đống đổ nát. Toàn bộ không gian bên trong nhà, giống như là bị người ta phá dỡ chỉ còn lại giàn giáo cột gỗ cổ phòng, hoặc là một cái khung nhà rất đồ sộ nhưng đơn giản.

Tôi lờ lững đem đèn pin quét lên trên vách tưởng, cơ bản là tất cả đều đã nát vụn không còn gì cả, bên trên chỉ có thể thấy được bức hoành phi cũng đã mục ruỗng gần hết. Tôi bơi tới, cẩn thận từng tí một xóa hết những vật bám vào bề mặt nó, máu sắc bên trong cũng hoàn toàn đã phai hết, chỉ còn một màu vàng đất hiện lên trên viền chữ, loáng thoáng có thể phân biệt được bốn chữ: Phiền thiên tử bao

Nhìn không ra cái ý tứ gì, lạc khoảng* cũng khiến tôi phải nheo mắt, là... Trương gia lâu chủ. Đằng sau có ghi ngày tháng đóng dấu.

Hoành phi này có thể là do người khác biếu tặng, nếu không thì là chính chủ nhà nếu là đại nho sĩ hoặc là một nhân sĩ phong nhã cũng tự mình viết được. Trong thôn trại người Dao, không thể có chuyện người Dao viết được chữ Hán, còn viết bằng bút lông rất đẹp như thế này nữa. Nét chữ vàng vô cùng mảnh và đẹp, tôi làm bản dập nhiều năm như vậy có thể nhìn ra được đây phải là người có bút pháp thượng thừa hết sức thâm hậu. Còn Trương gia lâu chủ, rất có thể chính là người sở hữu tòa nhà cổ này.

"Trương gia lâu chủ..." tôi thầm lầm nhẩm đọc, "Trương gia?"

Trương Khởi Linh, họ Trương này, chẳng lẽ là trùng hợp sao?

Trong đầu tôi lập tức nhớ lại tất cả mọi chuyện phát sinh trước đây, tại nơi này tìm được rất nhiều manh mối, tựa như là có liên hệ mập mờ với Muộn Du Bình, chẳng lẽ thực sự là nó có liên quan với anh ta?

Có lý lắm! Người cố chấp sẽ làm ra chuyện cố chấp, nhà cổ kỳ lạ, không phải là nhà cũ của Muộn Du Bình chứ? Chủ nhân của Trương gia lâu này có lẽ nào là tô tiên của anh ta? Ngẫm lại thì cũng rất có thể.

Người sở hữu Trương gia lâu có thể trong núi xây lên một tòa nhà lớn như vậy rõ ràng là rất có tiền tài, có thể tự tay viết thư pháp, luận câu đối lại chứng minh là một nhà nho học. Nhìn thế nào cũng giống như thương nhân nho sĩ Hồ Tuyết Nham*, nhưng nhà của người như vậy sao lại phải xây tận trong Dao trại xa xôi này, dựng lên một tòa cổ quái như vậy để làm gì chứ? Là bị người ta bức hại mà phải ẩn cư ở đây hay là còn có mưu đồ nào khác?

Tôi đột nhiên có chút hứng thú với chuyện này, nghĩ trong tòa cổ lâu này nhất định đã phát sinh không ít chuyện, nếu quả thật có liên quan tới Muộn Du Bình thì sẽ càng đáng giá! Tiếc là giờ không thể nhìn ra được vật gì, trong phòng khách kia hẳn là từng trưng bày rất nhiều giấy tờ văn tự, nhưng nay chắc chắn chúng đã bị mục nát hết rồi. Nếu như có cái gì ngoài giấy tờ thì tốt. Xem ra chỉ có thể tìm từng phòng từng phòng một để tìm kiềm tất cả những manh mối để lại.

Nhìn đồng hồ dưỡng khí còn lại một nữa, phải hành động nhanh hơn. Tôi chuẩn bị quay trở lại sân nhà để tính xem giờ nên vào phòng nào trước thì thích hợp nhất.

Đang định vung chân vịt đột nhiên gáy nhói lên một cái, sau lưng bỗng đâu có một quầng sáng màu lục hiện lên âm u lạnh lẽo.

Chú thích:

Cây cao lương*: Cây cao lương (lúa miến) là một trong những loại cây ngũ cốc quan trọng nhất thế giới. Sản lượng cao lương toàn cầu năm 2006 đạt 56.525.765 tấn, so với năm 2005 đạt 59.214.205 tấn và năm 1961 đạt 40.931.625 tấn. Cao lương là cây lương thực ở châu Á, châu Phi và sử dụng khắp thế giới để nuôi gia cầm, gia súc. Hiện nay, các nhà khoa học đang tìm cách cải tiến loại cây này bằng cách đưa đặc tính chịu lạnh vào cây lúa miến nhằm cho phép lúa miến trồng được ở nhiều nơi hơn và trồng được cả trong giai đoạn đầu xuân, thời điểm mà độ ẩm trở nên cao hơn.

Lạc khoản*: Dòng chữ viết nhỏ để tên họ và ngày tháng ở trên các bức họa hay các bức đối trướng.

Hồ Tuyết Nham*: (1823-1885) là thương gia giàu nhất Hàng Châu cuối thế kỷ 19. Phủ của ông được xem là lớn và xa hoa nhất thời đó, có vườn cảnh, hang động nhân tạo, lầu các. Sự nghiệp làm ăn của ông là cả một huyền thoại. Ông xuất thân là một người nghèo ở tỉnh An Huy, đến Hàng Châu giúp việc cho một ngân hiệu (một kiểu ngân hàng ngày nay). Sau này ông có ngân hiệu riêng và mở rộng kinh doanh đến nhiều lĩnh vực khác bao gồm Khánh Dư đường (tiệm thuốc Hồ Khánh Dư). Đường hướng kinh doanh của ông đến ngày nay vẫn còn hợp thời. Một loạt tư tưởng "chân thực", "đúng giá", "chọn mua hàng tốt", "bào chế hàng thật", "vì chữ tín", "cội nguồn đời sống" mà ông triển khai trong Khánh Dư đường, đều là cách thức hiện đại rất có lợi cho công việc, lấy chữ tín để lập nghiệp. Ngay đến "quảng cáo nhân tâm" cũng là sáng tạo của Hồ Tuyết Nham. Sau khi bào chế được thuốc hay, ông chưa vội bán, mà đi tìm cả trăm kẻ lang thang lớn nhỏ, vác lên "túi thuốc Thái Bình" đem phân phát miễn phí dùng thử tại các bến chợ, và phát liên tục trong vòng ba năm, mất toi mười vạn lạng bạc trắng! Sức hấp dẫn của việc quảng cáo rộng rãi, chiến thắng bằng sự chân thực như thế, e rằng ngay cả một số ông chủ nhà máy thời nay cũng chẳng dám bắt chước. Ông còn được tiến cử làm quan trong triều đình nhà Thanh

Chương thứ 33

Lục quang

Lúc đó tôi gần như phản xạ ngay lập tức, theo bản năng quay ngoắt người lại. Nhòm qua cửa sau của phòng khách, liền nhìn thấy đối diện trong hậu đường, có một quầng sáng xanh quỷ dị. Ánh sáng xuyên qua khung cửa sổ khắc hoa, mông mông lung lung lan tỏa trong làn nước.

Lục quang quỷ dị vô cùng, nhìn không khác gì lúc trước đó. Hiện chỉ còn cách tôi rất gần, có thể thấy nguồn sáng rung động khe khẽ. Nó khiến cho cả sân nhà đều trùm một màu xanh thê lương, quỷ khí dày đặc, dường như trong tích tắc tôi đã tiến vào một không gian khác.

Tôi nuốt một ngụm nước miếng, khắp người tràn lên một cảm giác lạnh thấu xướng, sợ hãi trong lòng khó mà hình dung được, ngay cả tâm trí cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Ðâm lao thì phải theo lao, giờ muốn tránh cũng không tránh ðược nữa!

Tôi cố gắng trấn tĩnh lại, vừa bơi tới gần hậu đường, vừa tự nhủ nếu đã đến nơi này thì ngay từ đầu phải biết sẽ có chuyện như vậy xảy ra. Trước kia tình huống tương tự thế này cũng gặp không ít, đều không phải vẫn bình an vô sự hay sao? Tôi cũng không nghĩ ra là lần này có thể so được với sự nguy hiểm nào trước kia.

Từ cổng chính tới hậu đường không tới hai mưới bước, thế mà chẳng hiểu vì sao cả người tôi cứ cứng đờ ra, cảm giác như mình bị nhầm lẫn về thời gian, mất tới năm phút mới bơi tới nơi được.

Cửa chính hậu đường vẫn đóng chặt, cửa sổ khắc hoa vài chỗ đã rớt hết, lục quang tràn ngập bên trong, nhưng nhìn vẫn không thấy rõ tình hình. Thật cẩn thận soi đèn pin vào trong, ánh sáng đảo qua trong vài khắc hiện lên một loạt những bóng đen, suýt chút nữa khiến tim tôi ngừng đập.

Tưởng là sẽ nhìn thấy một khuôn mặt tái xanh của cô nào đấy những hóa ra đó chỉ là một bóng hình mờ nhạt.

Tình hình trong hậu đường và tiền đường đều giống nhau, ngoại trừ nền đất chồng chất những thứ tạp vật bị mục nát rơi xuống thì gần như rỗng tuếch. Trung tâm hậu đường có lấp một vật gì đó, đứng sừng sững, lục quang từ sau thứ kia chập chờn ẩn hiện tỏa ra.

Cảnh tượng này rất giống trong tích cũ liêu trai, nhà hoang đổ nát có chàng thư sinh chong đèn đọc sách, ma nữ lướt qua ánh sáng hiu hắt giữa căn phòng, đứng bên song cửa liếc mắt vào trong. Chẳng qua bây giờ thay đổi vị trí, thư sinh đứng bên ngoài phòng nhòm vào ánh lửa, trong phòng rất có thể là một ma nữ bị chết đuối trước kia.

Tôi quan sát một lượt từ trên xuống dưới hậu đường, hiểu được sơ lược kết cấu của nó, để nếu như có phát sinh xung đột thì còn có thể cấp tốc tìm đường trốn chạy. Ðang chuẩn bị từ cử sổ tiến vào thì bất ngờ ánh sáng xanh âm trầm mờ đi, rồi từ từ tắt lụi.

Lòng tôi bắt đầu căng thẳng, cảm giác như bị người ta bóp cổ vậy, nhất thời ngưng thở.

Nó nhận ra sự xuất hiện của tôi?

Trong đầu liền hiện lên rất nhiều hình ảnh, đoán là thứ đang lẩn tránh sau bóng đen kia có thể nào là một con "thủy quỷ". Nếu nó nhận ra tôi tới chắc chắn là sẽ đi lấp, chuẩn bị cho một đợt tấn công đột ngột.

Không đúng! Bản thân tôi rơi vào đây đã hoàn toàn không có phần thắng, nếu cứ như vậy bơi qua, nhỡ mà gặp ma thật thì chẳng phải là tự đâm đầu vào chỗ chết sao?

Tôi giờ một thân một mình, cũng không ai biết được tôi đang ở này, chưa nói tới sau cái bóng đen kia là ma thật, chỉ cần chân đột nhiên bị mắc hoặc là dưỡng khí cạn thì khẳng định sẽ chết ngay ở đây, hơn nữa mấy trăm năm sau không chắc đã có người phát hiện ra. Thật sự đâu cần dở trò như vậy? Chẳng hay hắn tới cuối cùng lại muốn suy nghĩ lại?

Tôi có một thoáng nhụt chí, bao nhiêu dũng khí vừa rồi liền tan thành mấy khói, giờ không dám tiến vào trong nữa.

Có phải bản thân đã bị nỗi sợ hãi là cho mê muội đầu óc?

Tình hình hiện tại như vậy, hay là trước tiên nên lui về để kiếm thêm quân tiếp viện?

Nhưng như vậy thì những gì tôi làm từ nãy tới giờ đều là uổng phí. Muộn Du Bình và Bàn Tử bọn họ hoàn toàn không có dấu vết gì, cứ như vậy biến mất dưới đáy hồ này, giờ nếu tôi bơi lên, có thể còn hạ thủy tiếp sao? Cho dù có thể lặn tiếp nhưng tôi có đủ dũng khí để làm lại quá trình vừa rồi không? Chỉ sợ là không thể. Nếu vậy thì có lẽ Muộn Du Bình và Bàn Tử sẽ biến mất trong cuộc đời tôi từ đây.

Lúc này bản thân không kìm được lại nhớ tới Phan Tử, nếu như có anh ấy ở đây sẽ là một nguồn động lực lớn dường nào? Tôi và bọn họ nói cho cùng quả thực rất khác biệt. Dù cho là mình đã trải qua bao nhiêu kinh nghiệm, nhưng ý trí dũng cảm thì vẫn vậy, cùng với kinh nghiệm không có liên quan bao nhiêu cả.

Người vẫn đứng trong sân, chỉ cần thoái lui vài bước, lay động hai chân là có thể bơi thẳng lên trên, không mất mấy phút liền có thể thoát khỏi tòa nhà hoang cổ quái dưới đáy hồ này, hết thảy trước mắt đều không cần lo lắng nữa. Nhưng rốt cuộc thì tôi vẫn đứng đây, do dự, vì nội tâm biết rõ là bất luận là trước hay sau này chỉ cần bước đi thì bản thân không thể dừng lại được.

Lúc này mắt chợt liếc về một thứ, rõ ràng kia là một dấu vân tay.

Nó vẫn còn in hằn trên khung cửa sổ, bởi vì ban nãy căng thẳng quá nên không nhìn ra có thứ đó ở đây.

Chỗ này khắp nơi là cặn vật, dấu vân tay rõ ràng như vậy, chắc chắn là mới được ấn xuống không lâu. Là của tôi sao? Tiến tới một chút để quan sát, thấy trong đó có hai ngón tay rất dài, chẳng phải là Muộn Du Bình đã lưu lại sao.

Ban đầu tôi vô cùng sửng sốt, tiếp theo thử ướm tay vào để xem anh ta lúc đó định làm gì, là hành động đẩy cửa sổ ra- Muộn Du Bình từng đẩy cửa sổ này ra?

Từ nơi này tới mặt nước cách nhau tới mấy trăm thước, anh ta đã cởi mũ lặn, dưới tình hình ấy, làm sao có thể nín thở trong khoảng thời gian dài như vậy? Lẽ nào anh ta cũng thành thủy quỷ rồi?

Trong lòng càng thêm không tưởng, nghĩ tới Muộn Du Bình, tôi liền hạ quyết tâm. Không phải là bản thân đồng ý giúp anh ta sao? Nếu anh ta có biến thành thủy quỷ thật thì cùng lắm là mình chết cũng biến thành thủy quỷ, ba con ma ở cùng một chỗ ít ra sẽ không thấy cô đơn. Nếu không phải Muộn Du Bình đã cứu tôi mấy lần thì chắc tôi đã sớm thành quỷ. Bây giờ có vì anh ta mà mạo hiểm một chút, sao không thể chứ? Mạng của tôi như vậy liệu có đáng không?

Tôi tạm thời trấn tĩnh tinh thần, nói thật thì có nghĩ thế cũng không thể khiến cho nỗi hoang mang trong thâm tâm này giảm bớt, thậm chí nó còn càng thêm đáng sợ. Cả người bất giác phát run, cơ bản là không thể khống chế nổi cảm xúc lúc đó, nhưng trong lòng vẫn tâm niệm phải mạnh mẽ lên. Tuy là hốt hoảng như vậy nhưng tôi vẫn bơi vào qua cửa sổ vào trong hậu đường.

Vừa tiến vào, tôi liền nghĩ, làm thế có phải đã thất lễ quá không? Hay là mình vẫn nên gõ cửa trước khi vào? Như thế thì người ta mới thấy mình là người có tri thức hiểu lễ nghĩa ít nhiều mà tha cho một con đường sống. Nghĩ tới đó tôi thật muốn tát vào miệng mình một cái để trấn định tinh thần.

Tình hình ở hậu đường và phòng khách đều giống nhau, từ từ bơi tới vật chắn kia, lục quang không còn sáng lên nữa. Hình như là nó đang trốn sau thứ đó, tôi dừng lại một lát vì tay run qua không cầm chắc được đèn pin.

Run tới mức không thể khống chế được, ánh sáng lay động theo tay tôi, khiến cho vật chắn kia như đổ xuống, đành phải dùng cả tay còn lại hỗ trợ, cố tiến thêm vài bước cuối nữa.

Trong tích tắc đó, dây thần kinh toàn thân tôi căng như dây đàn, chuẩn bị tinh thần sẵn sàng nhìn bất luận kia là thứ kinh khủng gì, đập vào mắt ngay lúc đó là hình dạng thật của nó, tôi thậm chí còn tưởng mạch máu trong đầu mình đã đứt phừn phựt rồi.

Nhưng đèn pin soi qua, chỉ có một đống đổ nát màu trắng, ngoài ra không có gì khác.

Chó má! Tôi có cảm giác bị người ta đùa bỡn, nếu bạn đang rơi vào trong thái căng thẳng cao độ, không thấy gì khả nghi cũng không vì thế mà tự dưng mà buông lỏng được ngay, trái lại căng thẳng sẽ tiếp tục kéo dài.

Nhìn xong bốn phía, giờ mới phát hiện ra là toàn bộ nội đường hoàn toàn khép kín, đằng sau trống không, hẳn là thông với phía sau nhà chính chỉ có duy nhất một con đường từ cổng mà thôi. Vừa rồi có nhìn qua, bên ngoài kia chính là đường lớn.

Nếu như lục quang kia lúc trước ở nơi này thì giờ chắc chắn cũng vẫn còn tại đây, nó nhất định đang lẩn trốn đâu đấy.

Tôi nín thở bơi qua, làm động tác phòng ngự, nhìn về phía dưới đống đổ nát, xem có phải nó ở dưới những đồ vật này không, nhưng vì hỗn độn quá nên không thấy gì rõ ràng lắm. Nhìn một lúc, đột nhiên mắt chợt liếc lên thứ duy nhất vẫn còn dựng thẳng trong phòng, trong góc phòng đằng sau vật chắn này có một bức bình phong.

Bình phong không biết được làm từ chất liệu gì mà không hề bị mục nát, nhưng quan trọng là nó không còn đứng vững nữa, nghiêng ngả xiêu vẹo về một bên, không còn ra hình thù gì. Đèn pin vừa lia qua, da đầu tôi liền tê dại đi. Sau bức bình phong kia bỗng hiện lên một bóng người rất kỳ dị.

Chương thứ 34

Trở thành sự thật

Tôi lập tức ngây người, hai chân mềm nhũn ra, toàn thân mất hết khí lực, không dám chớp mắt càng không dám cử động chân tay, đèn pin vẫn giữ nguyên chiếu tới vị trí kia.

Dưới ánh sáng mạnh của đèn pin, bóng người hiện lên tương đối rõ ràng, điều khiến tôi kinh hãi chính là tư thế của người đó, hình dáng vô cùng quái dị, cả người như là dựng thẳng đứng lên, toàn bộ bả vai dốc xuống như hình tháp. Cảm giác đầu tiên của tôi lúc đấy là người đó cũng đang di chuyển như tôi ở bên kia, nhưng có vẻ là bóng đen không hề nhúc nhích, chỉ có xác chết mới như vậy.

Lúc đó cảm giác nghẹn thở đã lên tới đỉnh điểm, khả năng đây là chuyện khó tưởng tượng nhất mà tôi từng gặp từ trước tới nay. Thứ đó nếu đứng trên mặt đất bằng phẳng, có thể nảy sinh ra vô số cách giải thích, nhưng đây đang là dưới đáy hồ, nước sâu tới sáu bảy mươi thước, cái bóng kia cứ sừng sững đứng tại đó, không nhúc nhích, tuyệt nhiên không phải là thợ lặn.

Đây rốt cuộc là thứ gì, là yêu quái hay là thủy quỷ?

Không người bình thường nào tồn tại dưới nước mà không cần tới bình dưỡng khí, cũng chẳng có ai có thể đứng thẳng như vậy ở dưới nước. Tôi thầm kinh hãi, lần này con mẹ nó thực sự gặp phải đại nhọ rồi, cái quái vật mà A Quý nói quả thực có thật rồi, giờ có muốn cũng không thể không tin.

Nghĩ tới thủy quỷ, tôi liền nhớ tới ngay những hài cốt mình đang tìm kiếm, đây là một trong những người của đội khảo cổ sau khi bị chết xác vứt vào hồ hóa thành bánh tông sao? Hay là những hồn ma người chết trong thôn này trước kia? Muộn Du Bình và Bàn Tử mất tích là do trúng bẫy của những thứ này ư?

Nếu là bánh tông thì còn xoay xở được, trang bị của tôi có cồng kềnh nhưng cũng sẽ không chạy chậm hơn nó, còn nếu kia là quỷ hồn thì tôi e là mình sẽ thành thế thân cho nó. Nếu Bàn Tử bọn họ gặp nạn, cũng không biết có thể ra giúp tôi được không. Tôi hoàn toàn không biết phải làm sao lúc này, không dám tiến lên cũng không dám xoay người, vì sợ là khi tôi quay lại thứ kia lập tức áp sát tới đây, tôi thà nhìn nó giết mình còn hơn là bỗng nhiên sau lưng có cảm giác khác thường.

Chỉ có thể hết sức dán mắt vào cái bóng kia, nhưng yên lặng trong phút chốc, lại phát hiện cái bóng kia trước sau không chút động đậy nào, cái kiểu bất động này vô cùng khó hiểu, như là tượng đá vậy. Ngay cả một chút di chuyển cũng không nhìn ra được. Đồng thời tôi còn cảm thấy một điểm kỳ quái nữa là cái bóng đen này, con mẹ nó hình như là tôi đã từng trông thấy ở nơi nào rồi.

Cảm giác ấy càng lúc càng mãnh liệt, có vẻ như là từ trong tiềm thức của tôi dẫn dắn tới, tôi lấy hết dũng khí, cái bóng đứng sau bức bình phong kia làm từng chút từng chút một thay đổi. Mồ hôi lạnh bất giác túa ra, tôi nhìn những biến hóa của bóng đen kia, cảm giác quen thuộc càng lúc càng sâu sắc, thậm chí nó còn áp đảo cả nỗi sợ hãi trong lòng tôi. Bơi qua khoảng bảy thước, cảm giác đó đã đạt tới ngưỡng cực điểm, ngay trong tích tắc đó, tôi chợt nhớ ra: trời ơi, cái bóng kia, bức bình phong kia, chẳng phải là những thứ có trong bức hình mà Sở Ca đưa cho tôi sao.

Trước khi tôi tới thôn Ba Nãi này, tôi đã được xem một bức ảnh, là do tay thủ hạ cũ của chú Ba, Sở Ca gửi cho tôi, mặt trước chụp bên trong một tòa kiến trúc cổ xưa, đập vào mắt là một bức bình phong. Mà sau bình phong lại hiện lên một bóng người mờ ảo. Nhớ tới cái bóng đen đó, hóa ra tại đây tôi cũng gặp một thứ giống y hệt nó.

Vì phía sau bức ảnh kia viết là nhà ma Cách Nhĩ Mộc, lúc đấy tôi đoán là nó được chụp trong khu an dưỡng Cách Nhĩ Mộc, giờ nhìn lại thì chắc tôi đã lầm. Lẽ nào chú thích sau bức ảnh không phải ám chỉ những gì chụp trong đó, cảnh tượng trong bức ảnh kia là chụp nơi này?

Nhưng bức ảnh cũng không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy là chụp dưới nước, nói cách khác, nếu như đúng là chụp nơi này thì thời điểm bấm máy chắc chắn cổ trại vẫn chưa bị chìm trong nước.

Bức ảnh đó sớm nhất cũng phải được chụp cách đây ba bốn mươi năm, chẳng lẽ thời gian cổ trại bị ngập trong nước không xa như tôi nghĩ? ảnh chụp... Bóng đen... Đáy nước.... Lẽ nào Sở Ca đưa cho tôi bức ảnh ẩn chưa một hàm ý mà tôi không biết, bản thân chỉ đơn giản nghĩ nó là một mảnh thư tín thôi sao? Hắn ta đưa cho tôi bức ảnh, cái chính là muốn tôi tới đây tìm thứ hiện lên trong bức ảnh đó ư? Suy nghĩ của tôi đang rõ ràng bỗng nhiên lại bị vô số những thứ quỷ dị lấp đầy.

Thứ khiến cho đầu óc tôi rối lên chính là cái bóng đen kia, trong tấm hình nó có tư thế cổ quái như vậy, hiện nhìn ở đây, bóng đen kia gần như không có chút sai biệt nào.

Nếu như bức ảnh kia thật sự đã chụp nơi này thì chẳng phải là sau khi chụp bóng đen đó cũng không hề di động, trước giờ vẫn luôn luôn đứng tại đây? Vậy không thể nào nó lại là thủy quỷ được, vì lúc ấy nơi này đâu có bị chìm trong nước, bóng đen này chắc hắn là một vật cố định.

Tôi ngây ra một lúc, bỗng lấy hết can đảm, cầm một cục đá lên, huy động chân vịt, từ từ bơi tới chỗ bình phong kia. Lúc tôi tới gần bức bình phong lập tức lấy gạch ném qua, thầm hô một câu bay nào. Nhưng còn chưa nói dứt thì tôi lập tức phải hối hận.

Bình phong bị ngâm nước căn bản không còn chịu lức được nữa, bị tảng đá ném trúng, nó liền đổ ngược lại, đống tạp vật mục nát bay lên như bông tuyết, đập thẳng vào mặt tôi. Tôi lập tức thoái lui về phía sau, cầm đèn pin chiếu lại, nhưng chỉ thấy tất cả đều là những tạp vật trôi nổi. Tôi lấy tay xua hết chúng đi, lấy đèn pin soi lên trước, trong lúc hỗn loạn, giữa những vật đang lơ lửng có một thứ vươn ra, trong chớp mắt liền lao tới chỗ tôi tấn công.

Bị giật mình, tôi vùng vẫy lui về phía sau, đồng thời cầm dao găm trong tay bắt đầu đâm loạn, xiên chọc được mười mấy nhát, chẳng đâm trúng cái gì, dụng cụ hô hấp trên miệng lại rơi ra.

Tôi luống cuống chân tay nhặt lại, trước mắt những tạp vật trôi nổi đã bị dòng nước xua tản ra, thứ vừa rồi lao tới chỗ tôi thực chất là một khúc gỗ. Thầm mắng một tiếng, vung chân đá văng nó đi, rồi lại cầm đèn pin soi về bóng đen sau bức bình phong.

Cái bóng kia vẫn đứng lỳ ở đó, những tạp vật bồng bềnh trong nước từ từ tản ra, hình dạng thật của nó đã ít nhiều hiển lộ. Kia đúng là một sinh vật có hình dáng kỳ quái, có đầu, có tay, có chân, cứ thế đứng im một chỗ. Toàn thân nó bị những vật trôi nổi màu trắng bám vào hiện ra một động tác vô cùng cứng nhắc như người chết, bị treo lên rồi không biết làm thế nào lại sáp hóa, thi thể bị bọc lại. Thoạt nhìn còn tưởng là tượng đá, rất khó có thể hình dung ra được.

Bộ mặt của nó hoàn toàn bị bao phủ, cũng không biết có biểu cảm gì, nhưng nhìn chính xác là một vật bất động, vì nếu có thể di chuyển thì những lắng cặn không đọng lại dày như vậy.

Đây là trò đùa gì vậy? Lòng tôi càng thêm nghi hoặc.

Chương thứ 35

Hình dạng thật của bóng đen.

Tôi nhìn hình người kia, không hiểu sao mà toàn thân nhất loạt nổi đầy da gà.

Ban đầu tôi cảm thấy nó thực ra chỉ là tượng đá không hơn không kém, nhưng sau đó liền ý thức được không phải thế, vì hình dạng này quá mức chân thật, giống như một xác chết bị treo lên. Trong thời kỳ đó, cho dù là người ta có muốn điêu khắc những thứ kinh hãi thế này thì cũng không thể nào làm chân thực tới vậy, khu vực phía Nam có nhiều Tà Thần thật, nhưng dù có cường điệu hóa tới mức nào cũng không bao giờ tả được như tới mức đó.

Dọc đường gặp phải quá nhiều chuyện kỳ dị khiến tôi không còn chút dũng khí, chẳng hay thứ vừa rồi phát ra lục quang, cũng chính là từ vị trí này.

Cẩn thận tiến qua chỗ bóng đen kia, sau khi tới gần cảm giác xác chết bị sáp hóa càng thêm rõ ràng, mặt khác, tôi phát hiện tay phải nó tính từ chỗ cổ tay đã bị cắt ra, thiếu toàn bộ bàn tay. Không phải là ngay từ đầu đã là như vậy mà dường như đây là bị thứ gì phá hỏng.

Bản nháp! Muốn học đòi mà không tìm đúng chuyên gia! Tôi chần chờ một chút, cẩn thận từng chút một dùng dao găm cạo những lớp cặn màu trắng động trên bề mặt, tính xem nó trước đây có màu gì.

Cạo một lúc xong vừa nhìn tôi đã giật mình kinh hãi, thứ này toàn thân phủ một màu đen đỏ sặc sỡ hoa văn họa tiết, nhưng không có gì tươi đẹp cả, đã mờ mờ mà lại còn xoắn xuýt vào với nhau. Giống như là một đống mốc cáu bẩn vậy. Tiếp tục cạo thêm một lúc, ngay sau đó liền thấy cái thứ mày đen đen đỏ đỏ loang lổ như hoa gấm kia thực chất đều là rỉ sắt, tôi bước đầu xác định được thứ này hẳn là làm bằng sắt.

Không thể nào! Đây là một tượng sắt? Lấy can đảm cho tay lên cấu thứ kia một cái, quả nhiên là sắt thật, hơn nữa còn được rèn rất tốt, không hề có dấu hiệu mục nát, thậm chí có thể thấy được những hoa văn điêu khắc trên bề mặt vô cùng tinh xảo, khác hẳn với vẻ ngoài bị rỉ sét phủ đầy kia, đen đỏ lấm tấm từng điểm khắp bức tượng.

Tôi từ từ hiểu ra đây là cái gì, lập tức cạo tất cả những thứ đang bám trên người nó xuống, một tượng sắt có hình dạng vô cùng đặc biệt dần hiện ra trước mắt tôi.

Tôi không khỏi bị nó làm cho kinh ngạc tới ngẩn người, vì vừa rồi tôi chỉ thấy rằng hình thù của nó rất đơn giản nhưng giờ nhìn lại, bề mặt sau khi trải qua một lần đánh sạch, có thể khẳng định được là những hoa văn kia vô cùng tinh tế, toàn thân đều là những hoa văn tuyệt mỹ, thật đúng là một kiệt tác nghệ thuật. Lấy tay sờ qua, cảm giác những hoa văn này so với khối sắt tìm thấy dưới gầm giường nhà Muộn Du Bình hoàn toàn giống nhau.

Tôi hiểu rồi! Đây là thứ mà đội khảo cổ năm đó vớt được dưới hồ này, chính nó! Những khối sắt ấy, đích xác là từng mảnh nhỏ tách ra từ tượng sắt này.

Vật này cũng có thể coi là văn vật khảo cổ sao? Nó có giá trị khảo cổ gì?

Ngẫm lại thì nhớ từng nghe Muộn Du Bình nói những khối sắt này vô cùng nguy hiểm, tôi để ý thấy không cần đụng vào, tốt nhất nên giữ khoảng cách với nó, cẩn thận quan sát vẫn hơn.

Tôi đối với đồ sắt không có chút nghiên cứu chuyên sâu nào, nhưng đối với kim loại mạ vàng thì lại rất có hiểu biết, tượng sắt đã từng tận mắt thấy qua tại chợ đồ cổ vài lần, là loại sắt trắng như bạc, đều là cổ vật nhỏ, cho tới giờ chưa từng được thấy vật nào lớn thế này. Thứ nhất đồ cổ làm bằng sắt ngày xưa thường rất đắt, khối tượng sắt lớn dường này không cần nói cũng biết bản thân nó đã tiêu tốn biết bao nhiêu là nguyên vật liệu, thứ hai là đồ sắt thì không dễ bảo tồn, lại nhanh bị rỉ, có nhiều tượng phật nhà Minh được chế tạo từ sắt, kỳ thực tới giờ không còn giữ được bao nhiêu.

Nếu như toàn bộ vật này giống với khối sắt của Muộn Du Bình, cảm giác được ruột trong đặc, khả năng là còn bọc thứ gì đó chứ không phải là rỗng ruột, có thể là một thứ vô cùng nặng. Nặng như vậy chẳng lẽ là dụng cụ sắt rất lớn của Phật giáo, dùng để trấn yêu?

Tôi miên man suy nghĩ, nhưng cũng biết là làm thế cũng không thể nghĩ ra được một nguyên nhân hợp lý, tất cả mọi chuyện không có một đầu mối nào dẫn dắt, bao nhiêu cân nhắc cũng là vô dụng thôi.

Vốn định xem mấy hoa văn trên người tượng sắt kia nhưng rỉ nhiều tới mức nhìn không ra, căn bản là không thể quan sát tổng thể được. Những nơi khác có nhìn mòn mắt cũng không ra chút manh mối nào. Bàn Mã từng nói khối sắt này rất nhiều, lẽ nào nơi đây không phải chỉ có một bức tượng như thế này?

Nhưng bốn phía trống không, chẳng thấy gì cả, vật lớn như này không thể nào nằm ở dưới đống đổ nát kia mà tôi lại không thấy được. Đội khảo cổ mang những khối sắt kia đi, vậy chúng được vớt lên từ nơi nào?

Chẳng lẽ trong mỗi nhà người Dao đều có chứa những khối tượng sắt giống như vậy, phân bố rải rác trong khắp các làng? Hay là nó còn được giấu ở những chỗ khác trong nhà?

Nhớ tới tầm hình kia, bên cạnh bình phong còn có một hành lang, tôi điều chỉnh vị trí của mình một chút, phát hiện hành lang trong hình kia tại đây lại là cửa sau của hậu đường.

Thông thường trong nhà cổ, đằng sau cánh cửa này chắc chắn là một lối đi vào gian chính, nhưng trong này chỉ có duy nhất một tòa nhà cổ, cho nên sau cánh cửa này là bên ngoài, mà ngoài kia chính là đường đá của thôn, không thể nào là hành lang được.

Nhưng trong trí nhớ tôi, giữa bức ảnh chụp kia có một khung cửa sổ cùng với khung cửa nơi này giống nhau như đúc, không nghi ngờ gì nữa, bức ảnh kia chính xác là chụp nơi này. Làm sau lại có nhẫm lẫn như vậy? Chẳng lẽ lúc bấm máy nơi này có hành lang, nhưng sau lại bị phá hủy?

Quan niệm về thời gian trong đầu tôi bắt đầu hỗn loạn, xem ra lúc bức ảnh kia được chụp và khi mà cổ trại này chìm trong nước đều là vấn đề cần cân nhắc lại.

Bơi tới gần, cửa khắc hoa hoàn toàn không có dấu hiệu mục nát, phát hiện ra bề ngoài của nó được làm mô phỏng như gỗ, nhưng thật ra là bằng sắt. Lại dùng đèn pin soi thử, nhất thời sững sờ, không thấy đường đá bên ngoài, sau cánh cửa kia là một hành lang thật.

Hành lang không dẫn thẳng mà nghiêng xuống dưới, thông xuống sâu trong lòng đất, cảnh tượng hai bên giống y như trong bức ảnh.

Tôi khẳng định chắc chắn được bức ảnh kia chụp lại nơi này, trong lòng chợt động, thầm nghĩ không thể nào, nếu cấu tạo như vậy thì cửa sau hậu đường lối với hành lang, hành lang đi thông xuống lòng đất, chẳng lẽ tòa nhà cổ này thực chất cũng có khu nhà sau, nhưng không biết khu vực đó là hậu viện hay được xây ngầm dưới đất?

Chương thứ 36

Phần dưới lòng đất

Nhận thức của tôi đã hoàn toàn bị phá vỡ, không chỉ là vị trí của tòa nhà cổ này bất hợp lý mà ngay cả kết cấu cũng rất quỷ dị, sau cửa đi thông ra một hành lang hướng vào trong lòng đất.

Chẳng lẽ toàn bộ phần sau của tòa nhà này được xây dựng bên dưới kia? Người thiết kết rõ ràng đã cố tình làm thế, có thể chiều dài thực tế của hậu đường cùng với chiều dài của bộ phận bên trong gian phòng không tương thích. Người ta vào tới đây thấy cửa này sẽ cho rằng phía sau còn cách một đoạn, ở giữa còn một hành lang ẩn nữa.

Cửa chính mở trên mặt đất nhưng những bộ phận khác lại được xây bên dưới, vậy mà cũng được coi là nhà sao? Quả thực là giống tổ chuột hơn. Kiến trúc sư của nhà này cũng thật có trí tưởng tượng.

Đột nhiên tôi nhớ tới một câu nói, trong núi sâu dựng biệt thự, không phải là Hoa Kiều thì cũng là trộm mộ tặc. Nơi này có được xem như là thâm sơn không? Nhà cổ này dựng trong núi sâu chẳng lẽ là một nhà tạm của trộm mộ tặc? Ví như là thường nghe người ta nói trên cổ mộ hay cho xây chuồng heo, để dễ dàng che giấu hành vi trộm mộ.

Nhìn bên ngoài thì giả thiết này quả thực rất phù hợp, từ hành lang kia xuống bên dưới, khả năng chính là cổ mộ của bọn họ, những tượng sắt này là đồ bồi táng từ trong cổ mộ kia khai quật ra.

Nhưng suy nghĩ kỹ lại thì thấy không phù hợp với tính cách của trộm mộ tặc mà tôi biết, cho dù là kẻ có thực lực nhất, tính cách cổ quái nhất cũng không vì đạo đấu mà phải xây dựng cả một hành lang chắc chắn thế này! Nhìn qua cũng đoán được đây là một kiến trúc sư lành nghề có kinh nghiệm, xây một đường đá với mục đích lâu dài, không phải là nhất thời nảy ra ý định đó.

Hơn nữa là tại sao lại muốn xây một tòa gác mang phong cách người Hán trong thôn trại Dao này? Nhà tạm này nếu tồn tại là để thực hiện những hành vi lén lút, cốt chỉ để không phát hiện ra đang đạo mộ, ở giữa Dao trại lại dựng lên một tòa nhà Hán, thật không khiến người ta thêm phần để ý sao?

Theo như những suy luận này, biện pháp tốt nhất, hữu hiệu nhất phải là tại đây xây một nhà sàn như của người Dao, sau đó tối tối trộm đào một đạo động thông xuống lòng đất, xây dựng một tòa nhà Hán cao như vậy, thời gian và tiền bạc hẳn là tốn kém rất nhiều. Khả năng phải nhiều hơn là đào trộm một tòa cổ mộ đáng giá, nói thẳng ra là hoàn toàn không cần thiết.

Cách này thực không khả thi, đã thế chỉ có một khả năng đó là đồ phía dưới kia giá trị lớn tới mức kinh người, hơn nữa lại vô cùng khó vào, có thể phải mất hơn hai mươi ba mươi năm tiến hành. Nhưng tôi cũng có thể khẳng định là lần này không đổ được đại đấu, vì nơi đây nằm trong vùng trũng trên núi cao, tất cả mạch nước ngầm đều chảy tới đây. Cơ bản là không có điều kiện để xây được một ngôi mộ khang trang tầm cỡ.

Theo như những gì tôi được học về kiến trúc thì có thể xác định được là... Công trình xây dựng này vì một mục đích đặc biệt nào đó mà cố ý hoàn thành, tất cả những dấu hiệu ở đây đều để phục vụ cho việc đó, trước mắt chưa biết được nó dùng làm gì, cho nên không thể đưa ra nhận định xác đáng nào, nhưng phần chính thất của nó hẳn là nằm ở dưới lòng đất kia.

Nhìn qua đồng hồ dưỡng khí, tình hình là còn lại oxy không nhiều, tối đa có thể duy trì được mười năm phút nữa, không thể phí phạm thêm thời gian. Tôi nhìn vào hành lang, cũng thấy không quá sâu, sau khoảng vài chục bước liền thoải xuống, bên dưới là nền đá xanh.

Lục quang không thấy xuất hiện tiếp, cùng không có bất kỳ mối nguy hiểm nào. Tôi nghĩ coi như là thủy quỷ này cũng không có ý xấu, hơn nữa dường như nó đang cố gắng dẫn dắt tôi từng bước từng bước tới nơi này. Nếu quả thật muốn lấy mạng tôi thì chỉ sợ tôi đã sớm tử nạn rồi.

Trước những việc đang diễn ra tôi có cảm giác mình thật như một kẻ vô dụng, vì vậy quyết lấy hết bình tĩnh, cẩn thận mở cánh cửa kia ra, bơi xuống bóng tối đen ngòm bên dưới.

Chân chạm tới đáy, tay lập tức huy động đèn pin, vừa nhìn tôi bất giác hít một ngụm khí lạnh.

Bên dưới là một gian hầm xây bằng gạch, không lớn mà lại vừa dài vừa hẹp, phải nói là cực dài, tôi thậm chí không thấy điểm tận cùng đâu nữa.

Hai bên phòng gạch bày rất nhiều giá sắt, bên trên đặt vô vàn những tượng người sắt.

Nhìn qua có chút giống như con rồng, tượng sắt hai bên nhìn như đồ gốm mới được lung, toàn bộ bày ra la liệt, dưới ánh sáng màu vàng của đèn pin, tượng sắt hiện lên như một xác chết, nó cho tôi cảm giác giống với tầng hầm bí mật trong lòng đất của rất nhiều thánh đường ở nước ngoài . Đoán sơ qua, ở đây ít nhất có tới sáu trăm tượng như vậy.

Lẽ nào nơi đây trước kia là một xưởng đúc tượng người?

Có rất ít lắng vật ở đây, chỉ thấy từng mảng vảy rỉ loang lổ hiện ra, nhìn qua còn tưởng là xác người thâm đen bong tróc da bên ngoài.

Bơi qua một mạch tôi liền phát hiện những động tác của tượng sắt cũng không giống nhau, lạ nhất chính là tất cả những tượng này đều mất tay phải. Tất cả tay phải đều đã bị phá rơi hết, miệng cắt rất bất quy tắc, dường như là do con người gây ra.

Sự sợ hãi cực điểm vừa rồi đã khiến tôi chết lặng, cảnh giác bốn phía, tiếp tục bám sát mặt đất di chuyển về phía trước. Mãi cho tới cuối gian phòng, cũng không thấy cái nhà chính dưới lòng đất đâu, mà chỉ thấy trước mặt là một bức tường kín mít và dưới nền đá có một cái giếng.

Dưới nền phòng có đào một cái giếng, hơn nữa còn ở nơi nguồn nước dồi dào như ở đất Quảng Tây này, chính là người đầu óc có vấn đề mới nghĩ ra cái cách này. Nhìn lại bên thành giếng có làm thêm một vết lõm, để tiện cho việc leo lên bậc thang, tôi liền hiểu ngay ra bên dưới đó chắc phải có thứ gì.

Lúc này, trước khi vào cuộc bắt đầu đào động. Đây rất giống với dấu hiệu nhà tạm của trộm mộ tặc! Có lẽ dưới kia có một cổ mộ thật.

Hoặc là một lão già cổ quái, tính cách lại vô cùng gàn dở, thích vung tiền xây lên một tòa nhà siêu sang, thậm chí còn phải lộng lẫy hơn là dưới mộ, muốn nó phải thật khác người để thiên hạ càng chú ý càng tốt.

Có lẽ thật sự tồn tại một hoàng lăng được xây dựng ở một nơi nước ngầm dồi dào như tại đây, con mợ nó chứ, dưới biển còn có người xây mộ! Tại sao lại cấm người ta ngâm mình trong nước?

Tôi cầm đèn pin tới bên thành giếng soi vào, nếu đây là một đạo động thì có thể xác định được cấu tạo bên trong, cổ mộ đặc biệt khó vào, cùng lúc lại còn xây thêm một lành lang để máy móc cỡ lớn làm việc, hẳn là mộ phải được xây ở vị trí khác bên dưới, bọn họ đành phải dùng biện pháp thăm dò vòng quanh mà không thể trực tiếp xuống đấu. Như vậy người này chắc chắn không phải là trộm mộ chuyên nghiệp, rất có thể là một đội người pha tạp, nghĩ tới đó lại thấy giống kiểu trộm mộ của bọn quân phản động.

Quân phản động ở nơi này tầm ảnh hưởng rất lớn, muốn xây một tòa nhà trong thôn trại người Dao thì chẳng ai dám phản đối, đồng thời cũng có quan hệ rất căng thẳng với Dao Miêu, nếu như khiến cho người Dao biết trong trại của mình có trộm mộ tặc, khả năng nổ ra mây thuẫn dân tộc gay gắt.

Vừa muốn nhanh gọn lại vừa muốn giấu diếm, nếu mộ phần trong lòng đất rất lớn, để tiết kiệm thời gian, chắc chắn là phải xây thêm một hành lang, tiện cho việc quan sát người ra kẻ vào. Lại còn có thể kết hợp với người bên trên, chủ nhà này trên người mang công trạng, vậy rất có khả năng.

Nghĩ đến đó lại cảm giác mình rất lợi hại, quay qua cái giếng sâu thăm thẳm kia, nhìn không ra chút manh mối nào, lưng tôi mang bình dướng khí nên không thể xuống sâu hơn được, dễ là chuẩn bị buông xuôi thôi.

Lúc này sâu dưới giếng lại lóe lên lục quang.

Lòng tôi giật thót một cái, là nó! Lúc này có thể thấy nguồn sáng cách miệng giếng rất gần, chỉ khoảng hai ba thước. Định dùng đèn pin soi theo nhưng không ngờ còn chưa kịp hành động thì lục quang kia đã ra tay trước, trong tích tắc nó lại lao về hướng tôi.

Tôi lập tức giơ dao găm lên, thầm nhủ nó thật sự đang di chuyển! Nhưng lục quang áp sát quá nhanh, đột ngột như sao băng xẹt qua tai.

Trong lúc bên kia lóe lên không nhìn thấy gì hết, nhưng tôi có thể khẳng định rằng đó không phải âm hồn thủy quỷ, nó giống như là một con vật có thể phát ra ánh sáng vậy.

Vội vàng xoay người, chỉ thấy lục quang vọt qua bên cạnh một cái giá sắt, thoáng cái liền tắt ngấm. Dùng đèn pin soi theo, nó lại sáng lóe lên như đáp lại ánh đèn trong tay tôi.

Rốt cục thì tôi cũng thấy được chính xác kia là thứ gì. Nó rất to, nhình như một con thằn lằn màu xám tro, dài phải bằng cánh tay tôi. Nó đang nằm trên đầu một tượng sắt, thân nó hình như buộc một vật gì đó, cố gắng định thần thì hóa ra kia là một cái đèn pin, chính là vật thi thoảng lại phát ra ánh lục quang yếu ớt đó.

Chương thứ 37

Tiểu xảo của Bàn Tử

Tôi không biết nó là cái giống gì, hình như là một con thuộc họ kỳ nhông cỡ lớn, trước kia từng được ăn thử ở quê, nhưng chưa từng được chạm mặt gần như vậy, nhìn mà kinh cả người. Về phần cái đèn pin kia, mắt vừa thấy hai huyệt thái dương của tôi liền giật mạnh, kia chẳng phải là loại đèn pin vỏ vàng cũ kỹ mà lần trước hạ thủy chúng tôi có dùng sao.

Đó chắc chắn là đồ của Bàn Tử mang theo, cả cái sợi dây trên người con kỳ nhông kia cũng do người ta buộc lên, chẳng lẽ đây chính là kiệt tác của Bàn Tử?

Tôi chỉ suy nghĩ một lát, liền hiểu được ngay chuyện gì đang xảy ra. Không ai lại làm những việc khó hiểu như vậy, Bàn Tử rất có thể muốn người khác đặc biệt chú ý tới con kỳ nhông này.

Lẽ nào bọn họ đang bị mắc kẹt ở một nơi nào đó nên đành phải dùng cách này để cầu cứu ra bên ngoài?

Có chết tôi cũng không nghĩ tới đó, lục quang kia chính xác là do nó phát ra. Con mẹ nó chứ! Ánh sáng đèn pin sao lại có thể biến thành mày xanh biếc như vậy?

Vài khắc tôi liền trấn tĩnh tinh thần, toàn thân nhất thời tê liệt, cả người đều thả lỏng. Xem ra tôi nghĩ không nhầm, bọn họ đã gặp phải biến cố bất ngờ ở dưới nước, hiện tại có thể là vẫn còn sống, chẳng qua là bị mắc kẹt ở một nơi nào đó, chỉ có thể thông qua cách này mà cầu cứu. Nơi đó khả năng có dưỡng khí, nhưng không biết vì sao đường ra lại bị chặn lại.

Tuy rằng không biết Muộn Du Bình và Bàn Tử rốt cuộc đã gặp chuyện gì, lại làm cách nào tới được chỗ kia, nhưng có thể thấy được là bọn họ còn sống, cảm thấy thật nhẹ lòng!

Với tính cách tinh quái như của Bàn Tử thì trên người con kỳ nhông kia chắc chắn còn lưu một vài manh mối, phải bắt nó mới được. Người ở trong nước hoạt động chân tay tương đối bất tiện, nhìn con vật kia bơi rất tốc độ, e là không bắt kịp.

Kỳ nhông là trùm dưới nước, cắn người cũng tương đối lợi hại, hơn nữa đầu của nó lại lớn như vậy, bị nó ngoạm cho một phát chắc cả ngón tay của tôi cũng khó giữ.

Bất chấp luôn đi! Có bị thương cũng phải thử một phát xem thế nào.

Tôi nâng dao găm lên, chậm rãi bơi tới, cố gắng thật nhẹ nhàng, nhưng chỉ mới tiến tới gần hơn một thước, nhoằng một cái con vật chợt quẫy đuôi, nhanh chứ chớp vọt đi sáu bảy thước mới dừng lại ở bên một khối đá.

Con mợ nó! Thừ này cho dù ở trên cạn cũng khó mà chặn được chứ chưa nói tới tôi giờ đang phải bắt tay không trong nước. Cũng may là nó bơi rất ngoan ngoãn, không có ý tấn công lại.

Tôi còn thử thêm lần nữa, tiếp tục chậm rãi tiến gần tới nó, lúc đó suýt thì áp sát được, nhưng đang định thò tay chộp thì trong chớp mắt nó lại nhanh chóng vọt qua một chỗ khác.

Tôi hiểu ngay ra dưới nước không có khả năng bắt được con quỷ này, mỗi lần đuôi nó di chuyển liền hình thành luồng nước rất mạnh, không khó để tưởng tượng là có bao nhiêu thành công lực trong đó, cho dù là chộp trúng thì cũng không thể giữ được.

Đèn bình dưỡng khí bỗng phát ra cảnh báo, tôi có chút luống cuống, dùng đèn pin soi khắp nơi tìm xem có thể dùng được cái gì không. Quanh đi quẩn lại mà không thấy gì cả, những tượng sắt này nặng bằng chết, cho dù có dùng được tôi cũng không thể nâng nổi nó lên.

Tôi liên tiếp xoay chuyển suy nghĩ, nhớ tới bản thân mang theo dao găm. Có thể nói đó là cột trụ tinh thần của tôi, tuy rằng cho tới giờ chưa có dùng qua.

Tôi thực sự không muốn đả thương con kỳ nhông này, nói thế nào thì nó cũng là một sinh mạng, nhưng tới giờ khắc này, trong lòng đang rất gấp nên không thể lo được nhiều như vậy. Ác tâm bắt đầu trỗi dậy, bao nhiêu thương hại cũng chỉ còn là lời nói suông.

Tôi lại bơi đi, giơ dao găm lên chuẩn bị đâm nó, đâm một cái không chết được, chí ít cũng khiến nó bị thương mà bơi chậm lại.

Nó đậu ở dưới chân giá sắt, nằm úp trên nền đá xanh, tôi nín thở, như xác chết trôi phiêu tới bên cạnh, từ từ áp sáp nó. Tới khi thấy cách nó còn nửa cánh tay, như một pha quay chậm trong phim, tôi từ từ giơ con dao găm lên, thay đổi tư thế, chuẩn bị đâm xuống.

Có thể là sát ý của tôi bị con kỳ nhông kia thấy được nên nó lại bơi vèo đi cách vài phân nữa, cùng lúc ác tâm của tôi lên tới cực hạn, một dao đâm xuống, ghim trúng vào cái đuôi của nó.

Đuôi con kỳ nhông chỉ toàn thịt, đau tới cuốn lại, nhưng khí lực quả thực rất mạnh, tôi suýt chút nữa bị tuột dao găm trong tay. Lập tức tôi lao tới, tóm lấy cái đèn pin, nhưng không bắt được, kỳ nhông liền dứt đứt đuôi rồi lập tức bơi cách tôi sáu bảy thước, tới một đầu khác của phòng đá.

Mất đuôi tốc độ của nó rõ ràng chậm lại.

Tôi lắc lư chân vịt đuổi theo, nhiều lần tưởng là chộp được rồi nhưng cơ thể trong nước khó mà ra tay chính xác được, lúc nào cũng tự cho là nhất định làm được nhưng vẫn là để nó chạy thoát. Cứ như vậy truy đuổi mấy chục thước, tôi đã lặn được một lúc lâu nên thể lực không theo kịp được nữa.

Tôi nín thở trong giây lát, lấy tay túm lấy giá sắt để mượn lực, cố gắng bơi theo. Ánh sáng xanh bỗng nhiên ngoặt lại rồi không thấy đâu nữa, lao tới chỗ nó vừa biến mất, chỉ thấy trên nền đá xanh có một cái hốc, đưa tay vào trong lập tức sờ thấy cái đèn pin, nhưng không làm thế nào để bắt được nó.

Kỳ nhông nhất định đang bám chặt bên trong vách tường.

Tôi đạp hai chân lên vách tường hai bên, dùng toàn bộ trọng lượng cơ thể kéo về phía sau, bỗng cảm giác tay đột nhiên buông lỏng, đèn pin lập tức được lôi ra. Cả người trong giây lát bị hất nhào ra sau, va thẳng vào giá sắt.

Thật vất vả mới có thể ổn định được tư thế, nhìn lại thứ trong tay, dây buộc đèn pin là vải trên túi du lịch của Bàn Tử, nó chịu không nổi lực kéo liền đứt.

Dùng đèn pin soi vào trong hốc, ổ con kỳ nhông ở bên trong, nhìn bộ dáng này hẳn là không chịu ra, tôi cũng không buồn để ý tới nữa, vội vàng cầm cái đèn pin ra xem Bàn Tử có lưu lại gì bên ngoài không. Phía trên quả thực có khắc vài chữ :SOS, đi theo thủy triều siphon.

Lật lại đằng sau còn có một hàng chữ nhỏ, nhưng nhìn đã không còn nhìn rõ nữa.

Chương thứ 38

Ngọc mạch

Mấy chữ này được khắc rất cẩu thả, ký tự xấu xí, nhưng thấy rõ là xuống tay tương đối mạnh, tới mức biến dạng cả đèn pin, có thể đó là nguyên nhân mà nó chập chờn lúc sáng lúc tối như vậy.

Chụp đèn bên trên dính một tầng băng dính không thấm nước, màu xanh lục, con mẹ nó hóa ra là sắc xanh âm u kia từ đây mà ra! Tôi không khỏi thầm mắng một câu, Bàn Tử chết tiệt làm người ta mất hồn, dù có bất cứ ai nhìn thấy chắc cũng bị hù chết.

Mấy chữ này ý nghĩa vô cùng dễ hiểu, nhất định là báo cho tôi biết bọn họ vẫn còn sống, nhưng cần cứu viện, manh mối để tìm được bọn họ chính là đi theo thủy triều siphon.

Loại đèn pin này có thể dùng được không qua mười tiếng đồng hồ, giờ còn có thể phát sáng, ánh sáng vẫn phát ra bình thường nghĩa là nó được buộc lên người con kỳ nhông không lâu, bọn họ nhất định vẫn còn sống tốt.

Tên Bàn Tử này cũng thật ghê gớm! Con kỳ nhông này tới giờ mới xuất hiện, chắc chắn anh ta đã đoán được tôi sẽ hạ thủy. Nhưng nơi này cách nơi mất tích ít nhất hơn một nghìn thước, bọn họ làm thế nào mà không cần dưỡng khí vẫn tới được vậy?

Quên đi, tôi không muốn nghĩ nữa, chỉ thấy trong đầu đã rõ ràng, cuối cùng cũng buông được tảng đá trong lòng xuống. Có thể biết được bọn họ chắc chắn còn sống, những thứ khác cũng không quan trọng.

Hiện giờ trọng yếu nhất là phải cứu được người ra.

Trước đây ở trên bờ từng thấy thủy triều siphon, cũng đoán là hồ này có lỗ hổng thông với mạch nước ngầm. Hiện giờ nhìn lại, suy luận của mình quả có chính xác, mà chỗ bọn họ gặp nạn chắc xung quanh lỗ hổng ấy.

Bàn Tử nói cứ đi theo dòng chảy, nhưng nó còn chưa bắt đầu làm sao biết được hướng nào?

Tôi buông đèn pin xuống, định dùng tay cảm nhận dòng nước, nhưng nước hồ lanh ngắt như băng chỉ khiến tôi tê dại, bảo là cảm nhận cái gì nó gồ ghề thì được chứ còn dòng chảy thì hoàn toàn không thể, hơn nữa bằng mắt thường có thể thấy là nước rất tĩnh.

Nghĩ một lát, tôi liền nảy ra một biện pháp, bơi qua giữ lấy một tượng sắt trên thân lắng đầy cặn vật, khiến cho nó trôi nổi trong nước.

Dưới ánh sáng của đèn pin, màu trắng lơ lửng thành từng hạt li ti từ từ lan rộng ra, tôi quan sát kỹ, chúng lặng lẽ rơi vào trong nước, rồi sau đó chầm chậm trôi tới chỗ miệng giếng kia.

Quả nhiên là vậy! Nơi này có dòng chảy nhưng đặc biệt chậm, hướng vào bên dưới cái giếng.

Thủy triều siphon vẫn luôn xảy ra, chỉ có điều là rất yếu nên không thể phát hiện ra bằng mắt thường. Nhìn qua hướng kia, giờ áp lực bên kia khả năng rất thấp, có thể khiến cho nước ở đây bị hút sang nơi đó.

Nhìn vào đồng hồ dưỡng khí, còn một vài phút nữa thôi, tôi chỉ cầm theo một bộ thiết bị này, nếu như lần này tìm không được người có thể phải chờ A Quý mang trang thiết bị vào trong này mới có cơ hội thứ hai. Phải mất ít nhất hay tới ba ngày sau, tôi nhất định phải xác nhận xem bọn họ có thể kiên trì được trong từng ấy ngày hay không. Nếu được thì trong khoảng cách ngắn như vậy tôi hi vọng có thể đưa bọn họ ra trong một lần này.

Ước lượng thời gian một chút, sau khi đồng hồ bình oxy về số không, khí nén bên trong vẫn duy trì được hai mươi phút. Chỉ cần kiếm soát được thời gian trở về trong mười phút thì tôi có thể dùng thời gian còn lại để tìm kiếm, ít nhất cũng được mười phút.

Việc này không thể chậm trễ! Tôi cởi bình dưỡng khí trên người ra cầm ở tay, trước tiên phải chìm vào trong giếng, sau đó mơi có thể quay đầu lặn xuống dươi được.

Trong giếng vô cùng chật hẹp, cũng may là đào thẳng nên một mạch chìm xuống, nhìn vào đồng hồ đo độ cao, trong tích tắc áp suất đã vượt quá bảy atmospher, độ sâu gần chín mươi thước.

Đầu hướng xuống dưới nên người cảm giác rất khó chịu, trước là do tinh thần vô cùng căng thẳng nên mới không cảm thấy gì, giờ chỉ khẽ buông lỏng một lát đã khiến người cảm thấy buồn nôn, lập tức nghẹn lên đầy họng.

Hiện tại quyết không thể phun ra được, những bộ phận trong cơ thể tôi bị ức chế, nếu phun ra sẽ bị áp lực ảnh hưởng, ngược lại còn có thể xộc vào khí quản. Tôi đành phải gắng gượng nhịn vào, cảm giác phải dùng tới khí lực toàn thân, đem sự chú ý chuyển sang quan sát chỗ ánh sáng đèn pin chiếu tới.

Sau đó không lâu, nền gạch xanh biến mất hẳn, nham thạch hiện ra rõ ràng, có thể thấy công trình này chỉ được làm tới đây, bên dưới chính là khai quật đơn thuần. Cũng tại lúc đó, tôi bắt đầu cảm giác được có gì đó không ổn, nghe thấy một loại âm thanh vọng ra từ sâu bên trong kia, tốc độ dòng nước cũng từ từ thay đổi.

Càng nghe càng cảm giác bất thường, hình như là nước chảy thành tiếng vô cùng xiết. Đang định dừng lại nghe một cái, bỗng bình dưỡng khí phía dưới đột nhiên bị một luồng lực đạo hút đi.

Tôi dùng răng cắn chặt dụng cụ hô hấp, giữ cho ống thở nối với bình dưỡng khí, tình thế vật vã vô cùng, những rung động ấy càng lúc càng không thể khống chế được, dụng cụ hô hấp trong tích tắc liền tuột ra rồi chìm vào sâu bên dưới.

Tôi lập tức lao lên phía trước chộp lấy, may mà còn thi triển biện pháp an toàn, trên cổ vẫn quàng dây, liền kéo dây lôi bình dưỡng khí lên. Không ngờ là bình dước khí mới chỉ chìm xuống có không quá một thước mà biến mất khỏi tầm mắt tôi cực nhanh.

Trong tích tắc tôi chỉ kịp nhìn thấy đáy giếng, hóa ra bên dưới là một ống nước thẳng đứng, bình dưỡng khí bị cuốn vào trong dòng nước vô cùng xiết . Vừa định mắng một tiếng, cái dây trên cổ tôi vẫn còn nối với bình dưỡng khí bị nó kéo căng, lực hút rất lớn, suýt chút nữa cắt đứt cả cổ tôi.

Mắt thấy mình đang bị dòng nước xiết lôi đi, tôi cắn chặt răng, định dồn toàn lực trên cổ (tưởng là) kéo lấy bình dưỡng khí, nhưng chỉ được vài giây biết mình không có khả năng làm thế, hơn nữa vì mạch máu ở cổ bị chặn lại nên tôi bắt đầu có cảm giác thiếu máu lên não.

Tôi thầm chửi Bàn Tử, sao lại không báo cho tôi một chữ? Đành lấy tay tháo dây đai trên cổ ra, nhưng tháo ra rồi cũng chết? Lúc này tôi đã không thể suy nghĩ được gì nữa, buông lỏng tứ chi, mặc cho dòng nước cuốn đi, trước tiên cứ theo dòng nước chảy rồi tính. Dù sao thì Bàn Tử cũng bảo tôi đi theo thủy triều siphon.

Chưa kịp hiểu gì, toàn thân lại bị một luồng lực đạo mạnh mẽ kéo thẳng xuống, chỉ trong nửa nốt nhạc sau tôi đã bị cuốn vào trong thủy đạo, vật lộn theo dòng nước. Tưởng là sẽ duy trì được tư thế nhưng vai tôi liên tục va vào bốn phía xung quanh, cũng may thủy đạo chỉ rộng gấp hai ba lần người tôi, hơn nữa quanh năm bị dòng nước mài cho nhẵn thín. Nếu không thì chỉ cần bị đập vào vài cạnh mấp mô thì xác định là toàn thân trầy da tróc thịt.

Vừa khéo là bình dưỡng khí quay vòng vòng ở trong nước sau cũng cuốn tới bên cạnh tôi, vài giây sau liền va vào người tôi. Tôi lúc đó đã hết hơi, gần như không thể nhịn nổi, bất chấp tất cả vươn tay ra níu lấy nó.

Thật vất vả khi vật lộn với dòng nước xiết để tìm ống thở, sau khi tóm được rồi liền cắn chặt lấy. Còn chưa kịp hít vào một hơi phía trước lại tới một đoạn dốc nghiêng ngoặt xuống, cứ như thế lăn lộn vài vòng trong thủy đạo, suy nghĩ trong đầu như đạn bắn trúng vào vách tường liền rơi xuống.

Bị quăng quật tới sây xẩm mặt mày, mất một lúc lâu tôi không biết đang có chuyện gì xảy ra, chỉ theo bản năng ngậm chặt lấy ống thở, cũng không biết bị cuốn đi bao lâu, bên tai chợt nghe thấy một tiếng vang thật lớn, bình dưỡng khí va trúng phải thứ gì đó trên thủy đạo.

Tôi tỉnh táo lại, phản ứng tự nhiên cho tay lên che đầu, ngay sau đó bản thân cũng va vào vật đó nghe cộc một tiếng, đau tới thất điên bát đảo. Tôi lại không đàn hồi được như bình dưỡng khí, sau khi bị va trúng chỉ có thể bị dòng nước đè chặt vào đó. Cho tay lên sờ một cái liền phát hiện đây là một hàng rào sắt, cố gắng vận hết khí lực toàn thân xoay người sờ thử, không hề có một lỗ hổng.

Đây là đích tới sao? Ngẩng đầu nhìn lên, tứ phía không có bất cứ một đường ra nào, tất cả đều là vách đá rắn đanh, hoàn toàn là đường cụt.

Tôi không tin, điều chỉnh tư thế một chút, dùng đèn pin cẩn thận soi qua, quả thực không có gì cả.

Con mẹ nó! Quái thật! Bàn Tử nói là đi theo thủy triều siphon sẽ tìm thấy nơi của bọn họ, thế sao đây lại là đường cụt?

Suy nghĩ lại một chút, ngay tức khắc đổ mồ hôi lạnh đầy đầu, thầm nghĩ hỏng rồi, lẽ nào Bàn Tử ở giữa thủy đạo kia? Tôi vừa rồi bị va đập tới đần cả người, chẳng hay đã lao qua mất rồi?

Vừa nãy tốc độ quá nhanh, tôi cơ bản là không thể dừng lại mà nhìn tình huống xung quanh được, hơn nữa cũng không thể phản ứng kịp, làm sao mà dưới tình hình ấy phát hiện ra có cửa đi vào được. Cũng may là sau khi tôi cảm thấy mình bị cuốn đi cũng không mất bao nhiêu thời gian, nếu cái cửa đó ở trong thủy đạo thật thì khoảng cách hẳn là không xa.

Nơi này cỏ vẻ rộng rãi, đeo bình dưỡng khí lên lưng tôi bắt đầu thử ngược dòng nước quay lại. Nhưng mới đi được hai bước liền hiểu ngay ra cái nguy hiểm, dòng nước chảy quá nhanh! Ngay cả có chỗ để bám vào cũng phải dùng hết sức mới di chuyển được, huống hồ vách đá này trơn nhẵn vô cùng.

Tôi tung hết tất cả những phương pháp, thử đủ mọi cách thức nhưng kết quả vẫn thất bại. Lần thành công nhất là có thể bước được mười bước, nhưng chân vừa trượt lập tức đập ngay về vị trí cũ, mà sức lực của tôi cũng đang dần cạn kiệt.

Bị áp lực nước đè nặng, tôi càng lúc càng cảm thấy không ổn.

Nơi này thoạt nhìn thì rất bình thường, nhưng thực chất là đường cùng tuyệt đối, như một cái lồng giam không lối thoát. Bàn Tử sao không viết lại điều này?

Không thể thoát được rồi, lần này sẽ bị anh ta hại chết!

Nhìn đồng hồ dưỡng khí, trị số đã về không, rõ ràng là đã cạn từ bao giờ rồi. Tôi hơi hoảng, quay lại cổ sức lay lan can sắt, muốn xem có thể tháo nó ra từ đằng sau không, nhưng liền thấy là nó sắt đặc nóng chảy đổ lên đá, chắc chắn kinh người.

Phía sau một khoảng đen ngòm, đèn pin soi đi chỉ thấy thủy đạo chảy dốc xuống, dòng nước càng thêm xiết. E rằng chính vì nguyên nhân này người ta mới phải làm ra cái lan can sắt, sợ người bị cuốn vào trong thủy đạo càng thêm chật chội kia.

Nhất thời lúc đó tôi thật sự bị hoảng sợ, ngay cả hô hấp cũng không thể, vội hít sâu vài hơi, tự nhủ phải bình tĩnh.

Trước đây những lúc bị mắc kẹt tôi thường nghĩ ra biện pháp gì đó, vì con người là một loài mà chỉ cần một chút hi vọng là có thể khai triển tiềm năng trong người. Tôi bắt đầu cấp tốc nghĩ, đồng thời càng không ngừng tìm kiếm, mong thấy được một chút linh cảm.

Ban đầu tôi vẫn còn tràn trề tin tưởng, cho rằng trời không tuyệt đường sống của ai, nhưng khiến cho tôi tuyệt vọng là giờ và trước đây không giống nhau, mặc dù luôn ngời sáng tinh thần lạc quan nhưng đơn giản là sờ soạng cả buổi cũng chỉ thêm xác định được bản thân không có khả năng chiến thắng được dòng nước này, càng không thể gỡ cái lan can sắt kia.

Cứ liên tiếp suy nghĩ, nhưng trong lòng đã mơ hồ xuất hiện một ý niệm: lần này trốn không thoát được rồi!

Chắc chắn phải chết, không còn nghi ngờ gì nữa.


Chương thứ 39

Hang động kỳ bí.

Mấy phút tiếp theo, cả đời này tôi cũng sẽ không bao giờ dám quên.

Trong thủy đạo tối tăm mù mịt, không có lấy bất kỳ một con quái vật hay một thứ kinh khủng nào. Tuy rằng là ý thức của tôi không muốn chấp nhận nhưng sâu trong thâm tâm đã hiểu rõ, chỉ trong vài phút ngắn ngủi nữa thôi tôi nhất định sẽ chết, chính xác là phải chết, giờ muốn trốn cũng không thoát được rồi.

Cảm giác đáng sợ đó không thể dùng ngôn từ nào mà hình dung hết được.

Tôi bỗng thấy hối hận với tất cả những quyết định lúc trước, đồng thời lại muốn tự nhủ không được buông xuôi, phải hành động tới những giây cuối cùng, nhưng từ đáy lòng đã hoàn toàn tuyệt vọng, trong đầu không thể khống chế được những ý niệm cứ liên tục nảy sinh. Tiếp theo tới giai đoạn thất thần, trong tích tắc tôi nghĩ tới khi nổi lên mặt nước, tình hình mình sẽ như thế nào? Nếu như tôi chết, người nhà tôi sẽ phản ứng ra sao? Hối hận và sợ hãi khiến cho đầu óc tôi rối lên thành một mớ bòng bong.

Bình oxy đã sớm về không, không còn cách nào để xác định bao giờ tôi sẽ ngạt thở, chỉ có thể tận lực tới những giây cuối cùng, chờ cái thời khắc đó tới.

Rốt cuộc thì tôi gần như đã cảm thấy mình không thể hít thở được nữa. Dưỡng khí hít vào càng lúc càng ít, không gian thời gian như bị kéo dài ra. Sợ hãi khiến tôi bất giác bật khóc, cơ bản không thể trấn an được tinh thần, trong đầu chỉ có duy nhất một ý niệm: tôi phải chết.

Rất nhanh sau đó, khí oxy hoàn toàn cạn kiệt, tôi còn không ngừng hút trong ống thở, nhưng đã không còn lại gì. Nín ngụm khí cuối cùng, cố gắng nhịn tới cực hạn, trong đau khổ cùng cực, theo bản năng tôi mở miệng nuối không khí, một luồng nước xộc mạnh vào khí quản, cả người nhất thời co giật.

Đây là đang ở dưới nước, tôi không thể hít tới ngụm thứ hai vì phổi đã sặc đầy nước, sau khi sặc qua vài lần, cái cảm giác đau xót tê dại liền dâng đầy trong phế quản, chỉ cảm thấy ngực như muốn nổ tung.

Tôi không thể miêu tả cảm giác sau đó, cũng cơ bản là không biết mình giằng co trong bao lâu. Chầm chậm những xúc cảm đó từ từ xa dần, bốn phía tĩnh lặng, trước mắt ánh sáng từ từ thu hẹp, bên tai nghe thấy một chút thanh âm kỳ quái, hình như có ai đó đang nói chuyện, vừa giống như tiếng nước chảy.

Trong vài tích tắc sau, hết thảy đều tối mịt.

Một khắc đó, tôi đã nghĩ là mình chết rồi, không thể có bất kỳ một khả năng thay đổi nữa. Không phải là chết trong tay bánh tông, ngược lại là bị chết chìm. Ông nội nói thực là đúng, chết trong tay bánh tông cũng là chết, mà chết đuối cũng là chết, vì sao phải sợ bánh tông mà không sợ nước chứ? Người thực là một sinh vật nực cười.

Cũng may cảm giác tĩnh lặng cuối cùng cũng không đến nỗi tệ, nếu lúc chết ai cũng được bình thản như vậy thì đối với cái chết cũng không quá đáng sợ. Ngược lại khoảng thời gian trước khi vong mạng dường như khó có thể chịu đựng được.

Lần thứ hai tỉnh lại, tôi còn cảm thấy có một chút kinh ngạc, nhưng mất một thời gian rất dài, năng lực suy nghĩ không thể nào hoạt động được, do đó cảm giác kinh ngạc kia không cách nào hiểu nổi. Cơ bản là không biết diễn đạt làm sao.

Từ từ từng bước, ý thức mới khôi phục được như cũ.

Cảm giác đầu tiên của tôi là đau, đau kinh khủng khiếp từ trên tay, sau đó chầm chậm lan ra, cuối cùng là tới phổi. Hình như trong phổi có giăng một cái lưới sắt, mỗi lần hô hấp là toàn thân lại muốn chết.

Tôi dồn hết sức lực để chống lại cơn đau đang giày vò cơ thể, cũng không biết qua bao lâu, mới phát hiện mình đã thích ứng được. Tiếp theo, mọi cảm giác trên người cũng dần hồi phục.

Hết thảy những gì vừa trải qua giờ mới hình thành lại trong đầu, từ lúc ở Phòng Thành Cảng tới đây, hạ thủy, thấy lục quang kỳ quái ở cổ trại dưới đáy hồ, phát hiện ra tòa nhà Hán cổ rồi tới tượng sắt, chui vào trong giếng, sau cùng là ngạt thở... Vân vân và mây mây, từng việc từng việc một lần lượt nhớ ra. Lập tức trong lòng bỗng thấy lạ, mình lúc đấy hẳn là phải chết không còn nghi ngờ gì nữa, tại sao có thể tỉnh lại được?

Trong một tích tắc, cảm giác đây giống như một giấc mơ, nói không chừng là tôi vẫn đang ngủ, chết chìm chẳng qua chỉ là một cơn ác mộng, nhưng cả người đau nhức làm cho tôi hiểu là không phải vậy. Bản thân biết chắc mình đã được cứu.

Thử động tay một cái, cảm giác vô cùng chật vật, nhưng có thể thấy được khu vực xung quanh tương đối ẩm, như là đang nằm trên một tảng đá ướt át, tai và mắt bắt đầu lấy lại được phản ứng, nghe được có tiếng nói, đông thời nó cũng dần trở lên rõ ràng, là tiếng người hát khẽ , hơn nữa....

Đây là tiếng của Bàn Tử!

Giọng hát hết sức khó nghe, nhưng tôi lập tức bị nó làm cho xúc động, liền dùng toàn bộ khí lực trong người ngẩng đầu nhìn, kết quả là phải thốt lên trong đau đớn.

Tiếng hát kia trong giây lát liền ngừng bặt, Bàn Tử nói:" tỉnh rồi, tỉnh rồi!" Tiếp theo trước mắt sáng lên, hiện ra đầu tiên là khuôn mặt to bè đầy nghi hoặc của Bàn Tử trước mắt mình. Đồng thời tôi cũng nhìn thấy Muộn Du Bình đang đứng sau lưng Bàn Tử, giơ cây đuốc lên soi.

Tôi nhìn đầu hai người ấy, thoạt tiên còn không thể tin được. Bàn Tử bắt đầu nói chuyện, đầu óc tôi vẫn chưa thông suốt được những gì anh ta nói, đây không phải là ảo giác, tôi thực sự được gặp lại bọn họ! Trong giây lát mà bao nhiêu cảm xúc bỗng trở lên hỗn độn, trước còn giữ trong lòng một nỗi sợ hãi, hi vọng, lo lắng mãnh liệt, tất cả những tâm trạng đó tôi cuối cùng cũng có thể buông tha được rồi. Không biết nên biểu đạt thế nào cho phải, nước mắt chỉ chực rơi xuống, nhưng không hiểu sao bất giác bản thân lại cười rộ lên.

Một người đã trải qua nhiều chuyện như vậy, vừa chịu nỗi cô đơn và hoang mang dữ dội, rồi qua cơn tuyệt vọng khi cận kề cửa tử, sau đó lại phát hiện mình vẫn bình yên vô sự, loại cảm xúc hạnh phúc này dễ khiến cho người ta phát điên được. Nhưng tôi vẫn đang ngổn ngang trăm mối trong lòng, cũng không phải vì điều này, tôi thầm nhủ: bất luận là bây giờ có gặp phải chuyện gì, rốt cục thì cũng gặp được bọn họ, chung quy thì mình cũng không phải một thân một mình nữa! Thật tốt quá rồi!

Vừa cười vừa run rẩy chắc nhìn kỳ quái lắm, Bàn Tử rõ ràng là nghĩ tôi đang phát điên, lập tức đỡ tôi dậy, không nói lời nào mà tự nhiên tát cho tôi hai cái, sau lấy tay cố gắng vỗ lưng cho tôi, nói:" hít thở! Hít thở!"

Anh ta hạ thủ không lưu tình, tôi chỉ cảm thấy ong một tiếng, bao nhiêu cảm xúc háo hức bị đánh bay hết, lại bị Bàn Tử vỗ vài cái, bỗng nhiên cảm thấy vô cùng buồn nôn, bắt đầu vừa ói vừa ho khan, cũng không biết nhổ ra cái gì nữa.

Sau khi ói xong, tôi khó khăn ngoảnh lại nhìn về phía bọn họ, thị lực càng lúc càng rõ ràng, các âm thanh cũng trở lên có trình tự hơn.

"Sao rồi? Còn khó chịu không?" tôi nghe thấy Bàn Tử hỏi.

Sợ anh ta lại vỗ mình tiếp, tôi lập tức xua tay ra hiệu, nhưng vẫn chưa nói nên lời.

Bàn Tử thở phảo nhẹ nhõm nói:" cảm tạ ông giời, cậu đã tỉnh lại. Con mẹ nó! Lão tử còn tưởng cậu lần này thành người thực vật kia đấy, nếu vậy lão tử đây thật mang trọng tội"

"Chuyện gì xảy ra vậy? Tôi sao lại không bị chết?" theo bản năng tôi liền hỏi.

"Cậu nên đi hỏi Diêm Vương thì tốt hơn." Bàn Tử nói, sau đỡ tôi tựa vào vách đá, để tôi thoải mái một chút.

Tôi cũng tình táo lắm rồi, vừa nhìn về phía bọn họ, hai tuần trời không gặp, hai người họ đều đen như công nhân lò than vậy, mỗi người chỉ mặc độc một cái quần đùi, vô cùng thảm hại, mặt mũi lởm chởm râu ria, hơn nữa lại gầy không ít. Khiến tôi thở phào được là tuy nhìn bộ dáng rất chán nhưng khí sắc lại không tệ, rõ ràng là không bị thương ở đâu cả.

Quay đầu nhìn xung quanh, xa xa có một đống lửa nhỏ, không biết dùng cái gì để đốt, soi sáng ra tứ phía. Nơi này giống như một cái hang nhân tạo bằng phẳng, khoảng ba mười thước vuông, đứng lên đầu có thể chạm trần, chung quanh nước dột như trời mưa vậy, trên mặt đất ẩm ướt vô cùng. Nham thạch hiện ra một màu xanh sẫm đan xen vào nhau, dùng đèn pin soi thấy rất đẹp. Bên kia còn có một cái cửa động cao nửa người tương đối dài và hẹp, như bị người ta dùng đao bổ ra, không biết thông tới nơi nào.

"Chết tiệt, đây là nơi nào? Các anh đã xảy ra chuyện gì vậy? Khiến tôi lo gần chết, còn tưởng là mấy người ngỏm luôn rồi kia." tôi mắng.

Bàn Tử méo miệng nói:" chuyện dài lắm, ban đầu còn lo là cậu không tìm được chúng tôi. Như thế nào vậy? Cậu có phải đã gặp người đưa tin của tôi mới tìm được tới đây đúng không?"

Nói tới cái gọi là "người đưa tin" tôi lại bốc hỏa lên đầu, hận một lỗi không thể bóp chết Bàn Tử được, nhưng không có khí lực đành nhịn lại, chỉ mắng:" con mẹ nó, người đưa tin của nhà anh thật không có đạo đức nghề nghiệp, thiếu chút nữa đã đem tôi hại chết."

"Thế quái nào! Tôi biết là nó được việc mà." Bàn Tử hỏi, "cậu mau nói đi, cậu làm sao mà tới được đây?"

Tôi nghe xong càng tức, thầm nói anh hỏi tôi, tôi biết quái đâu được?, "tôi không biết, không phải là mấy người cứu tôi sao?"

Bàn Tử đang hứng khởi, nghe tôi nói câu đó đột nhiên mặt nghệt ra, "chúng tôi cứu cậu?"

"Đúng vậy mà!" tôi liền kể qua cho họ nghe quá trình mình tìm được con kỳ nhông kia, sau đó xuống dưới giếng, toàn bộ mọi chuyện từ lúc đó tới giờ.

Bàn Tử nghe xong liền ra vẻ kỳ quái, ngoảnh đầu lại nhìn Muộn Du Bình, Muộn Du Bình ngồi trên tảng đá phía sau anh ta, sắc mặt âm trầm khó hiểu.

Tôi lấy làm lạ hỏi:" sao vậy? Có vấn đề gì à? Chẳng lẽ không phải hai người cứu tôi?"

Bàn Tử chậm rãi lắc đầu đáp:" cậu làm thế nào tới được nơi này, chẳng lẽ hoàn toàn không biết được à?"

Tôi không hiểu gì lại nói:" biết cái gì?" . Nhìn biểu cảm trên nét mặt của bọn họ, cảm giác có gì đó không ổn, lập tức hỏi, " rốt cuộc làm sao vậy? Trên người tôi đã xảy ra chuyện gì à?"

Bàn Tử chán nản ngồi dưới đất, mắng một tiếng con mợ nó, như kiểu bị đánh ngã vậy, thở dài nói:" cậu đã không biết thì cũng tôi lại càng mù tịt luôn."

Tôi không khỏi nổi nóng, mắng:" rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy? Con mẹ nó, anh đang đùa cái quỷ gì vậy? Mau nói cho tôi biết."

Bàn Tử ra hiệu, bảo tôi đi mà hỏi Muộn Du Bình. Tôi đưa mắt nhìn về phía anh ta, liền thấy anh nói:" đại khái là năm giờ trước, cậu đột nhiên xuất hiện ở chỗ này, hôn mê sâu, không còn cảm giác. Bọn tôi tiến hành sơ cứu đơn giản cho cậu rồi giờ thì cậu đã tỉnh lại."

Tôi chờ Muộn Du Bình nói tiếp, nhưng anh ta lại im lặng.

"Không có?" tôi kinh ngạc hỏi.

"Không." anh ta chán nản nói.

"Anh không nhắc tới làm thế nào hai người cứu được tôi." tôi nói.

Bàn Tử nhìn tôi, "cậu nghe không đúng trọng tâm gì cả, chúng tôi cơ bản là không cứu được cậu. Năm giờ trước, cậu đột nhiên xuất hiện ở nơi này." anh ta nói từng chữ một, "đột nhiên xuất hiện, nói cách khác là vốn dĩ chỗ này không có cái gì, bất thình lình cậu tự nhiên tới nằm ở đây."

Tôi nhíu mày, mất một lúc tôi mới hiểu được ý của anh ta, vội hỏi:" anh nói là tôi tự mình xuất hiện ở đây?"

Bàn Tử gật đầu, "tôi và Tiểu Ca đang lui cui trong động kia, chỉ thỉnh thoảng tôi ra đây lấy nước. Lúc phát hiện tại đây bỗng có thêm một người, tôi còn bị dọa cho sợ gần chết, nhưng Bàn gia này lập tức nhận ra là cậu, tôi liền đi gọi Tiểu Ca tới, cùng nhau cứu chữa cậu sống lại. Cậu lúc đó đã ngạt thở, cho nên nếu có muốn tìm một ân nhân cứu mạng thì Bàn gia tôi cũng coi như là có một chân trong đấy. Sau đó thì sợ cậu bị gãy xương nên chúng tôi cứ để cậu nằm đây không di chuyển, đợi tới tận khi cậu tỉnh lại."

Tôi nhìn vào mắt Bàn Tử, hiểu là anh ấy không nói đùa, nhất thời rơi vào trầm tư.

Thật đúng là không nghĩ tới chuyện lại phát triển theo chiều hướng đó, tôi còn tưởng sau khi bị hôn mê có kỳ tích xảy ra, được Bàn Tử và Muộn Du Bình tìm thấy, sau đó bọn họ cứu tôi sống lại, hóa ra không phải là như vậy. Nhưng tôi không thể nào trong lúc đang mê man bất tỉnh như vậy có thể bò vào đây được, cũng không thể dịch chuyển tức thời tới nơi này. Đây là chuyện quái gì?

Chẳng lẽ có người khác đã cứu tôi?Ai đó đã cứu tôi lên, rồi đưa tới nơi này?

Đó là một đáy giếng bỏ hoang, không thể có người nào vô tình đi ngang qua được, nói cách khác là có người đã đi theo tôi.

Tôi nói cho Bàn Tử suy nghĩ của mình, hỏi anh ấy có thấy dấu vết gì lúc đó không, Bàn Tử và Muộn Du Bình lại càng không có phản ứng nào, hình như không đồng tình.

Bàn Tử cười khổ một tiếng, vỗ vai tôi, lớn tiếng nói:" chó má lắm! Chuyện đó không thể xảy ra đâu, nếu có người có thể đưa cậu tới nơi này, con mẹ nó, vậy thì xác định trước đó không phải là "người"."

"Vì sao?" tôi hỏi.

Bàn Tử cười cay đắng nói:" cậu có thể đứng lên không? Tôi đưa cậu đi quanh động tham quan một vòng, cậu tự mình xem sẽ biết vấn đề nằm ở đâu."

Chương thứ 40

Vấn đề trong hang động

Bàn Tử làm ra vẻ thần bí, mà bên kia Muộn Du Bình cũng trước sau không nói câu nào.

Tôi không biết Bàn Tử rốt cuộc đang giở trò gì, nhưng nhìn thái độ của Muộn Du Bình thì có thể thấy, anh ta cũng không phủ nhận cách nói của Bàn Tử. Lòng thầm nghi hoặc, tôi quyết định đầu tiên chưa cần tính toán vội, cứ nhìn qua tình hình rồi hãy bàn tiếp.

Nghĩ là như vậy, nhưng có lòng như không đủ lực, tôi được Bàn Tử dìu đứng dậy, rung lẩy bẩy, phải ôm lấy cổ anh ta mới có thể không ngã khụy xuống.

Động này chỉ rộng khoảng ba mươi mét vuông, kỳ thực không có gì để tham quan, cầm đuốc đi quanh một vòng, đều là dấu tích của con người làm ra, ngoài ra không có gì khác cả. Đặc biết nhất là mặt trên có những dấu vết đen như mực, nham thạch nơi này không biết chứa khoáng vật gì bên trong.

Tiếp theo Bàn Tử dìu tôi cúi người đi qua một đường đá như được đao chém thành, tới động bên kia.

Ở đây còn có một cái động thiên khác, so với chỗ tôi vừa ở còn rộng gấp đôi, bên trong chất đầy đồ đạc, đều đã bị rỉ sét hết cả, giá gùi gỗ còn cả đá xanh chất thành một đống, và rất nhiều loại đá mà tôi không biết.

Khiến tôi phải giật mình là trong góc động này có đặt mấy cái giá cao tới trần hang, bên trên đặt rất nhiều tượng sắt. Trần động và vách tường đầy những đường vân màu xanh lục, dưới ánh sáng đèn pin càng thêm rõ nét, lấp lánh như ngọc lưu ly vậy.

Ở giữa hang động có hột cái bình úp ngược, bên trên là một tượng thần, không biết là thần gì, đằng trước có vài cái lư hương, quang cảnh rất đơn sơ.

"Con mẹ nó, rốt cuộc đây là nơi quỷ nào vậy?" tôi kinh ngạc hỏi, hình như hang động này còn đang thi công, mới tiến hành được một nửa, bao nhiêu công cụ dụng cụ, nguyên vật liệu vẫn còn chất thành đống ở đây.

"Bọn tôi đoán là nơi này có thể là một hầm mỏ." Bàn Tử nói

"Hầm mỏ?" tôi nhìn quanh bốn phía, " hầm mỏ gì?" lại nhìn qua mấy tượng sắt, nói tiếp:" chẳng lẽ là mỏ sắt?"

Bàn Tử lắc đầu:" con mẹ nó, so với mỏ săt còn đáng giá hơn nhiều! Cậu tới đây mà xem." nói rồi anh ta chỉ vào một vách đá đầy vân xanh, "cậu có biết đây là loại đá gì không? Thử nghĩ mà xem, quanh đây có nhiều nhất là cái gì?"

Tôi chưa hiểu hết những gì anh ta nói, sờ những đường vân trên mặt đá, cảm giác nó đặc biệt ôn nhuận nhẵn bóng, tựa như da mặt của một cô bé gái. Bàn Tử không nói bừa, quả thật là không phải đá thường. Nghĩ một lát, trong đầu hiện lên một ý niệm:" thế quái nào! Chẳng lẽ đây là phí thúy*?"

Bàn Tử gật đầu:" tôi không phải dân trong nghề, nhưng theo như tôi thấy thì đây dù không phải là phí thúy thì cũng không kém gì ngọc thạch. Đây là một nguồn trữ ngọc vô cùng dồi dào."

Tôi a lên một tiếng, giật mình nghĩ tới lúc trước ở cái trại đá dưới đáy hồ có thấy bao nhiên là hiện tượng kỳ quái.

Cái sơn động này xem ra cũng là một phần bí ẩn của cái tòa nhà cổ quái kia, trước vẫn luông hoài nghi trong núi này có thứ gì không bình thường, cảm giác khả năng lớn là cổ mộ, không ngờ là đây thực chất là một mỏ ngọc.

Thật bất ngờ, có điều là tới đây cũng đã hiểu thông suốt rồi.

Nơi này có một mỏ ngọc, cùng với cổ mộ thì không khác nhau là mấy, nhưng mỏ ngọc trị giá cao hơn, cổ mộ hoàn toàn không thể so sánh được. Bảo vật bằng ngọc gần như là vô giá, nắm trong tay một mỏ ngọc, giàu phải nhất nước chứ chẳng chơi.

Bởi vậy mà, bên trên kia phải sắp xếp đủ loại bảo vệ nghiêm mật, chú ý từng li từng tí một, nếu như là để lén đào mỏ ngọc, không phải là một tòa nhà, có xây cả một tòa thành cũng vẫn còn kém.

Một tòa nhà cổ được xây ở vị trí này, thậm chí có thể là tộc trưởng người Dao cũng có cổ phần trong này, đồng thời sử dụng đặc quyền của mình để thi hành chế độ bảo vệ, mỏ ngọc giá trí quá lớn, không có bất kỳ chính quyền nào lại dứt được sự cám dỗ của nó.

Về phần vì sao phải giấu nó đi? Đơn giản là nếu như bị những thế lực khác biết được, chắc chắn là sẽ phát binh chiếm đánh. Thứ này đổi thành tiền còn có thể mua được bao nhiêu khối thuốc phiện?

"Nơi này phát sinh chuyện, sợ rằng nó có liên quan tới mỏ ngọc này. Vì thứ này mà tồn tại âm mưu kinh khủng gì thì cũng không xem là bất thường được, giá trị của nó lớn như vậy mà." Bàn Tử nói.

"Vậy chuyện gì xảy ra với những thứ này?" tôi nhìn vào trong góc đặt giác sắt và hơn mười tượng sắt nằm ngang bên trên, hỏi, " chẳng lẽ đây cũng là công cụ sao? Bọn họ ghét quản đốc hà khắc nên đã làm ra mấy cái tượng hình dạng giống quản đốc, tiếp đó là mỗi ngày lại đem ra đập sao?"

Bàn Tử cười nửa miệng, cảm giác không có sức mà đùa nữa, nói:" tôi cũng chẳng rõ nữa, có điều cậu xem mấy thứ này, đều là đồ đúc, bên cạnh còn có vũ khí, tôi cho rằng những tượng sắt này giống như hàng hóa lớn mà chúng ta vận chuyển vậy, chỉ dùng để di rời đồ đạc. Khoáng thạch đào ra sẽ được đưa thẳng lên trên tượng sắt mang tới nơi nào đó để nấu chảy ra. Lúc đó rối loạn, làm vậy vừa có thể đề phòng trên đường đi có chuyện bất thường khiến ngọc bị vỡ. Hơn nữa bề mặt có khắc hoa văn, chống va đập, có thể tái chế làm vỏ đạn."

"A!" tôi hít sâu một hơi, thầm nghĩ hóa ra là như vậy.

Rắn có đường rắn, người như bọn họ vừa nhìn đã hiểu được ngay. Tôi trước còn cảm thấy vô cùng buồn bực, không khỏi có chút thất vọng, ban đấu còn tưởng là những đằng sau những tượng sắt này còn ẩn chưa những bí mật sâu xa gì khác.

Nghĩ lại một lát thì bỗng thấy có điểm bất thường. Đội khảo cổ kia vớt những khối sắt này lên, lẽ nào chính vì ngọc thạch bên trong nó?

Không thể nào, tuy là ngọc thạch có giá trị lớn, nhưng với tiềm lực quốc gia khi đó, cũng không tới mức nghèo mà phải phái cả một đội khảo cổ đi vớt, chẳng lẽ mấy thứ này còn có công dụng khác?

Bàn Tử lại cười cười, nét mặt không thoải mái. Bám vào vách động chậm rãi đi quanh một vòng, tôi lại nói:" có điều là xem quy mô của mỏ ngọc này thì bọn họ hình như chưa đào ra được bao nhiều, khai thác sâu nhưng không cao!"

Mỏ ngọc quy mô vốn không quá lớn, đây không phải là mấu chốt của vấn đề." Bàn Tử đỡ tôi một chút. " cái mà Bàn gia tôi muốn cho cậu xem không phải là mấy thứ này."

Tôi quay đầu nhìn bốn phía, cũng không thấy có chỗ nào hấp dẫn, liền hỏi:" anh muốn cho tôi xem cái gì?"

Bàn Tử giơ cây đuốc lên hỏi lại:" cậu không phát hiện được gì sao? ở đây không có cái cửa ra nào cả."

Tôi bị chấn động đột ngột, một giây trước vẫn còn không hiều được ý của anh ta, giờ mới vỡ nhẽ. Vội vã đưa mắt nhìn ra xung quanh toàn bộ hạng động, vừa liếc mồ hôi lạnh tự nhiên chảy xuống.

Quả thực hai cái hang động này đều không lớn, vừa rồi lượn một vòng xem, không thấy có bất lỳ một kẽ hở nào để đi ra.

Hang động hơn ba mươi thước bên kia chỉ có một cái hỗ hổng vô cùng đơn giản, chắc chắn là không phải cửa ra, nơi này có rộng hơn, khả năng cũng không có bất kỳ một lối ra nào.

Tôi rối hết cả trí lên, lập tức xoay người, Bàn Tử đỡ tôi đi quanh hai bên hang động một lần nữa. Lúc này chỉ chú tâm vào việc tìm cửa ra, sau khi lượn xong, cảm giác cả người không lạnh mà run, gần như không thể thốt ra được lời nào.

Bàn Tử nói không sai, nơi này không có bất kỳ một cửa ra nào cả. Toàn bộ vách động đều là đá nguyên khối, ngay cả một khe hở cũng không tìm thấy.

"Chuyện gì xảy ra vậy?" tôi nhìn về phía Bàn Tử, "tại sao lại thế?"

Bàn Tử lộ vẻ đau khổ cũng không nói lời nào.

Tôi vô thức nhìn lên trần hang, vách động không có thì chỉ có thể là ở trên trần thôi.

Trần hang vô cùng thấp, vươn tay lên có thể chạm tới được, nhìn quanh một vòng rồi sờ thử chỉ thấy toàn là đá, không có gì cả, tổng thể chỉ là một khối nham thạch không hơn không kém.

Bàn Tử thở dài, xua tay nói:" không cần nhìn nữa! Trên dưới, trong ngoài tất tần tật từng phân từng phân một chúng tôi đều đã tìm hết rồi, hai hang động này hoàn toàn khép kín."

Tôi không tài nào chấp nhận nổi điều đó, :" sao có thể ?"

Bàn Tử thở dài nói:" tôi không biết, nhưng đây là sự thật. Động này hình như là..." Bàn Tử dừng một lát, giọng nói có chút lưỡng lự, "là hoàn toàn phong bế, có vẻ là nó được đào từ trong ra."

Tôi ngây người ngẩn ngơ, lắc đầu nói:" tuyệt đối không thể như vậy, nếu thế chúng ta vào bằng cách nào chứ?"

Bàn Tử để tôi tựa vào vách đá, cuối cùng nhìn tới Muộn Du Bình, lắc đầu đáp:" không biết nữa."

Chắc mọi người cũng biết ngọc phỉ thúy rồi, nhưng mình vẫn nói qua một tí về nó nhé :D

Phỉ thúylà tên gọi khác của Cẩm thạch khi Cầm thạch đạt chuẩn với các yêu cầu :

- Có màu Lục táo (Lý)
- Trong suốt không có tạp chất khác.
- Xuất xứ ở Miến Điện (Do nham thạch trong lõi trái đất qua hàng triệu năm tác động với nhiệt độ, áp suất và thành phần cấu tạo hóa học địa chất trong lòng đất thì chỉ có 2 nơi này mới tạo thành được loại ngọc đạt chuẩn phỉ thuý).

Chương thứ 41

Không gian khóa kín.

Biểu cảm của Muộn Du Bình cũng khác với lúc trước, anh ta có điểm rất kỳ quái, không buồn di chuyển chỉ ngồi tựa vào trong góc, quay đầu nhìn về phía tôi, từ tốn nói một câu:" tôi không có ấn tượng gì cả, nhưng tôi biết chuyện này chỉ vừa mới bắt đầu."

Trong cái không khí hết sức quỷ dị này, Bàn Tử và Muộn Du Bình đem những chuyện vừa trải qua thuật lại cho tôi nghe một lần, những tưởng là sẽ thấy được một cố sự vô cùng phức tạp nhưng cái không ngờ là qua lời kể của bọn họ lại rất bình thường.

Sau khi tôi rời đi, bọn họ hành động không khác mấy so với những gì tôi dự tính, bắt đầu dùng những dụng cụ thô sơ mà A Quý mang tới để tiến hành trục vớt. Những hài cốt trên bãi đá được tìm thấy dưới những cánh cây khô, dự là có liên quan tới thủy triều siphon, cuối cùng thi thể đều được phát hiện trong những cành cây còn đồ đạc lại bị vứt ở nơi khác, đó là lý do mà chúng bị mắc trên hàng rào kia.

Lần hạ thủy cuối cùng trước khi mất tích, Bàn Tử là người đầu tiên. Lúc đó anh ta đã chuẩn bị nổi lên, nhưng thấy có cái gì lóe lên trong phạm vi đèn pin, hình như là một vật kim loại.

Hạ thủy mục đích chính là để vớt đồ nên tất nhiên là anh ta lập tức bị thứ kia hấp dẫn, nhưng tới khi bơi đến đó, lại thấy không có gì cả, duy chỉ có một khối đá lớn.

Dưỡng khí trong mũ lặn đã dùng hết, Bàn Tử cũng không thể nhìn kỹ trong kẽ đá kia, tưởng vật kia chỉ là một khối kim loại nhỏ hoặc là thủy tinh, nên không để ý nữa, chuẩn bị bơi lên trên.

Đúng lúc đó đột nhiên cảm giác được "có thứ gì cắn mình một cái", tay lập tức tê dại, mấy giây sau lan ra khắp người. Bàn Tử thầm nhủ không hay rồi, tưởng là vẫn có thể lao lên mặt nước, nhưng đã không còn kịp, trong vài giây tiếp theo liền ngất đi. Tới khi tỉnh lại đã thấy mình nằm trong thạch động này.

Tình trạng của Muộn Du Bình so với anh ta có phức tạp hơn một chút, nhưng cũng gần như thế. Muộn Du Bình đi tìm Bàn Tử vì thế hạ thủy rất vội, xuống nước chưa bao lâu đột nhiên cảm thấy có điểm không bình thường, tính quay đầu trở lại nhưng đã chậm, ở dưới nước dù thân thủ của anh ta có tốt tới đâu cũng vẫn bị hạn chế.

Muộn Du Bình nói là:" tôi cảm thấy lưng mình có cái gì đó di chuyển, lúc hối đầu thì đã chậm, tỉnh lại tôi cũng thấy mình xuất hiện ở chỗ này."

Trong lòng tôi thầm cảm thấy khó hiểu, là sao có thể phát sinh ra chuyện hoang đường như vậy?

Trong tích tắc liền mất đi ý thức, sau đó tỉnh lại thấy bản thân xuất hiện ở một nơi khác, đây là chuyện người ngoài hành tinh à. Chẳng lẽ nơi này là bên trong đia bay sao?

Lần thứ hai nhìn về phía hang động, bốn phía đều là nham thạch, nếu quả thật là đĩa bay thì cũng phải là của thời kỳ đồ đá.

Tôi cảm thấy sự tình càng lúc càng trở lên khó tin, con mợ nó! Bàn Tử và Muộn Du Bình bị thứ gì đó "cắn" một cái, mất đi tri giác, nếu như đó là sinh vật độc thì hẳn là cả hai sẽ chết chìm, nhưng bọn họ trái lại bỗng xuất hiện ở đây, nhìn thế nào thì cũng không phải hiện tượng thần bí, kiểu như là có người đánh ngất bọn họ sau đó đưa tới đây vậy.

Nhưng, nếu như là vì thế thì giải thích làm sao tình cảnh hiện tại bây giờ? Đây là một hang động hoàn toàn bị khóa kín, người nào lại có khả năng đi xuyên qua nham thạch để nhét chúng tôi vào đây? Lưu Khiêm* ư?

Lưu Khiêm* : Luchen- nhà ảo thuật tài ba người Đài Loan. Sinh năm 1976, Lưu Khiêm chưa hề học qua bất cứ một khóa ảo thuật nào mà chủ yếu là tự học, tự mày mò, sáng tạo và thành công. Anh là nhà ảo thuật Trung Hoa đầu tiên được mời sang Mỹ biểu diễn, được đài truyền hình Nhật Bản mời sang thực hiện một phóng sự nhiều tập giới thiệu những màn biểu diễn trên đường phố. Dĩ nhiên, với tài năng của anh, Lưu Khiêm đã giành được rất nhiều giải thưởng danh giá của ảo thuật.

Bàn Tử nhớ lại tình hình khi đó, vẫn còn chưa hết nghi ngờ, "tôi rất muốn không tin, lúc đó tầm nhìn dưới nước đúng là rất kém, trước khi bị đánh tới hôn mê vẫn hoàn toàn tỉnh táo, tôi đã quan sát kỹ xung quanh, nhưng không có gì hết cả."

"Có lẽ là một loại trùng hoặc là cá, hình dạng tương đối nhỏ nên chỉ cần đậu lên trên lưng anh, anh chắc chắn không thể phát hiện được, trên người anh có vết thương nào không?" tôi hỏi, không thể nào vô duyên vô cớ mà bị đau được, nếu bị cái gì đâm trúng, chắc chắn là sẽ để lại vết.

"lúc mới tỉnh lại tôi có nhìn rồi, không có bất cứ dấu vết nào cả." Bàn Tử cho tôi xem chỗ anh ta bị cắn, quả thực là chẳng thấy gì cả. "tôi nghĩ rằng đó không phải là trùng, côn trùng nào dám cắn Tiểu Ca chứ?" tôi tắc lưỡi một cái, chuyện này quá tà môn, nói không thông! Tất cả tình tiết đều không có gì rõ ràng, hoàn toàn không thể là do "người" làm. Thực sự có thần hồ đang trêu đùa chúng ta sao?

Bàn Tử tiếp tục nói với tôi, ở đây chỉ có một chỗ khả năng ra vào được chính là cái khe hở bé bằng cổ tay trên đỉnh hang kia, đó là chỗ tôi phát hiện ra con kỳ nhông đó. Phần lớn nước dột đều là từ cái khe kia chảy xuống, bọn họ hai tuần qua cơ bản là không có gì để ăn, chỉ dựa vào nước uống để duy trì sự sống, Bàn Tử đã hao mất sáu cân, da trên người đều chảy xệ xuống. Vì không tiêu hao thể lực nên thời gian chủ yếu đều là ngồi thiền bất động.

Ngoài kia còn có một vài mảnh gỗ dùng làm gùi, có thể dùng để nhóm lửa, mỗi ngày đốt một ít, cũng may dưỡng khí không thành vấn đề.

Trước khi tôi đột nhiên xuất hiện ở đây, bọn họ đã tưởng là tôi thấy được ký hiệu trên người con kỳ nhông, vì thế mới tới được, động thời còn biết cả cách vào. Không ngờ là ngay cả tôi cũng không biết mình tới đây như thế nào, hại Bàn Tử bị buồn nhẹ.

Tôi hít một hơi, nhớ ra một chuyện, hỏi:" anh nói là hai người đột nhiên bị hôn mê, vì sao lại bảo tôi đi theo thủy triều siphon? Các anh làm thế nào biết được dòng nước có liên quan tới chuyện này?

Bàn Tử nói:" do tiếng động, tôi không biết đây là nơi nào, nhưng tôi biết lỗ hổng thủy triều ở quanh đây, vì đến buổi tối, bên ngoài nước dột theo quy tắc sẽ thu hẹp lại, thanh âm cũng rất rõ ràng, giống như là tiếng hô hấp vậy. Chỉ có cách thủy triều siphon rất gần mới có thể nghe được biên độ lớn như thế. Nếu cậu phát hiện ra con kỳ nhông, bị dẫn tới bên cạnh lỗ hổng thủy triều, khả năng sẽ thấy được nơi dẫn tới cái khe này."

Tôi không nhịn được thầm mắng, hóa ra là thế, cũng quá cả chủ nghĩa lý tưởng đi!

Bàn Tử nghĩ hoàn toàn không có căn cứ gì cả, thực sự đi theo thủy triều siphon thì chỉ có đường chết, nhưng là tôi không bị chết nên cũng không muốn oán trách cái gì cả.

Sau khi nghe xong, tôi lại run rẩy đứng lên, tuy rằng hoàn toàn tin tưởng Bàn Tử nhưng nội tâm vẫn bị kích động mạnh khiến tôi muốn tự mình đi xem cái hang động này một lần nữa, cẩn thận dò từng kẽ đá xem thế nào.

Bàn Tử lại thở dài, lắc đầu nói:" đừng lãng phí thể lực. Thiên chân, cậu nghĩ mà xem, con mẹ nó tôi và Tiểu Ca ở trong này những hai tuần rồi. Hai tuần đó chẳng lẽ chúng tôi lại không thế thấy cái gì sao? Bàn gia tôi ban đầu cũng hoàn toàn không tin, vẫn thầm nuôi hi vọng, tìm kiếm từng chút một, cậu biết cái cảm giác phải dòm đi dòm lại một tảng đá hàng nghìn lần nó thế nào không? Tôi nhìn tới mức muốn ói ra, nhưng vẫn không thấy cái quái gì cả."

Vẻ mặt của anh ta vô cùng đau khổ, tôi có thể tưởng tượng ra cái cảm giác đó, nhưng nếu không tự mình đi xem thì cảm giác trong lòng trống rỗng lắm, bảo anh ta cứ kệ tôi.

Cố hết sức bám vào vách đá đi quanh một vòng, lần này quan sát vô cùng tỉ mỉ, Bàn Tử nói quả không sai, vách tường hoàn toàn nguyên vẹn, thỉnh thoảng chỉ thấy vài kẽ hở tự nhiên bé tới cả dao cũng không chen vào lọt. Kẽ hở lớn nhất chính là ở hang bên ngoài, nhưng cũng chỉ bằng bàn tay, nước cuồn cuộn không ngừng chảy xuống, mặt đất đều lênh láng những vũng nước lớn nhỏ, nhưng nước lại tiếp tục chảy vào trong các kẽ hở đi nơi khác.

Cái lang động này nằm ở đâu vậy? Có phải là ở quanh chỗ tôi chết chìm không? Nhìn những vết đục đẽo này giống hệt với những dấu tích trên nham thạch trong cái giếng, nhất định là cùng một nhóm công nhân đào ra.

Như vậy thì chúng tôi cũng đang ở trong tầng nham thạch của dãy núi dưới đáy hồ này. Tôi không học nhiều về thăm dò địa chất, chỉ biết một ít kiến thức tự tìm hiểu được, nên không có chút suy luận nào cả.

Gõ vào vách đá, nghe thấy tiếng trầm trầm, tựa như không có cơ quan gì. Hơn nữa có Muộn Du Bình ở đây nến quả thật có cơ quan, anh ta đã sớm phát hiện ra rồi.

Lại đi xem đống đồ đạc chồng chất bên kia, vừa rồi nhìn qua, trong góc phòng hình như có mấy đồ đá mài, đến gần nhìn kỹ thì có vẻ là lò đúc, bên trong còn có cặn sắt, ở cạnh là một lượng lớn giá dụng cụ, xiêu vẹo tới không ra hình dạng gì nữa.

Ngoài ra là một pho tượng thần bằng bùn chỉ cao bằng cái chai, vừa giống quan công lại vừa giống bồ tát, trước giờ chưa từng thấy qua, chắc đây là thần của dân tộc thiểu số.

Thử cầm lên thì bỗng giật mình, không biết là vì cơ thể tôi còn chưa lại sức hay là vì nó quá nặng mà thử vài lần nó cũng không nhúc nhích. Bàn Tử cũng nói anh ta đã sớm qua nhấc lên, bên dưới không có lối đi gì đâu.

Quay về chỗ Bàn Tử, cuối cùng cũng xác định được anh ta nói không sai, tuy rằng trước đã tin tưởng rồi, nhưng giờ là xuất phát từ trong thâm tâm. Trong đầu tôi liền dâng lên một cảm giác lo lắng, đây là phản ứng tự nhiên của con người khi rơi vào một không gian khóa kín như thế này.


Chương thứ 42

Giả thuyết

Tôi vừa cởi đồ lặn ra, đang tính làm thế nào để sớm khôi phục sức khỏe, vừa hỏi Bàn Tử bọn họ ở đây lâu như vậy rồi có tính toán gì chưa?

Bàn Tử lắc đầu:" tự tôi thấy dự tính thực tế nhất bây giờ chính là cả ba chúng ta đều đã chết, để mà xuyên qua nham thạch vào cái hang động này, chúng ta hẳn phải thành ma quỷ rồi."

Tôi cười khổ, ý những lời này tôi hiểu hết, nhưng không phải tôi cũng nghĩ là cả ba đã chết, anh ta muốn nói là, phỏng đoán của anh ta về vấn đề này khó chấp nhận lắm, là kiểu chuyện không có nguyên nhân kết quả gì cả. Phỏng đoán cần có manh mối, nhưng hiện giờ thì mọi manh mối đều không có, hết thảy chỉ có thể là giả thiết mà thôi.

Bàn Tử nói: "nếu như có yêu ma quỷ quái gì đó, thì mục đích cũng không phải là hại chết chúng ta, nếu vậy, bất kể là tiếp theo có phát sinh chuyện gì, chúng ta chắc cũng không tới mức vong mạng chứ! Còn nếu như nó đã muốn giết, hà tất phải chuyển chúng ta tới một nơi khác?"

Tôi gượng cười, không tiếp lời anh ta, rốt cuộc vậy đây là chuyện quái gì? Lẽ nào nơi này lại đột nhiên xuất hiện một gã cao to đen hôi tới tấn công chúng tôi? Tôi lắc đầu nói:" chẳng liên quan, hiện giờ chúng ta còn sống sờ sờ cũng chưa hẳn đã là chuyện tốt. Nếu anh ăn no rồi khi đó có còn muốn ăn tiếp nữa không?"

Bàn Tử hít một ngụm khí lạnh, nghĩ tới mà kinh cả người, liền bực mình mắng:" lão tử hận nhất là cái loại sờ không được, nghĩ không ra! Cậu nói xem có phải ba người chúng ta xung khắc quá không, làm thế nào mà lại có thể đụng mặt nhau trong cùng cái lỗ này? Chó má, thật sự là ma quỷ mà! Còn có cả A Quý kia cũng thật là, cái gì cũng không biết, nếu không thì đã nhắc nhở chúng ta, đề phòng một chút."

Tôi thầm cau mày, Bàn Tử nói rất đúng, sở dĩ chuyện này một chút đầu mối cũng không có, thậm chí còn không có lấy một phỏng đoán nào, cũng vì thế mà tình hình bây giờ mới không thể giải thích được. Trong những sự kiện chúng ta đã biết chắc chắn vẫn còn thiểu hụt rất nhiều điểm quan trọng.

Xem xét từ lúc bắt đầu vào thôn, từng chút từng chút một từ giản đơn tới phức tạp, tất cả tin tức đều là tự mình lấy ra, hiện giờ đã biết nơi bắt nguồn của khối sắt kia chính là những tượng sắt, biết được Văn Cẩm từng tới hồ này, cũng xác định đội khảo cổ bị người ta đánh tráo, hiểu được một vài bí mật vể cái cổ trại dưới đáy hồ, tuy trong những manh mối này vẫn chưa thấy được một sợi dây liên kết rõ ràng, ví như những tượng sắt kia rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, chỉ cần kiên trì điều tra, tôi tin là mọi chuyện sẽ sáng tỏ ngay thôi.

Có điều là tình hình hiện tại phải giải thích sao đây, tình cảnh khốn khổ trước mắt, cùng với những thông tin kia không có chút quan hệ gì, nói cách khác là những manh mối mà chúng tôi nghe ngóng được trong thôn vẫn còn thiếu mất một chi tiết.

Bỏ mất điều gì chứ?

Vừa rồi tôi hỏi Bàn Tử xem phỏng đoán của anh ta là gì, phát hiện chuyện này không thể nào suy luận được, không ai chứng thực được các manh mối đó. Nghĩ tới đây, tôi liền nhìn anh ta và Muộn Du Bình hỏi:" chúng ta cần phải đem hết tất cả đồ đạc ở đây xem qua một lượt. Nơi này và toàn bộ sự tình khẳng định có liên quan, liệt kê lại từ đầu, nói không chừng còn có thể tìm được một chút gợi ý."

Bàn Tử thở dài, chỉ chỉ lên trên mặt đất, bên trên có một tảng đá được anh ta dùng để khắc ký tự lên, " trước tôi từng để ý qua hết rồi, thực sự thì không nghĩ ra được gì. Cậu muốn quan sát thêm cũng được, cậu đọc sách nhiều, hẳn là so với tôt thì khá hơn một chút, tôi càng nghĩ càng thấy đau đầu thôi!"

Tôi nhìn những chữ kia, đúng là thủ pháp suy luật chuyên dụng của anh ta, đem tất cả những khả năng có thể viết lại, cả những manh mối, rồi vẽ một vòng tròn để tìm ra mối liên hệ của chúng.

Tôi nói:" lần này cùng với trước đây gặp qua rất khác biệt, tất cả tin tức đều là từng mảnh nhỏ một, anh viết như vậy thì càng thêm loạn thôi. Trước tiên ta nên chú ý tới nhận thức ban đầu là gì, xem xem nó có thể lối lại với nhau được hay không."

Tôi lấy một tảng đá, trên mặt đất viết một vài chữ mấu chốt. Từ lúc bắt đầu vào thôn, lần lượt phát hiện đồ vật và tiếp theo là toàn bộ những phần sau đó đều được viết xuống.

Khối sắt- mảnh tượng sắt- thôn trại dưới đáy hồ - nơi không biết là để làm gì- khắp nơi đều có- dường như gặp nguy hiểm- tỏa ra mùi kỳ quái.

Ảnh chụp- thiêu hủy.

Chuyện của Bàn Mã- đội khảo cổ bị đánh tráo- thi thể tìm thấy- vớt được khối sắt- mục đích gì?

Cổ trại dưới nước- nhà cổ kiểu hán- đường hầm trong lòng đất- vô số tượng sắt- mỏ ngọc?

Hầm mỏ khóa kín- tượng sắt- dấu vết khai phá giống nhau.

A, B- bị cắn- hôn mê.

C- nghẹt thở- hôn mê

Sau khi viết xong tôi đem toàn bộ những thứ đã xác định được vẽ lại, liệt kê ra:

Nơi không biết dùng để làm gì- hình như gặp nguy hiểm- tỏa ra mùi kỳ quái- mục đích gì?

- Vô số tượng sắt- mỏ ngọc?

Hầm mỏ khóa kín- tượng sắt- dấu vết khai phá giống nhau.

A,B- bị cắn- hôn mê.

C- nghẹn thở- hôn mê.

Cứu như vậy, những thứ chúng tôi có thể xác định và không thể xác định được, toàn bộ đều được liệt kê ra.

Tiếp theo, tôi mới đem những nhân tố khác viết xuống, tôi nói:" đầu tiên chúng ta khẳng định trước là trong cổ trại có một tòa nhà kiểu hán của một gia tộc họ trương, tạm thời gọi đó là Trương gia lâu chủ." tôi liếc mắt nhìn Muộn Du Bình, "người này có công với nước, hơn nữa lại là một bậc thế gia có học thức, có thể là quân phản đối chính quyền địa phương, đương nhiên người đó cũng có gia thế khác, nhưng không có liên quan lắm tới cốt lõi vấn đề."

"Vào một năm nào đó, Trương gia lâu chủ này vì một nguyên nhân nào đó- như là, nguyên nhân ấy chúng ta cũng không cần biết- phát hiện ra dưới thôn trại là một mỏ ngọc. Dưới sự cám dỗ của nguồn lợi lớn đó, Trương gia lâu chủ đã liên kết với tộc trưởng người Dao, xây dựng lên giữa thôn một tòa nhà hHn chắc chắn, tạo điều kiện cho thủ hạ hành động. Tòa nhà được xây rất kiên cố, hẳn là bọn họ đã ở đây khai thác một thời gian vô cùng dài, khả năng còn chuẩn bị làm tới mấy đời người."

"Trong hang động này chúng ta cho thấy rõ ràng những dấu vết khai phá, có thể là do bọn họ đào mỏ ngọc, hoặc ít ra cũng là một trong số đó."

Nói xong tôi nhìn về phía Bàn Tử, hỏi xem anh ta có muốn bổ sung gì không. Bàn Tử lắc đầu, tôi lại nói:" tốt, sự tình tới đây hết thảy đều bình thường, cũng vô cùng phù hợp, nhưng lại mâu thuẫn với tình cảnh hiện tại của chúng ta. Rõ ràng tước mắt là một mỏ ngọc khép kín, cho nên tôi mới nói như vậy, toàn bộ từ đầu đều rất bình thường cho tới tình cảnh hiện tại, trong không gian thời gian đó, xảy ra một chuyện, có thể khiến cho hầm mỏ phát sinh một biến cố không tưởng."

Bàn Tử gật đầu nói:" đừng nói văn hoa như vậy, con mẹ nó chứ, nhất định là trong cái hang động này đã có chuyện gì xảy ra."

Đây cũng chỉ là một giả thiết, cũng tương đối chắc chắn, tôi đem những việc này viết xuống, sau đó vẽ vào bên cạnh một dấu chẩm hỏi, "nơi này xảy ra chuyện gì? Chắc chắn không thể nào đột nhiên bị khóa chặt lại, vì nếu như vậy, sẽ có người bị nhốt chết ở đây."

"Cũng không hẳn, cậu nghĩ mà xem, việc chúng ta tiến vào đây không thể giải thích được, nói không chừng là sau đó bọn họ cũng tìm được cách đi ra cũng nên." Bàn Tử nói.

Tôi lắc đầu, ngày xưa thợ mỏ được rèn luyện văn hóa như vậy sao? Bọn họ có thể nghĩ ra cách, chúng ta lại không nghĩ được ra ư? Hơn nữa cho dù có nghĩ tới, cũng không thể nhanh như vậy được, vì theo như công cụ của bọn họ lúc đó, công thêm tình trạng thể lực, hẳn là nếu muốn "đập" được ra tới ngoài, trên mặt đất phải lưu lại rất nhiều dấu vết đá vụn.

Có điều là dù sao chúng ta lúc đó cũng không có mặt ở hiện trường, không thế khẳng định được những suy luận này, cơ bản là không thấy Bàn Tử phản bác. Chúng tôi rơi vào trầm tư, trong đầu hiện ra vô số giả thiết.

Còn chưa nghĩ được hơn hai phút, Muộn Du Bình liền mở miệng, thản nhiên nói:" mỏ ngọc có tượng thần là lôi vương thần của dân tộc Dao, thuộc hung thần, bình thường không công khai thờ phụng, trừ khi phát sinh chuyện gì quá đáng sợ."

Chúng tôi đều sửng sốt, Bàn Tử hỏi:" thế quái nào! Sao cậu biết điều đó?"

Muộn Du Bình không trả lời, tiếp tục nói:" bên trong có vật này, vậy có thể thấy chuyện không phải đột nhiên phát sinh, hơn nữa lại xảy ra về sau, có thể từ bên ngoài mang tượng thần tới thờ cúng ở đây, thể hiện rằng tuy chuyện này rất đáng sợ, nhưng không đến mức bọn họ phải bỏ chạy."

Tôi nghĩ một lát, cũng cảm thấy rất có lý:" lập tượng thần thể hiện là bọn họ còn muốn tiếp tục khai thác, muốn dùng tượng thần này trấn một thứ gì đó, sự tình tuy rằng đáng sợ, nhưng chỉ làm khủng hoảng tâm lý, còn không uy hiếp tới an toàn tính mạng của họ, thử nghĩ mà xem, đổi vị trí nếu mình là thợ mỏ, trong tình huống nào lại làm như vậy?"

Bàn Tử hít một ngụm khí lạnh:" đây nghe kiểu gì lại thấy quen quen? Chẳng lẽ trong này bọ họ linh cảm thấy có điềm xấu ư?"

Tôi cũng gật đầu, dường như đồng ý tới suy nghĩ của anh ta, từng ở quê nghe qua cái kiểu đồn đại, cái gì mà thi công nhà xưởng, kết quả lúc đào móng, đào tung hết cả xương cốt người chết lên, liền mang tượng quan công ra trấn yểm.

"Nơi này là tầng nham thạch, nơi chó má thế này thì có cái quái gì được?" Bàn Tử nói, "Chẳng lẽ là hóa thạch của rồng chúa?" nói xong lại ai da một tiếng, rõ ràng cảm giác những gì mình nói rất có thể xảy ra, " cậu nghĩ mà xem, bọn họ đang đào bới đột nhiên phát hiện ra một bộ xương quái vật thời tiền sử, chắc chắn là sẽ bị dọa cho chết khiếp, nghĩ là vừa động phải xương cốt yêu quái."

Tôi vỗ vai anh ta nói:" đồng chí, rảnh rỗi thì đọc nhiều sách một chút, niên đại của hóa thạch khủng long so với niên đại của ngọc thạch còn xa vài triệu năm, nơi đây mà đào ra hóa thạch khủng long thì khác nào hưởng phúc ba đời chứ."

"Vậy ý cậu là cái gì?" Bàn Tử không phục nói.

Chúng tôi nghĩ một lát rồi cùng lắc đầu, kỳ thật thì cơ bản là không thể nào nghĩ khác được, trong loại nham thạch này co thể tồn tại cái gì, thứ gì có thể khiến họ linh cảm thấy có điềm xấu được? Tôi nghĩ không ra. Nói theo cách hợp lý thì ở đây chỉ có đá, chẳng lẽ là một khối nào đó lại khiến cho bọn họ nghĩ đó là một hòn đá xúi quẩy? Nếu nói theo kiểu bất hợp lý thì nơi này cái gì cũng có khả năng cả.

Bàn Tử đi tới chỗ trước mặt tượng thần, hỏi Muộn Du Bình:" Tiểu Ca, thần này hung ác cỡ nào? Có giống với thần Chung Quỳ* của chúng ta không, là thần bắt quỷ à?"

Muộn Du Bình lắc đầu:" Lôi vương chuyên khắc chế tà thần."

Thần thoại Miêu Dao khác với thần thoại dân tộc hán, trong đó có rất nhiều thứ tà ác đều là thần, có quyền lực như thần, thông thường bị thần làm cho bất động.

Bàn Tử tắc lưỡi một tiếng:" nói cách khác, Chung Quỳ chính là công an, còn Lôi vương là bí thư kỷ luật." trong đống lửa lấy ra hai cây củi, cắm vào trong bát hương chắp tay bái lạy, "lôi bí thư, thực ngại quá, chúng bọn tiểu đệ trước có mắt mà không thấy núi thái sơn, không nhận ra ngài hiển hiện. Những vật này không đúng hình dạng, nhưng cũng gọi là hình thức, coi như chút lòng thành lễ mọn, nếu chúng đệ tử có thể đi ra ngoài, chúng đệ tử nhất định sẽ mang dầu vừng vào tạ lỗi. Chúng đệ tử biết ngài làm công tác kỷ luật, có rất nhiều thứ khó mà tiếp nhận được, hối đầu ngài nhắc cho phu nhân gọi điện cho chúng tiểu đệ biết, chúng tiểu đệ sẽ cúng gấp cho phu nhân ngài..."

Lòng tôi thầm nghĩ người này cũng quá không đáng tin, liền nói với Bàn Tử:" anh cũng không phải người Dao, người ta làm sao có thể phù hộ cho anh được? Đưng lãng phí củi lửa, hơn nữa chỉ có cấp trên ra lệnh cho cấp dưới, làm gì có chuyện cấp dưới yêu cầu cấp trên đâu?"

Bàn Tử nói:" cậu thì biết cái khí gì! Cậu ở Hàng Châu nộp thuế, đi Bắc Kinh không phải nộp nữa phỏng? Tôi không có lễ lạt, thì cứ nói tạm cái gì đấy cũng được. Cái này mình gọi là ra mắt, hơn là sau này phải hối tiếc."

Nói xong anh ta lại quay người đi, không ngờ củi đứng không vững, lập tức kéo đổ cả lư hương xuống, chổng ngược lên, bao nhiêu tro tàn đều bị hất ra ngoài.

Bàn Tử lập tức cho tay xuống đỡ, tôi cười nói:" đấy anh xem, người ta công chính liêm minh, ai thèm nhận đồ cống của nhà anh chứ."

Bàn Tử lại tắc lưỡi một tiếng, bẻ củi làm đôi, lần nữa cắm vào lư, sau đó dùng chân phủi hết những tàn hương còn vương vãi. Lau mấy cái từ chỗ tàn hương đổ ra, tôi bỗng thấy mặt đá dươi chân anh ta bỗng xuất hiện một vài đường nét kỳ quái.

Chú thích:

Thần Chung Quỳ*:Theo sử sách, Chung Quỳ là người thời Đường Minh Hoàng, cực kỳ thông minh. Đến khi lên kinh ứng thí, được chủ khảo xem là kỳ tài. Thế nhưng khi lên điện ứng thí, gian thần Lư Kỷ lại lấy tướng mạo xét người, Chung Quỳ vốn xấu xí, bị Lư Kỷ buông lời xúc xiểm, vì quá tức giận đã đâm đầu vào cột mà chết, chấn động cả thiên đình. Ngọc Đế biết chuyện đã đứng ra chủ trì công đạo, phong cho Chung Quỳ làm vị thần phụ trách giáng yêu trừ ma chốn nhân gian.

Trong truyền thuyết dân gian Trung Hoa, Chung Quỳ là vị thần diệt yêu, trừ ma

Nhìn ông ấy hơi ghê gớm nhưng thực ra rất tốt :D

Chương thứ 43

Đào ra cái gì?

Tôi lấy làm lạ liền qua xem, đẩy chân Bàn Tử ra nhìn, quả nhiên có một phần tàn hương lọt vào những khe hở nhỏ xíu trên mặt đá, hình thành lên rất nhiều nét khắc. Hơn nữa rõ ràng những nét vẽ đó rất mượt mà, không phải là những hoa văn thông thường trên mặt đá.

Tôi làm bản dập nên hiểu nguyên lý của nó là như thế nào, phải dùng một loại bột rất nhỏ để làm nổi lên những đường vân nông trên bề mặt, tượng tự như trong rất nhiều phim gián điệp, người ta dùng bút chì tô lên mặt giấy để lấy những manh mối nhỏ, rõ ràng là có người đã khắc lên mặt trước của cái bàn thờ này, nhưng khắc cái gì mới được.

Tôi trở lên hưng phấn, lập tức đổ hết lư hương xuống, đem tro tàn bên trong phủ đầy mặt đá, rồi lấy tay xoa đều nó ra. Rất nhanh sau đó, mặt và vách đá bắt đầu xuất hiện rất nhiều nét khắc.

"Đây là..." Bàn Tử cũng phát hiện ra cái bất thường.

"Chắc là những nhân công khai thác trước đây đã khắc xuống." tôi đáp.

"Thấy chưa, Lôi bí thư thật là hiển linh mà!" Bàn Tử hớn, "hiệu suất làm viêc quả là cao hơn người phàm chúng ta."

"Anh đừng nói trước bước không qua như thế." nói rồi, tôi dùng tay xoa phẳng những tàn hương kia.

Bàn Tử ngồi xuống giúp một tay, Muộn Du Bình cũng đi tới, chúng tôi bôi tàn hương thành một khu vực lớn. Ngay sau đó, một vùng ký tự xiêu xiêu vẹo vẹo liền hiện ra trước mắt.

Mỗi ký tự to cỡ một quân cờ, toàn bộ đều là chữ phồn thể, khắc rất cẩu thả, có một phần gần như đã mờ không nhìn rõ nữa, nhưng số lượng rất nhiều, lớn bé tất cả tầm ba mươi bốn mươi chữ.

Nhìn những bút tích này, hẳn là do cùng một người khắc.

Ký tự là chữ Hán, nhưng trong đó có vài chữ tôi chưa từng thấy qua, chắc là ngôn ngữ địa phương.

Bàn Tử nghi ngờ nói:" lẽ nào những công nhân này cũng giống như chúng ta, cùng nhau ngồi thảo luận trên mặt đá này?"

Tôi lắc đầu nói không phải vậy, những ký tự này là ghi cái chuyện khác, rõ ràng là khắc thành đoạn nghiêm chỉnh, có điều là vết khắc quá mức nông, giống như chúng ta dùng cục đá để vẽ lên mặt đất vậy, không dùng công cụ điêu khắc.

Người này là ai, vì mục đích gì lại khắc những ký tự này xuống đây? Không thể nào nghĩ ra được, nhưng hẳn là mấu chốt nằm trong những câu chữ này.

Tôi nhận ra là nó được viết dọc, ngoài ra không phát hiện thêm gì nữa, cẩn thận quan sát từng chữ, sau đó dùng đá khắc lại ở bên cạnh.

Hóa ra là một đoạn văn rất đơn giản:

Lại ngày 7 tháng 11

Tường phía đông, bên trái bảy thước, có mười sáu.

Tường phía tây, bên trái ba thước có bảy.

Tường phía bắc, bên trái ba thước có mười

Tường phía nam, bên trái sáu thước có bốn

Tính toán kỹ lưỡng, trong ba ngày đào ra, trở lại làm việc.

"Đây là... Ghi chép đo đạc khai thác mỏ?" tôi chần chừ nói.

Nhìn toàn bộ ngữ điệu, hình như đây là một lời nhắn, một quản đốc trước khi rời đi đã nhắc nhở lại những người khác, đồng thời còn dặn một câu: tính toán kỹ lưỡng. Làm như là cấp trên viết cho cấp dưới vậy.

"Phương hướng ư?" Bàn Tử nhìn xung quanh, "có đúng là ghi lại phân bố ngọc mạch không vậy?"

Tôi lắc đầu, hướng của ngọc mạch được hình thành hoàn toàn theo tự nhiên, không có lấy một quy luật nào cả, chỉ dựa vào một mặt cắt thì không thể xác định được gì cả. "có mười sáu", "có bẩy", "có mười", "có bốn", hình như là một kiểu đánh dấu, hẳn là có cái gì đó ở trên tường.

Nhìn tường phía đông, trên bề mặt không thấy có gì cả, chỉ có vân ngọc và đá tự nhiên từng nếp nứt nẻ, màu ngọc sẫm tới khó hiểu, quả thực giống như mạch máu của đá vậy, căn bản không thể dùng con số "mười sáu" để miêu tả được. Hơn nữa chốt một câu là: đào ra trong ba ngày, trở lại làm việc, hình như nói cái "mười sáu", "bẩy" kia biểu thị cho thứ gì đó, gây trở ngại cho việc khai thác.

Là cái gì vậy chứ? Chẳng lẽ là những mạch đá cứng không làm gì được? Nhưng những mạch đá cứng bằng chết đó phải nặng tới cả trăm tấn, làm sao có thể trong ba ngày đào ra được?

Chúng tôi cùng đứng lên, đi tới bên trái vách động phía đông, dùng tay đo sáu thước, xem có cái gì ở đó.

Sáu bảy thước sau, vẫn chỉ là mặt đá, ngoài vô số dấu vết mày xanh thẫm ra thì chẳng có gì nữa cả.

Tôi và Bàn Tử đưa mắt nhìn nhau, kỳ thật mặt đá nơi này chúng tôi đã nhìn vô cùng cẩn thận, cho dù có nhìn thêm nữa cũng không ra được thêm gì.

"Người ta viết vậy có thể là nó đã bị đào ra rồi?"

Có thể lắm, nhưng suy nghĩ một lát, tôi lại xuất hiện một ý niệm rất kỳ quái.

Tôi quay lại trước bàn thờ, đem tàn hương trên mặt đất gom lại một đống, bốc vào trong bát hương, sau đó mang nó tới trước vách đá, lấy một nắm bôi lên trên vách tường.

Ban đầu không thấy gì cả, nhưng tới khi bôi được vài vòng, quả nhiên là bề mặt nó xuất hiện một vài đường nét, có vẻ như là hình dáng của vật gì đó.

"A!" Bàn Tử thốt lên kinh ngạc, "sao cậu biết hay thế?"

"Lời nhắn này quá mơ hồ, là sau những thu thập cuối cùng ghi xuống, nhất định cũng lưu lại một vài dấu hiệu trên mặt đá này." tôi vừa nói, vừa tiếp tục bôi bôi trát trát.

Rất nhanh sau đó, một hình dạng rất dị thường hiện ra từ nhiều phía trên mặt đá, tôi lấy đèn pin ra soi. Hình dạng vô cùng rõ ràng, giống như là một bản phác thảo, trước dùng những đường thẳng và đường cong để vẽ ra sơ lược hình dạng của vật thể.

Nhưng chúng tôi cũng không thể nhìn được rõ nó trên mặt đá, chỉ thấy nó hình dáng có chút liên hệ với đường nét, như là tùy ý vẻ lên đá để tham khảo khi cắt.

Nhưng ngay cả như vậy, tôi vẫn cảm thấy khắp người rét run lên, những mảnh ghép trong suy nghĩ bắt đầu kết hợp lại với nhau, trong lòng đã hiểu, trong vách đá này chắc chắn có chứa cái gì đó, bằng không người ta đã không khắc chúng lên đây. Bọn họ định đem những thứ đó đào ra, do đó đã phác họa sơ lược lên trên bề mặt này.

Sao không nhìn thấy gì? Chẳng lẽ chúng tôi đã làm sai cách?

Nghĩ một lát, tôi lại hỏi:" trong các anh ai biết khi người ta đào ngọc có quá trình đặc biệt nào không?"

Bàn Tử lắc đầu nói:" không phải dùng thuốc nổ sao?"

Muộn Du Bình lại nói:" trước tiên dùng lửa đốt, sau lại té nước lạnh lên, làm thế đá sẽ tự nhiên nứt ra."

"Dùng nước té lên? Đi, nhanh đi múc nước lại đây!" tôi lập tức nói, cũng không biết mình nghĩ ra cái gì, trong lòng xuất hiện một linh cảm cực manh, chạm được tới mấu chốt rồi!

Tôi chạy sang động bên cạnh, cầm đồ lặn vừa cởi ra buộc ống quần lại, sau đó hứng nước vào bên trong, rồi mang nó trở lại hang, cùng Bàn Tử hai người hắt lên trên vách đá.

Cứ như vậy hơn mười lần, đá dính nước càng thêm sẫm màu.

Lui về phía sau nhìn, nước té lên làm cho vân ngọc trên đá mờ đi, những bộ phận khác cũng trở lên nhẵn bóng. Hóa ra đá này cũng là ngọc thạch, chỉ có điều nó chứa chất khác nên có thêm những đường vân xanh của ngọc phí thúy nhìn như là đá thường.

Đồng thời chúng tôi bỗng thấy được, trong vách đá có một bóng đen ẩn hiện.

Là một bóng người.

Chương thứ 44

Người trong đá

Trong chớp mắt vừa thấy còn tưởng đó là bóng của mình, giật thót một cái, lại phát hiện bóng đen kia không hề di động theo mình.

Ba người chúng tôi như tiến vào trong khe nứt, nhìn bóng người giữa ngọc mạch kia, đứng cũng không thẳng được.

"Đó là cái quỷ gì vậy? Tôi nhẹ giọng hỏi.

"Có trời biết!" Bàn Tử cũng dùng giọng điệu đó đáp lại, ngừng một lát, "hình như... Hình như là người?"

"Sao có thể là người được? Nếu là người, hắn sao có thể chui vào trong vách đá này chứ?" tôi vặn lại.

Bàn Tử nhìn tôi một cái, run rẩy hỏi:" cậu từng nghe người ta kể lại truyền thuyết cá trong đá chưa?"

Anh ta vừa nói xong, toàn thân tôi bất giác nổi gai ốc.

Thạch trung ngư (cá trong đá) là một truyền thuyết ma quái có từ thời ngày xưa, kể về có một tảng đá nguyên vẹn sau khi bị người ta phá ra, phát hiện bên trong rỗng, chẳng những có nước, mà trong nước lại còn có một con cá vẫn còn sống nữa.

Không ai biết con cá này làm sao đi vào trong tảng đá đó được, cúng không ai biết sao nó có thể sống sót, trong tảng đá nào có thức ăn.

Hiện tượng đó được xem như là do thần linh tạo ra, trong đá có cá, nếu không phải từ bên ngoài bơi vào, thì chính là do bản thân tảng đá sinh ra. Tương truyền là ai ăn được con cá đó có thể trường sinh bất lão, nhưng cũng có người nói ăn nó lập tức sẽ mất mạng.

Truyền thuyết trong đá có cá được lưu truyền rộng rãi, nơi nào cũng có, dường như không phải là chuyện hư cấu, Bàn Tử giờ đột nhiên nhắc tới nó, tôi hiểu anh ta muốn ám chỉ điều gì. Nhưng cũng biết là thực sự thì không thể dùng cách đó để lý giái chuyện này.

"Không thể nào đâu." tôi nói.

"Nếu trong đá có thể có cá thì tại sao không thể có người chứ?"

Tôi hít một ngụm khí lạnh, nhìn cái bóng người trong vách đá kia, vẫn lắc đầu, "không thể nào, đây nhất định chỉ là bóng đen giống hình người thôi."

"Có đúng hay không, tiếp tục hắt nước là biết. Những chữ viết trên mặt đất kia, nói thứ này không chỉ có một." Bàn Tử nói.

Chúng tôi lập tức tiến hành tiếp, rất nhanh sau đó đem vách đá bốn phía té đầy nước.

Trên những vách tường bị thấm nước, tôi kinh người phát hiện ra trong đá chung quanh đây có rất nhiều bóng người ẩn hiện, với đủ mọi động tác khác nhau.

Trong vách đá, nhìn như chỗ nào cũng có người.

Đếm qua một lượt thấy số lượng cũng gần giống như được ghi lại trên mặt đất.

"Thực sự đây là quỷ!" Bàn Tử lại ngồi xuống, "thảo nào phải để Lôi bí thư ra tay, con mẹ nó chứ, chuyện quái gì đây?"

"Chẳng lẽ là thai Côn Luân?" tôi nhớ tới trước đây từng nghe qua hoàn cảnh này, chẳng lẽ đây là một bảo huyệt ( có long mạch chạy qua), cẩm thạch ở đây có khả năng hóa thành người?

Bàn Tử lắc đầu:" thai Côn Luân rốt cuộc cũng chỉ là truyền thuyết, hơn nữa nghe nói phải là núi vô cùng lớn, nhìn bóng dáng quỷ dị thế này, tôi thấy chẳng phải cái gì hay ho, hơn nữa ..." anh ta nhìn về phía giá sắt bên kia, " tôi vừa rồi chắc đã đoán nhầm, cậu xem động tác của những cái bóng kia, có phải rất giống những tượng sắt này không?"

Tôi kinh ngạc không thốt lên lời, tiếp theo Bàn Tử tái mặt nói:" tôi biết chuyện này thực kinh khủng, có điều tôi thấy những công cụ nơi này đều là đồ đúc, bỗng nhiên lại nghĩ tới khả năng đó."

Tôi nhìn những bóng người kia, "ý anh là, những tượng sắt kia không phải phương tiện chuyên chở mà dùng để niêm phong những bóng đen này khi họ đào ra ư?

"Chỉ sợ là không đơn giản như vậy." Bàn Tử cải chính, "những tượng sắt này chắc đã qua xử lý, có thể là trên mặt đá người ta khoan một cái lỗ rồi từ bên ngoài đổ sắt nóng vào trong, khiến cho người bên trong đông lại thành một khối rồi đập đá mang ra."

Tôi nghĩ trong tầng hầm ở nhà cổ có vô số những tượng sắt này, cả người nhất loạt nổi da gà, nếu như thế thật thì nơi này chẳng biết phải đào ra được bao nhiêu thứ như vậy? Bật cười nói:" đây chỉ là suy đoán của chúng ta mà thôi."

Bàn Tử sắc mặt vẫn tái nhợt, rõ ràng cũng cảm thấy suy nghĩ của mình thực kinh khủng, lại nói:" kỳ thật có một cách là đập tảng đá này ra, xem hình dáng bên trong kia thực ra là cái gì." nói rồi chỉ chỉ về một cái chùy đá.

Tôi vuốt bề mặt đá, vô cùng dày, không phải dễ mà có thể đánh nứt nó được. Chợt nhớ tới trước kia có cái truyền thuyết trấn yêu, cổ nhân chẳng phải thường nói là, ông trời trấn yêu thường đem yêu quái yểm vào dưới chân núi sao?

Chết cmnr! Chẳng lẽ những cái bóng đen này chính là yêu quái?

Nếu như vậy, bọn họ mà thả chúng nó ra, chắc chắn chỉ còn đường chết?

Tôi vô cùng tò mò, nhưng cũng rất sợ hãi, đồng thời lắc đầu:" trước kia công nhân dùng cách vô cùng hao tổn công sức để xử lý, rõ ràng là những bóng người này khiến cho người ta thấy sợ hãi và coi như là điềm xấu, thậm chí vô cùng nguy hiểm, nhưng nó vẫn tuyệt đối bất động."

Bàn Tử nghe tôi nói vậy, quay đầu nhìn Muộn Du Bình, tính trưng cầu dân ý.

Muộn Du Bình vẫn dán mắt nhìn chắm chắm những bóng đen kia, không trả lời anh ta, sau mới nhìn chúng tôi nói:" chúng ta và những bóng đen kia, ... Thực ra là giống nhau."

Chương thứ 45

Tảng đá nơi đây.

"Vì sao lại nói vậy?" tôi buồn bực hỏi, nhưng vừa hỏi xong liền hiểu được ý của Muộn Du Bình là gì.

Theo một cách nào đó thì chúng tôi và những người trong vách đá này có hoàn cảnh giống nhau, chỉ là không gian của bọn họ nhỏ hơn, là bị giam hãm trong vách đá, kiểu như là con quái ngư sống trong đá kia, có điều chắc chắn là nếu vài năm sau mới có người phát hiện ra chúng tôi thì tuyệt đối không phải chuyện vui vẻ gì.

Nghĩ vậy lòng tôi chợt lạnh đi, nói:" có thế nào thì cũng không giống, ít nhất là chúng ta hiện giờ vẫn còn không gian để hoạt động, hơn nữa cũng vẫn còn sống. Còn sống thì còn nghĩ ra nhiều cách."

Muộn Du Bình thản nhiên nói:" tôi không có ý đó."

Tôi thốt lên một tiếng bất ngờ. Trước vẫn nghĩ rằng mình và hai người bọn họ tương đối hiểu ý nhau, nhưng giờ tôi theo không kịp suy nghĩ của anh ta nữa rồi. Muộn Du Bình vẫn nhạy bén hơn tôi nhiều.

Tôi hỏi:" anh có ý gì? Nói thẳng ra xem nào!"

Muộn Du Bình nhìn tôi, "các cậu có nghĩ là nếu như nơi đây không có cái hầm này thì chúng ta hiện đang trong tình trạng gì không?"

Tôi ngẫm những gì Muộn Du Bình nói, cảm giác đầu óc hơi trì trệ, vẫn không hiểu được ý của anh ta, nhưng thấy mặt Bàn Tử lập tức trắng bệch ra, mắng một tiếng:" chết tiệt!"

Lập tức ngay sau đó tôi cũng vỡ ra được, da đầu tê rân rân.

Nếu nơi này không có hầm mỏ, vậy chúng tôi sẽ như thế nào?

Đây là vách đá, trong lòng một dãy núi lớn. Nếu như chúng tôi bằng một cách nào đó bị mang tới đây, như vậy hiện giờ sẽ có thể là bị nhét vào trong vách đá, giống y như những bóng đen kia.

Tôi kinh thần sợ hãi. Đây là thứ cảm giác gì? Nếu như tôi tỉnh lại thấy mình bị vây hãm trong vách tường sâu giữa núi, không thể động đậy cho tới tận lúc chết, thật sự quá khủng khiếp.

Muộn Du Bình nói:" ngược lại với chuyện này, chúng ta giờ vẫn còn sống, hoàn toàn không phải là do trùng hợp."

Tôi yên lặng gật đầu. Chuyện lạ này có lẽ là một hiện tượng thần bí diễn ra trong núi, khả năng đây cũng không phải lần đầu phát sinh. Cho dù trước đây chưa từng có ai ở trong này đào hầm, sự việc như thế vẫn sẽ xảy ra, mà tình cảnh của chúng tôi bây giờ càng khó có thể tưởng tượng.

Bàn Tử nuốt một ngụm nước miếng, nhìn những bóng người kia, nói :" như vậy thì những ngời này chính là tiền bối của chúng ta? Là những người bị hại trước đây ư?"

"Đây chỉ là một khả năng thôi." Muộn Du Bình nói, "có điều là tôi lại tin là như thế."

Tôi hiểu ý của anh ta, nếu đây là một hiện tượng kỳ lạ của tự nhiên, hẳn là những suy luận lúc trước của chúng tôi đã sai lầm, nhưng bất luận chúng ta có rơi vào tình cảnh khó khắn thế nào thì tạm thời vẫn được an toàn.

Bàn Tử lại hỏi:" Thiên Chân, cậu đọc nhiều sách vậy thử đoán xem, sao lại có chuyện này? Nếu đúng như Tiểu Ca nói, thì đây là có thể là tình huống gì?"

Tôi bật cười nói:" gặp phải chuyện này thì đọc sách cũng vô dụng thôi, anh muốn dùng những kiến thức trong sách để giải thích, chỉ có thể là khái niệm vật lý, chúng ta khả năng tiến vào hai không gian giữa một kẽ nứt, từ một nơi nào đó bị nhét vào đây. Có điều là trong thực tế, điều đó không thể xảy ra, cho dù thực sự anh có thể vào được không gian trong kẽ nứt đó, nhưng đầu ra sẽ là một không gian khác, để xuất hiện trong cùng một nơi thì khả năng gần như bằng không."

Trên thế giới có rất nhiều truyền thuyết như vậy, ở một vài nơi địa chất vô cùng đặc biệt, ví như Bermuda* mới có hiện tượng này. Nhưng tôi không tin vào chuyện đó, quá trình Bàn Tử và Muộn Du Bình mất đi ý thức ở đáy hồ hoàn toàn không giống như là bị "hiện tượng tự nhiên" tác động, giống như là có người dùng âm mưu thực hiện. Do đó, tôi rất đồng ý với quan điểm của Muộn Du Bình: lực lượng đã mang chúng tôi tới nơi này tuyệt đối là có chủ đích.

Bàn Tử lại không cùng quan điểm, anh ta nói:" có khả năng gần như bằng không, thì cũng vẫn có thể."

Tôi nói:" dùng khoa học để giải thích thì chỉ có mỗi cách đó thôi. Nếu như không phải như vậy, chúng ta đang đối mặt với một tình huống thuộc phạm trù khác."

Bàn Tử rơi vào trầm tư, lẩm bẩm:" cụ kỵ của chúng ta có lưu lại truyền thuyết nào như thế này không nhỉ?"

Tôi suy nghĩ một lát, trong những ghi chép từng được đọc chưa thấy nhắc đến trong vách đá có bóng người kiểu này, chắc là do mình hiểu biết chưa đủ rộng.

Bàn Tử lại nói tiếp:" trong truyền thuyết ở ngọn núi bên cạnh mộ Lưu Bá Ôn*, có người chỉ trong một ngày đã đi ra khỏi khu vực núi những hơn một trăm km, như là trong vài giây bị đưa tới một nơi khác. Bọn họ gọi cái hiệu tượng đó là "sơn quỷ bối", cho là mình bị quỷ núi vác đi, do đó không biết đi tới tận đâu. Cũng có người gọi là " núi chạy", nghĩa là núi cũng biệt di chuyển, cậu thử nói xem, có thể ở đây cũng có hiện tượng như vậy không, chỉ có điều hướng di chuyển không giống nhau?"

Tôi lắc đầu, cách nói này không có cơ sở. Bọn họ ở ngoài núi, chúng ta ở trong núi, không phải là núi vác hay núi chạy, mà là bị núi nuốt.

Hơn nữa, việc này có vài chỗ rất kỳ quái, đặc biệt khó giải thích là mỏ ngọc này khép kín, bốn phía không có dấu hiệu sụp đổ, cũng không có cửa vào, vào bằng đường nào? Cho dù gặp phải " sơn bối quỷ" hay là "núi chạy" khả năng là hiện tượng tự nhiên đặc biệt, không có chuyện tự nhiên biến mất cửa ra vào được.

Chuyện xảy ra tại đây không chỉ phức tạp hơn mà còn có vẻ rất kỳ quái nữa.

Nghĩ tới đây, tôi liền nhớ Bàn Mã từng nói, ông ta bảo trong hồ này có quỷ, tôi giờ lại có cảm giác tin như thế. Dường như chỉ có ma quỷ mới có khả năng làm những chuyện khó tin thế này. Cho dù không có quỷ thì tôi thấy hoặc là núi hoặc là hồ, tóm lại là có cái gì đó không bình thường ở đây.

Nước dần dần bốc hơi hết, bóng đen mờ đi, rất nhanh sau đó liền không còn thấy nữa, tôi dùng chân vẽ lại những tượng sắt lúc trước lên mặt đất. Sau đó lại suy nghĩ một hồi lâu, nhưng kết quả vẫn không nghĩ ra cái gì.

Vách đá khôi phục nguyên dạng, cảm giác của chúng tôi lại thay đổi, biết là sâu trong vách tường này năm sáu sải tay có thứ gì đó bị khảm lại, tôi có linh cảm như bị ai đó nhìn chằm chằm vào mình, khiến cho tâm thần bất an. Cảm giác này vừa rồi không hề có, rõ ràng là do ảnh hưởng tâm lý, nhưng không cách nào xóa bỏ được.

Ba người cùng suy nghĩ, không ai nói câu nào, thỉnh thoảng Bàn Tử lại nghĩ ra một ý tưởng nhưng đều bị tôi bác bỏ hết.

Tôi nghĩ tới rất nhiều khả năng, nhưng cũng hoàn toàn không khả thi. Cuối cùng, tôi bắt đầu lôi những chuyện vừa rồi nghĩ ra cân nhắc lại một lượt, bao gồm tất cả những chi tiết, xem xem có thể nghĩ ra thêm được cái gì không.

Như Bàn Tử nói, những tượng sắt này có tác dụng bọc những bóng đen kia, vậy thì động cơ của đội khảo cổ đã có thể giải thích, bọn họ muốn tìn cái gì, chẳng phải là từng mảnh của những thi thể trong vách đa kia, không biết chúng có lợi gì đối với bọn họ.

Lúc những công nhân khai thác ngọc đào được những bóng người này, có thể khẳng định là việc khai thác không bị gián đoạn. Đối với khát vọng ngọc thạch thì họ chỉ cần vừa lễ bái Lôi vương vừa tiếp tục khai thác là được.

Sau đó, tới một ngày kia, có một người đã để lại lời nhắn trước tượng thần Lôi vương.

Xem nội dung lời nhắn và tình hình người trong vách đá kia rõ ràng là lời nhắn của họ không được thi hành, khả năng sau khi họ rời đi, khai thác liền ngừng hẳn. Làm cho bọn họ ngừng khai thác thì có rất nhiều khả năng, có thể là do chiến tranh, do tai họa hoặc cũng có thể do cửa vào của mỏ ngọc này tự nhiên biến mất, thậm chí là những thợ mọ này gặp phải tình hình như chúng tôi- nơi này biết đâu không chỉ có một mỏ ngọc, bọn họ bị nhốt ở những nơi khác nữa. Có thể là bất kỳ một khả năng nào, duy chỉ khẳng định được một điều là chuyện khai thác mỏ ngọc tới đây đã kết thúc.

Sau đó là chuyện chúng tôi.

Vừa nhìn lại chợt thấy vô cùng rõ ràng và hợp lý, nhưng nếu cẩn thận cân nhắc, sẽ thấy trong đó có một mâu thuẫn rất khó phát hiện. Mâu thuẫn đến từ tư duy đối lập, nếu nói là toàn bộ hoạt động khai thác ngọc này không hề xảy ra, vậy nơi này sẽ phát sinh chuyện quái dị gì? Không ai khai thác ngọc, thì sẽ không có hầm mỏ, vậy Bàn Tử và Muộn Du Bình ở dưới nước có gặp phải chuyện như vậy không?

Nếu không có chuyện khai thác ngọc, vậy vị trí hiện tại mà bọn tôi đang ở chẳng phải là vách đá sao, nếu lực lượng đưa chúng tôi tới nơi này là một hiện tượng tự nhiê, như vậy cho dù nơi này là vách đá thì vẫn sẽ có chuyện như vậy xảy ra, vì lực lượng bí ẩn đó là do tự nhiên sinh ra, chúng tôi chính là nạn nhân của hiện tượng kỳ quái ấy.

Nhưng mặt khác, nếu không phải là hiện tượng tự nhiên thì sao? Nếu mỏ ngọc này không tồn tại, chuyện này có thể sẽ không xảy ra không?

Tôi cảm thấy có thể sẽ không xảy ra, vì Muộn Du Bình và tôi đều cho rằng đằng sau chuyện này có một mục đích, khẳng định là không phải giết chết chúng tôi. Để đưa chúng tôi tới đây tất nhiên điều tiện tiên quyết chính là phải có cái hầm này. Chúng tôi bị nhốt tới chết hay là việc bị giết chết, không hề có ý nghĩa gì với "nó". Căn cứ vào những suy luận trên, phân tích sự tình ra đầu tiên có thể nói là, nó biết nơi này tồn tại một mỏ ngọc. Về phương diện khác, mỏ ngọc xuất hiện ở đây hoàn toàn nằm trong kế hoạch, chứng minh được là mục đích của lực lượng thần bí kia xuất hiện sau khi có cái hầm mỏ này. Trước tiên phải có mỏ ngọc, sau đó mới phát sinh mục đích. Như vậy, sự tình lại rất khó thuyết phục, giải thích không thông suốt.

Giả thiết là lực lượng đó coi như là ma quỷ, đang đi dạo vào một ngày nào đó, đột nhiên phát hiện ra tại đây có cái hầm, sau khi cân nhắc thấy có thể dùng được, liền hứng lên nghĩ ra một âm mưu, tiếp theo bằng một thủ đoạn nào đó mang chúng tôi nhét vào đây, giam hãm trong cái nơi này, để thực hiện âm mưu đó....

Nếu quá trình là như vậy thì mục đích của hắn nhìn thế nào cũng không phải chuyện gì đứng đắn, hơn nữa hành vi như vậy từ lúc bắt đầu cho tới khi kết thúc có bàn bản hẳn hoi, mục đích và hành động đều rất táo bạo, quả thục giống như tư duy của con người. Tôi cũng không loại từ trường hợp trên đời này có khả năng tồn tại một lực lượng hần bí nào đó, nhưng tôi thấy nó chắc chắn là lực lượng siêu nhiên, không thể vì cái lợi ích và hiệu quả kém cỏi đó.

Nhưng nếu như lực lượng đó không phải là ma quỷ, mà là một người, vậy thì sẽ khác.

Có một người biết nơi đây có một cái hầm, phát hiện nó có thể lợi dụng được, liền sắp xếp một âm mưu, dùng thủ đoạn để đánh hôn mê Bàn Tử và Muộn Du Bình rồi cũng bằng một cách vô cùng xảo diệu nào đó đưa họ tới nơi này, để thực hiện kế hoạch của hắn. Nghe thế rất hợp lý, chúng tôi không cảm thấy người đó không khả thi, còn có thể cảm giác được là hắn dùng trăm phương ngàn kế, thậm chí là đằng sau còn có âm mưu lớn hơn nữa.

Có một nhà hiền triết từng nói: sau khi loại bỏ hết tất cả những khả năng không thể xảy ra, khả năng bất khả thi nhất cũng có thể xảy ra. Vì thế mà tôi vẫn luôn cảm thấy nguyên nhân chuyện này rất kỳ quái. Trong toàn bộ sự việc, tôi cảm giác được mùi "âm mưu" dày đặc.

Nói cách khác, làmkhông tốt, chúng tôi đã nằm trong kế hoạch của "người" thiết kế âm mưu. Chỉ làâm mưu này quá khéo léo, tơi mức không thể lý giải nổi. Tôi nhìn về phíaMuộn Du Bình, anh ta nhất định đã sớm ý thực được điều này. Cho nên cơ bản làkhông tham gia vào giả thiết của chúng tôi, nhưng Muộn Du Bình cũng không hềhành động thêm một bước nào, vì chúng quy vẫn còn cảm giác không thể nào chứngthực được.


Chú thích:

Bermuda*: tên chính thức, Quần đảo Bermuda hoặc Đảo Somers) là một lãnh thôi hải ngoại của Anh nằm trong Bắc Đại Tây Dương. Nằm về phía bờ đông Hoa Kỳ, cách khoảng 1770 km về phía đông bắc của Miami và Florida và 1350 km (840 mi) về phía nam của Halifax, Nova Scotia. Cách Bermuda gần nhất (đất liền) là Cape Hatteras, Bắc Carolina khoảng 1030 km (640 mi) về phía tây-tây bắc. Nó là lãnh thổ hải ngoại còn lại của Anh lâu đời nhất và đông dân cư nhất, được Anh Quốc định cư một thế kỷ trước khi có Đạo luật liên minh tạo nên Vương quốc Anh.

Tam giác Bermuda, còn gọi là Tam giác Quỷ, là một vùng biển nằm về phía tây Đại Tây Dương và đã trở thành nổi tiếng nhờ vào nhiều vụ việc được coi là bí ẩn mà trong đó tàu thủy, máy bay hay thủy thủ đoàn được cho là biến mất không có dấu tích. Cho đến ngày nay vẫn còn có một số biến cố chưa được giải thích dứt khoát và vì thế đã trở thành cơ sở cho nhiều tác phẩm văn học và phim ảnh.

Lưu Bá Ôn*: Lưu Bá Ôn ( 1311-1375), tên thật là Lưu Cơ (劉基), tên tự là Bá Ôn (伯溫); là nhà văn, nhà thơ và là công thần khai quốc nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong những nhân vật có nhiều huyền thoại, là người đã đề cao tư tưởng "quan bức, dân phản", đồng thời là tác giả tản văn "Mại cam giả ngôn" nổi tiếng nhằm đả kích giới "thống trị thối nát"

Chương thứ 46

Dị biến

Mấy ngày tiếp theo, tất cả mọi chuyện đều không có gì thay đổi. Ban đầu tôi không thể nào thích ứng được, đói tới tối tăm mặt mũi, nhưng sau đó ba ngày cơ thể tự nhiên chuyển sang tiêu hao năng lượng dự trữ, tình hình cũng dần trở lên bình tĩnh hơn.

Không có chuyện gì phát sinh, thời gian như ngưng lại. Như trong tiểu thuyết võ hiệp có rất nhiều nam nữ si tình đều bị nhốt trong cảnh tuyệt vọng, cho tới khi bọn họ ra được bên ngoài khi vô tình nhớ lại quãng thời gian đó, thường thấy là thời gian trong tuyệt cảnh mới là hạnh phúc và an bình nhất.

Nhưng tình hình thực tế lại hoàn toàn không phải vậy, đống lửa để liu riu, xung quanh chỉ thấy tiếng nước chảy không ngừng, dưới ánh lửa vách đá hiện lên một màu vàng ảm đạm. Ở trong sơn động bao nhiêu cảm xúc đều bị khóa chặt, thực khiến con người ta luôn cảm thấy bất an. Tôi phải học theo Muộn Du Bình, hằng ngày ngồi thiền mới có thể chịu đựng được, nếu không dễ đã phát điên.

Bàn Tử là kiểu người thiếu kiên nhẫn, tôi cũng không biết hai người bọn họ trong hai tuần vừa rồi làm thế nào mà nhịn được, nhưng hình như anh ta mỗi ngày đều nghĩ ra những trò đùa mới để giải khuây.

Mặt khác, mỗi ngày chúng tôi ở đây đều dùng tàn hương bôi lên thạch bích một lần, hi vọng tìm ra vài dấu vết khác.

Quả thật là trên mặt đất có rất nhiều hình vẽ, xem ra trước kia người ta nghỉ ngơi thường vẽ xuống một vài thứ. Chúng tôi thấy có bàn cờ đơn sơ, có rất nhiều chữ, nhưng chúng đều không có giá trị, chỉ có một thứ làm tôi cảm thấy là có chút ý nghĩa, đó là trong những vết khắc trên vách đá, đại khái là có một thợ mỏ khi nghỉ ngơi khắc lại, hình như là cái tên người, là Triệu Thúy tỷ, hình như là người trong mộng. Nhìn đó tôi lại nhớ tới A Quý trên kia, phỏng chừng anh ta sẽ nguy mất.

Đến ngày thứ ba, tôi không tự chủ được suy nghĩ của mình đâm ra nghi ngờ, nghĩ không biết còn phải đợi trong bao lâu nữa, lẽ nào lại không có chuyện gì xảy ra sao? Hay là con quỷ kia quên mất chúng tôi ở đây rồi?

Muộn Du Bình vẫn như cũ, dao găm của tôi bị anh ta cầm, dắt ở ngang hông. Người bất động, cả ngày dựa bên đống lửa, không nhìn ra có chút lo âu nào.

Tuy rằng trước kia vẫn thường thấy bộ dạng này, nhưng tôi cảm giác giờ anh ta bình tĩnh quá mức, có khi còn cảm giác như anh ta biết sắp có chuyện gì xảy ra.

Tình hình cứ như vậy tới nửa đêm ngày thứ năm- hẳn là nửa đêm, nếu đồng hồ của tôi còn chạy đúng, bỗng nhiên có biến cố xảy ra.

Tôi dậy đi tiểu, đang phê, đột nhiên phát hiện Muộn Du Bình không còn ở vị trí cũ, kinh ngạc một chút, theo bảo năng nhìn ra chung quanh, bỗng thấy anh ta đứng trước vách đá, đang nhìn cái gì đó.

Bàn Tử vẫn còn ngáy ngủ, tôi thấy tình hình không ổn, nhìn đồng hồ một cái rồi tới đá anh ta ta dậy, hai người cùng đi tới xem.

Tới trước vách đá vừa ngó vào, chúng tôi cùng kinh thần sửng sốt, bóng người kia lại xuất hiện.

Lòng tôi thầm nhủ, Muộn Du Bình nửa đêm nhìn cái này làm gì? Nhìn lại lần nữa, phát hiện vách đá không hề có dấu hiệu bị thấm nước, hơn nữa bóng người quỷ dị kia nhìn có chút khác với lúc trước.

Cầm đèn pin lên soi vào vách đá, trong tích tắc tôi lập tức hít một ngụm khí lạnh, trong vách đá toàn là những bóng đen, giờ có thể thấy rất rõ ràng. Dưới anh sáng mạnh, những bóng người đó cách bề mặt vách đá một khoảng gần hơn trước rất nhiều.

"Cái cmn! Chuyện gì xảy ra đây?" tôi mắng.

Muộn Du Bình nói:" chúng đang di chuyển tới chỗ chúng ta."

Chương thứ 47

Quái vật

Đúng là bóng người trong vách đá đang tiến gần tới chỗ chúng tôi, hơn nữa động tác liên tục thay đổi rất kỳ quái, cái đầu quỷ dị đưa ra đằng trước, nhìn như là đang cố gắng lao ra khỏi vách đá vậy.

"Di chuyển sao?" Bàn Tử vẫn còn ngái ngủ, không rõ mô tê gì.

"Lúc trước chúng bị chôn trong vách tường cách ba thước, giờ chỉ còn chưa tới một thước." Muộn Du Bình nói xong liền ra hiệu, "năm ngày, chúng tiến gần được hai thước, vậy còn lại một ngày rưỡi nữa...."

Anh ta dừng một lát rồi không nói thêm.

Tôi hiểu anh ấy muốn nói gì, chỉ còn một ngày rưỡi nữa, những bóng đen này sẽ đi ra từ trong vách đa kia.

"Chẳng lẽ chúng còn sống sao?" tôi không khỏi rùng mình sợ hãi.

Muộn Du Bình lắc đầu, chỉ nhìn chằm chặp vào những bóng đen đó, động tác đó nhìn như đang đối diện với bọn chúng vậy.

Trong tích tắc cơn buồn ngủ của tôi liền biến mất, tay cầm đèn pin soi một vòng, thấy bốn phía tất cả đều là những bóng người, toàn thân da gà nhất loạt nổi lên. Bọn chúng rốt cuộc là cái quái gì vậy? Nếu chui ra khỏi vách tường kia...chỉ nghĩ thôi da đầu tôi đã tê dại đi rồi.

Đi quanh một vòng, tôi đột nhiên ý thức được điều gì đó, lập tức mắng:" thế quái nào! Chẳng lẽ đây chính là mục đích kia?"

"Mục đích gì chứ?" Bàn Tử vẫn mơ mơ màng màng.

"Tôi không rõ lắm, nhưng có lẽ là một nghi thức hiến tế, chúng ta là tế phẩm, hoặc đây là một kiểu chăn nuôi động vật, mà chúng ta là thức ăn, cũng có thể là một cuộc đi săn, chúng ta là con mồi... Nói chung chúng ta được chuẩn bị cho những bóng đen này."

Bàn Tử nhíu mày một cái, cuối cùng cũng tỉnh ngộ, ngơ ngơ vài giây mới mở miệng mắng một tiếng:" cái con mợ nó! Không thể nào!"

Tôi nói cái gì không thể chư? Nhìn những bóng đen hình hài quỷ dị này mà xem, chắc chắn không phải là cái dạng mỹ nữ gì, mà bọn chúng lại bị chúng ta thu hút, tuyệt đối không phải là chuyện gì hay ho.

Lòng tôi lúc đó loạn lên thành một mớ, không biết phải làm gì, nhìn về phía Muộn Du Bình, thấy anh ta đang nhập tâm suy nghĩ, không biết tính toán điều gì.

Bàn Tử đột nhiên bới ra trong đống công cụ một cái búa đục đá, vứt cho tôi.

"Để làm gì chứ?" tôi hỏi.

"Ra tay trước chiếm tiện nghi." Bàn Tử trầm giọng nói, "đánh cho ngay cả mẹ chúng nó cùng không nhận ra luôn." nói rồi chuẩn bị đi đập đá.

Tôi giữ anh ta lại, " những thứ này không biết là cái gì, anh đập mấy cái mà nó không chết, ngược lại còn giúp chúng nó từ bên trong ra ngoài, đến lúc đó xem anh xử lý thế nào!"

Bàn Tử mắng:" tôi thật không chịu nổi tên ngốc nhà cậu! Cậu không muốn đục một cái lỗ ra xem trước bên trong kia có gì à?"

Tôi trước sau vẫn cảm thấy không ổn, nhìn sang Muộn Du Bình, anh ta lại lờ chúng tôi đi như cũ.

Bàn Tử nghĩ là anh ta cũng tán thành, lập tức giơ búa đá lên, bổ vài nhát xuống phía có bóng đen kia.

Mấy chục ngày trời chưa được hạt cơm nào vào bụng, thể lực chịu không nổi, bổ một nhát chỉ đục được ra một cái lỗ con con, nhưng đá ở đây cũng vô cùng giòn, vài nhát sau đá nứt ra thành một cái khe hở hẹp.

Bàn Tử suýt xoa vài tiếng, tiếp túc kiên trì bổ xuống, bề mặt ngọc thạch bị khoét một hố tương đối sâu.

Trong vài giây, một mùi đặc biệt nặng từ trong kẽ đá tỏa ra, gần như khiến người ta không thể thở nổi, chúng tôi bất giác lui về sau mấy bước.

Bàn Tử còn muốn đập tiếp, lần này tôi lập tức ngăn anh ta lại vì theo như tôi thấy từ sâu trong khe hở này có cái gì đó đã hiện ra.

Chúng tôi bịt mũi, chờ cho thứ mùi kia tản bớt ra rồi mới tiến lại gần quan sát.

Bàn Tử cầm đèn pin, soi vào trong khe hở.

Thoạt tiên chỉ thấy một màu xanh xanh, giống như là màu đá, chẳng rõ là bộ phận nào của cái bóng người kia. Vốn cũng không quá sợ hãi, nhưng phải ghé sát để nhòm, cái thứ bên trong bỗng chuyển động khiến tôi bị giật mình, tiếp theo, có hai tròng mắt trắng dã từ sau khe hở hiện ra, trừng trừng nhìn về phía tôi.

Trong tích tắc đó, tôi gần như ngừng thở.

Cặp mắt kia không ẩn chứa chút cảm xúc gì, cũng không nhìn về bất kỳ một phương hướng nhất định nào, nhưng nếu là bạn thì bạn biết nó đang nhìn về phía mình, hé mắt qua cái khe trừng trừng quan sát, tình hình quả thực rất là quỷ dị!

Tôi và Bàn Tử không khỏi cùng hít một ngụm khí lạnh, hai người đều giật nảy, đồng thời ngay lập tức xác nhận, thứ này không phải là người!

Không dám nhìn nữa, tôi ép buộc bản thân phải dời đi chỗ khác, Bàn Tử cũng không biết làm gì lúc này cho phải.

Tôi nhìn anh ta, thầm nghĩ không phải anh to mồm muốn đánh cho ngay cả mẹ nó cũng không nhận ra được sao? Bàn Tử lại lắc lắc đầu.

Vừa định nói vài câu, đột nhiên từ trong khe nứt truyền ra một tiếng nghe như tiếng trẻ con hét, rất chói tai, đồng thời là có hai móng vuốt cực nhỏ với ra ngoài, tóm lấy cổ tôi.

Tốc độ nhanh kinh người, tôi phản ứng không kịp, bị nó kéo về phía kẽ hở, đập đánh rầm một cái vào vách đá.

Muộn Du Bình phản ứng nhanh hơn so với Bàn Tử rất nhiều, trong tích tắc đã nhào tới túm được tôi, tay còn lại vung dao găm chọc vào bên trong khe hở, đâm trúng cổ tay của nó, đâm hai ba nhát nó mới chịu thả tay ra.

Tôi vừa ngã xuống đã thấy Bàn Tử với tay kéo đi.

Hai móng kia lập tức lại duỗi ra, chới với trong khoảng không. Bàn Tử vác búa lên đập cho nó mấy cái, cũng không biết có trúng không, hai ngón tay liền rụt lại vào trong.

Chúng tôi còn chưa hoàn hồn, chống tay đầu gối thở hồng hộc nửa ngày. Bàn Tử nói:" chết cnm tiệt! Con bà nó chứ, kia hẳn là quái vật!"

Bên kia Muộn Du Bình đã thấy quay đầu về bên đống lửa, một tay cầm cái rổ, tay còn lại xúc vào một vốc than đang cháy, nói:

"Hỗ trợ!"

Chương thứ 48

Củi lửa

Tôi vừa nhìn liền hiểu ngay ra ý định của Muộn Du Bình, không cần phải nghĩ nhiều nữa, anh ta lập tức đem rổ củi đang cháy kia hất vào trong khe hở.

Vật bên trong còn cách một khoảng, Bàn Tử theo sau vừa hất xong rổ củi cháy thì lập tức đẩy nó vào bên trong.

Ngay sau đó trong khe đá vang lên từng đợt gào thét, như tiếng trẻ sơ sinh kêu khóc, chói tai kinh người, thê lương khủng khiếp.

Theo lý mà nói, giết chết loài động vật quái dị này sẽ chẳng có quá nhiều áp lực tâm lý, nhưng khi tôi nghe thấy tiếng thét đó, trong lòng đột nhiên có cảm giác nhói lên, thực sự không nỡ, như là nó giờ hoàn toàn bị yếu thế, chỉ có thể mặc cho người ta áp bức.

Muộn Du Bình mặt lạnh như băng sương, không chút do dự vẫn tiếp tục đổ than cháy vào.

Trong không khí tràn ngập thứ mùi quái đản, đối với tôi mùi này hết sức quen thuộc, đó là "mùi người chết" toả ra từ trong khối sắt, không ngờ nó thực sự là hiện thân cho cái chết. Bóng đen trong vách đá không ngừng run rầy, từ từ dừng lại, tiếng thét thê lương cũng trở lên mơ hồ không nghe rõ nữa.

Bản thân tôi đã có chút mềm lòng, tuy là vừa rồi thiếu chút nữa là bị nó tóm được, nhưng như thế này rõ ràng là giết đi một sinh linh, trong lòng vẫn vô cùng bức bối.

Bàn Tử không yếu lòng như tôi, tuy cũng có lẩm bẩm gì đó, nhưng không làm ra mặt, chỉ gượng cười nói mấy tiếng:" kiếp sau đầu thai làm người, đừng đầu thai nhầm chỗ nữa."

Sau cùng, bóng đen kia không còn cử động, chỉ thấy từ trong khe hở trên vách đá bốc lên một làn khói xanh.

Tôi chản nản ngồi xuống đất, thởi dài đánh thượt, vừa định nghỉ ngơi một chút, Muộn Du Bình lại nói:" chưa xong đâu."

Tôi ngẩn đầu nhìn lên liền vỡ ra ý anh ấy là gì, trên vách đá bên kia, còn có ba bóng đen chỉ còn cách bên ngoài vô cùng gần.

"Chúng ta phải làm sao đây?" tôi vội hỏi.

Muộn Du Bình không trả lời, nhìn sang Bàn Tử. Anh ta gật đầu một cái, lập tức giơ búa và đục lên, tiến về phía một bóng người khác, tôi không muốn nhìn lại cảnh đó, đành ngồi im không nhúc nhích ở nguyên vị trí. Bàn Tử niệm vài tiếng A di đà Phật, vừa xuống tay đập đá, rất nhanh sau đó cảnh tượng lúc trước lại tái hiện.

Tới người thứ ba, Bàn Tử cũng không chịu nổi, đầu đầy mồ hôi lạnh, đứng trước bóng đen kia thật lâu, lát sau mới quay lại hỏi Muộn Du Bình:" Tiểu Ca à, hay là mình nghỉ một chút đã?"

Muộn Du Bình lắc đầu, nhìn xung quanh rồi lạnh lùng nói:" nghỉ sẽ không còn thời gian nữa."

Quay đầu nhìn lại, ngay lập tức tôi phát run lên, không biết từ khi nào mà những bóng đen đã hiện ra trên bề mặt vách đá, liếc qua cũng có thể thấy rất rõ ràng là nhiều hơi cả dự tính mười con ban đầu, hơn nữa nhìn bằng mắt thường cũng thấy được.

Chúng đang từ từ di chuyển ra bên ngoài vách đá.

Đây là chuyện quái gì? Chẳng lẽ chúng nhận ra ý đồ của bọn tôi nên tăng tốc?

Tôi đứng lên, Muộn Du Bình rút dao găm của tôi ra nắm trong tay trái, Bàn Tử vác một cái búa đập đá lên, tôi tay không tấc sắt, nhìn quanh một lúc, nhặt dưới đất một cây gậy sắt, ba người đứng tựa lưng chú tâm quan sát bốn phía.

Bàn Tử đã nổi hứng, người như anh ta thật sự rất hợp với loạn đả, không quan trọng kia là người hay là yêu quái. Chợt nghe Bàn Tử mắng vài tiếng, nói:"chó má thật! Cũng được, con mẹ nó chứ tôi thật không thể ở lại nơi khỉ gió này nữa, nếu phải chết đói thì thà tôi chết trong vinh quang còn hơn, chúng ta đại khai sát giới một trận!" nói xong hình như là nhớ ra cái gì đó, một cước đá bay tượng thần, "con mẹ nó chứ, không nể mặt nhau gì cả, lão tử bái lạy ngươi chẳng khác gì bái lạy một "con gà con" "

Lòng tôi nhảy dựng lên, bất giác run run nhưng bất ngờ là không phải do sợ, nhìn Bàn Tử nói:" chết như vậy có gì là vinh quang chứ? Con mẹ nó ai biết được anh chết thế nào đâu?"

Vừa mới nói xong, đột nhiên sau gáy lạnh toát, như có cái gì vừa rơi xuống cổ tôi, tôi giật mình vội nhảy lùi lại rồi cho tay lên sờ thử. Vừa nhìn thì ra là một vài mảnh đá vụn.

Chợt nghĩ, thế quái nào, vừa rồi quên mất trên đầu mình cũng là vách đá, ngầng đầu lên lập tức thấy trên trần chỉ cách chưa tới hai gang tay có một vết nứt, từ trong đó có một thứ toàn thân xanh biếc ló ra.

Chúng tôi lập tức né tránh, cùng lúc đá trên trần cũng nứt ra, một đống màu xanh thòng từ trên xuống, sau đó là tiếng thét thảm thiết vang lên.

Dưới ánh sáng leo lét của đèn pin, tôi cơ bản không thể thấy rõ được toàn bộ diện mạo của thứ đó, chỉ biết có một cái bóng vừa rời xuống, trong nửa giây bị ánh sáng chiếu tới liền lập tức né tránh, va vào ngay trên đống lửa.

Lửa bị gạt văng ra tứ phía, tia lửa và tàn lửa cũng vung vãi khắp nơi, ánh sáng lớn nhất đã bị đá tung, bốn phía lập tức rơi vào bóng tối đen kịt, chỉ có thể nhìn thấy rất nhiều chấm lửa li ti trên nền đất.

Biến cố này tôi không kịp chuẩn bị, dùng đèn pin đuổi theo thứ kia, nhưng chỉ thấy được tàn ảnh của nó.

Bàn Tử phản ứng nhanh nhất, nhặt ngay một thanh củi vẫn còn đang cháy, nhưng vừa mới cầm lên thì nó lụi ngay lập tức, chỉ còn lại một đầu tàn lửa hồng hồng.

"Chó má!-" Bàn Tử mắng to, "cái-" một chữ vẫn chưa nói xong liền hóa thành tiếng kêu đau đớn, người như bị thứ gì quật ngã xuống đất, tiếp theo là liên tiếp những tiếng đấu đá thùm thụp.

Vội soi đèn về phía phát ra âm thanh, thấy Bàn Tử và một con gì đó đang vật lộn, lại soi qua chỗ khác theo Muộn Du Bình, đèn vừa chuyển lại không thấy anh ta đâu nữa, chỉ thấy trước ánh đèn là một khuôn mặt dữ tợn vô cùng.

Tôi lia đèn pin theo quán tính, do đó khuôn mặt kia chỉ hiện lên trong nháy mắt, vậy không đáng sợ bằng phải tận mắt chừng kiến nó. Tôi nhất thời bị dọa cho sợ chết khiếp, phản xạ tự nhiên là lùi về phía sau, thốt lên:

"Lại một con nữa chui ra!"

Sợ thì sợ, gậy sắt trên tay tôi lập tức vung về phía trước vài đường, trúng phải cái gì đó phát ra tiếng trầm trầm, nhưng không dùng sức. Gậy bằng sắt, vô cùng nặng, tôi thấy bằng tay không thì chẳng thể vung được nổi hai cái, đành phải thu chiêu, lại dùng đèn pin soi.

Còn chưa soi thấy cái gì sau lưng đã bị va mạnh, cả người bị hất ngã úp mặt xuống đất. Đèn pin rơi khỏi tay, không biết bay đi đâu nữa.

Tôi ngóc đầu dậy liền biết không xong rồi, chẳng thấy cái mù nào cả, thật sự rất phiều toái. Lúc này chợt nghe thấy Muộn Du Bình hô to một tiếng:" nằm giáp xuống đất, không được cử động!" tiếp theo lại nghe thấy một tràng gào thét thê lương, có cái gì đó ngã vật ra bên cạnh người tôi.

Tôi ôm đầu lùi sang một bên, cách thân vài gang tay có tiếng kêu khàn khàn, sau đó từ trong bóng tối nghe thấy "răng rắc, răng rắc" tiếng xương khớp bị bẻ gãy, tiếng kêu thảm ngừng bặt.

Bên kia, Bàn Tử vẫn còn chưa dừng vật lộn, nghe thấy có tiếng búa giáng xuống, "Chết cmm đi! Dám đánh trộm Bàn gia ông mày à! Này thì ôm trộm ông mày này!" Tiếng búa giáng kèm theo một giọng thét xé lòng, sau đó búa vẫn giã đều đều nhưng không còn nghe thấy động tĩnh gì nữa. Bàn Tử nhổ một cái xuống đất.

Không biết rõ tình hình bên đó thế nào, quanh tôi thoáng chốc liền lặng đi.

Tôi hỏi:" giải quyết hết rồi à?"

Muộn Du Bình bên cạnh lạnh lùng nói:" đừng nói gì cả, chỉ nghe thôi!"

Tôi lập tức nín thở, lắng tai nghe trong bóng tôi truyền tới tiếng bò sàn sạt, không thể đoán được là thứ gì.


Chương thứ 49

Có ba lăm con

Bỗng thấy trên vai có cảm giác bất thường, chỗ vừa rồi bị Muộn Du Bình giữ lại đầy những huyết. Bên kia Bàn Tử thét lên một tiếng thảm thiết, không phải là kiểu chiếm thế thượng phong mà là tiếng gầm khi bị rơi vào đường cùng, nghe mà hồn bay phác tán.

Tuy rằng tôi không nhìn thấy cái gì, nhưng có thể tưởng tượng được bốn phía đang diễn ra hoạt cảnh thế nào. Những bóng người trong vách đá khẳng định đang bao vây quanh ba bọn tôi.

Nhớ lại những dòng chữ trên mặt đất kia có viết: mười sáu, bảy, mười, bốn tổng cộng là ba mươi bảy. Vừa rồi hai con đã bị chết cháy, vậy chúng tôi phải đối mặt với ít nhất là ba mươi lăm con nữa.

Tôi nhìn không thấy tình hình xung quanh, chẳng biết Bàn Tử có bị thương không nên cũng không lo lắng nhiều, trong lúc đó cũng không có nhiều tinh lực để suy nghĩ lung tung nữa, nắm chặt gậy sắt, tập trung toàn lực chú ý vào hai bên tai.

Bàn Tử cách chúng tôi rất xa, khả năng còn bị ngăn trở, bên cạnh anh ta không có ai, chắc khó mà nhẫn nhịn được, tiếng hô hấp vô cùng nặng nề, nhưng đồng thời lại rất nhỏ, dường như phải ghìm chặt phổi của mình, tôi thầm nhủ giờ mình phải đi tìm anh ta.

Không mất bao nhiêu thời gian, đột nhiên chỗ Bàn Tử vang lên một tiếng ầm ầm, nghe thấy như anh ta bật dậy, suýt xoa một tiếng đau đớn, sau đó hét to:" cái con mợ! Khai đao!"

Hô xong tiếng đó, không biết là anh ta đập trúng cái gì, bên đó lập tức trở lên hỗi loạn, có tiếng kêu, cùng lúc lại có tiếng như cả trăm con chim bị giật mình bay quang quác, rối ren vô cùng, tất cả đều tập trung về phía Bàn Tử.

Tôi vung gậy tính lao tới giải vây, nhưng chưa được hai bước liền va vào một đống nằm lăn trên mặt đất, trăng trắng dinh dính. Còn chưa kịp phản ứng, trong bóng tôi đã vang lên một tiếng rít, kình phong nổi lên tứ phía, người bị hất cho ngã nhào xuống đất, nhiều chỗ bị va mạnh đau tới tái mặt.

Đưa tay lên quơ liền bắt được một móng vuốt vội vàng gạt nó đi. Ba chân bốn cẳng khua tay loạn bậy, trong vài giây mà tay đã bị cào cho be bét. Có điều là chỉ sau đó một lát liền nghe thấy một tiếng rít đau đớn, thứ kia bị đạp văng ra ngoài.

Tôi mau chóng khua tay chân bật dậy, lại bị Muộn Du Bình bên cạnh kéo vai lại, tai nghe tiếng anh ta nhẹ giọng quát:

" Không được lên tiếng, cậu cũng không được cử động!"

Nói xong liền lao tới chỗ Bàn Tử như cuồng phong.

Tôi lấy làm lạ, vừa rồi còn định qua hỗ trợ nhưng lời Muộn Du Bình nói không thể không nghe. Bỗng lại thấy trên vai có gì đấy không đúng, sờ một cái chỗ vừa rồi bị Muộn Du Bình nắm đã dính đầy máu.

Đổ máu nhiều như vậy chắc chắn là phải bị trọng thương. Lòng tôi bỗng trầm xuống, trận đánh vừa rồi nghe thì có vẻ như là phe mình chiếm thế thượng phong, nhưng rõ ràng là cũng không giành được bao nhiêu cơ hội.

Có nhiều khi tôi tưởng tượng rằng trong ba người chúng tôi có một người phải chết, liệu tình hình lúc đó sẽ thế nào? Nhưng chung quy tưởng tượng mãi chỉ là tưởng tượng mà thôi, chỉ cần có Muộn Du Bình ở đây, tôi cảm thấy sẽ không có chuyện như thế xảy ra. Nhưng hoàn cảnh hiện giờ, những suy nghĩ ấy của tôi đã tan thành mây khói, Bàn Tử bên kia khả năng sẽ bị hại chết ngay nơi này.

"Thoái lui tới bên tường đi!"

Có tiếng gọi vọng ra từ chỗ Bàn Tử, kèm theo đó là tình hình càng lúc càng thêm hỗn loạn, tiếng kêu thảm thiết, tiếng ngã huỳnh huỵch, tiếng Bàn Tử chửi mắng, tất cả hòa vào nhau thành một mớ ồn ào (như chợ vỡ :D ).

Trong đầu tôi trống rỗng, lúc này không còn chất xám mà nghĩ nữa, ngồi im ôm chặt gậy sắt, chỉ có thể nín lặng mà nghe ngóng tình hình bên kia, giờ mình có muốn lao vào cũng vô ích, tình hình rối ren tới mức tôi không thể hiểu nổi, nếu không phải là người có thân thủ vô song, lao tới dễ sẽ bị Bàn Tử thẳng tay đập chết.

Cũng không biết tình hình kéo dài trong bao lâu, đột nhiên mọi thứ đồng loạt biến mất, không gian bỗng rơi vào một khoảng tĩnh lặng.

Tôi vẫn không dám nhúc nhích, không biết đang xảy ra chuyện quỷ gì. Bọn họ đều chết hết rồi sao? Hay là toàn bộ những người đá kia bị giết cả rồi? Hoặc chỉ có hai người bọn họ chết thôi?

Cẩn thận nghe ngóng một lát, đột nhiên "choang" một cái, đèn pin bên kia cuối cùng cũng sáng lên, quay đầu nhìn lại thì hóa ra là Muộn Du Bình, một tay giữ Bàn Tử, tay còn lại cầm đèn pin của tôi.

Tôi định lên tiếng, lại thấy anh ta khập khiếng dìu Bàn Tử tiến tới bên cạnh tôi, buông Bàn Tử xuống, bản thân cũng ngồi vào một góc, hai người toàn thân đầy những vết thương, máu chảy loang lổ.

Gần như là toàn thân nhuốm máu, hình xăm kỳ lân trên người anh lại hiện lên. Lúc ấy không chỉ có trên bờ vai mà nguyên nửa người của Muộn Du Bình như đang bốc cháy, vết xăm lan ra toàn thân.

Tôi chết lặng, Muộn Du Bình đưa đèn pin cho tôi, cầm lấy tay tôi chĩa ánh đèn về phía vách đá, trên đó có một lỗ hổng, dường như là nơi mà những người đá kia vừa chui ra ngoài.

"Đây là cách mà hầm này được hình thành, tôi vừa ngó qua rồi, đường hầm kia có thể thông ra bên ngoài." anh ta nói, "cậu mang theo mấy thứ này rồi mau rời đi đi."

Tôi lập tức gật đầu. "anh cứ nghỉ ngơi một chút trước đi, tôi giúp anh kiếm tra vết thương, nếu không việc gì chúng ta lập tức ra ngoài. Con mẹ nó chứ, tôi còn nghĩ lần này chúng ta lành ít dữ nhiều cơ. Tôi thực phục anh lắm, không ngờ anh lại đỉnh tới mức này."

Muộn Du Bình dựa đầu vào vách đá phía sau, thản nhiên nói:" tôi và cậu ta, không đi được nữa."

"Anh đang nói linh tinh gì vậy?" tôi mắng.

Muộn Du Bình đột nhiên nhìn tôi cười cười, nói:" cũng may là tôi không hại chết cậu..."

Tôi ngỡ ngàng, anh ho một hồi, trong miệng hộc ra một ngụm máu.

"Anh-" đầu tôi ong lên một tiếng.

Muộn Du Bình vẫn nhìn tôi cười, đầu từ từ ngả xuống, anh ngồi đó như đang nghỉ ngơi, nhưng bốn phía xung quanh lại hoàn toàn chìm vào trong tĩnh lặng.

Chương thứ 50

Thoát ra

Nhìn Muộn Du Bình im lặng trước mắt tôi, trong lòng trào lên một cảm giác rất khó tả.

Tôi không biết lúc đó trong đầu mình đang nghĩ cái gì, chắc chắn là có vô số những suy nghĩ phát sinh nhưng tôi lại không hề có một cảm giác gì.

Ngây ra mất một lúc rồi mới bừng tỉnh được, lập tức run run đưa tay sờ vào mạch ở cổ tay Muộn Du Bình, tôi đã dùng hết can đảm để đưa ra quyết định đó.

Thật may, còn thân nhiện vẫn còn ấm, mạch đập vô cùng nhẹ, gần như không cảm nhận được.

Quay đầu nhìn sang Bàn Tử, phát hiện trên bụng anh ta bị thủng một lỗ lớn, lục phủ ngũ tạng đều bị lôi ra ngoài, mạch đập càng lúc càng nhỏ.

Vết thương trên người bọn họ vẫn đang chảy máu, dọc ngang đầy những vết cắn xé, rõ ràng thứ kia phải có móng vuốt vô cùng dài mới có thể cào được ra như thế. Có thể suy ra trận ác đấu vừa rồi khủng khiếp tới nhường nào.

Mất máu quá nhiều dễ dẫn tới suy tim rồi chết. Tôi vẫn giữ cho mình một chút hi vọng, bất lực, buồn, hồi hận, không thể nào hình dung được hết những cảm xúc cùng lúc nảy sinh trong lòng, nước mắt gần như sắp trào ra.

Cũng không biết vì sao mà tôi lại trở lên quyết đoán tới vậy, trong tích tắc tôi gạt hết những đau thương đó đi, bỗng thấy mình bình tĩnh lạ.

Bản thân cũng bị cái bình tĩnh tới bất ngờ đó làm cho giật mình, như là có một người khác ở bên trong thay mình gạt bỏ hết những ưu tư đó. Không biết khi trải qua cái thời khắc này, những người khác có cảm thấy giống vậy không, nhưng vào lúc này, trong đầu tôi cảm giác đã vô cùng rõ ràng.

- Bọn họ còn chưa chết, tôi sẽ không thể vội vã rơi khỏi đây, nhưng cũng không thể cứ như vậy mà nhìn họ chết. Tôi phải làm gì đó, phải nỗ lực tới giây phút cuối cùng.

Tôi đứng lên, đầu tiên cân nhắc phải làm sao đây.

Trước mắt cần tìm lấy một ít tàn hương, đem rắc lên những vết thương sâu nhất của bọn họ, nó sẽ giúp cầm máu tạm thời. Sau đó sẽ nhặt lục phủ ngũ tạng của Bàn Tử từng chút một nhét vào trong bụng. Cái cảm giác đó tôi không bao giờ muốn ghi lại.

Sau khi làm xong, đi lấy đồ lặn lại, xé ra làm mấy mảnh, đi nhặt thêm vài khung gỗ, buộc chúng với nhau thành một cái cán, buộc hai người bọn họ lên đó rồi lôi đi.

"Cho dù có phải chết, tôi cũng phải đưa các anh ra khỏi đây." tôi cắn răng thề.

Sau khi đã làm xong, một tay cầm đèn pin, một tay giữ dao găm, nhìn xung quanh. Trên kia tất cả đều là thứ chất lỏng màu xanh biếc, có lẽ là máu của bọn quái vật đó, nhiều hơn nữa là màu đỏ mơ hồ của máu người, một đống hỗn độn.

Tôi không nhìn kỹ, cũng không dám nhìn kỹ, chuyển hướng tứ phía vách đá, muốn tìm cái cửa động mà Bàn Tử nói, mới liếc mắt một cái liền ngây cả người- trong vách đá có loáng thoáng hiện ra những bóng đen, hơn nữa so với vừa rồi còn nhiều hơn, nhưng còn ở xa nên nhìn có vẻ nhỏ, hình dạng như một đứa trẻ vậy.

Tôi nhìn một lượt, không khỏi kinh người, giờ không nên lưu lại thêm nữa, vội kéo bọn họ tới cái của động mà Muộn Du Bình nói là nơi mà lũ người đá chui ra.

Chỉ riêng Bàn Tử đã rất nặng giờ lại cộng thêm cả trọng lượng Muộn Du Bình, tôi phải vận tới hết sức bình sinh mới có thể đem bọn họ kéo vào trong đường hầm được.

Quả thực là đúng như Muộn Du Bình nói, trong lỗ hổng này có lối đi, những con quái vật kia hình như có khả năng ăn mòn ngọc thạch ở đây để từ từ di chuyển bên trong vách đá thì phải. Bốn phía tất cả đều là ngọc thạch, nếu có tên buôn ngọc nào ở đây hẳn sẽ phát điên lên mất.

Nhưng nếu bọn chúng được hình thành trong ngọc thạch này, vậy hẳn là các lối đi đều bị khóa kín. Tôi cố gắng vận sức, kéo một lúc lâu thấy rằng đường hầm rất dài, cảm giác hơi bất thường, vách đá thỉnh thoảng lại hiện ra một gương mặt mơ hồ, nhìn như những người bên trong bức tường đá đang tụ lại trông tôi lê từng bước chậm chạp.

Cũng may là thần kinh của tôi đã trải qua tuyệt đỉnh kinh hãi, nên giờ chỉ đơn giản là mặc kệ nó, cứ thế cắn răng kéo Bàn Tử và Muộn Du Bình đi, chỉ còn biết lo lết đi từng bước.

Đường hầm cũng không có thêm bất kỳ một lối rẽ nào, nhưng đường đi lại vô cùng phức tạp, thậm chí có nhiều chỗ thẳng đứng, tôi tính mình lết liên tục trong mười mấy tiếng đồng hồ, gần như mệt tới bất tỉnh nhưng vẫn chưa thấy thấy hết đường.

Cũng không biết sau đó bao lâu thì đèn pin cũng sắp tắt ngấm,đột nhiên bên tai tôi vang lên tiếng nước chảy.

Tôi lết đi với tốc độ như điên, bất ngờ tay hẫng một cái, cảm giác bên dưới chân không tới đất, người thiếu chút nữa thì ngã xuống.

Cố gắng dùng chút ánh áng còn lại của đèn pin soi một cái, trước mặt xuất hiện một khoảng trống, cũng là một bộ phận bất quy tắc của cái khe núi này, không sâu lắm, hai chân có thể giữ thăng bằng được. Bên trên khe hở nước đổ xuống như thác.

Tôi uống lấy mấy ngụm nước, đèn pin soi về phía trước, không thấy có đường hầm nữa, hình như này nơi này là điểm xuất phát của nó. Từ đây có thể theo cái khe kia đi xuống. Lại tới soi qua hai bên một lượt, cũng được lắm! Tất cả bề mặt khe nứt đều như bị đục ra, hơn nữa toàn bộ là một thể thống nhất, mấy con quái vật kia như mọt núi vậy. Ngoài ra thì không có gì hết cả.

Tôi buông Bàn Tử và Muộn Du Bình xuống, không biết tình hình hiện giờ của bọn họ thành ra thế nào rồi, tự mình từng bước từng bước leo xuống, muốn nhòm xem bên ngoài thông tới đâu.

Thật ra thì hoàn toàn không biết phải làm thế nào nên đành từ từ xuống thăm dò. Đột nhiên tôi thấy hình như nói đó có gió thổi qua, trong lòng mừng quýnh, lập tức chạy theo cảm giác, quả nhiên phía trước có một cửa động.

Tìm ra rồi! (Ơ-rê-ca!) Lòng tôi thầm reo lên, lập tức quay trở lại tháo dây ra để đem từng người ra một.

Chịu đói mấy ngày liền, thực tình tôi sớm đã không còn chút sức lực nào, đoạn đường này vô cùng khó khăn, đi được nửa đường đã thấy trời đất trời đất quay cuồng, cùng lúc bắt đầu có cảm giác buồn nôn. Đây là dấu hiệu thể lực đã chạm vạch cạn bình, tôi cảm giác mình có thể ngất đi bất cứ lúc nào.

Tối thiểu là phải thêm tới sáu bảy giờ nữa mới có thể hoàn thành được vài bước đường đó. Tới khi tôi đi vào trong, được một lát lại tiếp tục phải lết đi trong cảnh trời đất tối tăm.

Tôi có thể xác định, trong quá trình đó, xung quanh mình chắc chắn diễn ra rất nhiều chuyện, vì bên tai luôn vang lên những âm thanh kỳ quái, nhưng tôi không còn lòng dạ đâu mà để ý tới nó, cảm xúc hoàn toàn lộn xộn cùng với toàn thân tê dại. Chính lúc tưởng mình đã chết, tôi lại có suy nghĩ như vậy.

Không biết lết đi thêm bao lâu, phía trước bỗng xuất hiện ánh sáng. Lúc này tôi không còn sức mà tăng tốc nữa, chỉ tiếp tục bước như cái xác không hồn, cứ thể mà lết đi.

Sau đó, trong vài giây, tôi nghe thấy tiếng gió thổi và tiếng nước chảy, cả mặt đất mà tưởng rằng rất lâu rồi tôi không được nhìn tới. Tôi hầu như không biết phản ứng thế ra sao, chưa kịp nhận ra đây là chỗ quái nào, liền thấy có vài người xuất hiện xung quanh, ngẩng đầu nhìn lên chẳng phải là thôn dân có nét mặt nham hiểm sao.

Bọn họ kéo tôi từ trong cửa động ra, trong số bọn họ tôi không nhận ra được một ai cả.

Trên một triền núi đối diện phía khác của bãi đá ven hồ đầy những người là người, trong tai tôi nghe được toàn là khẩu âm Trường Sa.

Cơ thể tôi đã vô cùng suy yếu, vừa được đưa ra ngoài lập tức hoa mắt chóng mặt, tiếp theo có một nhóm người tiến tới chỗ tôi. Nhìn sắc trời có thể đoán giờ đang là buổi tối, tứ phái đèn đuốc sáng trưng, tất cả đều là đèn măng-sông. Còn có người cầm bộ đàm không ngừng gào thét:

" Tìm được rồi! Tìm được người rồi!"

Một nhóm người lại tiến về phía tôi, rất nhanh sau đó tôi đã có thể trông rõ tướng mạo của họ, tôi nheo nheo nhìn, rồi bất ngờ kinh ngạc, kia không phải là chú Hai nhà tôi sao, theo sau còn có Phan Tử nữa.

Bọn họ đều làm mặt rất căng thẳng, không đợi đến lúc chú tiến tới trước mặt, tôi lập tức ngất lịm đi.

Chương thứ 51

Chú Hai

úc tỉnh lại, tôi phát hiện mình đã nằm trong phòng A Quý, Vân Thái đang ở bên cạnh chăm sóc tôi. Ngoài kia vô cùng ồn ào, chính nó đã đánh thức tôi.

Thực chất là tôi không bị thương ở đâu cả, chẳng qua là thể lực bị rút cạn nên chỉ cần ngủ một giấc, người lập tức không có vấn đề gì đáng ngại nữa. Tôi ngồi dậy, Vân Thái thấy tôi tỉnh liền lấy nước cho uống, sau đó ra ngoài báo mọi người.

Không lâu sau Phan Tử bước vào phòng, anh hỏi tôi giờ cảm thấy thế nào?

Tôi không thấy chú hai đâu, cũng không trả lời câu hỏi của anh, chỉ hỏi lại Bàn Tử hai người thế nào rồi?

Phan Tử nói cho tôi biết, bọn họ đã được đưa đi bệnh viện rồi, giờ vẫn chưa có tin tức gì. Anh bảo tôi cứ yên tâm, nếu hai người đó không chết thì tốt rồi, còn chẳng may tận mạng, cũng đành chịu thôi.

Tôi nghe anh nói cũng có chút an tâm, tới được bệnh viện thì chí ít cũng có hi vọng.

Tiếp sau đó, tôi hỏi sao mấy người các anh lại ở đây? Phan Tử làm ra vẻ thần bí không nói gì, chỉ bảo là chú Hai không cho anh bép xép với tôi, chú giờ đang ở bên hồ, đợi chút nữa chú về sẽ tự khắc nói cho tôi biết. Sau anh bảo tôi nghỉ ngơi nhiều vào, dứt lời liền bước ra ngoài, có vẻ như bên ngoài kia đang rất bận rộn.

Mấy nhà sàn quanh chỗ A Quý đều được Chú Hai thuê, tôi thấy rất nhiều người quen, thủ hạ của chú ba trước kia, chừng hơn hai mươi người, nhớ tới lúc trước nhìn thấy mấy người bên hồ, tôi đoán lần này phải có tới cả mấy trăm người. A Quý đã sớm thoát khỏi khủng hoảng tinh thần, đang bận bịu dẫn mối, nhưng khi tôi hỏi anh ta thế nào rồi, anh ta lại chẳng biết cái gì cả.

Tôi cũng chịu, đành phải làm như Phan Tử nói, nghỉ ngơi hai ngày trong nhà A Quý, sau khi thân thể đã hồi phục được đại khái rồi mới thấy Chú Hai từ bên hồ trở về.

Đi cùng chú Hai còn có rất nhiều người, đều là mấy chú họ ở Trường Sa, có vài người là thủ hạ của chú Ba, tất cả đều là người có máu mặt trong gia tộc nhà tôi.

Lòng thầm hỏi chuyện quái gì thế này? Làm sao mà lắm người nhà mình tới đây vậy?

Tôi không dám hỏi, vì nhìn sắc mặt của Chú Hai và những người kia không tốt lắm, nói chuyện vài câu, thấy ánh mắt bọn họ nhìn tôi đều có chút kỳ lạ.

Thần sắc chú Hai rất kém, vặn hỏi rất lâu chú mới chịu mở lời, Chú Hai đưa mắt nhìn tôi, nắm lấy hai vai tôi rồi hỏi người tôi không vấn đề gì chứ?

Tôi gật đầu nói không việc gì, lúc đó mới dám hỏi nhỏ chú chuyện gì đang xảy ra. Chú lại nhìn tôi lần nữa, sau thở dài, vỗ vỗ vai tôi bảo có muốn đi dạo với chú không.

Chúng tôi đi tới bên dòng suối cạnh thôn, dọc đường cũng không thấy chú nói câu nào, đi tận tới ngôi nhà cũ bị lửa thiêu rụi ngày trước, chú mới nói:

" Email của mày, chú đã đọc."

Lòng tôi cũng cảm giác được chắc chuyện này có liên quan tới email đó, quay lại nhìn chú, chờ chú nói tiếp.

Chú dừng lại, lát sau mới nói:

"Mày có tin nội dung viết trong bức thư đó không?"

"Giờ bảo cháu phải nói sao đây? Cháu rất không muốn tin, nhưng không được, vì cháu chẳng thể nghĩ ra khả năng nào khác." Tôi nói, "chú Ba và chú sống với nhau nhiều năm như vậy, chú có phát hiện ra điều gì bất thường không?"

Chú Hai châm một điếu thuốc, nhìn tôi cau mày, không đáp lời.

Tôi nói:" đấy là người khác nói, chú Ba cũng không tự mình phủ nhận, vì thế cháu không phải là không có nghi ngờ.".

Chú Hai vẫn nhìn tôi, rít xong vài hơi thuốc thì dừng lại, ít giây sau đột nhiên lên tiếng:

"Mày không phải nghi ngờ gì nữa, chú nói cho mày biết, đây là sự thật."

"Sự thật?" tôi nói, "sao chú biết?"

Chú chậm rãi đáp:" chuyện này chú cũng đã sớm biết rồi."

Tôi đứng ngẩn ra, không tin vào hai tai mình nữa.

Chú la lại nói tiếp:" Tiểu Tà này, có một số việc không quá đơn giản hay quá phức tạp như mày nghĩ đâu."

"Nếu như chú biết rõ vậy sao vẫn để nó xảy ra?" tôi hỏi.

Chú lặng im không nói, sau đó ra hiệu, bảo tôi đi theo, tiện tay rút ra một vật gì đó.

Tôi nhận lấy đư lên mắt nhìn, là một bức hình

"Đây là?"

"Thứ này được lấy ra trong căn nhà này trước khi nó bị thiêu hủy, chú đã giữ lại nó. Chú nghĩ là giờ cho mày xem sẽ thích hợp hơn trước." Chú nói.

Tôi sửng sốt, bối rối trong giây lát, nhà ư? Thiêu hủy? Chết tiệt! Không thể nào! Tôi lập tức hỏi:" Chú Hai, do chú làm ư?"

Là tôi vẫn muốn hỏi thêm, nhưng chú lại khoát tay ra hiệu tôi xem ảnh trước đã, "những chuyện đó, chú sẽ không nhắc lại."

Đây là một bức ảnh đen trắng vô cùng bình thường, là ảnh chụp chung. Nhìn kỹ, mặt trước là một người trung niên xa lạ, đang nói chuyện với Văn Cẩm, đằng sau còn có vài người trong đội khảo cổ. Người trung niên kia tôi chưa từng gặp qua ở bức ảnh trước. Người đó vô cùng trắng, vô cùng gầy, nhưng khi tôi nhìn lại thấy có phần quen thuộc.

"Đây là bức ảnh mà Sở đầu hói kia muốn cho mày xem." Chú Hai nói, "chú đã tìm cái có thể làm sáng tỏ vấn đề một cách rõ ràng nhất, nghĩ nếu cuối cùng vẫn không thể thì sẽ phải nói cho mày nghe hết mọi sự, vật chứng này so với lời chú nói có thể sẽ thuyết phục hơn."

"Là cái này ư?" tôi không hiểu, "bức ảnh này thì có vấn đề gì chứ?"

Tôi nhìn người trung niên gầy gò trắng trẻo kia, bỗng nhận ra đó là ai, không kìm được một tiếng "a" kinh ngạc. "không thể nào là người đó được? Không phải chú...."

Người này không liên quan gì tới những chuyện trước đây của chúng tôi, nhưng không phải là người không quan trọng, nếu như đội khảo cổ của Văn Cẩm cũng xuất hiện trong bức hình này, vậy người đó cũng phải thuộc đội khảo cổ, nhưng không phải là vị trí mà tôi đã nghĩ tới.

Chúng tôi tiếp tục đi dạo, Chú Hai nói:

"Chú không thể nói được tỉ mỉ từng sự việc, nhưng chú có thể kể một chuyện cho mày nghe. Tiểu Tà, có những lúc, những việc mà người đó cũng được xem như là một phần của câu chuyện, gần như vậy đấy, mày có muốn nghe không?"

Chương thứ 52

Hài lòng

Tôi gật đầu, Chú Hai vừa châm thêm một điếu thuốc, nói:" mày đọc sách cũng không kém gì chú, đã từng đọc qua giai thoại Tần Thủy Hoàng chưa?"

Tôi gật đầu "sử ký" là một môn học bắt buộc, tất nhiên là phải đọc qua rồi.

Chú nói tiếp:" vậy còn Hán Thư?"

Tôi cũng gật đầu, chú lại nói:" mày có phát hiện thấy không? Những hoàng đế trong lịch sử Trung Quốc cổ đại của chúng ta, bất luận là đại hoàng đế, tiểu hoàng đế hay là hoàng đế bù nhìn thì cũng vẫn là hoàng thất chính thống, khi công thành danh toại, thiên hạ thái bình, tất nhiên là bọn họ đều có cùng một ước muốn, đó là cầu trường sinh."

"Theo đuổi cả một đời là giấc mộng Chung Cực đế vương, cũng không có gì kỳ quái. Cháu muốn cả đời này không lo tiền nong gạo nước, muốn giết ai thì giết, lấy ai thì lấy, đó là ham muốn duy nhất của cháu, chỉ sợ là sẽ không thể tiếp tục được cuộc sống này thôi." tôi phụ họa theo.

Chú Hai không để ý, chỉ tiếp lời:" nếu lật sách sử ra tra, mày sẽ phát hiện, thực sự là cái luật đó rất khó mà phá vỡ được, hơn nữa càng là hoàng đế khai quốc, càng có tham vọng lớn, Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Đường Thái Tông..." chú dừng một lát, " từng thế hệ một, hàng chục quốc hiệu được thay đổi, danh xưng cũng khác đi, càng về sau, ngay cả khi không còn hoàng đế, cái thông lệ đó vẫn không hề xóa bỏ."

Tôi gật đầu, quả là vậy. Tính cách con người đúng là luôn được kế thừa không hề thay đổi, mặc cho bạn đứng ở vị trí nào, tới một thời điểm nhất định cũng sẽ phải cận kề cái chết như nhau cả thôi.

"Nhưng, cái gọi là bí quyết trường sinh trong truyền thuyết, càng gần thời đại hiện nay càng thêm mơ hồ. Rất nhiều bậc đế vương cho rằng đầu mối của thuật trường sinh tồn tại trong những mộ táng cổ đại, do đó mà tự nhiên xuất hiện rất nhiều đội quân giúp vua chúa tiến hành khảo sát địa chất. Đội quân đó thực chất chỉ treo đầu dê bán thịt chó, có chút liên hệ với quan chức để có ô dù bảo hộ." Chú nhìn tôi, cười một tiếng, " mà người của đám bọn họ, thường lại là những cao thủ lợi hại nhất trong thiên hạ. Thổ phu tử từ xưa, khắp từ nam ra bắc tìm kiếm tài nhân, có không ít người được tuyển vào làm công ăn lương. Có vài lần, phải dùng tới cường quyền để gây áp lực, không phải là vì kẻ đó chịu nghe theo, chỉ là vì trong nhà còn người già người trẻ nên đành cúi đầu khuất phục."

"Có điều là, chuyện này trước sau vẫn không được rõ ràng, do đó các triều đại cuối cùng cũng không có được một kết quả gì tốt đẹp. Ngoài ra thì trong những đội quân đó, luôn có người muốn thoát khỏi sự khống chế tuyệt đối đó, hơn nữa không chỉ có bậc vua chúa bị hấp dẫn, những người bị thứ tham vọng này mê hoặc cũng rất nhiều. Khi bọn họ phát hiện ra một chút manh mối, trong lòng không khỏi nảy sinh những ý nghĩ ích kỷ."

"Những ý niệm đó, họ chỉ nói cho huynh đệ hoặc là người nhà của mình biết, những thành viên trong gia tộc đều phải trải rất nhiều nguy hiểm, đao chĩa trước mũi người, cảm đảm vô cùng, vì thế sẽ nghĩ ra được kế hoạch, sau sẽ cho thực thi những kế hoạch đó. Chúng có thể thành công, cũng có thể thất bại, hoặc không biết là thành công hay thất bại, nhưng khẳng định là một khi bị phát hiện, những người đó sẽ phải chết."

Chú dừng lại, nắm lấy bả vai tôi nói:" chỉ là, có những kế hoạch kéo dài trong thời gian rất lâu, thậm chí tới khi triều đại thay đổi. Khi đó, đôi bên đều đã đạt được một nhận thức chung nào đó, không ai còn hi vọng nó bị khui ra." Nói xong chú nhìn tôi, "Đặc biệt là "nó" ."

Tôi không dám nói là mình hoàn toàn hiểu được những gì chú Hai kể, nhưng tôi biết chú muốn đề cập tới cái gì.

Nói thật, tôi chưa bao giờ nghĩ tới mặt trái của câu chuyện lại là như thế, khó trách Sở Ca nói với tôi không thể tiếp tục điều tra được. Trong lúc trầm ngâm, những gì Chú Hai vừa nói tôi suy nghĩ một chút liền thấy có vẻ rất rõ ràng, nhiều chuyện tự nhiên lại trở lên vô cùng hợp lý.

Tôi hỏi:" vậy chuyện nơi này, cũng là nơi "nó" tiến hành hoạt động phải không?"

Chú Hai gật đầu:" có lẽ thế, do đó chú chỉ mới nghe về sự tồn tại của sơn thôn này, tới lúc thấy Phan Tử báo mày đã tới đây, bản thân cảm thấy không ổn, lập tức báo hắn đem theo người tới. Cứ hễ mày đi tới đâu là chỗ đấy lại trở lên vô cùng nguy hiểm."

" Vậy chú có biết nơi này đã xảy ra chuyện gì không? Mấy con đó là cái giống gì vậy?" tôi hỏi Chú Hai.

Chú nghĩ một lát mới nói:" chúng có thể là mật lạc đà."

"Mật lạc đà? Đó là cái quỷ gì?"

"Mật lạc đà là tổ tiên của người Dao, trong thần thoại của bọn họ, có duy nhất một nữ thần sinh ra trong núi. Chú đoán là những con quái vật đó chính là nguyên hình của mật lạc đà,". Chú móc trong túi một khối sắt, "người đầu tiên được nữ thần tạo ra từ sắt, nhưng sắt lại khắc với thần lực của bà ta nên không thể thành công được. Khi những thợ mỏ dùng sắt bọc những người đá kia lại, chắc đều đã được nghe qua truyền thuyết của dân tộc Dao, dự đoán của mày có vẻ như gần đúng."

Tôi gật đầu, Chú Hai nói tiếp:" về phần thứ này sinh ra như thế nào, chắc cũng chẳng ai biết. Nghe người ta tả là chuyện này như một nghi thức tôn giáo, mấy đứa bị đưa đi làm tế phẩm, nhốt lại trong đó. Những con quái vật kia tồn tại trong chỗ rất sâu của núi đá, muốn bò tới cũng phải mất một thời gian tương đối, chú thấy là mấy đứa gặp chuyện này chắc chắn là do người khác sắp đặt."

Chú cũng cảm thấy như vậy chứng minh trực giác của tôi là đúng, tôi lại nói:" nhưng, cháu thấy mỏ ngọc kia không có bất kỳ cửa ra nào cả."

Chú suy nghĩ một lát, sau lại vỗ vai tôi nói:" chú đã nói trước với mày rồi, chuyện xảy ra bất luận là mày thấy nó như thế nào, thì nó vẫn phải xảy ra. Nếu mày đã tiến vào, vậy tất nhiên phải có cửa, không tìm được thì chưa thể nói là không có, cửa vào chắc chắn phải ở quanh đó."

Tôi cười khổ, Bàn Tử lúc trước nói, tôi cũng có suy nghĩ này, nhưng tìm không thấy có nghĩa là không thấy mà thôi.

Điện thoại Chú Hai đột nhiên vang lên, chú nhận máy, chỉ đáp vài tiếng ậm ừ rồi tắt, tôi tiếp tục hỏi, sao chú tới tìm cháu mà mang nhiều người như vậy? Đây chẳng phải quá phô trương sao! Bọn họ giờ đang làm gì ở bên hồ đó?

Chú Hai sắc mặt xanh mét, chỉ nói:" có việc, lúc này còn may là có mày chứ không chú cũng khó mà tìm được nơi đây. Còn mục đích tới nơi đây thì chú không thể nói ngay cho mày biết được, chờ sau khi xác minh tường tận, mày sẽ tự hiểu thôi." Chú nhìn vào đồng hồ, "chuyện ở đây cũng vừa mới bắt đầu, thời gian của chúng ta không còn nhiều đâu."

"Có liên quan tới chú Ba không? Hay là, với "nó"?" tôi hỏi.

Chú Hai cười cười, "đừng vội, đến lúc đó mày sẽ biết, mày trải qua những chuyện này, thật ra cũng chưa thấm vào đâu. Hiện giờ không nên hỏi nhiều, cũng đừng tra cứu gì cả, nếu muốn đi tìm vị Tiểu Ca kia thì nghỉ ngơi xong rồi hãy đi, chú đã ở đây thì không để cho mày tùy tiện muốn đi đâu cũng được. Chú và lão Tam khác nhau, không có chuyện mày vớ vẩn đâu."

Chú Hai không nói với tôi điều gì nữa, chú khác chú Ba, tôi không thể dẻo mỏ nịnh nọt chú được, đó chỉ vô dụng thôi, chú nói được là làm được, đã nói là tới khi chứng thật được sự tình thì sẽ nói cho tôi biết, tuyệt đối không bao giờ nuốt lời.

Chú nói còn muốn ở đây thêm một lúc, tôi có thể chờ hoặc đi đâu đó cũng được. Có điều là phải báo trước cho chú, không cho phép tôi đi lung tung nữa.

Vì lo cho Bàn Tử và Muộn Du Bình, sau một tuần tôi liền rời thôn, đi tới Phòng Thành Cảng. Vân Thái và A Quý đưa tôi tới phòng bệnh của bọn họ, hai người đều không việc gì.

Hỏi một tiếng, kỳ thật là bọn họ chịu thương cũng không tới mức chí mạng, chỉ là bị mất máu nhiều đồng thời lại bị nhiễm trùng. Cũng may là thể chất hai người đó cũng đặc biệt tốt, tôi dùng tàn hương cầm máu và ngăn vi khuẩn xâm nhập nên sau khi truyền máu liền hồi lại được. Tàn hương là điểm mấu chốt nhất, nếu bọn họ mất máu thêm một lúc nữa, khả năng có là thần tiên hạ phàm cũng không thể cứu được.

Dùng tàn hương cầm máu là cách đơn giản nhất tôi học được trong Binh thư, không ngờ là nó lại có tác dụng thật, xem ra đọc Binh thư cũng rất có ích.

Lúc thấy Bàn Tử tôi suýt chút nữa thì òa khóc. Vài ngày không gặp mà cơ thể anh ta đã phát phì trở lại, tuyệt đối không giống như sắp diện kiến Diêm Vương.

Bàn Tử thấy có Vân Thái tới, lập tức nhìn không thấy chút bệnh tật, lổm ngổm bò xuống giường ba hoa mình một thân bất tử.

Bọn họ bảo tôi kể sơ qua sự tình sau đó, tôi thuật lại mình đã nhét lục phủ ngũ tạng của Bàn Tử vào thế nào, rồi lôi bọn họ ra ngoài làm sao, tất cả đều nói một lượt.

Bàn Tử nghe xong liền sửng sốt, nói khó trách sao anh ta cảm thấy ruột mình hình như không đúng vị trí, vừa định đi đại thì lại thấy no no, còn nói cậu có phải đã bỏ ngược rồi không.

Nói tới đó, chúng tôi bắt đầu lái sang chuyện khác, tôi lấy ra mảnh giấy cho bọn họ xem. Lúc trước ở nhà A Quý, bằng những gì nhớ được tôi đã vẽ lại sơ qua cổ trại dưới đáy hồ kia.

Nhưng có thảo luận thế nào cũng không ra kết quả, Bàn Tử liền oang oang đòi tôi dẫn đi ăn cơm.

Đợi một lát cũng không thấy Vân Thái có động tĩnh gì, nhìn lại bỗng thấy cô ấy quan sát bản vẽ mà đờ người ra. Không lộ ra chút phản ứng nào, rõ ràng là rất nhập tâm.

Tôi lấy làm lạ, bản vẽ đó rất đơn giản, kỳ thật là không hề đẹp mắt chút nào. Bàn Tử và tôi nhìn nhau một cái, anh ta qua hỏi cô ấy:" chuyện gì vậy, em gái?"

Vân Thái bĩu môi, ngẩng đầu nói:" hai ông chủ à, anh vẽ cái trại này giống y hệt như là thôn Ba Nãi ấy."


Chương thứ 53

Thôn trại tương đồng

Ba Nãi là thôn mà gia đình A Quý đang sinh sống, cũng là một Dao trại điển hình, có điều chúng tôi mới tới đây được mấy ngày, đối với địa thế của thôn chưa có nhiều ấn tượng. Vân Thái nói vậy khiến tôi có chút bất ngờ.

"Giống chỗ nào kia?" Bàn Tử cầm bản vẽ lên, "thôn của nhà em mà giống nơi này sao?"

Vân Thái không dám chắc nên đưa bản vẽ cho A Quý, nói:"cha à, cha xem đi." Chúng tôi cùng đi tới.

A Quý nhìn một lát, lúc đầu hình như không hiểu lắm, Vân Thái xoay bản đồ sang một chiều khác, sau đó nói với anh ta vài câu bằng tiếng bản địa, A Quý mới bừng tỉnh, gãi đầu một cái rồi nói:

"A! Thật đúng là có chút giống."

Tôi hào hứng hẳn lên, suy cho cùng không phải là người bản xứ hẳn là có nhiều chuyện không thể nhạy cảm bằng những người đã sống đời đời kiếp kiếp ở đây. Hơn nữa cô gái này lại đặc biệt cẩn thận, tôi bảo cô ấy chỉ cho chúng tôi cùng xem.

Ban đầu tôi cho rằng, có thể đơn giản là vì hồ kia và thôn Ba Nãi bốn phía đều có thế núi rất giống nhau, nên thường thì nhà xây trên núi sẽ có kiến trúc tương tự, nhưng khi nghe Vân Thái nói, tôi mới bất giác hít một ngụm khí lạnh.

Chỗ giống nhau được chỉ ra lại chính là đường và hàng rào.

Vân Thái nói cho tôi biết, lần đầu cô ấy thấy bản vẽ này đã phát hiện ra tôi vẽ con đường chính và hướng của hàng rào của"cổ trại dưới đáy hồ" này so với đường chính và hàng rào bao quanh thôn của cô ấy rất giống nhau. Điều này khiến cho Vân Thái nhận ra có điểm bất thường, sau đó mới nhìn tới những phần khác trong thôn, cũng có nhiều điểm vô cùng giống.

Tôi không thể nhớ được toàn bộ đường đá và bậc thang trong thôn đi về hướng nào, nhưng quanh nhà A Quý thì có ấn tượng một chút, so sánh qua thấy quả đúng như vậy. Chỉ cần đem bản vẽ này thay đổi phương hướng, ngay lập tức có thể nhận ra những con đường nhỏ chạy quanh nhà A Quý, kiểu đan xen đó trên bản đồ vô cùng giống.

Trán tôi lập tức đổ mồ hôi lạnh, bất ngờ thật. Bản vẽ này miêu tả một thôn trại dưới đáy hồ, cách đây phải hơn mấy trăm nghìn năm, nhưng giờ khi được phát hiện, thôn trại cổ đó và một thôn trại hiện tại lại có hàng rào và vô số điểm tương đồng. Con mẹ nó, đây là chuyện quái gì vậy?

Tuy rằng đã cố gắng nén cái cảm giác rờn rợn vô hình đó lại, nhưng toàn thân tôi vẫn không khỏi khẽ run, trực giác nói cho tôi biết, nơi này có thể đang ẩn chưa một vất đề tương đối lớn.

Hít mấy hơi lấy lại bình tĩnh, sau đó tôi nhờ Vân Thái liệt kê hết những điểm tương đồng ra, tôi phải xem những điềm này có phải do một nguyên nhân đặc biệt nào đó hình thành không.

Khả năng lúc đó thần sắc tôi có chút đáng sợ, Vân Thái thấy tôi đột nhiên nghiêm túc như vậy liền hãi, không dám nói lời nào. Bàn Tử phải đánh vào vai tôi một cái, bảo tôi không được làm mặt dọa em ấy, tôi mới nhận ra mình đang thất lễ.

Chúng tôi nhận xét một lượt từ đầu thôn tới cuối thôn, càng nói lòng tôi càng lạnh, thấy đây không thể là chuyện ngẫu nhiên được. Từ cửa thôn chỗ có mấy đền thờ trang trí, tới bên trong đường lớn, hàng rào bao quanh trại, còn có cả trình tự nhà cửa, thật sự vô cùng giống.

Nếu muốn tình huống như vậy xảy ra, chỉ có thể là thôn trại dưới đáy hồ và thôn Ba Nãi cùng được thiết kế bởi một kiến trúc sư.

Nhưng làm sao thôn lại cần tới kiến trúc sư thiết kế chứ? Một thôn trại khi hình thành, từ hàng nghìn năm qua đều là do thôn dân xây dựng tự phát, chọn lấy một địa điểm thích hợp dựng nhà, làm đường, từ đó hình thành lên đường làng ngõ xóm.

Điều khiến tôi phải chú ý chính là độ giống nhau tới mức khủng khiếp của nó. Một thôn khi được dựng lên, đặc biệt là sơn thôn, đường đi trong một thời gian dài không thể không thay đổi, cho nên mới có cái thuyết "cổ đạo tây phong" (hình như là một câu thơ Đường hay gì đó, mình tìm không được, thành thật xin lỗi). Đối với đường xá, thôn dân có thể sửu đi sửa lại rất nhiều, nhưng tuyệt nhiên là bao giờ xóa bỏ chúng, mỗi lần sửa lại mở thêm một đường mới. Chúng tôi từng qua nhiều con đường trong sơn thôn, phần lớn là khi còn ở Lưỡng Tấn. Cho dù ở Hàng Châu hay trên núi đá, đường xá xây dựng tu sửa hay khai mở đều do nhà chùa làm, hiện giờ sang tay nhà nước, nhưng vẫn không ngừng được sửa chữa lại hàng năm.

Do đó, đường trong thôn Ba Nãi và đường dưới cổ trại kia giống nhau như vậy thực sự là một chuyện không bình thường, thậm chí có thể nói là quỷ dị. Đối với người học qua kiến trúc như tôi thì lại càng thêm khó nghĩ, trong đầu bao nhiêu ý nghĩ liên tục đảo lộn, nhưng lại chẳng biết mình đang muốn tìm cái gì.

Bàn Tử không nghĩ nhiều như tôi, lại hỏi:" Thiên Chân, trước đây cậu từng nghe nói qua chuyện như này chưa?"

Tôi lắc đầu ý bảo anh đừng hỏi gì cả, đây không phải chỉ đơn giản là "nghe nói qua", xuất hiện hai thôn có cấu trúc nhà cửa tương tự nhau, trong lịch sử chỉ có một người từng trải qua đó chính là Uông Tàng Hải. Ông ta phụ trách thiết kế thành Khúc Tĩnh và thành phố Macau gần như tương đồng, nhưng hai phạm trù này hoàn toàn khác nhau, thành thị có thể quy hoạch được còn thôn trang lại không phải vậy, tôi chưa từng thấy ở nơi nào có hai thôn trại giống nhau cả.

Hơn nữa, nếu hai thôn trại đó đều tồn tại thì có thể xem như một chuyện lạ, nhưng hiện tại thì một trại còn tồn tại còn một trại chìm dưới đáy hồ.

Dù cho tôi có nghĩ thế nào thì cũng không thể tưởng tượng được, nhưng trực giác nói cho tôi biết nơi này đã có chuyện xảy ra, mà tuyệt đối không đơn giản. Trong tay tôi hiện giờ đã nắm giữ những mảng ghép, chỉ là "chân tướng" bên ngoài của nó lại quá nhiều mà thôi.

Bàn Tử thấy tôi không phản ứng gì, lại đi hỏi Muộn Du Bình. Muộn Du Bình cũng không trả lời anh ta, dường như không thấy hứng thú với chuyện này, chỉ ngây ra nhìn bản vẽ kia.

A Quý úp úp mở mở nói:" truyền thuyết nói là, thực ra thôn trại của chúng tôi không phải ở vị trí bây giờ, mà là trong núi Dương Giác. Không chừng cũng giống như ông chủ Bàn nói, đây chính là cổ trại trước kia của chúng tôi, thôn không phải bị hỏa thiêu mà là bị ngập trong nước, sau đó cụ kỵ của chúng tôi mới tiền hành xây dựng lại như vậy ở bên ngoài, xây theo kết cấu cũ, dù sao thì núi cạnh hồ và núi tại nơi chúng tôi ở cũng rất giống nhau."

Tôi nói với anh ta:" trừ khi cụ kỵ các anh có kiến thức phong thủy rất uyên thâm, nếu không, cho dù có làm theo thì cũng rất khó làm được tới trình độ này."

Muốn giống tới mức này, phải tiến hành lên kế hoạch đo đạc địa chất từ lúc thôn chưa bị chìm trong nước, nhưng khi đó người Dao vẫn còn chưa bước vào thời kỳ khai hóa, không thể có khả năng làm như thế được.

Vân Thái bĩu môi nói:" ông chủ à, anh dựa vào cái gì mà khinh thường người Dao chứ? Biết đâu lại có một người như vậy thật thì sao."

Tôi gượng cười, không phải tôi nghĩ như vậy mà là nếu thực sự như vậy thì việc này sẽ rất phức tạp, vì thế liền đáp:" cho dù có một người như thế cũng không thể, vì không cần thiết. Văn hóa Dao đối với kiến trúc xây dựng không hề nghiêm ngặt, vì sao lại phải xây dựng lại một thôn giống như trước? Thôn này nhìn bố cục cũng không ẩn chứa hàm ý gì đặc biệt"

Trung Quốc có rất nhiều thôn xóm được người tài xây lên, ví như Chiết Gian có thôn
Du Nguyên, do chính tay Lưu Bá Ôn dựa vào thuật chiêm tinh dựng lên, toàn bộ thôn xóm đều như một bàn sao khổng lồ. Nhưng theo bản vẽ cổ trại dưới đáy hồ này lại không có tính quy hoạch, bằng kiến thức của tôi thì không thể nhìn ra được điểm kỳ quái gì cả.

"Cậu nghĩ thế nào?" Bàn Tử hỏi tôi, "chắc cậu đã có ý tưởng gì rồi chứ."

Quả thật là tôi có vài phỏng đoán nhưng chúng chỉ vô dụng mà thôi, vì thế lại lắc đầu:" tôi chỉ có thể khẳng định là đây là do cố ý làm ra, hơn nữa lại rất tiêu tốn rất nhiều công sức, vì người bình thường muốn xây cũng không xây tới mức giống thế này." Tôi thấy khó giải thích nhất là rõ ràng chuyện này không có trong truyền thuyết của dân địa phương.

Trong trí nhớ của A Quý thì thôn của anh ta cũng được xây dựng từ rất lâu rồi. Nói cách khác là hành vi copy này phát sinh cách đây tương đối xa. Nhưng từ những dấu vết trong Trương gia lâu, tôi có thể đoán được thời gian khai thác mỏ ngọc kia không phải quá muộn. Hồ nước xuất hiện, hẳn là phải sau khi khai thác trong mỏ xong, nếu không đường hầm không thể nào xây dựng được.

Ba chuyện, copy, hồ nước, khai thác mỏ ngọc, nếu sắp xếp trình tự thời gian phát sinh, có thể là copy sớm hơn khai thác mỏ, hồ nước xuất hiện cuối cùng.

Nói cách khác, trước khi khai thác mỏ ngọc, hồ kia chưa từng tồn tại. Thôn không bị bao phủ bởi nước, cho dù có hoang phế nó cũng đã từng xuất hiện ở đó.

Như vậy thì người bản xứ chắc chắn phải biết, có tới hai thôn giống nhau như vậy. Cho dù một thôn sau đó bị nước dìm nhưng trong thời kỳ đó ít nhất cũng phải để lại truyền thuyết.

Hơn nữa, truyền thuyết có phạm vi ảnh hưởng rất rộng, cho dù là cách thôn của A Quý mấy chục dặm, cũng không thể không có lưu truyền.

A Quý lại nói không có truyền thuyết nào nhắc tới cổ trại dưới đáy hồ. Thôn trại bí ẩn này giống như một điều mới được khai quật, trong lịch sử trước đây hoàn toàn bị người ta quên lãng.

Chương thứ 54

Âm mưu mặt gương.

Đương nhiên là quên cũng có thể là chuyện ngẫu nhiên, trên thực tế thì có không biết bao nhiêu truyền thuyết đã bị chôn vùi trong lịch sử, nhưng nó mai một trên quy môt lớn, không phải chỉ có một truyền thuyết biến mất như vậy. Truyền thuyết biến mất, tất nhiên đi kèm theo đó là một thời kỳ lịch sử bị bỏ trống, không có bất kỳ thông tin gì.

Tôi thấy có gì đó mờ ám trong chuyện này, thuyển thuyết cổ trại cũng không phải ít, không tồn tại tức là đã không có ai lưu truyền lại, chỉ cần không có bất kỳ truyền thuyết nào nói tới "ban đầu cố một cổ trại giống y hệt, nhưng đã bị dìm trong nước", hay không có một ai muốn lưu truyền cái cổ sự này?

Còn về copy, tôi có một linh cảm mãnh liệt rằng đây là một "âm mưu mặt gương". "Âm mưu mặt gương" là một quỷ kế thường xuất hiện trong truyện trinh thám Nhật Bản. Bộ mặt thật của quỷ kế sẽ bị giấu kín, nói cách khác, thôn của A Quý là giả, vì không muốn ai đó có thể biết được thôn trại thật sự đã biến mất nên mới cố ý kiến tạo lên.

Nguyên nhân của linh cảm mãnh liệt như vậy là vì Bàn Mã thuật lại cố sự ma hồ. Tôi lúc đó cũng đoán là một loại quỷ kế mặt gương, đội khảo cổ bị xóa sach rồi có một đội khác xuất hiện thay thế bọn họ, đó cũng chính là "mặt gương".

Cũng có thể giải thích, tại sao lại có truyền thuyết cổ trại bị hỏa hoạn thiêu rụi, lúc đó thôn hẳn là không ở thung lũng trên sườn núi, sơn thôn chỉ có vài ngôi nhà, phân bố rải rác ở cách xa nhau, những nhà đó không thể bị ngập nước như trong trại được, nhưng nhất định phải phá hủy đi, có thể đã dùng lửa để thiêu hủy, vì thấy có cháy rừng nên người ta mới nói là như thế.

Đằng sau quỷ kế này chính là một đại âm mưu, hơn nữa khả năng lại vô cùng đẫm máu, nguyên cả thôn bị tàn sát, kẻ giết người sẽ có thể giả trang thành thôn dân, tới sống trong thôn giả, thi hành kế hoạch của bọn họ, quỷ kế này phát sinh từ rất lâu rồi, vài năm sau, lại xảy ra chuyện khai thác mỏ ngọc, cuối cùng là thôn trại kia bị nước bao phủ.

Một nơi phát sinh nhiều biến cố như vậy, rõ ràng là trong thôn trại này vẫn đang ẩn giấu một bí mật.

Mọi chuyện nghe rất mơ hồ, cảm giác không thể nào xảy ra được, tôi thực không muốn nghĩ theo hướng này, dù sao thì cũng không thể nào chứng thực, hiện giờ chỉ có thể kiềm chế những nghi vấn của mình, chờ đợi tiến triển trong đợt điều tra sau.

Chẳng buồn động não, đang định hít sâu một hơi, Bàn Tử lại tắc lưỡi một cái, chỉ vào bản vẽ hỏi tôi:

" Thiên Chân, cậu nhìn xem, cậu vẽ cái gì đây?"

Qua xem, thấy Bàn Tử vừa rồi lấy bút đen tôi mấy điểm lại, rất nhanh sau đó bản vẽ của tôi trở lên loang lổ, chờ tới khi anh ta soi nó dưới anh nắng mặt trời, tôi lập tức sững người.

Tới khi hoàn thành, toàn bộ bản vẽ đã biến thành hình một con vật, có mắt và móng vuốt. Cẩn thận quan sát, sẽ phát hiện ra đó là một con kỳ lân.

"Càng ngày càng hấp dẫn!" Bàn Tử lẩm bẩm.

Lông mao trên người tôi đồng loạt dựng đứng, đập vào mắt chẳng phải là bộ dáng của kỳ lân, giống với hình xăm trên người của Muộn Du Bình sao. Thế quái nào! Chẳng lẽ đúng như vậy! Tôi thầm gào lên, trong đầu có vài khái niệm liên tục xuất hiện, kỳ lân, hình xăm, bản vẽ, bỗng nhiên có một ý niệm lóe lên trước mắt.

Cầm bản vẽ đi về phía Muộn Du Bình, anh ta vẫn ngồi ngẩn ra.

Tôi nhình anh ta nói:" nhanh nhanh, cởi áo ra!"

Muộn Du Bình có chút sửng sốt, mặt làm ra vẻ khó hiểu, tôi đưa bản vẽ trong tay cho anh ta xem, như để giải thích nguyên nhân, anh ta vẫn không hiểu, nhưng vẫn làm theo ý tôi từ từ cởi áo ra.

Tôi nhìn động tác của Muộn Du Bình thực sự rất sốt ruột, thật muốn một cước đạp ngửa anh ta ra để xem cho nhanh. Chờ tới khi Muộn Du Bình cởi xong áo tôi mới nhớ trên người anh ta bình thường không thấy được hình xăm.

Tôi hỏi Muộn Du Bình tại sao vậy, anh ta mới nói, hình xăm này lấy từ chiết xuất của một loại thực vật để xăm lên, bình thường không có màu, chỉ khi nhiệt độ cơ thể vượt qua mức quy định mới chuyển thành đen. Ngày xưa người Miêu dùng nó để đoán bệnh ốm sốt, hình xăm này dùng để kiểm tra thân nhiệt trẻ con.

Đương nhiên, muốn thân nhiệt vượt qua mức quy định, thì phải vận động mạnh, cho nên trong những lúc Muộn Du Bình loạn đấu kịch liệt hoặc bị kích động, hình xăm mới hiện ra. Cũng vì da không phải chỗ nào cũng như nhau, độ mẫn cảm của nhiệt độ cũng không đồng nhất, chỉ có khi phải chiến đấu vô cùng mạnh mới có thể khiến cho toàn bộ hình xăm hiện ra.

Bàn Tử lấy tùi chườm nóng ra, chúng tôi buộc quanh ngực Muộn Du Bình, quả hiện sau đó hình xăm màu đen từ từ hiện ra. 

Bàn Tử liền nói:" con mợ nó! Cách này quá được! Tôi trước đây chưa từng thấy chuyện này." tôi lại bắt đầu soi hình xăm của anh ta và bản vẽ của mình.

"Cậu xem vị trí của tòa nhà này." Bàn Tử nói, chỉ chỉ tòa nhà bên cạnh đường, "nếu Ba Nãi giống như thôn này thì tòa nhà cổ dưới đáy hồ vừa đúng vị trí nhà sàn của Tiểu Ca, nếu so với vị trí kỳ lân trên người Tiểu Ca thì chính là mắt nó."

"A?" lòng tôi chợt động, vừa nhìn thấy đúng thật, thầm nhủ Bàn Tử quả nhiên rất cẩn thận.

Có ẩn ý gì đây?

Bàn Tử lại nói:" nhìn như vậy có thể khẳng định là Tiểu Ca, cậu chắc chắn cũng có liên quan."

Tôi cắt lời anh ta, nói không phải những lời này là vô nghĩa sao?

Bàn Tử nói không phải, đối với chúng ta nó có ý nghĩa rất quan trọng. Trước đây chỉ là phỏng đoán, đại khái nơi này sẽ có một vài manh mối, hiện giờ có thể xác định được. Phỏng đoán và xác định là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, sau này khi chúng ta thực hiện cũng sẽ khác.

Tôi gật đầu, điều này cũng đúng, hơn nữa chuyện về cái thôn này cũng chỉ vừa mới bắt đầu, còn nhiều chuyện phải làm.

Tiếp theo Bàn Tử cùng chúng tôi thảo luận một vài vấn đề:

"Việc này xem như cũng có manh mối rồi, cũng không cần gấp như vậy, dù sao thì thôn không thể tự nhiên biến mất được, chúng ta chắc chắn phải tiếp tục đợi, lập hẳn kế hoạch điều tra. Mặt khác cũng cho người đi quanh thôn dò la tinh tức, xem có thể tra ra cái gì nữa không. Đó là một quá trình cần tương đối thời gian. Tôi thấy, còn phải ở lại đây một thời gian dài nữa. Chuẩn bị một chút, trước phải quay về lấy thêm đồ đạc tới đây, tiếp theo có thể sẽ phải cư trú lại thường xuyên."

Nói xong rồi nhìn Vân Thái cười cười:" bọn anh sẽ ở lại nhà em dài dài đấy!"

Vân Thái cũng cười nhẹ, bất giác ánh mắt lại thoáng nhìn Muộn Du Bình.

Chương thứ 55

Khách không mời mà đến.

Chuyện tiếp theo thực ra không cần thiết phải ghi lại, nhưng sau khi diễn ra nó lại có chút liên quan, vì thế nên tôi cũng xin đề cập qua.

Năm ngày sau chú Hai rời đi, tôi cũng không biết chú đã tìm được cái gì ở đây, nói chung là chú chẳng nói gì với tôi chỉ giao hẹn là khi nào trở về Hàng Châu sẽ gặp tôi nói chuyện.

Bàn Tử và Muộn Du Bình thương thế kỳ thật cũng không quá nghiêm trọng, sau khi được chữa trị, chưa tới hai tuần sau đã xuất viện. Chúng tôi không lập tức trở về Hàng Châu ngay mà cùng nhau quay trở lại thôn Ba Nãi lần nữa. Bàn Tử khẳng định Muộn Du Bình có liên hệ với nơi đó, trước khi chưa thu thập được thêm manh mối, có thể còn phải ở lại đây lâu dài.

Sau khi chúng tôi tới được bốn ngày thì ba người bắt đầu xuất phát tới hồ kia, lập đàn cúng bái những hài cốt rồi đắp một cái mộ lớn.

Bàn Mã cũng không còn xuất hiện, điều này khiến tôi rất áy náy, nhưng nghĩ tới tội trạng của lão ta, cảm giác đây thực là mệnh trời rồi. Với những thiết bị lặn hiện đại của tôi, ba người lại tiếp tục công việc vớt đồ dưới đáy hồ, hi vọng là sẽ thấy được nhiều manh mối hơn nữa. Lần lượt lấy được lên rất nhiều thứ, nhưng không có phát hiện nào đặc biệt quan trọng.

Tiếp đó, chúng tôi chuẩn bị tiến vào trong cố trại, cẩn thận kiểm tra tình hình nơi Trương gia lâu an tọa. Nhưng lại xảy ra một vấn đề mang tính sống còn, đó là tất cả bình dưỡng khí của chúng tôi đều đã dùng hết, phải đi thay bình mới.

Vừa khéo là hết ngày cuối cùng hạ thủy, lúc chuẩn bị lên đường trở về, bên hồ xảy ra biến cố.

Lúc đó chúng tôi vẫn còn đang ở giữa hồ, vừa mới nổi lên Bàn Tử đã gọi ầm lên, lau mặt một cái, ngón tay chỉ lên trên bờ. Tôi nhìn theo phát hiện không phải chỉ có Vân Thái mà tự nhiên lại mọc đâu ra biết bao nhiêu người, đang dựng lều căng trại.

"Thế quái nào! Chuyện gì vậy?" Bàn Tử kỳ quái hỏi, " chỗ này lại trở thành địa diểm du lịch từ khí nào vậy? Sao lại xuất hiện nhiều người quá thế?"

Tôi thở hổn hển vài hơi, cẩn thận quan sát thấy trong những người tới đây có rất nhiều thôn dân, Vân Thái đang nói chuyện phiếm với họ, còn có những người nhìn rất thành phố, không biết lai lịch thế nào. Lại thêm rất nhiều người đang đi xuống từ trên núi, dắt theo rất nhiều la, lưng cõng đầy những ba lô.

Nhóm người này tôi không nhận ra được ai cả, chắc cũng chẳng phải người của chú Hai quay lại.

Từ từ bơi trở lại bờ, tôi càng lấy làm lạ, vì những người này mang theo nhiều la kinh khủng, ba lô lớn nhỏ chất đầy những đồ đạc. Có vài cái lều rất lớn đã được dựng lên, trên bãi đá bỗng đông vui tấp nập người đi lại, nhiều người chỉ hơi ngạc nhiên là đã có người tới đây, lạ ở chỗ tự dưng lại có mấy người mặc quần cộc ngoi lên từ trong nước như vậy.

Chúng tôi hoàn toàn không biết phản ứng thế nào, đi tới bên cạnh Vân Thái và A Quý, tôi chợt nhận ra một người, chính là người nói giọng Bắc Kinh gặp trong nhà Bàn Mã, dáng người thấp bé, đang quát thượng quát hạ những thôn dân làm việc, mặt mày có vẻ ngang ngược.

Người như thế tôi cũng đã gặp nhiều, nhớ tới lúc đó hẳn là hắn ta tới đây theo lời ông chủ, vậy những người này đều là người của ông chủ Bắc Kinh kia phải đến. Chẳng lẽ bọn họ cũng đã hỏi ra được chuyện của Bàn Mã, chuẩn bị tới đây để tìm kiếm vật phẩm? Người đông thấy mồ luôn!

Hắn nhìn chúng tôi, coi như là từng gặp qua một lần nên cũng tới chào hỏi. Tôi lười suy nghĩ, liền đáp lễ qua A Quý rồi đi qua chỗ hắn tới cạnh Vân Thái hỏi chuyện gì đang xảy ra đây?

Cô ấy nhẹ giọng nói mấy người trong thôn bảo là có một ông chủ lớn thuê bọn họ tới đây, tình hình cụ thể là thế nào thì không ai rõ cả.

Cục diện lúc này có vẻ khá là bất tiện, tôi không hi vọng chuyện sẽ tiến triển như vậy, nhưng hồ này là của nhà nước, đâu phải mình mà cấm được người khác tới đây. Mục tiêu của những người này là khối sắt kia, tôi không biết bọn họ có chân tướng của chúng không, hay chỉ đơn thuần là sưu tầm, không thể làm cách nào đối phó lại được.

Người vẫn liên tục tới, sáu bảy lều trại đã được dựng lên, tất cả những người đó đều nói giọng Bắc Kinh, khiến trong giây lát tôi còn nghĩ mình đang nghỉ mát trên bờ biển.

Ngồi xuống vừa để nghỉ ngơi vừa tiện thể quan sát bọn họ làm việc. Đây thực sự là một việc rất chán, giống như là đang trên sân đá bóng, đang đá đột nhiên có một đống người lao tới, tất cả đều cao to đen hôi đông gấp chục lần mình, lúc đó mình chỉ có thể ngoan ngoãn dừng cuộc chơi lại mà thôi.

Tôi lại chửi thầm vài tiếng, mắt vẫn quan sát bọn họ mang đồ tới, trông không ra chút manh mối nào. Không nhìn thì thôi, vừa nhìn lòng lại trầm xuống. Trong bao tải lớn đó có rất nhiều bình dưỡng khí cùng với thiết bị lặn.

"Người ta chuẩn bị đầy đủ quá." Bàn Tử suýt xoa, "bọn họ biết dưới nước kia có cái gì thì phải."

Tôi nghĩ một lát, rồi nói với Bàn Tử:" có phải lão già Bắc Kinh kia tới để đào hàng không? Những người đó anh không nhận ra ai à?"

Bàn Tử đáp:" Bắc Kinh có nhiều nhà buôn lắm, trong Phan Gia Viên không có nhiều người tự mình xuống đấu, tôi thấy khả năng không lớn. Những người này không phải là dân trong nội thành trà trộn vào, nhìn toàn người tôi không biết. Mấy năm gần đây, ở đâu cũng có thế lực mới."

"Anh quan hệ rông ở Bắc Kinh như vậy mà không biết được một hai người sao?" tôi hỏi lại.

Bàn Tử lắc đầu:" tôi chả nhìn thấy ai quen mắt cả, cậu cứ từ từ để tôi nhìn kỹ một chút, có điều những người này nói giọng Bắc Kinh rất lạ. Cậu chờ ở đây một chút, để bàn gia tôi ra xem có thể hỏi ra ông chủ của họ là ai không."

Bàn Tử đi tới chỗ những người đang bận rộn quanh doanh địa, dùng tiếng Bắc Kinh chào hỏi bọn họ, nhưng không ai đáp lời anh ta. Bàn Tử này là hạng gì chứ? Lập tức bám lấy bọn họ, rồi cả nhóm lục tục rời đi.

Tôi nghĩ xem mình có thể làm gì bây giờ, hay là lượn quanh doanh địa bọn họ một chút, xem có cái gì hoặc là tìm xem có ông chủ của bọn họ ở đây không?

Nhưng cuối cùng thì tôi chẳng làm gì cả, vì sau khi lặn xuống nước người mỏi ra rời tới mức đứng không nổi, mắt và tai cũng đều rất khó chịu, đặc biệt là tai tôi, vừa động vào là đau buốt cả lên, nghe cái gì cũng khó. Xem ra hạ thủy kiểu này cũng có ảnh hưởng lớn tới cơ thể.

Đang nghĩ xem phải làm gì, bỗng đằng sau Muộn Du Bình lại nắn vào vai tôi một cái.

Nắn vừa phải nên rất thoải mái, tôi thầm nhủ người này thật tốt, lại biết mát-xa cho mình nữa bỗng nghe anh ta nói nhỏ:

"Cậu xem kìa."

Tôi lại nhìn qua doanh địa lần nữa, xem có gì đó khác thường, bỗng thấy từ trong rừng có một nhóm người đang đỡ ai đó trên con la xuống. Cả đoàn người lập tức ùn ùn tới nghênh đón.

Cẩn thận quan sát có thì phát hiện người kia tuổi cũng tương đối cao, sau khi đặt chân xuống đất bước đi thật tha thất thểu, ngay cả đứng cũng không thẳng được. Bốn phía lão ta có vài tùy tùng, tình hình là đang đi tới chỗ chúng tôi.

Đang định đứng lên bỗng thấy Muộn Du Bình lại đè tôi lại. Tôi quay đầu, phát hiện anh ta đang lúp sau lưng mình, chăm chú nhìn đoàn người đang tới kia, nói với tôi:

"Đừng để bọn họ thấy tôi."

"Chuyện gì vậy?" tôi thầm hỏi, cố gắng rướn thẳng người che cho Muộn Du Bình, nhìn bọn họ càng lúc càng tới gần. Lão già được dìu kia nhìn như một VIP, dáng vẻ cao lớn nhưng lại vô cùng gầy yếu, thời trai tráng hẳn lão phải rất anh tuấn tiêu sái. Vì bị nhiều người chằn nên tôi nhìn không rõ mặt lão ta, chỉ thấy đó là người vô cùng già, bước đi không còn chút khí lực nào, hẳn là cũng gần đất xa trời rồi.

Những người liên quan xung quanh có nam có nữ, càng thêm hỗn độn, người thấp bé kia vừa đi vừa luôn miệng giới thiệu. Họ nói chuyện rì rầm, cũng không đi qua chỗ chúng tôi mà rẽ vào một ngôi lều.

Chờ tới khi bọn họ vào trong lều hết rồi, Muộn Du Bình mới buông tay khỏi ba vai tôi. Tôi bị anh ta nắm chặt tới mức máu đỏ cả vai, vừa cho tay lên xoa xoa vài cái, vừa hỏi:" sao vậy? Anh biết bọn họ sao?"

Muộn Du Bình gật đầu, mặt tái xanh nói:

" Cầu Đức Khảo."

"Cầu Đức Khảo?" tôi sững người, "lão già kia là Cầu Đức Khảo?" tiếp theo còn tưởng là nhảy dựng lên được. Chết tiệt! Những người này cùng đội với A Ninh, nhưng là lão già lần này thân chinh xuất mã.

Nhất thời tôi không kịp phản ứng, hình tượng Cầu Đức Khảo trong lòng tôi vừa đúng lại vừa không đúng, kia là một người có mặt dài như mục sư tính tình nhã nhặn, nhưng cũng có chút giống mặt ngựa ( :D ). Tên lừa gạt đó, kẻ mà hồi còn bé ông nội tôi từng kể là Cầu Đức Khảo là một tên khốn nạn nhất, tôi còn tưởng tượng thành một bản mặt yêu quái đại gian đại ác. Không ngờ là hình dạng thật lại là một lão già gầy quắt như vậy.

Những suy đoán này khiến tôi cảm thấy vừa lạ vừa khó tin. Chuyện ông nội kể giống như là truyện cho trẻ con, hiện tại nhân vật trong truyện cho trẻ con đó bỗng nhiên từ trong bút ký của ông nội bước ra, trong thời gian ngắn, cảm giác của tôi có chút hỗn loạn.

Lão ta tới đây làm cái gì chứ? Xem trận thế này hẳn lão cũng biết chuyện dưới đáy hồ kia. Sau đầm rắn, lão cũng giống chúng tôi không hề buông xuôi cuộc điều tra, vẫn theo tới tận đây sao?

Nhưng, hướng chúng tôi điều tra hoàn toàn là ngẫu nhiên, bọn họ có cơ sở khác với chúng tôi, sao có thể chạm mặt nhau được? Chẳng lẽ trước giờ bọn họ vẫn luôn theo dõi chúng tôi ư?

Nghĩ lại thấy không giống, nếu như theo dõi, bọn họ không thể nào chuẩn bị đầy đủ hơn chúng tôi được. Chúng tôi hoàn toàn không biết tới đây cần thiết bị lặn, bọn họ lại mang tới, khẳng định là phải biết được nhiều manh mối hơn, ít nhất là cũng phải phát hiện ra trước bọn tôi. Cảm thấy chuyện có chút thú vị, xen thêm chút đáng sợ nữa. Lão già lần này thân chinh, chắc không phải chuyện thường. Lão lớn tuổi như vậy đâu có hợp với những chuyện phải bôn tẩu đường xa như thế, lần này xuất hiện chắc là tính được ăn cả ngã về không.

Dưới kia rốt cuộc có cái gì?

Nghĩ lại vừa rồi, cục diện quả có chút phiền toái, chúng tôi có quan hệ rất phức tạp với bọn họ. Ông nội tôi và Cầu Đức Khảo là kỳ phùng địch thủ, mặc dù giờ tôi cũng không có bất kỳ ý định báo thù nào nhưng tầm ảnh hưởng của nó khiến tôi không có chút thiện cảm nào với bọn họ. Mà giữa chú Ba và Cầu Đức Khảo lại có ân oán, nó càng khiến đầu óc tôi thêm khó nghĩ.

Đôi bên không có ý thù địch gì, cũng không có quan hệ cạnh tranh, dưới tình huống địch mạnh ta yếu, cần phải cân nhắc thật kỹ cách xử lý làm sao cho thỏa đáng.

Phải làm từng bước từng bước một.

Tôi áp tay vào ngực đè nhịp tim xuống, lại nhớ ra một việc- chẳng phải Muộn Du Bình bị mất trí nhớ sao? Làm thể nào lại nhận ra Cầu Đức Khảo kia chứ? Hơn nữa vì cái gì phải trốn lão ta?

Tôi liền quay đầu hỏi. Muộn Du Bình vẫn nhìn về phía lều kia đáp:" khi tôi ở bệnh viện có gặp qua lão ta một lần."

"Bệnh viện? Là bệnh viện Bắc Kinh hay là Cách Nhĩ Mộc?" chúng tôi không liên lạc với người của Cầu Đức Khảo từ sau khi ra khỏi Sái Đạt Mộc, có điều không nhớ trong thời gian qua có gặp lần nào không, Muộn Du Bình lúc ấy lại bị kích động dữ dội như vậy.

"Bắc Kinh." anh ta trả lời, "ngay tháng trước."

Hóa ra là thời điểm chữa bệnh ở Bắc Kinh. Cái con mợ nó! Cầu Đức Khảo gặp Muộn Du Bình ư? Bàn Tử sao không nói cho tôi biết?

Nghĩ lại, con mẹ nó chứ Bàn Tử là người đầy nghĩa khí, nhưng nếu bắt anh ta chăm sóc Muộn Du Bình thì không thể được. Khi tôi ở Hàng Châu, bảo anh ta trông chừng Muộn Du Bình, chắc là cũng bữa đực bữa cái. Hơn nữa Muộn Du Bình như thế ai ở cạnh cũng khó, không có tôi ở đây chắc Bàn Tử thể nào cũng thi nhau lườm nguýt với anh ta. Lúc Muộn Du Bình gặp Cầu Đức Khảo không biết anh ta chạy đi đâu, do đó mà cũng chẳng biết.

Nhớ tới chuyện này tôi thật muốn mắng ầm lên, Muộn Du Bình là một nước cờ lớn trong tay chúng tôi, làm thế nào mà anh ta gặp Cầu Đức Khảo chúng tôi lại chẳng biết gì hết? Nói cách khác, nếu Cầu Đức Khảo thực gian hùng, thì Muộn Du Bình chắc cũng bị lão bắt đi rồi, lúc đó biết cũng đã muộn. Bàn Tử rõ là vô tâm! Muộn Du Bình cũng thật là, cái gì cũng không chịu nói. 

" Lão tìm anh làm gì thế?" tôi hỏi Muộn Du Bình, " anh sao không nói cho tôi biết, thưa đại ca."

Muộn Du Bình không trả lời, chỉ quay về lấp sau lưng tôi.

Nhìn qua lại thấy Cầu Đức Khảo từ trong lều đi ra, nhìn quanh bốn phía, đầu đội mũ, bước tới bên dưới một tàng cây.

"Anh trốn cái gì vậy?" tôi lại hỏi, " bị lão thấy thì sao chứ? Có thể lão đã sớm biết anh ở đây rồi."

Muộn Du Bình lắc đầu, nói với tôi:" chúng ta không thể để bọn họ vượt mặt được, phải nghĩ cách câu giờ."

"Anh muốn làm gì?" tôi lại hỏi.

Muộn Du Bình chỉ chỉ đống đồ lặn bên kia, "chúng ta đi trộm bình dưỡng khí." ( lòi cái đuôi trộm cắp rồi nhá đại ca, anh không chịu buôn bán gì mà đòi sống hàng mấy chục năm qua, hóa ra là có nghề tay trái này :D )

Chương thứ 56

Làm chuyện xấu

Tôi lập tức hiểu được ý của Muộn Du Bình, như có ánh sáng lóe lên trong đầu, không khỏi khen thầm.

Chúng tôi không có bình dưỡng khí, nếu Cầu Đức Khảo có hành động gì, cả bọn chỉ có thể đứng xem. Mà quay về lấy thêm đồ nghề thì phải tốn thời gian, không biết chừng người ta đã đi tới tận đâu rồi. Nếu dưới nước kia có gì quan trọng, chúng tôi tuyệt đối không chiếm được cơ hội.

Quả thực như lời Muộn Du Bình, khả năng đây là cơ hội duy nhất.

Lợi dụng lúc mà bọn họ còn chưa để mắt tới những bình dưỡng khí kia, phá hỏng chúng, vậy là những người đó sẽ không còn bình dưỡng khí, dù cho bọn họ có máy nén khí thì cũng không cách nào xuống nước được. Đây là chiêu tiên hạ thủ vi cường điển hình, ra tay khi người khác không ngờ tới.

Có điều lúc này có điều kiện nào để trộm chúng đây? Tôi thắc mắc. Bình dưỡng khí đặt trên bãi đá cách hồ một khoảng xa, tự nhiên chạy tới đó, dù cho Muộn Du Bình có thể một mình ôm mười cái, anh ta cũng không thể kịp chạy lại chỗ chúng tôi, lao vào trong hồ nước thì tôi và Bàn Tử chắc chắn sẽ bị giữ lại xử lý.

Nghĩ một lát, tôi nói:" anh nói rất có lý, nhưng chuyện này chưa tới mức gấp gáp, người ta đông như vậy, giờ chúng ta không thể nẫng tay trên được. Đợi tới tối rồi lén tới trộm là được."

Muộn Du Bình lắc đầu:" buổi tối không kịp, một khi đã ổn định xong, bọn họ lập tức hạ thủy ngay, cậu nhìn kìa."

Tay anh ta chỉ về một phía, nơi đã có mấy người đang bơm một bè cao su, còn có người đang tiến tới hồ, rõ ràng là thợ lặn đang quan sát địa thế xung quanh.

"Sao bọn họ lại vội vã như vậy?" tôi lấy làm lạ hỏi.

Muộn Du Bình dừng một lát, bỗng nhiên nói:" có lẽ, không còn thời gian."

Tôi sửng sốt, những lời vừa từ miệng anh ta nói ra chứa đầy hàm ý, có điều trước mắt không có thì giờ mà cân nhắc.

Chạy qua kêu Bàn Tử trở về, anh ta vừa nghe kế hoạch của chúng tôi liền a lên một tiếng, lắc đầu nói:

"Bố khỉ! Làm thế khác nào cướp của người, thanh danh Bàn gia tôi còn đâu nữa?"

Tôi nói:" nếu như dưới này có minh khí gì, bọn họ xuống rồi sẽ vớt lên hết. Anh muốn minh khí hay muốn giữ cái thể diện hão kia?"

Bàn Tử nghĩ một lát mới nói:" quái nhờ, tôi nghĩ rằng lời của Thiên Chân rất là dễ thuyết phục lòng người. Chúng ta trước cứ gạt thể diện sang một bên, cậu nói xem giờ làm thế nào?"

Tôi tính làm rắn chắc chắn không được, liền bảo Bàn Tử đi chuẩn bị bè gỗ, chất lên đó mấy tảng đá. Chúng tôi không thể vác vật nặng vào trong hồ được nên chỉ có thể mang đá để thay thế. Sau đó, phải nghĩ ra một cách nào đó để thu hút sự chú ý của những người kia, thừa cơ cho người chộp giật bình dưỡng khí.

Bình dưỡng khí để cách bờ một đoạn, nếu dốc toàn lực mà chạy thì cùng lắm chỉ cần ba mươi giây. Nhưng khu vực này có rất nhiều người đang tất bật làm việc, chỉ cần dừng lại một khắc lập tức bị người đuối kịp ngay. Trong tình huống phải cướp giật giữa chốn đông người như vậy, cần phải chuẩn bị tâm lý thật kỹ.

Tôi thực không phải người trong nghề, nghĩ thế nào cũng không có khả năng. Hơn nữa vừa nghe Muộn Du Bình nói như vậy, cảm thấy đặc biệt căng thẳng, cảm giác như mình chẳng có lấy mảy may cơ hội nào.

Ngay lúc đó vẫn là Bàn Tử nghĩ ra cách, anh ta nhìn những người kia sau lại quay ra nhìn vị trí của bình dưỡng khí, đột nhiên nói:" các cậu biết cưỡi ngựa không?"

"Làm gì?" tôi hỏi.

Anh ta chỉ một con la, nháy mắt ra hiệu:" từng xem người Mông Cổ cưỡi ngựa đoạt dê chưa?"

Tôi hiểu ngay ra ý của anh ta, cau mày nói:" con la khác con ngựa, la chạy không nhanh được đâu!"

"Bố cậu! Chúng ta không đua ngựa, chỉ cần nó chạy mấy chục bước. Hình dạng nó tương đối lớn, chạy lồng lên ai dám ngăn cản chứ? Vấn đề bây giờ là lúc đó trăm ngàn lần không được ngã thôi."

Có hi vọng rồi! Tôi gật như gà mổ thóc, Bàn Tử lập tức đi chuẩn bị. Chúng tôi trước đem bè gỗ đẩy vào trong hồ, sau đó quay lại, bắt buộc phải moi tiền ra để thuê một con la và mượn thêm ít đồ dùng nữa.

Người kia từng gặp qua chúng tôi trong thôn, lại thêm được tiền nên tất nhiên sẽ đồng ý.

Bàn Tử hỏi:" con la lúc nào chạy nhanh nhất?"

Người kia đáp:" thời điểm động dục, có muốn kéo cũng không được."

Bàn Tử nói:" thế thì khó quá, có cách nào khác không? La sợ nhất thứ gì?"

Chuẩn bị xong xuôi, chúng tôi kéo con la chậm rì rì tới bên doạnh trại đang bận rộn của bọn họ. Tới gần nơi để bình dưỡng khí, ba người đưa mắt nhìn nhau, tôi căng thẳng tới mức đổ mồ hôi đầy người.

Ba người dẫn một con la, cảm giác cực ngốc, giống như nông dân Mexico vậy. Có điều là không khiến cho người khác nghi ngờ, vì bốn phía có tới cả tá la.

Bình dưỡng khí được bọc trong một cái túi lớn, cả đống buộc cùng một chỗ, Bàn Tử đuổi cho con la chạy, tới gần đó thì quay ra nháy mắt tới tôi, bảo tôi đi tháo dây thừng.

Tôi nhìn nhìn, không có ai chú ý mình, vừa định động thủ thì bỗng phía sau có người đằng hắng một tiếng:

"Này! Mấy người đang làm cái gì vậy?"

Tôi phản xạ lập tức quay đầu lại, nhìn tới có một cô gái đáng tiến tới chỗ mình, dưới tàng cây mọi người đang nghỉ ngơi cùng đứng cả dậy. Tôi lập tức bị hoảng, thầm nhủ làm sao bây giờ? Bị phát hiện mất rồi!

Trong tích tắc đó, Bàn Tử bước dài một chân, vơ lấy đống bình dưỡng khí hô to:" lên la!"

Vội vã tôi cũng vơ lấy bình dưỡng khí. Bà người lập tức nhảy lên lưng la, Bàn Tử dùng sức vỗ mông nó, hét lên:

"La điên đây!"

Bị kinh sợ, con la tung bốn vó chạy như điên.

Bình thường nhìn nó đi thì chậm chạp thế mà vừa hốt một cái lập tức lao đi khiến tôi thiếu chút nữa không ngồi vững được. Hơn nữa bình dưỡng khí của tôi và Bàn Tử lại gắn với nhau, hai chúng tôi đồng tâm hiệp lực lôi cả đống đi. Nhìn như một trò tạp kỹ, vô cùng nguy hiểm.

Nó khiến cho tất cả mọi người đều phải chú ý, cô gái phía sau tôi phản ứng mau lẹ, lập tức kêu lên:

"Cản bọn họ lại!"

Bàn Tử đoán không sai, con la chạy cũng nhanh kinh người, cứ lao về phía trước mà đi, nó còn dọa cho hai người đang ngồi trong bạt che nắng sợ tới mức dạt ra, thậm chí còn ngã xuống đất. 

Bàn Tử vẫn còn gào lên:

"Tránh đường! Cẩn thận!"

Ba người điên cuồng nhắm tới bên hồ, tiếng cô gái phía sau bị những âm thanh gào thét át đi, hơn nữa dưới tình huống này ai dám cản? Bị con la đạp cho một cước chắc cũng trẹo gân dập cốt. Lúc đó bên hồ tình cảnh rất hỗn loạn.

Tôi còn chưa kịp phản ứng gì đã thấy nó lao tới bên hồ. La vốn sợ nước, ngoặt một cái thân nghiêng đi, mấy người chúng tôi bị nó hất cho ngã dúi xuống.

Trán tôi bị va trúng vào tảng đá, sau đó được Bàn Tử đỡ dậy, con la tiếp tục lồng lên chạy như điên. Nhìn lại cô gái kia đã mang người đuổi theo, chúng tôi vội vã xoay người lao xuống hồ.

Đến bên hồ lập tức chiếm ưu thế hơn hẳn. Hồ nước sâu nên lặn rất nhanh, nhảy vào một cái đã thấy chân không chạm đất, chúng tôi kéo bình dưỡng khí xuống nước. Sau khi bơi được hơn mười thước mới quay đầu lại nhìn, mấy người kia cũng bắt đầu lao vào hồ.

Bơi tới chỗ cái bè gỗ, ôm lấy mấy tảng đá, Bàn Tử đánh động một tiếng:" lặn!" ba người cùng lúc nhanh chóng ngụp đầu lặn xuống nước.

Dưới nước chỉ thấy bên trên loáng thoáng vài người đã bơi tới, thiếu chút nữa là bị bọn họ tóm trúng. Có vài người lặn xuống mò một lượt, nhưng rất nhanh sau đó lại nổi lên.

Chúng tôi ung dung mặc đồ lặn và đeo kính chắn nước lên. Rốt cuộc thì đây cũng là dụng cụ chuyên nghiệp, bốn phía lập tức rõ ràng lên. Tôi mở kính lặn ra để đẩy bớt nước ra ngoài, khoác bình dưỡng khí, đeo chân vịt, bọn họ bên cạnh cũng đã chuẩn bị sẵn sàng.

Trang bị của Cầu Đức Khảo đúng là hàng cao cấp, trên thắt lưng còn có kèm theo một công cụ, có cả đèn LED, đèn pin chuyên dụng, chủy thủ này và bình dưỡng khí cũng khác, một bình có thể duy trì được ba phút. Để mang được những thứ này vào trong núi cũng cần có giấy tờ đang hoàng, người này xem ra cũng không phải tầm thường.

Kiểm tra tổng thể xong, tôi cũng chìm tới đáy hồ, có bình dưỡng khí khả năng lặn được hai ba trăm mét, độ sâu này chẳng thấm vào đâu. Quan trọng là đối thủ không có bình dưỡng khí, nên cơ bản không cần lo lắng có người hạ thủy đuổi theo.

Bàn Tử ra hiệu, chỉ chỉ phía trước. Nơi này cách vị trí trước đây một khoảng, nước không sâu bằng, phía trước sâu thăm thẳm, cổ trại là ở chỗ đó. Chúng tôi phải rời khỏi đây, hồ này nói lớn không lớn mà nhỏ cũng chẳng nhỏ, bọn họ chỉ có thể trơ mắt nhìn. Bật đèn pin lên, sau đó Bàn Tử bơi lên trước, cuối cùng cũng tới được trên cổ trại, lấy bình dưỡng khí thả xuống, nhìn chúng rơi vào giữa thôn trại rồi mới cùng nhau lặn tới bên kia hồ.

Lén lút leo lên bờ, đồng thời thấy bên đối diện một khoảng nhớn nhác.

Về sau có thêm A Quý và Vân Thái ở lại trong núi chi viện cho chúng tôi, ba người hả hê, ẩn núp mà trở về.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro