Đạo mộ bút ký - Ngoại truyện 2 - Ngô Tà tư gia bút ký

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Chương 1: Lời dẫn

Trước khi viết lại tất cả những điều này.

Tôi chưa từng nghĩ rằng có một ngày mình lại dùng tới chiếc máy tính để viết bút ký. Đối với một người cả ngày chơi bời lêu lổng như tôi, dịp duy nhất để viết một cái gì đó chính là ký đơn cho những người đến trả tiền mà thôi. Nhưng từng ấy không đủ bận rộn để đầu óc tôi phải suy nghĩ gì nhiều, đó thật sự là một việc làm cho người ta cảm thấy thích thú. Nhưng không biết vì sao, cho dù là một chút tôi cũng không cười nổi.

Cho nên tôi viết lại quyển bút kí này là để hy vọng những chuyện mình đã trải qua có thể được ghi lại một cách rõ ràng, bởi vì thực sự không thể tưởng được nó lại diễn ra quá phức tạp như thế. Chỉ hy vọng tất cả những ghi chép dưới đây có thể được trở lại như cũ, giống như nguyên nhân của sự việc, giống như tất cả những thứ khác.

Lời dẫn

Nguyên nhân gây ra chuyện này là vào ngày mùng một tháng hai năm 2003, một lão già răng vàng bỗng tới hỏi chuyện của ông nội tôi khi tôi đang chuẩn bị đóng cửa hàng lại.

Lúc ấy tôi chỉ có một suy nghĩ rằng không biết nên phản ứng với lão như thế nào, chỉ là chuyện này cho dù sao thì vẫn thấy rất kỳ quái. Chuyện của ông nội, trong nhà chúng tôi khép lại đã sáu bảy năm rồi, không còn ai nhắc tới nữa, vậy vì sao đột nhiên lão răng vàng này lại hỏi tới?

Nhìn bộ dạng và điệu bộ nói chuyện của lão ta thì biết đây không phải là một người lương thiện gì.

Sau này, ông chủ Tiền ở bên cạnh nói cho tôi biết, ông ấy nhận ra lão răng vàng đến cửa hàng tôi lúc đó, lão kia nổi tiếng xấu xa, tên là Kim Vạn Đường, chính là nhân viên kinh doanh của khách sạn Tân Nguyệt ở Bắc Kinh.

Khách sạn Tân Nguyệt là một khu vui chơi cao cấp ở Phan gia, có của cải và địa bàn kinh doanh đều mở ở bên đó, không cần màn trời chiếu đất, cũng không dùng phải thường xuyên đụng chạm tới Lôi Tử (từ lóng để chỉ cớm ấy :D ). Với tư cách của tôi còn không đủ tiêu chuẩn để đi vào, chỉ mới nghe tới một chút. Có người nói bất cứ một món đồ nào được bên trong ấy một khi đã đặt lên bàn thì giá của nó cũng phải cao hơn cả vàng khối.

*Phan Gia Viên: là một nơi giống như chợ trời ở Bắc Kinh, ở đó buôn bán đủ mọi loại mặt hàng thuộc đồ cổ.

Tại sao một nhà giàu có như vậy lại để lão già này chạy đến Giang Nam, còn tới một cửa hàng nhỏ bé ở tít cuối huyện như của tôi chứ, rốt cục là có ý gì đây? Lúc ấy tôi tự nói với chính mình nếu có cơ hội tất phải điều tra một chút, chỉ có điều cái ý niệm này chẳng mấy chốc đã bay biến đi mất. Làm cái nghề như tôi thì gặp phải quái nhân và chuyện lạ sẽ nhiều lắm, mỗi việc mở cửa hàng đồ cổ thôi cũng đã không được sống yên ổn rồi, thực sự là tôi không quá quan tâm tới chút chuyện tầm phào ấy.

Bỗng có ngày tôi ngẫm ra cũng thấy hơi bùi ngùi thật. Lại nói tới cảnh ngộ của tôi thực sự không tươi sáng gì, cửa hàng bên cạnh còn mở tận ra ngoài đường, có cả xưởng làm bánh ngọt nữa, ngay đến quản lý mà còn đi làm bằng xe con, trong khi tôi lại từng tháng nhịn ăn nhịn tiêu để trả tiền lương cho thủ hạ, làm một ông chủ vô cùng bất lực. Lúc ấy đã nghĩ bán đồ cổ mà lại không mở mày mở mặt bằng quán cơm, đây là cái thói đời gì vậy? Đã thế tôi đi thuyết phục cha mình, đem cửa hàng này chuyển thành quán cơm cũng được. Đương nhiên điều đó chỉ là tôi tùy tiện nói nói vậy thôi, tôi hoàn toàn không nghĩ tới sau này lại phát sinh ra nhiều chuyện như vậy. Nếu sớm biết sẽ thành như thế, tôi nhất định cầm một cây đuốc mà đốt trụi cửa hàng nhà mình đi, chấm dứt hết tai họa về sau.

Nói tới nói lui, sự thật là chúng ta không tài nào biết trước được chuyện tương lai, cho nên đến cùng tôi vẫn không thể tránh khỏi sa chân vào đó. Tiếp theo mỗi bước một lún sâu thêm.

Ngay cả khi như vậy, tôi cũng không nghĩ rằng bản thân về sau phải dùng tới phương pháp này để sắp xếp lại mọi chuyện cho rõ ràng.

Những toàn bộ ghi chép này vẫn đang ở được thực hiện, mặc dù kết cục vẫn chưa được rõ ràng.Nhưng đọc kỹ lại những đoạn kí ức này, coi lại từ đầu đến giờ, xem ra cũng khá là đặc sắc, giờ chỉ cần chỉnh lại một chút, cuối cùng cũng sẽ ra được đáp án. Tôi tin chắc như thế hơn nữa còn kiên trì làm tiếp.

Chương 2: Cửu Môn Đề Đốc

Chuyện đời của ông nội tôi và thậm chí là cả chuyện của tôi, ngọn nguồn nhất định là từ Lão Trường Sa. Từ dãy núi Phiêu Tử cho đến Cầu Đức Khảo, và cả mầm mống bị vùi lấp năm đó, dường như đến thế hệ của tôi lúc này rốt cục mới phát triển, để đối địch lại. Vì đối với phong tục ở Trường Sa ngay lúc đó có chút hiểu biết, nên tôi để ý ở trong bút kí của ông nội về nội bộ của "Cửu Môn Đề Đốc" có keo kiệt một chút, phối hợp với những câu chuyện xưa thú vị ngày trước ông kể cho tôi nghe, đều viết xuống hết, bây giờ đọc lại từ đầu thực rất có cảm xúc.

Trong Lão Trường Sa Cửu Môn Đề Đốc, chỉ cần bước ra ngoài tám bước không có người nào là không biết, không người nào là không hiểu, đó....... chính là những gia tộc trộm mộ, thế lực khổng lồ, là đường dây buôn lậu tất cả mọi thứ bao gồm cả văn vật. Gần như tất cả đồ bồi táng đưa ra Trường Sa, nhất định đều phải đi qua một nhà trong số đó. Vì sao lại gọi là Cửu Môn Đề Đốc thì cái này có rất nhiều cách nói, trong đó được tán thành nhất chính là bởi vì Đại Thành cổ đại có chín cổng thành, mà thương nhân muốn ra vào thành thì phải lựa chọn một cổng trong chín cổng thành đó, nên gọi Lão Cửu Môn chính là có ý này. Buôn bán ở trong thành Trường Sa, ngươi chỉ có thể lựa chọn một trong chín thế lực mạnh nhất ở đây, không có con đường nào khác để hắn có thể đi được.

Thực ra thì những chuyện của bọn họ tôi cũng không biết nhiều, quan trọng nhất là ông nội tôi không mong tôi biết quá nhiều chuyện tình trước đây của bọn họ. Việc làm của những người này mà nói thì ở trong là chuyện được mọi người ca tụng, còn ở ngoài mà nói ra thì cũng là việc xấu.

Lão Cửu Môn và Tân Cửu Môn hầu như không thể nào so sánh được, Tân Cửu Môn đại bộ phận đều là tự phong, mà Lão Cửu Môn lại chính xác thực sự là dựa vào danh tiếng từng chút từng chút mà truyền ra ngoài.

Vào những năm tin tức còn bế tắc, để khiến cho người người truyền miệng nhau tới mức thành danh thì nhất định là phải trải qua những việc hết sức đặc biệt. Không khó để tưởng tượng được bản lĩnh của những người này rốt cuộc là lợi hại cỡ nào, mới có thể khiến cho người dân đưa lên địa vị như vậy.

Cửu Môn được phân ra làm ba bộ phận, thượng Tam Môn (ba gia tộc đứng đầu)đều là lão gia tộc giàu có, hơn nữa thân phận cũng đã chính thức được gột sạch, có Môn trong lúc đó có cửa hàng buôn bán, hơn nữa còn có thế lực khổng lồ trong bộ máy nhà Nước, đổ đấu chủ yếu chỉ dựa vào thủ hạ của mình. Trong thượng Tam Môn có một số thủ hạ vô cùng lợi hại, thân thủ vô cùng tốt lại rất trung thành và tận tâm, thế nhưng ... cũng chính vì nguyên nhân này, những thủ hạ này dần dần già đi cũng khiến cho Thượng Tam Môn từ từ xuống dốc theo.

Bình Tam Môn (ba gia tộc đứng giữa) lực lượng chính là Giáp Lạt Ma, đây đều là những anh hùng can đảm, thủ hạ nhiều nhất cũng chỉ là vài người đồ đệ, cả ngày đi ở trong núi. Bọn họ đều tương đối còn tuổi trẻ, hơn nữa tham lam dục vọng cũng rất nặng, giết người cướp của đều làm được, danh tiếng đều là dựa vào chém giết mà thành, cho nên cũng không có lo lắng gì. Sau khi lập quốc, những vụ án chết người đều là có liên quan tới nhóm người này.

Hạ Tam Môn (ba gia tộc đứng cuối), còn lại là đều là thương nhân bán đồ cổ, chủ yếu dựa vào việc mua đi bán lại là chính, tuy rằng bản lĩnh không kém thế nhưng cũng không hay tự mình hoạt động. Bọn họ cùng Bình Tam Môn có quan hệ rất thân thiết, về phần Thượng Tam Môn vì lực lượng quá lớn, không thể chia cho Hạ Tam Môn lợi lộc gì, cho nên Thượng Tam Môn và Hạ Tam Môn cũng không có qua lại gì cả.

Nếu muốn dùng một chữ để nói tóm tắt thì, Thượng Tam Môn này chính là người của Nhà nước, Bình Tam Môn là đạo tặc, Hạ Tam Môn còn lại là thương nhân. Từ xưa đến nay, chuyện thương nhân và quan lại cấu kết làm ăn với nhau là chuyện thường, ở nơi này đương nhiên cũng không ngoại lệ.

Thượng Tam Môn

Ba vị lão gia của Thượng Tam Môn, đều là lão cầm đầu tiếng tăm lừng lẫy, vì vậy Tam gia lúc đó có thể nói là những người có một không hai. Nói bọn họ là thổ phu tử, có thể có phần thiệt thòi cho họ, bởi vì thế lực gia tộc của bọn họ lúc ấy đã có phần tương tự như một đạo quân phản loạn rồi. Tự bắt đầu khởi nghĩa Thu Thụ, người trong nhà Tam lão gia đại bộ phận đều dấn thân vào cách mạng, trong đó vẫn có một số người đều là công thần lập quốc, vì vậy không tiện nhiều lời được. Cho nên tôi chỉ biết được vài người danh tiếng mà thôi.

Chương 3: Trương Đại Phật Gia

Trương Đại Phật Gia tên là Trương Khải Sơn, Trương gia chính là gia tộc thế gia bậc nhất tại Trường Sa. Bởi vì trong nhà có một pho tượng phật rất lớn không biết là được đem tới từ đâu, vì vậy mới được đặt biệt hiệu là Đại Phật gia. Trình độ phong thủy của Trương Khải Sơn vô cùng uyên thâm, điều này hoàn toàn không giống với phong cách của Nam Phái, mà chính là Bắc Phái. Tương truyền trên giang hồ rằng, Trương Khải Sơn có thể xem tam đại thổ ( ba đời đất ), ông ta đứng ở trên núi, liếc mắt nhìn một cái, ngọn núi này ba trăm năm trước có hình dáng gì, ba trăm năm sau có hình dáng gì, đều có thể hiểu rõ như trong lòng bàn tay. Cho nên Trương gia luôn tìm được những ngôi mộ lớn, mà người khác không thể tìm thấy, thường thường có thể tìm được kỳ bảo. Hai cái vòng Trương Khải Sơn đeo trên tay chính là lấy được trên người bánh tông, tên là Nhị Hưởng hoàn, gõ nhẹ một cái, hai cái vòng ngọc đặc này có thể vang lên hai cái, nhất định rất trân quý. Trên vòng còn có khắc chữ, Trương Đại Phật Gia cho rằng đây khẳng định là không phải chỉ có một đôi. Vì thế không tiếc nghìn vàng tìm một cá vòng tay nữa, muốn phối thành "Tam Liên Hưởng", câu chuyện này được truyền đi một thời làm cho mọi người ca tụng.

Trương Đại Phật gia còn có một huyền thoại xưa, chính là hành trình mang theo gia quyến từ Đông Bắc chạy trốn tới Trường Sa những ngày kháng chiến. Trước khi ba tỉnh Đông Bắc bị chiếm đóng, Trương Đại Phật Gia vẫn còn là một thanh niên trẻ, cha của ông ta đã dự cảm thấy tình thế không ổn, trước đó đã đem những người phụ nữ trong gia đình đưa tới nhà cha mẹ vợ ở Trường Sa trước, còn chính mình thì đút lót châu báu vào doanh trại quân đội, dự định là cùng con trai và thủ hạ chờ thuyền, thuận theo Trường Giang đi xuống.

Thế nhưng không ngờ chưa đợi được thuyền đến, quân Nhật Bản đã đánh tới nơi, đoàn người lúc đó bị nhốt ở trong thôn Liêu Tỉnh. Để thoát ra khỏi vòng vây, bọn họ lén vượt qua biên giới, kết quả cha của Trương Đại Phật Gia bị trúng đạn do càng quét súng máy mà chết, ông ta và vài người thủ hạ bị nhốt vào trại tập trung.

Lúc ấy chỉ cần bị đưa vào đó cũng có nghĩa là trước sau gì cũng sẽ bị đẩy tới mỏ than đá Hắc Long Giang làm công nhân khai thác. Đồng nghĩa với vĩnh viễn không có ngày nổi danh, chắc chắn phải chết chứ không còn nghi ngờ gì nữa, nhưng mà người Nhật canh gác thực sự rất nghiêm, hơn hết những người chạy trốn bị bắt trở lại đều bị dùng lưỡi lê đâm chết, rất ít có ai có thể chạy thoát thành công.

Trương Đại Phật Gia ẩn nấp ở một chỗ nào đó, cẩn thận quan sát, phát hiện nguyên nhân chính yếu vì sao những người đó không trốn thoát được, đó là ở chỗ do chó nghiệp vụ của quân Nhật Bản quá lợi hại. Trại tập trung nằm ở trong núi, đỉnh núi, chân núi đều có trạm gác, mới nhìn thì thấy rất tốt để ẩn núp và chạy trốn, chỉ có điều trên núi có nhiều cây, dọc đường đi có thể để lại mùi rất nặng, quân Nhật Bản chỉ cần thả chó săn ra, cho dù là trốn như thế nào cũng sẽ bị tìm được.

Ông ấy còn phát hiện được, quân Nhật Bản chỉ truy tìm hai ngày, nếu trong vòng hai ngày mà không bắt lại được, bọn chúng sẽ buông tha cho, bởi vì trong hai ngày này đủ thời gian để đi vào trong núi, trong đó cây cối cao ngất trời, một khu vực quá lớn, có thả chó cũng vô dụng.

Vì thế ông ta suy nghĩ, nếu muốn bỏ trốn thành công, phải tìm một chỗ có thể ẩn trốn trong vòng hai ngày mà chó săn không thể tìm ra được. Mà muốn chó săn không tìm được, phải đạt được một điều kiện này, chính là nơi có nước đọng. Nước là một thứ vách ngăn, có thể chặn được mùi.

Vậy thì đi đâu tìm ra nơi có nước đọng đây? Nếu như nơi đó diện tích nước quá nhỏ thì không thể che đậy được hết mùi, mà nơi nước đọng quá sâu thì trên núi nhất định là không có.

Thấy một nhóm người trong trại tập trung đã bị chở đi, trong lòng liền nóng như lửa đốt, thế nhưng lại không hề có biện pháp nào. Chỉ còn một ngày nữa, là đến lúc ông ta bị chở đi, phát hiện ở trên sườn núi phía tây trại tập trung, có một tòa cổ mộ.

Địa hình của tòa cổ mộ này giống như là móng quỷ, hơn nữa được xây ngầm trong núi, hình thức cực kém, chủ mộ khi còn sống khẳng định là đắc tội với không ít người. Nhìn địa thế xung quanh cổ mộ, phát hiện cổ mộ được bảo tồn rất hoàn hảo.

Trương Đại Phật Gia trong lòng tính toán, liền nảy ra kế sách ngay. Đầu tiên là phải đi tới bên cạnh cổ mộ kia, đánh xuyên qua đỉnh mộ, như vậy chỉ cần trời mưa trong mộ sẽ có nước đọng. Ngày hôm sau lúc bỏ trốn chỉ cần vào trong cổ mộ, ẩn núp ở trong vũng nước này, lúc đó chó săn sẽ không tìm ra được.

Có điều, cổ mộ này lại nằm ở sườn núi ở bên ngoài trại tập trung, cứ vậy bò đi ra ngoài thì rất có thể sẽ bị đánh chết nếu bị phát hiện, làm sao có thể bình an mà đi tới đó, cần phải suy tính tiếp.

Ông ta trầm tư suy nghĩ, cùng vài người thủ hạ bàn bạc, để đập bể được đỉnh mộ thì mất tới hai giờ, thời gian quá dài, hơn nữa trên tay lại không có công cụ, cho nên chuyện này không thể vụng trộm mà làm được, phải nghĩ ra một cách nào đó, khiến cho quân Nhật Bản dẫn bọn họ đi ra ngoài, hơn nữa còn phải qua được con mắt người Nhật Bản để làm thành công chuyện này.

Sau đó bọn họ nghĩ ra một biện pháp nguy hiểm, thừa dịp quân Nhật Bản không chú ý, thuổng chết một con chó săn, rồi chặt hết chân tay nó, vứt về hướng đó, đem toàn bộ khối thi thể quăng ở gần chỗ ngôi cổ mộ.

Chắc chắn hôm sau, người Nhật Bản thấy thiếu một con chó sẽ cảm thấy kì lạ. Lúc này xác chó sẽ bắt đầu có mùi, Trương Đại Phật Gia sẽ báo cho quân Nhật Bản, nói rằng ông ấy ngửi thấy mùi thối.

Quân Nhật Bản tìm tới chỗ mà ông ta ngửi thấy mùi thối, quả nhiên có mùi thối truyền tới, vừa đi đến gần nhìn, thì phát hiện xác chó lúc này đã đầy dòi bọ và rết.

Binh lính Nhật Bản đương nhiên không chịu tự mình đi dọn dẹp, mới để cho Trương Đại Phật Gia lấy cái xẻng tới, chôn ngay tại chỗ, còn mình thì cầm súng đứng xa xa nhìn. Trương Đại Phật gia đi ra ngoài, chọn một khu vực ở bên cạnh cổ mộ, thật cẩn thận đào xuống dưới, đào ra một cái hố sâu. Dưới đất trên núi tất cả đều là rễ cây, thỉnh thoảng ông ấy cố ý phát ra vài tiếng chặt cây, khi đến đáy hố, tính ra lính Nhật Bản chỉ có thể nhìn thấy được nửa người trên của mình, ông ấy lập tức ở một bên tường mộ ra sức đập vào, đập được hơn mười cái, cuối cùng cũng đập thủng. Đột nhiên binh lính Nhật Bản cảnh giác đi tới xem. Ông ấy phản ứng rất nhanh, liền xúc ngay một xẻng bùn nhão lấp cái khe đó lại, sau đó đi lên đem xác chó xúc xuống dưới. Lúc ấy, ông ta cạy cái khe cho lớn hơn một chút, đem xác chó chồng lên trên, để sát vào trên miệng lỗ hổng, đẩy bùn chận khe hở lại, sau đó lấp hố lại.

Ông trời cảm ứng, ba ngày sau đã mưa xuống một trận xối xả, liên tục một ngày một đêm. Trương Đại Phật Gia cảm thấy thời cơ đã đến, liền nói thủ hạ chuẩn bị kế hoạch cho xong để bỏ trốn cho thật tốt.

Bọn họ len lén lặng lẽ đợi thời cơ tới, vì trời mưa chính là thời cơ tốt nhất, đến lúc đó mùi trên dọc đường đi sẽ bị nước mưa lấp đi.

Một ngày tháng chín nào đó, sau một ngày đêm mưa to, bảy người trong trại tập trung bỗng nhiên biến mất. Quân Nhật Bản mang chó săn ra ngoài núi, tìm kiếm dọc đường, thế nhưng ngay cả một chút dấu vết đều không hề phát hiện được.

Từ đó, bảy người kia cũng không còn xuất hiện ở Đông Bắc nữa. Sau đó không lâu sau, ở ngoài Trường Sa xa xôi, bỗng nhiên người dân nổi lên một phong trào kháng Nhật. Một nhân vật vĩ đại đã trổ hết tài năng trong phong trào đó, thay đổi toàn bộ lịch sử cận đại Trung Quốc. Vậy còn có việc gì có liên quan tới Trương Đại Phật Gia nữa hay không? chuyện này cũng không thể biết được.

Chương 4: Nhị Nguyệt Hồng

Đứng thứ hai trong gia tộc tên là Nhị Nguyệt Hồng, là một đào hát hí khúc, Nhị Nguyệt Hồng là một nghệ danh của ông trong một gánh hát *kịch hoa cổ* ở Trường Sa. Nhị Nguyệt Hồng trước đây chính là nhân vật tiêu biểu trong giới một trộm mộ tặc, ngoài mặt ông ta chính là bầu của một gánh hát, mang theo gánh hát đi khắp nơi từ Nam ra Bắc, thật sự thì ban ngày hát hí khúc, buổi tối liền trở lại làm trộm mộ tặc. Vũ khí đều để ở trong rương quần áo, người bên trong gánh hát cũng chỉ ca diễn võ công là chính, lúc hạ đấu cũng là kỳ cảnh, ông nội tôi nói đã có một lần nhìn thấy, nhóm người kia đổ một cái đấu nhỏ, căn bản cũng không hề thăm dò mộ trước, mà chỉ dùng gậy trúc đi lại trên vách tường, động tác nhẹ nhàng như mây bay nước chảy lưu loát sinh động vô cùng, cũng không biết được là họ đã luyện được công phu đó bằng cách nào.

Nhị Nguyệt Hồng không chỉ có một giọng hát tuyệt đẹp, thân còn mang tuyệt kỹ, hơn nữa nghe nói còn là một anh chàng rất đẹp trai, cho nên vô cùng phong lưu, có quan hệ mờ ám với rất nhiều kỹ viện danh tiếng. Thích đắm mình ở trong kỹ viện, đây chính là chuyện nổi tiếng nhất của ông ta, ngược lại với trộm mộ thì không hề liên hệ gì. Mà khi ông ta còn trẻ còn có chuyện đã chuộc thân cho một cô gái.

Lúc đó buôn bán kỹ nữ, theo tập quán đều là đến Dương Châu đầu tiên, bọn buôn người cõng các khuê nữ trên lưng, đi một vòng quanh phố xá đông đúc, đây là cách chúng bố cáo thiên hạ rằng sẽ bán cô nhóc đó vào trong này. Nếu như có ai muốn bênh vực kẻ yếu, thì nên đứng ra ngay lúc này, nếu ngươi muốn dừng chuyện buôn bán này lại thì phải lấy bạc ra đổi lấy, chúng ta cũng sẽ không đẩy người kia vào hố lửa. Một khi đã vào kỹ viện, thực xin lỗi, vậy thì lúc đó không tới lượt ngươi định đoạt.

Hơn nữa, đây cũng là một cách báo cho quan lại lớn biết tối hôm nay sẽ có khuê nữ mới có thể để ngươi bao rồi, nếu ngươi muốn thì nên chuẩn bị bạc trắng cho tốt để mua cái kim chi đó đi!

Lúc đó Nhị Nguyệt Hồng chưa phải là bầu gánh, gánh hát này là do ông ta được kế thừa lại, cha của ông ta khi ấy vẫn còn sống, ông ấy cũng chỉ là một thiếu gia của bầu gánh mà thôi.

Một ngày, ông ấy đang vui vẻ ngồi ở trên lầu uống trà sáng, liền nhìn thấy một cô nhóc mười mấy tuổi bị cõng trên lưng đi dạo vòng trên phố. Ông ta biết lòng người dễ thay đổi, loại chuyện này có thấy cũng không thể trách móc được, trong thời đại đó, ở đây, những gia đình nghèo khổ bán con gái vào kỹ viện, thực ra mà nói cũng không phải là làm chuyện xấu gì, kỹ viện như thế nào đi nữa suy cho cùng vẫn được ăn no, nếu gặp được khách tốt, nói không chừng còn có thể được làm vợ bé trong nhà, nói đúng hơn thì đó là một chỗ có cơ hội đổi đời. Lưu lạc ở bên ngoài, bị người khác chà đạp là chuyện thường tình.

Thế nhưng vừa nhìn thấy cô nhóc kia, Nhị Nguyệt Hồng bỗng sửng sốt, dĩ nhiên cô nhóc kia là người ông ta biết, đó chính là con gái của một gia đình bán mì mà ông ta hay tới, nhỏ hơn ông năm tuổi, cũng có thể nói ông như là anh trai cô bé, nhìn cô bé lớn lên. Làm sao lại có thể lưu lạc tới bước này cơ chứ?

Mắt thấy cô nhóc bị bọn buôn người khóc *lê hoa đái vũ*, Nhị Nguyệt Hồng không khỏi thổn thức. Bởi vì cô gái nhỏ kia vô cùng xinh đẹp, người ở xung quanh vây lại xem rất đông, cô gái một bên vừa khóc vừa nhìn đám người xung quanh, đang tuyệt vọng tìm một cái gì đó, rất nhanh sau đây những người này có khả năng đều sẽ trở thành khách ân ái một đêm với cô, cô nhìn thấy trong đám người có đủ loại sắc mặt, nỗ lực tìm kiếm trong đó một chút thương hại và thông cảm.

Ngay trong khoảnh khắc ấy, cô gái liền nhìn đến trà lâu Nhị Nguyệt Hồng đang ngồi, Nhị Nguyệt Hồng cũng nhìn cô gái một chút, cô gái thoáng chốc đã nhận ra Nhị Nguyệt Hồng, giống như thấy được hy vọng duy nhất, dùng hết khí lực gọi to một tiếng:

"Anh!"

Thấy ánh mắt đầy tuyệt vọng và cầu xin đó, làm cho Nhị Nguyệt Hồng dao động một chút, lập tức nhớ tới cô bé năm đó đi theo sau lưng ông ta, tay nắm tay với cô em gái bé nhỏ. Không biết mình có nên khoanh tay đứng nhìn như vậy rồi đem toàn bộ kí ức này chôn vùi đi?

Ngay lúc đó nhân tâm, cho dù là đã được rèn luyện thành một ý chí sắt đá, cũng không thể cho phép như vậy được, chung quy con người vẫn là một loài động vật cảm tính, Nhị Nguyệt Hồng lại là một người đa tình như vậy, cũng chỉ bởi vì một ánh mắt mà làm ra biết bao nhiêu chuyện. Ông ta lập tức biết rằng, bản thân mình muốn cứu cô gái là điều không thể.

Chỉ là, cha của ông không có khả năng sẽ đồng ý chuyện này, hơn nữa trên người ông ấy lúc này cũng không có đủ tiền chuộc thân cho cô gái.

Nhị Nguyệt Hồng lúc đó đang là thiếu niên, lập tức lấy mũ, cùng với vài người thủ hạ, liền phát huy tuyệt kĩ phi thân từ trên trà lâu nhảy xuống dưới dũng mãnh như hổ, chặn ở phía trước kẻ buôn người.

Bọn buôn người kia cả kinh, vì đã thật lâu không có ai dám ngăn cản chuyện này ngoài đường phố, hắn đương nhiên không hy vọng gặp phải chuyện như vậy, bởi vì thu tiền của người ngăn cản ngoài đường, vì tiền của họ chỉ để biểu lộ một chữ Nghĩa, nếu so với tiền của kĩ viện thì thấp hơn đến hai lần, không khỏi thầm mắng xui xẻo. Mới sáng sớm, không đâu lòi ra một Tang Môn tinh chặn ngan con đường tài lộc của hắn chứ?

Thế nhưng vừa thấy thân thủ của ông chủ này, từ trên trà lâu cao thế kia mà bay xuống nhanh như vậy, hắn biết, những người này không thể chọc được.

Vì vậy hắn chỉ cười xã giao, Nhị Nguyệt Hồng cũng biết nhóm người này cũng là ở trong nghề Ngoại bát, bọn chúng và nhà mình nhất định có cùng nguồn gốc. Hiện lại không thể gây mâu thuẫn với Ngoại bát trong nghề, nếu không sẽ khiến cho người trong Lão Cửu Môn tranh cãi nghiêm trọng, bởi vậy cũng không dám trực tiếp đem bọn buôn người này giải quyết, đành giả vờ cho xong chuyện. Hai bên ra giá, bọn buôn người kia liền cho một cái giá trên trời, có ý là ngươi cút đi! Cô gái này ngươi không cứu được đâu.

Nhị Nguyệt Hồng không còn lựa chọn nào khác, ông ấy không thể lấy tiền từ cha được, cũng không thể cứng rắn xử lí đám người này, mà để nhất định cứu cô được gái này, chỉ có cách bỏ ra số tiền đó. Thế nhưng, chắc chắn là ông không kiếm đâu ra được.

Tên buôn người nọ nói: "Con bé kia chính là mặt hàng mà Bình Nhị tú bà đã chấm, ông chủ này nếu không có tiền để chuộc, vậy thì xin mời tránh ra. Nếu thực sự thích con bé này, thì tối hôm nay không ngại xin mời đến đốt cái đèn kia, đêm đầu tiên được phục vụ ngài, chính là của phúc khí của cô gái này."

Lúc đó Nhị Nguyệt Hồng đột nhiên vô cớ nổi giận, liền nói với hắn: "Tiền ta có! Ta cũng muốn khuyên ngươi một câu, tiền này là tiền tài bất nghĩa, một cọc tiền lớn như vậy, ngươi phải suy nghĩ thử xem ngươi có gánh vác nổi được không. Nếu ngươi cảm thấy ngươi gánh nổi, ta sẽ mang tới cho ngươi, chỉ là ta khuyên ngươi một câu này, cẩn thận kẻo phú quý thiêu thân."

Chuyện này đương nhiên là không thể đồng ý rồi, bởi bọn buôn người khẳng định rằng sẽ không có ai chịu bỏ một số tiền lớn như vậy để mua một con nhóc, thì liền ưng thuận.

Thủ hạ của Nhị Nguyệt Hồng ở lại trông chừng bọn buôn người, chúng sẽ tiếp tục đi một vòng trong phố chợ đông đúc, trong thời gian này Nhị Nguyệt Hồng phải chuẩn bị tiền cho đầy đủ. Nhị Nguyệt Hồng nhanh chóng chạy về nhà, đeo trang bị lên khắp người, cưỡi ngựa chạy về phía ngoại thành phía Tây. Không bao lâu sau, đã cưỡi ngựa trở về, trên người dính đầy bùn đất và mang theo ba cây trâm cài.

(Vãi trưởng, đi đổ đấu kiếm tiền ngay và luôn mới kinh người chứ :D )

Sau này cô nhóc đó lại trở thành phu nhân của Nhị Nguyệt Hồng, sinh được ba người con trai, vào năm ba mươi hai tuổi thì bị bệnh qua đời. Thời gian hạnh phúc đó chỉ có mấy chục năm ngắn ngủi, nàng luôn luôn được Nhị Nguyệt Hồng che chở trong lòng, không hề có một chút khổ cực nào. Sau khi nàng qua đời, Nhị Nguyệt Hồng mới thay đổi trở nên phóng đãng không kềm chế được.

Làm một người phụ nữ, ở ngay trong xã hội thời đại đó, tôi cảm thấy bà ấy lúc đó phải rất hạnh phúc. Cũng vì như vậy, phụ nữ chạy theo Nhị Nguyệt Hồng như vịt ( :D ), thế nhưng trước sau vẫn không ai có thể làm rung động được tình cảm đích thực đã chết trong lòng ông ấy, sống ở trong lòng ông ấy vĩnh viễn là gương mặt cô nhóc ở tiệm mì kia. Tình cảm này được sinh ra từ đâu? Người bên ngoài không bao giờ có thể biết được, có lẽ là nằm trong một tiếng gọi "Anh" khi đó, có lẽ là vội vàng leo lên ngựa phóng ra khỏi thành, rồi thật nhanh quay trở lại. Nhưng mà gặp được một người đàn ông như vậy, thì cô nhóc đó thực sự rất may mắn, đồng thời những người con gái khác yêu mến ông ấy trên thế gian này cũng là sự bất hạnh lớn nhất.

Nhị Nguyệt Hồng trọn đời không lấy thêm vợ, sống đến một trăm lẻ hai tuổi, sau khi mất thì được hợp táng cùng vợ. Quan tài của ông ấy cao hơn của vợ ông một đoạn, làm vậy là vì đã để cho cô nhóc năm đó đợi lâu như vậy, lúc đó lại có thể lại tựa vào bờ vai của ông ấy, mà nghe ông ấy uyển chuyển hát hí khúc.

(Cứ nói ngôn tình lãng mạng đi, chương này còn thấm hơn ngôn tình cả trăm lần.)

( Cảm động quá đi mất..... )

Chương 5: Bán Tiệt Lý

Bán Tiệt Lý, chính là tam gia ở trong một trong tam môn đứng đầu. Ông là một người bị tàn tật, hai bắp chân đã bị đồng đội chặt đứt ở trong đấu khi ông còn trong tuổi thiếu niên, khốn khổ trong một tuần, nhờ uống nước trong quan tài mới sống sót được. Sau này hai chân đã bị tàn phế, đành phải mang theo một lớp nệm lót ở thân dưới, tay cầm hai cục gạch mà chống đi. Có thể là do trải qua những chuyện như vậy đã tạo thành một sự kích động không nhỏ, cho nên ông ta ở trong Lão Cửu Môn là một người có lòng dạ khá độc ác, ngay cả vợ cũng đã giết chết không biết bao nhiêu người. Bán Tiệt Lý có bệnh đa nghi rất nặng, đối người khác vô cùng không tín nhiệm. Thậm chí có phố phường đồn đãi rằng, buổi tối ông ấy chỉ ngủ ở trong cổ mộ, làm bạn với bánh tông, còn nói rằng người sống so với người chết thì đáng sợ hơn nhiều.

Tuy là như vậy, nhưng bản lĩnh trộm mộ của Bán Lý Tiệt cũng tuyệt nhất. Hai tay của ông ta rất mạnh, hơn nữa lại vô cùng linh hoạt, dáng người thấp bé, hai tay không so với người bình thường còn nhanh hơn nhiều, có thể đi vào rất nhiều nơi mà người thường không vào được, lấy được những thứ rất khó lấy.

Thế nhưng kì lạ nhất là, ông ta rất giống Nhị Nguyệt Hồng, là một người mà khi nhắc tới cố sự thì rất say sưa, mà không phải là chuyện mà ông ta hạ đấu, đó lại là một đoạn tình cảm của ông và chị dâu ông ta.

Anh trai ông thì mất sớm, cha mẹ cũng qua đời, từ hơn mười tuổi thì đã được người chị dâu kia chiếu cố. trong những kí ức năm tháng tuổi thơ, người phụ nữ kia vừa là chị dâu, vừa là mẹ. Cuộc sống khốn khổ, vì để nuôi dưỡng ông ấy và đứa con nhỏ của anh trai ông, chị dâu của ông đã chịu nhiều cực khổ. Bán Tiệt Lý lớn lên ở trong hoàn cảnh như vậy, nên mới sinh ra một tâm tư nhạy cảm, một tính cách cực đoan như vậy, rồi về sau còn trở thành người có tâm địa như vậy.

Có một lần, chị dâu ông ta giặt quần áo cho nhà người khác, chỉ vì giặt rách một bộ sườn xám, bị đánh cho điếc một bên lỗ tai. Không bao lâu sau, toàn bộ gia đình kia bị một thiêu cháy đốt trọi. Đó là một vụ án bí ẩn chưa được giải quyết, nhưng mà tất cả mọi người đều truyền tai nhau, chính là do Bán Tiệt Lý làm ra.

Hai người cùng sống dưới một mái nhà, cùng với Bán Tiệt Lý từ từ lớn lên, lời ra tiếng vào cũng bắt đầu nhiều dần lên. Quả thật, với kiểu phòng như vậy, chỉ dùng một cái vách ngăn, luôn có thể nhìn đến một vài thứ không nên nhìn, huống hồ chị dâu của ông ta cũng không lớn tuổi hơn ông bao nhiêu. Không khí trở nên càng ngày càng kì quái, ánh mắt Bán Tiệt Lý nhìn chị dâu cũng dần dần đã xảy ra thay đổi.

Chị dâu ông ta là người đã từng trải qua chuyện nam nữ, làm sao có thể không biết được? Liền để cho Bán Tiệt Lý tới chỗ khác đi học nghề, thế nhưng bất kể thế nào ông ta vẫn luôn trở về. Bầu không khí này càng lúc càng nặng nề hơn. Nhiều năm giữ mình bà ấy cũng bắt đầu sợ hãi khi cơ thể mình có phản ứng không bình thường.

Lúc ấy Bán Tiệt Lý mới thực sự hiểu ra, vấn đề của mình và chị dâu mình là cái gì, nhưng mà suy nghĩ của ông ta thực rất ngây thơ. Cuộc sống của chị dâu là đã không có hi vọng gì, bản thân mình phải tự mình vươn lên để làm cho chị dâu ông ta không bị khổ nữa, sau đó ông ta mới có thể cưới được bà ấy làm vợ, thay anh trai chăm sóc nàng. Đây là chính là kết cục tốt nhất ông ấy đã nghĩ vào lúc đó.

Vì thế, ông ấy lén đi học nghề trộm mộ, lúc đó cũng giống như những thằng quỷ nhỏ khác, có một giất mộng làm giàu trong vòng một đêm rồi hoàn lương. Kết quả là hai chân bị chặt đứt, thiếu chút nữa là chết ở trong đấu.

Thấy vậy người chị dâu đã đau lòng gần chết. Một người thanh niên vừa giống như chồng vừa giống con nàng, nay lại bị tàn tật, đau khổ này lại chồng chất thêm nhiều hơn. Vốn nghĩ đến ngày sắp hết khổ, thế nhưng càng ngày lại càng rơi vào bóng tối, chính điều này làm cô ấy càng thêm xấu hổ với sự phó thác của chồng.

Thế nhưng, đồng thời, thứ tình cảm trắc trở đó cũng phá vỡ tâm lí phòng ngự, đây là lúc hai người đều không kịp chuẩn bị.

Sau này, nàng lại càng thêm chăm sóc Bán Tiệt Lý cẩn thận hơn, giúp ông ta xoa bóp người, ông ta phóng nước tiểu, sự gần gũi da thịt giữa bọn họ càng ngày càng nhiều, điều đó càng ngày càng trở nên bình thường, đồng thời cũng càng ngày càng không thể khống chế được. Lúc đó ngay cả Bán Tiệt Lý cũng có thể phát hiện được, ánh mắt của chị dâu đối với ông ta đã thay đổi.

Cuối cùng vào một đêm giao thừa, cọng rơm cũng đè chết lạc đà, ngoài nhà tuyết lớn bay toán loạn, trong phòng chính là tiếng hai người thở dốc. Tình cảm mãnh liệt chất chứa trong nhiều năm nháy mắt đã bạo phát ra, hết thảy đều điên cuồng .

(*Thở dốc* )

Nửa năm sau Bán Tiệt Lý đã hoàn toàn bình phục, trở lại nơi cổ mộ mình bị hãm hại, một lần nữa xuống dưới cầm lại đồ bồi táng do chính mình đã giấu đi. Lúc này ông ấy ngày xưa đâu bằng ngày nay, nỗi thù hận khi bị người khác phản bội và sự xấu hổ với chị dâu khiến cho ông ta làm việc thủ đoạn càng trở nên vô cùng độc ác, hơn nữa không chừa cho kẻ khác bất kì một đường sống nào. Kế tiếp ông ta tìm lại được mấy tên đồng bọn đã hãm hại mình, chặt gãy hết chân của bọn họ, từng bước từng bước kéo họ tới nhốt bọn họ ở trong cổ mộ lúc đó cũng tự mình ngồi đợi ở trong cổ mộ, cho đến khi nào chúng chết đói ở bên trong mới thôi.

Đúng là quỷ thần sợ ác nhân, Bát Tiệt Lý từ từ phát đạt, mua nhà mở bàn khẩu, sau này mới dần yên ổn lại. Thủ hạ của ông ta đa số đều là người tàn tật, trong đó có một người câm điếc, sau mới tự mình thành lập một phái. Ở đây tạm thời không đề cập tới nữa.

Sau khi thành đạt, Bán Tiệt Lý muốn làm đám cưới với chị dâu mình, nhưng mà bà ấy không chịu khi nghĩ đến hạnh phúc của ông ta, muốn ông cưới được một người vợ đoàng hoàng, cho rằng chính mình đã ô uế, năm đó đã chấp thuận sự phó thác của người chồng quá cố chăm sóc cậu em chồng thật tốt, không thể biến thành loại tình huống này, hy vọng ông ấy có thể tìm được một cô gái khác tốt hơn.

Bởi vì chị dâu ông vô cùng kiên định, Bán Tiệt Lý cũng không còn cách nào khác, việc này sau này cũng không giải quyết được gì, thế nhưng Bán Tiệt Lý cũng nhất quyết không chịu lấy vợ.

Vì muốn hoàn toàn kết thúc ý nghĩ đó của ông ta, chị dâu ông muốn tìm một người đàn ông khác để tái giá, thế nhưng lúc ấy Bán Tiệt Lý nổi danh tàn nhẫn ở Trường Sa, cũng không có ai dám bấu víu vào sự giàu có này, sau này còn nghe đồn rằng chị dâu ông ta đã sinh một đứa con trai cho ông ta.

Tôi rất muốn viết cho ông ta một câu chuyện đau buồn, ví dụ như chị dâu ông ta bị người ta ép chết, hoặc là vì khó sinh mà chết, nhưng ở trên đời sự thật không có dứt khoát như vậy. Trong cuộc sống đã có quá nhiều bất hạnh, mặc kệ Bán Tiệt Lý hung ác cỡ nào, tôi vẫn hy vọng ông ta có thể sống thọ đến trăm tuổi, bởi vì chị dâu ông ta nhất định là người tốt, lấy sự độc ác cực độ để duy trì một chút hạnh phúc lương thiện, tuy rằng thổn thức, nhưng vẫn được coi là một bậc đại trượng phu.

Phụ nữ luôn mong đoạn này tình yêu sẽ đi tới được kết quả, đàn ông thì sẽ muốn miêu tả chi tiết một chút khi màn đêm buông xuống, chỉ có điều chuyện này cứ như vậy cũng không giải quyết được gì. Mặt khác chỉ có thể xác định được một điều duy nhất, đó là ông nội tôi đã từng gặp qua chị dâu Bán Tiệt Lý một lần, đó là lần sinh nhật bốn mươi tuổi của bà ấy. Đó là một người phụ nữ vô cùng xinh đẹp, trong mắt thần thái làm cho đoạn kí ức này của ông nội tôi vẫn cảm giác còn rất mới. Nếu như chính mình có một người chị dâu như vậy, khẳng định cũng sẽ không đồng ý để cho người đàn ông khác cưới đi.

Tôi nghe xong liền hỏi ông: " Bà nội đã biết suy nghĩ này của ông chưa?" Kết quả được một trăm đồng tiền để tiêu vặt. ( Rõ là gian thương ngay từ nhỏ mà...................... =_= )

Được rồi, đây chỉ là đùa thôi. Chỉ là chuyện này cuối cùng cũng rút ra cho chúng ta một cái đạo lý là: Một người đàn ông muốn bảo vệ một người mình yêu thương, vậy thì ngươi phải đủ mạnh mẽ, mặc kệ kết cục là như thế nào đi nữa, đừng để cho người phụ nữ này phải hy sinh vì mình, hoặc là, ít nhất phải có sự báo đáp lại sự hy sinh của các nàng.

Chương 6: Trần Bì A Tứ

Ba người trong Bình Tam Môn, hai người đã nói trước đó là đã rất quen thuộc, chỉ có Hắc Bối Lão Lục đứng hàng thứ sáu thì có vẻ xa lạ, hai người trước đây chỉ có thể giới thiệu sơ lược qua, còn chuyện cũ của Hắc Bối Lão Lục có thể nói được rất rõ ràng.

Trần Bì A Tứ

Trần Bì A Tứ chính là cha của một Môn trong Bình Tam Môn, hơn nữa e rằng đó cũng là người có thân thủ tốt nhất trong Lão Cửu Môn, một tay cầm viên bi sắt bắn đi so với súng còn chuẩn hơn, còn có thể sử dụng cửu trảo câu phóng ra ngoài mười mấy thước để bắt gà. Trần Bì A Tứ chính là đệ tử của Nhị Nguyệt Hồng, bởi vì có tư chất trời phú cực cao, mới được ông phá lệ thu nhận làm đồ đệ. Theo như Đại Lý nói trước đây, công phu của thổ phu tử ở Trường Sa tuyệt đối không được truyền cho người bên ngoài, cho dù là người từ nhỏ chú ý học *kịch Hoa cổ* Chiết Giang cũng không được hát, cho nên việc này được xem là một chuyện có một không hai. Theo như người ngoài phỏng đoán, có thể trong lúc đó Nhị Nguyệt Hồng và Trần Bì A Tứ, không muốn người khác biết rõ ngọ nguồn chuyện này. Đáng tiếc, chân tướng thực đã sớm bị thổi bay tứ tán trong lịch sử Trung Quốc.

Nếu như nói đại bộ phận truyền thuyết của Thượng Tam Môn đều là có tiếng anh hùng lẫy lừng, mỹ danh thì bát quái đường phố, đại bộ phận truyền thuyết của Bình Tam Môn chính là mang tiếng ác.

Đặc biệt là Trần Bì A Tứ, là người có tiếng ác lan rộng nhất. Nếu nói Bán Tiết Lý là một tên đại lưu manh, thì Trần Bì A Tứ phải là một tên lưu manh thuộc hạng Hàng không mẫu hạm. (độc nhất)

Hầu như tất cả mọi người đều biết, người này chuyện gì cũng có thể làm được. Chuyện nổi danh nhất của hắn chính là giết đồ đệ, khi làm đồ đệ của ông ta thì rất nhanh giàu có, cũng có thể bị giết rất nhanh.

Trần Bì A Tứ và những người khác không giống nhau, ông ta cực kỳ hào phóng, gần như cũng không có gia sản gì, đổ được cái gì đều tiêu xài hoang phí ngay lập tức, cho nên làm đồ đệ ông ta có thể một đêm liền trở nên giàu có. Mà kỹ năng ông ta truyền dạy cho đồ đệ cũng có tác dụng, ông ta phải đổ một cái đấu, rồi mới cẩn thận suy xét lại từ đầu, cho đến khi không có một chút sơ hở nào, ông ta tin rằng mình đã tìm được một số người thích hợp, rồi dạy bọn họ một số kỹ năng, sau đó mới cho hạ đấu. Thành công thì tốt, kể cả không thành công thì thôi, đối với chuyện an nguy sống chết của những người này ông ta tuyệt đối sẽ không có trách nhiệm gì cả. Vì thế mỗi lần xuống đất, chắc chắn chỉ có một mình ông ta thoát thân. Nghe nói, cho dù có thể cứu người, thế nhưng vì để ngăn một lần lỡ như xảy ra chuyện nên ông ta đã không nhúng tay vào. Trong khi nếu bản thân gặp chuyện nguy hiểm thì bắt người khác làm kẻ chết thay, đó cũng là chuyện bình thường.

Cho nên cùng với Trần Bì A Tứ lăn lộn, cũng chính là một cách đánh cược, ngươi vĩnh viễn không bao giờ biết sẽ bị bán đứng khi nào, cũng không biết khi nào sẽ phát tài.

Song Trần Bì A Tứ cũng có một cái ưu điểm, ông ta là người đã nói là làm, ông ấy sẽ giảng giải cho ngươi thật rõ ràng nếu ngươi muốn liều lĩnh xông pha nguy hiểm, đến khi thuận lợi cũng sẽ không đến nhờ cậy tính toán với ngươi. Kẻ tài cao thì gan cũng lớn, rất nhiều cao thủ gặp đường cùng đều lựa chọn dựa vào ông ấy, nhóm người này đều là những đồ đệ liều mạng hơn nữa tay nghề cũng cực kỳ lợi hại, đây là thời gian mà Trần Bì A Tứ mạnh mẽ nhất, ngoại trừ người của Bán Tiệt Lý, Thượng Tam Môn thì hai Môn khác đều kiêng kị bọn họ.

Nhóm người này đã từng trải qua những chuyện kinh thiên động địa nhất, quả thực hung ác đến độ không thể nào tưởng tượng ra nổi, chỉ sợ nói ra cũng sẽ không có ai tin. Có một lần bọn họ đi vào một cái thôn đóng quân ở trong đó, phát hiện địa hình của cái thôn này thực sự rất kì lạ. Vì thế hỏi thăm chuyện tình ở chỗ đó, hóa ra là do tuyết ở thôn này đã sớm tan đi rồi Trần Bì A Tứ vừa nghe đến đó liền nghĩ.

Nếu không phải do đất ở phía dưới thôn này có chút vấn đề, thì sẽ không làm cho nhiệt độ mặt đất nơi này cao hơn so với chỗ khác, đương nhiên sẽ làm tuyết tan sớm hơn. Trần Bì A Tứ cảm thấy dưới mặt đất của thôn này, có lẽ là có thứ gì đó.

Thế nhưng vị trí của nó nằm ở đâu? Bởi vì trên mặt đất có quá nhiều nhà dân, cho nên hoàn toàn không có cách nào đoán được, bọn họ chỉ có thể đi tới từng nhà một để tìm. Chỉ có điều làm việc ở trong thôn làng không thể giống như bên ngoài, bị dòm ngó rất nhiều, vì vậy tiến triển của bọn họ vô cùng chậm.

Ngay từ đầu bọn họ định mua lại một ngôi nhà để dùng tạm, nhưng mà chủ ngôi nhà kia người trong gia đình lại quá đông, vô cùng phiền toái. Trần Bì A Tứ trong lòng liền nổi sát tâm, đưa tay ra dấu: Giết.

Vào ban đêm, bọn họ tiến vào trong thôn dùng khăn che mặt đem theo câu dứa và loan đao, giết sạch người ở trong ngôi nhà kia, đem thi thể chất vào trong nhà, rắc vôi lên, tiếp theo liền công khai ở trong sân, bắt đầu thăm dò đất.

Nhưng mà tìm nửa ngày, lại phát hiện phía dưới ngôi nhà kia không có gì cả, không phải ở đây thì ở đâu?

Trần Bì A Tứ không hề từ bỏ ý định liền nhắm vào ngôi nhà kế bên, cách một ngày, buổi tối bọn họ lại lẻn vào nhà kế bên, cũng dùng lại mánh khóe cũ đem toàn bộ người trong nhà giết sạch, rồi giấu thi thể đi, thế nhưng vẫn không đúng.

Làm như vậy nhiều lần, người chết càng lúc càng nhiều, những người bị giết ở ngôi nhà đầu tiên đã thối rữa. Người của Trần Bì A Tứ giống như là quỷ đêm, buổi tối mỗi ngày giết người cứ như chồn ăn trộm gà. Đến cuối cùng đi tới nhà nào cũng đều dùng cách trước đây là giết sạch.

Người trong thôn càng ngày càng ít. Nửa tháng sau đến khi bọn họ đi hơn một nửa người trong thôn đều bị giết một cách vô nghĩa, Trần Bì A Tứ mới phát hiện mình đã phán đoán sai lầm, bên dưới vốn không hề có cổ mộ nào cả.

Lúc này ông ta mới mất hết ý chí, thất vọng buồn bã mà trở về, trước khi đi còn phóng hỏa đốt luôn thôn, ở bên trong còn có hơn bốn mươi mạng người, ngay cả trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai cũng giết sạch không tha người nào.

Chuyện này thành đại án, sau đó lại bị một đồ đệ do uống say mà để lộ ra ngoài, làm liên lụy tất cả đồng bọn bị bắt tội rồi bắn chết, chỉ còn một mình Trần Bì A Tứ chạy đi thật xa khỏi Quảng Tây.

Lúc này Trần Bì A Tứ bớt phóng túng hơn rất nhiều, cuối cùng ở dãy núi Quảng Tây đến cả Phật nằm treo gương xem cũng không rõ là đã xảy ra chuyện gì.

Tôi cũng không thể tưởng tượng được, trước kia Trần Bì A Tứ ở Quảng Tây rốt cục đã hung ác đến độ nào, chỉ có thể biết được một điều, so với khi còn ở Quảng Tây, ông ta đã thay đổi rất nhiều, dù gì một lần đại án kia, cũng đã khiến cho ông ta thay đổi một vài thứ.

Chương 7: Ngô Lão Cẩu - Cẩu Ngũ Gia

Ngô Lão Cẩu chính là ông nội tôi, là đời đầu tiên của Ngô gia ở Trường Sa, chính là một thổ phu tử chính thống từ trong làng trộm mộ đi ra ngoài, mũi của ông nội tôi trong lần đầu tiên đổ đấu đã bị phế đi. Chuyện cũ của ông đã rất quen thuộc , cũng không cần phải lắm lời nữa. Chỉ cần nói sơ qua một chút thôi.

Ông nội của tôi cũng giống như Trần Bì A Tứ, cũng trải qua một lần đại án, hơn nữa vụ án này cấp bậc còn lớn hơn nữa, chính là vụ án về quyển sách lụa thời Chiến quốc. Lúc ấy vụ án này rất chấn động, cũng vì có liên quan quá rộng, nên không thể nói được nhiều. Tóm lại một lần đại án kia gần như đã khiến cho toàn bộ thổ phu tử ở Trường Sa bị xóa sạch, lúc đó ông nội tôi bị Cầu Đức Khảo lừa, phải trốn tới Hàng Châu, Lão Cửu Môn mới có kết cục như bây giờ, từ đó về sau bị xuống dốc, vẫn chưa gượng dậy nổi, đây cũng là nguyên nhân làm cho danh tiếng của Cẩu Ngũ Gia vì sao lại lớn như vậy. Mà danh tiếng này, cũng không phải hoàn toàn là mỹ danh, dù sao một lần sóng gió đó, nhiều người đột nhiên bị bỏ tù, còn có nhiều người bỏ mạng, chỉ có ông nội tôi là sống sót, thì ít nhiều gì cũng sẽ dấy lên một vài tin đồn.

Bản thân tôi cũng có cảm giác, một lần đại án kia, có thể là cấp trên đối với Lão Cửu Môn Trường Sa bắt đầu sinh ra chú ý, đồng thời cũng bắt tay thủ tiêu. Cho nên ông nội tôi từ đó vẫn ru rú ở trong nhà, vô cùng khiêm tốn, tới khi tôi đột nhiên nghe có người hỏi ông như vậy, tôi cũng không khỏi giật mình.

Cẩu Vương - Cẩu Ngũ Gia, tất nhiên thú vị nhất chính là ông tôi nuôi chó, ông nội của tôi là một người rất mê chó, nuôi chó không ít, sự hiểu biết về loài chó cũng rất nhiều, thế nhưng đồng thời ông cũng ăn thịt chó, hơn nữa ăn cũng rất vui vẻ, vô cùng kì lạ.

(Hội những người yêu chó không thích điều này = _ =)

Con chó mà ông nội tôi thích nhất tên là Tam Thốn Đinh, là một loại chó Tây Tạng rất nhỏ, loài chó này trời sinh nuôi không bao giờ lớn, chỉ có mấy trăm gam, luôn luôn được ông ôm ở trong tay áo mang đến mang đi.

Ông nội của tôi nói loại chó này chính là một loại chó nhạy cảm nhất, không bao giờ tin người xa lạ, muốn lấy được sự tin tưởng của nó rất khó, nếu như cảm giác được có kẻ muốn hại người, con chó này ở trong tay áo nhất định sẽ báo động cho chủ nhân biết.

Sau khi ông nội tôi gặp phải chuyện không may cũng không bao giờ tin người khác, lòng người dễ thay đổi khiến cho trái tim của ông băng giá, cho nên lúc nào cũng mang theo con chó này. Song đi đến Hàng Châu này là một quê hương rất tốt, nơi này không như Lão Cửu Môn Trường Sa quá nhiều thị phi kia, cho nên, ông nội mới nói với tôi một chuyện, khiến cho tôi có cái nhìn khác trước về con chó này.

Ông nội tôi không sợ quỷ thần mà lại e sợ lòng người, nhưng mà ông cũng có ngoại lệ, có một lần ông tôi đi tới Nam Ninh ở Quảng Tây, ở lại trong một nhà khách. Vào ban đêm, khi ông đi WC ( vào thời điểm hiện tại tất cả nhà khách đều là WC chung ), liền phát hiện WC có một bộ phận rất kỳ lạ, giống như đã từng được sửa đổi lại, bốn phía toàn ván gỗ đóng đinh lên. Do ông ăn đồ không tốt bị đau bụng, đang trong lúc buồn chán muốn chết, liền hướng vào khe hở trên tấm ván gỗ nhìn, thấy phía sau ván gỗ, lại là một cánh cửa sắt.

Ông suy nghĩ một chút liền hiểu ra được, là do ông chủ của nhà khách đem một nửa đoạn hàng lang chặn lại, cách ra khoảng chừng mười hai phòng vuông, làm thành WC, cánh cửa này vốn là ở cuối hàng lang .

Bỗng nhiên ông cảm thấy kỳ quái, như vậy thì không phải là thiếu một cái phòng sao? Vì sao ông chủ nhà khách lại muốn làm như vậy?

Tấm ván gỗ bị thay đổi, đinh cũng đã bị mục , ông đẩy tấm ván ra nhìn phía sau, phát hiện cửa sắt phía sau bị sét đến nỗi không thể nhìn ra hình dáng, kì lạ là, trên cửa vẫn còn nguyên dấu vết của nến, cạnh cửa được hàn kín lại.

Cửa sắt này là một loại cửa rào ở ngoài, bên trong còn có một cái cửa gỗ nữa, loại cửa này được coi là một loại cửa chống trộm có từ rất sớm. Ông nội tôi duỗi tay tới, đẩy một cái, liền phát hiện cửa gỗ bên trong không có khóa, có thể đẩy ra được.

Ông nghĩ nghĩ liền thấy có chút kì quái, gan của ông nội tôi khá lớn, đương nhiên không có khả năng bị một chỗ như vậy hù được, trực tiếp lấy tay đẩy ra, muốn đẩy để mở rộng cửa gỗ ra.

Thế nhưng đẩy cửa gỗ được một đoạn, thoáng cái đụng phải thứ gì đó, đẩy không ra, ông tôi có gắng ra sức đẩy thêm vài cái, trên tay liền cảm thấy có điều không đúng, đó không phải là cảm giác đụng phải vật gì đó, mà ở sau cửa này, hình như là người.

Ông hít một ngụm khí lạnh, lập tức đóng cửa gỗ lại như cũ, liền quay đầu bước đi.Phía sau, mơ hồ truyền đến âm thanh cửa gỗ bị thứ gì đó mở ra.

Trở lại về phòng mình, ông cảm thấy sự việc rất kỳ quái, nhưng mà đợi một lát, cũng không có động tĩnh gì nữa, cũng không muốn suy nghĩ lại, ông đã từng gặp qua nhiều chuyện cổ quái, nên cho rằng có lẽ ông chủ nơi này thích nhìn lén.

Ông ngủ đến nửa đêm, đột nhiên ông cảm thấy cả người không được tự nhiên, còn có thể ngửi được một mùi hương kì lạ. Ông nội tôi mơ mơ màng màng mở mắt, lập tức nhìn thấy ở đầu giường có một người vô cùng cao, đầu người này cực kì dài, cộng thêm thân thể lại rất cao, nhất định là phải cao hơn hai mét, thế nhưng lại gầy như củi khô. Nó không có mặc quần áo, da ở trên người bị ánh trăng chiếu xuyên qua, gần như là trong suốt.

Mà khiến cho ông thấy lạ nhất là, Tam Thốn Đinh của ông lúc này đang nằm sấp úp lên người ông, vô cùng bình tĩnh cùng với quái vật cao hai mét kia nhìn nhau, chẳng những không có sủa lên, hơn nữa cũng không hề sợ hãi.

Sau đó ông nội tôi lại nặng nề ngủ thiếp đi, lúc tỉnh lại, hoàn toàn không có việc gì, chỉ là ông nhớ lại tình huống buổi tối hôm đó, cả người liền toát mồ hôi lạnh.

Sau khi rời khỏi Nam Ninh, ông đối với chuyện này vẫn luôn canh cánh ở trong lòng, quái nhân kia rốt cuộc là cái gì? Mà bộ dạng của Tam Thốn Đinh vào buổi tối hôm đó, cũng làm cho ông cảm thấy kỳ quái.

Ông nội nói cho tôi biết, sau đó ông đi hỏi thăm, có người nói cho ông biết, quái nhân mà ông nhìn thấy có phần giống như một người mắc phải chứng bệnh dị dạng. Về phần loại chó Tây Tạng này chính là loại Khuyển lễ Phật ở Tây Tạng, là loài chó mà Bồ Tát ngồi, bình thường đều được nuôi ở trong miếu. Buổi tối ngày hôm đó Tam Thốn Đinh nằm sấp úp lên người của ông, chính là muốn bảo vệ tính mạng cho ông.

Bởi vì này sự kiện này, ông nội tôi đối với Tam Thốn Đinh đã nhìn bằng một cặp mắt khác xưa, nó liền trở thành một con chó được ông yêu thương nhất trong mười con chó mà ông nuôi. Con chó kia thật sự cũng có chút thần khí, ba ngày sau khi ông nội tôi qua đời, cũng không thấy tăm hơi của nó đâu, cũng không còn xuất hiện lại nữa. Không biết là trong lúc lộn xộn bị người ta bắt mất, hay là như thế nào nữa.

(Đừng ăn thịt chó nữa mà :'( )

Chương 8: Hắc Bối Lão Lục

Nói đến Hắc Bối Lão Lục là nhắc tới một điển tích. Nghe nói có thời gian, ông ấy làm thổ phu tử hạ đấu trong mộ, không biết là có cái gì khác thường, mà cho đến khi ông ta đi ra khỏi đạo động, lại đột nhiên cảm thấy có người khoác lên vai ông ta, nhưng mà kéo như thế nào cũng không ra. Biệt hiệu "Hắc Bối Lão Lục" này cũng là do như vậy mà có, trên bả vai của ông ấy có một dấu tay màu đen, nghe nói đó chính là bị "đáp".

Người ta nói nếu gặp phải chuyện như vậy, thì phải nhắm mắt quay đầu lại thổi một hơi, đỡ cái tay kia nâng lên thổi đi, lực thổi càng lớn, xác xuất thành công càng cao. Sau khi thổi xong cũng không được trở lại nữa, bằng không nhất định sẽ thấy phải thứ không hay ho gì.

Hắc Bối Lão Lục là một người rất khiêm tốn, Liên Gia Gia cùng ông ấy quan hệ qua lại cũng không sâu, chỉ biết là khi ông ấy ở Thiểm Tây từng là một tay "Đao khách".

Vì sao lại gọi là đao khách? Trước từng xem qua một đoạn ghi chép ở Thiểm Tây có nói:

Đao khách chính là tổ chức nghĩa hiệp đặc biệt trong tầng lớp người dân ở Quan Trung. Những thành viên này vẫn thường hay mang theo môt thứ bằng đồng tới Quan Sơn Trấn ( Quan Sơn Trấn hiện này là khu Chúc Diêm Lương ) để chế tạo "Quan Sơn Đao Tử", dài chừng ba thước, bề rộng không tới hai tấc, chế tạo hình dạng rất đặc biệt, vô cùng sắc bén, cho nên mới được quần chúng gọi là " Đao khách". Đao khách này ước chừng được sinh ra vào những năm đầu giai đoạn Hàm Phong, không có hình thức tổ chức cố định hay là kỹ luật chặt chẽ gì hết, thế nhưng vẫn có một người làm thủ lĩnh, mọi người đều gọi là Mỗ Mỗ Ca, ông ta và những người dưới đều là anh em, vẫn hoạt động chung quanh thủ lĩnh. Đao khách phân chia thành rất nhiều nhóm lớn nhỏ khác nhau, đều là tự phong, hoạt động từ Đồng Quan đến phía Tây, từ Tây An với hai bên khu vực ven sông Đông Duyên có rất nhiều, mà phía Bắc còn nhiều hơn. Những "Đao khách" luôn này có tinh thần chống lại giai cấp thống trị, cũng bênh vực kẻ yếu, rút dao tương trợ nghĩa khí. Lúc cách mạng Tân Hợi nổ ra, có rất nhiều nhóm đao khách lớn tham gia vào cách mạng, đã được ghi chép lại trong lịch sử, phát huy tinh thần nghĩa hiệp, vì cách mạng mà rơi đầu rất nhiều, vô cùng nhiệt huyết. Đến nay ở vùng đất Bắc Bình ( tên gọi cũ của Bắc Kinh ), đao khách đã trở thành một phần lịch sử xa xôi, giống như đã trải qua hơn một trăm năm rửa Quan Sơn đao. Những chuyện xưa kể về đao khách cũng dần trở nên hoen ố, hóa ra là do bọn họ đã mất đi mục đích ban đầu.

Nếu nói Lão Cửu Môn đại bộ phận có điểm gì giống nhau, thì chắc chắn chính là trí tuệ, cho dù là âm mưu quỷ kế hay là những mưu lược bình thường, những người này hoàn toàn giống nhau đầu óc vô cùng tinh anh có rất nhiều kế sách. Ở ngay trong hoàn cảnh lúc đó luôn phải có kỹ năng ấy. Hắc Bối Lão Lục thì lại là một trường hợp đặc biệt, vì ông không hề có lời đồn đãi nào về phương diện này, là một người duy nhất trong Lão Cửu Môn xuất thân tay chân.

Đương nhiên làm đao khách thì không cần tới đầu óc, bởi vì đao của bọn họ vĩnh viễn so với đầu óc phải mau lẹ hơn, trước đây trong quá trình tìm kế mưu sinh ở Tây Bắc, Hắc Bối Lão Lục đã từng giống như liếm máu mà sống, thực sự là đem theo đầu óc cũng không bằng mang thắt lưng, mỗi ngay đều như vậy. Cho nên sau này ông đến Trường Sa, gần như cũng chỉ có một cách thức làm việc ấy.

Đao của ông cực nhanh, và nó đã đạt đến độ nào? Nói cho đúng chính là: "Đi qua một con phố sầm uất, dọc đường đầu người rơi". Ông ta đi ở trên đường, đi qua cạnh ngươi, đầu của ngươi liền rơi xuống đất, không ai có thể phát hiện ra được là do ai vung đao.

Không biết chuyện này có phải là quá khoa trương hay không, chỉ có điều Hắc Bối Lão Lục ở Trường Sa thực sự rất không được hoan nghênh, bởi vì điệu bộ của ông ấy hoàn toàn là của người Tây Bắc, hơn nữa lại trầm mặc ít nói, người khác vốn không có cách nào giao lưu cùng với ông.

Ông ấy đổ đấu lấy thứ này thứ kia, sau đó mang đi bán, chẳng có một tên đồ đệ, chỉ đơn thân độc mã, cho nên người ngoài vẫn hoài nghi ông ấy có thực sự là ở dưới đất chém bánh tông không nữa?

Tuy là một hiệp khách cô đơn như vậy, nhưng ông cũng có được một hai người bạn đồng hương hòa nhã, thế nhưng sau đó họ lại tranh giành tình nhân, Hắc Bối Lão Lục cũng không phải ngoại lệ. Người đồng hương hòa nhã này là một anh hùng mộ, ông ta hút thuốc phiện, cả đêm ở trong kỹ viện, ân ái với một kỹ nữ già. Có một lần nàng kỹ nữ này bị ép bán đi, Hắc Bối Lão Lục cưỡi ngựa đi ngàn dặm, đi tới nơi hẹn múa đao đem nàng đoạt trở về.

Bởi vì hút thuốc phiện, ông ta thường xuyên tiến vào một trạng thái điên điên, nửa đêm ngày nào cũng vác đao đi luyện, luyện cho đến khi nào kiệt sức thì thôi, ban ngày lại rút vào một góc giống như là một tên ăn xin, khiến cho tất cả mọi người cho rằng ông ta chính là một người điên.

Lúc về già làm bạn với ông ta chỉ có một kỹ nữ già cùng một thanh đao, đúng là giống hệt như trong mấy tiểu thuyết võ hiệp vậy. Tới cùng thì giữa bọn họ chỉ là cần nhau hay là như thế nào cũng không rõ được.

Vậy thì vì sao lại cho người này gia nhập vào Lão Cửu Môn? Ông nội tôi nói, khả năng bởi vì ông ấy vừa vặn là Hắc Bối Lão Lục. Mà ngay từ ban đầu, bọn họ cũng đều gọi ông là A Lục, tuy rằng Hắc Bối Lão Lục là một người vô cùng trầm mặc ít nói, nhưng mà cũng chính vì tính cách đặc biệt này lại khiến cho ông ta càng thêm xuất chúng. Cho nên tất cả người lớn kẻ nhỏ đều biết đến ông ta, cũng không dám chọc ông ta, đồng thời cũng không cần thiết phải làm .... hại tới ông ấy. Nguyên nhân lớn nhất cũng do ông ấy là người ngoại tộc.

Sau khi giải phóng đã từng có một nhóm Hồng Vệ binh muốn đấu với Hắc Bối Lão Lục, vào năm ông ta bảy mươi tuổi, liên tiếp giết ba người, sau đó thì bị quân đội bắn chết, ông ta là người duy nhất trong Lão Cửu Môn không có hậu nhân, không có gia sản, cuối cùng chỉ có kết cục vô cùng bi thảm mà thôi.

Song cũng có lời đồn đãi nói rằng, trước khi ông ta bị bắn chết đã hoàn toàn điên rồi, bởi vì khi hạ đấu chưa bao giờ ông ấy làm một biện pháp phòng hộ nào, chưa đến năm mươi tuổi cơ thể đã suy sụp. bà kỹ nữ kia đã chết trước, cuối cùng đầu năm sau ông ấy cũng giống như hợp thể của một tên ăn mày và Khổng Ất*, luôn luôn lấy một số thứ vụn vặt bán ra ngoài, đổi chút rượu uống. Sau giải phóng thuốc phiện bị cấm nên ông ấy chuyển sang hút đinh gỉ.

Khổng Ất*: nếu như tớ không nhầm thì đây là tên nhân vật trong truyện ngắn cùng tên của Lỗ Tấn, Ông Khổng ăn mặc theo lối có học song chỉ đứng uống rượu ở ngoài. Ông là một nhà nho lỗi thời, lập dị, dơ bẩn, nghèo nàn, song lúc nào cũng tỏ ra nghiêm nghị, đến mức sự nghiêm nghị đó biến thành trò cười của bọn bình dân ngồi ở ngoài.

Nói như vậy có thể người này cũng không được coi là một tên trộm mộ tặc, nhưng ông ấy cũng không phải một lãng khách, lại càng không phải là hiệp khách, không ai có thể cho ông ấy một cái định nghĩa nào cả, Hắc Bối Lão Lục chỉ là một người lập dị đang tồn tại, ông ấy chính là một người điển hình cho xã hội cũ, không có theo đuổi, không có nguyện vọng, cũng không có trí tuệ. Nếu có thể phó thác ông ấy cho một người, có lẽ ông ta sẽ trở thành một tay thủ hạ tốt, có lẽ dưới sự an bài của chủ nhà, ông ấy sẽ kết hôn, rồi từ từ học được tình yêu, đặc biệt lúc ông có con, ông ta sẽ bắt đầu có một chút cảm giác với cuộc sống.

Thế nhưng thực sự đáng tiếc, Hắc Bối Lão Lục không có điều đó, khi ông ấy rời khỏi Tây Bắc thì Hậu đương gia đã chết, toàn bộ đoàn đao khách đã bị giải tán, ông ta liền trở thành một con thuyền mất lái, khi đó cuộc đời của ông ấy, có cũng như không, điều duy nhất mà ông có được, chẳng qua chính là hai chữ "Còn sống".

Tôi nghĩ có lẽ bà kỹ nữ kia đối Hắc Bối Lão Lục, chính là mối liên hệ duy nhất của ông ấy với thế giới này, có thể trong lúc ông ta ân ái với bà ấy, ông ta mới có thể cảm giác được sự tồn tại của mình. Sau khi bà ấy chết đi, ông ấy và thế giời này đã trở lên hoàn toàn tách biệt, từ đó về sau chỉ sống trong chính thế giới của mình, cho nên ông ấy mới điên.

" Ông đổ không phải là đổ đấu, thứ ông đổ chính là tuyệt vọng."

Tôi ở nơi này kính trọng Hắc Bối Lão Lục.

Chương 9: Hoắc Tiên Cô - Thất Cô Nương

Hạ Tam Môn

Hạ Tam Môn là môn có tương đối ít cố sự, bởi vì bọn họ đều là người làm ăn, không thường tự mình hạ đấu, nhưng bởi vì có quan hệ gần, nghề nghiệp lại gắn với nhau chặt chẽ, cho nên Bình Tam Môn cùng Hạ Tam Môn thường kết thành thông gia, chẳng hạn như bà nội tôi và Giải Gia có quan hệ thân thích.

Thất Cô Nương - Hoắc Tiên Cô.

Làm việc trong Lão Cửu Môn chỉ có duy nhất một người phụ nữ, Bạch Sa Tỉnh chính là Hoắc Tiên Cô con gái của Hoắc bà có thể xem là một người phụ nữ có tầm quan trọng không hề thua kém các bậc mày râu, Hoắc bà có con trai theo cách mạng của Lão Mao, thời gian nội tình của cách mạng văn hóa bị lật ra, Hoắc gia cũng bởi vì vậy mà mai danh ẩn tích. Truyền thuyết thực đã vào ẩn phía sau bức màn, được một nhân vật lớn bảo vệ.

Mỗi lần nói tới Hoắc Tiên Cô, ông nội tôi đều phải ngó nghiêng xem bà nội tôi có ở nhà hay ở đâu gần đó không, bởi vì ông nội tôi cùng Hoắc Tiên Cô có một giai đoạn mà ở trong nhà thì xem như là một vấn đề nhạy cảm, phải tránh không để bà nội của tôi nghe thấy, nếu không bà sẽ đến nhéo tai ông mà mắng:

"Lão quỷ này, đã mấy chục năm rồi mà ông vẫn còn thương nhớ để ý đến ả hồ ly tinh kia!"

Không sai, quả thực Hoắc Tiên Cô và ông nội tôi trước đây đã từng có một giai đoạn mờ ám.

Bởi vì đề tài này không thể nói chi tiết được, cho nên tôi cũng không biết giai đoạn tình cảm này của ông nội và bà nội tôi lúc trước, nếu vấn đề xảy ra sau đó có lớn hơn đi nữa, tôi cũng không còn cách nào khác là đành chạy tới hỏi bà nội tôi, bà liền dùng kim đan len đánh lên đầu tôi, đuổi tôi đi chỗ khác.

Tất nhiên, có lẽ sự thật của chuyện này là môt loại tình huống khác, hoặc là ông nội tôi và Hoắc Tiên Cô có chút công việc mới đến đây, mà vì người ta quá đẹp, nên mới khiến cho bà nội ghen.

Ông nội tôi còn nói, Hoắc Tiên Cô đúng là có vẻ tư sản như vậy, từ biệt hiệu của bà ấy thì có thể nhìn ra ngay, vào lúc đó có nghĩ là Tiên cô hoặc là Tiên nữ, nói rõ ra là công nhận bà ấy rất đẹp. Hơn nữa ông nội của tôi nói, bà thực sự rất xứng với chữ "Tiên" này, bởi vì người phụ nữ này, có một khí chất khiến cho người ta không thể nhìn thẳng và khen ngợi một cách đùa giỡn. Loại khí chất này là do bẩm sinh mà có, chứ không thể nào rèn luyện ra được, nhìn bà, đàn ông căn bản không thể sinh ra ý nghĩ xấu nào được.

Vì thế tôi hỏi ông tôi, có phải ý của ông là Hoắc Tiên Cô kia giống một cái sân bay siêu cấp, dáng người của bà ấy so với tấm ván giặt quần áo còn bằng phẳng hơn không?

( Hahahahahahahaha..................... )

Ông nói tất nhiên là không phải, Hoắc Tiên Cô cao một mét bảy, rất thích mặc sườn xám, làn da thực sự rất trắng, tóc ngắn, khí chất của bà chính là đến từ ánh mắt, đó là một loại nhãn thần cao ngất trời, trong suốt vô cùng, tựa như chưa từng bị thế tục vấy bẩn. Nhìn ánh mắt của bà, bà muốn người làm cái gì ngươi đều sẽ tình nguyện làm.

Bây giờ suy nghĩ lại, cái này có điểm giống như Muộn Du Bình nha! Chẳng lẽ Hoắc Tiên Cô chính là một thể biến tính của Muộn Du Bình? Ấn tượng của bà ấy ở trong đầu tôi lại trở thành bộ dạng Muộn Du Bình mặc sườn xám.

(Tôi sợ anh rồi anh Tà ạ :))))))))) )

Chỉ là Hoắc Tiên Cô cũng không thánh thiện được cả đời. Đại khái khi bà ba mươi mấy tuổi, bà ấy yêu một người quân nhân, người sĩ quan này sau đó lại trở thành một thủ hạ đắc lực, mạnh mẽ nhất của lão Mao. Nghe nói sau khi lập quốc, trong một vũ hội chính trị, sự xuất hiện của bà ấy đã làm cho tứ tọa kinh ngạc, khiến cho ngay cả mấy quan viên Liên Xô ngắm nhìn không rời mắt. Nhưng có thể là vì ...... như vậy, mới đem đến cho chồng của bà ấy một phiền toái rất lớn, bị lật đổ ở trong cách mạng văn hóa. Tuy rằng rất may sau này đã sửa lại án sai, nhưng mà Hoắc Tiên Cô năm đó đã biến thành giống như Hoắc bà rồi. Lần cuối cùng ông nội tôi nhìn thấy bà ấy, là ở trên tivi, vẫn cái tao nhã đầy khí chất đó, thế nhưng đã không còn là một cô gái nhỏ nữa rồi, luôn luôn khiến cho thổn thức năm tháng vô tình.

Một người phụ nữ như vậy, cuối cùng làm cho tôi hiểu chút cảm giác của Nguyễn Linh Ngọc*, thế nhưng cũng không tưởng tượng nổi làm sao bà ấy lại được xếp ở trong Lão Cửu Môn, hơn nữa lại còn xếp hàng thứ bảy nữa chứ. Chẳng lẽ bà ấy cũng có thể xuống đất? Ông nội nói, Hoắc Tiên Cô cũng không thường xuống đất, hơn nữa nhà bọn họ xuống dưới đất cũng dùng một phương pháp rất đặc biệt, cách làm giống như trước khi khai thác mỏ muối, chính là đánh một cái động lớn, sau đó đổi chiều đi xuống dưới, dùng một loại móc đặc chế nằm úp sấp treo ở trên đỉnh mộ. Làm như vậy thì có thể tiếp cận rất linh hoạt và mạnh mẽ, nguyên do cũng vì người Hoắc gia đều là phụ nữ, hơn nữa thủ hạ nữ địa vị cũng rất cao.

Thế nhưng một khi nhiều phụ nữ thì thị phi càng nhiều, bởi vậy Hoắc gia cũng là một nhà có nội chiến nhiều nhất, trong gia tộc đấu tranh rất gay gắt, con gái Hoắc gia không chỉ có một người, vậy mà Hoắc Tiên Cô có thể đoạt được địa vị chủ gia tộc, chắc hẳn vô cùng phức tạp.

Lúc ấy Hoắc Lão bà qua đời, vài người con gái của Hoắc lão bà và mấy người em của bà ấy, còn có chị em họ, đều nhắm vào vị trí chủ gia tộc, tình huống cụ thể chúng tôi cũng không biết rõ được, hơn nữa cái này còn có ý nghĩ mờ ám muốn gây dựng lại thế lực của Hoắc gia, cho nên tất cả mọi người đều mong ngóng. (Đây là một cái đạo lý rất đơn giản, ngươi là người đứng đầu làm chuyện buôn bán cho Hoắc Nhị tiểu thư, nếu như Hoắc Nhị tiểu thư không được làm chủ gia tộc, như vậy cái người thân cận làm buôn bán kia sẽ không được ưu ái nữa, bởi vậy lúc này quan hệ của ngươi cũng sẽ không còn tốt như trước, sau có khi còn bị người khác thay thế, người tiếp nhận sau này còn vì các món lợi của mình, còn có chia cho ngươi điểm lợi ấy hay không thì rất khó nói.)

Để lên được vị trí đó, người bên trong tất nhiên sẽ liên minh với người bên ngoài, mà đối tượng liên minh của Hoắc Tiên Cô, không chừng chính là ông nội của tôi, bởi vậy ông nội tôi mới biết được một ít thông tin để lên vị trí đó của bà.

Trong Cửu Môn Đề Đốc, Thượng Tam Môn bất kì việc vặt gì không phải chuyện của đất nước, cho dù là chuyện tốt nhất cũng quan hệ đến họ, cho nên sẽ không có khả năng nhúng tay vào loại chuyện âm mưu quỷ kế lớn như vậy. Bình Tam Môn và Hạ Tam Môn bên trong hẳn là rất nóng, bởi vì việc này đối với lợi ích của mình có liên quan rất lớn. Mà nơi được Hoắc gia mong muốn nhận được sự ủng hộ nhất, đó là Giải gia. Bởi vì Lão gia của Giải gia làm việc gì cũng rất thận trọng, hơn nữa của cải của Giải gia lại giàu có, thủ hạ vân vân đều rất lợi hại, bất kể là ác chiến với nhau hay là trên phương diện giở mánh khóe âm mưu quỷ kế, chỉ cần có Giải gia ở phía sau thì sẽ vô cùng vững vàng ngay.

Thế nhưng Giải Cửu Gia là một người vô cùng khôn khéo, đương nhiên sẽ không bị kéo vào cuộc, hơn nữa đại nghiệp của Giải gia gia rất lớn, cũng không sợ người Hoắc gia đổi chủ mới, cho nên vô cùng trầm tĩnh, yên lặng theo dõi vụ việc.

Còn về phần Trần Bì A Tứ, ông ta thì làm việc quá mức quái đản, cùng hợp tác với ông ta thật sự quá phiêu lưu, không làm tốt có khi bị ông ta phản bội nuốt trọn cả sản nghiệp gia tộc, cho nên không ai dám tùy tiện kéo ông ta xuống nước cùng, ngược lại thì Trần Bì A Tứ lại tự mình rục rịch, muốn lấy ở trong đó một món hời, có thể vì vậy mà làm cho tình thế đã phức tạp càng thêm phức tạp, người Hoắc gia vốn đã sợ nay lại biết ông ta tự mình đến, lại càng sợ ông ta đến bên phía kẻ khác.

Hắc Bối Đao Khách Lão Lục là một người bị bệnh thần kinh, tự nhiên sẽ không có ai tìm tới. Mà kỳ môn bát là Tề Thiết Chủy, bàn khẩu nhỏ, chỉ dựa vào một Thiết Chủy thì cũng không khả năng làm cho những người khác nhường chỗ, cho nên tác dụng không lớn.

Nếu tính ra như vậy, người tốt nhất có thể dựa vào chính là ông nội tôi. Cẩu Ngũ gia là người làm việc có nghĩ khí, ở Giang Kì lời kêu gọi có vẻ tương đối cao, hơn nữa còn có vài người đồ đệ rất tốt ở khắp nơi, thủ hạ huynh đệ đều thực sự rất phục tùng, lực lượng ở bên dưới rất lớn mạnh, lại thêm gia sản giàu có. Mà quan trọng nhất là, ông đều có quan hệ tốt với mấy người huynh đệ, gần như ở chỗ nào ông ấy cũng đối đãi ngang nhau, đặc biệt có quan hệ với Giải gia rất tốt, luôn luôn được Giải lão gia khen ngợi. Cho nên mấy người chị em Hoắc gia, đều đã từng đưa thiệp trà, muốn mời ông nội của tôi đi uống trà nói chuyện tâm tình.

Còn về phần vì sao cuối cùng ông lại chọn Hoắc Tiên Cô, cái này thực sự không ai biết gì. Có người nói là do Hoắc Tiên Cô hy sinh vài thứ, để đổi lấy sự ủng hộ hết sức của ông nội tôi. Còn rốt cuộc giữa bọn họ trong lúc đó có cái chuyện gì? Thì chỉ có bọn họ biết mà thôi.

Vào thời đại đó, phụ nữ muốn có một cái gì đó từ đàn ông, luôn luôn phải trả một cái giá thê lương, để đạt được một..... vài thứ khác, cho dù là Hoắc Tiên Cô, xinh đẹp cũng chỉ là một cái điều kiện. Đối với phụ nữ hiện tại bây giờ mà nói, tuy rằng thời đại này vẫn còn là như thế, nhưng cuối cùng cũng có tiến bộ không ít, ít nhất, khi phụ nữ lui từng bước, phía sau cũng đã không còn là vực sâu.

Không biết là cần phải cảm thấy vui vẻ, hay là cảm thấy thật đáng buồn nữa.

(Ngô Lão Cẩu nuôi được thằng cháu quý hóa quá, ngửi ra một vị nghi ngờ thâm sâu trong suy nghĩ của Ngô Tà, ý anh có phải năm xưa ông anh đã làm gì thất thố với Hoắc bà bà để rồi không chịu cưới bà làm vợ, khiến bà vạn kiếp bất phục, uất hận trọn đời như vậy không??????????)

Chú thích:

Nguyễn Linh Ngọc:: sinh ra ở Thượng Hải vào năm 1910 trong một gia đình lao động nghèo. Cha cô là một công nhân không may qua đời khi cô còn nhỏ, mẹ cô làm nghề giúp việc một mình tần tảo nuôi con gái khôn lớn trưởng thành. Mẫu thân của Linh Ngọc vốn là người phụ nữ chịu thương, chịu khó, bà chắt bóp chi tiêu, dành dụm tiền bạc nuôi con học hành. Tới năm 1926, cô chính thức bước vào cuộc sống tự lập, kiếm tiền phụng dưỡng mẹ già.

Sự nghiệp diễn xuất huyền thoại của Nguyễn Linh Ngọc được đánh giá là mốc son chói lọi của nền điện ảnh Hoa ngữ thập niên 30. Cô được xem là tượng đài sống trong làng phim ảnh bấy giờ. Với diễn xuất tự nhiên nhưng giàu cảm xúc, cô dễ dàng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng công chúng. Vì vậy mà, Giang Thanh, một người có cái nhìn khắt khe trong lĩnh vực thẩm định, phê bình điện ảnh, cũng phải dành sự yêu mến đặc biệt cho người phụ nữ tài sắc này. Đỉnh cao trong sự nghiệp của Nguyễn Linh Ngọc là khi cô tham gia bộ phim "The Goddes" năm 1934. Cô đảm nhiệm vai người mẹ chấp nhận làm nghề kỹ nữ để trang trải cuộc sống. Lối diễn xuất tinh xảo, điêu luyện của Linh Ngọc đã đưa tác phẩm lên tới đỉnh cao của thành công. "The Goddes" được tôn vinh là tuyệt phẩm của thể loại phim câm thời bấy giờ.

Chương 10: Kỳ Môn Bát Toán - Tề Thiết Chủy

Kỳ Môn Bát Toán - Tề Thiết Chủy, là một Môn trong Hạ Tam Môn, là một người tương đối kỳ quái. Hoắc gia và Giải gia đều là đại gia tộc, đều là dừng chân ở đây mà thành lập địa bàn, từ phía đông Mông Cổ đến Lĩnh Nam, hai nhà Hoắc gia, Giải gia đều có thế lực, thế nhưng Tề Thiết Chủy lại đi theo con đường hoàn toàn ngược lại. Trước khi thành lập, địa bàn của ông ta cũng có một nơi, chính là trong quán trà cũ coi tướng số ở Trường Sa. Cái gian hàng coi tướng số này nằm sâu trong hàng lang, phía sau chính là một cái Tiểu Hương Đường, để cho người ta giải vận đồng thời coi bói luôn, còn nếu muốn mua hàng, thì nộp sáu đồng tiền, thầy coi bói sẽ dẫn ngươi vào bên trong, phía sau có một cái phòng rất lớn, trong đó đều là bảo bối.

Dưới tình hình chung thì, với một địa bàn nhỏ như vậy rất dễ bị loại bỏ, nhưng mà Tề Thiết Chủy mở nóđã mấy đời, vẫn làm ăn rất phát đạt, tiểu Hương Đường quả thực rất náo nhiệt.

Có người cảm thấy vô cùng kì quái, cũng không rõ là cái gì kì quái. Sau này mới hiểu ra được, công việc buôn bán của Tề Thiết Chủy có một nguyên tắc rất kì lạ, chính là mỗi người đến mua hàng, ông ta đều sẽ xem cho đối phương một quẻ. Kỳ Môn Bát được coi như là đệ nhất bói toán ở Trường Sa, được cho là rất chuẩn, hơn nữa chỉ xem cho người mua hàng, được tính như là khuyến mại :D .

Cái này cho đến bây giờ mà nói, có lẽ đã thuộc về một cách cạnh tranh khác biệt hoặc phải nói là biến giá trị đơn giản thành giá trị phức tạp.

Mà trong nghề này và bán đồ cổ mọi người đều rất mê tín, nên thanh danh bên ngoài của Kì Môn Bát Toán, cho dù không cần hàng hóa, cũng có người vì cần coi tướng số mà đến tùy tiện đến mua một thứ gì đó, cho nên nơi này làm ăn luôn luôn liên tục không ngừng.

( Ông này là nhân vật thú vị nhất trong Cửu Môn, :) )

Như vậy Kì Môn Bát Toán có thể coi chính xác tới cỡ nào? Chuyện này có thể nói là vô cùng kì diệu.

Vào một buổi tối trước giải phóng, từng có một người lái buôn tới Tiểu Hương Đường của của Tề Thiết Chủy mua hàng, cái gì cũng không để ý, lại để ý một cái lư hương ở trong Tiểu Hương Đường.

Mà cái lư hương này cũng không phải là đồ cổ gì, có thể thấy được người lái buôn này có tầm nhìn không cao, vào lúc đó người thủ hạ đi xin ý kiến Tề Thiết Chủy, ông ta nói phải theo nguyên tắc, bán đồ cổ chính là bán đồ cổ, làm sao lại có thể bán lư hương? Như vậy sẽ không đúng, nhưng mà tên thủ hạ kia lại nổi lòng tham, thầm nói cái lư hương này thì có bao nhiêu tiền chứ, mình lén bán cho hắn rồi tìm một cái khác để thay thế vào, vậy thì món tiền đó không phải là tiền của mình sao?

Vì thế lén bán cái lư hương đi, lại sợ bị Tề Thiết Chủy phát hiện, liền xua người kia đi nhanh, lúc đó Tề Thiết Chủy nhìn hắn, chờ người lái buôn kia đến cầu một quẻ, không nghĩ tới đối phương trực tiếp bước đi cũng không quay đầu lại, liền cảm thấy kỳ quái.

( Kiểu chê hàng khuyến mại nhà ông :D )

Nên gọi người thủ hạ đến hỏi, tên kia lá gan quá nhỏ liền khai ra tất cả, Tề Thiết Chủy nghe xong thì nói với hắn, hắn làm như vậy, đầu tiên là xúc phạm tới thần linh, thứ hai là xúc phạm tới tổ sư gia, đây là điều đại kỵ, chỉ sợ rằng ngươi sẽ gặp phải báo ứng.

Tề Thiết Chủy nói lời này chính là muốn hù dọa người kia, người thủ hạ kia sợ hãi lập tức đem hết tiền ra, nói mình chỉ là bị tiền bạc làm cho mờ mắt, hắn hỏi có phương pháp hóa giải hay không?

Lúc ấy người thủ hạ này đang định đi xuống thôn thu thuế, Tề Thiết Chủy gieo quẻ tính toán, không khỏi nhíu mày, liền đem toàn bộ tiền bán lư hương lúc nãy đưa lại cho hắn, rồi đem tiền mua lại để ở cái rương bên dưới, để cho hắn mang tiền này đi theo. Hơn nữa dặn hắn, năm này phần tiền của nông dân trồng dưa bên kia thì miễn không thu.

Người thủ hạ kia cảm thấy rất kì quái, nhưng vẫn không giải thích được mà lên đường đi, đến được thôn mới phát hiện thôn này năm nay mưa to, nông dân trồng dưa không có thu hoạch, căn bản không đóng nổi thuế ruộng, cho dù cứng rắn thu cũng tuyệt đối không thu đủ, liền miễn phần thuế năm đó cho họ. Trên đường trở về hắn gặp phải cướp, tiền trên người đều bị cướp đi hết, mà kì lạ là không hề tổn hại đến tính mạng của hắn, cũng không có lục soát cái rương của hắn mà đã bỏ chạy.

Sau khi hắn trở lại Hương Đường không bao lâu, thì tên cướp kia đã bị bắt, lại là một nông dân trồng dưa ở trong thôn, nguyên nhân cũng là vì năm đó mưa lớn khiến cho dưa đều bị hư hỏng hết, người nọ cùng đường, đành phải vào rừng làm cướp, đã phát hiện người bị cướp lại chính là vị tiên sinh thu thuế miễn phần thuế ruộng cho mình, nên không đành lòng giết người diệt khẩu, lại sợ bị nhận ra, cho nên cướp được một chút tiền liền cuống quít chạy đi.

Không khó để suy đoán, nếu người làm thuê kia không miễn thu thuế ruộng cho người nông dân trồng dưa, như vậy thì e rằng lúc này hắn ta phải chết chứ không thể nghi ngờ gì nữa, mà trên người hắn nếu không có tiền bán lư hương, thì số bạc trong rương tất nhiên sẽ gặp nạn.

Sau người thủ hạ này hỏi Tề Thiết Chủy, việc này rốt cục là như thế nào? Tề Thiết Chủy liền nói cho hắn biết, vậy tiền bán lư hương này, không phải là tiền mua lư sao, mà tiền mua lư không phải là tiền mua đường sao? Ý tứ ở đây là lúc đi ra đường sẽ bị cướp chặn, mà tiền bị cướp chính là tiền bán lư hương. Mặt khác, lúc trước người lái buôn kia không có xem bói, chính là quẻ không tính, đó không phải là không tính dưa sao? Tự ngươi tạo nghiệp thì tự ngươi gánh vác, thế nhưng may mắn tổ sư gia đã niệm tình ngươi mới vi phạm lần đầu, cho ngươi một con đường lui, về sau phải cẩn thận làm người, không được tái phạm loại mê muội này nữa.

Người thủ hạ này rất phục tùng, từ đó về sau cũng không dám ..... làm trái ý Tề Thiết Chủy nữa, mà chuyện đã xảy ra này cũng được truyền ra ngoài, rất nhanh đã truyền khắp Trường Sa.

(Cho nói một câu thôi, bị thích ông này cực kỳ :) , kiểu hiền hiền, dễ tính mà thương người dã man :D )

Chương 11: Tiểu Giải Cửu

Tiểu Giải Cửu, Giải Cửu Gia, người duy nhất trong Bát ngoại là phần tử có tri thức chính thống, hơn nữa đã từng đi du học ở Nhật Bản một năm. Giải gia gần như là một gia đình gương mẫu, không giống với những người đã nói phía trước, đặc điểm lớn nhất của Giải gia chính là không có đặc điểm. Đó là một gia tộc có thế lực trung bình nhất, bất kể là thủ hạ, kĩ thuật võ thuật, đường đi, Giải gia đều không phải là xuất chúng nhất, thế nhưng vẫn có chỗ để phát huy tác dụng.

Vì là Giải gia vẫn nằm trong Cửu Môn Đề Đốc, là măn vững vàng và ổn định nhất và cũng không quá cần thiết phải kiếm tiền nhiều,thế nhưng lại không hề có bất kì sóng gió nào. Chẳng ai có thể mang đến phiền toái cho ông ấy, cũng rất khó có được sự hỗ trợ của ông ấy. Hơn nữa Giải Cửu gia là người làm việc rất tuần tự, là một người không chê vào đâu được, đối với bất kì việc gì cũng có thể xử lý ổn thỏa, ông ấy còn có thể đoán được trước khi nó xảy ra. Hơn nữa còn đã chuẩn bị đối sách thật tốt, chính vì khả năng này mới có nguyên nhân khiến cho không ai muốn đối nghịch với ông ấy.
Người như thế, nói chung gần như rất bình thường không có bất kì giai thoại nào được truyền ra ngoài cả, nếu muốn có cái gì đó để nói, thì chỉ có một vài tin đồn thú vị.
Giải Cửu gia giỏi về kế sách, bình thường giỏi nhất chính là chơi cờ, lúc đó ở Quảng Châu có mấy người kỳ tài về chơi cờ, được một người quân nhân mời tới Trường Sa để đấu cờ với ông ấy. Người kia có thể cùng lúc đấu với tám người, mấy người kì thủ ở Trường Sa bị đánh cho tơi bời.
Ngay lúc đó Giải Cửu gia cũng được xem là bạn cờ, chuyện này lại có người truyền tới tai người kia, lúc đó với thâm niên mười năm chơi cờ tướng ở Trường Sa rất nổi tiếng, người tên Giải Cửu gia, một người nữa chính là chú Hai nhà tôi. Giải Cửu gia thì sở trường về những ván cờ đặc sắc, bày trận rất lợi hại, mà chú Hai tôi thì lại sở trường về giải trận, có thể nói là, một người thì ưa thích công, còn một người lại công thủ toàn diện.
Thế nhưng là bọn họ vẫn là hai người của hai thời đại khác nhau, Giải Cửu gia khi đó rất giỏi, còn chú Hai tôi thì vẫn chưa đến trình độ lão luyện bằng, cho nên chỉ có một mình Giải Cửu gia ra mặt. Nhưng mà Giải Cửu gia không tích lộ diện.
Cuối cùng quết định bày ra tám ván cờ, trong đó có một ván do Giải Cửu gia đứng sau chỉ huy, kết quả làm cho cao nhân kia nghẹn họng trân trối nhìn, tuy hắn thắng được Giải Cửu gia , nhưng mà lại thua bảy ván khác của ông ấy.
Có mấy người kỳ thủ khác đứng ở một bên, liền tấm tắc tán dương, nguyên nhân bởi vì cũng là do bàn cờ của Giải Cửu gia, có thể nói là kinh tâm động phách, rõ ràng là có sơ hở chồng chất, nhưng mỗi lần mắt thấy sẽ phải thua lại bất ngờ đảo ngược được tình thế, chỉ có điều khi lật ngược lại, ưu thế vẫn không hiện thị ra rõ ràng, cuối cùng vẫn bị người áp chế,cứ giằng co như thế, sau cũng vẫn là thua.
Giải Cửu gia liền nói với những người khác, cái này gọi là đế thích (thần cờ), hoặc chính là tài đánh cờ cao siêu, nhưng lại không thể cùng với những người có địa vị cao đấu cờ và phát minh ra thế cờ.Giống như đánh cờ với Hoàng Đế, thì ngươi phải thua, nhưng mà thua một cách không dễ dàng, làm cho hoàng đế phải dựa vào chính thực lực của mình mà thắng.
Đánh cờ như vậy phải dựa vào nước cờ hiện tại mà ứng biến vô cùng khó khăn, cho nên có rất nhiều người thời trước phải kinh qua rất nhiều những bộ sách võ thuật, cốt làm sao để đẩy những nước cờ vào thế giằng co, khó khăn.
Chỉ là, những nước cờ này đánh chính là để thua,có người hỏi ông ấy, vì sao không trực tiếp đánh thắng hắn, thuận lợi áp chế nhuệ khí của đối phương?
Giải Cửu gia nói, người ta từ Quảng Đông muốn đến nơi này để đấu, đã từng đấu cờ rất nhiều, tất nhiên sẽ có con đường của mình. Người như thế chỉ thích chọn trái hồng mềm mà bóp, nếu tám người bên trong có một người thực sự có khả năng đánh cờ tương đương ông ấy, ông ấy nhất định sẽ vây người này, thắng bảy thua một, cũng không tính là quá mất mặt, vẫn là ông ấy lợi hại. Loại phương thức tranh tài như vậy cơ bả chính là một cái bẫy.
Đương nhiên đây chắc cũng là một người có thực tài, hoặc chí ít thì cũng phải có tu vi tương đối uyên thâm rộng rãi,vì kiểu đánh cờ này phải vận dụng trí nhớ cùng với năng lực hết sức nhuần nhuyễn, khả năng ứng biến chỉ là thứ yếu, vì thế mà Giải Cửu gia trước tiên phải dùng trình độ cờ siêu đẳng của mình, để lộ ra sơ hở dẫn người kia vào cuộc, đối phương nhất định sẽ cho rằng tài năng người này có hạn thôi. Người kia sẽ thừa thế mà xông lên tấn công mình, những nước cờ đầu tiên là để thay cho màn phủ đầu đối thủ. Đây cũng là một phương pháp cơ bản, hay đúng hơn là không thể phòng thủ toàn diện khi dốc toàn lực tấn công, nhất định mấy đạo công cũng kèm theo mấy cửa thủ. Nhưng kỳ thực cục diện bên trong thì không thể phân chia lực lượng đồng đều được.
Giải Cửu gia liền lợi dụng điểm này, nhưng khi trông thấy sắp thắng được rồi, trong nước tiếp theo ông liền lật ngược thế trận lại, trước sau vẫn khiến cho hắn rơi vào tình cảnh muốn thắng mà không thể thắng, nhìn sơ hở nhiều nhưng không thể dụng tài để xoay xở chiếm tiện nghi.Điều này giống như khi ngươi trêu ghẹo một cô gái, người ta cứ nửa muốn khước từ nửa lại muốn ngươi tiếp cận nàng, thật sự là bực không hề nhẹ.
Cứ như thế, người kia cũng không chịu buông tay nhận thua, muốn tập trung tinh thần để công kích những người khác nhưng lại không thể tiến thêm được bước nào. Giằng co theo cả mấy ván cờ, tới mức ví như hắn bị cục diện hỗn loạn kia kéo tới chết vậy.
Mà bên Trường Sa lại muốn làm hắn mất thể diện,như vậy một thắng bảy thua với hắn thì chắc chắn là đã chẳng còn lại chút mặt mũi nào rồi. Nhưng chính hắn về sau tự mình nghĩ lại sẽ thấy vấn đề chủ yếu là do mình, chứ không phải đây là có âm mưu gì cả.
Mọi người nghe xong đều bội phục sát đất, đêm đó uống rượu chúc mừng, rất là vui vẻ không đề cập gì tới chuyện đó. Nhưng mà bọn họ vừa mới đi, con của ông ấy lại tới hỏi ông: "Cha ơi, rốt cuộc là như thế nào vậy?"
Giải Cửu Gia cười to nói: "Đi săn cũng kiêng kị đua ngựa."
Bởi vì lúc ấy người đều ở trong phòng, cho nên tình hình thực tế người ngoài cũng không rõ. Đúng ra ván cờ thần tử kia, thật ra là bảy người hợp lại mà đấu, trong khi bảy bàn cờ còn lại chỉ có một mình Giải Cửu gia đấu.
Mà kì thực với tài đánh cờ của Giải Cửu gia,thật sự một đấu tám cũng phải thua không có gì phải nghi ngờ nữa là sử dùng biện pháp này, bảy người tổng lực, tất nhiên cao hơn một người, thành công kiềm chế đại bộ phận tinh lực của người nọ, mà ông ấy dùng chiêu mãnh công, vẫn không có bại một hai ván băn khoăn, lại chiếm đối thủ bị kiềm chế tiện nghi,cuối cùng bảo toàn được bảy ván cờ.
Chỉ là chuyện này không ai phát hiện, cũng không có gì sơ hở, Giải Cửu gia bày cuộc, phá cụôc, đấu cờ, cuối cùng đạm quá người bên ngoài truy vấn, mỗi một bước đều không chê vào đâu được, có thể thấy được người này trí tuệ rất sâu sắc, này kế chi quỷ.

Chương 12: Chuyến hành trình đầu tiên

ây giờ nhìn lại, tôi thấy mình cũng đã đi qua không ít chỗ, từ Sơn Đông, đến Hải Nam, rồi đến Thiểm Tây, rồi đến Đông Bắc, hiện tại lại đến Đại Tây Bắc Trung quốc, dọc đường sang đây đều là ngựa không dừng vó, rất ít có có thời gian có thể thực sự yên tĩnh cảm nhận đặc sắc của từng vùng. Song điều khiến cho tôi cảm thấy vui vẻ là, dọc đường đi tôi đã chụp không ít ảnh, ảnh xấu cũng không ít, bây giờ xem lại, vẫn còn có thể tưởng tượng ra tâm tình trong lòng lúc đó.

Đồ đạc chuẩn bị:

Mua một cái lều vải (sao chép lại ghi chú của chú Ba):

Tên số lượng

──────────────

Xẻng Lạc Dương 5 cái

──────────────

Dây thừng leo núi 200 m

──────────────

Đao phá núi Đức cỡ lớn 2 thanh

(loại dày nhất)

──────────────

Búa đầu nhỏ 3 cây

(2 cây nặng tầm nửa kg)

──────────────

Ba lô leo núi 5 cái

──────────────

Bếp không khói 9 cái

(chất đốt thể rắn)

──────────────

Quần áo hoạt động XXXL×1,XL×2,M×2

Ống tuýp cầm tay một cây 50cm, 20 cây

(cần gia công, kèm theo bản vẽ gia công)

──────────────

Súng săn nòng lớn 4 chiếc

(cần gia công cho ngắn lại)

Xe khách đường dài: Oto xuất phát từ trạm xe Hàng Châu đến trạm Bắc

Tế Nam 14:30 bình thường cao 1026, 2 phòng ngủ 295 nhân dân tệ, đi Từ Châu, Đằng Châu, Khúc Phụ, Thái An, 5 tấm vé đi Tế Nam, Hàng Châu, trạm Bắc.

Hành lý gửi vận chuyển hoa cho Lý sư phụ kiểm tra. Chi phí 1500

Chương 13: Miếu Hạt Dưa

Vì sao ngôi miếu đó lại được gọi là miếu Hạt Dưa, có hai cách giải thích.

Đầu tiên là ở địa phương kể, rằng vào thời cổ đại có một vị đại tướng sau khi chiến thắng trở về, thu được rất là nhiều châu báu, rồi đi đến nơi này thì ngựa lại xảy ra dịch bệnh, lúc ấy có rất nhiều ngựa đã chết, những châu báu này không có cách nào đem đi được. Vì vậy vị đại tướng kia liền mở một cái lò để nấu chảy vàng, đem tất cả những phiến bảo bối này đúc thành hình một trái bí đỏ nhỏ rồi quăng vào lòng sông, cũng hạ lệnh không được vớt lên, chỉ cần thấy trong thiên hạ còn một "hạt dưa vàng" nào thì sẽ giết hết toàn thôn.

Bởi vì vị đại tướng này chiến tích hơn người, uy tín cực cao, quả nhiên những hạt dưa vàng bị rải vào giữa lòng sông cũng không ai dám đi vớt, chúng từ từ bị phù sa của sông vùi lấp. Mãi cho đến khi triều đại thay đổi, khi được nghe nói qua truyền thuyết này người ở nơi khác cũng lục tục kéo tới nơi này để vớt hạt dưa vàng. Nhằm hù dọa những người tham lam kia, người dân ở trong thôn đã xây dựng một pho tượng tướng quân đặt ở cạnh bờ sông, quả nhiên là khiến cho những kẻ làm loạn này kinh sợ, sau này để tưởng nhớ tới chuyện đó, bọn họ đã cho xây dựng một ngôi miếu thờ ở ngay chỗ bức tượng tướng quân kia, rồi gọi là miếu Hạt Dưa.

Ngôi miếu này từ lâu đã không còn lại chút dấu vết gì, song truyền thuyết miếu Hạt Dưa vẫn được lưu lại cho tới ngay nay.

Còn có một cách giải thích nữa là, nhưng rõ ràng là ngược lại với chuyện kia, có người nói trong lòng sông nơi này đã từng sinh ra kim sa (cát vàng). Hầu hết chúng đều có hình dạng như hạt dưa, cho nên có rất nhiều người danh tiếng đến, tụ tập ở đây để vớt kim sa. Phần lớn trong bọn họ sau này định cư lại, rồi xây dựng một ngôi miếu thờ, sau đó đời này qua đời khác hưng thịnh, vì người ta trước đây đã từng vớt được "hạt dưa vàng" ở đây, nên mới gọi miếu này là miếu Hạt Dưa.

Theo như nghiên cứu của tôi, người đại tướng trong truyền thuyết đầu tiên, có thể chính là Ngũ Tử Tư*, thế nhưng lại giống với truyền thuyết vô cùng nổi danh ở Giang Tô - Lật Dương, vì sao lại tương tự như một truyền thuyết ở Sơn Đông thì không thể nghiên cứu được. Chỉ có thể suy đoán ra khả năng là ở bên này di dân, có thể phần lớn là người đến từ Giang Tô, cho nên mới đem truyền thuyết dân gian ở Giang Tô truyền tới Sơn Đông.

Truyền thuyết Ngũ Tử Tư và Sử Trinh Nữ

Hơn năm trăm năm trước công nguyên, tức là vào thời kì cuối thời Xuân Thu, Sở Bình vương giết oan cha và anh trai của Ngũ Tử Tư, Ngũ Tử Tư bỏ chạy ra khỏi Chiêu Quan, vượt qua dòng Trường Giang, đi tới nước Ngô nương nhờ. Vì phía sau có binh lính truy đuổi nên ông ta ngày nghỉ đêm đi, đi hết bảy ngày, đi tới Lật Dương gần sông Hoàng Sơn nước chảy cuộn cuộn (tự mình cố gắng vượt qua sông bơi về phía Nam, đến Lật Dương, Từ Xá, Tây Cửu, Nghi Thành, Đông Cửu rồi đi vào dòng sông Thái Hồ, đến đoạn Nghi Hưng liền vào sông Nam Khê), thì gặp Sử Trinh Nữ đang giặt đồ bên bờ sông. Ông liền đi về phía nàng xin cơm ăn, Sử Trinh Nữ đem bột nhồi với sữa cho ông ta ăn. Ngũ Tử Tư ăn rồi căn dặn Sử Trinh Nữ không nên nói cho người khác biết là ông ta đã đến nơi đây, để cho truy binh không thể biết được hướng đi của ông ta. Sử Trinh Nữ vì để cho Ngũ Tử Tư yên tâm chạy thoát thân và bảo toàn trinh tiết của mình, nên ốm lấy một khối đá thật lớn, nhảy xuống sông tự sát. Sau này, Ngũ Tử Tư cầm đầu binh mã nước Ngô, đánh bại nước Sở, báo thù cho cha và anh trai. Trên đường quay trở về nước Ngô, đi đến con sông đó nhớ lại Sử Trinh Nữ, cho nên ném vào dòng sông cuồn cuộn bách kim. Dân gian kể lại, Ngũ Tử Tư cho đúc cứ một viên "hạt dưa vàng" là ba thăng (lít) vàng, rồi tung vào trong nước, để báo đáp Sử Trinh Nữ.

Tôi không muốn lấy tâm tư kẻ tiểu nhân mà phỏng đoán năm tháng kiêu hùng đó, chỉ có điều những chuyện cũ trong lịch sử vẫn khiến cho tôi cảm thấy một sự tàn nhẫn, như Việt Vương Câu Tiễn rất vui khi, Ngũ Tử Tư khuyên Tân Ngô vương thừa cơ tiêu diệt Việt quốc, nhất thống Giang Nam. Có thể thấy được Ngũ Tử Tư là một người làm việc rất quyết tuyệt, tuyệt đối không để bất kì một đường thoát cho ai. Một người như vậy có thể chịu nhục mấy chục năm, đấu tranh để quay về nước báo thù, lật mộ phần của kẻ thù lên phanh thây lần nữa, có thể thấy được tính cách của họ có phần. Cũng như trong lịch sử cận đại Trung Quốc có rất nhiều người không khác gì bị ép buộc "hy sinh", chúng ta cũng không biết rõ có bao nhiêu liệt sĩ, là thật sự chết ở trong tay kẻ địch.

Ngươi giặt đồ, ta hành khất, ta đã ăn no, ngươi thân chìm đáy sông, mười năm sau, nghìn vàng trả ơn.

Than ôi, cô gái giặt đồ ở bờ sông, có phải là hay không là ra đi dưới đao kiếm, vì một lời nói dối tuyệt vời mà bị ép bức tới chết, Ngũ Tử Tư đúng là vẫn còn cảm thấy lương tâm có phần cắn rứt, thế nhưng có dùng ngàn vàng trả ơn, có thể làm cho lương tâm bị cắn rức trong một thời gian dài như vậy thanh thản trở lại hay không đây?

Hay hoặc là sự tình cũng không chỉ đơn giản như vậy thôi, Ngũ Tử Tư này là một tướng lĩnh trộm mộ nổi tiếng, ở chỗ này vung hạt dưa vàng xuống sông, có lẽ là có một dụng ý khác, cũng có lẽ là, những hạt dưa vàng kia là lấy từ trong cổ mộ mà vung xuống, hay là có người trong lúc thu gom bảo vật bồi táng, có kim sa bị rơi xuống sông. Hiện tại chỉ có thể suy đoán mà thôi.

Chú thích:

Ngũ Tử Tư*: Ngũ Tử Tư (Trung văn phồn thể: 伍子胥; bính âm: Wŭ Zisu, ?-484 TCN)), tên thật là Ngũ Viên (伍员), tự Tử Tư (子胥) là tướng quốc nước Ngô thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc.

Chương 14: Địa đồ được dịch ra từ sách lụa

hiên dịch sách lụa Chiến Quốc mấu chốt chính là đoán chữ, đem một chữ ở trong xếp thành trận đồ, lúc đó tất cả chi tiết sẽ hình thành một trận đồ khổng lồ, hơn nữa đó vẫn còn phân chia vĩ độ, tìm điểm thích hợp trong đó, những ký hiệu này biểu thị đường cong sau đó giúp bọn họ hiểu được nó biểu thị ý nghĩa gì. Hệ thống của những kí hiệu này vô cùng phức tạp, chẳng qua là bây giờ trong máy tính có thể đem bản đồ phục hồi lại như cũ.

Thất Tinh Lỗ vương cung

Cổ mộ Tây Sa

Mộ huyệt dưới đáy biển

Tần Lĩnh thần thụ

Tây vương nữ quốc 1

Tây Vương nữ quốc 2

Vân Đỉnh thiên cung 1

Vân Đỉnh thiên cung 2

Trương gia cổ lâu 1

Trương gia cổ lâu 2

Trương gia cổ lâu 3

Quỷ hồ

Sau này phương pháp này được dùng phổ biến trong thiết kế "Phong Cách Lôi", không biết là có phải cũng được lấy cảm hứng từ trong Sách lụa Chiến Quốc hay không?

Chương 15: Bản đồ Thất Tinh Lỗ Vương Cung

Dựa theo phân tích của tôi, có khả năng ở khu vực Miếu Hạt Dưa có một dàn cổ mộ, rõ ràng động chứa xác đi thông vào trong một sơn động khác, không biết khoảng trống phía trong ngọn núi này được sinh ra như thế nào, thế nhưng hai bên thông lộ nhất định là vào lúc Lỗ Thương Vương đi trộm mộ mà đào ra nó. Chúng tôi không biết hướng chảy của hệ thống nước ngầm trong ngọn núi này, nhưng dựa theo hiện trạng phân tích bây giờ, thủy động đã dẫn nước suối chảy vào ngọn núi, rất có thể là vì để tạo thành con đường thuỷ để thuận lợi đưa đồ bối táng từ trong cổ mộ vận chuyển ra ngoài.

Thất Tinh Lỗ Vương cung, do địa cung được chôn cùng với đàn cúng tế nên con đường vào mộ chính cũng dài hơn một km, mộ đạo này được nối vào trong núi vô cùng rắc rối và phức tạp, cuối cùng dẫn đến Xà Bách ở địa cung bên dưới, quan tài thực sự được chôn ở bên trong gốc cổ thụ. Cây đại thụ này nhất định là đã được người xưa trồng ở nơi này từ rất lâu về trước, như vậy tính theo đường kính của nó cũng có thể nói là Linh thụ nghìn năm.

Kết cấu của mộ Tây Chu cũng không lớn, bởi vì cổ mộ lớn hay nhỏ có quan hệ rất nhiều đến sức mạnh của một quốc gia, những loại thành trì cổ mộ hoành tráng thực sự thì chỉ có số ít Đế Vương mới có thể được hưởng dùng. Kết cấu của ngôi mộ nơi này cũng không tính là hùng vĩ, bởi nếu phân tích tỉ mỉ, sẽ phát hiện chắc chắn là do ba tòa cổ mộ nối liên tiếp với nhau mà thành, đàn cúng tế được chôn cùng với lăng mộ, Thất Tinh Quan lại được làm chung với nghi mộ, mà mộ thật được gắn liền với rất nhiều đạo động.

Như vậy thì việc gắn liền đó có mục đích dùng để làm gì? Mà nhìn độ hư hại của nhưng thông đạo nhỏ này có thể là do trong quá trình xây dựng mà thành, nếu như là do công nhân xây dựng đào để bỏ trốn thì hnhững thông đạo này khó tránh phải nói là quá phức tạp. Còn nếu là để ngăn chặn người ngoài đi vào trong mộ chính, tôi nghĩ hủy diệt lối vào thì sẽ thuận tiện nhanh chóng hơn nhiều.

Nhưng trong những văn tự trên "Địa đồ" nói cho chúng tôi biết, những dãy số kỹ thuật này nếu nghĩ kĩ thì thấy chúng có liên quan với nhau, hiển nhiên để thi công được nhưng đạo động này người xưa đã phải hao tâm tổn sức rất nhiều. Điều này làm cho tôi càng không có cách nào lý giải được, sau này khi cùng với chú hai bàn bạc, tôi mới có thể hiểu ra được.

Trước đây tôi những thông đạo nhỏ này ở trong cổ mộ là để đề phòng bên ngoài xâm phạm vào, thế nhưng trên thực tế biện pháp đề phòng bên ngoài xâm nhập vào cổ mộ đơn giản nhất chính là phong bế khảm lộ, đây chính là một mâu thuẫn, dễ nhận ra rằng là hướng đi đã sai rồi. Nhưng nếu tỉ mỉ suy nghĩ ngược lại một chút, chúng tôi sẽ phát hiện, sơn động có Cửu Đầu Xà Bách, e rằng cũng không phải là cổ mộ, mà lại giống như một nơi thuộc về tôn giáo hơn.

Hơn nữa Tề Lỗ có rất nhiều đạo sĩ , đạo sĩ cũng có rất nhiều nơi tu luyện và tụ họp bí mật, thậm chí có quân Vương còn xây dựng nơi tu hành bí mật, vào thời đó, đạo sĩ thường mang bối cảnh chính trị và giáo phái gắn liền với nhau. Ví dụ như Mặc Gia* thờ phụng quỷ thần, thế nhưng đệ tử của Mặc gia thì có tổ chức rất nghiêm minh, đương nhiên lúc bấy giờ lại trở thành tà giáo, sau Trương Giác* khởi binh cũng dùng danh nghĩ là đạo sĩ.

Bởi vì người xưa thấy đạo sĩ hay ra vào núi, hành tung bí hiểm sau đó thì nghe nhầm đồn bậy, cho nên truyền thuyết về tiên nhân Sơn Đông có rất nhiều, vì thế phong trào tu tiên mới có thể càng lúc càng nhiều như vậy. Cái sơn động này có lẽ cũng là dùng như vậy.

Tôi hy vọng có thể từ một số hiểu biết của mình về truyền thuyết Sơn Đông trước kia mà tìm ra được một chút dấu vết. Sau khi tra cứu rất nhiều ghi chép của Sơn Đông, thì phát hiện quả có rất nhiều điểm phù hợp, nhưng mà cũng tối nghĩa vô cùng và rất khó xác minh được, phần lớn truyền thuyết vào thời đó chỉ có thể dựa vào suy đoán mà ra thôi.

Chú thích:

Mặc gia (tiếng Hán: 墨家, bính âm: Mòjiā) là một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại do các đệ tử của Mặc Tử phát triển. Nó phát triển cùng thời với Nho giáo, Đạo giáo, Pháp gia và là một trong bốn trường phái triết học chính trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc.

Trong thời đại đó, Mặc gia là trường phái đối lập với Nho giáo của Khổng Tử. Dưới thời nhà Tần, Pháp gia được lấy làm tư tưởng chính thức và các trường phái khác đều bị đàn áp. Từ nhà Hán trở về sau, các triều đại đều lấy Nho giáo làm tư tưởng chủ đạo, Mặc gia với tư cách là một trường phái riêng dần dần suy tàn.

Mặc Gia do Mặc Địch, hiệu xưng Mặc Tử sáng lập. Tư tưởng của Mặc Gia là kiêm ái. Chủ trương:" Thiên hạ giai bạch, duy ngã độc hắc, phi công mặc môn, kiêm ái bình sinh". Các đệ tử đời sau kế nhiệm Mặc Tử đều xưng là Cự Tử. Những đệ tử Mặc Gia muốn trở thành Cự Tử đều phải trải qua một cuộc sát hạch rất khắc nghiệt để thể hiện khả năng của bản thân. Một đệ tử muốn trở thành Cự Tử thì phải là người văn võ song toàn, có cả trí tuệ lẫn võ công cao cường. Trong thời Tần, Mặc Gia từng là gia tộc đứng đầu của Bách Gia Chư Tử, lập ra một lực lượng chống Tần vương.

Mặc Gia là một gia tộc chuyên về cơ quan thuật, là đối thủ của Công Thâu Gia. Tương truyền Yên Đan thái tử của nước Yên là một trong số các đời Cự Tử của Mặc Gia. Kinh Kha cũng là đệ tử của Mặc Gia.

Trương Giác (chữ Hán: 張角; 140?-184) là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng, hay còn gọi là quân Khăn Vàng vào cuối thời kỳ nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông thành lập và lãnh đạo đội quân khăn vàng (triều đình nhà Hán gọi là giặc Khăn Vàng) chống lại triều đình nhà Hán nhưng đã bị triều đình đàn áp.

Chương 16: Vớt thuyền

Vương Minh gửi bưu kiện tới, bên trong chính là đồ cổ đã được giám định và đấu giá vào năm 2003, thứ quỷ này năm nào cũng sẽ được gửi qua đây, đến bây giờ tôi cũng không biết là do ai gửi tới cho chúng tôi, dù sao thì trên phương diện nào đó chúng tôi cũng không phải người bình thường để mà gửi những món đồ này tới đùa giỡn. Xem tin tức, tháng trước người Mỹ đưa một con tàu lên sao Hỏa, rồi mấy lão già NASA chúc mừng nhau, tôi liền tự an ủi mình: Nghĩ lại ngay cả sao Hoả bọn họ cũng đã lên rồi, vậy thì tôi đi xuống đáy biển tìm người chung quy thì cũng không đến mức quá khó khăn như vậy. A ninh nói cho tôi biết sự việc, tôi cũng chưa nghe cho rõ ràng, tôi đối với công ty bọn họ không hề biết chút gì, tìm hiểu qua thì phát hiện công ty của bọn họ quả thực có tồn tại, biểu tượng là ba nhánh san hô mềm (kèm theo LOGO minh hoạ công ty của A Ninh), vậy có thiết kế của xí nghiệp. Kể ra thì công ty này cũng sẽ không quá nhỏ, ít nhất tôi cũng có thể tin được tính chuyên nghiệp của bọn họ. Một công ty có quy mô lớn như vậy mà được hoạt động ở nước ngoài cũng hiếm thấy, bởi vì thường thì hạng mục trục vớt biển đắm đều là những hạng mục thuộc sở hữu của nhà nước, trong đó còn có liên quan tới rất nhiều việc cơ mật và tài nguyên, cho nên chính phủ các nước ít có khả năng để cho một công ty tư nhân đi thực hiện một loại thương mại mang sắc thái huyền thoại như vậy. Điển hình là kế hoạch "A Ba Hoàn" để vớt thuyền của Nhật Bản chìm ở vùng biền trong nước, bởi vì trong lúc đó kể lại có đầu lâu của người Bắc Kinh, cho nên khi đó có vô số công ty nước ngoài đã đề nghị muốn hỗ trợ miễn phí, thế nhưng Trung Quốc đều từ chối hết.

Hiện tại cấp trên quốc tế vẫn còn tranh luận, bởi vì cái thuyền này chính là vào năm đó do người Mỹ chặn đánh chìm. Vào lúc đó tận mắt nhìn thấy bản báo cáo tình hình thì thấy rõ, chiếc thuyền lớn đó ở trong sương mù di chuyển rất nhanh, hình như là đang nóng lòng chạy tới điểm đến, rất nhiều ý kiến ngấm ngầm cho rằng trên chiếc thuyền đó ngoại trừ đầu lâu người Bắc Kinh ra, nhất định là còn có vận chuyển những thứ khác nữa, món đồ này có thể khiến cho người Mỹ phải huỷ bỏ hiệp định đánh chìm tàu dân sự của Nhật Bản.

Trong lịch sử có quá nhiều mờ mịt, cho nên không ai biết được di tích chìm ở dưới đáy biển kia, có bí mật gì, tất nhiên là muốn làm cho những bí mật này nằm dưới sự kiểm soát của họ, chung quy thì so với để lộ những thứ này cho người khác biết thì tự tìm lấy bảo vật vẫn thuận lợi hơn nhiều.

Song với tất cả các quốc gia khác, đối với hạng mục trục vớt này được xem xét vô cùng nghiêm ngặt. Nhưng mà thực tế thì kiểu kiểm soát này không có tác dụng, nói cho đúng là Hoàng đế ở trên núi cao, với những chuyện ở ngoài biển xa kia để mà kiểm soát chuyện trục vớt này vốn không có cách nào quản lý được, tôi nghe mấy người bạn hàng của tôi nói, bây giờ Tây Sa gần như đã biến thành chiến trường, thuyền của nước nào cũng có, liều lĩnh tiến vào, phòng thủ trên biển căn bản không đuôi kịp. Hơn nữa cái này lợi ích quá lớn, chỉ cần một thuyền đi ra ngoài khơi lúc trở về thì liền có được hơn 1000 vạn cho dù có bị bắt được thì cũng chỉ bị xử khoảng mười năm, chỉ những kẻ đầu óc có vấn đề mới đi buôn lậu thuốc phiện.

Tôi nghe như vậy thì trong bụng có nhột một chút, vài ngày mà kiếm được từ hai đến ba mươi vạn, vậy thì ngay cả Lý Gia Thành* cũng phải cúi đầu. Những nguy hiểm này vẫn còn thấp, so với thu tiền săn con đồi mồi còn tốt hơn nhiều, nhận săn con đồi mồi thì sẽ kiếm 20 vạn nhưng đều là những nguy hiểm có thể rơi đầu.

Lý Gia Thành*, GBM, KBE, JP (sinh ngày 29 tháng 7 năm 1928 tại Triều Châu, Trung Quốc) là tỉ phú, nhà đầu tư, nhà tư bản công nghiệp, nhà từ thiện người Hồng Kông

Trong nước ngoài nước có câu chuyện nổi tiếng về chuyện vớt thuyền này: A ba hoàn, thuyền người Nhật Bản chở dầu, vận chuyển 40 tấn hoàng kim, 12 tấn bạc, 40 rương châu báu và trong đó có một số lượng lớn là văn vật của Trung Quốc bị người Nhật Bổn cướp mất, 3000 tấn nén thiếc, 3000 tấn cao su cùng với mấy nghìn tấn gạo, cuối cùng vào ngày 28 tháng 3 năm 1945 bị tàu ngầm của Mỹ ở hải phận Phúc Kiến đánh chìm, sau đó bắt đầu từ năm 1977~80 mới trục vớt, những vật phẩm được vớt lên lúc đó, tổng giá trị đã đạt tới 50 ngàn đôla ( 50 ngàn đôla vào năm 1980! ! ).

Ca Đức Mã Nhỉ Sâm, thuyền buôn của Trung Quốc, xuất phát từ cảng Quảng Châu chạy về phía thủ đô Am-xtéc-đam, Hà Lan. Vào năm 1752, bị chìm ở hải phận Hương Cảng, đến năm 1986, đạo tặc bắt đầu tấn công đáy biển, hả hê vớt triệt để 23. 9 vạn món đồ sứ Thanh Hoa trên thuyền, 125 khối và mỗi khối nặng đến 45kg ném vàng. Giá trị đến hơn 20 ngàn đôla.

Thái Tinh Hào, thuyền buôn Trung Quốc, được phát hiện ở Hải Nam Trung Quốc, cũng giống như vậy đi vào trong vớt triệt để, từ trên thuyền vớt được hơn 100 vạn món đồ sứ, trong đó có 60 ngàn món bởi vì chất lượng khá bình thường và không có cách nào vận chuyển đi được nên bị hắn đập nát. Phần còn lại đang ở Đức trị giá hơn 30 ngàn đôla.

Con tàu hiệu số "A Thác Tạp Phu Nhân", thuyền của thực dân Tây Ban Nha, năm 1622 bị chìm ở hải phận của La Ha-ba-na, đến năm 1985 được người tìm bảo vật Phí Tuyết phát hiện, trên hết trong đó vớt được 8 tấn hoàng kim, 500 kg bảo thạch. Còn tất cả văn vật trôi nổi trên mặt nước có giá trị đến 400 triệu đôla, song, chính vì thế mà Phí Tuyết đã vứt bỏ tất cả các hoạt động của công ty, lúc đó điều đáng để theo đuổi duy nhất trong đời hắn chính là tìm bảo vật, tôi nghĩ kiểu tâm tính này của hắn rất giống với Tam thúc bây giờ.

Bởi vì thuyền chở hàng rất lớn, cho nên có hơn mười cách giải thích mộ thuyền khác nhau, một lượng lớn thuyền buôn chuyên vận chuyển đồ sứ gần như là một con số thiên văn, mà trong những năm tháng dài đằng đẵng, số lượng thuyền buôn tơ lụa chìm trên biển còn vượt xa sức tưởng tượng của mọi người, những ... kho tàng khổng lồ này còn rất nhiều chưa được mở ra.

Chỉ có điều, công ty của A Ninh, tôi thấy ở trên internet chỉ có một trang bìa đơn giản, không hề có nhiều tin tức, cái công ty này hình như cũng không có một ít hạng mục cần phải kiểu cách quá nhiều, tôi đối với công ty đồ cổ nước ngoài này không có biết nhiều, chỉ có thể tự nhắc nhở mình hành động cẩn thận.

Chương 18: Cảng Thanh Lan

Tôi đã bắt đầu xuất phát từ cảng Thanh Lan, trên thuyền một thứ để chơi giải trí cũng không có, ngoại trừ ngắm biển thì chỉ có nghe radio, ở đây có thể thu được sóng radio đài Đài Loan, Đại Mã, và đài Việt, nhưng mà chỉ riêng sóng radio Trung Quốc lại không thu được, tôi cảm thấy vô cùng kì lạ. Có thể nguyên nhân là do sóng Đài Loan, sóng của Đài Loan mạnh hơn nên đã lấn át mấy tần số không cố định khác.

Tôi suy nghĩ lại chuyện cô gái kia nói với tôi ngày hôm qua, vẫn có cảm giác phía sau sự việc này vẫn có chút không bình thường, tôi tự nói với mình rằng sẽ có nhiều cơ hội để suy xét lại. Thế nhưng không biết vì sao tôi không có cách nào có thể tập trung đầu óc được một chút nào.

Có lẽ là do thuyền lắc lư quá mạnh, bởi vì tôi không hay đi thuyền, có thể không bị choáng váng mà đi vào trong khoang thuyền cũng đã khiến cho mấy người người đánh cá nhìn với cặp mắt khác xưa rồi.

Chương 19: Tư liệu sao chép Đảo Vĩnh Hưng

Đảo Vĩnh Hưng còn có tên là "Lâm đảo", nguyên nhân gọi như vậy là vì rừng cây trên đảo nổi tiếng rất sâu và dày. Tên của đảo được gọi là Vĩnh Hưng từ ngày 29 tháng 11 năm 1946 là tên của một quân hạm được tiếp nhận vào Tây Sa.

Đảo Vĩnh Hưng nằm ở vào vĩ độ Bắc 16 độ 50 phút, và LI2 độ 20 phút độ kinh Đông. Đảo dài chừng l850 m, bề rộng từ Nam đến Bắc chừng ll60 m, diện tích ước chừng khoảng: 2, 1 ki-lô-mét vuông, chính là đảo nhỏ nhất trong quần đảo Tây Sa, cũng là một cái đảo lớn nhất trong rất nhiều đảo nhỏ ở Nam Hải. Địa hình đảo Vĩnh Hưng bằng phẳng, chiều cao trung bình khoảng 5 m, phía Tây Nam đảo dài chừng 870 m, bề rộng chừng 100 m, đê cát cao nhất là 8,3 m. Cũng vì bốn phía có đê cát bao quanh, cho nên ở giữa hơi thấp, chính là được hình thành sau khi hồ nước cạn. Ở đây có thể đào giếng nước rất thuận tiện, nhưng mà vì nước bị nhiễm phân bón, nên nước giếng không thể dùng để nấu ăn, nhưng lượng nước ngọt lại rất dồi dào, có thể dùng để rửa.

Đảo Vĩnh Hưng tuy nhỏ nhưng diện tích lớn, có thảm thực vật tươi tốt, nguồn nước ngọt rất dồi dào, vùng đất thấp ở trung tâm không có nước đọng, mà xung quanh có đê cát to lớn, cho nên đảo Vĩnh Hưng là một đảo có điều kiện môi trường tốt nhất ở Hải Nam. Đảo Vĩnh Hưng lại nằm ở giữa quần đảo Tây Sa. Bởi vậy, đảo Vĩnh Hưng chính là thủ phủ phía Tây Nam của quần đảo Sa, vì vậy chính quyền ở Nam Hải đã đưa ra giấy thông hành (tương đương với cấp huyện) phải có nếu dừng lại trên đảo.

Đảo Vĩnh Hưng chính là đầu mối giao thông trọng yếu phía Tây Nam của quần đảo Sa, có xây dựng sân bay hiện đại, có thể chứa được máy bay Boeing 737, bến tàu có thể cho tàu có trọng tải 5000 tấn cập bến được, các cơ sở hạ tầng và các cơ sở tiếp đón khác tương đối đầy đủ.

Chương 20: Bản đồ cổ mộ dưới đáy biển

Hải táng chính là một cách thức mai táng của một số dân tộc vùng duyên hải, chỉ là cùng với cách mai táng ngoài biển xa của người trong thủ đô rất khác nhau, cổ mộ dưới đáy biển này, chỉ là một cách thức mai táng ở dưới biển của người trên đất liền biến tướng lại. Thực ra chỉ là đem cổ mộ để xuống đáy biển thôi.

Trong lịch sử, kể lại người sử dụng cách an táng giấu cổ mộ xuống dưới đáy biển có không ít, khá nổi tiếng chính là thuỷ mộ của Trần Phi Cẩm Khê, một ngôi mộ ba vạn bạc chìm dưới đáy nước, khiến cho tôi cảm thấy rất hứng thú theo đuổi, nhưng mà thật ra là Tào Tháo, có bảy mươi hai ngôi mộ bị nghi ngờ là mộ của ông ta, thì có nghe kể lại là bị phát hiện ở Hứa Xương giữa sông Thanh Dị.

Mấy người kể lại, có thể người thứ hai làm theo người trước, người sau, thì chỉ có ở Bồ Tùng Linh trong liêu trai chí dị mới có thể nhìn trộm được một chút dấu vết. Có điều trong lúc đọc, tôi nghĩ như vậy cũng có phần căn cứ, bởi vì khi họ nói vậy, tôi nghe không giống như là lúc đó đang có người bịa đặt ra chuyện này.

Mộ Tào Tháo trong Liêu trai chí dị, nguyên văn 《 Tào Tháo mộ 》 như sau:

Nước sông ngoài Hứa thành nước chảy cuồn cuộn, nước gần vách đá sâu âm u. Vào giữa hè thì, có người đang tắm sông, bỗng nhiên gặp phải đao phủ, rồi bị chém đứt người nửa thi thể trồi lên, sau đó cũng có một người bị giống như vậy. Sự tình vô cùng đáng sợ và quái gỡ. Quan huyện nghe thấy vậy, liền cảm thấy nghi hoặc sau đó quyết định chặn thượng lưu sông lại, để cho nước sông cạn hết. Thấy bên dưới sườn dốc có một cái động sâu, ở trung tâm có đặt lên một cái bánh xoay, trên bánh xoay có gắn lưỡi đao sắc bén như sương. Bánh xoay đánh vào, ở giữa có một cái bia nhỏ, chữ trên bia đều là chữ Triện Hán. Nhìn một cách tỉ mỉ, thì ra lại là mộ của Tào Mạnh Đức. Khai quan tán cốt, tất cả kim bảo tuẫn táng đều bị lấy đi.

Dị Sử Thị viết: "Sau khi thơ ca nói người có tài có đức: ' Cố gắng đào lên bảy mươi hai nghi mộ, nhất định phải có một mộ táng có quân thi.' Lẽ nào người đó biết rốt cuộc cái nào là thực sự trong bảy mươi hai cái mộ đó ư? Gian trá giấu diếm cũng vậy thôi! Thế mà hơn ngàn năm hủ cốt vẫn khó giữ được, đánh lừa lộn xộn thì có ích lợi gì? Than ôi, thông minh cơ trí đó giấu diếm lừa gạt đó cũng vậy mà thôi !"

Phiên dịch được tới đây, rất có tính hư cấu, đại khái là có người bơi ở gần mép dốc đá, đột nhiên người đó giống như bị đao chém, cắt thành hai đoạn, thi thể nổi mặt nước, sau đó lại có người bị như vậy, bọn họ cảm giác ở dưới đáy sông có gì đó kỳ lạ, liền ngăn nước kiểm tra, thấy bên dưới bờ sông gần vách núi, có một cái động sâu nằm ẩn dưới nước, trước cửa động có một cái bánh xoay cắm đầy đao, bên trong chính là mộ Tào Tháo vân vân.

Tôi đã thấy rất nhiều cơ quan kỳ lạ ở trong cổ mộ, biết rõ một cơ quan như vậy đối với người xưa hoàn toàn không khó, cái khó chính là khiến cho bánh xoay đó di chuyển, có lẽ đây chính là nguyên nhân cổ mộ được xây dưới nước, muốn trong thời gian dài vẫn có thể sử dụng được cơ quan này, như vậy nhất định phải có lực làm cho nó di chuyển liên tục cả ngàn năm, vì vậy nước sông chính là lựa chọn duy nhất, nhưng mà Uông Tàng Hải nghĩ sâu xa hơn, ông ta sử dụng hải lưu và thuỷ triều của đáy biển.

Chỉ là, truyền thuyết này cũng có chút kẽ hở, làm cho tôi cũng rất hoài nghi, là vì cái gì có thể làm cho lưỡi đao trải qua cả ngàn năm mà vẫn sắt bén như ban đầu được, dưới nước là điều kiện rất không thích hợp để bảo quản kim loại, trừ phi, những ... bộ phận này đều là hoàng kim. Vậy thì cũng không phải là không có khả năng.

Còn một điểm sơ hở khác nữa là, đương nhiên đem một cổ mộ nào đó đi vào hang động chính là dùng phương pháp phong bế, thì nếu vậy lắp đặt một cơ quan khác thì sẽ hợp lý hơn, thử nghĩ xem nếu như lúc đó người người tắm sông không bị gì, vậy thì ngôi mộ này đã không bị người ta phát hiện, trái lại ngươi lắp đặt một bánh xoay, luôn luôn sẽ tình cờ đã thương người khác suốt ngày, đến lúc đó tất nhiên sẽ có người đi xuống tìm hiểu rốt cuộc là vì cái gì, người chế tạo được cơ quan này tay nghề phải rất giỏi hẳn là sẽ nghĩ tới điểm này, vì sao còn có thể phạm loại sai lầm này được.

Tôi cảm thấy e rằng trong đó có ẩn tình khác, vùng Trung Nguyên phát triển này đây đất màu bị trôi vi đại giới, hơn nữa thời đại củaTào Tháo sông Thanh Dị chắc rằng lượng nước sẽ nhiều hơn, cổ mộ khẳng định ở vị trí rất sâu dưới nước, rồi đến thời đại Bồ Tùng Linh, mực nước giảm xuống rất nhiều, mới có thể khiến cho cổ mộ dưới đáy sông bị người khác chui vào, những ... xác chết trôi này chỉ sợ là người cùng nghề đi xuống thăm dò mộ, bị cơ quan giết chết, hoặc là do người nổi lòng sát tâm muốn đoạt của, đến cuối cùng mới có thể làm cho cổ mộ bị phát hiện.

Nói thật đi, cái tài liệu này gợi ý cho tôi rất nhiều, tôi luôn luôn suy nghĩ làm thế nào mà Uông Tàng Hải có thể xây dựng được, bởi vì ở trong môi trường nước, vào ngay lúc đó muốn dùng sức người sức của mà hạ xuống đáy, ngoại trừ cho chìm thuyền mộ, những phương pháp khác gần như không thể nào thực hiện được. Thế nhưng những tài liệu này khiến cho tôi khẽ động một chút.

Có phải là có khả năng là, có thể nào là Uông Tàng Hải ở trong khu vực đập, tạo thành một vòng xoay, để đẩy nước biển ra, làm thành một thứ giống như ruộng cạn, rồi đào một cái hố thật lớn ở trong đó, mới lái thuyền mộ vào trong, đến lần thứ hai nước biển rút ra, có thể làm cho mộ thuyền từ từ hạ xuống theo mực nước, chậm rãi chìm vào trong hầm, cuối cùng có thể bơm nước biển trở về.

Từ bản vẽ thì thấy, cái huyệt mộ dưới đáy biển này vô cùng phức tạp, nếu như không phải là dùng phương pháp này, như vậy quá trình thì phải nó chìm vào đáy biển chính xác là đã sử dụng đến vi phân và tích phân, vậy thì có chút không có khả năng. Tôi nghĩ, nếu người xưa có thể chặn được một con sông, thì vì sao lại không thể tạo thành một cái vòng xoay ở dưới đáy biển được chứ?

Quay về tra sách giáo khoa thì phát hiện ra, ở đây có một vấn đề, hay là người xưa không xử lý được vấn đề thấm nước, cát ở đáy biển thấm nước quá tốt, loại xây dựng đập nước này so với cho chìm thuyền mộ sử dụng sức người sức của nhiều hơn gấp mấy lần, tôi tới hỏi giáo sư dạy tôi trước đây, ông ấy suy nghĩ cẩn thận một chút, mấu chốt của cái thuyền mộ ở đây chính là những cái neo đá khổng lồ, thạch neo này phân bố bốn phía trong một hải phận rộng, nhất định là đang làm kết cấu giống như là cái kéo khoá bây giờ vậy, vì vậy toàn bộ quá trình thuyền mộ chìm vào đáy biển, vô số cái thạch neo đưa đến tác dụng điều chỉnh độ cân bằng.

Chương 21: Bản vẽ tưởng tượng của Lâu thuyền

Sau khi cùng Bàn Tử thảo luận kết cấu của thuyền mộ. Cái mộ thuyền này thật sự là lớn vô cùng, chúng tôi vẽ rất nhiều sơ đồ phác thảo, đều cảm giác ở trên cấu tạo tổng thể có vấn đề. Một con thuyền lớn như vậy, muốn vận chuyển nổi lên thực sự là không có quá nhiều khả năng. Vì thế, chúng tôi cảm giác chiếc thuyền mộ này làm một phần mộ to lớn như vậy có tác dụng ngược lại so với làm một chiếc thuyền chiến quan trọng hơn nhiều lắm.

Thuyền gỗ to lớn như vậy, bản thân vấn đề lớn nhất là long cốt, trên thế giới không cây cối nào lớn như vậy có thể làm ngoại trừ long cốt, như vậy long cốt của nó phải là có vật liệu bằng gỗ cắt kim loại mà tạo thành, như vậy cái kết cấu này rất thú vị. Chiếc thuyền này có thật lớn như vậy không, hoặc là so với cái này có hơi nhỏ một chút, có lẽ hoàn toàn không phải là hình dạng này, cần phải dùng tới sonar (dùng sóng siêu âm) để dò xét đáy biển.

Tôi hỏi mấy người kĩ sư thiết kế thuyền, bọn họ đều nghĩ tôi nói đã quá khoa trương rồi, song cũng có một người nói cho tôi biết, không phải là hoàn toàn không có khả năng, bởi vì ... khả năng này chỉ là nhìn vẻ bề ngoài thì thấy đó là một chiếc thuyền, nhưng thật ra là vài chiếc chiến thuyền hợp lại với nhau, mà bởi vì ... thuyền này thật ra cũng không phải là không sử dụng, nó chỉ cần trong khi gió êm sóng lặng chạy đến phía trên địa điểm hải táng là được rồi. Nói có chút khó nghe hơn lại, đây chính là một phao lớn.

Tôi có khi không nhịn nổi mà tưởng tuọng xa vời, cái này đúng là hàng không mẫu hạm thời cổ đại mà, rốt cuộc là người xưa đã dốc hết bao nhiêu nỗ lực và kết tinh của họ, nếu như loại kỹ thuật này không phải là kỹ thuật chuyên dụng của hoàng gia thì có lẽ bí mật ở đây nằm trong tay của một vài người thợ công xuất chúng nắm giữ, có thế truyền đến trong nhân gian, như vậy Trung Quốc có thể sẽ trở thành một đế quốc vượt biển hiện đại nhất. Vào lúc ấy có quân hạm thuyền lâu như vậy, thuyền hoả pháo ở ven bờ hỗ trợ, bên trong binh sĩ lũ lượt đi ra, ai có thể ngăn cản được?

Đáng tiếc, tàu chiến to lớn của Đại Minh, cuối cùng lại trở thành thuyền mộ cho con người. Đây không biết là một sự mỉa mai, hay là một sư xót xa nữa.

Chương 22: Cây ước nguyện (Sơn Hải Kinh*)

Người xưa đối với thần thụ luôn luôn tôn sùng, từ trong "Sơn hải kinh" thì có thể thấy được. Gần như ở mỗi phần trong "Sơn hải kinh" luôn có thần thụ "Nhược mộc", "Phù tang" được ghi chép lại, chỉ có điều Thanh Đồng thần thụ, cho đến bây giờ mới được ghi chép lại rõ ràng, chỉ có tam tinh đôi.

Chú thích:

Sơn hải kinh*: là cổ tịch thời Tiên Tần của Trung Quốc, trong đó chủ yếu mô tả các thần thoại, địa lý, động vật, thực vật, khoáng vật, vu thuật, tông giáo, cổ sử, y dược, tập tục, dân tộc thời kỳ cổ đại. Sơn Hải Kinh nguyên bổn có hình vẽ mô tả hẳn hoi, gọi là "Sơn Hải Đồ Kinh", nhưng bản này đến đời Ngụy Tấn thì thất truyền. Có học giả cho rằng, Sơn Hải Kinh không chỉ đơn thuần là quyển sách ghi lại truyện thần thoại, mà là thứ sách địa lý thời cổ đại, bao quát nhiều loài chim thú khắp núi sông vùng Hoa Hạ lẫn các lãnh thổ hải ngoại. Tác giả và thời gian hoàn thành Sơn Hải Kinh chưa được xác định, trước thì cho rằng do Bá Ích và Đại Vũ làm, nhưng hiện giờ các học giả Trung Quốc cho rằng thời gian để hoàn thành sách này trải qua nhiều kỳ, làm bỡi nhiều tác giả khác nhau, niên đại vào khoảng từ thời Chiến Quốc kéo dài cho đến đầu thời Hán. Sách có thể là do nhiều người ở nước Sở, Sơn Đông, Ba Thục cùng người từ nhiều địa phương khác, đến thời Hán thì được tập hợp lại để làm sách dạy học.

Sơn Hải Kinh chuyển tải nhiều thần thoại cố sự mang màu sắc thần bí với hàng loạt quái thú kỳ dị. Trong sách có rất nhiều chuyện được viết từ lời truyền khẩu, tập hợp thành nhiều bản khác nhau. Bản sách được cho là sớm nhất được hai cha con Lưu Hướng, Lưu Hâm soạn thành. Thời Tấn có Quách Phác chú thích và khảo chứng Sơn Hải Kinh. Thời Minh có Vương Sùng Khánh làm "Sơn Hải Kinh thích nghĩa", Dương Thận làm "Sơn Hải Kinh bổ chú", Ngô Nhâm Thần làm "Sơn Hải Kinh nghiễm chú". Thời Thanh, Ngô Thừa CHí soạn "Sơn Hải Kinh địa lý kim thích", Tất Nguyên làm "Sơn Hải Kinh Tân Giáo Chánh", Hác Ý soạn "Sơn Hải Kinh tiên sơ". Thời Dân quốc có lưu hành bản "Sơn Hải Kinh giáo chú" của Viên Kha rất đáng quan tâm.

Toàn bộ Sơn Hải Kinh có 18 quyển, trong đó Sơn Kinh có 5 quyển, Hải Kinh có 8 quyển, "Đại hoang kinh" có 4 quyển, "Hải nội kinh" một quyển, cộng lại khoảng 31.000 chữ. Nó mô tả trọn 100 quốc gia (nhỏ, bên trong Trung Quốc thời xưa), 550 núi, 300 thủy đạo, cùng các phong cảnh địa lý, phong thổ, sản vật của các nước. Trong Sơn Kinh còn có một bộ phận mô tả về vu sư, phương sĩ, và từ quan - những lớp người chuyên cầu đảo phong thuật rất thịnh hài thời xưa. Kinh được miêu tả theo lối truyền kỳ, nhưng có có chút ít giá trị khoa học, rất đáng tham khảo cho người nghiên cứu về sử học, văn học, và ... dịch thuật. Trong Sơn Kinh có bảo tồn nhiều nghi thức tế lễ thần thánh, có thể làm bản đối chiếu và nghiên cứu "Chu lễ" thời xưa, ví dụ như các bản mối được phát hiện thêm như "Bao sơn sở giản", "Vọng sơn sở giản", "Tân Thái sở giản". Truyền thuyết về Nữ Oa thời cổ đại cũng là từ Sơn Hải Kinh mà ra. Các kiệt tác trứ danh khác bao gồm: "Khoa phụ đuổi theo mặt trời", "Nữ oa vá trời", "Hậu nghệ bắn rụng chính mặt trời", "Hoàng đế đại chiến Xi Vưu", "Thần Cộng Công giận quá đập đầu vào Chu sơn dẫn đến cơn Đại hồng Thủy", "Cổn (Cha của vua Hạ Vũ/Đại Vũ) trộm Tức nhưỡng trị thủy thành công", "Thiên đế lấy lại Tức nhưỡng, giết Cổn, cho đến khi vua Đại Vũ trị thủy thành công.

Ngoài ra, Sơn Hải Kinh còn ghi lại những sự kiện kỳ quái mà hầu hết cho đến nay vẫn còn đang được tranh luận. Sách này án theo đất đai ghi lại sự kiện, chứ không ghi theo thời gian. Trong đó, hầu hết sự vật đều phát sinh từ hướng nam, sau đó mới dần lên hướng Tây, hướng Bắc, rồi tới trung bộ (Cửu Châu) của đại lục. Cửu Châu được vây quang bỡi Đông Hải, Tây Hải, Nam Hải, Bắc Hải. Việc thuận theo hướng Nam - Tây - Bắc - Đông này rất khác với thuận hướng Đông Nam Tây Bắc sau này, so với các thư tịch ghi lại chuyện các đại đế thời cổ thường ngồi xoay mặt về hướng nam, rồi quan niệm "thiên nam địa bắc" ... nhất định có liên quan. Từ thời cổ đại, Trung Quốc cứ nhất mực lấy Sơn Hải Kinh làm sách tham khảo cho các đại sử gia, ngay cả như Tư Mã Thiên cũng nhận định trong Sử Ký của mình: "Chí Vũ Bổn kỷ, Sơn Hải Kinh sở hữu quái vật, dư bất cảm ngôn chi dã"

Sơn Hải Kinh có 18 quyển, tạm thời phân ra 5 quyển phần Sơn kinh và 13 quyển Hải kinh:

Sơn Kinh

Quyển 1: Nam Sơn Kinh: Bao gồm Thước Sơn, Chiêu Diêu Sơn, Đường Đình Sơn, Viên Dực Sơn, Nữu Dương Sơn, Để Sơn, Đản Viên Sơn, Cơ Sơn, Thanh Khâu Sơn

Quyển 2: Tây Sơn Kinh

Quyển 3: Bắc Sơn Kinh

Quyển 4: Đông Sơn Kinh

Quyển 5: Trung Sơn Kinh

Hải Kinh

Quyển 1: Hải Ngoại Nam Kinh

Quyển 2: Hải Ngoại Tây Kinh

Quyển 3: Hải Ngoại Bắc Kinh

Quyển 4: Hải Ngoại Đông Kinh

Quyển 5: Hải Nội Nam Kinh

Quyển 6: Hải Nội Tây Kinh

Quyển 7: Hải Nội Bắc Kinh

Quyển 8: Hải Nội Đông Kinh

Quyển 9: Đại Hoang Đông Kinh

Quyển 10: Đại Hoang Nam Kinh

Quyển 11: Đại Hoang Tây Kinh, bao gồm: Bất Chu Sơn, Hàn Thử Tuyền, Thấp Sơn, Mạc Sơn, Vũ Công và Công Quốc Sơn, Thục Sĩ Quốc, Nữ Oa Chi Tràng, Thạch Di, Cuồng Điểu, Bạch Dân Quốc, Trường Hĩnh Quốc, Tây Chu Quốc, Thúc Quân, Xích Quốc, Song Sơn, Phương Sơn, Quỹ Cách Tùng, Tiên Dân Quốc, Bắc Địch Quốc, Mang Sơn, Quế Sơn, Dao Sơn, Thái Tử Trường Cầm, Hoàng Điểu, Loan Điểu, Phượng Điểu, Xa Tự Ngọc Môn Sơn, Linh Sơn, Thập Vu, Tây Vương Mẫu Sơn, Hải Sơn, Hác Sơn, Ốc Quốc, Thanh Điểu, Long Sơn, Tam Náo, Nữ Sửu Thi, Nữ Tử Quốc, Đào Sơn, Kiền Thổ Sơn, Trượng Phu Quốc, Yểm Châu Sơn, Minh Ô, Hiên Viên Quốc, Yểm Tư, Nhật Nguyệt Sơn (Ngô Cơ Thiên Môn Sơn), Hư, Thiên Ngu, Thường Hi, Huyền Đan Sơn, Hoàng Ngao, Mạnh Dực Công, Chuyên Húc Trì, Ao Ngao Cự Sơn, Bình Bồng, Vu Sơn, Hác Sơn, Kim Môn Sơn, Hoàng Cơ Thi, Bỉ Dực Điểu, Bạch Điểu, Thiên Khuyển, Côn Lôn Sơn, Côn Lôn Thần, Nhược Thủy, Viêm Hỏa Sơn, Tây Vương Mẫu, Thường Dương Sơn, Hàn Hoang Quốc, Nữ Tế, Thọ Ma Quốc, Hạ Canh Chi Thi, Ngô Hồi, Cái Sơn Quốc, Chu Mộc, Nhất Tí Dân, Đại Hoang Sơn, Tam Diện Nhất Tí Nhân, Hạ Khải, Hỗ Nhân Quốc, Linh Kiết, Ngư Phụ, Đại Vu Sơn, Kim Sơn...

Quyển 12: Đại Hoang Bắc Kinh O

Quyển 13: Hải Nội Kinh

Còn nghe thiên hạ đồn rằng Sơn Hải Kinh giống như một tuyển tập những truyện ly kỳ mà tác giả trên đường đi đã viết lại, giống Liêu trai chí dị thêm kiến thức địa lý

Chương 23: Nhị Đạo Bạch Hà

Lúc này tôi đang ngồi trên xe lửa đi về Nhị Đạo Bạch Hà, bên ngoài xe vun vút chạy qua cánh đồng cao lương, mọi người trong toa đã ngủ hết, dường như chỉ còn tôi vẫn đang trằn trọc.

Vào khoảng này rất lâu về trước, tôi đã từng đi qua núi Trường Bạch một lần, lúc đó tôi vẫn còn nhỏ, nên hẳn là tôi hoàn toàn không hề nghĩ rằng mình sẽ mang theo tâm trạng này, khi lại một lần nữa đi tới đây. Cũng thật không ngờ tới có một ngày, trước khi đi ngủ tôi phải viết cái gì đó để có thể trấn tĩnh bản thân được.

Nhìn đồng ruộng hai bên đã được thu hoạch cả, cùng với tầng tuyết đọng lại vẫn còn chưa tan hết, cảnh tượng này làm cho tôi không khỏi nhớ tới cảm giác chuyến đi lần trước tới núi Trường Bạch.

Cuộc hành trình đến núi Trường Bạch năm đó, nghĩ lại, chính mình cũng cảm thấy có một chút quái dị. Tôi nhớ mang máng lúc đó trong nhà hình như có xảy ra tranh chấp gì đó, bố tôi và ông nội cãi nhau một trận ẫm ĩ.

Cha tôi là người tính tình ôn hòa, có lẽ nói đúng hơn là ông rất giỏi chịu đựng, cha và ông nội chưa từng xảy ra mâu thuẫn gì, cho nên lần cãi nhau đó làm cho tôi có cảm giác chuyện này rất không bình thường. Thế nhưng năm đó tôi thực sự còn quá nhỏ, nội dung cuộc cãi vã của họ một chút ấn tượng tôi cũng không có.

Sau đó, cha tôi đột nhiên quyết định đi đến núi Trường Bạch du lịch, năm đó là lần đầu tôi thấy được hình dạng thực sự của núi tuyết. Đó là những thung lũng rộng lớn được bao phủ bởi tuyền một màu trắng nhìn không khác gì tranh vẽ.

Bây giờ ngẫm lại, cảm thấy có chút kinh ngạc, vì sao lúc đó tôi đối với cảnh tuyết trắng lại có ấn tượng sâu sắc như vậy, cho tới hiện tại chỉ cần nhìn liếc mắt là có thể đem nó liên hệ tới tranh ảnh rồi? Kí ức của tôi về con đường đó cũng rất mơ hồ chỉ còn nhớ sơ sơ mà thôi, nhưng mà sao chỉ duy nhất ngọn núi tuyết kia tôi lại có thể nhỡ rõ như thế chứ?

Có lẽ là núi ở chỗ này có đặc thù riêng nào đó, hay là do một thứ gì khác?

Tôi thực sự nghĩ không ra, cũng không muốn nghĩ ngợi nhiều.

Lúc sáng sớm, tôi và Bàn Tử trò chuyện về vấn đề liên quan tới mấy cô gái và các món đồ bồi táng.

Tôi vẫn luôn cho rằng Bàn Tử là một người "thâm tàng bất lộ", thực tế chứng tỏ suy đoán của tôi không hề sai, cùng bàn bạc với anh ta sẽ phát hiện ngay có nhiều chuyện không phải là anh ấy không hiểu, mà chính ra là do lối tư duy dứt khoát của anh.

Người tôi quen biết không ít, đủ mọi hạng người, loại người nào cũng có và tôi biết có một hạng người mà chân lý sống của họ luôn luôn đơn giản và thiết thực nhất. Bàn Tử chắc chắn chính là một người như thế. Nếu như ngươi có tâm tư đi tìm tới anh ta, anh ấy có thể nói thẳng ra mà ngươi không có cách nào phản bác lại được. Tất nhiên tôi lại không biết nguyên nhân của những cái này có phải là do sự thông minh hay là bản năng của anh ta như thế. Có thể giải thích rằng đạo lý của kẻ ngu ngốc và thánh nhân, về cơ bản là giống nhau, chỉ khác nhau là với đạo lý của thánh nhân dùng để làm lợi cho người khác, mà người ngu ngốc thì chỉ làm vì lợi của bản thân mình.

Đề tài mà tôi và anh ta nói với nhau, chủ yếu là về bảo vệ văn vật, trước đây tôi vẫn rất buồn bực, vì sao đội khảo cổ luôn luôn chạy theo sau lưng thổ phu tử, phần lớn các ngôi mộ đều mang tính khai quật thụ động. Cho dù có bị trộm mộ phát hiện hay không, hầu hết những người đầu tiên phát hiện cổ mộ đều là nông dân hoặc là công nhân công trường, đều là vì vô tình mà phát hiện ra cổ mộ.

Cái này nhắc tới có chút mơ hồ, có vẻ là các đội khảo cổ không có một chút kỹ năng nào giống như của thổ phu tử.

Vấn đề này không hề có đáp án cố định, Phan Tử nói đó là do có một số kỹ năng cơ bản nhưng lại không được dạy ở đại học. Các trường đó đâu có khả năng mời cả một nhóm đổ đấu tới làm giáo sư được, học sinh cũng chỉ học một số kỹ xảo tiêu chuẩn quan trọng trong khai quật, đâu biết tới ngửi đất là gì, cũng đâu xác định được vị trí một cách chuyên nghiệp. Vì là những thứ này muốn học đều là phải được trải qua quá trình thực tế quan sát cẩn thận từng bước một, mà làm gì có nhiều cổ mộ như vậy để ngươi đem đi làm đồ dạy học chứ?

Bàn Tử lại lắc đầu, thở dài nói tất nhiên không phải là vì nguyên nhân này.

Hiện tại những tình huống như này đều chạy theo xu hướng khảo cổ tương đối bình thường, mà cũng không thấy có chuyển biến gì xấu. Ở trong nghề khảo cổ phải duy trì được cái cảm giác bí ẩn, bằng không, nếu như dựa vào những cách như thử đất tìm huyệt, tầm long điểm huyệt hay tất cả kỹ xảo đều viết hết vào trong sách giáo khoa, vậy thì chả khác nào đi bố cáo với thiên hạ. Tới lúc đó thì không quá hai năm, Trung Quốc sẽ chẳng còn lấy bất kì một ngôi mộ nào có thể đào được nữa.

Rất nhiều thứ kỳ thực cũng không có cửa mà tiếp thu, ngươi nói là muốn đổ một cái đấu thì cần gì phải tiếp thu hay không, ngươi có thể lăn lộn ở chỗ quái cũng được, chỉ cần ngươi đủ hung ác và phải có lá gan đủ lớn. Đốt nhà phóng hỏa giết người cướp của, có cửa hay không là do người thiết trí ra, dạy cho ngươi bao nhiêu mới xem là đủ được chứ, kia toàn là những thứ đã sắp xếp sẵn rồi. Số học, vật lý học ngươi theo học thì dễ, còn như tạo phản bạo động không lẽ cũng phải dạy ngươi sao?

Tôi nghĩ Bàn Tử nói chưa hẳn là đúng hoàn toàn, nhưng mà đúng là rất có đạo lý.

Con người đúng là động vật có tính hai mặt rất mạnh, dưới áp lực xã hội hiện nay, với một lượng hàng hoá giá trị có thể khiến cho người ta thu về được hơn trăm vạn tiền phi pháp, vậy thì ý nghĩa của nhà ở, ngôn ngữ, máy móc đã bị thủ tiêu hết rồi. Giống như là liều lĩnh để muỗi đốt một phát và cái giá phải trả là sự lên án của đạo đức, thì sẽ có bao nhiêu người sẵn sàng chống lại được cám dỗ đó, cũng không biết sẽ còn thêm bao nhiêu ẩn số nữa.

Đây cũng là lí do vì sao người ta luôn luôn chống mắt nhìn quốc bảo bị hao mòn dần mà căm thù đến xương tuỷ, nhưng cho dù có căm thù đến thế nào thì quốc bảo cũng không phải từ trong tay của mình chảy ra ngoài.

Bàn Tử một mực cho rằng, văn hoá lịch sử đã lâu đời, tuy chúng như là tượng trưng cho niềm an ủi với dân tộc mình, cho dù cất giấu kỹ hết báu vật vô giá hoàng gia, cũng đâu thể ngăn cản được ngoại bang xâm lược. Hình ảnh một khi bị tuồn ra ngoài thì có dùng mười chiếc xe tải chở Quỷ Cốc Tử* xuống núi đi đổi lấy kỹ thuật hàng không mẫu hạm của Mỹ* , mà chính xác thì có gì thay đổi đâu chứ?

Một thế kỷ trước, khi người Tư Thản đi tới Đôn Hoàng, Vương đạo sĩ dùng hồ vôi trắng bôi lên bức bích hoạ phi thiên vô giá này, một tác phẩm nghệ thuật mỹ lệ quý giá chưa tới vài giây đã bị vôi phá hỏng không còn gì. Lý do chỉ đơn giản là ông ta muốn có một mặt tường trắng tinh tươm.

Cho nên dù những thứ này có chưa đựng quyền lực và tâm huyết tới độ chưa bao giờ bị người Tư Thản gạt đi, thì chúng vẫn có thể bị Vương đạo sĩ xem như là củi đốt nên đã thiêu cho lụi cả rồi. Như vậy bức bích hoạ này không được người chỉnh sửa hình dạng nên không bị tách ra, cũng khó trốn khỏi vận rủi tẩy trắng.

Tại những năm đó, chúng tôi đã phạm sai lầm, vấn đề ở đây khác xa nhau đều không phải là để cho người Tư Thản đem văn vật đi, vấn đề nằm ở trong bản thân thế hệ mình thôi. Chúng tôi làm sao có thể đi hy vọng xa vời rằng Vương đạo sĩ sẽ hiểu được giá trị của những văn vật này, đồng thời lại đừng vì tiền tài mà cúi đầu khoang dung. Chúng tôi làm sao có thể đi yêu cầu một người đang chạy nạn, ngay cả cơm ăn cũng không đủ no, phải theo cách của một học giả mà làm cho chúng tôi nhiều chuyện như vậy.

Cho dù lời của chúng tôi có xuyên không được đi chăng nữa thì khi truyền đạt đến tai của ông ta, chúng tôi làm sao có thể xác nhận được ông ấy sẽ đồng ý với chúng tôi chứ? Lời của chúng tôi có giá trị so với mấy đồng đại dương kia sao?

Chú thích:

Quỷ Cốc Tử*: (Gui Guzi-鬼谷子) là nhân vật trong lịch sử cổ đại Trung Quốc. Họ tên không rõ ràng con người ông được người đời sau hư cấu nên mang tính huyền bí, theo sáchĐông Chu Liệt Quốc thế kỷ I TCN tên ông là Vương Hủ, người đời Tấn Bình Công Trung Quốc, là bạn thân của Tôn Tử và Mặc Địch. Ông là một nhà tư tưởng, nhà truyền giáo, có rất nhiều học trò theo học, trong số đó có nhiều người trở nên nổi tiếng thời Xuân Thu Chiến Quốc. Bốn học trò được nổi tiếng hay được nhắc đến là Tôn Tẫn người nước Tề, Bàng Quyên và Trương Nghi người nước Ngụy, Tô Tần người Lạc Dương (kinh đô nhà Chu).

Theo các sách sử, ông là người thông thạo pháp thuật, kiến thức sâu rộng, sau khi về ở ẩn, ông sống trong một hang núi gọi là "Quỷ Cốc" (hang quỉ), bởi chỗ đó núi cao, rừng rậm, âm khí nặng nề, không phải chỗ cho người ở. Tên "Quỷ Cốc Tử" do ông tự đặt ra cho mình. Người đời thường gọi ông là Quỷ Cốc tiên sinh. ông sống thọ và được coi là ông tổ của các thuật tướng số, bói toán, phong thuỷ...

Chương 24: Phân tích kiến trúc học của Vân Đỉnh Thiên Cung

Điều làm tôi cảm thấy hứng thú nhất là việc Uông Tàng Hải đã xây dựng tầng thi băng này như thế nào, đây kỳ thực là một điểm nghịch lý trong kiến trúc học, nếu như trước đó xây dựng tầng thi băng này, như vậy không khác nào nói là tòa điện này xây trên không trung. Bên dưới không có bất kỳ cây trụ nào, mà ở khung đính thi băng này tôi càng khó mà nghĩ ra được họ đã dùng biện pháp nào có thể tạo thành độ cong như vậy mà không khiến nó sụp xuống. Nếu như trước tiên là kẹp những cột gỗ này lại, nhưng làm vậy có thể phát hiện chính xác là hai đầu của những cái cột gỗ này đều là dựa vào lớp băng kia mà cố định lại. Nếu vậy thì chỉ dùng băng thôi hẳn là không có khả năng làm cho những cây cột gỗ to lớn như vậy cố định một chỗ được.

Nghĩ tới nghĩ lui, thực sự thì chỉ có một khả năng có thể thực hiện được, nơi đây vốn là một khối sông băng lớn, trước tiên Uông Tàng Hải cho công nhân đào đường ngầm ở trong sông băng, rồi đem cột gỗ cắm vào sau đó thì đổ nước vào cho đông cứng lại, rồi mới từ từ đục ra khung đính từ bên trong.

Nhìn qua cái này không chỉ cần phải tính toán chính xác, mà hơn nữa cũng phải lên kế hoạch thi công vô cùng cẩn thận, nhưng thực tế nghĩ lại sẽ phát hiện loại kĩ xảo này vô cùng tiết kiệm nhân lực, thậm chí còn có thể nói là không hề khó khăn nữa. So với sử dụng kem gói để xây dựng thì đơn giản hơn, nhưng khi dùng phương pháp này thì người xây dựng đòi hỏi phải là công nhân đã có kinh nghiệm.

Chương 25: Tàng thi cácVà ở trong sông băng còn phát hiện ra những thi thểgiống như là được táng trong băng, những người này rất có thể là nhân viên bịgom lại để tuẫn táng (chôn cùng), có lẽvào lúc đó họ chính là công nhân xây dựng Vân Đỉnh Thiên Cung.Chương 26: Cánh cửa Thanh Đồng

Dùng mắt để đo có thể ước chừng là khoảng ba mươi thước cao, tôi cũng biết một chút kiến thức hóa học phổ thông, nếu như căn cứ theo độ dày của cánh cửa chừng năm thước, nếu vậy thì hai cánh của Thanh Đồng hùng vỹ này nặng tối đa khoảng một nghìn tấn, tuyệt đối sẽ không có bất kì một sức mạnh nào có thể đẩy được nó ra. Phía sau nó là nơi nào, sau cánh cửa Thanh Đồng to lớn nằm sâu trong chân núi Trường Bạch đó đang cất giấu bí mật gì?

Hoa văn vô cùng phức tạp, tìm không ra được một chút manh mối nào hết. Nước Đông Hạ vào lúc đó, e rằng bọn họ cũng không có cách nào giải thích được rốt cuộc tình hình nơi Vạn Nô Vương được sinh ra là cái gì.

Thực sự rất muốn vào đó xem thử.

Chương 27: Sách Lụa Chiến Quốc

Ở thời kỳ chiến quốc, có một dùng một loại sách ghi chép tài liệu được làm bằng tơ lụa được gọi là ── sách lụa, bạch là hàng dệt tơ màu trắng, đại Hán gọi chung hàng tơ dệt này là bạch hoặc tăng. Hay cũng gọi chung là tăng bạch, cho nên sách lụa cũng được gọi là tăng thư. Hiện nay Trung Quốc có tranh lục (tranh lụa) lâu đời nhất chính là được phát hiện ở trong một ngôi cổ mộ ở Trường Sa vào những năm 30 thế kỉ 20. Những năm gần đây lại khai quật được một số lượng lớn thẻ tre. Như năm 1951 phát hiện Ngũ Lý bia - Hồ Nam - Trường Sa, năm 1954 là cổ mộ hồ Ngưỡng Thiên - Trường Sa, năm 1954 cổ mộ Dương gia - Trường Sa, năm 1957 cổ mộ Tín Dương Đài - Hà Nam, năm 1975 mộ nhà Tần - Vân Mộng Thuỷ Địa, năm 1980 mộ của Hắc Gia Bình - Tứ Xuyên, khai quật được một lượng lớn thẻ tre thời Chiến quốc. Ngoài ra vào năm 1942 khai quật được sách lụa ở trong cổ mộ nhà Sở (năm 1945 thất lạc sang Mỹ), lại còn là sách của Hầu Mã Minh - Sơn Tây. Bất kể là viết ở thẻ tre (trúc mộc giản) hay là hàng dệt tơ thượng hạng - thư thể, tất cả đều là bút tích viết tay của thời Chiến Quốc. Những thẻ tre này cùng với bút tích trong sách lụa, không đơn giản chỉ là những văn vật rất có giá trị, hơn nữa còn là những tư liệu lịch sử rất quan trọng đối với mảng nghiên cứu thư pháp lịch sử.

Bốn quyển sách lụa thời Sở đều được gọi là tăng thư, nội dung chung bên trong cộng lại thì có tất cả ba phần, đó chính là hiện tượng thiên văn, biến cố, thay đổi của bốn mùa và những cấm kị của thời tiết, thời vụ, nội dung bên trong vô cùng phong phú và phức tạp, không chỉ có ghi chép những truyền thuyết thần thoại được lưu truyền mà còn có phong tục của nước Sở, và bao gồm cả Âm Dương Ngũ Hành, các phương diện tư tưởng cảm xúc của con người với trời đất.

Ở xung quanh văn tự có mười hai hình vẽ về một vị thần kì lạ, bốn góc sách lụa dùng bốn màu xanh đỏ trắng đen để miêu tả cây cối.

Dựa vào nghệ thuật thư pháp trong sách lụa mà nói, thì thực sự hàng lối rất chỉnh tề đúng với nguyên tắc, khoảng cách giữa các chữ cũng tương đồng nhau, nét chữ vừa cố gắng đạt được sự chỉnh tề chuẩn mực mà vẫn thể hiện được nét phóng khoáng tự nhiên. Thể chữ rộng nhưng mảnh, đồng đều cũng rất ổn định, cân đối và rất vừa vặn, đoan chính mà nghiêm túc, trong đó còn xen vào chữ triện đãi, bút pháp mượt mà lưu loát, nét thẳng có khúc chiết, nét cong có thế hất, bởi nét chữ tinh tế biến hoá vô cùng để lộ ra vẻ xinh đẹp thanh tú bên trong, ở giữa nét ngừng ngắt lại triển khai sự thanh khiết ôn nhu, có thể thấy tác giả đã hoàn toàn dồn hết tâm trí đem chữ viết biến hoá thành nghệ thuật rất độc đáo.

Bức hoạ ở xung quanh văn tự trong sách lụa, trước tiên là miêu tả khái quát bằng những đường nét rất mảnh, sau đó thì quét màu sắc lên trên, nhìn như rất thờ ơ tuỳ tiện mà vẽ ra, nhưng mà lại đem một vị thần vẽ ra được 12 dáng vẻ khác nhau, vô cùng sống động, dù là đứng hay nằm, chạy hay là nhún nhảy, mỗi hình đều thấy rất sống động.

Đồng thời có thể dựa vào hình ảnh thần linh này mà thấy rằng hội hoạ thời Sở có tính tả thực rất tốt, như là trên người của thần có một số vằn, được miêu tả rất tỉ mĩ rõ ràng, giống như là những vết vằn trên người hổ báo thực sự. Đặc biệt những hình vẽ cây cối quanh sách lụa, tùy theo hình ảnh mà vẽ ra, rất nhiều cành đong đưa, y như hình dáng thật bên ngoài, cành lá tươi tốt sum sê, có thể nói người vẽ dùng bút, miêu tả chi tiết tỉ mĩ vô cùng rõ ràng. Sách lụa thời Sở không những là một vật phẩm quý giá của nghệ thuật cổ đại Trung Quốc, mà còn là của quý của nghệ thuật cổ đại trên thế giới, rất hiếm quý.

── Được lấy ra từ bách khoa Bách Độ.

Chương 28: Áo Ngọc Quan Quách

Khi đó đang hạ đấu nên không thể chụp ảnh vì vậy mà cũng không có hình, mấy cái này đều là một số ảnh na ná giống thứ đó tìm được trên google, không khác biệt với những gì nhìn thấy cho lắm, chỉ có điều là thực tế nó dính đầy bùn đất.

Áo ngọc có tổng cộng là 230 khối ngọc phiến (ngọc thạch) các màu, dùng tơ vàng kết lại với nhau, nặng khoảng 40 cân (kg). Những khối ngọc thạch này phẩm chất cũng không quá tốt, bản thân chúng giá trị cũng như nhau, quan trọng là đã bán ra một văn vật (đồ cổ) có giá trị lịch sử. Vậy giá quy định là đã hơn 100 vạn. Gần đây hàng bán ra, toàn là bị giảm xuống.

Chương 29: Minh Công Thương Vương Địa thư

Tôi đem tất cả những phần mà mình đọc hiểu được của Minh Công Thương Vương địa thư ghi ra, có một số chữ không rõ mấy, và một số chữ rất ngang không có cách nào làm nó hiển thị trên máy tính được, vì thế tôi đều chuyển hết thành tiếng Trung hiện đại. Thương Vương, Tính (họ), Huý (tên), năm hai mươi lăm tuổi, cha ông ta qua đời, vì vậy được kế thừa họ lớn là Tư Mã, dẫn dắt binh lính đi phát mộ, đoạt được rất nhiều đồ vàng bạc châu báu, đóng góp cho quân đội, để trợ giúp chinh phạt, rất có công với đất nước. Một lần, Thương Vương phát một cổ mộ, cũng không biết nó là từ triều đại nào, khai quan để xem, thì bên trong có một con cự xà, ngẩng đầu muốn cắn ông ta. Xưa này dũng khí của Thương Vương vốn rất lớn, liền lấy kiếm chém cự xà, lại nghĩ rằng con cự xà này nằm trong quan tài, nhất định là yêu quái, sau đó mổ bụng rắn, lấy được hộp kim tử, bên trong hướng dẫn một trăm phép thuật.

Ban đêm, có một ông cụ râu tóc bạc trắng xuất hiện trong giất mơ của ông ấy, giận dữ hỏi Thương Vương: "Vì sao lại giết ta?". Thương Vương tính vốn thô bạo, chém giết rất nhiều, liền trả lời trả lời ông già đó: "Muốn giết thì giết! Hỏi để làm gì!", ông già liền giận dữ, hoá thân thành con cự xà ban sáng, há mồn xông đến đớp Thương Vương. Ông ta rút kiếm chém cự xà bị thương, đạp chân lên đầu rắn, nói: "Ta mổ bụng ngươi vẫn không chết, vậy bây giờ ta cắt đầu ngươi, để xem ngươi có thể còn sống được nữa hay không?", Cự xà thấy vậy liền cầu xin ông ta thương xót nói: "Tôi muốn lấy hai bảo vật trao đổi, để giữ lại mạng sống." Thương Vương chấp nhận, lúc này cự xà mới nói phương pháp mở hộp tử kim, và dạy ông ta cách sử dụng bảo vật trong hộp. Sau khi ông ta đã ghi nhớ kĩ, đột nhiên lại nghĩ chuyện này cần phải giữ bí mật, chỉ cần một người biết thôi, ngay lập tức vung kiếm chét đứt đầu rắn. Đúng lúc đó Thương Vương tỉnh giất, thì thấy mình đang ở trong vũng máu, mới hiểu ra rằng giấc mơ này không phải là giả, ngay lập tức y liền làm theo phương pháp trong mơ, quả nhiên có thể mở được hộp kim tử, bảo vật bên trong, giống y như lời con cự xà kia đã nói. Vì ông ta không muốn cho người khác biết chuyện này, cho nên đã tàn sát hết những tuỳ tùng mà mình đã đem theo, kể cả người nhà của họ, ngay cả đứa trẻ còn mặc tã, cũng không buông tha.

Sau khi có được hai bảo vật, hiển nhiên ông ta gặp dữ hóa lành, đi đến đâu thắng đến đó, quyền cao chức trọng đều gom hết vào mình, lại được hoàng đế tín nhiệm nhờ cậy rất nhiều. Về sau, khi ông ta già, bị bệnh nặng, đã tìm đến rất nhiều thầy thuốc giỏi chữa trị, nhưng tất cả đều nói không có cách nào có thể chữa khỏi. Không lâu sau, Thương Vương lại một lần nữa mơ thấy cự xà, nói: "Cuối cùng ngươi cũng đã đến lúc tận mạng. Ta và rất nhiều người đang đợi ngươi tới đây, đều là những người mà ngươi thường ngày giết bừa, không biết là có mấy ngàn vạn người". Ông ta tỉnh giất vô cùng sợ hãi.

Thương Vương có một người trợ tá, tên là Thiết Diện tiên sinh, tinh thông mệnh lý phong thuỷ, vào thời đó không ai có thể sánh bằng, nói cho ông ta biết: "Thần có nghe nói, thời thượng cổ có một loại áo ngọc, nếu có được bộ áo ngọc này, sẽ được trường sinh bất lão. Đáng tiếc đã mất tích từ rất lâu, e rằng chỉ còn tồn tại ở trong cổ mộ dưới lòng đất mà thôi". Ông ta không biết là chuyện đó là có thật hay không, nhưng đó vẫn là một tia hy vọng, nên đã lục lọi trong sách cổ ở khắp nơi, quả nhiên trong một quyển thẻ tre tàn đã thấy có ngôi mộ rất lớn, chính là một lăng mộ vào triều đại trước, hình như có dấu vết của áo ngọc. Tiếp đó, ông ta dùng hơn ba ngàn người, phá núi cả nửa năm trời, thăm dò vị trí của hoàng lăng. Bên trong cổ mộ có một cây đại thụ, tên là Cửu đầu xà bách, dưới tàng cây đặt giường ngọc, trên đó là một thi thể thanh niên đang ngồi thiền, mặc một bộ áo liệm bằng ngọc đen tuyền, chỉ còn da bọc xương, gần như là bộ xương khô. Thiết Diện tiên sinh nhìn thấy vui mừng nói: "Cái này nhất định là áo ngọc rồi. Lúc này tử thi này nhìn như chết nhưng thực chất không chết, mà chính là huyết thi. Nhất định là khi còn sống đã tự mình hạ táng xuống đây, cứ cách một trăm năm, lại bong ra một lớp da chết, đồng thời cũng sinh ra một lớp da mới, cho nên thi thể mới có vẻ ngoài vẫn còn là thanh niên chứ không nhất định là một ông lão già khú."

Thiết Diện tiên sinh lấy kỳ thuật của mình để khắc chế huyết thi, lấy ra khỏi áo ngọc, rồi niêm phong vào thạch quan. Thương Vương chỉ làm theo kế sách của Thiết Diện tiên sinh, uống thuốc giả chết, báo tang cho hoàng đế. Hoàng đế nghe Thương Vương có năng lực khác thường, có thể tự nhiên đi lui tới giữa hai thế giới âm dương, trong lòng quá mức kinh sợ, đặc biệt hạ chiếu thư ưu đãi, ban danh Thương Vương, được an táng theo nghi lễ quy định, vượt hơn các chư hầu, mà có thể so với thiên tử. Vì vậy cho tu sửa lăng mộ như hoàng lăng, bày rất nhiều nghi trận và cơ quan, rồi làm Thất tinh quan giả dạng, còn Thương Vương thực sự, thì nấp ở bên trong thân cổ thụ ngàn năm trong hoàng lăng. Ngày lăng được xây dựng xong, toàn bộ công nhân xây dựng đều bị giết hết để tuẫn táng, an táng ở dưới sông. Những người đi theo ông ta lúc còn sống, đều hạ lệnh cho uống thuốc độc tuẫn táng hết, chỉ giữ lại hai người một nam một nữ thân cận nhất, sau khi hoàn tất mọi chuyện, hai người cũng uống thuốc độc tự vẫn.

Còn những phần khác đọc rất khó hiểu, hoặc là nói đúng hơn là gần như đọc không hiểu được gì cả, vì khi Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn cùng với nhà Nho (đạo của Khổng Tử được gọi là đạo Nho), bởi vậy rất nhiều thứ từ thời nhà Thương Chu Xuân Thu trở về sau đều bị thất truyền. Đặc biệt thì có rất nhiều chữ lạ hiếm gặp, cho dù có đi tới thư viện mà tra thì cũng phải mất mấy chục năm mới có thể giải hết toàn bộ được.

Khi đó tôi không có cách nào phát hiện được sự khác biệt trong đó, cho đến khi Tam thúc nói tôi mới phát hiện ra được, những phần cổ văn này đúng là thấy có một chút khác biệt so với những phần khác, chỉ có điều, thật sự mà nói thì lúc đó chỉ có bậc thầy *quốc học* (là nền học vấn cổ của quốc gia) có mặt ở đó mới có thể tránh khỏi, còn những người như chúng tôi, thực sự chỉ có thể chấp nhận bị trúng kế mà thôi.

Chương 30: Những loại quái vật đã gặp

( Chương này toàn giai xinh gái đệp, dài loằng ngoằng :D )

-Thi miết (bọ ăn xác)

Thi miết là một loại côn trùng giáp xác, cảm giác nó rất giống một hợp thể của con rận nước và rết nước. Nhưng nó lại rất khác với *long sắt khoa* ở chỗ, hai chân trước của chúng vô cùng sắc bén và mạnh mẽ, hơn nữa cái đầu cũng lớn hơn nhiều, chỉ sống trong bóng tối, sợ ánh sáng.

Loại côn trùng này di chuyển cực kỳ mau lẹ, mà còn là động vật lưỡng cư, thức ăn của chúng là thi thể bị thối rữa và những sinh vật nhỏ sống ở trong nước, bình thường thì luôn tập trung thành đàn bơi xung quanh thi thể, tụ tập thành nhóm, và chúng cũng ăn thịt đồng loại.

Tôi đã từng bị loại sâu này tấn công, cảm thấy chúng nó không có quá nhiều khả năng sinh ra mối đe doạ quá lớn đối với động vật có lớp da dày, nói thí dụ như tê giác xuống nước tắm sẽ không có vấn đề gì. Nhưng đối với con người, thực sự là một sự uy hiếp rất lớn, bởi vì bọn chúng luôn theo bản năng tấn công vào vùng bụng chính là vùng yếu nhất của con người. Nếu như không thể lên bờ đúng lúc, chúng sẽ chui vào phá bụng dẫn đến chảy máu quá nhiều mà gây chết người.

Thi miết có rất nhiều ở sông hồ sâu trong núi hoặc là ở vùng đầm lầy, có lẽ là do khi lũ quét hoặc lỡ đất, mới xuất hiện một lượng lớn như vậy.

- Huyết thi:

Rất nhiều vùng có truyền thuyết nói về huyết thi. Mộ có huyết thi thật ra cũng chỉ là một loại cơ quan để bảo vệ huyệt mộ dưới lòng đất mà thôi. Chẳng hạn như là loại cơ quan lửa, hay là acid (axit), hoặc là chu sa, khi dùng xẻng Lạc Dương sạn thăm dò, đất sẽ xuất hiện màu đỏ. Đặc biệt là cơ quan acid, đất sẽ có màu đỏ tươi như máu, thật ra là do bên trong có chứa một lượng chu sa rất lớn. thường những cổ mộ có cấu trúc như vậy, chứng tỏ cổ mộ đó quy cách rất cao, cho nên mới hình thành câu nói mộ có huyết thi thì bên dưới toàn là bảo bối.

Vậy thì làm sao họ có thể biết được cổ mộ bên dưới sẽ có huyết thi?

Một mặt có thể là do nghe nhầm đồn bậy, còn về phương diện khác, chu sa là một vật dùng để trừ tà, cho nên cổ mộ sử dụng tầng chu sa dưới đất, nhất định là muốn làm cản trở một thứ gì đó bên trong cổ mộ, vì sử dụng chu sa để niêm phong cổ mộ, thi thể đương nhiên sẽ có chút dị biến. Mà trên thực tế, huyết thi cũng không hẳn là giống như tên của nó là đỏ tươi như máu, mà lại có màu đỏ tía.

- Hồ ly mắt xanh:

Khối xác ướp cổ này thực rất kinh khủng và quỷ dị, rất khó để diễn tả được. Đó đương nhiên là người thế mà có thể phát triển giống như một con hồ ly bị trụi lông, e rằng không chỉ do bị di dạng mà có khả năng trở thành như vậy được. Tôi không thể tưởng tượng ra được khối xác ướp cổ này trước khi nó bị mục nát và khô quắc là có bộ dạng gì nữa.

Bàn Tử nói nguyên nhân ở đây là do trúng tà, nhưng theo một lượng lớn các lý thuyết đã kiểm chứng thì có thể nói, đây cũng là một loại dị dạng hiếm gặp, nếu muốn phân loại, chắc do là một chứng bệnh ở tiểu não, có thể khiến cho gương mặt phát triển đặc biệt dài. Cũng có khả năng giống như người Inca và Ai Cập, từ nhỏ đã sử dụng một loại phiến nẹp có thể làm cho đầu và gương mặt thay đổi. Bởi có một thần thoại sinh ra hiện tượng này, bởi vì người xưa tin rằng khi đang ở chiến trường, kẻ địch nhìn thấy một quái vật như vậy, nhất định vừa nghe thấy đã sợ mất mật.

Công dụng chủ yếu của mặt nạ chính là tượng trưng cho thần, hoặc cũng có thể nói theo cách khác, Lỗ Thương Vương là một trong số bộ phận rất ít thờ phụng vật tổ là hồ ly. Trong lịch sử hình như chỉ có phần nhỏ dân tộc người Tây Tạng tin và thờ phụng hồ ly, chuyện này thực sự là vô cùng kỳ lạ.

- Cửu đầu xà bách:

Tôi không hề tìm được bất kì tài liệu nào nói về loại thực vật này, chỉ có một ít tài liệu không chính quy, có nói về hệ thống các loại thực vật ăn thịt cỡ lớn khác, trong đó có một loại cây ăn thịt người có tên khoa học: Carnivorous trees.

Trong truyền thuyết nước ngoài, cùng loại với Cửu đầu xà bách được gọi "Chưng ngư thụ", nó có thể liên tục quấn chặt để giết chết con mồi rồi tiêu hoá nó, loại cây này thường được người địa phương gọi là "Ác ma chi thụ". Cuối cùng trong quyển nhật ký của một nhà thám hiểm người Đức khi đang điều tra thực tế có phân tích, cách tấn công của loại thực vật này căn bản xuất phát từ bản năng của giống loài, cũng giống như bệnh tai xanh chỉ mắc phải trên da động vật có bộ lông thưa, tương tự, loại thực vật này cũng sẽ theo bản năng quấn lấy và giết chết bất kì thứ gì đến gần nó.

Tôi cho rằng, nếu loại cây trong truyền thuyết này thực sự tồn tại, rất có khả năng nó chính là Cửu đầu xà bách, đặc trưng sinh thái của nó đại khái là: Sau khi giết chết động vật, nó sẽ dựa vào mùi thối rữa thi thể mà dẫn dụ côn trùng tới, truyền bá thụ phấn.

Bọ ăn xác bị thi thể trên cây hấp dẫn, tụ tập ở chung quanh cây, hơn nữa theo kinh nghiệm của tôi thì thấy, Cửu đầu xà bách cũng không thể tự mình giết chết con mồi được, con mồi chết thường là do bọ ăn xác gây nên, đây thực sự đúng là một mối quan hệ cộng sinh xảo diệu. Đồng thời chất thải của thi miết cũng một nguồn dinh dưỡng cực tốt, so với thi thể bị thối rữa thì thích hợp hơn cho thực vật phát triển.

Loại quan hệ cộng sinh này bên trong cũng sẽ có nhiều loại động thực vật khác giống vậy, chỉ là ở trong này, tôi cảm thấy có khả năng quan hệ cộng sinh này là do con người sắp xếp. Giống như là nuôi cá ở trong ruộng lúa nước, đây chính là kiến thức nông nghiệp.

- Cấm bà

Truyền thuyết nói về cấm bà rất phổ biến ở dân tộc thiểu số phía Nam, từ bộ tộc Miêu Dao ở Vân Nam cho đến ngư dân ở Hải Nam khi đó, cấm bà vẫn thường xuyên xuất hiện trong khái niệm trong những truyền thuyết của họ.

Vào lúc đó ngư dân ở Hải Nam cho rằng, cấm bà chính là một thứ đại diện cho tật bệnh, tai nạn, hình tượng của cấm bà là một người phụ nữ mang thai, cả người ẩm ướt, thứ này cùng với mỗi lần sóng thần đi qua, trên bãi biển liền xuất hiện rất nhiều xác chết trôi giống như vậy, mà nhiều thi thể tụ tập lại một chỗ nhất định sẽ gậy ra bệnh dịnh hoành hành. Cho nên tôi đoán, cái được gọi là cấm bà, có thể là do ấn tượng của ngư dân về thi thể chết trôi và tai nạn mấy ngàn năm nay mà hư cấu tạo thành. Vào thời đó mọi người không biết là người chết, tai nạn và bệnh tật là có liên quan với nhau.

Sau khi chúng tôi đi vào cổ mộ dưới đáy biển nhìn thấy quái vật cấm bà đầy tóc kia, hoàn toàn giống y như là thi thể đã bị ngâm trong nước thời gian rất dài, khiến cho tôi tới bây giờ chỉ cần nhìn thấy thấy quá nhiều tóc người thì trong lòng ngay lập tức cảm thấy sợ hãi.

= Hải hầu tử:

Ở vùng ven biển vẫn thường nghe nói tới truyền thuyết nói về một sinh vật, nghe nói ở đập lọc nước Quảng Tây quả thực là đã từng phát hiện qua. Ở Trường Sa, hải hầu tử được gọi là "Lộ thủ quỷ", ở Quế Lâm lại kêu "Thủy sư quỷ". Loại sinh vật trong truyền thuyết này khác với những loại động vật bình thường khác, truyền thuyết nói về nó gần như ở vùng nào cũng có, cái này thực sự ý vị quá sâu xa, có lẽ nói cho đúng thì con người đối với sinh vật dưới nước này không biết là có kinh sợ hay không. Người già mỗi lần nói đến hầu như là đều có tồn tại ở những nơi có nước, bao gồm giếng nước, thậm chí là lu nước.

Chi tiết của những truyền thuyết này không hề giống nhau, tuy nhiên vẫn có một vài điểm chung, chính là loại động vật này có hình người, ở trong nước sức mạnh vô cùng lớn. Nhưng mà, nói thật, so với hình ảnh tôi tưởng tượng trong đầu, thì vẫn còn kém xa thứ to lớn đáng sợ kia.

- Nhân diện điểu

Hầu như tất cả những nền văn mình trên thế giới, đều có nhắc đến nhân diện điểu. Kể cả trong tôn giáo hay thần thoại đều có loại sinh vật này xuất hiện. Đặc biệt trong lịch sử Trung Quốc và Ấn Độ thì càng thêm nổi bật. Vấn đề này cũng không phải do Trung Quốc bị Phật giáo ảnh hưởng quá sâu, chỉ cần cẩn thận quan sát sẽ phát hiện, ngay cả truyền thuyết của hoàng đế Trung Hoa, còn có xuất hiện nhân diện điểu Cửu Thiên Huyền Nữ. Khi đó Phật giáo vào thời Lưỡng Hán mới bắt đầu được truyền vào Trung Quốc, đến triều đại Ngụy Tấn Nam Bắc, Phật giáo mới thực sự phát triển, cho nên hình mẫu đầu tiên của nhân diện điểu Cửu Thiên Huyền Nữ chắc chắn không phải là Già Lăng Tần Già trong "Diệu Âm điểu" Phật giáo. (Tuy rằng trong "Sơn hải kinh" có ghi chép rất nhiều về nhân diện điểu, thế nhưng từ những truyện ở phần sau quyển sách đều là những tác phẩm giả của đời sau viết, vì vậy tôi cũng không thể tin tưởng được.)

Hiện tại ở Trung Quốc có tượng hình nhân diện điểu lâu đời nhất, được phát hiện ở trong di tích"Hồng sơn văn hóa" nằm ở giữa vùng sa mạc Mao Não Hải Sơn thuộc vùng Nội Mông Cổ Lão Hắc Hà Bắc, thuộc thời đại đá mới. Các chuyên gia khảo cổ cho rằng đây là một loại chim *si kiêu* cổ đại, hiện tại đã bị tuyệt chủng có ngoại hình rất giống nhân diện điểu.

· Si kiêu là một giống cú tai mèo hoặc được gọi là miêu đầu ưng.

Vào thời cổ đại, vùng Nội Mông Cổ cách xa nền văn hoá của Trung Nguyên, thuộc về cùng đất phía Bắc rộng lớn, nhưng mà nằm gần sát vùng Đông Bắc, không rõ loại nhân diện điểu mà chúng tôi nhìn thấy ở núi Trường Bạch, có phải là loại si kiêu này hay không?

Ở trong phần lớn truyện thần thoại, nhân diện điểu cũng giống như trong "Giáo lý Phúc Âm" đều là một nhân vật có trách nhiệm truyền đạt, bất kể là Cửu Thiên Huyền Nữ trao tặng chiến thư cho hoàng đế, hoặc là Già Lăng Tần Già truyền đạt Phật Gia Diệu Âm, tất cả đều mang tinh thần hướng tới văn hoá trời cao mà truyền đạt rộng rãi cho người dân. Mà tương đối kỳ quái là, Trung Quốc còn có tượng hình nhân diện điểu của người trần, chẳng hạn như thần y Biển Thước cũng chính là một nhân diện điểu. Sau này tôi mới biết được, cái này chỉ là một quan niệm không cố định.

Trên thực tế thì Biển Thước có rất nhiều, vào thời Xuân Thu, danh y đều được gọi chung là Biển Thước. Mà danh y Biển Thước thật sự là một nhân vật trong thần thoại vào thời đại Hiên Viên, và cũng thuộc hàng giống như hoàng đế, vì thế tôi nghi ngờ rằng nhân diện điểu thần y Biển Thước và Cửu Thiên Huyền Nữ là cùng một loại sinh vật.

Ở trong thần thoại Trung Hoa các hình tượng như vậy rất phổ biến, không khó làm cho con người sinh ra liên tưởng. Dựa vào lo lắng hiện nay, tôi cảm thấy có thể là có một nền văn minh cổ đại nào đó mà chúng tôi vẫn chưa phát hiện ra hay không, người như thế nào mới thuần dưỡng được nhân diện điểu si kiêu, đồng thời đối với quá trình huấn luyện, ở trong chiến tranh, hay trong quá trình vận chuyển thật sự là có tác dụng vô cùng to lớn.

Trong trận chiến giữa các bộ tộc, loại si kiêu này liên tục xuất hiện, là một trong những lực lượng, có khả năng vận chuyển được một lượng lớn tin tức và thuốc men, có thể vì các bộ tộc khác không biết nó mới khiến cho họ lầm tưởng chúng là hiện thân của thần linh.

Nền văn minh thần bí cổ đại này, tuy rằng vô cùng khiêm tốn, cũng có lẽ là do họ theo chủ nghĩa thần bí, làm cho toàn bộ tư liệu được lưu lại trên đời dần dần bị mai mục. Phía sau cánh cửa Thanh Đồng khổng lồ kia, có thể là một phần không nhiều lắm còn sót lại. Nhân diện điểu mà bọn họ huấn luyện, cũng đã tuyệt chủng khi nền văn minh của họ suy tàn, chỉ còn lại một số ít may mắn sống sót tiếp tục ở lại trong lòng đất để bảo vệ di tích cuối cùng của chủ nhân mình.

Nghe như vậy đúng là có chút vô nghĩa, nhưng mà tôi vẫn cảm giác rất có đạo lý, hơn nữa, sử dụng si kiêu để truyền đạt tin tức, làm tôi nhớ tới hình ảnh thầy phù thuỷ ở Âu Châu vào thời Trung Cổ. Nơi đó tất cả thầy phù thuỷ đều có một con si kiêu làm sủng vật, cái này đúng là có chút thú vị. Chẳng lẽ phía sau cánh cửa Thanh Đồng cửa cực lớn kia, là thế giới ma pháp Hoắc Cách Ốc Tì sao?

- Thiên thủ Quan Thế Âm thi:

Đây là một khối thi thể làm cho người ta phải suy nghĩ không ngừng, không riêng gì việc nó có nhiều tay giống như một con nhện. Tuy tôi không biết đây có phải là một loại dị dạng hiếm gặp hay là một loại bệnh lý dị biến nào khác, thế nhưng nhìn qua thì các cánh tay đó vô cùng linh hoạt và mạnh mẽ, ít nhất cũng sẽ không gây trở ngại gì cho chất lượng sinh hoạt của họ. Tất nhiên tôi không thể nghĩ ra được phải khống chế nhiều tay như vậy thì sẽ có cảm giác gì, song rất dễ nhận ra, nếu là sinh sống trong vách đá triền núi, kiểu dị dạng này ngược lại có thể khiến cho hoạt động của họ như cá gặp nước. Đây là không phải là một sự tiến hóa, hoặc cũng là vì một sự lựa chọn?

Nói ví dụ như, ở trong thị tộc của Vạn Nô Vương, địa vị được quyết định bởi số tay sau lưng. Chỉ hai cánh tay có vẻ thấp hơn, số lượng tay càng nhiều, đồng thời mức độ dị dạng càng nặng, ngược lại địa vị sẽ càng cao, chính vì nguyên nhân đó mọi người trong tộc luôn hy vọng đứa con của mình sẽ có thật nhiều tay, bởi vì tay càng nhiều địa vị càng cao, thê thiếp đoạt được cũng càng nhiều hơn.

Cũng như các bộ lạc ở Châu Phi, có một số bộ lạc trong vùng tôn thờ người mắc chứng bệnh bạch tạng, vì người bị bệnh bạch tạng ở trong bộ lạc sẽ được đãi ngộ giống như thần thánh, nên bọn họ luôn cố gắng để cho người bị bạch tạng thông hôn với nhau để có được làn da trắng bạch của "Thần". Cũng vì lẽ đó, khi bọn họ nhìn một người màu trắng giống như thần xuất hiện, lập tức khuất phục ngay, hầu như cũng không dám phản kháng.

Chương 31: Những người tôi đã gặp

- Muộn Du Bình:

Tôi đụng phải một thằng cha rất là đáng ghét, từ xưa tới nay tôi chưa từng gặp phải người nào như vậy, khẳng định là tên này bị mắc chứng bệnh thèm ngủ cực kỳ nghiêm trọng! Tôi thấy anh ta ngoại trừ lúc đi đường, thì vào những khoảng thời gian khác đều chỉ thấy ngủ, cho dù là khi đi dọc đường cũng không thèm nói một câu, bộ dạng lúc nào cũng như còn đang ngái ngủ.

Vì thế tôi đặt cho anh ta một biệt danh, là Muộn Du Bình (gốc là: "Muộn Thanh Bất Khang Tha Du Bình" ý anh Tà chửi anh Bình là thằng con ghẻ một câu cũng không nói, sau gọi tắt là Muộn Du Bình). Tuy rằng tôi không thích mắng chửi sau lưng người khác, nhưng mà người này thật sự là quá mức đáng ghét. Nói gì thì nói tôi cũng là một người rất giỏi về giao thiệp, thế nhưng thái độ của anh ta, hoàn toàn chính là một bộ dạng: không cần các người phải nảy sinh một mối quan hệ gì với tôi hết.

Có điều, chỉ cần có anh ta ở bên cạnh, tôi luôn luôn có một cảm giác an tâm rất đặc biệt, có thể là những người trầm mặc thường làm cho người khác bị ảo giác rằng anh ta rất lợi hại. Tôi thực sự rất muốn biết ẩn sâu bên trong ánh mắt kia rốt cuộc là cái gì?

A Ninh:

Không thể phủ nhận, tôi đối với cô gái này có chút thiện cảm, bất kể là vì dáng người, hay là vì thái độ ấm áp của cô ấy, thế nhưng lý trí nói cho tôi biết, phải tránh xa cô ấy một chút.

Nhiệt huyết của cô gái này quá mức dư thừa thực làm cho người ta phải hâm mộ, thậm chí tôi còn có cảm giác, đem cô ấy đá xuống nước cho bơi theo thuyền thì cũng sẽ không bị chết chìm, thấy cái loại sức sống này tôi nhịn không được mà bắt đầu lo lắng không biết là có nên đem thời gian mình ngồi trên ghế ngủ gà ngủ gật mà đi rèn luyện thể lực hay không? Chỉ là nhìn vào ánh mắt của cô ấy, tôi vẫn mơ hồ cảm thấy cô ấy có chút cô đơn.

Bàn Tử:

Người mà chúng tôi đi đón ở đảo Vĩnh Hưng đương nhiên chính là Bàn Tử. Cũng không biết kiếp trước tôi với anh ta có "kết quá lương tử" hay không nữa. Xem ra sau khi đi ra khỏi Lỗ Vương Cung anh ta cũng không tệ lắm, mà hình như còn mập hơn.

Vừa lên thuyền thì đã cằn nhằn mọi người trên thuyền đều là đồ lề mề rồi. Sau khi uống xong, anh ta còn muốn giả làm vua của thế giới một chút.

Đây không phải là lần đầu tiên tôi gặp anh ta, chẳng qua đến bây giờ mới có hứng thú ngồi quan sát anh ta tỉ mỉ một chút. Đáng tiếc, thực sự mà nói thì cũng có cái quái gì đâu.

Chương 32: Quốc gia cổ đại ở Sơn Đông

Đầu tiên, quốc gia của họ Cơ. Tương truyền rằng họ Cơ là hậu duệ của hoàng đế, vùng đất Sơn Đông thuộc về quốc gia của họ Cơ, phần lớn đều là do Chu Vũ Vương (Cơ Phát - con trai thứ hai của Tây Bá Hầu Cơ Xương cũng chính là Chu Văn Vương) sau khi tiêu diệt nhà Thương đã phân đất phong hầu cho người cùng họ làm nước chư hầu ( nhà Chu thực hiện chế độ phong các nước chư hầu cho các anh em, công thần, con cháu). Gồm có nước Lỗ, nước Tào, nước Đằng, nước Thành, nước Cáo, nước Mao, nước Dương, nước Cự, nước Hình.

Nước Lỗ - Được ban cho em trai thứ tư của Chu Vũ Vương là Chu Công Đán (Cơ Đán) có con trai trưởng là Cơ Bá Cầm (phong tước Bá). Lập thủ đô ở Khúc Phụ (hiện nay là thành phố Khúc Phụ). Vào những năm đầu Tây Chu là một nước chư hầu lớn nhất trong các nước chư hầu, (hiên nay mọi người vẫn dùng từ "Lỗ" ở Sơn Đông coi như là một tên gọi tắt) những sách cổ ghi chép về văn hoá rất nhiều, lễ nghi quy chế tất cả đều có. Vào thời Xuân Thu, lại ra đời một nhà tư tưởng rất nổi tiếng, chính là nhà đạo giáo Khổng Tử, văn hoá phát triển rất cao, nhà nước lấy lễ nghi để làm gương cho hậu thế. Lỗ quốc hướng Bắc dựa vào núi Thái Sơn, hướng Đông là Biển rộng, là một vùng rộng lớn ở phía Nam - Sơn Đông, chính là một lá chắn quan trọng nhất của triều đình Chu Vương. Nhà Tây Chu cho tới nhưng năm đầu thời Xuân Thu thì họ chính là một cường quốc ở Đông Phương, vào lúc đó có đủ khả năng tranh hùng cùng với nước Tề cũng là một cường quốc. Lỗ quốc có tổng cộng 26 thời đại, và 34 vị vua, triều đại kéo dài khoảng 800 năm, giữa giai đoạn Xuân Thu thực lực của đất nước dần dần suy yếu, vào khoảng năm Lỗ Khoảng Công thứ 24 (vào năm 249 trước Công Nguyên), thì bị nước Sở tiêu diệt, nước Lỗ trở thành một huyện. Nước Tào - được ban cho em trai thứ năm là Thúc Chấn Đạt (Phong tước Bá). Kinh đô ở Đào Khâu (hiện nay là vùng phụ cận Hà Trạch, huyện Định Đào - Tây Bắc), khi đó là nằm ở vùng Tây Nam - Sơn Đông, vào lúc đó nước Tào là một nước có thực lực yếu kém nhất trong các nước Tề, Lỗ, Tống, Vệ. Truyền được 25 đời, tới năm 15 đời vua Tào Bá Dương (năm 487 trước công nguyên), thì bị nước Tống tiêu diệt. Nước Đằng - Ban cho Thác Thúc Tú con trai thứ mười bốn của Chu Văn Vương (phong tước Hầu). Nay di tích thủ đô nước Đằng nằm cách 14 dặm (1 dặm bằng ½ km) về phía Tây Nam - thành phố Đằng Châu. Nên có quan hệ rất mật thiết với nước Lỗ, cũng phụ thuộc vào nước Tống, nước Tấn, có tham gia vào liên minh và chiến tranh của đại quốc. Vào năm 415 trước công nguyên bị nước Việt tiêu diệt, không lâu sau thì mới phục quốc. Cuối cùng lại bị nước Tống (có sách nói là nước Tề) tiêu diệt. Tổng cộng truyền được 23 đời. Nước Thành - Phong cho Thúc Vũ con trai thứ sáu của Chu Văn Vương (tước Bá). Sách sử không có ghi đời sau của vua nước Thành. Vào năm 1975 ở huyện Kỳ Sơn tỉnh Thiểm Tây tại thôn Đổng Gia phát hiện được một cái *Thành Bá Tôn Phụ Cách*, mới nghi ngờ đây là nền móng khi mới lập quốc của nước Thành ở vùng ngoại ô Tây Chu, đến thời Xuân Thu mới thay đổi phong cho vùng Sơn Đông. Nay thuộc huyện Ninh Dương - Đông Bắc (có nơi nói là ở Phạm Huyền tỉnh Hà Nam). Vào năm thứ 8 triều đại vua Lỗ Trang Công (năm 686 trước công nguyên) nước Lỗ, và nước Tề tiến đánh nước Thành, nước Thành phải đầu hàng nước Tề. Nước Cáo - Phong tước Tử, người sáng lập là con của Chu Văn Vương (không rõ tên gì). Lãnh thổ nằm ở phía Đông Nam huyện Thành Vũ hiện nay, cuối cùng vào khoảng những năm đầu thời Xuân Thu bị nước Trịnh tiêu diệt. Truyền lại đời sau chỉ có một cái đỉnh lớn và cốc rượu của nước Cáo. Nước Mao - cũng lấy Mao làm họ. người sáng lập là con trai của Chu Văn Vương (không rõ tên gì). Nay là phía Tây Nam huyện Kim Hương - Sơn Đông. Sau này sát nhập vào nước Chu (theo: Hậu Tự). Nước Dương -(có nơi nói là họ Yển, cũng có nơi nói là họ Ngự), phong tước Hầu. Thủ đô cũ hiện nay ở phía Tây Nam huyện Nghi Thuỷ - Sơn Đông. Đến năm thứ hai triều đại của Lỗ Mẫn (năm 660 trước công nguyên), nước Tề ép họ di dân rồi chiếm đất. Có nơi nói là ở phía Đông Nam thành phố Thanh Châu, nước Tề đã ép họ di chuyển đến đây. nước Cự - là thuộc địa của nước Lỗ, hiện nay là Sảo Đông huyện Kim Hương. Vào năm Lỗ Ấn thứ hai (năm 721 trước công nguyên), bị nước Lỗ chiếm giữ. Nước Hình - Vị vua đầu tiên lập quốc là con của Chu Công Đán (tên không có ghi chép). Thủ đô cũ hiện này là Hình Đài tỉnh Hà Bắc. Đến năm 662 trước công nguyên, bị nước Trác tấn công, sau đó nước Tề liên minh mới nước Tống, đi giúp nước Hình, rồi đem nó dời đi Di Nghi (có nơi nói là dời đi qua Tây Nam thành phố Liêu Thành). Vào năm 635 trước công nguyên thì bị nước Vệ tiêu diệt. Nước của họ Nhâm. Họ Nhâm (hoặc hiệu là Nhâm), cũng truyền ngôi hoàng đế cho con cháu. Vào triều nhà Hạ trước đây họ sinh sống tại khu vực Nam bộ Sơn Đông. Còn có nước Tiết, nước Thi (Âm shi), nước Chú, nước Qua. Nước Tiết - người lập quốc là Hề Trọng ( sống ở đất Tiết và làm xa(xe) chính cho triều Hạ ) (phong tước Hầu). hiện nay đi 30 dặm về phía Nam Đằng Huyện có khu di tích văn hoá của Tiết thành. Sau đó dời tới huyện Phi, còn gọi là Hạ Phi, hiện nay ở phía Đông Bắc huyện Phi tỉnh Tô Giang. Không lâu sau lại chuyển lên phía trên huyện Phi, tức là phía Bắc - Sơn Tây hiện nay, khi đó Hề Trọng do phát minh được xe chuyên chở, có công giúp Hạ Vũ trị thuỷ nên được phong cho đất Tiết. Sau khi Chu Vũ Vương tiêu diệt nhà Thương, lại tiếp phục phong cho hậu duệ của ông cai quản nước Tiết. Về sau vào thời Xuân Thu, nước Tiết lại di chuyển đến Hạ Phi. Nước Tiết trải qua triều nhà Hạ, nhà Thương, bốn triều đại nhà Chu, có thể kéo dài đến 64 đời. Vào thời Chiến Quốc thì (có lẽ vào năm thứ ba vua Tề Mẫn, tức năm 298 trước công nguyên) diệt vong, gia nhập thành một huyện của nước Tề. Những món đồ được truyền lại đời sau có Tiết hầu di, Tiết hầu đỉnh, Tiết trọng đồng phủ. Nước Thi (邿 国)- cũng được gọi là Thi (诗), Tự (寺). Là một nước chư hầu nhỏ của nước Lỗ, nay ở 50 dặm về phía Nam thành phố Tế Ninh. Vào năm 13 Lỗ Tương Công (năm 560 trước công nguyên) trong nước Thi phát sinh nội loạn, bị chia ra làm ba, bị nước Lỗ thừa cơ đánh chiếm. Truyền lại đời sau có (邿) Thi bá đỉnh, (邿) Thi khiển quỹ, Chùa Quý Đỉnh, Chùa Quý Quỹ. Nước Chú (vừa gọi là họ Kỳ, cũng là Chúc)- phong tước Công. Sau khi Chu Vũ Vương diệt Thương lập quốc. Nay thuộc phía Nam huyện Phi Thành gần sông Vấn Thuỷ tỉnh Hà Bắc. Hoặc sau cũng có thể là do nước Tề tiêu diệt. Nước Quá (có nơi nói là họ Y) - là một đại bộ tộc thời nhà Hạ. Nay thuộc vùng Tây Bắc duyên hải ở huyện Dịch (Lai Châu). Cuối cùng thì bị vua nước Hạ tiêu diệt.

Ba, nước của họ Khương. Tương truyền rằng họ Khương vào lúc đó chính là Viêm Đế. Khu vực đất nước của họ Khương ở Sơn Đông, một phần là ban đầu được Chu Vương phân đất phong hầu, một bộ phận còn lại là của thời đại nhà Hạ, Thương lấy để lập quốc. Còn có nước Tề, nước Kỷ, nước Châu, nước Lai, nước Chương (Zhang), nước Hướng, nước Tốn (Xun), nước Phùng.

Nước Tề (còn gọi là Khương Tề) - vào thời Xuân Thu Chiến Quốc là một cường quốc. Bài "Chiến quốc thất hùng" đứng đầu. Người lập quốc chính là Khương Thượng (tức là Khương Tử Nha trong《 Phong Thần diễn nghĩa 》), phong tước Hầu. Ở nay là vùng Bắc bộ Sơn Đông, lập thủ đô ở Doanh Khâu (hiện nay là trấn Lâm Truy), thuộc quận Lâm Truy địa phận Truy Bác hiện nay. Giai đoạn đầu thời Xuân Thu, sau đó do Tề Hi Công kế vị, và Tề Hoàn Công uỷ nhiệm cho Quản Trọng cách tân, dân giàu nước mạnh, hợp nhất chín nước chư hầu, xưng bá thiên hạ. Vào năm Tề Linh Công thứ 15 (năm 567 trước công nguyên) tiêu diệt nước Lai, mở rộng lãnh thổ đến bán đảo Giao Đông ngày nay. Lãnh thổ quốc gia Đông giáp với Bột Hải (vùng biển giữa bán đảo Sơn Đông và Bán đảo Liêu Đông), Tây đến sông Hoàng Hà, Nam đến núi Thái Sơn, Bắc đến Tân Châu - Vô Đệ Bắc (nay là huyện Nam núi Diêm tỉnh Hà Bắc). Vào cuối thời Xuân Thu, quyền hành đất nước dần dần bị người họ Trần (tức họ Điền) đoạt mất. Vào những năm đầu thời Chiến Quốc, họ Điền được chính thức xếp vào hàng chư hầu, còn vua Tề Khang Công lại bị đày ra bờ biển, sau này ông mất, Khương Tề cũng vì thế mà diệt vong. Nước Kỷ - tước Hầu. Được ban phong cho lập quốc vào những năm đầu thời Tây Chu, nay là thôn Kỷ Đài phía Nam huyện Thọ Quang. Là kẻ thù truyền kiếp của họ Tề, luôn luôn bị bọn họ uy hiếp. Vào năm thứ 8 Tề Tương Công (năm 690 trước công nguyên), cuối cùng cũng bị nước Tề tiêu diệt. Truyền lại đời sau chỉ có cái chuông Kỷ Hầu, cái quỹ Kỹ Hầu, và Kỹ Hầu Chồn. Nước Châu - hoặc gọi là họ Thuần Vu. Tước Công. Thủ đô của họ Thuần Vu (nay là Đông Bắc tỉnh An Khâu). Giai đoạn đầu Xuân Thu bị nước Khởi chiếm đoạt, trở thành thủ đô của họ Khởi. Nước Lai - còn được gọi là Ly. Phong tước Tử. Vào thời gian đó dựa vào Nhà Ân mà tồn tại. Hiện nay phía Đông Nam thành phố Long Khẩu có thành nhỏ của nước Lai, chính là nước Lai cổ đại. Có nơi thì nói là ở phía Đông Nam huyện Xương Ấp. Nước Lai là láng giềng của nước Tề, thường hay có mâu thuẫn và xung đột. Cuối cùng nước Lai bị (năm 567 trước công nguyên), Tề Linh Công tấn công tiêu diệt. Nước Chương - là nước chư hầu của nước Kỷ. Hoặc gọi là thị trấn Kỷ. Thành của nước Chương cũ hiện nay ở 60 dặm về phía Đông huyện Đông Bình. Vào năm 22 Tề Hoàn Công (năm 664 trước công nguyên), nước Chương bị ép quy hàng nước Tề. Nước Hướng - nay thành của nước Hướng nằm ở 70 dặm về phía Nam huyện Cử, tức là huyện Thử. Vào năm 721 trước công nguyên bị nước Cử tiêu diệt. Nước Tốn (còn gọi là Kỳ) - tồn tại tới thời Xuân Thu nhà Ân. Hiện nay là nằm 70 dặm về phía Đông huyện Nghi Thuỷ. Thứ truyền lại đời sau có Tốn Công Tác Thúc Khương Di Chờ. Nước Phùng- là chư hầu của nhà Thương. Sau khi Chu diệt Thương, thì sát nhập vào nước Tề.

Bốn, nước của họ Phong. Họ Phong tương truyền vào lúc đó chính là Thái Hạo. Nghe nói Thái Hạo chính là thủ lĩnh tộc Đông Di, trung tâm hoạt động của họ là ở nước Trần (nay là huyện Hoài Dương tỉnh Hà Nam), sau đó phát triển ở hướng Bắc, rồi từ từ đã khống chế khu vực ở sông Tế Thuỷ. Có nước Túc, nước Nhâm, nước Tu Cú, nước Chuyên Du.

Nước Túc - phong tước Nam. Hiện nay ở 20 dặm về phía Đông Nam huyện Đông Bình. Năm 684 trước công nguyên, nước Tống phái binh di dân của họ đi rồi đoạt đất. Sau này nhập thành một huyện của nước Tề. Nước Nhâm - hiện nay là thành phố Tế Ninh. Vào thời Chiến quốc là chư hầu của nước Tồn. Nhưng vẫn có nơi nói nước Nhâm là chư hầu của nước Hạ. Nước Tu Cú - cũng là Tu Cù. Phong tước Tử. Hiện nay là Tây Bắc huyện Đông Bình, hoặc là ở Đông Nam. Vào năm Lỗ Hi Tông thứ 21 (năm 639 trước công nguyên) bị nước Chu tiêu diệt, năm sau nước Lỗ lấy hôn nhân quốc gia với Tu Cú để chinh phạt nước Chu, sau vua Tu Cú dẫn quân trở về nước khôi phục lại địa vị, sau đó lại bị nước Chu tiêu diệt. Vào năm Lỗ Văn Công thứ 7 (năm 620 trước công nguyên), nước Lỗ tiếp tục tiến đánh nước Chu, đoạt lại nước Tu Cú, hai nước sát nhập lại chung là nước Lỗ. Nước Chuyên Du - là một nước chư hầu nhỏ của nước Lỗ. Thành cỗ của nước Chuyên Du năm ở 80 dặm về phía Tây Nam huyện Phí hiện nay. Nằm ở trong biên giới nước Lỗ, là một hạ thần của vua nước Lỗ, đã từng nhận được lệnh của vua nước Lỗ lừa gạt mà thờ cúng núi.

Năm, nước họ Kỷ. Tương truyền rằng họ Kỷ là một ít hậu duệ còn lại của thủ lĩnh Hạo tộc Đông Di, bị Hoa Hạ tộc coi là man di (hoặc là tộc Đông Di). Có nước Cử, nước Đàm (tan).

Nước Cử (hoặc gọi là họ Tào) - tước Tử, vị vua lập quốc đầu tiên là Tư Dư Kỳ. Thủ đô cũ Giới Căn (Diệc Dự Kiến Cân, hiện nay ở Tây Nam thành phố Giao Châu), giai đoạn đầu thời Xuân Thu thì dời đến Cử (hiện nay là huyện Cử). Nay có An Khâu, Chư Thành, Nghi Thủy, Cử Huyền, Nhật Đằng là huyện thành. Vua của nước Cử không có thuỵ hiệu, lấy địa danh dùng làm xưng hiệu. Giai đoạn Xuân Thu thì, nhiều lần bị nước Tề tiến đánh. Đến năm 431 trước công nguyên thì bị nước Sở tiêu diệt. Nước Đàm (họ Doanh) - tước Tử, nay thành Đàm ở huyện Bắc. Lịch sử không có ghi chép bất kỳ danh hiệu nào của dòng dõi họ. Vua nước Đàm có quan hệ thân thiết với triều Lỗ. Giai đoạn đầu thời Chiến Quốc (năm 414 trước công nguyên) bị nước Việt tiêu diệt. Có thể là hậu duệ của họ đã phục quốc.

Sáu, nước họ Tào. Họ Tào vốn tên là Chuyên Húc, tương truyền Huyền Tôn Lục cả đời có sáu người con, người con thứ năm tên An, là người đầu tiên lấy họ Tào. Có nước Chu, nước Tiểu Chu.

Nước Chu - cũng gọi là Chu Lâu, Trâu. Tước Tử. Người lập quốc là Hiệp. Có các huyện Phí, Trâu, Đằng, Kim Hương và khu vực thành phố Tế Ninh hiện nay. Kinh Đô là Vu Chu (nay là phía Đông Nam thôn Nam Tưu - Khúc Phụ), năm 614 trước công nguyên, Chu Văn Công đem kinh đô dời tới Dịch (nay là phía Đông Nam huyện Trâu thành phố Kỷ Vương). Tuy nước Chu bị nước Hoa Hạ coi là một tiểu quốc man di, nhưng thực lực quốc gia rất mạnh và sử dụng chữ Nhật rất thịnh hành, ở khu vực Sơn Đông nước Chu gần với nước Tề, Lỗ, đã từng nhiều lần tham dự vào liên minh và chiến tranh của các quốc gia, và xuất binh đánh chiếm các quốc gia gần đó. Vào thời Chiến quốc thì bị nước Sở tiêu diệt. Nước Tiểu Chu - còn gọi là Tiểu Chu Lâu. Tước Tử. Vốn là được tách ra từ nước Chu. Được phong làm chư hầu sau khi Chu Văn Vương tiêu diệt nhà Thương, vua nước Chu là người tộc Di Phụ Nhan (là con cháu đời thứ năm của vua Hiệp) cũng được phong tước Tử, phong làm nước chư hầu gọi là Chu, thủ đô là ở Nghê (nay ở phía Đông Nam huyện Đằng Châu). Hậu duệ của ông đã từng có quan hệ gần gũi và giúp đỡ triều đình Tề Hoàn Công, nên đã phong cho ở đất Nghê, vì được tách ra từ đất Chu nên gọi là Tiểu Chu. Và có quan hệ rất mật thiết với nước Lỗ. Vào thời Chiến Quốc thì bị nước Sở tiêu diệt.

Bảy, nước họ Vân. Tương truyền họ Vân là hậu duệ của Đế Cao Tân chính là Hoả Chính Chúc Dung. Có nước Bức Dương, nước Vũ, nước Di, nước Hàn.

Nước Bức Dương - cũng là Phó Dương. Tước Tử. Ở phía Nam thành phố Tảo Trang. Là nước lân cận với nước Chu, Tiểu Chu. Chu vi khu di tích thành cổ rộng 9 dặm, nền móng to và rộng. Vào năm thứ 10 Lỗ Tương Công (năm 563 trước công nguyên) bị Tấn Điệu Nghiệp Đoàn liên kết với nước Tống, Lỗ tấn công tiêu diệt, lãnh thổ sát nhập vào nước Tống, còn con cháu họ xa của họ phải đi tới huyện Hoắc Nhân nước Tấn sinh sống (nay là huyện Đông Giao - Phồn Trĩ - Sơn Tây). Nước Vũ - tước Tử. Ở phía Bắc thành phố Lâm Nghi hiện nay. Vào năm Lỗ Chiêu Công thứ 18 (năm 524 trước công nguyên) người nước Chu tập kích vào nước Vũ, nước Vũ bị nước Chu cướp mất. Năm sau, nước Vũ lấy hôn nhân quốc gia liên kết với nước Tống đánh Chu, làm cho nước Chu bị nước Vũ bắt giữ, sát nhập vào nước Vũ. Cuối cùng sát nhập vào nước Lỗ. Nước Di (sau này còn gọi là Tử) - tước Bá. Thành cổ Tráng Vũ ở 60 dặm về phía Tây thành phố Tức Mặc. Đồ cổ còn lại có Di Bá Quỹ. Nước Hàn - là một đại bộ tộc của nhà Hạ. Ở khu Hàn Đình thành phố Duy Phường. Hàn Trác được xuất phát từ Thử.

Tám, nước họ Quỳ. Tương truyền họ Quỳ này là hậu duệ của vua Ngu Thuấn khi đó. Có nước Toại, nước Tề.

Nước Toại - còn gọi là nước Tuỵ, ở phía Nam thành phố Philadelphia. Năm 681 trước công nguyên bị nước Tề tiêu diệt. Nước Tề - lúc ấy chính là họ Điền ở nước Tề vào thời Chiến Quốc. Năm 386 trước công nguyên họ Điền là đại thần của nước Tề và được Chu Vương phong thành chư hầu, triệt để thay thế chính quyền họ Khương, nhưng vẫn dùng tên "Tề", vẫn ở Lâm Truy. Nước Tề là một trong bảy nước mạnh nhất thời Chiến Quốc, từng đánh bại nước Ngụy tiêu diệt nước Tống, giằng co trong thời gian với nước Tần, nhiều lần tồn tại trong tình hình thời Chiến quốc. Vào năm 17 Tề Mân Vương (năm 284 trước công nguyên) các nước Yến, Tấn, Tần liên kết với nhau tấn công nước Tề, nước Yến đem Lạc Nghị dẫn đầu phá Truy Lâm, từ đó về sau thực lực quốc gia dần dần suy yếu. Vào năm 45 Tề Vương Kiên (năm 221 trước cao nguyên), cuối cùng bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt.

Chín, nước họ Diêu. Họ Diêu cũng chính là hậu duệ của vua Thuấn vào lúc đó. Nước Mân - tức là Hôn. Là một đại tộc quốc gia nước Hạ. Ở nơi 25 km về phía Đông Bắc huyện Kim Hương, Hôn là tên cũ của thành Phụ. 《 tả truyện · chiêu công tứ niên 》: "Hạ kiệt vi nhưng chi hội, hữu hôn chi." Lại trong《 chiêu công thập nhất niên 》: "Kiệt khắc hữu hôn, dĩ vong kỳ quốc."

Mười, nước họ Tự. Tự họ là truyện tự của nhà Hạ triều đại Ngu. Có nước Khởi, nước Tằng, nước Châm Quán, nước Châm Tầm.

Nước Khởi - tước Bá. Nước Khởi được lập vào khoảng thời nhà Thương. Sau khi Chu Vũ Vương diệt Thương, hậu duệ của vua Vũ nhà Hạ, phong Đông Lâu Công cho họ Khởi, nhưng được phong lại một lần nữa, cho nên vẫn gọi là Hạ. Thủ đô ban đầu là Ung Khâu (ở huyện Khởi tỉnh Hà Nam). Sau khi bị quân Hoài Di uy hiếp, cuối thời kì Tây Chu thì bắt đầu di lên hướng Bắc, hoặc có thể coi là thành phố Tân Thái hiện nay. Khi Khởi Thành Công (năm 654-637 trước công nguyên) trị vì được Tề Hoàn Công giúp đỡ, dời đô đến Duyên Lăng (nay ở phía Đông Nam huyện Xương Lạc). Khi Khởi Văn Công trị vị (năm 549-536 trước công nguyên) lại dời đô đến Thuần Vu. Những năm đầu Khởi Giản Công trị vị (năm 445 trước công nguyên) bị Sở Huệ Vương dẫn quân tiêu diệt. Những khí cụ truyền lại đời sau có Khởi Bác Đỉnh, Khởi Bác Đậu Đẳng. Nước Tằng (còn gọi là Tăng) - tước Tử. Cổ thành hiện nay ở phía Đông thành phố Tảo Trang, Sảo Bắc huyện Thương Sơn. Có một lần đã từng là nước chư hầu của nước Lỗ. Vào năm Lỗ Tương Công thứ 6 (năm 567 trước công nguyên), thì bị nước Cử tiêu diệt, vào năm Chiêu Công thứ 4 (năm 538 trước công nguyên) nước Lỗ đoạt được lãnh thổ của họ. Cuối cùng lại thuộc về nước Tề. Nước Châm Quán - là một đại bộ tộc quốc gia nhà Hạ. Ở phía Đông Bắc huyện Thọ Quang. Hoàng đế nước Hạ đã từng sống ở đây. Cuối cùng bị con trai của Hàn Trạc tấn công tiêu diệt. Nước Châm Tầm - là đại bộ tộc quốc gia nước Hạ. Ở phía Đông Nam thành phố Duy Phường hiện nay. Hạ Thái Khang đã từng ở chỗ này. Cuối cùng bị Hàn Kiêu tấn công tiêu diệt.

Mười một, nước họ Tử. Tương truyền họ Tử khi đó là Khương Tổ Khế. Nước Đàm - còn gọi là Chương. Tước Tử. Nay thành Đàm cũ ở phía Tây huyện Chương Khâu, đã từng khai quật được di tích trước Kháng Chiến. Khi mà có một lối đi ở phía Đông Tây nước Tề, năm 684 trước công nguyên bị nước Tề mượn cớ tiêu diệt.

Mười hai, nước họ Yển. Tương truyền họ Yển vào lúc đó là Cao Đào. Nước Hữu Cách - đại bộ lạc quốc gia nước Hạ, ở phía Bắc thành phố Đức Châu. Thái Khang mất nước, là một đại thần quý tộc nước Hạ chạy trốn đến tận đây, tập hợp thế lực còn sót lại, viện trợ Thiểu Khang khôi phục lại quyền thống trị của Triều Hạ.

Mười ba, nước họ Doanh. Nghe nói họ Doanh là hậu duệ của Bá Ích. Nước Doanh - cũng gọi là Cái. Thủ đô cũ ở phía Đông - Khúc Phụ, Bá Ích đã từng đã ở nơi này. Sau này đã trở thành liên minh của nhà Ân. Chu Thành Vương thì đi theo Thương Trụ Vương còn con trai của Vũ Canh phản loạn, chống lại triều nhà Chu, cuối cùng bị nhà Chu tiêu diệt, họ sát nhập vào nước Lỗ.

Mười bốn, nước họ Tất. Tương truyền họ Tất là Phòng Phong Chi vào khi ấy. Nước Sưu Man - Trường Địch Nhất Chi. Nhà Tây Chu hoạt động trong biên giới phía Bắc - Sơn Đông thành phố Tế Nam từ thời Xuân Thu cho tới bây giờ, rất có thể là bộ lạc ở gần biên giới trải qua từng giai đoạn của quốc gia.

Mười lăm, nước Đông Di. Đông Di thời xa xưa là một dân tộc xưa hoạt động ở khu vực Sơn Đông, cuối cùng họ cùng với tộc Hoa Hạ hợp nhất lại. Có nước Giới, nước Căn Mâu.

Nước Giới - ở phía Tây Nam thành phố Giao Châu hiện nay. Vua của bọn họ Cát Lô đã từng bái kiến Lỗ Hi Công, cũng đi theo Sư Viễn Tập ở thủ đô nước Tống. Nước Căn Mâu - là một nước chư hầu của nước Lỗ, nay là ở phía Nam huyện Nghi Thuỷ hiện nay. Năm Lỗ Tuyên Công thứ 9 (năm 600 trước công nguyên), thì bị nước Lỗ đánh chiếm.

Mười sáu, chưa biết rõ là quốc gia họ tổ là gì.

Nước Quách - tước Bá, mà hiện nay là ở phía Đông Bắc thành phố Liêu Thành. Tồn tại từ thời Tây Chu cho tới gian đoạn đầu thời Xuân Thu. Diệt vong vào khoảng triều Tề Hoàn Công trước đây. Có rất nhiều đồ vật truyền lại đời sau. Nước Ô Dư Khâu - hoặc Tác Dư Khâu. Ở khu vực thành phố Nghi Lâm, cũng là ở huyện Chương Khâu. Vào năm Lỗ Trang Công thứ hai (năm 692 trước công nguyên) đã từng bị nước Lỗ công phạt. Nước Mâu - phong tước Tử. Kinh đô cũ của nước Mâu ở 20 dặm về phía Đông thành phố Lai Vu. Là một nước chư hầu của nước Lỗ, kết thông gia cùng với nước Lỗ. Vua của bọn họ đã từng bái kiến Lỗ Hoàn Công. Nước Chuyên - nước chư hầu của nước Lỗ. Ở hơn 30 dặm về phía Đông Bắc thành phố Đàm Thành. Vào năm Lỗ Thành Công thứ 6 (năm 585 trước công nguyên) bị nước Lỗ tiêu diệt. Nước Tân. Là một bộ lạc quốc gia của thời Hạ, Thương, ở phía Bắc huyện Tào. Cùng với Thương Thang kết thông gia. Y Duẫn chính là xuất phát từ nước Thử. Nước Bồ Cô - cũng gọi là Bặc Cô, Bạc Cô. Phía Đông Nam huyện Bác Hưng thành phố Tân Châu hiện nay. Khi Chu Thành Vương lên ngôi, bởi vì tham gia vào cuộc phản loạn Vũ Canh và Đông Di, bị Chu Công tiêu diệt, sát nhập cùng với đất Tề.

── trích từ Lão Dao 《 Sơn Đông cảnh nội quốc gia cổ 》

Chương 33: Danh sách đội khảo cổ Tây Sa ( Bút ký Văn Cẩm )

Quyển bút ký tìm được ở trên thuyền quỷ còn phải tiếp tục nghiên cứu, Tam thúc luôn có thói quen viết bút ký, hơn nữa là bất kì chuyện tình gì cũng rất nghiêm túc, nhưng mà sau khi tôi xem nội dung trong quyển bút ký thì, đã quá mức nghiêm túc cẩn thận, quyển bút ký này có thể là trong lúc Tam thúc đang giám sát Văn Cẩm ghi lại. (npfans chú: Trong một phiên bản nhà xuất bản Đài Châu có nội dung là "Văn Cẩm luôn có thói quen viết bút ký, quyển bút ký cô ấy để lại trên thuyền quỷ, vẫn còn phải tiếp tục nghiên cứu." )

Nội dung của bút ký:

Bố trí khu vực khảo cổ dưới đáy biển

Tổng cộng có bảy khu vực, đồ gốm rải rác trong khu vực rộng khoảng 3000 mét vuông, vị trí thuyền chìm nằm cách trung tâm bãi đá ngầm 30 mét.

Ngày đầu tiên

Ở điều kiện dưới đáy biển như thế này, các biện pháp khảo cổ truyền thống hoàn toàn không thể sử dụng được, chúng tôi chỉ có thể sử dụng biện pháp nghiên cứu tự mình sáng tạo ra. Tuy rằng hoàn cảnh của đại dương và lục địa rõ ràng là rất khác nhau, thế nhưng các biện pháp được sử dụng vẫn là *trăm sông đổ về một biển*. Hiện tại không thể xác định được thứ bị chôn vùi dưới đáy biển kia có hình dạng và kích thước như thế nào, bước đầu tiên cần phải sử dụng xẻng Lạc Dương, để thăm dò đại khái khu vực đó rồi mới có thể khẳng định tiếp được.

Ở dưới đáy biển không giống như trên mặt đất, hiệu quả sử dụng cụ thể ra sao vẫn không được rõ ràng lắm, nhưng tôi cảm thấy vấn đề cũng không quá lớn.

Đồ gốm vớt lên được hôm trước, nhất định là vào thời kì Vĩnh Lạc, đó là một tin tức có thể khích lệ lòng người. Vậy số đồ gốm này, dựa theo vị trí bị chìm thì thấy, chúng tôi đoán chừng là đến từ lò gốm Cảnh Đức Trấn Quan, lấy kiểu dáng Thanh Hoa chỉ vàng làm chủ, bộ phận chôn sâu ở trong cát biển, được bảo tồn rất hoàn hảo. Dựa theo kiểu dáng của những đồ sứ này, chắc là vận chuyển đi Manila, rồi đến địa điểm cuối cùng là Mêhicô. Nếu tôi phán đoán chính xác, vậy thì chắc chắn chiếc thuyền chìm này chủ yếu là chở hàng tơ lụa. Chỉ tiếc là, ở trong môi trường nước biển chúng tôi vốn không có hy vọng tìm được dấu vết của hàng tơ lụa còn sót lại cho đến bây giờ.

Ngày thứ hai

Sử dụng xẻng Lạc Dương gặp một chút vấn đề, làm việc ở dưới nước cần nhiều sức lực hơn nữa, bởi vì vốn không thể sử dụng kết hợp với búa gỗ được, nên chúng tôi phải sử dụng một loại đá ở dưới biển, con hàu rất sắc bén, làm tay nhiều người bị thương.

Sử dụng xẻng Lạc Dương, ở dưới vùng nước sâu mà cũng không phải nơi đặc biệt sâu, thì có thể đề nghị kết hợp với trên thuyền làm việc, ở trên thuyền hai người, dưới nước một người, như vậy hiệu quả sẽ rất cao, còn nếu ở vùng nước sâu hơn, thì nên đề xuất với bọn họ sử dụng máy móc để làm việc.

Bởi vì với điều kiện ở dưới nước, tác dụng quan trọng nhất của xẻng Lạc Dương cũng chỉ là để đánh giá thành phần địa chất của cát dưới đáy biển, để đưa ra "Vấn đề khu vực" và xác định được ranh giới cho phép để giúp công việc khảo sát được tiến hành hiệu quả hơn, cho nên hoàn toàn có thể đổi lại sử dụng mũi khoan địa chất.

Chúng tôi chỉ cần quan sát mẫu vật mũi khoan mang về là đã có thể đánh giá sơ sơ được thành phần địa chất dưới đáy biển rồi. Nếu như dưới đáy biển có thuyền chìm, sẽ có thành phần của gỗ bị vôi hoá hoặc là san hô hóa. Và khác với mặt đất là, chúng tôi không cần căn cứ vào tình hình của gỗ để phán đoán niên đại của chiếc thuyền chìm này. Ở giai đoạn hiện tại, trong nước không người nào có năng lực và của cải có thể hoàn toàn bảo vệ hoặc khai quật được di tích thuyền chìm dưới đáy biển.

Hơn nữa, điều khiến cho mọi người bất ngờ nhất chính là, sau khi thăm dò thì hoàn toàn không phải là hình thuyền, mà là đổi thành hình chữ "Thổ", vật thể ở dưới đáy biển lại đổi thành một hình chữ "Thổ" cứng rắn, kích cỡ khác thường, ở nơi này cách xa vùng duyên hải cũng sẽ không thể phát hiện một cái nền như vậy, vậy thì, vậy thứ to lớn chôn phía dưới lớp cát biển kia là cái gì chứ? Tạm thời chúng tôi cũng chưa dám đưa ra kết luận, chẳng qua tôi có một linh cảm mơ hồ, nếu đúng như tôi dự đoán, sự tình thực sự rất thú vị.

Ngày thứ ba

Những trang bị của đội khảo cổ mang theo ở trong nước biển cơ bản hoàn toàn không thể phát huy tác dụng. Mảnh vải bố quá rộng khi bắt đầu di chuyển dưới nước sẽ làm cho cái cọc đánh dấu được cố định ở đáy biển dấu kéo ra, cuối cùng vẫn phải sử dụng dây thừng mỏ neo trên thuyền cá. Sau này đi khảo sát dưới biển, cần phải mang theo trang bị chuyên dụng để làm việc ở dưới nước. Sợi dây neo vì bị thấm nước, ở dưới nước trọng lượng thực sự rất nặng, không dễ bị sóng nước kéo đi, có thể một sợi dây thường neo thuyền khác tương tự bằng chất liệu gỗ, có sơn màu sắc rõ ràng, để ở trên thuyền có thể quan sát dưới đáy nước tốt hơn.

Sau khi thông qua hình dạng sợi dây cuối cùng cũng xác định được hình dáng, tôi có thể khẳng định, đây là một tòa cổ mộ hải táng rất lớn, quy mô của nó hoàn toàn không thể đoán được, hơn nữa nằm ở một nơi cách xa vùng duyên hải như vậy, vậy thì đây là một của ai?

Ngày thứ tứ

Từ trong một mảnh gỗ mẫu vật được lấy dưới đáy biển, phát hiện được đấu vết của lưới đánh cá và tro bui lẫn lộn với đất nhão, đây là thuyền đánh cá dùng để niêm phong thân tàu và dính lại các khe hở. Nói vậy thì, cổ mộ đã được xử lý để hoàn toàn phong kín lại rồi, thì rất có khả năng bên trong cổ mộ dưới biển kia, vẫn sẽ còn không khí. Mà có khả năng đang có không khí nhất là nằm ở, hai điểm A và B, bởi vì hai cái phòng này tương đối nhỏ hơn, hơn nữa không gian cũng khá độc lập.

Vấn đề lớn nhất lúc này, là làm sao có thể tiếp cận được trong điều kiện dưới nước, đi vào trong cổ mộ mà không phá hỏng không gian có không khí được phong kín đây? Muốn thực hiện được một chức năng truyền thống có tác dụng như vậy, cần phải có một khoang thuyền trống bí mật, e rằng chúng tôi phải đục một cái lỗ trên chiếc thuyền chìm này. Vậy thì phải làm công việc của thuyền trưởng.

Ngày thứ năm

Ngày 21 tháng 7, chúng tôi chuẩn bị lần đầu tiên đi vào cổ mộ dưới đáy biển, thông đạo đi vào tôi đã tìm được, sau khi nghĩ thông suốt sau liền hiểu được, cổ mộ này thực ra cũng không quá phức tạp.

Ngày 24 tháng 7, lần đầu chúng tôi đi vào trong,phát hiện bên trong cổ mộ có hiện tượng kỳ quái, xem ra, cổ mộ này cũng không "Sạch sẽ"


Danh sách thành viên đội khảo cổ Tây Sa:

Họ tên Giới tính

Ngô Tam Tỉnh Nam

Trần Văn Cẩm Nữ

Trương Khởi Linh Nam

Giải Liên Hoàn Nam

Lý Tứ Địa Nam

Tề Vũ Nam

Hoắc Linh Nữ

Thi thể người đàn ông được đem trở về

Người không biết thứ 2 Nam

Người không biết thứ 3 Nam

Người không biết thứ 4 Nữ

Chương 34: Một số tài liệu khác có liên quan

Thuật kì môn độn giáp

Nghỉ môn, Sinh môn, Thương môn, Đỗ môn, Cảnh môn, Tử môn, Kinh môn, Khai môn đồ

Kỳ môn độn giáp thuật lại:

"Kỳ môn độn giáp" có ý nghĩa sâu xa gì? Chính là do "Kỳ", "Môn", "Độn giáp" ba khái niệm tạo thành."Kỳ" là Ất, Bính, Đinh là ba Kỳ. "Môn" là Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai gồm tám Môn. "Độn" có nghĩa là ẩn dấu, "Giáp" là chỉ Lục Giáp, chính là Giáp Tử, Giáp Tuất, Giáp Thân, Giáp Ngọ, Giáp Thần, Giáp Dần, "Độn Giáp" là ở giữa Thiên Can tôn quý nhất, nó ẩn mà cũng không hiện, ẩn trốn ở bên dưới Lục Nghi."Lục nghi" chính là Mậu (ngôi thứ năm trong Thiên Can), Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Nguyên tắc của Độn chính là Giáp Tử và Lục Mậu, Giáp Tuất và Lục Kỷ, Giáp Thân và Lục Canh, Giáp Ngọ và Lục Tân, Giáp Thần và Lục Nhâm, Giáp Dần và Lục Quý. Ngoài ra còn có phối hợp với Bồng, Nhậm, Xung, Phụ, Anh, Nhuế, Trụ, Tâm, Cầm Cửu Tinh. Kỳ Môn Độn Giáp chiêm trắc chủ yếu chia thành Thiên, Môn, Địa Tam Bàn, Tượng Chinh Tam Tài. Thiên Bàn Cửu Cung có chín ngôi sao, Trung Bàn Bát Cung (Trung Cung đặt ở Nhị Cung) Bố Bát Môn, địa bàn Bát Cung đại diện cho tám hướng, yên tĩnh bất động, trên địa bàn song song của Thiên Bàn, mỗi cung đều chia thành Cơ (Ất, Bính, Đinh) Nghi (Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý Lục Nghi). Như vậy, căn cứ vào thời gian cụ thể, với Lục Nghi, Tam Cơ, Bát Môn, Cửu Tinh Bài Cục, dùng Chiêm Trắc để xem quan hệ của các sự vật, tính chất và trạng thái, hướng đi, lựa chọn để lựa chọn giờ lành cát phương, thì hợp thành một trong Môn trong văn hoá thần bí Trung Hoa - Kỳ Môn Độn Giáp. (hiểu chớt liền ớ)

Hai mặt nhân thân xà văn (phụ tương quan tranh minh hoạ)

Nhìn mấy thứ này, tôi rất hoài nghi đó có phải là người hay là đời sau của rắn hay không?

Ở trong lịch sử cổ đại Trung Quốc, có một hiện tượng kỳ quái, và rắn có liên quan tới vô cùng nhiều thần linh, ở trong《 Sơn Hải Kinh 》ghi lại 454 nhân vật có 138 nhân vật có hình dạng liên quan đến rắn, trong đó những vị thần có thân rắn được nhắc tới là: Phục Hy, Nữ Oa, Hoàng Đế thậm chí cả Tây Vương Mẫu.

(Điều làm tôi đặc biệt biệt kinh ngạc nhất chính là, Tây Vương Mẫu được ghi chép lúc ban đầu trong đó, cũng là đầu người thân rắn, và có hình ảnh thuộc loại giống như Phục Hy Nữ Oa)

Dựa vào suy đoán hiện tại vậy hình tượng người đầu người thân rắn đều là do vật tổ của các bộ tộc được biến đổi mà ra, thế tức là từ hình mẫu của Tây Vương Mẫu biến đổi đầu người thân rắn đến đầu người thân báo, có phải là vì thuộc tính của bộ lạc Tây Vương Mẫu thay đổi hay không.

Có lẽ ban đầu Tây Vương Mẫu cũng là thành viên thuộc bộ tộc Phục Hy, rồi ở dưới tình hình nổi loạn tự mình lập bộ lạc nào đó, Tây Vương Mẫu đi thành lập chính quyền của riêng mình?

Cái này thì không thể nào biết được.

Rắn song thân, đại biểu cho cơ quan sinh dục của nam giới, một cái thật lớn, quả nhiên loại vật này vẫn là càng lớn càng tốt. Có hai cái lớn như vậy thì tốt hơn. Khả dĩ đả hồ điệp kết ngoạn nhi.

Xá Quốc

Vào thời cổ đại ở Thiểm Tây đến Hồ Bắc vào lúc đó cố một quốc gia cổ tên là " Xá Quốc ", quốc gia này tồn tại vào hai ngàn năm trước, rồi đột nhiên thì biến mất.

Rõ ràng đoạn lịch sử vào lúc đó của quốc gia này, lại xuất hiện lặt vặt trong không ít thẻ tre cổ, vào giai đoạn đầu nhà Tây Chu hình như đã từng trải qua một đoạn thời gian bỗng nhiên trở nên hưng thịnh, sau đó giai đoạn giữa nhà Tây Chu, lại đột nhiên im lặng biến mất, hình như là ở trong từ mười đến hai mươi năm, rồi lại nhanh chóng biến mất ở trong rừng rậm nguyên thuỷ.

Ở trong rất nhiều truyền thuyết đều có nhắc đến sự tồn tại của bọn họ, trong "Sơn Hải Kinh" cũng có ghi chép một lượng lớn, ngoài ra trong đó còn thường xuyên nhắc tới "Xà Quốc", chắc hẳn chính là quốc gia này, Xá chính là đồng âm của Xà (rắn), dân tộc này đem một loại người có mặt người và hai thân thể là rắn được xem như là thần linh, vì thế trên rất nhiều thứ trang sức, đều có hoa văn rắn hai thân.

Hiện nay những nhà nghiên cứu lịch sử của quốc gia người cổ đại này, phần lớn đều cho rằng, vậy "Xá Quốc" thần bí này chính là hậu duệ của "Hoa Tư cổ quốc" chia ra, đời trước của bọn họ khi đó có quan hệ mẫu hệ, quốc gia này lấy vật tổ là người mặt người hai thân rắn, chủ yếu nếu là vì "Hoa Tư cổ quốc" có truyền thuyết của "Phục Hy nhân diện xà thân".

Bởi vì những tài liệu này đều là đến từ trong sách cổ và tài liệu khai quật, cho nên quốc gia này có thực sự tồn tại hay không, giới khoa học vẫn luôn có tranh cãi.

Bích hoạ ở Vân Đỉnh Thiên Cung Bích hoạ trong cổ mộ dưới đáy biển

Những ảnh chụp của A Ninh về 15 bức bích hoạ dưới đáy biển

Chương 35: 009 nước Đông Hạ

Tư liệu:

Trong sử sách rất ít nhắc tới bộ tộc Nữ Chân tồn tại ở Đông Hạ, quốc gia đó có thật, vào thời kỳ nhà Kim suy vong, để tìm cách phục hưng bộ tộc Nữ Chân, họ đã ly khai và trở thành quốc gia tự trị, tồn tại hơn bảy mươi năm. Lãnh thổ trải dài từ Cát Lâm tới một phần lớn sông Hắc Long Giang, từng cùng với Mông Cổ chia sẻ cống phầm từ Triều Tiên, xưng bá toàn bộ khu vực Liêu Đông*. Lấy quốc hiệu ban đầu là Đại Chân, về sau đổi Thành Đông Hạ, sách sử Triều Tiên còn gọi là Đông Chân.

Liêu Đông: Liêu Đông (Trung văn giản thể: 辽东; Trung văn phồn thể: 遼東; bính âm:Liáodōng) dùng để chỉ khu vực ở phía đông của Liêu Hà, nay thuộc vùng phía đông và phía nam của tỉnh Liêu Ninhcùng khu vực phía đông nam của tỉnh Cát Lâm.

Thứ nhất, Bồ Tiên Vạn Nô:

Đầu tiên, cần phải giới thiệu qua một chút về người thành lập quốc gia cổ đó- Bồ Tiên Vạn Nô, trong lịch sử Đông Bắc nước ta có đề cập tới đây là một nhân vật kiệt xuất, nhưng trong "Kim sử"*, "Nguyên sử"* thì lại không có truyền lại, chỉ có thể thấy được ở một vài "ghi chép", hoặc "giai thoại" thưa thớt là đề cập tới. Có thể là những sử gia thời kỳ này còn định kiến với ông ta, coi là "nghịch tặc", "phản thần", xa rời thực tế sửa đổi lịch sử, tài liệu về sau không được trọn vẹn, từ đó tới mấy trăm năm sau trong " tân Nguyên sử"* "Nguyên thư" mới có thể bổ khuyết vào đó.

"Kim sử"*:Kim sử là một bộ sách lịch sử trong 24 bộ sách sử của Trung Quốc (Nhị thập tứ sử), doThoát Thoát biên soạn năm 1345. Tổng cộng có 135 quyển và viết từ sự ra đời cho đến khi diệt vong của nhà Kim.

"Nguyên sử"*:Nguyên sử (tiếng Trung: 元史, bính âm: Yuán Shǐ) là một tác phẩm doTống Liêm (1310-1381) và một số quan lại khác phụng mệnh Minh Thái TổChu Nguyên Chương biên soạn năm 1370. Do thời gian biên soạn ngắn, nên chất lượng Nguyên sử bị đánh giá là thấp nhất trong Nhị thập tứ sử. Đến thời sau, Trung Quốc đã phải biên soạn bộ Tân Nguyên sử để sửa những sai sót của Nguyên sử.

Chú thích: Nói như vậy cũng không rõ ràng, nếu ở "Kim sử" "Nguyên sử" các tài liệu về sau đều không trọn vẹn, vậy vì sao trong mấy trăm năm sau còn có thể bổ khuyết thêm giai thoại vào đó? Nói vậy, các sự kiện được thêm vào phải chăng là hư cấu? Nếu thế còn không chặt chẽ bằng những ghi chép tản mạn trước đó. Ngoài ra, thành kiến của sử gia cũng rất khó hiểu, vì sử sách làm ra cái chính là để ghi lại mặt tốt mặt xấu, nguyên nhân mà lịch sử không ghi chép lại chỉ có duy nhất một điều, chính là nhân vật này không quan trọng. Nếu quả thực là như vậy, ngược lại viết xuống những việc xấu chẳng phải sẽ khiến ông ta lưu tiếng ác muôn đời mới đúng.

Giai đoạn lịch sử này, chẳng hay là sử gia cho rằng không quan trọng, nên không muốn để lại bất kỳ một tư liệu nào, có muốn bịa đặt ra cũng không thể.

Bồ Tiên Vạn Nô, Nguyên quán là người Liêu, trước vẫn tồn tại hai trường phái đánh giá đối với ông ta: một là phản diện, cho rằng ông ta là một người đầy dã tâm, thân làm phản loạn, trong sử sách triều nhà Kim có nội chiến phân tranh, lực lượng chống quân Mông Cổ suy yếu, hẳn là có ý phê phán. Hai là chấp nhận, tán thưởng ông ta là "Liêu Đông quái kiệt", thậm chí tiếng tăm của ông còn "sánh ngang A Cốt Đả"*. Bởi tư liệu lịch sử bị khuyết thiếu nên tài liệu về thời kỳ này không được bảo tồn lại, mặc dù danh tính của nó không đồng nhất, còn có bản viết là Hoàn Nhan Vạn Nô, Phu Hợp Nột, Phú Tiên Vạn Nô, Bố Hi Vạn Nô, Ngốc Châu Đại Thạch, Vạn Gia Nô, Dã Nô, Tiêu Vạn Nô, Vạn Túc Nô Đẳng. "Phu Hợp", "Phú Tiên", trong đó "Bố Hi" và "Bồ Tiên" là biệt hiệu, "Nột" và "Vạn Nô" là tùy vào cách đọc. "Hoàng Nhan" có thể là được vua Kim ban cho.

A Cốt Đả*: Kim Thái Tổ (chữ Hán: 金太祖, 1 tháng 8 năm 1068 - 19 tháng 9 năm 1123) là miếu hiệu của vịhoàng đế khai quốc của nhà Kim tronglịch sử Trung Hoa, trị vì từ ngày 28 tháng 1 năm 1115 cho đến ngày 19 tháng 9 năm 1123. Tên thật của ông là Hoàn Nhan A Cốt Đả (chữ Hán: 完顏阿骨打, bính âm:Wanyan Aguda), có tên Hán là Hoàn Nhan Mân. Ông là người sáng lập và là vị hoàng đế đầu tiên của triều đại nhà Kimtrong lịch sử Trung Quốc.

Chú thích: Nói cách khác, lịch sử hiện tại ghi lại có thể là do vô số lần phát âm nhầm tên họ mà tập hợp thành. Đây là điển hình của sai phạm trong sử sách, hay như hai người tên giống nhau thành ra lý giải làm cùng một người.

Ông ta xuất hiện lần đầu trong sử sách là ở chương Tông Thái năm thứ sáu (1206) của Kim sử, với Thượng cứu cục sứ ( Thượng cứu cục là chức ti ngự mã điều tập mục dưỡng ky cấu (chức này hiểu đơn giản là quản lý :D ), thứ bậc là "đi sứ", hàng ngũ phẩm) làm cánh phải Đô thống Hoàn Nhan Tái Bất trong trận chiến với quân Tống ("Kim sử" quyển 12 "chương tông kỷ tứ"; quyển 113 "Hoàn Nhan Tái Bất truyện"), Vạn Nô thần binh, phối hợp với Hoàn Nhan Tái Bất tiến công chính diện, thành công đánh tan chủ lực của nhà Tống do Hoàng Phủ Bân cùng mấy vạn kỵ binh giành thắng lợi lớn. Vì người cầm quân bất tài nên Mông Cổ bại trận, quân cạn khí kiệt. Cùng năm, Gia Luật Lưu Ca khởi binh phản Kim, dân tộc Khiết Đan khởi quân hưởng ứng. Tới năm Ninh Nguyên (1213) ông ta thảo ra Bình Lộ Chiêu Thảo Sứ, đóng quân yên ổn tại Hàm Bình (Liêu Linh, Khai Nguyên). Đánh trận Địch Cát Não Nhi( Liêu Ninh cạnh Xương Đồ), đại bại, Vệ Thiệu Vương* lần thứ hai khoan nhượng tha cho ông ta, giáng chức làm Bình lộ tuyên phủ sứ. Năm Kim Tuyên Tông Trình Hữu thứ hai (1214), nhậm chức Liêu Đông tuyên phủ sứ, trở thành đại quan của đặc khu quân sự tối cao tỉnh Liêu Đông. Cùng năm, phái Lưu Ca lần thứ hai đánh chiếm Quy Nhơn (Bình Định, Việt Nam), do khinh địch mà đại bại, thoái lui tới Đông Kinh.

Vệ Thiệu Vương*(1168?-11 tháng 9,1213), tự là Hưng Thắng, húy Hoàn Nhan Doãn Tế, sau vì kiêng húy Hoàn Nhan Doãn Cung nên cải thành Hoàn Nhan Vĩnh Tế, là hoàng đế thứ 7 của nhà Kim, tại vị trong 5 năm (29/12/1208 - 11/9/1213)

Thứ hai, dựng nước xưng vương.

Năm 1214 Kim Tuyên Tông* chạy về phía Nam Kinh (Khai Phong), Trung Đô (Bắc Kinh) định trệ, Kim triều diệt vong kết cục đã định, vì giao thông đường bộ bị cắt đứt mà Liêu Đông trở thành một quốc gia thuộc địa nước ngoài, tình cảnh càng nguy nan, "triều Kim cai quản rất nghiêm, Vạn Nô lấy làm sợ trong lòng không yên, nên khi nghe nói đã di giá về phía đông - Biện Khai Phong ( tỉnh Hà Nam), không có thì giờ gặp mà quay đầu lại nhìn chủ, vào lúc suy tính đã vô tình chiếm cứ các vùng lân cận" ("Mông Ngột Nhĩ sử ký/ Bồ Tiên Vạn Nô truyện" ) lần thứ hai bại vào tay Lưu Ca khiến cho ông ta nhận ra rằng nhà Kim đã vĩnh viễn không thể phục hưng lại được, cho nên chỉ có thể thay đổi kế hoạch khác, xây dựng một sự nghiệp mới hoàn toàn tách biệt, có thể vừa vực dậy lòng dân, lại vừa thoát khỏi những quy định của nhà Kim.

Kim Tuyên Tông* (金宣宗) là một vị hoàng đế của nhà Kim trong lịch sử Trung Hoa. Tên thật của ông làHoàn Nhan Ngô Đổ Bổ (完顏吾睹補), sau đổi thành Hoàn Nhan Tuần (完顏珣), sau lại đổi thành Hoàn Nhan Tòng Gia (完颜從嘉), cuối cùng lại đổi thành Hoàn Nhan Tuần. Ông là vị hoàng đế thứ 8 trong số 10 vị hoàng đế của nhà Kim. Hoàn Nhan Tuần trị vì từ năm 1213 đến năm 1224. Các niên hiệu trong thời kỳ trị vì của ông là Trinh Hữu (1213-1217), Hưng Định (1217-1222), Nguyên Quang (1222-1223). Miếu hiệu của ông là Kim Tuyên Tông.

Mùa xuân năm Kim Tuyên Tông Trịnh Hựu thứ ba (1215), Vạn Nô phát động binh biến, chia làm hai đạo, một đạo yểm trợ xuôi xuống phía Nam, một đạo chủ lực chạy lên phía Bắc, nhằm đánh chiếm mục tiêu chiến lược là Thượng Kinh (Bắc Kinh), cấp tốc chiếm Liễu Hàm Bình, Đông Kinh, Thẩm Dương, rừng Đằng Châu, tiếp theo lại tiến công thần tốc vào phủ, đánh qua kinh thành. Không lâu sau Lưu Ca nhân cơ hội tập kích Đông Kinh, lập quốc lấy tên "Liêu", vợ Vạn Nô là Lý Tiên Nga có thể là bị ép gả. Nhưng Lưu Ca lại vô ý lưu lại quá lâu, cướp bóc một phen sau mới rời đi, Vạn Nô lúc đó đã có thể thu phục Đông Kinh,

Chú thích rằng: Đáng thương thay Lý Tiên Nga, ép gả là một từ ngữ ám muội, chân thực như thế nào hẳn mọi người đều biết.

Khởi binh lần thứ nhất, mặc dù đạt được "Thẩm Dương, rừng Gia Châu, thành công mục đích khắc chế người tài phò tá", nhưng không lâu sau lại vấp phải sự cản trở, sau đó phải quy phục Tân Ca, công khai hoạt động ,nghiêm trọng hơn là căn cứ ở Đông Kinh đã mất, trải qua mấy tháng giáo huấn kinh nghiệm, Sử Vạn Nô nhận thức được cái danh nghĩa tuyên phủ sứ Liêu Đông kia không có bao nhiêu tác dụng, phải thay đổi quy chế, xây dựng lại một quốc gia mới phất cờ xưng vương. Nặng về tinh thần dân tộc Nữ Chân, lại có thể tạo được nhuệ khí trong lòng tướng sĩ Liêu Đông, mục đích mua chuộc lòng dân. Năm Ất Hợi (Công Nguyên năm 1215, năm Kim Tuyên Tông Trinh Hữu thứ ba), tháng mười, ở Đông Kinh lập lên một thủ đô đặt là Thiên Vương, quốc hiệu "Đại Chân",niên hiệu Thiên Thái, mưu cầu tộc Nữ Chân được phục hưng.

Chú thích rằng: Từ đây có thể thấy được, cũng không có bao nhiêu tài năng quân sự, ngược lại đây là kiểu thừa loạn lạc mà chiếm tiện nghi của kẻ tiểu nhân, tại lúc đó muốn vơ vét cũng không có khả năng, cuối cùng không thể làm gì khác hơn là đành buông tay trước tất cả những nguyên tắc hèn mọn. Trong cái dã tâm của kẻ kiêu hùng cũng bao hàm cả điều đó, tất nhiên đối với tôi ông ta vẫn là một anh hùng, nhưng vào cái thời thế lúc bấy giờ, hào quang đó của ông ta chắc chỉ có thể phụ trợ cho sự vĩ đại của những người khác mà thôi.

Thứ ba, lý do đầu hàng Mông Cổ

Buổi sơ khai khi Đại Chân được thành lập, tình cảnh gian nan, mông muội, Kim, Liêu bi cục diện Tam Quốc vây khốn, cách trở đường bộ liên lạc với bên ngoài. Nam Liêu Đông và đông Kim triều trở thành địch nhân gần nhất, trong lúc bị uy hiếp quẫn bách đó, triều đình nhà Kim liền lấy lý do ân xá cho Liêu Đông mà thi hành sách lược phân tách, mưu đồ lung lạc và tan rã tâm lý quân sĩ, phá đổ từ bên trong, lại thêm điều chỉnh Liêu Đông Bộ Thư, "chiếu dụ chư tướng Liêu Đông cùng chí hướng". Mà nội bộ Liêu đang tự chém giết lẫn nhau, còn di dời sang địa phận Liêu Tây, Lưu Ca liền đầu hàng Mông Cổ, trở thành một nước thuộc địa. Mặc dù bị uy hiếp nhưng địa vị đã chuyển xuống thứ yếu. Vì thế đối với Đại Chân mà nói, địch nhân nguy hiểm nhất chính là quân tiên phong tới từ Mông Cổ. Nếu như vẫn giữ thái độ cứng rắn thì chắc chắn sẽ bại vong, nếu giả hàng thì còn có thể bảo tồn thực lực, nằm im chờ thời. Vì vậy,đương lúc tháng Mười năm 1216 liền gửi thư xin hàng, nhận Tử Thiếp Kha làm người cai quản.

Chú thích: quả nhiên.

Thứ tư, Đông chuyển thành Hạ

Bồ Tiên Vạn Nô mất cảnh giác với Mông Cổ, buông lỏng hoàn toàn phòng bị, sau một thời gian đầu hàng không lâu liền thừa cơ "đem hơn mười vạn người, trốn ra hải đảo" (" Nguyên sử, Mộc Hoa Lê truyện"), giả vờ co quắp nằm im, thái độ vô ý quay đầu trở lại, tiến hành một cuộc di dời quân sự tầm cỡ, bảo tồn, dưỡng sức thuộc hạ. Tháng 2 năm 1217 Liêu Đông thống soái quân Mông Mộc Hoa Lê chuyển hướng nam phạt, tiến hành âm mưu thôn tính Trung Nguyên, không để lại binh lực dự phòng tương ứng. Vạn Nô cho rằng cơ hội đã tới, lập tức khởi binh giết chết giám quân Da Luật Niết Nhi Kha, lên đường đi Đông Thiên, đại khái là hai hướng nam bắc đồng thời cũng tiến hành.

Trước vẫn là liên tục chiến đấu ở các chiến trường xung quanh hạ du Lục Giang, tháng tư công phá doanh trại đại phu, Vạn Nô dẫn theo quân chủ lực chạy lên bắc thượng tiến công phủ Long An (Cát Lâm, Nông An), Kim Liêu, quan phủ Bắc Kinh chức tuyên phủ sứ kiêm tả phó nguyên soái Bồ Sát bỏ thành tháo chạy tới Biện Kinh (Khai Phong). Lát sau quân tiến vào thủ phủ Bắc Kinh, một đường yên bình thông suốt, đốt miếu thờ vua, bắt nguyên soái Thừa Sung, đoạt được thành Bắc Kinh, giết thủ quân đồn trú Hãn Lão Nhi, nhưng Thừa Sung khi đó vẫn cố thủ, về sau được thêm viện binh, không thành công. Vì vậy quân rút về hạt Lại Lộ, rồi nhanh chóng tiến về giáp danh Tần Lộ. Chủ lực vào tháng 12 năm 1218 trên cơ bản đã thành công chiếm được Đông Thiên. Nhưng thế lực còn sót lại tiếp tục kế thừa những hoạt động ở Nam Liêu Đông trong một khoảng thời gian. Tới năm 1217, giữa tháng Bảy, lần thứ hai độc lập sửa quốc hiệu thành Đông Hạ, niên hiệu vẫn giữ là Thiên Thái, lập thủ đô Nguyên Thành (địa danh này ở nhiều bản ghi không đồng nhất.). Cũng phải nói quốc hiệu ban đầu là Đại Hạ, mà nơi đây là ở Đông phương, tên như vậy là để phân biệt với Tây Hạ. Sử sách Triều Tiên gọi là Đông Chân.

Chú thích: Đoạn này thời gian chiến tranh chênh lệch, cũng tốt, rõ ràng là năng lực của Bồ Tiên Vạn Nô khá đầy đủ, nếu như phát triển tốt, lúc này đây có thể tạm thời nhàn hạ, lợi dụng tài nguyên cấp tốc củng cố phòng thủ Thành Đô, mở rộng quân đội, tới khi các thế lực khác kịp hành động, xem chừng đã chậm, một địch nhân cường đại đã xuất hiện.

Thứ năm, uy chấn Liêu Đông

Đông Hạ lập quốc, triều đình nhà Kim chọn Bồ Sát Ngũ Cân làm thượng thư tỉnh Liêu Đông, bố trí lại Bắc Kinh, trong khi Liêu Đông cai trị vùng đất Vu gia đã ra tay tàn sát dã man, nhưng quân Kim bấy giờ không thể nhanh chóng trở lại, gian nan chống đỡ tình thế nguy hiểm, làm thế nào có thể chiến đấu với sức mạnh của nước Đông Hạ kia? Tại thời điểm này, Mông Cổ là lực lượng quân sự của Tây Hạ, còn với nhà Kim tại Trung Nguyên, Liêu Đông quá bận rộn để phân chia lực lượng của mình cho sự phát triển và mở rộng của Đông Hạ. Chỉ với thời gian một năm, thông qua phát triển lực lượng quân sự, đạt được thế lực tầm cỡ, so với sự biếng nhác của quân Kim, liên tiếp thay đổi và phát triển khu vực, ranh giới của phạm vi mở rộng tới vùng Bột Hải (vùng biển giữa bán đảo Sơn Đông và bán đảo Liêu Đông Trung Quốc), phía Tây bắc của thành phố lan ra tận hồ Lý Cải Thành (Hắc Long Giang, Y Lan), tây tới Trương Quải Tài Linh, nam tới Triều Tiên Thanh Châu (Triều Tiên khu vực Bắc Nhất Đài), mở rộng nhất là phía nam từ phía tây kéo dài tới phía đông sát với Triều Tiên, phía bắc chạy đến hạ du Hắc Long Giang, khu vực Hắc Long Giang ở hạ lưu Y Lan, từ phía tây đến phía nam của trung tâm Cát Lâm, trong khu vực Hắc Long Giang (bao gồm cả bên trong thành Bắc Kinh), phía đông tới vùng biển Nhật Bản. Da Luật Lưu Ca khởi binh, tất cả đều là tự lực kêu gọi, lại đầu hàng Mông Cổ, thủ hạ phản bội, một phần trong số chúng đã xâm nhập vào lãnh thổ của Triều Tiên, đe dọa nhà vua, Triều Tiên hy vọng Mông Cổ, Đông Hạ " dẫn quân đến cứu viện, quét đi lũ phản tặc" ("Triều Tiên sử"). Năm 1218 Thành Cát Tư Hãn phái Nguyên soái Hắc Chân và Trát Lạt, dẫn theo mười ngàn binh sĩ tiến quân sang tương trợ Triều Tiên, theo lời đề nghị tới thành Gian Đông, tháng Giêng xuân 1219, thủ lĩnh đối phương Hảm Xá tự tử, trong khi những người còn lại ra hàng, dẹp loạn thành công. Triều Tiên là tỏ ý cảm tạ nên hằng năm đem cống phẩm tới hai nước, hai nước cũng đã đồng ý phái đại sứ đến Triều Tiên thu lạp cống phẩm. Kể từ đó, Mông Cổ phái người tới Triều Tiên đốc thúc và giám sát giao nộp đốc cống phẩm, cũng cho sứ thần giao thiệp qua lại với biên giới Đông Hạ, thân nhau như người một nhà. Nguyên soái Mông Cổ Cáp Chân Tằng đã từng nói với Triều Tiên: "Cùng nhau giao hảo, trước là tới lễ hoàng đế Mông Cổ, sau là tới lễ hoàng đế Vạn Nô "(" Triều Tiên sử"), điều đó chỉ ra rằng Mông Cổ đã công nhận Bồ Tiên Vạn Nô tự xưng đế. Đông Hạ gửi phái viên bôn ba ngàn dặm tới triệu kiến Thành Cát Tư Hãn, thể hiện phép lịch sự. Điều này đã duy trì được mối quan hệ thân thiết cho đến năm 1224, sáu năm trước."

Chú thích: Thật không may, bị các chính sách dụ dỗ của Mông Cổ che mắt. Lúc này Vạn Nô vương sợ không dám nghĩ tới mình và Mông Cổ nếu đối đầu tình hình sẽ như thế nào, mọi sự diễn ra ông ta đều chỉ muốn duy trì ở thế cân bằng. Tuy nhiên, Triều Tiên thời điểm đó không phải là đồng minh đáng tin cậy, dưới một Mông Cổ cường hãn như vậy, Triều Tiên lập trường cũng không vững chắc, cục diện cũng trở lên tiến thoái lưỡng nan.

Thứ sáu Đông Hạ sụp đổ

Tuy nhiên, quan hệ hữu nghị giữa Đông Hạ và Mông Cổ chỉ là thiện chí ngoài mặt, thỏa hiệp chính trị tạm thời, thực tế chỉ là lừa bịp, đấu đá nội bộ, là để giành chiến thắng, áp bức Triều Tiên cô lập đối phương. Đối mặt với Mông Cổ cường đại, vẫn tiếp tục gửi quân sang xâm nhập cướp bóc biên giới đối phương, dẫn đến việc hai nước thường nổ ra chiến tranh quy mô nhỏ, tiêu hao lực lượng quốc gia, nhưng không đạt được thêm điều gì. Năm 1223 Mộc Hoa Lê* chiếm Trung Nguyên không thành, chết ở Sơn Tây. Trong năm 1224 quan hệ Đông Hạ với Mông Cổ xuất hiện của bước ngoặt mới, chỉ trong một tháng, Đông Hạ gửi Triều Tiên hai công văn: "Thứ nhất là:" Thành Cát Tư Hãn Mông Cổ , lão tướng ở nơi xa xôi, không biết có còn tại thế, Ngoa Xích Hãn tham bạo bất nhân, cắt đứt mối hữu hảo ngày trước'; Thứ hai là: "Bản quốc ở Thanh Châu, quý quốc ở Định Châu, đều tự có lập trường, buôn bán như trước kia" ("Triều Tiên sử"). Từ đó, sứ giả Mông Cổ không còn thông qua biên giới Đông Hạ. Mối quan hệ song phương thù địch, Đông Hạ do tính sai tình hình nên chịu trách nhiệm chính, nhưng hoàng đế Mông Cổ Oát Xích Cân (Ngoa Xích Hãn) tàn bạo bất nhân, lại đối với Đông Hạ cướp cống phẩm bừa bãi, cũng là một trong những nguyên nhân. Quan hệ hai nước tan vỡ, nhưng chưa vì vậy mà dẫn tới gay gắt. Năm 1227 Thành Cát Tư Hãn chết, Oa Khoát Thai tại vị, trải qua ba trận chiến lớn, chủ lực nhà Kim diệt vong, Mông Cổ thay đổi chính sách đối ngoại mở rộng, bắt đầu từ các lực lượng quân sự lớn đông bắc, các mối quan hệ dần căng thẳng. Trong tháng Hai năm 1233, Nguyên Thái Tông "Chiếu chư vua, đề nghị phạt Vạn Nô, toại mệnh hoàng tử Quý Do* (tức là: Nguyên Định Tông). Và chư vương Án Xích Đài, dẫn cánh tả quân dẹp loạn "(" Nguyên sử ") cũng như sự tham gia của nhiều người, quan hệ như sau:

Mộc Hoa Lê* (Muqali, tên theo chữ Hán: 木華黎) (1170-1223), là một trong tứ kiệt (hay tứ dũng) của Thành Cát Tư Hãn, gồm có bốn chiến binh có sức mạnh và đồng thời là bốn vị chiến tướng anh dũng, thiện chiến trên chiến trường là Xích Lão Ôn, Bác Nhĩ Truật, Bác Nhĩ Hốtvà Mộc Hoa Lê. Ông là một trong những vị tướng vĩ đại nhất đã theo Thành Cát Tư Hãn chinh chiến đông tây đặc biệt là ông đã phò tá cho Thành Cát Tư Hãn thống nhất đất nước, và đảm nhiệm vị trí chủ lực trong cuộc chinh phạt nhà Kim. Ông là một người tham gia trong nhiều trận đánh ở Thành Cát Tư Hãn thống nhất vùng Trung Á vàĐông Á.

Đại hãn Quý Do*(tiếng Mông Cổ: Гүюг хаан, Güyük qaγan; chữ Hán: 貴由; 1206 - 1248) làKhả hãn thứ 3 của Đế quốc Mông Cổ, trị vì từ năm 1246 - 1248. Sau này khi người em họ Hốt Tất Liệt thống nhất Trung Hoa, lập ra nhà Nguyên, đã truy thụy hiệu cho Quý Do là Nguyên Định Tông.

(Nhất) Hoàng tử Quý Do

(1) Quốc vương Tháp Tư

a, Thạch Mạt Tra Lạt

b, Thạch Mạt Bột Điệt Nhĩ

(2) Ngột Lương Hợp Thai

(Nhị) Chư vương Án Xích Đài (Đài Châu- Chiết Giang Trung Quốc) Di Lạt Mãi Nô (Quân cánh tả)

(Tam) Vương Vinh Tổ (Trước "tiến quân sang Triều Tiên ", sau "chinh phạt Vạn Nô")

Đội quân Mông Cổ qua Triều Tiên, tiến vào nội quốc Đông Hạ. Tháng 9 năm 1233 bao vây Nam Kinh, mặc dù là "thành trì cứng như sắt dựng" ("Nguyên sử"), kết quả cuối cùng mãnh hổ nan địch quần hồ, mất thành, Bồ Tiên Vạn Nô bị bắt (có ghi chép là đã chết ). Quân Mông Cổ tiếp tục tiến tới, chiếm lấy "khai Nguyên ( đông Mẫu Đơn Giang, tỉnh Hắc Long Giang, ), vật phẩm tiếp tế (lưu vực sông Tuy Phân), lãnh thổ phía đông đã được san phẳng hoàn toàn" ("Nguyên sử"). Đông Hạ mất, mười chín năm lập quốc.

Chú thích: Trận chiến cuối cùng được miêu tả trên bích họa ở Vân đỉnh thiên cung, Đông Hạ khi đó là một tiểu quốc, danh dự cuối cùng của cả dân tộc đó là quyết tử cho đất nước, có thể tưởng tượng rõ ràng cảnh chiến tranh giữa người Mông Cổ và người Nữ Chân thảm thiết tới mức nào. Đoạn ký ức tanh mùi máu đầy bi thảm đó sẽ còn lưu lại vĩnh viễn trong lòng người dân tộc Nữ Chân.

Thứ bảy, chế độ vẫn còn

Quá khứ cho rằng Đông Hạ theo Vạn Nô bị bắt chắc chắn diệt vong, nhưng hai mươi lăm năm kể từ khi triều đại của hoàng đế Khang Hy (1686) thấy rằng các con dấu chính thức khắc hình "Đại đồng*" tới nay, cho thấy sự tồn tại của Đông Hạ. Theo nghiên cứu của Vương Quốc Duy : "" Triều Tiên sử " có nhắc tới Đông Chân tức Đại Chân từng có giao thiệp qua lại với Triều Tiên, kể từ Thái Tông Quý Tị (1233) sau đó tới thế tổ các đời Nguyên Mạt (1294), có tầm hai mươi ý kiến. Cho rằng lúc Vạn Nô bị bắt, Mông Cổ vẫn còn sử dụng ông ta để trấn an đất nước của họ, con cháu của họ được thừa hưởng các nước chư hầu, nguyên nhân còn từng gọi Đông Chân "(" Hắc Thát tóm lược sử "). Cũng trong" Triều Tiên sử "và" Nguyên sử " ở năm 1233 sau nhiều năm ghi chép vẫn sử dụng danh hiệu "quý quốc", "Vạn Nô nước Đông Hạ". Tháng 2 năm 1234. ", Mông Cổ để lại hơn trăm kỵ binh Đông Chân, còn lại rút sạch" ("Triều Tiên sử"). Năm 1235 thiết khai nguyên, Nam Kinh hai triệu hộ dân, người sau có thể là kế nhiệm quốc vương Đông Hạ. Đông Hạ kế tục duy trì quản lý địa khu hành chính, tại nơi sử dụng "Đại đồng" khai quật được một số các quan ấn có niên đại khác nhau, đủ để chứng minh. Làm nước chư hầu Đông Hạ, từ đó đối với Mông Cổ vẫn một lòng quy thuận phục tùng, muốn được tương trợ quân Mông trấn áp phản loạn Triều Tiên.

Chú thích: Uông Tàng Hải sống trong những năm cuối nhà Minh, rõ ràng là trong quá trình chính quyền mục nát nhà nước đó cũng không hề biến mất, mà từ một nước dần dần tiêu giảm thành một tỉnh, lại từ tỉnh tiêu giảm thành bộ tộc.

Năm 1235 Mông Cổ lần ba chinh phạt Triều Tiên, quân Đông Hạ dẫn đường, dẹp xong thị trấn Long Tân, trấn Minh Thành và các địa điểm khác ("Triều Tiên sử") . Tháng 6 năm 1236, quân Mông tái chiếm Triều Tiên, đã gửi hàng trăm kỵ binh tiếp viện, xâm nhập đông bắc Triều Tiên, từ Diệu Đức, Tĩnh Biên tới Vĩnh Hưng đều nhanh chóng bị chiếm cứ ("Triều Tiên sử"). Đến thời kỳ Mông Cổ thống trị, lần thứ hai Mông Cổ mở đại chiến dịch tại Triều Tiên, Đông Hạ trở thành quân tiên phong cho quân Mông .

Theo "Triều Tiên sử" ghi lại, từ năm 1249 đến năm 1259, hàng năm đều có binh mã Đông Hạ nhập cảnh quấy nhiễu. Năm 1257, châu Nhập Đăng có tới hơn ba nghìn kị binh, năm 1258 huyện Tùng Đảo bị thuyền vây chặt. Cho đến khi Mông Cổ đứng ra can thiệp và thì mới dừng lại. Sau khi Nguyên Thế Tổ lên ngôi, bắt đầu từng bước tăng cường khống chế Đông Hạ. Tới năm thứ ba triều Nguyên (1266) trong tháng Hai, đã thiết lập qua Đông Kinh, Khai Nguyên, Tuất Phẩm, Hợp Lại. Tới năm hai mười triều Nguyên (1283) tháng năm, lại thêm Thiết Hải Tây Liêu Đông phủ tư pháp. Tuất Phầm, kết hợp hai lãnh thổ của Đông Hạ, Hải Tây nhậm chức bao gồm cả khu vực trong Đông Hạ, có thể thấy được rằng đó giống như cai quản một địa hạt trong nước. Đến năm 1287 sau, có vẻ như không còn cái tên "Đông Chân", "Đông Hạ", nước chư hầu Đông Hạ đã bị triệt tiêu.

Chú thích: Đáng thương cho Triều Tiên, lúc này tàn dư của Đông Hạ đã thoái lui vào dãy Trường Bạch, bắt đầu cuộc sống ẩn dật.

Thứ tám, di tích lịch sử

1, Thành phố núi Thành Tử

Để đề phòng bị Mông Cổ xâm lược, dựa vào địa hình nhiều núi đặc biệt, Đông Hạ xây dựng Thành Đô chủ yếu ở trên núi, trở thành thành phố núi. Tại ngoại vi phía đông thành Duyên Cát có biên giới qua lại với thành Đồ Môn. Bên trong thành còn vài di tích Bột Hải và một lượng lớn di tích thuộc quốc gia Đông Hạ. Tường thành dựa vào thế núi để xây dựng, hình bầu dục bất quy tắc, chu vi dài khoảng 4454m. Có bốn cửa, trong đó ba chỗ là Ủng thành (bức thành nhỏ ở ngoài cổng thành). Bên trong thành địa thế trống trải, chính giữa là tàn tích cung điện,hình cầu thang, có chín bậc, mỗi bậc khoảng 10 m, dài 17 m, trên đá có hàng chữ. Xung quanh nền điện còn rải rác một vài kiến trúc bằng ngói. Bên trong thành khai quật có trang sức đai ngọc, ngọc bội uyên ương, mã não, quan ấn Đông Hạ, gương đồng, dụng cụ bói toán, đồ đạc sứt mẻ, tượng mẫu tử tiểu đồng cùng với mấy trăm đồng xu thời Đường, Tống, Kim. Thành Nam Kinh thuộc cai quản của nước Đông Hạ, quốc vương Đông Hạ là Bồ Tiên Vạn Nô từng ở trong thành, Công Nguyên năm 1233 Bồ Tiên Vạn Nô bị Mông Cổ quân binh bắt tù binh, Đông Hạ đi tới diệt vong. Theo nghiên cứu về chính trị, kinh tế, văn hóa của Đông Hạ thì di sản trọng yếu nhất còn để lại, có tương đối cao giá trị lịch sử và khoa học.

2, Dục Trì sơn

Tại phía đông Duyên Cát khoảng 10 km, cách tương đối xa thành tử sơn còn một tòa núi khác. Đỉnh núi có một cái ao hình tròn, trên núi có một phong hoả đài (nơi người ta đốt lửa ám hiệu khi thấy giặc tới). Tương truyền rằng ao kia là nơi quốc vương nước Đông Hạ Bồ Tiên Vạn Nô tắm rửa.

3, Sơn thành Khắc Lạp Tư Lặc Nhã Nhĩ

Tại vùng nam ngạn nay là Ussuriysk ngay gần núi Khắc Lạp Tư Nặc Nhã Nhĩ , chu vi khoảng 16 dặm Trung Quốc, trình vòng tròn, dựa vào tùy thế mà xây. Từ chân núi tới đỉnh núi giống ba tầng tường thành, cao 5m, tường thành xung quanh còn có chiến hào cùng phương tiện phụ trợ. Chỗ cao nhất của thành là "cấm thành", bốn phía cách một vách tường, bên trong thành có thật nhiều kiến trúc di tích cùng cung điện sang trọng.

4, Biên giới Trường Thành cổ kéo dài

Biên giới Trường Thành cổ kéo dài bị vây bởi tám con kênh, hai ngọn núi và Duyên Cát trên sườn núi Bắc Bình Phong, bắt nguồn từ phía tây cùng hai con rạch trên sườn núi thôn Đông Sơn, uốn qua sông Long Thị, huyện Long Môn, trấn Long Tĩnh ở cạnh sông, Đào Viên, Đồng Phật, thành Duyên Cát, Yên Tập, trấn Trường An giữa núi non trùng điệp, biến mất ở phía đông Duyên Cát 15 km cạnh núi Mã Bàn. Trường Thành phần lớn được xây bằng đất, cũng có chỗ bằng đá, toàn bộ dài chừng 150 km, phát hiện được 17 phong hoả đài. Đoạn dài nhất là từ sông tế lân tới rạch lão đầu, ước chừng 10 km; đoạn bảo tồn tốt nhất là lão đầu thôn Quan Thuyền rạch Lão Đầu, còn giữ được độ cao chừng 3m.

Cổ Trường Thành không có ghi chép văn hóa. Theo nghiên cứu cho rằng đây là Trường Giang của nước Đông Hạ. Cũng có người cho rằng ban đầu được xây ở Bột Hải, nơi này và Hồn Xuân "biên hào" giống như là thành bảo bệ Bột Hải ở Bắc Kinh và Đông Kinh, về sau Đông Hạ cải tiến thành công trình phòng ngự. Còn có ý kiến cho rằng đó là trường thành nhà Kim hoặc trường thành của Triều Tiên.

5, Vách tường Kính Bạc

Kính Bạc tại bờ đông Hồ Nam, bên trong là vùng làm lâm trường tuyệt đẹp. Xây bằng đất đá, chạy quanh hướng đông nam , thời điểm phát hiện dài khoảng 4, 5 km. Phía tây hồ có đắp đá, còn lại đa số xây bằng đất hoặc đất đá lẫn lộn, cách mỗi 50-80m lại có mặt tường lớn nhô ra. Cao 2m, rộng rãi khoảng 1. 5 m, trần rộng 0. 8 m, đoạn xây bằng đá được bảo tồn tốt hơn. Quần chúng phản ánh: thử biên tường có thể kéo dài tới Cát Lâm. Điều tra sơ bộ nhận định là được để lại Đông Hạ từ cuối thời Kim, tức là tiểu Trường Thành nhà Kim, công trình quân sự để phòng quân Mông Cổ xuôi nam xâm lược. Năm 1990 thông qua phê chuẩn được trở thành văn vật cấp tỉnh cần được bảo hộ.

6, Thành Phỉ Ưu

Tọa lạc tại phong cảnh tú lệ tả ngạn bờ sông Đồ Môn, một trong ba quê hương của dân tộc Mãn thôn Cổ Thành nay là Đông Thành, là khu vực tách biệt bị ngăn cách bởi Trường Giang gần với Triều Tiên. Chủ vi dài khoảng 2023 m, tường cao 3-4 m, trần rộng 9 m, đông tây nam bắc đều có một cửa, có chỏi gác, bề ngoài mang dáng dấp cổ thành Liêu Kim, đât là một tòa Liêu Kim cổ thành được bảo tồn hoàn chỉnh nhất. Tại bên trong thành từng khai quật được mười chiếc ấn đồng, trong đó có một chiếc là ấn cuối của triều Kim, một chiếc không rõ niên hiệu và hai một chiếc có tay cầm bên ngoài, còn lại đều là ấn đồng của Bồ Tiên Vạn Nô khai quốc Đông Hạ. Ấn đồng có hai loại: một loại là ấn đồng "Thiên Thái" của nước Đông Hạ; một loại khác là ấn đồng niên hiệu "Đại đồng". Bởi vậy cho rằng, thành trì thời kỳ cuối nhà Kim là nền tảng cho quốc gia Đông Hạ. Có người lại chứng mình, thành trì của Đông Hạ là "Đông Kinh".

──《 Đông Hạ tư liệu lịch sử 》Hành trình vô tận

Ở tầng hầm Cách Nhĩ Mộc, có thể nói là tại đây tôi bị cuốn vào câu hỏi lớn nhất từ trước tới giờ, cũng là lần đầu tôi được biết tới nhiều bí mật như vậy.

(Kèm theo bản vẽ mặt phẳng tranh minh hoạ hàng lang, gian phòng, tầng hầm ngầm trại an dưỡng)

Tôi vẫn muốn viết xuống chút gì, thế nhưng bản thân lại không dám viết.

Tôi không biết việc mình đang làm có phải chính xác không, cũng không biết có nên để cho những người khác biết không, nếu có người đọc được những văn tự này, phải bước vào vòng xoáy như vậy đối với người đó mà nói, hẳn sẽ giống như tai bay vạ gió. Mà tôi là người khởi xướng viết lại những văn tự này, cũng sợ rằng khó thoát được phải mang danh kẻ ác.

Trong tất cả những bí ẩn lớn nhỏ được giấu kín tại đây, tôi đã xâm nhập được vào, nhưng lại đứng ngoài những bí ẩn đó, thậm chí tôi cũng không cách nào xác định được mình rốt cuộc là người trong cuộc hay là người ngoài cuộc.

Tất cả những điều này, như trong tầng tầng những cánh hoa, cuối cùng thì tôi cũng thấy hết thảy tất cả chúng phô bày ra trước mắt, tôi đã nghĩ rằng mình bước vào nội cục rồi, nhưng mà chung quy chỉ tiến không được nhiều lắm, đây hết thảy dường như là vô tận, lại dường như là một vòng luân hồi.

Không có ai biết tương lai sẽ ra sao, bản thân cũng chỉ có thể không ngừng bước tiếp.

Ngô Tà ── năm 2005 tại Cách Nhĩ Mộc

Dựa theo: đây là phần tôi viết xuống sau cùng, kế tiếp, tôi muốn một lần nữa lên đường rời khỏi sài đạt mộc, tôi không biết mình có thể trở về được không, nếu như tôi một đi không trở lại, vậy thì quyển bút ký này có thể để cho người khác biết, tôi rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

Nhớ kỹ, nếu như bạn không thể lý giải những điềudo tôi viết, cũng đừng nên miệt mài theo đuổi, bởi vì đó là một vực sâu vôcùng. < toàn bộ thư hoàn >

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro