Đại Đường song long truyện 651-700

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 651

Lạc Nam Chi Chiến

Hai mươi cỗ Xa ôn bôn xa có thể chống được tên bắn của địch, yểm hộ cho xạ thủ bên mình, được binh sĩ gọi tếu là lừa gỗ, sắp hàng trên sân đậu xe rộng rãi bên trong Trường Hạ môn ở hướng chính nam, đợi đêm xuống.

Loại chiến xa này có hình dáng như một căn phòng di động có bánh xe, đỉnh nhọn hình tháp, thân bịt da trâu sống tẩm thuốc, kiên cố, chống cháy, ném đá cũng không sao.

Ngoài ra còn có hơn hai trăm xe cơ động, thực ra chỉ là những xe một bánh chở hàng đẩy tay thông thường, điểm đặc biệt là ốp kín những tấm chống tên, bảo vệ cho binh sĩ đẩy xe, bên trên chất đầy những đá bùn, có thể trực tiếp xô xuống dưới hào, sẽ tăng tốc độ lấp hào.

Những cư dân tổ chức không ngừng vận chuyện cát, đá, bao đất đến hai bên Trường Hạ môn, chất thành đống như núi, đợi đến giờ hành động thì các binh sĩ sẽ dùng lừa gỗ che chắn để vận chuyển ra ngoài thành lấp hào.

Sức sát thương cao nhất vẫn phải kể đến mười máy bắn và năm thùng đá lớn vận chuyển từ trong thành ra, những chiến cụ siêu cấp này chỉ cần có thể vượt qua hào thì sẽ có thể phá hoại được các trại gỗ của địch với sức mạnh to lớn.

Chín nghìn chiến binh bố trí trong sân, chia làm ba đội, mỗi đội có một ngàn tay mâu và khiên, tiễn thủ một ngàn rưởi, kỵ binh năm trăm. Ai nấy đều tràn trề hy vọng vào chuyến xuất thành này, sĩ khí dâng cao, chuẩn bị sẵn sàng.

Trong lòng họ, Từ Tử Lăng hệt như thế thân của Khấu Trọng, là tượng trưng của sự vô địch.

Vương Thế Sung, Dương Công Khanh, Vương Huyền Ứng, Vương Huyền Thứ, Ma Thường, Đoàn Đạt, Đơn Hùng Tín, Bính Nguyên Chân, Bạt Dã Cương, Tống Mông Thu và Từ Tử Lăng tập trung trên thành lâu Trường Hạ môn, từ trên thành nhìn ra xa động tĩnh của địch ở bên ngoài.

Đối diện với cửa nam là doanh trại vững chắc dựng trên một ngọn đồi, hai trại tả hữu đều dựng trên đất bằng, chỉ dựa vào tường cao hào sâu phòng ngự, chỉ có điều nếu không thể công hãm trại trên cao trước, bị địch nhân ở đó xuất binh đột ngột tấn công thì chắc chắn sẽ có nguy cơ thất bại.

Vương Huyền Ứng than: “Nếu biết sớm thì cứ san bằng ngọn đồi nhỏ này thành bình địa, trận đêm nay sẽ dễ dàng hơn nhiều.”

Vương Thế Sung không biết có phải vẫn còn bất mãn về việc hắn làm mất Hổ Lao hay không, chau mày trách: “Nói mấy lời đó thì có tác dụng gì, hãy nghĩ cách có thể công phá ba trại này còn có ý nghĩa hơn.”

Vương Huyền Ứng cứng họng ngậm miệng im thin thít.

Lúc này Lang Phụng tới báo, quân đột kích ở An Hỉ Môn ở mặt bắc, Thượng Đông môn và Kiến Xuân môn ở mặt đông đã chuẩn bị sẵn sàng, ba nhánh mỗi nhánh quân có ba ngàn người, trang bị tương tự như quân đột kích chủ lực ở Trường Hạ môn, quy mô khoảng ba phần mười quân chủ lực, có nhiệm vụ đánh lạc hướng kẻ địch.

Dương Công Khanh nói: “Bọn ta chẳng cần phải cướp trại giết địch, chỉ cần dùng chiến thuật làm mệt mỏi quân địch, làm loạn thế trận của địch mà thôi .”

Chúng tướng đều gật đầu đồng ý, lấp hào là bước đầu tiên, sau đó sẽ bóp vụn phản kích của địch nhân, bảo vệ hào sâu được lấp kín.

Bên ngoài Trường Hạ môn khoảng hai ngàn bước nằm vắt ngang hai hào sâu cách nhau khoảng một trăm trượng, mỗi hào dài hai dặm, rộng hai trượng, sâu một trượng, hào sâu thứ hai không phải kéo dài liên tục mà cứ khoảng mấy trượng lại có một chỗ hổng, địch nhân có thể thông qua đó đi về phía bên kia của chiến hào.

Phía ngoài chiến hào còn có mười hai tòa lầu bắn tên cao ba trượng làm bằng gỗ, mỗi tòa bốn phía đều có chất bao cát cao quá đầu người, chiến sĩ Đại Đường nhờ mấy bao cát này yểm hộ đêm ngày luân phiên canh gác, còn dàn trận thêm máy bắn tên và máy bắn đá tảng, biến nơi này thành điểm phòng ngự kiên cố, phối hợp với ba trại có thể cử viện binh hỗ trợ lẫn nhau, phòng thủ vững chãi quả thực chẳng có chỗ hở nào.

Bốn tòa lầu bắn tên trong số đó nằm ở hai đầu trường hào, mỗi đầu là hai tòa, tạo thành hình vòng cung bảo vệ chiến hào ngắn, lối ra đặt tại chính nam, có thể hỗ trợ chặt chẽ với hai trại.

Lối ra ngoài của ba cửa phía nam Lạc Dương là Trường Hạ, Định Đình, Hậu Tái đều bị chiến hào, chiến lâu tầng tầng phong tỏa.

Dưới ánh hồng của buổi chiều tà, doanh trại của địch gần đó hoạt động sôi nổi, mã đội, bộ binh luân phiên tuần tiễu, dòng Y Thủy từ Lạc Dương chảy ra đã bị địch nhân dùng cọc nhọn phong tỏa, phía sau đó trên bờ cao là mấy tòa lầu bắn tên và máy bắn đá, trong thành ngoài thành không khí chiến tranh căng thẳng bao bọc.

Vương Thế Sung hỏi: “Tử Lăng lúc này có ý kiến gì không?”

Từ Tử Lăng đứng cạnh Vương Thế Sung, đang ngưng thần quan sát khu trại trên cao quy mô lớn nhất của bên địch, ung dung đáp: “Trên cửa trại tung bay lá cờ có chữ Lô, là đại biểu cho vị tướng nào của địch?”

Đơn Hùng Tín đáp: “Đó là Lô Quân Ngạc, tâm phúc đại tướng của Lý Nguyên Cát, người này là dũng tướng trứ danh của quân Đường, rất thiện nghệ xung trận giết địch, lúc tấn công Quan Trung đã lập được đại công, lần này theo Lý Nguyên Cát đông chinh, là hành quân tổng quản của Lý Nguyên Cát. Lý Nguyên Cát phái hắn trấn thủ mặt nam, có thể thấy y coi trọng mặt chiến tuyến này thế nào.”

Từ Tử Lăng cười nhẹ: “Đêm nay chúng ta chỉ cần lấp đi chiến hào thứ nhất, sau đó bắt chước bọn chúng dùng bao cát lập trận chống lại địch quân từ chiến hào thứ hai đánh tới, chỉ cần có thể giữ vững thông đạo ở giữa hai chiến hào, địch nhân chỉ có nước la khóc chẳng làm gì được. Ma tướng quân có cao kiến gì không?”

Ma Thường nói vài câu khiêm tốn rồi tiếp: “Bên trái bọn ta có Y Thủy hiểm trở, do đó chỉ cần dùng toàn lực đối phó với địch nhân tấn công mặt trước, địch nhân nếu từ bên phải tấn công dọc theo chiến hào, chúng ta có thể bố trí mấy ngàn kỵ binh ở hai cửa Hậu Tái môn và Định Đỉnh môn, kỵ đội từ Hậu Tái môn cắt đứt mũi tấn công, kỵ đội từ Định Đỉnh môn đánh thẳng vào giữa, một ngàn năm trăm kỵ binh đi lấp chiến hào cũng có thể xoay ngược lại phản công, như vậy có thể bảo đảm an toàn tối đa.”

Mọi người ai nấy gật đầu khen hay, Vương Thế Sung cũng thấy không còn vấn đề gì nữa, nói: “Cứ y theo đề nghị của các vị, màn đêm buông xuống chúng ta sẽ phát động tấn công, làm Lý Nguyên Cát mất mặt một phen.”

Mọi người dạ ran, sĩ khí dâng cao, từ khi bị quân Đường vây thành, đến lúc này thủ hạ chư tướng của Vương Thế Sung mới bắt đầu thấy được sinh cơ.

Từ Tử Lăng cảm thấy gã ở lại Lạc Dương là rất đúng đắn, nếu mà Lạc Dương bị phá, thì chẳng còn gì để nói nữa.

o0o

Hư Hành Chi, Trần Trường Lâm, Tuyên Vĩnh, Lạc Kỳ Phi, Bốc Thiên Chí, Trần Lão Mưu cùng Nhậm Mi Mi vừa từ Lương Đô tới đồng loạt tham gia buổi tiệc chiều.

Uống được ba tuần rượu, Lạc Kỳ Phi trước tiên quay sang báo cáo với Khấu Trọng chuyện của Lưu Chí Thành: “Tên tiểu tử này không đủ sức kháng cự sự mê hoặc của một ả danh kỹ thanh lâu, mê đắm chi tiền cho ả không tiếc tay, thêm vào đam mê đánh bạc, nợ nần chồng chất, nên đã bị một tên thủ hạ của Hương Ngọc Sơn lợi dụng bỏ tiền mua chuộc. Lại thấy quân ta lâm vào thế yếu, nếu thuận theo Hương Ngọc Sơn, về sau phú quý không sao kể xiết, bèn theo kẻ ác làm chuyện xấu xa.”

Trần Lão Mưu cười gằn nói: “Hương Ngọc Sơn đã đích thân gài bẫy, vừa có mỹ nữ lại có thêm tài phú, có bao nhiêu người đủ sức chống cự lại sức dụ hoặc này chứ.”

Lạc Kỳ Phi nói: “Tên tiểu tử này sau khi chính mắt nhìn thấy trận chiến ở khe nước Lương Đô của chúng ta thắng lợi vẻ vang thì vô cùng hối hận, nhưng đã bị người ta uy hiếp, chỉ đành làm gan tiếp tục dấn thân. Chuyện này là do ta dùng người không đúng, xin Thiếu soái trừng phạt, nếu không Kỳ Phi trong lòng thật là áy náy.”

Khấu Trọng bình tĩnh nói: “Không phải ngươi dùng người không đúng, mà là người dùng được thì quá ít, gặp chuyện gấp đành phải dùng tạm người trước đây của Bành Lương bang. Điều này đại biểu cho việc đổi mới của chúng ta, chỉ có điều việc này không gấp được, về sau có thắc mắc gì thì có thể thương lượng với Hư quân sư, nghe xem ý kiến của ông ấy thế nào.”

Nhậm Mi Mi nghiêm mặt: “Hương tiểu tử ở quá gần bọn ta, thêm vào dư đảng của hắn ở Bành Lương đông đảo, may mà ta hiểu rõ hắn mồn một như trong lòng bàn tay, chuyện này cứ giao cho ta lo, bảo đảm sẽ thanh trừ sạch toàn bộ người của Hương tiểu tử, quét sạch hết thanh lâu đổ quán có liên hệ với quan phủ của hắn.”

Hư Hành Chi nói: “Hương gia đã ở Bành Lương lâu năm, thế lực thâm căn cố đế, lại liên hệ mật thiết với cuộc sống của người dân, do đó chuyện này tuy nhất định phải làm, nhưng cũng nên làm từng bước một, không nên hành động quá khích.”

Khấu Trọng đồng ý, rồi quay sang Lạc Kỳ Phi: “Kẻ uy hiếp Lưu Chí Thành là thần thánh phương nào?”

Lạc Kỳ Phi đáp: “Tên này là tể thương Vi Thanh, hắn cung cấp rượu cho ba thành Bành Thành, Lương Đô và Lan Lăng, không thuộc bang hội nào, trước giờ vẫn giữ quan hệ tốt với hai bang Ba Lăng và Bành Lương. Hắn định kỳ cung cấp bồ câu đưa thư cho Lưu Chí Thành, đến tên tiểu tử Lưu Chí Thành cũng không biết bồ câu đưa thư đến chỗ nào.”

Bốc Thiên Chí hỏi: “Lưu Chí Thành có tình nguyện hợp tác với bọn ta không?”

Lạc Kỳ Phi gật đầu: “Hắn vừa nãy đã thề độc trước mặt ta, bảo đảm sẽ trung thành hợp tác, chỉ cần bọn ta tha cho cái mạng chó của hắn.”

Khấu Trọng vui vẻ nói: “Tính mệnh của hắn còn nằm trong tay bọn ta thì tên tiểu tử tham sống sợ chết này chỉ còn biết cách ngoan ngoãn vâng lời mà thôi. Đợi bọn ta nghiên cứu xong xuôi nên hành động thế nào, rồi sẽ lợi dụng hắn ta đưa tin tức giả ra ngoài.”

Tuyên Vĩnh nói: “Chỉ e tin tức giả này giờ đây khó mà lừa được Lý Thế Tích, phải phối hợp với hành động tương ứng, để cho thám tử của Lý Thế Tích thu thập tin tình báo khẳng định tin tức giả là đúng, Lý Thế Tích mới bắt đầu tin tưởng.”

Khấu Trọng tiếp: “Giả sử Lý Thế Tích tin chắc bọn ta sẽ đem quân ngược sông tấn công Khai Phong, y sẽ phản ứng thế nào?”

Trần Trường Lâm đáp: “Nếu ta là y thì sẽ dĩ dật đãi lao, đợi quân ta đến dưới thành rồi dùng binh lực vượt trội cắt đứt đường lui, hủy diệt thủy sư thuyền của bọn ta, sau đó chính diện giao phong với bọn ta. Học được bài học từ Lý Tử Thông, quân Đường đã hết sức phòng bị Phi Luân thuyền của bọn ta rồi.”

Khấu Trọng gật đầu: “Đó xem ra là chiến thuật cao minh nhất, trong tình huống như vậy, chúng ta chẳng có cách nào chiếm nổi tiện nghi. Con bà nhà nó, có kế sách nào tốt hơn để đối phó không?”

Nhậm Mi Mi duyên dáng cười nói: “Thiếu soái không phải đã nói qua, trong binh thư có viết cái gì mà công vào chỗ người ta nhất định phải cứu, vậy Lý Thế Tích có cái gì không thể không cứu đây?”

Khấu Trọng vỗ đùi kêu lên: “Lời Nhậm đại tỷ nói làm ta choàng tỉnh, bọn ta hãy dùng một chiêu bọ ngựa bắt ve sầu, có chim hoàng tước rình phía sau, bảo đảm sẽ dạy cho Lý Thế Tích bài học không thể nào quên được.”

o0o

Màn đêm buông xuống, quân thủ thành ở thành nam là đội đầu tiên xuất phát, hạ cây cầu treo lớn của Trường Hạ môn xuống, hai ngàn tên quân cầm mâu và thuẫn chạy ra trước, kết thành trận thế hai bên tả hữu trước cửa thành. Binh chủng này lấy phòng thủ làm chính, thuẫn cao có thể chắn được tên và đao kiếm đánh tới, trường mâu có thể khắc chế kỵ binh, thường được dùng để yểm hộ cho xạ thủ bắn cung, để phát huy sức sát thương mãnh liệt nhất trên chiến trường, tiến có thể công địch phá trận, lui có thể kết trận phòng thủ.

Sau đó đến lượt đám cung thủ xuất thành, trong tiếng tù và, hai ngàn quân cầm mâu và thuẫn ở hai bên trái phải theo tiếng hô của tướng sĩ chỉnh tề bước lên phía trước một trăm bước, để ba ngàn cung thủ chạy ra, tập hợp phía sau quân cầm mâu, thuẫn, tạo thành thế mâu, thuẫn ở trước, cung tên ở phía sau. Phía sau lại chia thành ba hàng, hàng đầu là là nỏ bắn tầm xa, hai hàng sau là cung tên hạng nặng.

Lại một hồi trống nổi lên, một đội quân đột kích chạy ra khỏi thành cuối cùng, hình thành thế mâu, thuẫn phòng thủ đằng trước, cung tên ở giữa, đột kích quân ở đằng sau, nhanh chóng tập hợp thành trung quân, kết thành trận thế hoàn chỉnh cách cổng thành hai trăm bước, trung quân ở giữa, tả hữu có hai cánh quân hộ vệ.

Lúc này ba trại bên địch vang lên tiếng chuông báo động, từng đội từng đội quân Đường ùn ùn chạy ra khỏi ba trại, bố trận bên ngoài chờ đợi, hành động tuy nhanh nhưng không loạn, thể hiện rõ tính cơ động và huấn luyện kỹ càng của quân Đường.

Từ Tử Lăng, Ma Thường cùng Dương Công Khanh lần lượt dẫn kỵ binh xuất thành, phía sau ba trận thế trùng trùng, một ngàn năm trăm kỵ sĩ kết thành kỵ binh trận che mắt địch nhân, không để bọn chúng nhìn thấy trong thành còn đẩy ra thêm mười máy bắn đá và năm thùng đá tảng, còn có thêm hai mươi cỗ xe lừa và hơn trăm xe cơ động.

Năm ngàn dân trong thành được tổ chức thành từng đội, không ngừng đem bao cát ra khỏi thành.

Từ Tử Lăng dõi mắt theo dõi cách thức điều động binh lính bên địch, hiện đang không ngừng tăng cường trận thế quanh lầu bắn tên ở ven chiến hào thứ hai, quân địch do Lô Quân Ngạc đích thân đốc suất, binh lực cực mạnh, đạt đến một vạn hai ngàn người, thêm vào quân ở hai trại tả hữu, binh lực khoảng sáu ngàn người, có cả binh Đường đang thủ hộ mười hai tòa lầu bắn tên, quân Đường trước mắt bọn họ lên đến ba vạn người, gấp bốn lần binh lực của bọn họ.

Dương Công Khanh nói: “Thống lĩnh quân Đường ở trại bên trái là Phùng Lập Bản, thống lĩnh trại bên phải là Tần Vũ Thông, đều là tướng lĩnh tâm phúc của Lý Nguyên Cát.”

Đối thủ là Lý Nguyên Cát chứ không phải Lý Thế Dân, Từ Tử Lăng trong lòng cũng thấy an ổn, hỏi: “Quân của Lô Quân Ngạc phân làm hai toán tiền hậu, không phải là nhị trận hay lục trận thông thường, vậy chẳng phải là bất bình thường sao?”

Ma Thường giải thích: “Đó là trận pháp chia quân tiền hậu lập thành hai trận, mỗi trận lại chia làm ba đội tiền trung hậu, trường thương ở trước, cung thủ ở giữa, nỏ ở sau cùng. Đợi bọn ta công kích bọn họ, trường thương ở trước sẽ đứng yên nghênh chiến, cứ gặp người là đâm, không hề thối lui. Đội cung thủ ở giữa quỳ xuống đất nghênh chiến, quân cầm nỏ phía sau đứng yên phát xạ. Khi hàng cung thủ đứng trước hết bắn hết tên hoặc thương vong quá nặng thì tiền trận lui về sau, hậu trận tiếp tục chống cự, do đó có tên gọi là Vi (Trị) Trận. Trận này dễ thủ khó công, muốn phá được thật chẳng dễ dàng gì.”

Từ Tử Lăng gật đầu nói: “Thì ra là như vậy, có thể thấy Lý Nguyên Cát nghiêm lệnh cho thủ hạ nhất định phải bao vây cho chặt chẽ, không để bọn ta phá vây hội họp với Hạ quân. Có biện pháp nào có thể làm cho Lộ Quân Ngạc tin rằng bọn ta nhất định phải phá vây ra ngoài không?”

Dương Công Khanh đáp: “Trước mặt địch quân vây khốn dày đặc thế này, chỉ có khinh kỵ binh mới có thể miễn cưỡng phá vây thoát ra thôi, nếu chúng ta dùng chút công phu điều động kỵ binh, đương nhiên có thể gạt được phe địch.”

Từ Tử Lăng nói: “Cách này để ngày sau rồi tính, đêm nay mục tiêu chiến lược của bọn ta là lấp một đoạn của chiến hào thứ nhất, dùng đá tảng phá hủy hai tháp bắn tên ở ven chiến hào thứ hai, bố trí ổn thỏa trận địa bao cát ngăn cách với địch nhân ở bên trong là đại công cáo thành rồi.”

Lệnh vừa hạ xuống, quân thổi kèn lập tức thổi tù và, trung quân do Bạt Dã Cương thống lĩnh bắt đầu tiến về phía chiến hào thứ nhất, hai cánh quân tả hữu cũng di động theo.

Thống lĩnh tả quân là Đơn Hùng Tín tiến lên men theo bờ tây Y Thủy, đứng đầu hữu quân là Đoàn Đạt, mé phía tây tuy trống trải không có chỗ hiểm yếu nào để phòng thủ, nhưng lại có phục binh bên trong hai cửa Định Đỉnh và Hậu Tái tiếp ứng khi cần.

Ở Định Đỉnh môn và Hậu Tái môn có hai đội kỵ binh khoảng một ngàn người sẵn sàng lâm trận, do hai người Vương Huyền Thứ và Mạnh Hiếu Văn thống lĩnh.

Đội kỵ binh của Từ Tử Lăng chầm chậm tiến về phía trước, hai mươi cỗ xe lừa nối tiếp theo sau, mỗi cỗ xe chứa năm mươi công sự binh, phụ trách việc đào đất lấp chiến hào.

Mười chiếc xe bắn cùng năm hộc đá lẫn trong đám kỵ binh từ từ đi theo, bên ngoài thành mây chiến tranh vần vũ.

Bên địch tiếng trống trận vang rền, chấn động cả cánh đồng Y Lạc bên ngoài thành nam, từ trại trên cao một đội kỵ binh khoảng gần hai mươi người xông ra, phóng tới phía sau trận của Lô Quân Ngạc.

Quân chủ lực của Lô Quân Ngạc bắt đầu di động, chầm chậm tiến tới chiến hào thứ hai, chi viện cho hai tòa tháp bắn tên ở ven chiến hào đối diện với Trường Hạ môn. Chỉ cần có thể cầm cự được trước sức phản công của quân thủ thành, quân Đường có thể theo chỗ trống của chiến hào thứ hai vượt tới đánh thẳng vào sườn của quân thủ thành đang bị cầm cự ở chiến hào thứ nhất.

Đại chiến đã sẵn sàng diễn ra bất cứ lúc nào.

o0o

Khấu Trọng đang ở trong nội đường khổ sở suy nghĩ mưu kế thì Hư Hành Chi cùng Trần Lão Mưu cầu kiến, ba người ngồi xuống rồi Trần Lão Mưu mới nói: “Khi nãy ta cùng Hư quân sư nghiên cứu chiến thuật, Hư tiên sinh có nói ra một số băn khoăn, ta nghĩ ông ta nên nói thẳng với Thiếu soái, nên cố kéo ông ta tới đây gặp mặt nói chuyện.”

Khấu Trọng nghe qua đã hiểu ngay, Hư Hành Chi nhất định là có ý ngược lại với mình, nhưng không dám nói thẳng ra trước mặt mọi người, do đó nói riêng với Trần Lão Mưu, hy vọng nhờ Trần Lão Mưu nhắc nhở mình. Gã hớn hở cười đáp: “Quân sư có ý kiến gì xin cứ nói thẳng ra, Khấu Trọng ta chẳng giống như Vương Thế Sung lòng dạ hẹp hòi không dung được người đâu.”

Hư Hành Chi lộ vẻ bối rối.

Trần Lão Mưu nói: “Theo tin tức bọn ta nắm được, tên tể thương Vi Thanh mua chuộc Lưu Chí Thành sau khi giao hai con bồ câu đưa thư cho hắn bèn rời khỏi Trần Lưu ngay trong đêm, không biết là đi đâu, Hư tiên sinh nghĩ rằng chuyện này chẳng đơn giản chút nào.”

Khấu Trọng ngạc nhiên nhìn qua Hư Hành Chi.

Hư Hành Chi nói: “Lý Thế Tích chẳng những tài trí hơn người mà còn kinh nghiệm phong phú. Lần trước Thiếu soái vận lương đến Lạc Dương, bị quân Đường chặn được, với sự tinh minh của Thiếu soái, không thể nào không khởi nghi tâm, nhất định ra sức tra ra coi ai là nội gian. Ta chỉ sợ Lý Thế Tích từ sớm đã đoán Thiếu soái có thể tìm ra được Lưu Chí Thành, rồi tương kế tựu kế đối phó lại với bọn ta.”

Khấu Trọng chau mày: “Bọn ta lần này có thể nhanh chóng lật mặt Chí Thành cũng có một chút may mắn, Lý Thế Tích sao mà biết được?”

Hư Hành chi nói: “Đối thủ của chúng ta là Hương Ngọc Sơn vô cùng giảo hoạt, không thể nào không tính trước chuyện này, hắn đã có thể mua chuộc Chí Thành thì cũng có thể mua chuộc thêm người khác. Lại nói Thiếu Soái quân của chúng ta vẫn chưa được trên dưới một lòng, người nào ý chí không kiên định thì rất dễ bị Hương Ngọc Sơn thừa cơ lôi kéo. Nếu trong đám thủ hạ của Chí Thành có người như vậy, Chí Thành nếu bất ngờ bị bịt miệng thì sẽ có người lãnh thay nhiệm vụ của hắn, thì việc thân phận nội gian của Chí Thành bị phát hiện sẽ không che mắt được đối phương.”

Khấu Trọng giật mình nói: “Quân sư suy tính quả nhiên cẩn mật hơn ta nhiều. Ôi, hiện tại biết làm thế nào cho phải? Đại kế bọ ngựa bắt ve sầu của ta mới bắt đầu đã không suôn sẻ rồi?”

Trần Lão Mưu nói: “Chuyện này còn phải bàn thảo chi tiết thêm, bọn ta trước tiên cứ giả thuyết rằng Hư quân sư đã đoán trúng, thi hành kế trong kế, nói không chừng có thể dạy Lý Thế Tích một trận nhớ đời.”

Bằng vào tài trí của Khấu Trọng mà vẫn cảm thấy lờ mờ không hiểu, đầu óc trống rỗng lầm bầm hỏi lại: “Kế trong kế? Kế trong kế thế nào đây?”

Hư Hành Chi nói: “Văn Nguyên Chính lãnh một đạo quân năm ngàn người từ Đông Hải tới, nếu bố trí thích hợp thì có thể trở thành kỳ bình. Chuyện này cứ giao cho thủ hạ lo liệu, ta chẳng những có thể lừa được nội gian nếu có, mà còn qua mặt được thám tử của Hương Ngọc Sơn bố trí trong địa bàn của chúng ta nữa.”

Khấu Trọng lần này mới cảm thấy uy hiếp nghiêm trọng của Hương Ngọc Sơn đối với Thiếu Soái quân, gật đầu: “Chuyện này giao cho tiên sinh toàn quyền lo liệu.”

Trần Lão Mưu tiếp: “Quân sư còn có hai đề nghị, trong trường hợp Đậu quân bị bại trận, Thiếu Soái quân chúng ta còn có cách mà đối phó.”

Khấu Trọng mừng rỡ nói ngay: “Ta chính vì chuyện này mà ngủ không yên, tiên sinh có đề nghị gì?”

Hư Hành Chi chần chờ hồi lâu mới mở miệng: “Bạt gia trước khi đi có kéo ta qua một bên nói mấy câu.”

Khấu Trọng ngẩn người ra hỏi: “Gã nói cái gì?”

Hư Hành Chi đáp: “Ông ấy nói nếu Thiếu soái không đổi ý định cùng hội binh với Đậu quân ở Hổ Lao, chẳng cần Lạc Dương thất thủ, Thiếu Soái quân của chúng ta trước tiên là đã không thể đứng vững được rồi.”

Khấu Trọng lạnh toát xương sống, bởi gã cũng đã thầm nghĩ qua chuyện này, biết rõ cho dù Đậu Kiến Đức đối với gã thế nào, với nghĩa khí giang hồ, gã tuyệt không thể nào giương mắt nhìn hắn bị Lý Thế Dân đánh bại.

Gã nhớ lại lời của Bạt Phong Hàn “Ai đủ tàn độc thì mới có thể sống sót.”

Chiến tranh chính là chuyện như vậy.

- o O o -

Hồi 652

Đao Pháp Nhập Binh

Hư Hành Chi nói: “Bạt gia chỉ nói một câu, ‘Thiếu soái nếu có thể dùng đao pháp áp dụng vào binh pháp thì Lý Thế Dân sẽ không thể nào là đối thủ của người’.”

Trần Lão Mưu vỗ bàn tán thưởng: “Tiểu Bạt thật là tinh mắt.”

Khấu Trọng trầm ngâm rồi nói: “Khi trước ta từ binh pháp áp dụng vào đao pháp, giả như lại từ đao pháp áp dụng vào binh pháp, vậy không phải Thiếu Soái quân sẽ tinh nhuệ linh động như Tỉnh Trung Nguyệt của ta hay sao. Con bà nó, tại sao điểm lợi hại vậy mà trước đó gã không trực tiếp nói với ta?”

Hư Hành Chi thấp giọng nói: “Bạt gia có lệnh, phải đến lúc ngài sẵn sàng tấn công Khai Phong, mới nói thẳng cho Thiếu soái biết quan điểm của Bạt gia.”

Khấu Trọng hai mắt đỏ lên, cảm nhận sâu xa được lòng ưu ái và quan tâm của Bạt Phong Hàn dành cho mình, đến mức thay đổi tác phong “răn dạy nghiêm khắc”, mà nhờ Hư Hành Chi thận trọng khuyên răn nên hiệu quả càng hiển hiện rõ ràng. Miễn là dụng binh như dụng đao, khi lưỡi đao đôi bên đối nhau quyết không có lòng nhân từ như đàn bà, như người Đột Quyết vẫn thường khinh miệt.

Thanh âm Hư Hành Chi tiếp tục rót vào tai gã: “Hiện tại, Hạ vương đối với Thiếu soái ít nhiều đã sinh nghi, nếu Thiếu soái vẫn y ước tiến quân vào Hổ Lao sẽ cho Hạ vương hiểu lầm đại quân Tống Khuyết đang đến, lại không hiểu được nổi khổ tâm của Thiếu soái, nói không chừng sẽ xảy ra một trường xung đột, chuyện này đối với hai bên chỉ có hại mà không có lợi gì.”

Trần Lão Mưu tiếp lời: “Hư quân sư nói rất hữu lý, chúng ta nên thủ không nên công, Lý Thế Tích vốn chẳng phải là kẻ tầm thường vả lại có Hương Ngọc Sơn ám trợ, chúng ta thật không nên mạo hiểm tấn công.”

Khấu Trọng hít một hơi chân khí tỉnh táo một chút, hoang mang nói: “Chúng ta quả không nên vội vàng vọng động, bằng không nếu trọng binh của họ Đậu bại trận, trên đường chúng ta lùi về Trần Lưu khẳng định sẽ bị Lý Thế Tích chặn đứng, hai vị có phương cách nào ứng phó chăng?”

Hư Hành Chi trầm giọng nói: “Đào địa đạo, trấn thủ Tương Dương.”

Khấu Trọng giật mình chấn động tỉnh táo trở lại, lặp lại từng lời Hư Hành Chi: “Đào địa đạo? Trấn thủ Tương Dương?”

Trần Lão Mưu giành nói: “Đào địa đạo, chiêu này ta cũng vừa nghĩ ra, về mặt này ta khá tinh tường hãy để ta phụ trách, Thiếu soái hãy yên tâm. Thêm nữa, theo ‘Thụ Tỉnh Bình Quyển Pháp’ trong cơ quan học của Lỗ Diệu Tử di truyền mà Thiếu soái đưa, có nói về việc đào địa đạo thế nào cho sâu cho dài, chỉ cần đào ba lối địa đạo, một khi Lạc Dương bị vây hãm ắt chúng ta có thể nhanh chóng thoái lui.”

Khấu Trọng gật đầu nói: “Hiện tại Lạc Dương gần như nằm dưới sự khống chế của bọn ta nên việc đào địa đạo tuyệt không thành vấn đề. Chuyện Mưu lão đề nghị có thể tiến hành, vậy Mưu lão cần tối đa bao nhiêu nhân thủ?”

Trần Lão Mưu đáp: “Muốn đào ba ngõ địa đạo mà không ai hay biết, địa đạo vừa rộng vừa thông thẳng ra bên ngoài thành Lạc Dương, đào được địa đạo chẳng những cần công cụ đặc biệt mà còn cần công binh đào hầm phải tinh thục nữa, ta cần khoảng một trăm nhân lực là các trai tráng thanh niên, Lão Mưu có thể nắm chắc nội trong một tháng là có thể hoàn thành xong ba địa đạo.”

Hư Hành Chi nói: “Cứ theo tình thế trước mắt, cho dù Thiếu soái có thể nhân lúc Lạc Dương bị đánh bại mà thoát thân thành công nhưng lùi về phía đông là Trần Lưu cũng là đút đầu vào lưới. Chỉ còn cách lùi về phương Nam, nếu có thể theo đường thủy rộng rãi quang đãng đến Tương Dương thành, thông qua Hán Thủy nhập Hoài, xuôi dòng theo thuyền đến Chung Ly, rồi theo đường vòng quay lại Lương Đô, có thể dẫn dụ quân Đường ngàn dặm truy đuổi làm giảm sức ép lên Trần Lưu, nhất cử lưỡng đắc.”

Khấu Trọng chau mày nói: “Còn Tương Dương?”

Hư Hành Chi đáp: “Tương Dương tuy không phải là thành lớn nhưng nó nằm ở trung du Hán Thủy, phía tây tiếp giáp Ba Thục, phía nam khống chế Tương Sở, phía bắc nối liền Hà Lạc. Nếu không đoạt lấy Tương Dương thì Thiếu soái mé đông bị binh lực Khai Phong chặn đứng, trước thì không đường tiến, sau thì có truy binh khiến tình hình rất nguy ngập.”

Khấu Trọng hỏi: “Hiện thời Tương Dương tình thế thế nào?”

Hư Hành Chi nói: “Theo như tình báo, hơn mười ngày trước Tương Dương thành đã bị đại tướng của Lý Thế Dân là La Nghệ công hạ xong. Chu Xán, Tiền Độc Quan đã bị bắt áp giải đến Quan Trung, binh lính song phương tử thương trầm trọng, Tương Dương hào thành bị lấp, thành tường bị phá hủy nhiều chỗ nên trong một vài tháng không thể tu phục lại được, bởi vậy nếu như lúc này chúng ta bỏ Chung Ly công kỳ vô bị. Nhân lúc thủy sư Đường quân hầu như tập trung ở Lạc Dương, Hổ Lao và Khai Phong không chiếm giữ thủy đạo, chúng ta có cơ hội thành công rất lớn. Nhưng ngày phát động công thủ Tương Dương nhất thiết phải được tính toán chuẩn xác phi thường, quá sớm thì địch nhân có cơ hội phản kích, muộn quá thì không thể phối hợp cùng Thiếu Soái quân rút khỏi Lạc Dương.”

Trần Lão Mưu tiếp lời: “Tấn công Tương Dương thành hay bại chủ yếu ở sự bí mật, do vậy cần phải cẩn thận xem xét kế hoạch, chuyện quan trọng này nên giao cho Quân sư phụ trách.”

Khấu Trọng trầm giọng nói: “Giả như chúng ta đoán sai, kẻ thắng là Đậu quân thì sẽ thế nào?”

Hư Hành Chi đáp: “Vậy Thiếu soái phải lập tức ly khai Lạc Dương, bằng không Đậu Kiến Đức trở mặt thành thù không để Thiếu soái ly khai, sẽ thành ra ba ba trong rọ. Lòng người khó lường, tuy Thiếu soái luôn dùng chân tâm đối đãi người khác nhưng không chắc người khác cũng vậy.”

Khấu Trọng nhớ tới chuyện Đậu Kiến Đức ra lệnh Lưu Hắc Thác lưu thủ phía sau, một mặt có thể trước đập tan Đường quân nhưng sau là định kế tiêu diệt Thiếu Soái quân.

Đồng thời cũng có thể nhận thấy vị thủ tịch mưu thần của gã chẳng những tài trí hơn người mà còn thông tình đạt lý hiểu biết sự đời. Y cùng Trần Lão Mưu đến khuyên giải gã, cũng vì họ Trần đã biết gã từ thuở hàn vi, có thể nói là nửa thầy nửa bạn, cho dù có chỉ mặt Khấu Trọng gã mà mắng thì gã cũng chỉ có thể cúi đầu lắng nghe mà thôi.

Khấu Trọng thở dài một hơi, nói: “Các người có nắm chắc là vừa giữ vững Trần Lưu, Lương Đô lại vừa xuất binh tấn công Tương Dương không?”

Hư Hành Chi đáp: “Trong mười mấy ngày tới, chúng ta ngày đêm tăng cường phòng bị ở Trần Lưu và Lương Đô, ven bờ gia tăng thành lũy, thủy đạo thì tăng cường Phi Luân thuyền, Lý Thế Tích cho dù binh lực có gấp đôi chúng ta nhưng nội trong thời gian ngắn cũng không thể công đả được Trần Lưu, lại không thể trùng phá phòng tuyến quân ta phía bắc. Một khi Thiếu soái quay về từ Lạc Dương thì Lý Thế Tích không thể ngồi nhìn, chỉ cần chiến thuật chúng ta thích hợp, khi mà Thiếu soái đích thân chỉ huy và thuộc hạ cùng phối hợp là có thể bao vây Lý Thế Tích, một khi sự uy hiếp Đậu quân đối với Đường quân tiêu trừ thì Thiếu soái không còn cố kỵ gì nữa.”

Khấu Trọng thầm thở dài một tiếng, gã thì nghĩ cho Đậu Kiến Đức, còn Bạt Phong Hàn thì lại nghĩ cho gã, Hư Hành Chi với Trần Lão Mưu lại vì vinh nhục tồn vong của Thiếu Soái quốc ắt giữa ba bên tự nhiên là sẽ có mâu thuẫn. Bản thân gã là lãnh tụ của Thiếu Soái quốc nên tự nhiên là phải đặt lợi ích của những người đi theo gã lên hàng đầu, tuyệt đối không thể nghĩ riêng cho mình đưa Thiếu Soái quốc rơi vào hiểm cảnh. Điểm thuyết phục nhất trong luận điểm của Hư Hành Chi chính là chuyện hội sư với Đậu Kiến Đức chỉ là ý của một phía Khấu Trọng, họ Đậu kia chưa chắc đã thật tình mà rất có khả năng thừa thế trở mặt nữa.

Lúc này Lạc Kỳ Phi vội vội vàng vàng chạy tới, chỉ nhìn thần sắc gấp gáp của y, có thể biết có chuyện quan trọng cần cấp báo.

o0o

Ngoài thành tiếng chém giết kêu la vang trời, trận chiến đến hồi kịch liệt.

Quân công thành cùng quân thủ thành đã qua hai canh giờ giao chiến nhưng thành trì vẫn chưa thể hạ được, hai bên đều tổn thất không ít.

Lô Quân Ngạc quả không hổ là danh tướng Đường thất thân kinh bách chiến, không hề trúng kế của Ma Thường mà chia binh men theo hào thành trước Hậu Tái môn, cuối cùng cho mai phục hai ngàn kỵ binh tại hai cửa Hậu Tái và Định Đỉnh, im hơi lặng tiếng.

Quân Đường, do tập trung toàn lực, đã lấp kín được vòng hào thứ nhất, vượt hào tấn công trận địa tháp tên của quân thủ thành ở bên ngoài vòng chiến hào thứ hai.

Toàn bộ quân chủ lực của cao trại, do Lô Quân Ngạc suất lĩnh, áp sát bờ nam của vòng hào thứ hai, dùng cung tên và máy ném đá tấn công quân thủ thành ở bên kia hào, khiến bọn họ không thể nào tiến về phía trước, càng không thể lấp hào được.

Hai trại địch quân còn lại luân phiên công kích vào mé phải của quân thủ thành vượt hào từ lỗ hổng của lớp hào thứ hai, cắt nát từng đợt từng đợt tấn công của quân thủ thành.

Một trong hai tòa tháp tiễn bị một tảng đá lớn phá hủy, tòa còn lại cũng đã bắt lửa, nhưng máy bắn đá phía sau lớp thành đất dày vẫn phát huy lực sát thương rất lớn.

Tên bắn qua bắn lại mù mịt đầy trời.

Phía Từ Tử Lăng có khoảng hai mươi chiếc xe lừa chiếc bị đá bắn trúng, có chiếc bị hủy bởi hỏa tiễn, chỉ còn lại năm chiếc đang chắn tên của đối phương, cũng may là mười máy bắn tên vẫn còn bảy máy chưa bị phá hỏng, vẫn có thể cản bước địch nhân công tới, lực bắn có thể xuyên qua thuẫn bài xe chặn tên của đối phương, phát huy khả năng ngăn địch phòng địch trên chiến trường.

Ước chừng ba thùng đá tảng còn chưa bị phá hủy được tập trung công kích vào trận địa tường đất của đối phương, đã trở thành vũ khí cực kỳ lợi hại uy hiếp đến máy bắn đá siêu cấp của địch nhân.

Ngay khi toán quân mâu thuẫn và cung tiễn Đường quân bị đẩy lùi lần nữa khỏi lớp hào thành thứ hai, bộ binh kỵ binh Đường quân tấn công vào mé hông liền lùi nhanh ra như thủy triều rút.

Từ Tử Lăng thấy thời cơ đã tới, hạ lệnh một tiếng suất lĩnh một ngàn năm trăm thủ hạ, nhắm thẳng địch nhân chém chém giết giết, tả thủ nắm thuẫn, hữu thủ cầm thương xông lên phía trước, thi triển thuật “Nhân mã như nhất” thúc Vạn Lý Ban vọt nhanh như gió, địch nhân lui quân chỉ vừa kịp bắn ra hai đợt tên thì đã bị gã đuổi tới, trường thương gã quét đến đâu, địch nhân người ngã ngựa nhào đến đấy, trận thế tan vỡ.

Trận thế đại loạn như sóng vỗ bờ, phút chốc quân Đường đã rút ra ngoài lỗ hổng lớp hào thành thứ hai. Theo sau Từ Tử Lăng kỵ binh hừng hừng khí thế sát địch, địch quân lớp rơi xuống hào thành, lớp còn lại may mắn rút khỏi lỗ hổng thành hào liền đào tẩu tứ tán vô cùng hỗn loạn.

Dương Công Khanh và Ma Thường thấy đã chiếm được tiên cơ, liền chỉ huy đội thứ hai xông lên lấp vào vị trí của tiền quân, mở một đợt tấn công mới vào trận địch, tăng áp lực lên quân chủ lực của Lô Quân Ngạc, khiến y không thể phái binh nghênh chiến Từ Tử Lăng và một ngàn năm trăm tinh kỵ xông ra từ lỗ hổng của vòng vây.

Hai cánh tả hữu trại địch thấy tình thế bất diệu, lần lượt xuất hai đội kỵ binh, mỗi đội ngàn quân nhằm chặn đứng Từ Tử Lăng đang xông tới thông qua lỗ hổng của lớp hào, trong tình huống thế này chỉ có kỵ binh với tính cơ động cực cao mới có thể khắc chế được kỵ binh đối phương, bằng không nếu để Từ Tử Lăng tung hoành chiến trường, từ bên cánh hoặc phía sau tấn công quân chủ lực của Lô Quân Ngạc thì hậu quả thật không thể tưởng tượng.

Lô Quân Ngạc quả nhiên làu thông binh pháp, suất lĩnh ba ngàn kỵ binh lưu thủ phía tả bày bố trận, dĩ dật đãi lao, chỉ cần Tử Tử Lăng dám đánh tới thì lập tức phản kích một đòn quyết định.

Nhất thời, tiếng vó ngựa rầm rập, tiếng hò hét chém giết vang trời, tình huống chiến trận hết sức ác liệt.

Từ Tử Lăng vừa vụt qua lỗ hổng hào thành, tâm niệm chuyển động không ngừng, lập tức đoán ra chiến lược của địch nhân, giả như gã bất chấp tất cả, trùng kích quân chủ lực hùng mạnh của Lô Quân Ngạc, nhất định phía sau sẽ bị hai trại kỵ binh địch còn lại cắt đứt, bọn gã sẽ biến thành cô quân, hữu tử vô sanh, chỉ e rằng không một ai có thể thối lui lại lỗ hổng hào thành.

Chính vào lúc này một bóng người không biết từ đâu hiện ra, hướng về phía Lô Quân Ngạc đang chỉ huy đám kỵ binh. Từ Tử Lăng nhãn lực lợi hại, vừa liếc nhìn đã nhận ra Bạt Phong Hàn, ý niệm lui binh vừa nảy trong đầu đã bị gạt phăng, liền hét lớn: “Hãy theo ta!”

Liền khi đó gã suất lãnh một ngàn năm trăm kỵ binh xông tới Lô Quân Ngạc ở ngoài ba ngàn bộ, chỉ cần sự chú ý của Lô Quân Ngạc tập trung cả lên mình gã ắt Bạt Phong Hàn có thể thừa cơ thâm nhập.

Lúc này ở hai cửa phía đông quân thủ thành đã khai môn xuất kích, nhiệm vụ của bọn họ là vùi lấp hào thành chứ không phải thủ thành, có tác dụng kềm chế Lý Nguyên Cát xuất quân.

Do địch nhân không thấy được quân thủ thành theo lối hào xuất kích, mặt khác lực lượng ngoài thành chỉ đủ để phòng thủ hào thành, không thể tấn công, bởi vậy tuy tổng quân lực Đường quân gấp bội quân thủ thành, nhưng cũng chỉ để phòng thủ không thể đưa quân chi viện.

Chiến tranh thắng thua quyết định trong một thời khắc, nếu Từ Tử Lăng cùng đám kỵ binh bị tiêu diệt toàn quân, Lạc Dương không cần đánh nữa sẽ tan rã ngay.

o0o

Lạc Kỳ Phi thở dài một tiếng nói: “Đậu Kiến Đức phong Mạnh Hải Công, Từ Viên Lãng làm soái tướng, theo đường thủy áp tải lương thảo, vào bảy ngày trước đã ngược dòng Hoàng Hà bắc tiến, quân lực khoảng ba mươi vạn, nghe truyền đã vây hãm Quản Châu, sau đó lấy Huỳnh Dương cùng hơn mười tòa thành phụ cận, rồi hạ trại ở bình nguyên phía đông Hổ Lao, hiện dựng doanh trại ở Bản Chữ làm bộ chỉ huy lâm thời.”

Hư Hành Chi cùng Trần Lão Mưu nghe nói cùng trợn mắt lên nhìn gã, Đậu Kiến Đức có thể trong vài ngày mà công hãm Quản Châu cùng Huỳnh Dương hai đại tòa thành, thật khiến cho người ta không tin nổi.

Lòng Khấu Trọng bất giác trầm hẳn xuống, thở dài nói: “Quả nhiên không ngoài dự đoán của ta, Lý Thế Dân cố ý bỏ qua cho mấy thành ở mặt đông Hổ Lao, khiến địch kiêu căng không đề phòng mà cứ tiến sâu vào trong kéo dài đường vận lương, lúc này lương thực khan hiếm, chẳng những cung ứng một lượng lớn cho quân đội mà còn phải chiếu cố cho dân đen của mấy thành này, thế mà Lý Thế Dân lại lấy đi một lượng lớn lương thực từ trong các thành nữa.”

Trần Lão Mưu biến sắc nói: “Lý Thế Dân đúng là khôn ngoan, thâm độc, cầm lên được hạ xuống được, Đậu Kiến Đức quả thực không là đối thủ của hắn. Nhưng Hạ quân lấy đâu ra ba mươi vạn quân như vậy?”

Lạc Kỳ Phi nói: “Quân Đậu Kiến Đức chi viện cho Lạc Dương không quá mười lăm vạn quân, lại chia quân trấn giữ ở Quản Châu và Huỳnh Dương, hiện tại số có thể ra tiền tuyến chỉ khoảng mười vạn.”

Hư Hành Chi nói: “Lý Thế Dân bỏ canh phòng ngoài thành Quản Châu và Huỳnh Dương, hành động này có ý gì?”

Lạc Kỳ Phi đáp: “Quân Lý Thế Dân đồn trú tại Lạc Dương được chia làm hai, một là lưu lại mười vạn quân giao cho Lý Nguyên Cát chỉ huy, Khuất Đột Thông và Lô Quân Ngạc làm phó vây quanh Đông Đô, còn lại là tự y suất lĩnh năm vạn quân tiến công Hổ Lao, nghe đồn đã cùng Đậu Kiến Đức giao chiến, Đậu Kiến Đức bị thiệt thòi lớn, binh sĩ tử thương hơn ngàn, thủ hạ dưới trướng là Ân Thu cùng Thạch Toản bị bắt giữ, thử hỏi Đậu Kiến Đức còn dám tiến quân nữa sao.”

Khấu Trọng hận không thể lập tức tới Bản Chữ, hỗ trợ Đậu Kiến Đức đại chiến với Lý Thế Dân, nhưng gã biết rằng điều này là vọng tưởng, không còn cách nào chỉ thầm thở dài não ruột.

Trần Lão Mưu nói: “Xem tình hình này, Đậu Kiến Đức thật không hay rồi.”

Hư Hành Chi nói: “Nếu y phòng thủ Bản Chữ nghiêm mật, Lý Thế Dân cũng không làm gì y được.”

Lạc Kỳ Phi nói: “Cứu binh như cứu hỏa, thành Lạc Dương sắp bị hạ, Đậu Kiến Đức sao có thể lưu thủ Bản Chữ?”

Khấu Trọng cười khổ nói: “Hắn còn e sợ đại quân Tống Khuyết bắc thượng đến đóng ở Lạc Dương trước một bước, do đó hắn phải quyết đưa binh đến trước, nếu không có e ngại này thì Lý Thế Dân cũng có thể điều binh chặn đứng hậu phương của Đậu Kiến Đức, cắt đường vận chuyển lương thảo, rồi phong tỏa thủy lộ Đại A ép Đậu Kiến Đức phải xuất kích.”

Hư Hành Chi hít một hơi thanh khí, nói: “Thiếu soái nhìn đúng lắm.”

Lúc này có thủ hạ đến báo Đỗ Phục Uy đến cầu kiến, Khấu Trọng nào ngờ lão gia của mình lại đến trong tình hình này, hơn nữa lại còn đến đúng lúc gã đang ở Trần Lưu, bằng không ắt sẽ không gặp được gã. Nghĩ đoạn gã liền chạy ra ngoài nghênh đón với tâm trạng vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ.

o0o

Đội kỵ binh một ngàn năm trăm quân theo sau Từ Tử Lăng đích thị là kỵ binh tinh nhuệ nhất của Thiếu Soái quân, do năm trăm quân Phi Vân kỵ cùng một ngàn kiêu kỵ Dương gia quân hợp thành theo lỗ hổng hào thành lao tới, khí thế như phá trúc chẻ tre.

Từ Tử Lăng một mình một ngựa xông thẳng về phía Lô Quân Ngạc vừa bị chấn ngã, cuối cùng cũng cảm nhận được mùi vị chỉ cần thắng lợi mà bất chấp mọi thủ đoạn trên chiến trường. Một ngàn năm trăm kỵ binh phía sau đều đang dõi theo gã, quyết định của gã sẽ ảnh hưởng cực kỳ lớn đến tương lai sống chết của họ. Gã có thể không nghĩ đến mình, nhưng lại không thể không nghĩ đến những người đó.

Trên chiến trường đầu rơi máu đổ, điều duy nhất gã nên làm là ban cho kẻ địch đòn đánh chí mạng nhất chứ không phải là lòng nhân từ.

Từ Tử Lăng gác trường thương lên đùi, ném thuẫn bài sang một bên, tay trái cầm cung, tay phải rút tên, lúc này khoảng cách giữa gã với kẻ địch đã rút ngắn còn khoảng ngàn bước.

Lô Quân Ngạc cùng bọn thủ hạ tướng lĩnh kìm ngựa đứng trước kỵ trận, trên mặt mang nụ cười lạnh lẽo khinh miệt, rõ ràng cho rằng Từ Tử Lăng không biết lượng sức tự đem thân vào chỗ chết. Bọn kỵ binh hai bên đã lắp tên vào cung chĩa vào Từ Tử Lăng mà không hề hay biết nơi ánh đuốc không chiếu tới có Bạt Phong Hàn tay cầm Xạ Nguyệt cung mau chóng áp sát tới, chỉ còn trăm bước nữa Lô Quân Ngạc sẽ nằm trong tầm bắn của y.

Bên phía Dương Công Khanh không ai hiểu nổi tại sao với tính cách của Từ Tử Lăng lại tham công mà bất chấp phía sau bị chặn vẫn xông thẳng vào trận địch, nhưng đã không còn sự lựa chọn nào khác, trung quân do Bạt Dã Cương thống lĩnh, tả quân của Đơn Hùng Tín, hữu quân của Đoàn Đạt toàn bộ đều xông lên tiền tuyến, dùng đá tảng lớn và cung tên tấn công trận địa sau lớp hào thứ hai của địch nhân từ xa.

Còn lại năm mươi chiếc xe cơ động, năm cỗ xe lừa do Dương Công Khanh và Ma Thường chỉ huy xông lên phía trước.

Để giải trừ sự uy hiếp bên phải, bảy tám chiếc máy bắn tên Bát cung nỏ tiễn đã quay đầu tiến lên phía trước, lập tức làm tăng khả năng sát thương của quân thủ thành với địch nhân.

Tình huống chiến trường kịch liệt lên đến tột đỉnh.

Khi còn cách Lô Quân Ngạc khoảng tám trăm bước, Từ Tử Lăng liền lắp tên vào dây cung kéo căng Thác Mộc cung, tâm thần tiến vào cảnh giới “Độ hữu nhập vô, vô trung sanh hữu” (từ có thành không, không có mà thành có), bắn ra một mũi tên.

Loa Hoàn kình phát động, so với Bát cung nỏ tiễn còn nhanh, còn hung bạo hơn gấp bội.

Lô Quân Ngạc nhìn Từ Tử Lăng phát tiễn, trong lòng thậm chí cười thầm gã lại dám phát tiễn ở cự ly xa như vậy, nháy mắt bóng tên bay vụt tới cách chừng năm trượng, chẳng những dư lực không giảm mà tốc độ càng nhanh mạnh hơn nữa. Gã không hổ là danh tướng Đường thất thân kinh bách chiến, bối kiếm xuất ra như thiểm điện bổ thẳng về phía trước.

“Choang!”

Lô Quân Ngạc toàn thân chấn động, lắc lư trên lưng ngựa suýt chút nữa thì ngã bổ nhào, tên bắn tới tuy bị y gạt xuống đất, nhưng cánh tay y cũng không khỏi tê rần rần, khí huyết sôi sục toàn thân vô lực.

Chính vào lúc này, từ phía tả không biết từ đâu, một kình tiễn vô thanh vô tức nhắm y bắn tới, tốc độ nhanh đến mức mắt thường không thấy nổi chỉ hắn có thể hét được mạng ta đã xong, mặc dù kiếm ở trong tay y nhưng lại không cách gì gạt đỡ.

Tả hữu đồng thời kinh hô.

Lô Quân Ngạc hồn phi phách tán, đang định tránh né đã thấy bóng mũi tên bắn tới, liền thổ ra một làn mưa máu.

Bạt Phong Hàn lại kêu lớn: “Thiếu soái Khấu Trọng đã đến!”

Âm thanh vọng vang!

Lô Quân Ngạc bất ngờ gục xuống lưng ngựa, rồi rơi bịch xuống bãi cỏ dưới chân ngựa trong ánh mắt ngỡ ngàng không tin nổi của tướng sĩ hai bên tả hữu.

Kỵ trận Đường quân lập tức đại loạn.

Từ Tử Lăng thu lại Thác Mộc cung, tay cầm trường thương, hất văng cung tiễn bắn tới, thi triển thuật “Nhân mã như nhất”, lăng không nhảy vút lên tiến lại sát nhập địch trận.

Bạt Phong Hàn tung hoành ngang dọc khắp trận địa của địch nhân đoạn cướp lấy một con ngựa, Thâu Thiên kiếm vung lên, kẻ nào cản bước đều hồn du địa phủ.

Một ngàn năm trăm tinh kỵ theo sát phía sau Từ Tử Lăng cũng hưng phấn xông lên, chẳng mấy chốc đã đánh cho địch nhân vốn đã bấn loạn lại càng thất điên bát đảo, quân không ra quân.

Bốn chữ “Thiếu soái Khấu Trọng” quả nhiên hết sức lợi hại, địch nhân nghe thấy khiếp đảm kinh tâm, quân thủ thành sĩ khí phấn chấn. Dương Công Khanh thấy loạn cục lan khắp cả chiến trường thì vội hạ lệnh cho các xe cơ động nhất loạt tiến lên, đổ đất đá vào đường hào, cả chiến sĩ lẫn dân trong thành đều quên mình ném các bao cát xuống đường hào.

Hai đạo kỵ binh vốn định chặn đường lui của Từ Tử Lăng nhận được hiệu lệnh vội vàng cứu viện, nhưng đã muộn mất một bước.

Từ Tử Lăng cùng Bạt Phong Hàn hội hợp tại chiến trường, suất lĩnh thân binh sát nhập với quân thủ hào, quân Đường mất đi chủ soái, lại nghe phong thanh Khấu Trọng xuất quân công tới cuối cùng bỏ mặt thành hào cùng doanh trại, đào tẩu tứ tán.

Quân thủ thành vượt hào xông tới tấn công lập tức khống chế cục diện, dưới sự chỉ huy của Dương Công Khanh nghênh đón kỵ đội của địch nhân đến chi viện.

Từ Tử Lăng hét lớn: “Công phá cao trại!”

Rồi cùng với Bạt Phong Hàn thống lĩnh kỵ binh vừa trải qua chiến thắng ban đầu ở Lạc Dương, ào lên như một cơn gió lốc cắt qua quân địch đang rút lui về cao trại, vừa đánh giết vừa tiến lên tới trại địch.

Thắng bại đã định.

- o O o -

Hồi 653

Phụ Tử Tình Thâm

Đỗ Phục Uy ngồi trên ghế dựa vào cửa sổ ở một bên đại sảnh, tay cầm chung trà thơm đang được Nhậm Mi Mi khoản đãi ân cần, đôi bên tâm tình tán gẫu. Vị bá chủ từng thống lĩnh quân tinh nhuệ Giang Hoài tung hoành nam bắc Đại Giang toàn thân mặc thường phục, nón trúc thường đội đặt ngay trên đầu gối, phảng phất phong thái độc lai độc vãng, hạc nội mây ngàn.

Lúc này còn khoảng nửa canh giờ thì trời mới sáng, có thể thấy vì tồn vong của Thiếu Soái quân, lãnh tụ phải hoạt động vất vả bất kể ngày đêm.

Nghe thấy tiếng chân của Khấu Trọng từ cửa sau đi vào đại sảnh, Đỗ Phục Uy vẻ mặt tươi cười đầy vẻ quan tâm, lên tiếng: “Khấu Trọng con trai của ta, đừng trách ta đường đột viếng thăm nhé!”

Khấu Trọng máu nóng dồn lên ngực, đột nhiên cảm thấy Đỗ Phục Uy đích thật là phụ thân của gã. Từ trước tới giờ, gã tuy mở miệng ra là gọi Đỗ Phục Uy là cha nhưng thật ra đa phần là có ý trào phúng. Đỗ Phục Uy đối xử với gã hết sức thân thiết làm gã vô cùng cảm kích. Tuy ấn tượng ban đầu đối với Đỗ Phục Uy đúng là khó mà xóa bỏ, chẳng hạn như ép bách tính phải nhập ngũ, thủ hạ ô hợp, quân kỷ bất nghiêm... Nhưng vào lúc này, mọi chướng ngại đều bị xóa tan.

Khấu Trọng bước vội lên trước, vươn tay ôm lấy Đỗ Phục Uy.

Tình phụ tử như sóng Trường Giang Đại Hà dào dạt dâng trào trong lòng hai người, Nhậm Mi Mi lặng lẽ rút ra khỏi sảnh.

Khấu Trọng mắt rưng rưng lệ nóng, kêu lớn: “Cha!”

Đỗ Phục Uy cố đè nén kích động trong lòng, vỗ vỗ vai gã dịu giọng: “Đi cùng với cha ra ngoài hoa viên dạo một vòng đi.”

Khấu Trọng gật đầu đáp ứng, theo Đỗ Phục Uy rời khỏi đại sảnh đến bên hông vườn hoa, chầm chậm dạo bước trên lối đi khúc khuỷu lát đá lấp lánh ánh trăng sao.

Đỗ Phục Uy than: “Trọng nhi chống chọi chắc cực khổ lắm phải không?”

Khấu Trọng thản nhiên đáp: “Đúng là vô cùng cực khổ. Khó chịu nhất là chuyện con lấy lòng thành đối đãi với người mà còn bị hoài nghi nữa.”

Đỗ Phục Uy bước lên tiểu đình ở giữa vườn, chắp tay sau lưng dõi mắt nhìn ra dòng suối nhân tạo chảy vòng quanh đình, điềm đạm hỏi: “Con muốn nói đến Đậu Kiến Đức phải không?”

Khấu Trọng cười khổ không đáp.

Đỗ Phục Uy quay người chăm chú nhìn Khấu Trọng một hồi rồi trầm giọng: “Lòng người hiểm ác, Trọng nhi không cần để bụng chuyện người ta làm gì. Ta đêm nay không quản ngàn dặm đến đây gặp con là vì có chuyện quan trọng cần thương lượng.”

Khấu Trọng giật mình: “Là chuyện khẩn yếu gì?”

Đỗ Phục Uy bình thản như không, nghiêm mặt nói: “Ta quyết định đứng về phe của con.”

Khấu Trọng ngạc nhiên kêu lên: “Cha!”

Đỗ Phục Uy so vai: “Cũng có chỗ ly kỳ, hoặc là có tâm thái hy vọng con sẽ thành đạt!”

Khấu Trọng thắc mắc: “Nhưng mà...”

Đỗ Phục Uy cắt ngang lời gã: “Âu Dương Hy Di gặp qua nhạc phụ Tống Khuyết của con, trên đường về Trường An đã đến tìm ta. Hà hà, Tống Khuyết đúng là Tống Khuyết, Âu Dương Hy Di đến cơ hội mở miệng cũng không có, ông ấy chặn họng hắn thuyết cho một tràng, làm Âu Dương Hy Di đến chuyển lại lời của Lý Uyên cũng không dám. Con nói ông ta nói thế nào? Ông ta trước tiên phân tích tình thế thiên hạ, chỉ ra tranh chấp trong nội bộ Lý phiệt đã đến mức nước lửa không dung, lại còn ngoại tộc dòm ngó, một khi ngoại tộc lợi dụng thời cơ xâm nhập thì Trung thổ sẽ bị vó ngựa của bọn chúng giày xéo. Lập luận của Tống Khuyết chữ nào cũng đúng với sự thật, Âu Dương Hy Di còn có thể nói thêm được gì chứ. Tống Khuyết hết sức bất mãn về việc Lý Uyên mê luyến nữ sắc dung túng cho Lý Kiến Thành. Với sự cao ngạo của ông ta thì sao mà có thể thần phục được một con người như thế. Lý Uyên phải tự nhìn lại mình đi!”

Khấu Trọng đã sớm biết kết quả, hỏi: “Theo giọng điệu của cha thì cha cũng hết sức bất mãn với Lý Uyên phải không?”

Đỗ Phục Uy hai mắt lóe tinh quang, hừ lạnh: “Lý Uyên bố trí giết chết Lý Mật, vô tình vô nghĩa khiến ai ai cũng xỉ vả. Lý Mật tuy chẳng phải là trung thần nghĩa sĩ gì nhưng cũng là người chịu đầu hàng Lý Uyên. Lý Uyên có thể không phê chuẩn cho y xuất quan, để dập tắt ý chí chống đối của Lý Mật. Thế mà lại dùng thủ đoạn dồn Lý Mật vào chỗ chết, hỏi làm sao mà có thể làm cho người thiên hạ phục tùng, chẳng những vậy còn lộ rõ bụng dạ hẹp hòi không dung người của Lý Uyên nữa.”

Khấu Trọng vụt hiểu ra, lão gia vì cái chết của Lý Mật mà sinh lòng thỏ chết cáo thương, bởi y và Lý Mật hoàn cảnh tương đồng thì sau này cũng có thể sẽ phải chịu chung số phận. Lý Uyên đúng là không bì được với Lý Thế Dân, nếu Lý Thế Dân làm vua nhất định sẽ thăng quan ban thưởng hậu đãi Lý Mật, chứ không để y rảnh rỗi ở không, càng không đem lòng nghi ngờ để ép y sinh lòng phản bội.

Đỗ Phục Uy nói sang chuyện khác: “Trọng nhi có tin chắc sẽ chống đỡ được tới khi đại quân của Tống Khuyết đến nơi hay không?”

Khấu Trọng cười khổ: “Hài nhi đang tìm biện pháp đây.”

Đỗ Phục Uy than: “Tạm thời ta không đủ sức phân thân giúp đỡ con, bởi vì Phụ Công Hựu đã ngang nhiên trở mặt với ta, dưới sự dung túng của Tả Du Tiên đã gom quân tự lập, lại còn bí mật liên minh với Lâm Sĩ Hồng, Tiêu Tiễn để xâm chiếm Lịch Dương của ta.”

Khấu Trọng vô cùng kinh ngạc: “Tiêu Tiễn không phải là đang giao chiến với Lâm Sĩ Hồng sao?”

Đỗ Phục Uy đáp: “Dưới sự uy hiếp của Lý phiệt và Tống phiệt, thêm vào người của Ma môn đưa đường dẫn lối, bọn Tiêu, Lâm hoàn toàn có khả năng khôi phục mối quan hệ hòa hảo. Vốn ta có thể dựa vào Lý Tử Thông đã hàng Đường hỗ trợ một tay, nhưng Lý Tử Thông bị con đánh đến mức chẳng còn bò dậy nổi, không bảo toàn nổi được thân mình, do đó chỉ còn nước dựa vào chính mình mà nghĩ cách ứng phó mà thôi.”

Khấu Trọng là người hiểu rõ nhất câu “Không bảo toàn được thân mình”, cũng y hệt như tình huống bây giờ, gã không đủ năng lực để giúp cho Đỗ Phục Uy.

Đỗ Phục Uy đưa tay nắm chặt lấy vai gã, hạ giọng nói: “Ta không tiện ở lại lâu, đến đây chỉ là muốn nói rõ lòng mình cho con được biết. Từ giây phút này trở đi, ta cùng Đường thất không còn quan hệ gì nữa. Nếu Lý Thế Dân giết chết Trọng nhi của ta, Đỗ Phục Uy nhất định liều chết báo thù cho con, bởi vì Khấu Trọng là con trai của Đỗ mỗ.”

o0o

Trước khi hai đội viện quân của Lý Nguyên Cát và Khuất Đột Thông tới kịp, cao trại của Đường quân ở phía nam Lạc Dương đã chìm trong biển lửa. Cao trại này là phòng tuyến chiến lược và có năng lực uy hiếp lớn nhất của phe địch.

Bởi vì chiến lược ban đầu chỉ thiết kế để đối phó với cao trại, thấy sự tình phát triển ngoài ý liệu của mọi người, cố thủ ở trúc lũy bên ngoài thành chẳng còn ý nghĩa thực chất nào, ngược lại chiến thuật xuất thành đột kích lại có thể phát huy hiệu quả cao nhất, do đó Dương Công Khanh lệnh cho toàn quân xuất thành huyết chiến, vừa đạt được thành công thì liền thoái lui vào trong thành.

Tuy nói là đại thắng nhưng đúng là cuộc khổ chiến của toàn quân, phe Đường quân đương nhiên thương vong nặng nề, tử thương hơn ngàn người, lại còn mất đi một chủ tướng, thủ thành quân cũng có hơn hai trăm người chết trận, bị thương hơn bốn trăm, chiến công này cũng chẳng dễ dàng gì.

Quảng trường ở phía Nam thành nằm đầy thương binh đang được đội quân y chăm sóc. Từ Tử Lăng cùng Bạt Phong Hàn không ngừng dùng chân khí chữa trị cho những người bị thương nặng, bận rộn đến tận trưa ngày hôm sau thì mới rảnh tay, vội vàng đi qua một bên ngồi xuống nghỉ ngơi.

Bạt Phong Hàn dựa vào tường thành kiên cố ở cạnh cửa nam, than: “Cao thủ đối địch thắng bại chỉ cách nhau một sợi chỉ mỏng, không ngờ trên chiến trường cũng giống như vậy, nếu một tiễn của ta mà thất thủ thì ta cùng ngươi rất có thể đã chẳng còn mạng để ngồi đây thở hồng hộc và hưởng thụ ánh mặt trời giữa trưa nữa.”

Từ Tử Lăng quét mắt nhìn khắp quảng trường la liệt thương binh và tử thi, đội quân y đang lục tục đưa người bị thương vào trong thành để chữa trị và nghỉ ngơi, áo giáp tả tơi vung vãi khắp nơi, phía trên thành truyền lại tiếng di động của Bát cung nỏ tiễn cơ vừa mới lập đại công đêm qua, tiếng binh lính điều động, ngựa hí người kêu bận rộn không nghỉ.

Quân dân qua lại đều cung kính thi lễ với hai gã, thần tình mệt mỏi nhưng cũng không che nổi vẻ phấn chấn, thế nhưng gã không có cách nào chia sẻ niềm vui với bọn họ.

Chiến tranh đối với gã mà nói chỉ là ác mộng nối tiếp ác mộng, chuyện duy nhất gã có thể làm là hết sức ngoi ngóp quẫy đạp, hy vọng có một ngày có thể tỉnh dậy, ngày đó đến càng sớm thì càng tốt. Bên này thắng lợi thì bên kia thất bại, đồng nghĩa với bao đầu rơi máu chảy, bi thương và khổ lệ, chết chóc chính là tổn thất không thể nào vãn hồi được.

Từ Tử Lăng than: “Ta hiện tại sức cùng lực kiệt. Ban đầu thì còn có chút cảm giác phấn đấu vì lý tưởng, đến lúc này thì đã mất sạch rồi! Giết người chẳng có chút xíu ý nghĩa nào, chỉ thể hiện bản tính ti tiện của mỗi người chúng ta mà thôi!”

Bạt Phong Hàn cười khổ: “Đó chính là sự khác biệt giữa ngươi và Khấu Trọng, chẳng ai sinh ra là có lòng gan dạ sắt cả đâu. Để có được lý tưởng mà mình tin tưởng tuyệt đối, bọn ta nhất định phải từ bỏ tất cả, chỉ chăm chăm tiến thẳng đến mục tiêu, đó chẳng qua là xem xem ai mạnh hơn, ai tàn nhẫn hơn trong cuộc tranh đấu. Cứ nghĩ đến đám lang sói đang chực chờ ở biên cương phía bắc của các ngươi, nếu để bọn chúng xâm nhập Trung thổ thì cục diện nơi này sẽ trở thành như thế nào? Giết người phóng hỏa, gian dâm cướp của chính là khoái lạc lớn nhất của bọn chúng. Từ Tử Lăng ngươi không thể nào hiểu được cừu hận của bọn chúng đối với người Hán, cũng như Hiệt Lợi không hiểu được cừu hận của ta đối với y. Tin ta đi, mọi chuyện trước mắt rồi cũng sẽ sớm trôi qua, chúng ta chỉ còn nước ráng hết sức mình vì lý tưởng, cho đến khi đánh bại hết đối thủ thì lý tưởng mới có thể trở thành hiện thực.”

Bên ngoài tường thành liên tục truyền lại tiếng ngựa phi hết tốc lực cùng tiếng la hét truy cùng giết tận, từ khi mặt trời mọc đến giờ, Vương Thế Sung cùng đại tướng thủ hạ luân phiên nhau theo cửa nam đột kích quân địch, làm cho Lý Nguyên Cát không có cách nào thiết lập được cứ điểm phòng thủ phía nam Lạc Dương.

Cao trại bị hủy diệt là thất bại và đả kích nghiêm trọng đối với quân vây thành, ép quân Đường phải co cụm lại xung quanh trận địa của tháp tên, không đủ lực lượng để kháng cự lại với địch nhân tấn công.

Vấn đề lớn nhất của Lý Nguyên Cát là không thể huy động được quân binh đang ngoan cố cố thủ trong các doanh trại khác, do đó chỉ còn nước đưa binh lính của các tướng lĩnh dưới quyền đến tăng cường binh lực ở trại còn lại ở phía nam thành.

Khuất Đột Thông thống lĩnh năm ngàn quân Đường bố trận ở phía sau cao trại, để phòng ngừa quân thủ thành theo chỗ hở phá vây.

Từ Tử Lăng giơ đôi tay trắng muốt sạch sẽ trước mắt, trầm giọng: “Đạo lý này ta không phải là không hiểu, nhưng hiểu thì hiểu, đôi tay của ta dính đầy máu tươi cũng là sự thật không thể phủ nhận. Chỉ cần nghĩ đến chuyện phụ tử của người ta bị ta đả thương, ta chẳng những cảm thấy chán nản chiến tranh mà còn căm ghét bản thân mình nữa. Trên chiến trường, mỗi cá nhân đều biến thành công cụ giết người vô nhân tính.”

Bạt Phong Hàn gật đầu: “Chiến tranh chính là như vậy, căn bản không cho ngươi được lựa chọn, hoặc là giết người, hoặc là bị người giết, bất luận là kẻ giết người hay kẻ bị người giết đều là những người vô tội không nơi nương tựa. Lại xem xét một tình huống khác, kẻ bại là bọn ta, Lý Nguyên Cát chiếm được Lạc Dương, trở thành công thần lớn nhất trong trận chiến Lạc Dương, lúc ấy với sự du thuyết dụ dỗ của Ma môn, Lý Nguyên Cát sẽ trở thành Chinh Đông nguyên soái, sự tình nếu trở nên như vậy thì sẽ đưa đến cục diện thế nào? Nhân từ với địch nhân là tàn nhẫn đối với bản thân và những người trung thành với mình, còn có thể gây họa cho trăm họ Trung Nguyên nữa. Lý Thế Dân cũng hiểu rất rõ chuyện này, trong chiến tranh không phải là bạn thì là thù, muốn thủ thắng đương nhiên không phải là dễ dàng, nhưng nếu muốn kiên trì tiếp tục đến cùng cũng khó khăn không kém.”

Từ Tử Lăng chán nản gật đầu, không nói gì nữa.

Lúc này Ma Thường vội vàng đi đến trước mặt hai gã, quỳ xuống bẩm báo: “Bọn ta thừa thế phản kích, liên tục xuất chiến đã phá hủy được lầu phóng tên của địch nhân bên ngoài thành nam, địch nhân đóng cửa trại cố thủ, Khuất Đột Thông vẫn án binh bất động, bọn ta nếu có thể khuất phục được đội quân của y thì thế vây thành của địch nhân sẽ có thể bị phá hủy.”

Bạt Phong Hàn trầm giọng hỏi: “Có người báo cho Thiếu soái chưa?”

Ma Thường đáp: “Lính truyền tin đã xuất phát từ sáng sớm đến Trần Lưu, nếu không có gì trở ngại thì trước hoàng hôn Thiếu soái sẽ nắm rõ tình huống của chúng ta.”

Bạt Phong Hàn quay sang hỏi Từ Tử Lăng: “Tử Lăng có cao kiến gì không?”

Từ Tử Lăng lại hỏi Ma Thường: “Ma tướng quân thấy thế nào?”

Ma Thường nghiêm mặt đáp: “Chủ trương của tiểu tướng vốn là thừa thắng truy kích, nhưng cũng hơi cảm thấy đây chính là cái bẫy, rất có khả năng Khuất Đột Thông phụng lệnh Lý Nguyên Cát dụ chúng ta xuất kích, qua cuộc khổ chiến đêm qua, quân ta người ngựa mệt mỏi, tạm thời khó mà ứng phó xuất kích toàn diện đại quy mô. Hơn nữa quân lực địch nhân nhiều hơn quân ta gấp hai lần, bọn ta không có cách nào biết rõ được thực lực chân chính của địch nhân ở trong trại, miễn cưỡng xuất kích thì chắc chắn sẽ thất bại. Biện pháp sáng suốt nhất bây giờ là hy vọng Thiếu soái có thể kịp thời đưa quân hỗ trợ, trong ngoài tiếp ứng có thể đột phá được mặt nam của quân vây thành.”

Bạt Phong Hàn đồng ý: “Cứ theo ý của Ma tướng quân mà làm, tướng quân nên đi ngủ một giấc cho khỏe để còn ứng phó với đại chiến sắp tới.”

Ma Thường dạ một tiếng rồi vui vẻ rời đi.

Từ Tử Lăng nói: “Y nhất định là không đi ngủ rồi.”

Bạt Phong Hàn nhìn theo bóng của y, nói: “Ma Thường là một trong những đại tướng chủ lực xuất sắc nhất trong Thiếu Soái quân, chỉ có Khấu Trọng mới có thể làm cho một nhân tài kiệt xuất như vậy ra sức cho mình, nếu Lý phiệt không có Lý Thế Dân thì ai có thể là đối thủ của Khấu Trọng cơ chứ?”

Từ Tử Lăng cười khổ: “Ta chẳng có lòng tin chắc chắn vào Khấu Trọng như ngươi chút nào.”

Bạt Phong Hàn lộ vẻ tươi cười đầu tiên trong ngày hôm nay: “Hảo huynh đệ Khấu Trọng của bọn ta đã học tập và trưởng thành trong chiến tranh. Khi gã trở nên nhẫn tâm như ta, khi gã hiểu rõ mục đích duy nhất của chiến tranh là thắng lợi, khi gã có thể đưa đao pháp nhập vào binh pháp, đưa Tỉnh Trung Nguyệt đem áp dụng trên chiến trường thì trên thiên hạ, kể cả Lý Thế Dân, chẳng còn ai là đối thủ của gã nữa. Vấn đề là hiện giờ gã vẫn chưa được như vậy, chưa thể đạt được kỳ vọng và yêu cầu của ta.”

o0o

Khấu Trọng vào lúc hoàng hôn đã nhận được tin tức về cuộc kịch chiến ở Lạc Dương, vô cùng sung sướng lập tức triệu tập thủ hạ cử hành hội nghị quân sự.

Ở trong nội đường, chúng tướng của Thiếu Soái quân ngồi quanh bàn thương nghị, có đủ mặt Hư Hành Chi, Tuyên Vĩnh, Bốc Thiên Chí, Trần Trường Lâm, Lạc Kỳ Phi, Trần Lão Mưu.

Khấu Trọng trước tiên công bố tin tức Lô Quân Ngạc chết trận cùng cao trại bị phá hủy, sau đó hỏi ý kiến của mọi người.

Tuyên Vĩnh lên tiếng: “Đây đúng là cơ hội mà chúng ta mong đợi trước giờ, nếu bọn ta lập tức phát quân đến Lạc Dương, Lý Thế Dân sợ bọn ta có thể thành công hội hợp với quân thủ thành ở bên ngoài thành nam rồi hủy diệt toàn bộ quân vây thành của Lý Nguyên Cát, y nhất định sẽ lệnh cho Lý Thế Tích kéo rốc thuộc hạ chận đường, bọn ta một mặt giả vờ gấp rút tiến đến Lạc Dương, rồi lại bố trí kỳ binh phục kích quân đội của Lý Thế Tích, chỉ cần tránh xa đường sông, thì lực lượng thủy sư vượt trội của Lý Thế Tích sẽ không còn đất dụng võ nữa.”

Mọi người ai nấy cũng đều tán đồng lời đề nghị của Tuyên Vĩnh, chỉ có Hư Hành Chi chân mày nhíu chặt không nói tiếng nào.

Khấu Trọng lấy làm lạ: “Hư quân sư có cách nhìn khác chăng, sao không nói ra để mọi người suy xét cẩn thận?”

Hư Hành Chi đáp: “Nếu ta là Lý Thế Tích thì sẽ không mạo hiểm chận đường mà chỉ dẫn thủy sư nam hạ xuống Trần Lưu, bọn ta đầu đuôi không thể phối hợp, tiến không được mà thoái cũng không xong.”

Nhậm Mi Mi nói: “Trần Lưu hiện ta có đầy đủ công sự phòng ngự, lại có đồn lũy vững chắc chặn ngang sông, phối hợp với Phi Luân thuyền liên tục tuần tiễu, chỉ cần có một vạn quân phòng thủ thì Lý Thế Tích chẳng thể nào công hạ Trần Lưu trước tháng mười được.”

Hư Hành Chi nói: “Dùng binh phải biết biến hóa, nếu Lý Thế Tích dồn quân xuống ngoài thành Trần Lưu, lại phái tinh kỵ vượt qua Trần Lưu tấn công vào Bành Thành là nơi chúng ta vẫn còn đang tu bổ thì thế nào?”

Nhậm Mi Mi nghẹn họng không nói được gì.

Bành Thành là trái tim của Thiếu Soái quốc, nếu để địch nhân công chiếm thì sẽ làm cho Thiếu Soái quốc không đánh mà tan.

Trần Trường Lâm nói: “Cũng đáng mạo hiểm phen này lắm, giả sử quân ta có thể tập hợp lại để đánh trả đại quân vây thành của Lý Nguyên Cát thì cũng có thể chặn đứng đường lùi của Lý Thế Dân, bọn ta lại tiến về phía đông lần nữa, phối hợp với Đậu quân trước sau giáp kích Lý Thế Dân, Lý Thế Dân chỉ còn mỗi nước phải hoảng hốt rút thẳng về Quan Trung, lúc này thì uy hiếp của Lý Thế Tích sẽ tự nhiên được giải quyết, bọn ta có thể ngủ thẳng giấc không cần lo lắng gì nữa.”

Tuyên Vĩnh lắc đầu: “Quân vây thành của Lý Nguyên Cát khoảng từ sáu đến tám vạn người, thêm vào lũy cao hào sâu có thể kiên thủ lâu dài, bọn ta dẫu có thắng thì tử thương cũng nặng nề, nếu thành thế giằng co thì bọn ta đành phải bó gối nhìn hết thành trì này đến thành trì khác bị Lý Thế Tích công hãm, làm vậy chẳng khôn ngoan chút nào, lời của quân sư chúng ta không thể không lưu tâm đến.”

Khấu Trọng lần này lại phải đưa ra một quyết định trọng yếu quan hệ đến sự tồn vong của Thiếu Soái quân, nếu không mạo hiểm thì sợ mất đi thời cơ tốt, mà nếu mạo hiểm thì rất có thể sẽ xóa sổ toàn bộ Thiếu Soái quân.

Bằng vào hai vạn Thiếu Soái quân đóng tại Trần Lưu thì căn bản không đủ đế ứng phó với hai chiến trường gian khổ kịch liệt. Do đó có thể thấy được tài dụng binh cao minh của Lý Thế Dân, trước tiên điều Lý Thế Tích trấn giữ Khai Phong ép chặt Thiếu Soái quân không động đậy gì được.

Lúc này một tên thủ hạ thần sắc hoảng loạn chạy vào báo: “Phát hiện tung tích của địch quân, một nhánh quân Đường đã lập doanh trại ở trên núi cách Trần Lưu mười dặm về phía bắc, nhân số tổng cộng khoảng năm ngàn người, xem ra là quân tiên phong từ Khai Phong điều tới.”

Mọi người đồng loạt biến sắc.

Khấu Trọng toàn thân như nhúng trong băng giá, xương cốt tựa như bị người ta treo ngược lên, không thể nào vùng vẫy được.

Gã cuối cùng cũng hiểu ra thủ đoạn của Lý Thế Tích, trước tiên chiếm lấy tiên cơ, không dùng thủy sư giương cờ gióng trống nam hạ mà lại dùng kỳ binh bí mật xâm nhập, vào thời khắc quan trọng nhất thì đưa quân uy hiếp Trần Lưu. Không cần đoán cũng biết đại quân thủy sư đang lục tục chuẩn bị theo đuôi, trong tình huống thế này gã làm sao mà dám chia binh đến lạc Dương để tận dụng cơ hội quân thủ thành đã đột phá được phía nam vòng vây?

Hai đại danh tướng của Thiên Sách Phủ là Lý Thế Tích và Lý Tịnh, nhưng Lý Tịnh có quan hệ mật thiết với bọn họ nên Lý Thế Dân đành phải lệnh cho y ở lại thủ thành Trường An. Nếu bọn họ cứ cử quân tiến lên tiền tuyến sẽ rơi vào thế gọng kềm, Thiếu Soái quân của gã sẽ càng sớm bại trận thảm thương. Chỉ có điều trước mắt Lý Thế Tích vừa giở một chút tài mọn đã làm cho gã chân tay luống cuống thì việc thủ hộ Tương Dương và chừa lại đường lui đều khó mà thực hiện được, mệnh vận tương lai ảm đạm chẳng chút hy vọng nào, gã làm sao thì mới đúng đây?

- o O o -

Hồi 654

Cùng Đồ Mạt Lộ

Khấu Trọng hành động ngay trong đêm, nhân lúc Đường quân chưa vững thế trận, đồng thời đại quân chủ lực vẫn chưa đến, thống lãnh ba ngàn kỵ binh tiến hành đột kích đội tiền trạm của Lý Thế Tích. Gã áp dụng ngay chiến thuật dã chiến của người Đột Quyết, đến đi đều như gió, từ bốn phương tám hướng cùng lúc tấn công địch nhân, khiến Đường quân ứng chiến trong lúc thảng thốt, thương vong trầm trọng, cuối cùng buộc phải rút lui.

Cùng lúc, Trần Lão Mưu và hai trăm công sự binh được Trần Trường Lâm dẫn quân hộ tống, bí mật tiến vào Lạc Dương.

Sáng hôm sau, đại quân chủ lực của Lý Thế Tích chia ra hai đường thủy lục tiến tới. Khấu Trọng dẫn toàn quân nghênh chiến, cũng chia thành hai ngả chính diện giao phong với địch. Kịch chiến cả ngày, song phương đều có thương vong. Hai bên còn đang giằng co thì Bạch Văn Nguyên soái lãnh năm ngàn kỵ binh theo đường Đông Hải đuổi đến, gia nhập chiến trường. Cuối cùng Lý Thế Tích không chống nổi phải ra lệnh rút quân đến ngọn núi cách Trần Lưu ngoài hai mươi dặm, chỉnh đốn hàng ngũ. Khấu Trọng cũng không đủ sức để thừa thế truy kích, đành thu binh về thành, tạm thời đã giải nguy được cho Trần Lưu.

Trong khi Khấu Trọng và thủ hạ kiểm điểm chiến quả, Bạt Phong Hàn, Từ Tử Lăng một lần nữa dẫn theo kỵ binh xuất kích từ Trường Hạ môn, đánh úp đại quân vây thành đang lập trại trên đồi.

Mặc dù Lý Nguyên Cát đã có chuẩn bị trước khi tới, tuy nhiên chủ yếu chỉ là thăm dò phản ứng của binh sĩ giữ thành. Thất bại mới đây khiến sĩ khí Đường quân sút giảm, mặc dù quân số đông gấp đôi, nhưng do sợ các doanh trại khác thất thủ, nên Lý Nguyên Cát chỉ đánh cầm chừng với kỵ binh của Bạt, Từ nửa thời thần rồi rút lui.

Bạt, Từ không dám truy kích, sợ bị tả hữu lưỡng trại xuất binh tấn công, nên không thể thu được thắng lợi lớn hơn. Thật ra mục đích của hai gã không phải là đánh nhau mà là để đón Trần Lão Mưu và hai trăm công sự binh từ tay Trần Trường Lâm, hộ tống bọn họ vào thành. Trần Trường Lâm và thủ hạ xong việc liền quay lại Trần Lưu.

Sau khi vào thành, Dương Công Khanh, Ma Thường, Trần Lão Mưu, Bạt Phong Hàn và Từ Tử Lăng tụ tập tại vệ sở ở thành nam mật nghị. Hai trăm công sự binh tự khắc có người an bài nơi ăn chốn nghỉ.

Mọi người ngồi quanh bàn nghe Trần Lão Mưu nói về kế hoạch đào địa đạo, Dương Công Khanh nhíu mày hỏi: “Việc này có cho Vương Thế Sung biết không?”

Trần Lão Mưu đáp: “Tuyệt đối không được. Địa đạo chỉ dùng cho chúng ta thối lui khi nguy cấp. Vương Thế Sung là người phản phúc đa nghi, nếu để hắn biết chúng ta có đường lui, hậu quả khôn lường.”

Bạt Phong Hàn gật đầu: “Việc này không thể để người của Vương Thế Sung biết được, cũng không thể để quân ta biết, tránh làm ảnh hưởng lòng quân, không nên cho họ biết chúng ta không hòa thuận với Đậu Kiến Đức.”

Ma Thường trầm giọng: “Vương Thế Sung có cử người túc trực nghe ngóng động tĩnh, bọn ta đào địa đạo trong thành chắc chắn không thể thoát khỏi tai mắt của hắn.”

Đào địa đạo là một cách công thành, có thể vừa phá hủy tường thành của địch nhân vừa đưa quân bất ngờ đột kích. Quân thủ thành ứng phó bằng cách đào giếng tại các vị trí quan trọng trong thành, lại chế ra dụng cụ dò âm thanh dưới mặt đất, dùng giám sát động tĩnh bên dưới. Năm đó tại Trường An, Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đột nhập Dương Công Bảo Khố, Lý Nguyên Cát đã ngay lập tức phát hiện hành tung của họ cũng nhờ vào phương pháp nghe ngóng này.

Từ Tử Lăng nói: “Hiện tại chúng ta đang khống chế thành nam, tiếp quản luôn cả việc địa thính, đào địa đạo ở đó có thể tránh được tai mắt của bọn Vương Thế Sung.”

Ma Thường gật đầu: “Hiện tại, chúng ta mạnh hơn Vương Thế Sung, nếu Dương công gợi ý, Vương Thế Sung ắt nhượng bộ, nhưng sẽ làm cho hắn hoài nghi.”

Bạt Phong Hàn nói: “Thành nam tuy là chỗ duy nhất có thể đào địa đạo, nhưng phải cẩn thận hành sự, vì bọn ta có thể giám sát địa thính, ngược lại địch nhân cũng có thể giám sát chúng ta.”

Dương Công Khanh gật đầu: “Thời Tam Quốc, Viên Thiệu đào địa đạo tấn công Tào Tháo, nhưng bị Tào Tháo phát hiện, đã đào hào trong thành mà phản kích.”

Trần Lão Mưu mỉm cười: “Xin chư vị cứ an tâm, phương pháp đào địa đạo của ta là lấy từ sách của Lỗ Diệu Tử đại sư. Ông ta đã chế ra những công cụ đào hầm chống nghe trộm, có thể khiến những người giám sát mặt đất cách ba trượng không nghe được gì. Dương Công Bảo Khố chính là dùng cách này để đào.”

Mọi người mừng rỡ, cùng nhau thương lượng kế hoạch hành động chi tiết. Thành nam do Thiếu Soái quân khống chế mọi mặt nên việc xử lý mớ đất đá đào lên không thành vấn đề.

Cuối cùng Dương Công Khanh hỏi: “Trần công dự tính địa đạo khi nào có thể hoàn thành?”

Trần Lão Mưu trả lời: “Ta tính trong vòng một tuần trăng đào ba đường hầm song song đến phía sau khu trại bị hủy cách đó nửa dặm. Lối ra nằm trong một khu rừng thưa, lúc nguy cấp chúng ta có thể nhanh chóng rút lui.”

Mọi việc đã được quyết định ổn thỏa.

Hơn mười ngày sau đó, hai chiến trường Lạc Dương và Trần Lưu chiến sự vẫn diễn ra quyết liệt.

Quân thủ thành Lạc Dương liên tục từ các cổng thành xuất kích, làm cho quân Đường ngoài thành kinh hồn táng đảm, mệt mỏi cùng cực. Lý Nguyên Cát mấy lần tính trùng kiến cao trại ở ngoài thành nam nhưng cuối cùng lại thất bại. Chỉ đành dựa vào hào sâu trại vững chống lại quân thủ thành.

o0o

Khấu Trọng trấn thủ Trần Lưu, cùng Lý Thế Tích nhiều phen giao phong, có thắng có thua, tạo thành cục diện dằng dai.

Tin tình báo chiến sự giữa quân Đậu Kiến Đức và Lý Thế Dân ở Hổ Lao tới tấp bay về làm gã ngày càng lo lắng.

Hoàng hôn hôm đó, gã cùng với Hư Hành Chi và Tuyên Vĩnh lên đầu tường thành nhìn xuống quân doanh của địch ở ngoài thành, thở dài một tiếng nói: “Nếu đổi sang được tình huống khác, ta thật vô cùng cảm kích Lý Thế Tích, hắn đúng là một đối thủ khó tìm, có thể khiến quân ta thu được kinh nghiệm chiến đấu quý báu với đối thủ mạnh. Hiện tại thực là bị hắn bức tới mức muốn động cũng không dám, nếu không có đại kế chu toàn, khó lòng hóa giải được tình thế này.”

Tuyên Vĩnh và Hư Hành Chi cũng có cùng cảm giác.

Đúng lúc này Lạc Kỳ Phi thần sắc ngưng trọng đến bên Khấu Trọng thi lễ nói: “Chúng ta vừa nhận được tin Lý Thế Dân phái Vương Quân Khuếch đem theo hơn ngàn khinh kỵ, tập kích hậu phương, đại phá đội quân vận lương của Đậu Kiến Đức, bắt sống đại tướng Trương Thanh Đặc.”

Khấu Trọng thất thanh kêu lên: “Cái gì?”

Lạc Kỳ Phi lặp lại lần nữa, ai nấy đều biến sắc.

Sau nhiều lần giao tranh bất lợi, Đậu Kiến Đức bị Lý Thế Dân ép chặt ở Hổ Lao, án binh không dám xuất kích. Song phương chỉ xảy ra vài trận chiến lẻ tẻ, không có trận nào mang tính quyết định. Đậu quân thất lợi nhiều hơn, ban đầu là tướng sĩ tinh thần suy sụp, quân tâm bất ổn. Hiện tại lương thảo bị cướp, tinh thần quân lính càng lúc càng xấu, tình thế ngày càng ác liệt.

Khấu Trọng cảm thấy đau đầu: “Hiện nay tình thế đã lâm vào đường cùng, Đậu quân thiếu lương thảo, hoặc là lập tức rút quân, hoặc là phải mạo hiểm xuất kích. Bất luận tình huống nào cũng chỉ làm lợi cho Lý Thế Dân.”

Hư Hành Chi nói: “Hiện nay chỉ có cách triệt hồi quân đội của chúng ta tại Lạc Dương, tập trung binh lực ở Bắc Cương, căng sức chống lại quân Đại Đường đang đánh với Đậu quân, rồi chờ đại quân của Tống phiệt đến tiếp viện.”

Khấu Trọng lắc đầu: “Như thế chỉ khiến cho Lạc Dương nhanh chóng bị vây hãm, cùng bại vong với Đậu Kiến Đức mà thôi. Đậu Kiến Đức tuy không tin ta, nhưng ta không thể vô tình vô nghĩa với hắn. Ta phải tức tốc tới Lạc Dương, sau khi Lý Thế Dân phá Đậu quân, tất sẽ hồi sư Lạc Dương, ta sẽ khiến hắn xuất kích lần nữa, rồi thừa thế nam hạ chiếm lấy Tương Dương, theo đường thủy tới Chung Ly. Mọi người chỉ cần giữ chân Lý Thế Tích, nếu không chúng ta sẽ không có cơ hội xem hoa nở xuân này đâu.”

Tuyên Vĩnh tự tin nói: “Thiếu soái cứ yên tâm đi! Có Hư quân sư trù mưu vận sách, chúng thuộc hạ sẽ không phụ ủy thác của Thiếu soái.”

Khấu Trọng miễn cưỡng chấn khởi tinh thần chiến đấu nói: “Từ đây đến Tết là những ngày gian khổ nhất của quân ta. Người ta nói binh bại như núi đổ, vô luận tình huống ác liệt như thế nào, bọn ta cũng phải kiên trì, nếu như để thủy quân của Lý Thế Tích đột phá phong tỏa thành công, tiến về phía nam Vận Hà, Thiếu Soái quốc nhỏ xíu của chúng ta sẽ tiêu tùng ngay. Vì thế cả hai mặt trận chúng ta đều không được phép thua.”

Ba người lớn tiếng đáp ứng.

Khấu Trọng đưa mắt nhìn doanh trại địch ở bên ngoài thành khí thế lên cao, trên vai dường như có vật nặng ngàn cân đè lên, làm cho gã không thể đứng thẳng được, chỉ còn nước tiến về phía trước, không có đường lui, cách duy nhất là lấy cứng chọi cứng, tận lực rồi nghe theo mệnh trời, xem xem ông trời có giúp gã không.

o0o

Từ Tử Lăng và Bạt Phong Hàn cũng đứng trên đầu tường thành nhìn tình hình điều quân của địch nhân ở ngoài thành nam.

Hôm qua hơn một vạn quân từ Trường An theo thủy lộ đến tăng viện cho quân vây thành của Lý Nguyên Cát, từ lúc đó quân thủ thành luôn đề cao cảnh giác chờ đón hành động phản kích của Lý Nguyên Cát.

Sau giờ ngọ quân của Lý Nguyên Cát bắt đầu hành động, tại cao trại thiết lập trung tâm chỉ huy, trước sau bố trận, tập hợp gần ba vạn quân, vận chuyển vật tư dùng để dựng lại trại, tùy thời có thể bắt đầu.

Bạt Phong Hàn thất vọng nói: “Lý Nguyên Cát nếu ổn định được căn cứ, chúng ta sẽ khó mà ngăn hắn dựng lại cao trại.”

Dưới ánh chiều tàn, Lý Nguyên Cát cho bộ binh làm chủ đích, theo tiếng trống trận từ từ tiến tới khu đất bị san bằng bên cạnh lớp hào thứ hai, công sự binh lập tức triển khai dọn dẹp cao địa.

Bạt Phong Hàn thấy Từ Tử Lăng không đáp lời, đặt tay lên vai hắn hỏi: “Tử Lăng đang nghĩ gì vậy?”

Từ Tử Lăng cười khổ nói: “Tiểu đệ đang tưởng tượng, nếu ngày mai tình cảnh bên ngoài thành sẽ khôi phục như cũ thì những nỗ lực, những thương vong của mười mấy ngày trước chỉ là một cơn ác mộng không hề ảnh hưởng đến thực tại. Chiến tranh không thể tránh được sao? Mọi người cứ phải chém giết, mãi mãi chém giết nhau sao? Từ khi có lịch sử đến giờ, tuy khác hình thức, khác tính chất nhưng các cuộc chiến tranh lớn nhỏ vẫn không ngừng tiếp diễn.”

Bạt Phong Hàn nhún vai chầm chậm nói: “Đó là vấn đề lợi ích. Từ thời ăn lông ở lổ, tổ tiên chúng ta đã vì sinh tồn mà tranh đấu với đại tự nhiên, chấp nhận phong sương vũ tuyết, chủ yếu để lấp đầy bao tử, hay ứng phó với mãnh thú tấn công, với quy luật kẻ mạnh ăn thịt kẻ yếu của trời đất. Đến khi quốc gia được thành lập, tổ chức ngày càng phức tạp, nguyên nhân gây ra chiến tranh nhiều vô kể. Đơn giản là chiến tranh giữa các bộ tộc; chiến tranh giữa các phe muốn thống nhất hay chia tách; chiến tranh do xung đột trong nội bộ của giai cấp thống trị; giữ bên đi xâm lược và bên bảo vệ. Con người lòng tham vô đáy, do đó chiến tranh không bao giờ ngưng.”

Từ Tử Lăng nói: “Tiểu đệ bỗng có ý nghĩ, vấn đề chính là những thứ đã mất đi, khiến cho biến loạn, nhân tâm bất ổn. Nếu có thể đem trở về những điều đã mất, người người trong thiên hạ sẽ đối xử hòa bình với nhau. Ôi! Chỉ e tình huống đó không bao giờ xuất hiện.”

Bạt Phong Hàn gật đầu: “Suy nghĩ của ngươi tuy không thực tế, nhưng ta cũng hiểu được ý của ngươi. Nói cho cùng đó là vấn đề nhân tâm, nếu ai cũng có ý nghĩ như Tử Lăng thì thiên hạ thái bình rồi. Đáng tiếc là thiên hạ chỉ có một Từ Tử Lăng, ta và ngươi khác nhau rất lớn, từ nhỏ ta đã quen cuộc sống vào sinh ra tử, không còn cảm giác chán ghét chiến tranh nữa.”

Từ Tử Lăng chỉ biết cười khổ.

o0o

Trước khi trời sáng, Khấu Trọng vượt qua quân vây thành tiến đến Lạc Dương. Lúc này Lý Nguyên Cát đã xây dựng lại cao trại thành công, Lạc Dương rơi vào cảnh bị vây khốn trùng trùng.

Khấu Trọng trước tiên nhập cung gặp Vương Thế Sung cùng các tướng lĩnh của lão cử hành hội nghị quân sự, đương nhiên là không tìm ra biện pháp gì hay ho, chỉ đồng lòng quyết định tử thủ Lạc Dương, bình tĩnh chờ đợi. Thành bại của Lạc Dương không phải do họ mà do chiến trường Hổ Lao quyết định.

Khấu Trọng trở về nhà ở thành nam, có cảm giác cả thân thể và tinh thần đều cực kỳ mệt mỏi.

Dương Công Khanh, Ma Thường, Trần Lão Mưu, Bạt Phong Hàn và Từ Tử Lăng tập hợp trong nội trạch, xem xét tình hình.

Vô Danh đã lâu không gặp Khấu Trọng, thần thái tỏ ra hưng phấn đứng trên vai chủ nhân, không ngừng âu yếm cọ đầu vào tóc gã. Khấu Trọng dịu dàng vuốt ve nó.

Gã kể lại tình huống xong, Trần Lão Mưu nói: “Mọi việc đều thuận lợi, chỉ cần hai ngày nữa, địa đạo thứ nhất sẽ hoàn thành, cửa vào là địa lao của vệ sở cạnh Trường Hạ môn, lối ra là khu rừng phía sau cao trại.”

Ma Thường cũng nói: “Địa đạo khá rộng rãi, lại kiên cố, ở gần lối vào còn có quạt gió thông khí, nửa sau hơi có cảm giác ngột ngạt.”

Bạt Phong Hàn nhíu mày: “Trần lão không phải nói sẽ đào ba địa đạo song song sao? Hiện tại chúng ta đã đào hơn nửa tháng mà chưa xong một đường địa đạo, làm sao trong vòng một tháng nữa đào xong ba đường?”

Trần Lão Mưu vui vẻ đáp: “Đường địa đạo thứ nhất cần thời gian nhiều nhất, vì trong lòng đất có rất nhiều yếu tố phát sinh như đá tảng hay nước ngầm... Hiện tại ta đã nắm được tình trạng địa hình nơi đây, có thể từ địa đạo đã hoàn thành mà phát triển thêm, đồng thời đào song song hai đường nữa. Hơn nữa, ba đường địa đạo có nhiều chỗ nối nhau, bảo đảm trong vòng mười lăm ngày sẽ hoàn thành toàn bộ công trình.”

Dương Công Khanh nhắc nhở: “Ba lối ra nên các nhau một khoảng nhất định để tiện bố trận hoặc nghênh địch.”

Khấu Trọng vuốt ve Vô Danh, trầm ngâm nói: “Địa đạo có đủ cho ngựa đi qua không?”

Trần Lão Mưu thản nhiên: “Sợ là sẽ có vấn đề, ngựa không thể chịu nổi không khí nóng bức dưới đó.”

Khấu Trọng mắng: “Các người không nghĩ đến vấn đề này sao? Nếu không có ngựa mà đi bộ, chúng ta chắc chắc trốn không thoát kỵ binh của Lý Thế Dân truy kích, đừng quên con liệp ưng của Khang Sao Lợi.”

Từ Tử Lăng cười khổ: “Cho đến hôm nay, đó không phải là vấn đề, vì phía nam ngoài thành không có kiên trại cản đường, chúng ta có thể cho một phần binh lính theo địa đạo xuất thành trước, mai phục phía sau địch nhân, những người còn lại đột phá vòng vây thoát đi sau. Hiện tại đương nhiên là chuyện khác.”

Ma Thường nói: “Chúng ta nên công phá cao trại, nếu may mắn có thể thành công. Tuy nhiên Lý Nguyên Cát vất vả lắm mới kiến thiết được cao trại, tất nhiên sẽ đặt trọng binh cố thủ, nếu chúng ta mạo hiểm tiến công, chắc chắn thương vong thảm trọng mà không thu được gì.”

Khấu Trọng mỉm cười: “Cùng tắc biến, biến tắc thông.”

Quay sang nói với Trần Lão Mưu: “Địa đạo có xuyên qua cao trại được không?”

Trần Lão Mưu vỗ đùi kêu tuyệt nói: “Phương pháp đơn giản vậy sao ta không nghĩ ra nhỉ. Chuyện này cứ để ta, bảo đảm có thể đào lên cao trại mà thần không hay quỷ không biết.”

Bạt Phong Hàn vui mừng: “Lối ra phải tính toán chính xác từng phân một, tốt nhất là ở giữa địch doanh, do ta phụ trách đánh trận đầu.”

Trần Lão Mưu cười: “Đầu ra của địa đạo cũng là một môn học vấn, ta sẽ cẩn thận xử lý, Thiếu soái chuẩn bị khi nào sẽ đánh cao trại?”

Khấu Trọng đáp: “Ta còn chưa nghĩ ổn thỏa, tốt nhất là đợi ba đường địa đạo hoàn thành sẽ quyết định khi nào hành động. Ha! Có khách đến!”

Bạt Phong Hàn và Từ Tử Lăng nghe thấy tiếng gió, có người vượt tường vào, lòng thầm ngạc nhiên.

Thanh âm Bạt Dã Cương ở bên ngoài vang lên: “Bạt Dã Cương, Đơn Hùng Tín, Quách Thiện Tài cầu kiến Thiếu soái, có việc cần thương thuyết.”

Khấu Trọng cười ha hả: “Mời ba vị đại tướng quân vào.”

Mọi người đều cảm thấy không thỏa đáng nhưng vẫn đứng lên nghênh tiếp.

Bạt Dã Cương, Đơn Hùng Tín, Quách Thiện Tài từ cửa bên đi vào, thần sắc ngưng trọng. Vừa ngồi xuống, Bạt Dã Cương trực tiếp vào đề: “Vương Thế Sung khí số đã tận, chim khôn lựa cây lành mà đậu, ba người chúng ta sau khi thương nghị, quyết định đầu quân Thiếu soái.”

Đơn Hùng Tín nói tiếp: “Chúng ta tuyệt không phải là người không có tín nghĩa, chỉ vì Vương Thế Sung chỉ tin dùng người trong tộc, khó thành đại nghiệp, trước đây không nghe lời trung nghĩa của Thiếu soái, nên gặp quả báo hôm nay.”

Quách Thiện Tài đứng lên: “Sự thật là chúng ta đại biểu cho các tướng lĩnh ngoại tộc ở Lạc Dương, mời Thiếu soái đoạt vị Vương Thế Sung, lúc đó Lạc Dương mới có hy vọng.”

Bọn Khấu Trọng đưa mắt nhìn nhau, chuyện Đơn Hùng Tín làm phản không lạ, vì hắn là tướng của Lý Mật đầu hàng Vương Thế Sung, quan hệ không có gì sâu đậm. Nhưng Bạt Dã Cương và Quách Thiện Tài đã theo Vương Thế Sung lâu năm, luôn trung thành cẩn cẩn, rõ ràng lão đã lâm vào cảnh bị cô lập.

Khấu Trọng cười ha hả nói: “Các vị đã xem trọng Khấu Trọng ta rồi, làm ta được yêu quá đâm ra sợ hãi. Nhưng ta hiện tại không bảo vệ nổi bản thân mình, sống chết chưa biết thế nào, các vị theo ta, e là không có ngày yên ổn.”

Dương Công Khanh nói: “Rốt cuộc đã xảy ra việc gì, làm ba vị đột nhiên bất mãn với Vương Thế Sung như vậy?”

Bạt Dã Cương lạnh lùng nói: “Từ lúc Vương Thế Sung bức Thiếu soái phải ra đi, chúng ta cực kỳ bất mãn hành động của lão. Tối qua Lý Nguyên Cát bắn tên truyền thư vào thành, chúng ta tuy không biết trong thư nói gì, nhưng chỉ cần thấy lão không đề cập với Thiếu soái việc này, rõ ràng có ý bất lợi. Lần này Thiếu soái không màng sống chết đem lương đến Lạc Dương, lại nghĩa bạc vân thiên cùng chúng ta thủ thành, binh sĩ từ trên xuống dưới ai cũng cảm kích ngài, nên không chấp nhận được hành vi vô sỉ của Vương Thế Sung.”

Mọi người tỉnh ngộ, chắc chắn Lý Nguyên Cát đưa thư vào khuyên Vương Thế Sung mở cửa thành đầu hàng, bán đứng Khấu Trọng.

Đơn Hùng Tín tức giận: “Chúng ta thay lão vào sinh ra tử, còn lão chỉ chăm chăm lo cho bản thân, lý đâu lại thế! Hắn có Đổng Thục Ni nói tốt vài câu trước mặt Lý Uyên, không những có thể bảo mệnh, có khi còn được một chức quan sống ung dung nốt nửa đời còn lại. Còn chúng ta chắc chết chứ không sai.”

Từ Tử Lăng không hiểu: “Đại tướng quân vì sao có ý nghĩ đó? Lý Thế Dân không phải đối đãi với hàng tướng rất tốt sao?”

Quách Thiện Tài thở dài: “Theo tin tức từ Trường An, lần này Lý Nguyên Cát phụng mật dụ của Lý Uyên, nếu phá được Lạc Dương, trừ gia tộc Vương Thế Sung ra, các tướng lĩnh khác toàn thể xử tử để cảnh cáo thiên hạ.”

“Sao?”

Khấu Trọng vỗ bàn, song mục bắn hào quang, trầm giọng nói: “Vương Thế Sung muốn bán đứng Khấu Trọng ta, kiếp sau mới có cơ hội. Từ bây giờ mọi người đều là huynh đệ, dù chết cũng phải chết như một nam tử hán. Nhưng hiện tại không phải là lúc phế vị Vương Thế Sung, trừ phi hắn dám mở cửa thành nghênh đón địch, bằng không chúng ta sẽ thương nghị, âm thầm cho người giám sát động tĩnh của bọn chúng. Hắn bất nhân, đừng trách ta bất nghĩa. Bằng không ta vẫn y lời giúp hắn thủ Lạc Dương tới thời khắc cuối cùng.”

- o O o -

Hồi 655

Tử Vong Mật Dụ

Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Bạt Phong Hàn đi tuần trên tường thành, đến đâu binh sĩ đều cung kính hành lễ, ánh mắt lộ rõ thần sắc kính ngưỡng xuất phát từ tận đáy lòng.

Ba gã hỏi han tình hình ấm lạnh của binh sĩ giữ thành, lại ân cần an ủi, có ý muốn tìm cách cải thiện hoàn cảnh, đề cao sĩ khí.

Trại địch cùng trận tiễn tháp giăng giăng đèn đuốc, phân bố san sát nhau ngoài thành, khí thế đỉnh thịnh, đích thực có uy thế khiến lòng người bất an, nhụt chí chiến đấu.

Sau cùng, ba gã đến phía đông bắc trên Đông môn, tung mình nhảy lên thành lâu cao vút, từ trên nhìn xuống soái trại của Lý Nguyên Cát đóng trên vùng đất cao nằm giữa kênh Vu Tào và sông Lạc Thủy. Từ soái trại, công sự phòng ngự chắc chắn và nhiều vòng hào che chở tỏa thành hai nhánh uy hiếp Lạc Dương.

Binh sĩ trông coi thành lâu lẳng lặng lui xuống, nhường chỗ cho ba gã bàn luận.

Khấu Trọng khẽ thở dài: “Nếu ta có thể vây hãm soái trại, vung đao chém chết Lý Nguyên Cát mới thay đổi được vận mệnh sau này.” Từ Tử Lăng mỉm cười: “Đó gọi là quá tham công, thành ra không biết tự lượng sức.”

Khấu Trọng cũng bật cười: “Ta chỉ muốn mượn lời nói phát tiết uất khí trong lòng, ngủ sâu một giấc xong, tinh lực đã hoàn toàn hồi phục, đấu chí bừng bừng. Nói thật, trên đường đến Lạc Dương, ta cảm thấy tâm tình bải hoải, qua một giấc ngủ mới hồi phục trở lại.”

Bạt Phong Hàn cười nụ: “Vô luận tâm tình ngươi chán nản thế nào, tuyệt không được để lộ ra ngoài. Bởi vì người người trong thành Lạc Dương đều trông chờ vào ngươi, nhìn theo sắc mặt đệ mà hành xử.”

Song mục Khấu Trọng lấp lánh thần quang, trầm giọng nói: “Khấu Trọng này vĩnh viễn không chấp nhận thất bại. Giết ta không dễ, muốn ta đầu hàng lại càng không thể nào.”

Từ Tử Lăng nhỏ giọng hỏi: “Ngươi định xử lý thế nào với Vương Thế Sung?”

Bạt Phong Hàn xen vào: “Tiên phát chế nhân, hậu phát chế vu nhân.”

Khấu Trọng nhíu chặt chân mày, trầm ngâm một chốc rồi cười khổ đáp: “Con rết trăm chân, đến lúc chết vẫn còn ngọ nguậy, dẫu rằng tướng sĩ thủ hạ của Vương Thế Sung đang có lòng ly tán nhưng đã nhiều năm là bộ thuộc của lão, đại bộ phận binh quyền đều do tướng lĩnh Vương hệ khống chế, bọn ta mà ra tay đối phó với lão, nhiều khả năng sẽ xảy ra nội chiến, lúc đó quân địch không cần tấn công, bọn ta cũng tự tan rã.”

Bạt Phong Hàn nói: “Nhỡ Vương Thế Sung bí mật mở cửa thành đầu hàng, toàn quân bọn ta sẽ bị diệt sạch.”

Khấu Trọng đáp: “Ta hiểu rất rõ con người Vương Thế Sung. Kẻ tham quyền cố vị như lão, chưa đến lúc sức cùng lực kiệt tuyệt không bao giờ buông xuôi. Dù thế nào, chỉ cần lão đầu hàng, Đường quân cũng sẽ không giết, theo tính cách của lão, ắt sẽ còn nước còn tát, phải đến tận giây phút cuối cùng mới chịu đầu hàng. Trước mắt lão vẫn còn đặt hy vọng vào trận giao chiến giữa Đường quân và Hạ quân, tất không dễ dàng buông tay. Bọn ta chỉ cần giám thị chặt chẽ lão thì mọi chuyện sẽ ổn.”

Từ Tử Lăng đưa mắt dõi trông tình hình xa gần ngoài thành, nhẹ nhàng lên tiếng: “Lạc Dương bây giờ như một cô đảo, đường giao thông đã bị cắt, mọi mối liên hệ với bên ngoài cũng cách tuyệt, không biết tình hình giao chiến giữa Đường và Hạ thế nào, đến lúc Lý Thế Dân đại phá Đậu Kiến Đức, đưa quân quay lại Lạc Dương thì bọn ta không chỉ phải ứng phó với giặc ngoài mà còn cả thù trong.”

Khấu Trọng kinh ngạc hỏi: “Chẳng lẽ Lăng thiếu gia ủng hộ đề nghị tiên phát chế nhân của lão Bạt?”

Từ Tử Lăng cười khổ: “Ta chỉ theo tình thế bàn luận mà thôi, ta đã không để chuyện sinh tử trong lòng, có bao giờ cấn cá gì với huynh đệ cùng kề vai tác chiến.”

Bạt Phong Hàn trầm giọng: “Chiến tranh là cuộc chơi tử vong xem ai tàn nhẫn hơn, Khấu Trọng ngươi chớ nên mềm yếu kiểu đàn bà, chỉ tổ hỏng chuyện.”

Khấu Trọng đặt tay lên vai hai người, mỉm cười: “Lão ca trách rất hay, bất quá vẫn phải cân nhắc thời cơ hành động. Ta vẫn còn kế hoạch dự trù, khi Đậu Kiến Đức nuốt hận ở Hổ Lao, Kỳ Phi sẽ tự thân đốt lên ba đống lửa tại mỏm núi phía đông nam Lạc Dương, đó chính là thời khắc triển khai hành động. Nhưng với tình hình hiện tại, bọn ta phải ra vẻ phản kích toàn diện Đường quân ở ngoài thành, bố trí ổn thỏa tình hình trong thành, lúc đó kể cả Vương Thế Sung đột ngột khống chế toàn thành cũng không ngại lão bán đứng bọn ta.”

Bạt Phong Hàn hỉ hả: “Hảo tiểu tử! Quả nhiên có chút bản lĩnh.”

Khấu Trọng nói: “Ta vốn định đào địa đạo, phái thám tử đến thông báo tin tức cho quân ta ở Trần Lưu. Nhưng cân nhắc cẩn thận, e là địa đạo bị tiết lộ nên gạt bỏ ngay ý niệm đó.”

Gã dừng lại một chút rồi tiếp tục: “Việc khẩn yếu nhất của bọn ta hiện giờ là bảo tồn thực lực, một khi thành bị phá sẽ toàn lực đột vây, tiến về phía nam đoạt lấy Tương Dương, giữ được thì giữ, bằng không sẽ theo đường thủy rút về Chung Ly, cùng Lý Thế Dân thư hùng một phen.”

Bạt Phong Hàn cười nhẹ: “Ta chính là đợi ngày này. Gồng mình trấn thủ Lạc Dương không phải là việc dễ dàng, cũng coi là một dạng khổ luyện trong tu luyện võ đạo vậy.”

Khấu Trọng buông lỏng tay hai gã, hỏi: “Lương thảo của Lạc Dương thế nào rồi?”

Từ Tử Lăng đáp: “Lương thực và nhu phẩm hàng ngày đủ dùng hai mươi ngày nữa, nhịn ăn nhịn mặc là đương nhiên, nhưng dược vật lại không còn nhiều, đó là một trong những nguyên nhân bọn ta không dám phát động phản kích quy mô lớn.”

Bạt Phong Hàn nhíu mày: “Không dùng địa đạo đã đào không phải bất trí lắm sao?”

Khấu Trọng cười: “Cách nhìn của anh hùng quả nhiên giống nhau, ta đã đổ không ít cân não vì địa đạo, giả như bọn ta phái người theo địa đạo mà ra ngoài một cách thần bất tri quỷ bất giác, yêu cầu Tuyên Vĩnh sai người vận chuyển một phần lương thảo, dược vật cùng binh khí cung tên theo đường này vào thành, còn lại giấu ở nơi ẩn mật tại vùng núi non cạnh lối ra thì đến lúc bọn ta rút đi không lo thiếu lương thiếu tên, dầu Lý Thế Dân đuổi theo, bọn ta vẫn còn vốn để đấu với y.”

Từ Tử Lăng hỏi: “Chuyến này do ta đi?”

Khấu Trọng cùng Bạt Phong Hàn bàn bạc, dựa vào linh giác thiên hạ vô song của Từ Tử Lăng, gã qua lại trại địch dễ như trở bàn tay, có thể dẫn quân vận lương bí mật vào thành.

Khấu Trọng hân hoan: “Mọi chuyện trông vào Lăng thiếu gia.” Đoạn chỉ vào soái trại của Lý Nguyên Cát nói: “Nếu bọn ta đào một địa đạo thông thẳng đến chuồng chó của Lý Nguyên Cát thì thế nào nhỉ?”

Bạt Phong Hàn bật cười: “Thế thì ngươi phải thịt Vương Thế Sung trước đã.”

Khấu Trọng nói: “Giết chết Lý Nguyên Cát, Lạc Dương tự khắc được giải vây, Vương Thế Sung cớ gì lại không đồng ý?”

Từ Tử Lăng hiểu tâm ý của gã, không muốn trơ mắt nhìn Đậu Kiến Đức bại vong. Bèn khuyên: “Muốn đào một địa đạo như thế, ít nhất cũng cần hai mươi ngày, chưa tính đến việc gặp đá tảng hay sông ngòi cản trở, vả lại còn phải kéo dài công trình địa đạo phía nam. Dẫu Vương Thế Sung thật lòng hợp tác, e là thời gian không đủ.”

Khấu Trọng ủ rũ: “Được rồi. Cứ theo kế hoạch tiến hành. Hy vọng Đậu Kiến Đức có thể đại phát thần uy, hạ được Hổ Lao, bọn ta thành công sẽ rút lui, xuôi nam vây hãm Tương Dương cũng dễ dàng hơn.”

o0o

Hoàng hôn ngày hôm sau, Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn dẫn quân xuất kích, hư trương thanh thế, thu hút chú ý của quân vây thành, Trần Lão Mưu liền nhân cơ hội kiến tạo lối ra thật bí mật cho địa đạo, Từ Tử Lăng theo đó thoát ra, đến Trần Lưu vận chuyển lương thực binh khí về Lạc Dương.

Để che tai mắt quân địch, bọn Khấu Trọng thay nhau xuất kích, lấp hào công phá tiễn tháp, bên dưới Trần Lão Mưu dốc toàn lực thi công, lợi dụng địa đạo đầu tiên rồi đào rộng ra, đồng thời tại những chỗ khúc khuỷu chia thành hai địa đạo. Năm ngày sau, Từ Tử Lăng đưa đội vận lương quay về vào ban đêm, đồng thời mang theo tin tức không hay.

Nguyên lai Lý Thế Dân cố ý tung tin ra ngoài là số cỏ khô cho ngựa của Đường quân đã cạn, định rút quân về Hà Bắc.

Đậu Kiến Đức nghe tin nên rất mừng, cho rằng thời cơ tấn công Hổ Lao đã đến bèn toàn lực phát động đại quân, lập trận ở bãi Ngưu Khẩu, phía bắc liền với Hoàng Hà, phía tây tới tận Phiếm Thủy, phía nam dựa vào Thước Sơn, thế trận dài hơn hai mươi dặm, lại đánh trống trợ trận.

Lý Thế Dân cũng kết trận ở bờ kia Phiếm Thủy nghênh đón, thủ chắc không ra, tạo thành cục diện giằng co.

Vấn đề là Đậu quân thiếu lương, Lý Thế Dân lại quân tinh nhuệ, lương thảo đầy đủ, dĩ dật đãi lao, phía sau có Hổ Lao hậu thuẫn, vì thế bọn Tuyên Vĩnh, Hư Hành Chi mới không ủng hộ Đậu Kiến Đức.

Nghe được Đường quân và Hạ quân sắp sửa quyết chiến, bầu không khí trong thành Lạc Dương dần dần khẩn trương.

Khấu Trọng gọi Đơn Hùng Tín, Bạt Dã Cương đến thành nam mật nghị. Khấu Trọng hỏi ngay: “Các vị nói là Lý Nguyên Cát phụng mật dụ của Lý Uyên, ngoại trừ Vương Thế Sung và tộc nhân của lão ra thì nhất loạt giết sạch các tướng lĩnh, tin tức đó từ đâu ra?”

Bạt Dã Cương đáp: “Là do Trương Trấn Châu phái người đến mật cáo, khuyên mạt tướng thấy tình hình không hay, lập tức dẫn huynh đệ thủ hạ đào tẩu, đừng bán mạng cho loại tiểu nhân như Vương Thế Sung.”

Khấu Trọng gật đầu: “Trương công tính tình trung hậu, nói một là một, hai là hai, không giả dối bao giờ.”

Đơn Hùng Tín ngạc nhiên: “Vì sao Thiếu soái lại trực tiếp hỏi rõ chuyện này?”

Khấu Trọng thật thà đáp: “Vấn đề ở chỗ Bạt đại tướng quân cùng Quách đại tướng quân là người theo Vương Thế Sung nhiều năm, Khấu mỗ tất phải quan sát một thời gian mới khẳng định được thành ý của các vị, xin hai vị đừng trách.”

Bạt Dã Cương nói: “Thiếu soái nghĩ như vậy cũng hợp tình hợp lý.”

Đơn Hùng Tín vui mừng: “Vậy là cuối cùng Thiếu soái cũng bằng lòng thu lưu chúng ta.”

Khấu Trọng đáp: “Tại hạ đã nói mọi người cùng là huynh đệ, tất phải là huynh đệ. Không biết có bao nhiêu tướng lĩnh muốn theo tại hạ?”

Bạt Dã Cương bấm đốt ngón tay rồi nói: “Còn có mười người Đoàn Đạt, Vương Long, Thôi Hoằng Chu, Tiết Đức Âm, Mạnh Hiếu Văn, Quách Thập Trụ, Vương Đức Nhân, Hình Nguyên Chân, Dương Uông. Trừ Lang Phụng cùng Tống Mông Thu là tâm phúc của Vương Thế Sung, mọi tướng lĩnh khác đều hướng về Thiếu soái, hy vọng được theo Thiếu soái đánh lấy thiên hạ, công vào Quan Trung, chặt cái đầu thối tha của Lý Uyên.”

Chỉ cần nghe giọng điệu khinh nhờn của Bạt Dã Cương đối với Lý Uyên là biết chư tướng Lạc Dương vì chiến hữu và thủ hạ thương vong nên kết thâm cừu sâu nặng với Đường thất ở Trường An. Bằng không việc gì phải theo Khấu Trọng, chỉ cần mở thành nghênh tiếp Lý Nguyên Cát, tất được bái tướng phong hầu.

Khấu Trọng lại hỏi: “Tình hình thủ hạ, binh lính của các vị thế nào?”

Đơn Hùng Tín hừ lạnh: “Nhân mã phe Vương Thế Sung đã tổn thất trầm trọng, trừ hơn ngàn cấm vệ quân còn trung thành với lão, gần hai vạn binh tướng còn lại là người của chúng ta, chỉ cần Thiếu soái hạ lệnh một tiếng, chúng ta lập tức tấn công vào Hoàng cung, giết bọn chúng không còn manh giáp.”

Khấu Trọng lắc đầu: “Đó chỉ là hạ sách. Mọi người đã là huynh đệ, ta cũng không giấu làm gì, bọn ta đã đào ba địa đạo, đến lúc nguy cấp có thể dựa vào đó trốn khỏi Lạc Dương, không cần ở lại trong thành đợi chết.”

Hai người nghe xong vừa kinh vừa hỉ.

Đơn Hùng Tín hỏi: “Thiếu soái không tin tưởng vào Đậu Kiến Đức ư?”

Khấu Trọng hỏi ngược lại: “Các vị tin tưởng y ư?”

Hai người đồng thời lắc đầu.

Bạt Dã Cương lại hỏi: “Thế ra Thiếu soái đã sớm định liệu rồi, chúng ta phải phối hợp như thế nào?”

Khấu Trọng đáp: “Chúng ta phải nghiên cứu tường tận mọi tiểu tiết có thể xảy ra lúc rút lui, phòng khi nguy ngập, mỗi người đều biết phải làm gì. Chỉ cần giữ được núi xanh, lo gì không có củi đun. Bậc trí giả khi biết không thể giữ được thì buông tay, hy sinh vô vị nào có ý nghĩa gì. Ngày nào Đậu Kiến Đức còn chưa thất bại, Vương Thế Sung vẫn còn chung lợi ích với bọn ta, ta lại đi trước lão một bước, nắm vững tình huống ở Hổ Lao, đương nhiên quyền chủ động nằm ở bọn ta chứ không phải lão, hai vị cứ yên tâm.”

Ba người cùng thương lượng tường tận làm thế nào ứng phó với tình huống trước mắt, thậm chí cả kế hoạch rút lui, rồi mới lặng lẽ giải tán. Khấu Trọng đến thành nam tìm Từ Tử Lăng và Bạt Phong Hàn đang trông coi việc đào địa đạo. Hai gã đang đứng ở lối ra trò chuyện, Trần Lão Mưu chỉ huy công sự binh làm việc liên tục, từng thúng cát đá, bùn đất được chuyển lên mặt đất, đưa đến nơi bí mật.

Bạt Phong Hàn thấy Khấu Trọng đến, hoan hỉ hỏi: “Bọn ta đến một nơi khác hít thở chút không khí trong lành ngoài thành, thế nào?”

Khấu Trọng cười: “Tiểu đệ đương nhiên phụng bồi.”

Ba gã tâm tình phơi phới tiến vào địa đạo, lập tức như đặt chân vào một thế giới khác, đâu đâu cũng là những cây cột gỗ thô tháp vươn thẳng lên chống đỡ, cách mấy chục bước lại treo một đĩa phong đăng, ngọn lửa bị gió nhẹ từ mười lỗ thông hơi lùa vào thổi chao đảo, khiến người ta có cảm giác âm u quỷ dị. Ba gã rảo bước qua một địa đạo cao tám xích rộng một trượng, công sự binh vẫn miệt mài dùng công cụ đặc chế đào bùn đất tại hai địa đạo khác rồi dùng cột gỗ chống đỡ.

Lối ra bên dưới cao trại chính là không gian rộng lớn không kém gì một sảnh đường.

Đó là nơi ba địa đạo giao nhau, có mười bậc đá dẫn lên, bên trên là một tầng đất dày độ một trượng chưa đào, lại thêm cột gỗ chống đỡ kiên cố, nhưng bằng vào nhĩ lực của ba gã, thấp thoáng nghe được tiếng chân người, tiếng vó ngựa trong doanh trại phía trên nện xuống đất.

Bốn phía dưới đất có đào rãnh sâu, dùng để an trí bùn đất sau khi phá cửa thoát ra, thiết kế vô cùng vững chắc. Vương Thế Sung chất khá nhiều gỗ trong thành, vốn muốn xây cung thất để sử dụng, không ngờ rằng lại bị Trần Lão Mưu dùng hộ lúc đào địa đạo. Ba gã ngắm nghía một hồi rồi mới tiếp tục cất bước, lần theo địa đạo thứ nhất dẫn ra cửa phía nam.

Khấu Trọng kinh ngạc: “Thật sự là kỳ quái, đến tận đây mà không có cảm giác khó thở.”

Từ Tử Lăng nói: “May là đáy hào của địch nhân có lỗ thoát khí nên ta có thể dùng quạt gió đem không khí vào trong địa đạo rồi đem tử khí trong này tống ra ngoài. Hoàn thành địa đạo đầu tiên, phải thiết kế thêm lỗ thông hơi tại điểm cuối, bằng không bọn ta phải nhịn thở mới ra được.”

Bạt Phong Hàn nói: “Mỵ lực Thiếu soái quả bất phàm, lại thu hút được nhiều nhân tài ưu tú đến vậy, như Trần Lão Mưu, lão này có cơ hội trở thành Lỗ Diệu Tử thứ hai, không có ông ta, dẫu muốn lập địa đạo cũng không ai có bản lĩnh thực hiện được.”

Khấu Trọng bật cười: “Ít ra Trần công cũng bằng một nửa của Lỗ đại sư, ông ta và một nửa khác của Lỗ đại sư là Lôi lão ca hợp lại, khẳng định trở thành một Lỗ Diệu Tử hoàn chỉnh, hà hà.”

Ba gã cười cười nói nói, đi đến cửa ra, bậc đá vươn dài chừng hai trượng, trên cùng là một tấm thép, xem ra rất nặng.

Từ Tử Lăng nắm rõ về lối ra hơn cả, lên tiếng giải thích: “Tấm thép này nặng hơn trăm cân, bên trên phủ đất mỏng và cỏ dại, lại ẩn trong một bụi cây nên kín đáo vô cùng. Mở ra xong thì dùng cột gỗ chống đỡ, bọn ta sẽ thong thả đi ra.”

Khấu Trọng hăm hở bước lên, đưa song thủ nâng thử, chặc lưỡi nói: “Ít nhất cũng phải hai trăm cân.”

Gã vận công vào hai tay, nhấc một bên tấm thép lên, tiếng gió từ bình nguyên Y Lạc thổi tới u u, cả tiếng cành lá xào xạc truyền tới.

Khấu Trọng nhìn ra ngoài, thở dài: “Vì sao cảm giác khi nhìn trời đêm ở trong thành Lạc Dương và ở đây lại khác nhau? Đều là một phiến thinh không thôi mà.”

Bạt Phong Hàn mỉm cười: “Thinh không vẫn thế, chỉ có tâm cảnh khác nhau. Một đằng bị khốn trong cô thành, ở đây tự do tự tại, đất trời mặc sức cho ta tung hoành.”

Ba gã lần lượt chui ra, lối ra tọa lạc ngay dưới sườn một ngọn núi nhỏ, bốn phía cỏ hoang mọc rậm rì thành rừng. Đậy tấm thép lại, tức thì lối ra trở thành một phần hoàn chỉnh của con dốc.

Ba gã thận trọng đi lên đỉnh dốc, nằm phục xuống quan sát, đèn đuốc từ trại địch cách hai trăm trượng hắt vào mắt, phía trước chính là Lạc Dương.

Từ trên cao nhìn xuống, Khấu Trọng có vẻ hứng chí, mỉm cười: “Nếu ta cùng Phi Vân kỵ từ phía sau công vào, chắc phải đến lúc vượt qua hào trại, địch nhân mới phát giác.”

Bạt Phong Hàn chỉ vào bốn tòa vọng tháp cao vút tại trại phía nam rồi bảo: “Còn phải khiến binh lính trông coi tháp quan sát ngủ gật mới xong được.”

Khấu Trọng nói: “Bằng vào thân thủ của bọn ta, địch nhân lại không phòng bị, giải quyết chúng có gì là khó?”

Hai dòng Y, Lạc từ xa xôi chảy về theo hai hướng, Lạc Thủy chảy xuyên qua Lạc Dương, từ phía tây chảy vào trong thành, dòng chính của Y Thủy chảy qua phía đông nam thành, một nhánh chảy vào trong thành.

Khấu Trọng trầm ngâm: “Kế hoạch rút quân của bọn ta chia thành ba bước, trước hết phái mâu thuẫn thủ cùng đao tiễn thủ vượt qua ba địa đạo rồi bí mật dàn trận tại gò núi này. Tiếp đó sai kỳ binh từ địa đạo xông ra đột kích cao trại, rồi mở toang ba cửa lớn phía nam, phái quân cắt đứt quân cứu viện cao trại của địch và hợp lại với quân đột kích. Chúng ta sẽ rút lui theo hướng đó, bố trí quân binh phục kích truy binh của địch rồi vừa đánh vừa rút về phía nam. Thành công hay không phụ thuộc vào bọn ta có tốc chiến tốc quyết được không, phải tranh thủ mà tiến vào quận Hoằng Nông trước khi hai lộ Đường quân tại Y Khuyết, Thọ An hay tin phong tỏa đạo lộ, đoạn men theo bờ đông Chiết Thủy đến Tương Dương.”

Bạt Phong Hàn nói: “Ngươi nói nghe dễ lắm, nhưng muốn tốc chiến tốc quyết, bọn ta phải đưa rất nhiều chiến mã đến đó, trước hết phải lấp chiến hào của địch, phá tan trận thế chúng đã lập bên bờ hào.”

Khấu Trọng cười: “Thế mới nói dùng binh tất dụng mưu, vào lúc khẩn yếu nhất phải động não. Chỉ cần bọn ta đào địa đạo bên dưới tiễn tháp trận của địch, đào rỗng ra rồi xử lý cẩn thận, dựng trụ lên đỡ, đến lúc phát động công kích thì tẩm dầu vào cột trụ, đốt trụi con mẹ chúng đi, trụ gỗ mà gãy thì trận tiễn tháp tự nhiên sụp thôi, bọn ta chả phí tí sức nào vẫn phá được thế trận kiên cố của địch.”

Bạt Phong Hàn bật cười: “Có học có hành, không ngờ ngươi nghĩ ra chiêu thức tổn âm đức như thế.”

Khấu Trọng vui vẻ đáp: “Toàn nhờ lão ca chỉ điểm cho, càng ác độc càng có cơ hội chiến thắng. Con mẹ nó, ta sắp biến thành lòng dạ sắt đá rồi.”

Từ Tử Lăng đề nghị: “Trước hết cứ chuyển một phần doanh trướng, lương thực, vật dụng đến nơi bí mật ở lối ra, đến lúc bọn ta rút đi càng thuận lợi hơn.”

Khấu Trọng tỏ ra hưng phấn: “Bọn ta vừa nãy còn là ba cái túi da tởm lợm, vừa hợp lại đã thành một Gia Cát Lượng. Mặc cho Lý Thế Dân mưu kế thông thiên, Thiên Sách Phủ mãnh tướng như vân, mưu thần như vũ, vẫn không bì kịp Ngọa Long tiên sinh danh truyền thiên cổ. Con bà nó chứ, Lý tiểu tử muốn ta chết cũng không dễ đâu. Ồ!”

Ba gã đồng thời biến sắc.

Có tiếng xé gió vang lên sau lưng, rõ ràng có người đang lướt về hướng bọn gã.

- o O o -

Hồi 656

Đại Thế Dĩ Khứ

Ba gã giữ nguyên tư thế nằm phục xuống, ngoái lại nhìn, một bóng đen yểu điệu xinh đẹp đang từ trong khu rừng tối om gấp rút lao đến, đối phương hiển nhiên chưa phát giác ra ba gã nên không giảm tốc độ.

Lên đến đỉnh dốc lập tức kinh hoảng dừng bước, hoa dung thất sắc, nhìn rõ ba gã mới từ kinh hãi chuyển sang kinh ngạc, đặt tay lên ngực nói: “Ta đang có việc gấp cần tìm các ngươi, vì sao các ngươi lại đến đây?”

Người đến là Mỹ nhân quân sư Trầm Lạc Nhạn, tuy nàng hốc hác hơn trước nhưng nhìn vẫn vô cùng quyến rũ.

Ba gã ngồi dậy, Khấu Trọng lên tiếng trước: “Chả lẽ đại tỷ không biết Lạc Dương bị Lý Nguyên Cát trùng trùng vây khốn? Nếu để người ta phát hiện Trầm đại tỷ đến gặp bọn đệ, đối với Thế Tích huynh chỉ có hại mà vô ích.”

Trầm Lạc Nhạn toàn thân vận đồ dạ hành, vội vàng ngồi xuống trước mặt ba gã, thấp giọng: “Ta không có lòng dạ nào mà chuyện phiếm với các ngươi, trận chiến Đường, Hạ đã phân thắng phụ, Lý Thế Dân đại phá Đậu Kiến Đức, Hạ Vương bị bắt sống. Hiện giờ Lý Thế Dân đang kéo quân về Lạc Dương, Thế Tích phụng mệnh toàn lực tấn công Trần Lưu nhằm chia cắt mọi thông lộ và mối liên hệ giữa Lạc Dương và Thiếu Soái quân. Các ngươi còn muốn giữ mạng thì chạy được xa đến đâu cứ chạy. Ồ! Các ngươi mau lên đường đi, chạy theo đường sông là sinh lộ duy nhất, nhưng phải trốn tránh quân trấn thủ ở Thọ An và Y Khuyết.”

Ba gã đồng thời biến sắc, tuy đã liệu trước Đậu Kiến Đức bại vong nhưng không ngờ lại nhanh đến thế, thảm đến thế, khiến bọn gã không kịp trở tay.

Khấu Trọng hít một hơi khí lạnh rồi hỏi: “Chuyện của Đậu Kiến Đức là như thế nào?”

Trầm Lạc Nhạn sợ ba gã không tin, bỏ mất cơ hội đào tẩu nên vội đáp: “Đậu Kiến Đức bị dụ cho tiến quân vào Hổ Lao, dàn trận ra nhưng Tần vương không tiếp chiến, mặc cho Đậu quân chịu khổ từ sáng sớm đến giữa trưa, binh mệt tướng mỏi mới sai Vũ Văn Trí Cập dẫn ba trăm khinh kỵ xông vào phía tây thế trận của Đậu Kiến Đức quấy nhiễu quân tâm rồi tự thân chỉ huy Huyền Giáp chiến kỵ xông thẳng đến, đại quân cũng từ từ áp sát, song phương trực tiếp giao phong. Tần vương chỉ huy Huyền Giáp tinh kỵ phá trận xuyên ra phía sau lưng Đậu quân rồi quay ngoắt lại tiến vào giữa trận, nhiều lần như thế, Đậu quân bị phá nát tứ tán, Đường quân thừa thắng truy kích hơn ba mươi dặm, chém đầu hơn ba nghìn người. Đậu Kiến Đức được tướng lĩnh liều mạng bảo hộ, chạy đến bãi Vãng Ngưu thì bị Bạch Sĩ Nhượng và Dương Vũ Uy bắt sống, gần năm vạn Đậu quân cũng bị bắt sống nhưng được Tần vương phóng thích tại chỗ, cho phép tự tìm đường về quê. Đậu Kiến Đức đã bị giải quyết xong, tiếp theo đến lượt các ngươi. Bây giờ còn không chạy thì đợi đến lúc nào.”

Khấu Trọng cảm thấy trong lòng chìm xuống, nghĩ đến cảnh kiêu hùng một đời như Đậu Kiến Đức, ngày trước uy phong rỡ ràng giờ đã thành một kẻ bị cầm tù, sinh tử do người ta quyết định, lòng khó chịu cơ hồ muốn bật khóc.

Lý Thế Dân nói không sai, gã mời Đậu Kiến Đức đến cứu, chỉ làm hại y, khiến y bại vong nhanh hơn.

Bạt Phong Hàn và Từ Tử Lăng lại lo rằng địa đạo và trận thế chưa lập xong thì đào tẩu thế nào, muốn nói mà biết nói sao.

Trầm Lạc Nhạn nóng nảy giục: “Vì sao các ngươi câm hết thế này? Ta thực lòng không đùa cợt với các ngươi. Lý Uyên đã hạ thánh chỉ, lệnh cho Tần vương đem đầu Khấu Trọng về gặp, chính miệng Thế Tích đã nói với ta như thế.”

Khấu Trọng miễn cưỡng lấy lại tinh thần, cười khổ đáp: “Xin mỹ nhân quân sư cứ yên tâm, Lý Thế Dân muốn chém đầu tiểu đệ phải hỏi qua Tỉnh Trung Nguyệt trong tay đệ đã.”

Trầm Lạc Nhạn trừng mắt nhìn gã: “Tính xấu đến chết không đổi.” Đoạn cúi đầu nhẹ nhàng nói: “Chuyện ở Trường An vẫn chưa có cơ hội cảm tạ các ngươi.”

Khấu Trọng đáp: “Mọi người đều là bạn bè cũ mà!”

Trầm Lạc Nhạn nhớ đến cái chết đột ngột của Lý Mật, ánh mắt mờ hẳn đi, cúi đầu không nói.

Từ Tử Lăng không muốn nàng nhớ lại chuyện thương tâm bèn hỏi: “Đậu công bị phá đã lâu chưa?”

Trầm Lạc Nhạn nhớ lại mục đích chuyến đi này, vội đáp: “Xảy ra ba ngày trước. Hôm qua Lý Thế Dân đã dẫn quân khởi hành, ta đoán trong vòng năm ngày quân tiên phong có thể đến đây, các ngươi nên lập tức rời khỏi.” Đoạn nhướng mày nói: “Làm sao các ngươi tự do ra vào nơi đây như vậy?”

Dẫu cho Khấu Trọng tín nhiệm Trầm Lạc Nhạn nhưng chuyện này quan hệ trọng đại, gã không dám tiết lộ chân tướng, lại không đành nói dối nàng, bèn ghé sát tai nàng thì thầm: “Thì đi từ chỗ thấp lên chỗ cao.”

Bạt Phong Hàn sợ Khấu Trọng càng nói càng để lộ bèn lên tiếng: “Lý phu nhân tình nghĩa cao trọng, ba huynh đệ chúng ta cảm kích phi thường. Đây là chốn thị phi, Lý phu nhân không tiện ở lâu mà chúng ta cũng phải quay về thành chuẩn bị rút đi.”

Gã cố ý gọi Trầm Lạc Nhạn là Lý phu nhân, có ý muốn đề tỉnh nàng chú ý tình hình mà đừng liên lụy cả Lý Thế Tích.

Quả nhiên Trầm Lạc Nhạn nghe vậy, tấm thân kiều diễm khẽ rung động, nhìn Từ Tử Lăng chằm chằm, toan nói nhưng lại thôi, rốt cuộc gật đầu: “Các ngươi bảo trọng, ngàn vạn lần không nên sính cường theo kiểu cái dũng của kẻ thất phu.”

Nói đoạn quay mình theo lối cũ rời đi.

Ba gã ngẩn người trên dốc núi nhìn theo bóng dáng nàng lẫn mất trong rừng, một lúc sau Khấu Trọng lên tiếng: “Ác mộng của bọn ta dường như mới bắt đầu, tính sao đây?”

Bạt Phong Hàn nói: “Việc đã gấp thế đành phải chia nhân thủ ra, trước hết đào địa đạo phá rỗng trận địa địch, mặt khác đóng Hà mô xa để lấp hào, phải liên tục làm cả ngày lẫn đêm để hoàn thành toàn bộ trong một, hai ngày. Chuyện Đậu Kiến Đức bị bắt chỉ cho mấy tướng lĩnh đầu não biết, không để lộ ra toàn quân. Chúng ta phải chạy đua với thời gian, rời khỏi đây trước khi Lý Thế Dân đến. Bên ngoài biển rộng trời cao, rồi sẽ có ngày bọn ta quay lại.”

Khấu Trọng nói: “Đáng ngại nhất là Lý Nguyên Cát dùng phi tiễn báo trước tình hình cho Vương Thế Sung, loại tiểu nhân phản phúc vô nghĩa này tất sẽ bán đứng bọn ta.”

Bạt Phong Hàn nói tiếp: “Vì thế phải cho bọn Bạt Dã Cương biết mọi chuyện, phòng bị thật cẩn thận, nếu Vương Thế Sung có động tĩnh gì, con mẹ nó, bọn ta sẽ giết lão manh giáp không còn.”

Ba gã nắm rõ hình thế núi non xa gần quanh lối ra rồi theo địa đạo quay về thành, triệu tập hội nghị khẩn cấp tại Vệ thủ sở ở thành nam, báo cho bọn Dương Công Khanh, Trần Lão Mưu, Bạt Dã Cương, Đơn Hùng Tín, Quách Thiện Tài chuyện Đậu Kiến Đức thất bại và bị bắt, sau cùng Khấu Trọng nói: “Đại thế ở Lạc Dương đã mất, chỉ có con đường rút về phương Nam là khả dĩ, nhưng có rút thì bọn ta cũng phải rút lui cho oanh oanh liệt liệt.”

Đoạn gã trình bày kế hoạch rút lui.

Trần Lão Mưu vỗ ngực đảm bảo: “Chỉ cần phái gấp đôi nhân thủ, hoàng hôn ngày mai là xong.”

Ma Thường lên tiếng: “Xin để cho thuộc hạ phụ trách Hà mô xa.”

Khấu Trọng quả quyết: “Tối mai sẽ quyết định rút quân, trong khoảng thời gian này bọn ta không được phép phạm sai lầm, hành động của mỗi người đều phải hướng đến mục tiêu bình an rời khỏi đây. Ta muốn người của mình khống chế toàn thành thật nghiêm mật, không được để lộ tin tức ra ngoài, mọi thư tín từ bên ngoài vào thành đều phải được mang đến cho ta thay vì Vương Thế Sung.”

Bạt Phong Hàn và Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn nhau, đều nhận ra ý nghĩ trong lòng đối phương: lúc đối mặt với sinh tử, Khấu Trọng sẽ quên hết buồn lo, biến thành một vị thống soái vô địch coi chiến tranh như trò chơi, sắc bén vô tình như Tỉnh Trung Nguyệt.

Bạt Dã Cương nhíu mày: “Có cần thu thập Vương Thế Sung trước không?”

Bạt Phong Hàn giơ ngón tay cái lên khen: “Dã Cương huynh quả nhiên tàn nhẫn.”

Khấu Trọng cười nhẹ nhõm: “Lão Bạt không cần phải đề tỉnh tiểu đệ.”

Rồi quay sang nói với Trần Lão Mưu và Ma Thường: “Trần công cùng Ma tướng quân không nên lãng phí thời gian ở đây, các vị toàn lực tiến hành công việc, những việc khác cứ giao cho bọn ta.”

Trần Lão Mưu cùng Ma Thường vui vẻ lĩnh mệnh lui ra.

Khấu Trọng lại quay sang cầu giáo Dương Công Khanh: “Xin Dương công chỉ điểm.”

Dương Công Khanh vuốt râu cười: “Ta chỉ là một lão già gần đất xa trời. Nhất thiết xin nghe theo Thiếu soái phân phó. Đại trượng phu da ngựa bọc thây, sinh tử chẳng có gì đáng để tâm.”

Trong lòng Khấu Trọng dấy lên cảm giác bất tường, bao nhiêu lần cùng Dương Công Khanh vào sinh ra tử, lần này gã mới thấy ông trực tiếp nói đến tử vong. Bây giờ không phải lúc nghĩ ngợi, gã lắc đầu gạt bỏ mọi suy tư, ánh mắt dõi sang Bạt Phong Hàn, cười nụ nói: “Ta một mực tránh xung đột với Vương Thế Sung là muốn bảo tồn thực lực, vì thế phải phong tỏa tin tức Đậu Kiến Đức bị bắt, nếu ta đoán không sai thì Lý Nguyên Cát biết muộn hơn bọn ta.”

Từ Tử Lăng tỏ vẻ đồng ý: “Lý Thế Dân giấu giếm chuyện này vì y muốn Vương Thế Sung đầu hàng y chứ không phải Lý Nguyên Cát.”

Mọi người ngồi quanh bàn, ánh đèn lấp lánh chiếu sáng khiến đại đường của thành vệ sở lúc mờ lúc tỏ. Từ Tử Lăng đột ngột nhớ đến Sư Phi Huyên, nhớ lại tình cảnh quyến rũ lúc mới gặp nàng, tất cả đều xảy ra tại Lạc Dương, tâm tình bây giờ và lúc đó khác nhau một trời một vực.

Bạt Phong Hàn nhún vai thờ ơ: “Mọi việc theo phương pháp của hai ngươi mà tiến hành, nói cho cùng thì ta cũng chỉ là một kiếm thủ độc lai độc vãng, trong lòng toàn nghĩ đến giết người hoặc bị giết. Thiếu soái ngươi lại là lãnh tụ tối cao thống lĩnh toàn quân, nhất thiết cần nghĩ cho đại cục, tính toán đến thắng lợi cuối cùng.”

Khấu Trọng cười ha hả: “Hiểu đệ ngoài Từ Tử Lăng còn có Bạt Phong Hàn huynh.”

Liền đó song mục gã sáng rực thần quang, quay đầu nhìn Bạt Dã Cương, trầm giọng: “Tạm thời không cần phải phí sức với Vương Thế Sung, gần ba vạn người so với sáu ngàn cấm vệ quân, lẽ nào lại sợ bọn chúng ngăn trở.”

Bạt Dã Cương như mở cờ trong lòng, cúi người nói: “Tuân lệnh!”

Khấu Trọng lại dặn: “Từ giờ trở đi, ta muốn một vị đại tướng quân phái nhân thủ luân phiên trực tại tường thành phía đông, chú ý động tĩnh quân địch bên ngoài, có bất cứ điều gì khác thường lập tức báo cáo ngay.”

Quách Thiện Tài đáp: “Chuyện này giao cho thuộc hạ phụ trách.”

Khấu Trọng cười: “Vậy trông vào Quách tướng quân. Nói thật, ta từng trải qua hoàn cảnh ác liệt hơn nữa, chỉ cần mọi việc làm theo đúng kế hoạch, bọn ta tất sẽ an nhiên qua được cửa này.”

Mọi người hiểu “hoàn cảnh ác liệt hơn” mà gã nói đến là lần ở Hách Liên bảo, sự thật là thế nên lòng tin của ba vị tướng quân tăng lên, trước sau tiếp lệnh lui ra.

Còn lại bốn người Dương Công Khanh, Khấu Trọng, Bạt Phong Hàn cùng Từ Tử Lăng ở trong sảnh đường rộng lớn, đèn đuốc lập lòe, đượm vẻ lạnh lùng, cô đơn trước trận đại chiến.

Dương Công Khanh lên tiếng: “Nếu Lý Thế Dân dùng thuyền theo đường thủy kéo về, nhân đà xuôi dòng chỉ cần không đầy bốn ngày là đến Lạc Dương.”

Bọn Khấu Trọng nghe mà ớn lạnh trong lòng, ba ngày trước Đậu Kiến Đức thất bại mà bị bắt, Lý Thế Dân có thể chia quân thành hai đường thủy lục tiến về Lạc Dương, bất cứ lúc nào quân Đường từ thủy lộ cũng có thể đến nơi.

Bạt Phong Hàn nói: “May là bọn ta còn có tình báo đáng tin cậy mới biết Lý Thế Dân bỏ đường thủy mà đi theo đường bộ.” Đoạn lấy làm kinh ngạc: “Sao vẻ mặt hai ngươi khó coi thế?”

Khấu Trọng cười khổ: “Nếu đối thủ không phải là Lý Thế Dân thì mấy lời ban nãy của Dương công không thể nào lay động lòng tin của tiểu đệ.”

Từ Tử Lăng than: “Thiếu soái lo lắng không phải không có lý do.”

Bạt Phong Hàn kinh hoảng, nhíu mày hỏi: “Các người muốn nói là Lý Thế Dân đã dự liệu trước Trầm Lạc Nhạn sẽ đến thông báo với bọn ta nên cố ý không nói thật chuyện hành quân đường thủy với Lý Thế Tích?”

Dương Công Khanh nghe mà như lạc trong sương mù, không hiểu gì cả: “Tin tức lại do Trầm Lạc Nhạn báo sao, chuyện này là như thế nào?”

Khấu Trọng giải thích: “Càng nghĩ càng thấy khả nghi, Lý Thế Tích rõ ràng biết Trầm Lạc Nhạn có quan hệ với bọn ta, lẽ ra phải nói dối phu nhân, hà cớ lại tự nói cho mỹ nhân quân sư biết?”

Dương Công Khanh nói: “Chuyện này cũng không lạ, nghe nói Lý Thế Tích rất trọng tình nghĩa, hoặc giả thấy các người có ân với phu nhân hắn nên cố ý để phu nhân có cơ hội báo ơn.”

Khấu Trọng định nói thì Bạt Dã Cương gấp gáp chạy vào sảnh đường như gió lốc, lớn tiếng báo cáo: “Thủy sư thuyền của Đường quân đang xuôi theo Lạc Thủy về Lạc Dương.”

Lời lẽ như sấm dậy đất bằng bên tai bốn người, chấn động đến nỗi trước mắt tóe hoa cà hoa cải, sởn gai ốc.

Tình huống đáng sợ nhất cuối cùng cũng xảy ra.

“Rầm.”

Khấu Trọng vỗ mạnh bàn, quát to: “Hảo tiểu tử, lại phải đùa với ngươi một phen.”

Bạt Phong Hàn vươn vai đứng dậy, vẻ mặt biến thành lãnh khốc vô cùng, lạnh nhạt nói: “Binh đến tướng ngăn, nước đến đất chặn, để ta xem Lý Thế Dân có ba đầu sáu tay hay không.”

Dương Công Khanh cũng đứng dậy nói: “Chúng ta cùng lên thành xem sao.”

Từ Tử Lăng cúi đầu nhìn bàn tay dài mảnh sáng lấp lánh, trong lòng tịnh không sợ sệt gì, gã chợt nhận thức sâu sắc bản chất của chiến tranh là không từ thủ đoạn để đạt được thắng lợi sau cùng, đã cùng tranh phong với địch nhân, tuyệt không có chỗ cho tình nghĩa nhân từ.

Ai tàn nhẫn hơn, kẻ đó sống sót.

Đến giờ phút này, Khấu Trọng vẫn chưa đủ độ tàn nhẫn, đương nhiên phải chịu thiệt thòi.

Gã chầm chậm đứng dậy. Bốn đôi mắt cùng tụ lại trên mình Khấu Trọng vẫn đang ngồi trên ghế.

Khấu Trọng hít sâu một hơi, thủng thẳng nói: “Lý Thế Dân muốn giết Khấu Trọng ta thì đây là cơ hội duy nhất, bỏ lỡ cơ hội ở Lạc Dương này, y vĩnh viễn không thể làm được.”

Gã đứng bật dậy, ngang nhiên bước khỏi sảnh đường, mỗi bước đi đều hữu lực, phối hợp với tư thái long hành hổ bộ và hình tượng uy mãnh vô cùng, tiếng bước tạo thành tiết tấu kỳ dị, lộ rõ lòng tin lớn lao.

Bạt Phong Hàn cùng những người khác theo sau, rời khỏi đại môn, bước ra chiến trường.

- o O o -

Hồi 657

Kiến Đức Quy Thiên

Tiếng trống vang lừng như sấm, còi hiệu sang sảng, không phải hiệu lệnh tiến công mà tấu khúc nhạc hoan nghênh Lý Thế Dân khải hoàn trở về.

Đội quân vây thành của Lý Nguyên Cát đã rời khỏi trại, dàn trận bên bờ sông ngoài thành, đèn đuốc rợp trời, ánh sáng soi rõ gần một trăm thủy sư thuyền đang đậu trên sông, con kênh và dòng Lạc Thủy giăng giăng bóng buồm, trăng sao trên trời cũng bị lu mờ.

“Đùng! Đùng! Đùng! Đùng!”

Hai cự hạm đi đầu bắn pháo chúc mừng thắng lợi, ánh lửa sáng lên rực rỡ, khói bốc mịt trời, cả vạn Đường quân trên bình nguyên cùng đoàn thuyền mới cập bờ Lạc Dương cùng hô hào hoan ca, tiếng hô như thủy triều tràn về, sĩ khí lên đến cực điểm.

Khấu Trọng, Bạt Phong Hàn, Từ Tử Lăng, Bạt Dã Cương cùng Dương Công Khanh lên tường thành phía đông. Vương Thế Sung, Vương Huyền Ứng, Vương Huyền Thứ cùng các tướng lĩnh họ Vương như Vương Hoằng Liệt, Vương Hành Bản, Vương Thế Đạn... đã lên quan sát tình hình quân địch từ trước. Các tướng lĩnh họ khác như Quách Thiện Tài, Đơn Hùng Tín, Đoàn Đạt, Thôi Hoằng Đan, Mạnh Hiếu Văn, Trương Đồng Nhân cũng đang đứng ngẩn ngơ trên tường thành, nhìn thanh thế chấn động, hưng phấn cùng cực của Đường quân ở ngoài thành, ai ai sắc mặt cũng xám như màu đất, ánh mắt hiện rõ vẻ sợ sệt.

Binh tướng đứng trên tường thành Lạc Dương, từ Vương Thế Sung cho đến mỗi binh sĩ thủ thành đều mất chí khí, ai cũng thẫn thờ, hoảng hốt xen lẫn tuyệt vọng.

Bọn Khấu Trọng đến đứng cạnh mé hữu Vương Thế Sung, cùng quan sát hàng ngũ quân địch.

Vương Thế Sung mặt cắt không còn hột máu, liếc nhìn Khấu Trọng rồi dõi ánh mắt ra ngoài thành, thấp giọng nói: “Đậu Kiến Đức xong rồi.”

Khấu Trọng sởn gai ốc, không biết nên nói gì.

“Tùng, tùng tùng!”

Tiếng trống vang lên theo tiết tấu, lấp cả tiếng hoan hô đang rền vang; tiếng hò hét thị uy của Đường quân nhỏ dần, vô số binh sĩ giậm chân tiến lên, tất cả những âm thanh đó hòa trộn thành phù chú đoạt mệnh đối với các tướng sĩ thủ thành Lạc Dương.

Quân Đường bắt đầu theo hướng bình nguyên nằm dòng Lạc Thủy và kênh Vu Tào, phân thành ba đạo tiến về Lạc Dương. Đi đầu là mâu thuẫn thủ, tiếp đó là đao tiễn thủ cùng kỵ binh, quân dung đỉnh thịnh, sĩ khí dâng cao, áp dần vào thành.

Phía ngoài thành, kỳ xí phấp phới, thế trận cuộn trào như biển, uy thế khiến người khác không còn chiến ý, khí thế bá đạo cơ hồ không thể chống nổi.

Khấu Trọng tập trung song mục, thấy một đội nhân mã từ thuyền lên bờ, dẫn đầu đương nhiên là Lý Thế Dân, bên cạnh là Đậu Kiến Đức bị trói chặt, cúi đầu ủ rũ. Đi sau là các đại tướng Trưởng Tôn Vô Kỵ, Uất Trì Kính Đức, Bàng Ngọc, La Sĩ Tín, Tần Thúc Bảo, Lý Thần Thông, Lý Nam Thiên, Khang Sao Lợi, Trình Giảo Kim, Vương Quân Khuếch. Lý Nguyên Cát, Khuất Đột Thông, Tiết Vạn Triệt chào đón y xong xuôi liền hợp lại, hùng hổ kéo về Lạc Dương.

Trống trận vang trời, tiếng vó ngựa, tiếng chân người rung chuyển mặt đất.

Quân Đường từ hai dòng sông tiến vào lớp hào thứ hai, hiệu lệnh vừa ban xuống, tất cả lập tức dừng lại. Trận thế răm rắp khiến người khác có cảm giác Đường quân được huấn luyện chu đáo, tạo thành uy hiếp toàn diện.

Tướng sĩ thủ thành ai ai sắc mặt cũng xám như chàm đổ, trong lòng nảy ra ý khiếp sợ.

Lý Thế Dân, Lý Nguyên Cát chỉ huy nhân mã chầm chậm tiến tới, kết hợp với Đường quân được dàn ra hai phía tạo thành một bức tường kiên cố, đến tận lớp hào thứ hai mới dừng lại lập trận, hướng mặt về phía bọn Vương Thế Sung, Khấu Trọng trên tường thành.

Mục quang Khấu Trọng rọi lên Đậu Kiến Đức đang ngồi trên ngựa, toàn thân bị trói chặt. Vừa hay Đậu Kiến Đức ngẩng đầu nhìn lên, ánh mắt hai người vừa gặp nhau, y cúi đầu hổ thẹn, tránh không nhìn thẳng vào mắt gã. Chỉ thấy y thần tình tiều tụy, mắt ngập vẻ thương đau, tuyệt vọng của kẻ cùng đồ mạt lộ, so với Đậu Kiến Đức mười phần tự tin, uy phong mọi bề của ngày trước thật không khỏi khiến người khác chua xót.

Đậu Kiến Đức bị kẹp giữa Lý Thế Dân và Lý Nguyên Cát, ai cũng hiểu rằng thắng lợi hoàn toàn nằm trong tay hai huynh đệ.

Lý Thế Dân ngẩng nhìn, tuy cự ly xa hơn ngàn bộ nhưng hai người đều là cao thủ, nhìn rõ ràng thần tình đối phương. Khấu Trọng chằm chằm nhìn Lý Thế Dân đầy vẻ hung hãn, ánh mắt hai người tiếp xúc như đao kiếm giao phong, tuyệt không khoan nhượng.

Vương Thế Sung hình như mất đi năng lực tự khống chế, nước mắt tuôn tràn, hô to: “Hạ vương.”

Thân hình cao lớn của Đậu Kiến Đức rung động, tịnh không đáp lời.

Lý Thế Dân không để ý đến Vương Thế Sung, quay sang thở dài với Khấu Trọng: “Thiếu soái! Thế Dân có nói sai không?”

Khấu Trọng chưa kịp trả lời, Lý Nguyên Cát đã quát to: “Khấu Trọng! Ngươi không phải loại xuẩn tài, đã biết đại thế không còn, nếu không quỳ xuống cầu xin, lập tức dâng thành đầu hàng, ta sẽ khiến ngươi muốn sống không được, muốn chết không xong.”

Từ Tử Lăng và Bạt Phong Hàn đưa mắt nhìn nhau, lòng thầm nghĩ quả đúng như sở liệu, Lý Nguyên Cát muốn ba gã và Lý Thế Dân thủy hỏa bất dung, không thể đàm phán với nhau.

Lý Thế Dân nhíu chặt mày nhưng không biết nên làm sao, dầu gì song phương đã thành tử địch, thêm vào đó Lý Nguyên Cát phụng mật dụ của Lý Uyên, còn y thân là chủ soái Đường quân, trước mặt ba quân hà cớ gì lại che chở cho bọn Khấu Trọng.

Khấu Trọng thu nhiếp tâm thần, thần sắc trở nên lãnh tĩnh vô cùng, gằn giọng: “Tề vương khách khí rồi, ngài thấy Khấu Trọng ta là loại người chịu quỳ xuống cầu xin sao?”

Tần Thúc Bảo và Trình Giảo Kim ở sau lưng Lý Thế Dân lộ vẻ buồn bã, lắc đầu thở dài.

“To gan!” Chư tướng dưới quyền Lý Nguyên Cát nhao nhao quát tháo.

Lý Nam Thiên đứng bên Lý Nguyên Cát quát lớn: “Khấu Trọng ngươi sắp chết đến nơi còn lớn lối, Đậu Kiến Đức chính là tấm gương tày liếp, những kẻ dám chống lại Đại Đường ta đều không có kết quả tốt đâu, ngươi...”

Bạt Phong Hàn cất lên tràng cười vang vọng, chấn động toàn trường, lộ rõ dũng khí coi cái chết như không, và lòng tin bao trùm cả thiên hạ, cắt đứt tiếng quát của Lý Nam Thiên, làm giảm đi không ít khí thế Đường quân.

Gã quát vang: “Hiện giờ Lạc Dương còn chưa bị phá, thắng phụ chưa phân, ngươi lại nói lời ngông cuồng như vậy không sợ làm trò cười ư.”

Khóe miệng Lý Nguyên Cát lộ vẻ cười cợt xen lẫn cừu hận, tức thì ha hả cười vang: “Thắng bại chưa rõ? Đó mới thật sự là chuyện đáng cười. Ta đại biểu cho phụ hoàng ra điều kiện với Khấu Trọng ngươi, nếu như trong mười hồi trống còn chưa rời khỏi thành quỳ xuống cầu xin, ta lập tức vung chưởng kích chết Hạ vương.”

Đậu Kiến Đức bị trói ở bên cạnh y gắng gượng ngồi thẳng trên lưng ngựa, cất giọng rin rít hô lên: “Tiểu Trọng đừng làm chuyện ngu ngốc, hãy nhớ vì ta mà báo...”

Tiết Vạn Triệt ở phía sau xuất trọng chỉ điểm nhanh tới, cắt ngang câu nói của y.

Toàn trường lặng như tờ, chỉ có tiếng gió quét khắp thành, thổi vù vù qua hàng ngàn cây đuốc cháy rực, cuốn tàn lửa tung bay vào trời đêm rồi tan biến.

Khấu Trọng ha hả cười lớn: “Quỳ xuống xin hàng, không dễ thế đâu.” Đoạn gã chạm nhẹ vào Từ Tử Lăng, lùi lại rồi tung người khỏi tường thành, chỉ một cú uốn mình đã từ độ cao ba mươi trượng lao xuống, khiến cho cả nhân mã cả hai bên được một phen kinh ngạc.

Từ Tử Lăng nhảy lên ụ thành, dang rộng hai tay, hàm ý nhân mã bên mình không được khinh cử vọng động. Gã cùng Khấu Trọng tâm ý tương thông, biết Khấu Trọng muốn một mình một ngựa cứu thoát Đậu Kiến Đức từ trong địch trận.

Những người đứng trên thành từ Vương Thế Sung đến sĩ tốt đều đổ dồn lên ụ tường, cúi đầu nhìn theo Khấu Trọng đang liên tục xoay chuyển trên không, không đành lòng nhìn gã tan xương nát thịt nhưng không thể không nhìn theo.

Độ cao ba mươi trượng thật sự vượt khỏi cực hạn thể năng của bất cứ ai, e là tam đại tông sư cũng không thể an nhiên tiếp đất.

Khấu Trọng đột nhiên trở thành tiêu điểm cho toàn trường dõi ánh mắt nhìn vào.

Gã lại uốn người tung mình lên cao nhưng không vì thế mà tăng tốc hạ xuống. Khi cách mặt đất một đoạn thì thân thể bay chếch để giảm kình khí rồi đáp xuống đất nhẹ như lông hồng.

Tướng sĩ trên thành không nén được hoan hô vang trời, có người nghi gã là thiên thần hạ phàm, tức thì sĩ khí dâng cao.

Lý Nguyên Cát quát vang: “Mau đến quỳ gối cầu xin ta, đánh trống.”

“Tùng!”

Khấu Trọng hạ xuống lớp hào thứ nhất ngoài thành, gã không hề do dự, lại cất mình lên. Hồi trống tiếp theo vừa vang lên, gã đã sang bên kia hào, nhảy qua lớp hào kế tiếp, nhanh như ánh chớp.

“Tùng!”

Hồi trống thứ ba vang lên.

Trừ Lý Thế Dân, Lý Nguyên Cát, Lý Thần Thông, Trình Giảo Kim và Tần Thúc Bảo, những người còn lại lập tức nhấc cung tên lên, nhắm thẳng vào Khấu Trọng đang lao đến, chỉ cần gã lọt vào tầm bắn sẽ biến gã thành một con nhím ngay. Đám mãnh tướng này đều võ công cao cường, cung tiễn thủ bình thường không thể sánh được, dẫu mạnh như Khấu Trọng thì lọt vào tiễn trận cũng khác nào tìm đường chết.

Khấu Trọng dừng lại chớp nhoáng, còn cách địch nhân ở lớp hào ngoài chừng một ngàn bộ, vẫn nằm ngoài tầm bắn của cung tên.

“Tùng!”

Lý Nguyên Cát cười ha hả: “Còn tám hồi trống nữa thôi, Thiếu soái chắc không muốn hại người hại cả mình.”

“Tùng!”

Tiếng trống lại vang lên, sức ép khiến cả song phương ai ai cũng thấy nặng nề trong lòng, hô hấp không thông sướng.

Những người đứng trên thành tuy nóng lòng như lửa đốt lo cho hoàn cảnh hiểm ác của Khấu Trọng, e gã sính cường lối thất phu, không kể sống chết xông vào trận, nhưng không ai dám lên tiếng, sợ quấy nhiễu tâm thần gã.

Khấu Trọng vẫn bất động, tưởng chừng như biến thành tượng đá, thần tình bình tĩnh đến đỗi khiến người khác ớn lạnh.

“Tùng!”, “Tùng!”, “Tùng!”

Sắc mặt Lý Thế Dân vẫn nghiêm lạnh, không nói tiếng nào.

“Tùng!”

Hồi trống thứ chín vang lên, bầu không khí trong trường khẩn trương như cung căng hết tầm dây, song mục Lý Nguyên Cát lóe lên ánh nhìn tàn nhẫn, quát vang: “Lý Nguyên Cát ta đã nói là làm, đây là cơ hội cuối cùng của ngươi.”

“Tùng!”

Hồi trống cuối cùng vang động toàn trường, giống như phù chú thôi mệnh chấn nhiếp trái tim mỗi người.

Lý Nguyên Cát không hề do dự, vung chưởng vỗ thật nhanh vào bối tâm Đậu Kiến Đức.

Vào thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, thủ pháp của Khấu Trọng nhanh đến mức mắt thường không kịp nhìn rõ, vung xuất Thích Nhật cung, dùng nội công kéo căng dây tạo thành một tiếng “tang” khe khẽ, tay còn lại hệt như ma thuật lấy ra một mũi kình tiễn, lắp vào rồi kéo cong vòng hướng sang Lý Nguyên Cát, một loạt động tác được gã hoàn thành trong nháy mắt, tốc độ khiến mọi người trợn mắt quan sát mà cơ hồ không dám tin.

Mọi việc nằm ngoài ý liệu của tất cả, ai ngờ được một kẻ tay không như gã chớp mắt lại biến thành đầy đủ cung tên trên tay, chỉ chực bắn ra.

Nhưng không ai kinh hãi như Lý Nguyên Cát, trong giây phút bổ chưởng vào Đậu Kiến Đức, Khấu Trọng đã nhắm thật chuẩn, hơn nữa lại thông qua tiễn phong đem tinh thần cùng chân khí vây chặt lấy y. Tình huống vi diệu cực điểm, y vốn thuộc nhóm cao thủ hàng đầu trong thiên hạ, hiểu rằng nếu thổ kình giết Đậu Kiến Đức tất không tránh nổi mũi tên kinh thiên địa khấp quỷ thần được Khấu Trọng đem hết tinh khí thần phổ vào. Bên mình tuy mãnh tướng như mây nhưng y vẫn cảm thấy mình cô độc, thân thể lồ lộ, hoàn toàn không có gì che chắn.

Y nào dám mạo hiểm thổ kình, thậm chí không dám di động cả đầu ngón tay, sợ rằng chỉ hơi nhúc nhích sẽ bị Khấu Trọng bắn.

Từ Tử Lăng đứng ung ung trên tường thành, hai tay chắp sau lưng, tay áo bay lất phất giống như một thiên thần. Không ai hoài nghi rằng gã không có năng lực nhanh chóng vượt qua tường thành cao ba mươi trượng chi viện cho Khấu Trọng, chỉ mình gã hiểu rõ mình không có năng lực ấy. Lúc Khấu Trọng chạm khẽ vào gã đã mượn chân chí rồi lùi lại mượn tên trong túi của Bạt Dã Cương, hiện giờ gã không có chân khí để mượn đành giả bộ như thế, ở dưới Khấu Trọng phải một mình tác chiến.

Không nói đến Lý Nguyên Cát đang phải chống chọi với mũi tên, cả địch trận không ai dám thở mạnh, sợ rằng chỉ cần động đậy sẽ khiến Khấu Trọng xạ tiễn vào Lý Nguyên Cát.

Tình huống vừa quỷ dị vừa vi diệu.

Đậu Kiến Đức ngang nhiên ngẩng đầu lên, trong thời khắc đối mặt với sinh tử, lộ rõ bản sắc anh hùng coi khinh cái chết.

Khấu Trọng nở nụ cười, thủng thẳng nói: “Tính mệnh Tề vương đáng giá biết bao nhiêu! Còn không mau thả người.”

Đúng khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc đó, khóe môi Lý Nguyên Cát buông một nụ cười lãnh khốc, quỷ dị. Khấu Trọng tự biết không ổn. Từ bên sườn Lý Nguyên Cát đột nhiên xuất hiện một kẻ.

Đương nhiên chính là Ảnh Tử Thích Khách Dương Hư Ngạn.

Lý Thế Dân quát: “Khoan đã!” Nhưng đã muộn mất một bước, sự thật không thể vãn hồi được nữa.

Chưởng kình tích tụ đến đỉnh điểm của Lý Nguyên Cát xuất ra, xương sống Đậu Kiến Đức gãy vụn, thất khiếu trào máu.

“Phựt!”

Mũi tên của Khấu Trọng rời khỏi dây cung, cự ly tuy rất xa nhưng trong một sát na như điện quang thạch hỏa, súc trượng thành thốn bay vút đến trước ngực Lý Nguyên Cát.

Đầu óc Khấu Trọng chấn động ong ong, một ý niệm từ sâu thẳm cõi lòng dấy lên – Đậu Kiến Đức chết rồi.

Trời đất đã không còn giống với lúc trước nữa.

Địch trận tựa như một vở kịch câm, Dương Hư Ngạn nhanh nhẹn lướt lên trước đầu ngựa của Lý Nguyên Cát, Ảnh Tử kiếm danh chấn thiên hạ vung lên, kiếm phong đỡ thẳng vào mũi tên.

Trong khoảnh khắc mũi tên và kiếm phong giao nhau, tinh khí thần của Khấu Trọng và Dương Hư Ngạn cũng giao phong mãnh liệt.

“Cheng!”

Tâm khẩu Khấu Trọng như bị sét đánh, thoái lui nửa bước dài.

Dương Hư Ngạn cũng lùi nửa bước, khuôn mặt trắng xanh hơi đỏ lên rồi nháy mắt đã trở lại bình thường.

Dư âm giao kích của tiễn kiếm chấn nhiếp chiến trường, ai ai cũng cảm thấy sởn gai ốc khi thấy nhất đại bá chủ Đậu Kiến Đức từ trên lưng ngựa ngã xuống bên cạnh Lý Nguyên Cát như một đống bùn nhão.

“Bịch”, bụi đất bên bờ hào tung bay lên.

Đậu Kiến Đức chết rồi!

Ý niệm đó vang vọng trong đầu Khấu Trọng, chân khí trong nội thể từ từ hóa giải tinh khí thần đã được Dương Hư Ngạn dung hợp Thiên Đạo ma công và Vạn Pháp Căn Nguyên Trí Kinh, trong lòng gã hoàn toàn trống không.

Song phương không ai di động, thở ra hay lên tiếng.

Ánh mắt Khấu Trọng đọng lại trên thi thể Đậu Kiến Đức nằm dưới chân ngựa, thần trí dần ngưng tụ.

Khi hai bên đối mặt trên chiến trường lãnh khốc vô tình, chỉ có thắng hay bại. Những loại tình cảm như đau thương, hối hận, cừu hận, buồn đau, ân hận đều phải gạt bỏ. Nếu để tình cảm ảnh hưởng tất sẽ gây ra những việc ngu ngốc, kết quả chỉ là binh bại thân vong.

Thình lình, Khấu Trọng thoát ra khỏi bi thương cực độ, tiến vào cảnh giới “tỉnh trung nguyệt”, gã đã biến thành một kẻ vô tình, đem sức mạnh bi phẫn ứng phó với tình hình nguy ngập trước mắt, giữ lấy tính mệnh cho thắng lợi sau cùng.

Qua mấy năm khổ luyện, gã cuối cùng cũng hiểu được lời cảnh cáo của Tống Khuyết – phải biết bỏ đao đi, trong lòng chẳng còn vướng víu gì.

Gã cảm thấy cả thiên địa ở bên mình, mặt đất dưới chân trải ra vô hạn, bầu trời vốn dĩ tồn tại từ thời viễn cỗ phủ trùm mặt đất, với y mà nói, bản thân chính là trung tâm, là tiêu điểm liên hệ với thiên địa.

Thiên Địa Nhân cùng hợp nhất, gã hiểu rằng trong khoảnh khắc sinh mệnh mất đi ý nghĩa, cuối cùng cũng đạt đến cảnh giới “Thiên Đao” của Tống Khuyết.

Hữu pháp là đất, vô pháp là trời, hữu pháp vô pháp, là đạt đến tầng thiên địa nhân cùng hợp nhất, vô pháp mà hữu pháp, hữu pháp mà vô pháp.

Chỉ có như vậy gã mới có thể đưa những người theo bên mình vượt qua cửa ải này.

Từ Tử Lăng quát: “Thừng này!”

Khấu Trọng cười vang nói: “Đậu gia yên tâm mà đi, sẽ có một ngày ta đòi món nợ máu này.”

Lý Nguyên Cát vung tay hô lớn: “Đại Đường tất thắng! Hoàng thượng vạn tuế.”

Gần mười vạn Đường quân bên ngoài tường thành phía đông hô theo, vang động bờ sông, thiên địa biến sắc.

Lý Thế Dân tỏ vẻ bất lực, toan nói rồi lại thôi, y hiểu Lý Đường và Khấu Trọng đã kết thâm cừu không thể hóa giải. Tuy nói là Lý Nguyên Cát hành sự theo ý chỉ của Lý Uyên nhưng y thân là chủ soái, không thể đổ vấy đi được, mọi sự đã không thể thay đổi.

Khấu Trọng lùi lại, lộn ngược bay vượt qua hào, chuẩn xác như có mắt, nắm vững đến từng phân, rõ ràng tâm thần gã không hề loạn.

Gã lướt đến tường thành phía đông, búng người lên đến độ cao kinh nhân mười lăm trượng nắm lấy sợi dây Từ Tử Lăng tung ra, đó cũng là cực hạn của gã, tá lực bay lên, hai người cùng đáp xuống tường thành.

Lý Thế Dân lại quát to: “Chiến hay hàng, Thiếu soái quyết định đi.”

Khấu Trọng quay lại nhìn Vương Thế Sung, sắc mặt lão xám xịt như người chết, khóe miệng run run.

Thần thái Khấu Trọng nhẹ nhõm, song mục lấp lánh thần quang tự tin, cất lời: “Thành vẫn do chúa thượng làm chủ, chúa thượng tính toán thế nào?”

Vương Thế Sung thu hồi ánh mắt đang nhìn ra ngoài, hướng vào gã.

Tướng sĩ vây quanh đều tập trung nhìn vào hai người.

Vương Thế Sung nuốt khan rồi thở hắt ra: “Trừ dâng thành đầu hàng, bọn ta còn làm gì được nữa.”

- o O o -

Hồi 658

Tuyệt Xứ Cầu Sinh

Thời gian bỗng chốc như ngừng trôi.

Lúc Vương Thế Sung nói ra quyết định đầu hàng, những người bên cạnh hắn, bao gồm tướng lĩnh trong Vương hệ, tướng lĩnh họ khác, bảy, tám cao thủ hộ vệ, Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Bạt Phong Hàn, Dương Công Khanh, hơn mười binh sĩ Phi Vân vệ và binh sĩ Trịnh quốc thủ thành đều ngừng hô hấp, nhìn chằm chằm sang chỗ lão đứng, cả vùng không gian rộng lớn trên tường thành phút chốc bỗng lặng im như tờ.

Lý Thế Dân và Lý Nguyên Cát ở ngoài thành chỉ huy Đường quân phân bố khắp khu đất bằng phẳng quanh con sông hộ thành, tinh kỳ đầy trời tung bay phần phật, không ai phát ra âm thanh nào, thỉnh thoảng tiếng ngựa hí vang lên, lặng lẽ đợi quyết định hàng hay chiến của quân thủ thành.

Sắc mặt Khấu Trọng lạnh lùng, ánh nhìn sắc lạnh như đao, bình thản nghe quyết định liên quan đến vận mệnh quân dân toàn thành của Vương Thế Sung, dường như không để lời lão vào lòng.

Vương Huyền Thứ rốt cuộc là kẻ có phản ứng đầu tiên, quỳ xuống hô lên bi thương: “Phụ hoàng...”

Vương Thế Sung giận dữ quát: “Câm mồm! Trẫm không còn lựa chọn khác.”

Khóe môi Khấu Trọng hờ hững nét cười lạnh lẽo. Gã thậm chí không muốn tranh luận cùng với tên tiểu nhân phản phúc vô sỉ, tự tư tự lợi này nữa, vừa chửi rủa lão trong lòng vừa cất giọng sang sảng: “Chúa thượng hiến thành đầu hàng, đã là tù binh của địch, không còn quyền làm chủ bản thân, đề nghị đồng tâm hiệp lực công thủ Lạc Dương giữa bọn ta không còn ràng buộc nữa. Từ giờ khắc này trở đi, Đại Trịnh đã mất, Lạc Dương không còn của Vương Thế Sung ngươi nữa, ai dám phản đối, ta lập tức giết ngay. Người đâu! Bắt Vương Thế Sung và bộ thuộc của hắn lại.”

Vương Thế Sung nghe vậy sắc mặt biến hẳn, tướng lĩnh Vương hệ nhao nhao chửi rủa, Vương Huyền Ứng la lớn: “Tạo phản! Tạo phản!”

Âm thanh “loảng xoảng” vang lên không dứt, tướng lĩnh Vương hệ, thân binh, chư tướng ngoài Vương hệ, binh sĩ thủ thành, Phi Vân vệ, đồng thời giương đao tuốt kiếm, trên tường thành lập tức sặc sụa mùi thuốc súng, nội chiến chỉ chực bùng phát.

Chỉ có Khấu Trọng, Bạt Phong Hàn và Tử Tử Lăng vẫn giữ được thần thái lãnh mạc, đứng thành hình chữ phẩm trước người Vương Thế Sung, coi như không thấy đao thương kiếm kích xung quanh.

Khấu Trọng hùng khí dâng cao, bất chợt ngẩng mặt cười lớn, hét vang: “Ai bằng lòng cùng sống chết với Khấu Trọng ta!”

Ngoại trừ nhân mã Vương hệ, còn lại đồng loạt đáp ứng, thanh âm vang rền khắp tường thành.

Vương Thế Sung, Vương Huyền Ứng cùng tướng sĩ Vương hệ, lúc này mới biết binh tướng họ khác đều hướng về Khấu Trọng, ai nấy sắc mặt không còn hột máu, có kẻ không cầm vững binh khí, “Keng”, tiếng rơi xuống đất vang lên, càng tăng thêm uy thế khống chế toàn cục của Khấu Trọng.

Vương Thế Sung nhìn bội kiếm, sắc mặt lúc trắng lúc hồng, rõ ràng đang do dự giữa việc rút kiếm hay không.

Vương Huyền Thứ bỗng nhiên đứng lên, đến bên cạnh Khấu Trọng, thê thiết nói: “Phụ hoàng tha tội hài nhi bất hiếu, Huyền Thứ quyết định đứng cùng chiến tuyến với Thiếu soái.”

Hai thanh kiếm của Bạt Dã Cương và Hình Nguyên Chân đồng thời kề vào sau lưng Vương Thế Sung, hành động này so với lời nói có sức uy hiếp hơn nhiều, nhân mã Vương hệ không ai dám cử động nửa ngón tay, ai cũng hiểu rõ đại thế đã mất, Lạc Dương thành đã rơi vào tay Khấu Trọng.

Vương Thế Sung khắp người rung động, tay buông kiếm, nước mắt nhòe nhoẹt: “Bỏ đi! Bỏ đi!”, rồi hướng đến bậc thềm đá xuống thành.

“Keng”, âm thanh vang lên không ngớt, Vương Huyền Ứng và các tướng lĩnh Vương hệ thay nhau buông khí giới, chấp nhận bị bọn Bạt Dã Cương và Phi Vân vệ áp giải đến giam lỏng trong cấm cung.

Trong tình huống này, Khấu Trọng không chém hết bọn chúng, là đã vô cùng nhân từ.

Khấu Trọng vỗ lên vai Vương Huyền Thứ với vẻ quan tâm, khẽ cười: “Ta tuyệt không làm tổn thương bọn họ, yên tâm đi!”

Tiếp đó ngẩng đầu, quay qua phía Lý Thế Dân ở ngoài thành, hét lớn: “Lý Thế Dân nghe đây, chỉ cần Khấu Trọng ta còn một hơi thở tuyệt không đầu hàng, có bản lĩnh cứ việc tấn công Lạc Dương!”

Bạt Phong Hàn hét vang: “Khấu Trọng tất thắng! Thiếu Soái quân tất thắng!”

Các tướng sĩ trên tường thành đồng thanh hô theo: “Khấu Trọng tất thắng! Thiếu Soái quân tất thắng!” Tiếng hô vang dậy một vùng rộng lớn, vọng vang khắp trời đêm.

Hai bên đã không còn khả năng đàm phán, chỉ có thể bằng vào thực lực quyết định sinh tử tồn vong.

Thắng làm vua, thua làm giặc!

Thiên hạ từ đây còn cục diện quần hùng cát cứ tranh giành hay không là phụ thuộc vào thắng bại giữa Khấu Trọng và Lý Thế Dân.

Khấu Trọng bước xuống tường thành phía đông, bọn tướng lĩnh ngoài Vương hệ Bạt Dã Cương, Hình Nguyên Chân, Đơn Hùng Tín, Đoàn Đạt, Quách Thiện Tài đang đứng trên bậc thềm cuối cùng nghênh đón, chờ xem gã làm sao lãnh đạo bọn họ vượt qua cửa ải nguy hiểm này.

Hiện tại ngoài thành không chỉ có Lý Nguyên Cát mà đã có thêm thống soái danh chấn thiên hạ thường thắng vô địch Lý Thế Dân, binh lực từ mười vạn tăng lên mười lăm vạn, đối với đại kế đột vây của Khấu Trọng không tính đến y, cũng không ai dám tin tưởng và nắm chắc nữa.

Khấu Trọng khi bước đến bậc cuối liền dừng lại, khẽ cười: “Ta và Vương Thế Sung cũng có một giai đoạn hợp tác, Huyền Thứ lại là huynh đệ tốt của bọn ta, nhất định phải tôn kính lão nhân gia của huynh ấy, để ông ta có thể hoàn thành ý nguyện đầu hàng Đại Đường.”

Bạt Dã Cương trước tiên hướng đến Vương Huyền Thứ đứng sau gã thỉnh tội, rồi mới trả lời: “Thuộc hạ đã hiểu!”

Bạt Phong Hàn thong thả ngồi xuống bậc cấp thứ sáu, cười khà khà: “Khấu Trọng đúng là Khấu Trọng, hiện tại ta thật sự mười phần tin tưởng ngươi, không lo lắng nữa.”

Từ Tử Lăng và Dương Công Khanh đứng bên cạnh gã đều có đồng cảm sâu sắc, Khấu Trọng có thể vào thời khắc ác liệt thế này, vẫn bình tĩnh tự nhiên, cười nói dụng binh, không phải ai cũng làm được.

Khấu Trọng cười ha hả: “Đa tạ lão Bạt ngươi khen ngợi.”

Bọn người Bạt Dã Cương, Vương Huyền Thứ cũng nảy sinh cảm giác kỳ dị. Việc Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn xem sống chết nhẹ như lông hồng, đã truyền cho bọn họ một khí thế mãnh liệt, đột nhiên bọn họ nhận thấy Lý Thế Dân bên ngoài không còn quá đáng sợ nữa. Bởi vì Bạt Phong Hàn, Khấu Trọng và Từ Tử Lăng, tùy tiện một người ra mặt, cũng đều có thể là kình địch đáng sợ của Lý Thế Dân. Ba gã hợp lại, cho dù là quân Đột Quyết lang sói đáng sợ nhất thiên hạ cũng không làm khó được bọn gã.

Khấu Trọng quay sang nói với Dương Công Khanh: “Chúng ta phải điều người đến con đường đến Trần Lưu, giữ vững thành môn duy nhất có thể thông ra ngoài, việc này phải lập tức tiến hành. Làm phiền Dương công!”

Dương Công Khanh cười hà hà nói: “Có thể cùng sống chết với Thiếu soái, là vinh hạnh của lão phu. Bảo vệ thành môn, đề phòng bọn phản loạn bên trong mở cổng hiến thành, chỉ là việc nhỏ, cứ để lão phu lo.”

Dứt lời, cười nói vui vẻ rồi cùng Phi Vân vệ bao quanh bước xuống bậc cấp.

Khấu Trọng vỗ mạnh vào vai từng người đi qua gã, làm cho người nào cũng cảm thấy gã đã định liệu trước, tin chắc vào thắng lợi.

Dương Công Khanh rời khỏi, gã điềm đạm nói: “Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng. Trước hết bọn ta cần phải nắm rõ tình thế của Lý tiểu tử.”

Từ Tử Lăng ngồi xuống cạnh Bạt Phong Hàn, lòng đầy cảm xúc, Khấu Trọng rốt cuộc cũng trưởng thành, điều lo lắng của Sư Phi Huyên trở thành hiện thực, đã trở thành nhân vật đáng sợ, có thể so tài cùng Lý Thế Dân trên chiến trường.

Gã đồng thời nhận ra Bạt Phong Hàn hiện tại đã có thành tựu rất lớn trên con đường tu luyện võ đạo. Một mặt, gã như đang trong cơn ác mộng chiến đấu chống lại quân vây thành, binh lực địch nhân gấp nhiều lần, sĩ khí bừng bừng, còn bọn gã thì nội bộ phân liệt, sĩ khí thất lạc, tên hết lương tuyệt. Mặt khác, gã lại như tách biệt với tất cả, bình thản lạnh lùng quan sát khổ nạn chiến tranh, đạt đến trạng thái tinh thần ‘tỉnh trung nguyệt’. Tình huống này giống như khi chìm trong giấc mơ, gã hiểu được bản thân đang mộng mị, chỉ là không cách nào tỉnh lại.

Bạt Phong Hàn ngồi bên cạnh bình tĩnh lạnh lùng như thường, hắn là loại người sinh ra để làm binh sĩ, hoàn cảnh càng ác liệt, càng thể hiện phẩm chất siêu việt đặc biệt. Gã lấy mình làm chuẩn, nói cho Khấu Trọng quy luật quý giá trên chiến trường, ai độc ác hơn sẽ được sống.

Người huynh đệ tốt nhất của gã đã thi triển toàn bộ bản lĩnh, đầu tiên đơn thân độc mã xông vào địch trận, không những biểu hiện tình nghĩa đối với Đậu Kiến Đức, còn lộ rõ dũng khí không sợ địch nhân. Tuy đến lúc quan trọng nhất đã bị Dương Hư Ngạn phá hỏng mất sự việc sắp thành công, nhưng ít ra cũng khích lệ được chí khí quân sĩ thủ thành, tung ra thủ pháp cứng rắn khống chế toàn cục, buộc Vương Thế Sung chán nản rút lui, không còn chi phối được đại cục nữa.

Tất cả diễn ra trước mắt gã, khiến gã ở dưới tình huống phân vân giữa hai phương diện sống và chết này, trải qua thể nghiệm đáng sợ liên quan đến mệnh vận của quân dân toàn thành.

Thanh âm Khấu Trọng tiếp tục truyền đến tai gã: “Binh lực địch nhân nhiều gấp năm lần bọn ta, hơn nữa chiến ý dâng cao, huấn luyện hoàn hảo. Nhưng với thành cao hào sâu, lợi thủ khó công. Lý Thế Dân càng không phải loại ngu muội, vì thế trong thời gian ngắn sẽ tận lực phong tỏa hai đường thủy bộ, mà không mạo hiểm công thành. Lạc Dương là đại đô hội, chỉ cần có thể giải quyết vấn đề nội bộ, lựa chọn thời gian đột vây, căn cứ vào thế địch phân tán còn bọn ta tập trung, tất có thể khắc địch phá vây. Chúng ta phải dùng trí chứ không so binh lực cùng Lý Thế Dân.

Bạt Phong Hàn thấp giọng hô: “Sách lược chính xác.”

Khấu Trọng cười vui vẻ, ánh mắt rời qua Từ Tử Lăng, nói: “Ý Lăng thiếu gia thế nào?”

Từ Tử Lăng bình thản nói: “Nếu đi nhất định đi vào tối nay, bằng không vĩnh viễn không còn cơ hội.”

Bọn Bạt Dã Cương gồm hơn mười tướng lĩnh vô cùng ngạc nhiên.

Khấu Trọng đưa ngón tay cái lên nói: “Lăng thiếu gia nắm tình hình địch ta rất rõ, Lý Thế Dân lúc này chính đang điều binh khiển tướng, tăng cường vây khốn công sự phòng ngự của Lạc Dương. Nếu qua tối nay, việc đột vây càng khó khăn, nhưng đây vẫn không phải là vấn đề lớn nhất, đau đầu nhất là lương thảo của bọn ta chỉ dùng được hơn mười ngày, không có lý do gì để không nhân lúc trận thế địch nhân chưa ổn đỉnh mà toàn lực đột vây, nếu không làm được như thế, Lý Thế Dân có thể đoán được bọn ta có chỗ trú khác, hắn chỉ cần sai người vòng quanh sát hào sâu toàn thành đào xuống một trượng, địa đạo không sao che giấu được nữa. Vì thế bọn ta nhất định phải nhân lúc tình huống chưa phát sinh, lợi dụng địa đạo giết địch phá vây, khiến hắn không kịp trở tay.”

Bạt Phong Hàn gật đầu nói: “Chiều nay đích xác là cơ hội duy nhất, nhưng làm sao giải quyết vấn đề nội bộ? Danh tiếng Lý Thế Dân gần đây rất tốt, đãi ngộ kẻ đầu hàng, có thể khiến cho lòng quân ta dao động, khó phát huy được chiến lực.”

Khấu Trọng quay sang phía chư tướng nói: “Trong quân ta, bao nhiêu người có gia quyến tại Lạc Dương?”

Đơn Hùng Tín đáp: “Chủ yếu là quân sĩ của Bạt đại tướng quân và Quách đại tướng quân, nhân số chừng hơn vạn, còn có cấm vệ quân, tổng cộng vượt quá nửa số quân tại Lạc Dương.”

Quân chính quy thủ thành gần hai vạn, như thế chỉ còn hơn vạn người không phải lo lắng cho gia thất.

Bọn Bạt Dã Cương, Quách Thiện Tài bắt đầu hiểu được tính cách biết người biết ta của Khấu Trọng.

Khấu Trọng nói: “Phàm ai có gia quyến tại thành nội đều cho phép giải giáp về đoàn tụ với gia đình, không phải tham dự cuộc chiến đột vây, việc này nhất định phải an bài ổn thỏa, tránh ảnh hưởng lòng quân. Mỗi nhà mỗi hộ, nhất loạt phân phát lương thực ba ngày, sau khi bọn ta yên lặng rời thành cũng là thời khắc Đường quân đến tiếp quản. Quân binh nào không đột vây nhất định phải ở nhà, ai vi phạm sẽ bị chém, vì ta không muốn bị địch nhân theo đuôi. Chuyện này giao cho Bạt đại tướng quân và Quách đại tướng quân phụ trách xử lý, hơn nữa phải hoàn thành trong vòng hai thời thần, bọn ta chỉ có hơn ba thời thần để đột vây rời đi.”

Bạt Dã Cương và Quách Thiện Tài nghe vậy hoàn toàn khâm phục, lãnh mệnh đi ra.

Khấu Trọng thở ra một hơi dài, nói: “Hiện tại bọn ta cùng nghiên cứu chiến lược phá địch giữ mạng! Tuyệt đối không thể xảy ra sai sót, bằng không bọn ta không còn mạng để ngắm nhìn Trường Giang đâu.”

Trong thành ngoài thành đều sặc mùi chiến tranh.

Ngoài thành kèn lệnh vang vang, ngựa hí người hét, thanh âm ầm ĩ không ngừng, quả đúng như dự liệu của Khấu Trọng, Lý Thế Dân đang điều binh khiển tướng, đề phòng nghiêm mật bọn họ đột vây đào tẩu.

Bên trong thành Lạc Dương không khí cực kỳ khẩn trương nhưng bề ngoài vẫn bình yên, chư tướng yên lặng chấp hành mệnh lệnh của Khấu Trọng, chuẩn bị tất cả cho việc đột phá vòng vây.

Ma Thường hoàn thành gần trăm chiếc Hà mô xa lấp hào, đất bùn đựng trong hơn ngàn chiếc bao và năm chiếc Mộc lư xa. Ba mươi máy bắn tên và mười lăm máy bắn đá đều lục tục chuyển đến quảng trường Nam môn. Binh sĩ đột vây được phân làm ba tổ, mỗi tổ ước chừng ba ngàn người, đóng tại Trường Hạ môn, Hậu Tái môn và Định Đỉnh môn. Ngoài ra còn có tám ngàn binh sĩ trấn giữ ở các cửa khác và trên tường thành, chờ thời cơ đến, sẽ từ nơi đóng rút đi.

Khấu Trọng, Bạt Phong Hàn, Từ Tử Lăng đến vệ sở tại thành nam, nghe Trần Lão Mưu báo cáo tình hình mới nhất về đào địa đạo.

Trần Lão Mưu nói: “May không nhục mệnh, địa đạo thông từ cao trại đến hai tòa trận địa tiễn pháp đã hoàn thành, chỉ cần phá gãy cột chống là xong. Nhưng trong ba đường địa đạo mới thông được một đường, hành động của bọn ta có thể phải chậm lại một chút “.

Ánh mắt Bạt Phong Hàn ngừng lại chỗ Vô Danh đậu trên vai Khấu Trọng, nói: “Điều ta lo là liệp ưng của Khang Sao Lợi có thể phát hiện người của bọn ta từ địa đạo phía nam vận chuyển quân nhu yếu phẩm ra.”

Khấu Trọng tập trung suy nghĩ một lúc rồi nói: “Chim ưng vĩnh viễn cũng là chim ưng, trí tuệ có hạn, tại nơi quân binh phân bố hoạt động nhộn nhịp trên chiến trường như thế này, nó có quan sát cũng sẽ rối loạn, khó phân biệt địch hay ta.”

Trần Lão Mưu nói: “Thiếu soái có thể chỉ huy Vô Danh tấn công đồng loại của nó được không?”

Khấu Trọng gật đầu nói: “Ta tuy chưa có thử qua, nhưng Đột Lợi từng nói với ta là Vô Danh đã qua huấn luyện. Nhưng ta không muốn làm thế với Vô Danh, bởi kết quả gần như sẽ là lưỡng bại câu thương.”

Trần Lão Mưu nhìn đôi trảo của Vô Danh bấu chặt trên vai Khấu Trọng, cười khà khà nói: “Ta tự có diệu kế, giả như ta đem độc dược kiến huyết phong hầu bôi lên đôi trảo của Vô Danh, chỉ có liệp ưng của đối phương chết mà thôi.”

Ba người đồng thời động dung.

Từ Tử Lăng nhíu mày nói: “Phương pháp này đích xác có thể thực hiện, bất quá vẫn còn một khúc mắc không giải quyết được. Trần công làm sao lấy được độc dược kiến huyết phong hầu?”

Trần Lão Mưu cười khổ nói: “Khi ta ly khai Lương Đô, có mang theo một lọ độc dược tự tay pha chế, vốn là để cho bản thân sau này, tránh bị cầm tù thụ nhục. A! Bộ xương già này làm sao chịu đựng được tra khảo. Ồ! Rốt cuộc còn có khó khăn gì nữa không?”

Bạt Phong Hàn khẽ cười: “Thiếu Soái quân lại có thêm một hảo hán xem cái chết như không, theo kinh nghiệm riêng của ta, tính khí của trời già rất cổ quái, ông một mực muốn chết thì lại không chết. Còn khó khăn mà Tử Lăng đề cập là Đường quân có nuôi sáu con ác thứu chuyên đối phó liệp ưng, cho dù Vô Danh có vũ khí độc trảo, dưới sự vây công của ác thứu cũng khó lòng thoát được.”

Khấu Trọng trầm ngâm: “Việc do con người, súc sinh làm sao so được với trí tuệ của bọn ta, Lý Thế Dân chắc không hay việc bọn ta biết y có sáu con ác thứu, giả như ta thả Vô Danh trên thành, sai khiến nó bay về phía Nam, y sẽ có phản ứng gì?”

Trần Lão Mưu nói: “Hắn chắc chắc lập tức thả ác thứu truy sát Vô Danh.”

Khấu Trọng lắc đầu nói: “Sự tình không đơn giản như thế, ác thứu tịnh không biết phân tích tình huống địch ta, chỉ khi thấy Vô Danh, nó mới truy kích. Vì thế nếu như Vô Danh lượn quanh nơi nào đó trên không trung, đối phương trước hết sẽ thu hồi liệp ưng để tránh nhầm lẫn, sau đó người phụ trách đem ác thứu đến gần đó rồi phát lệnh tấn công, lúc đó chỉ cần Vô Danh hạ thấp tầm bay, dẫn ác thứu truy theo, bọn ta có cơ hội đối phó chúng, đúng không? Thu thập xong ác thứu sẽ tiếp tục đối phó liệp ưng của Khang Sao Lợi, từ đó bọn ta sẽ chiếm ưu thế trên không, kẻ phải lo lắng chính là Lý Thế Dân.”

Bạt Phong Hàn chấn động tinh thần: “Cách này có thể thực hiện, bọn ta mau lên tường thành giải quyết ác thứu, hạ uy thế của Lý Thế Dân”

Khấu Trọng nói với Trần Lão Mưu: “Trần công cứ y theo kế hoạch đã định, vận chuyển quân nhu yếu phẩm theo địa đạo ra ngoài cất giấu ở nơi bí mật trong rừng núi, một thời thần sau khi bọn ta phát động tấn công, ta cấp năm trăm người do lão nhân gia chỉ huy, ứng phó các tình huống nguy cấp.”

Trần Lão Mưu lấy cái lọ nhỏ đựng độc dược ra, chỉ dẫn cách dùng, giao cho gã đoạn vui vẻ rời đi.

Bạt Phong Hàn nói: “Khấu Trọng ngươi phải là người cuối cùng ly khai Lạc Dương để an lòng quân, việc tập kích cao trại giao cho ta phụ trách. Sau khi giết ác thứu, Tử Lăng tốt nhất đến tiếp ứng đại quân bọn ta đột vây.”

Từ Tử Lăng xen vào: “Lý Thế Dân có thể không phái liệp ưng tuần thị vùng núi xa ở phía Nam, nhưng sẽ không bỏ qua việc trinh sát tình huống điều động quân đội trong thành, nếu phát giác bọn ta đem toàn quân tập trung tại thành nam, tình hình ắt sẽ bất lợi lớn.

Khấu Trọng nói: “Việc này dễ thôi, cuộc chiến đột vây phân thành sáu giai đoạn tiến hành, đầu tiên là từ địa đạo vận chuyển quân nhu yếu phẩm, tiếp đó phân bố quân tại thành nam và thành tây, cho dù Lý Thế Dân có manh mối cũng không biết bọn ta cuối cùng đột vây từ hướng nào. Giai đoạn thứ ba là nếu bọn ta dụ được Lý Thế Dân triệu hồi liệp ưng đồng thời thả ác thứu truy sát, đem quân sĩ từ cửa tây qua cửa nam. Giai đoạn thứ tư là xuất thành công kích và tập kích cao trại, đồng thời dùng địa đạo phá hủy thế trận ba mũi liên hoàn của địch, rồi tiến hành lấp hào. Giai đoạn thứ năm là tất cả quân sĩ thủ trấn tường thành và cửa thành cùng quân sĩ giám thị Vương Thế Sung toàn lực nhanh chóng triệt thoái từ cửa nam. Giai đoạn cuối cùng là tùy cơ ứng biến đào tẩu.”

Bạt Phong Hàn cười khà khà nói: “Thiếu soái tính kế rất chắc chắn, bất quá bậc trí giả tính ngàn lần tất có lần sơ sót. Cướp trại phải cướp lương, lương thực bọn ta chỉ đủ duy trì hơn mười ngày, chưa đến Tương Dương e đã phải ăn rễ cây mà sống, vào núi vàng sao có thể trở về tay không được. Khi quân ta phát động thế công kích mãnh liệt vào trận địch, cao trại địch nhân nhất định như tổ chim không, phòng thủ lỏng lẻo, bọn ta có thể dùng thủ pháp sét đánh không kịp bưng tai, khống chế cao trại, đem vật tư trong trại vận chuyển theo địa đạo, sau đó một đuốc thiêu rụi, hợp lại Thiếu Soái quân phá vây của ngươi, cùng nhau rút đi mà giữ mạng.”

Khấu Trọng vỗ vỗ vào đầu, cười vui vẻ: “Tiểu đệ thật hồ đồ, việc đơn giản như thế mà không nghĩ đến, tốt rồi! Các huynh đệ! Đến lúc phải lên tường thành khuấy động thôi.”

- o O o -

Hồi 659

Hình Thế Ác Liệt

  Ba gã ở trên thành lâu Trường Hạ môn ngửa mặt quan sát bầu trời đêm, vẫn không tìm thấy bóng liệp ưng của Khang Sao Lợi.

Địch nhân điều động quân mã ở ngoài thành không liền lạc. Mười lăm vạn quân Đại Đường, sau khi tiến vào trú ẩn tại các doanh trại ngoài thành và tiễn tháp trận, cả bình nguyên rộng lớn nằm giữa chiến hào và trận địa đều không thấy bóng người khiến khung cảnh trở nên cao thâm mạt trắc, bầu không khí yên tĩnh bất thường, lại ngập vẻ căng thẳng trước khi xảy ra cuộc chiến.

Khấu Trọng sai Vô Danh bay thẳng lên không trung, lượn vòng trên cao, rồi bay ra ngoài thành, phía Lý Thế Dân vẫn không chút động tĩnh, cũng không thả ác thứu ra đối phó Vô Danh.

Ba gã nhìn nhau, đều có cảm giác bất tường.

Bạt Phong Hàn thở ra một hơi dài nói: “Lý Thế Dân quả nhiên phi thường cao minh, khiến cho bọn ta không cách nào nắm rõ bố trí thực lực của hắn, lại có thể dĩ dật đãi lao, làm lỡ đại kế của bọn ta.”

Từ Tử Lăng nhìn qua hai trại thành nam, đều tối đen như mực, thần sắc nghiêm trọng, trầm giọng: “Lý Thế Dân nhận ra bọn ta có thể từ thành nam đột vây.”

Khấu Trọng nói: “Lý tiểu tử vị tất đã nhìn được bọn ta từ thành nam đột vây, nhưng lại áp dụng sách lược chính xác nhất, bất luận bọn ta vùng vẫy thế nào cũng không thể thoát khỏi lòng bàn tay hắn. Tác phong của hắn có thể tổng quát trong hai chữ ‘Nhẫn’ và ‘Độc’! Bất luận phụ tử Tiết Cử, Tống Kim Cương hay là Đậu Kiến Đức đều bại bởi hai chữ này. Hiện tại hắn đang nhẫn nại, đã không thả liệp ưng sát địch, lại bỏ qua cơ hội đưa ác thứu truy sát Vô Danh, đây chính là chữ ‘Nhẫn’.”

Bạt Phong Hàn quan sát dòng Y Thủy uốn khúc, trầm giọng: “Uy hiếp lớn nhất đối với đại kế đào vong của bọn ta chính bởi Lạc Dương là nơi hội tụ của tám dòng sông, dòng lớn dòng nhỏ giao cắt với nhau, địch nhân chỉ cần có thủy sư thuyền đủ lớn ắt tập hợp được tinh binh, đến bất cứ hướng nào cũng hết sức thần tốc. Lại có thể tiến hành đột kích bất ngờ đối với quân sĩ bọn ta vừa đột vây thành công. Ngày nào bọn ta chưa đến Chung Ly thì vẫn ở trong hiểm cảnh.”

Thân thể hùng dũng của Khấu Trọng khẽ rúng động: “Đây chính là chiến lược trước mắt của Lý Thế Dân, đại quân Lý Nguyên Cát tiếp tục bằng vào tiễn tháp trận và chiến hào vây thành, bản thân thì tập hợp tinh binh, tùy theo bọn ta hành động thế nào mà thần tốc ngăn trở. Con bà nó, bọn ta tuy nắm được dụng tâm của hắn, nhưng lại hoàn toàn mất chủ động, không có cách gì thi thố, chỉ đành liều mạng chạy về phía Nam.”

Bạt Phong Hàn nói: “Trong trận chiến đột vây, thương vong càng ít thì cơ hội thoát thân càng lớn, thời gian không có nhiều, bọn ta phải bố trí đội ngũ lần cuối.”

Khấu Trọng trầm tư hồi lâu, gật đầu: “Phi Vân vệ giao cho lão ca chỉ huy, bản thân bọn họ đã được tiểu đệ huấn luyện kỹ càng, thời gian gần đây lại thường xuyên đánh trận, nhân số tuy ít nhưng ai nấy thân thủ vững vàng, khinh công cao minh, dùng để đột kích trại địch, còn hơn vạn mã thiên quân.”

Lại triệu hồi Vô Danh giao cho Từ Tử Lăng, cười: “Thay ta chiếu cố tốt cho bảo bối này, mệnh vận tương lai của bọn ta, không chừng đều gắn liền với nó đấy.”

Từ Tử Lăng tiếp lấy Vô Danh, nhìn về vùng núi rừng phía nam ẩn tàng sát cơ trùng trùng giữa trời sao mỹ lệ, lòng không khống chế được ý nghĩ về Sư Phi Huyên đang ở nơi xa đó. Nàng sẽ nghĩ thế nào đối với việc gã trực tiếp tham gia vào trường chiến tranh tàn khốc này.

Khấu Trọng và Lý Thế Dân rốt cuộc cũng đến thời khắc chính diện xung đột. Giữa hai bên không còn bất cứ cơ hội hòa hoãn nào. Khấu Trọng nếu như danh bại thân vong, tất cả đương nhiên chấm dứt, bằng không thì sóng gió sẽ cuộn lên khắp Nam Bắc, biến Trung thổ thành một đại chiến trường kịch liệt. Không ai có thể cản trở, đương nhiên không ai cải biến được tình thế đáng sợ đó.

Cuộc chiến giành thiên hạ được quyết định bởi tay hai anh hùng Khấu Trọng và Lý Thế Dân, điều Sư Phi Huyên lo lắng nhất rốt cuộc cũng biến thành sự thật rõ ràng trước mắt.

Cơn ác mộng đã bắt đầu trước khi ngày mới bắt đầu.

Khấu Trọng cưỡi trên Thiên Lý Mộng, trong lòng tĩnh lặng như nước, linh đài mở rộng trong sáng. Từ thời khắc Đậu Kiến Đức bị giết, cừu hận, áy náy, uất ức, bi phẫn ào ạt dâng tràn, hợp lại thành sức mạnh kỳ dị. Dưới uy hiếp đáng sợ đến sinh tử tồn vong của toàn quân, gã đã có đột phá toàn diện, tiến vào cảnh giới xá đao chi ngoại của “Thiên Đao” Tống Khuyết, đạt đến tầng vô thượng Thiên Địa Nhân hợp nhất.

Cảnh giới này tịnh không phải đạt được một cách ngẫu nhiên, mà từ lúc đó gã đã có cảm giác các bộ phận cơ thể bắt đầu liền lạc với nhau, tiến vào cảnh giới cao hơn “tỉnh trung nguyệt” một tầng.

Dương Công Khanh và Ma Thường cưỡi ngựa đến bên gã. Tám mươi binh sĩ bày thành trận thế sau lưng ba người đều là quân sĩ chủ lực đột vây, toàn quân còn lại phân thành tam quân, tiền quân bốn ngàn người, do mâu thuẫn thủ và đao tiễn thủ tổ thành, đảm nhiệm ba mươi máy bắn tên và mười lăm Phi Thạch đại pháo, có thể công kích trận địch từ cự ly xa.

Trung quân một ngàn người, với Mộc lư xa và Hà mô xa lấp hào để tiền quân ổn định trận thế. Hậu quân hai mươi người, toàn bộ đều là khinh kỵ binh, có thể ứng biến thần tốc với bất kỳ tình huống biến động nào.

Tam quân do Bạt Dã Cương, Hình Nguyên Chân và Đoàn Đạt chỉ huy.

Ngoài ra còn có hai đội quân khác, mỗi đội hai mươi người do Đơn Hùng Tín và Quách Thiện Tài dẫn đầu, bày bố ở Nam môn cùng hai cửa Hậu Tái và Định Đỉnh, chặn đánh địch quân từ phía tây tấn công đến, giúp đại quân chủ lực có thể tập trung lực lượng để đối phó mặt chính diện.

Trên quảng trường, ánh nhìn của toàn thể binh sĩ đều tập trung tại người Khấu Trọng, yên lặng chờ đợi mệnh lệnh mở cổng xuất kích của gã.

Thiên Lý Mộng bỗng nhiên dựng hai chân trước lên, ngẩng đầu hí vang, hai chân khua khoắng trong khoảng không, hai chân sau đạp bước, quay lại đối diện tướng sĩ rồi hạ hai chân trước xuống đất.

Thủ pháp này vượt khỏi sự tưởng tượng của toàn thể, lại vô cùng thần diệu, khó có người thi triển được, ngay tức khắc gây nên tiếng hò hét vang dậy của thủ hạ binh sĩ, chiến ý ngút trời.

“Choang!”

Khấu Trọng tuốt Tỉnh Trung Nguyệt, chỉ xéo lên trời, cười ha hả nói: “Cuộc đời Khấu Trọng ta trải qua nhiều trận chiến, mỗi lần đều là lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, bằng vào binh pháp chiến lược, dũng khí không sợ cường bạo. Lần này cũng...”

Lời chưa nói xong đã chìm trong tiếng hò la của tướng sĩ, sĩ khí dâng cao đến cực điểm.

Khấu Trọng biết là đã đến lúc đưa ra quyết định xuất kích theo kế hoạch tối nay. Đại bộ phận tướng sĩ của quân khởi nghĩa đi theo Đậu Kiến Đức hoặc theo gã đều xuất thân từ nông dân, còn Lý Thế Dân, Lý Nguyên Cát lại là đại biểu cho tầng lớp quyền quý hoành hành bá đạo từ thời Ngụy Tấn đến thời Cựu Tùy, luôn khinh khi đàn áp bọn họ. Lý Nguyên Cát ở trước đám đông tàn sát Đậu Kiến Đức, đã kích động sự căm phẫn của quân thủ thành vốn cùng chung kẻ địch với quân khởi nghĩa, hơn nữa bản thân gã rất có ảnh hưởng đến bọn họ. Ký ức của bọn họ vẫn còn mới mẻ, chưa bị thời gian làm phai nhạt, ai nấy đều nuôi ý chí quyết tử để cầu sống.

Lệnh vừa hạ, Vương Huyền Thứ ở thành lâu chủ trì đại cục trong thành ra lệnh cho thủ hạ thả cầu treo xuống.

Khấu Trọng cho Tỉnh Trung Nguyệt vào vỏ, trong tiếng trống trận, thúc ngựa tiến vào con đường ngay cổng thành, dẫn đầu xuất thành.

“Choang! Choang! Choang! Choang!”

Hai tòa tiễn tháp trận của Đường quân vang lên tiếng đồng la cầu viện.

Hai trại đồng thời truyền ra tiếng kèn hiệu, cổng trại mở rộng, ba cánh quân sĩ lần lượt băng ra, bố trận ở ngoài trại, chỉ xem việc phản ứng thần tốc cũng có thể biết Đường quân đã có chuẩn bị.

Một cánh quân vẫn do Khuất Đột Thông chỉ huy, binh lực cực mạnh, đạt đến ba vạn, dưới tình huống này, cho dù không có chiến hào, doanh trại kiên cố thì binh lực cũng đủ phong tỏa con đường phía Nam. Binh lực hai trại khác khoảng một vạn rưỡi, do Tiết Vạn Triệt và Sử Đại Bảo chỉ huy, tạo thành hai cánh bảo vệ bên sườn quân sĩ Khuất Đột Thông, quân dũng dâng cao, khí thế hừng hực.

Quân sĩ đột vây thần tốc xuất thành, bố trận ở vùng đất giữa lớp hào thứ nhất và thành môn, chuẩn bị tấn công. Ba mươi máy bắn cung và mười lăm Phi Thạch đại pháo xếp thành hàng ngang ở chính diện. Đá lớn nặng tới năm, sáu mươi cân và tên đá đặc chế, dùng Ha mô xa vận chuyển đến. Quân đột vây ở hai cổng thành khác vẫn án binh bất động, mai phục sau cổng thành, yên lặng đợi thời cơ xuất kích.

Ánh mắt Khấu Trọng ước lượng khoảng cách giữa hai tòa tiễn tháp trận bằng đá của địch với lớp hào thứ hai, mỗi trận địa có hơn trăm binh sĩ, nếu không có sắp xếp khác, chỉ hai tòa trận địa phòng ngự này cũng khó mà công phá.

Dương Công Khanh đi bên phải lên tiếng: “Bọn chúng không xem trọng lớp hào thứ nhất.”

Ma Thường đi phía trái cười: “Vì đã có vết xe đổ trước, lần đó bọn lão phu cứ bám theo đuôi kỵ binh địch tiến vào lớp hào thứ hai mà chém giết, xảo hợp thế nào lại thắng được một trận oanh liệt.”

“Thùng! Thùng! Thùng!”

Giữa tiếng trống trận, quân mã ba trại bên địch từ từ tiến đến lớp hào thứ hai, còn cách hơn ngàn bước thì dừng lại.”

Khấu Trọng khẽ cười: “Lấp lớp hào thứ nhất!”

Ma Thường truyền lệnh, năm mươi chiếc Ha mô xa từ trong đoàn quân nhanh chóng chạy ra, trực tiếp tham gia lấp hào, từng bao đất cát được vận chuyển đến không dứt, chỉ thoáng sau một đoạn hào dài hơn hai mươi trượng vốn ngăn cản phía trước đã biến thành bình địa.

Khấu Trọng đợi quân lính lui lại vào trong trận, chỉ tay vào ba cây cầu gỗ tạm thời trên dòng Y Thủy phía bên trái nói: “Khi bọn ta khống chế đại cục, phải lập tức đưa Phi Thạch đại pháo phá hủy ba cây cầu đó, cắt đứt đường chi viện đến từ phía đông thành của đại quân địch nhân, Lý Nguyên Cát nếu muốn đến giúp, phải đi đường xa hơn, vòng qua phía tây thành mà đến.”

Đồng thời phất tay ra lệnh, tiếng “ầm ầm” vang lừng, máy bắn tên và bắn đá được di chuyển đầu tiên, vượt qua lớp hào thứ nhất đã bị lấp, tiến thẳng đến lớp hào thứ hai.

Ma Thường gật đầu lĩnh mệnh: “Việc này giao cho thuộc hạ phụ trách.”

Tiếng kèn hiệu bên địch vang lên, quân chủ lực phân ra một đội thuẫn thương thủ và tiễn thủ gồm hai mươi người tiến đến tăng viện lớp hào thứ hai.

Quân sĩ đi đầu của quân đột vây có trang bị dụng cụ tấn công tầm xa, dừng lại cách ngoài hào năm trăm bước, chờ đợi mệnh lệnh công kích của Khấu Trọng.

Khấu Trọng ung dung nói: “Mở hai cửa Định Đỉnh và Hậu Tái, quân sĩ sau thành môn vẫn án binh bất động.”

Dương Công Khanh hơi ngạc nhiên, quân lính truyền tin phía sau đã hướng về phía Vương Huyền Thứ ở thành lâu phất cờ hiệu ra chỉ lệnh, Vương Huyền Thứ tiếp tục truyền đạt mệnh lệnh của Khấu Trọng đến hai nhánh quân kia.

Hai cánh cổng hạ xuống, lại không có nhân mã tiến ra, quả có tác dụng cao thâm mạt trắc.

Khấu Trọng khẽ cười: “Đây gọi là kế nghi binh, khiến Khuất Đột Thông không dám làm càn, sợ bị bọn ta đột nhiên tấn công vào bên hông.”

Ma Thường nói: “Địch nhân chỉ thấy được Thiếu soái, lại không thấy Từ gia và Bạt gia, không biết sẽ nghĩ gì đây.”

Khấu Trọng điềm nhiên nói: “Đương nhiên là nghi thần nghi quỷ, không biết bọn ta có âm mưu gì.”

Tiếp đó thở dài cảm thán: “Ta thật hy vọng kẻ bên kia hào là Lý Thế Dân chứ không phải Khuất Đột Thông, nếu được vậy không chừng bọn ta không phải chạy khỏi Lạc Dương mà có thể đã từ đây uy hiếp Quan Trung.”

Dương Công Khanh và Ma Thường nghĩ đây chính là chỗ cao minh của Lý Thế Dân, vĩnh viễn không cho địch nhân của hắn có được cơ hội chuẩn bị đầy đủ, công không thể công, thủ cũng không thể.

Khấu Trọng tuốt Tỉnh Trung Nguyệt, khoát thành một vòng trên không, hét lớn: “Tấn công!”

Tiếng hét của gã vang lên như sấm, chấn động cả vùng, sĩ khí toàn quân dâng cao theo đó, ngược lại địch nhân bị uy dũng vô địch của gã làm cho hoảng sợ.

“Tùng! Tùng! Tùng! “

Trống trận bên quân đột vây vang lên, chiếc trống cái đặt cố định trên đài này là do Trần Lão Mưu đích thân chết tạo, tiết tấu trống có thể truyền đến phục binh ở dưới địa đạo, giúp bọn họ theo nhịp điệu trống mà phối hợp được với hành động của quân sĩ trên mặt đất.

Đại chiến bắt đầu.

o0o

Tiếng trống chấn động núi non, Từ Tử Lăng ở đầu một lối ra khác, dưới sự yểm hộ của đêm đen, hết sức cẩn thận tiến đến trận địa đơn giản mà hiệu quả trên đỉnh núi do công sự binh thiết lập, dùng để chống lại công kích của truy binh Đường quân.

Ở hướng đông nam có lập cao điểm, bố trí người canh gác nhằm cảnh giới kỳ binh của Lý Thế Dân xuất hiện, giúp đại quân khi triệt thối có thể tránh được chỗ mạnh, tìm kẽ hở của địch mà đột kích.

Lương thực, binh khí và các đồ tiếp tế từ Trần Lưu vận chuyển đến, cất giấu ở một nơi bí mật trong rừng cách đó hơn hai mươi dặm về phía nam, nếu tất cả hoàn thành y như kế hoạch, sau khi mặt trời lên, quân đột vây sẽ đến đó, bổ sung trang bị rồi tiếp tục hành trình tiến xuống phía nam.

Từ Tử Lăng đặc biệt lưu ý động tĩnh trên hai dòng Y Thủy và Lạc Thủy, bởi lộ tuyến rút chạy của bọn gã nằm giữa hai dòng sông. Đội thủy sư thuyền của Lý Thế Dân chỉ cần đoán trước một bước, theo các đường sông này truy đến, chắc chắc ảnh hưởng rất lớn đến thành bại của đợt rút quân này.

Trần Lão Mưu tiến đến cạnh gã, lắng tai nghe âm thanh chém giết từ phía thành Lạc Dương truyền lại, nói: “Bắt đầu rồi! Hai tòa trận tiễn tháp sẽ bị phá vỡ trong vòng chưa đến hai mươi tiếng trống.”

Tiếng la hét vẫn vang lên liên miên không dứt, trái ngược hẳn với không khí nơi này hết sức trầm tĩnh. Ba trăm binh sĩ trấn giữ trận địa trên núi đều thần sắc ngưng trọng, giữ thế chờ đợi.

Binh lính phụ trách lối ra ở phía này được tuyển chọn từ Dương gia quân, đều là quân tinh nhuệ một có thể địch mười, nhân số tuy ít nhưng có cao thủ như Từ Tử Lăng phối hợp hành động, đủ để ứng phó bất kỳ tình huống nào. Lấy tĩnh chế động, đảm nhiệm trọng trách đoạn hậu cự địch.

Từ Tử Lăng nói: “Trần công có thể phụ trách việc cướp lương thảo vật dụng vận chuyển đến trại địch, nơi này cứ giao cho ta là được.”

Trần Lão Mưu gật đầu đáp ứng, suất lãnh hơn mười người cùng đi vào địa đạo.

Từ Tử Lăng nhìn cao trại ở xa xa, trong lòng cuộn lên cảm giác bất an. Lý Thế Dân rốt cuộc hiện đang ở nơi nào?

o0o

Khấu Trọng vững vàng trên lưng Thiên Lý Mộng, lạnh lùng quan sát công thủ qua lại giữa song phương, Ma Thường phụ trách tấn công chiến hào thứ hai, đây là phương pháp dụng binh mà gã đã học lén từ “Thiên Đao” Tống Khuyết.

Vô luận là nhân tài ưu tú thế nào, nếu không cho y có cơ hội tập luyện ắt khó phát triển được tài năng, bộc lộ được điểm mạnh bản thân. Tống Khuyết yêu cầu gã chống đỡ cục diện phương Bắc để đối kháng Đại Đường quân của Lý phiệt, dụng ý để gã được mài giũa. Giống như khi Tống Khuyết bức bách gã phải sinh tử quyết chiến, khiến gã đạt được đột phá vượt bậc trên đao đạo.

Ba mươi máy bắn tên và mười lăm cỗ Phi Thạch đại pháo triển khai tấn công cuồng bạo vào địch trận ở bên kia lớp hào, tầm bắn của máy bắn tên là hơn năm trăm bước, của đại pháo đạt hơn hai trăm bước, đều được đẩy đến cự ly cách địch trận khoảng hai trăm bước nên những khối đá tạo thành uy hiếp rất lớn, tên từ phía địch nhân bắn lại đều bị đội mâu thuẫn thủ gạt hết.

Năm chiếc Mộc lư xa dàn ngang ở tiến tuyến, dưới sự yểm hộ của cung thủ, tấn công về phía trận địch. Vừa mới thi triển, dưới công thế cường đại của Phi Thạch đại pháo, địch nhân đã huyết nhục tung tóe, cuống cuồng thối lui, nếu như không có lớp hào dài ngăn trở, quân đột vây sớm đã đánh thẳng tới.

Khấu Trọng hét lớn: “Bỏ kế hoạch oanh tạc!”

“Ầm!”

Tiễn tháp bên trái không chịu nổi sức công phá của đá tảng, sụn nghiêng rồi đổ xuống đè lên các binh sĩ đang kêu thảm bỏ chạy trong trận.

Dương Công Khanh truyền lệnh xuống, tiếng trống đột nhiên biến đổi, thông báo cho người dưới địa đạo bỏ kế hoạch kéo đổ cột chống trận tháp của địch để tránh bại lộ bí mật địa đạo.

Khấu Trọng thầm trách bản thân thất sách, không tưởng được địch nhân không phòng thủ mà ở ngoài hào đối lũy giao phong, đến nỗi lãng phí nhân lực.

Tiết Vạn Triệt chỉ huy một vạn rưỡi Đường quân, vượt qua sông bằng ba cây cầu gỗ, tiến vào bình nguyên phía trước, hội hợp cùng đại quân của Khuất Đột Thông, tổng binh lực đạt đến sáu vạn người, như hùng ưng xoãi cánh, bố trí khắp bình nguyên rộng lớn, nghiêm trận chờ đợi, đằng sau là cao trại, tinh kỳ phất phới.

Nếu như không phải Khấu Trọng có an bài từ địa đạo đột phá cao trại, lúc này chỉ còn cách cười lớn nhận bại rồi trở lại thành mà suy nghĩ phương pháp khác. Bởi dưới binh lực áp đảo của đối phương phối hợp với kỵ binh thần tốc xung kích, máy bắn tên và Phi Thạch đại pháo lại mất đi uy hiếp tấn công cách hào, nếu bị địch nhân cắt đứt đường lui, gã chắc chắn sa vào cảnh toàn quân mất sạch.

Tiếng kèn hiệu vang lên, địch nhân cuối cùng cũng bỏ tiễn tháp trận phòng thủ hào, thối lui về sau.

Khấu Trọng không còn lựa chọn, hạ lệnh lấp hào, trong tiếng bánh xe rầm rầm, toàn bộ Ha mô xa còn lại đều tiến đến lớp hào sâu, các bao đất cát vận chuyển theo sau, quẳng vào trong hào.

Trên thành lâu tiếng trống dập dồn, binh lính truyền tin ở góc tây nam đốt đuốc làm tín hiệu, thông báo cho phía Khấu Trọng biết có ba vạn quân địch từ mặt tây vòng qua thành tiến đến.

Dương Công Khanh thần sắc ngưng trọng, nói: “Lý Thế Dân đến đấy!”

Khấu Trọng lắc đầu: “Là Lý Nguyên Cát chứ không phải Lý Thế Dân. Lập tức đóng hai cửa Định Đỉnh và Hậu Tái. Đơn Hùng Tín và Quách Thiện Tài đổi sang xuất thành từ Trường Hạ môn, cánh quân bên phải của ta giữ lấy máy bắn tên và Phi Thạch đại pháo, chống lại địch nhân xung kích.”

Dương Công Khanh hô lên lĩnh mệnh, tự thân chỉ huy hành động.

Tâm thần Khấu Trọng yên lặng, vô kinh vô hỉ, cảm giác hòa hợp cùng trời đất trở lại, sinh tử vinh nhục đều không còn quan trọng, điều trọng yếu chính là ở trên chiến trường vô cùng ác liệt này đưa ra phán đoán chính xác nhất. Gã tuy có kế hoạch tác chiến đột vây gần như hoàn mỹ, nhưng tài năng, chiến lược của Lý Thế Dân cũng không kém, để cho gã xuất thành kịch chiến, hiểu rõ hư thực, đợi gã binh mỏi lực kiệt, kế cùng mưu tận, mới đem binh mã được nghỉ ngơi dưỡng sức, thế như sấm vang chớp giật chặn đánh.

Gã hiểu rõ thủ đoạn của Lý Thế Dân, nhưng lại không có cách nào cải biến sự tình sắp diễn ra, điều duy nhất có thể làm là toàn lực tranh đấu với đối phương, chiến đấu đến binh lính cuối cùng.

Tiếng vó rầm rập vang trời.

Quân kỳ Đại Đường của Lý Nguyên Cát phất phới, xuất hiện ở bình nguyên phía tây nam, đội tiên phong gồm hai mươi kỵ binh tiến vào giữa hai lớp hào như bay, tiếp theo là một đội kỵ binh hai mươi người khác, men dọc theo lớp hào thứ nhất phối hợp xung kích vào cánh quân đột vây chủ lực.

Trống trận thình thình.

Ba quân phía trước bắt đầu tiến lên, uy hiếp mặt chính diện.

Khấu Trọng tuốt Tỉnh Trung Nguyệt, hét vang: “Vượt hào!”

Thời khắc huyết chiến giáp lá cà cuối cùng đã đến.

- o O o -

Hồi 660

Đột Vi Huyết Chiến

Theo hiệu lệnh của chủ tướng, từng loạt, từng loạt tên mãnh liệt bắn ra, cứ sau một đợt tên phát xạ từ mười lăm máy bắn cung thì các binh sĩ nhanh chóng lắp tên mới vào, mười lăm máy khác tiếp tục buông tiễn, kỵ binh địch lọt vào xạ trình đều không thể thoát khỏi cảnh người rơi ngựa ngã, máu thịt tung tóe, tình cảnh thê thảm khiến người ta không nỡ nhìn.

Thế công của đội kỵ binh tiên phong bên Lý Nguyên Cát bị các máy bắn tên đập tan tành, hoảng loạn triệt thoái về phía Tây. Thuẫn thủ quân và tiễn thủ quân tiến lên theo đường kỵ binh thối lui để thiết lập lại thế công, nhiệm vụ chính là kềm chế uy lực sát thương từ vũ khí hạng nặng của quân đột vây, tạo ra cơ hội cho đại quân của Khuất Đột Thông.

Đây là một trò chơi xem thử ai là người bị thương tổn lớn hơn.

Bất ngờ tiếng trống cảnh báo truyền đến từ thành lâu phía đông bắc thành Lạc Dương, lính phất cờ báo hiệu có địch nhân tấn công đến Đông môn.

Khấu Trọng và Dương Công Khanh đưa mắt nhìn nhau, lộ rõ thần sắc kinh sợ, việc này có thể kềm chế tám nghìn binh sĩ đóng giữ Lạc Dương thành không có cách nào tham gia vào cuộc chiến đột vây.

Quân đột vây đưa thuẫn mâu thủ và đao tiễn thủ tạo thành đội tiên phong, vẫn theo tiết tấu trống trận, vượt qua lớp hào đã bị lấp, xung phong vào trận địch.

Tất cả giống như một cơn ác mộng không thể tỉnh lại cũng không thể thay đổi. Khấu Trọng thầm than trong lòng, Lý Thế Dân đúng là kỳ tài, mỗi chiêu đưa ra đều đánh trúng nhược điểm trí mạng của gã.

Quân Lý Nguyên Cát đột nhiên xuất hiện, hiện tại chuẩn bị tấn công vào Thượng Đông môn, buộc gã phải cải biến chiến thuật, giống như cao thủ đối mặt hoặc kỳ thủ đối cờ, mỗi nước đều chiếm hết tiên cơ, ép gã phải đánh theo ý đồ của đối thủ.

Ánh mắt Khấu Trọng nhìn về phía trái dòng Y Thủy, lòng nghĩ may mà có nhánh sông lớn này, bằng không nếu địch nhân trái phải giáp kích, e là toàn quân phải tiêu tan. Hắn bỗng thu nhiếp tâm thần, ngữ khí như chém đinh chặt sắt: “Bỏ Lạc Dương, toàn quân đột vây!”

Dương Công Khanh cười khổ: “Đây là lựa chọn sáng suốt nhất.”

Lập tức sai lính cầm cờ phất cờ báo hiệu cho Vương Huyền Thứ ở trên thành lâu biết.

“Choang! Choang! Choang!”

Vương Huyền Thứ tự thân gióng chuông vang khắp thành lâu, dùng cách nhanh chóng nhất truyền tin đến toàn bộ quân thủ thành.

Khấu Trọng giơ cao Tỉnh Trung Nguyệt, giục ngựa xoay về hướng quân sĩ, hô vang: “Các huynh đệ! Khấu Trọng ta và mọi người sống chết cùng nhau, Khấu Trọng ta là người đầu tiên xung sát trận địch, cũng là người rời khỏi cuối cùng.”

Lời nói thật hào hùng bi tráng phối hợp với hình tượng vô địch của gã, đã kích động mạnh vào lòng quân, binh sĩ lập tức gầm lên: “Thiếu Soái quân tất thắng!” Tiếng gầm vang vang trên không trung, binh sĩ nơi nơi chiến ý đại thịnh liên kết cùng Khấu Trọng thành một khối, nguyện dốc sức vì chủ soái.

Khấu Trọng lộ ra nét cười tương phản với chiến trường tàn khốc, sáng láng như ánh dương quang, ung dung nói: “Sẽ có một ngày ta từ Trường Hạ môn trở lại Lạc Dương, tuyệt không thể là cửa khác.”

Hai mắt Dương Công Khanh hiện ra thần sắc mà chỉ có Khấu Trọng mới hiểu được, giơ tay lên hô theo: “Bất luận sinh tử, bọn ta mãi mãi đi theo Thiếu soái.”

Toàn quân lại gầm vang, nguyện lòng tử chiến.

Quân tiền phong đột nhiên dừng lại, dàn thành trận thế năm hàng cách đội ngũ quân địch chừng tám trăm bước. Hai hàng trước do một ngàn mâu thuẫn thủ tạo thành, ba hàng sau là đao tiễn thủ.

Ma Thường tiếp tục phát hiệu lệnh, hai cánh kỵ binh, mỗi cánh năm trăm người vòng sang hai bên, hình thành thế bảo vệ dọc sườn.

Trong thời gian thành bị vây, quân thủ thành không hề được chút thời gian nhàn rỗi nào, Ma Thường liên tục thao luyện ngày đêm, vào giờ phút sinh tử này đã bộc lộ rõ thành quả.

Bạt Dã Cương chỉ huy quân tiên phong, hai nhánh kỵ binh trái phải do Đoàn Đạt và Hình Nguyên Chân suất lãnh.

Hai đội kỵ binh mỗi đội hai mươi người của Đơn Hùng Tín và Quách Thiện Tài lúc này xuất thành ra hạ môn, bố trận phía sau.

Quân đội của Lý Nguyên Cát cũng lùi xa các máy bắn tên và bắn đá khoảng ngàn bước, yên lặng đợi mệnh lệnh, song phương tạm thời duy trì cục diện giằng co, đại chiến sẵn sàng bùng nổ.

Ánh mắt Khấu Trọng quan sát quân sĩ tiền phương của Khuất Đột Thông, đầu óc hết sức sáng suốt, đối với hình thế chiến trường không bỏ sót điểm nào, biết địch nhân vẫn không hay cao trại đã rơi vào tay Bạt Phong Hàn, bèn phất cờ hiệu.

Tỉnh Trung Nguyệt trở vào vỏ.

Khấu Trọng và Dương Công Khanh thúc ngựa tiến lên, hai ngàn kỵ binh theo sau, vượt qua lớp hào đã bị lấp, vòng về phía sau quân tiên phong.

Khấu Trọng nói với Dương Công Khanh: “Ngàn vạn lần không nên để Lý Nguyên Cát công phá vào sườn, đợi ta phá trận xong trở lại, bọn ta mới phát động toàn quân đột vây, nơi này giao cho Dương công!”

Dương Công Khanh gật đầu đáp ứng: “Thiếu soái cẩn thận!”

Khấu Trọng chính là linh hồn toàn quân, nếu gã vong mạng, quân đột vây chắc chắn rơi vào tình thế toàn quân tan vỡ.

Khấu Trọng khẽ cười đầy tự tin, giơ cao Thích Nhật cung trong tay, tay kia rút tên treo bên bụng ngựa đoạn dùng thủ pháp độc môn bắn ra bốn mũi tên, thúc ngựa tiến lên.

Bạt Dã Cương hiệu lệnh quân tiên phong dạt sang hai bên, nhường lối cho gã đi qua.

Không khí lập tức căng thẳng.

Kèn trận vang lên bên phía địch, một đội thuẫn thủ xông ra chúc thuẫn xuống đất, một đội khác tiến sát lên giơ thuẫn chéo lên, hình thành trận thế thuẫn bài bảo vệ hai mặt trên dưới cho tiễn thủ phía sau.

Khấu Trọng một mình tiến lên trước trận, ngửa mặt cười vang: “Trong thiên hạ ai có thể ngăn cản Khấu Trọng ta!”

Nói xong phát xạ cường tiễn theo thủ pháp liên châu.

Dưới ánh sáng từ những bó đuốc của hai bên, từng mũi, từng mũi cường tiễn từ Thích Nhật cung bắn ra, mỗi mũi đều mang theo Loa Hoàn kình, bắn thẳng vào trận địch.

“Coong! Coong! Coong!”

Thuẫn bãi vỡ nát, máu thịt tung tóe, cường tiễn xuyên qua thuẫn bài như giấy mỏng, cắm vào thân người. Lần lượt từng thuẫn thủ ở hướng chính diện Khấu Trọng lần lượt ngã xuống. Máu nhuộm bình nguyên! Cường tiễn bắn ra từ Thích Nhật cung tựa như vĩnh viễn không ngừng, tiễn thủ đằng sau mất đi sự bảo vệ của thuẫn bài, liên tục trúng tên lao xao như lá khô bị cuồng phong quét sạch, chỉ đành giương mắt lên nhìn tử thần đoạt mạng.

Khấu Trọng vừa mới ra tay đã khiến địch nhân mất vía, sĩ khí toàn quân dâng cao, gầm vang trợ uy. Bên địch thấy tình thế không ổn, kèn trận vang lên, quân tiên phong đồng loạt áp sát quân đột vây, lại tách ra làm hai cánh để kỵ binh tiến lên.

Quân Lý Nguyên Cát lập tức phối hợp, quân tiên phong bắt đầu tấn công máy bắn tên và Phi Thạch đại pháo.

Dương Công Khanh ở phía sau biết đã đến lúc, dùng đuốc phát ra tín hiệu cho cao trại.

Tiếng trống vang lên bên phía cao trại, Bạt Phong Hàn xuất hiện tại tòa tiễn tháp, hét lớn: “Khí số Lý Đường đã tận! Thiếu Soái quân vô địch thiên hạ!”

Quân đột vây ngoại trừ Dương gia quân, không hề biết sự tình địa đạo, đột nhiên thấy cao trại đã do bên mình khống chế, ai cũng không dám tin, lập tức quân tâm phấn chấn, đồng thanh reo hò.

Ngược lại bên địch nhân ai nấy đều lo lắng, không rõ thực hư, cảm thấy bị uy hiếp từ phía sau, lập tức tình trạng hỗn loạn lan truyền toàn quân như ôn dịch.

Khấu Trọng không để lỡ mất cơ hội tốt, hét lớn: “Các huynh đệ theo ta tiến lên!”

Âm thanh chấn động màng nhĩ, hai mươi kỵ binh tinh nhuệ theo gã xung trận, dùng chiến thuật xuyên phá, xông thẳng vào trận địch chém giết.

Số nhân mã còn lại vẫn giữ vững vị trí dưới sự chỉ huy của Ma Thường, chống đỡ địch nhân công kích, từng làn mưa tên bay đầy trời bắn vào đại quân địch nhân, quân sĩ giơ thuẫn giơ mâu, vừa tiến lên vừa nghiêm chỉnh trận thế chờ đợi giây phút xáp lá cà.

Dương Công Khanh vòng lại hậu phương, phối hợp với quân sĩ từ trong thành rút ra, đồng thời chịu trách nhiệm tổng chỉ huy toàn cục.

Máy bắn tên và Phi Thạch đại pháo không ngừng phát xạ, phối hợp với quân sĩ Vương Huyền Thứ cố thủ tường thành phía Nam, đánh tan nhiều đợt tấn công của cánh quân Lý Nguyên Cát.

Song phương liên tục điều binh khiển tướng.

Khuất Đột Thông do mất cao trại mà trận thế đại loạn, lại không nắm được thực lực của Bạt Phong Hàn, đành phái ra một cánh kỵ binh năm ngàn người, bố trí thành hậu trận đối diện cao trại nhằm ứng phó với công kích từ phía sau.

Trên chiến trường, tiếng la hét chém giết vang trời, chẳng khác nào địa ngục nhân gian.

Khấu Trọng một mình một ngựa đi đầu, Thích Nhật cung trên tay liên tiếp buông tiễn, chuyên chọn các tiễn thủ bên địch có tầm uy hiếp xa mà hạ thủ, tên bắn ra vô cùng biến hóa khiến lòng quân bên địch nhiễu loạn, gã cùng hai mươi kỵ binh ào ào như lốc tiến vào hàng ngũ bộ binh địch.

Gã xếp cung lại, Tỉnh Trung Nguyệt xuất vỏ, Loa Hoàn kình phát ra bao phủ xung quanh, cả đội nhân mã giống như một cây Tỉnh Trung Nguyệt to lớn còn gã chính là mũi đao sắc bén, chẻ đôi đội hình tiên phong của địch nhân, cắm thẳng vào toán kỵ binh địch ở phía sau quân tiên phong.

Kỵ binh địch từ bốn mặt xông lên ngăn cản nhưng không ai là đối thủ của gã, thủ hạ thấy chủ soái dũng mãnh như thế, người người bất chấp an nguy bản thân gấp rút theo sát, giết địch kháng địch, soái kỳ của gã đi đến đâu người đổ ngựa lồng đến đó, chiến cuộc thảm liệt đến cực điểm.

Tâm thần Khấu Trọng tiến nhập cảnh giới “tỉnh trung nguyệt”, xem quân lực địch nhân đông gấp bội như không có, nắm chặt lấy cây cờ lớn, một tay múa cờ, một tay múa đao, cờ cuộn đao tung, nhắm đến chỗ soái kỳ của Khuất Đột Thông, không ai có thể cản trở gã lúc này.

Ma Thường vẫn kiên cường thủ vững trận thế, may là Khấu Trọng đã làm loạn đội ngũ tấn công bên địch nhân, khiến áp lực lên quân sĩ của y giảm hẳn. Ma Thường chờ địch nhân tiến đến cự ly chừng năm mươi bước, hạ lệnh đao tiễn thủ thu cung bạt đao, xung phong tiến lên, ào vào đội hình chưa chỉnh đốn của đối phương mà chém giết, lợi dụng sĩ khí bên mình đang dâng cao mà đem toàn lực bộ binh, kỵ binh phản công.

Tổng cộng hai cánh kỵ binh của Đơn Hùng Tín và Quách Thiện Tài là chẵn sáu mươi người, phân thành hai đường nghênh tiếp hai cánh kỵ binh địch, chém giết đến thiên hôn địa ám, trăng sao ảm đạm, đất rung núi lở.

Quân sĩ Lý Nguyên Cát tấn công vào sườn quân đột vây bị máy bắn tên và Phi Thạch đại pháo kèm giữ ngoài hai trăm bước, một tấc cũng khó tiến lên được.

Đằng sau quân địch lại là một quang cảnh khác, cổng lớn cao trại rộng mở, gần ngàn tù binh của Đường quân và công sự binh không tác chiến, bị Bạt Phong Hàn và gần năm trăm Phi Vân vệ đoạt mất chiến mã rồi dùng cung tên uy hiếp bắt xuất trại, liều mạng chạy về phía trận địa kỵ binh dàn hàng ngang phía trước. Bạt Phong Hàn mượn sự yểm hộ của đám người này, suất lãnh Phi Vân vệ bám theo sát.

Chỉ huy đội kỵ binh là đại tướng tâm phúc Phùng Lập Bản của Lý Nguyên Cát. Y trơ mắt nhìn Bạt Phong Hàn tấn công đến, vẫn không tài nào hạ lệnh cho thủ hạ phóng tiễn bởi địch nhân lẫn trong đám tù binh hỗn loạn. Thời cơ tức thì trôi qua, lập tức năm ngàn kỵ binh bị đám tù binh khiến rối loạn, quân đột vây dưới sự dẫn dắt của Bạt Phong Hàn khí thế bừng bừng, thế như chẻ trúc cắt đôi đội hình kỵ binh. Tù binh lại trốn chạy tứ tán khiến kỵ binh không có cách hữu hiệu nào chống lại phản kích, cho dù nhân số hơn đối phương đến mười lần, vẫn loay hoay như gà mắc tóc.

Cao trại chìm trong biển lửa, bốc cháy bừng bừng, khói cuộn ngất trời, tăng thêm uy thế của quân đột vây.

Ai đủ nhẫn tâm, kẻ đó có khả năng sống sót.

Khuất Đột Thông và chư tướng thủ hạ ở trung tâm toàn quân, đột nhiên phát giác mình sa vào hiểm cảnh, phía sau là Bạt Phong Hàn đang đến, phía trước là kỵ đội say máu của Khấu Trọng, hai đội quân đều không thể ngăn trở, lại lấy soái kỳ của hắn làm mục tiêu. Không còn cách nào khác, năm ngàn kỵ binh trung quân, phải di chuyển sang hướng Tây, hy vọng hợp lại với đại quân Lý Nguyên Cát, chấn chỉnh lại khí thế.

Soái kỳ vừa động, toàn quân lập tức bị ảnh hưởng.

Quân đột vây gầm vang, phấn đấu giết địch.

Ba cánh quân của Ma Thường, Đơn Hùng Tín, Quách Thiện Tài đuổi sát, Đường quân thua chạy tan tác.

Dương Công Khanh biết đã đến lúc, hạ lệnh cho Vương Huyền Thứ đem toàn thể quân sĩ giữ Lạc Dương rút lui.

Trong thành tức thì khói lửa bừng bừng, vốn dĩ trên các con đường và tường thành đã chất đầy củi khô từ trước, sau khi châm lửa liền cháy ngùn ngụt, cắt đứt tường thành phía nam với tất cả các thông đạo, khiến Đường quân khi vào thành không thể truy kích.

Lúc này Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn đang ở giữa trung tâm chiến trường thây chất đầy đồng, máu chảy thành sông, cuối cùng cũng đã hội quân, địch nhân thối lui về phía Tây như nước triều rút xuống, con đường đột vây đã vô cùng thông thoáng. Nhưng Khấu, Bạt biết rõ con đường phía trước vẫn còn nhiều gian nan, địch nhân lui mà không loạn, hơn nữa đại quân chủ lực của Lý Thế Dân vẫn chưa hiện thân, đó mới là uy hiếp trí mạng với quân đột vây.

Chiến tranh diễn ra hùng tráng, quân đột vây trước tiên phá hủy ba chiếc cầu phao bắc qua Y Thủy, vừa đánh vừa lui, liên quân Lý Nguyên Cát và Khuất Đột Thông sau khi hội quân, tập hợp thành năm vạn gồm bộ binh và kỵ binh, đuổi theo ráo riết.

Quân đột vây lui đến trận địa trên ngọn núi gần lối ra phía Nam của địa đạo, lập tức toàn quân phản kích, cộng thêm toán quân dồi dào sinh lực của Từ Tử Lăng, cuối cùng ổn định trận thế, bức đại quân Lý Nguyên Cát phải thối lui.

Từ lúc mở cửa thành xuất kích đột vây, đến lúc này, hai bên đều có thương vong, quân đột vây một vạn tám ngàn người giảm xuống còn một vạn rưỡi, gần ba ngàn người chết trận, còn mất thêm ba tướng Vương Long, Tiết Đức Âm và Sướng Giang. Quân Đường tử thương hơn sáu ngàn, tình hình chiến trường hết sức thảm liệt.

Vương Huyền Thứ vận chuyển thành công hàng loạt chiến mã đến trận địa trên núi, đương nhiên bao gồm cả Vạn Lý Ban của Từ Tử Lăng và Tháp Khắc Lạp Mã Can của Bạt Phong Hàn. Hành động này là bộ phận trọng yếu trong đại kế đào vong, tất cả nhất định phải chuyển thành kỵ binh, mới có thể dùng phương pháp cơ động và thần tốc nhất để tránh né được quân địch cản trở, đào thoát khỏi thế lực phạm vi của địch nhân.

Dưới ánh nắng sớm hắt lên từ chân trời phía đông, Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Bạt Phong Hàn và Dương Công Khanh đứng tại cao điểm ở trận địa trên núi, quan sát tình thế đại quân của Lý Nguyên Cát.

Khắp người bọn họ đều đầy máu, cũng không phân biệt được là máu của địch nhân hay là máu của bọn họ.

Tuy đột vây thành công đến đây, thế nhưng bốn người không ai không thấy trầm trọng, có cảm giác nguy cơ phủ giăng bốn phía. Cho đến lúc này, bọn họ vẫn không biết được đại quân Lý Thế Dân đang ở đâu.

Trải qua hai canh giờ kịch chiến, quân đột vây đều đã mệt mỏi, khó mà duy trì khí thế như mãnh hổ giống vừa rồi để tiếp tục ứng phó được với một trường kịch chiến khác.

Lạc Dương thành đã bị địch chiếm, cờ xí Đại Đường phất phới trên đầu thành như muốn diệu võ dương oai với bọn họ. May mắn là cao trại đã bị cháy thành tro bụi, cũng cho bọn họ có cảm giác thu được chút thành tựu chiến thắng.

Tuy biết sách lược của Lý Thế Dân là trước hết làm giảm nhuệ khí của bọn họ, đợi cho mệt mỏi thì truy kích tiêu diệt, thế nhưng bọn họ không còn lựa chọn nào khác, hiện tại đã hãm thân vào bẫy, chỉ biết chờ vận mệnh truy sát.

Lúc này Ma Thường đến báo, tất cả đã chuẩn bị ổn thỏa, lúc nào cũng có thể lên đường chạy trốn.

Bạt Phong Hàn trầm giọng hỏi: “Phương Nam có động tĩnh gì không?”

Ma Thường lắc đầu: “Tất cả như thường, chủ lực đại quân của Lý Thế Dân không thể mai phục con đường phía trước được, chỉ cần ngựa của bọn ta chạy đủ nhanh, có thể thoát khỏi trước khi Đường quân phong tỏa Thọ An và Y Khuyết đầu nguồn Y, Lạc.”

Bọn họ có thiết lập đồn canh trên gò cao phía nam, bất kể nơi đó gió khua cỏ động ra sao đều không thoát khỏi tai mắt bọn họ.

Dương Công Khanh than: “Đây chính là sách lược của Lý Thế Dân, nhìn ra được bọn ta chạy về phía nam, sau khi đột vây nhất định phải ngày đêm kiêm trình xuyên qua quan khẩu giữa Thọ An và Y Khuyết, còn hắn thì từ thủy đạo bất cứ lúc nào cũng có thể ngăn cản, mặt khác, Lý Nguyên Cát và Khuất Đột Thông phong tỏa con đường sau lưng bọn ta, khiến bọn ta bị khốn giữa hai dòng Y, Lạc.”

Khấu Trọng nhìn về xa xa bên trái dòng Lạc Thủy, kiên quyết nói: “Cuộc chiến đột vây chính là so sánh tốc độ của hai bên, ai hành động nhanh người đó thành công. Chúng ta lập tức lên đường, men theo bờ tây Y Thủy mà xuôi nam, bọn ta phụ trách đoạn hậu.”

Ma Thường lĩnh mệnh đi liền.

Từ Tử Lăng hờ hững nói: “Lý Thế Dân đang ở trong thành.”

Mọi người đều ngạc nhiên.

Dương Công Khanh kinh sợ hỏi: “Tử Lăng vì sao có suy nghĩ này?”

Từ Tử Lăng nói: “Cho dù Lý Thế Dân đoán được bọn ta có thể chạy về phía nam, nhưng cũng chỉ là phỏng đoán. Với tác phong luôn chắc chắn của hắn, chiến lược tốt nhất là lấy bất biến ứng vạn biến, sau khi nắm được lộ tuyến đào tẩu của bọn ta, tại thành nội tập hợp đội thủy sư thuyền, đợi trời sáng sẽ chia thủy quân làm hai, xuôi dòng Y Thủy và Lạc Thủy đuổi theo. Lúc đó thế chủ động hoàn toàn nằm trong tay hắn, còn bọn ta phải ứng phó với Đường quân tại Thọ An và Y Khuyết, trước có cản trở sau không đường lui, chỉ còn cách chờ bị bắt.”

Bạt Phong Hàn gật đầu đồng ý: “Lời Tử Lăng rất có lý!”

Từ Tử Lăng nói tiếp: “Đợi sau khi tháo dỡ chướng ngại vật trên hai con sông, đó là thời khắc đội thủy sư của Lý Thế Dân hành động.”

Lời vừa mới dứt, trên Lạc Thủy phía Tây Nam Lạc Dương xuất hiện bóng buồm mờ mịt, đội thủy sư thuyền của Lý Thế Dân cuối cùng đã hiện thân.

Khấu Trọng từ sâu trong lòng cảm thấy lựa chọn chạy theo bờ tây Y Thủy là tuyệt đối chính xác. Gã hét lớn: “Hảo tiểu tử! Xem thử ngựa bọn ta hay thuyền các ngươi nhanh, bọn ta đi!”

Bốn người Khấu Trọng cùng hơn bốn trăm Phi Vân vệ đoạn hậu, toàn thể nhảy lên mình ngựa, đuổi theo đội ngũ đang tiến về phương Nam.

Trống trận bên địch vang vang, toàn thể kỵ binh xuất động, vượt quá hai vạn người, lại không có cố kỵ gì, dưới sự chỉ huy của Lý Nguyên Cát đuổi theo xuống, không cho bọn họ bất cứ cơ hội nghỉ ngơi nào.

Lý Thế Dân bố trí chiến lược siêu việt, mở ra thiên la địa võng, muốn quét sạch quân đột vây. Đến lúc này quân đột vây đã mất hết ưu thế và sự chủ động, chẳng khác gì chuột đang bị mèo vờn.

Trong tình thế ác liệt này, đấu chí phản kích của Khấu Trọng dâng lên mạnh mẽ, cho dù kết cuộc quân đột vây bị tiêu diệt hoàn toàn, cũng phải bắt Lý Thế Dân chịu thiệt hại trầm trọng nhất.

- o O o -

Hồi 661

Sanh Tử Chi Giản

  Dưới ánh dương quang giữa trưa, hơn mười người Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Bạt Phong Hàn, Ma Thường, Trần Lão Mưu, Vương Huyền Thứ, Bạt Dã Cương, Đơn Hùng Tín, Quách Thiện Tài, Hình Nguyên Chân, Đoàn Đạt đứng trong một vùng cây cỏ rậm rạp trên mỏm núi, quan sát hai vạn kỵ binh của Lý Nguyên Cát đang án binh bất động phía xa, ba ngọn khói bốc lên nghi ngút báo hiệu cho Đường quân đang truy theo ở xa biết vị trí quân đột vây.

Năm chiếc thuyền chở vật dụng tiếp tế từ Y Thủy đến, vận chuyển lương thực cho quân Lý Nguyên Cát.

Mọi người chưa hồi phục được tâm tình hưng phấn và hình tượng uy mãnh lúc phá vây mà chạy. Để giảm nhẹ tải trọng cho chiến mã, các vật dụng nặng như khôi giáp, quân nhu đều vứt bỏ. Hơn nữa lúc này trên thân mình ai nấy ít nhiều đều bị thương, mặt mày trắng nhợt vì mất máu máu và bôn ba cực nhọc, cảnh tượng như đến bước đường cùng.

Khấu Trọng hai mắt lấp lánh chăm chú quan sát trận địch, nói với giọng rin rít: “Lý Nguyên Cát từ lúc nào biến thành tinh minh như thế, ta dừng hắn cũng dừng, bám sát bọn ta không mất dấu, lại không chịu giao chiến.”

Bạt Phong Hàn trầm giọng: “Chúng ta nên men theo Lạc Thủy mà chạy, thay vì Y Thủy, chí ít cũng có thể biết được truy binh của Lý Thế Dân đang ở đâu.”

Ai nấy đều im lặng không nói, địch nhân sách lược cao minh, ép bọn họ không trụ được phải đào vong, binh mỏi ngựa mệt, đến lúc thời cơ thỏa đáng mới phát động công kích, một đòn triệt để tiêu diệt.

Thần sắc Từ Tử Lăng ngưng trọng: “Bọn ta phải tìm cách thoát khỏi truy binh của Lý Nguyên Cát, mới có hy vọng xông qua cửa ải Lý Thế Dân.”

Khấu Trọng quan sát hình thế gần xa, vùng đồng bằng đầu nguồn Y Lạc đến đây là kết thúc, địa thế bắt đầu có biến hóa, hướng chính nam núi non nhấp nhô liên miên, phía đông vươn đến Y Hà, phía tây tiếp giáp với những khu rừng nguyên thủy cổ thụ ngất trời, nếu đi về hướng tây bằng khoái mã, mất trong hai canh giờ có thể đến được bờ đông Lạc Thủy.

Một nhánh sông nhỏ thong dong chảy uốn lượn từ núi ra, nhập vào Y Thủy. Binh sĩ của gã đã mệt nhoài, nghỉ ngơi ăn uống ở hai bờ nhánh sông nhỏ này, chiến mã gặm cỏ uống nước.

Gã ngước nhìn trời, hỏi: “Sư phụ! Hướng gió có thể thay đổi không?”

Ngoại trừ Bạt Phong Hàn và Từ Tử Lăng, những người khác nghe thấy đều mơ mơ hồ hồ, không biết gã nói thế là có ý gì.

Bạt Phong Hàn tỉ mỉ quan sát sắc trời, đáp: “Nếu vi sư đoán không sai, hướng gió tối nay vẫn là tây bắc, chỉ cần bọn ta phóng hỏa đốt khu rừng phía đông bắc, gió tây bắc sẽ mang theo khói đến ngăn cản truy binh.”

Bọn Dương Công Khanh nghe vậy tinh thần đại chấn.

Ma Thường nhíu mày nói: “Chúng thuộc hạ đi tới Y Lạc, luôn đi theo đường rừng phía tây, còn đường trong núi thì chưa từng thử qua.”

Vương Huyền Thứ xen vào: “Trong núi có đường đi.”

Mọi người đều ngạc nhiên, lời này nếu được nói ra từ miệng bất kỳ thuộc hạ nào của Vương Thế Sung thì tuyệt không có ai thấy kỳ quái, nhưng Vương Huyền Thứ luôn luôn sống trong nhung lụa giàu sang, làm sao lại biết được tình thế trong núi.

Thần sắc Vương Huyền Thứ ảm đạm, hiển nhiên nhớ đến phụ thân và huynh trưởng, cúi đầu: “Phụ hoàng..... ôi! Ông ấy nhiều lần sai tiểu đệ thám sát tình thế dải núi phía nam Lạc Dương, vì thế tiểu đệ từng nhiều lần qua lại, phía nam núi có một lối ra, dẫn đến khu rừng ở phía tây bắc Y Khuyết.”

Mọi người liền hiểu ra, Vương Thế Sung luôn tham sống sợ chết, sai con thám sát tình thế, vốn là dự định đường chạy trốn về sau.

Khấu Trọng phân phó: “Vậy do Huyền Thứ dẫn đường, hiện tại bọn ta trước hết cử người đến phóng hỏa khu rừng phía tây bắc, tối nay bọn ta phải cắt đuôi Lý Nguyên Cát rồi tẩu thoát.”

Đơn Hùng Tín lo lắng nói: “Chúng ta tuy có thể tạm ngăn cản Lý Nguyên Cát đuổi theo, nhưng khi đã tiến vào núi thì không còn đường lui, chỉ cần Lý Nguyên Cát thông báo cho Lý Thế Dân, Lý tiểu tử hội quân với hai cánh quân ở Thọ An và Y Khuyết, giữ lấy lối ra ở đầu phía nam, chắc chắn bọn ta bị khốn trong núi, kết cục khó tránh khỏi toàn quân bị tiêu diệt sao.”

Khấu Trọng mỉm cười: “Nếu không phải Huyền Thứ thông hiểu tình thế trong núi, ai dám chọn đường vào núi?”

Bạt Dã Cương đồng ý: “Theo lẽ thường thì chọn quan đạo trong rừng chứ không chọn đường núi vì vừa nhanh lại thuận tiện.”

Khấu Trọng giống như đã tính sẵn trong lòng, ung dung nói: “Đây chính là đạo lý dụng binh phải thần kỳ, Lý Nguyên Cát vốn đoán bọn ta không dám vào núi mới án binh bất động để cho bọn ta chọn quan đạo trong rừng mà chạy về phương Nam. Trong lúc đó Lý Thế Dân âm thầm đến trước, bố trí sẵn công sự phòng ngự, đợi bọn ta đến thì đánh phủ đầu. Bọn ta chọn đường núi tất khiến hắn rối loạn trận thế, từ đó lợi dụng cơ hội thoát thân.”

Bạt Phong Hàn hờ hững nói: “Đây gọi là đặt mình vào chỗ hiểm mà cầu thắng.”

Dương Công Khanh than: “Ba lối ra, Lý Thế Dân chỉ có thể canh giữ hai, bọn ta nếu như thoát ra trước khi Lý Thế Dân ngăn cản thì đương nhiên không thành vấn đề, bằng không cũng không nên lựa chọn lối ra mà Lý Thế Dân tự thân trấn giữ.”

Mọi người đều minh bạch vì sao ông than thở, việc này không cách nào ước đoán được.

Vương Huyền Thứ nói: “Lối ra gần Y Thủy vô cùng bí mật, địch nhân vị tất đã biết.”

Khấu Trọng thấp giọng hỏi: “Mất một tối có thể qua núi không?”

Vương Huyền Thứ đáp: “Nếu đi liên tục không nghỉ thì chỉ mất nửa ngày, nhưng như vậy e rằng nhân mã không thể chịu nổi.”

Khấu Trọng lại nhìn lên trời cao, hai mắt lộ ra thần sắc suy tư: “Mục tiêu sau khi rời núi của bọn ta tối này chính là ngày mai phải xoay chuyển tình thế thành ta tối địch sáng, lúc này liệp ưng đang lượn trên trời cho thấy Lý Thế Dân cách bọn ta không xa!”

o0o

Hoàng hôn buông xuống, rừng núi phía tây bắc đột nhiên bốc cháy, thế lửa nhanh chóng lan ra hết sức mãnh liệt, cuồn cuộn cháy về phía đông nam, khói lửa mù mịt đã chặn đứt đường truy đuổi của Lý Nguyên Cát.

Vi diệu nhất là quân đột vây tập trung tại một con đường mòn ở chân núi, lợi dụng khói lửa che mắt địch nhân, bắt đầu thần tốc tiến vào núi, nhất thời Lý Nguyên Cát khó mà biết được bọn họ giữ vùng núi hay triệt thoái theo quan đạo trong rừng.

Dưới sự hướng dẫn của Vương Huyền Thứ, toàn thể tướng sĩ thúc ngựa lao nhanh, trèo đèo lội suối, xuyên rừng vượt khe giữa rừng núi trùng điệp, đến khi trời sáng thì mệt mỏi rã rời, ẩn vào trong một hẻm núi bí mật mà nghỉ ngơi, tranh thủ chợp mắt một chút.

Lúc này đoàn quân đã tiến sâu vào núi bốn mươi dặm, chỉ cách lối ra bí mật ở phía nam hơn mười dặm.

Với Khấu Trọng, Từ Tử Lăng và Bạt Phong Hàn, hành trình gian khổ kiểu này hết sức bình thường, đả tọa nửa thời thần đã hồi phục như cũ. Ba gã mang theo liệp ưng Vô Danh, leo lên đỉnh núi cao nhất cạnh đó, quan sát tình thế chung quanh, chỉ thấy thế núi chập chùng, đồi gò liên miên chạy dài, rừng mênh mông ôm lấy núi, thỉnh thoảng lại bắt gặp những dòng thác trắng xóa, đáng tiếc tâm tình ba gã đều đang trầm trọng, không có lòng thưởng ngoạn phong cảnh.

Khấu Trọng vuốt ve bộ lông Vô Danh, vỗ về đôi cánh của nó, nói: “Hà! Dường như đã cắt đuôi được Lý Nguyên Cát!”

Bạt Phong Hàn nói: “Lý Nguyên Cát không phải loại ngu đần, chắc chắn không mạo hiểm tiến vào núi. Qua tiếng vó ngựa, hắn ắt khẳng định bọn ta đã chạy vào núi, một mặt sẽ canh giữ đầu ra phía bắc, một mặt truyền tin này đến Lý Thế Dân theo phương pháp nhanh nhất, để Lý tiểu tử phong tỏa tất cả lối ra ở phía nam núi.”

Khấu Trọng nhìn bầu trời rộng lớn, nói nhanh: “Ta muốn cho Vô Danh bay vài vòng bên trên, chắc không có rắc rối gì chứ?”

Bạt Phong Hàn vỗ lên Xạ Nguyệt cung bên mình, giọng kiêu hãnh: “Có Xạ Nguyệt cung bảo hộ, ai có thể gây hại cho nó.”

Khấu Trọng cười sảng khoái: “Huynh đã có lòng tin như vậy, tiểu đệ khẩu phục tâm phục.”

Nói rồi mở dây buộc, Vô Danh rít lên một tiếng, bay vọt lên trời, vô cùng thống khoái.

Bạt Phong Hàn thấy Từ Tử Lăng ngưng thần trầm tư, khẽ cười: “Tử Lăng có thể đoán được, ta liên tưởng Lý Thế Dân với thứ gì không?”

Khấu Trọng giành đoán trước: “Phải chăng là so hắn với sói?”

Bạt Phong Hàn sững người: “Ngươi phải chăng biết thuật thông linh, có thể nhìn thấu bí mật trong lòng ta, đoán là trúng liền.”

Hai mắt Khấu Trọng lóng lánh ánh sáng khiếp người, trầm giọng: “Đây gọi là anh hùng có cách nhìn giống nhau. Trước tiên ta nhớ đến lão Bạt huynh sùng bái sói, mà Lý Thế Dân chính là một con sói, hơn nữa có thể là lang vương, hắn đang rình rập chờ cơ hội cắn xé con mồi trong một cú đớp. Đàn trâu tuy biết trước rằng đàn sói đã bố trí xung quanh để đe dọa, khiến chúng cạn kiệt sức lực, nhưng vẫn không tài nào chạy thoát, chỉ còn cách đợi chờ bị xé xác.”

Bạt Phong Hàn gật đầu: “Lý Thế Dân đích xác đang vận dụng chiến thuật của sói, so với người Đột Quyết bọn ta còn xuất thần nhập hóa hơn. Chúng ta chính là đàn trâu chờ đợi bị xé xác còn hắn là lang vương đang dẫn đầu một bầy ác lang, đợi bầy trâu sức cùng lực kiệt sẽ phân tán bầy trâu, chờ có trâu lạc đàn, lập tức xúm lại xé xác! Trâu tuy mạnh không kém sói, thế nhưng trong tình huống bị cách ly bầy đàn, tuyệt không còn cơ hội thoát thân.”

Khấu Trọng cười khổ: “Chỉ hận là bọn ta biết rõ như thế, nhưng vẫn phải làm con trâu chờ đợi bị giết mổ mà không có cách nào xoay xở.”

Bạt Phong Hàn nói: “Phương pháp thắng được sói dữ đó chính là tuyệt đối nhẫn nại, chuyên chú, tinh thần phải kiên định. Mỗi thời khắc trước mắt đều hết sức trọng đại, quan hệ đến sinh tử, không thể bỏ qua bất kỳ cơ hội nào. Chúng ta muốn nhìn thấy Trường Giang, nhất định phải hiểu kỹ lưỡng phương pháp đối phó với sói dữ.”

Khấu Trọng suy nghĩ một lát rồi nói với Từ Tử Lăng: “Lăng thiếu gia nghĩ thế nào?”

Gã tuyệt đối không đợi đáp án chân chính mà chỉ là muốn Từ Tử Lăng đưa ra cao kiến.

Không ngờ Từ Tử Lăng nói huỵch toẹt: “Ta đang nghĩ, nếu chỉ cho phép ta được gặp một trong hai người Sư Phi Huyên và Thạch Thanh Tuyền, ta sẽ chọn ai?”

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn quay nhìn nhau, không dám tin vào tai mình. Từ Tử Lăng lại trong lúc này thản nhiên nói ra bí mật trong lòng, hơn nữa lại là vấn đề riêng tư như thế.

Từ Tử Lăng hờ hững: “May là ta không bao giờ phải lựa chọn như thế trong thực tế, bằng không ta có lẽ lựa chọn cách không gặp cả hai.”

Khấu Trọng hít sâu một hơi khí lạnh: “Nghe lời Tử Lăng, ẩn ước có mùi vị sinh ly tử biệt, phải chăng thấy được cuộc chiến đột vây của bọn ta sẽ thất bại?”

Từ Tử Lăng than: “Ngươi còn biết rõ hơn ta, chỉ cần Khang Sao Lợi thả liệp ưng, nắm được bọn ta rời núi từ nơi nào, trừ phi ba người bọn ta bỏ rơi những người khác để chạy trốn, bằng không chết chắc.”

Khấu Trọng cười khổ: “Đây thật là sự thật tàn khốc, lão Bạt thấy thế nào?”

Ánh mắt Bạt Phong Hàn nhìn theo Vô Danh càng bay càng cao, chậm rãi đáp: “Chưa khi nào mà ta cảm thấy cái chết đến gần như vậy mà không thể chạy thoát, cho dù đối diện Tất Huyền cũng không có cảm giác này. Nói thật lòng, ta đang hưởng thụ cảm giác và áp lực phi thường này. Thiếu soái! Gọi Vô Danh xuống đi, nó đã bay khỏi phạm vi bảo hộ từ Xạ Nguyệt cung của ta rồi.”

Khấu Trọng khẽ cười: “Chúng ta đã quyết tử thì phải chết cho xứng đáng.”

Tiếp đó gã huýt gió triệu hồi Vô Danh.

Đột nhiên có âm thanh xé gió, phía sau một đỉnh núi phía tây nam có sáu chấm đen lao lên, thần tốc bay đến, hiển nhiên là sáu con ác thứu do Đường quân nuôi dưỡng nhằm đối phó Vô Danh.

Ba gã phản ứng như chớp, giương Thích Nhật, Xạ Nguyệt, Thác Mộc lên, lắp tên vào dây cung.

Vô Danh bằng vào bản năng đã cảm nhận được nguy hiểm, nhanh nhẹn chao mình xuống chỗ ba gã đứng, khoảng cách từ trăm trượng thoáng chốc được rút ngắn gần năm mươi trượng.

Lúc này sáu con ác thứu hùng hổ lao vào Vô Danh, chỉ còn cách hơn hai mươi trượng, bèn gia tăng tốc độ nhanh như tên bắn.

Tiếng bật cung vang lên, ba mũi kình tiễn xé gió, vượt qua Vô Danh đang tiếp tục hạ xuống, bắn đến đám ác thứu bên trên.

Tiếng ác thứu rít lên, ba con đồng thời trúng tiễn thân vong, rơi xuống vực thẳm trong núi, ba con còn lại hoảng sợ bay tán loạn, nhân lúc ba gã chưa kịp phát tiễn lần thứ hai cắm đầu bay thục mạng, chớp mắt đã khuất bóng vào núi non.

Vô Danh hạ xuống đậu trên đầu vai Khấu Trọng.

Gã thu hồi Thích Nhật cung, giọng vẫn còn kinh hãi: “Việc này là thế nào?”

Từ Tử Lăng đáp: “Lý Thế Dân đang ở gần đây.”

Bạt Phong Hàn lắc đầu: “Bọn Lý Thế Dân đang ở ngoài núi, đây chỉ là việc bất ngờ. Loại ác thứu này xuất xứ từ đại thảo nguyên, tính tình hung mãnh hiếu động, người nuôi dưỡng mỗi ngày nhất định phải thả chúng tự đi tìm mồi nhằm bảo trì hung tính. Chúng không nhận lệnh công kích Vô Danh, chỉ vì liệp ưng là mục tiêu mà chúng đã được huấn luyện, vì thế thấy Vô Danh liền tự động tấn công.

Khấu Trọng vỗ nhẹ Vô Danh, thở ra một hơi: “Đây gọi là vô tình mà có kết quả, nếu có thể giết luôn ba con còn lại thì thật là quá tốt.”

Bạt Phong Hàn nói: “Thế sự đâu thể như ý muốn, sáu con ngốc thứu chỉ còn ba con quay về, địch nhân sẽ phản ứng thế nào?”

Khấu Trọng đáp: “Đương nhiên biết là đã gặp phải bọn ta. Theo lý mà nói, Khang Sao Lợi sẽ thả liệp ưng, tìm xem vị trí của bọn ta, liệp ưng có thể bay ở độ cao vượt khỏi tầm tên mà trinh sát địch nhân, hắn không thể bỏ qua cơ hội tốt thế này.”

Bạt Phong Hàn nói: “Đây có lẽ là cơ hội duy nhất để trừ khử liệp ưng đối phương trước khi bọn ta rời núi, còn không mau thi triển thủ đoạn.”

Khấu Trọng lấy cái lọ nhỏ đựng độc được mà Trần Lão Mưu đưa cho gã, bôi độc dược lên đôi trảo của Vô Danh. Sau khi hoàn thành Khấu Trọng vui vẻ mặc giáp cho Vô Danh, nói: “Bảo bối ngoan! Hôm nay ngươi đã thăng lên một cấp, từ liệp ưng biến thành độc ưng, bắt ngươi tương tàn cùng đồng loại chỉ vì không còn cách khác, chiến tranh là phải có chết chóc, kẻ nào đủ ác độc mới được tồn tại.”

Bạt Phong Hàn cười khanh khách: “Đúng là nói nhảm.”

Tâm tình ba gã đều khẩn trương, ánh mắt sục sạo bầu trời phía tây nam.

Khấu Trọng khẽ rúng động: “Mẹ nó chứ! Quả nhiên lão Bạt đoán đúng.”

Trên nền trời xanh mây trắng, có thể thấy một điểm đen xuất hiện, từ trên dãy núi bay đến, từ từ tiếp cận.

Vô Danh lộ vẻ chú ý, cặp mắt sáng như thiểm điện quan sát đồng loại trên trời cao.

Bạt Phong Hàn nói: “Bản tính liệp ưng vốn hiếu chiến, cực kỳ tàn nhẫn, có thể công kích cả đồng loại. Thông thường, tránh cho lưỡng bại câu thương, chỉ còn cách trừ bỏ bản tính đó. Đi nào!”

Khấu Trọng sớm đã sốt ruột, phát lệnh tấn công, Vô Danh tung cánh bay cao, vọt đến con ưng đối địch ở trên đầu ba gã.

Sự việc liên quan đến tồn vong của toàn quân, ba gã thu nhiếp tâm thần, nín thở ngẩng đầu quan sát.

Con ưng bên địch phát giác nguy hiểm đến gần, nhận ra bản thân là kẻ xâm phạm, cấp tốc chao mình đổi hướng bay về phía tây nam. Vô Danh không biết có phải vì bị trói buộc quá lâu hay không mà nổi giận bừng bừng, tốc độ như gió truy theo ưng địch, hai trảo giương lên phá không chụp xuống lưng địch.

Lông vũ tung bay, ưng địch rít lên đau đớn, hạ nhanh xuống ba mươi trượng, mới dang cánh bay tiếp, Vô Danh không thừa thế truy kích mà lượn vòng như diệu võ dương oai ở trên không trung.

Ánh mắt Bạt Phong Hàn nhìn theo ưng địch bay đi chưa xa, trầm giọng hô: “Rớt! Rớt! Rớt!”

Ưng địch vẫn tiếp tục bay, biến thành một chấm đen.

Từ Tử Lăng gượng nói: “Thành công rồi!”

Khấu Trọng ảo não: “Không phải là kiến huyết phong hầu sao? Chẳng lẽ trảo đó không làm rách da thịt?”

Tư thái bay của ưng địch rất lạ, đúng như hy vọng của ba gã, rơi xuống hơn mười trượng, lại tiếp tục bay thêm một chút mới chịu rơi xuống, ai cũng thấy được ưng địch quả đã độc phát thân vong.

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn đồng thanh hoan hô, nhảy nhót không ngừng.

Từ Tử Lăng than: “Hiện tại vẫn là cửu tử nhất sinh nhưng so với trước thì đã có khá hơn nhiều, bọn ta hiện tại rốt cuộc đã có cơ hội đột vây thành công.”

Khấu Trọng lắc đầu: “Không... bọn ta nhất định có thể đột vây đào tẩu, bởi ông trời vẫn còn đứng về phía bọn ta.”

Chân trời phía tây đầy mây, vầng trăng hạ huyền như lưỡi liềm lơ lửng trên không, lẫn trong mây là hai vì sao sớm lờ mờ, báo hiệu đêm tàn ngày đến, quân đột vây rời khỏi núi, lẳng lặng lần theo lối ra ẩn mật, chăm chú tiến đến khu rừng phía tây bắc Y Khuyết.

Khấu Trọng mạo hiểm thả Vô Danh trinh sát tình thế xa gần, khẳng định không có địch nhân mai phục gần đó, tức thì hạ lệnh bắt đầu cuộc lữ trình gian khổ bốn bề đầy rẫy nguy cơ.

Gã chia quân đột vây thành năm đội, tự mình lãnh hai ngàn quân tiên phong đi trước, được Từ Tử Lăng và Bạt Phong Hàn trợ giúp, nhận trọng trách mở đường đột vây.

Dương Công Khanh, Ma Thường, Vương Huyền Thứ lãnh hai ngàn quân đi giữa, nắm giữ toàn cục.

Hai ngàn quân áp hậu do Bạt Dã Cương chỉ huy, Hình Nguyên Chân làm phó.

Hai cánh quân tả hữu, mỗi cánh một ngàn năm trăm người, do Đơn Hùng Tín và Quách Thiện Tài làm chủ tướng.

Mục tiêu của bọn họ là phải xuyên qua khu vực rừng núi giữa Thọ An và Y Khuyết, chạy thẳng xuống phương Nam.

Vô Danh quay lại đậu trên vai Khấu Trọng, gã vừa nghiên cứu kế sách băng rừng vượt đồng, vừa nói: “Lý tiểu tử không như Lý Nguyên Cát, bọn ta nhất định phải chú ý ứng phó.”

Bạt Phong Hàn và Từ Tử Lăng im lặng không nói, cũng không trả lời.

Cây cối thưa dần, quân tiên phong đã đến bìa rừng, vùng đất bên ngoài rộng lớn u ám, trong lòng người nào cũng thấy trầm trọng.

Khấu Trọng không nhịn được hỏi Từ Tử Lăng: “Lăng thiếu gia có cảm giác bất thường không?”

Từ Tử Lăng ghìm ngựa lại, trầm giọng: “Địch nhân đang ở bên ngoài!”

Ánh mắt Bạt Phong Hàn lấp lánh thần quang: “Chúng ta không có đường lui, chỉ có xông ra phía trước, lấy nhanh khắc chậm. “

Khấu Trọng gật đầu: “Phải như vậy thôi!”

Đột nhiên hét vang kinh động lòng người: “Các huynh đệ! Theo ta xông ra!”

Gã thúc ngựa tiến ra trước, Từ Tử Lăng, Bạt Phong Hàn nhanh theo sau, dẫn theo một ngàn kỵ binh, giống như một con rồng giận dữ hất văng tất cả vật cản, tiến vào vùng đồng bằng mênh mông u ám.

Bốn đội quân còn lại tiếp tục ra khỏi rừng, vó ngựa chấn động mặt đất, gần vạn kỵ binh điên cuồng tung vó trên thảo nguyên.

Mặt đất vang rền tiếng xung phong, hai mé tả hữu ở phía trước lập lòe ánh đuốc, ẩn ước thấy Đường quân dày đặc, thanh thế kinh người, phong bế hoàn toàn lối thoát, đang đợi bọn họ.

- o O o -

Hồi 662

Huyết Nhiễm Chiến Bào

Trước lúc bọn Khấu Trọng đưa quân rời khỏi khu rừng thì đã suy tính trước mọi khả năng. Ví như thấy khói lửa cảnh cáo của Đường quân cuồn cuộn tứ bề, quân đội đồn trú tại các yếu điểm chiến lược phía ngoài núi từ bốn phương tám hướng xông đến chặn đường, sẽ dùng chiến thuật tập trung đối lại phân tán, lấy chóng vánh đối lại chậm rãi, nhanh chóng vượt qua thảo nguyên, chạy về phương Nam...

Nhưng không ngờ đến tình huống hiện giờ, địch nhân lại nắm được con đường đột vây của bọn gã, dàn trận nghiêm chỉnh nghênh đón sẵn. Cho đến lúc này, bọn gã vẫn không tài nào đoán được sau khi mất liệp ưng thì Lý Thế Dân làm thế nào nắm được đường đi nước bước của mình.

Binh lực của đội kỵ binh tiên phong phải trên một vạn người, viên đại tướng cầm đầu quát vang: “Bản nhân là Vương Quân Khuếch! Khấu Trọng ngươi đã cùng đường rồi, còn chưa buông khí giới đầu hàng?”

Khấu Trọng đã sớm giương cung lắp tên, ha hả cười vang: “Vương đại tướng quân không sợ nói thế quá vội vàng ư!”

“Phựt”, tiếng tên rời cung vang lên, mũi tên nhắm thẳng vào Vương Quân Khuếch cách đó ngoài ngàn bộ bắn tới.

Vương Quân Khuếch không hề kinh hoảng, tả thủ giơ thuẫn bài lên hộ thân, hữu thủ vung trường mâu gạt ngang nhanh như chớp, đón đúng đầu mũi tên. “Choang”, thân hình hắn rung động, rốt cuộc cũng gạt được mũi tên bắn đi, hiển lộ công lực thâm hậu cùng mâu thuật tinh thâm.

Hơn mười cao thủ hộ vệ hai bên hắn lập tức giục ngựa xông lên, chắn trước mặt hắn. Trận thế chưa lập xong thì hai hộ vệ đã bị tên của Bạt Phong Hàn và Từ Tử Lăng từ xa bắn tới xuyên thấu lồng ngực, phun máu ngã xuống.

Vương Quân Khuếch liền hạ lệnh cho quân tiên phong Đại Đường giảm tốc độ, giương thuẫn lên che chắn, hai cánh kỵ binh gia tăng tốc lực tạo thành hai gọng kìm từ hai bên kẹp thốc vào, dàn trận theo đúng phép kỵ chiến để nghi binh quân địch, linh hoạt như thần.

Khấu Trọng thấy tình thế bất ổn, thầm tính nếu giao chiến dằng dai với Vương Quân Khuếch, đến lúc Đường quân tăng viện đến nơi thì còn tệ hơn. Gã bèn hạ mệnh lệnh, hai cánh quân của Đơn Hùng Tín và Quách Thiện Tài lập tức xông tới, đón đánh kỵ binh địch đang áp sát. Còn gã cùng Bạt Phong Hàn, Từ Tử Lăng giữ vững thế trận hình vòng cung, theo dáng của thanh Tỉnh Trung Nguyệt với khí thế càn quét của hai ngàn kỵ binh tiên phong, xông thẳng vào trận thế của Vương Quân Khuếch.

Tên bay đầy trời, trước lúc đoàn binh song phương trực tiếp giao tranh đều dùng cung tên công kích từ xa, liên tục có người trúng tên ngã xuống, nuốt hận sa trường.

Vó ngựa cuốn tung bụi xám vào trời đêm, tiếng vó nện dồn dập chấn động cả thiên địa, song phương chiến đấu đến hồi thảm liệt, tựa như một trường đồ sát trong cõi nhân gian, như Tu la địa ngục đang khủng bố.

Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Bạt Phong Hàn dẫn đầu sĩ tốt, che chắn hầu hết tên đạn cho thủ hạ. Tỉnh Trung Nguyệt của Khấu Trọng, Thâu Thiên kiếm của Bạt Phong Hàn, trường mâu của Từ Tử Lăng, hoặc chém hoặc quét, hoặc gạt hoặc đâm, đánh văng mọi mũi tên như vũ bão của kỵ binh địch, tiến sát vào trận thế của địch.

Tiếng hô “giết” vang động trời xanh, ba gã phải đối diện với địch nhân từ ba phía đang cuồng sát như hổ lang, bất chấp tất cả hè nhau lao tới chém giết.

Cho dù là người thiên tính yêu hòa bình, không muốn sát sinh như Từ Tử Lăng, dưới tình hình quyết liệt như thế cũng hết cách chọn lựa, quán chú chân khí vào trường mâu, bảo vệ mé hữu Khấu Trọng. Trường mâu giống như độc xà gặp phải kẻ địch. Cứ thấy người là giết.

Thâu Thiên kiếm của Bạt Phong Hàn bảo vệ bên tả lại càng ác độc hơn, khiến Khấu Trọng hoàn toàn yên tâm về hai bên sườn, chuyên chú lo cho tiền phương, mỗi bận luồng sáng vàng của Tỉnh Trung Nguyệt lóe lên là có người ngã xuống.

Vô Danh đang đậu trên vai gã giật mình bay vút lên. Trong cơn ác chiến máu thịt tơi bời, gã cũng không để ý.

Bọn gã không hề biết gì về cách bố trận của quân địch, chỉ hiểu rằng phải toàn lực phá địch để đột vây, nhanh chóng xuôi xuống phía nam.

Vương Quân Khuếch không giao phong trực diện mà tránh đi, dẫn thân binh công kích ác liệt đoàn quân theo sát phía sau họ.

Tiếng hô “giết” lại vang lên, tấm màn chiến tranh đã được vén lên toàn diện. Hai cánh quân xông vào cận chiến, thân người lưng ngựa quấn lấy nhau, chém giết đến trời sầu đất thảm, thảm liệt vô cùng.

Bạt Phong Hàn nhận thấy tình thế không ổn, nếu để Vương Quân Khuếch chia cắt được quân tiên phong với trung quân của Dương Công Khanh và hậu quân của Bạt Dã Cương, lúc đó toàn quân mình bị phân chia, dẫu ba gã phá vây được thì quân sĩ cũng bị tiêu diệt hết, bèn quát to: “Tử Lăng cùng ta đi giết Vương Quân Khuếch.”

Lời này phát ra bằng chân khí, át cả tiếng binh khí va chạm và tiếng hô chém giết. Trận thế của địch tức thì loạn xạ, người nào cũng cho rằng Từ Tử Lăng và Bạt Phong Hàn quả thật có năng lực lấy thủ cấp địch nhân giữa thiên quân vạn mã dễ như lấy đồ trong túi.

Khấu Trọng lớn tiếng đáp: “Các ngươi mau đi đi! Để xem kẻ nào cản được ta.” Một đao chém xuống cực nhanh, kỵ binh đang lao vào gã tức khắc bị chém văng khỏi lưng ngựa, cả người lẫn binh khí rớt xuống đằng xa.

Bạt Phong Hàn và Từ Tử Lăng giục ngựa vòng lại, mở đường máu xông vào trận thế của địch, định giết chết Vương Quân Khuếch tại chỗ.

Khấu Trọng lại hô: “Các huynh đệ mau theo ta.”

Thủ hạ đồng thanh hô vang, quyết ý tử chiến, nơi nào Khấu Trọng đi qua đều người ngựa ngã rạp, nháy mắt đã phá vỡ kỵ trận của đối phương, khí thế giống như một con rồng cuồng nộ xông vào hậu phương địch nhân.

Đột nhiên tiếng hô chém giết động trời từ vùng rừng núi bên tả vang lên. Một đội kỵ binh vào khoảng năm ngàn người do Uất Trì Kính Đức, Bàng Ngọc và Trưởng Tôn Vô Kỵ suất lĩnh đang tiến đến, thanh thế kinh nhân hãi thế.

Cùng lúc tiếng vó câu rầm rộ vang lên từ phía sau, kỵ binh Đường quân ngập núi, từ ngả đường do quân phá vây tạo thành, xuyên rừng xông đến, công thẳng vào đội quân áp hậu của Bạt Dã Cương.

Lúc đó Khấu Trọng dẫn theo chừng gần một ngàn kỵ binh xông lên một gò đất cao. Đằng sau là hơn trăm người do Bạt Phong Hàn cùng Từ Tử Lăng dẫn đầu, vẫn đang kịch chiến dai dẳng với kỵ binh địch, mở đường cho đội trung quân của Dương Công Khanh, hai cánh quân tạo thành cục diện hỗn chiến. Trên thảo nguyên khoáng đạt, hai bên truy đuổi lẫn nhau khắp gò đất, tình thế rất kịch liệt.

Lần đầu tiên, Khấu Trọng có cảm giác rã rời bởi đại thế đã mất. Gã phải trải qua trăm cay ngàn đắng, dùng mọi phương cách mới chạy được đến đây, tưởng chừng đã đột vây thoát hiểm, nào ngờ mọi hy vọng đều bị hùng binh như lang như hổ của Lý Thế Dân đập tan tành, toàn quân bị đánh tan tác không còn manh giáp.

Giờ gã chỉ có hai con đường: một là xông lên nghênh đón đội quân của Uất Trì Kính Đức đang đổ về, hai là quay lại hậu trận, tái kết hợp với tàn quân tiếp tục đột phá vòng vây.

Gã liền phất tay áo, quát lên: “Các huynh đệ! Theo ta.” Đoạn giục ngựa ngoành lại hậu trận. Gã kêu thầm: “Có chết cũng phải cùng chết với nhau.”

Bạt Phong Hàn cùng Từ Tử Lăng đã phá vỡ trùng vây, trung quân hai ngàn người do Dương Công Khanh và Ma Thường suất lĩnh vẫn giữ vững đội hình. Thình lình tù và vang vang, kỵ binh của Vương Quân Khuếch đang đổ máu khổ chiến với bọn gã bất ngờ tản ra, đổ về phía bắc như thủy triều dâng lên, rõ ràng muốn vòng ra phía sau, hòng tiền hậu giáp kích nhân mã hậu quân của Bạt Dã Cương đang từ trong rừng tiến đến. Chiến thuật vô cùng linh hoạt, cao minh.

Khấu Trọng cùng Từ, Bạt đưa mắt nhìn nhau, đều hiểu rằng Lý Thế Dân đang ở gần đó, dùng tù và chỉ huy trường chiến đấu trong đêm này.

Xa gần bốn phía đều bập bùng ánh đuốc, nhất thời không tài nào phân biệt được địch nhân dàn trận hư thực thế nào. Vương Quân Khuếch đổi hướng đột ngột, lập tức tạo khoảng trống cực kỳ thuận lợi cho đạo Đường quân do Uất Trì Kính Đức, Bàng Ngọc cùng Trưởng Tôn Vô Kỵ chỉ huy từ phía Tây tràn tới xung kích.

Khấu Trọng nhanh chóng quyết định, quát lớn: “Tiểu Lăng, lão Bạt hộ tống Dương công phá vây, các huynh đệ còn lại theo ta.” Đoạn dẫn đầu hơn ngàn thủ hạ, xuyên qua đội ngũ trung quân, xông tới tàn sát khúc đuôi kỵ binh của Vương Quân Khuếch.

Trong lòng gã hiểu rằng hai cánh quân thế là xong, họ đã trở thành mục tiêu bị truy sát của quân địch.

Bạt Phong Hàn cùng Từ Tử Lăng đồng thanh đáp ứng, dẫn một ngàn kỵ binh rời khỏi trung quân, nghênh kích quân địch đang từ phía tây tiến tới. Trung quân do Dương Công Khanh cùng Ma Thường suất lĩnh tiếp tục tiến lên, đó đều là quân binh, đệ tử theo Dương Công Khanh nhiều năm, kinh nghiệm tác chiến phong phú, trên dưới một lòng, đang mấp mé bên bờ vực người ngựa tan tác nhưng vẫn giữ vững vàng thế trận, giơ cao thuẫn bài lên che chắn cho cả người và ngựa, dồn hết tốc lực điều khiển chiến mã, tiến về phía nam.

Tiếng hô “giết, giết” chấn động màng tai, Bạt Dã Cương vốn định toàn lực chống đỡ địch nhân đang truy đuổi từ phía sau, thấy Khấu Trọng quay lại hợp lực liền đổi ý, bỏ qua hậu phương của địch mà xông lên tuyến đầu, khiến đội kỵ binh của Vương Quân Khuếch tiền hậu thụ địch, sa vào tình thế bị chia cắt.

Khấu Trọng thi triển chiến thuật “Nhân mã như nhất”, xông lên buộc địch nhân phải chính diện giao phong, cách ly quân địch khỏi chủ tướng, gã liền thừa thế tấn công, nơi nào đi qua đều người ngựa ngã rạp, thế như bổ dưa thái rau. Dầu Đường quân vốn được huấn luyện kỹ lưỡng cũng không chống nổi, chạy trốn nháo nhào, mặc cho gã xông tới, chớp mắt đã hợp cùng với hậu quân của Bạt Dã Cương.

Gã quát lớn, cùng đánh về phía Nam, chia cắt địch nhân thành hai khúc, dẫn theo hậu quân ba ngàn người của Bạt Dã Cương phá vây mà xông ra, hướng về đội trung quân giờ đã trở thành đội ngũ tiên phong của Dương Công Khanh, Ma Thường.

Bạt Phong Hàn và Từ Tử Lăng biết rằng khoảnh khắc sinh tử đã đến. Hai gã đã tiến sâu vào trận thế của địch, phải tận lực chống lại kỵ binh địch với lực lượng hùng hậu gấp bốn lần. Quân lính hai bên thương vong vô số, thủ hạ của hai gã giảm xuống còn độ bảy trăm, lại bị địch nhân chia cắt đội hình, chỉ có thể tự thân chiến đấu.

Đuốc lửa rơi xuống những bụi cây trên thảo nguyên, cháy bùng lên mấy trăm đống lửa. Dưới ánh lửa chói lòa, chiến trường rải đầy máu tươi, khói lửa bốc lên ngập ngụa bốn bề, đập vào mắt là cảnh kỵ binh của hai bên truy đuổi nhau, người ngựa thi nhau ngã xuống, thây phơi khắp chốn, thảm liệt vô cùng.

“Soảng!”

Bạt Phong Hàn gạt thanh bảo kiếm của Bàng Ngọc từ bên sườn công tới, rồi nhanh nhẹn lật tay tung một kiếm phản đòn vào ngực đối phương. Bàng Ngọc bị Thâu Thiên kiếm chấn tê buốt cánh tay, không đủ sức hồi kiếm ngăn đỡ, đành ngã người khỏi yên ngựa tránh né.

Chiêu thức của Bạt Phong Hàn đột biến, mũi kiếm nhằm vào bả vai trái của Bàng Ngọc, toan vận kình đả thương gân cốt hắn thì một điểm sáng đen bắn tới. Nguyên lai là Quy Tàng Tiên của Uất Trì Kính Đức quất tới nhanh như điện, chặn đứng chiêu kiếm. Trưởng Tôn Vô Kỵ thừa cơ sấn tới, bảo hộ Bàng Ngọc đã thụ thương thoái lui.

Quy Tàng Tiên vừa định tiếp tục tấn công, đột nhiên thấy Đường quân ở quanh Bạt Phong Hàn lộp độp ngã ngựa, thì ra là do Từ Tử Lăng xông tới. Cây trường mâu gạt phăng hơn mười người, hướng vào Uất Trì Kính Đức. Y có tự phụ đến đâu cũng không dám chống lại đòn liên thủ tấn công của hai gã, lập tức cùng Trưởng Tôn Vô Kỵ lui lại.

Từ Tử Lăng hét lên: “Chúng ta đi.”

Bạt Phong Hàn lia mắt một vòng, bên mình chỉ còn khoảng hơn một trăm người theo sát, nào dám ham chiến, quát to: “Được”, rồi cùng Từ Tử Lăng cưỡi ngựa tiến về hướng tây.

Hai gã vẫn thấy khí mạch bình ổn, tuy trên mình thụ thương nhiều chỗ song không đáng ngại, coi thiên quân vạn mã của địch như không, nương theo khoảng trống do ba đại chủ tướng của địch thoái lui làm lộ ra mà phá trùng vây. Nhưng bên mình chỉ còn lại chừng hai chục thủ hạ, toàn quân gần như bị quét sạch.

Hậu quân của địch lại phân ra một cánh quân, do Trưởng Tôn Vô Kỵ và Uất Trì Kính Đức chỉ huy, tiếp tục đuổi theo.

Bạt Phong Hàn chỉ vào khu rừng rậm rạp phía Tây, quát lớn: “Qua bên kia!”

Từ Tử Lăng bỏ ý định đến hợp lực với Khấu Trọng, dẫn thủ hạ lao theo Bạt Phong Hàn, chạy vào khu rừng.

Thảo nguyên dần lùi lại sau vó ngựa, đột ngột ánh lửa sáng bừng phía trước mặt, một đội nhân mã chừng hai ngàn người từ trong rừng xông ra. Đứng đầu đương nhiên là kẻ trông giữ lối ra phía bắc của vùng núi - Lý Nguyên Cát. Y kề vai cùng với bọn Tiết Vạn Triệt, Tần Vũ Thông, Lý Nam Thiên, Phùng Lập Bản chắn ngang đường.

Lý Nguyên Cát cười ha hả: “Các ngươi định chạy đi đâu?”

Bạt Phong Hàn và Từ Tử Lăng liếc nhìn nhau, đều hiểu rằng không còn cách nào khác ngoài phá vây tiến vào rừng tìm sinh lộ, nhược bằng không tất khó toàn mạng.

Từ Tử Lăng không đành lòng để thủ hạ cùng chết, ngoái lại bảo: “Hai người bọn ta sẽ ứng phó với bọn chúng, các ngươi mau lui về phía nam tìm Thiếu soái, đây là mệnh lệnh.”

Thủ hạ vội quay ngựa chạy về hướng nam.

Bạt, Từ giục ngựa chạy sang phía bắc, né khỏi chủ lực Lý Nguyên Cát, nghênh đón kỵ binh bên cánh.

Mặt khác, trung quân của Ma Thường và Dương Công Khanh gặp phải đại quân của địch lúc chạy qua một quả đồi thấp. Soái kỳ của Lý Thế Dân phấp phới trên đỉnh, ngót hai vạn quân Đường đều là kỵ binh cực kỳ cơ động, đầy khí thế dàn trận theo hàng ngang.

Lý Thế Dân được các danh tướng Lý Thần Thông, La Sĩ Tín, Sử Vạn Bảo, Lưu Đức Uy, Lý Quân Tiện, Lương Thật tiền hô hậu ủng, ngồi trên lưng ngựa mà ban bố mệnh lệnh, ba cánh quân mỗi cánh gồm hai ngàn kỵ binh từ ba hướng: trái, phải, chính giữa bó vào, không để cho Thiếu Soái quân có cơ hội lấy hơi.

Thực lực địch nhân vượt xa, bây giờ lại ‘dĩ dật đãi lao’ nên thanh thế càng chênh lệch, chỉ động khẽ cũng phá tan được bọn gã. Dương Công Khanh cùng Ma Thường thấy tình thế bất diệu, xua quân ngênh đón cánh quân kỵ binh mé hữu của địch, hy vọng trước khi tả quân và trung quân đối phương tấn công tới thì đột phá được trận thế, chạy về khu rừng rậm phía tây cách bờ đông Lạc Thủy khoảng năm dặm, đó là sinh lộ duy nhất.

May mắn là lúc đó Khấu Trọng cùng Bạt Dã Cương dẫn theo hơn hai mươi kỵ binh, hợp với hai cánh quân tàn dư gồm năm trăm người của Đơn Hùng Tín, Hình Nguyên Chân, cộng thêm bốn ngàn quân kỵ yểm trợ phía sau, cố gắng xông phá Đường quân ngõ hầu kết hợp cùng đội quân của Dương Công Khanh và Ma Thường, một trước một sau xông về phía tây.

Tù và lại vang vang. Toàn quân Lý Thế Dân phát động Huyền Giáp tinh binh danh chấn thiên hạ. Hai cánh kỵ binh phối hợp khiến sát khí ngập núi, cắt đôi đội quân đang cố sức đột phá vòng vây. Toán quân của Dương Công Khanh cùng Ma Thường tiếp tục đột vây xông về phía tây; sau khi bị chia cắt, đội quân của Khấu Trọng lại càng bị công kích mãnh liệt hơn.

Rốt cuộc, chiến tranh cũng đi đến thời khắc quyết định.

Trên chiến trường, dù có võ công cái thế cũng tuyệt không thể cho địch nhân lập được vòng vây, bằng không quân địch sẽ như bầy kiến, càng lúc càng đông, quấn rịt quanh mình, không có đất xoay xở chân tay, đến lúc không chống nổi tất bị phân thây, xương cốt nát tan.

Kinh nghiệm lấy ít chống nhiều của Bạt Phong Hàn và Từ Tử Lăng rất phong phú, khẽ liếc qua tình hình phe Lý Nguyên Cát, hiểu ngay rằng khó lòng đấu lực với địch, sai lầm lớn nhất là không biết được đối phương đã phục binh sẵn ở trong rừng.

Hai gã liền triển khai chiến thuật “Nhân mã như nhất”, tránh khỏi mũi dùi của phe Lý Nguyên Cát, xông vào cánh quân ở góc yếu nhất của thế trận, mượn lực lượng của địch nhân tạo thành bức tường cách ly bọn Lý Nguyên Cát vẫn đang lẩn quẩn ở mé xa. Chỉ cần hành động thật nhanh, trước khi họ Lý kết thành vòng vây, thì sẽ có cơ may phá vây tiến vào rừng.

Một mâu một kiếm được Từ Tử Lăng và Bạt Phong Hàn toàn lực thi triển, bất cứ kẻ nào vô phúc lọt vào phạm vi của mâu kiếm, tức khắc đổ máu ngã khỏi lưng ngựa.

Song bên địch cũng không có kẻ nào khiếp hãi bỏ chạy, kẻ trước người sau nối nhau xông tới, trùng trùng điệp điệp, xả thân vây khốn hai gã.

Hai gã đi đến đâu thi thể ngổn ngang, máu chảy thành sông đến đó, trận chiến đã lên đến cực điểm.

Trước mắt hai gã đột ngột rạt rào kiếm khí, kiếm mang chói lòa. Trong giây phút đó, Bạt Phong Hàn đang dẫn đầu hiểu ngay rằng đã chạm trán với cao thủ đối phương, không thể tùy tiện đối phó như với các binh sĩ thông thường. Nếu cứ bị đối phương vây khổn thế này, đến lúc bọn Lý Nguyên Cát bủa tới thì ngày này năm tới cũng chính là ngày giỗ của hai gã.

Gã lập tức thu nhiếp tâm thần, trấn định lại, nhìn về phía trước, toàn thấy kiếm mang lả tả, không thấy địch nhân đã đành, ngay cả cây kiếm từ đâu kích tới cũng không biết.

Bạt Phong Hàn cười ha hả: “Trước tiên phải thịt Dương Hư Ngạn ngươi cái đã.”

Đoạn vẫn ngồi trên lưng ngựa xoay tả xoay hữu, tránh thoát hai ngọn trường mâu đang đâm tới, rồi lại tung tiếp một cước đá bay kỵ binh từ dưới đất mò lên toan tập kích. Thâu Thiên kiếm hóa thành một vòng sáng biến ảo vô cùng, xé toang không khí lao tới Dương Hư Ngạn.

Dùng kiếm khí dạt dào làm ảnh hưởng thị lực đối thủ chính là bản lĩnh của Dương Hư Ngạn, danh hiệu Ảnh Tử Thích Khách cũng vì thế mà có.

Nhưng Bạt Phong Hàn cũng chẳng phải hạng thường, song mục rực sáng, lập tức nhìn rõ ràng, Thâu Thiên kiếm liên tục xuất kích, cho dù đã thụ thương, song cũng muốn so cao thấp một phen. Đương nhiên nếu có thể đả thương hay giết chết Dương Hư Ngạn thì càng tốt, cho nên một kiếm đó tụ tập toàn lực của gã.

Dương Hư Ngạn giục ngựa từ giữa hai kỵ đội phi ra, cười âm trầm: “Bạt huynh như nỏ căng hết tầm, còn muốn sính cường nữa ư?”

Y chúc kiếm xuống đất, quét xéo qua Bạt Phong Hàn, giống tấn công nhưng không phải tấn công, hữu thủ bổ tới. Bàn tay trắng muốt, phút chốc chuyển thành đỏ rồi từ đỏ thành đen sì, quỷ dị tà ác cực điểm.

Trong lòng Bạt Phong Hàn nghĩ đến Ngự Tận Vạn Pháp Căn Nguyên Trí Kinh, song trước mắt đã thấy một màu đen che lấp thiên địa, chính là Cự Linh Thủ tà ác đáng sợ của Dương Hư Ngạn.

Phía sau gã, Từ Tử Lăng cũng đang trong thời khắc quyết định sinh tử.

Kình khí xé không trung bổ tới, gã không cần quay đầu lại nhìn cũng biết Lý Nguyên Cát đã bật khỏi lưng ngựa, lăng không xuất kích vào mình.

Gã lúc này đang lún sâu trong trùng vây, mỗi giây mỗi phút gã đều phải chống đỡ binh khí của địch từ bốn phương tám hương ập vào. Lý Nguyên Cát đã nhìn thấu thời điểm, buông toàn lực lăng không xuất kích tấn công gã. Chỉ cần gã phân thần ứng phó, loạn đao của đám quân Đường điên cuồng dưới đất khẳng định sẽ băm gã thành tương thịt. Nhược bằng gã không đỡ được Liệt Mã Thương từ trên cao công xuống của Lý Nguyên Cát, đương nhiên cũng sẽ phải nuốt hận dưới tay họ Lý.

Dù gã miễn cưỡng đỡ được một thương này thì Lý Nguyên Cát vẫn có thể tiếp tục triển khai thương pháp, quấn lấy gã, đợi cho các đại tướng cao thủ khác đến thì hai gã đừng hòng thoát thân.

Trong giây phút sinh tử tồn vong, tâm thần Từ Tử Lăng hoàn toàn phẳng lặng, không bỏ qua bất kỳ điều gì, không chỉ hiểu rõ tình cảnh của mình mà cả của Bạt Phong Hàn, hiểu rằng trong hai gã chỉ một người có thể thoát thân. Gã quyết định hy sinh bản thân, thành toàn cho Bạt Phong Hàn, để y giữ lại được tính mệnh mà hoàn thành mộng tưởng kích bại Tất Huyền.

“Đến đây!”

Gã vừa quát lên, toàn trường liền chấn động.

- o O o -

Hồi 663

Sơn Cùng Thủy Tận

Khấu Trọng dẫn thủ hạ ra sức khổ chiến, nhích từng phân một về phía tây. Tướng sĩ bên mình gã liên tục ngã xuống, bốn phía quân địch dày đặc, tiếng hò hét chém giết vang lên bất tận.

Bên tả có tiếng chiến mã ngã lăn xuống đất, liền đó Đơn Hùng Tín kêu lên kinh hoàng, nguyên lai chiến mã bị thương quá nhiều chỗ, mất máu nhiều nên rốt cuộc đã không trụ nổi nữa.

Gã thầm kêu khổ trong lòng nhưng không thể phân thân, hơn mười tên địch vây chặt lấy Đơn Hùng Tín, đao, kiếm, mâu, phủ đồng loạt bổ xuống, mạng y chắc hỏng rồi.

Khấu Trọng trợn mắt tưởng chừng rách mí, trong lòng đại nộ, Tỉnh Trung Nguyệt xuất ra như chớp, kỵ binh địch lả tả ngã xuống. Lúc này gã như người mất lý trí, chỉ biết lao lên chém giết, không kể gì đến bản thân, chỉ cốt đả thương quân địch, hy vọng mở được một con đường máu giữa muôn trùng địch quân.

“Cảng!”

Tỉnh Trung Nguyệt chấn văng đối phương, đồng thời một cơn đau dữ dội từ bối tâm truyền lên, theo phản xạ tự nhiên, thân thể gã sinh ra kháng lực. Cây trường kích đánh đúng điểm yếu hại trên bối tâm bị chân khí của gã đánh bật đi song cũng lưu lại trên vai gã một vết thương sâu hoắm, cơ hồ lòi cả xương.

Gã liền tỉnh lại.

Hệt như một người vừa tỉnh lại khỏi cơn ác mộng, lại thấy mình đang sa vào một cơn ác mộng khác.

Dưới ánh đuốc, quanh gã toàn là những khuôn mặt hung ác của địch nhân. Gã ở giữa trùng vây, bên mình không có lấy một thủ hạ, đao, kiếm, mâu, kích từ bốn phương tám hướng không ngừng bổ vào. Gã cũng sắp lâm vào cảnh đèn khô dầu cạn.

Khu rừng ven bờ đông Lạc Thủy còn cách độ trăm bước, nhưng bị khốn giữa trùng vây của không biết bao nhiêu địch nhân thế này, gã chạy được bao xa?

Phía trước có tiếng quát: “Khấu Trọng! Mạng ngươi chấm dứt ở đây! Để lão tử cắt đầu ngươi mang về lĩnh công.”

Tỉnh Trung Nguyệt quét quanh một vòng, đánh bay bốn, năm món binh khí. Gã định thần lại nhìn, chính là Vũ Văn Bảo, tướng lĩnh tâm phúc của Lý Nguyên Cát, thảo nào có năng lực đỡ nổi một đao của gã. Trường thương của đối phương liên tục đâm tới, xé không khí nhắm thẳng vào mặt gã.

Trong lòng gã dấy lên ý niệm tuyệt không thể chết trong thời khắc này! Gã định cử đao lên đỡ, đột ngột nhận ra cả cánh tay hữu cứng đơ, vốn vừa nãy bị địch nhân đâm một kiếm trúng vai, do thân thể thụ thương quá độ nên không có cảm giác, chỉ thuần túy bằng vào chân khí hộ thể không để cho lưỡi kiếm chạm vào gân cốt.

Gã thầm kêu mạng mình thế là hưu hỉ, trường thương của đối phương lướt qua đỉnh đầu trong đường tơ kẽ tóc khiến gã phải rạp mình xuống. Ái mã Thiên Lý Mộng lảo đảo ngã xuống bên tả, địch nhân bốn bề ập tới, các loại binh khí nhất tề nhắm vào toan băm gã thành tương thịt.

Khấu Trọng hiểu rõ rằng thuật “Nhân mã như nhất” của gã dựa vào ngựa, vì vậy Thiên Lý Mộng tuy lãnh nhiều vết thương mà vẫn trụ được đến giờ khắc đó. Chân khí của gã đứt đoạn, không thể chiếu cố cho Thiên Lý Mộng, ái mã lập tức không đứng vững được, gục ngã đương trường.

Gã nhớ đến cảnh tượng thảm tử lúc ngã ngựa của Đơn Hùng Tín, tiếng kêu thương tâm của Thiên Lý Mộng trước khi chết như tiếng hô hoán từ thế giới thứ hai vọng đến, dấy lên ngọn lửa cừu hận trong lòng gã. Gã áp tả chưởng xuống đất, “bốp” một tiếng, bắn mình lên cao, tránh thoát bảy tám loại binh khí, lòn đến bụng ngựa của Vũ Văn Bảo.

Vũ Văn Bảo kinh hoàng, Khấu Trọng tuy toàn thân nhuộm máu, thương tích khắp mình nhưng con rết trăm chân đến chết còn ngọ nguậy, hà huống là Thiếu soái Khấu Trọng danh chấn thiên hạ? Nếu y gan dạ hơn chút nữa, chắc rằng có thể được Lý Thế Dân, Lý Nguyên Cát thưởng cho đại công giết chết Khấu Trọng. Tiếc rằng trong tình huống chiếm được thượng phong này, y lại không dám mạo hiểm mà nhảy khỏi mình ngựa.

Khấu Trọng mừng thầm, đúng là trời giúp ta, toàn lực mượn sức đẩy của lưng bắn lên, song cước kẹp chặt bụng ngựa, vung Tỉnh Trung Nguyệt cắt một vết trên đùi, chiến mã bị đau, hí vang một tràng dài. Khấu Trọng ở dưới bụng ngựa ngấm ngầm thi triển thuật “Nhân mã như nhất”, ngựa của Vũ Văn Bảo lập tức lao vút đi.

o0o

Không khí chung quanh như biến thành thực chất, trầm trọng như đá tảng ép tới, đừng nói đến chuyện vung kiếm phản kích, mà ngay cả chớp mắt cũng khó khăn, cả người gã như “hóa đá” dưới bàn tay đen ngòm tà dị, ma quái Ngự Tận Vạn Pháp Căn Nguyên Trí Kinh của Dương Hư Ngạn.

Tiếng hô của Từ Tử Lăng vang đến khiến Bạt Phong Hàn kinh ngạc, Dương Hư Ngạn nghe thấy cũng chấn động. Bạt Phong Hàn lập tức thoát khỏi ma thủ, bàn tay đen tuyền vốn che lấp thiên địa biến thành một ngọn chưởng đen nhánh chầm chậm vỗ tới.

“Cảng!”

Từ Tử Lăng quăng mình giữa không trung, trường mâu lại va chạm với Liệt Mã thương của Lý Nguyên Cát lăng không kích tới.

Bạt Phong Hàn xuất Thâu Thiên kiếm, mắt chăm chăm nhìn vào chưởng tâm của Dương Hư Ngạn.

Dương Hư Ngạn cười ha hả, bàn tay trở lại màu sắc bình thường. Y thu chưởng lại, hữu thủ vung Ảnh Tử kiếm chặn Thâu Thiên kiếm, âm thanh chát chúa phát ra, cùng với tiếng va chạm giữa trường mâu của Từ Tử Lăng và ngọn thương của Lý Nguyên Cát vang lên liên miên, chấn nhiếp toàn trường.

Bạt Phong Hàn suýt nữa bị kiếm của Dương Hư Ngạn chém rớt khỏi lưng ngựa, lòng thầm kêu không ổn. Gã biết trong tình huống này, mình đã cạn kiệt sức lực, chắc chắn không qua nổi Dương Hư Ngạn vốn đang dĩ dật đãi lao.

Vạn Lý Ban kêu lên thê thảm, gặp phải độc thủ “sát nhân tiên sát mã” của địch nhân nên vong thân thảm tử.

Từ Tử Lăng đang lơ lửng trên không trung, đau lòng vì ái mã mất mạng nhưng gã không thể đa mang nghĩ ngợi nhiều. Bèn quát to một tiếng, Loa Hoàn kình phát ra, công tiếp một mâu vào Lý Nguyên Cát.

Lúc này Lý Nguyên Cát cũng đang ở trên không nhưng chân khí đã tận, phải đặt chân xuống đất mới đổi hơi được, không thể tránh nổi một kích này của gã, miễn cưỡng vung thương lên đỡ, đồng thời dùng Thiên Cân Trụy hạ nhanh xuống, đợi đứng vững mới tiếp tục tấn công.

Ai ngờ đòn này của Từ Tử Lăng dụng kình xảo diệu, Lý Nguyên Cát bị đánh văng ra xa. Gã tá lực lướt đến sau lưng Bạt Phong Hàn, trường mâu rời khỏi tay ném vào mặt Dương Hư Ngạn, quát vang: “Phong Hàn!”

Bạt Phong Hàn đã nhiều lần hợp tác với gã, đương nhiên hiểu ý, giờ là cơ hội đào tẩu duy nhất, nếu để cho Lý Nguyên Cát cùng các cao thủ đổ tới vây ráp, hai gã tất mất mạng, liền hớp một hơi chân khí, tung mình khỏi lưng ngựa.

Tháp Khắc Lạp Mã Can liền ngã xuống, nó hoàn toàn dựa vào chân khí của Bạt Phong Hàn mà chống chọi được đến giờ, mất đi sự chi viện của chủ nhân, lập tức kết thúc sinh mệnh tàn dư.

Từ Tử Lăng ôm Bạt Phong Hàn, kéo gã lăng không trên đầu địch nhân, lao đi được bảy tám trượng, hướng về khu rừng rậm.

Hai gã chỉ còn cách khu rừng chừng hai trượng, Dương Hư Ngạn ném Ảnh Tử kiếm tới vào trường mâu của Từ Tử Lăng, rồi vận dụng tốc độ kinh nhân “hậu phát tiên chế”, giống như một làn khói nhẹ đuổi theo, vung chưởng vỗ vào lưng Từ Tử Lăng.

Bàn tay y lại chuyển sang màu đen đáng sợ.

Đây không phải lần đầu Từ Tử Lăng đụng độ với loại tà công quỷ dị tà ác này. Ngày đó ở U Lâm tiểu trúc, Hứa Khai Sơn đã đứng cách con suối thi triển tuyệt chiêu tấn công gã, biến nước suối thành nặng như tảng đá vạn cân, nhưng hiển nhiên ma công của Dương Hư Ngạn lợi hại hơn hẳn.

Cho dù trong lúc gã khỏe mạnh, gã muốn chặn chưởng này của Dương Hư Ngạn cũng không phải dễ dàng, nói gì đến lúc sắp như đèn khô dầu cạn này.

Gã lật bàn tay, xuất ra một chưởng nghênh kích.

“Bùng!”

Dương Hư Ngạn khiến gã lộn nhào một vòng trên không, y hạ xuống đất còn gã và Bạt Phong Hàn như diều đứt dây văng vào trong rừng.

Lúc hai ngọn chưởng chính diện giao phong, trong sát na, bàn tay lấp lánh như ngọc của Từ Tử Lăng va chạm với bàn tay tà ác đen ngòm của Dương Hư Ngạn, trừ hai gã, chỉ có Bạt Phong Hàn hiểu rõ được tình huống.

Toàn thân Từ Tử Lăng rung động, chân khí âm hàn, tà ác của địch nhân như ngàn vạn sợi tơ xâm nhập qua mọi lỗ chân lông của gã, chảy vào kinh mạch toàn thân. Một kẻ gân cốt mỏi mòn như gã căn bản không có cách nào chặn được một chưởng mà Dương Hư Ngạn đã dung hợp hai đại bí pháp là tà công của Thạch Chi Hiên và Ngự Tận Vạn Pháp Căn Nguyên Trí Kinh. Điều đó càng khiến Bạt Phong Hàn cảm kích mà bi phẫn. Lúc Từ Tử Lăng phản kích, gã đã hiểu Từ Tử Lăng quyết định hy sinh thân mình để thành toàn cho gã nên đã đem chút chân khí còn dư lại trong nội thể theo chưởng tâm nhả ra, theo phương thức Bảo Bình khí tạo thành lực phản chấn cực mạnh, không chỉ đánh rớt Dương Hư Ngạn mà đẩy cả hai lọt vào rừng.

Cả mắt, mũi, mồm, tai của Từ Tử Lăng đồng thời rỉ máu, lảo đảo ngã xuống. Bạt Phong Hàn ôm lấy gã, cố gắng bảo hộ tâm mạch, lòng thầm nghĩ chạy được càng xa càng hay, tìm một chỗ không người rồi toàn lực cứu chữa.

Nhưng địch nhân có bỏ qua cho hai gã không?

Bằng vào Bạt Phong Hàn, dẫu một thân một mình gã cũng không có lòng tin thoát được Ảo Ma thân pháp của Dương Hư Ngạn, giờ lại còn phải đeo thêm một Từ Tử Lăng đang nguy kịch.

Hai chân gã đạp vào thân cây, mượn lực bắn ôm lấy Từ Tử Lăng đằng không bay lên.

Phía sau lưng có tiếng xé gió, Dương Hư Ngạn lăng không lao tới.

Trong lòng Bạt Phong Hàn nảy sinh ý chí mãnh liệt, vận hết tàn lực, liều mạng lao về hướng Lạc Thủy.

Chiến mã kêu lên thê thảm.

o0o

Khấu Trọng từ trạng thái gần hôn mê tỉnh lại, nhận ra mình đang lăn xuống, còn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra chợt thấy thân thể lơ lửng trên không, rớt xuống vù vù, phía cuối dốc là vách đá dựng đứng. Hiện giờ gã đang hư nhược vì mất máu, độ cao mười trượng đủ để tan nát xương cốt.

Lòng đang thầm kêu oan uổng thì “bùng” một tiếng, bọt nước văng tứ tán, gã rơi xuống một đầm nước không rõ ở nơi nào. Dòng nước xoáy kéo gã rời khỏi đầm nước, sa vào một ngọn thác, từng tầng từng bậc đổ xuống.

Gã buông lỏng thân thể, cố thu gom chút chân khí ít ỏi còn lại, vận khí điều tức.

“Bùng!”

Gã lại từ một đoạn thác ngắn ngủi rơi xuống tầng cuối cùng của đầm nước, dòng nước hiền hòa hẳn. Gã mở mắt ra nhìn, phát giác ra mình vẫn còn ở trong rừng rậm.

Một nhánh của đầm nước lại là một con sông nhỏ uốn quanh trong khu rừng, ẩn mật phi thường.

Khấu Trọng lập lờ theo dòng nước hơn mười trượng, đợi khí lực đã phục hồi được một chút mới bò lên bờ, không thể động đậy được.

Trời sáng dần

Đêm dài thương đau rốt cuộc cũng qua đi!

o0o

Bạt Phong Hàn một tay ôm Từ Tử Lăng đã ngất xỉu, tay kia nắm Thâu Thiên kiếm, từ một cây cổ thụ lao xuống, lợi dụng bóng đêm trước lúc bình minh lướt đến bờ đông Lạc Thủy.

Truy binh đằng sau đã đến gần rồi, ánh đuốc lập lòe di động trong rừng. Tiếng cười của Dương Hư Ngạn vang lên, y xuất hiện trên một ngọn cổ thụ, cười lạnh tanh: “Bạt huynh quả là bất phàm, có thể chạy đến tận đây. Giờ ta sẽ tặng cho hai người một niềm thống khoái, là được cùng nhau ra đi nhé.”

Bạt Phong Hàn ngầm cảm thấy tự hào, gã lợi dụng rừng dày yểm hộ, bao phen ngộ địch đều gạt địch thành công, khiến Dương Hư Ngạn rối tung, bằng không đã sớm bị đuổi kịp rồi.

Gã thi triển thuật ‘nội thị’, tự hiểu rằng mình hiện tại không có tư cách cùng Dương Hư Ngạn quyết một phen sinh tử, hà huống truy binh đã tới, gã càng không đủ năng lực chống lại.

Bèn ha hả cười vang: “Hy vọng thủy tính của Dương huynh cũng được như khinh công!”

Dương Hư Ngạn đứng thẳng trên ngọn cổ thụ, Ảnh Tử kiếm chỉ vào Bạt Phong Hàn, mỉm cười: “Tiểu đệ sao dám khinh thường, mời Bạt huynh cứ xuống nước thử xem.”

Đúng lúc đó, tiếng thuyền khua nước vang lên, một con thuyền nhỏ từ phía bờ bên kia vượt bóng tối tiến sang.

Bạt Phong Hàn cùng Dương Hư Ngạn đều ngạc nhiên nhìn qua.

Một người chống thuyền lướt tới, quát lớn: “Bạt huynh lên thuyền mau.”

Dương Hư Ngạn quát lên, nhân kiếm hợp nhất, từ trên ngọn cây lao bổ xuống, nhanh nhẹn công tới Bạt Phong Hàn đang đứng trên bờ sông.

Bạt Phong Hàn cũng hô lên: “Hi Bạch huynh đến thật đúng lúc!” Hữu thủ tra kiếm vào bao, tả thủ cắp lấy Từ Tử Lăng, búng người đằng thân bay lên, an nhiên đáp xuống con thuyền.

Dương Hư Ngạn đáp xuống bờ sông, dõi mắt theo con thuyền nhỏ đang xuôi nam chóng vánh, lại hiểu rằng không thể đuổi kịp, song mục rực lên sát khí.

o0o

Khấu Trọng điều tức hơn nửa thời thần, chân khí trong nội thể lần lần ngưng tụ, hồi phục được ba, bốn thành công lực bình thường. Với công hiệu thần kỳ của Trường Sinh Quyết, hơn chục vết thương lớn nhỏ trên mình gã đã lành lại gần hết, song vì mất máu nhiều quá nên có cảm giác hư nhược.

Bất quá đó không phải là vấn đề, cái chính là ý chí của gã bị thất bại vừa rồi đả kích nghiêm trọng. Thấy thủ hạ ngã xuống ngay trước mắt mà đành bất lực, huynh đệ chi giao lại không biết sống chết thế nào, tất cả tạo thành gánh nặng khó trút bỏ trong lòng gã.

Gã đến bên bờ suối, quỳ xuống vục mặt vào dòng nước chảy xiết uống liền hai ngụm lớn rồi ngửng mặt lên. Đối mặt với bóng của chính mình trong nước, gã toan khóc một trận cho nhẹ lòng, thế nhưng muốn khóc mà cảm giác lại không thể rơi được một giọt nước mắt nào.

Ánh nắng ấm áp lưa thưa xuyên qua tầng cây cối trong rừng chiếu lên mình gã, nhưng lòng gã lạnh như băng tuyết.

Khởi đầu cũng là kết thúc luôn hay sao? Cớ gì mà giờ đây gã lại trở thành thế này?

Trận chiến đột vây đã thất bại triệt để, Lý Thế Dân bằng vào sách lược cao minh đã phá tan đại quân của gã.

Từ khi quyết định tranh bá thiên hạ, lần đầu tiên gã cảm thấy hối hận. Giả như Bạt Phong Hàn, Từ Tử Lăng cùng toàn bộ thủ hạ đều tử chiến, gã làm sao đối diện với sự thật tàn khốc này? Trong giờ khắc này, kỳ vọng của Tống Khuyết, của Thiếu Soái quân ở Bành Lương trở nên xa vời, gã không có lòng dạ nào để tâm đến.

Tiếng xé gió vang lên phía trên đầu gã.

Thần kinh gần như tê liệt của gã lập tức có phản ứng, kinh hãi ngước lên. Vô Danh đang hạ xuống nhanh chóng, đậu lên vai, cọ cọ mỏ vào đầu gã, biểu lộ niềm thân thiết, quyến luyến.

Dòng lệ khổ nhẫn nhịn nóng bỏng rốt cuộc cũng trào ra, ướt nhòe khóe mắt gã.

Vô Danh lại bay vút lên, lượn vòng trên đầu gã.

Trong lòng gã máy động, lại nảy ra một tia hy vọng, Vô Danh định đưa gã đến nơi nào?

o0o

Hầu Hi Bạch lái con thuyền nhỏ nhanh chóng theo dòng Lạc Thủy xuôi nam. Từ Tử Lăng nằm trên đầu thuyền, Bạt Phong Hàn cố vận chân khí liệu thương cho gã.

Hầu Hi Bạch lo lắng hỏi: “Tử Lăng thế nào rồi?”

Bạt Phong Hàn buông lỏng song thủ Từ Tử Lăng, ánh mắt chăm chăm nhìn về phía trước, trầm giọng: “Ta không giết chết Dương Hư Ngạn, thề không làm người.”

Hầu Hi Bạch run rẩy, thất thanh kêu lên: “Tử Lăng!”

Bạt Phong Hàn thở dài: “Tính mệnh Tử Lăng không đáng ngại, bất quá nội thương nghiêm trọng vô cùng, e rằng vĩnh viễn không thể hoàn toàn lành lại. Đành trông vào tạo hóa, hy vọng hắn có thể dựa vào chân khí thanh thuần của bản thân mà sáng tạo kỳ tích cho mình.”

Hầu Hi Bạch ngẩn ra, hỏi: “Nghiêm trọng vậy ư?”

Bạt Phong Hàn đáp: “Hắc thủ tà công của Dương Hư Ngạn bá đạo, ác độc, đã xâm nhập vào lục phủ ngũ tạng cùng kỳ kinh bát mạch của Tử Lăng khiến ta không có cách nào khu trừ. À, làm sao huynh lại đến cứu viện đúng lúc sinh tử quan đầu thế nhỉ?”

Hầu Hi Bạch đáp: “Đệ đến Lương Đô tìm các huynh, biết các huynh vẫn ở lại Lạc Dương bèn lập tức đến đó, trên đường gặp Trầm Lạc Nhạn, được nàng kể cho tình hình. Vì thế đã đến Lạc Thủy chờ cơ hội, chỉ vì nàng không tiện hiện thân, ta đành một mình đến tiếp ứng các huynh.”

Bạt Phong Hàn tỉnh ngộ, Hầu Hi Bạch đến đúng lúc như vậy cũng không lấy gì làm lạ.

Hầu Hi Bạch trầm ngâm một lúc rồi nói: “Trong thiên hạ có lẽ vẫn có một người chữa được nội thương của Tử Lăng.”

Bạt Phong Hàn mừng rỡ, hỏi: “Là ai?”

Hầu Hi Bạch đáp: “Là Thạch Thanh Tuyền, y đạo của nàng ấy đã được mẫu thân chân truyền, lại hiểu sâu sắc ma công của Thạch Chi Hiên, chỉ có nàng mới có cách điều trị nội thương cho Tử Lăng. Thật may là Tử Lăng từng nói cho ta biết nơi nàng ẩn cư hiện giờ, cách đây khoảng mười ngày đường. Đệ lập tức đưa Tử Lăng đến đó.”

Bạt Phong Hàn vui mừng: “Ta đi cùng các huynh.”

Hầu Hi Bạch lắc đầu: “Chuyện này cứ giao cho ta phụ trách. Bạt huynh nên đi tìm Khấu Trọng, bọn ta sẽ gặp nhau sau.”

Bạt Phong Hàn gật đầu: “Chỉ cần Khấu Trọng không chết, ta nhất định sẽ tìm được. Hi Bạch Hi Bạch phải cẩn thận đó, bọn Dương Hư Ngạn, Lý Nguyên Cát chắc chắn không bỏ qua cho các huynh đâu.”

Hầu Hi Bạch cười ha hả: “Chúng muốn động đến Tử Lăng thì phải hỏi qua Mỹ Nhân phiến của ta cái đã.”

Bạt Phong Hàn vươn vai, hú lên một tràng dài đoạn lao mình lên tả ngạn, chớp mắt đã mất hút trong cánh rừng.

- o O o -

Hồi 664

Dương Công Quy Thiên

Mưa phùn lắc rắc bay đầy trời. Từ giữa trưa, mây trên trời càng lúc càng dày, che khuất bầu trời, đến lúc hoàng hôn thì mưa bụi bắt đầu nhỏ giọt.

Mưa bụi mênh mang như sương như khói che phủ cả bình nguyên Y Lạc. Quân Đường vừa giành thắng lợi liền tiến hành thanh lý chiến trường, dò tìm hành động quân địch, mãi đến giờ mới ngưng rồi hợp thành từng nhóm tại bình nguyên phía tây nam Y Khuyết thành.

Khấu Trọng hiểu hơn ai hết rằng Lý Thế Dân muốn giết mình đến thế nào, hắn nhất định không đời nào chịu buông tha.

Hành động dò tìm toàn diện đại quy mô đã mở ra rồi.

Gã mang theo Vô Danh và một trái tim đang rỉ máu chạy đến một hòn núi nhỏ cách xa phạm vi dò tìm của quân Đại Đường, một mình gặm nhấm tư vị cô độc, đơn chiếc.

Thắng làm vua thua làm giặc, cuối cùng gã cùng sa vào cảnh thảm bại, mất mát.

Từng giọt mưa lành lạnh nhỏ lên khuôn mặt gã.

Một bóng người từ khu rừng phía tả lao nhanh ra, cười ha hả: “Hảo tiểu tử! Té ra người vẫn chưa chết.”

Khấu Trọng kêu lên kinh dị, lao ra khỏi sườn núi, ôm chặt Bạt Phong Hàn, ánh mắt hoan hỉ chứa chan những giọt nước mắt nóng bỏng.

Bạt Phong Hàn thở dài: “Tử Lăng, hắn...! À! Tử Lăng...”

Khấu Trọng như bị sét đánh, khuôn mặt đỏ bừng sa xuống, lùi liền ba bước, run rẩy kêu lên: “Tử Lăng...”

Bạt Phong Hàn cười khổ: “Ngươi đừng hiểu lầm, Tử Lăng chưa chết. Chẳng qua bị trọng thương bởi võ công tà độc do Dương Hư Ngạn kết hợp ma công của Thạch Chi Hiên với Ngự Tận Vạn Pháp Căn Nguyên Trí Kinh, may mà Hầu Hi Bạch nhớ ra Thạch Thanh Tuyền, nàng ta là hy vọng phục nguyên duy nhất của Tử Lăng, bọn ta đành nghe theo mệnh trời.”

Khấu Trọng ngẩn người: “Hầu Hi Bạch?”

Bạt Phong Hàn kể lại những việc đã qua, ánh mắt hướng nhìn Đường quân ở xa xa, lập tức sát cơ trong mắt bốc lên ngùn ngụt, lạnh lùng thốt: “Ta sẽ buộc Lý Thế Dân trả lại gấp đôi những thống khổ, nhục nhã bọn ta phải chịu.”

Khấu Trọng biết Từ Tử Lăng vẫn còn sống, tức thì phấn chấn như long hổ, nói: “Lý tiểu tử hôm nay không giết được Khấu Trọng ta, cái này gọi là người tính không bằng trời tính. Thật ra trận đột vây này của bọn ta cũng không đến nỗi thất bại hoàn toàn, ít ra thì còn ba người bọn ta sống nhăn đấy thôi, Tử Lăng tỉnh lại thì càng tốt. Chúng ta đi tìm các huynh đệ Dương công, Ma Thường, Vương Huyền Thứ cùng Trần Lão Mưu, bọn họ chắc cũng đột vây thành công, chạy thoát rồi.” Nói đoạn gã hạ lệnh cho Vô Danh lại bay vút lên, thăm dò xung quanh.

Hai gã ngẩng lên quan sát tư thế phi hành của Vô Danh. Bạt Phong Hàn nói: “Nếu ta đoán không sai thì hiện giờ Lý Thế Dân cố ý để cho bọn ta có thời gian thu thập tàn binh, tiếp tục tiến về phía nam, hắn đã nắm được đường thủy, căn bản không sợ bọn ta bay lọt khỏi lòng bàn tay.”

Khấu Trọng gật đầu đồng ý, với lực lượng của Lý Thế Dân có thể mở rộng phạm vi tìm kiếm đến vùng sơn dã phía nam Y Khuyết và Thọ An nhưng y không làm vậy, hiển nhiên muốn Khấu Trọng hợp lại với đám tàn binh bại tướng khiến gã không thể đào vong một mình rồi xua quân truy kích, lùa gã vào tử địa.

Phía nam có tiếng vó ngựa dồn dập.

Khấu Trọng chấn động, thốt lên: “Là người của bọn ta, trông thấy Vô Danh nên đang đến đây tương hội, bọn ta đi xem.”

Hai gã thi triển cước pháp, lướt qua một ngọn đồi thấp, thấy Ma Thường cùng bảy, tám thủ hạ không quản mưa gió ngập trời, đang tiến đến chỗ hai gã.

Hai bên tương kiến, như vừa qua một đời một kiếp.

Từ xa, Ma Thường đã nước mắt dầm dề, khóc nức nở: “Thiếu soái mau theo mạt tướng, Dương công không được rồi.”

Câu nói như sấm động trời quang, khiến cả hai sởn gai ốc, ngẩn ngơ tại đương trường.

o0o

Từ Tử Lăng chầm chậm mở mắt, thấy Hầu Hi Bạch toàn lực chống thuyền, bản thân gã đang nằm ở đuôi thuyền, lục phủ ngũ tạng đau đớn như dao cắt, chân khí trong nội thể lưu tán, toàn thân vô lực, hai chân mềm nhũn, đầu óc như bị cả ngàn cây kim đâm vào, cơ hồ không chịu nổi, thiếu điều rên rỉ thành tiếng.

Gã chỉ còn nhớ được vào lúc cuối ma thủ đen nhánh tà ác quỷ dị của Dương Hư Ngạn phát sáng, đối với tình cảnh hiện thời, gã không hiểu chuyện gì đang xảy ra, toan mở miệng hỏi song chỉ phát ra mấy tiếng ư hử.

Hầu Hi Bạch đang quan sát phía sau, nghe tiếng liền quay lại, mừng rỡ hỏi: “Tử Lăng tỉnh lại rồi! Cảm thấy thế nào?”

Từ Tử Lăng mệt mỏi nhắm đôi mắt lại, hỏi: “Thật ra là chuyện gì vậy?”

Hầu Hi Bạch giải thích ngắn gọn: “Hiện giờ ta phải lập tức đưa huynh đến chỗ Thanh Tuyền, chỉ có nàng mới giúp huynh phục nguyên được. “

Từ Tử Lăng lại mở bừng hổ mục, thần khí khá hơn nhiều rồi, gượng ngồi thẳng lên, trầm ngâm: “Nếu địch nhân men theo sông truy đuổi chắc sẽ sớm đuổi kịp, ta phải tranh thủ thời gian đả tọa tự liệu thương. Bằng không đến sau cùng cũng không chạy thoát được, Dương Hư Ngạn là cao thủ truy tung, tuyệt không chịu ngồi yên nhìn bọn ta trốn thoát.”

Hầu Hi Bạch gật đầu: “Vậy bọn ta dìm thuyền rồi lên bờ, chỉ cần Tử Lăng có thể hồi phục vài ba thành công lực, bọn ta tất có cơ hội chạy thoát.”

o0o

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn gặp Dương Công Khanh trong một khu rừng gần đó, ông nằm trên một thân cổ thụ, sắc mặt xám xịt như tro tàn, sau lưng bị một mũi tên trí mệnh xuyên qua.

Trần Lão Mưu, Vương Huyền Thứ, Bạt Dã Cương, Hình Nguyên Chân vây quanh, song dẫu có thuật hồi thiên cũng vô dụng.

Khấu Trọng liếc mắt cũng biết sinh cơ của Dương Công Khanh đã tuyệt, tính mệnh sắp nguy. Gã cố nén nước mắt, quỳ xuống cạnh Dương Công Khanh, nắm chặt hai tay ông, truyền Trường Sinh chân khí vào.

Trong rừng có gần năm ngàn Dương gia quân, Phi Vân vệ cùng binh tướng Lạc Dương phá vây chạy đến đây, người nào cũng thụ thương, hoặc nằm hoặc ngồi. Dưới trời mưa gió tơi bời, cảnh tượng như thể lâm vào cùng đồ mạt lộ.

Mi mắt Dương Công Khanh run run, rốt cuộc cũng mở ra, vừa thấy Khấu Trọng liền rung động thân hình, khóe miệng lộ ra nụ cười dìu dịu, lào thào: “Thiếu soái!”

Dòng lệ anh hùng của Khấu Trọng trào ra.

Bạt Phong Hàn ngồi xổm xuống cạnh Dương Công Khanh, nắm lấy vai ông ta, xem xét vết thương sau lưng, thần tình xìu đi, lắc đầu không nói.

Khấu Trọng cố nén bi thương, đáp: “Tất cả đều ổn.”

Không biết có phải Dương Công Khanh được chân khí của gã truyền vào tác động mà song mục tinh anh hẳn lên, vẻ mặt hồng hào, đưa tay nắm lấy song thủ Khấu Trọng mà nói: “Ta đã sớm biết là Thiếu soái không sao. Thắng bại là lẽ thường của nhà binh, chỉ cần Thiếu soái kiên trì, cũng sẽ có ngày công thẳng vào Quan Trung.”

Khấu Trọng biết ông đang trong giây phút ‘hồi quang phản chiếu’ nên lòng đau như cắt, từ ngày đầu gặp gỡ vị danh tướng vừa là thầy vừa là bạn này đã chiếu cố, quan tâm gã như một người cha hiền từ, bất chấp tất cả toàn lực giúp cho gã, giờ chỉ vì sách lược của gã không đấu lại Lý Thế Dân mà vong mạng. Niềm hối hận như độc xà gặm nhấm trái tim gã.

“Phịch!”

Ma Thường quỳ xuống bên Dương Công Khanh, úp mặt vào song thủ, toàn thân co lại, cố nén không khóc thành tiếng, các tướng sĩ không ai không đau xót.

Dương Công Khanh dùng nốt chút khí lực sắp cạn, nắm lấy tay Khấu Trọng, hé nụ cười tối hậu đoạn thì thào: “Có sinh tất có tử... Thiếu soái...”

Khấu Trọng kinh hãi, vội áp tai vào sát bờ môi ông mới nghe thấy lời dặn: “Thay ta giết Lý Nguyên Cát.”

Cổ họng rung lên rồi đoạn khí.

o0o

Hầu Hi Bạch và Từ Tử Lăng ẩn mình trong một khu rừng rậm bên bờ tây Lạc Thủy, quan sát gần ba mươi thủy sư thuyền đầy đặc binh lính Đại Đường dong buồm lướt qua.

Hầu Hi Bạch than: “Tình hình đáng lo thật.”

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Chúng ta phải vui mừng mới đúng, Lý Thế Dân điều đại quân đường thủy về phương Nam chứng tỏ Khấu Trọng vẫn còn sống nên mới cố tình cắt đứt đường lui về Chung Ly của Khấu Trọng. Bằng không Lý Thế Dân đã tấn công Thiếu Soái quân ở Trần Lưu, hà cớ gì lãng phí thời gian thế này.”

Hầu Hi Bạch cười khổ: “Đúng là có đạo lý! Nhưng ta lại lo cho Khấu Trọng, hắn làm thế nào tránh thoát được sự truy sát của Lý Thế Dân?”

Từ Tử Lăng thốt: “Chiến tranh đều tàn khốc vô tình như thế, Khấu Trọng cần phải chứng tỏ rằng cho dù trong tình huống ác liệt này vẫn buộc đại quân của Lý Thế Dân phải xuôi ngược. Ta tin là hắn có năng lực cầm cự được tới lúc đại quân của Tống Khuyết đến cứu viện.”

Hầu Hi Bạch gật đầu: “Nghe huynh nói thế, ta cũng an tâm. Giờ huynh cảm thấy thế nào?”

Từ Tử Lăng đáp: “Dương Hư Ngạn không những học được Ngự Tận Vạn Pháp Căn Nguyên Trí Kinh ma công mà đã luyện thành cả Bất Tử ấn pháp của lệnh sư.”

Hầu Hi Bạch biến sắc: “Không thể nào.”

Từ Tử Lăng thở dài: “Sự thật đúng là thế. Hy vọng Bạch huynh có thể nói qua về Bất Tử ấn pháp, may ra ngày mai ta không cần lão huynh phải cõng nữa.”

o0o

Đêm đen mưa gió đầy trời. Bảy người Khấu Trọng, Trần Lão Mưu, Bạt Phong Hàn, Ma Thường, Bạt Dã Cương, Hình Nguyên Chân, Vương Huyền Ứng đứng trên một mỏm núi trong khu rừng bên bờ Y Thủy quan sát ba chiến hạm cự đại của Đại Đường xuôi theo dòng sông. Nhìn về phương Nam xa xôi, ai ai cũng thấy trong lòng trầm trọng, cảm giác được con đường phía trước gian nan, tăm tối.

Chỉ duy song mục Khấu Trọng không ngừng rực lên, không biết gã đang tính toán điều gì.

Cái chết của Dương Công Khanh tạo thành đả kích nghiêm trọng với gã! Nhưng sau khi chôn cất Dương Công Khanh xong xuôi, gã lập tức hồi phục, cái chết của ông lại kích thích đấu chí của gã.

Không kể Từ Tử Lăng, bảy người bọn gã đều là thủ lĩnh của quân đột vây, các tướng của Lạc Dương chỉ có Bạt Dã Cương, cùng hai người Hình Nguyên Chân, Vương Huyền Ứng có thể theo gã đến được tới đây. Các đại tướng khác như Đoàn Đạt, Thôi Hoằng Đan, Mạnh Hiếu Văn, Đơn Hùng Tín, Quách Thiện Tài, Trương Đồng... mười người đều vong mệnh đương trường, đủ thấy trận chiến khốc liệt thế nào, thương vong của đội quân đột vây nghiêm trọng đến đâu.

Khấu Trọng đột ngột nói: “Giả như bọn ta lập trận trên đỉnh núi, có thể phòng thủ trong một thời gian dài.”

Mọi người đều hiểu ý gã, địch nhân đã nắm được đường thủy, có thể nhanh chóng điều động đại quân đến chi viện, vô luận chạy đến đâu, địch nhân cũng chặn đánh được. Không nói đến Chung Ly làm gì, ngay cả Tương Dương e rằng cũng không qua được.

Hay nói cách khác, họ tuyệt không còn cơ may chạy thoát. Vậy nếu mạo hiểm đánh một trận, tuy không thể thoát được số mệnh toàn quân bị diệt vong nhưng có thể chết oanh oanh liệt liệt, không cần phải trốn chui trốn nhủi như chó hoang, chết trong tủi nhục. Mọi người đều cho rằng Khấu Trọng có ý như vậy.

Ma Thường lên tiếng: “Cung tên của bọn ta còn đủ dùng để chống chọi ba ngày đêm nữa. “

Trần Lão Mưu hòa cùng: “Không có tên có thể đẽo tên gỗ, công sự binh của bọn ta còn một trăm hai mươi lăm người nữa, dựa vào cây cối lập trại, bố trí bẫy rập thì chuyện chống chọi mươi bữa nửa tháng không phải không được.”

Bạt Dã Cương thở dài: “Lương thực đúng là nan giải, cho dù chúng ta nén lòng giết ngựa ăn thịt có thể trụ nổi một tháng thì sĩ khí mới là chuyện đau đầu, biết rằng nhất định phải chết, ắt có người sẽ thay lòng.”

Khấu Trọng lắc đầu: “Chúng ta không nhất định phải chết, mà tất thắng. Tối qua là thất bại cuối cùng của Khấu Trọng ta.”

Mọi người ngạc nhiên.

Bạt Phong Hàn kinh ngạc vô cùng: “Thiếu soái ngươi dựa vào đâu mà nắm chắc phần thắng của trận này?”

Khấu Trọng cười tự tin: “Mọi người thử nghĩ đến tình huống này xem: Chúng ta kết trận trên đỉnh núi cao, vừa có nguồn cung ứng lương thực dồi dào bất tận, lại có hỏa khí đủ uy lực hủy diệt hết quân đội của Lý Thế Dân, vậy thì thế nào?”

Bạt Phong Hàn bừng tỉnh: “Đúng! Ta suýt nữa quên mất, Thiếu soái ngươi muốn nói đến Thiên Thành Hiệp ở phía nam Tương Thành, đó là nơi hiểm yếu bậc nhất, nhưng hỏa khí lấy ở đâu ra?”

Bọn Ma Thường hiểu Khấu Trọng không phải đang hồ ngôn, đều nảy ra hy vọng, nhao nhao truy hỏi.

Khấu Trọng giải thích: “Thiên Thành Hiệp là hiệp đạo do năm xưa bọn ta chạy trốn sự truy sát của Lý Mật và Khúc Ngạo, đào tẩu đến vùng núi cao phía nam Tương Thành mà phát hiện ra. Toàn trường rộng chừng nửa dặm, hai bên là vách đá dựng đứng, nhọn hoắt như dao, con đường mặt bắc nhỏ hẹp quanh co, chỉ đủ cho một xe một ngựa đi qua, phía ngoài hiệp khẩu toàn là gò, đống hoang dã. Thiên Thành Hiệp cách Ẩn Đàm sơn mấy chục dặm, chỉ cần bọn ta lập thế trận cố thủ tại mặt bắc, khiến cho địch nhân tưởng rằng ta đã bị hãm vào tuyệt cảnh nhưng thật ra bọn ta vẫn có thông lộ, có thể nhờ địa hình hiểm trở chống chọi với đại quân của Lý Thế Dân, đợi quân cứu viện đến.”

Bọn Hình Nguyên Chân đều tỉnh ngộ, mừng ra mặt, như thể đang lúc bị biển động chìm thuyền thì phát hiện đất liền ngay trước mặt.

Tương Thành cách phía đông nam Lạc Dương hơn trăm dặm, nếu bọn gã ngang qua Y Thủy, hành quân về phía đông chừng năm mươi dặm là đến chân Thiên Thành Hiệp, chuyện này nằm ngoài ý liệu của Lý Thế Dân, không chừng y còn cho rằng họ phát điên, tự đâm đầu vào tuyệt địa.

Khấu Trọng tiếp tục: “Còn về hỏa khí, là chiến lợi phẩm của ta và Tử Lăng cướp được trong tay Âm Quý Phái. Đó là hỏa khí của Giang Nam, Âm Quý Phái vốn định vận chuyển lên Trường An cho Dương Hư Ngạn và Dương Văn Can chi dụng khi làm phản. Ta và Tử Lăng đoạt được liền giấu tại một nơi bí mật cạnh bờ Trường Giang, sau khi bọn ta đến Thiên Thành Hiệp, lập tức phái người đi lấy hỏa khí, cả đi cả về chỉ mất chừng nửa tháng. Chúng ta sẽ giáng cho Lý Thế Dân một đòn kinh hãi.”

Mọi người nghe xong đều phấn chấn hẳn lên, rũ sạch cảm giác nhuệ khí kiệt quệ lúc trước.

Bạt Phong Hàn gật đầu: “Chúng ta bỏ qua Chung Ly mà đến Tương Thành, Lý Thế Dân sẽ nghĩ thế nào?”

Trần Lão Mưu hưng phấn: “Hắn đương nhiên là cho rằng bọn ta cùng đường, mạo hiểm tấn công Tương Thành.”

Bạt Dã Cương xen vào: “Cũng có thể hắn lầm tưởng rằng bọn ta đang ‘giương đông kích tây’, thật sự thì muốn phá vòng phong tỏa của hắn, chạy về Trần Lưu.”

Khấu Trọng nói: “Mặc Lý tiểu tử nghĩ gì, thành bại là có đến Thiên Thành Hiệp được không, bọn ta phải tận dụng mọi cách che mắt địch mới có cơ hội thành công. Các vị có cao kiến gì không?”

Vương Huyền Thứ lên tiếng: “Huyền Thứ hiểu rất rõ tình hình quanh đây. Nếu bọn ta men theo bờ tây Y Thủy xuôi nam, dọc đường đều là núi non, theo sự tinh minh của Lý Thế Dân, y không đời nào mạo hiểm tấn công tại vùng sơn dã mà đợi bọn ta đến vùng bình nguyên phía Nam mới ra tay. Chúng ta đi đến điểm cuối phía nam Y Thủy, lập tức rẽ sang hướng đông, đến thẳng Tương Thành khiến đối phương bị hớ. Chúng ta chỉ đi qua Tương Thành, giả đò như muốn đến Trần Lưu khiến đối phương hoang mang, điều quân đến ngăn chặn, lúc đó bọn ta mới xuyên qua Ẩn Đàm sơn, đến Thiên Thành Hiệp. Hành quân thật nhanh thì mười ngày là đến nơi.”

Khấu Trọng vui mừng: “Kế hay! Quyết định thế đi. Chúng ta lập tức tổ chức lại quân binh, khích lệ sĩ khí. Chưa đầy một khắc mà ta hiện giờ có lòng tin cho Lý Thế Dân nếm mùi đau thương hơn hẳn, đạo quân đang căm phẫn tất sẽ thắng lợi.”

Mọi người đều lớn tiếng đáp ứng.

Trước lúc trời sáng, mây tan mưa tạnh.

o0o

Từ Tử Lăng tỉnh lại sau một hồi điều tức sâu, thở ra một hơi dài.

Hầu Hi Bạch làm hộ pháp bên cạnh vui mừng, hỏi: “Có tiến triển gì không?”

Từ Tử Lăng gật đầu: “Hiện giờ ta khôi phục được một, hai thành công lực, chân khí đã ngưng tụ được tại đan điền. Hắc thủ ma công tự sáng tạo của Dương Hư Ngạn thật sự lợi hại, giờ thì ta tuyệt đối không thể động thủ, bằng không vĩnh viễn không thể hồi phục.”

Hầu Hi Bạch hỏi: “Tử Lăng có thể bằng vào công lực bản thân mà hồi phục nguyên trạng sao?”

Từ Tử Lăng trầm ngâm hồi lâu, cười khổ: “Tà độc của Dương Hư Ngạn xâm nhập thực sâu vào kinh mạch cùng tạng phủ ta, ta có thể giữ mạng toàn nhờ vào Trường Sinh Quyết là kháng lực thiên nhiên đối với tà công ma pháp của y. Trừ phi hoàn toàn khu trừ được tà độc, nếu không thì ta không thể nào thật sự vận công liệu thương.”

Hầu Hi Bạch lấy làm kinh hãi: “Dương Hư Ngạn làm sao lại biến thành lợi hại như vậy? Huynh hiện giờ hiểu rõ Bất Tử ấn pháp vẫn không thể tự liệu thương ư?”

Từ Tử Lăng đáp: “Hồi phục được hai thành công lực là thành tích hiểu biết Bất Tử ấn pháp kinh người rồi. Nếu ta hiểu được Ngự Tận Vạn Pháp Căn Nguyên Trí Kinh, không chừng có thể loại trừ tà độc, giờ thì vẫn chưa có cách nào.”

Hầu Hi Bạch nói: “Chuyện này không thể trù trừ được, bọn ta lập tức đến nơi ẩn cư của Thạch Thanh Tuyền.”

Từ Tử Lăng nghĩ đến việc được gặp Thạch Thanh Tuyền, trong lòng nóng bừng lên, định gật đầu đồng ý thì thấy một chiến hạm đang nhanh chóng men theo dòng Lạc Thủy xuôi nam.

Hai gã đều thấy lòng chùng xuống, cảm giác bất an hiển hiện.

Hầu Hi Bạch đỡ Từ Tử Lăng đứng dậy, hỏi: “Bọn chúng chắc đoán được là bọn ta bỏ thuyền lên bờ, lại biết Tử Lăng trọng thương, không thể đi đứng, có cần ta cõng không?”

Từ Tử Lăng hít sâu một hơi, lắc đầu đáp: “Ta còn đi được.”

Hầu Hi Bạch chộp lấy tay áo gã, tiến vào cánh rừng rậm bên bờ tây Lạc Thủy, tiến dần về hướng tây.

Chiến hạm phía sau từ từ cập bờ, hơn mười đạo nhân ảnh từ trên thuyền nhảy lên bờ, đuổi theo bọn gã.

Hầu Hi Bạch kinh hãi: “Sao lại thế được, lẽ nào bọn chúng nắm được vị trí chính xác của bọn ta?”

Từ Tử Lăng ngẩng đầu lên nhìn trời, ba chấm đen đang bay lượn trên không, gã than: “Chúng ta đã bỏ qua mất một điểm, quên rằng mùi vị của tinh huyết không lừa nổi ba con ác thứu kia.”

Hầu Hi Bạch giục: “Đi nào!”

- o O o -

Hồi 665

Kiên Nghị Bất Bạt

  

   Thiếu Soái quân tản ra nghỉ ngơi trong rừng, chọn nơi cao ráo tiện thể giám sát tình hình xa gần.

Thiếu Soái quân thực hiện sách lược ngày đi đêm nghỉ. Ban ngày sẽ dễ dàng tránh khỏi sự tập kích của quân địch, ban đêm có lợi cho việc bí mật hành quân.

Khấu Trọng cứ cách một khoảng thời gian lại tung Vô Danh lên trinh sát từ trên cao, trừ phi quân địch có thuật ẩn thân, không thì đừng hòng dùng kỳ binh đột kích.

Đêm xuống, Thiếu Soái quân lại toàn lực lên đường, đến vùng sơn dã cách điểm cuối Y Thủy chừng mười dặm. Đó cũng là khu vực nguy hiểm có khả năng bị phục kích cao, nên buộc phải dưỡng thần đầy đủ nhằm ứng phó mọi chuyện xảy ra trong hành trình ban đêm.

Khấu Trọng cùng Bạt Phong Hàn ở trên một mỏm núi bên bờ tây Y Thủy thả Vô Danh ra. Trần Lão Mưu đến tìm, nói với hai gã: “Thuộc hạ có dự cảm bất tường, Lý Thế Dân sẽ không bỏ qua cơ hội chặn đánh bọn ta tại phía nam Y Thủy.”

Khấu Trọng mỉm cười: “Trần công có đề nghị gì hay không?”

Trần Lão Mưu nói: “Thuộc hạ thấy nên lập tức đẵn cây làm cầu, đêm xuống thì bắc lên vượt sông ngay, đến lúc Lý Thế Dân phát giác thì bọn ta đã rời xa Y Thủy, hắn chỉ có thể theo gót mà thôi.”

Bạt Phong Hàn trầm giọng: “Không nên coi thường tên tiểu tử Lý Thế Dân này, không chừng hắn đã bố trí người ở bờ bên kia giám thị bọn ta, đợi lúc bọn ta qua sông mới tấn công.”

Trần Lão Mưu nói: “Chúng ta cứ phái một toán tinh nhuệ bơi qua sông, nắm rõ tình hình bờ bên kia rồi mới quyết định.”

Khấu Trọng đồng ý: “Đề nghị của Trần công rất chu đáo, việc làm cầu giao cho Trần công xử lý, chuyện trọng yếu nhất là không gây ra âm thanh, nếu bị Lý Thế Dân biết được bọn ta đang làm cầu tất sẽ tai hại vô cùng.”

Trần Lão Mưu cười nhẹ: “Chuyện đó cứ giao cho lão phu.” Đoạn hân hoan lĩnh mệnh lui ra.

Khấu Trọng lại nói với Bạt Phong Hàn: “Tiểu đệ có một nhiệm vụ trọng yếu phải phiền lão ca giúp đỡ.”

Bạt Phong Hàn mỉm cười: “Chuyện của ngươi cũng là chuyện của ta, mọi người cùng là huynh đệ, còn nói gì những lời khách khí đó.”

Khấu Trọng cảm động, đưa tay đặt lên vai Bạt Phong Hàn, nói: “Tiểu đệ sẽ không khách khí với lão ca nữa, vậy lão ca lập tức vượt qua Y Thủy, đến Trần Lưu thật nhanh, thông báo tình hình của bọn ta cho Hành Chi biết, bảo hắn toàn lực giữ Trần Lưu cho đến lúc đại quân của Tống Khuyết tới cứu viện. Chỉ lão ca mới có bản lĩnh đột phá được vòng phong tỏa của Lý Thế Dân, những người khác đều không thể.”

Bạt Phong Hàn ung dung nói: “Chỉ đơn giản vậy thôi sao? Chi bằng để ta thuận đường đi lấy hỏa khí luôn một thể rồi đến Thiên Thành Hiệp gặp đệ. Như thế đỡ mất thêm mười ngày, lại chắc chắn không bị Đường quân phát giác.”

Khấu Trọng mừng rỡ: “Vậy càng lý tưởng. Hành Chi sẽ an bài cho huynh Phi Luân thuyền và nhân thủ đầy đủ, tốt nhất là kiêm cả vận lương luôn, được thế bọn ta ứng phó với Lý tiểu tử càng nắm chắc phần thắng.”

Ánh mắt Bạt Phong Hàn hướng sang bờ bên kia, bình thản nói: “Thật lòng, hiện giờ ta đang đầy uất khí, chỉ cần là việc có hại cho Đường quân ta chịu ngay. Ta không chỉ vì đệ mà vì xả bực tức cho chính mình. Giờ ta lên đường, nếu bờ kia có thám tử Đường quân, ta sẽ diệt trừ hộ đệ. Huynh đệ, hẹn gặp ở Thiên Thành Hiệp, đệ bảo trọng.”

Khấu Trọng chỉ vẽ kỹ càng cho gã nơi cất giấu hỏa khí, nắm chặt vai gã, thay cho những lời muốn nói.

Bạt Phong Hàn vỗ nhẹ lên thanh Thâu Thiên kiếm trên lưng, tung người mấy lần, lao xuống nước nhưng không làm văng lên chút bọt nước nào, gã lần theo đáy sông lặn sang bờ bên kia.

o0o

Hầu Hi Bạch nhanh như quỷ mị chốn sơn lâm, lượn quanh một vòng rồi quay về đỉnh núi gần đó nơi Từ Tử Lăng đang ẩn mình, ngồi xổm xuống một bụi cỏ, thấp giọng: “Tiểu đệ đã quăng mớ quần áo dây máu của huynh vào mấy con sóc vàng, khiến chúng đau mà lủi mất. Lúc về đệ đã vận công thu hẹp các lỗ chân lông, không để khí thể tiết ra ngoài, hy vọng chiêu này hữu hiệu, bằng không đệ lại cõng huynh thoát khỏi trùng vây.”

Hầu Hi Bạch không giống như Khấu Trọng và Từ Tử Lăng, y lúc nào cũng thích sạch sẽ, vô luận đến đâu y cũng mang theo y phục để thay. Vừa nãy trên đường trốn chạy, hai gã gặp mấy con sóc vàng đang kiếm ăn, Từ Tử Lăng bảo Hầu Hi Bạch bắt chúng, cởi bộ đồ thấm máu ra thi triển kế vừa rồi, còn gã mặc y phục của Hầu Hi Bạch.

Gã cười nụ: “Ít ra thì bọn ta cũng thành công một nửa rồi, xem kìa, mấy con ác thứu đã bay đi rồi.”

Hầu Hi Bạch chú ý đến ba con ác thứu đang bay là là về phía tây, chúng là loài chim thích ăn thịt thối, đặc biệt tinh tường đối với mùi vị tinh huyết.

Y thì thầm: “Đến kìa!”

Có tiếng lướt gió, hơn mười đạo nhân ảnh lướt qua khu rừng, nhanh nhẹn bám theo hướng mấy con chim ưng, kẻ dẫn đầu đương nhiên là Lý Nguyên Cát.

Bèn đại hỉ nói: “Thành công rồi.”

Từ Tử Lăng ấn y xuống, đề phòng y để lộ thân hình, thấp giọng nói: “Từ từ đã.”

Lời vừa nói xong thì một bóng đen hiện ra trên đỉnh một cây cao gần đó, đảo mắt nhìn quanh. Chính là kẻ đã luyện thành Bất Tử ấn pháp cùng Ngự Tận Vạn Pháp Căn Nguyên Trí Kinh - Dương Hư Ngạn.

Hầu Hi Bạch hít một hơi khí lạnh, thầm nhủ hiểm quá.

Hai gã thu mình vào bụi cỏ, không dám để lộ ra hơi thở.

Dương Hư Ngạn hừ lên một tiếng rồi đuổi theo hướng bọn Lý Nguyên Cát vừa đi, thoáng sau đã mất hút.

Hầu Hi Bạch thở phào một hơi: “Tiểu tử này giảo hoạt thật, giờ chắc là ổn rồi? Về chuyện trốn khỏi địch nhân truy sát, có mấy người sánh được với Tử Lăng và Khấu Trọng.”

Từ Tử Lăng cười nhẹ: “Năm xưa, ta và Khấu Trọng chạy trốn Lý Mật, từng phải lang thang đây đó khắp vùng sơn dã, cũng phải có đôi chút nhận thức về hình thế vùng phụ cận mới cắt đuôi được. Đi nào.”

Hai gã rời khỏi nơi ẩn thân, từ tốn cất bước.

o0o

Màn đêm buông xuống cánh rừng, Trần Lão Mưu lập tức cho bắc cầu phao, năm ngàn nhân mã nhanh chóng qua sông rồi phá cầu, hành quân theo hướng đông. Đi liền một hơi gần bốn mươi dặm, nhân mã mỏi mệt rời rã.

Khấu Trọng chọn một vùng đất cao, cây cối rậm rạp, chặt cây làm cọc rào, tạo thành lớp phòng ngự nguyên thủy mà hữu hiệu, rồi lệnh cho toàn quân nhóm lửa nấu cơm ở đầu núi, nghỉ ngơi thoải mái.

Gã cùng với bốn người Ma Thường, Vương Huyền Thứ, Bạt Dã Cương, Hình Nguyên Chân đến một mỏm núi khác ở phía tây thả Vô Danh ra quan sát động tĩnh từ Y Thủy.

Rời khỏi bình nguyên Y Lạc cùng nghĩa với thoát khỏi nguy cơ tứ bề, càng rời xa mảnh đất thương tâm hao binh tổn tướng đó, ai cũng trút được gánh nặng, tuy nguy cơ chưa phải là hết nhưng tâm tình nhẹ nhõm hẳn. Hơn nữa, khi xác định được mục tiêu cùng sách lược ứng phó, đương nhiên phải khác với lúc chán nản vì thất bại.

Bạt Dã Cương lên tiếng: “Giờ bọn ta có thể khẳng định đã vượt ra ngoài ý liệu của Lý Thế Dân, khiến kế sách ban đầu của y không có đất dụng võ. Vì vậy mà đến lúc này y vẫn chưa đuổi kịp.”

Hình Nguyên Chân gật đầu tán đồng: “Ít nhất thì bọn ta cũng thoát khỏi ám ảnh bị thủy sư Đường quân uy hiếp từng giờ từng khắc.”

Khấu Trọng ngước nhìn Vô Danh bay lượn trên trời cao, lòng nghĩ đến Dương Công Khanh đã chôn vùi nắm xương ở bên bờ Y Thủy nên muốn nói mà không tìm được lời.

Vương Huyền Thứ nói: “Lý Thế Dân cho rằng bọn ta cùng đường nên mạo hiểm tiến về Trần Lưu; trong tình huống này, y mà sai quân giữ chặt Tương Thành, tự mình dẫn đại quân đuổi theo, đợi đến lúc bọn ta mỏi mệt mới tiền hậu giáp kích, có lẽ sẽ dễ dàng đánh bại bọn ta.”

Ma Thường tỏ ra đồng ý: “Suy đoán của Huyền Thứ công tử chưa hẳn đúng nhưng không sai bao nhiêu.”

Vương Huyền Thứ cười khổ: “Tiểu đệ thì là công tử gì chứ, cứ gọi là Huyền Thứ lại khiến đệ thoải mái.”

Khấu Trọng đặt tay lên vai Huyền Thứ, nói với vẻ yêu mến: “Đệ là tiểu đệ đệ được mọi người cùng yêu thương. Ôi! Sự tình đã đến nước này, có ai mà liệu trước được.”

Vương Huyền Thứ buồn bã: “Hy vọng Lý Uyên đối đãi tốt với cha đệ.”

Khấu Trọng thở dài phụ họa, lắc đầu không nói gì.

Bạt Dã Cương và Hình Nguyên Chân nhìn nhau đầy ẩn ý, đều cảm thấy ngạc nhiên trước thần tình của gã.

Khóe miệng Vương Huyền Thứ run run, rốt cuộc không nén được, hỏi Khấu Trọng: “Thiếu soái hình như đoán được cha đệ sẽ gặp chuyện không ổn.”

Khấu Trọng trầm giọng: “Đệ nên kiên cường đối diện với sự thật tàn khốc, giống như đối diện với sinh tử trên chiến trường, mỗi người đều có khả năng gặp phải tai họa bất trắc.”

Ma Thường lấy làm kinh ngạc: “Đổng Thục Ni hiện được Lý Uyên sủng ái vô cùng, muốn lấy lòng ái phi, chắc Lý Uyên không hạ thủ ác độc đối phó với tộc nhân của Huyền Thứ đã đầu hàng?”

Khấu Trọng nói: “Hy vọng ta đoán sai. Vấn đề không chỉ do mình Lý Uyên mà do đám người Ma môn thao túng sau lưng Lý phiệt, cái này gọi là lắm thầy nhiều ma. Lệnh tôn của Huyền Thứ hiểu rõ bí mật của Ma môn, lại có ảnh hưởng sâu sắc đến Thục Ni nên phe Dương Hư Ngạn không đời nào để một người như thế an nhiên vào được Trường An.”

Vương Huyền Thứ ngẩn ra: “Sao cha đệ lại biết bí mật của Ma môn được?”

Khấu Trọng cảm thấy nhức óc, đáp: “Chuyện này nói ra rất dài, sau này ta sẽ kể lại cho đệ nghe, những mong là lệnh tôn cát nhân thiên tướng, nhưng đệ cũng nên tính đến trường hợp xấu nhất, tranh bá thiên hạ là phải tàn nhẫn vô tình như vậy. Xem Vô Danh lượn vòng kìa, kỵ binh của Lý Thế Dân đang từ phía tây nam nhanh chóng tiến về đây. Tình hình này, Lý Thế Dân chắc sẽ lập tức xua quân tấn công, tìm cách vây khốn bọn ta đến chết ở trên núi, bọn ta mau quay lại chuẩn bị sẵn sàng.”

Mọi người dạ ran, sĩ khí dâng cao.

o0o

Hầu Hi Bạch nói: “Có một chuyện ta vẫn luôn muốn nói với huynh. Ồ! Bên kia có một hoang thôn.”

Từ Tử Lăng thấy phía cuối sơn lộ, trong khu rừng bên sườn núi lấp ló mấy nóc nhà, vội vàng dừng bước, cảm xúc đan xen lẫn lộn nói: “Hình như ở thôn này bọn ta đã gặp Đổng Thục Ni. Hi Bạch huynh định nói với ta chuyện gì?”

Hầu Hi Bạch thở dài: “Tử Lăng huynh đã biết chuyện ta không tài nào vẽ nổi Phi Huyên. Đến giờ ta vẫn chưa nắm được thần thái của nàng. Nhưng chuyện ta muốn nói là: Hiện tại trừ Phi Huyên ra còn có một mỹ nhân mà ta không thể dùng bút bắt lấy khoảnh khắc thần thái quyến rũ nhất, là Thạch Thanh Tuyền, cả hai lại đều có liên quan đến huynh.”

Từ Tử Lăng bật cười: “Vậy vấn đề là ở đâu? Loan Loan cũng là người rất khó nắm bắt thần thái, vì sao huynh lại vẽ nàng ta đẹp đến thế.”

Hầu Hi Bạch chậm rãi bước đến ngồi xuống một khối đá lớn, ánh mắt dõi nhìn vầng tịch dương đang lặn xuống phía tây, cười khổ: “Chuyện đó đúng là không có cách nào giải thích. Hà cớ gì Tử Lăng huynh đưa ta đến thôn này? Ta cảm thấy thôn này có gì đó không ổn.”

Từ Tử Lăng ngồi xuống cạnh y, thần sắc lộ vẻ nghĩ ngợi, chậm rãi nói: “Từ khi ta thụ thương, tâm thần lại trở nên sáng suốt, thoáng đãng, nhớ lại nhiều chuyện mình đã lơ là trước đây, tâm cảnh tỉnh táo thanh minh hơn hẳn. Vừa nãy ta loáng thoáng có cảm ứng từ hướng này, vì vậy ta nghĩ ở đây sẽ xảy ra chuyện.”

Hầu Hi Bạch nhíu mày: “Theo tình hình của huynh hiện giờ, thêm một việc chi bằng bớt một việc, đúng không?”

Từ Tử Lăng mỉm cười: “Tiểu đệ là người thích sinh sự sao? Nhưng sự tình vô cùng kỳ diệu, xưa nay trên mình ta nhờ có Trường Sinh khí công hiệu liệu thương như thần nên chưa từng thúc thủ trước bất kỳ nội thương nào, nhưng giờ đã bị ma công đáng sợ do Dương Hư Ngạn dung hợp hai đại bí pháp làm một phá tan. Tạm thời ta chưa thể phục nguyên năng lực cùng địch nhân tranh hùng võ công nhưng tinh thần, linh giác lại không giảm theo võ công, ngược lại ngưng tụ rõ ràng hơn. Huynh hiểu ý của đệ chứ?”

Hầu Hi Bạch vui mừng nói: “Nói như vậy, thụ thương không hẳn là chuyện xấu đối với huynh, ngược lại là một cơ hội tu luyện hiếm có. Đợi đến khi nội thương của huynh lành hẳn, tu vi có thể thoát thai hoán cốt lên thêm một tầng, đạt được mức đột phá không tưởng. Nhưng nói thế nào thì ta vẫn không tán thành chuyện huynh mạo hiểm lần này, nhỡ may huynh gặp bất trắc, ta biết ăn nói thế nào với Khấu Trọng, Bạt Phong Hàn, Phi Huyên cùng Thanh Tuyền?”

Từ Tử Lăng chậm rãi nói: “Hi Bạch huynh phải tin vào dự cảm của ta, tuy khó lòng liệu trước việc đang đợi bọn ta trong hoang thôn là họa hay phúc nhưng ta cảm thấy có liên quan một phần đến chuyện tu hành tinh thần của ta. Tu hành không phải là trốn tránh mà đối mặt, chỉ trong những tình huống ác liệt nhất, sức mạnh tiềm tàng của con người mới phát huy được. Đây cũng là cơ hội cho Hi Bạch huynh, huynh từ họa đạo tiến nhập võ đạo tất phải kinh qua sóng gió, khảo nghiệm.”

Hầu Hi Bạch buông tiếng cười khổ: “Lời huynh nói rất có lý, chẳng qua kẻ địch của bọn ta là Lý Nguyên Cát cùng đám cao thủ dưới trướng, lại thêm Dương Hư Ngạn, cho dù ta tự phụ cỡ nào cũng không dám đảm bảo an toàn cho huynh.”

Từ Tử Lăng nói: “Đây rất có thể do tinh thần dị lực của ta phát huy tác dụng. Trên đường đến đây, ta luôn có cảm giác rõ ràng, tựa hồ hiểu được nguy hiểm chân chính ở nơi nào, vì thế đã thay đổi lộ trình trốn chạy, cuối cùng đến được hoang thôn này, lờ mờ cảm thấy đây là sinh lộ duy nhất. Cảm giác này thực sự không thể giải thích được, Hi Bạch huynh nên tin vào ta.”

Rốt cuộc Hầu Hi Bạch cũng hé cười, nói với vẻ cực kỳ hứng thú: “Lời Tử Lăng huynh nói huyền diệu quá, lại hàm ẩn lý lẽ. Ta nhân thể hỏi thêm một câu, hiện giờ huynh có cảm giác được vị trí của truy binh?”

Từ Tử Lăng bình tĩnh đáp: “Cảm giác nguy hiểm càng lúc càng gần, nếu ta đoán không sai thì chúng đang lần theo dấu vết của bọn ta. Vì ta không thể xóa vết chân, lý nào thoát khỏi pháp nhãn của kẻ thiện nghệ truy tung như Dương Hư Ngạn sao?”

Hầu Hi Bạch biến sắc: “Sao huynh không nói sớm, để ta cõng huynh!”

Từ Tử Lăng thở dài: “Có tác dụng gì chứ? Khí vị ta lưu lại vẫn không giấu được truy binh cao minh. Không nên chần chừ nữa, bọn ta cùng đến hoang thôn trước mặt thử xem vận khí thế nào?”

Hầu Hi Bạch cười khổ: “Ta còn được lựa chọn sao?”

o0o

Khấu Trọng thi triển mọi bản lĩnh, chỉ huy Thiếu Soái quân gắng gượng cố thủ mỏm núi, dựa vào chướng ngại cây cối mà đẩy lùi từng đợt sóng kỵ binh Đường quân từ bốn phương tám hướng đổ về. Song phương đều có thương vong, cánh quân chủ công của Đường quân thương vong thảm trọng hơn, nhưng đã thắt chặt được vòng vây.

Đội kỵ binh tiên phong của quân Đường lên đến một vạn người do đại tướng Vương Quân Khuếch suất lĩnh, vừa đến đã lập tức xua quân tấn công ào ạt, chia thành nhiều cánh quân tấn công vào trận địa nơi đầu núi. Thật may là Khấu Trọng dĩ dật đãi lao, lại chiếm tiện nghi về mặt địa thế từ trên cao đánh xuống, trên dưới đồng lòng nên cố thủ vững vàng.

Tiếng còi hiệu vang lên, địch nhân rút lui như từng đợt thủy triều, chỉnh đốn lại đội hình.

Khấu Trọng thu cung lại, trầm giọng: “Lý Thế Dân đã đến rồi.”

Dưới ánh nắng còn sót lại của buổi tịch dương, từ vùng rùng núi tây nam xa xa bụi bốc lên cuồn cuộn, tinh kỳ thấp thoáng.

Tướng sĩ, quân binh quanh gã đều cảm thấy trong lòng nặng như chì, cảm giác áp bức đến không thở nổi.

Khấu Trọng trầm giọng hỏi: “Chúng ta còn bao nhiêu tên nữa?”

Trần Lão Mưu đáp: “Đủ dùng đến lúc mặt trời mọc sáng mai.”

Khấu Trọng quay sang hỏi Ma Thường: “Tình hình đường rút lui như thế nào rồi?”

Ma Thường thần sắc ngưng trọng đáp: “Vương Quân Khuếch phái một cánh quân chừng ba ngàn kỵ binh dàn trận tại một ngọn núi ở phía Đông cánh đây khoảng nửa dặm, nếu bọn ta muốn thoát đi, phải qua được cửa ải của đám nhân mã này trước.”

Bạt Dã Cương lo lắng: “Nếu đại quân của Lý Thế Dân đến, binh lực của y lại được tăng cường, cơ hội thoát thân của bọn ta càng mỏng manh.”

Khấu Trọng cười nụ: “Hảo tiểu tử! Khẳng định là Lý Thế Dân nhìn thấy được ý đồ của bọn ta, mới áp dụng cách đánh lôi đình vạn quân, minh đao minh thương. May mà bọn ta không chỉ có địa lợi mà cả thiên thời. Lúc Lý Thế Dân đến trời chắc đã tối rồi, đó cũng là cơ hội đào tẩu duy nhất của bọn ta.”

Hình Nguyên Chân lên tiếng: “Xin Thiếu soái chỉ dẫn.”

Khấu Trọng vẫn giữ vẻ tự tin cố hữu: “Hiện giờ gió Đông Bắc đang thổi, bọn ta chia nhân mã thành hai đội, mỗi đội hai ngàn sáu trăm người, nhân lúc Lý Thế Dân mới đến, trận thế chưa ổn định, một đội xông ra đột vây theo hướng đông bắc, vừa đi vừa phóng hỏa đốt rừng, đội còn lại tùy cơ ứng biến, phụ trách đoạn hậu. Có lửa cháy lớn cùng khói mù yểm hộ, lại thêm trời tối gió lớn, địch nhân e ngại ngựa mệt nhọc, bọn ta tất sẽ an nhiên thoát đi. Nhược bằng cứ cố thủ đỉnh núi, địch nhân chặt hết rừng cây quanh đây, bọn ta biến thành đội quân trơ trọi giữa trùng vây, vĩnh viễn mất đi cơ hội đào thoát.”

Bọn Ma Thường đến giờ mới minh bạch ưu thế thiên thời địa lợi, lòng tin gia tăng bội phần. Khấu Trọng liền hạ lệnh: “Quân đột vây sẽ do Ma Thường chỉ huy, Bạt đại tướng quân cùng Hình đại tướng quân làm phó, Huyền Thứ cùng Trần công ở lại cùng ta lo việc đoạn hậu.”

Chúng tướng nhất tề vâng dạ, lĩnh mệnh lui ra.

Chỉ còn lại Trần Lão Mưu và Vương Huyền Thứ ở lại, Khấu Trọng nhấm nhẳng: “Lý Thế Dân muốn diệt trừ Khấu Trọng à, đã sớm qua mất cơ hội tốt rồi. Ta sẽ dùng chiến thuật của người Đột Quyết chơi với hắn đến cùng, để hắn hiểu được rằng Khấu Trọng ta không phải dễ bị khi phụ đâu.”

Hai người nghe vậy đều hiểu giữa gã và Lý Thế Dân không còn tình nghĩa gì, chỉ toàn là oán hận.

Vương Huyền Thứ hỏi: “Chiến thuật của người Đột Quyết là như thế nào?”

Song mục Khấu Trọng rực lên sát cơ, ngữ điệu lại bình tĩnh vô cùng: “Chiến thuật của người Đột Quyết là dùng cách đánh tiêu hao, đến hay đi đều nhanh như gió, xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị, đến đột ngột, đi cũng đột ngột, tại vùng hoang sơ có thể phát huy được sức phá hoại khôn lường, càng có thể lấy ít thắng nhiều. Vì từ đây đến Tương Thành toàn là vùng sơn dã, chính là nơi phát huy tốt nhất chiến thuật của người Đột Quyết. Hai cánh quân giằng co nhau cũng như cao thủ giao phong, bất kể đối phương người mạnh ngựa khỏe thế nào, chỉ cần ta nắm được chủ động, tránh mạnh đánh yếu, Lý Thế Dân có gì đáng sợ? Lý Thế Dân thiện nghệ phòng thủ, ta tiến công dài lâu, hiện giờ đã chuyển thành y đến tấn công bọn ta, ta dùng tấn công chọi lại tấn công, vào tử địa tìm đường sống.”

Trần Lão Mưu và Vương Huyền Thứ nghe vậy đều bội phục trong lòng, đổi lại là người khác, sau khi thất bại thê thảm, lại gặp tình huống ác liệt như thế, đấu chí không tiêu tan hết mới là chuyện lạ. Chỉ có Khấu Trọng vẫn kiên nghị không sờn lòng, không e sợ mà kiên cường phản kích.

Khấu Trọng hô lên một tràng dài: “Lý Thế Dân đến đấy.”

- o O o -

Hồi 666

Ma Quyết Chi Tranh

Hai người từ từ xuống núi, lần về hướng ngôi làng hoang.

Tối nay, mây đen dày đặc, trăng sao ảm đạm, gió núi hun hút, thật khó mà tả hết vẻ thê lương hoang lạnh.

Từ Tử Lăng hỏi: “Hi Bạch huynh vì sao lại cho rằng thôn này có điều bất ổn?”

Hầu Hi Bạch đáp: “Hoang thôn này từ hình dạng đến kết cấu nhà cửa đều có gì đó rất khác với các thôn ấp bình thường, rõ ràng là chốn ẩn cư của những người gia thế không tầm thường, nên ta có cảm giác nó có chút gì đó tà ám.”

Từ Tử Lăng gật đầu nói: “Đúng vậy! Thế nhưng ta và Khấu Trọng trước kia không hề để ý, còn phóng hỏa đốt hết mấy căn nhà ở đó nữa.”

Hầu Hi Bạch mỉm cười nói: “Ta vẫn còn một thắc mắc, Tử Lăng vừa nói sau khi bị thương, lại có thể nhớ ra những vấn đề mà lúc bình thường đã lơ là bỏ qua, không rõ là những vấn đề gì vậy? Ta thật hiếu kỳ quá.”

Từ Tử Lăng nhẹ nhàng giải thích: “Ta đang nghĩ đến vũ trụ thần bí to lớn không gì sánh nổi, không có khởi đầu, cũng không có kết thúc, luôn hiển hiện trước mắt chúng ta, như một câu đố vô cùng vô tận, rõ ràng là biệt lập bên ngoài chúng ta, nhưng vẫn cùng ta có mối tương quan, thậm chí chúng ta lại cũng là một phần trong đó. Cảm giác đó vô cùng cuốn hút, chỉ cần đối diện với nó, trầm tư mặc tưởng, bản thân dường như được giải phóng, như siêu việt hẳn lên. Cảm giác đó khiến cho ta từ lúc chịu thương tích hành hạ lại thấy mình như được tịnh hóa và thăng hoa, lại ẩn ước hiểu ra tự mình có thể nắm bắt hoặc cải biến hiện trạng, thậm chí điều trị nội thương chỉ thuần bằng năng lực tư duy.”

Hầu Hi Bạch càng tỏ ra hứng thú: “Suy nghĩ này của Tử Lăng thật mới lạ. Nhưng điều mà huynh nói đó thật sự là cảnh giới tinh thần mà những người cầu đạo hay tu luyện huyền môn thường tìm kiếm. Mức tu luyện tối cao của võ đạo cũng chính là cảnh giới và trình độ của tinh thần.”

Từ Tử Lăng hân hoan nói: “Cách nhìn nhận mới này giúp cho ta có một hiểu biết hết sức mới mẻ đối với toàn bộ bản thân mình, cũng như nhận thức được phải nắm bắt từng thời khắc trước mắt, đó thật là một trạng thái an tịnh và hoan lạc mà không lời nào mô tả được.”

Hầu Hi Bạch nói: “‘Thượng Thư’ có ghi ‘Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh duy nhất, duẫn chấp quyết trung’, câu nói hàm ý sâu xa ấy, so với cảnh giới mà Tử Lăng vừa đề cập đến, cũng không mấy khác.”

Từ Tử Lăng lẩm bẩm: “Đạo tâm duy vi, ôi! Đạo tâm duy vi.”

Hầu Hi Bạch ngạc nhiên hỏi: “Tử Lăng nghĩ ra việc gì thế? Sao lại thở dài?”

Hai người vừa đi vừa chuyện trò, đã đến được cổng thôn.

Hai bên đường là hai dãy nhà, phía trước cửa nẻo toang hoác, đường lớn cỏ dại mọc dày, đầy vẻ hoang vu.

Từ Tử Lăng bất chợt dừng lại, hạ thấp giọng, nói: “Trong thôn có người.”

Hầu Hi Bạch mỉm cười nói: “Có người là có chuyện, Tử Lăng cũng đã có dự cảm trong thôn có thể phát sinh biến cố, giờ trong thôn quả có người. Giờ chúng ta cứ thế bỏ đi, hay là lục soát từng nhà để tìm người đó?”

Từ Tử Lăng vui vẻ cất bước, thản nhiên nói: “ Là phúc thì không phải họa, là họa không thể tránh khỏi. Trong thời buổi binh lửa loạn lạc này, dám ở lại khu vực này chắc chẳng phải hạng tầm thường, chúng ta cứ vào thôn tìm hiểu xem sao.”

Hầu Hi Bạch và gã sóng vai bước lên con lộ chính của hoang thôn, đồng thời đề tụ công lực, chuẩn bị ứng phó đột biến.

Bất ngờ, trong một ngôi nhà mé trái, ánh đèn lửa chợt bừng lên.

Hai người ngạc nhiên nhìn lại, chỉ thấy ánh đèn chuyển đến gần cửa sổ bên mé lộ, rồi một giọng nữ nhân ngọt ngào quen thuộc cất lên: “Không biết ngọn gió nào, đưa được Tử Lăng và Hầu công tử đến đây vậy?”

o0o

Ước chừng hai vạn kỵ binh và bộ binh chủ lực của Lý Thế Dân từ từ tiến về bình nguyên hoang vu nằm ở mé trái trận địa trên đỉnh đồi chỗ Khấu Trọng, bày thành trận thế, giương cao đuốc lửa soi sáng ba đội kỵ binh, như ba con rồng lửa uốn lượn tiến lên, khiến cả vùng trời đỏ rực, quân uy đại thịnh, khiến người ta không rét mà run.

Lý Thế Dân rời khỏi trung quân, cùng khoảng mười mấy danh tướng với hai nghìn Huyền Giáp chiến sĩ yểm trợ xông thẳng ra tuyến trước, khiến người ta có cảm tưởng y có thể tự mình lao vào trường đấu, trực diện giao phong với Khấu Trọng.

Khấu Trọng đứng trước cổng trại, từ trên cao nhìn xuống, chú mục quan sát Lý Thế Dân đang tiến đến gần, bên cạnh gã là hai viên đại tướng Ma Thường và Bạt Dã Cương.

Trong lòng Khấu Trọng chợt dâng lên một cảm giác khúc mắc rất khó lý giải, từ lúc sơ giao cho đến hiện tại, ân ân oán oán tích tụ bao năm, đã dẫn đến cục diện ngày nay, hắn và Lý Thế Dân đã ở vào tình thế bất lưỡng lập, ai thắng làm vua, ai thua làm giặc, chẳng còn chỗ để thỏa hiệp, và chẳng còn ai có thể thay đổi tình thế.

Lý Thế Dân nay đã chiếm trọn thượng phong, còn gã, Khấu Trọng, phải trốn chui trốn nhủi, nhưng gã nhất định phải cải biến cục diện mới chịu thôi.

Chưa có lúc nào Khấu Trọng lại khát khao và cần có một chiến thắng như lúc này, để từ trong vô vọng tạo nên một cơ may.

Cũng chưa có lúc nào Khấu Trọng lại thấy kính trọng Lý Thế Dân như lúc này, vì nhận rõ y quả là đối thủ chân chính của gã.

Từ lúc khơi màn cuộc chiến Từ Giản đến lúc đột phá vòng vây, Lý Thế Dân hệt như một pháp sư trên chiến trường vô cùng thần thông quảng đại, toàn thể địch nhân, tính luôn cả Khấu Trọng, cũng chỉ như món đồ chơi trong tay y.

Chính vào lúc gã chứng kiến Đậu Kiến Đức bị Lý Nguyên Cát xử tử tàn nhẫn lạnh lùng trước công chúng, Khấu Trọng đã bất giác chứng ngộ điểm cốt tủy của cả đao pháp và binh pháp ngay tại chiến trường lãnh khốc.

Lý Thế Dân cuối cùng cũng đã đến tuyến đầu, ghé tai dặn nhỏ Vương Quân Khuếch, rồi rời chúng tướng, phi thẳng tới chỗ Khấu Trọng, bọn Trưởng Tôn Vô Kỵ, Uất Trì Kính Đức, Bàng Ngọc, La Sĩ Tín cùng các tướng và hơn trăm Huyền Giáp chiến sĩ vội vã chạy theo phù trợ.

Khấu Trọng sắp sửa lôi cung tên ra định nhắm bắn, bất chợt nghĩ đến đôi bên dù gì cũng đã từng là bằng hữu, mà đối phương cũng đang có lời muốn nói, đành cố nén xung động đầy cám dỗ đó trong lòng, giơ tay ra hiệu cho thuộc hạ đừng đi theo mình, rồi tiến lên mấy bước, xuống triền núi đón Lý Thế Dân, cười ha hả nói: “Làm Thế Dân huynh phải nhọc lòng mất ngủ đến chặn ở đây, tiểu đệ thật đắc tội.”

Lý Thế Dân ghìm cương dừng ngựa, nở nụ cười khổ: “Chúng ta vì sao lại đến nông nỗi này? Xin Thiếu soái rộng lòng nghe Thế Dân lại nói mấy lời thừa thãi. Trở lại chính đề, Thiếu soái lại bỏ miền nam mà cố thủ miền đông, rõ ràng là ngoài dự liệu của Thế Dân này, vì thế không do dự quyết định bằng bất cứ giá nào cũng phải lưu Thiếu soái ở lại nơi đây.”

Khấu Trọng kinh ngạc: “Đã nói như thế, sao Thế Dân huynh còn nói mãi những lời thừa thãi làm gì? Sao không lập tức hạ lệnh toàn diện tấn công?”

Lý Thế Dân mỉm cười, nói: “Chỉ nghe hai câu này thì xem ra Thiếu soái đã có kế hoạch cẩn mật, nếu không cũng không mạo hiểm công thành Tương Dương, càng không xông đến Bành Lương để tự đưa mình vào tuyệt lộ. Nói trắng ra, chẳng có ai giống Thiếu soái có đủ năng lực làm Thế Dân đau đầu nhức óc như vậy.”

Khấu Trọng cười ha hả, nói: “Thế Dân huynh chớ quá lời khen tiểu đệ, nếu tiểu đệ có pháp bảo gì đó, thì chỉ e mọi người còn phải giương mắt chờ xem! Nếu như Thế Dân huynh không còn lời nào đáng nghe hơn, tiểu đệ xin nhân lúc trời đang tối mà đi vậy.”

Lý Thế Dân nhíu mày nói: “Lúc này là lúc gió đông bắc thổi mạnh, giả dụ Thế Dân phóng hỏa đốt rừng ở phía sau trại của Thiếu soái, lửa khói nương gió quét qua trận địa trên núi của Thiếu soái, cắt đứt đường lui về hướng đông. Lúc ấy Thế Dân lại đem binh chia làm ba lộ, đánh vào chính diện và hai cánh tả hữu của trận địa, dùng tên lửa thiêu cháy hệ thống phòng ngự thô sơ của Thiếu soái, Thiếu soái sẽ ứng phó như thế nào? Nói như vậy có ý nghĩa hơn rồi chứ?”

Khấu Trọng nghe qua, lòng như chùng lại, Lý Thế Dân có thể thẳng tay đến thế ư? Khiến cho kế hoạch đào tẩu ban đầu của gã không thể thực hiện được.

Gã cười khổ, nói: “Thế Dân huynh tốt nhất không nên sính cái dũng của bọn thất phu mà tự mình suất lĩnh đại quân tấn công, nếu không tiểu đệ buộc phải giết huynh trước nhất!” Nói xong, lập tức thối lui về bản trận.

Lý Thế Dân buồn bã thở dài, rồi ra lệnh cho lính truyền tin dùng đèn phát tín hiệu, lập tức phía sau trận địa sơn đầu khoảng nửa dặm, lửa rùng rùng bốc cháy, khắp một dải sơn dã kéo dài chừng hai dặm đều bị lửa khống chế, theo gió lan về hướng trận địa trên núi.

o0o

Loan Loan như một bóng u linh đang cầm đèn đứng bên cửa sổ, toàn thân trắng toát nổi bật trong ánh lửa. Đôi mắt đẹp ánh lên vẻ thần bí khôn dò, vừa trong sáng vô ngần, lại vừa ẩn hiện nét quỷ dị khó nói thành lời.

Tử Lăng và Hi Bạch hai người không thể tưởng nỗi là gặp lại Loan Loan nơi thôn vắng này, đều ngây người ra, không thốt nên lời.

Loan Loan nở nụ cười rạng rỡ có thể làm người ta xiêu hồn động phách, dịu dàng lên tiếng: “Tử Lăng đã thọ thương ư? Thật khiến người ta phải đau lòng mà! Kẻ đáng ghét nào lại đủ bản lĩnh đả thương chàng như thế? Để Loan nhi thay chàng đòi lại công đạo, được chăng? Ngoài trời gió lắm, sao không vào trong này?”

Cửa sổ chợt tối lại, Loan Loan đã cầm đèn rời khỏi, hai người đưa mắt nhìn nhau, hoàn toàn không hiểu nổi tại sao nàng ta lại có thể xuất hiện tại đây lúc này. Cửa chính kêu lên kèn kẹt rồi mở rộng, Loan Loan tươi cười đứng đó, ngọt ngào bảo: “Vào đi thôi!”

Từ Tử Lăng không một chút hoài nghi thành ý của nàng, liền bước vào nhà trước, Hầu Hi Bạch cũng đành theo chân.

Nàng nép sang một bên cho hai người vào nhà rồi quay ra đóng cửa.

Trong phòng rõ ràng đã được quét dọn, chẳng chút bụi bặm, đồ đạc trong nhà cũng còn rất tốt.

Loan Loan đợi hai người đã bước qua xong, đặt cây nến xuống chiếc bàn nhỏ gần cửa sổ, xoay lưng lại bọn họ, khẽ nói: “Đây chẳng phải là ‘hữu duyên thiên lý năng tương ngộ’ sao? Tử Lăng à? Vì sao mà chàng lại tái xuất hiện trước mặt ta chứ? Ồ! Ngồi xuống hãy nói tiếp nhé?”

Hai người như ngây như ngốc ngồi xuống mấy cái ghế gần đấy, mắt không rời khỏi tấm lưng thon thả xinh đẹp của Loan Loan.

Hầu Hi Bạch hắng giọng, nói: “Cô nương dường như đã lưu lại đây được ít lâu rồi thì phải? Chà! Vì sao cô nương lại chọn nơi ẩn thân ở hoang thôn gần nơi binh lửa này chứ?”

Loan Loan dịu dàng đáp: “Hầu công tử biết không, Loan nhi đã trải qua thời thơ ấu ở cái thôn nhỏ xinh đẹp này đấy, cho đến năm mười lăm tuổi, ta mới theo sư phụ dời đi nơi khác.”

Hai người lúc này mới hiểu ra cái trang viên nằm trong tiểu thôn không tầm thường này đã từng là sào huyệt bí mật của Âm Quý Phái.

Loan Loan xoay người, đối diện với hai người, đôi mắt đẹp chớp ngời, chăm chú nhìn Từ Tử Lăng, nói: “Tử Lăng còn chưa trả lời câu hỏi của ta đó.”

Hầu Hi Bạch đáp thay: “Chính là tiểu tử Dương Hư Ngạn đó, gã đã luyện được Bất Tử ấn pháp và dung hợp với tà môn công phu trong Ngự Tận Vạn Pháp Căn Nguyên Trí Kinh, nhân lúc Tử Lăng bị các cao thủ bao vây trên chiến trường, đã đả thương Tử Lăng.”

Loan Loan nhíu tít đôi mày, hỏi: “Có việc ấy ư?”

Hầu Hi Bạch liếc nhìn Từ Tử Lăng, nở nụ cười khổ, nói: “Nói trắng ra, cho đến giờ phút này, ta cũng không dám tin Dương Hư Ngạn có thể luyện thành Bất Tử ấn pháp, chẳng qua Tử Lăng đã thấy qua môn công phu ấy, nên ta cũng theo nói theo huynh ấy thôi.”

Từ Tử Lăng chuyển sang đề tài khác, hỏi: “Loan đại tỷ không phải định ở lại đây ẩn cư tiềm tu đấy chứ?”

Loan Loan lãnh đạm nói: “Thấy cảnh cũ càng đau lòng, nên nơi đây chẳng thể là chỗ ẩn cư tốt của ta. Hai người gặp ta ở đây, đó chính là vì Loan nhi hẹn gặp người trong tệ phái ở đây đêm nay để giải quyết việc ‘Thiên Ma Quyết’ trong tay của Loan nhi sẽ thuộc về ai, Loan nhi cũng không có hứng thú cùng bọn họ dây dưa mãi.”

Từ Tử Lăng thắc mắc: “Nàng cứ tìm nơi u tĩnh mà lánh thân, thì còn ai tìm được chứ? Sao lại mạo hiểm làm gì?”

Loan Loan mỉm cười, nói: “Vì ta muốn bọn họ biết rằng ta mới chính thống là truyền nhân thực sự của Âm Quý Phái, sẽ làm cho Âm Quý Phái phát dương quang đại.”

Hầu Hi Bạch trầm giọng, nói: “‘Thiên Ma Quyết’ không chỉ có người của quý phái mong đoạt được, mà tất cả các phái hệ khác của Thánh môn đều nhòm ngó, nếu chẳng may Thạch sư phụ cũng đến, chỉ sợ cô nương khéo quá lại hóa vụng!”

Loan Loan cười chúm chím, gật đầu nói: “Không ai có thể lấy được ‘Thiên Ma Quyết’ từ người ta, kể cả lệnh sư. Loan nhi đã luyện thành Thiên Ma đại pháp, đến đường cùng có thể dùng chiêu ngọc đá cũng đều ra tro, ngay cả lệnh sư cũng không dám chắc mười phần có thể ứng phó. Lần này ta ấn định cuộc hẹn sinh tử này chính là để chứng minh đẳng cấp của ta trong Thánh môn, ta chẳng những có đủ tư cách, mà còn có đủ bản lĩnh để bảo tồn báu vật mà sư tôn đích thân giao lại.”

Từ Tử Lăng thấp giọng hô: “Có người vào thôn!”

Loan Loan lộ vẻ kinh ngạc nhìn chàng.

Từ ngoài đường vọng vào thanh âm của Biên Bất Phụ: “Loan nhi sao lại bày trò vô ích này, mà còn chưa ra đây bái kiến Biên sư thúc?”

Loan Loan đã khôi phục thần sắc lạnh lùng bình tĩnh, khẽ nói: “Đợi ta giết chết kẻ này, rồi sẽ cùng nghĩ cách trị thương cho Tử Lăng.” Nói rồi, thân hình nàng như bóng u linh lướt ra ngoài cửa.

 - o O o -

Hồi 667

Hoang Thôn Phong Vân

Lý Nguyên Cát hiên ngang đi đầu, Liệt Mã Thương do tùy tùng vác theo. Hai mắt hắn lấp lánh thần quang, còn cách nơi đó chừng hơn trăm bước thì dừng lại, đảo mắt nhìn quanh rồi bị hút chặt vào người Loan Loan, rõ ràng bị dung mạo tuyệt thế của nàng hấp dẫn.

Đi cùng hắn là Mai Tuần, Khang Sao Lợi, Sử Vạn Bảo, Lý Nam Thiên, Tiết Vạn Triệt, Phùng Lập Bản và năm cao thủ thân vệ xếp thành một hàng phía sau, phong tỏa phía Bắc đại lộ dẫn vào thôn. Ai nấy sát khí đằng đằng, thần thái như thể chỉ một vài lời không lọt tai lập tức động võ.

Khí thế công hãm Lạc Dương bừng bừng trên mình hắn và đám tùy tùng. Ba thân vệ giơ cao đuốc, chiếu sáng hoang thôn tối đen.

Từ nơi đứng của bọn chúng, xem ra không thể thấy được Từ Tử Lăng và Hầu Hi Bạch đang đứng sau cửa sổ nhìn ra.

Loan Loan tựa như không biết Lý Nguyên Cát xông vào hoang thôn, ánh mắt hay sự quan tâm, thần thái đều cực kỳ lạnh lùng.

Từ Tử Lăng và Hầu Hi Bạch ở trong nhà thầm kêu khổ. Vốn dĩ kẻ địch uy hiếp nhất là Dương Hư Ngạn còn chưa hiện thân, nhưng với tác phong nhất quán của Ảnh Tử Kiếm Khách, bất cứ lúc nào cũng có thể bất ngờ xuất hiện, tung ra sát chiêu công kích trí mạng đối với mục tiêu hắn săn đuổi.

Vinh Phụng Tường cười khà khà, bước lên vài bước, hướng đến Lý Nguyên Cát cúi đầu hành lễ, cung kính nói: “Thì ra Tề vương đại giá quang lâm. Lão phu Lạc Dương Vinh Phụng Tường, tham kiến Tề vương.”

Mai Tuần bước đến sau lưng Lý Nguyên Cát, nói khẽ với hắn ta. Lý Nguyên Cát không ngừng gật đầu, hiển nhiên đang nghe hắn giải thích thân phận, lai lịch của Vinh Phụng Tường.

Gió núi thổi qua, đuốc bừng bừng cháy sáng, khắp thôn thi thoảng lại vang lên thanh âm gió lùa, đồ vật va chạm vào nhau, càng làm cho bầu không khí tại hoang thôn giống như quỷ vực.

Mai Tuần nói xong, Lý Nguyên Cát lạnh lẽo lên tiếng: “Thì ra là Vinh lão bản của Hà Bắc Thương Hội Hàng Xã, còn những người khác là thế nào? Vị cô nương này là ai?”

Lời lẽ không chút khách khí, căn bản không xem Vinh Phụng Tường ra gì. Tích Thủ Huyền cũng là loại người hoành hành bá đạo, bất quá lòng dạ thâm sâu nên trong lòng nghĩ gì cũng không để lộ ra mặt.

Đến lúc này, Từ Tử Lăng ở trong phòng khẳng định Âm Quý Phái và Lý Nguyên Cát không có quan hệ qua lại trực tiếp, bằng không đâu thể xuất hiện tình huống thế này.

Văn Thái Đình dịu dàng nói: “Chúng ta chỉ là du dân sơn dã, không đáng để Tề vương phải bận tâm. Chẳng hay Tề vương đến đây truy bắt Từ Tử Lăng và Hầu Hi Bạch chăng?”

Lý Nguyên Cát rúng động: “Bọn chúng ở đâu?”

Biên Bất Phụ hung dữ nói: “Chính ở trong phòng đó!”, ngón tay đưa lên chỉ thẳng vào Từ Tử Lăng và Hầu Hi Bạch ở sau song cửa.

“Choang choang!”

Lý Nguyên Cát chộp lấy Liệt Mã Thương trên vai thân vệ, những người khác cũng nhao nhao rút binh khí như gặp đại địch. Rõ ràng dù Từ Tử Lăng đã thụ thương nghiêm trọng nhưng bọn họ vẫn không dám khinh xuất.

Loan Loan lãnh đạm nói: “Kẻ nào muốn giết Từ Tử Lăng thì ta giết kẻ đó trước.”

Lúc này ngay cả Lý Nguyên Cát tham hoa háo sắc cũng cảm nhận được tà môn của Loan Loan. Nếu đổi là người khác nói thế ắt hắn đã sớm hạ lệnh công kích, Lý Nguyên Cát giờ lại tỏ ra kinh ngạc hỏi: “Cô nương rốt cuộc là ai?”

Khang Sao Lợi bước đến bên cạnh hắn nhỏ giọng giải thích. Lý Nguyên Cát vừa nghe hai mắt đã bộc lộ sát cơ, ánh mắt sắc như đao quét khắp người Loan Loan. Đợi Khang Sao Lợi nói xong, hắn ngửa mặt cười lớn: “Thì ra là Loan đại tiểu thư của Âm Quý Phái, chẳng trách dám lớn lối như thế, định cản trở Lý Nguyên Cát ta truy bắt khâm phạm. Nhưng xem ra Loan tiểu thư tự thân đã khó giữ nổi, còn rảnh rỗi quản chuyện của người khác sao?”

Tích Thủ Huyền xen vào: “Tề vương quả thật anh minh thần võ, thoáng chốc đã nắm rõ hoàn toàn hình thế”. Tiếp đó chuyển giọng lạnh lùng quát lớn: “Từ Tử Lăng! Nếu ngươi là nam tử hán đại trượng phu, lập tức thò mặt ra mà đón tiếp Tề vương đi!”

Văn Thái Đình khẽ cười: “Từ Tử Lăng biến thành rùa rút đầu từ khi nào vậy, đợi người khác đến lôi ngươi ra sao?”

Từ Tử Lăng và Hầu Hi Bạch thầm thóa mạ trong lòng, hiểu rõ Tích Thủ Huyền và Văn Thái Đình sống lâu thành tinh, nhìn được ra Từ Tử Lăng có vấn đề. Bằng không với võ công của Từ Tử Lăng, lại cộng thêm Hầu Hi Bạch gã, có thể tẩu thoát bất cứ lúc nào hà tất phải để Loan Loan ra mặt.

Tích, Văn hai người càng không phải lo nghĩ cho Loan Loan, chỉ sợ nàng xung đột với Lý Nguyên Cát, nếu “Thiên Ma Quyết” trên người nàng rơi vào tay Lý Nguyên Cát thì e rằng không có cách nào thu hồi lại. Nói cho cùng Loan Loan cũng là người trong Ma môn, không nên để ngoại nhân xen vào sự việc nội bộ môn phái.

Cả ba bên đều có cố kỵ riêng, tình thế trở nên vô cùng vi diệu.

Từ Tử Lăng hít sâu một hơi, nhỏ giọng nói: “Chúng ta ra thôi.”

Hầu Hi Bạch lo lắng: “Tình hình của huynh thế nào?”

Từ Tử Lăng nói: “Đã khá hơn một chút, có thể miễn cưỡng ngạnh tiếp vài chiêu, thật kỳ quái! Dương Hư Ngạn vì sao vẫn chưa hiện thân? Chẳng lẽ hắn lại bỏ lỡ cơ hội tốt để sát thương bọn ta.”

Hầu Hi Bạch gật đầu đồng ý, cũng không nghĩ ra được lý do Dương Hư Ngạn tụ thủ bàng quan, hắn đã biết rõ tranh chấp giữa Loan Loan và các trưởng lão trong phái, cũng như nắm rõ thương thế của Từ Tử Lăng, hắn khống chế toàn bộ tình huống trong lòng bàn tay thì không có lý do gì bỏ qua cơ hội tốt như vậy.

Từ Tử Lăng sải bước ra cửa, Hầu Hi Bạch lắc mình lên trước một bước, rút Mỹ Nhân Phiến, “Soạt” một tiếng xòe ra đoạn rảo bước ra khỏi cửa, chiếc phiến trên tay không ngừng phe phẩy dáng vẻ thật tiêu sái, cười ha hả: “Thường nghe võ công Vân Vũ Song Tu Tích Thủ Huyền đứng nhất nhì trong Âm Quý Phái, hảo đồ đệ Lâm Sĩ Hồng trò giỏi hơn thầy, uy danh vang lừng, Hầu Hi Bạch mỗ phải lãnh giáo vài chiêu xem thử có như lời đồn không.”

Gã tuyệt không muốn cùng Tích Thủ Huyền động thủ mà chỉ thi triển chút thủ đoạn nhằm làm tình thế thêm phức tạp. Điểm lợi hại là ngầm chỉ ra quan hệ giữa Lâm Sĩ Hồng và Âm Quý Phái. Bọn chúng đã là đồng đảng của Lâm Sĩ Hồng, đương nhiên là kẻ địch của Lý Nguyên Cát.

Lý Nam Thiên hét lớn: “Câm mồm! Hầu Hi Bạch ngươi không biết xấu hổ, lại dám che chở khâm phạm đã phạm vào tử tội, còn không chịu lập tức quỳ xuống xin tha?”

Từ Tử Lăng ung dung theo Hầu Hi Bạch bước ra ngoài phòng, cười nhẹ nói: “Một ngày Khấu Trọng chưa chết, thiên hạ vẫn chưa thuộc về Lý Đường, cái gì mà khâm phạm tử tội, thật là tức cười.”

Bọn Lý Nguyên Cát vô cùng ngạc nhiên, đưa mắt quan sát thần thái Từ Tử Lăng, nghe gã nói thêm điệu bộ rõ ràng không bị nội thương nghiêm trọng như hình dung của Dương Hư Ngạn, bất đồ trong lòng chấn động.

Lý Nguyên Cát vốn đã định chủ ý, khi Từ Tử Lăng xuất hiện lập tức hạ lệnh công kích. Bây giờ sự việc biến chuyển làm hắn do dự, lại thêm bị lời nói của Hầu Hi Bạch tác động liền không khỏi phát sinh cố kỵ đối với phe Tích Thủ Huyền. Giả thuyết Từ Tử Lăng đã bình phục nội thương, người của Âm Quý Phái lại đối lập với hắn, tình thế vốn tưởng nắm chắc này lập tức biến thành không bất lợi.

Vinh Phụng Tường cao giọng: “Vinh mỗ có một đề nghị, kính mong Tề vương châm chước.”

Lý Nguyên Cát không còn kiên nhẫn nhìn về phía lão. Lúc này Loan Loan đã lui lại vào giữa Hầu Hi Bạch và Từ Tử Lăng, lấy thân thể và y sam yểm hộ, ngầm nắm chặt tay Từ Tử Lăng.

Trong lòng Từ Tử Lăng dâng lên cảm giác khác lạ, giống như gã hoàn toàn tín nhiệm bàn tay nàng, cảm nhận được nàng không những không gây hại mà toàn tâm toàn ý hỗ trợ gã.

Ngoại trừ Khấu Trọng, người hiểu rõ nhất tình hình chân khí vận chuyển trong thể nội gã chính là Loan Loan. Nếu như cả nàng cũng bó tay, cơ hội để Thạch Thanh Tuyền chưa khỏi cho gã càng mờ mịt.

Nhân mã của Lý Nguyên Cát và Tích Thủ Huyền thấy Loan Loan thân mật xen vào giữa Từ Tử Lăng và Hầu Hi Bạch liền cảm thấy bất an, tuy không nhìn ra được động tác của bọn họ.

Luận cơ trí giảo hoạt, khẳng định tất cả người đang ở đây đều không thể so với nàng. Loan Loan hướng về Lý Nguyên Cát, hiển hiện vẻ mặt tươi cười có thể mê hoặc bất cứ nam nhân nào, nũng nịu nói: “Tề vương à! Vô luận Vinh lão bản có đề nghị gì thì cũng ngàn lần đừng nghe, bởi hắn chính là Bích Trần đạo nhân của Lão Quân Miếu trong Thánh môn lưỡng phái lục đạo, Tề vương chắc đã nghe qua. Thứ bọn họ muốn chính là bảo điển ‘Thiên Ma Quyết’ của tệ môn trên người nô gia, thỉnh Tề vương minh giám.”

Ai nấy bên phía Tích Thủ Huyền đều kinh giận, phải biết Ma môn có một quy củ bất thành văn, chính là tuyệt không được tiết lộ bất kỳ sự việc nào của Ma môn cho người ngoài, Loan Loan ở trước mặt Lý Nguyên Cát vạch trần thân phận của Vinh Phụng Tường chẳng khác gì phản bội môn phái, đối địch với cả Ma môn.

Từ Tử Lăng cảm kích trong lòng, minh bạch Loan Loan đang tranh thủ thời gian để trị thương cho gã.

Thiên Ma Chân Khí của Loan Loan trong lúc cười nói đã chầm chậm di chuyển ba lần khắp tạng phủ kinh mạch gã, dựa vào Thiên Ma Chân Khí có thể khắc chế đặc tính tà khí, từ từ trục tà độc của Dương Hư Ngạn ra ngoài, hành công đang đến lúc quan trọng, vô cùng khẩn trương.

Đán Mai cất tiếng the thé: “Loan Loan, ngươi làm sao có thể nói lời đại nghịch bất đạo như thế?”

Lý Nguyên Cát nghe xong hai mắt sáng rỡ. Việc Vinh Phụng Tường là Bích Trần, căn bản không làm cho hắn quan tâm, “Thiên Ma Quyết” trong ngực Loan Loan thì khác, tượng trưng cho vinh nhục của Ma môn. Nếu như hắn có thể đoạt được bảo điển, không những có thể đại tăng uy vọng bản thân, mà còn khiến cho Lý Uyên vốn căm hận Ma môn vui mừng, công lao không kém hơn việc giết chết hay bắt giữ Từ Tử Lăng.

Bọn Tích Thủ Huyền tuy hận không thể lập tức vây công Loan Loan, nhưng Lý Nguyên Cát gườm gườm bên cạnh, chỉ đành nuốt cục giận xuống.

Văn Thái Đình dằn thịnh nộ, êm giọng: “Tục ngữ có câu đèn nhà ai nấy sáng, Tề vương cứ việc truy bắt khâm phạm. Phản đồ của tệ phái xin để cho bọn ta xử lý, mong Tề vương quyết định cho.”

Lý Nguyên Cát hừ lạnh: “Tà ma yêu nghiệt lại dám uy hiếp Lý Nguyên Cát ta coi chừng rước lấy phiền phức. Thức thời thì lập tức tránh xa đừng cản trở ta tróc nã khâm phạm, nếu không đừng trách ta không khách khí”.

Ngay vào lúc này, một giọng nói từ trong căn phòng Từ Tử Lăng và Hầu Hi Bạch vừa mới rời khỏi vang lên: “’Tà ma yêu nghiệt?’. Hừ! Hay cho câu ‘Tà ma yêu nghiệt’, cho dù là Lý Uyên đích thân đến cũng không dám lớn lối như thế, hà huống chỉ là một tên tiểu tử chưa ráo máu đầu như Lý Nguyên Cát ngươi.”

Ngoại trừ người bên Tích Thủ Huyền, những người còn lại đều biến sắc.

Con người ngông cuồng tự đại tung hoành thiên hạ, cho đến hôm nay vẫn không ai làm gì được là Thạch Chi Hiên chắp tay khoan thai từ căn phòng phía sau ba người bước ra, không chút cố kỵ đi thẳng về phía Lý Nguyên Cát.

Lý Nguyên Cát tuy lả kẻ hãn dũng nhưng vẫn lộ thần sắc kinh hãi khẩn trương, cùng toàn bộ thủ hạ liền triển khai trận thế, đứng nghiêm cẩn chờ đợi.

Thạch Chi Hiên tại Trường An bị Lý Uyên đích thân suất lãnh cao thủ vây công vào Vô Lượng Tự của Lý thất, cuối cùng vẫn để Thạch Chi Hiên giết người vượt vây. Ký ức đó còn như mới, vì vậy hiện giờ tuy người đông thế mạnh, nhưng không ai tin tưởng sẽ thắng được.

Thạch Chi Hiên vừa xuất hiện, tức thời tình thế xoay chuyển.

Loan Loan, Từ Tử Lăng và Hầu Hi Bạch thầm kêu khổ trong lòng, Thạch Chi Hiên khó ứng phó với đám nhân mã của Tích Thủ Huyền và Lý Nguyên Cát nhiều. Đến lúc này Từ, Hầu hai gã mới minh bạch vì sao Dương Hư Ngạn không dám hiện thân, vốn có Thạch Chi Hiên tiềm phục nơi này, chẳng trách bọn người Tích Thủ Huyền không xem hai gã vào đâu.

Thạch Chi Hiên còn cách Lý Nguyên Cát chừng mười bước chân thì an nhiên dừng lại, hai mắt tinh quang sáng rực, khẽ cười nói: “Tề vương vì sao đột nhiên biến thành người câm vậy. Thạch Chi Hiên ta là kẻ bị nhân sĩ chính đạo gọi là tà ma yêu nghiệt, ngươi đã tự cho mình là chính đạo. Vậy Thạch mỗ chính là người xứng đáng để ngươi trừ ma vệ đạo đây.”

Cho dù da mặt Lý Nguyên Cát có dày đến đâu cũng không chịu được việc bị Thạch Chi Hiên miệt thị trước mặt nhiều người, bèn hét lớn một tiếng, Liệt Mã Thương nhắm thẳng vào ngực lão đâm thốc lên

Kim thương của Mai Tuần, Đột Quyết Mã Đao của Khang Sao Lợi từ bên trái Lý Nguyên Cát công đến Thạch Chi Hiên. Kiếm của Phùng Lập Bản và mâu của Sử Vạn Bảo từ bên phải phát động công kích, muốn buộc Thạch Chi Hiên phải liên tiếp chống đỡ, khó phát huy được Bất Tử ấn pháp.

Tiết Vạn Triệt và Lý Nam Thiên, một vung đồng côn, một bạt trường kiếm, từ hai cánh vòng lại đằng sau Thạch Chi Hiên, đề phòng lão thối lui, năm thân vệ cao thủ của Lý Nguyên Cát quẳng đuốc, rút bội đao bảo vệ sau lưng Lý Nguyên Cát, chuẩn bị sẵn sàng hộ giá.

Từ Tử Lăng cảm thấy khó hiểu, đặt mình vào vị trí của Thạch Chi Hiên mà nghĩ, vô luận từ bất cứ lý do nào, trường kịch chiến này vẫn là không cần thiết.

Đầu tiên Thạch Chi Hiên chắc chắn không thể giết Lý Nguyên Cát, bởi muốn lật đổ thiên hạ của Lý Đường thì Lý Nguyên Cát rất có giá trị lợi dụng. Không những có thể khống chế Lý Kiến Thành gây ảnh hưởng Lý Uyên, mà còn là con cờ quan trọng để đối phó Lý Thế Dân.

Thêm vào đó, với uy thế võ công của lão, nếu bọn Tích Thủ Huyền lại tỏ rõ muốn liên kết với lão, cho dù Lý Nguyên Cát có cuồng vọng tự đại ra sao, dưới tình thế như vậy cũng đành biết khó mà rút. Giả dụ lão đáp ứng thu thập Loan Loan rồi giao ra Từ Tử Lăng, Lý Nguyên Cát tất phải vô cùng cảm kích.

Điều khiến Từ Tử Lăng nghi hoặc nhất là lời nói và hành động của Thạch Chi Hiên rõ là nhằm vào Lý Nguyên Cát, giống như Bạt Phong Hàn lợi dụng tính nết ngang ngược kiêu ngạo của Lý Nguyên Cát bức bách hắn cùng bộ hạ xuất thủ, rồi khống chế toàn cục.

Cất tràng cười lồng lộng, Thạch Chi Hiên đứng trong không gian chật hẹp giữa vòng vây công thể hiện sự tinh vi huyền ảo, lắc lư như quỷ mị, tức khắc khiến tất cả công kích của địch nhân mất đi mục tiêu khó lòng toàn lực xuất thủ, ngón tay điểm ra đúng ngay mũi nhọn của Liệt Mã Thương.

Lý Nguyên Cát toàn thân rúng động, công lực bị tiêu tán, kêu lên đau đớn thối lui về sau, các thân vệ cao thủ kinh hãi vội chen vào ứng cứu, hai cây đao bổ đến Thạch Chi Hiên tốc độ vô cùng nhanh nhạy.

Kim thương của Mai Tuần, Mã Đao của Khang Sao Lợi, Kiếm của Phùng Lập Bản, Mâu của Sử Vạn Bảo, từ các góc độ khác nhau hai bên cánh mạnh mẽ tấn công Thạch Chi Hiên.

Lý Nam Thiên và Tiết Vạn Triệt lúc này di chuyển đến vị trí công kích phía sau Thạch Chi Hiên, hai người thấy tình thế không ổn, đồng loạt đánh vào chỗ yếu hại sau lưng lão.

Cho dù Thạch Chi Hiên tài giỏi đến mấy, vẫn không thể đồng thời ứng phó với thế công bài sơn đảo hải từ bốn phương tám hướng như thế.

Bỗng nhiên mọi người đều hoa mắt, chỉ thấy Thạch Chi Hiên tung mình vọt lên, thân pháp ảo diệu đến khó mà hình dung, tránh được toàn bộ công kích, hai chân nhẹ nhàng phân ra điểm lên đầu hai thân vệ.

Thanh âm do xương đầu vỡ vụn vang lên, hai thân vệ thất khiếu lưu huyết, trường đao văng xuống đất ngã vật ra sau chết ngay tức khắc.

Lý Nguyên Cát hét lên điên cuồng, Liệt Mã Thương liền hóa thành hàng vạn quang ảnh, như Trường Giang cuồn cuộn công đến Thạch Chi Hiên trên không trung.

Bọn người Mai Tuần lúc này đã ở đằng sau Thạch Chi Hiên, tuy lập tức biến đổi thế công nhưng vẫn chậm một bước.

Ba thân vệ cao thủ còn lại của Lý Nguyên Cát thấy lão xuất thủ giết chết đồng bọn, người người cùng chung kẻ thù, bất chấp tính mạng từ các vị trí khác nhau vung đao chém tới Tà vương lơ lửng trên không trung.

Ba đao một thương toàn bộ đánh và khoảng không, Thạch Chi Hiên với tốc độ nhanh vô cùng hạ xuống, hai tay huy động lập tức ba thân vệ cao thủ bị đánh văng ra ngoài, không ai sống sót.

Hai tay Thạch Chi Hiên tiếp đó chập lại, phát ra một cỗ kình khí hùng mạnh không thể kháng cự, ào ạt công kích địch nhân xung quanh.

Lý Nguyên Cát không hổ là cao thủ, lộ ra bản lĩnh chân chính, Liệt Mã Thương giống như độc xà có sinh mạng cấp tốc chuyển động, nhân lúc Thạch Chi Hiên ứng phó với công kích phía sau, mạnh mẽ mổ vào yết hầu Thạch Chi Hiên. Chỉ cần lão né sang bên, hắn có thể dựa vào hiệp trợ của những người kia mà lập lại vòng vây.

Thắng bại chỉ cách nhau một đường tơ.

Bọn Lý Nam Thiên, Mai Tuần, Tiết Vạn Triệt xông lên tấn công đều có cảm giác như đánh vào tường đồng vách sắt, không những khó tiến lên được một tấc mà hai mắt như bị đao quét qua làm cho không mở nổi mắt ra, ma công như thế, đích xác cực kỳ kinh hãi.

“Chát!”

Thạch Chi Hiên tung ra một cước vào ngay chính giữa thân Liệt Mã Thương của Lý Nguyên Cát.

Lý Nguyên Cát tay suýt nữa bị đánh văng bảo thương, hổ khẩu như có lửa thiêu, ngực giống như bị thiết chùy lớn đánh trúng, kinh hãi tung người ra sau.

Bọn Mai Tuần hét vang, Thạch Chi Hiên đã triển khai Ảo Ma thân pháp truy theo Lý Nguyên Cát như hình với bóng.

Phe Mai Tuần phát cuồng đuổi theo, nhưng đã không thể vãn hồi sự tình trước mắt.

Chỉ thấy hai đạo nhân ảnh của Thạch Chi Hiên và Lý Nguyên Cát giao chiêu thần tốc ở nơi cổng vào hoang thôn, nhanh đến mức khiến người xem chóng mặt, thực hiện những thế đánh áp sát lăng lệ kịch liệt. Cho dù Từ Tử Lăng ở đằng xa cũng nhìn đến hoa mắt, không rõ được thế nào. Chỉ mường tượng Thạch Chi Hiên không phải muốn giết mà muốn bắt giữ, nếu không Lý Nguyên Cát đã sớm ô hô ai tai.

Muốn bắt sống một cao thủ như Lý Nguyên Cát, cho dù cao minh như Thạch Chi Hiên cũng phải mất nhiều sức.

Bọn Lý Nam Thiên đang đuổi theo đột nhiên ngừng lại, không dám cử động nửa ngón tay, sợ làm cho Thạch Chi Hiên hiểu lầm.

Liệt Mã Thương của Lý Nguyên Cát rơi xuống đất, sắc mặt hắn xám ngoét, cả người mềm nhũn tựa vào người lão.

Tay lão đặt trên lưng hắn đẩy hắn ra trước, hướng về bọn người Lý Nam Thiên ung dung nói: “Lui ra sau mười bước cho ta.”

Bọn Lý Nam Thiên trao đổi ánh mắt, đành phải thối lui, nếu Lý Nguyên Cát có bất trắc gì, bọn họ tất phải gánh hậu quả.

Trong hoang thôn không ai dám phát ra bất cứ âm thanh nào, chỉ có tiếng gió thổi vi vu và tiếng cây cối lào xào.

Thạch Chi Hiên lạnh lùng hét: “Hư Ngạn! Còn không chịu ló mặt ra!”

Bọn Từ Tử Lăng đột nhiên hiểu ra, nguyên nhân Thạch Chi Hiên bắt sống Lý Nguyên Cát là vì Dương Hư Ngạn.

Trong tình huống này, nếu Dương Hư Ngạn vẫn không chịu hiện thân thì khác gì đích thân hại chết Lý Nguyên Cát. Thạch Chi Hiên xuất chiêu này quả thật tuyệt diệu.

Ai nấy nín thở, chờ phản ứng của Dương Hư Ngạn.

Loan Loan buông tay khỏi người Từ Tử Lăng, lúc này tà độc đã được trục hết. Chẳng qua kinh mạch thụ thương quá nặng, chỉ có thể ngưng tụ một phần chân khí, nhưng gã không cách nào vận chuyển Trường Sinh khí để tự trị liệu.

Thạch Chi Hiên lại nói: “Đây là cơ hội cuối cùng, Thạch Chi Hiên ta nói được làm được, không có việc gì là ta không dám làm.”

- o O o -

Hồi 668

Ý Tưởng Chi Ngoại

  Sơn dã bập bùng ánh lửa khắp nơi nơi, bóng cây che phủ người, lửa cháy rừng rực như những con rồng lửa cuồn cuộn lan ra phía tây nam, trời đêm cũng nhiễm một màu đỏ.

Vô Danh từ trên không lao xuống, đậu lên đầu vai Khấu Trọng. Chủ nhân của nó trơ ra như gỗ, ngóng nhìn vùng đất hoang rộng lớn dưới ngọn núi tuy bị thiêu thành tro bụi, nhưng xung quanh vẫn một màu xanh đầy sức sống.

Bạt Dã Cương, Hình Nguyên Chân đem gần ngàn quân tinh nhuệ đợi lệnh ở đằng sau gã, người người tay dắt chiến mã, chỉ đợi tiếng ra lệnh là lập tức lên ngựa ra trận, cùng địch nhân giao phong.

Khấu Trọng tay dắt chiến mã, trong lòng đang tưởng niệm lại Thiên Lý Mộng thảm tử trên chiến trường, nó cùng gã đi khắp vạn thủy thiên sơn, thảo nguyên hoang mạc của Tái ngoại, nhiều lần ra sống vào chết nhưng cuối cùng vẫn khó thoát số kiếp.

Khi gã đối diện với Lý Thế Dân có thể cười nói đàm luận, đối diện thủ hạ của mình có thể kiên cường lãnh tĩnh, luôn định liệu kỹ càng. Nhưng gã sớm bị sanh ly tử biệt trên chiến trường dằn vặt khiến tâm thần mệt mỏi, song không thể không tiếp tục duy trì cho đến thắng lợi cuối cùng.

Đột nhiên gã rất muốn uống rượu, uống hết ly này đến ly khác, uống đến khi nào bất tỉnh nhân sự, để tạm biệt thế giới lãnh khốc vô tình này.

Cái chết của Dương Công Khanh khiến gã suốt đêm hoài nghi chiến lược của mình, giả như gã không đến Lạc Dương, có lẽ vận mệnh Đậu Kiến Đức đã thay đổi.

Nhưng gạo đã lên bếp, tất cả sai lầm không thể làm lại, gã chỉ có thể kiên trì tiến tới, toàn lực đọ sức cùng Đại Đường quân.

Ánh lửa xuất hiện dưới núi, lại là một nhánh kỵ binh Đường truy theo.

Gã tự thân suất lãnh đoạn hậu quân, hai lần tiến hành phục kích, đánh tan hai đội quân địch đi đầu. May mà gã có thể khẳng định đối phương không mang theo ba con ác thứu nên Vô Danh có thể phát huy hiệu dụng trên không thám sát địch, nắm được tình thế truy binh, thi triển chiến thuật du kích đánh nhanh rút gọn dĩ kỳ chế thắng của người Đột Quyết, đến đi như gió thoảng.

Căn cứ đường bay của Vô Danh trên không trung, đó là cánh quân truy đuổi cuối cùng, sau khi diệt trừ xong đội quân này, gã có thể hội binh, chia thành nhiều lộ vượt qua Ẩn Đàm Sơn tiến vào Thiên Thành Hiệp.

Cho dù trí tuệ của Lý Thế Dân hơn cả Gia Cát Lượng cũng không tưởng được gã có dự tính này, nhưng thành công hay thất bại còn phải xem viện quân của Bạt Phong Hàn có kịp thời đuổi đến hay không. Cũng như xem gã có thể trước khi đại quân Lý Thế Dân công kích, thiết lập cơ sở kiên cố đủ để chống lại binh lực địch nhiều gấp mười lần hay không.

Địch nhân dưới núi vội vã tiến tới.

Khấu Trọng nhảy lên ngựa, gầm vang: “Các huynh đệ, giết!”

Gần ngàn nhân mã như gió cuộn mây bay từ nơi ẩn nấp trong rừng lao xuống dốc, xung phong đến địch nhân lúc này đang kinh hoàng lúng túng.

o0o

Dương Hư Ngạn từ cánh rừng dày đặc sau dãy phòng thứ hai vọt ra, chân điểm lên đỉnh mái ngói, tá lực vượt qua gần sáu trượng trên không, bình ổn đáp xuống phía trước Thạch Chi Hiên và Lý Nguyên Cát chừng mười bước, quỳ gối hướng về Thạch Chi Hiên, cung kính nói: “Bái kiến sư tôn, đồ nhi thua tâm phục khẩu phục, xin sư tôn xử trí.”

Thạch Chi Hiên ngửa mặt cười vang: “Quả nhiên là cao đồ của Thạch mỗ, kẻ thức thời mới là tuấn kiệt, nhưng ngươi làm sao biết được vi sư không giết ngươi?”

Bọn Từ Tử Lăng nghe được thầm kêu lợi hại, lời này của Thạch Chi Hiên cực kỳ thâm độc, ngầm chỉ Dương Hư Ngạn nắm chắc lão không giết mình, vì thế mới hiện thân cứu Lý Nguyên Cát, không phải vì họ Lý mà vứt bỏ tính mạng. Đương nhiên, nếu Thạch Chi Hiên thật muốn giết hắn thì hắn cũng có thể lập tức bỏ chết tìm sống. Bất quá nếu Thạch Chi Hiên bức hắn tự sát mới chịu thả Lý Nguyên Cát, sẽ khiến hắn rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan.

Từ Tử Lăng dám khẳng định Thạch Chi Hiên không phải muốn dồn Dương Hư Ngạn vào chỗ chết. Bởi từ việc Ma môn rối loạn đã ngộ ra được kế hoạch lật đổ Lý gia, vô luận Thạch Chi Hiên bất mãn Dương Hư Ngạn thế nào, cũng không vì chuyện nhỏ mà mất việc lớn.

Dương Hư Ngạn chầm chậm đứng lên, ngữ khí hiên ngang vang vang: “Nếu có thể lấy một mạng của Hư Ngạn đổi một mạng Tề vương, Hư Ngạn chết không hối tiếc.”

Hai mắt Lý Nguyên Cát lộ ra thần sắc cảm kích, nhưng do huyệt đạo bị khống chế, không thể nói gì.

Thạch Chi Hiên hờ hững: “Ta cực nhọc vất vả mới tạo được một hảo đồ đệ, làm sao nỡ lòng giết chết. Bất quá bắt đầu từ hôm nay, ngươi không còn là đệ tử của Thạch mỗ, sau này gặp nhau đừng trách ta hạ thủ vô tình. Mau đưa “Ngự Tận Vạn Pháp Căn Nguyên Trí Kinh” đây rồi cùng Tề vương cút đi cho xa. Thật ra ta đã giúp ngươi một việc lớn, chúng ta không còn gì để nói nữa.”

Dương Hư Ngạn không chút do dự lấy một hộp sắt từ cái bọc sau lưng ra, cung cung kính kính giơ cao hơn đầu, tiếp đó cúi người đặt xuống, lui vào đám người Lý Nam Thiên mới cao giọng nói: “Xin Thạch đại sư kiểm tra.”

Hắn không gọi sư tôn mà gọi Thạch đại sư, là muốn vạch rõ giới tuyến với Thạch Chi Hiên trước mặt mọi người, đây cũng là tâm ý của Thạch Chi Hiên, khiến Lý gia không còn đề phòng hắn.

Lý Nguyên Cát rên lên một tiếng, ngã ra đất.

Bọn Lý Nam Thiên, Mai Tuần nhất thời thất kinh, Thạch Chi Hiên nhanh chóng tiến đến cái hộp phía trước, dùng chân đá lên rồi đưa tay bắt lấy, ung dung nói: “Lý Nguyên Cát bị thủ pháp độc môn của ta phong bế huyệt đạo, sau hai thời thần tự nhiên hồi tỉnh. Nếu các ngươi ngu ngốc giải huyệt, nói không chừng hắn có thể biến thành phế nhân, khi đó đừng trách ta không cảnh cáo.”

Bọn Lý Nam Thiên nghe vậy vô cùng thất vọng.

Bọn họ vốn tính toán đợi sau khi Thạch Chi Hiên thả Lý Nguyên Cát, liền hợp với Dương Hư Ngạn tiếp tục đấu với lão, hiện tại ném chuột sợ vỡ bình, chỉ đành chịu thiệt thòi.

Thạch Chi Hiên mở nắp hộp sắt, xem qua trong hộp, sau đó đem cất vào người, lạnh lùng nói: “Cút!”

Bọn Lý Nam Thiên thu binh khí lại, thất thểu giống như gà chọi thất trận vòng qua hai bên Thạch Chi Hiên, cẩn thận ôm lấy Lý Nguyên Cát đang hôn mê nhanh chóng ly khai.

Thạch Chi Hiên cũng không thèm nhìn đám bại tướng này, hai tay chắp sau lưng thong dong bước đến phía trước ba người Loan Loan, Từ Tử Lăng và Hầu Hi Bạch. Ánh mắt quét qua bọn Tích Thủ Huyền của Âm Quý Phái, cuối cùng dừng lại trên người Hầu Hi Bạch.

Biên Bất Phụ cất giọng thê thiết: “Yêu nữ này phế của ta một tay, mong Tà vương chủ trì công đạo cho.”

Thạch Chi Hiên không quay đầu lại, lạnh lùng quát: “Câm mồm! Ta tự có chủ trương. Nếu ngươi không ham mê tửu sắc thì cho dù Loan Loan luyện thành Thiên Ma Đại Pháp cũng không phải chịu thiệt thòi lớn như thế. Có trách thì ngươi tự trách mình đi!”

Biên Bất Phụ lộ ra thần sắc oán độc, hai khóe môi rung rung nhưng không dám nói gì.

Hầu Hi Bạch không chịu được ánh mắt Thạch Chi Hiên, cúi đầu ủ rũ nói: “Hi Bạch thỉnh an sư tôn.”

Thạch Chi Hiên khẽ cười cười, nhẹ giọng: “Ngươi phải chú ý Dương Hư Ngạn, kẻ này lòng dạ độc ác, có cơ hội nhất định không tha cho con, vì con đã là người kế thừa duy nhất của ta.”

Hầu Hi Bạch nói: “Đa tạ sư tôn nhắc nhở, hà…!”

Thạch Chi Hiên nhíu mày nói: “Hi Bạch sao định nói lại thôi? Có gì muốn nói cứ nói thẳng ra, vi sư không trách con.”

Loan Loan và Từ Tử Lăng nhìn nhau, đều không đoán được tâm ý thật sự của lão, càng không có cách nào dự đoán được lão sẽ hành động gì.

Hầu Hi Bạch nhìn thẳng vào Tích Thủ Huyền, thấp giọng nói: “Đồ nhi đánh liều thỉnh sư tôn lại gần đây nói chuyện.”

Thạch Chi Hiên ung dung: “Hà tất phải lén lén lút lút”, quay đầu nhìn về phía Tích Thủ Huyền, thản nhiên nói: “Các ngươi đi đi!”

Bọn Tích Thủ Huyền, Vinh Phụng Tường và Văn Thái Đình đồng thời thất thanh: “Cái gì?”

Thạch Chi Hiên ra vẻ đương nhiên: “Ta muốn đơn độc xử lý sự việc nơi này, đã rõ chưa?”

Bọn Tích Thủ Huyền nhìn nhau, đều biết tính cách thuận ta là sống, nghịch ta là chết của Thạch Chi Hiên, chỉ đành theo lời lão mà lặng lẽ rời đi.

Đến lúc chỉ còn ba người Loan Loan, Từ Tử Lăng và Hầu Hi Bạch, Thạch Chi Hiên lên tiếng: “Hi Bạch nói đi!”

Hầu Hi Bạch lấy dũng khí hỏi: “Sư tôn không phải đã đem Bất Tử ấn pháp truyền cho Dương Hư Ngạn chứ?”

Thạch Chi Hiên khẽ giật mình, giọng kinh ngạc: “Hi Bạch vì sao đoán như thế? Vi sư có thể bảo chứng không có việc này.”

Hầu Hi Bạch nhìn qua Từ Tử Lăng, nói: “Nhưng Tử Lăng lại khẳng định Dương Hư Ngạn đã luyện thành Bất Tử ấn pháp.”

Thạch Chi Hiên nhìn sang Từ Tử Lăng.

Trong lòng Từ Tử Lăng dâng lên cảm giác hoang đường, không tưởng được có lúc lại nói chuyện phiếm với Thạch Chi Hiên, nghiêm túc nói: “Khi tại hạ và hắn đối chưởng, thân thể có cảm giác khó chịu như bị bẻ cong, giống như kinh nghiệm lần đầu giao thủ với tiền bối tại thành môn.”

Thạch Chi Hiên lộ ra thần sắc trầm tư, gật đầu: “Đúng là hiện tượng sau khi Bất Tử ấn pháp xâm nhập. Đợi ta nghĩ xem, khi nào có đáp án sẽ nói với Hi Bạch. Hảo tiểu tử, thật không đơn giản.”

Ba người đều không có cảm giác kỳ lạ, dường như cảm nhận được Thạch Chi Hiên có manh mối, chỉ là không chịu nói ra.

Hai câu cuối là bình luận về Dương Hư Ngạn, rõ ràng Ảnh Tử Thích Khách khiến lão phải sinh lòng cảnh giác.

Thạch Chi Hiên nhìn gương mặt tươi tắn của Loan Loan, than: “Ngươi chắc hận ta tận xương tủy?”

Loan Loan bình tĩnh nói: “Mong Tà vương đừng nói lời vô ích, Loan nhi xin lĩnh giáo võ công cao minh của ông.”

Thạch Chi Hiên thoáng cười khổ não, biểu tình thay đổi liên tục, nhẹ giọng: “Ta không hề muốn giết Ngọc Nghiên, tuyệt không thể hạ sát thủ với bà ta, đã sai làm sao có thể sai nữa.”

Thân thể mảnh mai của Loan Loan khẽ rung, đột nhiên cúi đầu, không nói thêm câu nào.

Thạch Chi Hiên nhìn lên bầu trời tối đen, thở dài rồi nhẹ giọng: “Ta có một lời khuyên tốt cho ngươi. Ngọc Nghiên đã đạt được sở cầu, bởi bà ta sống quá thống khổ, thống khổ đến mức không chịu được, vì thế muốn ta đưa bà ta thoát khỏi nỗi khổ của chúng sinh nhân gian. Ta đã thử qua “Ngọc Thạch Câu Phần” một lần thì ngại gì thử lại lần nữa, với công lực của ngươi tuyệt không có cơ hội cùng ta đồng quy ư tận, vì lúc này ta không thể nhường ngươi nữa. Âm Quý Phái hiện tại không còn quan hệ với ngươi, vốn dĩ vật quy nguyên chủ. Ngươi đưa Thiên Ma Quyết cho ta rồi có thể ly khai.”

Từ Tử Lăng thầm nghĩ Thạch Chi Hiên không hổ là Thạch Chi Hiên, tài hùng biện khó có người hơn, tùy tiện nói vài câu đã làm giảm ý chí quyết tử của Loan Loan, khiến nàng do dự không biết có nên dùng “Ngọc Thạch Câu Phần” để cùng chết với lão hay không.

Sự thật nếu Thạch Chi Hiên và Loan Loan giao tranh, chưa biết ai sẽ là người rơi vào thế hạ phong.

Từ Tử Lăng không kìm được khẽ cười nói: “Lời này của Tà vương dường như thiếu cân nhắc. Loan Loan được Chúc hậu chỉ định làm người kế thừa, việc này tại hạ có thể làm nhân chứng, bởi đích thân Chúc hậu nói với tại hạ. Vì thế ngoài Loan Loan, không ai có tư cách làm chủ Thiên Ma Quyết.

Thạch Chi Hiên không những không nổi giận, còn cười khanh khách nói: “Tốt! Ta đã nợ Ngọc Nghiên, cũng xem như chuộc lại chút lỗi với bà ta, để sư điệt cất giữ Thiên Ma Quyết cho đến khi ngươi bách niên quy lão vậy.”

Đôi mày thanh tú của Loan Loan khẽ nhíu, thở dài nói: “Loan Loan có thể hỏi Tà vương một vấn đề không?”

Thạch Chi Hiên dứt khoát quay mình, hướng đến cổng phía Nam hoang thôn cất bước, cao giọng ngâm:

“Lục dương khán thủy thảo như yên

Quy thị Hồ nhân ẩm mã tuyền

Kỷ xứ Hồ gia minh nguyệt dạ

Hà nhân ỷ kiếm bạch vân thiên

Tùng lai đống hiệp quan san lộ

Kim nhật phân lưu Hán sử tiền.

Mạc đạo hành nhân chiếu dung tấn

Khủng kinh tiều tụy nhập tân niên”.

(Đây vốn là bài Diêm Châu quá "Hồ nhi ẩm mã tuyền" của Lý Ích.)

Tiếng ngâm xa dần, bóng dáng lão khuất sau khúc quanh cuối con đường.

o0o

Khấu Trọng dẫn binh xông lên chém giết, Tỉnh Trung Nguyệt biến thành bùa câu mệnh địch nhân, dưới đao của gã không kẻ nào sống sót. Khi Lý Nguyên Cát đánh chết Đậu Kiến Đức, gã đã thấu triệt câu “ai độc hơn sẽ sống” của Bạt Phong Hàn.

Câu này như chân lý, xưa nay kẻ thành đại sự, không ai không như thế.

Trước đây gã cũng biết trên chiến trường không hề có đạo lý nhân từ dung tha, nhưng biết một đằng, bản thân lại làm ngược lại.

Trải qua vô vàn thảm khốc mới từ Lạc Dương chạy đến được đây, đã cải biến toàn bộ con người gã.

Khi mắt thấy Dương Công Khanh chết, gã rốt cuộc bị chiến tranh chuyển hóa thành một vị tướng soái vô tình, hiểu được để giành thắng lợi, nhất định phải tận dụng tất cả thủ đoạn hung độc sát thương địch nhân, đến khi nào đối phương không còn sức phản kháng.

“Coong! Coong!”

Tỉnh Trung Nguyệt chém trái gạt phải như chớp, gã không dùng mắt nhìn mà dùng cảm giác bản thân, đánh bay binh khí và hai địch nhân khỏi lưng ngựa, thủ pháp lại cường mãnh khiến đối phương mất mạng đương trường.

Địch nhân vây quanh thấy thanh thế bọn gã dũng mãnh không thể chống cự, bất đồ thúc ngựa bỏ chạy tán loạn.

Khấu Trọng được thể không bỏ qua, chỉnh đốn đội hình hoàn chỉnh đột kích đại quân của địch, hướng đến chỗ địch tập trung đông đảo dùng chiến thuật mũi dùi xuyên qua đội hình địch, giết cho địch nhân người ngã ngựa loạn, cây cỏ bén lửa từ các bó đuốc văng ra, bốc cháy phừng phừng, khói lửa mịt mù.

Kỵ đội bên địch đạt đến ba ngàn, thực lực hơn gấp ba bọn gã, nhưng vừa tiếp cận đã bị Khấu Trọng cắt làm đôi, đầu đuôi không hỗ trợ nhau được, tiếp đến chém giết một hồi đẩy địch nhân vào tình thế hỗn loạn, ta hợp địch phân, Khấu Trọng tiến hành yếu quyết “Dĩ kỳ chế thắng” của người Đột Quyết đến mức kỳ ảo, đánh tan tinh thần chiến đấu của kẻ địch, chiếm lấy toàn bộ ưu thế.

Đột nhiên một đội nhân mã từ sát cánh trái đánh đến, giao phong đến lúc này, Đường quân mới có được một lần phản kích có tổ chức và quy mô.

Khấu Trọng gầm lên mãnh liệt, chuyển phương hướng, xung phong đi đầu xông vào chém giết địch nhân, Tỉnh Trung Nguyệt chớp vàng đại thịnh, tinh thần gã tiến vào cảnh giới tập trung cao độ kỳ diệu, nắm chắc chỗ mạnh chỗ yếu trong hành động của đối phương, giống như cao thủ quyết chiến, không cho đối thủ bất kỳ kẽ hở nào để công kích.

“Coong!”

Tỉnh Trung Nguyệt chém tới như chớp, kẻ địch lập tức máu đổ người ngã, Khấu Trọng thi triển đao thế, người ngựa linh hoạt xông vào phá thế trận địch, triệt tiêu thế công vừa vực dậy của địch nhân. Nhất thời tạo thành cục diễn hỗn chiến.

Hình Nguyên Chân, Bạt Dã Cương ở đằng sau cùng thủ hạ lấy ngựa gã làm chuẩn, giữ vững đội hình hoàn chỉnh, theo gã xông vào trận địch, cuộc chiến kịch liệt lan ra như đám lửa, máu tươi tung tóe nơi hoang dã, xác chết khắp nơi, chiến mã mất chủ kinh hãi chạy tứ tung khiến loạn càng thêm loạn.

Bỗng nhiên hàn quang chớp động, một cây trường kích đâm đến hông trái Khấu Trọng, kích chưa đến kình khí đã tác động tới, công lực thật sung mãn, là đòn đánh uy hiếp nhất đối với gã từ khi bắt đầu trận phục kích.

Khấu Trọng biết có cao thủ tập kích liền đánh dạt địch nhân ở hai bên, tiếp đó bằng thân ý vung đao ngược lại, ngay khi mũi kích còn cách chừng ba tấc, chém mạnh vào đầu kích.

Trường kích bị chém trúng văng ra ngoài.

Gã quay đầu nhìn sang bên phải, trông thấy kẻ cầm trường kích, trong lòng lập tức dâng lên trăm ngàn tình cảm không thể hiểu nổi.

Trường kích đối phương chuyển động, thay đổi góc độ công vào mặt gã như chớp giật.

Khấu Trọng trong lòng thầm than, lên tiếng: “Sài Thiệu huynh, ngươi khỏe chứ!”

Tỉnh Trung Nguyệt hất nhanh ra trước, Loa Hoàn kình phát ra, dưới thủ pháp xảo diệu truyền vào trường kích, trước hết chém trúng đầu kích, phá vỡ hoàn toàn kích thế, tiếp đó giống như độc xà cuộn quanh thân kích xoắn mạnh, trường kích vừa bị thế đao này đánh trúng, Sài Thiệu lập tức để lộ khoảng trống trước mặt.

Cho dù trên chiến trường giao phong sanh tử, gặp phải “tình địch” của mình, gã vẫn không biết xử lý làm sao.

Nếu như không có Sài Thiệu, gã có thể đã sớm đầu nhập Lý Thế Dân, trở thành mãnh tướng của hắn, vận mệnh có thể đã đổi khác.

Nếu gã giết Sài Thiệu, sẽ là một đả kích nghiêm trọng về mặt tâm lý với Lý Thế Dân, việc này cũng chính là chiến thuật tiêu hao lực lượng địch, cố gắng khiến đối phương bị tổn thất nặng nề hơn.

Nhưng làm sao gã đối diện Lý Tú Ninh, với lương tâm mình.

Lúc này gã có thể không lưu tình mà giết chết Lý Thế Dân, nhưng tâm lại không thể hung độc mà giết chết chồng của nữ nhân mà gã ái mộ đầu tiên.

Gã thầm kêu “Thôi vậy!”, liền thu hồi Tỉnh Trung Nguyệt.

Sài Thiệu vốn nghĩ chắc sẽ chết, thấy Khấu Trọng dừng lại không tiếp tục tấn công, vô cùng ngạc nhiên, nhất thời cũng quên mất việc phản kích.

Khấu Trọng cười nói: “Sài Thiệu huynh đi đi!”, rồi hét to một tiếng, giật cương quay đầu ngựa, xông thẳng về mặt trận phía Đông.

Địch nhân sớm đã tán loạn, quân sĩ của Khấu Trọng xông vào trận địch chém giết, thế như chẻ tre, kế đó uy dũng tiến đến Tương Thành ở phía Đông.

- o O o -

Hồi 669

Khổ Hải Vô Biên

Sau khi Thạch Chi Hiên bỏ đi, ba người nhìn lẫn nhau không thể tưởng được sự tình có thể giải quyết như thế.

Hầu Hi Bạch cảm khái đầu tiên: “Dự cảm của Tử Lăng linh nghiệm như thần.”

Loan Loan ngạc nhiên: “Dự cảm gì?”

Hầu Hi Bạch vui vẻ: “Bọn ta vừa rồi bị địch nhân truy đuổi đến thở không ra hơi, Tử Lăng cảm thấy hoang thôn này là sinh lộ duy nhất, hiện tại quả nhiên đã ứng nghiệm. Thật xấu hổ, khi đó ta còn phản đối.”

Loan Loan đưa ánh mắt xa xăm liếc nhìn Từ Tử Lăng, hai ống tay áo rủ xuống, dáng vẻ dường như đang suy tư.

Hầu Hi Bạch không nhịn được cất tiếng hỏi: “Loan tiểu thư vừa rồi rốt cuộc định hỏi Thạch lão sư vấn đề gì, hình như Thạch lão sư qua thần thái của tiểu thư đã đoán biết được, lập tức bỏ đi tránh trả lời.”

Loan Loan thở hắt ra, nhẹ nhàng nói: “Ta muốn hỏi ông ta bây giờ có phải cảm thấy áy náy với Chúc sư phụ? Ngày đó vì sao sau một đêm ân tình với Chúc sư phụ lại vô tình không quan tâm đến bà mà bỏ đi.”

Hầu Hi Bạch và Từ Tử Lăng không biết nói sao, vấn đề này ngoại trừ Thạch Chi Hiên không có ai có thể đưa ra đáp án.

Loan Loan lại nói: “Hai người các ngươi hiểu rõ Thạch Chi Hiên hơn ta, có biết rốt cuộc ông ta là người thế nào không?”

Hầu Hi Bạch cười khổ: “Tại hạ biết lão sư đích thực là người đa tình. Theo tại hạ, lão sư đương nhiên là tình thâm như biển, nếu không đâu đến nỗi bị tinh thần phân liệt.”

Từ Tử Lăng ngóng về chỗ Thạch Chi Hiên đã khuất, gật đầu: “Ông ta là người có nội tâm mâu thuẫn, khi lòng dạ thâm độc có thể làm bất cứ chuyện gì, thống nhất Thánh môn là sự tình trọng yếu nhất trong lòng ông ta, là sứ mệnh thần thánh chí cao vô thượng còn hơn cả việc thống nhất thiên hạ. Nhưng ở một phương diện khác, bản thân lại hết sức đa tình, hai tính cách mâu thuẫn này không ngừng xung đột trong lòng ông ta, tạo thành ân hận ray rứt đau khổ trong cuộc đời. Sau khi hấp thu tinh hoa Thánh Xá lợi, tính cách phân liệt của ông ta có hợp lại, nhưng mâu thuẫn nội tâm so với trước lại càng kịch liệt. Việc này ngay cả ông ta cũng không lường trước được.”

Loan Loan nhíu mày: “Thế nhưng vì sao ông ta bỏ qua cho ta?”

Từ Tử Lăng chầm chậm lắc đầu, biểu thị chưa nghĩ ra, rồi lại gật đầu: “Có lẽ là vì ông ta hãy còn chưa tin vào Lý Đường, ở trận chiến tại Lạc Dương Lý Thế Dân không thể dồn Khấu Trọng vào chỗ chết, con đường thống nhất thiên hạ của Lý Đường còn nhiều cản trở, một khi Khấu Trọng và Tống Khuyết kết minh, cục thế thiên hạ sẽ phân thành hai, đại kế thống nhất Thánh môn gặp cản trở nghiêm trọng. Chuyện đối phó với Lý Thế Dân đành hoãn lại vô kỳ hạn, trong tình huống như thế, Thạch Chi Hiên liền nảy sinh tâm ý mến tài đối với Loan tiểu thư”.

Loan Loan không hiểu nói: “Tâm ý mến tài!”

Hầu Hi Bạch đồng ý: “Lời của Tử Lăng ít nhất cũng nói ra được nửa tâm ý của Thạch sư phụ. Tiểu đệ tuy là người kế thừa của ông ta, nhưng không phải là người tài trong Thánh môn, lại càng không có tài năng để thống nhất. Nhìn quanh lớp đệ tử Thánh môn mới nổi gần đây, chỉ có Loan tiểu thư và Dương Hư Ngạn đạt thành tựu tối cao, nhưng Dương Hư Ngạn thân phận đặc biệt, hứng thú với việc thống nhất thiên hạ nhưng đối với việc của Thánh môn lại không mấy quan tâm. Vì thế Loan tiểu thư là người có thể chấn hưng Thánh môn mà Thạch sư phụ hy vọng nhất, ông ta để cho tiểu thư cất giữ Thiên Ma Quyết, lại tìm cách hóa giải cừu hận của tiểu thư chính bắt nguồn từ suy nghĩ đó.”

Loan Loan nói: “Ngươi nói nửa tâm ý còn lại của Thạch sư phụ là thế nào?”

Hầu Hi Bạch cười khổ: “Tiểu đệ từ lời Tử Lăng vừa nói mà đột nhiên nghĩ ra điểm này, Thạch sư phụ hình như sinh lòng chán nản!”

Từ Tử Lăng kinh ngạc: “Hi Bạch vì sao có ý nghĩ này?”

Hầu Hi Bạch nói: “Dương Hư Ngạn là con cờ trọng yếu nhất trong việc nhất thống thiên hạ của Thạch sư phụ, ngay khi nội bộ Lý Đường phân liệt, Dương Hư Ngạn với thân phận là con Dương Dũng có thể phát huy rất nhiều tác dụng, nhưng hắn bội phản, giống như đã phá vỡ kế hoạch của Thạch sư phụ. Ông ta giết chết Thiện Mẫu Sa Phương là nỗ lực cuối để khuất phục hắn, thế nhưng vẫn công cốc. Cộng thêm yếu tố quan trọng là việc phát hiện Bàn Cổ An Long vốn trung thành cẩn cẩn với mình cũng có dị tâm, khiến cho ông ta cảm thấy vô cùng cô độc.”

Từ Tử Lăng ngạc nhiên nói: “An Long không phải rất sùng bái ông ta sao?”

Hầu Hi Bạch nói: “Lúc này không thể so với lúc trước, Thạch sư phụ từ việc Dương Hư Ngạn thông hiểu Bất Tử ấn pháp mà nhìn ra An Long phản bội. Ngày trước khi Thạch sư phụ đem Bất Tử ấn pháp viết thành sách, An Long luôn ở bên cạnh, ông ta còn thảo luận yếu quyết và chỗ ảo diệu của ấn pháp với y. Thạch sư phụ làm như vậy có thể là sợ sau khi hại chết Bích Tú Tâm bị chính đạo vây công, có ý dùng An Long làm người truyền pháp, còn việc An Long biết Bất Tử ấn pháp là sự tình hết sức chính xác, bởi đích thân Thạch sư phụ nói với tiểu đệ.”

Loan Loan trầm ngâm: “Nói như thế, Dương Hư Ngạn biết được bí mật của Bất Tử ấn pháp từ An Long, cộng thêm hắn có được nửa quyển tuyệt ấn, lại từng theo lệnh sư nhiều năm, nên luyện thành Bất Tử ấn pháp.”

Hầu Hi Bạch thở dài: “Đây là suy luận hợp lý hợp tình nhất.”

Loan Loan nói: “Với tính cách của lệnh sư, có thể dễ dàng buông bỏ sứ mệnh thần thánh chấn hưng Thánh môn như thế sao?”

Hầu Hi Bạch lắc đầu không nói.

Từ Tử Lăng trầm giọng: “Từ khi ta tiếp xúc lệnh sư, tâm tư ông ta rất dao động, thỉnh thoảng để lộ ra mâu thuẫn trong lòng, chí ít ông ta tự nhận không có lòng dạ độc ác đối với nữ nhân, đây là nguyên nhân chính khiến các phái hệ Thánh môn không phục ông ta, cũng là nguyên nhân làm cho ông ta chán nản. Bất quá có một ngày tình thế cải biến, ví dụ như Khấu Trọng và Tống Khuyết bị Lý Đường đánh tan, nói không chừng ông ta có thể thay đổi, bởi ông ta là người luôn đặt mục đích lên đầu mà bất chấp thủ đoạn.”

Loan Loan khẽ cười: “Muốn đánh bại Khấu Trọng và Tống Khuyết, đâu có dễ thế.”

Hầu Hi Bạch nói: “Nơi này không nên ở lâu, Loan tiểu thư có tính toán gì không?”

Hai mắt Loan Loan lộ ra sắc thái thê lương, hướng về Từ Tử Lăng nói: “Nội thương Tử Lăng rất nghiêm trọng, tổn thương đến nguyên khí, không mất sáu tháng một năm đừng mong hồi phục, hơn nữa công lực có thể mất hết, không có cách nào đạt được cảnh giới như trước.”

Từ Tử Lăng thản nhiên: “Nếu ý trời là vậy, tại hạ chỉ có cách nghe theo.”

Hầu Hi Bạch an ủi: “Thanh Tuyền chắc có phương pháp chữa trị.”

Loan Loan khẽ ngẩn người, nói: “Các người muốn kiếm Thạch Thanh Tuyền sao? Ta còn tính chăm sóc Tử Lăng, suy nghĩ cách điều trị cho hắn.”

Từ Tử Lăng vừa nghĩ đến Thạch Thanh Tuyền lập tức trong lòng nóng lên, nội thương gì gì cũng như tan biến hết, áy náy nói: “Ý tốt của cô nương, tại hạ xin ghi nhớ, làm sao dám làm phiền đến cô nương!”

Loan Loan lộ ra thần sắc ảm đạm, nhưng lập tức khôi phục bình tĩnh, khẽ cười: “Loan Loan hiểu. Để ta tiễn hai người một đoạn, cho dù Dương Hư Ngạn có ngầm truy theo cũng không dám ra tay.”

Hai gã đành phải đáp ứng, cất bước lên đường.

o0o

Khi tia nắng đầu tiên xuyên mây chiếu xuống mặt đất, quân đoạn hậu của Khấu Trọng đã cách truy binh gần ba mươi dặm.

Gã cùng Hình Nguyên Chân, Bạt Dã Cương leo lên ngọn núi ở cạnh đó, nhìn qua phía Tương Thành xa xa về hướng Đông, một đội quân Đường chừng năm ngàn người, bố trận cách hơn mười dặm ở ngọn núi phía trước, cắt đứt đường tiến.

Việc này gã đã sớm tính tới, tịnh không chút ngạc nhiên.

Gã vui mừng nói: “Lần này chiến lược của bọn ta thành công vượt ngoài mong đợi, nhân đêm tối đánh tan ba nhánh quân tiên phong của Đường quân, khiến Lý Thế Dân không dám mạo hiểm, hay nhất là dẫn được bọn chúng truy theo phía sau, còn cho rằng chúng ta đến Tương Thành.”

Hình Nguyên Chân gật đầu: “Nhân mã khác của bọn ta đã an nhiên trên đường vào Ẩn Đàm Sơn, bọn ta dẫn dụ Lý Thế Dân đến đó, phải tranh thủ thời gian một, hai ngày để Trần công xây dựng thành công sơn trại kiên cố.”

Khấu Trọng chăm chú quan sát địch trận: “Nếu bọn ta đánh tan chướng ngại quân Tương Thành, có thể dễ dàng đoạt Tương Thành chăng?”

Bạt Dã Cương nghe vậy nhíu chặt mày nói: “Chúng ta khổ chiến suốt đêm, thương vong gần hai trăm người, bất luận là người hay ngựa đều kiệt sức, e rằng vô lực thủ thắng, hà huống quân lực địch nhiều hơn gấp năm lần bọn ta, lại là dĩ dật đãi lao, xin Thiếu soái minh xét.”

Khấu Trọng cười: “Ta chỉ là nói đùa. Như lời Bạt tướng quân bọn ta vòng qua địch quân, giả như định đến Trần Lưu nếu đến lúc thích hợp thì đổi hướng đi về Ẩn Đàm Sơn, quyết định vậy đi.”

Bạt Dã Cương và Hình Nguyên Chân bị ngữ điệu dễ dàng của Khấu Trọng lay động, có cảm giác thời khắc gian nan nhất đã qua, tuy sự thật không phải như thế nhưng ít ra cũng có cảm giác như thế.

Khấu Trọng hạ lệnh, toàn thể quân đoạn hậu nghĩ ngơi một thời thần rồi lên ngựa tiếp tục hành trình.

o0o

Loan Loan kéo nhẹ tay áo Từ Tử Lăng đến bên cạnh nói nhỏ, thời khắc chia tay cuối cùng cũng đến.

Hầu Hi Bạch hiểu ý bước lên một gò đất nhỏ gần đó quan sát xa gần, tìm kiếm hành tung của địch nhân, phụ trách canh chừng.

Loan Loan đứng kề vai với Từ Tử Lăng, nói với vẻ u oán: “Nô gia đương nhiên hy vọng có thể cùng Tử Lăng có ngày gặp lại, nhưng nguyện vọng này vô cùng mờ mịt. Nô gia không còn lòng dạ quyết phải báo thù Thạch Chi Hiên, ngược lại còn nảy sinh tâm lý đồng cảm. Chính như ông ta nói khổ hải vô biên, Chúc sư phụ sống trong thống khổ vô bờ, nguyên do vì không quên được ông ta. Đem lời ông ta nói về Chúc sư phụ, không phải cũng khắc họa chính bản thân ông ta sao? Chúc sư phụ còn có thể đem khí lực mà thống hận Thạch Chi Hiên, còn ông ta chỉ có thể thống hận chính mình. Sai lầm nối tiếp sai lầm, hai nữ nhân yêu quý ông ta đều chết vì ông ta.”

Từ Tử Lăng nghe vậy thở than không thôi, chuyển sang đề tài khác: “Sau khi Loan Loan chia tay với bọn tại hạ, định đi đến nơi nào?”

Loan Loan liếc nhìn gã: “Tử Lăng muốn biết sao?”

Từ Tử Lăng lời đã nói đương nhiên không thể thu hồi, đành phải gật đầu.

Cặp mắt long lánh xinh đẹp của Loan Loan mở to, dịu dàng nói: “Ta phải đi khắp thiên hạ để tìm một vật, lý tưởng Thánh môn ta có hoàn thành không là nhờ vật này.”

Cho đến lúc này, Từ Tử Lăng vẫn không biết đại kế trong lòng Loan Loan, cũng biết nàng ta không thể nói ra. Chỉ đành nói: “Ta rất mong cô nương thành công, chỉ sợ lý tưởng hoàn thành thì rất nhiều người sẽ chịu khổ nạn, vì thế thật không biết nói thế nào mới đúng.”

Loan Loan cười nhẹ: “Nếu Tử Lăng có cơ hội gặp Sư Phi Huyên, xin nói với cô ta, tranh đấu giữa Loan Loan và cô ta vẫn còn tiếp tục, mọi người cứ chờ xem! Nô gia đi đây! Hy vọng Thạch Thanh Tuyền chẳng những có thể làm cho Từ Tử Lăng hoàn toàn hồi phục, mà còn thêm một tên Tử Lăng nhỏ nữa”, nàng nói xong như một ngọn gió bồng bềnh bay đi, còn quay đầu vẫy chào gã mấy lần.

Hầu Hi Bạch đến cạnh Từ Tử Lăng, dõi mắt theo hình ảnh mỹ lệ đã khuất nơi rừng xa, hỏi khẽ: “Là hận nhiều yêu ít, hay là ngược lại đây?"

Từ Tử Lăng lắc đầu khó nói, trong lòng hiểu rõ hình ảnh Loan Loan chân trần vận bạch y sẽ vĩnh viễn đi theo tâm trí hắn.

o0o

Qua ba ngày ba đêm gấp rút lên đường bọn Khấu Trọng người ngựa đều mệt nhọc, không còn sức duy trì nổi, đại quân Lý Thế Dân vẫn truy theo ráo riết, may mà cuối cùng cũng đến Ẩn Đàm Sơn.

Đại quân của Ma Thường ở trên sơn lộ thiết kế trận địa, nghênh tiếp bọn gã đến.

Khấu Trọng vừa đến, khắp núi quân lính và tướng lĩnh đồng loạt tung hô.

Gã xuống ngựa, Ma Thường nghênh đón nói: “Trần công đã đến Thiên Thành Hiệp kiến thiết doanh trại, nơi này giao cho thuộc hạ phụ trách, mời Thiếu soái đến doanh trại cạnh Thanh Đàm trong núi nghỉ ngơi.”

Khấu Trọng quay về phía Bạt Dã Cương, Hình Nguyên Chân và thuộc hạ cười nói: “Các ngươi nghe Ma tướng quân rồi đó, mau đến Đại Đàm tắm rửa ngủ một giấc, ngày mai thức dậy lại là một hảo hán.”

Bạt Dã Cương ngạc nhiên nói: “Thiếu soái không đi cùng chúng ta sao?”

Khấu Trọng chăm chăm nhìn về phương xa, hai mắt sát cơ đại thịnh, nghiến răng nói: “Ta chỉ cần tĩnh tọa một thời thần đợi cho công lực khôi phục. Ẩn Đàm Sơn là quan khẩu trọng yếu nhất, ta phải cho Lý Thế Dân biết Khấu Trọng ta tuyệt không dễ trêu chọc, nợ máu hắn thiếu, Khấu Trọng ta nhất định đòi lại.”

- o O o -

Hồi 670

Truy Cùng Bất Xá

  Từ Tử Lăng cùng Hầu Hi Bạch ngồi trên một mỏm núi bên bờ bắc Hoài Thủy, nheo mắt quan sát những quầng sáng thấp thoáng ẩn hiện bên bờ đối diện, có thể là ánh đèn của một thành trấn nào đó được đốt lên khi trời bắt đầu chập choạng tối.

Hầu Hi Bạch vui vẻ nói: “Nếu ta đoán không sai, tòa thành đối diện chắc chắn là Ba Đông quận, thành này nằm ở đoạn đường sông giao nhau, chúng ta có thể mua một chiếc thuyền nhỏ làm phương tiện di chuyển, để Tử Lăng tĩnh tâm dưỡng thương, không cần phải dùng đôi chân huyết nhục này đăng trình làm chi cho khổ.”

Từ Tử Lăng cảm thán thở dài nói: “Hy vọng ở đó sẽ không nhìn thấy cảnh chiến tranh, tốt nhất là không nghe thấy bất kỳ tin tức gì liên quan đến chiến tranh cả.”

Hầu Hi Bạch trầm mặc, thần sắc ảm đạm nói: “Ta mặc dù không ngừng nhắc nhở bản thân không được nghĩ tới Khấu Trọng và Thiếu Soái quân của hắn, nhưng cũng quả thực không có cách nào khống chế được ý nghĩ của mình. Hà! Nếu như Khấu Trọng không thể chạy thoát được cuộc truy sát của Lý Thế Dân, chúng ta sẽ phải làm sao đây.”

Từ Tử Lăng vẫn giữ thần sắc bình tĩnh đổi sang chủ đề khác: “Có một nơi, ta và Khấu Trọng luôn muốn trở về, và cũng rất sợ trở về.”

Hầu Hi Bạch sực hiểu ra, nói: “Có phải là nơi mẹ hai người an nghỉ không?”

Từ Tử Lăng điềm đạm gật đầu: “Chính là tiểu cốc xinh đẹp mà ta và Khấu Trọng vĩnh viễn không thể nào quên đó, nếu như Khấu Trọng chiến bại thân vong, ta sẽ đến gặp Lý Thế Dân lấy hài cốt của hắn, đem về an táng tại tiểu cốc, sau đó dựng một căn nhà ở đấy, rồi sẽ không bao giờ quan tâm đến sự việc bên ngoài nữa.”

Hầu Hi Bạch nhíu mày nói: “Nghe ngữ khí của Tử Lăng, vậy đến cả Thanh Tuyền người cũng không quản nữa sao?”

Từ Tử Lăng cười khổ nói: “ Đó là một chuyện khác, cho dù nàng có thể chịu khuất tất, ta cũng chỉ biết cảm động rơi lệ mà thôi. Thật lòng mà nói, cho đến bây giờ nàng ấy vẫn chưa thể qua được cửa ải của chính mình, ta thì vẫn chưa thể hiểu rõ được nàng và cũng không hề ôm bất kỳ mộng tưởng nào.”

Hầu Hi Bạch nói: “Ta đứng ngoài sáng suốt, còn huynh ở trong cuộc nên mê muội. Theo ta thấy Thạch Thanh Tuyền đối với ngươi tình ý đã không dằn được tựa như chân lún bùn sâu, chỉ tại ngươi không tự tin vào chính mình đấy thôi.”

Rồi y lại thở dài nói tiếp: “Thì ra là huynh cũng không nghĩ Khấu Trọng sẽ thành công.”

Từ Tử Lăng bật cười nói: “Trái lại là khác, ta nhận thấy Khấu Trọng tuyệt sẽ không dễ dàng bị đánh đổ như vậy đâu. Nhưng ta có một linh cảm, ta có thể khẳng định cho đến bây giờ Khấu Trọng vẫn an nhiên vô sự, bởi vì cho dù hắn có chết, hắn cũng nhất định quay về báo mộng cho ta biết.”

Hầy Hi Bạch tâm tình thoải mái, gật đầu: “Nói có lý, đến lúc vượt sông rồi, sáng mai chúng ta sẽ thư thư thái thái tỉnh giấc trong gian thượng phòng của một khách sạn hào hoa nhất trong thành, rồi tắm gội thật sạch sẽ thơm tho, sau đó nghiên cứu xem nên đến dùng bữa ở tửu gia nào trong thành.”

Từ Tử Lăng không nhịn nổi bật cười đáp: “Đi! Hiện giờ ta chỉ muốn nhanh chóng rời khỏi địa phương nguy hiểm rất có thể là do quân Đường chiếm đóng này.”

Hai người nói xong nhảy xuống khỏi mỏm núi, đi về phía Hoài Thủy.

o0o

Khấu Trọng ra lệnh lui quân.

Ba ngày ba đêm vừa rồi, gã không hề chợp mắt lấy nửa khắc, đại quân của Lý Thế Dân vừa đuổi tới, đã lập tức phái xuất thủ hạ đại tướng tấn công vào ải đạo Ẩn Đàm Sơn. Hắn lại còn phái thêm cao thủ khinh công vượt núi trèo đèo ở những chỗ tên bắn không tới được mà tập kích từ trên cao. Đạo quân này nhân số không nhiều, nhưng sức phá hoại và sự uy hiếp đối với Thiếu Soái quân đang phòng ngự trên đỉnh núi thì cực kỳ đáng ngại.

Cũng may là Phi Vân vệ do đích thân Khấu Trọng tuyển chọn huấn luyện, lại có kinh nghiệm sau bao trận chiến ác liệt trong tình huống gian khổ này đã phát huy tác dụng cực lớn, nhân số của bọn họ tuy có giảm xuống chỉ còn hơn ba trăm hai mươi người, nhưng do cố thủ ở trên cao, đủ sức ứng phó với thế công của địch nhân, thêm vào một thân công phu của Khấu Trọng, tuy rằng đã mệt mỏi vì cuộc truy sát dai dẳng này, nhưng tạm thời vẫn có thể đập tan từng đợt tấn công liên tiếp như sóng vỗ bờ của Lý Thế Dân.

Còn hơn bảy trăm người với chủ lực là Dương gia quân dưới sự chỉ huy của Ma Thường thì lợi dụng địa thế hiểm yếu, dùng gỗ, đá và cung tiễn để ứng phó với đại quân tấn công chính diện của họ Lý.

Giả sử như tình hình cứ tiếp tục như vậy, Khấu Trọng sẽ có thể cố thủ thêm khoảng ba bốn ngày, nhưng Lý Thế Dân tại tiếp tục phái thêm một đạo quân binh, nhân số lên tới một vạn năm ngàn người, do La Sĩ Tín thống lĩnh tiến về phía đông, vòng qua mặt đông của Ẩn Đàm Sơn tấn công. Đồng thời cho một đạo quân khác phong tỏa lối thoát phía Nam của Ẩn Đàm Sơn, hòng vây khốn Khấu Trọng ở trong núi, biến gã thành cá nằm trong rọ, do vậy cho dù gã không muốn chút nào cũng không thể ở lại chịu chết, mà buộc lòng phải rời khỏi nơi đây trước khi chuyện đó xảy ra để đến Thiên Thành Hiệp hội hợp với quân mình.

Bọn họ vùa lùi vừa chặt phá cây rừng, tạo thành rất nhiều chướng ngại vật trên sơn lộ, vừa khiến cho địch nhân không có cách nào đột kích từ phía sau, lại khiến Lý Thế Dân phải thu dọn đám chướng ngại vật này, phí thêm hai ngày thời gian mới vượt qua vùng núi này được.

Lý Thế Dân lần này mang theo hơn năm vạn người, so với binh lực của Khấu Trọng nhiều hơn không biết bao nhiêu lần, mặc dù Khấu Trọng trí dũng song toàn, nhưng có thể ngăn chặn được thế công của Lý Thế Dân hay không, còn phải xem vào lớp phòng ngự của Trần Lão Mưu được kiên cố tới đâu.

Vương Huyền Thư mang theo chiến mã, đợi sẵn đại giá Khấu Trọng ở sơn khu phía Nam, thương vong của cuộc chiến ở vùng này không quá nghiêm trọng, chỉ có khoảng hơn trăm người chết hai trăm người bị thương, tất cả đã đều được đưa về doanh trại trong Thiên Thành Hiệp từ trước.

o0o

Gần một ngàn Thiếu Soái quân toàn thể lên ngựa, phóng qua sơn trại, đến một mỏm núi cách Thiên Thành ba mươi dặm. Nơi đây là một vùng đồi hoang dã nằm giữa hai dãy núi cao, xung quanh lại có rừng rậm che phủ, có rất nhiều khe suối ẩn tàng cạnh những gốc cây cổ thụ trọc trời, linh sam, tùng, bạch dương đan xem lẫn nhau rậm rạp um tùm, cảnh vật thiên nhiên quá lộng lẫy khiến người ta không thể cảm nhận hết nổi, những rặng núi quanh co vươn lên, xuyên vào lớp mây mù, những dải mây bám quanh lưng chừng núi cũng như những con sông đang chảy về nơi xa tít, có thể nói rất xứng với câu “không phải tranh mà lại như tranh, không làm thơ mà đã như thơ”. Khung cảnh êm đềm thơ mộng như hoàn toàn không hay biết chiến hỏa đáng sợ và cuộc đấu tranh sinh tử giữa Khấu Trọng và Lý Thế Dân chẳng mấy chốc sẽ lan tới phá tan sự hòa bình nơi đây!

Nhưng Khấu Trọng trong lòng lúc này lại hoàn toàn nghĩ đến một chuyện khác, gã thúc ngựa lên đi song song với Vương Huyền Thứ nói: “Lý Thế Dân nếu muốn dọn sạch chỗ chướng ngại vật trên sơn lộ ít nhất cũng mất hai ngày. Sau đó lập trại cũng phải mất bốn năm ngày nữa, hơn nữa lại còn phải dọn hết đám cây rừng đó ra xa để đề phòng bọn ta dùng hỏa công, như vậy chúng ta sẽ còn đến hơn mười ngày để nghỉ ngơi, chỉ không biết bên Trần Công tình hình thế nào rồi.”

Vương Huyền Thư hưng phấn nói: “Thiên Thành Hiệp địa thế vô cùng lý tưởng, vừa có lợi thế địa hình trên cao, vừa có lối ra vào trọng yếu, phía trên có núi cao hiểm trở, cả công lẫn thủ đều có ưu thế, quan trọng nhất là từ trận địa bên ngoài nhìn vào, tuyệt không thể phát giác có một bí đạo xuyên qua dẫy núi phía sau.

Bên kia Ma Thường hỏi: “Bên trong doanh trại có nguồn nước không?”

Vương Huyền Thứ vui vẻ đáp: “ Trong núi không những có nguồn nước, mà còn có nhiều thứ khác nữa, các loại lương thực, mấy ngày hôm nay bọn ta đi tìm khắp nơi, đã thu thập được rất nhiều, có thể đủ dùng trong vòng mười ngày. Lúc địch nhân đến, bọn ta có thể đi tìm lương thực ở phía bên kia núi, chỉ cần giữ được vị trí này, ắt sẽ không lo gì về vấn đề lương thảo hết.”

Ma Thường cùng Vương Huyền Thứ một bên hỏi một bên đáp, tất cả đều là những vấn đề quan trọng liên quan đến sự tồn vong của Thiếu Soái quân. Lập trại cố thủ, tích trữ lương thực, cỏ, nhiên liệu cùng các phương diện cần thiết khác, quan trọng nhất là nước uống, như binh pháp nói “không nước không cỏ, chỉ vài ngày” cũng khiến binh gia lâm vào tuyệt địa. May thay lúc này là thời gian chuyển tiếp giữa thu và đông, tuyết vẫn chưa rơi, nếu không việc thu gom cỏ ắt sẽ thành một vấn đề. Khấu Trọng trầm ngâm nói: “ Chúng ta phải chế tạo thật nhiều thùng gỗ, để lưu trữ một lượng nước lớn trong doanh trại, đề phòng Lý Thế Dân dùng hỏa công.”

Vương Huyền Thứ cười nói: “ Trần Công nghĩ ra diệu thủ lấy nước qua núi, dùng ống tre đục thông từ gốc tới ngọn, nối từ nguồn nước trong hiệp đạo vào đến doanh trại, do vậy chúng ta không sợ không có nước dùng.”

Khấu Trọng cùng Ma Thường đều phải vỗ đùi khen tuyệt, Trần Lão Mưu xem ra càng lúc càng giống một Lỗ Diệu Tử thứ hai.

Khấu Trọng ngửa mặt lên nhìn trời nói: “Cỏ thì phải chuẩn bị thật nhiều, một khi tuyết rơi, chiến mã của chúng ta sẽ không có gi dằn bụng đâu.”

Những ngọn gió luồn qua khe núi cứa vào mặt lạnh buốt, mang theo cả hơi thở của mùa đông.

Vương Huyền Thứ nói: “Việc này do Huyền Thứ phụ trách, xin Thiếu soái cứ yên tâm.”

Chúng nhân chạy lên một đỉnh đồi, phóng mắt nhìn qua vùng rừng đang cản trở thị tuyến, chỉ thấy phía trước một khu doanh trại đã được lập sẵn trên một hòn núi, phía sau là vách núi cao chót vót, sắc lẹm như được gọt bằng đao, mặt đông là Thiên Thành sơn mạch liên miên bất tuyệt, vùng đất nửa dặm bốn phía quanh doanh trại đều được quân binh dùng binh khí chặt sạch cây cối, để lại những gốc cây khổng lồ cùng với những loại thụ mộc thấp khác nằm lổn ngổn quanh doanh trại, hình thể vô cùng quái đản.

Khấu Trọng trở về đất cũ, những chuyện xưa thi nhau kéo về, trải qua biết bao nhiêu kinh nghiệm thiên biến vạn hóa, trong lòng không tránh khỏi trào lên biết bao nhiêu cảm xúc.

Chúng nhân dằn ngựa dừng lại, quan sát hình thế xung quanh, nghĩ đến mấy ngày tiếp theo, đứng từ đây nhìn về phía doanh trại sẽ chính là Lý Thế Dân, đây sẽ là một cơ hội khó mà có được.

Ma Thường cơ hồ như không dám tin vào mắt mình khi nhìn thấy doanh trại rộng lớn phía trước, trầm giọng nói: “Hóa ra là một khu thổ trạch trại! Nhưng tại sao hình dạng lại cổ quái như vậy?”

Vương Huyền Thứ cười nhẹ nói: “Có phải Ma tướng quân nói về hình dạng cổ quái không tuân theo một quy tắc nào của sơn trại không? Nguyên nhân là do Trần Công lợi dụng những thân cây to trên núi, chặt hết cành lá, ngọn, chỉ đề lại một đoạn dài tầm hai trượng, tạo thành hơn một trăm thân cây không cành không lá, biến chúng thành trụ cột của sơn trại, số thân cây này khỏe và chắc, rễ cắm sâu xuống đất, không những có thể chịu được những đợt tấn công bằng xe bắn đá của địch nhân, lại còn tiết kiệm được nhân công, nhưng hình dáng của doanh trại bắt buộc phải theo bố trí đó, nên không khỏi có chút kỳ quái.”

Ma Thường khen tuyệt nói: “Quả là một kế hoạch tuyệt vời, vậy mà ta không nghĩ ra. Những thân cây rắn chắc thế này, cùng với đá tảng và đất khô, biến doanh trại thành một tòa sơn thành cao hai trượng, có thể tăng cường lực lượng phòng thủ đến mức cùng cực, Trần Công quả là nhân tài kiệt xuất.”

Khấu Trọng đứng ngoài nhìn đám quân sĩ Thiếu Soái quân bận rộn đào hào quanh thổ mộc trại, đám đất bùn đào lên được đưa ra ngoài sườn núi tạo thành một đoạn tường lũy lớn.

Bính Nguyên Chân thấy ngoài sơn trại chỉ còn lại những thân cây cao không quá ba xích, hân hoan nói: “ Công trình này khiến người ta chỉ biết lắc đầu khen tuyệt, biến thiên nhiên thành một vòng phòng thủ kiên cố chống được kỵ binh, Lý Thế Dân dù muốn tấn công, trước tiên phải qua được đội cung thủ của bọn ta, khi quân dich tiến công chúng ta phải thật cẩn thận, không thể chính diện giao tranh, nếu không công sức mười ngày sẽ tiêu tan thành mây khói hết.”

Khấu Trọng cảm thấy mọi người xunh quanh đều hân hoan phấn chấn, chúng nhân đối với toà sơn trại khiên cố này vô cùng hài lòng, không chỉ vì nó có thể giúp họ cố thủ một cách vững chắc mà quan trọng hơn là phía sau sơn trại còn có một bí đạo tạo cho bọn họ rất nhiêu sinh cơ. Lương thảo, nước uống, nhiêu liệu tất cả các nan đề đều đã được giải quyết, bọn họ không còn ở trong hoàn cảnh bị vây hãm đến khốn cùng nữa, người người sĩ khí dâng cao, càng có thêm lòng tin đối với Khấu Trọng.

Vương Huyền Thứ nói: “ Nơi nghỉ ngơi đã được chuẩn bị sẵn trong hiệp đạo, do lều trại đã bị mất hết trong lúc trại ta bị đột vây, nên Trần Công đã dựng lên hơn trăm phòng ốc bằng cỏ, so với lều trại thì ấm cúng và thoải mái hơn nhiều.”

Khấu Trọng hét lớn: “Hảo! Chúng ta sẽ dùng sơn trại do Trần Công khổ công thiết kế này chống lại đại quân nhiều gấp hơn mười lần của Lý Thế Dân tiểu tử!”

Chúng nhân đồng thanh reo hò theo.

Một đội nhân mã do Bạt Dã Cương dẫn đầu từ cửa chính của sơn trại tiến ra tiếp đón.

Khấu Trọng hú lên một tiếng, phát tiết theo đó tất cả những oan khuất cùng áp lực gã đã phải chịu suốt hơn mười ngày nay, ra hiệu cho đám thủ hạ phóng xuống sườn núi, tiến về phía sơn trại.

o0o

Từ Tử Lăng tỉnh dậy sau một giấc ngủ sâu, ôm tấm mền sạch sẽ thơm tho, nghĩ lại cuộc đào tẩu gian nan suốt mười ngày trước, mỗi khắc đều ở trong nguy hiểm mà tìm thấy sinh cơ, so với bây giờ quả là hai thế giới vô cùng khác biệt.

Đêm qua, gã và Hầu Hi Bạch là hai người cuối cùng vào Ba Đông quận trước khi cửa thành đóng lại, đến cửa thành mới biết nơi này là địa bàn do lão gia Đỗ Phục Uy của hai gã quản chế, quân binh Giang Hoài gác cổng thấy hai gã liền khám xét rất kỹ lưỡng, thấy hai gã không có binh khí tùy thân, lại nhìn giống như bọn văn nhân nhã sĩ, tưởng rằng bọn gã là thế gia đệ tử, liền nảy ra ý định vặt sạch tiền từ hai con dê béo này, vòi vĩnh thêm những khoản khác ngoài thuế vào thành. Từ Tử Lăng đang định phóng tay cho bọn chúng ngân lượng, thì Hầu Hi Bạch đã nhanh chóng cản lại, y mặc cả kỳ kèo bớt một thêm hai, cuối cùng cũng giải quyết xong, cả hai hiên ngang tiến vào thành.

Sau đó Hầu Hi Bạch giải thích: “Nếu như ngươi quá rộng lượng với bọn chúng, bọn chúng sẽ lầm tưởng ngươi là một con dê béo dễ bắt nạt, hoặc là trong người ngân lượng quá nhiều không cần phải suy nghĩ, vô luận là khả năng nào, bọn quỷ hút máu đó nhất định sẽ bám theo ngươi tìm trăm phương ngàn kế mà vắt kiệt ngươi, thậm chí sẽ không ngần ngại sát hại ngươi. Do vậy ta mới phải cùng bọn chúng kỳ kèo, không phải là do ta không muốn chi ngân lượng, mà là muốn tránh đi một chút phiền não.”

Gã hiện tại đang nghỉ ngơi tại một khách sạn nổi tiếng là hào hoa nhất trong thành, thượng phòng của Ba Giản lữ xá, Hầu Hi Bạch không giống gã và Khấu Trọng, rất chú tâm đến việc ăn ở ngủ nghỉ, còn gã và Khấu Trọng thì lại càng chẳng giống y, chẳng chịu ngủ ở những nơi tốt nhất như thế này.

Khấu Trọng hiện giờ ra sao rồi? Bọn gã liệu sẽ còn có cơ hội gặp lại không?

“Vừa tỉnh dậy à?” Hầu Hi Bạch đẩy cửa tiến vào hỏi. “Tử Lăng đêm qua ngủ thế nào? Ta thì trước khổ sau vui, giấc mộng đầu tiên là một cơn ác mộng, sau đó là một hảo mộng, trong mơ ta gặp được Phi Huyên.”

Từ Tử Lăng nhìn y vừa thao thao nói, vừa ngồi xuống mép giường, khi nghe thấy hai chữ “Phi Huyên”, gã mới nhất thời chấn động từ tâm tư và hồi ức quay trở lại thực tại, ngập ngừng định nói gì đó xong lại thôi.

Hầu Hi Bạch kỳ quái hỏi: “Tử Lăng định nói gì?”

Từ Tử Lăng nhìn gã một lúc lâu, trong lòng trào lên nhiều cảm xúc khó tả, đoạn nói: “Hi Bạch huynh đã từng nói với ta, về sau sẽ chỉ dùng một thái độ siêu nhiên để hân thưởng mỹ nữ trong thiên hạ, đây là sự thay đổi đầu tiên của huynh, nhưng tại sao huynh lại thay đổi như vậy? Ta nghĩ mãi không thông, cho đến lúc này, ta mới hiểu tại sao, huynh thay đổi vậy là vì Phi Huyên, có phải không?”

Hầu Hi Bạch ngạc nhiên nói: “Tử Lăng quả nhiên lợi hại, có thể nhìn thấy nội tâm của ta. Ôi! Phải nói sao cho đúng đây? Mới gặp nàng lần đầu tiên, ta giống như gặp được bút tích của Triển Tử Kiền , cảm thấy trên đời này không còn mỹ nữ nào đẹp hơn vậy được nữa, nàng làm ta lĩnh ngộ được thế nào mới là cái đẹp chân chính, đó là một thứ cảnh giới mà bút của ta không tài nào diễn họa được. Kể từ khi nàng bước chân vào tục thế, để mấy kẻ như chúng ta đây gặp được, Hầu Hi Bạch đã không còn là Hầu Hi Bạch của trước đây nữa.”

Từ Tử Lăng ngạc nhiên nói: “ Nghe Hi Bạch huynh nói, tựa hồ như không còn là nam nữ chi tình của thế tục nữa, mà là một loại tình cảm siêu nhiên của tâm cảnh.”

Hầu Hi Bạch trong mắt lấp lánh dị quang, từ tốn đáp: “ Trong thiên hạ, e là chỉ có mỗi Tử Lăng là hiểu được tâm ý của ta. Ta đã quyết chí theo đuổi họa đạo, chính là vì từ khi sinh ra ta đã luôn theo đuổi cái chí thiện chí mỹ. Trên đời này vốn không có sự vật hoàn mỹ, nhưng trong tranh thì luôn là những cảnh tượng động lòng người nhất, cũng giống như ‘số một ẩn giấu’ mà huynh và Khấu Trọng luôn nhắc đến vậy.”

Nghỉ một lát rồi y nói tiếp: “Huynh đã từng thấy qua bản chất của cái đẹp chưa? Cái đẹp chính là thứ khiến con người ta cảm động nhất trên thế gian, nó cũng chính là thứ thần bí nhất, ta gọi nó là họa thiền. Tử Lăng đã từng nghĩ xem cái đẹp rốt cục nghĩa là gì chưa? Tại sao chúng ta lại nhận thấy mỗi vật là đẹp hay là không đẹp? Cái đẹp vốn không hề có tiêu chuẩn, ta và ngươi có thể cảm thấy bầu trời lộng lẫy mê hồn, nhưng lại có rất nhiều người khác không cho rằng thế. Cái đẹp lại vừa có thể là vô hình lẫn hữu hình, vẻ đẹp nội tâm không thể nắm bắt được bằng cái nhìn bên ngoài, giống như Phi Huyên vừa có được cái đẹp của bề ngoài lẫn nội tâm, chính là đỉnh cao của cái đẹp, là một vẻ đẹp khiến cho người khác tự cảm thấy mình thật không thể bằng được, đến thần thánh cũng không xâm phạm nổi.”

Từ Tử Lăng khẽ cười đáp: “Ta thật chưa từng suy nghĩ sâu sắc về cái bản chất của đẹp như huynh. Nghe huynh phân tích như vậy, quả như được vén đám mây mù nhìn thấy trời xanh. Nhưng cũng cảm thấy thế gian này quả là bất công, tại sao lại có sự khác nhau giữa cái đẹp và sự xấu xa? Chỉ có điều đó là một sự thực không thể thay đổi được.”

Hầu Hi Bạch dường như vẫn đang đắm chìm trong dòng suy nghĩ của mình nói: “Đẹp và xấu, căn bản là một loại vận mệnh bất khả kháng, từ lần đầu tiên ta nhìn thấy Phi Huyên, cuộc sống của ta bỗng biến thành phong phú vô hạn, thái độ của ta đối với nữ tính cũng biến đổi hoàn toàn, các loại tục niệm trần thế trở nên siêu thoát, biến thành một sự truy cầu thuần khiết trong họa đạo.”

Từ Tử Lăng nói: “Trước khi gặp Phi Huyên, có phải Hi Bạch huynh đã chán ngấy cuộc sống ôi hồng ỷ thúy rồi hay không?”

Hầu Hi Bạch cười khổ đáp: “Huynh quả là đã sớm nhìn thấu ta, tại Thành Đô chắc huynh đã có dịp chứng nghiệm qua phong cách sống của ta rồi. Ôi! Cảm tình đương nhiên là một gánh nặng, nhưng điều khiến ta không thể chịu đựng được là cảm tình khiến ta phát hiện ra ngay cả những sự vật đẹp đẽ tuyệt vời cũng có những mặt không đẹp của nó.”

Y Trầm ngâm một lát rồi nói tiếp: “Thanh Tuyền là một nữ tử không hề thua kém Phi Huyên chút nào, nhưng nàng và Phi Huyên là hai người vô cùng khác biệt, vô luận Phi Huyên xuất hiện lúc nào ở đâu, nàng đều mang lại cho người ta một cảm giác thanh cao không bám chút phàm trần, Thanh Tuyền lại hoàn toàn tương phản. Bất luận là nàng ta hay là tiêu nghệ tuyệt diệu thiên hạ của nàng, đều có thể hòa nhập thành một thể với đất trời. Hai người bọn họ chính là đại biểu của cái đẹp siêu việt nhất mà ta vẽ ra. Khi ta nhìn thấy nàng lần đầu tiên, hận nhất là không có bút bên cạnh để vẽ nàng lên Mỹ Nhân Phiến, khi ta được nghe tiêu nghệ của nàng, lại càng không có cách nào hạ bút để miêu tả được hết cái đẹp siêu nhiên rúng động lòng người của nàng.”

Từ Tử Lăng nhớ lại những cuộc kiến diện động lòng người với Thạch Thanh Tuyền, khẽ than: “Nói rất hay, huynh đã đem cái cảm giác khó có thể hình dung được của ta, một câu nói ra hết.”

Hầu Hi Bạch hân hoan nói: “Bàn luận về cái đẹp như vậy thôi đã, nội thương của Tử Lăng ra sao rồi?”

Từ Tử Lăng cười khổ nói: “Sau khi được Thiên Ma Chân Khí của Loan Loan giải trừ tà độc, đã có khá lên nhiều, nhưng để khôi phục lại nguyên trạng thì vẫn còn xa lắm, rất có thể là đã vĩnh viễn mất đi cơ hội để tiến sâu vào võ đạo.”

Hầu Hi Bạch nhíu mày: “Nghiêm trọng vậy sao?”

Từ Tử Lăng nói: “Ma công của Dương Hư Ngạn quả thật tà độc vô cùng, đả thương đến căn nguyên của ta, nhưng sự thật thì cũng không có gì đáng lo lắm, mệnh vận sẽ diễn ra thế nào nó sẽ diễn ra như thế. Chúng ta đến tửu lầu tìm đồ ăn thôi.”

Hầu Hi Bạch nói: “Ba Đông quận nổi danh nhất là Vọng Hoài Lầu, lầu cao ba tầng, ở phía bắc thành, ở trên tầng cao nhất có thể nhìn thấy toàn cảnh đẹp bên ngoài thành.”

Từ Tử Lăng lật tấm mền sang một bên, cười nói: “Có tin tức gì của Khấu Trọng không?”

Hầu Hi Bạch lắc đầu: “Hiện thời vẫn chưa có tin tức gì. Chỉ biết được là quân Đường ở Tương Dương và cách thành phụ cận bị điều động đi rất nhiều, lúc nào cũng có thủy sư đoàn của Đường thất tuần tra trên Hoài Thủy, chẳng lẽ Lý Thế Dân muốn dụng binh với Chung Ly, tình thế khẩn trương phi thường. Thật kỳ lạ, Khấu Trọng không phải định chạy về hướng này đấy chứ?

Từ Tử Lăng đột nhiên ngừng thay quần áo, thần sắc lộ vẻ kỳ dị, trầm giọng quát: “Ra đây! Ta biết là ngươi, Dương Hư Ngạn, ra đây mau!”

Hầu Hi Bạch thầm rúng động, chuyện đáng sợ nhất cuối cùng đã xảy ra rồi.

- o O o -

Hồi 671

Kỳ Pháp Khắc Địch

  Vút!”

Mũi tên từ Thích Nhật cung của Khấu Trọng phóng đi, trúng vào tấm thiết thuẫn cách đó ngàn bộ, nằm ngoài ý liệu của mọi người, tấm thiết thuẫn cứng đanh quay tít rồi nứt toạc ra, mảnh vụn bắn văng khắp mặt đất.

Gần ngàn chiến sĩ Thiếu Soái quân đồng thanh reo hò, hào khí bốc lên hừng hực.

Diện tích sơn trại được cây cối che chắn vô cùng rộng lớn, ngang dọc đều hơn ba ngàn bộ, dù muốn biến thành nơi biểu diễn mã cầu cũng còn đủ chỗ. Một tòa kiến trúc hai tầng dựng bằng những thân cây thô tháp mọc lên trước hiệp đạo, cửa ra vào của hiệp đạo chính ở tầng dưới. Tòa kiến trúc này hình chữ nhật, kiên cố phi thường, chiều dọc mười trượng, ngang mười lăm trượng, giả sử địch nhân tấn công vào đến trong trại, muốn tiến vào hiệp đạo, ắt phải vượt qua quan ải này, thành ra nơi đây có vai trò chiến lược quan trọng.

Dọc theo tường sơn trại, tám tòa tiễn tháp mới được dựng lên, trên bãi đất trống chất đầy nguyên vật liệu như đất, đá, gỗ để tu bổ tiễn tháp trong trường hợp khẩn cấp. Mười dinh trú quân bằng gỗ được dựng gần vách núi, thành kiến trúc hỗ trợ cho đại bản doanh, mỗi dinh đủ chỗ cho hơn mười chiến sĩ nghỉ ngơi.

Chính giữa sơn trại có đào một chiếc ao hình tròn, đường kính hai trượng, bờ và vách được đắp bằng đất sét, rồi dùng hai ống tre dài được thông ruột dẫn nước chảy vào đầy ao.

Sơn trại khiến Thiếu Soái quân rũ rạch cảm giác mệt mỏi vì bị truy đuổi ráo riết như chó hoang. Họ không chỉ có cơ hội nghỉ ngơi, lại có thời gian xây dựng công sự phòng thủ kiên cố này, trọng yếu nhất là phía sau sơn trại còn có một đường thoát hiểm, tiến có thể công, lùi có thể thủ.

Tầng trệt của đại bản doanh chứa đầy lương thực, cỏ khô và nhiên liệu, tầng một dùng để nghỉ ngơi, tầng trên dùng làm nơi quan sát động tĩnh của địch nhân. Mùa đông đã gần kề, những kiến trúc bằng gỗ không những là yêu cầu chiến lược, mà còn giúp binh sĩ tránh được gió tuyết, gắn liền với sự tồn vong của sơn trại.

Trong hiệp đạo là nơi nghỉ ngơi an toàn nhất của quân binh và chiến mã, có thể cho phép các chiến sĩ trong lúc song phương giao tranh, tạm thời thay phiên thoát khỏi sự vô tình của chiến tránh.

Khấu Trọng cầm một mũi tên do Trần Lão Mưu dùng các vật liệu sở tại chế thành, ngạc nhiên: “Mũi tên này dùng loại gỗ gì vót thành? Vừa rắn chắc vừa mạnh mẽ, quả là loại tên thượng đẳng.”

Trần Lão Mưu lộ vẻ dương dương đắc ý cố hữu, thản nhiên đáp: “Loại tên này được làm từ gỗ, chuyên dành cho Thiếu soái sử dụng, chỉ có Thiếu soái mới có thể dùng mũi tên nguyên thủy thô lậu này phát ra uy lực lớn như vậy, đã bắn là trúng mục tiêu, nếu từ cung của người khắc bắn ra, chỉ sợ không thể xuyên thủng nổi khôi giáp đối phương.”

Khấu Trọng nhíu mày hỏi: “Chúng ta có đủ tên không?”

Binh pháp có nói: “Binh khí có ba mươi sáu loại, cung đứng đầu, võ nghệ có mười tám ban, xạ tiễn xưng đệ nhất.” Thế đủ biết tính trọng yếu của của cung tên trong chiến tranh. Mặc dù binh sĩ có thể mang theo binh khí lúc ra vào thành, nhưng cung nỏ thì hoàn toàn bị nghiêm cấm, chính vì cung nỏ có khả năng sát thương từ xa. Trong chiến tranh, cung nỏ là thứ không thể thiếu, nếu như Khấu Trọng thiếu, thì thành cao lũy chắc cũng chỉ là con hổ giấy mà thôi.

Trần Lão Mưu cười: “Thiếu soái cứ yên tâm, trong suốt mười ngày truy đuổi vừa rồi, chúng ta đã dùng không ít tên, nhưng thu lại từ phía địch nhân thì còn nhiều hơn, có thể đủ dùng cho mười ngày mười đêm bắn không ngừng nghỉ. Mộc tiễn ngoài việc dành cho Thiếu soái sử dụng, còn có thể biến thành hỏa tiễn chế địch, lão phu theo Thiên Thư của Lỗ Diệu Tử đại sư chế thành một chất có thể đốt cháy, chỉ cần bôi thêm nhựa thông, bọc vào mũi tên, sẽ giống như sâu trùng bám chặt vào xương cốt địch nhân, thiêu đốt con bà bọn chúng thật là thống khoái.”

Khấu Trọng cười ha hả: “Thiêu đốt con bà bọn chúng thật thống khoái! Hắc! Nếu có thể cứu được lão Bạt từ tay bọn chúng, công lao của Trần công là lớn nhất, không ai dám phủ nhận điểm này.”

Bọn Bạt Dã Cương, Vương Huyền Thứ, Ma Thường, Hình Nguyên Chân cũng không ngừng tán thưởng, khiến Trần Lão Mưu hoan hỷ đến không thể ngậm miệng lại được.

Khấu Trọng ngẩng đầu nhìn lối vào hiệp đạo phía sau đại bản doanh, toàn là vách đá cheo leo, từ ngoài nhìn vào, dẫu cự ly với bên trong sơn trại rất gần cũng không nhìn ra được con đường lên núi.

Khấu Trọng hỏi: “Nếu Ma tướng quân là Lý Thế Dân, truy đuổi đến đây, thấy bọn ta lập trại sát vào vách núi, sẽ nghĩ gì?”

Ma Thường đáp: “Thuộc hạ sẽ cảm thấy hoài nghi, nơi đây đáng ra là nơi lương tuyệt thảo tận, Thiếu soái có thể cầm cự được bao lâu?”

Vương Huyền Thứ biến sắc: “Một khi đã có hoài nghi, đương nhiên sẽ sai người leo lên trinh sát, vách đá tuy hiểm trở, nhưng cũng không thể làm khó đối phương nếu hắn là cao thủ khinh công.”

Trần Lão Mưu phụ họa: “Lão phu cùng Bạt tướng quân đã từng lêo lên đến gần đỉnh núi, chỉ thấy vách đá cheo leo khắp nơi, vô cùng nguy hiểm, hơn nữa vách đã còn có rất nhiều cây cổ thụ mọc um tùm, mây mù phủ kín, không thể nhìn thấy hiệp đạo nằm phía dưới được, trừ phi bọn chúng mạo hiểm leo xuống, bằng không đừng mong phát hiện ra bí mật của bọn ta.”

Mục quang của mọi người dồn sang phía Bạt Dã Cương, hán tử cứng cỏi có huyết thống người Hồ dõng dạc: “Ta chưa hề lên đến đỉnh, vì khinh công dẫu cao minh, nhưng vẫn nguy hiểm phi thường. Hơn nữa vách núi đều bị băng phủ, không dễ để chân. Chỉ cần một chút bất cẩn, ắt sẽ tan xương nát thịt.”

Khấu Trọng thở một hơi: “Vậy ta có thể yên tâm với cái gai trong lòng này. Nếu là Bạt đại tướng quân không thể trèo lên đến đỉnh, địch nhân cũng không thể trèo lên được, tốt nhất là có một trận tuyết rơi thật nhiều, sơn trại của chúng ta mới thật là không còn một nhược điểm nào nữa.”

Trần Lão Mưu cười: “Mời Thiếu soái lên soái phòng ở tầng trên nghỉ ngơi, bọn thuộc hạ phải bắt đầu chuẩn bị cho con mẹ bọn chúng mười cỗ máy bắn đá, tuy không bằng ỗ bắn đá ở Lạc Dương, nhưng cũng đủ để địch nhân nếm mùi.”

Khấu Trọng cười lớn nói: “Cho con mẹ bọn chúng mười cỗ máy bắn đá, Trần công không ngờ đã học hết cách ăn nói thô kệch của ta. Các huynh đệ theo ta, phải nghỉ ngơi con bà nó một giấc thật thoải mái.”

Nói xong, sải bước tiến về phía tòa kiến trúc, mỗi bước đều thể hiện rõ tự tin cực đại, không còn dấu vết vất vưởng như khi bị Lý Thế Dân truy đông đuổi tây.

o0o

Từ Tử Lăng trầm giọng nói với Hầu Hi Bạch: “Chỉ có một mình hắn, đệ có thể cảm ứng được.”

Hầu Hi Bạch đưa tay quệt mồ hôi lạnh, nếu không phải Từ Tử Lăng sau khi bị thương cảm giác trở nên linh mẫn vượt bậc hẳn đã bị kẻ thiện nghệ ám sát như Dương Hư Ngạn giáng cho một đòn bất ngờ, hậu quả khó lòng tưởng tượng.

Gã đoán rằng Dương Hư Ngạn vẫn luôn bí mật truy tung bọn gã, may thay đêm qua bọn gã là hai người cuối cùng vào thành, khiến họ Dương không dám bám sát theo vì sợ đả thảo kinh xà, do vậy hắn đợi đến sáng nay khi cửa thành mở trở lại mới nhập thành, bí mật tìm khách sạn bọn gã trú ngụ, dùng hết bản lĩnh định ám sát hai gã. Không ngờ bị Từ Tử Lăng chỉ một câu phá tan âm mưu, khiến Ảnh Tử Thích Khách thiện chiến về che giấu hành tung mà không có cách nào giấu mình.

Thanh âm của Dương Hư Ngạn cất lên từ trong nội viện: “Thì ra công lực của Từ huynh đã hồi phục lại, thật nằm ngoài sự tiên liệu của tiểu đệ. Nhưng lần này tiểu đệ đến không phải là để đối phó với Từ huynh, mà muốn cùng Hi Bạch giải quyết nốt một đoạn ân oán sư môn.”

Hầu Hi Bạch và Từ Tử Lăng nghe xong đưa mắt nhìn nhau, hai gã đương nhiên hiểu Dương Hư Ngạn đến không chỉ vì ân oán sư môn, chẳng qua ngại hai gã liên thủ nên mới nói vậy.

Hầu Hi Bạch hai mắt lộ vẻ kiên quyết, vừa định đáp lại thì Từ Tử Lăng đã cướp lời: “Dưong huynh không biết có thể đợi một chút không, để tiểu đệ nói với Hi Bạch vài lời.”

Dương Hư Ngạn cười dài đáp: “Có gì mà không được. Hai vị cứ tự nhiên, tiểu đệ tiện thể tản bộ quanh ao ngắm cá.”

Căn thượng phòng bọn gã ở thuộc hậu hoa viên của Ba Đông khách sạn, kiến thúc theo kiểu từ hợp viện, sương phòng vây kín bốn phía nội viện. Giá thuê cao nên chỉ hai, ba phòng khác có khách, chẳng qua dẫu khách ở chật ních, cũng không ai dám dây vào đấu tranh trên giang hồ trong lúc loạn ly này.

Nội viện được bố trí kỹ càng, khắp nơi đều có bóng hoa thảo thụ mộc, có cả ao cá và giả sơn, bốn phía đều có hành lang vòng quanh, cảnh trí hài hòa.

Hầu Hi Bạch ngạc nhiên nhìn Từ Tử Lăng, lại vừa sợ Dương Hư Ngạn nghe được, hạ giọng hỏi: “Tử Lăng có gì khẩn yếu cần nói?”

Từ Tử Lăng thong dong đáp: “Hi Bạch có phải đã quyết định liều mạng, cùng gã tử chiến?”

Hầu Hi Bạch nói: “Còn phương pháp nào khác đâu? Chỉ cần Tử Lăng đi hai bước, nhất định tên khốn này sẽ biết nội thương của huynh chưa hề hồi phục.”

Từ Tử Lăng than: “Không biết Hi Bạch huynh đã nghĩ qua chưa, nếu huynh quyết ý tử chiến, tức là huynh không có tự tin có thể đuổi được hắn.”

Hầu Hi Bạch cười khổ: “Sự thật là như vậy, nhưng còn cách nào khác đâu? Tiểu đệ có thể cùng hắn lưỡng bại câu thương, hoặc đồng quy ư tận, cũng là lý tưởng lắm rồi.”

Từ Tử Lăng thành thực: “Nếu huynh đi quyết chiến với Dương Hư Ngạn trong tâm thái này, ắt sẽ thất bại.”

Hầu Hi Bạch từ trước đến nay vẫn luôn tin phục trí tuệ của Tử Lăng, trầm ngâm một lát, gật đầu: “Tiểu đệ minh bạch ý tứ của Tử Lăng, phải cố trở nên lãnh tĩnh, nếu không ắt sẽ biến thành một tên mãng phu hữu dũng vô mưu.”

Từ Tử Lăng dặn: “Vậy vẫn chưa đủ. Huynh trước tiên phải tiêu trừ nỗi sợ hãi với Bất Tử ấn pháp. Phương pháp duy nhất chính là lấy lại vẻ tiêu sái vốn có, coi võ đạo như họa đạo, đến lúc huynh tiến vào cảnh giới họa thiền, cũng chính là lúc đạt đến cảnh giới cao đỉnh của võ đạo.” Nghỉ một lát rồi cười nói tiếp: “Lão Dương vẫn lầm tưởng đệ đã hồi phục lại phần lớn công lực, đệ sẽ lợi dụng điểm này mà cho hắn quanh quẩn vài vòng, sau đó bọn ta sẽ ung dung đi dùng bữa sáng.”

Hầu Hi Bạch mở rộng Mỹ Nhân Phiến, hướng mặt có vẽ hình mỹ nhân về phía Tử Lăng, cười ha hả: “Nói chuyện với quân tử một đêm hơn luyện công mười năm. Bây giờ tiểu đệ sẽ cùng đùa với Dương huynh một chút, xin Tiểu Lăng áp trận cho tiểu đệ.”

Từ Tử Lăng nhìn dáng Hầu Hi Bạch tiến xa dần ra ngoài cửa, vui vẻ khoác áo ngoài lên, đi ra sương phòng, nhìn qua song cửa. Dương Hư Ngạn từ phía ao cá tiến tới, từ từ đưa mắt về phía Hầu Hi Bạch, sau đó mới nhìn sang phía Từ Tử Lăng, hai mắt thần quang lấp lánh, cười: “Từ huynh chắc sẽ không nhúng tay vào ân oán sư môn giữa hai huynh đệ bọn ta?”

Từ Tử Lăng nảy sinh cảm ứng kỳ diệu, biết rằng Dương Hư Ngạn vẫn chưa nhận ra uy hiếp của Hầu Hi Bạch, liền tùy tình hình mà thay đổi mục tiêu, phá song cửa nhảy vào, toàn lực tiến công. Nhưng Dương Hư Ngạn cũng tính toán như vậy, vừa cười vừa ngầm ngưng tụ công lực, không để bản thân lâm vào hiểm cảnh.

Từ Tử Lăng nhìn sang Dương Hư Ngạn cười đầy vẻ cao thâm mạc trắc, đột nhiên tiếp lên phía trước một bước, tay bấm Liên Hoa Ấn Pháp, lạnh lùng nói: “Thì ra là Dương huynh muốn cùng tiểu đệ thử vài đường trước. Xin đừng khách khí.”

Hầu Hi Bạch chớp nhoáng tiến lên phía trước, cách Dương Hư Ngạn chừng mười bộ, Mỹ Nhân Phiến gập lại, cười ha hả: “Tử Lăng đừng tranh đoạt với ta, hắn là của ta.”

“Soảng”, Dương Hư Ngạn tuốt Ảnh Tử Kiếm, thủ thế nhưng mục quang vẫn ghim chặt trên người Từ Tử Lăng, thần sắc lộ vẻ kinh nghi bất định.

Nếu Từ Tử Lăng quả thật đã hồi phục lại công lực, đợi lúc hắn và Hầu Hi Bạch giao phong mới xuất thủ tập kích, thì hắn có vận hết ma công siêu phàm kết hợp Bất Tử ấn pháp với Vạn Pháp Ngự Tận Căn Nguyên Trí Kinh cũng khó tránh khỏi ôm hận tại đương trường. Vì thế nhất thời hắn không dám mạo hiểm.

Hầu Hi Bạch lúc này thực ra có muốn tiến lên cũng không được, mới chỉ đứng trước kiếm phong của Dương Hư Ngạn một chút, không khí xung quanh bỗng nhiên ngưng đọng, biến thành đá tảng vạn cân vô hình, khiến gã không thể di động, nếu không vận công phản kháng, chỉ sợ đã thổ huyết đương trường.

Ma công như vậy, quả thật ngoài sức tưởng tượng.

Từ Tử Lăng chắp tay sau lưng, chậm rãi bước qua khỏi bậc cửa, ra ngoại viện rộng rãi, đến ngay bên cạnh Hầu Hi Bạch, nhưng cước bộ không hề dừng lại, gã dường như đã vượt quá người bình thường về mặt tu dưỡng tinh thần, đã hoàn toàn quên đi nội thương, đến một bên hành lang nằm chính giữa song phương, cười ha hả: “Những lời của Dương huynh dường như chưa cân nhắc kỹ, thứ nhất huynh đã bị trục xuất khỏi môn phái, không có quan hệ với Hi Bạch, quan trọng là chúng ta không tính toán trên phương diện giang hồ, mọi quy củ đều không có hiệu lực. Lúc Dương huynh đả thương tiểu đệ, có nghĩ đến quy củ giang hồ không?”

Hai mắt Dương Hư Ngạn sát cơ đại thịnh, hung hãn quát: “Nếu là như vậy, sao Từ Tử Lăng ngươi vẫn còn chưa động thủ, có phải nội thương vẫn chưa lành?”

Từ Tử Lăng rúng động trong lòng, biết rằng Dương Hư Ngạn hoàn toàn không rõ hư thật tình hình của mình thế nào, bên ngoài tỏ vẻ hung thần ác sát, thật ra nội tâm đang khiếp sợ, chiến lực giảm hẳn, bèn làm như không có gì xảy ra, nói: “Nói như vậy, tiểu đệ không khách khí nữa.”

Dương Hư Ngạn hừ lạnh, giữ tư thế không đổi bắn người bề phía sau, kiếm phong biến thành muôn điểm quang mang, kèm theo vô số những đạo kình khí cuộn tròn, không phải tấn công, mà để phòng thủ.

Cảm ứng tinh thần kỳ diệu huyền bí của Từ Tử Lăng được toàn lực thi triển, điều mà gã biết không phải việc chân khí của Dương Hư Ngạn phân bố thế nào, mà là mục tiêu và độ nặng nhẹ của tinh thần hắn, cũng chính là ma công của hắn đang nhằm về ai. Gã biết rõ Dương Hư Ngạn xuất chiêu này không những muốn thăm dò hư thật, mà còn muốn biết gã có thể thực sự động thủ không, rồi gài bẫy bất ngờ tấn công Hầu Hi Bạch, hắc thủ ma công ám tàng trong lớp kiếm khí dàn trải, hòng nhất kích đả thương Hầu Hi Bạch, sau đó mới quay sang ứng phó với gã.

Ảnh Tử kiếm là hư, hắc thủ ma công là thực.

Hầu Hi Bạch dẫn chân khí xuống dưới, bám theo Dương Hư Ngạn như hình với bóng, Mỹ Nhân Phiến trong tay phảng phất như đang vẽ lên nét bút kỳ diệu nhất thiên hạ, tại giữa không trung vẽ lên vô số những đường nét tuyệt mỹ, bao phủ kiếm mang ngợp trời của Dương Hư Ngạn, dường như gã đã nhập từ thư đạo võ đạo.

Từ Tử Lăng vươn tay phải ra, điểm chỉ về phía Dương Hư Ngạn đang giật lùi lại giữa không trung, dùng hết tinh thần lực vây tỏa lấy đại dịch đáng sợ này, hét: “Tấn công vào Trung phủ của hắn!”

Trung phủ đại huyệt nằm ở trên ngực, dưới trái tim, nơi phế phủ lấy dưỡng khí, là giao điểm giữa Thái Âm phế kinh và Thái Âm tì kinh, cũng là nơi quyết định khi Dương Hư Ngạn vận hắc thủ ma công. Hắn bị Từ Tử Lăng cảm nhận được điểm vi diệu của ma công, và cố tình chỉ điểm cho Hầu Hi Bạch, lập tức lướt mình về phía sau, triệt công biến chiêu.

Nếu là do người khác nói, đối diện với lớp kiếm mang đầy trời thế này Hầu Hi Bạch ắt sẽ sinh do dự, nhưng con người gã vốn luôn tin phục Từ Tử Lăng, lại càng biết rõ tinh thần cảm ứng của gã vượt ngoài võ công, cười dài một hơi, Mỹ Nhân Phiến “roạt” một tiếng mở rộng ra, quét về phía Dương Hư Ngạn đang lơ lửng giữa không trung, chiêu thức hàm chứa biến hóa, trông như muốn gạt Ảnh Tử Kiếm, sự thật là tùy thời cơ biến chiêu điểm vào Phủ Trung huyệt của đối phương.

Hai mắt Dương Hư Ngạn lộ vẻ khiếp hãi, hiển nhiên là hắn đã bị Từ Tử Lăng khám phá ra hư thật.

“Chát”

Kiếm ảnh ngập trời bỗng biến mất, Dương Hư Ngạn lập tức biến chiêu dùng Hắc Thủ ma công, chính diện giao phong với Mỹ Nhân Phiến đang rộng mở, tiếng kình khí giáp kích vang lên.

Hổ khẩu của Dương Hư Ngạn rúng động, rõ ràng là đã chịu thiệt thòi không ít, hắn lập tức tăng tốc lộn người về phía bên kia ao cá.

Hầy Hi Bạch vận dụng hết một thân công phu, lăng không truy kích, không để cho đối phương có cơ hội đoạt lại thượng phong, bám sát lấy Dương Hư Ngạn triển khai tấn công cận chiến vô cùng kịch liệt, Mỹ Nhân Phiến cùng Ảnh Tử kiếm liên tục đụng nhau, tiếng va chạm liên miên không ngớt.

“Bối trung!", "Chương môn!", "Thiên hội!", " Hậu khê!", " Tiền cốc!"

Huyệt vị này nối tiếp huyệt vị kia phát ra từ miệng Từ Tử Lăng, Hầu Hi Bạch tuyệt đối tin tưởng gã, không cần quản đến kiếm thế của đối phương thế nào, gã đều theo như đó kết hợp cùng trí năng của bản thân cuồng mãnh tấn công, khiến Dương Hư Ngạn luống cuống tay chân, không có cách nào xoay chuyển tình thế.

Bắt đầu từ khi Từ Tử Lăng phát giác ra hành tung của hắn, Dương Hư Ngạn luôn ở trong thế hạ phong, không tài nào phát huy toàn lực. Từ Tử Lăng và Hầu Hi Bạch càng lúc càng thêm hiểu rõ Hắc Thủ ma công, biết hắn không thể tùy ý thi triển, mà cần trình tự vận khí thi kình. Chỉ cần đi trước một bước, tấn công vào vị trí quan trọng đó, Hắc Thủ ma công lập tức không thể thi triển, bởi vậy mới biết Hắc Thủ ma công của Dương Hư Ngạn vẫn chưa đạt tới cảnh giới viên mãn.

Từ Tử Lăng thong dong cất bước đi về phía hai bóng người lấp loáng bên bờ hồ với tốc độ mắt thường không thể nhìn rõ, sự thật là công lực của gã đã giảm sút rất nhiều, không thể nào nắm rõ chiêu số của hai bên, nhưng tinh thần lực của gã lại nắm rõ được từng hành động của Dương Hư Ngạn, hơn nữa còn nhận ra được những nhược điểm chí mạng của hắn.

Không có một ai có thể hiểu rõ Bất Tử ấn pháp mà Dương Hư Ngạn học từ Thạch Chi Hiên hơn gã, so với Thạch Chi Hiên, Ảnh Tử Thích Khách vẫn còn kém hơn một đoạn, hắn mới chỉ đang ở giai đoạn nguyên thủy của ấn pháp, chưa dung nhập thành công vào Ảnh Tử Kiếm Pháp, vẫn phải dùng Hắc Thủ ma công bắt nguồn từ Ngự Tận Vạn Pháp Căn Nguyên Trí Kinh thi triển. Nhưng dưới sự chỉ dẫn của gã, Hầu Hi Bạch khiến hắn không cách nào thi triển Hắc Thủ ma công, đồng nghĩa với việc phá tan Bất Tử ấn pháp.

“Bùng! Bùng! Bùng”

Ba tiếng liên tiếp vang lên, như giây đàn quật vào mặt trống, chấn động cả một khoảng không gian rộng lớn trong nội viện, hung hiểm lăng lệ cực điểm.

Hầu Hi Bạch hiểu Từ Tử Lăng đang tiếp cận tạo thành uy hiếp cực lớn với tâm lý Dương Hư Ngạn, khiến hắn nhất thời phát sinh khiếp ý và thối ý, gã càng thêm tự tin, sử dụng toàn thân công phu, kiến chiêu phá chiêu, mãnh công đột kích, dồn Dương Hư Ngạn vào tử địa.

Phiến chiêu của hắn mặc dù chiêu nào cũng hung hiểm phi thường, nhưng bên ngoài nhìn vẫn có vẻ tiêu sái ưu mỹ, trong mỗi chiêu đều dường như tàng ẩn một loại ý vị siêu nhiên phiêu dật, giống như đang vẽ tranh cho mỹ nhân, tùy ý thu phát, tinh tế phi thường, dường như đã đi sâu vào đến đỉnh cao của họa đạo. Khiến cho Dương Hư Ngạn đang ở thế hạ phong vô luận phản kích thế nào, cũng bị phiến chiêu của gã tùy ý tiêu sái mà hóa giải.

Từ Tử Lăng miễn cưỡng đề khí, tiến vào khu vực hai người đang giao chiến, tìm ra nhược điểm lớn nhất của Dương Hư Ngạn, cũng là điểm uy hiếp hắn lớn nhất.

Dương Hư Ngạn lập tức chịu ảnh hưởng, toàn thân rúng động, hét lên một tiếng quái dị rồi nhanh nhẹn lùi lại.

Hấu Hi Bạch chớp lấy cơ hội, Mỹ Nhân Phiến như một ngọn gió, xuyên qua ảnh tử kiếm, điểm vào ngực.

Dương Hư Ngạn thi triển Ảo Ma thân pháp, dịch người sang một bên, dùng vai đỡ lấy một phiến này, nhân cơ hội lùi thêm về phía sau, bay lên không phun ra búng máu, hét lớn: “Hậu hội hữu kỳ, sự việc ngày hôm nay Dương Hư Ngạn ta tuyệt sẽ không bao giờ quên!” Trong nháy mắt đã lẫn mất phía sau sương phòng.

Còn lại Hầu Hi Bạch và Từ Tử Lăng, hai người chợt đưa mắt nhìn nhau, trong thâm tâm cùng thầm kêu may mắn.

Những giọt máu Dương Hư Ngạn lưu lại trên nền đất, cảnh tượng quả là hiếm thấy.

- o O o -

HỒI 672

Xảo Ngộ Cố Nhân

Từ Tử Lăng cùng Hầu Hi Bạch trong tâm trạng muốn thưởng ngoạn phong cảnh cùng tản bộ trên con đường lớn nối liền Nam môn và Bắc môn, khiến ai nấy chăm chú ngắm nhìn, các cô nương lúng liếng liếc mắt đưa tình.

Giống như đại bộ phận các thành trì khác, người đi trên đường đa phần là nữ, hậu quả tất nhiên khi đại đa số nam đinh đều đã bị triệu đi nhập ngũ. Ba Đông quận không nằm ở tiền tuyến, vấn đề kinh tế được chú trọng hơn, nhưng lão gia Đỗ Phục Uy vì phải ứng phó với hai mối uy hiếp cực lớn là Phụ Công Hựu và Tiêu Tiễn, chủ lực tập trung hết vào Lịch Dương, dùng lợi thế đường thủy của Trường Giang để ứng phó với bất kỳ địch nhân nào xâm phạm, bảo vệ khu vực thành trì ven sông. Do vậy Ba Đông quận không có trọng binh đóng giữ, dân cư sống thoải mái trong cảnh phồn hoa thịnh vượng.

Hầu Hi Bạch cười: “May mà bọn ta tình cờ đến thành trì của lão gia Tử Lăng huynh, nếu đây là một tòa thành của Đường thất, nhất định tối nay sẽ cho Dương Hư Ngạn dẫn thêm người đến bắt sống bọn ta làm tù binh, mới nghĩ đến dã thấy lạnh run, vận mệnh sống hay chết đúng là chỉ cách nhau một đường tơ.”

Từ Tử Lăng cười đáp: “Nói thật lòng, Dương Hư Ngạn hôm nay thua thật oan uổng, điểm cốt yếu thắng hay bại giống như một phần của canh bạc.”

Hầu Hi Bạch vui vẻ: “Nhưng tục ngữ có nói, thành công không dựa vào may mắn, nếu không có tinh thần đại pháp kỳ diệu của Từ Tử Lăng, chỉ điểm cho ta vốn là một tên ngốc không biết mình đứng trên bảo tàng, thì Dương Hư Ngạn làm sao có thể thua mà vẫn hồ đồ như vậy.”

Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Không ngờ Hi Bạch lại khiêm tốn như vậy, xưa nay tài tử luôn tạo ra ấn tượng bằng vẻ cao ngạo, mà huynh đúng là tài tử từ đầu tới chân.”

Hầu Hi Bạch bật cười: “Tài tử? Hắc, kể cả là tài tử, đứng trước mặt một tài tử khác như Từ Tử Lăng, có ai mà dám không khiêm tốn chứ? Tiểu đệ thật bội phục huynh, càng vui mừng vì huynh đã gọi tiểu đệ là Hi Bạch một cách thân thiết, chứ không phải Hi Bạch huynh dài dòng này nọ. Ở phương diện này Khấu Trọng không giống huynh, đối với bất cứ ai cũng nồng nhiệt còn huynh luôn cẩn thận giữ cự ly nhất định.”

Từ Tử Lăng cười khổ: “Được Hi Bạch khen ngợi như vậy, thật tội cho tiểu đệ quá. Xin Hi Bạch đại nhân đại lượng, tha cho tiểu đệ lần này. Lúc đó chỉ là tiểu đệ không biết giữ mồm giữ miệng, nghĩ sao nói vậy, Hi Bạch vì bảo hộ tiểu đệ mà không quản đến cả tính mạng, mọi người cùng can đảm giúp nhau nên tiểu đệ tự nhiên mới như vậy.”

Hầu Hi Bạch cười lớn, vỗ vai Từ Tử Lăng, vui vẻ nói: “Mọi việc đều đã là quá khứ, nhìn về tương lai mới là việc người thông minh nên làm. Đến khi nào Từ Tử Lăng hồi phục không lực, nói không chừng chỉ nửa cước nửa chưởng cũng có thể nắm cái mạng của Dương Hư Ngạn trong lòng bàn tay.”

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Huynh quá lạc quan rồi! Trước tiên, nếu đệ và hắn giao thủ, sẽ không còn ưu thế bình tĩnh như người đứng ngoài. Hơn nữa Dương Hư Ngạn ắt sẽ ngộ ra được nhiều điều từ lần thảm bại này, nhất định sẽ nghĩ ra cách khắc phục nhược điểm, đến khi hắn đạt được cảnh giới tùy tâm thu phát, sẽ trở thành một Thạch Chi Hiên thứ hai. Một ngày hắn còn chưa chết, thủy chung sẽ là mối họa tâm phúc của bọn ta.”

Hầu Hi Bạch đột nhiên hạ giọng: “Nhìn kìa! Ba Đông thành không ngờ lại có mỹ nữ khí chất tuyệt vời như vậy.”

Từ Tử Lăng hướng theo mục quang của gã nhìn về phía ngã tư đường, một mỹ nữ y phục đơn giản, nhưng không dấu được vẻ mềm mại thuần khiết đang bước ngang vào ngã rẽ, hai gã chỉ nhìn thấy bóng dáng sau lưng, chứ không nhìn thấy hoa dung của nàng.

Hầu Hi Bạch nhìn Từ Tử Lăng, kinh ngạc: “Tử Lăng làm sao vậy? Không phải là thấy sắc rồi động tâm chứ? Thật không giống chút nào.”

Từ Tử Lăng trầm giọng: “Đệ cảm thấy người này rất quen thuộc, ấn tượng rất sâu như đã từng gặp ở một nơi nào đó.”

Hầu Hi Bạch nói: “Tiểu đệ có thể bảo chứng, cô nương này không phải là một mỹ nữ nào đã từng gặp, đối với nữ nhân đệ có một sự cảm nhận đặc biệt, kể cả họ có dịch dung và thay đổi cách ăn mặc cũng không giấu nổi.”

Từ Tử Lăng gật đầu nói: “Nàng ta tuyệt không phải địch nhân của bọn ta, ấn tượng nàng ta để lại cho đệ rất thiện lương.”

Hầu Hi Bạch chỉnh lại y phục, cười bảo: “Đến nơi rồi! Quả nhiên không hổ danh là Ba Đông đệ nhất lâu, mới chỉ là cánh của của Vọng Hoài lâu đã khiến người ta phải sững sờ.”

Hổ khu của Từ Tử Lăng bỗng nhiên chấn động, dường như nhớ lại chuyện gì đó.

Hầu Hi Bạch liền kéo gã sang một bên, không để cản trở khách nhân khác đang tiến vào Vọng Hoài lâu, hỏi: “Có phải Tử Lăng đã nhớ ra nữ nhân đó là ai?”

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Không, đệ chỉ là nhớ lại một việc trước nay vẫn không minh bạch, hôm đó đệ trúng phải ‘Ngọc Thạch Câu Phần’ của Chúc Ngọc Nghiên thụ thương hôn mê, ngày hôm sau khi tỉnh lại Phi Huyên đã rời đi mất, việc này như ăn rễ sâu trong đầu đệ, khiến đệ không suy nghĩ mãi không thông, trong tim vẫn luôn tự hỏi tại sao nàng không đợi đến lúc đệ tỉnh lại hồi phục công lực để có thể tự bảo vệ bản thân rồi hẵng rời khỏi. Cho đến lúc này đệ mới hiểu ra, đó chính là cảnh giới Kiếm tâm thông minh. Đáng tiếc là chỉ sau khi đệ thụ thương mất đi võ công mới chân chính hiểu ra Kiếm tâm thông minh là gì, cũng bằng phương pháp đó mới có thể giúp Hi Bạch đẩy lui Dương Hư Ngạn.”

Hầu Hi Bạch nói: “Thì ra Từ Tử Lăng đang nghĩ đến một việc hoàn toàn khác, thật khiến người ta kinh ngạc. Thạch sư phụ xưa nay vẫn không dám đến Từ Hàng Tịnh Trai khiêu chiến với Phạm Thanh Huệ, chính vì cố kỵ cảnh giới tối cao của kiếm đạo Kiếm tâm thông minh trong ‘Từ Hàng Kiếm Điển’. Thật ra Tử Lăng vốn có tiềm chất thông linh, chỉ là chưa có cơ hội phát huy. Nếu như Tử Lăng hồi phục công lực, thụ thương lần này lại chẳng khác nào hảo sự.”

Từ Tử Lăng nở nụ cười tiêu sái: “Có hồi phục hoàn toàn được hay không, đệ tịnh không để trong tâm. Vọng Hoài lâu này quả thật không phải tầm thường, chỉ cần bốn trụ gỗ hồng chống đỡ cả ba tầng lầu đã khiến người ta phải trầm trồ khen ngợi, chúng ta lên thử xem thế nào.”

Hầu Hi Bạch cười ha hả: “Tử Lăng, mời!”

Từ Tử Lăng cười nhẹ: “Hi Bạch quá khách khí rồi!” Đoạn bước lên lầu.

Vọng Hoài lâu nằm ở phía bắc thành, thiết kế độc đáo, kiến trúc tầng dưới cùng khác hẳn, muốn đi từ tầng này lên tầng khác phải đi qua một chiếc cầu thang gỗ mười bậc. Toàn bộ tòa lầu như kết cấu từ trụ gỗ kiên cố, vừa chắc chắn lại vừa không mất đi vẻ đẹp tự nhiên.

Tận cùng của cầu thang gỗ là quầy chưởng quỹ tửu lâu, dẫn vào tầng lầu thứ nhất có bày hơn ba mươi chiếc bàn lớn. Phần lớn đều đã chật khách, xem ra đại bộ phận khách nhân đều là thương nhân từ nơi khác đến, các món điểm tâm đang bốc hơi nghi ngút được những nữ tử trẻ trung bưng ra phục vụ khách nhân, bày biện đặc sắc. Ở phía bên phải là cầu thang gỗ dẫn lên tầng lầu trên.

Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn tới, vị chưởng quỹ thanh niên đang giúp trà khách tính tiền cảm nhận được khí chất bất phàm của Từ, Hầu liền quay lại nhìn về phía hai gã, nhất thời đối diện với Từ Tử Lăng.

Từ Tử Lăng ngây người: “Không ngờ lại là Hàn huynh!”

Vị chưởng quỹ trẻ tuổi rúng động toàn thân, mặt cắt không còn một giọt máu, trắng bệch như người chết.

Từ Tử Lăng bấy giờ mới thấy hối hận cơ hồ không muốn sống nữa, người này chính là Hàn Trạch Nam mà hắn quen khi bắt thuyền từ Tam Hiệp rời khỏi Ba Thục. Hắn ta cùng kiều thê Tiểu Thường và hài tử Tiểu Kiệt chạy trốn Ác Tăng Pháp Nạn và Diễm Ni Thường Chân của Âm Quý Phái truy sát, được gã trượng nghĩa xuất thủ đẩy lui Pháp Nạn và Thường Chân. Nhưng Hàn Trạch Nam sau đó như con chim bị tên lập tức bỏ trốn, khiến gã không kịp làm rõ quan hệ giữa hắn và Âm Quý Phái.

Điều làm gã hối hận chính là nhất thời quên mất mình khi làm quen với Hàn Trạch Nam với bộ mặt đã dịch dung của “Cung Thần Xuân”, lại còn kêu một tiếng “Hàn huynh!”, vô ý làm lộ thân phận Hàn Trạch Nam dùng để tránh nạn. Bởi vậy sắc mặt hắn mới trở nên khó coi như thế, đồng thời gã cũng tỉnh ngộ, nữ nhân vừa nhìn thấy cũng chính là thê tử Tiểu Thường của Hàn Trạch Nam.

Hầu Hi Bạch từ phía sau tiến lại ngạc nhiên hỏi: “Tử Lăng gặp bạn cũ ư?”

Từ Tử Lăng trong lúc thất thố, hàm hồ đáp: “Không, đệ nhận lầm người rồi.” Rồi kéo Hầu Hi Bạch bước đến bậc thang dẫn lên lầu trên.

Đi đến góc rẽ, Từ Tử Lăng đột nhiên dừng lại, khẽ than: “Đệ muốn quay lại nói vài câu cho rõ ràng, Hi Bạch xin lên lầu ba tìm một bàn trống trước, được không?”

Hầu Hi Bạch lắc đầu: “Huynh trách nhiệm trọng đại, làm sao có thể bỏ mặc đệ một mình, chúng ta cùng đi.”

Hai người bước xuống cầu thang, khi tới nơi thì Hàn Trạch Nam đã mất bóng, một người khác đang làm thay nhiệm vụ của hắn.

Từ Tử Lăng khẽ than bất diệu trong lòng, nếu gã làm Hàn Trạch Nam chạy trốn, để tránh đại họa, thì quả thực đã phạm trọng tội, vội nói: “Bọn ta mau đuổi theo.” Hai gã vừa chạy ra ngoài, kịp nhìn thấy bóng Hàn Trạch Nam đang chạy vào ngã rẽ trước mặt.

Hàn Trạch Nam tâm sự trùng trùng cúi đầy chạy nhanh vào ngõ, bất ngờ trước mắt hoa lên, có bóng người xuất hiện trước mặt khiến hắn lùi liền ba bước, mặt tái như chàm đổ.

Người cản đường chính là Hầu Hi Bạch, vòng tay vái chào: “Hàn huynh xin thứ lỗi cho Hi Bạch vô lễ, vì bằng hữu của tại hạ vừa rồi đối với Hàn huynh có chút hiểu lầm, Hàn huynh không cần phải kinh sợ.”

Hàn Trạch Nam kinh hoàng, ngạc nhiên nói: “Các hạ có phải là Đa Tình Công Tử Hầu Hi Bạch?”

Hầu Hi Bạch vui vẻ: “Chính thị tại hạ. Không ngờ Hàn huynh không biết võ công, mà lại am hiểu sự việc trên giang hồ, bằng hữu của tại hạ đến rồi.”

Hàn Trạch Nam lộ vẻ nghi hoặc, quay đầu nhìn lại, quả nhiên nhìn thấy Từ Tử Lăng trong diện mạo Cung Thần Xuân đã từng cứu sống hắn đang tiến lại, sắc mặt lập tức giãn ra, kinh ngạc kêu lên với vẻ không tin nổi: “Ân công!”

Từ Tử Lăng lột bỏ mặt nạ, đến bên Hàn Trạch Nam, ân hận nói: “Là sơ xuất của tại hạ, khiến Hàn huynh phải chịu một phen kinh hoảng, tôn phu nhân và lệnh lang vẫn mạnh khỏe chứ?”

Hàn Trạch Nam ngây người trừng mắt nhìn, đầu óc nhất thời chưa hiểu ra chuyện gì đang xảy ra, phải một lúc sau mới hồi phục trở lại, thở phào một hơi nói: “Thế gian này không ngờ lại có mặt nạ tinh xảo đến như vậy, tiện nội cùng tiểu nhi vẫn khỏe, đại ân đại đức của ân công, chúng ta vẫn chưa kịp cảm tạ, mỗi lần nhớ đến đều cảm thấy bứt rứt trong lòng.”

Từ Tử Lăng vỗ vỗ lên vai hắn: “Không cần phải nói vậy, Hàn huynh cứ coi sự việc hôm nay chưa từng xảy ra, tiểu đệ và Hi Bạch phải quay lại dùng điểm tâm, huynh cứ tiếp tục công việc của mình, giữa chúng ta sẽ không còn liên quan gì.” Cười ha hả một tràng, rồi kéo Hầu Hi Bạch cùng đi.

Hàn Trạch Nam từ phía sau gọi lớn: “Xin ân công cho biết cao tính đại danh.”

Từ Tử Lăng nói: “Tiểu đệ là Từ Tử Lăng, Hàn huynh cứ yên tâm, bọn tiểu đệ quyết không làm lộ bí mật nơi ẩn cư của Hàn huynh đâu.”

Hai người an tọa tại một chiếc bàn gần cửa sổ, ánh mắt nhìn về phía rừng rậm hút tầm mắt và dòng Hoài Thủy chảy về xa ngoài bức tường thành phía Bắc.

Hầu Hi Bạch khẽ than: “Nếu cảnh giới Kiếm tâm thông minh của Phi Huyên có thể cho nàng thông linh thần lực để biết trước tương lai, khiến tiểu đệ có liên tưởng bất an, hy vọng tiên pháp của nàng vẫn có cực hạn, không thể nhìn thấy hết được mọi sự trong tương lai.”

Từ Tử Lăng nói: “Đệ hiểu nỗi lo của Hi Bạch huynh, huynh lo cho Khấu Trọng?”

Hầu Hi Bạch quay sang nhìn gã, cười: “Cùng Từ Tử Lăng nói chuyện thật không cần nhiều công phu, tiểu đệ không phải là lo sợ vu vơ, vấn đề là Kiếm tâm thông minh của Phi Huyên đã đạt tới cánh giới như vậy, nàng chọn Lý Thế Dân làm chân mệnh thiên tử không biết có phải vì biết trước tương lai không, nếu quả thật như vậy, Khấu Trọng nguy rồi.”

Từ Tử Lăng thần sắc ngưng trọng nói: “Năng lực dự đoán tương lai của nàng ta hiển nhiên không phải lúc nào cũng đúng, ít nhất việc nàng tuyển chọn tiểu đệ làm Sơn Môn Hộ Pháp, tiểu đệ đành phải phụ lòng.”

Hầu Hi Bạch ngạc nhiên hỏi: “Sơn Môn Hộ Pháp?”

Từ Tử Lăng giải thích: “Sự thật thì chính đệ đã chọn con đường khác với ý muốn của nàng, đã không còn khả năng quay lại nữa rồi, đối lập sẽ ngày một tăng.”

Trong lúc Hầu Hi Bạch con đang ngẫm nghĩ mấy lời gã vừa nói, Hàn Trạch Nam đã xuất hiện ở phía cầu thang, tiến về phía hai gã, cả hai tuy không hiểu tại sao hắn lại không sợ bộc lộ thân phận nhưng cũng lễ mạo mời hắn ngồi xuống.

Hàn Trạch Nam lộ vẻ kiên quyết, dõng dạc nói: “Tiểu đệ vừa rồi đã về nhà cùng tiện nội bàn bạc, hy vọng có thể mượn sức hai vị trừ hại cho dân.”

Từ Tử Lăng nghĩ đến Âm Quý Phái, khẽ cười: “Nghĩa khí của Hàn huynh bất chấp đến cả an nguy của bản thân, khiến người khác phải bội phục, bất quá phái chủ Âm Quý Phái đã chết, đấu tranh nội bộ nổi lên, chia năm xẻ bảy, tạm thời không tạo ra uy hiếp gì đáng sợ, Hàn huynh xin cứ yên tâm ở đây an cư lạc nghiệp.”

Hàn Trạch Nam lắc đầu: “Tiểu đệ nói trừ hại cho đời, không phải chỉ Âm Quý Phái, mà nói đến việc buôn người cùng hệ thống sòng bạc, thương thiên hại lý ác độc đến cùng cực của gia tộc Hương Quý.

Hai gã cùng rúng động, đều cảm thấy có những việc tưởng đã tuyệt vọng lại bất ngờ tìm được cách giải quyết.

Hàn Trạch Nam lại nói: “Nếu ân công không phải là Từ Tử Lăng, tiểu đệ cùng tiện nội thật không dám có ý nghĩ như vậy, nhưng ân công và Thiếu soái lại chính là người mà Hương gia cố kỵ nhất.”

Hầu Hi Bạch thống hận nhất là những kẻ coi nữ nhân là hàng hóa như Hương gia, vui mừng nói: “Hàn huynh làm sao mà lại biết được chuyện của Hương gia?”

Hàn Trạch Nam lộ vẻ ngượng ngùng, hạ giọng khó khăn nói: “Bởi vì trước khi tiểu đệ rời khỏi Hương gia, vốn là người quản lý tất cả các khoản thu chi cho Hương gia.”

Từ Tử Lăng cùng Hầu Hi Bạch vui mừng khôn xiết nhìn nhau, trong lòng nghĩ lần này đến đây quả không uổng phí. Hàn Trạch Nam có vị trí quan trọng như vậy trong Hương gia, ắt giúp bọn gã nắm rõ tình hình hư thật, một đòn diệt gọn gia tộc này.

Từ Tử Lăng nhíu mày: “Vậy tại sao khi trước kẻ truy sát Hàn huynh lại là người của Âm Quý Phái.”

Hàn Trạch Nam than: “Sự việc nói ra thì rất dài, tiện nội Bạch Tiểu Thường vốn xuất thân từ Âm Quý Phái, cũng là người Âm Quý Phái chỉ định chuyển nhận ngân lượng cùng Hương Gia. Lưỡng phái lục đạo của Thánh môn, đại đa số đều có quan hệ mật thiết với Hương gia, Hương gia cần bọn họ trợ giúp về võ lực, còn Thánh môn lại dựa vào Hương gia để cung cấp tài lực, hình thành một mối quan hệ hai bên đều có lợi. Không những thế, Hương gia cũng là tai mắt của Thánh môn, trợ giúp Thánh môn thu thập các thông tin tình báo.”

Ngừng một chút rồi nói tiếp: “Trong tình huống đó, Tiểu Thường tiếp xúc với tiểu đệ, lâu ngày nảy sinh tình cảm, cho đến khi có mang, cũng là phạm phải đại kỵ của Âm Quý Phái, chúng ta liền lập tức bỏ chạy, ẩn nấp ở Ba Thục, có được vài năm sinh sống yên lành ở đó, nhưng cuối cùng lại bị phát hiện hành tung, nháo nhác bắt thuyền bỏ trốn, và gặp được ân công.”

Hầu Hi Bạch hỏi: “Hàn huynh tại sao lại giúp việc cho Hương gia? Lại còn giữ vị trí quan trọng như vậy?”

Hàn Trạch Nam giải thích tường tận: “Tiểu đệ từ nhỏ đã theo tiên phụ giúp việc cho Hương gia, sau này khi tiên phụ mất đi, trách nhiệm tự nhiên là rơi lên vai tiểu đệ. Trên danh nghĩa, mọi khoản do huynh trưởng của Hương Quý là Hương Phú quản lý, nhưng Hương Phú trầm mê tửu sắc, nên thực tế hoàn toàn do tiểu đệ xử lý, Hương Phú chỉ thỉnh thoảng hỏi một vài câu. Tiểu đệ cũng đã có đọc qua sách thánh hiền, tuy biết là Trợ Trụ vi ngược, nhưng vẫn bị uy hiếp bởi uy thế của Hương gia, lại sợ liên lụy đến người nhà, nên chỉ biết nghe lệnh mà hành sự. Sau đó tiên phụ tạ thế, lại gặp Tiểu Thường vốn đã có dị tâm với Âm Quý Phái, nên mới cùng nhau đào tẩu.”

Từ Tử Lăng hỏi: “Sào huyệt của Hương Quý nằm ở đâu?”

Hàn Trạch Nam nói: “Khi Dương Quảng bị giết tại Giang Đô, tiểu đệ đã từng cùng Hương Quý di chuyển mấy lần, tổng đàn cuối cùng nằm ở Lạc Dương, bất quá khi tiểu đệ cùng Tiểu Thường chạy trốn đến Ba Thục, Hương Quý lúc đó lại đang có kế hoạch đến Trường An khuếch trương.”

Hầu Hi Bạch trầm ngâm nói: “Hàn huynh đừng trách tại hạ tra cứu cặn kẽ, bởi Âm Quý Phái khống chế đệ tử cực kỳ nghiêm ngặt, làm sao lại để cho Hàn huynh và phu nhân có một cơ hội tốt như vậy?”

Hàn Trach Nam thản nhiên: “Tiểu Thường không những phụ trách việc chuyển nhận ngân lượng giữa hai bên, trước khi tên hôn quân bị giết, nàng cũng là người phụ trách việc huấn luyện các thị nữ để Hương Quý đưa vào hoàng cung, họ đều do Hương gia không từ thủ đoạn nào thu thập từ mọi nơi về.”

Từ Tử Lăng trong lòng chấn động: “Bọn đệ có thể nói vài câu cùng tẩu phu nhân chăng.”

Nhà của Hàn Trạch Nam nằm ở một phường phía đông bắc Ba Đông thành, là một căn nhà ba gian phổ thông, bố trí đơn giản, hiển nhiên phu thê bọn họ không dám khoa trương, cố sống an vui theo sinh hoạt bình thường như bách tính.

Sau khi nói vài câu khách khí, Từ Tử Lăng hỏi về tình huống huấn luyện cung nữ năm xưa của Tiểu Thường, rồi mới nói đến chuyện của Âm Tiểu Kỷ.”

Ngọc dung tú mỹ của Bạch Tiểu Thường lộ vẻ hồi tưởng đến chuyện xưa, hồi lâu sau nói: “Thiếp nhớ lại, cô ta là một nữ hài tử quật cường, song mục lúc nào cùng tràn ngập cừu hận, bọn thiếp vốn nghiêm cấm các nữ hài tử sử dụng tên cũ của mình, nhưng mỗi lần bọn thiếp đổi tên mới, cô ta đều kiên quyết nhắc lại mình là Âm Tiểu Kỷ. Sau đó bị muội tử của Hương Quý là Hương Ngoan Ngoan ra tay, mới không dám nhận mình là Âm Tiểu Kỷ, từ sau đó nhất định không chịu mở miệng nữa.”

Từ Tử Lăng nghe vậy vừa mừng vừa sợ, mừng vì sau bao nhiêu khó khăn tìm kiếm, cuối cùng cũng tìm được người biết Am Tiểu Kỷ, biết được tin tức của nàng ta, sợ vì Am Tiểu Kỷ tính tình ngang ngạnh như vậy, rất có thể đã bị Hương gia dùng độc thủ đối phó.

Bạch Tiểu Thường như nhìn rõ tâm sự của Từ Tử Lăng, vui vẻ nói: “Ân công không phải lo lắng, sau khi biến cố ở Giang Đô phát sinh, mấy trăm hài nữ bị giam trong cung đã nhân vụ binh biến Vũ Văn Hóa Cập tạo ra mà chạy trốn, Hương Quý đến bản thân mình còn chưa lo xong, làm sao có tâm tình để ý đến bọn họ.”

Từ Tử Lăng nghe xong mà tròn mắt á khẩu, làm sao nghĩ được năm đó khi gã và Khấu Trọng rời khỏi Giang Đô, trong tình cảnh chạy trốn, lúc đó binh hoang mã loạn, vận mệnh của một tiểu hài nữ yếu ớt thật khó đoán, nhưng giờ dấu tích để truy tầm theo Am Tiểu Kỷ đã hoàn toàn đoạn tuyệt, giữa biển người rộng lớn như vậy làm sao có thể tìm được?

Hàn Trạch Nam tỏ ra thành ý: “Để đối phó với miệng lưỡi thiên hạ, phu phụ tiểu đệ nên làm gì?”

Từ Tử Lăng thu nhiếp tinh thần, nói: “Bọn tại hạ sẽ liên lạc với một người tên là Lôi Cửu Chỉ để gặp mặt với Hàn huynh, người này vốn luôn cố tìm ra trăm phương ngàn kế để đối phó với Hương gia, y sẽ an bài mọi sự cần thiết cho Hàn huynh, bảo đảm an toàn cho hai vợ chồng huynh, Hàn huynh cùng tẩu phu nhân cứ an tâm, còn một việc nữa, xin Hàn huynh cùng phu nhân đừng gọi tại hạ là ân công nữa.”

Hầu Hi Bạch cười nói: “Từ Tử Lăng quả là một nhân sĩ nghĩa hiệp thi ân bất cầu báo, việc liên lạc với Lôi lão ca cứ để tiểu đệ phục trách, Tử Lăng cứ yên tâm tĩnh dưỡng.”

Hàn Trạch Nam cùng Bạch Tiểu Thường thần sắc lộ vẻ nghi hoặc.

Từ Tử Lăng thản nhiên nói: “Đệ vì cừu gia đả thương, phải tìm cách trị liệu, vậy việc này tốt hơn là để Hi Bạch huynh làm, Hàn huynh cùng tẩu phu nhân cứ sinh hoạt như thường lệ, đợi khi nào Lôi đại ca đến, huynh ấy ắt sẽ có cách an bài cho thỏa đáng.”

- o O o -

Hồi 673

Khấu Trọng nằm trong chính lâu trong sơn trại ngủ một giấc đến khi mặt trời lặn xuống non tây mới được Vương Huyền Thứ gọi dậy, thần sắc cổ quái nói: “Có một tên trộm vặt cùng tuổi với Huyền Thứ cầu kiến Thiếu soái.”

Khấu Trọng lơ mơ ngồi dậy mặc lại quần áo, trầm ngâm nói: “Trộm vặt? Trộm già thì ta đã gặp rất nhiều, Tử Lăng là một trong những tên đó, trộm vặt thì nửa tên cũng chẳng biết. Hắn từ đâu đến? Tìm ta có việc gì?”

Vương Huyền Thứ giúp gã mặc bộ y phục Sở Sở may cho, khoác thêm tấm ngoại bào da dê đã trải qua bao kiếp nạn, đáp: “Hắn tự xưng là từ Tương Dương ngày đêm không nghỉ chạy đến đây, có việc quan trọng liên quan đến sự tồn vong của Thiếu soái cần bẩm báo, hắn bảo chỉ cần nói với Thiếu soái là trộm vặt ở Tương Dương, Thiếu soái nhất định sẽ nhớ ra hắn là ai.”

Khấu Trọng lẩm bẩm hai lần “Trộm vặt ở Tương Dương”, lắc đầu: “Không có ấn tượng nào hết, hắn hiện giờ ở đâu?”

Vương Huyền Thứ đáp: “Hiện đang ở tầng trên của sơn trại, tên trộm vặt này rất cổ quái, nhất định không cho bọn tiểu đệ lục soát thân thể, Bạt đại tướng quân thấy hắn my thanh mục tú, không có vẻ là người xấu nên cũng nới tay, nhưng xin Thiếu soái cẩn thận.”

Khấu Trọng bật cười: “Nếu lão trộm như ta còn bị mắc mưu trộm vặt thì thật chẳng khác nào lão miêu bị chuột nhắt cắn đuôi, lật thuyền trong cống rãnh.”

Vương Huyền Thứ trầm giọng: “Hắn từ cửa ra vào của bí hiệp ở Nam lộ đến.”

Khấu Trọng giật mình: “Cái gì?”

Vương Huyền Thứ nhắc lại lần nữa.

Khấu Trọng sắc mặt thay đổi mấy lần, lắc đầu cười khổ tiến ra khỏi soái phòng, thấy thủ hạ mệt mỏi đều đang say ngủ, tiếng ngáy như tiếng sấm vang trời.

Gã và Vương Huyền Thứ theo cầu thang lên lầu trên. Theo chỉ thị của Trần Lão Mưu, mấy chục công binh đã dùng dây thừng chuyển gỗ lớn từ dưới đất lên xây dựng một vọng lâu cao ba trượng, trở thành điểm cao nhất của sơn trại.

Bốn cao thủ Phi Vân vệ đang bồi tiếp một thiếu niên khoảng mười sáu, mười bảy tuổi, cung kính ngồi trong góc đợi gã, sơn trại đã bắt đầu đốt lửa, sáng hơn cả ánh tịch dương bên ngoài.

Thiếu niên thoáng thấy Khấu Trọng, cao hứng đứng bật dậy, vẫy vẫy tay nói: “Thiếu soái, là tôi!” lập tức hắn bị hai Phi Vân vệ nắm lấy vai dằn xuống, không để hắn quá hưng phấn chạy ào lên.

Khấu Trọng định thần một lát, hồi ức tưởng như đã quên từ lâu, dần dần trở lại, cười dài nói: “Thế mà ta cứ tưởng là ai, thì ra đúng là một lão bằng hữu, thả hắn ra.”

Phi Vân vệ theo lệnh thu tay lại, thiếu niên nọ chạy thẳng đến trước mặt Khấu Trọng nói lớn: “Đã nói Thiếu soái nhất định sẽ nhớ ra tiểu nhân là ai mà, hôm đó ở Tương Dương tiểu nhân có mắt mà không thấy Thái Sơn, định trộm hầu bao của Thiếu soái, bị Thiếu soái bắt được, không ngờ Thiếu soái không những không trừng phạt mà lại cho một đĩnh hoàng kim, Thiếu soái không chỉ là anh hùng vô địch thiên hạ, mà còn là hảo hán đại nhân đại nghĩa, tiểu nhân chưa ngày nào dám quên đại ân đại đức.”

Nói đến đoạn hưng phấn, khuôn mặt thanh tú trắng như tuyết ửng lên hai đóa mây hồng, vừa nói vừa thở, khiến người ta sinh ra cảm giác khác lạ.

Khấu Trọng quay sang nới với Vương Huyền Thứ: “Mọi sự vị huynh đệ này nói đều là sự thật. Năm đó ta cùng Thương Tú Tuần đến Cảnh Lăng, lúc đi qua Tương Dương có gặp vị tiểu huynh đệ này, sau đó mới gặp lão Bạt và đồ đệ của Khúc Ngạo.”

Vương Huyền Thứ thần sắc ngưng trọng, hỏi: “Lập Trại? Vị tiểu huynh đệ này cao tính đại danh thế nào, làm sao lại biết được bọn ta ở đây?”

Thiếu niên đáp: “Mọi người đều gọi tôi là Tiểu Hạc Nhi..úy… tôi”

Thấy mục quang của Khấu Trọng quan sát mình từ đầu tới chân, như có phát hiện gì đó, gò má lại ửng hồng lên đến tận mang tai.

Khấu Trọng đưa bàn tay to bè ra, cười: “Đi, chúng ta vừa đi vừa nói.”

Tiểu Hạc Nhi không hề do dự đưa cánh tay trắng muốt thon dài ra, để gã nắm lấy.

Khấu Trọng đưa mắt nhìn Vương Huyền Thứ làm hiệu, rồi kéo Hạc Nhi dọc theo bức tường dẫn đến vách đá đối diện, cười nhẹ hỏi: “Có phải tiểu đệ đến để cảnh giới bọn ta, Lý Thế Dân đã phát hiện ra bí mật của Thiên Thành Hiệp không?”

Tiểu Hạc Nhi chân thành tán thưởng: “Thiếu soái quả là anh minh thần vũ, thông minh hơn người, toàn bộ quân binh trấn thủ Tương Dương sắp đổ đến rồi, cộng với quân đội của các thành trì lân cận tổng số lên đến hơn một vạn năm ngàn người, do Khuất Đột Thông làm chủ soái, tiến về lối ra vào phía nam Thiên Thành Hiệp.

Khấu Trọng thầm trách mình đã quá sơ ý, nếu bí hiệp đã có người cải danh đề tự, tất nhiên những người ở phụ cận phải biết về danh thắng này. Lý Thế Dân thấy gã chạy đến đây, tự nhiên khám phá ra mục đích là Thiên Thành Hiệp, liền lập tức ra lệnh cho Khuất Đột Thông theo đường thủy đến Tương Dương, triệu tập quân đội ở đó cắt đi đường lùi của gã. Nếu như lối ra phía Nam cũng bị phong bế, gã sẽ không có cách nào hội quân với viện binh của Bạt Phong Hàn, toàn quân ở nơi đây chỉ có đường chết. Tin tức của Tiên Hạc Nhi mang đến khiến gã từ trên mây rớt xuống mặt đất, trán ướt đầm mồ hôi lạnh.

Tiểu Hạc Nhi lại nói: “Người Tương Dương ngày nào cũng mang chuyện Thiếu soái trấn thủ Lạc Dương kháng cự quân Đường ra bàn luận, tiểu nhân vì lo sợ cho an uy của Thiếu soái, không ngừng nghe ngóng tin tức, cuối cùng nghe được tin Thiếu soái đột vây thành công, mới nhẹ lòng. Bốn ngày trước Khuất Đột Thông đến Tương Dương, điều động quân đội, tiểu nhân biết là có chuyện không ổn, đến khi biết được mục đích của Khuất Đột Thông chính là Thiên Thành Hiệp, mới đoán là Thiếu soái đang ở đây. Thật khiến người ta khó mà tin được, tiểu nhân đã bao nhiêu lần từ xa đến Tương Dương qua Thiên Thành Hiệp, nhưng chưa từng nghĩ qua chỉ một thời gian ngắn đã biến thành hình dạng như thế này.”

Khấu Trọng nhíu mày: “Khuất Đột Thông tịnh không phải kẻ mới dụng binh, tại sao lại có thể tiết lộ địa điểm hành quân?”

Tiểu Hạc Nhi kể công: “Nói đến trinh thám, chỉ sợ Tương Dương không có mấy người có bản sự, ở đó một tùy tướng Đường quân rất đáng ghét, đã không dám tiêu tiền lại hay ba hoa, các cô nương ở Yêu Nguyệt Lâu rất ghét hắn, đợi sau khi hắn say rượu moi hết tin tức, nói Thiếu soái hôm nay nhất định gặp đại kiếp nạn khó tránh, tiểu nhân quyết không tin lời nói khoác của hắn, Thiếu soái không thể nào chết, vì ngài là người tốt nhất trên thế gian.”

Khấu Trọng thả tay gã ra, cười lớn: “Thì là trong thanh lâu lại có tai mắt của tiểu huynh đệ, trước khi đệ đến đây, Đường quân đã xuất phát chưa?”

Tiểu Hạc Nhi nói: “Tiểu nhân đi trước bọn chúng một đêm, đi một mạch theo đường tắt trên núi, mệt muốn chết, nhưng khi nhìn thấy Thiếu soái thì mệt mỏi bay hết, tinh thần phấn chấn đến mức có thể đánh chết cả mãnh hổ.”

Khấu Trọng trầm ngâm: “Theo như huynh đệ đoán, đại quân của Khuất Đột Thông đi suốt ngày đêm, lúc nào sẽ đến lối ra phía Nam?”

Tiểu Hạc Nhi thấy Khấu Trọng cởi mở hỏi mình như vậy, thoáng lộ vẻ lo lắng, dụng tâm suy nghĩ một hồi lâu rồi đáp: “Có lẽ hoàng hôn ngày mai sẽ đến nơi.”

Khấu Trọng cười ha hả: “Tiểu Hạc Nhi nên biết bằng câu này của huynh đệ, có thể là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại cuộc tranh giành thiên hạ giữa ta và Lý Thế Dân. Huynh đệ nói không mệt, nhưng ta thấy huynh đệ đã mệt rũ ra rồi, hay là đến soái phòng của ta ngủ một giấc cho say, huynh đệ chắc chắn là không muốn xuống ngủ cùng với đám huynh đệ của ta ở đại trướng rồi.”

Khuôn mặt anh tuấn của Tiểu Hạc Nhi đỏ bừng, cúi đầu lý nhí: “Thiếu soái đã nhìn thấu Tiểu Hạc Nhi rồi.”

Khấu Trọng đưa tay xoa đầu đầu “hắn” nói: “Cùng là người trong nghề mà, yếu quyết móc túi đầu tiên là xem người, nếu đến cả nam hay nữ cũng không nhìn ra nổi, thì còn dùng được làm gì nữa?”

Tiểu Hạc Nhi lộ vẻ e thẹn của nữ nhân, dịu dàng nói: “Muội có thể gọi huynh là Khấu đại ca được không? Muội từ trước tới nay vẫn hy vọng sẽ có được một vị đại ca, hôm đó huynh ở Tương Dương đánh vụn thuẫn bài của Trường Thúc Mưu, uy dũng bao nhiêu, Tiểu Hạc Nhi mới biết người trượng nghĩa cho mình một đĩnh hoàng kim, chính là Khấu Trọng danh chấn thiên hạ.”

Khấu Trọng vẫn còn đang miên man suy nghĩ làm sao để ứng phó với nguy cơ đang đến, tùy miệng đáp: “Được, từ hôm nay trở đi, ta sẽ đại ca, muội sẽ là tiểu muội, tiểu muội còn có người thân không?”

Tiểu Hạc Nhi thần sắc ảm đạm, hai mắt đỏ hoe, lý nhí: “Đều mất hết cả rồi!”

Khấu Trọng sing lòng thương xót, xoa đầu nàng an ủi, đoạn triệu thủ hạ đến, sắp xếp cho Tiểu Hạc Nhi đến soái phòng của gã nghỉ ngơi.

Vương Huyền Thứ thần sắc ngưng trọng đến bên, Khấu Trọng trầm giọng: “Nguyên Chân, Bạt Dã Cương cùng bọn ta phải khẩn cấp mở một hội nghị. “Lập tức mời Mưu công đến.”

o0o

Từ Tử Lăng ngồi ở đuôi thuyền, hai chân thả xuống mặt nước, ánh mắt chăm chú nhìn những gợn sóng lăn tăn do thuyền buồm căng gió tạo ra, trong lòng lại nghĩ tới nơi ở kín đáo trong núi của Thạch Thanh Tuyền, nếu mọi việc thuận lợi, sáng ngày mai gã sẽ được gặp nàng.

Gã đang bị chi phối bởi nhớ nhung cùng khát vọng ái tình chưa từng thấy, trong thời loạn ly lãnh khốc vô tình, thắng làm vua, thua làm giặc, đầy rẫy dối trá, lừa lọc và cừu hận này, chỉ có hương cư của nàng mới là đào nguyên mà gã có thể lánh đời. Chỉ là thành bại của Khấu Trọng vẫn là rễ cây ăn sâu trong tim gã, khiến gã hiểu rằng ước mơ về một hạnh phúc bình phàm vẫn còn một khoảng cách chưa thể với tới. Gã làm sao có thể bỏ mặc huynh đệ đã từng đồng sinh cộng tử từ thuở nhỏ? Hà huống cuộc đấu tranh giữa Khấu Trọng và Lý Thế Dân, trên sự thật đã biến thành cuộc đấu tranh của bọn gã với Ma môn và người Đột Quyết.

Tiếng cười của Hầu Hi Bạch đang cầm lái con thuyền buồm dài hai trượng cất lên: “Thật sảng khoái, con thuyền nhỏ này phải trả mất bốn đĩnh hoàng kim, tuy đắt hơn bình thường gấp bốn lần, nhưng cũng đáng đồng tiền bát gạo.”

Từ Tử Lăng vẫn không rời ánh mắt khỏi mặt sông, chậm rãi nói: “Chiến tranh cũng phải trả giá, nó khiến cho mọi thứ trở nên trân quý, khiến cho gánh nặng của mọi người tăng lên gấp bội, khổ mà không nói ra được. Chiến tranh chỉ tạo ra cơ hội kiếm chác cho một bộ phận nhỏ, nhưng trước khi thiên hạ thống nhất, sẽ không có ai biết được ai là người thụ lợi và ai là người thụ hại.”

Hầu Hi Bạch than: “Tiểu đệ biết Tử Lăng vẫn còn lo lắng cho Khấu Trọng, nhưng vấn đề khẩn cấp bây giờ là phải tạm thời quên đi mọi thứ, chuyên tâm liệu thương. Sau khi bình phục rồi Tử Lăng hoàn toàn có thể phá đất chui lên, tung hoành ngang dọc như xưa.”

Từ Tử Lăng cười khổ: “Phá đất chui lên? Tình huống dù sao cũng chưa đến mức nghiêm trọng vậy, ít nhất Khấu Trọng cũng chưa bước theo vết chân của Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ, đệ không chỉ lo cho mình gã, mà còn lo cho mỗi người trong Thiếu Soái quân, khiến đệ cảm rất khỏ dứt mình ra khỏi vòng xoáy tranh giành thiên hạ này. Nhưng Hi Bạch cũng không cần phải lo lắng quá, vì đệ vẫn luôn cảm thấy lạc quan về Khấu Trọng.”

Hàu Hi Bạch kỳ quái hỏi: “Tử Lăng không phải là người thiên sinh lạc quan, tại sao với việc này lại có ngoại lệ như vậy?”

Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn những vì sao trên trời, nói: “Tống Khuyết sẽ không để Khấu Trọng bị Lý Thế Dân giết chết. Hiện tại Hi Bạch đào đâu ra một người có thể đánh bại cả Tống Khuyết và Khấu Trọng? Đó là điều không thể. Nhưng cách nghĩ này khiến đệ thật thống khổ, vì Lý Thế Dân đúng là một người đáng yêu đáng kính.”

Hầu Hi Bạch yên lặng hồi lâu, trầm giọng: “Đệ nghĩ Phi Huyên liệu có xuất sơn, giúp Lý Thế Dân đối phó với bọn ta không?”

Từ Tử Lăng buồn bã nói: “Đó là việc đệ không muốn gặp nhất.”

Hầu Hi Bạch nói: “Nhưng Phi Huyên chắn chắn sẽ không ngồi đó mà nhìn Lý Thế Dân bị giết đâu, vấn đề là nàng ta vốn không thể tại chiến trường đả thương người khác, chỉ huy quân đội cũng không phải sở trường của nàng.”

Từ Tử Lăng cười khổ: “Tiên tâm khó đoán, phàm nhân như đệ tốt hơn hết là không nên lãng phí tâm tư.”

Hầu Hi Bạch nói: “Đương nhiên là khó đoán nhưng không phải là không thể, tiểu đệ đoán nếu nàng đặt chân xuống trần một lần nữa, thì người đầu tiên nàng tìm sẽ là Tử Lăng.”

Từ Tử Lăng lộ vẻ vô vọng: “Tống Khuyết xua quân lên phía Bắc, tình thế không do Khấu Trọng thao túng, kể cả gã có chịu lui quân, cũng khó có thể giúp đỡ Tống Khuyết hoàn thành nguyện vọng chấn hưng Hán thống, cũng giống như trọng trách chấn hưng Thánh môn của Thạch sư phụ huynh, trong thiên hạ không có ai có thể nghịch chuyển được tình thế này. Hơn nữa ở bất kỳ cấp bậc nào, cuộc đấu tranh giữa Lý phiệt và Khấu Trọng, càng đẩy lùi ngày Lý Thế Dân bị phụ huynh hãm hại, đây thực ra là việc tốt chứ không phải việc xấu.”

Hầu Hi Bạch than: “Nghe Tử Lăng nói khiến tiểu đệ thấy thật hồ đồ, tốt hơn là huynh ngủ một giấc thật say, lúc tỉnh lại thuyền cũng cập bến.”

Tâm thần Từ Tử Lăng lại nghĩ về Thạch Thanh Tuyền, một cảm giác ôn nhu vô hạn bỗng trào lên, gã nằm thẳng người nhắm hai mắt lại.

o0o

Khấu Trọng, Hình Nguyên Chân, Ma Thường, Vương Huyền Thứ, Bạt Dã Cương, Trần Lão Mưu sáu người, lấy mấy súc gỗ làm ghế ngồi tụ tập quanh một chiếc bàn tre ở tầng dưới đại lâu, tiến hành hội nghị quân sự đầu tiên sau khi sơn trại được xây dựng. Lương thảo cùng gỗ đá chất đống bốn phía làm không khí càng thêm phần khẩn cấp như trước cơn mưa lớn.

Khấu Trọng đem tin tức Tiểu Hạc Nhi mang đến nói lại một lượt, tất cả mọi người thảy đều biến sắc, ưu thế quan trọng nhất đã không còn nữa, thay vào đó là cảm giác tự hãm thân vào tuyệt địa.

Khấu Trọng thần thái vẫn thong dong nói: “Lý Thế Dân phái Khuất Đột Thông đến Tương Dương từ bốn, năm ngày trước, lúc đó hắn vẫn còn bị cầm chân ở ngoài Ẩn Đàm Sơn, không thể biết được mục đích của chúng ta là Thiên Thành Hiệp, nhưng hắn lại như có khả năng tiên tri phái Khuất Đột Thông đến Tương Dương triệu tập quân đội đón đầu chúng ta, việc này nói cho chúng ta điều gì?”

Ai nấy đưa mắt nhìn nhau, tất cả đều chưa minh bạch “điều gì” của Khấu Trọng có ý tứ gì.

Khấu Trọng than: “Biết người biết ta, bách chiến bách thắng. Sơ xuất của ta chính là đã đánh giá thấp Lý Thế Dân, cơ trí cũng có lúc sơ sót, may mà có Tiểu Hạc Nhi từ Tương Dạng đến cảnh báo, khiến ta tỉnh ngộ. Ôi! Quả không hổ danh là Lý Thế Dân, hiểu sâu yếu quyết ‘địa thế’ của binh gia, ta dám khẳng định trong tay hắn nhất định có bản đồ của những vùng phụ cận Lạc Dương, có lẽ đấy là thành quả mà hắn đã chuẩn bị rất công phu vài năm trước khi tấn công Lạc Dương. Bởi vậy đêm đó khi bọn ta theo lối ra bí mật ở Y Lạc Sơn đột phá vòng vây, gặp ngay đại quân của hắn đón đầu, tử thương hơn nửa quân binh! Không phải là do vận khí của hắn tốt, mà hắn đã sớm đoán được bọn ta sẽ đột phá từ lối đó mà giăng lưới. Hôm nay sự việc đã như vậy, hắn không những hiểu bọn ta không muốn tấn công Tương Dương, càng không phải muốn trở về Trần Lưu, mà muốn lợi dụng địa hình hiểm trở của Thiên Thành Hiệp để tử thủ.”

Chúng nhân lập tức hiểu ra, đồng thời cũng khâm phục Khấu Trọng lâm nguy không loạn, vào thời điểm lưỡng đầu thọ địch thế này, vẫn có thể bình tĩnh phân tích tình hình của Lý Thế Dân một cách chính xác, hiểu rõ đạo lý “biết mình biết ta”.

Hình Nguyên Chân nói: “Nếu chúng ta lập tức rút quân theo phía Nam hiệp đạo, có thể đến Hoài Thủy trước khi địch nhân kịp phong tỏa đường lui, như vậy sẽ có đường sống.”

Khấu Trọng lại thở dài: “Nếu chúng ta làm vậy, Lý Thế Dân mong còn không được nữa là. Thông hiểu binh pháp như hắn sẽ không để ý đến thiệt hơn trong một trận đánh, mà nhìn vào thắng phụ toàn cục. Hắn sẽ bỏ qua cơ hội truy kích chúng ta theo hiệp khẩu, đổi hướng tấn công vào Trần Lưu, rồi như trẻ tre chiếm luôn Bành Lương, phối hợp cùng Lý Tử Thông tiền hậu giáp kích Chung Ly và Cao Bưu, khiến viện binh của Tống gia tiến thoái lưỡng nan. Không những thế đám loạn quân của chúng ta sẽ bị năm vạn đại quân tinh nhuệ của Khuất Đột Thông truy sát, kể cả có về đến được Chung Ly cũng sẽ chịu cảnh chờ bị tiêu diệt. Bởi vậy bọn ta nhất định phải tử thủ Thiên Thành Hiệp, buộc đại quân của Lý Thế Dân phải ở lại.”

Bạt Dã Cương nói: “Binh lực của Lý Thế Dân hiện tại hơn bọn ta gấp mười lần, hơn nữa đường lui đã bị phong tỏa, hắn chỉ cần lưu lại đây hai ba vạn quân, cho các đại tướng dưới quyền chỉ huy, thì vẫn có thể thong dong đi tấn công Trần Lưu, tình huống sẽ không có gì thay đổi.”

Khấu Trọng cười nhẹ: “Lý Thế Dân làm sao có thể an tâm để thủ hạ ở lại đối phó với Khấu Trọng ta, trời xanh vẫn còn chưa muốn ta chết, nên mới cho Tiểu Hạc Nhi đến báo tin. Khuất Đột Thông hôm nay đến không phải là để chặn đường mà là đi tìm chết. Nói không chừng ta còn có thể tương kế tựu kế mà đoạt luôn Tương Dương, lúc đó sẽ tạo thành tình thế khác.”

Ma Thường vừa nghe vừa đưa mắt nhìn mọi người, không hiểu sao Khấu Trọng đang ở tình thế hiểm nghèo thế này mà vẫn có thể tự tin như vậy.

Bất quá việc Tiểu Hạc Nhi đến cảnh báo, bên trong đích xác là có liên quan đến nhân quả huyền diệu, tựa hồ như cao xanh đã có an bài.

Trần Lão Mưu lấy cương vị là người cao tuổi nhất nhíu mày: “Binh lực của chúng ta chưa đến năm ngàn người, không thể sánh với đối phương, nếu đối đầu với đại quân Lý Thế Dân, sẽ không tài nào chia quân ra ứng phó Khuất Đột Thông, chúng ta có xuất toàn quân, chỉ sợ cũng không đối phó được với đại quân của họ Khuất nhiều gấp ba lần, Thiếu soái vì đâu lại tự tin như vậy?”

Khấu Trọng trầm giọng: “Các vị nắm chắc cố thủ tại đây được bao lâu?”

Ma Thường chắc nịch đáp: “Trừ phi lương thảo của chúng ta cạn kiệt, còn không Lý Thế Dân đừng hòng công hãm sơn trại.”

Vương Huyền Thứ cười khổ: “Như vậy là chỉ cần chúng ta chỉ có thể cố thủ ở đây hai mươi đến ba mươi ngày, ắt phải giết ngựa làm lương.”

Khấu Trọng cười ha hả: “Vậy là được rồi! Bọn ta sẽ không cần dùng một binh một tốt của sơn trại này, trách nhiệm của Khuất Đột Thông chỉ là phong bế Nam lộ, ta sẽ nhân lúc tối trời ngầm theo bí đạo ở phía Nam nhanh chóng đi gặp viện quân của lão Bạt, sau đó dùng hỏa khí tập kích Khuất Đột Thông từ phía sau. Bởi ta hiểu rõ lộ tuyến của lão Bạt, lại có thêm Vô Danh quan sát từ trên cao, mọi việc rất thuận lợi.”

Ai nấy nghe xong tinh thần đều chấn động, bọn họ không phải là không nghĩ được như thế, mà không ai hiểu rõ về số lượng và uy lực của hỏa khí như Khấu Trọng.

Trần Lão Mưu vui mừng: “Nếu có thể làm hao tổn nặng nề đại quân của Khuất Đột Thông, không chừng thật sự có cơ hội thừa thế công hãm Tương Dương thật.”

Khấu Trọng vui vẻ: “Vậy mới nói, vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Ta đã từng nếm mùi đại bại đau đớn và thảm thương nhất, tuyệt đối sẽ không để lịch sử tái diễn.”

Chuyển hướng sang Trần Lão Mưu nói: “Trần công lập tức cho thêm người củng cố phòng ngự ở lối ra phía Nam, bảo họ phải quan sát tình huống nơi đó thật mật thiết, nếu phát giác ra Khuất Đột Thông bị tập kích, phải chớp lấy thời cơ, lập tức cho quân ra tấn công, cố hết sức truy sát đám tàn quân của địch nhân. Ta có thể nói lần này không phải là chiến tranh, mà là đồ sát tàn nhẫn. Thắng làm vua, những việc này không có gì đáng nói hết, chiến tranh chỉ là một cuộc chơi vô tình xem ai bị thương nặng hơn mà thôi.”

Trần Lão Mưu phấn chấn: ‘Thiếu soái cứ yên tâm, mọi việc để thuộc hạ lo.”

Khấu Trọng hạ giọng: “Tiểu Hạc Nhi thân thế rất đáng thương, vốn là gái giả trai, các vị không cần phải lột tẩy thân phận của cô ta làm gì, cần phải đặc biệt che giấu.”

Vương Huyền Thứ tỉnh ngộ: “Thảo nào cô ta không chịu cho bọn tiểu đệ khám xét, thì ra là vậy.”

Trần Lão Mưu tinh quái cười: “Nếu không phải là nữ hài tử, thì làm sao có được thân hình thon thả như vậy.”

Ma Thường trêu trọc: “Huyền Thứ công tử cùng tuổi với cô ta, để công tử chiếu cố cho cô ta là thích hợp nhất.”

Vương Huyền Thứ mặt đỏ bừng, không biết ứng phó thế nào.

Khấu Trọng cười ha hả: “Đây đúng là trời không nỡ đẩy ta vào đường cùng, từ tuyệt địa mà tìm được sự sống, thắng bại chỉ cách nhau một đường tơ. Việc ở đây xin giao lại cho các vị đại ca, khẩn yếu nhất là phải hư trương thanh thế, để Lý Thế Dân nghĩ rằng ta vẫn còn ở trong sơn trại.”

Trần Lão Mưu cười: “Trong vài ngàn người chẳng lẽ không tìm được người giả thành Thiếu soái sao. Chỉ cần Thiếu soái giả, đứng trên lầu hoa chân múa tay, nhất định sẽ lừa được Lý Thế Dân, mọi việc cứ để thuộc hạ.”

Khấu Trọng vươn mình đứng dậy nói: “Kể cả ngày mai Lý Thế Dân đến đây, không mất vài ngày chuẩn bị sao dám phát động tấn công, lúc đó đại quân của Khuất Đột Thông đã không còn là quân nữa rồi. Hắc!”

Chúng nhân đồng thành reo lên hưởng ứng.

- o O o -

HỒI 674

Thiện Môn Thánh Giả

  Hình Nguyên Chân cùng Bạt Dã Cương đưa Khấu Trọng cùng Vô Danh đến lối ra phía Nam của Thiên Thành Hiệp. Bạt Dã Cương than: “Thiếu soái cùng Vương Thế Sung quả là hai người khác nhau hoàn toàn, trên chiến trường Thiếu soái một mình xung phong hãm trận.”

Hình Nguyên Chân xen vào: “Thiếu soái so với ai cũng khác biệt, kể cả từ khi Mật Công quật khởi mời gọi hiền sĩ, cũng không thể sánh với cách Thiếu soái không nề sống chết, đem gan ruột ra đối đãi với chúng ta.”

Khấu Trọng giang hai tay khoác lên hai vai hai người, cười nói: “Một ngày là huynh đệ, cả đời là huynh đệ, có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu. Chúng ta đều vì huynh đệ mà bán mạng, đấy mới là huynh đệ chân chính thật lòng giúp nhau.”

Hình Nguyên Chân cùng Bạt Dã Cương đều lộ vẻ cảm động, Khấu Trọng không phải là người chỉ mở miệng nói suông, nhiệm vụ nào nguy hiểm nhất gã cũng tự nhận lấy, để thủ hạ hưởng thụ thành quả.

Bạt Dã Cương chân thành nói: “Ngày ấy ở vùng núi tây bắc Y Khuyết bị quân Đường phục kích, Thiếu soái không quản sinh tử quay lại đánh đuổi truy binh cứu Dã Cương, từ lúc đó Dã Cương đã hạ quyết tâm, dù có gan óc lầy đất, cũng quyết theo Thiếu soái đến cùng. Có thể gặp được minh chủ đại nhân đại nghĩa như Thiếu soái là phúc khí của Dã Cương.”

Hình Nguyên Chân cũng quả quyết: “Thắng lợi cuối cùng sẽ thuộc về bọn ta.”

Lúc này ba người đã đến hàng rào gỗ ở phía nam hiệp đạo, mười quân binh Thiếu Soái quân trấn thủ, không ai bảo ai đều đồng thanh hô lớn: “Thắng lợi cuối cùng sẽ thuộc về bọn ta.”

Khấu Trọng ngửa mặt lên trời cười dài, thu tay hỏi vai Hình, Bạt: “Tình huống càng gian nan khổ cực càng làm vẻ vang uy phong của Thiếu Soái quân chúng ta, mùi vị của thắng lợi rất ngọt ngào, hương sắc của sinh mệnh phải phát huy, ta nguyện cùng mọi người chia sẻ.”

Chúng tướng sĩ đồng thanh reo hò hưởng ứng, thanh âm chấn động hiệp đạo.

Khấu Trọng lại tiếp tục hỏi thăm ấm lạnh từng người, mỗi câu đều xuất phát từ đáy lòng, khiến bọn họ cảm động vô cùng. Hỏi đến tình hình lối ra vào, tiểu đội trưởng cung kính đáp: ‘”Thuộc hạ theo chỉ thị của Mưu công, cho thám tử ra ngoài đến chỗ địa hình cao quan sát, nhưnng chưa thấy động tĩnh gì.”

Khấu Trọng nói: “Tình thế đã thay đổi, Mưu công sẽ tăng cường phòng thủ ở đây, ngươi lập tức gọi các huynh đệ ở bên ngoài quay trở về, chỉ cần phòng thủ tốt chỗ này là được.”

Tiểu đội trưởng nghe vậy liền ra lệnh một thủ hạ thổi kèn làm hiệu, triệu hồi các trinh sát ở bên ngoài quay về hiệp đạo.

Khấu Trọng thả Vô Danh ra, từ trên không trung quan sát xa gần, gật đầu nói: “Khuất Đột Thông không phái người đi trước do thám tình hình là vì không muốn đả thảo kinh xà sợ bị chúng ta phát giác, nhưng có thể khẳng định ở chỗ cách xa nơi đây mà ta bọn ta không nhìn thấy được, người của hắn nghiêm mật giám sát tình hình, nếu bọn ta có động tĩnh nào từ phía từ này chắn chắn sẽ gặp phải đạo quân phục kích của hắn.”

Hình Nguyên Chân cùng Bạt Dã Cương gật đầu đồng ý, Khuất Đột Thông là danh tướng từ Tùy triều, sau khi đầu nhập Đường thất đã lập nhiều đại công, lần này thân mang trọng trách, chắn chắn không dám bất cẩn sơ ý.

Khấu Trọng chăm chú nhìn Vô Danh đã biến thành một điểm đen nhỏ xíu trên bầu trời: “Cách đây năm mươi dặm về phía Tây có địch nhân, nhân số không ít, có lẽ là đạo quân tiên phong của Khuất Đột Thông, chiếu theo lộ trình của chúng có lẽ trưa ngày mai sẽ đến đây, các huynh đệ chớ khinh địch.”

Hình Nguyên Chân nghiêm nghị nói: “Thiếu soái yên tâm.”

Khấu Trọng đi vòng quanh xem xét tình hình hiệp đạo, lối ra này nơi rộng nhất chỉ khoảng ba trượng, nơi hẹp nhất chưa đến hai trượng, trầm giọng: “Hiệp đạo này tuy không có lợi cho việc tấn công, nhưng địch nhân nếu muốn công kích từ bên ngoài vào cũng không quá khó. Thời gian không cho phép bọn ta xây dựng lũy trại tạo thành công sự phòng ngự, phải tính kế khác phòng thủ ở trong hiệp đạo.”

Hình Nguyên Chân nói: “Chúng ta có rất nhiều gỗ, có thể tạo thành chướng ngại ở đây, vấn đề là chướng ngại vật đó cũng sẽ khiến bọn ta cũng khó lòng phối hợp cùng với Thiếu soái tiền hậu giáp kích địch nhân.”

Bạt Dã Cương nói: "Phương pháp này không thể dùng được, địch nhân có thể dễ dàng tiếp cận hai bên lối ra, sau đó chỉ cần dùng hỏa công thiêu đốt đám chướng ngại vật đó, sẽ gây cho bọn ta rất nhiều khó khăn, nếu lúc đó có gió nam, toàn bộ hiệp đạo sẽ chìm trong đám khói dày đặc. May mắn là bây giờ gió đang thổi theo hướng đông bắc chứ không phía tây bắc, nếu không, khói dày đặc có thể buộc chúng ta rời khỏi hiệp đạo."

Khấu Trọng rúng động: "Thật may mắn có Dã Cương đề tỉnh, nếu địch nhân dùng hỏa công thì thật hiểm độc phi thường, lại khó đối phó. Mấy ngày nay ta vẫn không thể nghĩ ra tại sao Khuất Đột Thông đến Tương Dương còn dùng dằng ba ngày mới bắt đầu khởi hành, lúc đó ta vốn cho rằng hắn cần thời gian điều động quân binh, nhưng rõ ràng như vậy không có đạo lý, quân binh ở Tương Dương vẫn luôn sẵn sàng đề phòng bọn ta tấn công xuống phía nam, đúng ra phải sớm chuẩn bị xong rồi, lúc nào cũng có thể hành quân tác chiến. Bây giờ mới hiểu, thì ra hắn muốn đợi gió nam thổi khói mù vào hiệp đạo, đây chính là cách công phá hiệp đạo hiệu quả nhất."

Hình Nguyên Chân và Bạt Dã Cương đồng thời biến sắc.

Khấu Trọng phục hồi vẻ bình tĩnh lạnh lùng cố hữu, thong dong cười: "Nếu đã biết được sách lược của địch nhân, ắt sẽ có cách phá. Chúng ta sẽ nhờ Mưu công xây thêm mấy lớp đất đá thật dày, cao được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Trên đó lại bố trí cung thủ, máy bắn đá đối phó với địch nhân, thêm quạt gió đối phó với đám khói mù, tạm thời bỏ qua một đoạn đường ngoài lối ra có gì mà không được chứ?"

Hình Nguyên Chân vui mừng: "Trong thiên hạ chỉ sợ không có vấn đề nào Thiếu soái không giải quyết được, bọn thuộc hạ sẽ tạo một bức tường khói lửa đầu tiên cách hiệp khẩu sáu trăm bộ, như vậy địch nhân tiến vào sẽ nằm trong tầm xạ tiễn của chúng ta."

Bạt Dã Cương hết sức tin tưởng vào kế hoạch: "Đến lúc thuận thế lại còn có thể dùng hỏa công đối hỏa công, thiêu sống bọn chúng."

Khấu Trọng cười ha hả: "Khẩn yếu nhất là biết ứng biến linh hoạt, ở đây cũng cần phải có thêm một hồ nước giống như trong sơn trại, lúc nguy cấp có thể lấy vải nhúng vào nước che lên miệng, sẽ không bị khói làm ngộp thở, địch nhân không có phương tiện này, hà!”

Lúc này cửa tuyến phòng ngự mở ra, quân binh tuần phòng lục tục trở về.

Khấu Trọng nói: “Ở đây giao lại cho các vị, tiểu đệ đi trước.”

Gã cười dài một tràng, rồi lao vào hoang nguyên tối tăm.

o0o

“Tử Lăng! Tử Lăng!”

Từ Tử Lăng đang chìm sâu trong trạng thái tĩnh tu từ từ tỉnh lại. Sự thật gã đang cảm nhận trạng thái thần diệu dị thường, tinh thần giống như thiên địa cùng trôi đi, hòa tan vào thành một thể. Dũng Tuyền huyệt dưới bàn chân tuy vẫn chưa thể hấp thụ thiên địa tinh khí, nhưng gan bàn chân trái bắt đầu phát sinh nhiệt khí, gan bàn chân phải phát sinh lãnh khí, đây là sự việc chưa từng xảy ra kể từ sau khi gã thụ thương, nhưng gã không hề sợ mà ngược lại còn vui mừng, vì cuối cùng cùng thương thế cũng đã khởi sắc. Gã giống như từ một nơi sâu thẳm vô hạn trong tâm linh bị tiếng hô hoán của Hầu Hi Bạch gọi về, lúc đó mới cảm giác thấy thân thể đã thụ trọng thương, trở về nhân thế. Lúc gã mở mắt ra, thấy con thuyền đã tiến vào một nhánh sông nhỏ sát với ven một bìa rừng rậm rạp, kín đáo, dòng Hoài Thủy vẫn chầm chậm trôi sau lưng, bèn hỏi: “Việc gì vậy?”

Hầu Hi Bạch hạ giọng: “Vùng thượng du phía trước có một đội thuyền năm chiếc, treo cờ của Hải Sa Bang, đang vận chuyển hàng hóa lên hai bên bờ, lại có thêm một đám người đang nhận hàng. Tiểu đệ không muốn gặp phải rắc rối không cần thiết, nên mới rẽ vào đây đợi bọn chúng đi hết rồi sẽ tiếp tục hành trình.”

Từ Tử Lăng nói: “Chúng ta lên bờ ngầm xem thử.”

Hầu Hi Bạch nhíu mày: “Dưới tình huống thế này, bớt đi một việc không phải là tốt hơn thêm một việc sao? Ôi, tiểu đệ nói câu này, Tử Lăng có trách đệ nhiều chuyện không?”

Từ Tử Lăng cười nhẹ: “Đệ biết Hi Bạch huynh nghĩ muốn nghĩ tốt cho đệ. Nhưng đệ có dự cảm bất tường, chỉ sợ đây là hành động để đối phó với Đỗ Phục Uy, hiện tại Hải Sa bang chủ Thu Nhạn có quan hệ mật thiết với Ma môn, Phụ Công Hựu lại là người xuất thân từ Ma môn, bọn ta đã tình cờ gặp được, thì cũng nên xem thực hư thế nào, nói không chừng đám hàng hóa đó là một loại hỏa khí hiểm độc với sát thương lực cực lớn.”

Hầu Hi Bạch nghe gã phân tích rõ ràng, vui vẻ đáp ứng: “Nếu lý do chính đáng như vậy, bọn ta cũng nên đi xem thử.”

o0o

“Bong!”

Khấu Trọng nghe thấy tiếng chuông, rợn tóc gáy đứng sững lại giữa hoang nguyên, không dám tin vào tai mình, tiếng chuông này đối với người khác mà nói phảng phất như mộ cổ thần chung được gõ lên đầy ắp thiện khí hiền hòa. Nhưng đối với gã lại như một loại phù chú câu hồn nhiếp phách.

Đây không phải là lần đầu tiên gã nghe thấy tiếng chuông này, tại Thiên Tân Kiều ở Lạc Dương, gã đã từng nghe thấy một lần, nhưng ở nơi cách Thiên Thành Hiệp hai mươi dặm, có thể biểu hiện cho thất bại hoàn toàn của gã, diệu kế cũng thành không.

Quả nhiên có tiếng của Liễu Không từ phía sau cất lên: “Liễu Không tham kiến Thiếu soái.”

Khấu Trọng ra lệnh cho Vô Danh rời khỏi vai, bay lên cao trinh sát, đoạn chầm chậm quay lại, đối diện với vị thánh tăng chủ trì của Tịnh Niệm Thiền Viện.

Dưới ánh sao lấp lánh, Liễu Không đại sư pháp tướng trang nghiêm, tay phải nâng một chiếc chuông nhỏ kim quang sáng rực, song mục ánh lên vẻ thần thánh, đang chăm chú nhìn gã.

Khấu Trọng than: “Đại sư tại sao lại muốn chen vào cuộc đấu tranh giữa tiểu tử và Lý Thế Dân?”

Liễu Không thoáng lộ nụ cười, nhẹ nhàng nói: “Người xuất gia cũng phải lo chuyện trần thế, Tần vương cho người đến báo cho lão nạp biết Thiếu soái đã đến cảnh sơn cùng thủy tận, hy vọng lão nạp có thể thân chinh làm thuyết khách, nếu Thiếu soái chịu giải tán Thiếu Soái quân, Tần vương sẽ để Thiếu soái bình yên trở về Trần Lưu.”

Khấu Trọng cười khổ: “Lý Thế Dân quả là biết tìm người, nhưng sao đại sư lại biết được tiểu tử sẽ từ lối phía Nam đi ra?”

Liễu Không nói: “Tất cả đều do Tần vương chỉ điểm, ngài nói khi Thiếu soái phát giác ra quân đội Tương Dạng đến gần, sẽ thân chinh đến Chung Ly, dẫn quân giải nguy cho nam lộ của Thiên Thành Hiệp, bởi vậy lão nạp mới cung hầu ở đây, lúc này đã chứng thực lời Tần vương không phải nói bừa, mới biết mọi động tĩnh của Thiếu soái đều nằm trong tiên liệu của Tần vương.”

Khấu Trọng thở phào một hơi, Lý Thế Dân thủy chung vẫn là phàm nhân không phải tiên nhân, hắn không nghĩ ra rằng gã không hề có ý định đến Chung Ly cầu viện, lại càng không ngờ đến lượng hỏa khí đang nằm trong tay gã.

Liễu Không tiếp tục: “Tần vương còn nhắn lão nạp nói với Thiếu soái, quân Chung Ly đang nằm dưới sự giám thị nghiêm mật từ một đạo thủy sư thuyền đội của Đường quân, muốn động cũng không được, Thiếu soái có đi cũng chỉ mất công thôi.”

Khấu Trọng nghe xong trong lòng bội phục, Lý Thế Dân quả là một nhà quân sự xuất sắc thông hiểu binh pháp, trong mọi tính huống, lúc nào cũng nghĩ trước một bước, luôn chiếm thế thượng phong, nếu không phải là có số hỏa khí bí mật, lúc này gã chỉ có cách cúi đầu nhận thua.

Gã vội thu nhiếp tâm thần, hồi phục lại vẻ bình tĩnh lạnh lùng trong ánh mắt, hít sâu một hơi nói: “Cho dù lần này đại sư có thiện ý khuyến cáo hay không, tiểu tử vẫn chấp mê bất ngộ, xin đại sư niệm một câu ‘A di đà phật’ rồi không quay đầu lại mà trở về thiền viện tiếp thục tham thiền, còn tiểu tử sẽ tiếp tục lên đường.”

Đơn chưởng của Liễu Không chậm rãi đưa lên ngực làm phật hiệu, ánh mắt bình tĩnh nói: “Tội quá tội quá, người xuất gia đáng lý ra không nên tham gia vào chuyện trần thế, nhưng việc này liên quan đến thiên hạ thương sinh, lão nạp lại chịu sự ủy thác của Tần vương, đến khuyên bảo Thiếu soái rút lui khỏi cuộc đấu tranh dai dẳng này, nên đã quyết định từ thời khắc này sẽ không rời khỏi Thiếu soái nửa bước, hy vọng Thiếu soái có thể vì cư dân Bành Lương, mà xem xét lại lời đề nghị của lão nạp.”

Khấu Trọng không ngờ ông ta lại có chiêu này, nghe xong mà trợn mắt há mồm. Nếu để Liễu Không đại sư bám sát theo mình, thì toàn bộ kế hoạch phản công sẽ biến thành trò cười.

Ngẩng mặt lên nhìn trời, cách phi hành của Vô Danh nói cho gã biết xung quanh không còn địch nhân nào khác, gã cảm thấy yên tâm hơn chút ít, cười khổ: “Đại sư có phải tưởng tiểu tử không muốn cùng đại sư động võ?”

Liễu Không cười nhẹ: “Thiếu soái quá lời rồi. Lão nạp chỉ muốn dùng hành động nói cho rõ, Tần vương luôn dành cho Thiếu soái một đường lui. Giả như đợi Thiếu soái ở đây không phải là lão nạp mà là Tần vương cùng các tướng lĩnh và cả ngàn Huyền Giáp chiến sĩ thì sẽ biến thành cục diện thế nào?”

Khấu Trọng bật cười: “Nếu vậy tiểu tử sẽ vô cùng cao hứng, vì linh cầm sẽ phát hiện ra hành tung của bọn họ trước một bước, lúc đó tiểu tử sẽ tùy cơ ứng biến, nói không chừng còn có thể khiến cho Tần vương hao binh tổn tướng.”

Liễu Không than: “Nói như vậy, có nghĩa là Thiếu soái vẫn không chịu bãi binh?”

Khấu Trọng nhíu mày nói: “Tiểu tử có một việc nghĩ mãi không ra, muốn thỉnh giáo đại sư.”

Liễu Không trang nghiêm nói: “Xin Thiếu soái chỉ điểm.”

Khấu Trọng từng từ từng từ chậm rãi nói: “Phật, Đạo lưỡng môn, không phải là đại địch của Ma môn lưỡng phái lục đạo sao? Đại sư có biết nội bộ của Lý phiệt đã sớm bị Ma môn xâm nhập hủ hóa, bên trong còn liên kết với bọn người Đột Quyết luôn có dã tâm lang sói với Trung thổ bọn ta. Ở nhiều cấp bậc, cuộc đấu tranh sinh tử tồn vong giữa tiểu tử và Lý Thế Dân còn có liên hệ với nhau. Ngày mà Lý Thế Dân chiến thắng trở về, cũng là ngày thỏ chết chó săn bị thịt. Nếu như tiểu tử theo lời đại sư giải tán Thiếu Soái quân, có khác nào giúp cho Ma môn một việc lớn, người thụ lợi cuối cùng không phải bất kỳ ai trong Trung thổ, mà là liên kết các chư tộc ngoài đại thảo nguyên vùng Tái ngoại của Hiệt Lợi.”

Liễu Không niệm một tiếng phật hiệu: “Hòa bình và thống nhất của thiên hạ, nào phải là một việc dễ dàng đạt được, Tần vương đã sớm có chuẩn bị. Những lời của Thiếu soái không phải không có đạo lý, chỉ là chưa tính đến hậu quả, nếu Thiếu soái lập quốc thành công, thiên hạ biến thành thế cục đối lập nam bắc, chiến hỏa liên miên, sinh linh đồ thán, ngoại tộc thừa thế xâm lược, Trung thổ tự nhiên sẽ biến thành cảnh chi năm xẻ bảy. Thiếu soái đã có lòng cứu thế, tại sao không toàn lực trợ giúp Tần vương dẹp loạn, để vạn dân có ngày hạnh phúc bình yên?”

Khấu Trọng hỏi lại: “Những lời của đại sư càng khiến tiểu tử thêm khó hiểu, tại sao lại muốn Khấu Trọng ta đầu hàng Lý Thế Dân, tại sao không phải là Lý Thế Dân xưng thần với tiểu tử? Nói đến việc đại sư muốn nghĩ cho thiên hạ bá tánh thì lại càng bất công. Đại sư có biết tiểu tử có bao nhiêu chiến hữu đã thảm tử dưới đao kiếm của quân Đường, tiểu tử và Lý Thế Dân đã rơi vào thế, không phải là hắn chết thì ta vong.”

Liễu Không chậm rãi đáp: “Không phải là ngươi chết thì ta vong, chính là lời miêu tả chính xác nhất cho chiến tranh, Thiếu soái đã chọn con đường tranh bá, tất nhiên đã sớm liệu được đây là tình huống ắt sẽ phát sinh, huyết cừu càng tích sẽ càng sâu. Lão nạp vì Tần vương mà đến nói với Thiếu soái một câu, nhưng tịnh không có ý thiên vị cho Tần vương, mà chỉ nhìn vào tình hình đang trước mắt. Đến nói với Thiếu soái lời đề nghị thích hợp nhất, hy vọng hai bên có thể buông đao, tránh họa cho bách tính. A di đà phật!”

Khấu Trọng ngửa mặt nhìn trời đêm, trầm giọng: “Một ngày Khấu Trọng ta vẫn còn, ai là người chiến thắng cuối cùng vẫn chưa biết được, tiểu tử có một đề nghị khác còn tốt hơn, đại sư có chịu nghe không?”

Liễu Không cúi đầu, bảo tướng trang nghiêm như Phật Tổ nói: “Lão nạp xin cung kính nghe lời đề nghị của Thiếu soái.”

Khấu Trọng cười dài: “Hảo! Đại sư đã đoán được tâm ý của tiểu tử. Chính như Tất Huyền đã từng nói, chiến tranh không phải được giải quyết trên bàn đàm phán mà luôn bằng võ công. Tiểu tử cùng đại sư hãy đánh cuộc một phen, nếu đại sư thắng, tiểu tử lập tức sẽ giải tán Thiếu Soái quân, cúi đầu nhận thua. Đại sư đương nhiên cũng có thể giết ta, lúc đó thì Thiếu Soái quân cũng tự động giải tán. Nhưng nếu đại sư không làm gì được tiểu tử, thì xin lập tức quay về Thiền Viện, từ rày không được quản đến chuyện giữa tiểu tử và Lý Thế Dân nữa.”

Liễu Không dường như không nghe thấy gã nói gì, một chút phản ứng cũng không có, bỗng nhiên “Bong!” một tiếng, thiền chung vang lên, Liễu Không niệm Phật hiệu, bao dung bình tĩnh nói: “Lão nạp gần ba mươi năm nay đã không cùng ai động thủ, thật không muốn động đến can qua, lão nạp xin được ra hạn mười chiêu, chỉ cần ai bị bức vào thế hạ phong, coi như thua cuộc.”

Khấu Trọng cười nhẹ: “Còn nếu hòa thì sao?”

Liễu Không mở to mắt nhìn gã, nhãn thần biến thành thâm thúy mạc trắc, thánh quang sáng rực, mỉm cười đáp: “Đương nhiên tính là lão nạp thua, lão nạp sẽ theo lời ước mà trở về thiền viện diện bích sám hối, không dám có vọng niệm gì nữa.”

“Choang!”

Khấu Trọng tuốt Tỉnh Trung Nguyệt ra khỏi vỏ, chỉ về phía Liễu Không.

Ngay trong lúc đó, cả người Liễu Không giống như tan vào bầu trời đêm rộng lớn vô biên, huyền diệu vô cùng, không có sơ hở nào lộ ra.

Nhãn thần chứa đựng trí năng siêu việt vô hạn, như nhìn thấu hết nhân tình thế thái của ông ta, dường như có thể hiểu mọi ý đồ trong nội tâm Khấu Trọng, không bỏ sót bất cứ chút gì.

Từ sâu thẳm trong thâm tâm của Khấu Trọng bỗng trào lên nỗi sợ hãi xen lẫn sùng kính không thể giải thích, đây là tình huống chưa hề xảy ra trước khi gã giao thủ cùng địch nhân, giống như người leo núi đột nhiên phải đối mặt với muôn ngàn vách đá hiểm trở nhọn hoắt, như người lái thuyền giữa đêm đen phải đương đầu với nộ hải ngoài xa lục địa, phát sinh ra một cảm giác vô lực không thể khắc phục.

Đồng chung bên tay phải Liễu Không dường như vừa nặng tựa vạn cân lại vừa nhẹ tựa lông hồng, vừa lớn như núi lại vừa mờ ảo như không có gì.

Khấu Trọng trong ngực tắc nghẹn, suýt chút nữa đã thổ huyết.

Liễu Không trầm giọng: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức, bất khán tha cầu, toàn do tâm tạo; tâm ngoại vô pháp, mãn mục huyền hoàng, nhất thiết cụ túc.” (Ba giới chỉ cần có tâm, vạn pháp phải có kiến thức, không mong ước gì, tất cả là do tâm, tâm mà vô pháp, trước mắt là đất trời, tất cả đều đầy đủ)

Khấu Trọng lùi một bước, tinh thần tiến vào cảnh giới „tỉnh trung nguyệt”. Chân gã đặt lên mặt đất, tức thì tâm trí vươn ra bốn phía, trực tiếp lan đến chân trời góc bể, tâm thần hòa làm một với đất trời, như thể bản thân đã biến thành trung tâm của vũ trụ.

Thiên, địa, nhân không còn phân cách.

Liễu Không trong tâm não gã lập tức trở lại thành “vật thực”, mặc dù không thể tìm được khe hở nào, nhưng không phải là không thể nắm bắt.

Tinh thần của gã tập trung cao độ, chân khí trong nội thể luân lưu cực tĩnh, âm tĩnh cực động, biến hóa theo tự nhiên, không nhớ không quên, không thu không thả, không tăng không giảm, tự tự nhiên nhiên thần thông biến hóa, chân khí ngưng tụ lại ở mũi đao, hình thành một luồng kình khí trong tròn có vuông, trong vuông có tròn, tấn công về phía Liễu Không.

Gã vừa xuất thủ đã dùng chiêu huyền diệu nhất trong Tỉnh Trung Bát Pháp là Phương Viên, có thể thấy sự lợi hại của Liễu Không. Ông ta có thể lấy tĩnh công động, thể hiện kỳ chiêu “Bất Công” của Phật Môn, vừa khiến gã lâm vào thế bị động, vừa chiếm lấy thượng phong.

Với tu vi của ông ta, cũng không khỏi lộ vẻ nghi ngại, đồng chung đưa lên trước ngực. Nhìn như chậm rãi mà thực ra lại thật nhanh, cảm giác huyền diệu thần thông linh ứng, như vác trên vai cả đất trời, miệng ngâm xướng: “Đơn đao của Thiếu soái chém vào, lấy ngay tính mệnh, nếu như có thể lập tức đốn ngộ, chúng sinh đều là Phật.”

Trước mắt Khấu Trọng có còn vật gì, duy chỉ thấy đồng chung trước mắt dần lớn lên vô hạn. Càng hiểu bản thân không còn sự lựa chọn nào khác. Một đao này bắt buộc phải xuất, không thể không đánh, chẳng qua nếu gã hành động như vậy, chưa đến ba chiêu ắt gã sẽ phải buông đao nhận thua, vì tinh thần của gã đã hai lần bị thiền lực của Liễu Không khống chế.

Gà hừ một tiếng đùng đục, Tỉnh Trung Nguyệt hóa thành một đạo ánh sáng vàng, kích thẳng vào thiền chung phật pháp vô biên của Liễu Không.

Võ công thiền pháp của Liễu Không, tuyệt đối cao cường hơn bất kỳ ai trong Tứ đại thánh tăng, khi động thủ Khấu Trọng không ngờ đến việc này, đây là phán đoán vô cùng sai lầm của gã, chỉ hận là gã đã không còn đường lui nữa.

- o O o -

Hồi 675

Linh Đan Diệu Dược

Từ Tử Lăng cùng Hầu Hi Bạch ẩn mình trong bìa rừng bờ nam Hoài Thủy, bên bờ đối diện năm chiếc đại thuyền buồm ba cột đỗ tại một bến đò đơn sơ mới được dựng, bang chúng Hải Sa Bang lần lượt khuân hết đống hàng hóa nặng chịch lên bờ, bang chủ “Mỹ Nhân Ngư” Du Thu Nhạn, cùng với tả hữu của ả là “Bàn Thích Khách” Vưu Quý và “Sấm Tướng” Lăng Chí Cao đều có mặt tại đó chỉ huy, có thể thấy đây không phải là giao dịch bán muối lậu bình thường, bằng không, cần gì ba người phải đại giá.

Trên bờ có đến gần trăm cỗ xe, hàng hóa được chuyển lên bờ lập tức được một tốp đại hán vận kình trang khác nhanh chóng đưa vào trong thùng xe bịt kín, tổng cộng số người có mặt tại đó phải đến hơn bảy trăm, huyên náo cả một vùng.

Hầu Hi Bạch ghé vào tai Từ Tử Lăng hỏi nhỏ: “Một bên là Hải Sa Bang, còn bên kia không hiểu là thần thánh phương nào?”

Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn số người trên bờ, trong đó nổi bật nhất là một nữ nhân trẻ tuổi xinh đẹp, cùng một thanh niên tuấn tú đang đứng cạnh nhau, thái độ ám muội, bên cạnh còn có một lão nhân uy mãnh râu mọc tua tủa che mất nửa khuôn mặt, đang quay sang phía Du Thu Nhạn nói chuyện, nhưng cách một con sông nên cho dù là gã chưa mất công lực, cũng không có cách nào nghe được.

Gã thì thầm: “Là người của Ưng Dương Lang và Lương Sư Đô, tên trẻ tuổi thần tình cao ngạo là con của Lương Sư Đô, Lương Thuần Minh, lão già là Trầm Nãi Đường, huynh trưởng của Trầm Thiên Quần, người huynh đệ kết bái của Lương Sư Đô, cùng với con gái của lão là Trầm Vô Song, cuộc giao dịch này hẳn là do Trầm Thiên Quần xếp đặt.”

Hầu Hi Bạch lộ vẻ ngạc nhiên, hạ giọng lẩm bẩm: “Lương Sư Đô? Lương Sư Đô?”

Từ Tử Lăng cười hỏi: “Lương Sư Đô có vấn đề gì? Hi Bạch không phải là không nhận biết hắn chứ!? Lương Sư Đô cùng Lưu Vũ Châu đều là con chó của người Đột Quyết, hơn nữa còn là huynh đệ đồng môn.”

Hầu Hi Bạch nói: “Tiểu đệ đã từng nghe Thạch sư phụ cùng An Long nói đến cái tên này, lúc đó mới chỉ có hai, ba tuổi, Lương Sư Đô vẫn còn chưa nổi danh như bây giờ, chỉ tiếc là tiểu đệ không cách nào nhớ lại nổi nội dung, chỉ có cái tên Lương Sư Đô nghe rất quen tai, ấn tượng đặc biệt sâu.”

“Nói như vậy, Lương Sư Đô rất có khả năng có quan hệ với Thánh môn của huynh, thậm chí có thể là người của Thánh môn, những lời của Hi Bạch cũng sẽ rất hữu ích cho chúng ta sau này.”

Hầu Hi Bạch thắc mắc: “Thứ bên trong đó không biết có phải là hoả khí?”

Từ Tử Lăng phán đoán: “Khả năng này rất cao, cái hòm bọn ta trộm được, hình dáng và trọng lượng rất giống đám hàng hoá này, hoả khí Giang Nam rất có tiếng, nếu mua được rồi bán lại ắt kiếm món lời to.”

Hầu Hi Bạch suy tư đoạn nói: “Trừ phi gặp hoàn cảnh thích hợp, nếu không thì tác dụng của hoả khí không lớn, Lương Sư Đô chịu vượt thiên sơn vạn thủy đi thu mua, lại còn phải kín đáo chở về phương Bắc, không biết là vì lẽ gì?”

Từ Tử Lăng trầm ngâm: “Theo đệ đoán thì số hoả khí này vị tất đã chở về địa bàn của Lương Sư Đô, mà rất có thể chuyển đến một nơi gần đây, nói không chừng là người trong Thánh môn của huynh giở trò cũ, muốn che tai mắt của mọi người, mới nhờ Lương Sư Đô phụ trách việc này, nhất định là có liên quan đến một âm mưu nào đó. Nghĩ nhiều cũng vô ích, chúng sắp xong rồi, bọn ta trở lại thuyền thôi.”

o0o

Khấu Trọng không thể không xuất đao, nhưng thế chủ động đã hoàn toàn nằm trong tay đối phương.

Vị trụ trì Tịnh Niệm Thiền Viện này chỉ vì bọn gã trộm đi Hòa Thị Bích mới mở miệng, lại vì gã mà phá giới xuất thủ, đã tu luyện Phật Môn đại pháp đến độ có thể hồi phục tuổi thanh xuân, ngoại trừ chạm trán Ninh Đạo Kỳ và Thạch Chi Hiên, thì gã có thể khẳng định là lần này khi khiêu chiến ông ta thì đúng là lần khảo nghiệm đáng sợ nhất của gã.

Tuy Liễu Không ra ước hạn mười chiêu, nhưng gã vừa bắt đầu đã rơi vào hạ phong, giống như đánh cờ vừa khai cuộc đã thất thế, không thể vãn hồi cục diện trong chín chiêu tới hòng lập lại thế quân bình. Một đao này không chỉ quyết định vận mệnh của gã, mà còn quyết đinh vận mệnh của thiên hạ.

Tâm thần tự động vận hành, gã tự tự nhiên nhiên tập trung tinh, khí, thần toàn thân vào mũi Tỉnh Trung Nguyệt, điều huyền diệu nhất lập tức xảy ra, gã dường như hợp nhất được thiên địa nhân tam giới vào tinh thần ý cảnh, dồn vào thần khí trong tay, một đao này không còn là một đao bị bức phải xuất ra, mà là một đao bao gồm được cả thiên địa nhân tam giới. Bỏ đao đi gã không còn gì nữa.

Lần ở ngoài thành Lạc Dương, đối mặt với đại tướng như mây, thiên binh vạn mã, của Lý Thế Dân cùng cái chết của Đậu Kiến Đức khiến gã ngộ ra đao pháp, bây giờ là lúc hưởng thụ thành quả đột phá.

Liễu Không bị gã bức phải ngạnh tiếp một chiêu, không tài nào thăm dò hay nắm bắt được. Ông ta niệm một tiếng phật hiệu, miệng ngâm: “Chư pháp như mộng, bổn lai vô sự, mộng cảnh bổn tịch, phi kim thủy không, mộng tác mộng thụ, hà tổn hà ích, mê chi vi, tình vong tức tuyệt.” (Chư pháp như mộng, vốn không có gì, mộng đã tan đi, hiện tại không còn gì, tất cả do mộng, giữ lại làm gì, sao còn mê muội, quên hết tình cảm đi.)

Câu kinh vừa niệm lên, bỗng nhiên trước mắt Khấu Trọng xuất hiện trăm ngàn bóng chuông, áp lực nghiêng trời lệch đất như núi Thái Sơn bức tới.

Nếu đổi lại trước khi gã ngộ ra đao đạo, nhất định sẽ thảm hại, nhưng bây giờ gã đã nắm chắc phương hướng đồng chung đang ập đến, mũi đao quay tròn quét tới. Liễu Không lùi về phía sau, tay buông đồng chung, tích tụ mấy chục năm thiền môn công lực tinh thuần vào đó, tung đồng chung ra tấn công.

Khấu Trọng chỉ bị che đi hai mắt, còn lại Tỉnh Trung Nguyệt trong tay hiểu rõ hết mọi huyền hư.

Gã cảm thấy đồng chung đang tấn công đến quay tít như một chiếc cối xay gió, đó cũng chính là cách hữu hiệu nhất để đối phó và khắc chế Loa Hoàn kình của gã.

Gã cười dài: “Mười chiêu quá ít rồi.”

Đột nhiên gã đảo người né được đồng chung, dùng bộ pháp súc địa thành thốn, một bước đã đến bên phải Liễu Không, vung đao chém ngang, từ vụng hóa xảo, chiêu thức liền lạc, không thể đo lường được, thâm sâu như thiên địa tự nhiên, hoàn toàn không có quỹ tích, người và đao dung hòa vào thiên địa, không còn phân biệt được.

“Bong!”

Đồng chung lúc này mới lại ngân lên như mộ cổ thần chung, mặc cho Khấu Trọng đạt đến cảnh giới nào, vẫn không thể ngờ Liễu Không lại có cách đối phó như vậy, tiếng chuông trong trẻo phiêu diêu, phảng phất giống như từ trên chín tầng trời vọng xuống, tuyệt không phải là thứ mà Tỉnh Trung Nguyệt có thể dò xét, chưa nói đến nắm bắt được vị trí, tự nhiên phát xuất ra lực uy hiếp mạnh mẽ.

Khấu Trọng lập tức nảy sinh ý định buông đao thất thủ, một đao chắc thắng vừa rồi như từ trên trời cao bị kéo tụt xuống phàm trần. Mắt nhìn thấy Liễu Không biến thành vố số nhân ảnh hư thật nan phân, phát ra vô số chưởng ảnh, phía sau lại cảm thấy đồng chung đang bay ngược lại tấn công, gã đành thu đao, dùng công phu hoán chuyển chân khí độc môn, lùi người sang bên cạnh, Tỉnh Trung Nguyệt trong tay hóa thành trùng trùng đao ảnh, để lại đạo đao khí, tuy vô hình nhưng thực ra là để ngăn chặn đợt tấn công của Liễu Không. Đồng chung lúc này đã an nhiên trở về trên tay Liễu Không.

Khấu Trọng lùi lại cách Liễu Không chừng mười bộ, Tỉnh Trung Nguyệt chỉ thẳng về phía ông ta, nhưng đao khí không có cách nào phong tỏa được vị thiền môn cao nhân này, giống như đối diện với một dãy núi hùng vĩ không thể lay chuyển nổi.

Liễu Không bảo tướng trang nghiêm, chăm chú nhìn đồng chung trên tay.

Khấu Trọng thở một hơi dài: ‘Đồng chung chân ngôn của đại sư còn lợi hại hơn cả Tử Lăng, vừa rồi tính là bao nhiêu chiêu?”

Liễu Không thoáng mỉm cười, nhưng không hề nhìn về phía gã, chậm rãi đáp: “Lão nạp không rõ, cứ cho là một chiêu.”

Rồi lại cười: “Thiếu soái không phải là tướng, coi mọi pháp tướng chỉ là hư ảo, thấy tướng mà không phải tướng, tức là đã thấy Như Lai. Đao pháp của Thiếu soái đạt đến cảnh giới này, lão nạp tự biết mình không có cách nào có thể bắt Thiếu soái cúi đầu nhận thua, mười chiêu thì sao? Trăm chiêu thì sao? Vô tướng nhi hữu tướng, hữu tướng nhi vô tướng. Tống Khuyết chung quy cũng đã tìm được người thừa kế Thiên Đao. Mê muội bao lâu, ngộ ra trong một cái búng tay. Lão nạp sẽ lập tức trở về thiền sơn, từ nay không quản đến việc giữa Thiếu soái và Tần vương nữa.”

Đoạn lão quay mình bước đi, nâng chuông lên nói: “Nhờ Thiếu soái cho Liễu Không gửi lời hỏi thăm đến Tử Lăng.”

Một câu này xướng lên như tiếng ca, tựa như niệm kinh mà không phải niệm kinh, có một dư vị khó tả được thành lời, vừa thuận tai lại vừa khiến người ta khó mà quên được.

Dư âm còn chưa dứt, Liễu Không đã biến vào trong hoang lâm tối om.

Khấu Trọng chăm chú nhìn theo bóng Liễu Không biến mất, tự biết bản thân gã sẽ khó mà quên được việc tối nay, không chỉ vì đột phá và thành tựu trong đao pháp, mà còn vì nhất cử nhất động, từng lời từng cầu ẩn chứa đầy thiền cơ của Liễu Không.

Câu cuối cùng lại càng có nhiều thâm ý, khơi dậy nỗi niềm nhớ nhung Tử Lăng của gã, “chiếu theo đạo lý Tử Lăng đã phục hồi rồi, vì sao vẫn chưa đến tìm mình?”

o0o

Hầu Hi Bạch vừa điều khiển chiếc thuyền, ngược dòng đi về phía Tây, vừa nói với Từ Tử Lăng: “Tử Lăng đang nghĩ gì vậy? Vừa rồi trên mặt huynh có thoáng hiện một tia tiếu ý, có chứa một vẻ huyền diệu mạt trắc siêu nhân, khiến tiểu đệ không khỏi sinh lòng hiếu kỳ.”

Từ Tử Lăng đang chìm trong dòng suy nghĩ chợt tỉnh lại, cười đáp: “Hi Bạch quả thực là người thật hiếu kỳ.”

Hầu Hi Bạch thản nhiên: “Không có nhiều người có thể khiến tiểu đệ thấy hiếu kỳ, nhưng nếu có người như thế, tiểu đệ rất muốn biết trong đầu họ đang nghĩ gì. Ngay cả đối với Khấu Trọng tiểu đệ cũng không hiếu kỳ như vậy, bởi gã dễ hiểu hơn nhiều, nhưng đối với Tử Lăng, Phi Huyên hoặc Thanh Tuyền, thật khiến tiểu đệ mê hoặc nên càng phát sinh hứng thú. Từ nhỏ tới giờ tiểu đệ chưa từng minh bạch được hết cách nghĩ của Thạch sư phụ, nhưng vì quá kính sợ ông ta nên tiểu đệ chưa từng dám hỏi, tích tụ lâu ngày mới phát sinh ra khuynh hướng thích nghe người khác tâm sự thế này, Tử Lăng có thể chiều lòng tiểu đệ một chút không? Hắc! Hay là yêu cầu này có chút quá đáng?”

Từ Tử Lăng bật cười: “Đã là tri kỷ, đâu còn việc gì không thể nói. Đệ vừa rồi nghĩ về Cửu Tự Chân Ngôn Ấn của Chân Ngôn Đại Sư. Hôm đó, phần lớn đệ chỉ cố nhớ lấy hết những gì đại sư dậy, mà vẫn tưởng mình đã hấp thu được hết tinh túy bên trong, nay mới phát giác ra mình mới chỉ học được chút vỏ ngoài, lần này ngộ ra, khiến đệ giống như đạt đến một cảnh giới mới.”

Hầu Hi Bạch vui vẻ nói: “Nói như vậy, thụ thương lần này có khi lại là kỳ duyên, giúp Tử Lăng tiến vào một cảnh giới mới của thiền môn kỳ công. Nếu Tử Lăng có thể đạt đến thiền cảnh của Chân Ngôn Đại Sư, tiểu đệ dám khẳng định huynh sẽ là người dung hợp Phật Đạo hai nhà đến cảnh giới tinh vi nhất trong lịch sử võ lâm. Ôi! Nghĩ như vậy lại khiến tiểu đệ không thể nhịn được phải hỏi thêm một câu, Tử Lăng có thể nắm được bao nhiêu phần hồi phục công lực, có lẽ không có ai biết rõ tình huống hiện tại hơn huynh.”

Từ Tử Lăng chậm rãi đáp: “Không phải huynh nói là Thạch Thanh Tuyền có thể chữa trị cho đệ sao?”

Hầu Hi Bạch cười khổ đáp: “Đó là biện pháp duy nhất có thể nghĩ ra được, Thạch sư phụ đã nhiều lần tán dương y đạo của sư nương trước mặt tiểu đệ. Hôm đó tại U Lâm Tiểu Trúc thấy Thanh Tuyền đi hái thuốc về, tiểu đệ nghĩ nàng ắt hẳn đã được chân truyền của sư nương. Nhưng bây giờ nghĩ lại việc Nhạc Sơn bị Tống Khuyết đánh bại, đến tìm sư nương cầu cứu cũng không có tác dụng gì, niềm tin đó đã bị lay chuyển, chỉ là không dám nói ra.”

Từ Tử Lăng lắc đầu cười khổ: “Thì ra những lời huynh nói hoàn toàn chỉ để an ủi đệ.”

Hầu Hi Bạch than: “Chỉ cần có một chút cơ hội, bọn ta cũng không thể bỏ qua. Quan trọng hơn là tiểu đệ vẫn hy vọng huynh và nàng có thể bên nhau.”

Từ Tử Lăng ngửa mặt đón những luồng gió mát lạnh thổi tới, sau một hơi hít thở, từ tốn nói: “Ngày nào Khấu Trọng vẫn còn vào sinh ra tử trên chiến trường, hết sức phấn đấu vì mục tiêu của gã, đệ làm sao có thể chỉ nghĩ riêng cho mình. Đệ trước đây cứ tưởng mình có thể làm được, nhưng sự thật đã chứng minh là không thể. Bởi vậy đệ chỉ có thể chôn sâu niềm ái mộ với Thanh Tuyền, vì đệ không chắc mình còn có khả năng quay về gặp nàng không!”

Hầu Hi Bạch không ngờ Từ Tử Lăng lại dốc bầu tâm sự như vậy, ngạc nhiên nói nhỏ: “Tiểu đệ có thể cảm thấy khổ tâm của Tử Lăng.”

Từ Tử Lăng nhìn bầu trời đêm lồng lộng và sâu thẳm, trong ngực ngập tràn một cảm giác cay đắng và chán nản, nhưng thanh âm lại cực kỳ bình tĩnh: “Nhưng đệ lại rất muốn gặp lại nàng, muốn một lần nữa nghe tiếng tiêu tuyệt thế vô song rung động lòng người của nàng, để nàng dùng cách của riêng mình trách móc đệ, làm đệ khốn quẫn, vì vậy khi huynh đề nghị đưa đệ về chỗ nàng trị thương, đệ mới không hề phản đối.”

Hầu Hi Bạch bỗng trở nên trầm lặng.

Từ Tử Lăng chuyển đề tài: “Khi huynh và Dương Hư Ngạn chuẩn bị giao thủ, đệ từ trong phòng tiến vào nội viện, lúc đó, đệ hoàn toàn quên đi mình đã bị nội thương.”

{nguyên bản thiếu một trang}

o0o

Giữa khoảng đồng cỏ rộng lớn xanh rờn, xa xa phía Tây Nam một dãy núi non nhấp nhô, người ta có thể tưởng tượng được nếu đến gần, thế núi chắc càng hùng vĩ nguy nga.

Nhưng Khấu Trọng đang ủ dột, gã đang nghĩ tới Dương Công Khanh và trăm ngàn tướng sĩ trung thành sẽ không bao giờ nhìn thấy mỹ cảnh trước mắt. Ái mã Thiên Lý Mộng cũng không có duyên thưởng thức đồng cỏ tươi tốt này, tất cả đã đều vì gã mà tráng liệt hy sinh, mối hận của gã đối với Đường thất Lý gia, có dùng ngũ hồ, tứ hải cũng không thể rửa sạch được.

Bỗng nhiên trong lòng gã hiện lên ngọc dung như hoa của Thượng Tú Phương, không biết nàng đã đến Cao Đường tìm nhạc khúc lý tưởng trong tim chưa, lại nghĩ đến Liệt Hấp dùng hết thủ đoạn hòng chiếm được hảo cảm và trái tim nàng, nhưng vết sẹo đã lành từ lâu âm thầm rỉ máu trong tim gã. Gã lại nghĩ đến Tống Ngọc Trí, người con gái đã bị gã làm tổn thương biết bao lần, một mỹ nữ đầy phẩm cách như vậy, trăm ngàn cảm xúc lại đan xen trong tim.

Đã lâu lắm rồi gã không nghĩ đến bọn họ, từ sau khi đến Lạc Dương, toàn bộ tinh thần của gã dành cho chiến đấu, toàn thần, toàn ý mưu toan tranh thủ thắng lợi, vì tồn vong của Thiếu Soái quân mà bỏ hết tư tình, vì tìm đường sống mà không còn để ý đến gì khác cả. Nhưng vào lúc này đây, gã không khỏi chìm vào vực sâu của thống khổ, hối hận và những kỷ niệm, không cách gì quên nổi.

Chỉ một đoạn cảm tình với Sở Sở đã khiến tâm thần gã không yên ổn, đối với Sở Sở gã thương nhiều mà yêu ít, thuở thiếu niên nhất thời mê luyến mỹ sắc, tình cảm đó sẽ vĩnh viễn bám sâu suốt đời, nhưng có thở than, nhớ lại cũng không ích gì.

Nhưng vô luận trong lòng gã có thống khổ đến mức nào, cũng đành chôn sâu, vì việc quan trọng nhất trước mắt là lo cho sự tồn vong của Thiếu Soái quân trong cuộc đấu tranh tàn khốc này, ai tàn độc hơn sẽ sống sót. Trong tình huống ác liệt nhất, gã phải vứt bỏ tất cả, giữ mình đạt được trạng thái cao nhất, dùng hết sức lực tạo ra kỳ tích.

Trong cuộc đấu tranh với Lý Thế Dân, gã đã liên tục phạm sai lầm và nếm trái đắng, gã không thể cho phép mình mắc thêm lỗi lầm nào nữa, vì gã không còn điều kiện đề phạm sai lầm.

Vầng thái dương từ rặng núi phía Đông lấp ló, ánh sáng rực rỡ nơi nơi.

Lý Thế Dân nếu đã đoán được gã sẽ đến Chung Ly cầu viện, Khuất Đột Thông ắt sẽ có dự phòng, không chừng bọn gã sẽ bị tập kích, việc dùng hoả khí của gã cũng thấy thất bại, cáo chung. Bây giờ gã không còn có được niềm tin như trước khi rời khỏi hiệp đạo nữa. Nếu như Bạt Phong Hàn không đến kịp, gã chỉ còn nước về hiệp đạo, cùng tồn vong với các tướng sĩ.

Giữa lúc tâm tư nổi lên trong đầu, từ vùng rừng núi phía Nam một màn bụi đất ùn ùn kéo đến, gã thầm cảm ơn trời đã trợ giúp, dùng hết tốc lực phi về phía sườn núi.

- o O o -

HỒI 676

Duy Nhất Phá Trán

“Những lời muội nói, có thể là thật, có thể là giả.”

Đối diện với u cư không một bóng người, trong đầu Từ Tử Lăng không ngừng cất lên những lời Thạch Thanh Tuyền đã nói.

Tiểu cốc vẫn như trước, nhưng cảnh Thạch Thanh Tuyền ngồi trang điểm rung động lòng người đã trở thành dĩ vãng. Tiếng gió lùa qua trở nên trống trải, tuy có hảo bằng hữu bên cạnh, gã lại tự nhiên cảm thấy tuyệt vọng, mất hết sinh cơ! Những tháng ngày bình dị mà chân thực, tràn đầy hạnh phúc lứa đôi cùng Thạch Thanh Tuyền đến nay đã tàn! Nỗ lực tranh thủ hóa ra thất bại triệt để, nàng biến thành hồi ức thương tâm, những ngày còn lại chỉ đành một mình trong tịch mịch.

Sống có gì vui, chết có gì đáng sợ. Hy vọng quá cao chỉ mang lại thất vọng tột cùng.

Hầu Hi Bạch nỗ lực cuối cùng là nhìn qua cửa sổ căn tiểu ốc gắng tìm bóng hình Thạch Thanh Tuyền, giọng khàn khàn như phát muốn khóc: “Nàng căn bản không đến đây, hoặc là vẫn còn lưu lại tiểu cốc ở Ba Thục.”

Từ Tử Lăng thất vọng ngồi xuống một trong hai phiến đá bằng phẳng ngoài cửa ốc, lắc đầu: “Nàng đêm đó đã rời khỏi cốc, đệ có thể cảm thấy quyết tâm không muốn ở lại trong cốc của nàng.”

Hầu Hi Bạch tiến đến phiến đá còn lại ngồi xuống, bóp chặt hai tay vào nhau, bối rối hỏi: “Vậy bây giờ phải làm sao?”

Từ Tử Lăng chậm rãi đáp: “Huynh lập tức đi tìm Lôi Cửu Chỉ, tìm cách an bài cho Hàn Trạch Nam và thê tử của hắn, đây là việc cấp bách. Nếu như để Hương gia phát hiện ra bọn họ, bọn ta sẽ ân hận cả đời.”

Hầu Hi Bạch ngẩng phắt lên, lo lắng hỏi: “Tiểu đệ đi rồi, một mình tử Lăng làm sao được?”

Từ Tử Lăng cười nhẹ nói: “Có gì mà không được, đệ sẽ ở lại đây an tâm dưỡng thương, cố nghĩ ra cách điều trị mà không cần đến tiêu âm của Thạch Thanh Tuyền, sau khi huynh lo hết mọi việc thì trở lại, bọn ta sẽ cùng đến hội hợp với Khấu Trọng. Trừ phi huynh còn có đề nghị nào tốt hơn?”

o0o

Quả nhiên trời cũng chiều người, đang đến chính là Bạt Phong Hàn và viện quân có thể giúp Khấu Trọng lật ngược tình thế, tổng cộng có bốn ngàn người và một trăm ba mươi cỗ xe, trong đó có hai mươi cỗ là chở số hỏa khí cứu mệnh. Trong bốn ngàn quân cứu viện, ba ngàn là kỵ binh tinh nhuệ, một ngàn còn lại khả năng chiến đấu không nguyên vẹn chuyên lo công tác vận chuyển, là binh chủng mới của Thiếu Soái quân.

Bạch Văn Nguyên vốn tinh thông toàn bộ địa hình vùng này trở thành chủ tướng của đoán quân này, chủ trước của gã là Chu Xán, từng là quán quân xưng hùng ở vùng Tây Bắc, Chu Xán tuy đã hết thời, nhưng lúc này kiến thức của Bạch Văn Nguyên với sông núi ở đây phát huy tác dụng đến mức tối đa, giúp viện quân đến mà thần không biết quỷ không hay, tránh được tai mắt của thám tử Đường quân.

Bạt Phong Hàn dẫn đầu một trăm người làm tiên phong mở đường, gặp Khấu Trọng trong rừng, hai bên hoan hỷ hỏi thăm nhau một hồi. Khấu Trọng vội ra lệnh cho đội ngũ tìm nơi kín đáo hạ trại nghỉ ngơi, tránh để địch nhân cũng nhìn thấy đám bụi đất bốc lên.

Gã khích lệ tinh thần thủ hạ một hồi, rồi cùng Bạch Văn Nguyên và Bạt Phong Hàn lên một ngọn đồi nhỏ gần đó quan sát tình hình, thương lượng đại kế, đồng thời cũng thả Vô Danh tuần tra trên cao.

Gã thấy Bạt Phong Hàn đến kịp thời, tâm tình vui vẻ lên nhiều, phân tích tình hình xong bèn tổng kết lại: “Hiện tại sự việc có lợi nhất đối với bọn ta là Khuất Đột Thông toàn tâm tập trung chú ý vào Chung Ly, các sách lược phòng ngự đều chuẩn bị để đối phó với quân đội từ Chung Ly đến, lúc này các vị đến thật đúng lúc, bọn ta thám thính rõ ràng Khất Đột Thông bố trí thế nào, rồi có thể thừa dịp trận thế đối phương chưa ổn định mà lăn cây gỗ, dùng hỏa khí đánh đòn phủ đầu, sau đó mới nội ngoại giáp kích, bảo đảm đánh một trận cho con mẹ hắn cũng phải tơi bời hoa lá, thật thống khoái.”

Bạt Phong Hàn nói: “Số hỏa khí này chủ yếu là độc khí hỏa tiễn, có thể bắn xa đến hơn ngàn bộ, tỏa ra một lớp độc khí màu tím, tuy chưa thể khiến bọn chúng phải trúng độc thân vong, nhưng cũng làm cho hai mắt đau nhức, nước mắt ràn rụa, hô hấp khó khăn, da dẻ phỏng rộp, phải mất nửa ngày mới hồi phục được, giảm đi không ít khả năng chiến đấu của chúng.”

Khấu Trọng cười hỏi: “Lão Bạt tìm người thử rồi ư? Bằng không sao lại có thể biết rõ ràng như vậy được?”

Bạch Văn Nguyên nói: “Bọn tthuộc hạ tìm một con chó hoang về thử nghiệm, sau đó còn định đánh chén luôn một bữa, nhưng chỉ sợ nó đã nhiễm độc, nên đành tha cho nó một mạng.”

Khấu Trọng khẽ than: “Con chó đáng thương, còn may chưa bị hại đến tính mạng.” Sau đó lại hỏi: “Độc yên tiễn này có được bao nhiêu mũi?”

Bạch Văn Nguyên đáp: “Tổng cộng có hai ngàn năm trăm mũi, nếu dùng tất cả, có thể bao phủ trong phạm vi ba bốn dặm, gió thổi cũng không tan, người có đầu óc chế tạo được hỏa khí như thế này quả không đơn giản.”

Bạt Phong Hàn nói: “Nếu như trong trường hợp đánh giáp lá cà thì loại độc yêu tiễn này không có tác dụng lớn lắm, nhưng để đánh phá doanh trại khi địch nhân tụ tập lại vô cùng hữu dụng. Bọn ta khi trước còn lo lắng không biết dùng nó để phòng thủ doanh trại thế nào, may sao có Lý Thế Dân phái Khuất Đột Thông đến làm vật thử nghiệm.”

Bạch Văng Nguyên thêm vào: “Ngoài hai ngàn năm trăm mũi độc yên tiễn, tiểu đệ còn có năm trăm quả hỏa du đạn, tám trăm cỗ độc yên địa pháo. Hỏa du đạn có thể châm ngòi sau đó dùng tay ném đi, kèm với đó dầu lửa sẽ nổ văng ra tứ phía, có thể nhanh chóng dìm cả vùng rừng núi vào trong biển lửa, độc yên địa pháo có thể gài trên mặt đất, địch nhân giẫm phải lập tức sẽ phún xuất độc yên, chỉ dựa vào độc yên đã lợi hại hơn độc yên tiễn nhiều.”

Khấu Trọng chặc lưỡi: “Chúng tiểu đệ thật đã cứu Lý Uyên một mạng, số hỏa khí này đúng ra để giành cho lão.”

Bạt Phong Hàn vui vẻ: “Bọn ta phải nhân lúc Khuất Đột Thông chưa phát quang cây cối quanh doanh trại mà phát động, nếu không số hỏa du đạn sẽ biến thành phế vật.”

Khấu Trọng ngay lập tức ra quyết định: “Văn Nguyên về doanh trại trước, chuẩn bị mọi thứ, ta cùng lão Bạt sẽ đi thám thính tình hình, không thể trì hoãn được nữa, tối nay chính là thời cơ hành động thích hợp nhất.”

Bạch Văn Nguyên tuân lệnh lui đi.

Bạt Phong Hàn hỏi: “Có tin tức gì của Tử Lăng không?”

Khấu Trọng lắc đầu buồn bã: “Hy vọng hắn cát nhân thiên tướng, đại cát đại lợi.”

o0o

Từ Tử Lăng ngồi xuống vận công, gã không có cách nào quên đi được nội thương nghiêm trọng, vì đó là một cảm giác dai dẳng không thể xua đi nổi khiến gã lúc nào cũng cảm thấy hư nhược, kinh mạch toàn thân đau nhức thống khổ, cộng với khí huyết không thông càng làm gã thêm phần khó chịu.

Tinh thần càng tập trung, cảm giác đó càng rõ rệt, khiến gã không thể tiến vào cảnh giới vong ngã, lúc này gã chỉ có thể nhẫn nhục chịu đựng thương thế dày vò.

Gã tiến vào trong ốc, bước vào khuê phòng nơi Thạch Thanh Tuyền từng ở, trong lòng bỗng tràn ngập ôn nhu, khơi lại những ký ức mỹ lệ động lòng người, những hờn giận với nàng lập tức tan biến.

Nếu như đã yêu nàng, thì cũng nên nghĩ cho nàng, tôn trọng quyết định của nàng. Được mất của cá nhân thì sao? Nếu đã có thể buông rơi nhân thế, quá khứ hay sinh mệnh tất cả chỉ phát sinh trong nháy mắt.

Tâm thần gã lại chìm vào tình cảnh khi vừa quen biết Thạch Thanh Tuyền, kỷ niệm từng cơn từng cơn bỗng chốc kéo về, vừa như thật lại như hư vô, ngoài Sư Phi Huyên ra, hắn chưa từng nhớ một ai như vậy. Sinh mệnh và mọi chuyện biến thành quá khứ không thể vãn hồi, thôi để nàng biến thành một phần của quá khứ.”

Vô tình, gã chợt phát giác ra mình đã ra khỏi tiểu ốc, ngồi xuống phiến đá vuông vức cạnh cửa, vầng thái dường chìm xuống phía sau núi, côn trùng trong rừng tùng quanh đó kêu rả rích như thể mùa đông đang đến, tận lực hát lên bài hát sinh mệnh cuối cùng, dệt thành một bản nhạc u buồn miên man.

Gã đắm mình khung cảnh mà bình thường không để ý đến xung quanh, giữa thế giới của tiếng côn trùng râm ran, rốt cuộc nỗi nhớ da diết hướng về Thạch Thanh Tuyền cũng lần tan biến vào thiên nhiên, không còn dấu vết.

Trong thế giới vong tình, vong ưu, vong ngã đó, gã đã thành công giải thoát thân thể khỏi thương thế đang nhức nhối. Tinh thần và đại tự nhiên trong lúc tàn ánh lên những tia sinh khí kết hợp thành một thể. Không biết từ đâu, Dũng Tuyền huyệt dưới gan bàn chân bỗng phát sinh hàn nhiệt khí, tiên thiên khí xuyên qua huyệt đạo, càng lúc càng mạnh, từ từ đả thông kinh mạch, bồi bổ khiếu huyệt.

Thời gian bỗng trôi đi vùn vụt giữa lúc hỗn độn, cho đến khi gã bị cảm giác nguy hiểm mãnh liệt bao phủ toàn thân thì mới từ sâu thẳm trong trạng thái thiên địa đồng du sực tỉnh lại, mở mắt ra nhìn, vầng trăng khuyết đã lên đến đỉnh đầu, màn đêm đen thẳm như nhung được khảm đầy những vì sao lấp lánh.

Nếu như một trong những vì sao đó sẽ là nơi an nghỉ cuối cùng của Thạch Thanh Tuyền, không biết nơi an nghỉ của gã có là một ngôi sao bên cạnh đó không, mãi mãi ở bên nàng, hoàn thành ước nguyện kiếp trước ở trần thế.

Sinh mệnh chịu ảnh hưởng của nhân quả kiếp trước? Nếu vậy con người đầu tiên được tạo ra thế nào?

“Đây là nơi nào? Ai dựng nhà ở đây?”

Từ Tử Lăng thu hồi mục quang đang ngắm nhìn trời sao, chắp tay sau lưng đứng dậy đối diện với đại tà nhân cái thế “Tà vương” Thạch Chi Hiên, cười nói: “Tà vương sao lại rảnh rỗi đến mức quang lâm sơn cư này?”

Thạch Chi Hiên cũng bắt trước gã nhìn lên màn đêm, một lúc sau mới nói: “Tử Lăng sau khi mở mắt, lại đăm đăm nhìn thiên không, không biết muốn tìm gì?”

Từ Tử Lăng chậm rãi đáp: “Vãn bối đang nghĩ xem người chết rồi sẽ đi về đâu? Không biết có phải là sẽ trở lại cố hương, nơi những vì sao kia đang tỏa sáng trên trời không?”

Thạch Chi Hiên thoáng lộ một nụ cười cay đắng, nhưng ngữ khí lại lãnh khốc bình tĩnh, nhẹ giọng nói: “Tử Lăng có biết ta đến để giết ngươi không?”

Từ Tử Lăng nhún vai tự nhiên nói: “Tà vương nếu đã không biết nơi này là địa phương của ai, đương nhiên không phải chủ tâm đến thăm viếng, mà là do theo đuổi bọn ta. Sự thật là Tà vương từ trước đến nay vẫn có ý giết ta, chỉ là không muốn hạ thủ ngay trước mắt Hầu Hi Bạch mà thôi.”

Thạch Chi Hiên thần tình không đổi, cúi đầu nhìn gã, hạ giọng: “Thạch mỗ không phải là không cho ngươi cơ hội, nếu như ngươi đã chịu ở lại U Lâm Tiểu Trúc bầu bạn với Thanh Tuyền, không quản đến việc trần thế nữa, ta tuyệt đối sẽ không hại đến một cọng lông của ngươi. Nhưng những hành động của ngươi hiện nay khiến Thạch mỗ thật thất vọng. Tử Lăng phải biết, ngươi và Khấu Trọng đã biến thành chướng ngại lớn nhất trong công cuộc thống nhất thiên hạ của Thánh môn của ta, nếu như đêm nay ta không ra tay, ngay mai chỉ sợ sẽ hối không kịp. Ta cố ý đợi đến khi nội thương của ngươi bình phục mới hiện thân động thủ, chính là hy vọng để Tử Lăng ngươi biết, ta không phải loại người chỉ biết thừa cơ nguời khác gặp nguy.”

Sau đó lão lại than: “Nhưng trong một ngày mà thương thế đã bình phục hoàn toàn, Thạch Chi Hiên ta không thể không viết một chữ ‘Phục’, đã như vậy buộc Thạch mỗ phải hạ độc thủ. Hôm nay Tử Lăng đi trước một bước, không lâu sau sẽ đến lượt Khấu Trọng.”

Từ Tử Lăng vươn mình đứng thẳng, cảm giác mới mẻ tràn ngập toàn thân, gã không có cảm giác thấy chân khí lưu chuyển trong nội thể, mọi thứ đều tự nhiên, hô hấp giống như có một cánh chim đang lượn vòng, trào lên biển lớn khiến gã hoàn toàn thoải mái.

Gã không những hồi phục lại công lực mà tiến lên một cảnh giới khác.

Trong mắt Thạch Chi Hiên ánh lên những tia kỳ lạ, trầm giọng: “Võ công của Tử Lăng lại tiến vào một cảnh giới mới, khiến Thạch mỗ không khỏi cảm thấy phải cảnh giác, lần này xuất thủ sẽ không còn chút lưu tình nào, Tử Lăng cẩn thận.”

Từ Tử Lăng hiểu đây là khoảnh khắc sinh tử quan đầu, phải sử dụng hết bản lĩnh, may ra mới có cơ hội sống sót, gã bình tĩnh hỏi: “Tà vương có hứng thú muốn biết ai là chủ nhân tòa u cư này không? Tại sao không hỏi rõ ràng đến nơi đến chốn.”

Thạch Chi Hiên không có cách gì che giấu thần sắc chấn động.

Từ Tử Lăng đưa hai tay lên quá đầu, úp chặt vào nhau như nụ hoa, ngón vô danh chếch ra ngoài, đầu hai ngón tay hơi xoắn lại, thể hiện lại thế thứ nhất trong Cửu Tự Chân Ngôn Ấn năm xưa Chân Ngôn Đại Sư truyền cho gã, ngầm vận Bất Động Căn Bản Ấn, miệng hô: “Lên!”

Vẻ mặt Thạch Chi Hiên lại biến, lùi ba bước.

Mấy lần Từ Tử Lăng giao thủ với lão, đều có thể bức lão vào thế hạ phong, một phần nhỏ là nhờ vào thiền lực của chân ngôn, còn phần lớn là lợi dụng nhược điểm duy nhất cũng là nhược điểm vĩnh viễn của lão: Thạch Thanh Tuyền.

Thạch Chi Hiên bỗng phát ra một bức tường chân khí từ từ ép tới, khiến gã không thể tiếp tục tiến lên, thừa thế tấn công.

Một tay lão phất ra phía sau, tay kia vung ra trước, ngũ chỉ hợp lại thành đao, đâm về phía Từ Tử Lăng, hai mắt tinh quang đại thịnh, cười dài: “Hảo! Từ khi Thạch Chi Hiên ta xuất đạo tới nay, Tử Lăng là một trong số ít những người có thể khiến Thạch mỗ mới động thủ đã rơi vào thế hạ phong, tuy có dùng tiểu xảo, nhưng khi cao thủ giao phong, không có gì là không thể, đương nhiên đó cũng tính là bản sự của ngươi.”

Từ Tử Lăng không khỏi bội phục trong lòng, khí phách và tác phong bậc Đại Hành gia của lão khác xa thường nhân.

Song thủ lại áp lại trước ngực như hoa sen, Bất Động Căn Bản Ấn biến thành Đại Kim Cương Luân Ấn. Từ khi được Chân Ngôn Đại Sư truyền thụ ấn pháp, chưa bao giờ gã thấu hiểu được tinh thần và biến hóa của Chân Ngôn ấn pháp lại cùng kết hợp với thiền lực thần diệu vô hạn như bây giờ. Đối với Bất Tử ấn pháp, gã lại có một nhận thức mới, bản thân pháp quyết này vốn không có điểm yếu, nhược điểm duy nhất nằm tại nội tâm của Thạch Chi Hiên.

Trước mắt bỗng hoa lên, Thạch Chi Hiên thoắt hiện ra phía bên trái gã, tay duỗi thẳng như đao chém vào yếu huyệt trên cổ gã.

Gã tự biết mình không thể bì kịp với Ảo Ma thân pháp của lão, chỉ có thể lấy tĩnh chế động, hai tay như hoa sen nở rộ, biến thành thủ ấn vô cùng vô tận, mỗi thủ ấn đều kỳ diệu đến tột đỉnh, vừa như có ý định vừa như thuận theo đại tự nhiên, những chỗ vi diệu không thể tả hết được.

“Bốp!”

Từ Tử Lăng điểm ra một chỉ, đánh vào chính giữa chưởng phong của Thạch Chi Hiên.

Thạnh Chi Hiên bay lùi lại, Từ Tử Lăng cũng bị chấn lực làm cho khí huyết nhộn nhạo, lảo đảo lùi về phía sau gần một trượng.

Thạch Chi Hiên không thừa thế truy kích mà lại chắp tay sau lưng, đứng ở phía xa, kinh ngạc thốt lên: “Không ngờ Tử Lăng có thể phong bế chiêu thức của Thạch mỗ, khiến ta không thể không lùi, việc này nếu truyền ra ngoài, sẽ khiến bất kỳ ai cũng phải ngạc nhiên. Bất quá có lợi tất sẽ có hại, nói trắng ra, cho đến lúc này, ta đã hạ quyết tâm bỏ măc tất cả, toàn lực xuất thủ, nhất định phải ép cho được Tử Lăng vào tử địa. Bằng không có khi chỉ cần thêm một năm nữa, không chừng đến cả “Tà vương” Thạch Chi Hiên ta cũng không thể đưa Tử Lăng vào tử địa. Buồn thay!”

Từ Tử Lăng cười nhẹ: “Nguyên lai Tà vương muốn hạ quyết tâm cũng phải khó khăn như vậy. Tại hạ có một việc không thông, xin Tà vương chỉ điểm.”

Thạch Chi Hiên thần sắc bình tĩnh, hai mắt ánh lên vẻ lãnh khốc vô tình, chậm rãi thốt: “Nói đi!”

Từ Tử Lăng cảm thấy rõ rệt trong ánh mắt đó không còn chút trở ngại nào ngăn chặn ý định sát tử gã nữa, đang tìm lấy thời cơ xuất kích thuận lợi nhất, chỉ cần tinh thần gã thoáng sơ hở, không duy trì được cảnh giới “Kiếm tâm thông minh”, sẽ gặp ngay phải thế công chí tử bài sơn đảo hải của lão.

Bèn chậm rãi nói: “Tà vương tại sao lại tha cho Loan Loan?”

Thạch Chi Hiên nhăn mày: “Ngươi đáng ra phải biết nguyên nhân, ngoài ta ra, nha đầu đó là nhân tài kiệt xuất nhất trong Thánh môn, nếu như Hư Ngạn không phản bội ta, ta tuyệt sẽ không dung tình với nha đầu đó, hiện tại không phải là lúc thương hoa tiếc ngọc. Nếu như ngươi sợ ta sẽ đi đối phó với Loan nha đầu, thì có thể an tâm rồi.”

Từ Tử Lăng than: “Tà vương có cảm thấy mình đã lâm vào tình cảnh chúng bạn rời xa? Trong cuộc đấu tranh thống nhất Thánh môn, người khống chế đại cục tuyệt không phải là Tà vương, mà là Triệu Đức Ngôn của Đột Quyết, hoặc là người mà Lý Uyên tín nhiệm, Dương Hư Ngạn, đáng sợ hơn khi người được lợi cuối cùng lại là Hiệt Lợi của Đột Quyết.”

Thạch Chi Hiên cười dài: “Cứ cho là như Tử Lăng nói, kẻ chịu đả kích lớn nhất lại là tổ chức đứng đầu bạch đạo, Từ Hàng Tịnh Trai. Thánh môn của ta vốn không có gì, thiên hạ càng loạn càng tốt, dưới nguy cơ sẽ gặp sinh cơ, sau đại loạn ắt sẽ yên lành, đây là phép tắc tuần hoàn của lịch sử, không thể sai lệch. Thánh môn của ta đã trải qua bao nhiêu biến loạn, ứng phó với nguy cơ linh hoạt hơn bất kỳ tổ chức nào, Tử Lăng định dùng đại nghĩa dân tộc để thuyết phục ta, thật là một phen uổng phí tâm cơ rồi.”

Từ Tử Lăng thản nhiên: “Nếu đã xem những lời tại hạ nói là uổng phí, mời Tà vương cứ xuất chiêu.”

Thạch Chi Hiên bỗng nhiên đảo mắt nhìn xuyên qua song cửa sổ vào trong tiểu ốc, khuôn mặt hiện lộ vẻ kinh hãi chấn động.

Toàn bộ tinh thần của Từ Tử Lăng đang tập trung lên mình lão, lập tức phát sinh ra cảm ứng, không thể bỏ qua cơ hội ngàn vàng này được.

“Bình!”

Chân Ngôn phát ra.

Bảo Bình Khí ý vừa vận lên tay, đã cách không phát ra một chưởng.

“Ầm!”

Thạch Chi Hiện tuỳ ý chặn đứng, hai tay khép lại, tụ tập chân khí, ngạnh tiếp Bảo Bình khí kình, chân khí hai bên đều được tập trung cao độ, không ai có thể mượn lực tá kình.

Thạch Chi Hiên lùi lại ba bước, Từ Tử Lăng văng về phía sau như diều đứt dây, vừa hay xuyên qua cửa sổ bay vào trong tiểu ốc, vừa chạm đất gã vẫn giữ nguyên thế lao, xé màn che nhanh chóng tiến vào khuê phòng Thạch Thanh Tuyền.

Thạch Chi Hiên như hình với bóng bám theo vào trong nhà, khi đến cửa bỗng chấn động dừng lại.

Từ Tử Lăng lảo đảo cong người xuống, tay bắt Sư Tử Ấn, khẽ kêu oẹ một tiếng phun ra một búng máu.

Thạch Chi Hiên lạnh lùng quan sát gã, dùng tay áo quệt đi dòng máu đang rỉ trên khóe miệng, gật đầu: “Ngoài Ninh Đạo Kỳ ra, từ sau khi ta luyện thành Bất Tử Ấn, ngươi là người đầu tiên có thể khiến ta thụ thương, ngươi thật đáng nên tự hào.”

Từ Tử Lăng đương nhiên biết thương thế của mình trầm trọng hơn nhiều, vừa rồi gã trúng phải gian kế của Thạch Chi Hiên, tưởng rằng lão nhìn thấy nơi Thạch Thanh Tuyền lánh đời, tâm thần lộ ra nhược điểm, không ngờ lão cố tình sơ hở, khiến gã từ thượng phong lại rơi vào hạ phong tuyệt đối, từ trên trời cao ngã xuống phàm gian, không thể bảo trì cảnh giới vô nhân vô ngã thần diệu như trước nữa.

Hai người đứng đối mặt.

Từ Tử Lăng hít sâu một hơi chân khí, miễn cưỡng đề tụ công lực, lên tiếng: “Tà vương không phải đã nói quyết tâm giết tại hạ hay sao, cớ gì còn lại ngừng tay?”

Hai mắt Tà vương sát cơ đại thịnh, quát lớn: “Đây có phải là nơi Thạch Thanh Tuyền ẩn cư?”

Từ bên ngoài, tiếng tiêu bỗng vang lên.

- o O o -

Hồi 677

Hữu Tình Vô Tình

Theo kế hoạch của Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn, Thiếu Soái quân phục kích ở vị trí đầu gió để phát huy hết uy lực của hỏa khí.

Địch nhân còn chưa kịp thiết lập các chòi quan sát mộc trại. Đại quân chủ lực của chúng đã tiến vào khu vực chân núi cách xuất khẩu nam lộ của Thiên Thành hạp khoảng nửa dặm, tạm thời hạ trại theo thế trận “Lục hoa”, lấy soái trướng của Khuất Đột Thông làm trung quân chỉ huy đại cục, hai bên soái trướng là Tả Ngu Hầu, lực lượng thân binh của chính Khuất Đột Thông, bốn cánh quân khác chia nhau hạ trại ở bốn phía còn lại, hình thành một đóa hoa sáu cánh. Cách bố trí này mặc dù không có gì đặc sắc, nhưng không sợ hỏa hỏa công. Chỉ cần cắt binh sĩ luân phiên canh gác ở các cao điểm xung quanh là có thể nhanh chóng điều động quân sĩ phản kích khi bị địch nhân tập kích.

Ngoài ra còn có thêm hai cánh quân, mỗi cánh ước chừng hai ngàn lính, hạ trại trên các gò đồi cao bên ngoài xuất khẩu nam lộ, một gần một xa, cách nhau khoảng ngàn bộ sẵn sàng tiếp ứng qua lại.

Tổng quân số của ba doanh trại trên một vạn năm ngàn người, đuốc được đốt khắp nơi khiến bên ngoài Thiên Thành hạp sáng như ban ngày.

Một lực lượng lớn lính công binh tập trung ngoài xuất khẩu đang ra sức đốn cây, triệt phá chướng ngại vật. Cây chặt xuống có thể dùng để kiến thiết những mộc trại kiên cố.

Thiếu Soái quân do Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn đích thân chỉ huy chia ra làm ba lộ, mang theo độc yên tiễn rất dễ sử dụng, bí mật tiến vào rừng rậm, áp sát phạm vi ánh đuốc của địch quân chiếu tới, thu mình chờ mệnh lệnh tập kích doanh trại quân chủ lực đối phương.

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn nhảy lên ngọn một cây cổ thụ cao, từ ngoài ba ngàn bộ quan sát tình hình trong Lục hoa doanh của Khuất Đột Thông.

Khấu Trọng vui vẻ nói: “Khuất Đột Thông không hổ là danh tướng thân kinh bách chiến. Nếu cho thêm vài ngày thời gian, chỉ e là độc yên tiễn cũng không làm khó được hắn. Cứ tưởng tượng nếu hắn lập trại ở các khu đất cao, lại phối hợp với hào sâu thì chúng ta phải mất bao nhiêu cây độc yên tiễn bắn vào doanh trại chứ?”

Bạt Phong Hàn hào hứng nói: “Hiện tại hắn lại như miếng cá trên đĩa của bọn ta. Sợ là hắn còn đang trong mộng, vẫn chưa tưởng tượng nổi bọn ta đang phục tại nơi này, hỏa khí sẵn sàng chuẩn bị tập kích doanh trại. Huynh đệ, ta không đủ kiên nhẫn để chờ nữa!”

Khấu Trọng cười nói: “Ngươi làm thế nào mà qua nổi trăm ngày tu luyện ở sa mạc chứ? Sao mà thiếu nhẫn nại quá thế. Trước tiên, chiến sĩ của bọn ta cần thời gian nghỉ lấy sức. Kế đó, ngươi xem địch nhân khổ cực tới mức nào kìa, ban ngày hành quân cấp tốc, đêm tối vẫn chưa được nghỉ ngơi. Cứ để cho chúng đờ đẫn thêm chút nữa bọn ta phát động công kích là vừa. Thời khắc tốt nhất là nửa thời thần trước bình minh. Khi trời sáng, các huynh đệ bên trong hạp có thể cùng bọn ta tiền hậu giáp kích, chém giết địch nhân một trận, ‘Con bà nó!’, lạc hoa lưu thủy luôn, đúng không?”

Bạt Phong Hàn phì cười, nói: “Ngươi là long đầu, hiển nhiên do đương gia ngươi làm chủ. Quá đúng rồi!”

Hai người nhìn nhau cười, tay nắm chặt tay.

Bọn gã đã từng bị vây đánh và bại trận dưới tay Lý Thế Dân, rốt cuộc bây giờ mới có cơ hội tốt để phản kích.

o0o

Từ Tử Lăng và Thạch Chi Hiên cùng sửng sốt.

Không ngờ thanh âm phát ra từ Thiên Trúc tiêu nổi lên mấy tiếng rồi ngưng bặt, tựa hồ chưa hề có gì xảy ra, khiến trong lòng hai người dậy lên không biết bao nhiêu nghi vấn.

Thạch Thanh Tuyền cuối cùng cũng giữ lời hẹn ước đến gặp Từ Tử Lăng, bất ngờ biết Thạch Chi Hiên muốn giết gã, cố tình dùng tiêu âm xen vào.

Thạch Chi Hiên nhanh chóng bình tĩnh trở lại, vẻ hung bạo biến mất không còn ý xuất thủ nữa. Lão đi đến trước cửa sổ, đưa mắt nhìn cảnh hoang dã dưới bầu trời đầy sao, như muốn tìm kiếm bóng dáng của nữ nhi, điềm đạm thản nhiên nói: “Tử Lăng có lẽ thừa biết uy hiếp lớn nhất với bách tính Trung thổ không phải Thánh môn ta mà là người Đột Quyết.”

Từ Tử Lăng hoàn toàn không hiểu vì sao Thạch Chi Hiên đột nhiên trở quẻ, đem chuyện người Đột Quyết ra thảo luận, nhưng gã đang nôn nóng và hoan hỷ vì sự xuất hiện của Thạch Thanh Tuyền, nên cũng chẳng tính toán gì, vén rèm bước ra, dừng lại cách Thạch Chi Hiên ba bước, cất tiếng: “Xin cho nghe tường tận!”

Thạch Chi Hiên tiếp:“Đó là huyết cừu đã tích tụ qua không biết bao nhiêu thế hệ. Bắt đầu từ sự chênh lệch giàu nghèo của hai bên. Với người Đột Quyết mà nói, chỉ có người mạnh nhất mới xứng sở hữu những vùng đất màu mỡ nhất, nếu không có được sẽ cướp bóc và phá hủy đi. Nếu Thánh môn ta đoạt được thiên hạ, tất sẽ tận lực củng cố quyền lực, khiến Trung thổ hưng vượng. Bởi thế ta mới nói mối hiểm họa đích thực của Trung thổ chính là Đột Quyết mà không phải chúng ta.”

Từ Tử Lăng trầm giọng nói: “Nhưng Triệu Đức Ngôn của quý môn chẳng phải đang vui vẻ hợp tác với Hiệt Lợi đó sao?”

Thạch Chi Hiên chép miệng: “Triệu Đức Ngôn lại có cách tính toán khác. Y muốn công khai mượn lực lượng của Hiệt Lợi để tiêu diệt những kẻ đối lập. Nếu Hiệt Lợi thật sự có thể chinh phục Trung nguyên tất không thể không dùng người Hán trị người Hán, sẽ dựa vào Triệu Đức Ngôn giúp hắn điều khiển giang sơn, hoàn thành mộng đẹp làm hoàng đế của hắn. Nếu ngươi giết y, ta tuyệt sẽ không chau mày.”

Từ Tử Lăng nói: “Vì sao Tà vương lại nói với ta chuyện này?”

Thạch Chi Hiên không trả lời hắn, tiếp tục: “Đột Lợi tuy cùng các ngươi xưng huynh gọi đệ, nhưng hắn thủy chung vẫn là người Đột Quyết, tuyệt sẽ không quên cừu hận với người Hán. Đó là cừu hận giữa hai dân tộc, không một ai có thể hóa giải. Nếu ta không lầm, tất có ngày bọn ngươi sẽ phải cùng Đột Lợi đao binh tương kiến.”

Từ Tử Lăng lặng yên không đáp. Lời nói của Thạch Chi Hiên vô cùng sắc bén, tựa như kim đâm vào là thấy máu, năng lực trí tuệ của lão chính là do trải bao năm trường, qua muôn gian khó cật lực tôi luyện mà thành.

Thạch Chi Hiên thở dài: “Tại sao ta phải nhắc nhở ngươi? Bởi ta sợ ngươi vì tình huynh đệ với Khấu Trọng mà phải chịu thiệt thòi. Thôi! Ta phải đi đây! Tử Lăng bảo trọng.” Nói xong sải bước ra cửa, hòa vào màn đêm.

Từ Tử Lăng ra khỏi nhà, gió lạnh lùa vào mặt, bầu trời đêm trên cao lấp lánh muôn vàn tinh tú, tiếng côn trùng rỉ rả không ngừng. Hoang cốc cô tịch thật ra chẳng hề cô tịch.

Tiếng tiêu lại dìu dặt nổi lên, như có như không, quyện lẫn trong tiếng ve mùa thu xung quanh đang nức nở, thuận theo tiếng gió vi vu khi to khi nhỏ, tựa như làn mây nhẹ lướt qua vầng nguyệt, phảng phất như từ trên chín tầng mây vọng xuống, khiến người tai mê thần động. Những âm thanh tươi sáng lúc như độc lập hoàn toàn với thiên địa, lúc lại cùng vạn vật hòa vào làm một. Đất trời cuối thu xơ xác tiêu điều thoáng chốc trở nên xán lạn, tràn trề sức sống.

Tựa người đi tìm kho báu, Từ Tử Lăng nhắm hướng tiếng tiêu lướt đi. Bao nhiêu tâm sự trong lòng đều được tiếng tiêu giải thoát, chỉ còn lại cảm giác ấm áp và yêu thương tràn ngập. Tiếng tiêu của Thạch Thanh Tuyền như một nhánh Vong Ưu Thảo thần kỳ, sau khi dùng sẽ không còn nhớ gì đến chiến tranh tàn khốc lãnh huyết ngoài nhân thế nữa.

Từ Tử Lăng chạy một mạch lên sườn núi, hình bóng Thạch Thanh Tuyền hiện ra trên khối đá lớn, như một nàng tiên bồi hồi lưu luyến chốn Không Sơn Linh Cốc trong mộng.

Tiếng tiêu rồi cũng ngưng lại. Thạch Thanh Tuyền đưa ánh mắt long lanh tình tứ nhìn gã, nhoẻn miệng cười: “Ngốc tử tới sớm nhỉ!”

Từ Tử Lăng bước đến ngồi xuống bên cạnh, ngước nhìn nàng si dại.

Thạch Thanh Tuyền mặc áo lụa dài mỏng màu tía nhạt, bên ngoài khoác thêm chiếc áo choàng chống phong hàn sắc màu thanh nhã, quần lụa vàng ửng. Dung mạo thanh tú thông minh phảng phất nét u uẩn, thần thái băng tuyết lãnh ngạo, không một chút phấn son, dáng người yểu điệu mềm mại, cử chỉ dịu dàng thanh nhã khiến ai ai cũng phải tâm mê thần túy.

Nàng thuận tay đặt Thiên Trúc tiêu xuống bên cạnh. Từ Tử Lăng để ý thấy nàng có mang theo một túi nhỏ hành trang tùy thân.

Thạch Thanh Tuyền nhìn đăm đăm về phía căn nhà nhỏ dưới chân núi, một hồi lâu sau mới cất giọng nhu mì hỏi: “Chiến tranh trông như thế nào rồi?”

Từ Tử Lăng không ngờ nàng lại hỏi một câu như thế, ngẩn người ra một lúc mới gượng cười đáp: “Không biết có nên nói thật cho nàng không?”

Khóe miệng Thạch Thanh Tuyền thoáng lộ nét châm biếm, nàng nói khe khẽ: “Đã đáng sợ đến nỗi khiến người ta không dám nói ra, tại sao vẫn có nhiều người mải mê theo đuổi?”

Từ Tử Lăng thở dài: “Nguyên nhân vô cùng phức tạp!”

Thạch Thanh Tuyền đưa ánh mắt sâu thẳm nhìn hắn: “Tử Lăng quá mệt mỏi rồi. Chiến tranh chắc đã khiến huynh phải dằn vặt rất nhiều.”

Từ Tử Lăng những muốn được gục đầu vào lòng nàng. Chỉ có ở nơi đây gã mới tìm được chốn lánh thân trong thời loạn này.

Thạnh Thanh Tuyền tiếp tục: “Người ta lên thuyền đi về hướng đông. Các thành trì bên bờ Đại Giang khẩn trương phi thường, người người kinh hoảng, nhưng ai nấy đều không biết nên đi đâu lánh nạn. Tin tức chiến tranh và tin đồn mỗi ngày mỗi khác, khi thì nói Thiếu Soái quân trong trận chiến Lạc Dương toàn quân bị tiêu diệt, khi thì nói đại quân của Tống Khuyết và Đường quân đang chính diện giao phong, khi lại bảo Đỗ Phục Uy khởi binh phản Đường, cùng với Đậu Kiến Đức giáp công Lý Thế Dân báo thù cho hai huynh, khiến người ta không biết đằng nào mà tin.”

Từ Tử Lăng thấy lòng ấm hẳn lên, một người xưa nay không màng thế sự như Thạch Thanh Tuyền mà lại lưu ý đến diễn tiến chiến sự như thế, hiển nhiên là vì quan tâm đến gã, không nhịn được cất tiếng hỏi: “Thanh Tuyền lo lắng cho ta ư?”

Thạch Thanh Tuyền điềm đạm hỏi: “Huynh nói gì?”. Đoạn không nhịn được khúc khích cười, nói: “Ngốc tử!”

Trong lòng Từ Tử Lăng dậy lên một cảm giác vô cùng ấm áp, nhưng trong chớp mắt lại chuyển thành thống khổ. Cuộc sống hạnh phúc với gã vẫn chỉ là một giấc mộng đẹp xa vời. Chưa lúc nào Từ Tử Lăng hiểu rõ mâu thuẫn trong nội tâm mình đến thế. Cuộc chiến tranh bá thiên hạ của Khấu Trọng khiến gã không thể khoanh tay, nhưng đối với tình yêu thương của Thạch Thanh Tuyền lại không thể tự thoát. Gã đã mất Sư Phi Huyên, không thể để mất nốt người con gái đêm đêm đến trong mơ này nữa. Nàng và tiếng tiêu của nàng như một dòng nước xanh trong thuần khiết chảy giữa đại dương nhân loại mênh mông đầy tranh chấp cùng cừu hận, như một đốm lửa bất diệt lung linh tỏa sáng vĩnh hằng trong đêm tối. Mất nàng hắn sẽ chẳng còn gì, cuộc sống thêm một lần nữa trở nên vô nghĩa.

Nụ hôn nhẹ như hơi thở cùng cuộc chia ly tại U Lâm Tiểu Trúc tựa dấu ấn nung đỏ đã để lại vết tích vĩnh viễn không phai mờ trong tim gã, nhưng mãi cho tới lúc này, khi họ vai kề vai thì thầm to nhỏ, nàng vẫn tựa hồ như người hữu tình lại như vô tình. Nếu Từ Tử Lăng gã thổ lộ tâm tình, liệu có xảy ra điều mà nàng từng nói, nàng sẽ không dám đón nhận, sẽ như con chim nhỏ hoảng sợ mà xa chạy cao bay? Gã không thể không quan tâm đến cảm giác trong lòng nàng cùng những nỗi niềm thê lương trong dĩ vãng.

Giọng nói thánh thót như tiên nhạc của Thạch Thanh Tuyền vang lên bên tai gã: “Ngốc tử, chàng đang lãng đãng chốn nào vậy?”

Từ Tử Lăng giật mình tỉnh lại, đưa mắt nhìn nàng. Thạch Thanh Tuyền hai tay ôm chân, tì cằm lên đầu gối, toàn thân tựa như được khảm vào bầu trời đêm, biến thành vì sao chói lòa, bí hiểm khó lường. Nàng quay mặt liếc gã một cái rồi lại ngước về chốn xa xôi, nơi bầu trời sao hòa vào dãy núi chập chùng, khóe miệng phảng phất nét cười láu lỉnh mà gã không sao hiểu nổi. Sắc đêm như màn sa mỏng khoác lên thân thể yêu kiều của nàng, vốn gần ngay trước mặt, lại tựa như ẩn thân tại tiên giới cách biệt với nhân gian.

Từ Tử Lăng không kềm lòng được, thốt lên: “Ta đang nghĩ đến nàng.”

Nét môi phảng phất như cười của Thạch Thanh Tuyền chợt xòe cánh hóa thành đóa hoa thắm rực rỡ, tựa như nàng đã xóa tan được nỗi niềm u uất vốn mang theo từ lúc chào đời, ranh mãnh nói: “Chỉ gạt người ta thôi! Có phải đang không dám miêu tả chiến sự cho Thanh Tuyền nghe không? Ánh mắt của huynh cũng y như con người thật thà của huynh.”

Từ Tử Lăng không thể rời mắt khỏi khuôn mặt xinh của nàng, ôn tồn lên tiếng: “Thanh Tuyền đúng là nhìn thấy mâu thuẫn trong nội tâm của ta. Một bên là huynh đệ đồng cam cộng khổ từ thuở ấu thời, một bên là …”

Thạch Thanh Tuyền ngồi thẳng lên, xoay mình đưa tay ra đặt một ngón ngọc ngà lên môi gã, ngăn không để gã nói hết lời, ánh mắt lung linh thăm thẳm đảo nhẹ rồi nhìn sâu vào mắt gã. Mãi một hồi sau nàng mới hạ ngón tay chặn trên môi gã xuống, chậm rãi nói: "Khuya rồi! Tử Lăng vào trong phòng ngủ một giấc đi thôi. Mà phải làm một hài tử ngoan nhé!”

Từ Tử Lăng vẫn còn đang ngây ngất bởi động tác thân mật lấy ngón tay đè lên môi, nghe vậy ngạc nhiên thốt lên: “Trong nhà không phải chỉ có một cái giường thôi sao?”

Thạch Thanh Tuyền lộ vẻ giận dỗi, nguýt gã một cái: “Người ta còn có chuyện phải đi làm mà.”

Từ Tử Lăng cảm thấy hổ thẹn trong lòng. Việc Thạch Thanh Tuyền khẳng khái để mình ngủ trên giường của nàng thực đã bộc lộ rất nhiều tình ý. Gã ngập ngừng nói: “Là ta nghĩ bậy!” Nói ra khỏi miệng biết ngay là không thỏa đáng, lại không lấy về được.

Má ngọc đỏ bừng, Thạch Thanh Tuyền trừng mắt lườm gã quở trách, cúi đầu khẽ mắng được mỗi một tiếng: “Đồ hư!”

Từ Tử Lăng nghe mắng mà thần trí như bồng bềnh trên mây. Hẳn là hình ảnh nam hoan nữ ái hiện lên trước mắt. Hạnh phúc chưa từng nếm qua đang ở gần gã đến thế. Nếu như gã có thể vất bỏ mọi thứ, cùng nàng mãi mãi bên nhau thì đời người còn mong gì nữa?

Thạch Thanh Tuyền lấy lại vẻ đoan trang thanh nhã, khe khẽ thốt: “Sao không hỏi người ta phải đi làm chuyện gì?”

Từ Tử Lăng bất giác nảy sinh cảm giác lo lắng, liền hỏi: “Thanh Tuyền phải đi làm chuyện gì vậy?”

Thạch Thanh Tuyền chầm chậm cất tiếng: “Muội muốn đến Từ Hàng Tịnh Trai bái tế mẫu thân mình, sau đó quay về ẩn cư trọn đời.”

Từ Tử Lăng thắc mắc: “Sau khi Thanh Tuyền rời Tiểu Trúc, sao không đi thẳng tới Tịnh Trai.”

Bốn chữ Từ Hàng Tịnh Trai làm gợn lên bao đợt sóng trong lòng gã. Nơi ấy có Sư Phi Huyên gần như đã là của gã. Vào lúc này mà lại nghĩ tới người con gái khác từng khiến gã xiêu lòng thì đúng là tội lỗi không thể tha thứ.

Thạch Thanh Tuyền thông minh trong trắng vẫn bình thản như không, hoặc giả đã thấy những kích động trong lòng hắn, chỉ là không nói ra, điềm đạm bảo: “Ngốc tử!”

Từ Tử Lăng ngơ ngác hỏi: “Ngốc ở chỗ nào?”

Thạch Thanh Tuyền cười cười, hờn mát: “Người ta chính là sợ tên ngốc tử huynh tới trước, bởi vậy cố tình nhắn lại như thế để huynh khỏi hiểu lầm người ta gạt huynh. Hì! Nào ngờ lại gặp được huynh.”

Nhiệt huyết dâng trào, Từ Tử Lăng kích động thốt lên: “Thanh Tuyền!”

Ánh mắt tươi cười của Thạch Thanh Tuyền long lanh những tia thánh thiện, nàng dịu dàng nói: ”Tử Lăng không cần quay lại đây, bởi vì nơi này đã không còn là chốn đào nguyên lánh xa trần thế. Thanh Tuyền có lẽ sẽ về Tịnh Trai bồi phụng mẹ một thời gian. Ngày hạ sơn sẽ là lúc Thanh Tuyền đi tìm Tử Lăng huynh. Có lời nào thì để tới lúc đó sẽ nói tiếp, được không?”

Đoạn nàng từ từ đứng dậy, một tay cầm tiêu, một tay khoác bao hành lý lên vai, cúi nhìn gương mặt gã hồi lâu rồi nói thêm: “Mỗi cá nhân đều có gánh nặng và hành trang của mình, không thể vứt bỏ, cũng chẳng thể né tránh! Việc tối nay đã có an bài trong cõi u linh, Thanh Tuyền nào nghĩ sẽ gặp phải ông ta đâu? Xin Tử Lăng trân quý sinh mạng của mình để chúng ta còn có ngày tái kiến. Tử Lăng không cần tiễn muội. Kéo dài biệt ly chỉ càng thêm thương cảm. Đúng không?”

o0o

Thiếu Soái quân phát động đột kích trước bình minh nửa thời thần. Độc yên tiễn nối nhau bay vào ba khu doanh trại địch, khói độc thoát ra nhanh chóng khuếch tán, bao trùm cả dặm phương viên bên ngoài Thiên Thành Hiệp, địch nhân lập tức rối loạn. Dã tính của chiến mã bộc phát, hí điên cuồng nhảy loạn cả lên, khiến tình thế hỗn loạn không thể khống chế.

Do không hiểu khói độc có chết người hay không, địch nhân nháo nhào bỏ chạy tứ tán ra ngoài doanh trại, lực lượng phòng thủ phản kích hoàn toàn tan rã, lời tiên đoán về “miếng cá” của Bạt Phong Hàn trở thành sự thật.

Thiếu Soái quân mai phục bên ngoài phạm vi có khói thừa thế lập trận tập kích, đánh giết không thương tiếc đám địch nhân vừa thoát khỏi khói độc, tàn nhẫn đập tan đấu chí và thực lực của đối phương. Đợi khói độc tiêu tan, Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn đích thân dẫn ba ngàn kỵ binh xông đến tấn công những nơi địch nhân tụ tập, mặc sức tung hoành ngang dọc cho đến khi địch nhân bỏ chạy tứ tán, quân sĩ tan rã. Khi Bạt Dã Cương và Hình Nguyên Chân dẫn hai ngàn kỵ binh từ trong hạp đạo xuất chiến, Khuất Đột Thông cuối cùng đành hạ lệnh rút lui, nhắm hướng tây bỏ chạy.

Sau khi hội quân cùng Bạt Dã Cương, Khấu Trọng tiếp tục truy sát tàn binh của địch nhân trên mười dặm giết hơn ngàn tên. Giành toàn thắng, giải tỏa uy hiếp phía nam lộ.

Trên đường trở về Khấu Trọng vẫn không cam lòng: “Nếu không phải quân binh của Lý Thế Dân đã áp sát bắc lộ, bọn ta thừa thế truy kích, tất có thể đoạt được Tương Dương, xoay chuyển được toàn bộ tình thế.”

Bạt Phong Hàn đáp: “Địch nhân tuy thương vong trầm trọng, nhưng bại mà không loạn, còn đủ khả năng vừa vận động vừa chấn chỉnh quân ngũ. Chúng ta một khi buông được thì cứ buông.”

Bạt Dã Cương cưỡi ngựa thong dong đi bên cạnh cũng đồng ý: “Đại quân Lý Thế Dân đã đến, đang chuẩn bị tấn công sơn trại ở bắc lộ, thanh thế rất rầm rộ. Nếu sơn trại thất thủ, mọi việc sẽ hỏng hết.”

Hình Nguyên Chân từ phía sau lên tiếng: “Chúng ta bắt buộc phải tranh thủ thời gian kiến thiết doanh lũy ngoài nam lộ, đề phòng một lần nữa bị địch nhân phong tỏa lối thoát phía sau.”

Khấu Trọng cười nói: “Lời ba vị rất xác đáng. Ta đã bị chiến thắng làm mất tỉnh táo. Ha ha! Điều tuyệt diệu nhất hôm nay là đoạt được một số lượng lớn chiến mã, binh khí, cung tên và lương thực. Cộng với quân nhu vừa vận chuyển tới, có lẽ đủ cho chúng ta dùng vài năm. Ha ha! Ta được lợi quá nhiều!”

Thành quả chiến thắng của bọn họ là lúc này, phía trước xuất khẩu nam lộ hoàn toàn không còn bóng dáng lều trại Đường quân. Các xe lừa của đoàn quân tiếp viện chở nặng lương thảo và binh khí, nối nhau thành một hàng dài, lục đục tiến vào hạp đạo. Trần Lão Mưu tinh thần phấn khởi chỉ huy đại cục.

Bọn Khấu Trọng vừa nhảy xuống ngựa, Trần Lão Mưu liền bước ra nghênh đón, hớn hở nói: “Cái này gọi là trời không tuyệt đường người. Chúng ta thành công rồi!”

Khấu Trọng vừa định lên tiếng, bỗng có tiếng vó ngựa gấp rút vang lên, một chiến sĩ mặt mày tái nhợt thở hổn hển dùng hết tốc lực từ phía tây phóng tới, vừa lăn xuống lưng ngựa vừa hoảng hốt báo cáo: “Thiếu soái, không xong rồi! Mặt tây xuất hiện một cánh quân Đường lên đến cả vạn bộ đội, đang tiến thẳng về hướng bọn thuộc hạ.”

Bọn Khấu Trọng ai nấy vô cùng kinh ngạc.

Bạt Dã Cương trầm giọng hỏi: “Chúng cách ta bao xa?”

Người chiến sĩ đáp: “Chỉ chừng năm dặm.”

Chúng nhân đưa mắt nhìn nhau. Vừa mới đại chiến xong, người ngựa mỏi mệt, thật không thể nào đón đánh địch nhân với lực lượng quá hùng hậu.

Khấu Trọng quyết định chớp nhoáng lên tiếng: “Lập tức điều động tất cả nhân thủ. Có bao nhiêu vào trong hạp hết bấy nhiêu.”

Trần Lão Mưu không nói một lời, lãnh lệnh đi ra.

Bạt Phong Hàn thở dài: “Cái này gọi là đại hạnh trong bất hạnh. Nếu đám hậu quân còn sung sức kia mà tới sớm nửa thời thần, ắt hẳn đến phiên bọn ta không thể thoát thân.”

Khấu Trọng chán nản thốt lên: “Tốn sức chín trâu hai cọp, nghìn cay vạn khổ mới giải tỏa được nam lộ thì trong nháy mắt, thành quả chiến thắng lại bị địch nhân cướp mất.”

Bạt Phong Hàn an ủi: “Ít ra quân tăng viện vào được Thiên Thành hạp, hơn nữa còn đoạt được một lượng lớn vật tư của địch nhân. Bọn ta cứ cùng Lý Thế Dân đánh một trận công thủ chiến, để xem quân Đại Đường lợi hại hay là Thiếu Soái quân của bọn ta cứng rắn?”

Khấu Trọng cười khổ: “Còn có chọn lựa khác sao?”

Trước hiện tại tàn khốc, niềm vui chiến thắng tiêu tan như mây bay khói tỏa, chẳng còn một chút dư âm nào.

- o O o -

HỒI 678

Một Hữu Phá Trán

Thạch Thanh Tuyền đi rồi, Từ Tử Lăng vẫn ngồi lại trên tảng đá hành công, không những chân nguyên đã hồi phục hoàn toàn, mà còn bước sang một cảnh giới mới, tâm linh trong trẻo, thông suốt tự tại.

Khi gã mở mắt ra, mặt trời đã lên đến đỉnh đầu, mây trĩu xuống từng lớp, gió tây bắc hun hút thổi, khiến ai nấy đều cảm thấy thu sắp qua đi, đông lạnh tràn về.

Gã rời khỏi tảng đá, bước lần xuống núi, cách căn nhà nhỏ chừng hơn năm trăm bước bỗng cảm giác trong nhà có người.

Rốt cuộc là ai nhỉ? Chắc chắn không phải Hầu Hi Bạch rồi, không mười ngày cũng phải tám ngày, mới mong Đa Tình Công Tử hoàn thành việc mà gã đã ủy thác.

Gã lập tức biết ngay đáp án! Thạch Chi Hiên đứng sau song cửa, chăm chú quan sát tảng đá, nơi gã và Thạch Thanh Tuyền tâm sự, làm như tảng đá đó thật sự “tồn tại” vậy, hơn nữa còn toàn tâm toàn ý quan thưởng. Gã cảm giác được vào lúc này Thạch Chi Hiên không hề có mảy may ác niệm.

Tiếng tiêu đêm qua của Thạch Thanh Tuyền đã đánh đúng vào nhược điểm trí mạng của vị đệ nhất cao thủ trong Ma môn này.

Gã bước vào nhà, đến sau lưng Thạch Chi Hiên, lãnh đạm nói: “Tà vương ngài đã không có can đảm đối diện, sao đã đi rồi mà còn quay lại?”

Thạch Chi Hiên không đáp thẳng: “Tiêu nghệ của Thanh Tuyền còn vượt cả mẫu thân, thật khiến người ta khó tin. Nếu không phải tận tai nghe qua, ta cũng chẳng tin, ngay Tử Lăng ngươi chắc cũng không tin có ai thổi tiêu hay hơn Thanh Tuyền? Đó không còn là thổi tiêu, mà là thiền cảnh của âm nhạc!”

Từ Tử Lăng nghe lão nói mà thầm bội phục. Thạch Chi Hiên có lẽ là cao thủ siêu quần bạt tụy nhất của Ma môn từ trước đến nay, ngay cả nhân vật kiệt xuất như Loan Loan cũng không thể hơn được. Nếu không phải hai tay lão dính đầy máu tanh, tàn hại giang hồ, là mối họa hại cho dân cho nước thì chỉ riêng kiến thức và lịch duyệt của lão cũng đủ khiến người ta phải phục sát đất. Vừa rồi, lão bình luận về tiêu nghệ của Thạch Thanh Tuyền, vài ba lời lời đã chỉ ra ngay chỗ tinh yếu.

Gã mỉm cười: “Thì ra Tà vương vẫn ở quanh đây.”

Thạch Chi Hiên quay đầu nhìn gã, dịu giọng nói: “Lần này Tử Lăng ngươi phải tin lời ta, nếu ngươi không nghe ra được tình ý trong tiếng tiêu, thì nên về quê cày ruộng cho rồi.”

Từ Tử Lăng ngẩn người: “Tình ý?”

Thạch Chi Hiên cười rộ: “Thì ra Tử Lăng đúng là một gã ngốc, Thanh Tuyền, con quả đã phí tâm cơ vô ích!”

Từ Tử Lăng sửng sốt: “Thì ra Tà vương đã lén nghe tại hạ và Thanh Tuyền nói chuyện.”

Thạch Chi Hiên không hề bối rối: “Không phải là nghe lén mà là nghe được, nhưng cũng đúng là ta luôn để mắt tới nó. Ta vẫn nhớ lần đầu tiên gặp lại khi nó đã trưởng thành, nó thừa hưởng đủ các phẩm chất ưu tú của mẫu thân, hơn hẳn ở nét tinh nghịch, nên mọi ưu điểm của Tú Tâm càng được bộc lộ sinh động hoạt bát. Nói thật, có lẽ ngươi cũng biết mình chưa phải là tri âm của nó.”

Từ Tử Lăng lấy lại vẻ lãnh đạm, thản nhiên nói: “Tà vương sao lại quan tâm đến việc này như thế?”

Thạch Chi Hiên ngó ra ngoài song cửa ngắm cánh đồng cuối thu se sắt, ánh mắt thoáng mờ đi, khẽ nói: “Chỉ vì ta hy vọng kẻ làm cha này có thể tận tâm tận sức lo cho tương lai hạnh phúc của con gái. So với việc thống nhất Ma môn, thống nhất thiên hạ, việc ấy còn quan trọng hơn. Ta nguyện đổi bất cứ thứ gì lấy hạnh phúc của Thanh Tuyền, Từ Tử Lăng ngươi là nam nhân duy nhất trên thế gian này có thể khiến nó động lòng, nên Thạch mỗ mới đem việc này nói với ngươi, đã hiểu chưa?”

Từ Tử Lăng cười khổ: “Đây là lần đầu tại hạ cảm thấy lão nhân gia người nói lời thật lòng, tại hạ không cần phải nghi thần nghi quỷ nữa.”

Thạch Chi Hiên ủ rũ: “Thanh Tuyền khiến ta rất đỗi tự hào, lẽ ra ta không nên ngầm theo dõi nó. Tú Tâm à, rốt cuộc ta đã thua nàng rồi! Nàng có biết đã buộc ta phải tâm phục, thua mà vẫn vui lòng!”

Từ Tử Lăng sững sờ, chẳng lẽ Thạch Chi Hiên đang nảy sinh ý muốn thoái ẩn giang hồ, nhưng gã lại mơ hồ cảm thấy không phải như vậy.

Thạch Chi Hiên thoáng nhếch một nụ cười cay đắng: “Tử Lăng chắc cũng đã biết Lý Thế Dân suýt chút nữa đã mất Lạc Dương trong trận này rồi chứ?”

Gã lại cảm thấy Thạch Chi Hiên quả là thâm sâu khó lường, lão bất chợt quay ngoắt sang đề tài khác, khiến gã nhất thời không biết trả lời thế nào.

Thạch Chi Hiên đã hoàn toàn lấy lại bình tĩnh, mắt lão đỏ ngầu, trầm giọng: “Thời điểm khó khăn nhất của Lý Thế Dân là lúc Lạc Dương còn chưa bị phá, Kiến Đức vượt qua Hoàng Hà tràn xuống phía nam, mọi người kể cả Lý Uyên đều cho rằng y nên bỏ kế hoạch công thành mà lui binh, chỉ riêng mình y gạt bỏ ý kiến chung, lại còn nói ai dám mở miệng đề xuất chuyện lui binh lần nữa sẽ bị chém đầu. Y rõ ràng là tướng tài hiếm có, tiếc rằng hãy còn có Khấu Trọng.”

Từ Tử Lăng cười khổ: “Tà vương có quá đề cao Khấu Trọng mà nói thế không? Từ lúc đầu hắn đã phải chịu trận, đến giờ vẫn chưa đủ khả năng đánh trả.”

Thạch Chi Hiên thản nhiên nói: “Đó là vì Khấu Trọng không có được xuất thân hiển hách, càng không có hậu thuẫn mạnh mẽ và bộ phận quân binh nòng cốt hùng hậu. Hiện tại hắn đã lấp đầy những khiếm khuyết trọng yếu đó rồi.”

Từ Tử Lăng thở dài: “Nếu Tà vương định ám chỉ đại quân của Tống Khuyết và Thiếu Soái quân của Khấu Trọng, thì Tống Khuyết nước xa khó cứu được lửa gần, còn Khấu Trọng lại mắc kẹt trên hai chiến tuyến khác nhau, đang nỗ lực tự cứu, có thể bị tiêu diệt bất cứ lúc nào.”

Thạch Chi Hiên hừ khẽ: “Các ngươi trong cuộc nên không thấy, ta đứng ngoài nên nhìn rõ, nếu nói về tài năng quân sự, thiên hạ ai mà chẳng e dè Tống Khuyết. Thiên Đao tuyệt không để Lý Thế Dân bắt Khấu Trọng làm thịt đâu, hắn để Khấu Trọng một mình chống đỡ đại cục ở phương Bắc là muốn bồi dưỡng khả năng đối kháng với nhân vật phi phàm như Lý Thế Dân để tạo lập hình tượng và thanh thế của bậc tướng soái vô địch cho gã. Khi Lý Thế Dân bị ép phải thoái lui về thủ ở Lạc Dương, Hoàng Hà thì với uy thế của Tống Khuyết cùng danh tiếng vang lừng của Khấu Trọng, trấn thành nào dọc hai bờ Trường Giang dám đi ngược thời thế? Dụng binh dùng mưu, hàng phục người mà không cần chiến đấu mới là sách lược cao minh hơn hết.”

Từ Tử Lăng dậy sóng trong lòng, tầm nhìn của Thạch Chi Hiên quả nhiên độc đáo, kiến thức cũng hơn hẳn gã. Gã tuy biết Tống Khuyết muốn bồi dưỡng Khấu Trọng thành tài bằng cách riêng, nên ép Khấu Trọng đến đường cùng, để gã tự tìm đường sống, nhưng không nghĩ đến những dụng ý sâu xa khác.

Thạch Chi Hiên nói tiếp “Nếu điều đó xảy ra, Từ Hàng Tịnh Trai chắc chắn sẽ chen vào cuộc chiến giữa song phương, bởi Khấu Trọng có được sự phối hợp của Tống Khuyết, Lý Thế Dân chỉ còn nước thất bại. Thành bại lúc đó chính là có chiếm được Lạc Dương hay không, Lạc Dương mà thất thủ, Lý phiệt sẽ mất cả thiên hạ.

Từ Tử Lăng lấy làm ngạc nhiên: “Trong tình hình như thế, Từ Hàng Tịnh Trai có thể làm được gì?”

Thạch Chi Hiên lắc đầu nói “Ta cũng không rõ. Nhưng Phạm Thanh Huệ đã hết cách rồi. Một khi hình thành cục diện Nam Bắc đối trọng, Hiệt Lợi vốn đã chuẩn bị đầy đủ tất sẽ thừa cơ chen vào, gây loạn Trung thổ, đó cũng là điều Phạm Thanh Huệ không muốn nhìn thấy. Hảo đồ đệ ả dạy ra tùy ý vung vẩy mà đã lật ngược thế cờ tuyệt diệu do Thạch mỗ vất vả kiến tạo. Đến khi Thánh môn của ta trăm cay ngàn đắng mới chiếm thượng phong thì lại bị Khấu Trọng và Tống Khuyết phá cho tan tành.”

Từ Tử Lăng trầm giọng: “Tà vương cớ sao lại kể cho tại hạ nghe những việc này?”

Thạch Chi Hiên quay nhìn hắn, mỉm cười: “Tình thế hiện tại đã phát triển vượt quả khả năng khống chế của Thánh môn chúng ta, Tử Lăng ngươi cũng đã trở thành một nhân vật có ảnh hưởng lớn đến song phương. Ta phân tích tình hình cho ngươi biết là mong ngươi có thể trụ thân ngoài vòng phân tranh này, cùng Thanh Tuyền sống những ngày tháng thoái ẩn, điền viên tự tại. Cho dù ngươi có trợ thủ cho phe nào thì phe còn lại cũng sẽ bị tổn thương. Nếu đã như vậy, sao không bỏ tất cả, nắm giữ lấy sinh mạng mong manh. Thạch mỗ đã cạn lời, Tử Lăng hãy tự liệu.”

Rồi cất lên tiếng cười, ung dung cất bước.

Từ Tử Lăng lại nảy sinh cảm giác sắp có nguy cơ, Thạch Thanh Tuyền quả thật là điểm yếu duy nhất của Thạch Chi Hiên. Lão chỉ cần nhìn trộm nàng một lúc, “lắng nghe” cuộc đối thoại của gã và nàng mà từ một hung nhân cái thế trở thành từ phụ sẵn sàng hy sinh cho nữ nhi. Lão cũng nhanh chóng thoát khỏi tâm chướng, gạt đi đau khổ và hối hận mà đặt mọi hy vọng vào nhi nữ, thổ lộ những lời chân thành với gã.

Ngoài ra, lão không còn điểm yếu nào khác.

Gã lặng lẽ thở dài, lấy lại tinh thần rồi viết cho Hầu Hi Bạch vài lời nhắn, sau đó bỏ đi.

o0o

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn đứng trên bức tường vây quanh sơn trại, mắt thấy trận thế khủng khiếp của Đường quân mà rợn tóc gáy.

Cho dù tưởng tượng phong phú đến đâu cũng không mường tượng được ưu thế áp đảo hoàn toàn của đối phương như được tận mắt chứng kiến. Tuy nói tình hình Lạc Dương lại tái hiện, nhưng lúc trước Lạc Dương thành cao tường rộng, đủ khả năng phòng ngự với mọi công kích. Đằng này bức tường bọc quanh sơn trại chỉ cao hai trượng, dày năm thước, e rằng ko chịu nổi một đòn của đối phương. Đối phương người đông thế mạnh, chỉ cần vài canh giờ là sẽ bị san thành bình địa ba lớp hào phía ngoài, đương nhiên ko thể coi là chướng ngại.

Binh lực Đường quân khoảng năm, sáu vạn người, lập trại trên vùng đồi núi rộng lớn đối diện sơn trại, kéo dài đến hơn mười dặm, cờ bay phấp phới, doanh trướng như rừng, quân dung bừng bừng, uy thế ngút trời.

Chỉ mất một ngày một đêm, cây cối trong vòng mười dặm quanh sơn trại đã bị đốn sạch sẽ để chế tạo công cụ tấn công trại. Hàng ngàn thang mây, xe húc, xe chống cung tên, Hà Mô xa để lấp hào, máy bắn đá, máy bắn tên được đẩy tới cách sơn trại khoảng hai ngàn bước. Các loại khí giới tấn công khác cũng lục tục kéo đến. Đường quân luân phiên bảo vệ ngay sau xa trận, phòng ngừa Thiếu Soái quân đột kích.

Lợi hại luôn song hành, sơn trại tuy dễ phòng thủ nhưng địch nhân cũng dễ dàng phong tỏa và tập trung lực lượng công kích. Nếu hậu phương chưa bị cắt đứt đường thoái lui thì còn có thể rút đi an toàn nhưng giờ khác nào ba ba trong rọ, chỉ còn cách kháng cự tới cùng.

Bạt Phong Hàn cười khổ: “Đệ có chắc là phá được Mộc Lư xa của đối phương không?”

Mộc lư xa mà Từ Tử Lăng từng sử dụng trong trận chiến vượt hào ngoài thành Lạc Dương ngày đó, có tên gọi khác là Đáng tiễn vận binh xa (có chức năng che chắn tên cho quân binh tiến lên công kích), di chuyển bằng bốn bánh, hình dáng như một ngôi nhà nhỏ, mái chóp nhọn được chế tạo bằng gỗ, bên ngoài phủ da bò để chống lửa đốt, bên trong chứa được khoảng trên bảy chục binh sĩ. Lúc công thành Lạc Dương do trên thành có máy bắn đá cỡ lớn nên Mộc lư xa không phát huy hết tác dụng nhưng với sơn trại đơn giản này thì dễ dàng hơn nhiều.

Khi Mộc lư xa đạp vào thành trại sẽ phá vỡ một lỗ hổng, binh sĩ trong xe sẽ tuôn vào trại như ong vỡ tổ, Thiếu Soái quân chắc chắn sẽ bị kết liễu.

Khấu Trọng lắc đầu, tỏ vẻ bất lực, trầm giọng: “Mọi bố trí của Lý tiểu tử đều được thiết kế nhằm vào Thích Nhật và Xạ Nguyệt của bọn ta. Chỉ với lỗ thuẫn đã có thể chống lại kình tiễn từ thần cung.”

Lỗ thuẫn là loại thuẫn lớn nhất, được tạo thành từ chất liệu gỗ kiên cố, phía dưới có mũi nhọn, cắm sâu vào đất gia tăng lực phòng ngự. Toán Đường quân trấn giữ tiền tuyến dựng đứng mười mấy tấm Lỗ thuẫn trước mặt, binh sĩ đứng sau diễu võ dương oai, cố tình kích động Khấu Trọng.

Bạt Phong Hàn hầm hừ: “Đệ mau nghĩ cách, đừng nghĩ chuyện gì khác nữa, một khi Lý Thế Dân phát động công kích, trận thế sẽ như lôi đình vạn quân, ngày đêm liên miên cho đến khi chúng ta ngã gục hẳn. ”

Khấu Trọng cười khổ: “Cái đầu nhỏ của đệ dường như không còn nghe lời nữa. Chết tiệt, sao Lý tiểu tử đó cứ đè đúng chỗ mà đập?”

Bạt Phong Hàn lên tiếng: “Hắn đã chiếm được ưu thế, muốn làm gì chả được. Bây giờ tuy bọn ta binh lực thua sút, lương thảo không thiếu nhưng thành trại không thể chịu đựng lâu. Nếu đã không thể đấu lực thì phải đấu trí.

Khấu Trọng nhíu mày: “Tình thế bây giờ rõ ràng phải đánh một trận khốc liệt, thắng ăn cả ngã về không. Ôi! Bọn ta có thể dùng hỏa du đạn đốt rụi xa trận của Lý tiểu tử, giữ chân con mẹ nó vài ngày không?”

Trong chiến dịch Nam lộ tối qua, bọn gã chỉ dùng độc yên tiễn, nhưng vẫn còn dư hơn ba trăm cây, năm trăm hỏa du đạn và tám trăm độc yên địa pháo. Tuy nhiên, dù đốt phá được xa trận của đối phương thì với địa thế rừng núi hỗ trợ, đối phương chỉ cần vài ngày là chế tạo được một lượng lớn chiến xa khác. Do đó Khấu Trọng mới nói như vậy.

Bạt Phong Hàn ngẩng đầu nhìn trời, chậm rãi nói: “Đây tạm thời là cách tốt nhất chúng ta có thể nghĩ tới. Giữ chân được ngày nào hay ngày đó, đến lúc không chừng sẽ có cơ may khác. Trận đại tuyết đầu tiên của mùa đông sắp đến, mặt đất phủ đầy tuyết sẽ là điểm bất lợi khá lớn cho việc tiến công của Lý tiểu tử.

Khấu Trọng quay nhìn hình thế xa trận, khẽ cười: “Lý tiểu tử sớm đoán được ta có thể sẽ quan sát nên cho người phòng thủ nghiêm mật sau xa trận, cố tình đứng cách xa hơn hai ngàn bước. Chỉ cần chúng ta xua quân công trận, binh sĩ phòng thủ sẽ lập tức nghênh chiến. Cũng may hắn có quả quýt dày, ta có móng tay nhọn. Cứ để huynh đệ bọn ta thân chinh xuất kích, gắn hỏa du đạn vào tên, đốt lửa rồi dùng thần cung bắn phá, cự ly này cũng có sao?”

Bạt Phong Hàn mỉm cười: “Hảo kế! Không ngờ được sống thêm vài ngày lại khiến người ta trở nên phấn khích như vậy.”

Khấu Trọng cười mắng: “Con bà ngươi, Khấu Trọng ta tuyệt đối không chịu thua. Chỉ với Độc yên tiễn, hỏa du đạn và Độc mù địa pháo là đủ để chúng ta chờ đến Đại tuyết. Hy vọng bản lĩnh xem khí tượng của lão ca có thể trở thành sư phụ ta, bởi ta không dám chắc khi nào đại tuyết sẽ đến.

Ma Thường lúc này đến bên hai gã, lên tiếng: “Toán Đường quân phong tỏa Nam lộ xuất khẩu quả thực do Vương Quân Khuếch chỉ huy, Khuất Đột Thông theo sau, liên thủ với Vương Quân Khuếch vây chặt ngả nam lộ, binh lực khoảng hai vạn người.

Khấu Trọng cười ha hả: “Lý Thế Dân phái gần mười vạn quân đối phó với đạo quân chưa tới một vạn người của bọn ta, thật đáng tự hào. Trần công có đây không?”

Ma Thường lo lắng lướt nhìn quân thế địch nhân hùng hổ ngoài trại, trả lời: “Mưu lão đang nghĩ cách làm sao để tăng cường phòng ngự bên hẻm núi phía nam. Tuy rằng địch nhân không dám công vào hẻm núi đó nhưng cẩn tắc vô ưu.” Y định nói thêm nhưng lại thôi.

Bạt Phong Hàn ngạc nhiên: “Đến lúc này, mọi người sinh tử có nhau rồi mà vẫn còn điều gì khó nói sao?”

Ma Thường đáp: “Thuộc hạ sợ địch nhân dùng hỏa công.”

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn như lạc vào sương mù, phá trại dễ, đốt trại mới khó, cớ gì mà Ma Thường lại e sợ điều này?

Ma Thường liền lý giải: “Nói đúng hơn là Yên công. Thời tiết mùa này thường có gió thổi hướng bắc hay tây bắc hoặc gió đông bắc, chỉ cần địch nhân đốt rừng ở gần đây, khói mù sẽ theo gió mà xộc thẳng vào trại, làm nghẹt hẻm núi. Lúc đó chúng ta đành phải mạo hiểm đột vây, khác nào tự tìm đườn chết.”

Khấu Trọng hít một hơi dài: “Nỗi lo của Ma tướng quân quả có lý.”

Ma Thường nói tiếp: “Nếu bỏ thêm độc dược như tì sương vào mồi lửa thì tác hại sẽ còn khủng khiếp hơn.”

Bạt Phong Hàn rùng mình: “Ma tướng quân có thể liệu đến bước này ắt bậc nhân tài như Lý Thế Dân sẽ không bỏ qua. Thật khiến người ta đau đầu.”

Khấu Trọng gật gù: “Không chừng chúng đang vận chuyển độc dược đến, bọn ta phải nghĩ cách ứng phó.”

Ma Thường đề nghị: “Phía hẻm núi còn có cách, chỉ cần sai người phong bế, để khói mù bay lên trên cao ắt vô sự. Vấn đề là bên ngoài sơn trại không có gì che chắn, địch nhân có thể thừa lúc khói mù mịt mờ mà tiến công, chúng ta chắc chắn không chống đỡ nổi.”

“Cho dù toàn quân trốn vào hẻm núi để tránh khói nhưng sơn trại có nguy cơ bị san thành bình địa, vậy thà chạy sớm một chút.”

Khấu Trọng trầm ngâm: “Tình hình không tệ đến vậy chứ? Bọn ta có thể thừa lúc khói mù tỏa vào mà đặt sẵn độc yên địa pháo ngoài sơn trại, thừa cơ phản kích, không chừng còn có lợi hơn. Ta và lão Bạt đều không sợ khói độc, vấn đề là những người khác làm sao tránh khỏi, phải phiền Trần công nghĩ cách.”

Ánh mắt Bạt Phong Hàn nhìn về phía xa trận trải dài liên miên ngoài trại đoạn khôi phục vẻ bình tâm, ung dung nói: “Nếu Lý Thế Dân sử dụng hỏa công, điều kiện tiên quyết là giữ chặt xa trận tiền tuyến, nếu chúng ta có thể đại phá tuyến phòng ngự này, chiêu yên công ắt sẽ bị hoãn.”

Ma Thường ngạc nhiên: “Làm sao phá xa trận?”

Khấu Trọng giải thích: “Không chần chừ nữa, Ma tướng quân lập tức tuyển chọn một đội tiễn thủ tinh nhuệ, yểm hộ cho ta và lão Bạt, nhân lúc trời tối, bọn ta hành động ngay, đốt cho con mẹ nó cũng phải tan tành. Hỏa khí của Giang Nam nào phải thứ đồ chơi, ta sẽ cho hắn nếm mùi, để hắn biết Khấu Trọng ta không phải là kẻ dễ trêu vào.”

Bạt Phong Hàn ủng hộ: “Xem hình thế thì Lý Thế Dân sẽ công trại vào ngày mai, cho nên tối nay là cơ hội duy nhất của bọn ta.”

Ma Thường lĩnh lệnh lui ra, Bạt Phong Hàn cười nói: “Nhân tài đúng là nhân tài, Ma Thường không những gan góc, mà còn rất tỉ mỉ thận trọng, có thể ủy thác trọng trách.”

Khấu Trọng hỉ hả: “Y có thể giúp sức cho bọn ta, đúng là phúc khí của ta.”

Hai gã cẩn thận thương lương kế hoạch chi tiết hành sự buổi tối, Trần Lão Mưu xồng xộc đi tới, thần tình hưng phấn vỗ ngực nói: “Chuyện cỏn con này để lão phu lo.”

Hai gã mừng rỡ, vội vàng hỏi gặng.

Trần Lão Mưu tỏ vẻ cung kính, hạ giọng nới với vẻ thần bí: “Trong cuốn Lỗ đại sư chiến tranh, chương thứ 5 có đề cập đến thuật phòng độc yên là dùng vải bố tạo thành ống tròn, bên trong dung mộc giá chống đỡ, kết từng đoạn với nhau, một đầu thông đến nơi độc yên không bay đến được, đầu còn lại thông đến một mật thất. Mật thất này tuy phong tỏa tứ bề nhưng có lối thoát khí, dùng quạt thông gió vừa hút lấy không khí trong lành vào ống vừa thải độc khí ra ngoài, ắt ngăn được độc khí vào lọt mật thất. Phòng thải khí chính là chủ lầu của bọn ta, chỉ cần chỉnh sửa gia cố vài phần là ổn. Ống tròn dễ làm, lại thêm nhân thủ sung túc, ngày mai sẽ xong.

Khấu Trọng vui mừng: “Xin Trần công lập tức lo toan chuyện này.”

Trần Lão Mưu nhanh chóng rời khỏi.

Gã dang tay ôm lấy bả vai Bạt Phong Hàn: “Sống thêm một ngày hay một ngày, ồ! Sao vẫn chưa thấy tung tích của Tử Lăng nhỉ. Có gã ở đây tiểu đệ càng nắm chắc cơ hội đánh thắng trận này.”

- o O o -

Hồi 679

Lạo Đảo Nhai Đầu

  Vào lúc hoàng hôn, Từ Tử Lăng đeo mặt nạ của Cung Thần Xuân đi vào thành Tương Dương.

Việc phòng thủ thành Tương Dương rất nghiêm ngặt, mỗi buổi sáng chiều chỉ mở cửa thành trong nửa canh giờ, ai không có giấy thông hành đều không được vào, may mà Từ Tử Lăng vẫn còn giữ những giấy tờ giả đội lốt cao thủ mã cầu Khuông Văn Thông nên vào thành suông sẻ.

Bên trong, bên ngoài thành, khắp nơi đều trĩu nặng bầu không khí căng thẳng của chiến tranh, hơn mười doanh trại quân Đường đóng ở bên ngoài, còn dân chúng thì ở bên trong thành. Ở những nơi dễ nhìn thấy đều dán đầy các cáo thị thông báo giới nghiêm, các trạm kiểm soát được thiết lập trên các đường phố chính để kiểm tra người qua kẻ lại. Quân Đường thấy Từ Tử Lăng không mang theo vũ khí, ăn vận lịch sự giống như thế gia đệ tử, nên không làm khó dễ hắn.

Từ Tử Lăng đến đây không phải để gây sự làm loạn, gã cố ý mạo hiểm đến nơi trọng điểm chiến lược quân sự này, chính là để nghe ngóng tin tức về Khấu Trọng, bởi vì không có nơi nào tin tức linh thông hơn chốn thành thị rộng lớn liên thông bốn phương tám hướng này.

Đầu tiên, hắn tìm một khách sạn nghỉ chân, sau khi tắm rửa qua loa, đi ra đường mua cho mình hai bộ áo bằng vải gai cũ, luôn cả chiếc áo bông chống rét không tay, rồi mới chọn quán rượu lớn nhất dùng cơm tối.

Hơn hai mươi chiếc bàn bày ra chỉ có bảy, tám bàn là có khách ngồi, thực phòng vắng vẻ đìu hiu. May mà thực khách của năm bàn trong số đó đều lấy những việc liên quan đến chiến tranh làm đề tài bàn thảo, t6ât cả không ngoài việc Đậu Kiến Đức thua trận bị chết, Lạc Dương thất thủ và các cuộc đụng độ giữa quân Đường và Thiếu Soái quân, đáng tiếc là tin tức của mọi người đều là tin đồn, phóng đại không thật. Đến khi Từ Tử Lăng ăn đã no sắp sửa rời quán, vẫn chưa nghe được tin tức nào có căn cứ.

Lúc ấy chợt vọng vào tiếng quát nạt từ ngoài cửa lớn, Từ Tử Lăng nhìn ra ngoài thì thấy hai tên hầu bàn đang co kéo một nam nhân cao lêu nghêu, đầu tóc bù xù dơ bẩn, áo khoác tả tơi như hành khất, đẩy hắn ta ra cửa một cách thô bạo, một tên oang oang tuông những lời thô tục, nói lớn: “Mười tám đời đại tổ tông ngươi, tiền rượu kỳ trước chưa trả, giờ lại đến quấy rầy, đánh ngươi như vậy chưa đủ à?“

Một người khách ngồi ở bàn khác cười, nói: “Người điên thực không đơn giản, không cần biết đánh hắn tàn nhẫn ra sao, sau hai ngày lại tựa như không có gì.“

Từ Tử Lăng toàn thân chấn động, liền đứng dậy, quát to: “Để hắn vào, hắn là bằng hữu của ta.“

Ai nấy nghe vậy đều ngạc nhiên.

Hai tên hầu bàn cùng lúc quay đầu lại, xăm xăm nhìn Từ Tử Lăng từ đầu đến chân, hiển nhiên ấm ức trong lòng, muốn xem xem gã là loại người gì.

“Cạch!“

Từ Tử Lăng thuận tay lấy ra một lạng vàng đặt xuống mặt bàn, trầm giọng: “‘Thái Hành Song Kiệt‘ Khuông Văn Thông ta không phải là kẻ dễ trêu vào đâu. Chớ có rượu mời không uống lại uống rượu phạt, nếu ngươi không biết ta, có thể đến Trường An mở mang kiến thức. Hừ, đĩnh vàng này trả nợ cho bằng hữu của ta và bữa cơm hôm nay.“

Hai tên hầu bàn lập tức hòa hoãn, tránh ra hai bên, người cao gầy đi không vững ngả vào cánh cửa, tựa như chẳng hề biết Từ Tử Lăng vừa giải vây cho hắn, ngồi xuống chiếc bàn gần cửa nhất, vổ lên bàn kêu to: “Mang rượu lại!“

Từ Tử Lăng nhìn mà xót xa, không thèm để ý hai tên hầu bàn đang giành lấy đĩnh vàng, quát lớn: “Mang ra cho ta bình rượu hảo hạng nhất.“ Rồi đi đến bên người cao gầy ngồi xuống, nói nhỏ: “Âm huynh! Là ta, Từ Tử Lăng!“

Kẻ như người ăn mày khốn khổ không nơi cư ngụ không ngờ chính là Âm Hiển Hạc đã mất biệt tung tích sau khi chia tay ở Long Tuyền, chẳng còn chút phong độ nào của Điệp công tử ngày trước, không những đã mất đi bội kiếm, mà mặt mũi còn tím bầm sưng vù, chứng tỏ đã bị người ta đánh đập rất nhiều.

Âm Hiển Hạc nghe xong giật mình, hồi phục được thần trí ngày xưa một chút, nhưng ánh mắt vẫn lạc lõng, mông lung.

Từ Tử Lăng khẽ đưa tay, nắm lấy cánh tay dơ bẩn đầy bùn sình của hắn, đẩy chân khí vào, gã phát giác tạp khí lưu hành hỗn loạn trong kinh mạch hắn, rõ ràng là triệu chứng tẩu hỏa nhập ma.

Từ Tử Lăng biết ngay Âm Hiển Nhạc vì muội tử Âm Tiểu Kỷ rất có thể lưu lạc làm ca kỹ, không cách nào chấp nhận sự thật tàn khốc này, lại thêm vào uống rượu quá độ, cuối cùng đã hóa điên.

Hai tên hầu bàn cung cung kính kính mang ra vò rượu Phần Tử lớn rồi rót rượu ra bát cho hai người, luôn mồm nịnh nọt đại gia thế này, đại gia thế khác, sau đó mới chịu lui ra.

Âm Hiển Hạc đưa tay muốn cầm vò rượu, Từ Tử Lăng nói nhỏ: “Tiểu Kỷ đã thoát được ma chưởng!“

Âm Hiển Hạc giật mình, hai mắt có hồn một chút, chằm chặp nhìn sang Từ Tử Lăng.

Từ Tử Lăng nắm lấy thời cơ tăng cường vận công, giúp chân khí đang hỗn loạn trong kinh mạch hắn đi vào quỹ đạo.

Giọng run run Âm Hiển Hạc nói: “Tiểu Kỷ?“

Từ Tử Lăng thầm kêu may mắn, tâm bệnh cần phải chữa bằng tâm dược. Nếu không phải gã từ vợ chồng Hàn Trạch Nam nghe những tin tức chính xác có liên quan đến Âm Tiểu Kỷ, thì lúc này đã không thể giúp thần trí Âm Hiển Hạc hồi phục trở lại.

Gã tiếp: “Âm huynh! Tiểu đệ là Từ Tử Lăng, bộ mặt huynh đang thấy là giả.“

Âm Hiển Hạc chớp mắt không ngừng, nhíu mày lẩm bẩm: “Từ Tử Lăng? Từ Tử Lăng?“ Bỗng nhiên trừng mắt nhìn bốn phía, hoảng sợ nói: “Đây là đâu?“

Từ Tử Lăng buông tay hắn ra, thở phào nhẹ nhõm: “Âm huynh đã hồi phục rồi! Mọi sự có thể yên tâm được rồi.“

o0o

Bọn người Khấu Trọng nghỉ ngơi dưỡng sức trong sơn trại.

Gã đã cùng Bạt Dã Cương, Hình Nguyên Chân, Ma Thường, Vương Huyền Thứ nghiên cứu kỹ lưỡng, tất cả đều đồng ý và quyết định sẽ xuất quân đánh một trận lớn, để giảm bớt nhuệ khí của Lý Thế Dân.

Khấu Trọng đang được thủ hạ khoác lên người bộ chiến giáp do Tuyên Vĩnh sai thợ khéo đặc chế, chợt nghe Tiểu Hạc Nhi bên cạnh thốt: “Đại ca đúng là thiên tướng giáng trần.“

Khấu Trọng lúc ấy mới nhớ đến nàng ta, mà phải nhờ nàng nhắc nhở, thầm tự trách mình quá vô tâm, trong đầu chỉ nghĩ đến chuyện phóng hỏa giết người, lại nghĩ lỡ sơn trại bị phá, Tiểu Hạc Nhi khó mà toàn mạng, cười nói: “Tiểu muội tử đến trước mặt ta để ta nhìn cái.“

Các thủ hạ có mặt đều vô cùng ngạc nhiên, bây giờ mới biết Tiểu Hạc Nhi là nữ mặc nam trang.

Tiểu Hạc Nhi mặt ửng hồng đến trước mặt gã, vừa mừng vừa giận nói: “Đại ca vạch trần bí mật của người ta.“

Khấu Trọng áy náy nói: “Là đại ca sơ ý, nhưng mà con dâu xấu cuối cùng cũng gặp cha chồng, huống chi muội tử trông đẹp thế này? Tiểu muội tử có hứng thú lưu lại vui đùa trong Thiếu Soái quân của ta hay không?“

Tiểu Hạc Nhi quên vẻ thẹn thùng, mừng rỡ nhảy lên: “Muội có thể giúp huynh làm chuyện gì?“

Khấu Trọng vẫy tay kêu kẻ giữ Vô Danh đi lại, nói: “Đây là con mắt trên trời của Thiếu Soái quân chúng ta, an nguy của nó đều có liên hệ đến tồn vong của toàn quân, bây giờ giao cho muội chăm sóc nó.“

Tiểu Hạc Nhi chẳng sợ hãi chút nào trước hình dáng hung mãnh của Vô Danh, thấy Khấu Trọng đang âu yếm vuốt ve bộ lông xám lấp lánh trên lưng của nó, nàng bèn hạ giọng hỏi nhỏ: “Muội có thể sờ nó không?“

Khấu Trọng vươn người đứng dậy đến bên cạnh chỉ nàng cách ra lệnh và cách cho chim ưng ăn. Tiểu Hạc Nhi vốn dĩ thông minh nên học hỏi rất nhanh, nàng yêu thích con chim ưng đến nỗi không nỡ rời tay.

Khấu Trọng thấy Vô Danh cũng không phản đối Tiểu Hạc Nhi bèn cầm Vô Danh giao cho nàng, rồi quay về hội họp với bọn Bạt Phong Hàn, chuẩn bị xuất phát.

Vương Huyền Thứ dẫn hai thớt ngựa đến cạnh hai người, nói nhỏ: “Huyền Thứ sẽ giữ sơn trại an toàn, chúc Thiếu soái xuất quân toàn thắng.“

Khấu Trọng dặn dò: “Nhớ chăm sóc chu đáo tiểu muội tử của ta.“

Khuôn mặt tuấn tú của Vương Huyền Thứ tự dưng ửng hồng, hắn gật đầu đáp ứng.

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn phóng mình lên ngựa, phi thẳng ra cổng trại.

Ba hàng, mỗi hàng hai ngàn binh sĩ, lần lượt do Hình Nguyên Chân, Ma Thường và Bạt Dã Cương thống lĩnh, tập trung ở khoảng đất trước cổng trại sẵn sàng chiến đấu.

Trời nhá nhem tối, trong sơn trại dùng lửa soi sáng, lửa hồng bập bùng lung lay trong gió lạnh, càng làm tăng thêm bầu không khí chiến tranh sát phạt.

Trong đó, hai đạo quân do lính bắn tên, lính cầm mâu thuẩn và kỵ binh hợp thành, phía trước có một ngàn người, phía sau chia làm hai nhóm, mỗi nhóm năm trăm người, lấy phòng thủ là chính.

Khấu Trọng truyền lệnh một tiếng, trống trận vang rền, cổng trại được mở ra. Khấu Trọng hô lớn: “Hỡi các binh sĩ! Tối nay chúng ta sẽ biểu diễn cho bọn chúng biết sự lợi hại của Thiếu Soái quân chúng ta.“

Ba quân và lính giữ trại cùng hét vang, sĩ khí ngùn ngụt.

Khấu Trọng cười ha hả một tiếng, cùng Bạt Phong Hàn dẫn đầu xuất trại.

Bên phía địch tiếng tù và vang dội, tiếng vó ngựa ầm ầm, cho thấy Lý Thế Dân đã có phản ứng, điều động quân đội, gấp rút bố trí.

o0o

Trong gian phòng khách sạn, Âm Hiển Hạc đã phục hồi thần trí, lập cập nói: “Chuyện cuối cùng ta nhớ đã làm là ngồi thuyền đi Trường An, ôi, sao lại hồ đồ đi tới nơi này chứ.“

Từ Tử Lăng an ủi: “Mọi chuyện đã thuộc về quá khứ, Âm huynh không nên lo lắng quá. Trước hết Âm huynh tắm rửa, thay y phục. Rồi chúng ta thảnh thơi nói chuyện.“

Âm Hiển Hạc ngẩn người trong chốt lát, rồi lắc đầu nói: “Không cần! Chúng ta lập tức đi đến Ba Đông, ta muốn chính mình tìm hỏi cho rõ chuyện của Tiểu Kỷ, xem có đúng là xác thực hay không.“

Từ Tử Lăng hiểu tâm tình của hắn, nói: “Cửa thành hiện giờ đã đóng rồi, sáng mai khi thành mở chúng ta sẽ đi Ba Đông ngay.“

Âm Hiển Hạc nói: “Cửa thành đóng thì chúng ta leo tường mà thoát, ai dám cản trở ta sẽ giết người đó.“

Từ Tử Lăng không còn cách nào khuyên hắn, thầm than phen này không đi gặp được Khấu Trọng rồi, đành cười khổ: “Âm huynh tắm rửa thay y phục, sau đó chúng ta đi ngay, không lẽ cứ để hình dáng thế này mà đi ư?“

o0o

Trận chiến sau cơn mưa.

Trung quân của Ma Thường, quân cánh trái của Hình Nguyên Chân và quân cánh phải của Bạt Dã Cương vượt những cây cầu tạm bợ lập thành trận thế ở bên ngoài chiến hào.

Mười hai cây cầu này là do Trần Lão Mưu gấp rút hoàn thành trong vòng nửa ngày, lấy ván gỗ đóng thành những sàn cầu dài, rộng, hạ bánh xe xuống hào, dùng bánh xe lớn bên dưới làm điểm tựa, chịu lực đè lên, để quân lính có thể nhanh chóng vượt qua chiến hào. Một ngàn quân vận lương đến cứu viện đã trở thành quân chủ lực cho công sự binh của Trần Lão Mưu. Nhân thủ đầy đủ, Trần Lão Mưu muốn gió có gió, muốn mưa được mưa.

Sau khi bày trận xong, hai cánh quân trái, phải tiến lên trước, đến cách xa trận của địch nhân một ngàn bước thì dừng lại, kết thành Yển Nguyệt trận, binh lính cầm mâu thuẫn đứng ngoài cùng tách ra hai bên tạo thành hình vòng cung, một ngàn người chia thành ba hàng, tạo thành đội phòng ngự đủ sức đối chọi với các đợt công kích của kỵ binh địch, năm trăm lính bắn tên xếp ở phía sau, được mâu thuẫn bảo hộ nhằm tấn công địch từ xa, đám kỵ binh ở hậu phương phụ trách đối phó các cuộc tấn công bên hông, trận thế lấy thủ làm chính. Ma Thường lãnh đạo ba ngàn người, toàn là kỵ binh nhẹ cả.

Bạt Phong Hàn và Khấu Trọng xuống ngựa. Một tổ Phi Vân vệ tinh nhuệ khác gồm năm mươi người phụ trách tiếp tế hỏa đạn và dây mồi lửa.

Phía Lý Thế Dân cũng không dám coi thường, ba đội bộ binh tiễn thủ mỗi đội năm ngàn người được bố trí trước xa trận, do La Sĩ Tín, Sử Vạn Bảo và Lưu Đức Uy ba người lãnh quân, chỉ cần tiến lên trước thêm hai trăm bước thì hai bên có thể dùng cung tên sát hại đối phương. Quân Đường đương nhiên kiêng dè Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn vô cùng, bị tầm bắn khá xa của Thích Nhật, Xạ Nguyệt uy hiếp đến phát khiếp, hai hàng đầu tiên đều dùng tấm mộc khổng lồ cắm chặn.

Lý Thế Dân và chư tướng bố trí năm tổ kỵ binh nhẹ phía sau xa trận, mỗi tổ ba ngàn người, bất cứ lúc nào cũng có thể xông ra chiến đấu qua lối ra khỏi xa trận.

Bên Khấu Trong phen này đụng độ với quân Đường có ưu thế tuyệt đối về quân lực, đối phương lại có lực lượng tiếp viện hùng hậu không ngừng nghỉ, nếu bọn họ không có thủ đoạn phi thường gì thì chắc chắn sẽ phải bại vong.

Vương Huyền Thứ trông coi việc phòng thủ sơn trại truyền lệnh xuống, một đội tiễn thủ gồm năm trăm người rời khỏi trại, đến phòng thủ ba con đường bên ngoài chiến hào.

Lúc này tiếng tù và cất lên, ba đạo quân sử dụng mâu thuẫn và tiễn thủ của quân Đường ở bên ngoài xa trận, mỗi đạo năm ngàn người, trong tiếng trống trận, đồng loạt tiến về phía Thiếu Soái quân, bước chậm nhưng ổn định, uy thế khiếp người đến cực điểm.

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn chờ địch nhân đến gần vị trí lý tưởng, cùng nhau lấy hai cây thần cung Thích Nhật Xạ Nguyệt, thủ hạ gánh hỏa đạn đã châm lửa đến bên hai người, móc câu dĩ nhiên do Trần Lão Mưu đặc chế.

„Vù, vù!“

Hai mũi tên rời khỏi cung bắn vọt lên trời cao, tàn lửa từ hỏa đạn tung tóe khắp nơi, hỏa đạn vạch một đường giữa không trung trông rất đẹp mắt, không phải nhắm đến những địch nhân đang từ từ tiến đến gần, mà là bắn vào giữa xa trận.

„Bụp, bụp!“

Hai tiếng nổ lớn vang lên, hỏa đạn của Bạt Phong Hàn nổ tung ở phía trên xa trận, từng đám từng đám lửa lớn tạt xuống xa trận và đám lính giữ trận, che phủ một vùng rộng đến hai, ba trượng.

Hỏa cầu của Khấu Trọng rơi xuống một máy bắn đá rồi mới phát nổ, lập tức cỗ máy bắn đá này và hai cỗ xe khác gần đó lập tức bị lửa nóng hổi bao trùm.

Đường binh bị lửa lan ra đốt cháy lăn lộn trên đấp kêu la ầm ỉ, lại thêm hai hỏa cầu khác từ thần cung của Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn bắn ra, nhằm vào những mục tiêu khác trong xa trận.

Địch nhân trong và ngoài xa trận không ngờ lại có thứ hỏa khí lợi hại có thể tấn công từ ngoài ngàn bộ, lập tức tay chân rối rối loạn, ba nhánh quân Đường đang tiến lên thì lại càng lâm vào cảnh tiến thối lưỡng nan.

Hỏa đạn của Khấu Trọng đổi hướng nhắm tới những địch nhân đang tiến lại gần, Bạt Phong Hàn chuyên phụ trách đối phó xa trận, trong chốc lát lửa lan khắp nơi, bốn phía lửa cháy rừng rực.

Hình Nguyên Chân và Bạt Dã Cương thấy cơ hội ngàn năm có một đã đến, liền vội vàng xua quân tấn công, đội quân của Ma Thường cũng tiến lên trước, bày trận ở phía sau Khấu Trọng chờ đợi.

Hỏa đạn không ngừng bắn lên phá tan màn đêm đen tối, liên tiếp bất tận bắn thẳng vào mục tiêu.

Đa phần xa trận đã bốc lửa, chưa nói đến thế lửa mạnh mẽ đủ sức lan ra toàn trận. Lý Thế Dân quyết đoán ra lệnh cho các xa đội chưa bị lửa lan tới lui về sau, lại ra lệnh ba nhánh bộ binh lui vào trong trận, thay vào đó là hai đội kỵ binh ba ngàn người ở hai bên trái phải có tính lưu động cao xuất kích, còn tự mình ở lại phía sau giữ vững trận địa.

Hình Nguyên Chân và Bạt Dã Cương không dám truy kích, rút về hai bên của Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn, lập trận nghênh địch.

„Bụp Bụp“

Hai hỏa đạn từ mé phải bắn lên nổ tung phía trước trận địa kỵ binh của địch, tàn lửa từ hỏa cầu vung vãi rơi xuống, hơn chục kỵ binh ngoài cùng người ngựa cháy bùng lên, nghiêng ngả loạng choạng rồi ngã lăn xuống đất, kỵ binh phía sau không thắng lại kịp lỡ đà xông thẳng vào trong biển lửa, người hét ngựa hý, tình trạng tàn khốc không nỡ nhìn.

Bỉnh Nguyên Nhân và Bạt Dã Cương kẻ trước người sau hét to:“Bắn tên!“

Một loạt tên từ phía sau hàng lính sử mâu thuẫn bắn ra, nhắm vào đám kỵ binh địch một cách không thương tiếc. Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn ngưng bắn cung, phóng mình lên ngựa, dẫn đầu ba ngàn kỵ binh tinh nhuệ của Ma Thường, lao tới chém giết.

o0o

Vừa mới hừng sáng, Từ Tử Lăng và Âm Hiển Hạc đã đến bên ngoài cổng thành Ba Đông, cả hai mệt mỏi vô cùng.

Cửa thành chưa mở, đám thương lữ và những người nông dân có hàng buôn bán đã tụ tập đầy. Ngay cả Âm Hiển Hạc nóng lòng vào thành, vẫn cảm thấy tốt hơn nên nhẫn nại chờ cổng thành mở, mà không nên vượt tường vào thành ngay tức khắc.

Từ Tử Lăng sợ có người nhận ra gã, dẫn tới những phiền toái không cần thiết, bèn mang mặt nạ Cung Thần Xuân lên, cùng Âm Hiển Hạc đứng chờ bên lề đường.

Bất chợt có tiếng vó ngựa, một đám võ sĩ vận kình trang theo sau một viên quan đang tới, tác phong đúng là hoành hành bá đạo, quát tháo những người đi đường nhường lối, có người chậm chạp một chút, tên kỵ sĩ đi đầu liền cầm roi ngựa vụt lướt qua đầu, tiếng gió vù vù đầy uy hiếp. Đám người chầu chực trước cửa thành để vào thành kinh sợ, vội vàng đứng sang một bên, tình trạng càng thêm hỗn loạn.

Từ Tử Lăng nhìn đám ngựa, liền nghĩ ngay đến Vạn Lý Ban yêu quý bị chết thảm trên chiến trường, lòng đầy đau xót, nét mặt chùng xuống. Gã đưa mắt nhìn lên, trong lòng chợt rúng động, vội vàng quay người đi, không để đối phương nhìn thấy khuôn mặt Cung Thần Xuân của hắn.

Mười mấy tên võ sĩ chưa đến cổng thành, viên tướng trên lầu thành đã ra lệnh mở cổng thành, hạ cầu xuống, cho đội kỵ binh phóng thẳng vào trong, sau đó cản không cho những người khác vào thành theo, rồi lại kéo cầu lên, tạo một cơn ầm ĩ oán than đầy bất mãn.

Âm Hiển Hạc thắc mắc:“Tử Lăng nhận ra đám người này à?“

Từ Tử Lăng đáp:“Ta nhận ra hai tên đi đầu, là Nhĩ Văn Hoán và Kiều Công Sơn, hai tên tay sai tâm phúc của Lý Kiến Thành. Chỉ không biết vì sao bọn chúng đến đây?“

Gã tuy hỏi thế, trong lòng thầm nghĩ chuyện này chắc có liên quan đến việc Lương Thuấn Minh nhận hỏa khí của từ Hải Sa Bang, nhưng vì biết Âm Hiển Hạc lúc này chỉ toàn tâm toàn ý nghĩ tới tiểu muội cho nên không bộc lộ tâm sự với hắn.

Thành Ba Đông là địa bàn của Đỗ Phục Uy, lão gia này tuy đã xưng thần với nhà Đường, nhưng tuyệt sẽ không cấu kết với một kẻ như Lý Kiến Thành, bởi thế rất có thể là tên tướng giữ thành Ba Đông bí mật tới lui với Lý Kiến Thành, cung cấp thứ gì đó cho Nhĩ Văn Hoán và Kiều Công Sơn.

Chỉ cần điều tra ra tên tướng thủ thành Ba Đông, báo cho lão gia, để ông ta lưu tâm để ý.

Tiếng vó ngựa lại vang lên, một cỗ xe ngựa đang chậm chạp đi theo quan đạo tới.

Từ Tử Lăng thầm nghĩ thật là xảo hợp, người đánh xe không ngờ là Hầu Hi Bạch và Lôi Cửu Chỉ lâu ngày không gặp.

Từ Tử Lăng kéo Âm Hiển Hạc, ra đón đầu xe, Hầu Hi Bạch và Lôi Cửu Chỉ thấy Từ Tử Lăng đột ngột xuất hiện trước mắt, suýt chút dụi mắt mình không dám tin là thật.

Xe ngựa dừng lại bên đường, hai người nhảy xuống ngựa, mặt mày đầy hoài nghi.

Chờ sau khi Từ Tử Lăng giới thiệu hai người với Âm Hiển Hạc, Hầu Hi Bạch không chờ được, liền hỏi: “Tử Lăng đã hồi phục toàn vẹn! Thật nói ra khó ai mà tin, Thanh Tuyền cuối cùng đã tới rồi à?“

Từ Tử Lăng nói:“Công lực không chỉ hoàn toàn hồi phục, mà còn có đột phá lớn, còn như tình huống bên trong, một lời khó nói hết, cứ thong thả sẽ kể chi tiết, đại sự đầu tiên trước mắt là xác thực Âm tiểu muội mà Hàn phu nhân có nói đến, có phải là em gái ruột của Âm huynh không.“

Lại quay sang về Âm Hiển Hạc nói:“Vị này là Lôi đại ca là người hiểu rất rõ Hương gia mà tiểu đệ từng đề cập với Âm huynh, có huynh ấy ra tay giúp đỡ, việc không có thể cũng sẽ biến thành có thể.“

Lôi Cửu Chỉ nào nghĩ đến Từ Tử Lăng vốn trầm lặng kiệm lời vừa gặp mặt đã tâng bốc mình hết lời, vui mừng cười toét miệng, nói:“Âm huynh an tâm, không cần biết trong nam ngoài bắc, các nhân vật có mặt mũi các bang hội lớn nhỏ đều ít nhiều giao tình với ta, hành sự rất thuận tiện. Long đầu của Ba Đông bang đã từng cùng ta uống rượu đánh bạc. Tất cả là huynh đệ, chuyện của Âm huynh chính là chuyện của ta.“

Âm Hiển Hạc tựa hồ không có thích thú với ngôn ngữ giang hồ đầy hào khí này, mặt mày vẫn nặng trĩu, ảm đạm nói: “Cổng thành đã mở!“

„Lịch kịch“, cầu treo lại được thả xuống.

Không biết tại sao, trong lòng Từ Tử Lăng đột nhiên có dự cảm nguy cơ đang ập tới.

- o O o -

HỒI 680

Ý Ngoại Phát Hiện

  

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn là hai kẻ cuối cùng lui vào sơn trại, tất cả các cây cầu bắc qua chiến hào đều đã bị đốt cháy, Lý Thế Dân cũng khua chiêng thu quân. Khắp chiến trường vẫn còn lờ mờ sắc tím của khói độc đang theo gió tan dần, những người chết và bị thương được mang về trong trận của song phương.

Hai bên đều bị tổn thất. Đường quân chết và bị thương lên đến gần một ngàn, nhiều gấp mười số thương vong của Thiếu Soái quân, xem như Khấu Trọng thắng được một phen, lần đầu vượt lên.

Hai đội kỵ binh của quân Đường tấn công từ hai cánh, yểm trợ ba đội quân bộ binh đội hình đã rối loạn đang vùng vẫy. Bên Khấu Trọng, các binh sĩ của đội thuẫn đao cùng đội cung tiễn của Hình Nguyên Chân và Bạt Dã Cương đã sớm kết thành trận thế vững chắc, không cho địch nhân tấn công vào chiến hào, còn Khấu Trọng cùng Bạt Phong Hàn, Ma Thường chỉ huy ba ngàn tinh kỵ xông ra như sấm sét, đánh tan tác địch quân, chia cắt chúng ra, rồi quay lại không ngừng chém giết. Quân Đường bị tấn công bất ngờ không sao chống đỡ nổi. Lý Thế Dân thấy tình thế bất diệu, đích thân dẫn Huyền Giáp tinh binh cùng hai đội khinh kỵ và bộ binh khác, tổng cộng lên đến chín ngàn người, hợp với đội xa trận đã bị đốt cháy chỉ còn gần phân nửa xung chiến, khí thế như dời non lấp biển, đồng thời ra lệnh cho đoàn kỵ binh đang bị tàn sát la khóc vang trời trên chiến trường rút lui.

Khấu Trọng hiểu rõ thực lực của Huyền Giáp tinh binh. Nếu trực diện giao phong, chắc chắn sẽ là một cuộc khổ chiến, chờ đến khi hơn vạn quân bộ binh của La Sĩ Tín chỉnh đốn xong trận cước kéo đến, đưa người vào chiến trường thì không nghi ngờ gì nữa, quân của mình chắc chắn sẽ bại. May là gã đã sớm có kế hoạch, toàn quân lập tức di chuyển chướng ngại vật, rải độc lên địa pháo đầy rẫy khắp nơi, sau đó lui về phía sau địa pháo trận, hàng ngũ chỉnh tề chờ đợi.

Lý Thế Dân đã đoán trước rằng hẳn sẽ có tình huống này, cho nên kỵ binh lập tức chia thành ba đường xông vào địa phận pháo trận như những cơn lốc. Tức khắc hàng loạt tiếng nổ „đùng đùng đoàng đoàng“ vang rền như sấm, khói độc tứ phía bốc lên, đám kỵ sĩ đi tiên phong của quân Đường chìm trong làn khói độc màu tím. Lũ chiến mã đầu tiên không chịu nổi, phát cuồng nhảy loạn lên, hất kỵ sĩ khỏi yên, cả người lẫn ngựa cùng nếm đủ mùi vị đau đớn vì trúng độc.

Từ hai bên, Thiếu Soái quân dùng thứ tên cứng do Thiên Kế chế tạo, bắn ra hết loạt này đến loạt khác, tàn sát không thương tiếc địch nhân không còn sức trả đòn, tình cảnh thảm thương đến cùng cực.

Lý Thế Dân không còn cách nào hơn là khua chiêng thu binh. Vốn định tới giết người bằng khí thế như gió cuốn lốc giật, như cầu vồng rẽ mây, nào ngờ phải thu binh với kết quả ảm đạm như thế. Khấu Trọng thấy mục đích đã đạt nên cũng truyền lệnh cho quân của mình trật tự quay về sơn trại.

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn cưỡi ngựa tiến qua cửa trại trong tiếng reo hò la hét mừng chiến thắng tuyệt vời của các chiến sĩ từ chiến trường trở về cùng những người ở lại thủ trại. Họ hô vang như sấm “Thiếu soái vạn tuế”, sĩ khí bốc lên ngất trời.

Tiểu Hạc Nhi không biết không biết từ đâu nhảy ra, chúc mừng hai người, vui sướng đến nỗi mặt ửng đỏ, hét lớn: “Đại ca thật oai phong, đám người xấu ngoài đó đều không phải là đối thủ của đại ca.”

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn nhảy xuống ngựa, nhìn nhau mỉm cười.

Khấu Trọng nhìn Tiểu Hạc Nhi mỉm cười nói: “Bọn họ không phải người xấu, mà là tử địch của ta.”

Trần Lão Mưu, Vương Huyền Thứ, Bạch Văn Nguyên đều chạy tới chúc mừng.

Hình Nguyên Chân và Bạt Dã Cương lập được đại công, mặt mày rạng rỡ khác thường. Đây là một chiến thắng không dễ dàng, dù chưa thể gây tổn thất nặng nề cho quân Đường, nhưng lại đả kích nghiêm trọng sĩ khí của đối phương và quan trọng nhất là đã trì hoãn được thời gian quân Đường phát động tấn công vào trại.

Khấu Trọng vươn vai vặn lưng, nói: “Chúng ta cần nhất bây giờ là một giấc ngủ ngon. Trách nhiệm phòng thủ nơi này giao cho Bạch tướng quân. Huyền Thứ có thể dẫn Tiểu Hạc Nhi đi vui chơi thỏa thích.”

Khuôn mặt tuấn tú của Vương Huyền Thứ chợt ửng hồng, nhất thời ấp a ấp úng nói không thành lời.

Tiểu Hạc Nhi mừng rỡ hỏi: “Có chỗ nào chơi vui à?”

Giọng Vương Huyền Thứ nhỏ nhẹ như muỗi: “Thiếu soái có lệnh, ta sẽ dẫn nàng đi xem thác nước nhỏ trong hẻm núi.”

Mọi người có mặt đều nhận ra tình cảnh vi diệu giữa Vương Huyền Thứ và Tiểu Hạc Nhi, không khỏi nhìn nhau mỉm cười.

Khấu Trọng thoải mái cười nói: “Huyền Thứ cứ yên tâm dẫn tiểu muội tử của ta đi xem khắp nơi, hẻm núi này dài tới hai dặm, thiên hạ hiếm thấy, chắc chắn không thiếu kỳ cảnh. Thật không nghĩ được, trên chiến trường chẳng những có mái ngói che đầu, mà còn có nơi để dạo chơi, có cảnh để ngắm. Trời cao đối với chúng ta đích thực không bạc.”

Bạt Phong Hàn ngắm Tiểu Hạc Nhi, mỉm cười nói: “Tiểu Hạc Nhi có mái tóc đen dài óng ả, sao không ra suối trong gội đầu một phen, chắc chắn sẽ dễ chịu đến mê người, lại có thể cho Huyền Thứ chiêm ngưỡng dáng vóc nữ nhi xinh đẹp tóc dài xõa vai của muội.”

Cuối cùng, Tiểu Hạc Nhi cũng hiểu ra mọi người đang đùa bỡn nàng và Vương Huyền Thứ, tức giận lườm Bạt Phong Hàn một cái, lại nhịn không được kéo tay áo chiến bào của Vương Huyền Thứ nói nhỏ: “Chúng ta đi dạo chơi thôi, không thèm lý đến họ nữa.”

Trần Lão Mưu cười ý nhị: “Trong chủ lâu có khăn lông khô đấy, Huyền Thứ chớ quên mang theo.”

Vương Huyền Thứ cùng Tiểu Hạc Nhi vụt chạy đi như gió, chẳng khác nào hai kẻ đào mạng.

Khấu Trọng nhìn theo bóng bọn họ xa dần, lắc đầu cảm thán: “Trên chiến trường quả là có thể nảy sinh ra những việc không thể ngờ được! Chúng ta còn bao nhiêu hỏa khí?”

Như được hỏi về báu vật trong rương, Trần Lão Mưu đáp ngay: “Vừa rồi chưa dùng đến độc yên tiễn, coi như vẫn còn nguyên, hỏa du đạn trên dưới còn ba trăm hai chục viên, địa pháo hao tổn nhiều hơn, số lượng hiện không còn tới ba trăm.”

Bạt Phong Hàn nói: “Số lượng này cũng đủ cho chúng ta chống cự một cuộc tấn công toàn lực nữa của Lý Thế Dân.”

Trần Lão Mưu nói: “Cho dù Lý Thế Dân trước đây không nghĩ đến thuật dùng khói, lần này bị hỏa khí của chúng ta đề tỉnh, chắc chắn sẽ tức thời cho chế tạo một loại khí giới công thành không sợ độc yên hỏa đạn của chúng ta. Yên công đúng là phương pháp vô cùng lợi hại. Hay hơn nữa là chúng ta còn có phương pháp dự phòng, nếu áp dụng hợp lý, không chừng có thể đem về một đại thắng nữa.”

Bạt Dã Cương trầm giọng nói: “Chúng ta không thể bỏ lỡ bất kỳ một cơ hội chiến thắng nào, bởi vì tài nguyên của ta có hạn, không có cách gì bổ sung tổn thất. Ngược lại, địch nhân có nguồn nhân lực bất tận, một khi sĩ khí quân ta sa sút, tình cảnh thật không dám nghĩ đến.”

Khấu Trọng ngẩng đầu nhìn trời, nói: “Hy vọng tuyết to sẽ giáng xuống trong vòng vài ngày tới. Nếu trời đổ mưa chứ không đổ tuyết thì tình cảnh của chúng ta sẽ khốn đốn lắm đây. Lão Bạt ngươi coi thử có chắc không? Nếu trời đổ mưa thật sự, các loại hỏa du đạn của chúng ta khó mà phát huy công hiệu.”

Bạt Phong Hàn cười khổ nói: “Ta không là thần tiên, sao biết những điều đó?”

Khấu Trọng cười nói: “Đó là muốn xem ý chỉ của ông trời gia thôi, cho nên không cần nhọc công suy nghĩ, chỉ phải chuẩn bị mọi việc thật tốt. Ta sẽ cử hành tế lễ đơn giản mà long trọng cho các huynh đệ đã tử trận. Việc này do Văn Nguyên lo. Ta còn phải đích thân đi thăm hỏi các huynh đệ bị thương. Tối qua là một đêm dài dằng dặc, lại có cảm giác như đã trôi qua trong nháy mắt. Thật mâu thuẫn.”

o0o

Một toán quân thủ thành Ba Đông gồm ba mươi tên từ cửa thành đi ra, thô bạo xua đuổi những người có mặt xung quanh, sau đó chia ra đứng hai bên giống như muốn mở đường cho người xuất thành.

Nhĩ Văn Hoán, Kiều Công Sơn và nguyên một đoàn nhân mã phóng ra khỏi thành, ở giữa là một cỗ xe rèm phủ kín mít trông đầy vẻ thần bí.

Từ Tử Lăng tháo mặt nạ xuống, trầm giọng: “Phu phụ Hàn huynh rất có thể ở trong xe ngựa. Chúng ta sẽ chặn đường cướp xe cứu người.”

Bọn Nhĩ Văn Hoán thản nhiên tăng tốc vượt qua bốn người, làm bụi đất cuốn lên mù mịt.

Âm Hiển Hạc giục: “Chúng ta mau đuổi theo đi!”

Từ Tử Lăng biết lòng hắn rối bời đến nỗi mất cả tính nhẫn nại xưa nay bèn giữ hắn lại nói: “Chờ bọn chúng chạy xa một chút đã. Ta cùng Âm huynh và Hi Bạch đuổi theo đến nơi là lập tức động thủ. Lôi Cửu ca đánh xe theo sau.”

Lôi Cửu Chỉ nhận ra Nhĩ Văn Hoán và Kiều Công Sơn, lạnh lùng nói: “Hạ thủ không cần lưu tình, tốt nhất tiện tay cắt phứt đầu hai con chó của Lý Kiến Thành đi. Thật không ngờ họ Lý dám ngang nhiên giúp việc cho Hương gia.”

Từ Tử Lăng nói: “Lý Kiến Thành không những cấu kết với Hương gia, mà còn phối hợp cả với Triệu Đức Ngôn nữa. Chúng ta đi thôi!”

o0o

Khấu Trọng đi vào Soái phòng, từ từ khép cửa lại rồi đến bên cạnh giường ôm đầu nằm xuống. Gã đang nằm trên chiếc giường duy nhất trong sơn trại, do Trần Lão Mưu đặc biệt đóng cho.

Bạt Phong Hàn nằm phía bên kia giường uể oải ngồi dậy, hỏi: “Đang nghĩ chuyện gì vậy?”

Khấu Trọng quay đầu qua liếc gã, nhăn nhó cười: “Ngươi hình như không cởi giày.”

Bạt Phong Hàn không nhịn được cười: “Ngươi còn có tâm tình để ý đến chuyện cởi giày hay không cởi giày ư? Đây là biện pháp cần áp dụng lúc này. Để sau khi chúng ta trở về Lạc Dương hãy đem vấn đề cởi giày ra bàn nghen!”

Khấu Trọng thở dài: “Ngươi cho rằng chúng ta sẽ có một ngày như thế sao?”

Bạt Phong Hàn trầm ngâm: ”Nếu trời đổ mưa mà không đổ tuyết, Lý Thế Dân đội mưa tấn công, độc yên và hỏa đạn của chúng ta đều vô phương phát huy diệu dụng, việc trở lại Lạc Dương có thể sẽ không bao giờ xảy ra!”

Khấu Trọng than thở: “Rốt cuộc thì trên trời tích tụ, con bà nó, là thứ mây gì.”

Bạt Phong Hàn cười khổ nói: “Là thứ mây đen, con bà nó, có thể trút mưa mà cũng có thể đổ tuyết. Thời tiết nói lạnh thì không hẳn, xem ra dường như vẫn chưa đến lúc tuyết rơi, chúng ta phải chuẩn bị thật kỹ lưỡng.”

Khấu Trọng nhạt nhẽo hỏi: “Phải chăng là phát cho mỗi huynh đệ một cái nón che mưa?”

Bạt Phong Hàn ôm bụng cười, nói: “Cái tên tiểu tử này! Ngươi thiệt tình!”

Khấu Trọng gác luôn cả hai chân mang ủng lên giường, ánh mắt sáng rực, chậm rãi nói: “Cho dù đổ tuyết thì sao? Hỏa khí chưa đến nửa ngày sẽ dùng hết, cuối cùng vẫn phải dựa vào đao thương thực lực để kháng cự lại kiếm thuẫn của Lý tiểu tử thôi. Hỏa khí chỉ có thể chiếm chút lợi thế khi hạ thủ trong địa hình đặc biệt, chúng ta rốt cuộc vẫn phải dựa vào thực lực. Con bà nó! Đành phải binh tới thì tướng ngăn, thủy tới thì thổ chặn, tiếp đó là thổ tới thì mộc khắc, mộc tới thì hỏa thiêu, con bà nó! Ôi! Chúng ta dường như còn sót một chiêu.”

Bạt Phong Hàn ngạc nhiên hỏi: “Không phải tất cả những việc cần làm chúng ta đều đã làm hết rồi hay sao?”

Khấu Trọng nói: “Chiêu này gọi là lôi mộc trận. Chúng ta có vô số cây gỗ đã đốn, chỉ việc quăng từ trên đầu thành xuống, cho lăn theo sườn dốc, ngươi nói coi, uy lực có đủ lợi hại không?”

Bạt Phong Hàn phấn chấn hẳn lên nói: “Đây đúng là kỳ chiêu, đơn giản như thế tại sao không một ai nghĩ ra nhỉ?”

Khấu Trọng nói: “Bởi vì chúng ta cứ nghĩ mình đang giữ Lạc Dương, mà ngoài thành Lạc Dương lại không có đồi dốc. Trong tình trạng bị bao vây bốn mặt, gỗ trân quý không thua gì hoàng kim, nhưng vào lúc này, ở nơi này, lôi mộc trận pháp không ngại mưa xối là phương tiện hữu hiệu. Chỉ cần đặt một trăm khúc thân cây trên sườn dốc trước trại, cho dù Lý tiểu tử có vượt được chiến hào phía dưới, cũng không thể qua được trận lôi mộc này. Cây gỗ sau này phơi khô còn có thể dùng làm củi! Con bà nó, thống khoái quá đi mất! Ha ha! Cái này gọi là trời không tuyệt đường ai, chỉ là ngươi có động não hay không!”

Có tiếng gõ cửa.

Một tên thủ hạ từ bên ngoài nói vọng vào: “Thân trình Thiếu soái! Bạch tướng quân phái tiểu nhân đến báo cáo, quân Đường bắt đầu chất cành cây, củi khô thành đống bên ngoài trại.”

Khấu Trọng cười ha hả, nói: “Thông tri cho Bạch tướng quân hay, khi quân Đường đốt lửa hãy tới đánh thức ta!”

Đoạn hướng sang Bạt Phong Hàn thở dài: “Dương Công từng nói rằng, kẻ không thể ngủ ngon trên chiến trường không xứng làm chủ soái. Ôi! Giá mà có Dương Công ở bên ta thì tốt biết mấy!”

o0o

Từ Tử Lăng, Âm Hiển Hạc và Hầu Hi Bạch không lý gì đến ánh mắt kinh hãi của người đi đường, truy đuổi theo mục tiêu. Từ Ba Đông đến bến sông chính của Quán Thủy chỉ chừng một dặm, giả sử bọn Nhĩ Văn Hoán lên thuyền trước một bước, hoặc hội hợp với một đội nhân mã khác, bọn họ sẽ phải phí nhiều công sức. Nếu có thể chặn toán xa mã giữa đường, nhất định có thể nuốt sống đối phương.

Phía trước đã thấy bụi bốc mù mịt cùng tiếng vó ngựa rầm rập.

Từ Tử Lăng trong đầu vừa nghĩ đến tăng tốc, người đã vọt lên trước, ý đến khí đến, tựa hành vân lưu thủy tức tốc rút ngắn khoảng cách với hai kỵ mã đoạn hậu. Tuyệt vời nhất là quần áo như bị dán chặt vào người, hầu như không phát ra tiếng lật phật.

Hầu Hi Bạch và Âm Hiển Hạc người trước kẻ sau tăng tốc đuổi theo. chỉ chậm chân hơn một trượng, khi mà Từ Tử Lăng phát động công kích thì Âm Hiển Hạc còn cách xa tới hai trượng.

Hai tên địch bị Từ Tử Lăng lăng không lần lượt đá trúng bối tâm. Nếu không phải hắn vốn người nhân hậu, chắc chắn có thể khiến bọn chúng chết tức khắc dưới cước. Cả hai tên phúc lớn chỉ bị bế kinh mạch, ngã nhào xuống ngựa.

Bọn địch hoảng sợ quay đầu nhìn lại. Từ Tử Lăng điểm chân vào lưng một trong số bảy con chiến mã, phóng người lên cao, nhắm nóc thùng xe lao tới.

Nhĩ Văn Hoán quát lớn: “Tiểu tặc phương nào? Dám cướp xe của lão tử, giết không tha!”

Kỵ sĩ bên địch nhốn nháo tuốt binh khí, lao vào phản kích. Hai tên đi hai bên hông cỗ xe đồng thời nhảy lên tấn công Từ Tử Lăng, hiển lộ thân thủ bất phàm.

Cả hai đều xứng đáng là hảo thủ nhất lưu khi hành tẩu giang hồ, nhưng so với Từ Tử Lăng danh chấn thiên hạ thì thật sự còn kém xa. Kẻ nhảy lên trước mặt liền bị ném xuống đất, chẳng những không có cơ hội đặt chân lên nóc xe, mà còn không biết đối phương dùng thủ pháp gì đánh bại mình. Sau khi rớt xuống đất rồi thậm chí đứng lên không nổi.

Nhĩ Văn Hoán và Kiều Công Sơn lúc bấy giờ mới phát giác ngoài kẻ địch trên nóc xe còn có hai người mặt đầy sát khí đang lao tới. Bọn chúng đều chưa từng thấy qua mặt thật của Từ Tử Lăng nên không nhận ra gã, nhưng Hầu Hi Bạch ở Trường An thì ai mà không biết, hai tên Nhĩ, Kiều từng gặp họ Hầu nhiều lần, thấy hắn trong số địch nhân, sắc mặt liền tái nhợt, biết có chuyện không hay.

Hầu Hi Bạch tiêu sái như đang tản bộ lướt thẳng tới, “soạt” một tiếng, xòe mỹ nhân phiến ra, động tác thật nhàn nhã, cười nói: “Nhĩ đại nhân, Kiều đại nhân, các người giỏi quá. Cũng chỉ có hai người không để ai trong mắt mới dám gọi Từ Tử Lăng là tiểu tặc. Bội phục, bội phục!”

„Chát!”

Mỹ nhân chiết phiến đỡ nhát kiếm của một tên kỵ sĩ chém ngược về, giảo kình theo quạt phát ra, trường kiếm địch nhân tức thì tuột khỏi tay, văng tuốt vào trong rừng rậm bên đường.

Có tiếng hét vang lên, một tên kỵ sĩ khác bị Âm Hiển Hạc dùng thủ pháp tinh xảo tuyệt luân đoạt lấy bội kiếm, rồi chém toạc áo giáp.

Cùng lúc đó, Từ Tử Lăng nhảy xuống chỗ ngồi để trống bên cạnh kẻ đánh xe. Tên này chưa kịp xuất chiêu đã bị gã dùng vai hất văng khỏi ghế ngồi, ngã lăn lông lốc dưới đất.

Từ Tử Lăng gò cương kìm ngựa, cỗ xe từ từ chạy chậm lại.

Nghe đến tên Từ Tử Lăng, Nhĩ Văn Hoán và Kiều Công Sơn mặt không còn chút máu. Nhĩ Văn Hoán hét lớn: “Tránh ra!” Rồi bỏ mặc đồng bọn, ra roi quất khoái mã nhắm hướng Hoài Thủy phóng chạy. Bảy, tám tên chưa bị đánh ngã thấy kẻ cầm đầu hèn nhát như thế, nào dám sính cường, liếc mắt nhìn nhau rồi bỏ chạy sạch.

Chiếc xe ngựa chạy thêm bảy, tám trượng nữa thì dừng hẳn.

Hầu Hi Bạch đến bên thùng xe, giật bung cửa ra, hai mắt lộ vẻ vô cùng bất ngờ, kinh ngạc thốt lên: “Không ngờ là Vân bang chủ!”

o0o

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn đứng ở đầu tường thành. Trên khu vực bên ngoài chiến hào, ba núi củi khô cao ngất đang cháy bừng bừng, khói đặc bốc lên cuồn cuộn theo gió bay tới, cả sơn trại chìm ngập trong khói khiến người ta sặc sụa, nghẹt thở.

Tất cả Thiếu Soái quân đã lui vào hẻm núi hoặc chủ lâu.

Phía sau ba ngọn đồi lửa, quân Đường sắp thành thế trận, chờ thời cơ thích hợp nhất để tấn công.

Hai gã thần thái hết sức ung dung, hoàn toàn không để ý đến tàn lửa, khói dầy bay thốc vào mặt.

Bạt Phong Hàn mỉm cười, nói: “Đao pháp của Thiếu soái tiến bộ rất nhiều, đã đến cảnh giới đao ý hợp nhất.”

Khấu Trọng xoay người, nhìn hình dáng Bạt Phong Hàn đang lung linh trong màn khói đáp: “Ngươi mới thật lợi hại, giữa lúc sống chết trên chiến trường mà vẫn còn thời gian lưu tâm đến đao pháp của ta. Nhưng Tỉnh Trung Nguyệt của ta đã vượt qua đao ý hợp nhất, tiến vào cảnh giới đao tức ý, ý tức đao rồi. Mãi gần đây ta mới hiểu ra hàm ý trong câu „Xá đao chi ngoại, tái vô tha vật“ mà Tống Khuyết từng nói.

Thân hình tráng kiện của Bạt Phong Hàn khẽ rung lên, miệng lẩm bảm tám chữ vừa nghe rồi nhìn vào mắt Khấu Trọng hỏi: “Ý tứ thật ra có gì đặc biệt?”

Khấu Trọng thoáng lộ nét cười, nói: “Là đích thực ’Xá đao chi ngoại, tái vô tha vật!’ Ngay cả chính mình cũng không tồn tại, chỉ có đao, đao mới là nhất thiết. Khi ấy Tống Khuyết còn nói, ngươi hiểu chính là ngươi hiểu, không hiểu chính là không hiểu. Ha ha! Thật buồn cười, ta lúc bấy giờ còn nghĩ đã hiểu rõ. Đến ngày hôm nay mới biết, cái khi mình cho là hiểu ấy, con bà nó gấu chó, cơ bản là chẳng hiểu gì cả.”

Bạt Phong Hàn lộ vẻ suy tư, lắc đầu nói: “Ngươi có phóng đại không? Điều đó là không thể. Nếu ngươi ngẫm nghĩ kỹ, sẽ tự nhận thấy ’cái ta’ có tồn tại.”

Khấu Trọng nghiêm nghị nói: “Thật đó, không một chút phóng đại. Đao chính là ta, ta chính là đao, đao thay ta cảm ứng, thay ta suy nghĩ, tùy cơ mà hành, theo tình thế mà biến hóa. Chuyện đó quá vi diệu làm sao nói hết ra được.”

Bạt Phong Hàn gật đầu nói: “Ngươi đã trải qua cảnh giới này là thêm một gợi ý cho ta. Đao tức ý, ý tức đao.”

Một luồng gió ào tới, khói mịt mù, không nhìn thấy người đối diện. Chờ làn khói tan đi, Bạt Phong Hàn lại hiện ra trước mắt, Khấu Trọng hân hoan nói: “Thừa dịp có chút thời gian, ngươi có thể kể tiếp phần hai cố sự hay không?”

Bạt Phong Hàn không hiểu: “Phần hai cố sự gì?”

Khấu Trọng thản nhiên như không: “Dĩ nhiên là sự cố triền miên đau khổ xúc động lòng người của Ba Đại Nhi và lão ca ngươi.”

Bạt Phong Hàn lộ vẻ không vui: “Ngươi thật là quá lắm! Lão tử đã phá lệ kể cho ngươi nghe chuyện đau buồn tuổi trẻ, vậy còn chưa đủ sao? Cáo lỗi! Về phương diện này thì ngay cả huynh đệ cũng không thể châm chước.”

Khấu Trọng cười khành khạch nói: “Ta quan tâm ngươi thôi! Tốt bụng lại bị trời đánh.”

Bạt Phong Hàn không nhịn được cười nói: “Trong lòng mỗi người đều có bí mật không muốn nói ra. Vả lại ta kể tường tận đến thế cũng chỉ là một phần của sự thật mà ta chủ quan chọn ra. Cứ thử kể cho ta nghe chuyện của ngươi với Tống Ngọc Trí hoặc Thượng Tú Phương mà coi, trong đó nhất định có chuyện ngươi không muốn thổ lộ.”

Khấu Trọng chỉ đành im lặng. Chuyện của hai nàng quả thật gã chẳng muốn nhớ tới, chẳng muốn nhắc đến.

Bạt Phong Hàn cười buồn: “Đã hiểu chưa?”

Khấu Trọng nhếch miệng cười, chán nản nói: “Hiểu rồi!”

„Thùng! Thùng! Thùng!”

Trống trận nổi lên, tiếng người cùng tiếng bánh xe từ sau màn khói truyền tới. Quân Đường nhân lúc màn khói còn phủ kín sơn trại đã kịp lấp chiến hào.

Khấu Trọng lấy Thích Nhật cung ra, trầm giọng: “Hãy xem công phu thông linh ý, ý tức tiễn của ta nhé. Thỉnh lão Bạt lấy hỏa du đạn và châm lửa giúp ta được không?”

- o O o -

Hồi 681

Thế Bất Lưỡng Tồn

Từ Tử Lăng nắm chiếc vòng trên cửa viện gõ mấy tiếng, thở dài gọi: “Hàn huynh xin mở cửa, là Từ Tử Lăng đây.”

Tiếng chân bước vội vã vang lên, cánh cửa mở ra để lộ khuôn mặt hoảng hốt của Hàn Trạch Nam. Y vội vã thốt nhanh: “Không ổn rồi! E rằng chúng ta đã bị phát hiện. Vài ngày nay không ngờ có những kẻ lạ mặt lảng vảng bên ngoài viện.”

Từ Tử Lăng né người qua, chỉ hai đại hán nằm ngang dưới chân Âm Hiển Hạc hỏi: “Phải hai tên này không?”

Hàn Trạch Nam ngạc nhiên nhìn ra, Âm Hiển Hạc cao lớn cúi xuống, hai tay nắm lấy tóc hai tên, xoay mặt bọn chúng về hướng Hàn Trạch Nam.

Hàn Trạch Nam run người, thốt: “Chưa từng thấy qua hai người này“

Từ Tử Lăng cảm thấy trong lòng nặng trĩu, quay sang Âm Hiển Hạc: “Làm phiền Âm huynh nhốt bọn chúng vào bên trong viện”, rồi bước lên thềm đi vào trong. Tới cửa phòng Hàn Trạch Nam, gã dừng lại: “Chúng ta phải lập tức lên đường. May mà bọn ta đến kịp thời.”

Hàn Trạch Nam nói: “Chúng ta vốn chuẩn bị rời thành trong đêm nay. Có Từ huynh bên cạnh, nội tử lại càng yên tâm!”

Bạch Tiểu Thường vui mừng hớn hở mở cửa nghênh tiếp, tiểu Kiệt trông cao hơn một chút so với lần trước gặp gỡ, đứng bên cạnh mẹ hiếu kỳ nhìn Từ Tử Lăng, rồi lén nhìn Âm Hiển Hạc đang kéo hai tên kia vào một góc ở ngoại viện, sắc mặt không có vẻ sợ hãi chút nào.

Từ Tử Lăng nhìn vào trong phòng thấy trên bàn có ba bọc vải, hai lớn một nhỏ, biết đó là hành trang đã sắp xếp sẵn sàng, liền bồng tiểu Kiệt lên, cười hỏi: “Đã lâu không gặp, tiểu Kiệt khỏe chứ?”

Tiểu Kiệt thân thiết ôm lấy cổ hắn vui mừng đáp: “Thúc thúc chính là vị Cung thúc thúc biến ra phải không? Cha mẹ nói có thúc thúc thì không phải sợ bọn người xấu khi hiếp. Hai người xấu ngoài kia là bị thúc thúc bắt phải không?”

Từ Tử Lăng âu yếm vuốt đầu nó, nhìn Hàn Trạch Nam, Bạch Tiểu Thường đáp: “Có xe ngựa đang chờ ngoài thành. Chúng ta lập tức đi thôi.”

Ánh mắt của Hàn Trạch Nam và Bạch Tiểu Thường hướng về Âm Hiển Hạc xuất hiện sau cánh cửa.

Từ Tử Lăng giới thiệu: “Vị này là thân huynh của Âm Tiểu Kỷ, xin tẩu phu nhân tả cho Âm huynh tính tình và tướng mạo Tiểu Kỷ.”

Bạch Tiểu Thường trầm ngâm chốc lát rồi cất tiếng: “Đặc điểm gây ấn tượng nhất là trên ngón cái bàn tay trái có một cái bớt màu hồng lợt, ngoài ra còn có cặp mắt to mà sáng.”

Âm Hiển Hạc đẫm nước mắt, giọng run run: “Đúng là Tiểu Kỷ! Đúng là nó rồi!”

Từ Tử Lăng nói: “Chúng ta rời thành rồi nói tiếp. Địch nhân chưa dám ra tay, chỉ bởi còn e ngại võ công của phu nhân, vừa rồi chúng ta hạ thủ bắt giam người của chúng, sợ rằng đã đả thảo kinh xà, bởi thế phải đi ngay tức khắc.”

Từ Tử Lăng ôm tiểu Kiệt trong lòng cùng Âm Hiển Hạc trên lưng khoác hai bao lớn và vợ chồng Hàn Trạch Nam hối hả bước đi. Vừa rẽ sang đường lớn dẫn đến cửa Bắc thành liền cảm thấy bầu không khí khác thường, sau giờ Ngọ đúng ra người trên đường rất đông đúc, không ngờ lại chẳng thấy một ai.

Âm Hiển Hạc đến gần Từ Tử Lăng nói: “Xem ra có chút không ổn!”

Hàn Trạch Nam đi bên cạnh lo lắng đề nghị: “ Hay chạy sang cửa thành khác có tốt hơn không?”

Từ Tử Lăng đáp: “Qua cửa thành khác cũng vậy thôi. Đối phương chắc chắn có cao thủ sau lưng chủ trì đại cục, mà tướng giữ thành Ba Đông ắt cũng cùng một bọn với chúng.”

Bạch Tiểu Thường điềm tĩnh hơn Hàn Trạch Nam khẽ nói: “Thái thú thành Ba Đông tên là Trương Vạn. Người người đều biết hắn là kẻ ăn hối lộ xem thường pháp kỷ, tài năng duy nhất là vuốt mông ngựa của Đỗ Phục Uy.”

Từ Tử Lăng giao tiểu Kiệt cho Bạch Tiểu Thường cười nói: “Nếu đã như vậy, chúng ta cứ theo cửa Bắc ra thành, để xem kẻ nào đến chặn đường chúng ta.”

Âm Hiển Hạc không hiểu, cất tiếng hỏi: “Địch nhân đã được Trương Vạn đồng tình sao còn chưa ra tay nhỉ?”

Từ Tử Lăng trả lời: “Cái đó gọi là chuyện trong nhà không truyền ra ngoài. Việc trong gia đình đương nhiên tốt nhất do người trong gia đình xử lý. Nhưng bây giờ, trong tình thế cấp bách mà cao thủ lại chưa tới, bọn chúng chỉ còn cách mua chuộc tên tham quan kia để đối phó chúng ta thôi.”

Âm Hiển Hạc than: “Chúng ta vừa rồi nhất thời sơ ý mới bị thám tử đối phương phát hiện.”

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Kẻ phát giác ra chúng ta ẩn ngay trong phòng đối diện, ta lại cứ nghĩ là láng giềng tò mò nên mới không chú ý đến.”

Cửa thành đã ở trong tầm mắt bỗng nhiên đóng sập lại sau một tiếng quát to. Trên tường thành các cung thủ nhất loạt hiện thân. Từ các cửa tiệm hai bên đường, cả trăm binh sĩ Ba Đông ùa ra. Phía trước mặt, chừng mười tên lính gác từ trong cửa thành lao đến. Chỉ trong một sát na, năm người, bốn lớn một nhỏ, đã lọt vào trùng vây.

Một kẻ cao lênh khênh vận tướng phục gạt những tên trước mặt đi ra, chỉ tay quát lớn: “Không kẻ nào được rời khỏi đây! Bổn quan là Trương Vạn, thái thú thành Ba Đông. Biết điều mau quỳ xuống trước mặt ta chịu trói, bằng không sẽ giết không tha.”

o0o

“Bùng!”

Trong màn khói đang từ từ tản mát và mỏng dần đi, hỏa du đạn phóng ra đầy trời những đốm lửa và tia lửa, như những loạt pháo hoa đua nhau nở rộ trên đầu đám công binh Đường quân đang lấp chiến hào rồi rơi đầy xuống đầu xuống mặt bọn chúng. Trong chu vi hai trượng, không một tên lính nào may mắn thoát được. Cả lũ cuống cuồng bỏ chạy tứ tán, có tên phải lăn lộn trên mặt đất để dập lửa bén vào quần áo.

Tiếng chiêng nối lên, tất cả Đường quân liền lui về sau.

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn ngạc nhiên nhìn nhau. Khấu Trọng gãi đầu hỏi: “Lý Thế Dân sao lại kỹ càng đến thế nhỉ?”

Bạt Phong Hàn ngẩng đầu nhìn trời thở dài: “Bởi vì Lý Thế Dân cũng biết coi thời tiết, hiểu rằng chậm nhất là tối nay sẽ có một trận mưa to hoặc tuyết lớn nên không nôn nóng nhất thời, càng không muốn tạo cơ hội cho ngươi có bia mà tập bắn.”

Nhìn địch nhân như nước triều lui ra ngoài xa, Khấu Trọng lặng đi không thốt nên lời, trong lòng chẳng có chút vui mừng vì đã đẩy lui được địch, mà chỉ càng cảm thấy Lý Thế Dân quá cao minh và đáng sợ.

o0o

Từ Tử Lăng ung dung bước lên trước một bước, mỉm cười: ”Trương thái thú vẫn khỏe? Bản nhân là Từ Tử Lăng, muốn hỏi thái thú chúng ta phạm tội gì mà phải phiền thái thú đại giá?”

Nghe thấy tên Từ Tử Lăng, Trương Vạn mặt liền biến sắc còn quân lính trấn thủ Ba Đông đứng xung quanh bọn họ không khỏi ngạc nhiên. Tuy nói Đỗ Phục Uy đã đầu hàng nhà Đường, nhưng quan hệ rất mật thiết của lão với Khấu Trọng và Từ Tử Lăng trong Giang Hoài quân không ai không biết. Với tính tình của Đỗ Phục Uy, nếu theo lệnh Trương Vạn tấn công Từ Tử Lăng thử hỏi ai có thể giữ được mạng sống? Đó là chưa kể cho đến ngày hôm nay, cả đám đại gia hùng mạnh như Hiệt Hợi, Lý Uyên, Vương Thế Sung vẫn chưa một ai làm gì nổi hai vị thần tướng này.

Từ Tử Lăng nói: “Nếu có gì đắc tội với bên quý vị, ta sẽ tự thân xin lỗi lão nhân gia tại thượng”. Gã dùng thái độ mềm mỏng nhằm tạo cơ hội cho Trương Vạn hạ đài mà không bị mất mặt quá. Gã từ nhỏ đã lăn lộn chốn giang hồ nên vốn rất xuất sắc về mặt này.

Trương Vạn lập tức đổi sắc mặt, hạ giọng: “Làm sao chứng minh ngươi là Từ Tử Lăng?”

Từ bên trái đội ngũ của hắn có người cao giọng nói: “Bẩm thái thú, vị này đích thực là Từ công tử. Thuộc hạ ở Cảnh Lăng từng gặp qua người và Khấu Thiếu soái đứng trên đầu thành.”

Trương Vạn trừng mắt hung hãn liếc nhìn người đó rồi lạnh lùng: “Cho dù ngươi là Từ Tử Lăng thì sao? Quân ta đã theo về Đại Đường. Từ Tử Lăng ngươi là địch nhân của chúng ta.”

Từ Tử Lăng trong lòng rất ngạc nhiên, nhưng nhớ đến sự cấu kết giữa hắn và đám Nhĩ Văn Hoán liền hiểu ra hắn không chỉ bị Lý Kiến Thành âm thầm mua chuộc, mà còn có quan hệ ám muội với Ma môn, bèn thay đổi chiến lược, điềm đạm nói: “Cờ hiệu của các người chưa đổi, việc quy hàng há coi là thật? Hiện tại Lạc Dương tuy đã thất thủ nhưng cuộc chiến giữa Thiếu Soái quân và quân Đại Đường vẫn đang tiếp diễn, đại quân của Tống gia có thể giương buồm bắc tiến bất cứ khi nào. Lúc này, người thức thời phải biết tỉnh táo giữ mình, ngồi yên mà xem xét thay đổi. Nếu thái thú vẫn hồ đồ ngoan cố, không cần biết sau này ngươi ở đâu, mang chức vụ gì, Từ Tử Lăng ta bảo đảm ngươi không được chết già đâu. Tuy nói vậy nhưng chúng ta thừa sức an toàn rời thành. Thái thú muốn thử không?”

Trương Vạn chết trân tại chỗ, nhìn thấy thủ hạ đều buông lỏng binh khí, không một ai có ý động thủ.

Từ Tử Lăng gật đầu tán thưởng: “Thế mới đúng chứ.” Rồi quay sang nói với mấy người Hàn Trạch Nam: “Chúng ta có thể đi được rồi!”

Gã ngoảnh lại nhìn Trương Vạn, hai mắt sáng rực như điện xạ, ngầm vận ‘Bất Động Căn Bản Ấn’ quát lên: “Còn không mở cửa cho ta?”

Trương Vạn uể oải ra lệnh. Trong tiếng cót két, cầu treo ở cửa thành hạ xuống.

o0o

Cuồng phong cuồn cuộn nổi lên. Cờ xí của song phương cả địch lẫn ta trên bình nguyên bên ngoài hẻm núi Thiên Thành bị thổi tung bay phần phật. Cành lá, tro than sau trận hỏa thiêu bị cuốn bay tung đầy trời. Cảnh tượng kinh khiếp tột độ.

Dưới uy lực của thiên nhiên, dẫu thiên quân vạn mã tập trung dày đặc trong phạm vi mười dặm vẫn thật là nhỏ bé, bất lực.

Thiếu Soái quân trong sơn trại đang hối hả chuyển gỗ lên tường thành cũng đành phải tạm ngưng công việc, hầu tránh bị thương tích.

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn lúc đó đang quan sát tình hình bên phía Lý Thế Dân, thấy xe lấp chiến hào mới chế, xe công phá, xe cản tên được xếp hàng hàng lớp lớp phía trước, không phải ‘Nhất tự trường xà trận’ như trước đây, mà là chia thành hơn mười nhóm. Có thể hình dung khi lâm trận sẽ luân phiên phát kích, đợt sau nối đợt trước, uy thế như vũ bão. Hai người ngước mắt nhìn trời, cố đoán xem ông trời gia sẽ nổi hứng đổ mưa hay giáng tuyết.

Gió mây cuồn cuộn. Đầy trời mây đen vần vũ lướt đi khiến người người trông thấy phải sinh lòng khiếp sợ.

Bỗng “bộp” một tiếng, một hạt mưa lạnh buốt, to như hạt đậu rớt lên mặt Khấu Trọng.

Giọng Khấu Trọng rền rĩ: “Trời đất ơi!”

Gió bất thần chuyển sang giật mạnh từng cơn, cuốn cát bụi lên không trung rồi quăng vãi xuống đất. Liền đó mưa to từ bốn phương tám hướng ụp xuống. Cảnh vật phía xa nhòa đi, trở nên mờ tối mơ hồ, núi đồi phảng phất như đang lập cập run rẩy.

Bạt Phong Hàn kêu lớn: “Lạnh quá!”

Khấu Trọng nhanh chóng quyết định, phân phó cho Ma Thường đứng bên cạnh: “Cho toàn thể huynh đệ vào chủ lâu tránh mưa.”

Ma Thường hốt hoảng hỏi: “Nếu địch nhân đội mưa tới tấn công thì làm sao đối phó?”

Khấu Trọng nói: “Cảm lạnh vì mưa cũng chết. Đừng lo nhiều thứ quá, lập tức chấp hành.”

Ma Thường lệnh cho người hiệu giác thổi cảnh hiệu, quân sĩ trong sơn trại như được hoàng ân đại xá, chạy vội vào chủ lâu, kể cả những người đang cảnh giới trong các chòi canh.

Mưa đổ xuống dày đặc giống một bức tường nước, như muốn san phẳng núi đồi, cày nát mặt đất.

Thấy Ma Thường, Bạt Dã Cương, Hình Nguyên Chân, Vương Huyền Thứ vẫn còn cùng hai người bọn gã chịu mưa trên tường thành, Khấu Trọng kêu to: “Các ngươi đi vào trú mưa ngay đi, ở đây giao cho bọn ta.”

Bọn Ma Thường tự thấy công lực kém xa hai người, chỉ còn cách tuân lệnh đi xuống.

Lúc này Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn khắp người sũng nước, toàn nhờ chân khí trong nội thể chống lạnh, dù công lực cao như bọn gã vẫn cảm thấy khốn khổ không tả nổi.

Khấu Trọng giơ tay gạt nước mưa trên mặt cười khổ: “Ong trời gia lần này không chịu giúp rồi.”

Bạt Phong Hàn nói: “Lại nói vậy!”

Trong tiếng lộc cộc của bánh xe, ba mũi địch nhân chia thành ba đường đẩy xe tiến lên, mỗi mũi hai ngàn người, với trên trăm chiếc hà mô xa lấp chiến hào và hai mươi xe cản tên, còn xe xung phá chưa được điều ra.

Khấu Trọng kềm không nổi, thốt lên: “Ta đảm bảo cả lũ này xong việc sẽ bệnh nặng hết. Lý Thế Dân thật tàn nhẫn.”

Bạt Phong Hàn thở dài: ”Bệnh nặng còn hơn thua trận. Cơn mưa này sẽ kéo dài không dưới nửa thời thần, lúc đó e rằng ba vòng chiến hào bị lấp bằng mất. Tốt nhất hai huynh đệ ta lo việc ném lôi mộc, hy vọng có thể kéo dài tới khi hết mưa.”

Khấu Trọng cười khổ: “Lão ca còn biện pháp nào hay hơn không?”

o0o

Lôi Cửu Chỉ và Hầu Hi Bạch tự đánh xe đến đón. Lôi Cửu Chỉ cằn nhằn: “Xảy ra chuyện gì vậy? Tại sao cửa thành đột nhiên đóng lại, rồi sau đó lại mở ra?”

Từ Tử Lăng đáp: “Để sau hãy nói, Vân bang chủ ra sao?

Hầu Hi Bạch nhảy xuống xe, đón lấy tiểu Kiệt từ tay Bạch Tiểu Thường. Tiểu tử này vui mừng đến nỗi gương mặt nhỏ bé đỏ hồng lên, nói vang: “Từ thúc thúc thật oai phong, bọn kẻ xấu đều sợ thúc ấy.”

Hàn Trạch Nam đến giờ mới hoàn hồn, mở miệng nói: “May quá, các vị đến vừa đúng lúc, nếu không tình cảnh thật không dám nghĩ tới.”

Lôi Cửu Chỉ là lão già thành tinh, đã đoán được đại khái sự việc liền cười ngặt nghẽo: “Trời muốn diệt Hương gia, dĩ nhiên sẽ khéo sắp đặt.”

Từ Tử Lăng bước nhanh đến bên vợ chồng Hàn Trạch Nam đề nghị: “Chốn này không thể ở lâu, chúng ta lên xe khởi hành thôi.”

Hầu Hi Bạch đến bên cạnh Từ Tử Lăng, hạ giọng: “Vân Ngọc Chân chuyện gì cũng không nói. Ngươi đến chuyện trò với nàng ta đi! Vẫn ở trên xe đó.”

Lúc trước, sau khi phát hiện thấy Vân Ngọc Chân ngồi trong thùng xe, Từ Tử Lăng liền giao nàng cho Hầu Hi Bạch, còn mình và Âm Hiển Hạc chạy một mạch trở về thành Ba Đông, thành ra tới giờ vẫn chưa có cơ hội nói chuyện với nàng ta.

Từ Tử Lăng gật đầu: “Lên xe rồi nói!”

Chiếc xe ngựa lao đi.

Thùng xe khá rộng rãi, gồm có ba hàng ghế trước, giữa và sau. Vợ chồng Hàn Trạch Nam và ái tử ngồi phía trước, Âm Hiển Hạc một mình ở giữa, Từ Tử Lăng cùng Vân Ngọc Chân với nét mặt thẫn thờ ngồi sau cùng. Đánh xe là Lôi Cửu Chỉ và Hầu Hi Bạch.

Trong lòng Từ Tử Lăng dâng lên một cảm giác ấm áp, vì chẳng những đã kịp đến trước một bước, cứu sống cả gia đình ba người của Hàn Trạch Nam khỏi bàn tay độc ác của Hương gia, mà trên xe lại toàn là những hảo bằng hữu đã từng đồng tâm hợp lực, một mực chân thành với nhau. Huống chi Âm Hiển Hạc cuối cùng đã xác định được tung tích của thân muội tử, nên cũng an tâm phần nào.

Trong tâm trạng ấy, mọi hận ý đối với Vân Ngọc Chân đều tiêu tan, Từ Tử Lăng chỉ còn thấy nàng là nữ tử đáng thương đã chịu nhiều ngang trái. Gã dịu giọng hỏi: “Thật ra là chuyện gì vậy?”

Vân Ngọc Chân cúi đầu xuống, giọng bình tĩnh khẽ nói: “Hương Ngọc Sơn đã bán đứng ta.”

Từ Tử Lăng không hiểu, hỏi lại: “Chẳng phải nàng đã rời bỏ hắn rồi sao?”

Vân Ngọc Chân nâng tay áo thấm những giọt lệ hoa chợt ứa ra từ khóe mắt ngọc, buồn bã: “Ta đã sớm tâm tàn ý lạnh, giao nốt năm chiếc điêu thuyền còn lại cho Tiêu Tiễn, một mình ẩn cư ở Ba Lăng không lý đến bất cứ việc gì nữa. Mười ngày trước Hương Ngọc Sơn phái người đến tìm, hẹn ta gặp mặt ở thành Ba Đông, nói có chuyện quan trọng muốn bàn bạc, chỉ cần ta nói rõ dự định, sau đó mỗi người đi mỗi đường. Ta nào ngờ mình bị lừa gạt, khi đến thành Ba Đông mới hiểu đã lọt vào bẫy của Hương Ngọc Sơn, bị quân thủ thành mai phục bắt được. Không hề thấy mặt Hương Ngọc Sơn.”

Từ Tử Lăng lúc này mới vỡ lẽ, thì ra Hương gia phái người đến Ba Đông là để đối phó với Vân Ngọc Chân, việc phát hiện hành tung vợ chồng Hàn Trạch Nam là ngoài dự kiến. Gã ngạc nhiên hỏi: “Nàng đã không màng đến thế sự, vì sao Hương Ngọc Sơn vẫn chưa chịu buông tha?”

Vân Ngọc Chân đáp: “Bởi vì ta biết quá nhiều bí mật của bọn hắn, thêm vào đó lại có quan hệ mật thiết với các ngươi. Hương Ngọc Sơn dĩ nhiên muốn giết người diệt khẩu.”

Từ Tử Lăng nói: “Bọn chúng hình như không quyết ý muốn giết nàng. Điều khiến người ta kỳ quái chính là tại sao Hương gia muốn giao nàng cho người của Lý Kiến Thành?”

Vân Ngọc Chân hoang mang đáp: “Ta chẳng biết phải nói gì nữa“

Từ Tử Lăng chợt nghĩ ra: “Quan hệ của nàng và Hải Sa bang như thế nào?”

Vân Ngọc Chân thở dài đáp: “Ngươi và ta đều rõ, vì xung đột lợi ích nên Cự Kình bang và Hải Sa bang trước nay luôn ở thế bất lưỡng lập. Bởi bang ta giúp các ngươi khiến bọn chúng tổn thất trầm trọng, Long Vương Hàn Cái Thiên vì trọng thương mà phải thoái vị. Bọn chúng không dám trêu vào Từ Tử Lăng ngươi, nên mới coi ta là kẻ thù đầu sỏ. Nếu không được Tiêu Tiễn bảo vệ, e rằng ta đã sớm bị bọn chúng lột da chẻ cốt. Làm người như ta vốn không còn ý nghĩa gì, nhưng ta chưa bao giờ nghĩ đến tự vận. Vậy mà mới rồi, khi bị chuyển từ tay kẻ này sang tay kẻ khác như một món hàng hóa, nếu không phải huyệt đạo bị khống chế, ta thật sự đã có cơ hội chết rồi.”

Từ Tử Lăng đã hiểu. Đám Nhĩ Văn Hoán muốn mang Vân Ngọc Chân giao cho Hải Sa bang làm đại lễ, có thể là điều kiện đầu tiên để mua bán hỏa khí. Gã và Hầu Hi Bạch đã từng chứng kiến giao dịch hỏa khí, chắc chắn rằng đó chỉ là một phần trong giao dịch.

Tin tức này vô cùng hữu dụng, khiến gã hiểu rằng Hương gia, Lý Kiến Thành và Triệu Đức Ngôn đã liên kết với nhau, âm mưu lật đổ Lý Thế Dân. Nếu Lý Thế Dân đánh bại Khấu Trọng, ca khúc khải hoàn quay về Trường An, rất có thể vào một đêm nào đó Thiên Sách Phủ sẽ bị liên quân Lý Kiến Thành và Ma môn tàn sát. Cái đó gọi là tiên phát chế nhân.

Hỡi ôi!

Bất luận vì tình huynh đệ với Khấu Trọng hay vì nghĩ cho thiên hạ vạn dân gã cũng không cam tâm thấy cảnh Khấu Trọng bị tiêu diệt.

Hơn bao giờ hết, chính thời khắc này là lúc hắn cảm thấy chọn lựa trợ giúp Khấu Trọng tranh đoạt thiên hạ là quyết định chính xác không hề lầm lẫn.

Từ Tử Lăng trầm giọng: “Hương Ngọc Sơn muốn giao nàng cho Hải Sa bang nhằm giúp Lý Kiến Thành mua hỏa khí lợi hại của bọn chúng để đối phó với Lý Thế Dân.”

Vóc ngọc của Vân Ngọc Chân run lên.

Từ Tử Lăng nói tiếp: “Những người có mặt trên xe hiện tại đều có cùng mục đích. Nguồn gốc mọi việc là ở Hương gia. Vân bang chủ có bằng lòng tham gia với chúng ta vì đời trừ hại không?”

Vân Ngọc Chân ngạc nhiên quay sang nhìn hắn, giọng có chút ngập ngừng: “Tử Lăng vẫn còn tin ta ư?”

Từ Tử Lăng mỉm cười: “Sự thực, mỹ nhân bang chủ người đối với chúng ta tịnh không có gì sai trái. Ta và Khấu Trọng chưa hề nỡ lòng đối phó nàng. Đúng như nàng đã nói, quan hệ của chúng ta đến nay vẫn mật thiết. Những gì đã qua hãy để cho qua, vậy thì không có những chuyện giải quyết chưa xong hoặc bất tín nhiệm nhau nữa”.

Ánh mắt Vân Ngọc Chân nhìn xa xăm, tràn ngập sát cơ, nàng gằn giọng: “Hắn bất nhân thì ta bất nghĩa, Hương Ngọc Sơn muốn ta chết thì ta muốn hắn vong. Nhưng Khấu Trọng có chịu tiếp nhận ta không?”

Từ Tử Lăng nói: “Không một ai hiểu tâm ý của tiểu tử đó bằng ta, ta có thể bảo đảm ngay lúc này.”

Không nói thêm một lời, Vân Ngọc Chân đưa tay nắm chặt tay gã, gương mặt xinh đẹp như sáng lên, lấy lại sức sống.

Xe ngựa vẫn lao về hướng Đại Giang ở phía trước.

- o O o -

HỒI 682

Thiên Vong Ngã Dã

Ba lớp chiến hào, trong vòng nửa thời thần lần lượt bị lấp bằng. Đường binh lấp hào xong rút lui, trở về doanh trại. Bọn chúng thật sự đã kiệt sức sau khi nếm đủ mùi vị gió tạt mưa quất, bị thấm lạnh vì toàn thân sũng nước.

Mưa đã nhỏ đi đôi chút, nhưng gió vẫn mạnh dần lên, trời đất vẫn chìm ngập trong màn nước mù mịt. Tiếng gió mưa ào ào át cả tiếng la hét của binh sĩ và tiếng ken két của bánh xe. Đợt binh sĩ thứ hai đội mưa tiến lên, hàng lớp chỉnh tề, gồm các binh chủng bộ binh, lớp đao thuẫn trong tay, lớp cung tiễn và công binh chia thành năm chi đội, nhanh chóng tản rộng khắp vùng bình nguyên, tiến thẳng đến các vòng hào đã được lấp bằng, mục tiêu là lớp tường vây bên ngoài sơn trại. Đằng trước mỗi nhánh quân công trại có mười cỗ trọng xa vừa có khả năng cản tên vừa có khả năng phá tường và năm cỗ lôi mộc xa, mang theo thang dài, trông như năm con ác long chầm chậm nhưng chắc chắn từng bước tiến đến gần.

“Thùng! Thùng! Thùng!”

Hơn trăm chiếc trống trận cùng lúc thúc vang, chỉ huy và điều chỉnh năm mũi tấn công gồm tổng cộng hai vạn năm ngàn lính bộ binh. Đất trời như càng thêm hôn ám trong bầu không khí sát phạt.

Từ doanh trại ở chủ lâu và hẻm núi, Thiếu Soái quân do Ma Thường, Hình Nguyên Chân, Bạt Dã Cương, Bạch Văn Nguyên, Vương Huyền Thứ chỉ huy xông ra không chút do dự. Khấu Trọng rất trân trọng bọn họ, trước giờ đều dẫn đầu hàng quân xung trận, cảm động sâu xa đến từng cá nhân, khiến bọn họ cam tâm tình nguyện tận lực vì gã cho đến chết.

Nhìn hơn tám ngàn huynh đệ bất chấp tính mạng hăm hở nhảy lên đầu tường, leo lên vọng gác, chuyển cây bê đá, chuẩn bị máy bắn đá, sẵn sàng nghênh đón địch nhân binh lực gấp ba lần bọn họ, Khấu Trọng cười ha hả nói: “Chúng ta có sơn trại hiểm trở dễ dàng phòng thủ, mục tiêu thì rõ ràng, nhờ thế sức chiến đấu tăng gấp ba lần, một người dư sức đánh ba người, so ra thực lực hai bên ngang nhau.“

Bạt Phong Hàn vỗ Thâu Thiên kiếm trên lưng, cười nói: “Thêm vào hai cây cung Thích Nhật, Xạ Nguyệt và hai thanh Thâu Thiên cùng Tỉnh Trung Nguyệt sắc bén, ưu thế của ta còn nhỉnh hơn địch nhân một chút, chúng ta há sợ sao?”

Vừa lúc đó, Bạch Văn Nguyên đến bên cạnh Khấu Trọng, nói: “Trần công phụ trách phòng thủ phía nam hạp khẩu, tôi chọn bốn trăm người giao cho ông ta, Thiếu soái hãy an tâm.”

Khấu Trọng vui vẻ gật đầu, quay sang hỏi Vương Huyền Thứ ở phía sau lưng Bạch Văn Nguyên: “Ngươi an trí Tiểu Hạc nơi nào?”

Mặt Vương Huyền Thứ bất giác đỏ hồng, nhìn quân địch thanh thế hung hãn đến trời rung đất chuyển đang tiến lên chỉ còn cách vòng chiến hào sát tường bao không quá ngàn bộ, hít một hơi lạnh, đáp: “Tiểu Hạc muội tử ở trong chủ lâu, có Vô Danh làm bạn. Nàng năn nỉ ta cho phép đến đây giúp một tay, nhưng Huyền Thứ sao dám để nàng mạo hiểm đến chốn tên lạc đá bay này.”

Toàn thân Bạt Phong Hàn bỗng thoáng rung lên, quay đầu về phía trước, hai mắt chăm chú nhìn xuyên qua màn mưa dày đặc, trầm giọng nói: “Huynh đệ! Chúng ta đã lầm một điểm, binh lực đối phương không phải hơn chúng ta ba lần, mà là gấp sáu lần.”

Khấu Trọng kinh sợ, ánh mắt chằm chặp nhìn ra vùng gò đồi ngoài trại, thất thanh nói: “Con bà nó, còn có cả nỏ máy tám tên và đại pháo bắn đá nữa.”

Ma Thường đến sau lưng hai người, tiếp lời: “Chắc chắn là từ Lạc Dương chuyển đến theo đường sông.”

Trận mưa lớn tầm tã rồi cũng đi qua, mây đen dày đặc che phủ bầu trời đã tiêu tán, nhưng ông trời như vẫn chưa tận hứng, trước khi ngừng còn phủ toàn bộ chiến trường trong làn mưa bụi li ti tựa sương khói.

Ẩn hiện trong làn mưa giăng giăng, lực lượng công trại của Đường quân đã tràn ra khắp vùng bình nguyên, chia thành hai tổ tiến tới. Mười cỗ nỏ máy, năm cỗ máy bắn đá và hàng trăm chiếc thang công thành dài nhẹ hỗ trợ cho hai mũi chủ công gồm các toán thuẫn đao thủ và cung tiễn thủ. Còn tít tận ngoài xa, nơi cảnh vật chỉ còn trông thấy lờ mờ là lực lượng kỵ binh đã dàn trận sẵn sàng.

Lòng Khấu Trọng như trầm xuống.

Với sự tương quan lực lượng như thế này thì làm sao đánh đây? Nhưng lại không thể không đánh. Nội việc đối phó với hai vạn năm ngàn bộ binh công trại của đối phương cũng đủ khiến bên mình kiệt quệ, tường phá trại hủy, thương vong thê thảm. Chưa kể hỗ trợ cho lực lượng vô cùng hùng hậu ấy còn có thêm uy lực tàn phá khủng khiếp của những cỗ nỏ máy tám tên và những đại pháo bắn đá.

Khấu Trọng cảm thấy tử vong đang nhích dần đến gần theo từng bước tiến đến gần của địch nhân.

o0o

Đổi chỗ cho Lôi Cửu Chỉ vào trong thùng xe bàn chuyện với vợ chồng Hàn Trạch Nam, Từ Tử Lăng ra ngoài ngồi xuống bên cạnh Hầu Hi Bạch, thấp giọng hỏi: “Không có một tin tức gì của Khấu Trọng ư?”

Hầu Hi Bạch đáp: “Không một ai hiểu chuyện gì đã xảy ra giữa Lý Thế Dân và Khấu Trọng, bất quá chỉ biết Khấu Trọng vẫn còn nỗ lực ngoan cường kháng cự. Hai bên đang giằng co ở Bành Lương, mà Đường quân ở Lạc Dương lại chưa theo đường sông tiến xuống phương nam. Bây giờ mọi người đều không khỏi đánh giá cao Thiếu Soái quân.”

Hầu Hi Bạch liếc nhìn Từ Tử Lăng, thấy thần sắc gã bình tĩnh, trong lòng cũng yên tâm phần nào, nói tiếp: “Lý Nguyên Cát công khai xử tử Đậu Kiến Đức là một sai lầm hết sức to lớn, khiến đám binh sĩ còn sống sót của Đậu Kiến Đức vô cùng căm phẫn, quyết ý ủng hộ Lưu Hắc Thát cùng Đường quân sống mái đến cùng.”

Từ Tử Lăng nhíu mày nói: “Quân đội của Đậu Kiến Đức vô cùng tinh nhuệ còn bị Lý Thế Dân đánh cho tan tác, khiến ta băn khoăn làm sao Lưu đại ca lại bất trí như thế, trong tình thế thua kém rõ ràng mà vẫn vùng vẫy như con thú vào đường cùng. Nhưng huynh ấy chính là loại anh hùng hảo hán thà chết chứ không khuất phục.”

Hầu Hi Bạch kể tiếp: “Về mặt này thì Lý Nguyên Cát mắc hết lỗi này đến lỗi khác. Lý Thế Dân không có mặt, hắn chủ trì Lạc Dương, không những không vỗ về làm yên lòng quân Hà Bắc, mà còn hạ lệnh triệt để truy bắt bộ thuộc cũ của Đậu Kiến Đức, bức bách họ phải đoàn kết lại dưới cờ Lưu Hắc Thát. Còn một việc nữa cũng làm cho dân chúng Hà Bắc vô cùng công phẫn. Đó là chuyện Đậu Kiến Đức thân thiết với Hoài An vương Lý Thần Thông và Tú Ninh công chúa thiên hạ đều biết, Lý Nguyên Cát giết Đậu Kiến Đức đã là điều không nên, lại còn muốn đuổi tận giết tuyệt. Lưu Hắc Thát được mọi người khắp nơi ủng hộ sau cái chết của Đậu Kiến Đức là điều do chính hắn mà ra.”

Từ Tử Lăng than thầm trong lòng, nếu để loại người như Lý Nguyên Cát nắm quyền lực, thiên hạ sẽ không có một ngày bình yên. Vô luận Lý Kiến Thành hay Lý Nguyên Cát thành người trị quốc, không ai có thể là đối thủ của Hiệt Hợi.

Hầu Hi Bạch tiếp tục: “Nghe nói các tướng cũ trong quân Hà Bắc như Phạm Nguyện, Tòa Trạm và Cao Nhã Hiền đều ủng hộ Lưu Hắc Thát. Vu Chương Nam cùng Huyền Cử Nghĩa đã lần lượt từng người đến quy phục. Xem ra gió đã nổi, mây đã tụ ở Hà Bắc, sắp sửa lại bắt đầu một trường phong vũ.”

Từ Tử Lăng thầm nghĩ, nếu Khấu Trọng quả thật có thể chờ đến khi đại quân Tống Khuyết bắc tiến thì lúc đó tình hình Lý Thế Dân sẽ vô cùng khó khăn do phải ứng phó cùng lúc với hai cuộc chiến.

Hầu Hi Bạch lại nói: “Lưu Hắc Thát không phải không có nỗi lo sau lưng. Cao Khai Đạo phía đông bắc thấy Lạc Dương thất thủ liền đầu hàng nhà Đường, khiến Lưu Hắc Thát lâm cảnh tiền hậu thọ địch.”

Từ Tử Lăng nhớ đến đại tướng Trương Kim Thụ của Cao Khai Đạo, rồi liên tưởng tới Đỗ Hưng ở Sơn Hải quan bèn chuyển sang chuyện khác hỏi nhỏ: “Giờ chúng ta đi đâu?”

Hầu Hi Bạch đáp: “Để địch nhân không thể tìm ra hành tung, Lôi đại ca an đã bài kỹ lưỡng cho chúng ta đi thẳng tới Đại Giang, lên thuyền thuận dòng xuôi đông rồi đổi sang Vận Hà ngược bắc đến Chung Ly. Tại đó, trong phạm vi thế lực của Thiếu Soái quân, Hàn huynh một nhà ba người sẽ được bảo vệ an toàn.”

Từ Tử Lăng muốn nói mà không thốt nên lời. Nếu Khấu Trọng thua trận, Chung Ly sẽ bị Lý Tử Thông tấn công sớm hơn một bước so với Bành Lương. Nghĩ tới nghĩ lui rồi quyết định không nói ra.

Gã rất hy vọng có thể trở về bên cạnh Khấu Trọng đúng lúc, nếu chết thì cả hai cùng chết một chỗ. Nhưng việc trước mắt cũng không thể không lo, ít nhất phải chờ vợ chồng Hàn Trạch Nam và Vân Ngọc Chân đến được nơi đã định gã mới dám rời họ. Lại còn Âm Hiển Hạc vẫn cần gã quan tâm chiếu cố, vạn nhất bệnh cũ tái phát thì lúc ấy Đại La Kim Tiên cũng không thể cứu nổi y.

o0o

Mây tan mưa tạnh. Bầu trời sao bị khói đen bốc lên từ hơn mười đống lửa trong ngoài sơn trại che lấp, biến thành xám xịt ảm đạm.

Đội tiên phong của Đường quân đã rút xuống sườn đồi như nước lũ, lui về trận địa của chúng, để lại những chiếc xe phá tường nếu không bị tổn thất nghiêm trọng, thì cũng bị lửa thiêu rụi. Mười một chiếc xe toàn là bị hủy trong trại chứ không phải bên ngoài.

Ngay cả lúc đó Khấu Trọng cũng không rảnh được lấy một chút. Hơn ngàn chiến sĩ bị thương cần được đưa đến nơi an toàn trong hẻm núi cho lương y binh sĩ chăm sóc, đám công binh lo dập lửa, chủ lâu bị thiêu hủy gần một nửa, toàn bộ các tiễn lâu đều đổ sụp, không còn khả năng phòng ngự.

Tường vây sơn trại bị địch nhân dùng xe công phá húc thủng ba chỗ, cổng lớn kiên cố bị phi thạch phá hủy trầm trọng, khắp nơi ngổn ngang cây gãy đá vỡ như lời đề tỉnh mọi người về trận chiến kịch liệt vừa rồi.

Đường quân chết và bị thương hơn ba ngàn người, nhiều gấp ba lần so với bên Khấu Trọng. Nhưng vấn đề là số lượng tham chiến mới chỉ là một phần ba binh lực của Lý Thế Dân, phần còn lại đang bắt đầu phát động đợt cường công thứ hai.

Khấu Trọng toàn thân vấy máu đứng trên đoạn tường thành còn tương đối nguyên vẹn, nhớ lại cuộc chiến giống như một cơn ác mộng vừa rồi. Chỉ hận là cơn ác mộng sẽ lại tiếp diễn và chỉ có cái chết mới có thể kết thúc nó.

Nửa thời thần trước đó, bọn họ đầu tiên dùng lôi mộc chống địch, ngăn cản được địch nhân tấn công lên sườn núi, sau đó dựa vào lợi thế trên cao, dùng tên cứng và đá tảng kiên cường bẻ gãy các cuộc tấn công của địch nhân, nửa bước cũng không cho đối phương vượt qua ranh giới.

Tuy nhiên ưu thế ấy không thể duy trì mãi. Đường quân đã dùng dây thừng kết chặt cây gỗ thành một cái chụp rồi sau đó cột lừa vào trong cho kéo đi. Từ trên càng ném xuống chúng bao nhiêu, bọn chúng càng lồng lộn chạy bấy nhiêu, làm cho Thiếu Soái quân hết sạch lôi mộc. Đường quân dùng thế lôi đình vạn quân mạo hiểm tấn công lên được sườn núi, sau đó triển khai công kích vừa phá tường vừa bắc thang leo lên. Thiếu Soái quân liều chết phản kích, Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn dẫn đầu binh sĩ, thi triển toàn bộ bản lĩnh mà vẫn bị địch nhân ba lần lọt vào trong trại.

Dưới sư chỉ huy của Khấu Trọng, Thiếu Soái quân kiên cường nỗ lực tử thủ trên đầu tường và chủ lâu, tiếp đó Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn đích thân dẫn đầu hai toán quân đánh đuổi được địch ra ngoài trại. Mãi đến lúc đó mưa mới ngừng hẳn, hỏa khí lại có đất phát huy tác dụng, giết cho địch nhân kinh hoàng dạt xuống sườn núi. Lý Thế Dân là kẻ hiểu lẽ tiến thoái bèn khua chiêng thu binh.

“Thùng! Thùng! Thùng!”

Hơn một vạn quân bộ binh vừa tăng cường được trang bị nỏ máy tám tên và đại pháo bắn đá, theo sau là năm ngàn kỵ binh cùng dừng lại cách sườn núi chừng trăm bộ.

Khấu Trọng thuận miệng hỏi: “Hỏa khí còn lại nhiều ít thế nào?”.

Ma Thường nghiến răng chịu đựng vết thương bị đao chém trên ngực trái, trầm giọng: “Đã dùng hết rồi!”

Khấu Trọng giật thót người, quay nhìn Bạt Phong Hàn đứng ngay phía trước. Họ Bạt chăm chú quan sát hậu phương địch nhân ở tít ngoài xa, rồi chậm rãi thốt lên: “Cuối cùng, Lý Thế Dân đã đăng trường!”

Khấu Trọng trong lòng chấn động, ngưng thần nhìn theo. Cờ hiệu của Lý Thế Dân giương cao, hai vạn đại quân chủ lực lấy kỵ binh làm chủ, bộ binh làm phó, bắt đầu đi lên phía trước.

Ma Thường nói: “Nếu chúng ta rút vào hẻm núi, có thể chống cự thêm vài ngày!”

Khấu Trọng cười ha hả: “Cho dù phải chết, ta cũng muốn chết cho thật oanh liệt. Con bà nó! Hà huống chắc gì ta sẽ thua.”

Bạt Phong Hàn lên tiếng hỏi: “Cơ hội thoát về phía nam thế nào?”

Ma Thường lắc đầu đáp: “Những chỗ rộng đã sớm bị Đường quân dùng đất đá bịt kín, lại dùng thạch trại ở bên ngoài phong tỏa lối ra. Nếu muốn đột phá vòng vây, chỉ có thể xông ra phía trước.”

Khấu Trọng lắc đầu, cương quyết nói: “Chúng ta chỉ có một cơ hội duy nhất là thủ chắc sơn trại, đánh đuổi địch nhân, ngày mai sẽ nghĩ cách tu bổ các chỗ vỡ.”

Bạt Dã Cương đứng phía sau giờ mới lên tiếng: “Nhưng làm thế nào đối phó với nỏ máy và đại pháo bắn đá của đối phương?”

Khấu Trọng than thầm, trầm giọng: “Phương pháp duy nhất là chủ động xuất kích, do ta và lão Bạt dùng tên cứng tập kích địch từ xa. Trước hết là làm loạn thế trận, sau đó dùng ba ngàn kỵ binh xông vào trận địch. Chỉ cần phá hủy xe bắn nỏ nặng nề và đại pháo bắn đá, khả năng tác chiến của địch sẽ giảm nhiều.”

Mọi người lặng thinh, không biết nói gì.

Cứ theo sự thực mà nói, vừa mới chống đỡ xong đợt tấn công như thủy triều của địch quân, nay lại tiếp tục một cuộc xung kích nữa thì binh sĩ trong trại thật không thể gắng gượng nổi. Huống chi địch nhân còn có năm ngàn kỵ binh áp trận, làm sao kỵ binh bên ta xung kích? Nhưng bởi không ai nghĩ ra biện pháp nào hay hơn nên chỉ đành im lặng.

Khấu Trọng tự biết kế cùng lực kiệt, nhưng với tính cách của gã, dù biết rõ sẽ chết, vẫn muốn nỗ lực tranh đấu đến hơi thở cuối cùng.

Khi còn cách đội tiên phong phía trước chừng năm trăm bộ, đại quân chủ lực của Lý Thế Dân dừng lại.

Đối phương đốt lên hàng ngàn ngọn đuốc, cả vùng gò đồi bên ngoài sơn trại rực sáng một màu máu. Binh lực áp đảo, khí thế như cầu vồng, đích thực có thể khiến binh lính phòng thủ trong trại tim rung mật vỡ, tự nhủ ngày tàn đã đến.

Khấu Trọng bất chợt cười khan: “Đây có thể nói trời không muốn ủng hộ. Nếu vừa rồi không phải mưa to mà là tuyết lớn thì không biết cục diện bây giờ ra sao.”

“Thịch!”

Hình Nguyên Chân và Vương Huyền Thứ bước lên thành lâu cùng lúc quỳ xuống phía sau Khấu Trọng. Hình Nguyên Chân hai mắt ứa lệ bi thương nói: “Thỉnh Thiếu soái và Bạt gia tức khắc phá vòng vây thoát chạy, Lý Thế Dân để chúng ta đối phó. Thiếu soái và Bạt gia sẽ vì chúng ta rửa mối huyết hận này.”

Khấu Trọng ngạc nhiên quay lại, chúng nhân đều đã quỳ xuống khấu đầu. Gã ngẩn người nhìn sang Bạt Phong Hàn.

Bạt Phong Hàn mỉm cười: “Không cần nhìn. Ta và ngươi tuyệt không bao giờ bỏ rơi huynh đệ của mình mà đào thoát.”

Khấu Trọng ngẩng nhìn trời cười nói: “Tốt! Các ngươi mau đứng dậy. Ta không biết phải nói sao cho hết niềm xúc động trong lòng. Nếu phải chết mọi người sẽ chết cùng một chỗ. Nhưng ta nghĩ chúng ta sẽ không chết. Ta vẫn tin tưởng sẽ thắng trận này.”

“Thùng! Thùng! Thùng!”

Theo nhịp trống trận, đội tiên phong của địch nhân bắt đầu tiến về phía sơn trại đã bị tàn phá tan hoang, mang theo sát khí ngùn ngụt.

- o O o -

Hồi 683

Tuyệt Xứ Phùng Sinh

  Chiếc thuyền buồm xuôi dòng về phía đông.

Từ Tử Lăng và Hầu Hi Bạch ở lại đuôi thuyền giám sát động tĩnh, xem có chiếc thuyền khả nghi nào bám theo không. Địch nhân vốn xuất thân từ Hương gia, bang hội danh trấn thiên hạ trong việc thu thập tình báo, nên không thể không đề phòng.

Lái thuyền chính là thuộc hạ của một bang hội bằng hữu với Lôi Cửu Chỉ, y đối với con nước Trường Giang thuộc làu như lòng bàn tay.

Lôi Cửu Chỉ đến bên cạnh Từ Tử Lăng, nói với vẻ hưng phấn: “Chuyến đi này thực sự là điểm ngoặt quan trọng trong ‘diệt Hương đại kế’ của chúng ta, phải nói là vô cùng tuyệt diệu.”

Hầu Hi Bạch cười hỏi: “Tuyệt diệu như thế nào?”

Lôi Cửu Chỉ hớn hở: “Hương gia khẩn trương đến như thế, phải phát động toàn bộ nhân lực, vật lực của mình trong cả nước để tìm cho ra tung tích của đôi vợ chồng Hàn Trạch Nam, bên trong phải có nguyên nhân chứ.”

Từ Tử Lăng và Hầu Hi Bạch nghe qua, tinh thần liền chấn động.

Lôi Cửu Chỉ nói tiếp: “Khi Hàn Trạch Nam biết được Bạch Tiểu Thường đã có mang sáu tháng, bèn quyết định cùng nhau bỏ trốn. Hắn sắp đặt cẩn thận, mang theo cả lô sổ sách giấy tờ trọng yếu, kể cả danh sách thanh lâu đổ trường của Hương gia trong khắp các xứ, tên tuổi và cả chi tiết lương bổng của đầu lĩnh tại từng địa phương. Có được số sổ sách ấy thì xem như toàn bộ vương quốc tội ác của Hương gia sẽ nằm gọn trong tay chúng ta. Phu phụ Hàn Trạch Nam trốn khỏi Hương gia, mang số sổ sách giấu vào một nơi bí mật để làm bùa hộ mạng sau này, rồi chạy đến một tiểu trấn ở Ba Thục là nơi mà thế lực Hương gia chẳng có bao nhiêu. Bọn họ chọn nơi ẩn cư ở Ba Động Thành là nơi không có thanh lâu sòng bạc nào của Hương gia, đúng là không có ai hiểu biết về thế lực của Hương gia hơn bọn họ

Hầu Hi Bạch mừng rỡ: “Vậy bọn ta hãy lập tức đi lấy số sổ sách đó tung ra!”

Lôi Cửu Chỉ nói: “Số sổ sách đó ghi lại những chuyện dưới thời cựu triều Dạng đế, so với tình hình hiện nay đã có nhiều thay đổi, nên chỉ có giá trị tham khảo, nhưng đương nhiên cũng hết sức hữu dụng.”

Từ Tử Lăng hỏi: “Từ lúc đó đến nay đã có gì thay đổi?”

Lôi Cửu Chỉ nói: “Hương gia cưỡng bách dân nữ, vừa để phụng thị Dương Quảng, vừa là trông cậy vào sự bảo hộ của hắn hòng khuếch trương thế lực và đáp ứng nhu cầu của khách tầm hoa tại các thanh lâu đổ trường khắp xứ để thu lợi. Ngoài ra còn cung cấp đệ tử mới cho các hệ phái của Ma môn, giúp họ có hậu nhân kế tục. Chẳng những thế, chúng lại chuyên tâm huấn luyện các thiếu nữ để bán thẳng cho những nhà phú hộ quyền quý, trực tiếp thu lợi. Nhờ thế mà trong vòng vài chục năm ít ỏi, Hương gia đã khuếch trương được thế lực ra toàn quốc.”

Từ Tử Lăng bất giác đưa mắt nhìn Hầu Hi Bạch dò hỏi, họ Hầu lắc đầu đáp: “Đối với những việc lúc nhỏ, ta nhớ rất rõ, không hề có chút quan hệ nào với Hương gia hết.”

Lôi Cửu Chỉ gục gặt đầu, nói tiếp: “Việc kinh doanh mua bán phụ nữ của Hương gia bắt đầu từ lúc Dương Quảng lên ngôi, nhưng bọn họ cũng không ngờ nổi triều đình Dương Quảng lại sụp đổ mau đến thế. Từ sau khi Vũ Văn Hóa Cập lật đổ triều Tùy trở đi, bọn họ không dám táo gan theo đuổi công việc khiến người người căm giận như thế nữa. Bất quá, số thanh lâu sòng bạc của bọn họ đã bám rễ chắc chắn ở các nơi, chỉ cần biết phải trái với bọn đương chức đương quyền ở địa phương là vẫn có thể tiếp tục hưng vượng và phát triển. Trong tình thế hiện nay, bọn họ quyết định cấu kết với Lý Kiến Thành là người có nhiều khả năng trở thành hoàng đế nhất, nên đem toàn lực ra ủng hộ y.”

Từ Tử Lăng trầm giọng: “Vì vậy, bất cứ là Lý Thế Dân hay Khấu Trọng chiếm được ngôi vua, thế lực của Hương gia cũng sẽ sụp đổ tan tành. Có điều chưa rõ là Hương gia rốt cuộc có mối quan hệ như thế nào với Thánh môn?”

Lôi Cửu Chỉ đáp: “Quan hệ thực sự như thế nào e rằng chỉ có bản thân Hương Quý hiểu rõ. Y chắc chắn là người được Ma môn lục phái hợp sức tài bồi để thông qua y mà gom góp tiền bạc và khuếch trương thế lực cho Ma môn. Hương Quý có ba người con, các ngươi mới biết Trì Sanh Xuân và Hương Ngọc Sơn, nhưng còn huynh trưởng của bọn y thì cho các ngươi đoán thế nào cũng không ra đâu.”

Cả hai nghe nói thế đều ngẩn người ra.

Lôi Cửu Chỉ hạ giọng nói: “Chính là Dương Văn Can, quý tộc của Tùy triều trước đây, cùng với Dương Hư Ngạn có mối quan hệ mật thiết. Hương Quý vốn phái y vào kề cận Dương Quảng, phục thị dâm nhạc cho tên hôn quân này. Nhân đó mà y được Dương Quảng ban cho quốc tính, đổi tên từ Hương Văn Can thành Dương Văn Can, tạo nên thế lực to lớn của Hương gia, hùng cứ suốt một dải từ Quan Trung đến Kinh Triệu. Theo ta đoán, Dương Hư Ngạn vốn là một nhân vật của Ma môn, thấy Hương gia có giá trị lợi dụng nên cấu kết với Dương Văn Can, bề ngoài làm ra vẻ toàn lực phò tá Lý Kiến Thành, bên trong kỳ thực lại ngầm tính toán riêng tư.”

Từ Tử Lăng chợt hiểu ra, thảo nào mà Dương Văn Can có thể giật dây được cả Hương gia và Ma môn làm loạn.

Hầu Hi Bạch nói: “Hiện giờ Hương gia dường như đã biết vợ chồng Hàn huynh hợp tác với chúng ta, Hương Quý liệu sẽ phản ứng như thế nào?”

Bấy giờ Kiệt nhi chạy ào tới, mặt đỏ bừng vì hưng phấn, giật giật tay áo Hầu Hi Bạch, thét to: “Mẫu thân cháu nói Hầu thúc thúc là thiên hạ đệ nhất họa sư! Thúc thúc vẽ cho Kiệt nhi, phụ thân và mẫu thân cháu một bức họa được không?

Hầu Hi Bạch không cách nào từ chối, bị cậu ta kéo đi, đành ngoái đầu lại nhìn hai người cười khổ: “Ta có lẽ không phải là họa sư giỏi nhất, nhưng chắc chắn là họa sư thu tiền nhuận bút đắt nhất, bất quá lần này ta phục vụ miễn phí vậy.”

Một lớn một bé đi rồi, Từ Tử Lăng trầm ngâm: “Từ giờ trở đi, Hương gia sẽ thu xếp như thế nào nhỉ? Chẳng lẽ toàn bộ lầu xanh sòng bạc đều phải đóng cửa ư?”

Lôi Cửu Chỉ nói: “Chí ít, Hương Quý cần phải rút ra khỏi địa bàn quản trị của Khấu Trọng, trước khi thế lực của y bị nhổ bật gốc rễ.”

Từ Tử Lăng ngẩng mặt nhìn bầu trời đêm, thầm hình dung lại gương mặt của Khấu Trọng, trước khi thế lực của Hương gia tan nát, Khấu Trọng có thể nào thoát khỏi mệnh vận tương tự như vậy hay không?

o0o

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn nhảy lên lưng ngựa, đối diện với địch nhân đang ùn ùn kéo tới sơn trại trên đỉnh dốc, theo sau khoảng ba ngàn quân phiêu kỵ, dàn thành trận thế trên đỉnh dốc nghiêm cẩn chờ đợi Khấu Trọng phát lệnh tấn công.

Địch nhân dừng chân bố trận, đứng đầu là La Sĩ Tín và Lưu Đức Uy, hai danh tướng đã trải ngoài trăm trận. Nếu Khấu Trọng muốn tiên phát chế nhân, xông vào trận, bọn thủ hạ sẽ mau chóng kết thành trận thế phòng ngự, dùng giáo mộc, cung tên trùng trùng che đỡ cho máy bắn nỏ và phi thạch đại pháo đang chuẩn bị nghênh đón những đợt tấn công của quân Khấu Trọng. Tạm thời, hai bên đã hình thành cục diện đối chọi nhau.

Khấu Trọng mắt chiếu thần quang, gạt bỏ chuyện sinh tử thắng bại ra khỏi tâm trí, chỉ nghĩ một điều, trước khi chết, hắn có thể đả thương được bao nhiêu quân địch.

Bạt Phong Hàn thấp giọng nói với Hình Nguyên Chân và Bạt Dã Cương đang đứng phía sau: “Ta cùng Thiếu soái lên trước, các người ở sau quan sát chờ cơ hội tiếp ứng, hãy nhớ phải tập trung lực lượng, không được phân tán.”

Hình Nguyên Chân và Bạt Dã Cương gật đầu tuân lệnh, trong thiên hạ, e rằng chỉ có mỗi Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn và một số rất ít người nữa có đủ đảm lượng và năng lực đối diện với thiên quân vạn mã mà không lo sợ, còn dám xông thẳng vào phá trận.

Khấu Trọng đưa tay vuốt ve cổ ngựa, than: “Ta thật có lỗi với mã huynh đệ, bất quá ta sẽ vì ngươi mà đòi nợ máu vậy.”

Bọn Hình Nguyên Chân hai người thầm thở dài, một khi địch nhân bắn tên nỏ ra, Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn muốn thoát khỏi cũng đã là chuyện vô cùng khó khăn, chiến mã cùng đi dĩ nhiên khó thể sinh tồn.

Hai tay dũng sỹ từ trong trại chạy ra, mang theo hai tấm khiên lớn trao cho Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn, nói rằng phụng mệnh Ma Thường tướng quân đưa đến, rồi liền quay về trại.

Khấu Trọng dồn chân khí vào tấm khiên, phát ra một tiếng coong vang dội, rồi nhóng mắt nhìn về phía đội quân chủ lực của Lý Thế Dân bên kia chiến tuyến, ha hả cười, nói: “Khấu Trọng ta xưa nay đã kinh qua vô số trận lớn nhỏ, chưa ai làm gì nổi ta, liệu Lý Thế Dân hôm nay có thể làm gì hơn được?”

Bạt Phong Hàn thét to: “Tắt lửa!”

Toàn bộ đèn đuốc của sơn trại lập tức tắt ngóm, trong ngoài tối đen như mực, cả đoàn quân kỵ mã của Khấu Trọng chìm vào bóng tối, trong khi phía địch quân đèn đuốc sáng choang, một sáng một tối, bất đồ hình thành nên một cảm giác căng thẳng đến nghẹt thở.

Khấu Trọng áp sát bụng ngựa, phóng xuống triền núi, Bạt Phong Hàn theo sát phía sau.

Hình Nguyên Chân, Bạt Dã Cương và Ma Thường ở trong trại cùng đồng thanh thét lớn, kéo theo tiếng reo hò cuồng mãnh trợ uy của Thiếu Soái quân trong ngoài trại, làm giảm đi phần nào nhuệ khí của quân địch đang bao vây bốn phía.

Lúc này, niềm tin lớn nhất của Thiếu Soái quân chính là ở chỗ có được hai vị thủ lĩnh vô địch Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn. Liệu họ có thể tái lập kỳ tích giúp mọi người thoát khỏi tai họa toàn quân tuyệt diệt hay không? Nhưng dù lòng tin của bọn họ đối với hai vị thủ lĩnh có lớn đến đâu, khi đối diện địch nhân với ưu thế áp đảo đến thế, cũng không tránh khỏi có phần dao động.

Địch quân thúc mạnh trống trận, cung trương nỏ dựng sẵn sàng, thủ thế chờ đợi.

La Sĩ Tín vừa hạ lệnh, bọn binh sĩ từ phía sau lập tức tràn lên lấp kín mọi khoảng trống, khiến cho hai người không tìm được kẽ hở nào xâm nhập vào trận. Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn nếu cứ cương cường xông thẳng trận, trong tình thế không thể thi triển quyền cước, sẽ khó tránh khỏi nạn loạn đao phân thây.

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn xuống đến nửa chừng dốc, còn cách địch nhân chừng hơn nghìn bước, liền thi triển thuật người ngựa hợp nhất, đồng thời ghìm ngựa dừng lại.

Chiến mã dựng vó hí dài.

La Sĩ Tín biết rằng muốn chặn hai người cần phải dùng cung nỏ để đánh từ xa, nên lại phát ra mệnh lệnh, kỵ binh ở phía sau lập tức tách ra một đội khoảng nghìn người, phân thành hai cánh tả hữu băng ra, chủ động tấn công, đồng thời hai hàng thương thủ và ba hàng tiễn thủ ở phía trước cũng tề chỉnh đội hình tiến lên chặn bước Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn. Tiếng vó ngựa hòa với tiếng quân đi rầm rập cấu thành một loại tiết tấu đẫm đầy mùi vị tử vong sát phạt.

Vào thời điểm ngàn cân treo sợi tóc này, Khấu Trọng vẫn thản nhiên cười, bảo Bạt Phong Hàn: “Lão ca qua được trận này, chỉ sợ Tất Huyền không còn có thể là đối thủ của huynh.”

Bạt Phong Hàn quét mắt nhìn khắp nhánh bộ binh chính diện lẫn hai cánh quân khinh kỵ, mắt chiếu thần quang sáng quắc, trầm giọng nói: “Chúng ta thà chết cũng không bỏ cuộc.”

Còn chưa dứt lời, tiếng chiêng đã vọng lên gấp rút, nghe như từ phía cánh quân của Lý Thế Dân xa xa vẳng lại, khẩn cấp ra lệnh triệt thoái.

Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn đều sửng sốt, hoàn toàn không hiểu nổi việc gì đang xảy ra nữa.

o0o

Từ Tử Lăng và Lôi Cửu Chỉ bước vào khoang thuyền, vừa đúng lúc nhìn thấy Hầu Hi Bạch trổ tài họa hình Hàn thị phu phụ và Kiệt nhi sống động như thật. Vân Ngọc Chân mở cửa để lộ dung nhan kiều mỹ như xưa, dịu dàng nói: “Ta có thể nói vài câu với Từ Tử Lăng chăng?”

Lôi Cửu Chỉ vỗ vỗ vai Từ Tử Lăng, tế nhị bỏ đi. Từ Tử Lăng đành bước vào phòng Vân Ngọc Chân, xếp bằng ngồi xuống.

Vân Ngọc Chân ngồi xuống bên kia bàn, khẽ thở dài.

Từ Tử Lăng ngạc nhiên hỏi: “Mỹ nhân sư phụ vẫn còn lo lắng việc gì thế?”

Vân Ngọc Chân lộ vẻ cay đắng, than: “Ôi chao! Mỹ nhân sư phụ ư? Ta đã lâu rồi không còn nghe được những lời nói êm tai như thế, Vân Ngọc Chân này đã không còn được như xưa. Tử Lăng lần này lại ngồi thuyền lướt sóng, cảm thấy thế nào? Nghe thấy tiếng mái chèo khua nước quen thuộc, tiếng thân thuyền lướt sóng thiết thân, cả thảy đều khiến lòng người xao động. Trước kia ta vẫn thấy thế là thường, thậm chí chán ghét, cho đến giờ này mới nhận ra đã đánh mất biết bao điều quý báu, tiếc rằng không thể vãn hồi.”

Từ Tử Lăng hiểu nàng đang hối hận về những hành vi xưa kia đã khiến cho thủ hạ bạn bè lìa bỏ, gã trầm tư một chút, rồi nghiêm nét mặt nói: “Cứu vãn chuyện xưa, quả là không có khả năng, song mỹ nhân sư phụ cũng có thể nhìn lại quá khứ với một thái độ khác. Riêng về phần ta, kinh lịch kể cũng đã nhiều nên mạo muội góp ý đôi lời. Sao mỹ nhân sư phụ không ổn định lại tâm trạng, khôn ngoan lựa chọn cho bước đường tương lai của mình, sinh mệnh dẫu sao vẫn còn đẹp đẽ và sung mãn lắm.”

Vân Ngọc Chân cười khổ, đáp: “Ngươi thật chẳng giống Khấu Trọng, lúc nào cũng quá thẳng thắn. Thật ra ta cũng chẳng có chuyện gì, chỉ là nhất thời cảm xúc, phải nói ra cho nhẹ lòng thôi.”. Nàng lưỡng lự giây lát rồi quay đầu nhìn vào mắt y, ra vẻ thản nhiên nói tiếp: “Các ngươi có từng nghĩ đến nên đối đãi với Tiêu Tiễn như thế nào chưa?”

Đến lượt Từ Tử Lăng cười khổ: “Trong lúc sự sống chết của Khấu Trọng còn chưa biết ra sao, tính đến những vấn đề ấy có phải là xa xôi quá không? Nghe nói Tiêu Tiễn, Lý Tử Thông và Phụ Công Hựu đã kết thành liên minh, hợp lực đối phó Đỗ Phục Uy, có phải là thật không?”

Vân Ngọc Chân đáp: “Tiêu Tiễn và Phụ Công Hựu kết minh là sự thật, nhưng không có liên quan gì với Lý Tử Thông cả. Lý Tử Thông đã đầu hàng nhà Đường, lẽ nào dám mạo hiểm đắc tội với Đường thất mà đối phó với Đỗ Phục Uy, cũng là hàng thần của Lý Đường chứ?”

Từ Tử Lăng không nén được, buột hỏi: “Tiêu Tiễn với Hương gia, quan hệ với nhau thế nào?”

Vân Ngọc Chân sảng khoái đáp liền: “Quan hệ giữa Tiêu Tiễn và Hương gia chính là quan hệ giữa Ba Lăng Bang và Hương gia, đôi bên cùng có lợi. Dưới thời cựu triều, Ba Lăng Bang thông qua Hương gia mà được Dương Quảng dung túng hoành hành bá đạo, mau chóng bành trướng thế lực, tiền nhiệm bang chủ của Ba Lăng Bang là Yên Can Lục Kháng Thủ là một người có dã tâm rất lớn, chẳng những không chịu thua sút Hương gia mà còn muốn thâu tóm các nguồn lợi từ thanh lâu đổ quán của Hương gia nữa. Hương Quý hợp mưu với Tiêu Tiễn là vì Dương Hư Ngạn thích sát Lục Khán Thủ, giúp cho Tiêu Tiễn được ngồi vào chiếc ghế bang chủ của Ba Lăng Bang.

Từ Tử Lăng ngạc nhiên hỏi: “Thật thế sao?”

Vân Ngọc Chân gật đầu: “Bất quá mối quan hệ của Tiêu Tiễn và Hương gia đang ở trên bờ vực đổ vỡ, vấn đề ở chỗ Tiêu Tiễn không chịu hiểu tình thế, cùng Lâm Sĩ Hồng hợp tác. Tử Lăng hẳn đã biết ngoài Âm Quý Phái ra, Lâm Sĩ Hồng là một đại nhân vật hết sức xuất sắc mới xuất hiện gần đây chứ?”

Từ Tử Lăng gật gật đầu tỏ vẻ đã hiểu, nhưng rồi lại thắc mắc: “Hương Ngọc Sơn đã đứng về phe Lâm Sĩ Hồng, sao năm xưa lại sai khiến ta và Khấu Trọng đi hành thích Nhậm Thiếu Danh, kẻ hợp tác với Lâm Sĩ Hồng? Lại còn việc Dương Hư Ngạn hành thích Hương Ngọc Sơn lúc đó nữa, là cớ sự gì?”

Vân Ngọc Chân nói: “Mỗi thời mỗi khác, lúc đó Hương gia ngỡ rằng Tiêu Tiễn chịu làm con cờ cho họ thao túng, hy vọng có thể nhân lúc thiên hạ đại loạn mà đục nước béo cò, nên mới đối đầu với Âm Quý Phái. Bây giờ Ma môn các phái đã liên kết lại, Tiêu Tiễn cũng vì cố kỵ với Ma môn, nên không thể lại cùng Hương gia hợp tác. Còn việc Dương Hư Ngạn hành thích Hương Ngọc Sơn, chỉ là đóng trò mà thôi, nếu không sao lại xảo hợp phát động đúng lúc các ngươi đang ở cùng với Hương Ngọc Sơn chứ, bỏ cái dễ, chọn cái khó để làm gì?

Từ Tử Lăng cuối cùng cũng đã làm rõ được mối quan hệ phức tạp giữa Hương gia và Tiêu Tiễn. Gã cũng ngầm đoán ra nàng Vân Ngọc Chân vốn có những mối quan hệ nam nữ hết sức tùy tiện này rất có thể có những liên hệ bí mật nào đó với Tiêu Tiễn, nên mới quan tâm đến số phận của y. Gã thở ra một hơi dài, nói: “Bất luận là Khấu Trọng và Lý Thế Dân ai thắng trong cuộc đấu này, Tiêu Tiễn bị vây khốn trong góc Đại Giang đó, có trốn cũng không khỏi số phận bị tiêu diệt. Ai có thể chiếm được Ba Thục và Trung nguyên đều có khả năng thu thập Tiêu Tiễn. Nếu người đó là Khấu Trọng, hắn nhất quyết không buông tha cho Tiêu Tiễn đâu. Bang chủ hẳn phải hiểu rõ mối ân oán đó sâu xa hơn bất cứ ai.”

Vân Ngọc Chân buồn bã nói: “Nếu đã như vậy, tại sao các ngươi lại tha cho ta?”

Từ Tử Lăng nói: “Kẻ tội đầu chính là Hương Ngọc Sơn, chứ không phải người, Vân Bang chủ chớ nghĩ ngợi lung tung nữa; quá khứ đã là quá khứ, chúng ta có được như ngày hôm nay, Bang chủ cũng có công lao rất lớn, cho dù là công tội ngang nhau. Chỉ cần Bang chủ sẵn lòng dốc toàn lực giúp chúng ta vì đời trừ hại, đã tạo công đức vô cùng rồi. Sau khi ta có thể lên phương bắc đến Bành Lương xem tình hình của Khấu Trọng ra sao, Lôi đại ca sẽ toàn quyền phụ trách việc đối phó với Hương Quý, bang chủ có thể tín nhiệm y.”

o0o

Bấy giờ Khấu Trọng, Bạt Phong Hàn cho đến toàn thể Thiếu Soái quân đều ngơ ngẩn chẳng hiểu việc gì đang diễn ra, tròn mắt nhìn xuống, đoàn quân của Đại Đường đang rùng rùng khí thế hung hăng chuẩn bị toàn lực tấn công bỗng nhiên rút nhanh như thủy triều.

Muốn đến là đến, muốn đi là đi.

Đường quân lui nhưng không loạn, rõ là đã được tinh luyện. Thoái lui trước để kết trận, kế tiếp đến lượt máy bắn cung và phi thạch đại pháo từ từ rút theo đoàn quân. Soái quân của Lý Thế Dân cũng có chuyển động, đi ra hai bên, bố trận tại hai tòa tiểu sơn gần đó, nhường chỗ cho bộ binh từ tuyến đầu di chuyển ra sau.

Bạt Phong Hàn nhíu mày: “Lý Thế Dân đang chơi trò gì nhỉ?”

Khấu Trọng đảo mắt nhìn quanh, trầm giọng: “Hay là y muốn tự mình ra trận?”

Bạt Phong Hàn lắc đầu: “Điều này thật không hợp với phép dùng binh, tuy không ai cấm, nhưng lâm trận rút lui là nguy hiểm vô cùng.”

Khấu Trọng cười khổ: “Tiếc là chúng ta không đủ sức tấn công, nếu không đã có thể dạy cho Lý Thế Dân biết thế nào là mùi vị thất trận.”

“Keng! Keng! Keng!”

Trong tiếng chiêng thu quân, tiền quân của binh Đường đã chỉnh tề rút ra phía sau, biến thành hậu đội, dừng lại lập trận.

Hai cánh soái quân tả hữu của Lý Thế Dân lại hội hiệp thành một, biến thành tiền quân, rời khỏi dốc núi ngoài ba ngàn bộ.

Bạt Phong Hàn lãnh đạm nhận xét: “Chỉ cần Lý Thế Dân dùng bọn Huyền Giáp chiến sỹ làm chủ lực, toàn thể kỵ binh xung sát lên đây, là đủ để đánh bại chúng ta hoàn toàn rồi.”

Khấu Trọng đang định trả lời, bỗng thấy bộ binh của Lý Thế Dân đều đã rút hết, chỉ còn tuyến kỵ binh ở lại.

Khấu Trọng sửng sốt: “Con bà nó! Chuyện gì đang xảy ra vậy? Không lẽ Lý Thế Dân định sai mỗi kỵ binh công trại, nếu như vậy số thương vong sẽ rất lớn, thật chẳng khôn ngoan chút nào.”

Bạt Phong Hàn chuyển mục quang nhìn về hướng đông, quãng đồng trống chìm trong bóng tối vẫn không có bất kỳ động tĩnh nào.

Khấu Trọng lại thốt lên kinh ngạc: “Mẹ ơi! Lý Thế Dân rút quân thật rồi.”

Lúc bấy giờ, hai cánh quân khinh kỵ của Lý Thế Dân cũng quay đầu rút khỏi, chỉ còn lại đội Huyền Giáp chiến sĩ.

Đột nhiên, đèn đuốc phía địch quân lần lượt tắt ngóm, cả hai bên chiến trường toàn bộ chìm vào bóng tối, trên nền trời đêm bỗng lộ ra nét diễm lệ của những vì sao rải rác khi nãy còn bị mây mờ che khuất, không gian ngập tràn tư vị hòa bình yên tịnh, đối nghịch hoàn toàn với bầu không khí căng thẳng của hai phe đối địch đang triển khai một trường ác chiến.

Đến lượt Bạt Phong Hàn giật mình rúng động, mục quang chăm chú nhìn về cánh đồng phía đông, thất thanh kêu lên: “Có tiếng vó ngựa!”

Khấu Trọng cũng nghe thấy từ phía đông ẩn ước có tiếng vó ngựa truyền lại, lộ vẻ kinh ngạc lẫn mừng rỡ: “Phải chăng là bọn Tuyên Vĩnh đã đẩy lui được quân Lý Thế Tích, quay lại giúp chúng ta?”

Ma Thường ở đằng sau cũng đã nghe được những âm thanh kỳ lạ, chong mắt hướng về phương đông.

Khấu Trọng không kềm được trống ngực đổ dồn, Lý Thế Dân lần này có hành động hết sức kỳ quái, thêm vào tiếng vó ngựa đang vang lên ở phương đông, chỉ có thể cho gã một cách giải thích duy nhất, chính là có nhân mã phương khác đến chi viện. Nghĩ đến đây, hắn quay đầu, thét to: “Thắp đuốc lên!”

Khi đèn đuốc của sơn trại được thắp lại, đằng sau ngọn đồi phía đông xuất hiện ánh lửa sáng rực, lại thấy vô số kỵ binh đóng khắp sườn đồi núi đến cánh đồng phía đông, tinh kỳ phấp phới, uy phong lẫm lẫm.

Khấu Trọng kích động thét: “Con bà nó! Chính là nhạc phụ tương lai của ta giá đáo.”

Thiếu Soái quân trong sơn trại tưởng như chết đi sống lại, tiếng reo vui vang lên như sấm động, vang dội khắp cả chiến trường.

Cuối cùng thì “Thiên đao” Tống Khuyết vào đúng thời khắc quyết định nhất, đã kịp đưa quân đến cứu viện.

- o O o -

HỒI 684

Vận Trù Duy Ác

  Từ Tử Lăng cửa vào phòng, Âm Hiển Hạc lúc đó thần tình ngơ ngẩn đứng trước cửa sổ, mục quang đăm đăm nhìn ra bờ sông tối đen.

Từ Tử Lăng đến bên cạnh y, vốn định nói rất nhiều điều, cuối cùng một lời cũng không nói được. Trong đầu gã chợt hiện lại lần đầu gặp Âm Hiển Hạc, vị kiếm khách cao ngạo một mình đứng trong hậu viện của Ấm Mã Dịch giữa làn hơi nước vần vũ tại ôn tuyền... Lúc đó vẫn chưa biết y ôm trong lòng mối thương tâm, chỉ nghĩ tính y vốn cô độc cách người, bất cận nhân tình.

Âm Hiển Hạc từ từ nói: “Cho dù hy vọng mong manh đến đâu, ta cũng sẽ đến cùng trời cuối đất để tìm cho được Âm Tiểu Kỷ, Từ huynh không cần quan tâm đến ta nữa.”

Từ Tử Lăng hơi ngẩn người: “Về mặt đó thì Lôi đại ca nhất định có biện pháp. Năm xưa Giang Đô có binh biến, hơn trăm thiếu nữ nhân cơ hội đào tẩu, chỉ cần tìm được một vài người trong số đó là có manh mối để truy tìm tung tích của Kỷ muội, chứ không đến nỗi không còn cơ hội nào.”

Âm Hiển Hạc cười khổ đáp: “Lúc đó binh hoang mã loạn, chuyện gì cũng có thể phát sinh, huống chi muội ấy là một nữ nhi yếu đuối, ôi!”

Từ Tử Lăng nghiêm mặt: “Chuyện gì cũng đều có an bài, ông trời đã cho chúng ta biết được tin tức của lệnh muội từ Hàn phu nhân thì không thể nào tàn nhẫn đến như vậy!”

Âm Hiển Hạc im lặng không nói.

Hai mắt Từ Tử Lăng lóe sáng, trầm giọng: “Hình như tiểu đệ biết một vị thiếu nữ trong nhóm người đào thoát Giang Đô của Kỷ muội năm xưa.”

Âm Hiển Hạc giật mình, quay lại nhìn gã, hai mắt lộ ra tia hy vọng như ánh lửa, hỏi: “Là ai?”

Từ Tử Lăng quay nhìn Âm Hiển Hạc, thầm quyết định, thề tận lực hoàn thành tâm nguyện của y, đáp: “Là tài nữ bán nghệ không bán thân nổi danh nhất Trường An, Kỷ Thiến. Nghe nói danh khí của nàng gần đây xấp xỉ với Thượng Tú Phương vang danh toàn quốc.” Rồi giải thích tiếp: “Kỷ Thiến trăm phương nghìn kế muốn theo tiểu đệ học tập đổ thuật, chính là muốn báo phục Hương gia, chỉ tiếc là nàng không tín nhiệm tiểu đệ, do đó không chịu thổ lộ chuyện của lệnh muội. Nhưng rõ ràng lúc ấy tiểu đệ cảm nhận được nàng có quen lệnh muội.”

Âm Hiển Hạc trầm giọng: “Ta phải lập tức lên bờ, đến ngay Trường An gặp Kỷ Thiến hỏi cho ra lẽ.”

Từ Tử Lăng nhíu mày: “Hiện tại ở Trường An đang diễn ra cuộc chiến tranh nảy lửa giữa Lý gia và Khấu Trọng, canh phòng khẩn trương, không có an bài ổn thỏa, Âm huynh sợ khó bước chân vào Trường An nửa bước, có lẽ chúng ta nên thương lượng với Lôi đại ca trước, nhờ huynh ấy tính biện pháp vẹn toàn.”

Âm Hiển Hạc kiên quyết lắc đầu: “Ta đến Trường An xem tình hình rồi tính cách sau, Từ huynh giúp đỡ nhiều như vậy, ta xin khắc ghi trong lòng.”

Từ Từ Lăng cười khổ: “Kỷ Thiến có thể do còn ám ảnh chuyện xưa nên trở nên rất thận trọng và luôn nghi ngờ, Âm huynh dù tìm được tận nơi, chỉ sợ khó được nàng tín nhiệm.”

Hai mắt Âm Hiển Hạc toát lên thần sắc kiên định, chầm chậm buông từng lời từng chữ: “Chỉ cần có một chút cơ hội, ta tuyệt không bỏ qua.”

Từ Tử Lăng không còn cách nào thuyết phục, đành nói: “Như vầy có được không? Chúng ta trước hết tiễn ba người nhà Hàn huynh đến Chung Ly, sau đó đi thuyền lên phía bắc đến Bành Lương, xác định tình hình của Khấu Trọng, rồi đệ cùng Âm huynh đến Trường An tìm Kỷ Thiến, đệ có phương pháp lén vào Trường An mà thần không biết quỷ không hay, xong xuôi bọn ta sẽ âm thầm rút đi.”

o0o

Sơn trại đèn đuốc sáng trưng như ban ngày, năm ngàn quân khinh kỵ tiên phong của Tống gia chọn đỉnh đồi cao bố trận, Khấu Trọng quét mắt nhìn, nhưng vẫn không thấy bóng dáng Thiên Đao Tống Khuyết.

Trời vừa sẩm tối được nửa khắc, trận địa của Đường quân truyền ra tiếng luân xa, chứng tỏ Lý Thế Dân đã lệnh cho thủ hạ nhân lúc đêm tối đẩy máy bắn cung và Phi Thạch đại pháo về doanh địa đằng xa.

Bạt Phong Hàn nhìn từ xa trận thế của kỵ binh Tống gia, tán thưởng: “Binh là tinh binh, ngựa là ngựa giỏi, cho dù bôn ba cấp bách, vội vã đến đây nhưng vẫn giữ trật tự kỷ luật, khí thế áp đảo, đủ khả năng phân tranh cao hạ với Đường quân.”

Khấu trọng vừa định nói, Bạt Phong Hàn đã vỗ vai gã bảo: “Còn chưa đi mà bái kiến nhạc trượng tương lai của đệ? Hiện giờ dù có gan trời thì Lý Thế Dân cũng không dám tấn công qua đây, chỗ này để Bạt mỗ áp trận cho.”

Khấu Trọng cười nói: “Lão nhân gia vẫn chưa thật sự giá lâm, đệ nên trụ thêm một chút nữa để trấn giữ thế trận.”

Mục quang Bạt Phong Hàn quét về thảo nguyên đen tối phía Đường quân, nói: “Nếu ta là Lý Thế Dân, hiện tại lập tức triệt thoái, nếu không mặt sau bị vây, nhân mã của hắn vĩnh viễn không thể rời khỏi Ấn Đàm Sơn.”

Khấu Trọng thở dài: “Trận chiến ở Lạc Dương đã dạy đệ một điều rằng, tuyệt đối không thể xem thường Lý Thế Dân. Nếu dự liệu của đệ không sai, Tống gia quân của nhạc phụ tương lai trước hết giải cái ách vây thành cho Trần Lưu, sau đó ngày đêm kiêm trình đến cứu viện nhóm tàn quân đang bên bờ sinh tử của chúng ta. Lý Thế Dân dự liệu được thời gian đến của nhạc phụ, do đó bất chấp tất cả toàn lực công trại, cũng may chúng ta chống cự được đến thời khắc này, hồi tưởng lại, thành bại chỉ là cách một đường tơ, nghĩ tới cũng đủ toát mồ hôi hột.”

Bạt Phong Hàn gật đầu nói: “Trận chiến Lạc Dương này Bạt mỗ đạt được lợi ích cực lớn, từ chỗ chưa bao giờ trải qua chuyện tiếp cận tử vong mà mỗi thời khắc đều hít thở được khí tức tử vong.”

Khấu Trọng cười xòa: “Lão ca tựa hồ quên đi cái tư vị suýt chết dưới tay Tất Huyền.”

Bạt Phong Hàn lắc đầu: “Lần đó với lần này khác nhau, tất cả đều xảy ra quá nhanh. Từ lúc thoát khỏi Lạc Dương, có thời khắc nào chúng ta không phải sống trong ám ảnh tử vong? Nếu như không có số hỏa khí, chúng ta sớm chầu trời rồi.”

Đột nhiên, từ trong kỵ binh trận của Tống gia rần rần tiếng hoan hô vang động trời đất.

Hai gã quay nhìn, cờ xí bay rợp trời, thân hình hùng vĩ của “Thiên Đao” Tống Khuyết vững vàng như ngọn núi ngồi trên ngựa hiện ra trên đỉnh đồi, nhắm hướng sơn trại phi tới. Nhân mã còn lại của Tống gia vẫn án binh bất động trên các mỏm núi.

Khấu Trọng chộp lấy dây cương của Bạt Phong Hàn, tiện thể kéo gã lên cùng nghênh đón.

Trong ngoài sơn trại của Thiếu Soái quân đều vang lên tiếng cổ vũ nhiệt liệt, vui mừng như sấm động.

Thời khắc tối gian khổ cuối cùng cũng đã qua.

o0o

Lôi Cửu Chỉ nghe xong, gật đầu bảo: “Tình huống của Điệp công tử quả thật đáng đồng cảm, nếu là ta thì cũng sẽ không bỏ qua chút xíu manh mối nào. Vấn đề là ngươi phải phân thân như thế nào? Hay là để ta đi gặp Kỷ Thiến.”

Từ Tử Lăng đứng trên đầu thuyền đón gió, tà áo tung bay, thở dài: “Tiểu đệ đương nhiên biết mọi việc nặng nhẹ thế nào, nên trước hết phải xác định được tình hình của Khấu Trọng, rồi mới hạ quyết định sau cùng, chuyện gặp Kỷ Thiến cứ để đệ và y cùng tới Trường An sẽ thỏa đáng hơn. Cấm cung của Lý Uyên cao thủ như mây, rủi khi bọn ta bị bại lộ hành tung chẳng phải chuyện đùa đâu. Hành động đối phó Hương gia, lão ca ngươi là thống soái, đệ cùng Khấu trọng chỉ là tiểu tốt vẫy cờ la hét, những công việc vặt vãnh khác, cũng do bọn ta xử lí.”

Lôi Cửu Chi vỗ bụng cười lớn: “Lời lẽ thuyết phục của đệ ngày càng giống Khấu Trọng! Hương gia kết thành tử địch với hai người quả thật là tự mình diệt vong. Hiện giờ ta nắm chắc bí mật bố trí sào huyệt của Hương gia, ngày mà Khấu Trọng nhất thống thiên hạ, cũng chính là ngày tập đoàn tội ác Hương gia diệt vong.”

Từ Tử Lăng im lặng một hồi, rồi từ tốn hỏi: “Lôi đại ca tựa hồ nhận định Khấu Trọng nhất định sẽ thắng? Phải không?”

Lôi Cửu Chỉ cố nén cười, thân hình gầy gò đứng thẳng dậy, tay phải chộp lấy vai Từ Tử Lăng, hít một hơi dài, nói: “Người trong thiên hạ, bao gồm cả Lý Thế Dân trong đó, đều biết rằng Tống Khuyết tuyệt không để cho người khác đánh bại Khấu Trọng. Tống gia quân của ông ấy nhất định sẽ xuất hiện trong thời khắc tối hậu, khiến cho tình thế chuyển đổi.”

Từ Tử Lăng cười khổ: “Vấn đề là ông ấy có xuất hiện trong tình thế tối cần thiết hay không?”

Lôi Cửu Chỉ nhún vai: “Cái đó phải xem Tống Khuyết có giữ được uy danh của một Quân sư đại gia như mọi người ca tụng hay không. Sau khi Tống Khuyết trấn giữ Lĩnh Nam, không ai lấy được từ trong tay ông ta nửa tấc đất, nếu muốn khuếch trương, phía nam Đại Giang sớm đã trở thành thiên hạ trong tay ông ấy. Nhưng ông ta vẫn im hơi lặng tiếng cho tới khi gặp được Khấu Trọng mới rời Lĩnh Nam quyết tranh thiên hạ, chứng tỏ ông ta không chỉ hiểu được người khác mà càng nhìn thấu bản thân. Tin ta đi! Xét về tầm nhìn xa rộng và khả năng nắm bắt thời thế, thiên hạ không ai có thể hơn Tống Khuyết.”

Từ Tử Lăng lặng nhìn sông lớn cuồng cuộn, trong lòng chợt hiện lên ngọc dung của Sư Phi Huyên, Tống Khuyết và Khấu Trọng, giống như nước sông uốn lượn Trung nguyên, thiên hạ ai có thể tranh phong? Khi ưu thế của Lý phiệt mất đi, Sư Phi Huyên có ngồi đó nhìn Lý Thế Dân do chính tay nàng tuyển lựa gặp phải họa hay không, với trí tuệ thông thiên như thế thì cục thế sẽ được nàng chuyển biến thế nào?

o0o

Tống Khuyết thần thái oai hùng, ngồi trên lưng ngựa trông càng vũ dũng hơn so với khi ở Ma Đao Đường, trên chiến trường mà thần thái tự tại phiêu diêu, Khấu Trọng cùng Bạt Phong Hàn dám phát thệ là chưa bao giờ gặp người nào được như thế. Ông ta vận khinh giáp, bên ngoài khoác chiến bào, đón gió tung bay, phong thái bao trùm khắp thiên hạ.

Tống Khuyết không đội khôi giáp, trên đầu chỉ buộc dây vải đỏ, đuôi dây vắt sang hai bên vai, gương mặt anh tuấn lại mang phong phạm học giả mỉm cười hiền hoà thâm tình, Thiên Đao đeo sau vai, cán đao nhô nghiêng lên vai trái, giục ngựa chạy tới như thiên thần giáng thế.

Trong nhóm tướng lĩnh tùy tùng có ba người tướng mạo khá đặc biệt, khi nhìn qua đã thấy đại tướng Lý Liêu, Khấu Trọng còn nhận ra “Hổ Y Hồng Phấn” Âu Dương Thiến, khi gã đến Lĩnh Nam gặp Tống Khuyết, từng lén nhìn thấy nàng. Hai người còn lại một mập một ốm, người mập thì như cái thùng phi, giáp trụ trên người ép chặt lấy thân khiến y muốn đùn thịt ra, mặc dù thân hình quá khổ, đặc biệt là cái bụng phì lũ như cái trống, nhưng lại khiến cho người ta có cảm giác linh động hoạt bát trái ngược hẳn với tướng mạo. Người ốm thì thân người dài ngoẵng, mặc đồ văn sĩ, có tướng mạo cao hơn rất nhiều so với người bình thường, mục quang sắc bén, lại thêm bộ râu dài tự nhiên, ngoại hình tiêu sái dễ nhìn. Hai người đều khoảng tứ tuần.

Những người còn lại đều là tướng lĩnh cùng binh mã của Tống gia. Khấu Trọng biết trong số đó có Tống Bang, người hộ tống Tống Ngọc Trí đến Trần Lưu gặp gã. Người của Tống gia mặc khôi giáp tướng lĩnh có mấy chục người, đều ở tuổi tráng niên, ai nấy thần thái anh dũng, tư thế hào hùng lộ rõ ra ngoài, khiến người ta không khỏi cảm thấy Tống phiệt binh hùng tướng mạnh, hảo thủ như mây.

Nhân mã hai bên cuối cùng cũng gặp nhau ở trên một ngọn đồi, thúc ngựa dừng lại.

Tống Khuyết ngẩng đầu cười: “Tốt lắm! Khấu Trọng ngươi làm tốt lắm, không phụ kỳ vọng của lão phu.”

Khấu Trọng cười khổ đáp: “Nếu phiệt chủ chỉ cần chậm một bước, tiểu tử có thể đã hồn quy địa phủ gặp các vị đại ca ngưu đầu mã diện làm quỷ sứ chuyên tâm vỗ mông ngựa cho bọn họ!”

Âu Dương Thiến nhịn không được cười phá lên, yểu điệu chớp mắt, sau đó cảm thấy có điều thất thố, bèn nghiêng đầu e ngại.

Tống Khuyết cũng không nhịn được cười, mục quang chuyển sang Bạt Phong Hàn, gã liền chắp tay cung kính chào: “Bạt Phong Hàn tham kiến phiệt chủ.”

Hai mắt Tống Khuyết phóng ra thần quang như xuyên thấu Bạt Phong Hàn, sau đó mặt nở nụ cười thân thiện, bảo: “Không ngờ rằng sau Tất Huyền còn có Bạt Phong Hàn ngươi, hèn gì người Đột Quyết có thể xưng bá thảo nguyên như vậy.”

Bạt Phong Hàn mỉm cười thoải mái, không đáp lời.

Sau đó, Tống Khuyết chỉ chư tướng hai bên giới thiệu cho hai gã biết, người mập chính là chủ nhân của Phiên Ngu “Lý soái” Vương Trọng Tuyên, người ốm chính là lãnh tụ của Lang thủy Trần Trí Phật, ngoài Âu Dương Thiến, các nhân vật siêu quần của Nam phương đều tụ tập ở đây.

Tống Gia chư tướng trừ Tống Bang, người khiến Khấu Trọng ấn tượng sâu đậm nhất chính là hai vị tướng lĩnh thanh niên tên Tống Sảng và Tống Pháp, từ khí khái của nhất lưu cao thủ, có thể tưởng tượng họ tung hoành giữa chiến trường anh dũng vô địch.

Mục quang của Tống Khuyết quét về phía quân Đường, như thể nhìn rõ trời đêm nhưng chẳng khác ban ngày, quan sát tình thế địch nhân, rồi điềm nhiên hòa hoãn nói: “Lý Thế Dân vất vả cả ngày đến nơi này đợi chúng ta tấn công ồ ạt, nhưng lão phu làm sao để hắn đạt được sở nguyện?”

Bạt Phong Hàn ngạc nhiên hỏi: “Phiệt chủ không định thừa thế công kích, để hắn triệt thoái khỏi Ấn Đàm sơn sao?”

Tống Khuyết cười mỉm, nhẹ giọng đáp: “Phong Hàn biết ta tại sao lại cố gắng đến chi viện trước trận đại tuyết tung hoành mà không đợi sang xuân mới lúc trời ấm hoa nở chăng?”

Bạt Phong Hàn im lặng suy tưởng một lúc, đột nhiên thở dài: “Phong Hàn phục rồi!”

Tống Khuyết ngửa mặt lên trời cười lớn: “Tốt! Không thẹn là nhân vật siêu trác cùng sinh tử với con rể ta sau này. Mọi người hãy nghe ta nói, ta sau này sẽ không cần tránh né gì nữa, từ giờ trở đi, Tống gia quân trở thành Thiếu Soái quân, chỉ nghe mệnh lệnh của Thiếu soái.”

Mọi người nghe thế đều hô to hưởng ứng, sĩ khí dâng trào.

Khấu trọng hoảng kinh nói: “Sao lại như thế được? Lão nhân gia người...?”

Tống Khuyết ngắt lời gã: “Đừng có như đàn bà thế! Đại trượng phu mà sợ cái gì? Tương lai thống nhất thiên hạ, hoàng đế chính là Khấu Trọng ngươi chứ không phải là Tống Khuyết ta, cái này là do tự bản lĩnh ngươi làm nên đấy!” Tiếp đó biểu hiện vẻ mỉm cười bình hòa: “Ngươi gần như một nửa là con ta rồi, lão phu không giúp ngươi thì giúp ai?”

Sau đó lão lại ngẩng đầu nhìn trời, nói: “Mọi người đều cho rằng người phương Nam rất bất lợi khi Bắc chiến, không chịu nổi gió tuyết, nên từ trước đến giờ, không có người phương Nam nào có thể chinh phục Bắc phương. Tống Khuyết ta không những không tin vào điều đó, còn có thể lợi dụng gió tuyết phương Bắc, hỗ trợ cho Thiếu soái đăng lên ngôi hoàng đế. Ta muốn chứng minh cho người phương Bắc thấy, thắng lợi tất thuộc về chúng ta.”

Khấu Trọng rúng động, cũng giống như Bạt Phong Hàn lúc nãy biểu hiện thần sắc bội phục sát đất.

Tống Khuyết vui vẻ hỏi: “Thiếu soái chắc đã hiểu.”

Khấu Trọng gật đầu đáp: “Tiểu tử ngu độn, đến lúc này mới rõ.”

Tống Khuyết quét mắt nhìn mọi người, bình tĩnh nói: “Lý Thế Dân bị bức phải lui về cố thủ Lạc Dương. Lần rút lui này trong vòng ba tháng đừng mong có thể phát binh nam hạ vì gió tuyết đã cản đường, chỉ đành nhìn ta quét sạch vùng cứ điểm chiến lược phía nam Lạc Dương vốn chưa ổn định căn cơ. Chúng ta lợi dụng thời khắc ba tháng quý báu này, lấy trước Tương Dương, Hán Trung, khống chế Đại Giang. Đến lúc trời ấm hoa nở vào đầu xuân năm mới chính là lúc chúng ta Bắc thượng.”

Bạt Phong Hàn trầm giọng hỏi: “Muốn công Lạc Dương, Tương Dương là đất phải tranh, nhưng còn Hán Trung, vì sao phiệt chủ lại trọng thị như vậy?”

Hai mắt Tống Khuyết bắn ra thần quang ánh lên trí tuệ không thể đoán, đáp: “Hán Trung là đất có hình thế hiểm yếu, phía trước khống chế đường bộ, phía sau có Tây Xuyên yểm trợ, phía trái thông với Kinh Tương giàu có, phía phải có ngựa của Tần Lũng. Bất kỳ ai muốn thủ cho được cửa phía bắc của Ba Thục, nhất định phải bảo vệ Hán Trung trước. Giải Huy ở Ba Thục vốn đã không còn nghe lời bản nhân, ta sẽ cắt tuyệt đường liên hệ duy nhất của hắn với Lý Đường, để hắn không còn dám vọng động gì nữa. Ba Thục định xong, Đại Giang sẽ là vật trong tay chúng ta, đâu đến lượt Tiêu Tiễn và Đỗ Phục Uy xưng vương xưng bá.”

Khấu Trọng vui mừng nói: “Đỗ Phục Uy lão nhân gia đồng ý toàn lực trợ giúp tiểu tử.”

Tống Khuyết bật cười nói: “Nếu vậy sẽ bớt cho chúng ta tốn một phen công phu. Khấu Trọng ngươi nên biết thiên hạ đã rơi vào tay ngươi một phần, Đỗ Phục Uy cũng đứng về phía chúng ta, ai dám cản đường cứ việc quét sạch, bằng vó ngựa uy dũng thống nhất nam phương với khí thế như cuồng phong quét lá. Trong chiến tranh, không đánh thì làm nhụt khí thế quân binh. Chúng ta nhân cơ hội Lý Đường không thể xuống phía nam, thống nhất hai bờ Đại Giang, lúc đó tranh thiên hạ, sẽ quyết định xem ngươi và Lý Thế Dân ai thắng ai bại.”

Khấu Trọng lúc này đối với chiến lược của Tống Khuyết vô cùng bội phục, khiêm nhường hỏi tiếp: “Sau khi Lý Thế Dân rút quân, chúng ta nên làm gì?”

Tống Khuyết cười nhẹ đáp: “Hiện giờ đại quân bắc thượng của chúng ta có bảy vạn, theo chân ta có ba vạn người, số còn lại đóng ở Bành Lương chờ lệnh. Tất cả hậu cần do Lỗ thúc phụ trách. Thuyền đội thủy sư của chúng ta phối hợp với Phi Luân chiến hạm của ngươi lại không bị gió tuyết ảnh hưởng, có thể đánh những trọng điểm chiến lược ở hai bên bờ thủy lộ, thậm chí có thể đến Ba Thục, đoạt lấy Hán Trung. Thiếu Soái quân là của ngươi, nói xem nên làm thế nào?”

Khấu Trọng nghe thế liền tâm lĩnh, hắng giọng đáp: “Tiểu tử minh bạch rồi! Lý Thế Dân rút thì ta cũng rút, bất quá chúng ta lấy lui làm tiến, trước về Bành Lương, thao luyện và tập hợp thủy sư, đợi cho gió tuyết đến, trước lấy Giang Đô, sau đó ngược dòng lên trên, phá Phụ Công Hựu, khống chế Tiêu Tiễn, rồi phân binh làm hai đường, một công Hán Trung, một đoạt Tương Dương, lúc đó Lạc Dương hay Trường An do chúng ta lựa chọn.”

Tống Khuyết cười lớn nói: “Trẻ con dễ dạy.”

Bạt Phong Hàn thán phục: “Chiến tranh như cờ thế, Phiệt chủ động một quân cờ liền cải biến ưu thế áp đảo của Lý Đường, lại không động đến một binh một tốt, nếu tại hạ là Lý Uyên, từ giờ trở đi mỗi thời khắc đều không thể ngủ yên.”

Hai mắt Tống Khuyết chớp lóe hàn quang, trầm giọng đáp: “Lý Uyên là cái thứ gì? Nhưng Lý Thế Dân đúng là nhân tài, khiến lão phu suýt tính lầm, may mà Khấu Trọng không làm lão phu thất vọng chút nào. Phong Hàn có biết tình thế mà Lý Thế Dân không thể không truy sát Khấu Trọng đều chính là do một tay lão phu tạo ra hay không?”

Bạt Phong Hàn cùng Khấu Trọng kinh ngạc đến sững sờ, thấy Tống Khuyết giống như một vị ma pháp sư chiến tranh, lật tay tạo mây, xoay tay làm mưa.

Thần thái của Tống Khuyết khôi phục lại vẻ tuyệt đối bình tĩnh, nhẹ nhàng nói: “Công phu hai mươi năm của lão phu vậy cũng không lãng phí, thiên hạ hình thế đều ở trong tay ta, mọi sự trọng yếu đều không giấu được. Lý Thế Dân xử tử Đậu Kiến Đức quả là điều thất bại lớn, khiến cho tình thế Hà Bắc phát sinh nhiều biến cố, đại tướng của Kiến Đức là Lưu Hắc Thát một lần nữa lãnh binh khởi nghĩa, kháng kích Đường quân. Vào lúc chúng ta Bắc thượng, Lý Thế Dân nhất định sẽ rơi vào thế bị giáp kích Nam Bắc. Lý Uyên à! Những ngày tươi đẹp của ngươi sắp hết rồi.”

Lúc này trời mờ sáng, Đường quân ở xa chỉ còn hơn vạn kỵ binh lược trận, những cánh quân còn lại nhanh chóng triệt thoái về phương hướng Ấn Đàm sơn.

 - o O o -

Hồi 685

Trí Thắng Bí Quyết

Thuyền của Từ Tử Lăng vào xế chiều hôm đó đã đến Chung Ly. Trấn thủ Chung Ly là Bốc Thiên Chí vừa nghe tin ra nghênh đón, không đợi Từ Tử Lăng mở lời, đã vui mừng báo tin: “Thuyền đội của Tống phiệt chủ từ năm ngày trước từ Đại Giang xuôi qua Vận Hà, nhắm thẳng Trần Lưu, theo tin tức truyền về, Lý Thế Tích giả bộ không địch nổi, ngay đêm đã lui về Khai Phong, Phiệt chủ nhận ra kế dụ địch của Lý Thế Tích, tự mình dẫn ba vạn tinh binh đi chi viện cho Thiếu soái.”

Mọi người nghe thế tinh thần đều phấn chấn, mọi ưu tư trong lòng bỗng chốc sạch không, thần sắc Lôi Cửu Chỉ giờ đã có nét tươi sáng.

Từ Tử Lăng hỏi: “Khấu Trọng ở đâu?”

Bốc Thiên Chí đáp: “Thiếu soái ở Thiên Thành Hiệp dựng trại kháng địch, tất cả đều nhờ vào vào Thiếu soái chống cự mười vạn đại quân của Lý Thế Dân, Trần Lưu mới phòng thủ được đến lúc trăng tròn, chờ đại quân thủy sư của Tống gia đến giải vây.”

Từ Tử Lăng khẽ lẩm nhẩm hai lần: “Thiên Thành Hiệp...”, bỗng giật mình nói: “Không ngờ tiểu tử lại nghĩ ra nơi hiểm địa này.”

Thần sắc của Bốc Thiên Chí thoáng nét ảm đạm, buồn rầu nói: “Chẳng qua Thiếu soái tổn thất trầm trọng, những người cũ của Vương Thế Sung theo người từ Lạc Dạng đến đó hầu như thương vong gần hết, chỉ còn lại ba người Vương Huyền Thứ, Bạt Dã Cương cùng Hình Nguyên Chân, ngay cả Dương công cũng bất hạnh trận vong.”

Từ Tử Lăng lặng thinh không nói, chiến tranh đều như thế, có ai tránh được mất mát lớn lao! Bất luận thắng làm vua, thua làm giặc, đều phải trả cái giá rất đắt, thảm cảnh kịch liệt máu rơi lầy đất lúc đó đều có thể tưởng tượng ra.

Không biết từ lúc nào, gã đã nghĩ đến sự tàn khốc của chiến tranh.

Bốc Thiên Chí biết trong lòng gã đau đớn, muốn làm cho gã phân tâm, liền hỏi: “Không biết có Hàn huynh cùng vợ con đến đây không?”

Cùng đi trên thuyền ngoài các huynh đệ chèo thuyền, chỉ có Lôi Cửu Chỉ, Hầu Hi Bạch và Từ Tử Lăng. Lôi Cửu Chỉ hành sự cẩn mật, đã sớm báo cho Bốc Thiên Chí biết họ sẽ tới.

Từ Tử Lăng thở dài một tiếng, thành khẩn nói: “Chí thúc! Trên thuyền ngoài một nhà ba người của Hàn huynh, còn có Vân bang chủ, hy vọng Chí thúc nể mặt tiểu điệt mà không tính gì đến ân oán trước đây với nàng. Nàng cũng đã quyết liệt với Hương gia, quyết tâm toàn lực giúp bọn ta đối phó Hương Ngọc Sơn.”

Bốc Thiên Chí nghe thế sững sờ, một lát sau mới cười khổ: “Ả rơi vào hoàn cảnh ngày hôm nay, sao lại còn đối xử tốt với ả làm gì nữa. Cự Kình Bang vốn đã không còn tồn tại, hy vọng ả hiểu rõ điều này.”

Từ Tử Lăng đáp: “Nàng ấy phải hiểu rõ hơn ai hết, xin Chí thúc gắng chiếu cố. Tiểu điệt và Hi Bạch cùng một vị bằng hữu phải lên đường đến Bành Lương ngay, cả nhà Hàn huynh cùng Vân bang chủ tạm thời ở lại Chung Ly, Lôi đại ca sẽ giải thích mọi chuyện với Chí thúc.”

Bốc Thiên Chí nghĩ rằng gã muốn đến Bành Lương gặp Khấu Trọng, gật đầu nói: “Mọi chuyện để ta lo, ở địa bàn của ta không ai có thể hại đến một cọng lông của họ. Ôi! Nói cho đúng, ta chưa từng nghĩ qua sẽ có cơ hội toàn quyền quản lý một tòa thành lớn như Chung Ly, tất cả đều nhờ Thiếu soái cùng Tử Lăng mang lại cả.”

Từ Tử Lăng kéo ông ta sang một bên hỏi: “Trần công và Bạt Phong Hàn không sao chứ?”

Bốc Thiên Chí đáp: “Bạt gia đương nhiên không có chuyện gì, đột vây đến Trần Lưu báo tin, còn dẫn viện quân đến phía nam Thiên Thành Hiệp cùng hội sư với Thiếu soái. Nghe lời Bạt gia, sơn trại do Trần công thiết kế, cứ yên tâm! Ta hiểu rõ Trần công, ông ta là người rất có phúc khí, vào sinh ra tử bao nhiêu lần vẫn bình an.”

Từ Tử Lăng nhẹ đi nửa nỗi lo, hạ giọng nói: “Chí thúc có thể giúp tiểu điệt một chuyện, đến phòng mời nàng ta ra đây không, để nàng khỏi mất mặt, bởi vì tiểu điệt không muốn nàng ta theo đến Bành Lương.”

Bốc Thiên Chí cười mỉm đáp: “Nam tử hán đại trượng phu, cớ gì ngay cả chút dũng khí đó cũng không có? Được! Ta sẽ đến đó nói chuyện với ả, rồi đưa ả vào thành.”, dứt lời liền đi vào trong khoang thuyền, Lôi Cửu Chỉ dẫn đường.

Hầu Hi Bạch đến cạnh Từ Tử Lăng, thấy gã đang đứng ngẩn người nhìn Chung Ly thành trên bờ bắc Hoài Thủy, như đang có tâm sự.

Hầu Hi Bạch tò mò hỏi: “Tử Lăng nghĩ gì thế? Chuyện của Kỷ Thiến không cần phải lo, người tiểu đệ hân thưởng nhất chính là nàng.”

Từ Tử Lăng từ tốn đáp: “Tiểu đệ không nghĩ đến Kỷ Thiến, mà chính là hậu quả của việc Tống Khuyết hỗ trợ Khấu Trọng, không biết có làm cho Lý Đường bại vong tức thì rút chạy không.”

Hầu Hi Bạch nghi hoặc hỏi: “Tử Lăng dựa vào đâu mà khẳng định như vậy? Lý phiệt có Quan Trung hiểm trở, Trường An, Lạc Dương kiên cố, Đại Hà thuận tiện, tiến công hay lui về thủ đều chiếm hết địa lợi. Lý Thế Dân hiện giờ là thống soái phòng thủ thiện nghệ nhất trong thiên hạ, dù Khấu Trọng có Tống Khuyết hỗ trợ cũng không thể trong thời gian ngắn mà công hãm cả hai thành này.”

Từ Tử Lăng khẽ thở dài: “Khấu Trọng căn bản không dụng binh tấn công Lạc Dương, mà trực tiếp nhập quan đánh Trường An, thì ngay cả Lý Thế Dân thủ thành cũng khó mà chịu nổi ba ngày.”

Hầu Hi Bạch giật mình, cố kèm giọng thật thấp: “Dương Công Bảo Khố, phải không?”

Từ Tử Lăng cười khổ: “Phi Huyên mà cũng nỡ phản bội ta sao?”

Hầu Hi Bạch ngạc nhiên hỏi: “Phi Huyên vì sao mà phản bội huynh? Thậm chí khi nàng buộc phải phản bội huynh, thì việc này với Dương Công Bảo Khố có gì quan hệ đâu?”

Từ Tử Lăng lắc đầu không đáp, nét cười trên mặt đầy vẻ khổ sở.

Vì sự tồn vong của Lý Thế Dân, Sư Phi Huyên có buộc phải tiết lộ bí mật của Dương Công bảo tàng không? Trong tình huống bình thường, nàng đương nhiên không cần làm thế, nhưng giống như lời Thạch Chi Hiên nói, nàng hay sư tôn Phạm Thanh Huệ đều không có lựa chọn nào khác.

o0o

Tại chỗ trống cạnh soái trướng, Khấu Trọng, Bạt Phong Hàn, Ma Thường, Bạch Văn Nguyên, Hình Nguyên Chân, Trần Lão Mưu, Vương Huyền Thứ, Tiếu Hạc Nhi cùng Bạt Dã Cương cùng ngồi quanh đống lửa cháy hừng hực, thưởng thức mấy món ăn thủ hạ dâng lên, cảm giác đời sống đang tiếp diễn dâng tràn.

Bọn họ chẳng mảy may lo lắng đến an nguy bản thân vì bên ngoài đại quân của Tống Khuyết đã bày trận khắp bốn phương tám hướng, bảo vệ chặt chẽ. Những người còn sống rời khỏi Thiên Thành Hiệp chỉ vỏn vẹn ba nghìn hai trăm năm mươi người, đa số đã bị thương, lại phải vất vả nửa ngày đường, ai nấy đều đã mệt mỏi bất kham, cần nghỉ ngơi dưỡng sức.

Tiểu Hạc Nhi quấn lấy Vương Huyền Thứ hóng chuyện, khiến y hơi lúng túng, không thể để tâm lắng nghe, mọi người đều giả như mắt mù tai điếc.

Chỉ có mình Trần Lão Mưu chú ý đến, lão quay sang Vương huyền thứ nở nụ cười tinh quái: “Tiểu Hạc Nhi trở lại thân phận nữ nhi, nhất định là một tiểu cô nương xinh đẹp vô cùng, lão già này nói không sai chứ hả?”

Mặt Vương Huyền thứ đỏ bừng đến tận mang tan, ho khan đáp: “Tiểu điệt chưa từng thấy qua.”

Da mặt của Tiểu Hạc Nhi hiển nhiên dày hơn y nhiều, liếc Trần Lão Mưu rồi ghé tai y nói nhỏ vài câu, khiến y càng thêm khổ sở.

Trần Lão Mưu vẫn không chịu tha, cười khà khà bảo: “Ta đã nghe được Tiểu Hạc Nhi nói gì rồi.”

Tiểu Hạc Nhi không bị lão lừa, cười toe toét đáp: “Trần công bịa chuyện, ta không tin lão nghe được.”

Trần Lão Mưu tự hào nói: “Đôi tai của ta nổi danh trong thiên hạ là thuận phong nhĩ, ngươi lúc nãy nói với Huyền Thứ công tử rằng một ngày nào đó nô gia mặc quần áo của nữ nhân để cho công tử nhìn cho rõ đúng không?” Mấy lời cuối cùng, lão nhại theo thần thái và giọng điệu thiếu nữ của Tiểu Hạc Nhi mà thuật lại, khiến cho mặt nàng nhất thời đỏ hồng bật cười bẽn lẽn.

Bạt Phong Hàn bật cười: “Quả nhiên là đặt điều.”. Lời đó thốt ra, mọi người đều hiểu Bạt Phong Hàn mới là người đã nghe được những lời Tiểu Hạc Nhi nói vào tai Vương Huyền Thứ.

Trần Lão Mưu vui mừng nói: “Hạc Nhi nói gì? Mau thuật lại xem nào.”

Tiểu Hạc Nhi ngăn lại: “Bạt đại ca không phải là người tốt.”

Bạt Phong Hàn cười nhẹ đáp: “Trước giờ chưa ai coi ta là người tốt, ta cũng không muốn làm người tốt. Bất quá chuyện này ta phá lệ một lần, vì tiểu cô nương mà giữ kín bí mật.”

Khấu Trọng cảm thấy lòng mình ấm áp, Bạt Phong Hàn lần đầu tương ngộ và bây giờ dường như hoàn toàn khác nhau. Lúc trước Bạt Phong Hàn độc ác, lãnh khốc vô tình, đối với bất cứ ai cũng không chịu nhường, bây giờ lại là một vị hảo huynh đệ xả thân vì bạn bè.

Mặt Vương Huyền Thứ cũng đã ửng đỏ, Tiểu Hạc Nhi nhướng mắt khẽ cảnh cáo Bạt Phong Hàn, nét mặt lại lộ ra nét vui vẻ, thần thái ngây thơ khả ái vô cùng.

Trần Lão Mưu sống lâu đã thành tinh nên cười khà khà: “Ta nói có sai đâu! Chỉ cần nhìn thần sắc của Tiểu Thứ, cũng biết được hắn chẳng những đã thấy qua, mà còn......! Hầy, không nói nữa, lão phu cũng phá lệ giữ bí mật cho các ngươi vậy.”

Vương Huyền Thứ không chịu nổi nữa, bèn cầu xin: “Trần công xin tha cho tiểu điệt!”

Bạt Phong Hàn đột nhiên nói: “Các vị, ta cùng các vị chia tay nhau một khoảng thời gian, chờ đến ngày đánh Lạc Dương, sẽ cùng kề vai sát cánh.”

Mọi người đều ngạc nhiên, chỉ có Khấu Trọng dường như đã liệu trước chuyện này nên gật đầu: “Không phải là trở về biên ải đó chứ? Huynh làm cách nào về kịp?”

Bạt Phong Hàn lắc đầu đáp: “Ta sẽ dừng lại ở Trung nguyên một thời gian, vẫn còn mấy món nợ. Nhưng nếu Tử Lăng xảy ra cớ sự gì, ta nhất định đại khai sát giới.”

Khấu Trọng cười nói: “Tử Lăng nhất định là không có chuyện gì, nếu không hắn nhất định đến kiếm đệ báo mộng, kể lể oan khuất.”

Tiểu Hạc Nhi răng đánh vào nhau lập cập, rõ ràng đang nghĩ đến việc sau khi người ta chết sẽ biến thành quỷ hồn.

Trần Lão Mưu gừng càng già càng cay, nhíu mày hỏi: “Tiểu Bạt nợ người ta cái gì thế? Ngươi không phải quá nhàn rỗi nên tìm người đánh nhau đó chứ.”

Bạt Phong Hàn nhẹ đáp: “Ta nợ người ta món nợ ân tình.”

Khấu Trọng không hiểu: “Nợ ân tình à?”

Bạt Phong Hàn vươn vai đứng lên, hai mắt bắn ra thần sắc vô cùng phức tạp, nói: “Tối nan cô phụ mỹ nhân ân, Huyền Thứ công tử cần nhớ kỹ lời này. Tiểu cô nương có được một cặp chân dài hiếm thấy, trang điểm lên nhất định làm người ta phải động lòng.”

Mọi người biết gã nói đi là đi, liền vội vàng đứng cả dậy.

Khấu Trọng giơ tay nắm chặt bàn tay thô ráp của gã: “Các người tiếp tục đàm đạo, để ta đại diện mọi người tiễn lão Bạt một đoạn đường.”

Dứt lời liền buông tay, cùng Bạt Phong Hàn sánh vai rời khỏi doanh trại, ngang qua doanh trướng của Tống gia quân, binh sĩ Tống gia đều cúi mình kính cẩn vái chào, hiển nhiên vô cùng sùng bái và tôn kính hai gã.

Đến đầu núi kế cận doanh trại, Khấu Trọng cười nhẹ nói: “Tiểu đệ không tấn công Lạc Dương, nhưng ngày mà lão ca ngươi nghe nói đệ đoạt được Hán Trung, thì lập tức lên đường đến hội hợp, nếu không sẽ bỏ qua trận chiến hoành tráng ở nội thành Trường An.”

Bạt Phong Hàn ngạc nhiên hỏi: “Đệ chuẩn bị đánh Trường An? Đệ dựa vào cái gì mà có đảm lược đó?”

Hai mắt Khấu Trọng ẩn hiện thần quang, trầm giọng: “Đáp án chính là Dương Công Bảo Khố. Huynh nên biết năm xưa Dương Tố kiến tạo bảo khố, mục đích là vào lúc khẩn cấp có thể lập lại Đại Tùy, đến giờ phút này đổi qua Lý Đường thì tác dụng cũng không hề cải biến, trong bảo khố không kể một lượng lớn vũ khí, còn có một mạng lưới địa đạo quán thông nội ngoại thành. Đối với đệ, Trường An chẳng qua là một tòa thành không phòng bị, khi Lý Uyên còn ở trên long sàng cùng Doãn Đức phi, Trương Tiệp dư tìm mộng đẹp, người của bọn ta chiếm những cứ điểm trọng yếu trong thành, mở hết các cửa thành, như thế bọn ta mười phần nắm chắc, tất thắng không sai.”

Bạt Phong Hàn động dung hỏi: “Tống Khuyết có biết chuyện này không?”

Khấu Trọng đáp: “Tai vách mạch rừng, đệ không có cơ hội bẩm báo qua với lão nhân gia.”

Bạt Phong Hàn hỏi: “Ngoài Từ Tử Lăng, còn ai biết được bí mật của Dương Công Bảo Khố?”

Khấu Trọng gãi đầu đáp: “Những huynh đệ ở Song Long bang đã theo đệ lâu năm quyết không bán đứng. Bất quá, Loan Loan có đến bảo khố, nhưng đệ tin rằng nàng sẽ không phản bội.”

Bạt Phong Hàn nhăn tít chân mày hỏi: “Đệ tín nhiệm Loan Loan?”

Khấu Trọng vỗ mạnh lên đầu vai gã, đáp: “Đương nhiên là tin. Bởi vì nàng đối với Tử Lăng một dạ chân tình, hại đệ cũng chính là hại Tử Lăng, ngoài ra nàng không còn muốn quan tâm đến chuyện của bọn ta nữa, đối nghịch với bọn ta tcó lợi gì đâu?”

Bạt Phong Hàn cười: “Nếu có người biết được địa đạo, đệ có quay về Hán Trung, đi đến chân trời góc biển truy sát Loan Loan không?”

Khấu Trọng lắc đầu đáp: “Tình huống như thế nhất định không thể xảy ra, nhưng lão ca vẫn chưa nói cho đệ biết phải đi vì món nợ ân tình gì?”

Bạt Phong Hàn thở dài nói: “Ta phải giết Biên Bất Phụ, chuyện này ta đã đáp ứng với Uyển Tinh.”

Khấu Trọng ngây ngốc nói: “Đông Minh công chúa! Nàng phải lấy cái tên Thượng Minh khốn kiếp bụng dạ hẹp hòi đó, con mẹ nó, thật là một đóa hoa nhài cắm bãi cứt trâu mà.”

Bạt Phong Hàn vỗ vỗ đầu vai gã, nói: “Bớt dông dài đi, đời người có tới tám chín phần là không như ý, những chuyện như thế của bọn ta so với mọi người còn ít hơn nhiều, ít ra bọn ta còn sống tốt. Huynh đệ trân trọng.”, gã dứt lời liền cất bước ra đi.

Khấu Trọng ngây người nhìn theo bóng hình Bạt Phong Hàn ngày càng xa dần, trong lòng hiện lên gương mặt ngọc của Tống Ngọc Trí, tâm tư giao động mãnh liệt, gã thở dài quay mặt về doanh trướng của Tống Khuyết mà đi tới.

o0o

Thuyền đi qua quan khẩu của Lương Đô, được hai chiến hạm của Thiếu Soái quân bảo hộ trước sau.

Thiếu Soái quân đã lấy được Trần Lưu, thành ra từ Giang Đô đến Vận Hà đều do Thiếu Soái quân hoàn toàn khống chế, những thuyền không được phê chuẩn đừng mong đi qua.

Từ Tử Lăng có thể tưởng tượng được Thiếu Soái quân ngồi trên thủy sư thuyền được mới kiến tạo, cùng phối hợp với đội thủy sư có thể hô mưa gọi gió của Tống gia, thế lực của Khấu Trọng sẽ như mạng lưới nhện phủ trùm Vận Hà, Hoài Thủy cùng Đại Giang lan đến mạn nam Lạc Dương, chiếm cứ hết các trọng trấn chiến lược về quân sự gom về thành một khối, không phải thần phục vận mệnh, chờ người khác đến giết mổ.

Gã nằm trên giường suy nghĩ lung tung, không cách gì bình tĩnh lại được.

Tống Khuyết ra mặt trợ giúp Khấu Trọng tranh bá thiên hạ, Khấu Trọng lại vì chuyện Đậu Kiến Đức bị xử tử, Dương công cùng những tướng sĩ theo gã trận vong mà kết thành mối huyết cừu không thể giải khai cùng Lý Đường, cuộc chiến gã công nhập Quan Trung không thể không diễn ra.

Chỉ khi Khấu Trọng lên làm hoàng đế, thế lực tà ác của Ma môn và Hương gia mới bị triệt để diệt trừ, đồng thời đánh lùi bọn lang sói Đột Quyết đang giương mắt hổ dòm ngó bờ cõi.

Việc này bao gồm cả bản thân gã trong đó, không ai có thể nghịch chuyển tình thế phát triển, tất nhiên, trong tình huống như vậy, Phi Huyên nhất định sẽ bỏ qua Lý Thế Dân, quay sang giúp Khấu Trọng?

Ôi! Điều này không thể nào xảy ra, nhưng liệu Phi Huyên có thể làm gì? Nàng có đem bí mật của Dương Công Bảo Khố nói cho Lý Thế Dân biết không? Nghĩ đến vấn đề đau đầu này, gã không còn muốn ngủ tí nào, khoác áo choàng lên, lên trên sàn thuyền.

Thân hình cao gầy đặc biệt của Âm Hiển Hạc xuất hiện ở đuôi thuyền.

Từ Tử Lăng thở dài một tiếng, cất bước đến cạnh y, hỏi: “Âm huynh ngủ không được sao?”

Âm Hiển Hạc chán nản đáp: “Ta mới vừa gặp ác mộng, ra đây hóng gió, hy vọng có thể phát tán tâm ma trong người.”

Từ Tử Lăng hỏi: “Là mơ thấy lệnh muội?”

Âm Hiển Hạc gật đầu đáp: “Đó là một giấc mộng bất tường, Từ huynh xin thứ cho ta cũng không thể nói ra.”

Từ Tử Lăng an ủi: “Mộng mị thường tương phản với hiện thực, ví như thấy đứa con ra trận của mình toàn thân đẹp đẽ, miệng cười như hoa nở về báo tin vui, thì chính là triệu chứng hung tin về người chết trận. Khấu Trọng thường có ác mộng bị địch nhân vây ráp không kháng cự được, nhưng cho tới giờ gã vẫn sống khỏe đó thôi.”

Âm Hiển Hạc rúng động nhìn gã, trầm giọng nói: “Từ huynh không cần phải an ủi ta! Sau khi xá muội bị bắt, ta không hề có một giấc mơ tốt lành, thậm chí nằm mộng thấy tình cảnh tươi đẹp khi muội muội và ta tương kiến, thì lúc tỉnh dậy lại là một cơn ác mộng khác.”

Trong lòng Từ Tử Lăng chua xót, quyết tâm vì hảo bằng hữu này mà tìm cho ra muội tử của y, nói: “Đệ đương nhiên không dám hồ ngôn loạn ngữ về chuyện này, nhưng đệ vẫn có một thứ cảm giác nhất định rằng Âm huynh và lệnh muội sẽ đoàn tụ.”

Mục quang của Âm Hiển Hạc lại chuyển sang nhìn nước sông, im lặng một hồi rồi nói: “Có phải là có vận mệnh hay không?”

Từ Tử Lăng cười khổ đáp: “Chỉ sợ không ai có thể khẳng định đáp án cho chuyện này. Con người khi còn trẻ, chuyện gì cũng không tin, chỉ tin vào chính bản thân mình, cho rằng có thể cải biến được mọi chuyện, vận mệnh do hai bàn tay mình tạo ra. Nhưng khi sự lịch duyệt tăng lên, ắt sẽ cảm thấy vô lực trước cái gọi là ‘mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên’! Cách duy nhất của bọn ta là bất luận tình cảnh ác liệt và tuyệt vọng thế nào, cũng phải giữ thái độ lạc quan, phấn đấu cho đến thời khắc tối hậu. Ngay cả khi Kỷ Thiến không thể giúp bọn ta tìm được tiểu muội, bọn ta cũng phải tìm cách khác.”

Âm thanh tán thưởng của Hầu Hi Bạch truyền từ phía sau tới: “Ví dụ như dùng một số tiền lớn để treo thưởng, tìm một người nào thông thạo hoạch định kế sách cho bọn ta, bất quá trong tình hình hiện nay, người như thế không phải dễ kiếm.”

Từ Tử Lăng đề nghị: “Tại sao không lấy tên Âm Hiển Hạc treo thưởng một ngàn hai trăm lạng hoàng kim cho ai tìm được Âm Tiểu Kỷ, nếu tiểu muội có thể vượt qua dâm uy của Hương gia, kiên quyết bảo trì danh tính, thì vào thời điểm này sẽ không đổi tên.”

Hai mắt Âm Hiển Hạc lập tức sáng rực: “Tại sao ta lại chưa từng thử biện pháp đơn giản này. Ôi! Bất quá biện pháp này nói dễ, nhưng làm mới khó, trừ phi là hoàng đế hiệu lệnh thiên hạ, chứ ai có thể thông hiểu toàn quốc mà tìm được một người?

Từ Tử Lăng vui mừng: “Đó là bản sự của Khấu Trọng, bọn ta trước hết đến những địa bàn thuộc sở hữu của gã treo giải tìm người, mỗi khi gã chiếm được chỗ nào, trước hết là phải bố cáo treo thưởng tìm người, một ngàn hai trăm lượng hoàng kim phải nhỏ, đương nhiên chấn động thiên hạ, lệnh muội khi biết Âm huynh vẫn còn sống, tất sẽ đến tìm.”

Hầu Hi Bạch chen vào: “Biết đâu chừng có thể giữ lại được một ngàn hai trăm lượng hoàng kim đấy.”

Âm Hiển Hạc nghe thế tinh thần phấn chấn hẳn lên: “Vậy bọn ta có phải đến Trường An chăng?”

Từ Từ Lăng đáp: “Muốn tin này truyền ra toàn quốc, phải cần đến chín mười ngày, bọn ta dùng cả hai cách để đạt được mục tiêu.”

Hầu Hi Bạch gật đầu nói: “Treo thưởng không phải là cách đảm bảo ổn thỏa chắc chắn, nếu như lệnh muội trú ở hương thôn hẻo lánh thì sao? Chỉ sợ không dễ tiếp nhận tin tức.”

Lòng Âm Hiển Hạc chùng xuống: “Nếu muội ấy sống ở đại thành như Lương Đô, Trần Lưu, nhận được tin này lập tức đến Trần Lưu, lại không gặp được ta, không phải…”

Hầu Hi Bạch cười lớn: “Âm huynh xem ra lo lắng đến loạn hồn rồi, chỉ cần lệnh muội đến được Trần Lưu, nhất định sẽ có người chiếu cố cho muội ấy thật tốt. Từ Trần Lưu đến Trường An tính cả đi lẫn về, với cước trình của bọn ta chỉ độ nửa tháng là mọi chuyện đều ổn thỏa hết.”

Âm Hiển Hạc đưa tay nắm chặt cánh tay hai gã, thấp giọng nói: “Ta quả tình rất cảm kích hai vị, chỉ cần xá muội còn trên nhân thế, một ngày nào đó ta nhất định phải tìm gặp được.”

- o O o -

HỒI 686

Bất Ngoại Như Thị

Doanh trướng của Tống Khuyết vô cùng đơn giản, chỉ là một tiểu thính đường rộng mở thoáng đạt, trên tường treo cờ thêu phượng hoàng, trong góc bày hai chiếc ghế thái sư bên một kỷ trà.

Tống Khuyết ngồi nhàn nhã trên ghế, tay cầm chén trà thơm, thấy Khấu Trọng đến bái phỏng, ra hiệu cho gã đến ngồi bên cạnh, tự thân rót trà mời, mỉm cười nói: “Sao không đi nghỉ sớm, ngày mai đến Trần Lưu, ngươi sẽ bận thở không ra hơi đấy.”

Khấu Trọng tiếp lấy chung trà, nhấp một ngụm trà nóng, thẫn thờ đáp: “Tiểu tử vừa tiễn Bạt Phong Hàn, đây là tác phong hành sự nhất quán của huynh ấy, nói tới là tới, bảo đi là đi, giống như hổ báo độc hành trên thảo nguyên, không thích nếp sinh hoạt quần thể.”

Tống Khuyết không hề tỏ ý bất bình về chuyện Bạt Phong Hàn không cáo biệt mà đi, lại còn vui vẻ nói: “Bản thân ta tuy là chủ Tống phiệt, nhưng trong lòng lại thích thú và mong mỏi tư vị độc lại độc vãng. Thiếu soái có chuyện muốn nói phải không?”

Khấu Trọng buồn rầu đáp: “Tiểu tử cảm thấy rất thống khổ.”

Tống Khuyết thoáng ngạc nhiên, bật cười nói với vẻ đầy cảm xúc: “Trên đời này ai chưa từng thống khổ trong lòng, ngay cả người kiên cường lạc quan nhất cũng nhiều lúc hối tiếc về hành vi trong quá khứ, để rồi hy vọng có thể ngược dòng lịch sử, hy vọng có cơ hội khác để cải sửa, nhưng đáng tiếc không thể trở thành hiện thực, đời là vậy, thời gian vô tình là thế.”

Khấu Trọng kinh ngạc: “Trong lòng phiệt chủ cũng có tâm tình thống khổ sao?”

Gương mặt anh tuấn của Tống Khuyết thoáng hiện nét đau khổ, nhẹ giọng đáp: “Bản chất của sinh mệnh là vậy, Tống Khuyết ta sao thoát được? Vì thế cần phải tự định ra mục tiêu và lý tưởng cao xa nhất, cố gắng phấn đấu theo phương hướng đó, những chuyện khác chỉ tận lực, kết quả thế nào đành do sinh mệnh quyết định.”

Khấu Trọng cảm thấy nhân vật võ nghệ siêu quần cao cao tại thượng này bỗng chốc gần gũi hơn rất nhiều, ông ta thản nhiên nói lên tư tưởng của mình, bèn tiếp lời: “Tiểu tử trừ lúc lúc ở chiến trường đối trận có thể nhập tâm vào trong đao, bước vào cảnh giới không quan tâm đến sự vật, chỉ hận là lúc buông đao thương rồi thì lập tức suy nghĩ này nọ, không thể kềm chế được mình.”

Tống Khuyết phục hồi lại trạng thái tĩnh lặng như mặt giếng, quay lại nhìn gã, nhãn thần thâm thúy không thể dò, từ tốn thốt: “Nói tâm sự của ngươi xem!”

Khấu Trọng thống khổ đáp: “Trí Trí không chịu tha thứ cho hành vi của tiểu tử! Ôi! Như thế nào mới được đây? Nàng không chịu gả cho tiểu tử, nàng...”

Tống Khuyết giơ tay ngắt lời hắn, vào đề thẳng như dao cứa: “Ngươi ở ngoài có nữ nhân khác?”

Khấu Trọng không nghĩ ông ta lại nói những lời như vậy, nhìn sững một hồi, rồi cười khổ đáp: “Nếu nói là không, thì là lừa phỉnh phiệt chủ. Bất quá tiểu tử khẳng định xưa nay chưa bao giờ phản bội Trí Trí, thực tình yêu nàng sâu nặng, không muốn làm khổ nàng, rất tiếc tiểu tử lại là người làm nàng tổn thương nhiều nhất.”

Tống Khuyết vỗ vào cánh tay gã cười ha hả nói: “Chuyện này vô cùng hiếm thấy, ai có thể làm cho Thiếu soái động tâm thế?”

Khấu Trọng đáp: “Chính là tài nữ đứng đầu thiên hạ Thượng Tú Phương, ôi!”

Tống Khuyết trầm ngâm không nói, hồi lâu mới mở miệng: “Nữ nhân mà ngươi muốn có cho bằng được lại chính là nữ nhân vĩnh viễn không ở trong vòng tay, một ngày nào đó ngươi sẽ minh bạch lời này của ta.”

Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Về phương diện này phiệt chủ cũng có điều gì tiếc nuối?”

Tống Khuyết chỉ cười, mái tóc hoa râm lấp lánh dưới ánh lửa, như thôi thúc ông ta nói về chuyện quá khứ: “Đời người sao có thể vẹn toàn? Thuở đất trời mới phân, âm dương tượng hình đã chia thành thư hùng, luôn trong trạng thái không viên mãn. Dương tiến thì âm lui, âm trường thì dương huỷ, tùy thời mà thay thế cho nhau, do đó truy cầu sự hoàn mỹ mãi sẽ không có được. Nam nữ giản đơn là thế, thường nhân chịu khổ theo đuổi danh lợi, phú quý, quyền lực cũng không ngoại lệ, cuối cùng nào có khác gì.”

Nói đến mấy chữ “nào có khác gì”, ông ta dường như dốc tận đáy lòng, chìm trong hồi ức bi thương không cách gì cải biến.

Khấu Trọng định nói lại thôi.

Tống Khuyết cười nhẹ bảo: “Thiếu soái chính là muốn hỏi lão phu, vì sao đã nhìn thấu rằng có nỗ lực truy cầu thì cuối cùng cũng không được như ý, giờ lại giúp ngươi dấy động can qua, tranh bá thiên hạ phải không?”

Khấu Trọng đáp: “Đó chỉ là một trong những vấn đề, có một câu khác muốn hỏi, nữ nhân phiệt chủ không lấy được có phải là Bích Tú Tâm hay không?”

Tống Khuyết đặt chung trà lên bàn, từ tốn đáp: “Vì sao ngươi biết?”

Khấu Trọng thản nhiên đáp: “Nữ nhân có thể hấp dẫn phiệt chủ cho đến bây giờ vẫn chưa quên nhất định phải là nữ tử bất phàm. Tiểu tử tuy chưa gặp qua Bích Tú Tâm, nhưng từ Thạch Thanh Tuyền suy ra vẻ đẹp của bà ấy, lúc nãy chỉ không nhịn được buột miệng hỏi thôi, phiệt chủ không cần trả lời.”

Mục quang của Tống Khuyết dính chặt vào cây Thiên Đao treo trên trướng, lắc đầu: “Không phải Tú Tâm, dù ta có thời bị nàng ấy hấp dẫn, nếu nàng không sanh cho Thạch Chi Hiên một đứa con gái, Tống Khuyết ta nhất định sẽ đi đến cùng trời cuối đất, tuyệt đối không tha cho tên Thạch Chi Hiên ngu ngốc ấy! Hừ! Bất Tử ấn pháp thì sao? Chẳng qua là công pháp của Ma môn biến dị ra từ một loại ảo thuật, không đáng được lão phu để vào mắt. Lão phu ở Lĩnh Nam khổ công chờ Thạch Chi Hiên mười tám năm, chỉ tiếc hắn đã làm ta thất vọng. Đúng là thứ không ra gì!”

Khấu Trọng nghe mà kính phục, Thạch Chi Hiên từng chính miệng nói với Từ Tử Lăng rằng Bất Tử ấn pháp chính là một loại ảo thuật, nhưng Tống Khuyết chưa từng giao thủ với lão cũng nói ra chính xác như tận mắt nhìn thấy, quả là cao minh đến khó tin. Có thể thấy Tống Khuyết đã đạt đến cảnh giới tối cao trong võ đạo, từ manh mối cỏn con cũng suy ra được chỗ ảo diệu của Bất Tử ấn pháp.

Khấu Trọng không nhịn được hỏi: “Nghe nói Từ Hàng Tịnh Trai có một bản bảo thư gọi là ‘Từ Hàng Kiếm Điển’, cố đọc lập tức sẽ thổ huyết thụ thương, phiệt chủ không vì thế mà động tâm sao?”

Vượt ngoài dự liệu của gã, Tống Khuyết tựa hồ khẽ chấn động, một lúc sau mới hồi phục lại thần tình, cười khổ đáp: “Ta không dám đến, không phải không dám xem Kiếm Điển mà sợ gặp một người.”

Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Thiên hạ này lại còn có người làm cho phiệt chủ sợ sao?”

Tống Khuyết thở dài nói: “Có gì lạ đâu, ngươi không sợ gặp Thượng Tú Phương sao?”

Khấu Trọng giật mình: “À, thì ra người có thể làm phiệt chủ động tâm chính là Phạm Thanh Huệ.”

Tống Khuyết không trực tiếp trả lời gã, quay lại chủ đề trước đó: “Lời truyền miệng thường phóng đại, không đáng tin. Lão phu là người đầu tiên không tin chuyện Ninh lão thụ thương khi nhìn ‘Từ Hàng Kiếm Điển’ rồi biết khó mà lui là sự thật. Kiếm Điển do Địa Ni viết ra, chuyên dành cho nữ tử dùng kiếm tu thành thiên đạo, thần bí không thể tưởng, nam tính dương cương nếu xem qua nhất định sẽ gặp nguy cơ trùng trùng. Đó là vì nó bác đại tinh thâm, kỳ ảo khó giải, dễ dàng lôi kéo vào trong trầm mê, không thể tự thoát ra, để rồi dẫn đến tẩu hỏa nhập ma, Ninh lão có thể vượt qua khỏi trở lực này thật sự rất hiếm.”

Khấu Trọng hứng chí hỏi: “Tương truyền Ninh Đạo Kỳ lúc đương thời định lên Tịnh Trai khiêu chiến Phạm Thanh Huệ, tiểu tử không tin sự tình là thế, Ninh Đạo Kỳ là một dạng người không tranh danh lợi thế tục, tại sao lại gây phiền phức khắp nơi?”

Tống Khuyết đưa mắt chăm chú đánh giá gã một lúc, xong khẽ cười nói: “Ngươi không còn thống khổ phiền não nữa rồi, đúng không?”

Khấu Trọng ngạc nhiên: “Tiểu tử có phải là người nhiều chuyện không? Bàn luận về những vấn đề hấp dẫn thế này, những chuyện khác đều bị gạt ra khỏi tư tưởng.”

Tống Khuyết vui vẻ nói: “Chính vì thế ngươi mới có tư cách tranh thiên hạ cùng Lý Thế Dân! Ninh lão khi đến Tịnh Trai chỉ muốn cùng luận đạo với Thanh Huệ. Tháo chuông phải cần đến người buộc chuông, chuyện của Ngọc Trí lão phu không tiện nhúng tay vào, tất cả đều do tự ngươi tìm biện pháp giải quyết. Còn chuyện gì nữa không?”

Khấu Trọng hạ thấp giọng, thì thào nói: “Chỉ cần đoạt được Hán Trung, tiểu tử có bí pháp để công hãm Trường An mà không phí chút sức lực.”

Tống Khuyết động dung bảo: “Nói ra nghe thử.”

Khấu Trọng nhất nhất đều thuật lại bí mật của Dương Công Bảo Khố, cuối cùng nói: “Chỉ cần chúng ta xuất kỳ bất ý đồng thời phát động ở cả trong và ngoài thành, đánh cho Lý Uyên không kịp trở tay, tiểu tử tin rằng sớm muộn gì cũng khống chế được Trường An.”

Tinh quang trong mắt Tống Khuyết nhấp nháy, thần tình đã trả lại vẻ trầm tĩnh lúc trước, từ tốn hỏi: “Tình huống trong thành Trường An ngươi rõ hơn ta, theo ngươi chúng ta cần bao nhiêu binh lực, khi nào thì có thể công chiếm Trường An trong một đêm?”

Khấu Trọng đáp: “Nếu Lý Thế Dân ở lại trấn thủ Lạc Dương, Quan Trung bỏ không, chỉ cần ba vạn tinh binh là chúng ta có đủ năng lực thu thập Lý Uyên. Hà! Lão nhân gia ở đây thật tốt, có thể định đoạt cho tiểu tử.”

Tống Khuyết dường như không hề nghe mấy câu gã nói sau cùng, lộ ra thần sắc ưu tư, lắc đầu: “Ngươi tuyệt không nên coi thường khả năng phòng ngự của Trường An. Lão hôn quân Dương Quảng sợ thủ hạ mưu phản, phòng bọn chúng mở cửa đón địch, nên không những bố trí quan lũy trong thành, thành môn cũng trùng trùng chướng ngại, kể cả ngươi phát động công kích trong thành nội, một chốc một lát thì đừng mơ tưởng đến chuyện khống chế được bất kỳ thành môn nào. Hơn nữa Lý Uyên vì phòng Lý Thế Dân phản bội, lâu nay vẫn cho trọng binh đồn trú tại phụ cận Trường An, có thể tùy thời vào thành nội, Đường cung bao gồm ba tòa đô thành kiên cố bao bọc bởi tường thành khắc chế công kích. Theo ta thấy phải tăng số trọng binh lên sáu vạn người, trong một tối mới có cơ hội lập được cứ điểm vững chắc tại thành nội, cuộc chiến tranh giành từng tấc đất sẽ phải tốn nhiều ngày, thắng lợi tuyệt không đến dễ dàng.”

Khấu Trọng bội phục: “Phiệt chủ nghĩ đến điều này quả là cẩn thận chu đáo.”

Tống Khuyết cười khẽ: “Nguyên là vì ngươi thường lấy ít thắng nhiều, lấy nhược thắng cường. Bất quá hiện giờ có lão phu tương trợ ngươi, hà cớ gì phải mạo hiểm? Dĩ nhiên đã có diệu kế công hãm Trường An này, lão phu sẽ thành lập sách lược mới, phân phối người khiến Lý Thế Dân sẽ bị giam hãm đại quân ở Lạc Dương. Việc đánh Hán Trung phải bí mật tiến hành, chờ cho tới khi Lý Thế Dân biết được Hán Trung thất thủ, bắt đầu cảnh giác, thì Trường An đã mây yên gió lặng, không ai có thể cải biến vận số bị tiêu diệt của Lý Đường nữa.”

Khấu Trọng khiêm cung hỏi: “Hiện tại tiểu tử nên làm thế nào?”

Tống Khuyết bật cười nói: “Ngươi là chủ soái mà? Sao lại hỏi ta?”

Khấu Trọng cười phụ họa: “Cái đó chỉ dùng khi có người ngoài, bây giờ chỉ có tiểu tử và lão nhân gia, đương nhiên phải theo lời phiệt chủ. Ôi! Làm thủ lĩnh đúng là không dễ dàng gì.”

Tống Khuyết dò xét gã một hồi, rồi khoan thai nói: “Có ba chuyện mà ngươi phải tự mình làm, không thể dựa vào ai khác.”

Khấu Trọng cung kính: “Xin phiệt chủ phân phó.”

Tống Khuyết cầm lấy chung trà, thư thái hớp lấy hai ngụm, bảo: “Khấu Trọng! Ngươi vốn biết lòng ưu ái của lão phu đối với ngươi ngày càng gia tăng. Luận về thanh uy, hôm nay Khấu Trọng ngươi không hề dưới Tống Khuyết, nhưng ngươi vẫn mang một tấm lòng son, lão phu chẳng phác giác được chút dã tâm nào, điều này không thể được! Ngươi cần phải có mục tiêu rõ ràng. Ngươi không sợ lão phu lợi dụng ngươi, rồi tự mình ngồi lên bảo tọa hoàng đế của ngươi sao?”

Khấu Trọng thản nhiên đáp: “Đa tạ phiệt chủ tán thưởng. Nói cho ngay, làm hoàng đế có gì là hay, nếu phiệt chủ khẳng khái nhận, tiểu tử vô cùng cảm kích.”

Tống Khuyết bật cười: “Đừng có mơ ta đáp ứng.”, rồi lão nghiêm mặt tiếp: “Điều đầu tiên, Thiếu soái phải lập tức quay về Trần Lưu, tuyên bố với thuộc hạ là Tống Khuyết ta toàn lực giúp ngươi đăng lên ngôi hoàng đế, Ngọc Trí chính là hoàng hậu tương lai của ngươi. Đừng coi đây là chuyện nhỏ, thực tế nó rất quan trọng, không chỉ ổn định được lòng quân, lại khiến quyền lợi và trách nhiệm phân minh, không còn tồn tại cái gì chính cái gì phụ nữa, khi đó hai quân hóa thành một, đồng tâm hiệp lực, bắt đầu phát huy uy lực liên thủ của chúng ta.”

Khấu Trọng đáp: “Lão nhân gia cũng nên suy nghĩ lần nữa lời đề nghị của tiểu tử, đó là khát vọng chân chính của tiểu tử vậy.”

Tống Khuyết điềm nhiên mỉm cười: “Từ giờ trở đi đừng nhắc đến chuyện này nữa, khi ngươi thành người chân chính thống nhất thiên hạ, thấy vạn dân sống hạnh phúc dưới sự cai trị chân chính của ngươi, mọi hy sinh cá nhân đều chẳng có gì nữa hết.”

Khấu Trọng chán nản hỏi tiếp: “Điều thứ hai là gì?”

Tống Khuyết đáp: “Lão phu sở dĩ bảo ngươi ngay đêm lập tức quay về Trần Lưu, chính vì điều thứ hai vô cùng khẩn bách. Khi về Trần Lưu, Thiếu soái phải cho người ngựa đến ngay Lịch Dương, thuyết phục Đỗ Phục Uy công bố toàn lực ủng hộ ngươi, chỉ cần lão gật đầu, chúng ta không phí một binh một tốt mà khống chế được Đại Giang, lúc nào cũng có thể đánh Tương Dương. Chiếm lấy Hán Trung chỉ là chuyện cất tay sau đó. Khi Lý Thế Dân biết được tin này, nhất định sẽ cố thủ Lạc Dương, đại lợi cho chúng ta đem quân nhập Thục, công hãm Quan Trung.”

Khấu Trọng gật đầu: “Tiểu tử cũng có ý này, xin phiệt chủ phân phó chuyện thứ ba.”

Tống Khuyết dặn: “Ngươi phải lén vào Trường An từ bí đạo, sao cho thần không hay quỷ không biết, đi một vòng quan sát tuyệt đối chuẩn xác cách bố phòng binh lực và quan lũy rồi vẽ thành một bản đồ cho chúng ta tham khảo. Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng, cuộc chiến trường An không thể thất bại. Làm sao để giảm thiểu thương vong của chúng ta xuống mức thấp nhất, bảo tồn thực lực nhằm đối phó với Lý Thế Dân, đó là vấn đề lớn ảnh hưởng đến thắng lợi tối hậu. Chuyện này ngươi phải tự thân hoàn thành, dù cho thân phận có bại lộ, lão phu tin rằng với Tỉnh Trung Nguyệt trong tay, ngươi có thể thoát được.”

Khấu Trọng khâm phục tận đáy lòng: “Tiểu tử ghi nhớ kỹ lời dặn dò của phiệt chủ, ba chuyện này xin cứ tin ở tiểu tử, tuyệt đối không làm phiệt chủ thất vọng. Tiểu tử quay về nói lại vài lời, rồi lập tức phản hồi Trần Lưu!”

Tống Khuyết ngẩng đầu nhìn trời cười nói: “Tốt! Thế mới giống con rể tương lai của Tống Khuyết ta chứ, mọi chuyện khác không cần phân thần lo lắng, lão phu trước khi công nhập Quan Trung sẽ tạo cho ngươi tình thế tối ưu tất thắng.”

o0o

Quân binh giữ thành của Trần Lưu thấy Khấu Trọng đột nhiên quay lại, toàn thành quân dân đều hân hoan, Tuyên Vĩnh, Hư Hành Chi, Tiêu Hồng Tiến, Tả Hiếu Hữu, Lạc Kỳ Phi, Trần Trường Lâm, Cao Chiếm Đạo, Ngưu Phụng Nghĩa cùng đón gã nhập thành, bách tính xếp hàng trên đường hoan nghênh, tiếng reo hò vang dội như sóng dồn, khí thế vút cao như lửa cháy ngút trời.

Khấu Trọng đương nhiên giống như người con đi xa mới về, miệng mỉm cười vẫy tay chào cư dân coi gã như thần minh, sự thật thì bản thân gã không biết vì sao toàn thành Trần Lưu lại coi Đường quân như mãnh thú, như nước lũ thế này?

Vừa vào đại môn ngoài soái phủ, Tuyên Vĩnh lập tức phúc trình: “Đã nhận được tin tức Từ gia, huynh ấy đang cùng Hầu công tử và một vị bằng hữu họ Âm đang đi thuyền ngược Vận Hà lên phía bắc, nay mai sẽ tới nơi.”

Khấu Trọng giật phắt mình dừng lại, reo lên: “Vận may của ta đến rồi! Không có tin gì tốt hơn thế, lại còn tìm ra Âm tiểu tử đã thất tung nữa. Con bà nó! Các ngươi có biết Lý Thế Dân thấy mặt nhạc phụ tương lai của ta đã rụt đuôi trở về Lạc Dương rồi.”

Mọi người cũng dừng lại phía sau lưng gã, nghe thế liền phát một trận cười nghiêng ngả, ai cũng biết đại quân của Tống Khuyết giá lâm, khiến toàn bộ tình thế chuyển biến, những ngày gian khổ cuối cùng đã thành quá khứ.

Khấu Trọng đã xây dựng được hình tượng vô địch đối với Thiếu Soái quân. Nhưng quan trọng hơn, Thiếu Soái quân đối với Đại Đường quân không còn có chút úy kỵ gì, Khấu Trọng chính là khắc tinh của Lý Thế Dân. Niềm vui khi đạt được thắng lợi không mấy gì dễ dàng này lan truyền sâu rộng trong mỗi tướng sĩ trước quảng trường Soái phủ.

Gã hô to: “Chuyện đầu tiên ta phải làm là luận công khen thưởng, nếu như thế, mỗi cá nhân ở đây đều có thưởng cả, đã có công thì phải thưởng tiền, Khấu Trọng ta không có đủ, nhưng nhạc phụ tương lai của ta nhất định sẽ móc hầu bao, mọi người nếu không tin ta thì phải tin ông ta.”

Mọi người buột miệng cười lớn, cùng hân hoan tán thưởng, cách nói chuyện của Khấu Trọng quả là thú vị.

Hư Hành Chi vuốt râu nói nhỏ: “Thưởng cần phải tín, hình cần phải nghiêm, lời cổ nhân có bàn, thưởng phạt phải công minh, có thưởng tất có phạt. Binh thư thường nói phàm làm người sở dĩ lâm trận quên thân, chấp nhận cầm gươm đao, đầu tiên là cầu vinh danh, kế đến là tham trọng thưởng, thứ ba là sợ hình phạt, thứ tư để tránh họa nạn. Hành Chi đã định ra cho quân chúng ta một chế độ thưởng phạt, chỉ cần Thiếu soái gật đầu đồng ý, có thể luận công ban thưởng, luận tội mà phạt, Thiếu soái minh xét!”

Khấu Trọng mừng rỡ nói: “Hành Chi quả thật tính toán chu toàn, giúp ta rất nhiều, lo gì đại sự bất thành?”

Tuyên Vĩnh định cất lời nhưng do dự, Hư Hành Chi đã tiếp lời: “Mời Thiếu soái di giá đến đại đường.”

Khấu Trọng thầm thở dài, Tống Khuyết quả là liệu sự như thần, tướng sĩ Thiếu Soái quân đều lo lắng về ngôi hoàng đế, vì chỗ đó chỉ có một, trong khi luận thực lực, thân phận, địa vị, Tống Khuyết vượt hẳn gã, nếu không làm rõ tình huống lập lờ này, quân tâm nhất định sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bọn Tuyên Vĩnh hiển nhiên đã từng thảo luận qua, vì thế khi nghe đến đại sự đã có phản ứng như thế.

Gã hiểu là không thể nào trốn tránh, bèn nghiêm mặt nói: “Ta còn có một chuyện cần công bố, Tống phiệt chủ quyết định toàn lực trợ giúp ta thống nhất thiên hạ, Tống gia quân trở thành Thiếu Soái quân, ngày nào đó Khấu Trọng ta có may mắn lên ngôi hoàng đế, Tống Ngọc Trí chính là hoàng hậu.”

Chúng tướng sĩ nghe thế liền reo hò vang trời, tiếng tung hô như sấm động đưa Khấu Trọng tiến nhập Soái phủ.

Khấu Trọng có khổ tự biết, trước khi Tống Khuyết đánh lui đại quân của Lý Thế Dân, ngôi hoàng đế chỉ là giấc mộng không thể đạt tới, nhưng tình thế hiện giờ đã đại biến, thiên hạ phân thành hai cực, nếu gã đủ sức giành được thắng lợi cuối cùng, cái ghế hoàng đế đó trở thành có khả năng rất lớn, khiến gã cảm thấy vấn đề này rất bức rứt và đầy áp lực. Trong lòng gã, chuyện lý tưởng nhất là tìm được một vị hiền giả lên ngôi hoàng đế, gã sẽ công thành thân thối, cùng Từ Tử Lăng ngao du thiên hạ, hưởng thụ sinh mệnh. Vấn đề là gã không thể không tôn trọng chí hướng của Tống Khuyết, ông ta thể hiện rõ rằng chỉ toàn lực trợ giúp gã lên ngôi, chứ không phải ai khác.

Sự tình như thế đã không còn chỗ cho lựa chọn.

o0o

Thuyền buồm từ từ cập bờ, cuối cùng cũng đến Trần Lưu.

Chỉ cần nhìn tình hình sĩ khí của quân thủ ở Trần Lưu, có thể hiểu Khấu Trọng còn sống, toàn thành quân dân đều trần đầy niềm phấn khích và vui mừng thắng lợi.

Trên bến và tường thành rợp cờ xí Thiếu Soái quân dương lên đón gió, quân tình cực thịnh, uy phong mọi bề khiến Từ Tử Lăng cảm giác mình lại lần nữa dẫn đầu Thiếu Soái quân chiếm thượng phong trước quân địch, không còn ở tình thế yếu kém phải trốn tránh cầu toàn nữa, mà là một đội hùng quân có thể tung hoành thiên hạ.

Lính gác cổng thành lập trận hoan nghênh, trên đầu thành một hồi trống rền vang, hàng nghìn kỵ binh như cuồng phong tuôn ra khỏi cửa thành, vó ngựa như sấm sét, dẫn đầu dĩ nhiên là Khấu Trọng.

Ba gã không thể nhẫn nại chờ thuyền cập bến được nữa, phi thân nhảy lên bờ.

Khấu Trọng sớm đã xuống ngựa, từ khoảng cách hơn trăm bộ đã bất chấp tất cả chạy nhào lại ôm Từ Tử Lăng thật chặt, lệ vương đầy mặt, kêu lên rối rít: “Cảm ơn trời đất! Ông trời quả là đối xử không tệ với hai huynh đệ chúng ta, Lăng thiếu gia cuối cùng cũng trở lại!”

- o O o -

Hồi 687

Tam Đạo Nan Đề

  Trong nội đường Soái phủ, Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Hầu Hi Bạch, Âm Hiển Hạc cùng ngồi quanh bàn trò chuyện, cùng tham dự còn có Hư Hành Chi và Tuyên Vĩnh.

Sau khi nghe rõ chuyện của Từ Tử Lăng, Khấu Trọng mừng rỡ nói: “Thật may làm sao, ta chính là đang định đến Trường An, nhưng trước hết phải đến diện kiến lão gia.”

Chuyển sang Âm Hiển Hạc, gã nói: “Lão ca yên tâm, chuyện treo thưởng tìm lệnh muội cứ giao cho đệ, Hành Chi sẽ tính toán hết mọi chuyện liên quan.”

Hư Hành Chi vui vẻ đáp: “Chỉ là chuyện cỏn con, thuộc ha sẽ lo liệu ổn thỏa chuyện này.”

Âm Hiển Hạc nói: “Chỉ là....??”

Khấu Trọng cười cắt ngang lời y: “Đều là huynh đệ một nhà, đệ có ngân lượng chính là huynh có ngân lượng, đâu có gì mà phải ngại.”

Tuyên Vĩnh thắc mắc: “Thiếu soái hà cớ gì mà đến Trường An?”

Khấu Trọng đem đề nghị của Tống Khuyết ra nói, đột nhiên phát hiện sắc mặt của Từ Tử Lăng có điểm quái dị, liền hỏi: “Lăng thiếu gia có chuyện gì thế?”

Từ Tử Lăng cười khổ đáp: “Chuyện này chỉ có thể nói riêng với ngươi!”

Khấu Trọng nói: “Không có chuyện gì không thể giải quyết. Hay là các người cùng ta đến Lịch Dương gặp lão gia trước, sau đó đến Quan Trung, trên đường còn có thể ghé thăm mỹ nhân Trường chủ nói vài lời. Lúc cực lúc vinh, Thương Tú Tuần nhất định sẽ rất vui khi gặp chúng ta.”

Hư Hành Chi nhíu mày: “Chuyện vẽ bản đồ nội thành Trường An phiền Hầu công tử nhọc công được không?”

Diệu bút của Hầu Hi Bạch trứ danh thiên hạ, đương nhiên hơn Khấu Trọng nhiều.

Hầu Hi Bạch vui vẻ đáp: “Chuyện đó cứ giao cho tiểu đệ.”

Khấu Trọng mỉm cười: “Hành Chi không cần quá lo lắng, ta đi rồi, Tống phiệt sẽ chủ trì đại cuộc, chỉ cần ta có thể thuyết phục lão gia truyền tin trong thiên hạ, Trầm Pháp Hưng, Tiêu Tiễn và Lâm Sĩ Hồng cùng tàn dư coi như bị chặt tay chân. Lý Thế Dân nhân vì đại tuyết cản đường không thể nam hạ, sau khi phong tỏa thủy đạo rồi, hắn chỉ đành ở lại phía Bắc thôi. Hiện giờ chuyện của bọn ta cũng rất gấp, không phải là nam chinh bắc thảo, mà làm sao huấn luyện cho được một đội tinh binh thiện nghệ về huyết chiến cận thân chờ dịp đánh chiếm Trường An. Lúc đó, thiên hạ trở thành vật trọng túi bọn ta, đến phiên Lạc Dương trở thành cô thành, luyện quân sẽ do Tuyên Vĩnh phụ trách.

Tuyên Vĩnh lĩnh mệnh đáp ứng.

Âm Hiển Hạc hỏi: “Lúc nào khởi trình?”

Khấu Trọng cười nói: “Tiểu đệ vốn định tối nay lên đường, cho các người có cơ hội cùng diện kiến Tống phiệt chủ, hiện tại thấy dáng vẻ Âm huynh như thế này, biết lão ca rất khó mà chờ lâu hơn, đã như thế, một khắc sau bọn ta sẽ đăng thuyền đông trình.”

Gã chuyển sang hỏi Từ Tử Lăng: “Có chuyện gì, lên thuyền nói được không?”

Từ Tử Lăng định nói nhưng thôi, đành phải đáp ứng.

Bận rộn cả thời thần khiến Khấu Trọng thiên hôn địa ám, gã phải nói chuyện cùng chư tướng, phải gặp mặt từng người, lắng nghe ý kiến của họ, lại còn phải thẩm duyệt ủy nhiệm trạng cùng hồ sơ do Hư Hành Chi chuẩn bị rồi ký tên đóng dấu, bận tối cả mắt, gã bắt đầu cảm nhận nỗi khổ làm hoàng đế.

Hư Hành Chi nói: “Làm Song Long tác kỳ huy do Chiếm Đạo cùng Phụng Nghĩa đề nghị, chúng thuộc hạ mọi người đều tán đồng, trừ khi Thiếu soái có ý khác, xin cho Hành Chi biết để cho chế tác thành vật thật.”

Khấu Trọng cười nói: “Mọi người đều bảo tốt, ta sao có thể phản đối. Hà! Không nghĩ ra được ta cùng Tử Lăng hai gã Dương Châu Song Trùng lại có thể biến thành rồng, đến giờ ta vẫn chưa có cảm giác chân thật.”

Hư Hành Chi hỏi: “Sau khi Tống phiệt chủ đến, bọn ta cùng ông ta hợp tác như thế nào?”

Khấu Trọng mỉm cười: “Hành Chi tựa hồ có điểm sợ ông ta, đúng không?”

Hư Hành Chi thở dài: “Tống Khuyết xuất thân hiển hách, uy danh quá thịnh, chỉ có Ninh Đạo Kỳ có thể sánh ngang, con người nổi tiếng như vậy, thiên hạ ai mà không úy kính?”

Khấu Trọng nói: “Yên tâm! Hành Chi nên biết chuyện tuyên bố ta làm hoàng đế, Ngọc Trí làm hoàng hậu là do Tống Khuyết chủ động đề xuất. Ông ta còn bảo ta thông báo cho thủ hạ biết rõ Tống gia quân trở thành Thiếu Soái quân, biến hai quân trở thành một, trên dưới đồng lòng. Về phương diện kiến thức này, so với lão nhân gia người, ta chỉ là loại tép riu. Bọn ta hiện thời phải cấp tốc phục hồi nguyên khí, trước khi đánh Quan Trung phải tận lực củng cố lãnh địa, giữ yên bên trong mới tính đến đánh bên ngoài. Đối phó địch quân phương nam, việc dụng binh nhất nhất do lão nhân gia xử lý, bọn ta biến thành hậu viện của người. Vật tư lấy từ vùng Lĩnh Nam của Tống gia, rồi dùng thủy lộ chi viện cho quân viễn chinh, khi Đại Giang nằm hoàn toàn trong tay chính là lúc chúng ta nhập Thục lấy Hán Trung và thời khắc quan trọng nhất đánh Trường An lúc này đã đến. Tính mệnh Dương công tuyệt không thể hy sinh vô ích, mỗi giọt nợ máu phải đòi lại bằng hết.”

Hư Hành Chi thở phào nói: “Thiếu soái giải thích rõ ràng rồi, thuộc hạ cất được nỗi lo trong lòng. Nhưng vẫn không hiểu tại thời khắc này, mọi chuyện của nước ta vẫn còn bề bộn, sao Thiếu soái lại nhất định đem thân đến Trường An?”

Khấu Trọng tựa vào thành ghế, thở dài một tiếng, suy nghĩ thẫn thờ hồi lâu, rồi nhìn ánh mắt đang chờ đợi của Hư Hành Chi, cười khổ đáp: “Để có thể đường hoàng xe ngựa tiến vào, ta nghĩ nhất định phải xác định hư thật mọi nơi trong thành rõ như nằm trong lòng bàn tay, từ đó tính toán được trước trận chiến kịch liệt trong thành nội. Nói cho đúng thì ta muốn tạm ly khai chiến trường, nghỉ ngơi một chút. Bất quá nếu ai hỏi, Hành Chi cứ trả lời thật đàng hoàng.”

Hư Hành Chi không biết nói sao, đành vâng lời.

Khấu Trọng đột nhiên hưng phấn nói: “Dùng binh phải dùng mưu, ta thật sự không hiểu biết gì, chỉ biết tranh thủ lão gia cùng Thương mỹ nhân đứng về phía chúng ta, được như vậy còn hơn chiến thắng nhiều trận trên chiến trường. Huống chi lần này ta chỉ ghé qua Trường An, nhanh thì nửa tháng, lâu thì một tháng là trở về Trần Lưu, còn dư hai tháng an toàn trong tiết mùa đông.”

Hư Hành Chi trầm tư một lúc, cuối cùng cũng lộ ra thần sắc vui mừng, gật đầu nói: “Thuộc hạ minh bạch rồi! Thiếu soái cứ yên tâm mà đi!”

Khấu Trọng định đàm luận với y những chuyện khác, thì Trần Trường Lâm đã như cơn lốc xộc vào, đến quỳ trước mặt Khấu Trọng nói: “Xin Thiếu soái làm chủ cho Trường Lâm!”

Khấu Trọng giật mình cả kinh, rời ghế nâng y dậy, nói: “Trường Lâm huynh cần gì phải như thế, cùng là huynh đệ một nhà, chuyện của huynh chính là chuyện của ta, nhất định sẽ tận lực giúp đỡ.”

Hai mắt Trần Trường Lâm ứa dòng nhiệt lệ, bi ai nói: “Thỉnh Thiếu soái phái xuất một đạo quân cho ta đi đánh Côn Lăng.”

Khấu Trọng và Hư Hành Chi ngạc nhiên thì ít, đau đầu thì nhiều. Trần Trường Lâm có mối cừu hận hủy gia diệt tộc đối với cha con Trầm Pháp Hưng, do đó khi y nhận thấy thời cơ đã tới, nhất định là không thể nhẫn nại. Tiếc là tình thế hiện giờ quá phức tạp, Khấu Trọng không thể vì vấn đề cá nhân này mà làm ảnh hưởng đến sách lược toàn cục của Tống Khuyết. Mục tiêu chiến lược tối trọng yếu trước mắt là công hãm chỗ yếu hại nhất của quân Đại đường ở đại đô Trường An, những chuyện khác tạm thời phải gác qua một bên. Nhưng gã phải cự tuyệt Trần Trường Lâm như thế nào để khỏi khiến y phải thất vọng?

Gã nhìn thẳng vào mắt của Trần Trường Lâm, mỉm cười nói: “Đệ đã sớm nói rằng, chuyện của lão ca chính là chuyện của đệ. Huynh cứ tìm Tuyên Vĩnh thương lượng, chuyện luyện quân phải tiến hành khẩn trương, trước hết lấy Côn Lăng làm mục tiêu tấn công, tiện thể còn đang hăng sẽ kéo rốc tiến chiếm mẹ nó luôn Trường An. Không ai nắm rõ tình huống Giang Nam như huynh, vì thế có thể lợi dụng thanh thế hiện thời của chúng ta mà phái người đến Côn Lăng, ngầm mua chuộc và phân hóa tướng lĩnh thủ hạ của Trầm Pháp Hưng. Phàm nhân ai chẳng ham danh lợi, tham sống sợ chết, nếu biết Trầm Pháp Hưng không phải là đối thủ của chúng ta, khẳng định sẽ khiến chúng quy phục. Con bà nó! Chúng ta có thể tránh được nổi cực khổ công thành. Hà! Nhất cử lưỡng tiện, trên đời này quả là có chuyện như thế.”

o0o

Từ Tử Lăng hỏi: “Vì sao không thấy Vô Danh? Thiếu soái ngươi không mang nó theo bên mình ư?”

Khấu Trọng hỏi ngược lại: “Vì sao không thấy Lăng thiếu gia giới thiệu Lăng tẩu để ta thấy qua Lư Sơn chân diện mục? Tử Lăng mà cũng dám rời nàng ư?”

Từ Tử Lăng tức giận: “Tâm tình của ngươi tốt thật. Bất quá khi ngươi nghe ta nói qua chuyện này, nhất định sẽ phá hỏng tâm tình của ngươi.”

Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Không cần phải dọa ta, ta không có chịu nổi tin xấu nữa đâu.”

Gió sông thổi đến, hàn khí bức người.

Hai gã đàm luận ở đuôi thuyền, thuyền chính là đấu hạm cực nhanh của Thiếu Soái quân, lại thuận theo Vận Hà nam hạ, tiến đến Đại Giang. Thuyền đưa Tử Từ Lăng đến Trần Lưu vẫn lưu ở ngoài thành, thuyền phu được Thiếu Soái quân tiếp đón nồng hậu.

Âm Hiển Hạc cùng Hầu Hi Bạch thấy hai huynh đệ gã có chuyện cần thương thảo, biết ý lui về phòng.

Từng đám mây dày đặc trên trời sà thấp xuống, không khí chuyển lạnh, cảnh tượng như đại tuyết đang đến.

Từ Tử Lăng ủ rũ nói: “Phi Huyên biết được bí mật của Dương Công Bảo Khố.”

Khấu Trọng thất thanh: “Cái gì?”

Từ Tử Lăng bèn kể hết những chuyện Sư Phi Huyên biết được sự chân giả của bảo khố ra.

Khấu Trọng hoảng hốt nói: “Chả trách Lăng thiếu gia nói phá nát tâm tình của ta, nhưng ta vẫn cảm thấy thoải mái phi thường, vì ta tin rằng Sư Phi Huyên không phải loại người như vậy, nàng không muốn trực tiếp rơi vào vòng chiến tranh, tạo ra bao nhiêu cảnh chém giết như thế.”

Từ Tử Lăng cười khổ nói: “Nhưng Thạch Chi Hiên có nói qua, cuộc chiến giành thiên hạ bây giờ đã chuyển sang chuyện giữa ngươi và Lý Thế Dân, Sư Phi Huyên không còn lựa chọn nào khác, nhất định sẽ xuất thủ can thiệp. Nếu như nàng tiết lộ bí mật bảo khố, Lý Thế Dân nhất định sẽ đoán biết đường đi nước bước của bọn ta mà có kế hoạch phản kích.”

Khấu Trọng chửi: “Con mẹ nó! Hắn biết rồi thì sao, cứ ra chiến trường đấu nhau oanh liệt một trận. Bất quá ta tin chắc mười phần rằng Phi Huyên không đến nỗi là người như vậy. Lăng thiếu gia nên nhớ lo nhiều tất loạn, bọn ta cứ đến xem qua bảo khố, là biết ngay chân tướng vấn đề.”

Từ Tử Lăng nói ra sự thật, nỗi ưu tự trong lòng nhẹ đi nhiều.

Khấu Trọng cười ha hả: “Để ta hồi đáp lại chuyện lúc nãy ngươi hỏi. Hiện giờ ta là chuyên gia trong việc hầu hạ Vô Danh, phục thị nó đủ mọi chuyện. Không thể mang nó vào Quan Trung, phải lưu lại trong quân. Hê hê! Ngươi cũng nên biết chúng ta có một vị tiểu muội rất khả ái, ngay cả Huyền Thứ còn có ý với nàng nữa kìa.”

Từ Tử Lăng kinh ngạc: “Tiểu muội?”

Khấu Trọng gật đầu: “Thì giống như tiểu muội vậy, chuyện này nói ra dài lắm, quan hệ nhân quả rất rắc rối, để sau này ta kể lại cho ngươi nghe. Đến lượt ngươi nói cho ta nghe chuyện của Thạch Thanh Tuyền.”

Từ Tử Lăng biết rõ “ý không tốt” của gã, từ từ đáp: “Ta cùng Thanh Tuyền tựa hồ không có duyên phận, nàng bằng lòng sau khi đi đến Tịnh Trai bái tế mẹ xong sẽ đến tìm ta.”

Khấu Trọng mừng rỡ reo lên: “Cung hỷ Lăng thiếu gia, cuối cùng cũng có bến đậu!” Rồi thở dài nói: “Ta có chuyện rất khổ não, xin lão ca hãy động não giải quyết giùm.”

Từ Tử Lăng kinh ngạc: “Tâm tình tốt đẹp của ngươi nguyên chỉ là giả trang, xem ra có liên quan đến mỹ nhân phải không?”

Khấu Trọng cười khổ đáp: “Đừng có chọc ta, chuyện khó khăn của ta chẳng dính dáng gì đến mỹ nhân hết, mà là vì ta không muốn làm hoàng đế.”

Từ Tử Lăng sững người: “Ngươi không nói chơi chứ! Đến nước này rồi mà ngươi còn nói không muốn làm hoàng đế, ngươi định ăn nói sao với Tống Khuyết? Tính làm sao với các huynh đệ đã từng vào sinh ra tử?”

Khấu Trọng không hề ngượng ngập đáp: “Do đó ta mới làm phiền tới đầu óc linh hoạt của ngươi giúp ta nghĩ ra kế sách chứ! Thấy Lý Uyên trên ngai hoàng đế thống khổ như thế nào, ta còn không biết tỉnh giấc sao? Lên ngôi hoàng đế cũng giống như tự giam mình, hoàng cung chính là nhà giam, nếu ta mà làm hoàng đế thì đừng có mơ cùng Tiểu Lăng ăn uống thoải mái ngoài đường, sống kiểu đó còn gì là vui thú? Lý tưởng của ta và Tiểu Lăng không khác nhau mấy, chỉ cần bách tính an định là đã không uổng quá kiếp này rồi. Nếu ta sau này có vợ có con, nhất định sẽ là xóm giềng với Tiểu Lăng ngươi, không có ngươi, phần đời còn lại ta sống thế nào?”

Từ Tử Lăng đột nhiên bật cười: “Chuyện này chỉ sợ không ai giúp ngươi được, vì ngươi không còn lựa chọn nào khác. Thiếu soái ngươi giờ một lòng vì vạn người trong thiên hạ mà tính toán, không nên chỉ nghĩ cho mình. Nói cho đúng, trong lòng ta ngoại trừ Lý Thế Dân, chỉ có ngươi là xứng đáng ngồi lên ngai hoàng đế. Vì ta biết ngươi sẽ tận lực mưu cầu hạnh phúc cho vạn dân, hơn nữa bọn ngoại tộc vì sợ ngươi mà không dám xâm phạm.”

Khấu Trọng ủ rũ không nói gì.

Từ Tử Lăng trầm ngâm nói tiếp: “Vấn đề trọng đại là ở Tống Khuyết, nếu ngươi làm hoàng đế, con gái của ông ta làm hoàng hậu thì đương nhiên không nói làm gì. Nhưng nếu ngươi lâm trận thối lui, không ai có thể đoán nổi ông ta sẽ phản ứng thế nào.”

Khấu Trọng đáp: “Ngoại trừ chuyện đó, bọn ta còn có hai vấn đế rất gấp rút cần phải giải quyết khác.”

Từ Tử Lăng ngạc nhiên quay lại nhìn gã.

Khấu Trọng trầm giọng nói: “Đầu tiên là Lý đại ca, vô luận chúng ta bất mãn huynh ấy không lấy Tố tỷ mà cưới người khác thế nào, huynh ấy rốt cuộc vẫn là huynh đệ của bọn ta. Ngặt là huynh ấy đang ở Trường An, nếu bọn ta công thành, nhất thời lỡ tay, sau này lương tâm sẽ mãi không yên ổn.”

Từ Tử Lăng nhíu mày: “Có phải ngươi định khi đến Trường An nếu có cơ hội thì tìm gặp huynh ấy không?”

Khấu Trọng khoát tay: “Đương nhiên ta có tính đến chuyện đó, vì biện pháp tốt nhất vẫn là giáp mặt nói chuyện lợi hại với huynh ấy, khuyên huynh ấy lập tức rời Lý gia.”

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Huynh ấy không nghe đâu. Lý Tịnh là người thế nào, ngươi và ta đều biết rõ!”

Khấu Trọng nói: “Còn có một biện pháp khác là trước khi công thành thì bắt giam huynh ấy cùng Hồng Phất nữ, bảo toàn tính mạng cho phu phụ họ. Chuyện này cần Tiểu Lăng ngươi giúp ta mới được. Ngoài ra còn phải có Bạt tiểu tử, Hầu tiểu tử, Âm tiểu tử ba người. Nếu không thì khó mà hoàn thành.”

Từ Tử Lăng cười khổ đáp: “Đó cũng là một cách, tương đối ổn thỏa. Giờ ngươi đến Trường An đừng làm kinh động huynh ấy vội, tránh cho người ta phải khó xử. Hiện giờ không phải như trước, bọn ta đã thành tử địch của Lý gia, ở thế bất lưỡng lập với Lý Thế Dân. Chuyện khó xử kế tiếp là gì?”

Khấu Trọng để lộ thần sắc vui vẻ, nói khẽ vào tai gã: “Chúng ta đến thăm mỹ nhân Trường chủ, sao không nhân cơ hội mai mối Tống nhị ca cho Thương mỹ nhân luôn?”

Từ Tử Lăng thất thanh hỏi: “Ngươi không nói chơi đó chứ?”

Khấu Trọng nghiêm mặt nói: “Ta sao lại đem chuyện đó ra nói chơi được? Hiện giờ thời thế đổi thay, Thương mỹ nhân không còn coi bọn ta như mãnh thú thời thượng cổ nữa, nhất định sẽ rất vui vẻ gần gũi. Thương mỹ nhân và Tống nhị ca vốn đã tình chàng ý thiếp, chỉ cần bọn ta se sợi chỉ hồng là dẫn nước vào kênh thôi. Hà! Hơn nữa hôn sự này môn đăng hộ đối, đúng không nào? Không những chàng hữu ý thiếp hữu tình, mà còn là thế gia đối thế gia, cao quý cùng một đôi, Tống Khuyết nhất định không phản đối.”

Từ Tử Lăng hỏi thẳng: “Tống nhị ca và Thương Tú Tuần chỉ gặp nhau hai ba lần, lấy đâu ra tình chàng ý thiếp?”

Khấu Trọng mỉm cười: “Tâm tính của Thương mỹ nhân chắc ngươi biết rõ hơn ta, nếu không có hứng thú với Tống nhị cao sao mới gặp mà đã đàm luận với huynh ấy đến thiên hôn địa ám, địa ông trời hoang? Ôi! Ngươi còn không rõ sao? Đó chính là cách duy nhất để nhị ca không cần phải suốt đời ôm ấp bóng hình mẹ. Ngươi có cách gì khác hay ho không?”

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Nhưng ta nghĩ không cần sốt sắng quá, nhỡ may khéo quá hóa vụng thì sao?”

Khấu Trọng vô cùng tự tin đáp: “Sơn nhân tự có diệu kế, bọn ta tạm thời không cần đề thân, nhưng phải vì tương lai tươi đẹp của họ mà vạch đường chỉ lối, gắn kết họ thành một, đến khi đó dẫu có trời gầm họ cũng không chịu nhả ra.”

Từ Tử Lăng nói: “Ngươi đối với ai cũng có cách thích hợp, sao với bản thân mình lại khó tìm đường đi nước bước thế?”

Khấu Trọng cười khổ: “Đó gọi là người trong cuộc thì tối, nên ta phải tìm cách học Lăng thiếu gia ngươi. Lúc nãy ngươi có đề cập đến Thạch Chi Hiên, gần đây ngươi có gặp ông ta không?”

Từ Tử Lăng kể lại chuyện ba lần gặp Thạch Chi Hiên, cuối cùng nói: “Hy vọng cảm giác của ta là sai, Thạch Chi Hiên đã không còn sơ hở nữa.”

Khấu Trọng không đồng ý đáp: “Ít ra thì ông ta không thịt ngươi cũng coi là sơ hở lớn. Sự thật thì ai chả thế, ví như Thạch Chi Hiên, Tống Khuyết đều có sơ hở.”

Từ Tử Lăng vội hỏi: “Tống Khuyết có điểm yếu?”

Khấu Trọng đáp: “Ta không biết có nên coi đó là điểm yếu không. Nhưng Tống Khuyết hình như có tình cảm đặc biệt với sư tôn của Sư Phi Huyên là Phạm Thanh Huệ, vì sợ gặp bà ta mà không dám đến Tịnh Trai đọc kiếm điển, như vậy có coi là điểm yếu không?”

Từ Tử Lăng ỉu xìu đáp: “Chuyện đó so với sơ hở của Thạch Chi Hiên căn bản là hai việc hoàn toàn khác nhau.”

Mặt trời dần khuất vào vùng loạn sơn phía tây Vận Hà, yếu ớt hắt lên từng tia sáng xiên qua tầng mây dày đặc.

Khấu Trọng đột nhiên hỏi: “Bằng linh cảm của ngươi, có tin rằng sẽ giúp Âm tiểu tử tìm lại em gái của hắn không?”

Từ Tử Lăng hoang mang: “Ta không phải là thần tiên thì sao biết được?”

Khấu Trọng cười nói: “Về khoản này thì linh giác của ta hơn ngươi. Bởi vì ta biết luật nhân quả tuần hoàn của Phật môn. Mới nhận tiểu muội tử xinh đẹp như thế, có nhớ năm chúng ta cùng Thương mỹ nhân đến Tương Dương không? Trên đường đi tiểu muội tử định chôm tiền bạc của ta, ta bắt được nhưng chẳng hề trách cứ, lại còn cho một đĩnh vàng nữa. Vì điều đó, sau này nàng kịp báo tin cho ta biết mà tránh khỏi tai kiếp. Đó chính là nhân quả! Ngươi xảo ngộ Âm tiểu tử, chính là trúng phải nhân quả tuần hoàn, đã gieo nhân tất gặt quả. Khẳng định ngươi có thể lấy được đáp án từ mỹ nhân.”

Từ Tử Lăng gật đầu: “Hy vọng như lời ngươi nói!”

Hai gã cùng có cảm giác, đồng thời ngẩng đầu nhìn lên. Hoa tuyết phủ khắp trời từ từ rơi xuống.

Khấu Trọng há to miệng nuốt lấy một đóa hoa tuyết băng lạnh, hân hoan nói: “Thời kỳ quyết thắng trong hai tháng đã bắt đầu. Đông đi xuân lại, thiên hạ không còn là của Lý gia nữa, mà của Khấu Trọng ta. Từ quân sư hãy mau động não, giúp ta vượt qua kiếp nạn bị ép làm hoàng đế này.”

- o O o -

HỒI 688

Bất Kham Hồi Thủ.

Hầu Hi Bạch đến kế bên Khấu Trọng, hân hoan nói: “Tuyết có thể đồng hoá thế giới biến đất trời thành một màu trắng trong thuần khiết. Ủa! Sao Thiếu soái lại nhăn mặt vậy?”

Từ Tử Lăng cảm nhận được hoa tuyết rơi trên đầu quả là một lạc thú, cười nói: “Phiền não của hắn là vì muốn làm hoàng đế.”

Hầu Hi Bạch không nhịn được cười vang: “Bọn thảo dân nhãi nhép như ta thì chẳng có tư cách phiền não về vấn đế đó.”

Khấu Trọng chán nản: “Nói thẳng ra, đó không phải là vấn đề chính làm ta phiền não, điều làm ta thương tâm muốn chết đi được là Tống Ngọc Trí vĩnh viễn không chịu tha thứ cho ta. Hai vị đều là người từng trải, là bậc tiền bối của tiểu đệ, có biện pháp nào giúp cho ta được không?”

Hầu Hi Bạch nghiêm mặt đáp: “Muốn cho nữ nhân tha thứ chỉ có một biện pháp là làm sao cho nàng ta cảm động mà quên đi mọi chuyện. Thông thường ta chỉ cần vẽ một bức tranh hay làm một bài thơ là đã đủ lắm rồi.”

Khấu Trọng than: “Ta không biết vẽ cũng không hiểu thi thơ thì làm sao làm nàng cảm động đây? Lẽ nào lại đem Tỉnh Trung Bát Pháp ra diễn từ đầu đến cuối, hay dẫn nàng đi xem ta đánh trận, cả hai việc này chỉ sợ sẽ dẫn đến kết quả ngược lại mà thôi.”

Hầu Hi Bạch hiểu rõ điều đó, liền nói: “Đương nhiên phải bốc thuốc đúng bệnh thì mới có hiệu lực, Tống cô nương là loại người ra sao, ưa thích cái gì?”

Mặt Khấu Trọng hiển vẻ xấu hổ: “Cô ta là một người có nguyên tắc và lý tưởng, là một người con gái vừa quật cường lại vừa ôn nhu, còn về việc nàng thích thú thứ gì nhất thì, hà hà, tiểu đệ chưa có thời gian tìm hiểu.”

Hầu Hi Bạch muốn hiểu cho rõ gốc ngọn, liền hỏi cho đến cùng: “Nàng ta có nguyên tắc lý tưởng gì?”

Khấu Trọng hắng giọng lúng túng: “Đó chỉ là điều ta cảm nhận được, còn trong lòng nàng nghĩ gì thì ta chẳng hiểu chút nào. Nàng hiểu lầm nên cứ cho rằng đệ tới cầu thân với Tống gia là có âm mưu, nhất quyết không tha thứ cho đệ. Hơn nữa, nàng ở trong Tống gia vốn chủ trương nghị hoà, không muốn cho Tống gia gia nhập vào vòng xoáy chiến tranh.”

Hầu Hi Bạch ngẩn người nhìn gã cả nửa ngày trời, rồi cười khổ: “Huynh có thật sự yêu cô ta chăng?”

Từ Tử Lăng chen vào, nói: “Ban đầu gã vẫn chưa quyết tâm, chưa đủ tình cảm, nhưng hiện tại ta dám khẳng định gã rễ tình đã ăn sâu rồi. Ngọc Trí tiểu thơ là một kẻ yêu hoà bình, ghét chiến tranh, trời sinh ra có tấm lòng nhân hậu, khi thấy Khấu Trọng hiếu chiến chỉ sợ thiên hạ chưa đủ loạn thì trong lòng liền sanh ra phản cảm. Muốn nàng thay đổi thái độ với gã, chỉ có một biện pháp duy nhất.”

Khấu Trọng mừng rơn: “Mau nói ra đi.”

Từ Tử Lăng ung dung nói: “Ta chỉ lờ mờ cảm thấy có cách cứu gỡ, nhưng vẫn chưa thể nắm chắc, đợi đến khi thấu triệt rồi thì sẽ nói cho ngươi biết. Tục ngữ có nói: ‘có công mài sắt có ngày nên kim’, chỉ cần tình yêu của ngươi với nàng có thể vượt qua được mọi thử thách thì sẽ có ngày nàng tha thứ cho ngươi mà.”

Hầu Hi Bạch vỗ vai Khấu Trọng, nói: “Từ Tử Lăng nói quả thật rất chí lý. Chúng ta sẽ tìm ra một biện pháp tốt giúp ngươi, để giai nhân họ Tống đối với ngươi sẽ hồi tâm chuyển ý.”

Khấu Trọng chẳng còn cách nào, đành phải chịu: “Tất cả xin nhờ các người. Ôi, lòng ta thật mâu thuẫn và hỗn loạn đến chết đi được, muốn bỏ hết tất cả đi một chuyến tới thăm nàng, nhưng chỉ sợ làm vậy lại làm nàng thêm phản cảm.”

Từ Tử Lăng khuyên: “Chuyện cần làm của ngươi bây giờ là gạt tư tình nhi nữ sang một bên để có đủ thời gian chuẩn bị giành lấy thắng lợi tối hậu. Đừng nghĩ vẽ sơ đồ hệ thống phòng ngự trong thành Trường An là chuyện dễ, đó là một nhiệm vụ hết sức gian khó đó. Lý Uyên dồn trọng binh đồn trú ở khu tổng chỉ huy cấm vệ ở cửa Huyền Vũ sau cung thành, muốn đến đó lọt vào sân là chuyện không thể nào. Cho nên dù có thể phát động đột kích trong thành vẫn vị tất nắm chắc phần thắng. Đáng sợ nhất là bị địch nhân đánh trước khi chiếm lĩnh được bất cứ cửa thành nào, lúc đó thật không dám nghĩ tới hậu quả.”

Khấu Trọng nói: “Còn nhớ ngày trước ta từng lấy danh nghĩa nghiên cứu kiến trúc để đến Công Bộ của Lưu Chính Hội lật xem sơ đồ bố trí nhà cửa ở quanh Dược Mã kiều không? Trong phòng để bản đồ có một bí thất được khoá kín, ta từng hỏi Lưu Chính Hội xem bên trong đó có gì, hắn nói rằng phải được Lý Uyên phê chuẩn mới được vào, cho nên hắn cũng không biết. Ta đoán rằng trong đó thế nào cũng có bản đồ bố trí quân sự của thành Trường An, cho nên nếu bọn ta có thể lẻn vào bí thất đó thuận tay lấy luôn sơ đồ bố trí quân sự thì đỡ tốn nhiều thời gian.”

Hầu Hi Bạch do dự, nói: “Rốt lại là phải tới cung thành ăn cắp đồ? Cái đó không phải chuyện giỡn chơi đâu!”

Khấu Trọng đầy tự tin đáp: “Vào hoàng cung ăn cắp đương nhiên là chuyện khó còn hơn lên trời, nhưng nếu ở ngoài Hoàng thành thì là chuyện khác.”

Từ Tử Lăng bực bội: “Giả sử cứ theo bí đạo nhập cung, thế nhưng lối ra không phải nằm ở ngoài Hoàng thành, mà lại là tẩm cung Lý Uyên được thủ vệ canh gác nghiêm ngặt, vậy thì đến hoàng cung hoặc ngoài cung thành có gì khác biệt đâu?”

Khấu Trọng đáp: “Đến lúc đó ta sẽ tự có giải pháp, ta xuất thân từ nghề trộm vặt, đi ăn trộm thì giỏi hơn ngồi vẽ sơ đồ nhiều.”

Từ Tử Lăng nói: “Tối rồi, chúng ta nghỉ ngơi dưỡng sức đi, sáng dậy còn kịp đi tới Chung Ly.”

Khấu Trọng thở dài: “Chao ôi, ta thật không muốn gặp mỹ nhân bang chủ chút nào, nàng ta đã làm tổn thương trái tim ta nhiều quá.”

Hầu Hi Bạch khuyên: “Hiện tại nàng ta thật đáng thương, tứ cố vô thân, không ai tương trợ, huynh nên tha thứ và đối đãi tốt với nàng ta mới phải.”

Khấu Trọng chán nản: “Tiểu đệ biết rồi. Hy vọng tối nay ta sẽ nằm mơ thấy nhiều mộng đẹp để đền bù cho mấy việc bực bội không như ý muốn gần đây.”

Tuyết lớn tiếp tục rơi, hai bên bờ sông phủ đầy tuyết trắng.

Sáng hôm sau, bọn Khấu Trọng đi thuyền tới Chung Ly, Bốc Thiên Chí nghe tin ra đón, xe ngựa bí mật chở bốn người vào thành, thẳng tới phủ tổng quản.

Vào phủ mọi người an toạ trong đại sảnh xong liền thỉnh Lôi Cửu Chỉ ra thương nghị.

Bốc Thiên Chí là người đầu tiên lên tiếng phúc trình: “Hiện tại phương nam tình thế đại biến, đám Lý Tử Thông, Trầm Pháp Hưng, Phụ Công Hựu, Tiêu Tiễn đều đang gặp nguy, lo sợ sẽ trở thành mục tiêu tấn công kế tiếp của chúng ta. Nhân tâm ở Giang Đô cũng có sự thay đổi lớn, từ khi tấn công Lương Đô thất bại, mất đi Chung Ly, Cao Bưu và hơn mười thành trị phụ cận, Tả tướng quân cũng đã quy thuận chúng ta, thủ hạ và tướng sĩ đối với Lý Tử Thông vô cùng bất mãn, chỉ cần bọn ta tăng cường áp lực, cắt đường giao thông thủy lộ, Lý Tử Thông sẽ không còn đánh đấm gì được nữa, chỉ còn nước bỏ chạy mà thôi.”

Khấu Trọng nhớ tới Trần Trường Lâm, liền hỏi về tình trạng của cha con Trầm Luân và Trầm Pháp Hưng.

Bốc Thiên Chí đáp: “Trầm Pháp Hưng cùng Lâm Sĩ Hồng đồng bịnh tương liên, từ khi đại quân Tống gia công hãm Hải Nam, Tống Trí chỉ huy Liêu quân, chia làm hai nhánh ép tới Trầm Pháp Hưng và Lâm Sĩ Hồng, không ngừng gặm nhấm vào địa bàn bên ngoài của bọn chúng, thế lực của bọn chúng càng ngày càng yếu, khó mà dở trò được nữa.”

Khấu Trọng cười nói: “Đợi ta thuyết phục lão gia công khai hổ trợ chúng ta, ta dám bảo đảm rằng một số lượng lớn thủ hạ của bọn chúng sẽ không đánh mà đầu hàng, chẳng khác nào lặp lại lịch sử trận chiến ở Lạc Dương vậy.”

Từ Tử Lăng hỏi: “Lão gia cùng Phụ Công Hựu quan hệ ra sao?”

Bốc Thiên Chí đáp: “Hai người đã công nhiên đoạn tuyệt quan hệ, vì Phụ Công Hựu dùng thủ đoạn ti bỉ giết đi mãnh tướng Vương Hùng Đản của Đỗ Phục Uy, đoạt binh quyền Đan Dương, sau đó lại còn liên hợp với Tiêu Tiễn và Lâm Sĩ Hồng, nếu không phải Phụ Công Hựu còn cố kỵ bọn ta và Đỗ Phục Uy bất ngờ án binh bất động thì đôi bạn tri giao thuở xưa này đã đại chiến liên miên rồi.”

Khấu Trọng lấy làm lạ: “Tiêu Tiễn và Lâm Sĩ Hồng chẳng phải luôn đối địch với nhau sao?”

Bốc Thiên Chí nói: “Hiện tại Tiêu Tiễn sợ nhất là bọn ta, còn những kẻ khác thì chỉ là thứ yếu mà thôi.”

Khấu Trọng trầm ngâm hồi lâu, hỏi: “Chí thúc có rõ chuyện ân oán giữa Trường Lâm và Trầm Luân là thế nào không?”

Bốc Thiên Chí đáp: “Ngươi hỏi đúng người rồi đó! Điều ta biết không phải Trường Lâm nói với ta, mà là những điều ta nghe ngóng được thôi.”

Từ Tử Lăng than thầm trong bụng, sự việc xảy ra với Trần Trường Lâm là một việc thảm khốc phi thường, hèn gì hắn ta không muốn nhắc lại chuyện đó chút nào.

Bốc Thiên Chí kể tiếp: “Trầm Pháp Hưng vốn là thế gia đại tộc ở Giang Nam, cha ruột Trầm Cách là thứ sử Nghiễm Châu thời nhà Tùy, con nối nghiệp cha, hắn cũng được bổ nhiệm là Ngô Hưng quận thủ của Cựu Tùy. Năm đó thiên hạ đại loạn, quần hùng quyết định phản Tùy, Trầm Pháp Hưng phụng lệnh Dương Quảng cùng thái phó Thừa Nguyên Hữu liên thủ trấn áp các lộ nghĩa quân ở Giang Nam. Trường Lâm cũng là một thế gia vọng tộc ở Giang Nam, đời đời chế tạo thuyền và kinh doanh buôn bán ở Nam Dương, tuy gia thế không không hiển hách bằng Trầm Pháp Hưng nhưng cũng thuộc hàng có chút danh tiếng. Tai hoạ bắt đầu khi Trần Trường Lâm cưới được một vị mỹ nữ được xưng tụng là Giang Nam tài nữ Phu U Lan, Trầm Luân trước giờ theo đuổi nàng ta bèn sanh hận trong lòng, trong đêm tân hôn xuất quân tấn công Trần phủ, mượn cớ là diệt trừ quân khởi nghĩa mà giết sạch mọi người trong Trần tộc, Trần Trường Lâm cùng tộc nhân đào vong khắp nơi, Phu U Lan bị họ Trầm ô nhục sau đó treo cổ tự tử, cha mẹ và anh em Trường Lâm cũng không thoát khỏi nạn này, cho nên hắn đối với Trầm Luân đúng là thù sâu như biển.”

Khấu Trọng nghe xong phẫn nộ vỗ bàn, hậm hực: “Ngày ta từ Trường An trở về cũng là ngày Trầm Luân nhận lấy cái chết, không ngờ trên thế gian lại có một kẻ súc sinh vô nhân tính như như vậy.”

Lôi Cửu Chỉ lấy làm lạ hỏi: “Tiểu Trọng vì sao trong lúc dầu sôi lửa bỏng này vẫn phải cùng bọn họ đến Trường An làm gì chứ?”

Khấu Trọng sau khi giải thích xong, hỏi lại: “Cuốn sổ nợ Hàn Trạch Nam cất giấu có tìm ra được chưa?”

Lôi Cửu Chỉ đáp: “Sự việc trọng đại, ta tính tự mình làm cho chắc, sau khi các ngươi rời khỏi ta sẽ lập tức hành động ngay.”

Khấu Trọng mừng rỡ nói: “Chuyến này Hương tiểu tử gặp khó khăn rồi, bằng vào tư liệu trong sổ nợ, bọn ta có thể chiếu theo đó mà bày mưu giăng một mẻ lưới quét sạch, triệt để diệt trừ Hương Gia.”

Hầu Hi Bạch hỏi: “Tình trạng Vân Ngọc Chân ra sao?”

Bốc Thiên Chí thở dài: “Nàng ta ở tại một khu độc lập trong hậu viện của phủ tổng quản, kế bên gia đình ba người họ Hàn, vẫn chưa hề bước ra khỏi cửa viện nửa bước, bọn ta không dám làm kinh động, chỉ có tiểu Kiệt thường ra đó chơi giỡn với nàng mà thôi.”

Khấu Trọng nghe vậy nói: “Bây giờ ta cũng không tiện đi gặp nàng ta, phải không?”

Từ Tử Lăng biết gã đối với Vân Ngọc Chân vẫn còn lấn cấn chuyện cũ, không thể miễn cưỡng gã được, liền nhún vai: “Tùy ngươi vậy!”

Khấu Trọng đành đầu hàng: “Được rồi, ta sẽ tới chào hỏi nàng ta mấy câu rồi mới tới Lịch Dương gặp lão gia.”, gã lại quay qua hướng Lôi Cửu Chỉ: “Tru Hương đại kế có tiến triển gì mới hay không?”

Lôi Cửu Chỉ đáp: “Đương nhiên là nắm chắc trong lòng bàn tay rồi, chỉ cần Khấu Thiếu soái ngươi thống nhất thiên hạ, bọn ta không cần tốn nhiều sức lực cũng có thể nhổ sạch gốc rễ của Hương gia.”

Âm Hiển Hạc trầm giọng: “Hương Quý phải do ta ra tay mới được.”

Khấu Trọng cười xoà: “Hương Quý là của ngươi, Hương tiểu tử là của ta, ai cũng có phần, đều vui vẻ cả.”

Lôi Cửu Chỉ hỏi: “Các ngươi tính sẽ theo đường nào để nhập quan?”

Từ Tử Lăng đáp: “Bọn ta vẫn chưa nghĩ tới vấn đề này, Lôi đại ca có đề nghị gì hay không?”

Lôi Cửu Chỉ nói: “Đám sổ sách được giấu ở một tiểu trấn nhỏ ở Ba Thục, nếu các ngươi theo Hán Trung vào Quan Tây thì có thể cùng đi được rồi.”

Khấu Trọng gật đầu: “Hán Trung là nơi then chốt cho bọn ta khi tấn công Trường An, thuận đường đi qua đó, ghé vào thành tìm hiểu tình huống cũng tốt.”

Hướng về phía Từ Tử Lăng, gã tiếp: “ Lăng thiếu gia không cần phải cùng ta đi tới Lịch Dương, hay là ngươi ghé qua tiểu cốc nơi có mộ của mẹ một chuyến, nếu Tống nhị ca đúng là ở tại đó, thì nên thuyết phục hắn cùng chúng ta đi bái phỏng mỹ nhân Trường chủ, bảo đảm hắn đến Phi Mã Mục Trường rồi thì sẽ sung sướng quên hết tất cả, linh hồn của mẹ ở trên trời cũng được an lòng.”

Từ Tử Lăng nghe qua đã hiểu ngay, vui vẻ nói: “Vậy thì ta, Hi Bạch cùng Hiển Hạc sẽ đi trước một bước tới Hán Trung vậy!”

Khấu Trọng vươn người đứng dậy: “Quyết định vậy đi, bây giờ ta phải đi bái phỏng mỹ nhân bang chủ đây!”

Hoàng hôn ngày hôm đó, thêm vào Lôi Cửu Chỉ, cả bọn năm người ngồi trên một chiếc thuyền hai cột buồm phổ thông men theo Hoài Thủy đi về phía đông, rẽ vào Vận Hà rồi thẳng tiến về hướng Đại Giang, khí trời tuy đặc biệt lạnh giá, thế nhưng tuyết rơi vẫn chưa phủ kín hết mặt đất.

Khúc sông này hoàn toàn nằm dưới sự khống chế của Thiếu Soái quân, bất cứ thuyền bè nào cũng đều phải có giấy thông hành của Thiếu Soái quân mới có thể đi qua được.

Lý Tử Thông gặp phải thời tiết khắc nghiệt, thế cùng lực kiệt, miễn cưỡng bảo vệ Giang Đô đang vô cùng bấp bênh nguy hiểm, không cần Khấu Trọng tấn công cũng phải đối phó với nguy cơ sụp đổ từ bên trong rồi.

Nhớ đến uy phong của Lý Tử Thông hồi mới chiếm lĩnh Giang Đô, Khấu Trọng và Từ Tử Lăng trong lòng không khỏi lấy làm cảm khái.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng sát nhau đứng ở mũi thuyền, nhớ tới những chuyện đã qua, trong lòng tràn ngập cảm xúc.

Khấu Trọng thở dài: “Cũng tại khúc sông Đại Giang này, năm đó chúng ta chạy trốn truy binh của Vũ Văn Hoá Cập, từ bên bờ bên kia nhảy xuống sông, suýt chút nữa thì chết đuối, may có mẹ kịp thời cứu chúng ta, đánh lui Vũ Văn Hoá Cập.”

Thuyền buồm tiến vào Đại Giang, Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn sang bờ đối diện mà Khấu Trọng vừa nhắc tới, trong lòng chợt đau đớn như đứt từng đoạn ruột, không nói một lời.

Khấu Trọng nói: “Qua khỏi nơi này thì thành lớn đầu tiên là Đan Dương. Ngươi còn nhớ không? Mẹ cùng chúng ta cùng nhau đi dạo một vòng trong thành này, bà còn đem đồ đi cầm để lấy ngân lượng dẫn chúng ta tới quán ăn, tại đó bọn ta đã gặp được Tống nhị ca, bọn ta lúc đó ghen tỵ đến chết đi được. Chao ôi, nếu bọn ta không đi đường thủy mà đi đường bộ, thì mẹ sẽ không..., chao ôi!”

Từ Tử Lăng ngẩng đầu nhìn bầu trời đêm, nhớ lại lời nói của Thạch Thanh Tuyền, thầm nghĩ nếu mẹ đã quay về trời rồi, thì ngôi sao nào là ngôi sao của mẹ đây?

Khấu Trọng đắm chìm trong hồi ức thống khổ: “Năm đó hai chúng ta chỉ là hai tên tiểu tử miệng còn hôi sữa chẳng đáng một đồng tiền, hiện tại biến thành những nhân vật chấn động thiên hạ, không làm phụ lòng kỳ vọng của mẹ đối với bọn ta. Cứ nghĩ xem, dường như trong chốn hư không đã có định sẵn từ trước, mẹ trước giờ khinh ghét người Hán nhưng lại rất thương yêu bọn ta, cái này không phải duyên phận thì là gì đây? Nếu mà tương lai ta thống nhất thiên hạ, ta nhất định sẽ đối xử tốt với tộc nhân của mẹ, bù đắp lại những việc ác đức mà tên vô lại Dương Quảng đã làm với bọn họ.”

Từ Tử Lăng nhẹ nhàng hỏi: “Ngươi thật sự không muốn làm hoàng đế sao?”

Khấu Trọng chán nản: “Muốn thì muốn đó, nhưng hy vọng và sự thật là hai điều khác nhau hoàn toàn, ngươi là người hiểu rõ hoàn cảnh của ta nhất mà. Chao ôi, ta đã dẫm lên con đường tranh bá thiên hạ không có lối về, không phải vì quyền lợi cá nhân mà vì hạnh phúc của thiên hạ bá tánh. Cũng như mối quan hệ căng thẳng giữa ta và Trí Trí, không ai có thể thay đổi được.”

Từ Tử Lăng hỏi: “Sao ngươi không nhường ngôi vị hoàng đế cho Tống Khuyết?”

Khấu Trọng cười khổ: “Ông ta chẳng những không nhận mà còn cấm ta không bao giờ được nhắc đến chuyện đó nữa.”

Từ Tử Lăng lấy làm lạ nhưng vẫn không nói gì.

Khấu Trọng giải thích: “Theo ta thấy, Tống Khuyết là loại người mặt lạnh lòng nóng. Ông ta vì muốn bảo trì dòng dõi Hán tộc chính thống, không bị ngoại xâm giày xéo, căn bản chẳng hề để ý gì đến ngôi vua cả. Suýt chút nữa là quên mất, ông ta từng đề cập tới Bất Tử ấn pháp của Thạch Chi Hiên, chỉ ra nó là ảo pháp và biến dị của Ma Công, rất giống với lời nói của Thạch Chi Hiên. Ngươi còn rõ Thạch Chi Hiên hơn ta, đối với lời nói này có cảm giác gì đặc biệt không?”

Từ Tử Lăng thân hình chấn động, sắc mặt lộ vẻ trầm tư.

Khấu Trọng chuyển sang chuyện khác: “Bất luận gian nan cỡ nào, Tử Lăng nhất định phải thuyết phục Tống nhị ca gặp mặt mỹ nhân Trường chủ mới được.”

Từ Tử Lăng cười khổ: “Điều đó phải do tự Tống nhị ca quyết định, ta làm sao mà ép y đi được chứ?”

Khấu Trọng phân tích: “Cái mà nhị ca theo đuổi chính là mộng tưởng không có thật. Ngươi và ta đều biết rõ điều đó, mẹ chưa bao giờ để ý đến Tống nhị ca cả.”

Từ Tử Lăng nói: “Vấn đề là ta không nhẫn tâm cho nhị ca biết sự thật này.”

Khấu Trọng gật đầu đồng ý: “Cũng may là nhị ca đối với Thương Tú Tuần là động tâm thật sự, chuyện này coi như cũng có chút hy vọng.”

Từ Tử Lăng nhíu mày trầm tư.

Khấu Trọng nói: “Nhất định phải có phương pháp để thuyết phục nhị ca, chẳng hạn như khích lệ lòng hiệp nghĩa của y, làm cho y cảm thấy bọn ta cần phải cứu lấy Thương Tú Tuần, chứ không phải là đơn giản là đi gặp mặt nàng ta mà thôi.”

Từ Tử Lăng không vui: “Ngươi muốn ta lừa dối nhị ca à? Có ngày rồi nhị ca sẽ khám phá ra mà thôi.”

Khấu Trọng nói: “Ngươi không cần phải nói dối, chỉ cần phóng đại sự thật một chút là được. Chao ôi, thôi thì ta và ngươi cùng đi chung vậy.”

Từ Tử Lăng trầm giọng: “Thì ra ngươi cũng chỉ tìm lý do để quay trở về thăm mẹ mà thôi.”

Khấu Trọng mắt ngấn lệ, đau buồn nói: “Bởi vì ta sợ không dám trở lại, ngày nào ta vẫn chưa về, mẹ dường như vẫn còn đang sống tiêu diêu tự tại yên tĩnh ở nơi tiểu cốc. Nhưng mà khi ta đứng trước phần mộ của mẹ, tất cả mộng tưởng sẽ tan vỡ như bong bóng nước vậy.”

Từ Tử Lăng vươn tay nắm lấy vai của Khấu Trọng, cười đau khổ nói: “Chưa gặp mặt mẹ mà ngươi đã khóc lóc thảm thương vậy rồi, đã trải qua bao nhiêu năm rồi, Vũ Văn Hoá Cập cũng đã trở thành một nắm đất đen mà ngươi còn chưa chấp nhận sự thật sao?”

Khấu Trọng nghẹn ngào: “Lòng căm hận thì vĩnh viễn vẫn còn đó.”

Phía trước đột nhiên xuất hiện ánh đèn.

Hai người nào có tâm tình để ý tới, thực ra thì cũng chẳng đáng để ý tới.

Dưới màn đêm đen kịt, hai chiến thuyền cỡ trung thẳng tiến tới chặn đường, lại đánh chuông ra lệnh cho bọn họ ngừng thuyền lại.

Thiếu Soái quân trên thuyền lập tức vào vị trí sẵn sàng tác chiến, Âm Hiển Hạc, Hầu Hi Bạch, Lôi Cửu Chỉ vội vàng từ dưới khoang thuyền chạy lên. Các chiến sĩ tháo bỏ da trâu che chắn máy bắn đá và máy bắn tên, sẵn sàng chiến đấu.

Song phương từ từ tiếp cận.

Khấu Trọng đưa tay áo lau nước mắt, không để ý tới ánh mắt ngạc nhiên của bọn Lôi Cửu Chỉ đứng bên cạnh, quát lớn: “Lão tử Khấu Trọng ở đây, hiện tại ta cần phải đi gặp Đỗ Phục Uy, kẻ nào dám cản trở sẽ giết chết không tha!”

Am thanh vang xa chấn động cả Đại Giang.

Bọn chiến sĩ đồng thanh hưởng ứng.

Nào ngờ hai chiếc thuyền địch vẫn không hề nhường nhịn cứ tiếp tục tiến thẳng tới.

- o O o -

Hồi 689

Hòa Bình Sứ Mệnh

  Trận chiến trên sông có nguy cơ sắp bùng nổ, từ đầu thuyền địch bỗng rộ lên một tràng cười dài, rồi có tiếng nói: “Khấu Trọng con ngoan! Sao lại dễ nổi giận như vậy? Người trẻ tuổi lâu không được dạy dỗ nên trở thành kiêu căng phách lối rồi!”

Khấu Trọng bừng tỉnh khỏi đớn đau vì nhớ Phó Quân Sước, gã cảm thấy đã quá xung động, bèn đáp: “Thì ra là lão nhân gia, xin thứ lỗi cho hài nhi thất thố, cha dạy đúng lắm, hài tử hứa từ nay sẽ chú tâm sửa chữa.”. Là thuyền của Đỗ phục Uy đang tới!

Lôi Cửu Chỉ vội hạ lệnh cho thuyền giảm vận tốc, quân binh triệt thoái binh khí.

Lúc này, hai bên đến gần nhau, ánh đèn soi rõ, hai chiến hạm chứa đầy quân Giang Hoài, ai nấy đều tranh nhau xem phong thái Khấu Trọng.

Đỗ Phục Uy được tướng lĩnh thân binh quây quần chung quanh, đứng tại sàn thuyền bên trái, thần thái vui vẻ, tựa hồ cha già gặp lại con ruột, cười ha hả: “Không biết không có tội, huống hồ trong thiên hạ, có mấy người đủ tư cách nói năng kiểu đó với Phụ Công Hựu! Hà! Mau cùng Tử Lăng đến đây, Đỗ Phục Uy ta sẽ thích thú lắm.”

Từ Tử Lăng bất giác nảy sinh lòng kính ngưỡng với Đỗ Phục Uy, vì ngoài phần thần thái, phong độ, dẫu lão tâm ngoan thủ lạt với người ngoài, nhưng riêng với hai gã lại đặc biệt sủng ái. Cho tới giờ, gã không yêu mến gì lão nhưng trong buổi tối đặc biệt này, giăng buồm đi trên Đại Giang, lại đang chìm trong sầu muộn vì những hồi ức xa xưa khiến tinh thần mê muội, mọi khuyết điểm của lão đều bay biến.

Ba chiếc thuyền cập sát vào nhau, Khấu Trọng cùng Từ Tử Lăng cùng tung mình phi thân đến chỗ Đỗ Phục Uy nơi đầu thuyền.

“Rầm!”

Đỗ Phục Uy vỗ mạnh trên mặt bàn, cả khoang thuyền rung rinh, hét to: “Hảo! Tống Khuyết đúng là không hổ thanh danh, nếu ta chỉ nói không, ắt chẳng phải là Đỗ Phục Uy nữa.”

Đoạn quát to: “Người đâu?”

Chiến thuyền quay đầu, theo sau thuyền của Thiếu Soái quân, ba chiếc thuyền giương buồm ngược dòng tiến về hướng tây.

Thân binh đẩy cửa bước vào, đứng dưới đèn chờ lệnh.

Đỗ Phục Uy ôn tồn nói: “Đem rượu vào đây cho ta!”

Thân binh lĩnh mệnh đi ra, lão lại vui vẻ nói với Khấu Trọng: “Tống Khuyết thân chinh ra tay giúp con, thiên hạ coi như món đồ trong túi con rồi, cha đây chỉ dệt thêm hoa vào gấm. Từ đêm nay trở đi, ta sẽ toàn lực ủng hộ các con, quyết không giữ lại chút nào!”

Ba thân binh rót rượu, dọn đồ ăn lên chiếc bàn ba người đang ngồi, rồi quay gót trở ra.

“Canh!”

Ba chung rượu cùng chạm.

Khấu Trọng cười nói: “Cha chẳng phải thêu hoa vào gấm đâu, thật ra hiệu quả cũng như tặng than trong lúc giá lạnh, hiện tại ở phương bắc gió tuyết đầy trời, có một câu này của cha, các lộ nhân mã tại miền nam tất chẳng dám khinh cử vọng động, một tay hài nhi sẽ nắm quyền chủ động, quét sạch phiền muộn. Cha không biết là hài nhi đã thua thảm hại thế nào trong trận chiến tại Lạc Dương, bị Lý Thế Dân giáng cho một mẻ kinh hồn! May mà Tống phiệt chủ tạo cho hài nhi tình thế tối ưu truớc khi công vào Quan Trung nên hài nhi mới có cơ hội vùng dậy.”

Đỗ Phục Uy nhíu mày, hỏi: “Trọng nhi không sợ Tống Khuyết sẽ hưởng luôn thành quả sao?”

Khấu Trọng thản nhiên: “Đó là cái mà hài nhi cầu mà chẳng được! Hài nhi cũng như cha không có hứng thú làm hoàng đế, tiếc là Tống Khuyết dứt khoát cự tuyệt không chịu làm thay.”

Đỗ Phục Uy gật đầu: “Vậy cha yên tâm! Tống Khuyết nói một là một, hai là hai, một khi đã nói ra quyết chẳng nuốt lời!”

Từ Tử Lăng hỏi: “Cha dự tính đi đâu?”

Đỗ Phục Uy cười nhẹ: “Con ngoan, cha đến Trần Lưu mục đích chỉ để gặp hai con, để cùng nghiên cứu sách lược khống chế Đại Giang, các con có ý kiến gì không?”

Khấu Trọng nói: “Về phương diện này, Tống phiệt chủ đã có kế hoạch hoàn hảo, chi bằng cha tiếp tục ngược Bắc đến Trần Lưu gặp phiệt chủ một phen, cùng đối ẩm quyết định vận mệnh Đại Giang, cha tất nhiên hiểu biết sâu sắc tình thế Đại Giang hơn phiệt chủ!”

Đỗ Phục Uy cười ha hả: “Ta vốn ngưỡng mộ Thiên Đao từ lâu, ngày hôm nay mới có cơ duyên được gặp gỡ.”, rồi hỏi với vẻ kinh ngạc: “Hai con sao lại gấp gáp như vậy? Rốt cuộc định đi đâu?”

Khấu Trọng ghé sát vào tai lão, tụ âm thành tuyến, kể rõ đầu đuôi đại kế lấy Hán Trung rồi tấn công Trường An, cùng bí mật về Dương Công Bảo Khố, không giấu diếm chút nào.

Đỗ Phục Uy biến sắc, nói: “Hai con có diệu kế như thế, lại nhân duyên xảo hợp khiến ai cũng phải cảm thán, lo gì bá nghiệp chẳng thành? Nghĩ lại ngày xưa cha nhờ bảo khố mà biết đến hai tiểu tử các con, hôm nay các con dựa vào bảo khố mà nắm vận mệnh thiên hạ vào tay, thế sự ly kỳ biến ảo đến thế là cùng!”

Rồi lão tỏ ra được an ủi vạn phần: “Hai con đã thật lòng coi Đỗ Phục Uy ta là cha, bằng không sẽ chẳng hé môi tiết lộ với ta bí mật trọng đại này!”

Khấu Trọng nói: “Lòng người hiểm ác, hài nhi lăn lóc suốt bấy lâu nay, cũng biết không nên dễ dàng tin người, nhưng với cha sao lại đánh đồng được? Hài nhi và Tử Lăng tuyệt đối tin tưởng, kính ái cha!”

Đỗ Phục Uy tự tay rót rượu cho hai gã, lại uống cạn một hơi, nghiêm nét mặt nói: “Ta cùng Tống Khuyết kết hợp, làm tình thế thiên hạ biến chuyển, trời long đất lở, quần hùng phương nam không còn đáng lo, rồi sẽ lần lượt bị thanh toán. Bây giờ, Ba Thục mới là nơi quan trọng, ai nắm được tất sẽ khống chế Đại Giang. Ba Thục dễ thủ khó công, từ xưa vẫn là nơi vững như bàn thạch trong thời chiến loạn. Nếu lọt vào tay Lý Uyên, hắn có thể từ đây chế tạo thủy sư thuyền, theo dòng Đại Giang mở rộng thế lực, chiếm lĩnh tất cả những cứ điểm chiến lược, nhược bắng rơi vào tay hai con, có thể từ đấy trực tiếp uy hiếp đến tồn vong mảnh đất Quan Trung của Lý Đường. Vì thế bất luận thế nào cũng phải lấy cho bằng được Ba Thục!”

Khấu Trọng trầm ngâm: “Hiện thời Lạc Dương lọt vào tay Lý Uyên, nếu quần hùng Ba Thục đã cùng Sư Phi Huyên hiệp nghị, Ba Thục coi như thuộc về Lý Đường, bọn hài nhi muốn khống chế Ba Thục, trước hết phải lấy Hán Trung, rồi tính cách bắt Giải Huy phải đầu hàng.”

Đỗ Phục Uy nói: “Theo ta biết, Giải Huy vẫn chưa quyết định nước cờ tới sẽ đi ra sao, vì tộc trưởng của Tứ đại dị tộc ở đấy đều có khuynh hướng ngả theo Tống Khuyết, hơn nữa Tống gia khống chế việc buôn bán muối đến Thục quận, Tống Khuyết mà nói một tiếng, không ai dám đem muối vào Ba Thục buôn bán. Trong tình huống như thế, chỉ cần ta công nhiên lên tiếng toàn lực hỗ trợ cho hai con, Trọng nhi có khi không phí một binh một tốt cũng buộc Giải Huy phải hàng phục. Lúc đó, Trọng nhi không cần rêu rao chuyện tấn công Hán Trung, vẫn có thể dùng kỳ binh tập kích Trường An, đánh cho Lý Uyên trở tay không kịp. Còn về Tương Dương và các thành phụ cận, cứ để ta lo liệu.”

Khấu Trọng vui mừng nói: “Cha nói rất có lý.”

Đỗ Phục Uy than thở: “Ta từ khi có được hai hài nhi, tâm tình thay đổi rất nhiều, nghĩ đến bàn tay mình nhuộm tanh máu, ta phải lo làm việc tốt để tích âm đức. Đề nghị của ta cũng chỉ vì bách tính Thục quận, Giải Huy mà chọc giận Tống Khuyết là chuyện bất trí, dù rằng Tống Khuyết vì quan hệ với con gái mà không ép Giải Huy vào cảnh người tan nhà nát, nhưng sẽ buộc họ Giải phải thoái ẩn, xung đột đổ máu khó tránh được. Hán Trung là địa bàn chủ lực của Giải Huy, tấn công Hán Trung khác nào đánh đổ lão, họ Giải này thật sự không biết tự ái nhưng Tống Khuyết không phải dễ chọc vào đâu.”

Từ Tử Lăng nói: “Năm xưa Giải Huy hiệp nghị với Sư Phi Huyên, y đã không tính đến chuyện Tống phiệt chủ sẽ toàn lực hỗ trợ Khấu Trọng.”

Đỗ Phục Uy hắng giọng: “Giải Huy chẳng thèm hỏi qua ý kiến Tống Khuyết, đó là một chuyện đại kỵ với Tống phiệt chủ. Lúc đó Tống Khuyết đang ủng hộ Lý Mật, Giải Huy làm thế rõ ràng là trở cờ theo gió, mà Tống Khuyết ghét nhất những kẻ hám lợi quên nghĩa như vậy.”

Từ Tử Lăng muốn nói lại thôi, nghĩ đến Tống Ngọc Hoa được gả cho con trai của Giải Huy là Giải Văn Long, thầm than thở trong lòng.

Khấu Trọng gật đầu: “Hài nhi đã rõ, hài nhi sẽ đi Thành Đô một chuyến, gặp Giải Huy phân trần lợi hại, nếu như lão vẫn cứng đầu cứng cổ, đành để cho lão nếm mùi khổ đau.”

Đỗ Phục Uy bảo: “Hiện thời, binh lực phương nam chỉ có Tiêu Tiễn và Phụ Công Hựu là đáng kể, chỉ cần hai con chiếm được Giang Đô, đồ súc sinh Phụ Công Hựu ắt bị chúng ta vây chặt, cục cựa gì được. Lâm Sĩ Hồng và Trầm Pháp Hưng ra sức chống Tống Khuyết, ai chẳng biết chúng không phải là là địch thủ của Tống Khuyết, tử kỳ sắp điểm rồi. Ba Thục rơi vào tay bọn ta, Tiêu Tiễn chỉ còn biết đợi bị làm thịt, mình lại công phá, chiếm được Quan Trung lần nữa, thiên hạ này sẽ là của Khấu Trọng. Bọn ta uống thêm một chén, chúc mừng trước thắng lợi của lần tấn công Trường An, hoàn thành đại nghiệp bất hủ!”

Hai gã chia tay với Đỗ Phục Uy, dong buồm tiếp tục đi về hướng Tây, trên thuyền cắm cờ Giang Hoài quân do Đỗ Phục Uy tặng, cùng cờ của Thiếu Soái quân tung bay đón gió, quả nhiên tránh được nhiều phiền phức. Khi đi qua Đan Dương, hai gã gặp thuyền của Phụ Công Hựu, nhưng lại thấy cờ của Đỗ Phục Uy trên các thuyền đó, biết là lão gia đã khống chế thành công vùng sông nước này, ép Phụ Công Hựu không ngóc đầu lên nổi!

Qua ngày hôm sau, hai gã lại từ giã bọn Lôi cửu Chỉ, rời thuyền lên bờ, đi theo lộ tuyến năm xưa Phó Quân Sước dẫn hai gã trốn chạy Vũ Văn Hoá Cập, đến u cốc nơi mai táng Phó Quân Sước. Đặt chân lên đỉnh núi nơi Phó Quân Sước vì xả thân cứu hai gã mà đánh lui Vũ Văn Hoá Cập thì mặt trời đã lặn.

Hàn phong vi vút, bất giác hai gã nhớ lại đêm kinh tâm động phách đó, khiến suốt đời hai gã phải mang niềm ân hận.

Mây đen cuồn cuộn, bầu trời như sà xuống thấp, trăng sao ảm đạm, trên đỉnh núi, đại thụ cành lá trơ trụi, ngả nghiêng trước gió lạnh; thỉnh thoảng từ nơi sâu thẳm trong núi lại vọng về tiếng tru thê lương, khiến hai gã càng thêm buồn bã trong lòng, nhớ lại chuyện cũ!

Khấu Trọng ngồi trong một cái động nông choèn, chính tại đây, hai gã đã rình xem Phó Quân Sước quyết chiến sinh tử với Vũ Văn Hoá Cập, ủ rũ nói: “Ta bỗng nhiên cảm thấy vô cùng nhụt chí, người ta nỗ lực thế nào rồi cuối cùng cũng chỉ là một nắm đất vàng, ý nghĩa cốt tử mà đời người khổ công đeo đuổi có ý nghĩa gì!”

Từ Tử Lăng đi ra phía mép động, trước mặt là bóng tối mênh mông phủ kín khắp các đỉnh núi trùng điệp chung quanh, gió bấc gào thét buốt giá thấu xương, khiến ngữ khí Khấu Trọng ngập đầy tuyệt vọng, lạc lõng và bất lực. Chẳng ai hiểu Khấu Trọng hơn gã, Khấu Trọng là người tình cảm cực đoan, nội tâm không kiên cường như vẻ bề ngoài. Trận chiến ở Lạc Dương, lúc đối mặt với thương vong và tử biệt, tâm tình Khấu Trọng đã xuống đến đáy, đến mức hối hận đã đi theo con đường tranh bá. Giờ phút này quay lại chốn cũ thương tâm, nỗi đau buồn vì cái chết của Phó Quân Sước hằng chôn kín từ lâu bị khơi dậy, khiến lòng gã nguội lạnh.

Chiến tranh là trò chơi đáng sợ xem ai thương tích trầm trọng hơn, Khấu Trọng giờ được Tống Khuyết chi trợ ắt sẽ thay đổi tình thế, nhưng đã thụ thương nặng về tinh thần.

Tiếng Khấu Trọng vọng vào tai gã: “Nếu bọn ta không có được 'Trường Sinh quyết', tới giờ chắc vẫn là hai tên lưu manh ở trong thành Dương Châu. Nhưng vận mệnh xoay chuyển như vậy, mẹ cũng do đó mà mất đi sinh mạng giữa lúc xuân sắc nhất. Ôi, lão trời già đưa đẩy bọn ta vào con đường gian nan này, thực ra là có ý gì?”

Từ Tử Lăng hít sâu một hơi khí lạnh trong gió, trầm giọng nói: “Ngồi đây mà oán trời trách đất không phải là cách, từ cổ chí kim chẳng một ai hiểu rõ bí mật sâu xa hư vô, mờ mịt như ý trời. Biện pháp duy nhất là tích cực nhìn vào những việc đã thành quá khứ, dũng cảm bước vào tương lai. Chuyện đã qua chẳng thể vãn hồi được, chỉ cần bọn ta không phụ kỳ vọng của mẹ, khiến Trung thổ cùng Cao Lệ chung sống hoà bình, mẹ ở trên trời có linh cũng được ngậm cười yên nghỉ!”

Khấu Trọng cười thảm: “Tử Lăng, ta quả thực là thống khổ vô ngần, đến nỗi ta căn bản chẳng hiểu vì cớ gì lại có cảm mất mát đến thế? Mâu thuẫn ở chỗ những ngày gian nan nhất đã qua nhưng ta không cảm nhận được mảy may niềm vui thắng lợi. Ôi! Không hiểu sao lúc đi qua thủy vực mẹ cứu bọn ta năm xưa, ta không thể khống chế tình cảm, dẫu cho được cả thiên hạ thì cũng không thể thay đổi những việc đã xảy ra, ta là kẻ thất bại từ đầu đến cuối, vô duyên với khoái lạc, hạnh phúc.”

Từ Tử Lăng quay lại, nhìn thẳng vào đôi mắt đẫm lệ của Khấu Trọng, thở dài: “Cho tới giờ phút này, ta mới chân chân chính chính tin rằng ngươi yêu Tống Ngọc Trí sâu đậm, vì mất nàng rồi, ngươi mới thấy cái gì mà tranh bá thiên hạ chẳng còn chút ý nghĩa nào. Nhưng giờ ngươi không còn đường lui nữa, tất phải kiên trì thống lĩnh Thiếu Soái quân đi đến thắng lợi cuối cùng”.

Khấu Trọng lệ nóng tuôn trào, đưa hai tay ôm mặt, thất thanh khóc ròng, toàn thân co lại, tựa như những tình cảm bị áp chế bấy lâu, giờ bung ra như nước lũ vỡ bờ.

Từ Tử Lăng biết Khấu Trọng đau lòng không chỉ vì Phó Quân Sước, còn vì Tống Ngọc Trí vĩnh viễn không tha thứ cho gã, hơn nữa gã rơi lệ cho các tướng sĩ đã rơi đầu, đổ dòng máu nóng, hy sinh tráng liệt vì gã. Từ Tử Lăng xót xa trong lòng, đến ngồi cạnh gã, áp tay vào lưng, dịu giọng nói: “Ta biết ngươi tại sao khóc lóc thảm thiết như vậy, tin ta đi, chỉ cần ngươi quyết tâm, biết rõ mộng tưởng chân chính là gì, tất sẽ có biện pháp thực hiện được.”

Khấu Trọng ngẩng khuôn mặt đẫm lệ lên, ngưng khóc, nhè nhẹ lắc đầu: “Tử Lăng không cần phải an ủi, ta đau lòng vì đã đánh mất cơ hội hạnh phúc. Tình hình phát triển hiện giờ không còn theo sự khống chế của ta, chẳng những ta phải có trách nhiệm đối với Thiếu Soái quân, với Tống Khuyết, còn cả với lão bách tính thiên hạ đang chìm trong tình cảnh đảo điên hiện thời. Trước những tình huống đó, được cái mất của cá nhân đành dẹp qua một bên. Sau ngày Ngọc Trí bỏ đi, đứng nhìn quân đội lên đường đi Đông Hải, ta đã sớm thông suốt tình hình bản thân. Lúc đó không dám khóc trước mặt nhiều người nên đứng trước mẹ, ta chẳng cần dồn nén làm gì. Ta những tưởng sẽ đến trước phần mộ của mẹ khóc lóc một trận cho đã đời, ngờ đâu mới ở đây đã không thể kìm hãm được!”

Từ Tử Lăng lắc vai gã: “Ta không tin mấy lời ngươi phân tích, số mệnh thường không như mình trông đợi, nghĩ kỹ đi, ngươi đã đoán trước đúng được bao nhiêu lần? Ôi... bọn ta đi thăm mẹ chứ?”

Khấu Trọng gạt nước mắt, giọng điệu đã có phần bình tĩnh: “Ta còn muốn ngồi lại đây thêm ít lâu nữa.”

Từ Tử Lăng im lặng ngồi bên cạnh.

Khấu Trọng nhìn gã một lúc lâu, đoạn hỏi: “Ta căn bản không phải là người có thể làm hoàng đế, đúng không?”

Từ Tử Lăng dõi nhìn màn đêm trên núi, chậm rãi nói: “Ngươi hoặc giả không phải người thích hợp làm hoàng đế, nhưng Thiếu soái ngươi có bản chất lo cho quốc gia, vì ngươi không có tư tâm. Sau này chỉ cần ngươi tìm hiền tài tất dẹp yên trong ngoài, sau đại loạn sẽ thịnh trị, nên ta tuy ghét chiến tranh, nhưng không thể chọn lựa mà lại giúp ngươi, bây giờ phải tìm cách chữa lành vết thương trong tim ngươi. Rồi ngươi sẽ nhanh chóng vô sự! Đại hỷ đại bi, với ngươi cũng như cơm bữa mà thôi.”

Khấu Trọng cười khổ: “Còn nói là cái gì huynh đệ tốt, lại đi chọc ta. Chẳng qua, khóc được một trận thấy dễ chịu hẳn ra! Ngươi nói đúng, vinh nhục, thành bại của cá nhân so với khổ nạn của muôn dân, hoàn toàn không đáng gì!”

Từ Tử Lăng bảo: “Nói thêm hai câu thô tục nữa, ngươi sẽ thấy dễ chịu hơn.”

Khấu Trọng cười phá lên: “Con bà ngươi! Đúng là quá hiểu ta! Nói thực đi, ngươi có dự cảm tương lai ta liệu sẽ có được kết cục vui vẻ với Trí Trí không?”

Từ Tử Lăng gạt gã ra, miễn cưỡng nở nụ cười: “Từ ngày đầu gặp ngươi, ta đã biết quả dưa ngốc ngươi vận khí không tồi, chỉ tiếc ta không biết xem tướng, không đoán được ngươi có số làm hoàng đế. Đi nào, đừng quên chuyến đi này của bọn ta có nhiệm vụ đặc biệt!”

Khấu Trọng đặt tay lên vai Từ Tử Lăng, giận dữ nói: “Ngươi muốn quát thì ta quát tháo cho ngươi xem, coi ta là con trẻ lên ba chắc? Ồ, ta có một yêu cầu quá đáng, hy vọng Lăng thiếu gia không từ chối?”

Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Nói đi”

Khấu Trọng trầm ngâm hồi lâu, khó khăn lắm mới thốt ra lời: “Ta muốn nhờ ngươi đến gặp Trí Trí, bảo nàng là ta tha thiết sám hối những hành vi trước đây, cũng vì ta đã yêu nàng sâu đậm, không nỡ thấy lòng nàng đau khổ, càng không muốn nàng vì ta mà hủy mất nửa đời còn lại.”

Từ Tử Lăng nhíu mày: “Ngươi thấy làm vậy có tác dụng gì sao? Ngươi hiểu rõ tính cách của nàng, năng lực quan sát và phán đoán sự việc của nàng, bọn ta còn lâu mới sánh nổi. Hi Bạch nói đúng, chỉ có thực sự hành động, tỏ cho nàng thấy tình yêu của ngươi, mới khiến nàng cảm động mà quên đi những chuyện không vui trong quá khứ. Lúc đó chuyện giữa ngươi và nàng mới có cơ xoay chuyển thuận lợi, ngoài ra đều công cốc hết.”

Khấu Trọng uể oải vươn người dậy, cười khổ hỏi: “Cơ hội đó khi nào mới tới?”

Từ Tử Lăng trầm giọng: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, ngươi hiện giờ không có cách nào khác, dẹp bỏ nhi nữ tư tình, chuyên tâm nhất mực mang lại hoà bình thống nhất cho thiên hạ. Ngọc Trí tiểu thư hiểu những việc ngươi làm đều vì hạnh phúc của vạn dân, không chừng sẽ hồi tâm chuyển ý.

Khấu Trọng đại ngộ, gật đầu: “Đúng! Đó là cách duy nhất, nàng vì không muốn bị cuốn vào vũng xoáy của chiến tranh, nên phản đối Tống gia xuất binh, nếu ta lấy lại được hoà bình cho thiên hạ, nàng đương nhiên sẽ không còn cách nhìn đó nữa.”

Từ Tử Lăng nói: “Trước mắt có một việc vô cùng khẩn cấp, có thể giúp nàng và ngươi thay đổi quan hệ, là tìm cách giải quyết vấn đề Ba Thục mà đổ máu thật ít, Ngọc Trí sẽ thấy rõ là ngươi chẳng phải kẻ hiếu chiến hoặc phá hoại hoà bình.”

Khấu Trọng đôi mắt rực lên, ngẩng nhìn bầu trời đêm đen thẫm, trầm giọng: “Đúng! May mà Lăng thiếu gia thức tỉnh ta. Chiến tranh thật đáng sợ, không ai chịu đựng nổi, tránh được thì nên tránh. Nói thật, từ sau trận chiến Lạc Dương lòng ta chứa chất ý niệm phục thù, do đó lúc đầu tưởng hai chiến thuyền của lão gia là thuỷ quân của Phụ Công Hựu, trong lòng hết sức nóng nảy, chỉ muốn đại khai sát giới. Bất quá qua một trận khóc lóc thống khổ vừa rồi, thù hận trong lòng cũng tiêu tan, nghĩ được rằng Lý Thế Dân cũng thân bất do kỷ. Dù sao chăng nữa, ta cũng tuyệt không bỏ qua cho Lý Nguyên Cát, cả Lý Kiến Thành nữa, trước khi chết Dương công đã dặn dò như thế.”

Từ Tử Lăng tưởng chừng nghe thấy trong thành Trường An vọng lại tiếng la thét kinh người của trận chiến. Tình thế hiện thời phát triển như vậy, chẳng ai có thế sửa đổi vận mệnh tương lai đã được xếp đặt.

- o O o -

HỒI 690

Công Tâm Chi Đạo

  Khấu Trọng ủ rũ bước ra khỏi gian nhà tranh, đi đến bên cạnh Từ Tử Lăng đang đứng thẫn thờ trước bia mộ của Phó Quân Sước, cười khổ: “Ta thật không có cách nào thuyết phục y. Y giống hệt như lão tăng tham thiền nhập định, coi nhân tình thế thái như đống tro tàn, trên đời này không còn một sự vật nào có thể làm y động tâm nữa. Ta cứ nghĩ dựa vào ba tấc lưỡi của mình thì có thể thuyết phục y, lúc này mới biết là mình đã lầm to rồi”.

Từ Tử Lăng than thầm trong bụng, gã chứng kiến Tống Sư Đạo chẳng những lập bia mộ cho Phó Quân Sước mà còn tự dựng một gian nhà cỏ ở bên, rõ ràng đã quyết tâm bầu bạn cùng mẹ suốt đời. Gã sớm biết chuyện này không hay nhưng cũng chẳng có biện pháp nào để khuyên giải.

Khấu Trọng ân hận nói: “Lẽ ra bọn ta không nên nói cho y biết vị trí tiểu cốc này. Cha của y nói đúng, ‘nữ nhân ngươi yêu nhất chính là nữ nhân mà ngươi không bao giờ đạt được’. Giờ chúng ta phải làm sao đây?”

Từ Tử Lăng mắt chăm chăm nhìn vào bia mộ trống trơn không có khắc chữ nào, trầm giọng hỏi: “Ngươi và nhị ca đã nói chuyện gì?”

Khấu Trọng kê sát gần tai gã hạ giọng nói: “Ta đã tận dụng hết những lời hay ý đẹp, ví như y nên giúp đỡ khuyên vị mỹ nhân Trường chủ đứng về phía chúng ta hoặc đại loại như vậy, tất cả đều bị y cự tuyệt không thương tiếc. Y còn nói thêm là sinh hoạt tại tiểu cốc này đã mãn nguyện không gì bằng rồi. Ta chợt hoài nghi sự hấp dẫn của Thương Tú Tuần đối với y hoàn toàn là do chúng ta tưởng tượng ra mà thôi.”

Từ Tử Lăng quỳ gối trịnh trọng khấu đầu ba cái rồi đứng dậy nói: “Ta thử xem sao!”

Khấu Trọng nói: “Giả như không thuyết phục được y thì chúng ta cũng phải rời đi thôi. Chuyện này vốn không thể miễn cưỡng, phải để y cam tâm tình nguyện mới được.”

Từ Tử Lăng gật đầu đáp ứng rồi đi về phía ngôi nhà tranh nhỏ lập lòe ánh nến.

Bàn ghế giường ngủ trong nhà toàn là do Tống Sư Đạo tự tay chế tạo, đơn giản nhưng chắc chắn. Tống Sư Đạo đang ngồi yên trên ghế, sắc diện bình tĩnh. Y trông ốm hơn trước rõ rệt, khiến người ta cảm thấy sinh hoạt nơi u cốc vô cùng kham khổ.

Từ Tử Lăng ngồi xuống một cái ghế cách Tống Sư Đạo một cái bàn nhỏ, từ tốn nói: “Đệ tình cờ gặp Phi Huyên ở thành Long Tuyền, chỉ một lời vô tình của nàng đã hoàn toàn thay đổi vận mệnh của đệ. Đó quả là một đoạn hồi ức khó quên tại Long Tuyền, một đoạn hồi ức đau thương nhưng lại vô cùng mỹ lệ lay động lòng người.”

Tống Sư Đạo ngạc nhiên nhìn sang gã, đôi mày kiếm khẽ cau lại: “Bản lĩnh thuyết khách của Tử Lăng so với tiểu Trọng quả nhiên cao minh hơn hẳn, khiến ta tự nhiên cũng sinh lòng hiếu kỳ, rất muốn biết Sư Phi Huyên đã nói ra câu nói như thế nào.”

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Đệ không phải là muốn thuyết phục nhị ca đi làm việc gì, chỉ sợ nhị ca đi vào vết xe đổ của đệ. Không có câu nói của Phi Huyên, đệ có khả năng sẽ vĩnh viễn không bao giờ hiểu được mình sai lầm ở chỗ nào, lãng phí sinh mệnh của chính mình cũng chẳng phải là đáng kể gì, bởi vì tự mình làm tự mình chịu, có trả giá đắt cũng đáng đời, nhưng làm hại đến người khác thì lỗi lầm này không thể nào tha thứ được.”

Tống Sư Đạo ngây người một thoáng rồi than: “Nói đi, Sư Phi Huyên lúc đó đã nói gì?”

Từ Tử Lăng chìm đắm trong những những hồi ức mỹ lệ đầy thương cảm, hai mắt ánh lên vẻ nhung nhớ miên man, nhẹ giọng đáp: “Nàng nói rằng đệ u mê không biết cách tính toán cho riêng mình. Lúc đó đệ lại hiểu lầm rằng nàng muốn ám chỉ rằng đệ không có dũng khí để theo đuổi nàng. Sự lầm lẫn ngọt ngào đó đã làm đệ không thể nào đè nén nổi tình yêu đối với nàng, đã cùng nàng phát sinh một đoạn tình cảm luyến ái thuần túy về mặt tinh thần, bắt đầu ở Long Tuyền, cũng kết thúc ở ngay tại Long Tuyền. Ngoại trừ Khấu Trọng, chẳng có ai biết được chuyện này. Đệ cũng không định nói với người thứ ba nào, nhưng đêm nay ở gần bên mẹ, không nhịn được lại tâm sự với nhị ca.”

Tống Sư Đạo lộ vẻ suy tư, một lúc sau mới hạ giọng nói: “Tại sao đệ lại nói với ta? Đệ nghĩ rằng ta nên quay về tranh thủ Thương Tú Tuần ư?”

Từ Tử Lăng nhẹ giọng: “Đó chỉ là bắt đầu của câu chuyện mà thôi, lời khuyên này của Phi Huyên chỉ là cảm xúc nhất thời vì quan hệ giữa đệ và Thạch Thanh Tuyền. Cho đến lúc ấy, đệ không dám có chút vọng tưởng nào đối với Sư Phi Huyên, vừa sợ bị nàng coi nhẹ, lại sợ hại đến thanh tu của nàng, chỉ đến lúc lửa tình bùng cháy trong lòng mới phát giác ra rằng bao nhiêu ức chế trước giờ đều là vô ích.”

Tống Sư Đạo đón ánh mắt của gã, hỏi: “Tại sao đệ trước sau vẫn không nghe theo lời khuyên của Sư Phi Huyên?”

Từ Tử Lăng nhìn ra mặt đất lởm chởm đầy đá vụn, chậm rãi đáp: “Phi Huyên đưa ra lời khuyên này là vì biết đệ không đi đến U Lâm Tiểu Trúc gặp Thanh Tuyền, không từ mà biệt, nhưng không biết là đệ vì hiểu lầm Thanh Tuyền, nghĩ rằng nàng không yêu đệ, nên ôm lòng lạnh ngắt như tro tàn rời khỏi đất Thục! Nhưng đến lúc đệ quay lại tiểu cốc để thăm Thanh Tuyền mới biết được mình suýt nữa đã mất đi cơ hội lớn nhất trong đời. Nếu không có lời khuyên của Phi Huyên, đệ và Thanh Tuyền sẽ cô đơn lẻ bóng suốt kiếp sống thừa này.”

Hai mắt của Tống Sư Đạo ánh lên những tia phức tạp, mày kiếm khẽ nhíu lại, nói: “Tử Lăng đúng là một viên ngọc quý được mài giũa, sao lại có thể hiểu lầm Thanh Tuyền được chứ?”

Từ Tử Lăng than: “Bởi vì nàng kêu đệ nên sống cuộc sống độc thân, câu nói này làm tổn thương đệ nghiêm trọng. Sau đó nghĩ lại, đệ bắt đầu hiểu rõ đệ đối với nàng tình thâm ý trọng tuyệt không kém hơn Sư Phi Huyên. Chuyện của đệ và Phi Huyên đã coi như xong, nếu đệ còn không tranh thủ giữ lấy Thành Tuyền thì chứng tỏ đệ không xứng đáng với tình yêu của nàng, tình yêu chân chính có thể xóa tan mọi chướng ngại do con người tạo nên, và có thể hy sinh bất cứ thứ gì cho đối phương.”

Tống Sư Đạo run giọng nói: “Ta đã hiểu dụng ý của đệ rồi. Ai! Ta phải làm gì đây?”

Từ Tử Lăng nói: “Nhị ca đừng trách đệ nói thẳng, mẹ chỉ là một giấc mộng mỹ lệ và đau thương mà nhị ca không thể nào thoát ra khỏi mà thôi! Đệ và Khấu Trọng dám khẳng định mẹ đối với nhị ca rất có hảo cảm, do đó mới dẫn theo bọn đệ lên thuyền của nhị ca, chỉ hận thời gian không cho hai người cơ hội phát triển thêm. Nhị ca và mẹ cũng tương tự như đệ và Phi Huyên, bắt đầu ở Đan Dương, kết thúc ở Đại Giang. Giả sử như mẹ không chết đi, bằng vào thù hận dân tộc giữa Cao Lệ và nước chúng ta, e rằng mẹ cũng đưa ra lời khuyên cho nhị ca tương tự như Phi Huyên, hiện tại chỉ là đệ và Khấu Trọng thay mẹ nói với huynh mà thôi. Nhị ca đi đến tiểu cốc này ẩn cư bên cạnh mẹ thì chỉ là vì bản thân mình, nếu nhị ca chịu cùng bọn đệ đi đến Phi Mã Mục Trường tranh thủ tình cảm của Thương Tú Tuần, thì mới có thể xem tình cảm của huynh và Thương Tú Tuần sâu đậm đến mức nào. Chuyện thành bại thế nào chỉ là thứ yếu mà thôi.”

Tống Sư Đạo yên lặng ngây người nhìn xuống đất một hồi lâu, chợt đứng phắt dậy, hai mắt lấp lánh thần quang, nói một cách dứt khoát: “Ta sẽ cùng các đệ về Phi Mã Mục Trường.”

Từ Tử Lăng nói: “Không phải theo bọn đệ về, mà nhị ca phải đơn đao phó hội, như vậy mới thể hiện được thành ý và dũng khí của nhị ca.”

Đang khi Tống Sư Đạo ngạc nhiên ngẩn người ra thì Khấu Trọng nãy giờ nghe trộm ở bên ngoài ập vào như một cơn gió, cười nói ầm ĩ: “Đệ đã thu thập hành trang cho nhị ca, lập tức lên đường đi thôi.”

Khấu Trọng cùng Từ Tử Lăng áp giải Tống Sư Đạo đến tận con đường đi vào Phi Mã Mục Trường rồi mới chia tay, dong ruổi về Ba Thục.

Khấu Trọng lần đầu vào đất Thục, trong lòng vẫn nhớ câu “đường vào đất Thục cheo leo nguy hiểm nhưng tuyệt đẹp”, lại không muốn bỏ qua cảnh quang hùng vĩ của Tam Hiệp. Đang do dự thì Từ Tử Lăng chọn lựa giùm gã: “Giả như tương lai ngươi thống nhất thiên hạ, ắt hẳn phải quay về Ba Thục tập hợp thủy sư, thuận đường diệt Tiêu Tiễn chứ tuyệt không muốn nằm gai nếm mật vượt qua Thục đạo, thôi thì lần này hãy ráng tận hưởng lạc thú xuyên núi băng rừng một phen đi!”

Cảm xúc dâng trào, Khấu Trọng nói: “Từ khi ly khai Dương Châu đến nay, bọn ta không còn phải lén lén lút lút, né trái tránh phải như xưa. Cảm giác đó đúng là rất thích thú.”

Bàn cãi chán chê, cả hai quyết định đi theo lộ tuyến nhập Thục mà Từ Tử Lăng vừa đi hồi đầu năm. Trước hết sẽ đến thành Thượng Dong ở phía đông Đại Ba Sơn, qua đêm ở khách sạn để bồi dưỡng tinh thần, chuẩn bị sớm hôm sau lên đường vào Thục.

Thành này trước đây thuộc về Chu Xán, do Chu Xán bại vong nên tình thế trở nên mờ mịt. Hiện tại các thế lực địa phương chủ trì đại cục, tạm thời vẫn đứng trung lập quan sát tình thế.

Cả hai tắm gội một phen thật thoải mái rồi Từ Tử Lăng trở về phòng đả tọa, còn Khấu Trọng thì ra ngoài nghe ngóng tin tức, khoảng nửa canh giờ sau mới quay lại: “Vùng này đúng là vô cùng kỳ thú, hết thứ lạ này đến thứ lạ khác, đúng là nơi thích hợp cho mấy lời nói vung nói vít.”

Khấu Trọng thần tình hưng phấn, đến giày dưới chân cũng không thèm cởi, nằm phịch ngay xuống giường. Từ Tử Lăng đang ngồi tĩnh tọa trong góc lườm gã một cái, chau mày nói: “Tối nay ngươi ngủ trên cái giường này có phải không?”

Khấu Trọng phá lên cười ha hả: “Lăng thiếu gia biến thành người yêu sự thanh tịnh từ khi nào thế? Nhất định là vì quen Phi Huyên, một mỹ nhân không dính chút bụi trần, nên cũng học đòi tập quán của nàng ta rồi chứ gì?”

Từ Tử Lăng tỏ vẻ bực bội: “Nói ít đi một chút, có tin tức gì mà khiến ngươi hưng phấn như vậy?”

Khấu Trọng ngồi xuống mép giường vui vẻ nói: “Lão gia đã không gạt chúng ta, người đã công báo khắp thiên hạ là sẽ toàn lực ủng hộ ta thống nhất thiên hạ. Tin tức đó cũng đã vang động đến tận tòa tiểu thành xa xôi này, là đầu đề bàn tán không dứt của mọi người, khiến uy phong của Lý tiểu tử chiếm Lạc Dương trở thành quá khứ. Tống Khuyết cũng được rất nhiều người đàm luận, trong đó phần lớn đều tin tưởng Tống Khuyết sẽ khởi binh ra khỏi Lĩnh Nam, thiên hạ không còn là của Lý gia nữa. Chỗ hay ho nhất là danh tiếng của ta ở chốn này hết sức tốt đẹp, ai ai cũng nói người dân ở Thiếu Soái quốc không phải nộp thuế, không bị bắt lính. Ha ha, không phải là không đánh thuế, chỉ là thuế đánh nhẹ hơn nhiều mà thôi!”

Từ Tử Lăng không hiểu hỏi lại: “Đây vốn không phải là lời bịa đặt, sao ngươi lại nói những lời này tràn ngập hang cùng ngõ hẻm?”

Khấu Trọng vui vẻ đáp: “Mấy lời đồn đại đã được tiểu não của ta sàng lọc rồi mới kể cho ngươi chứ. Đương nhiên là không một ai hiểu rõ được tình hình như ta rồi. Ta chẳng dám khẳng định tình huống tại Ba Thục cũng như vậy, nhưng có tin do khách thương đến từ Ba Thục truyền ra là Giải Huy không lý gì đến phản đối của tứ đại tộc, một mực theo ý mình tự tiện mời Đường quân nhập Thục. Hy vọng rằng đây là chuyện bịa đặt, bằng không thì chiến loạn là không thể tránh khỏi.”

Lại cười tiếp: “Nếu như vậy còn chưa đủ kỳ lạ thì còn một phiên bản khác nữa, cái gì mà Tây Đột Quyết đã bí mật liên minh với Lý Thế Dân để đối phó với Hiệt Lợi và huynh đệ Đột Lợi của chúng ta ở Đông Đột Quyết, lời đồn này làm người nghe được không biết nên cười hay nên khóc nữa, Lý Thế Dân làm sao có cơ hội để thiết lập quan hệ với Tây Đột Quyết cơ chứ.”

Từ Tử Lăng trầm giọng nhắc nhở: “Ngươi xem ra đã quên Vân Soái đã từng đến Trường An rồi sao?”

Khấu Trọng hơi giật mình, gật đầu đồng ý: “Ta đúng là hồ đồ, Vân Soái là Quốc sư của Tây Đột Quyết, bằng vào thủ đoạn tài trí của y, lọt vào kho châu báu đương nhiên không chịu về tay không. Chỉ cần thông qua đám khách thương Ba Tư sống tập trung ở Trường An thì có thể bí mật hội diện với Lý Thế Dân mà thần không hay, quỷ không biết.”

Từ Tử Lăng vẫn có chỗ không hiểu: “Những tin tức như thế toàn là cực kỳ cơ mật, làm sao lại có thể truyền đến Ba Thục một nơi chó ăn đá gà ăn sỏi thế này cơ chứ?”

Khấu Trọng lộ vẻ suy tư, trầm giọng nói: “Tự nhiên truyền tin tức ra bên ngoài nhất định phải có nguyên nhân gì đó, nghe đồn Giải Huy dám bỏ qua sự phản đối của tứ đại tộc, một mực làm theo ý mình là vì có người của hai dị tộc lớn phía bắc là Tây Đột Quyết và Đảng Hạng chống lưng, do đó người ta thấy có rất nhiều người Tây Vực ra vào Độc Tôn bảo.”

Từ Tử Lăng chau mày: “Điều này càng làm cho bọn ta thuyết phục Giải Huy thêm khó khăn.”

Khấu Trọng vỗ giường: “Lý Thế Dân ra chiêu này đúng là quá khéo, thông qua bọn ngoại tộc phía tây Ba Thục để khống chế Giải Huy, hèn gì Giải Huy dám đắc tội với nhạc phụ tương lai của ta, xem ra y quả thật có nỗi khổ không thể nói ra.”

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Ta ở chỗ Hi Bạch đã nghe qua tác phong hành sự của người này, y tuyệt không phải là kẻ chịu khuất phục trước uy hiếp của người khác, bên trong nhất định còn có khúc mắc gì, nói cho cùng bọn ta cũng không hiểu rõ Giải Huy cho lắm.”

Khấu Trọng gật đầu: “Nói đúng lắm! Hai mục tiêu cần phải công chiếm quan trọng nhất của Tống Khuyết chính là Hán Trung và Tương Dương. Nếu chiếm Hán Trung, đối với Giải Huy mà nói thì chẳng còn chừa lại đường lui nào, có thể thấy lão nhân gia không còn hứng thú đàm phán với Giải Huy nữa, cũng hiểu rõ Giải Huy đã chọn đứng về phe của Lý Thế Dân. Không biết Giải Huy dùng binh khí gì? Thanh danh địa vị trên giang hồ của y cũng gần với nhạc phụ tương lai của ta, xem ra không phải là kẻ tầm thường đâu.”

Từ Tử Lăng nói: “Chỉ xem sự kính trọng của An Long đối với y thì đã biết y dù sao cũng không phải là hạng tép riu rồi. Nhưng y dùng binh khí gì thì ta cũng không rõ.”

Khấu Trọng cười khổ: “Bọn ta ráng hết sức để tránh đổ máu, hy vọng có thể gặp may mắn, nếu không thì chỉ biết xem xem quyền đầu của ai cứng rắn hơn mà thôi.”

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Vì Giải thiếu phu nhân Tống Ngọc Hoa, đại tỷ của Ngọc Trí và nhị ca, bọn ta sao có thể nói đến chuyện buông xuôi được chứ? Bọn ta còn phải nghĩ cho trăm họ vô tội nữa.”

Khấu Trọng cười mơn: “Là tiểu đệ nói nhăng nói càng, để ta nghĩ kỹ lại xem sao! Hà, đáng tiếc là đầu của ta cứ trống rỗng, không nghĩ ra biện pháp gì, thôi thì chỉ biết tùy cơ ứng biến mà thôi.”

Từ Tử Lăng đồng ý: “Đầu của ta cũng trống rỗng y hệt ngươi, hà, như thế gọi là chuyện bất ngờ dồn dập, khiến người ta bó tay không biết làm sao.”

Khấu Trọng than: “Ai bảo đối thủ của bọn ta lại là Lý Thế Dân, y vĩnh viễn nắm vững thế chủ động, lần này cũng thể hiện tác phong nhất quán của y từ trước tới giờ. Chỉ có một chuyện khiến người ta không hiểu được, đây đã là chuyện bí mật không dám nói ra ngoài vì sao lại đồn rầm lên khắp hang cùng ngõ hẻm cơ chứ? Nếu truyền tới tai của Lý Uyên thì không biết Lý Uyên sẽ có phản ứng như thế nào đây?”

Từ Tử Lăng trầm ngâm: “Trực giác của ta cho thấy đây không phải là chuyện đồn thổi vô căn cứ mà là có người cố ý tiết lộ ra, mục tiêu là để đả kích Tây Đột Quyết hay là Lý Thế Dân. Bởi vì cho dù sức tưởng tượng của bọn người ăn không ngồi rồi có phong phú tới đâu cũng không thể nào nghĩ ra chuyện Lý Thế Dân bí mật hiệp nghị với Thống Diệp Hộ của Tây Đột Quyết.”

Khấu Trọng than: “Nếu như chuyện này là thật thì Lý Thế Dân thật là làm cho người ta thất vọng quá, so với cấu kết với Hiệt Lợi thì có phân biệt gì chứ?”

Từ Tử Lăng đáp: “Đương nhiên là khác biệt rất lớn, trong cuộc tranh bá ở thảo nguyên ngoài biên ải, Thống Diệp Hộ của Tây Đột Quyết trước giờ đều bị kém thế, nếu Thống Diệp Hộ đầu hàng Hiệt Lợi, thì Trung nguyên cùng một lúc phải ứng phó với địch nhân từ biên cương phía bắc và phía tây. Do đó cần phải chống lưng cho Tây Đột Quyết, dùng ngoại tộc chế trụ ngoại tộc, chính là chiến lược hợp lý nhất.”

Khấu Trọng hừ lạnh: “Nói không chừng Lý Thế Dân còn có ý riêng, thấy tình thế bất diệu thì có thể lập tức chạy tới Ba Thục liên kết với Tây Đột Quyết chống lại trung ương Đường thất. Con bà nó, nguyên tắc của ta là tuyệt không để bọn ngoại tộc bước vào đất của bọn ta nửa bước.”

Từ Tử Lăng cười khổ: “Chuyện thật ra như thế nào thì đợi chúng ta đến Thành Đô hiểu rõ đầu đuôi rồi hãy nói tiếp! Hoặc giả sự tình không đến nỗi như chúng ta tưởng tượng đâu.”

Khấu Trọng hỏi: “Bọn ta bí mật lẻn vào Thành Đô hay cứ đường đường chính chính vào thành qua cửa lớn?”

Từ Tử Lăng đáp: “Cứ làm cách nào tiện nhất là được, Thành Đô vẫn chưa là thiên hạ của nhà Lý, vẫn còn nằm trong tay của Giải Huy và tứ đại tộc, xem ra Giải Huy cũng không dám tùy tiện dùng vũ lực đâu.”

Khấu Trọng cười: “Dùng vũ lực thế nào chứ? Hai huynh đệ bọn ta không phải là trẻ nít mới xuất đạo dễ bị bắt nạt, có chuyện gì mà chưa từng thấy qua chứ. Nước đến thì ngăn, binh đến thì đánh, con bà nó, nếu Giải Huy dám ngăn cản thì bọn ta cũng chẳng thèm khách khí nữa.”

Từ Tử Lăng can: “Đừng như vậy chứ, mới có thắng lợi một chút đã huênh hoang, giở giọng kiêu căng khoác lác, bọn ta bây giờ chỉ cầu hòa chứ không cầu chiến đâu.”

Khấu Trọng hai mắt lóe sáng tinh quang, trầm giọng: “Ta không phải là thắng lợi rồi kiêu căng, chỉ là con người trở nên thực tế hơn, nếu không nắm võ lực mạnh mẽ, hỏi xem có ai hứng thú nghe lời của ngươi nói chứ, có thể đánh mà cũng có thể hòa. Ta sẽ thuyết giảng lợi hại cho Giải Huy, ‘lợi’ là y có thể bảo gia an Thục, ‘hại’ là gia hủy nhân vong. Ta phải làm cho y biết rõ nếu đại quân xâm phạm, hai huynh đệ chúng ta có thể làm cho y loạn cào cào, chẳng những đấu lực mà còn đấu trí với y nữa.”

Từ Tử Lăng im lặng hồi lâu, cuối cùng cũng đồng ý: “Ta tuy không muốn thừa nhận nhưng phương pháp của ngươi chính là phương pháp khả thi duy nhất, cứ quyết định làm theo như vậy đi!”

Khấu Trọng nói: “Nếu Giải Huy tranh tiên một bước, hai tay dâng Hán Trung cho Lý Uyên thì nói cái gì cũng vô dụng, bọn ta phải làm thế nào?”

Từ Tử Lăng lộ vẻ suy tư, đáp: “Hy vọng lão gia đem tin tức ủng hộ ngươi truyền sớm một bước đến Ba Thục, bởi vì Giải Huy và lão gia hàng Đường cũng đều là do Phi Huyên ở bên trong đưa đường dẫn lối, lão gia hủy ước cũng là một chuyện thức tỉnh Giải Huy, để cho y suy nghĩ kỹ càng trước khi hành động.”

Khấu Trọng nói: “Lý Uyên giết Lý Mật đúng là một nước cờ cực kỳ sai lầm, Lý Nguyên Cát xử quyết Đậu Kiến Đức trước mặt mọi người lại là sai lầm tiếp bước sai lầm, cũng là chứng tỏ Lý Thế Dân hiện giờ không còn đủ sức bảo hộ cho những người đầu hàng y nữa, thêm vào Lý Uyên là kẻ tàn ác không biết niệm tình xưa. Ba Thục có thể tránh được chiến họa hay không không phải là là do chúng ta quyết định mà tất cả đều nằm trong tay Giải Huy cả.”

Từ Tử Lăng đáp: “Sau khi đến Thành Đô chúng ta nhất định phải nghĩ cách gặp Giải thiếu phu nhân một phen, đó cũng là bước tiến đầu tiên của kế hoạch, về mặt này Trịnh Thạch Như có thể giúp bọn ta một tay.”

Khấu Trọng ngẩn người: “Người ngươi nói đến là Hà Nam Cuồng Sĩ Trịnh Thạch Như? Y và đại tỷ của Trí Trí có quan hệ thế nào?”

Từ Tử Lăng giải thích: “Người y yêu quý nhất là Trịnh Thục Minh, người mà bọn ta biết là nữ đương gia của Trường Giang liên minh, nàng ta lại là bạn thân trong khuê các với Giải thiếu phu nhân, do đó có thể an bài thỏa đáng cho bọn ta.”

Khấu Trọng hai mắt lóe sáng: “May mà có ngươi nhắc nhở, Trường Giang liên minh kết hợp sáu bang hội môn phái có thế lực ở Trường Giang, sức ảnh hưởng không phải là nhỏ, nếu Trịnh Thục Minh chịu đứng về phe bọn ta, thì sẽ tạo ra áp lực rất lớn đối với Giải Huy.”

Từ Tử Lăng gật đầu: “Ngươi có thể thử xem sao, Trịnh Thạch Như là người hết sức sùng bái nhạc trượng tương lai của ngươi, có thể nói chuyện lợi hại với Trường Giang liên minh, du thuyết về hướng có lợi cho ngươi. Ngoài ra còn phải tranh thủ thêm tứ đại tộc Khương, Dao, Miêu, Di, bọn họ trước giờ vẫn ủng hộ Tống Khuyết, có bọn họ đứng chung thuyền với ngươi, Giải Huy chỉ còn nước đơn độc chịu khổ mà thôi.”

Khấu Trọng đứng vụt dậy: “Ta không còn muốn ngủ nữa, hay là tìm một quán cơm nào đó ăn cho no bụng rồi tiếp tục hành trình, để tránh trễ nải lỡ mất cơ hội tốt.”

Từ Tử Lăng vươn người đứng dậy: “Được lắm!” Hai gã thu thập số hành lý ít ỏi rồi rời khỏi khách sạn, sau khi ăn no bụng thì lên đường đi vào đất Thục.

- o O o -

Hồi 691

Kỵ Hổ Nan Hạ

  Khấu Trọng rót đầy một chung trà cho Từ Tử Lăng, vui vẻ nói: “Mời Lăng thiếu gia dùng trà, trời trở lạnh rồi, uống nhanh kẻo nguội!”

Từ Tử Lăng lấy làm lạ: “Vì sao đột nhiên trở nên khách khí như vậy?”

Hai người lúc hoàng hôn đã đi hết Thục đạo, bước vào đất Thục. Bằng thể lực của bọn họ mà cũng cảm thấy không chịu nổi, vào đến đất Thục vội tới trú nghỉ qua đêm ở một căn dịch trạm thô lậu, tắm rửa thay đổi y phục xong rồi xuống phòng ăn dùng cơm. Phòng ăn chỉ có bọn họ là khách nhân, tên tiểu nhị sau khi bưng cơm rượu lên thì chẳng biết biến đi đâu mất, gió lạnh căm căm luồn vào kẽ hở nơi cửa sổ, do đó Khấu Trọng mới nói mấy câu khí trời trở lạnh.

Khấu Trọng ăn đến no kềnh bụng, cười đáp: “Ta chỉ là cảm kích đề nghị đi đường Thục đạo của ngươi mà thôi, giúp ta vui vẻ chốc lát, tạm quên đi nỗi khổ chiến tranh, một mặt lại mượn ngươi để học tính khiêm tốn, không vì thắng lợi mà kiêu căng, biến thành hạng người tự tôn tự đại. Ôi, không biết đạo lý không thể đạt được vật trân quý nhất có áp dụng đối với hoàng đế hay không, ta càng lúc càng chẳng muốn làm hoàng đế, cùng Lăng thiếu gia ung dung tự tại du sơn ngoạn thủy còn sung sướng hơn ngồi yên một chỗ trên long tọa hít thở mấy thứ hôi thối.”

Từ Tử Lăng than: “Biết như vậy thì khi xưa sao còn ráng làm. Ngươi hiện giờ đã thành thế cưỡi hổ, không sợ Ngọc Trí lên làm hoàng hậu của người khác hay sao?”

Khấu Trọng nặng nề đáp: “Ta chỉ sợ là Hán Trung đã rơi vào tay của Lý Uyên, sự tình càng lúc càng diễn tiến theo chiều hướng xấu. Ồ, có người đến!”

Trên đường cái quan, tiếng vó ngựa từ xa vẳng lại gần, giờ tiết trời buốt giá, hầu như chẳng còn khách thương nào đi lại trên Thục đạo, tiếng vó ngựa vang lên làm hai người đều nghĩ kẻ này chính là vì bọn họ mà tới.

Từ Tử Lăng chú ý lắng nghe rồi nói: “Bảy đến tám kỵ sĩ, đuổi đến rất gấp gáp.”

Tiếng ngựa hí vang, bọn kỵ sĩ phóng đến kéo cương dẫn ngựa đến ngoài lữ quán.

Có người hạ giọng hô: “Các ngươi ở bên ngoài canh phòng đi.”

Khấu Trọng ngạc nhiên: “Giọng rất quen, là ai đến vậy?”

Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn ra cửa lớn, cửa lớn bị người đến đẩy rắc một tiếng, gió lạnh ùa vào làm lay động mấy ngọn đèn thắp trong quán.

Khấu Trọng định thần nhìn kỹ, rồi vỗ trán cùng Từ Tử Lăng đứng dậy nghênh đón, cười nói: “Hèn gì nghe quen thật, thì ra là Lâm Lãng huynh!”

Lâm Lãng đóng cửa lại rồi thi lễ: “Lâm Lãng đại biểu cho lão đại Sa Minh của Ô Giang bang cung kính nghênh đón Thiếu soái và Từ gia.”

Từ Tử Lăng nhớ đến ngày đó ngồi trên thuyền của Lâm Lãng theo đường thủy rời khỏi Ba Thục dưới sự an bài của Hầu Hi Bạch, cũng trong chuyến này đã gặp được gia đình hai người Hàn Trạch Nam, lại còn gặp Lôi Cửu Chỉ, Công Lương Ký kẻ toàn gia bị Lại Triều Quý lừa gạt, gã cùng Khấu Trọng, Lôi Cửu Chỉ đã liên thủ đòi công đạo cho Công Lương Ký.

Trước mắt giờ gặp lại cố nhân, bao nhiêu chuyện quá khứ tưởng chừng như mới xảy ra ngày hôm qua, trong lòng cảm thấy rất hoan hỷ, cười nói: “Ai cũng là huynh đệ cả sao lại nói mấy lời khách sáo thế, ngồi xuống rồi nói đi.”

Lâm Lãng cười ha hả vui vẻ ngồi xuống, thấy Khấu Trọng đích thân rót cho hắn một chung trà, nói: “Tiểu đệ khi nãy là đại diện cho tệ bang đương nhiên là phải cung kính không thể thiếu đi lễ nghi được. Có thể quen được hai vị chính là vinh hạnh và tự hào lớn nhất cả đời Lâm Lãng này.”

Khấu Trọng hạ ấm trà xuống, cười nhẹ: “Bọn ta cũng chỉ là người bình thường chứ chẳng phải là ba đầu sáu tay gì, đã là huynh đệ thì suốt đời cũng là huynh đệ, lại đây uống một chén nào!”

Ba người dùng trà thay rượu uống cạn chung cực kỳ thống khoái.

Khấu Trọng hỏi: “Sao Lâm huynh không gọi huynh đệ vào đây tránh gió?”

Lâm Lãng đáp: “Một chút khổ sở cũng không chịu nổi thì làm sao làm được việc lớn? Huống gì lời của ta tuyệt không thể lọt vào tai người thứ tư được.”

Từ Tử Lăng bèn hỏi: “Lâm huynh ước lượng thời gian đúng là vô cùng chuẩn xác, chẳng khác nào bọn ta có hẹn gặp từ trước vậy.”

Lâm Lãng nói: “Là Lôi đại ca thông báo cho bọn ta biết hai vị sẽ đến Ba Thục, bọn ta bèn ra sức lưu ý cẩn thận hai đường thủy và đường bộ vào Ba Thục, là do ta may mắn, chỉ đợi hai ngày đã gặp được hai vị đại gia.”

Khấu Trọng tỏ vẻ bực bội không nhịn được nói: “Đã đến rồi còn mở miệng là đại gia, khép miệng lại là đại gia làm gì? Gã gọi là tiểu Từ, ta gọi là tiểu Khấu, huynh gọi là tiểu Lâm. Ha ha, tiểu Khấu có chút kỳ quái, chẳng khác nào như tiểu tặc, thôi thì gọi là tiểu Trọng hay A Trọng đi!”

Lâm Lãng lộ vẻ vô cùng hãnh diện, cảm động đáp: “Có thể trở thành bằng hữu với Từ huynh và Thiếu soái đúng là phúc khí của ta.”

Từ Tử Lăng hỏi: “Thành Đô phát sinh ra chuyện gì? Sao lại phải chặn đường bọn ta ngay trước khi bọn ta đến Thành Đô vậy?”

Lâm Lãng đáp: “Tình thế hiện tại ở Ba Thục vô cùng khẩn trương, trước ngày ta lên đường một ngày, thủy sư của Tống Khuyết đã chiếm ưu thế áp đảo, gươm không dính máu đã chiếm được quận Lô Xuyên, trục xuất toàn bộ người của Giải Huy, từ đó về sau bất kỳ ai muốn theo đường thủy rời khỏi đất Thục thì phải được sự chấp thuận của quân họ Tống mới được.”

Khấu Trọng cùng Từ Tử Lăng nghe kể mà lạnh cả gáy, bản lĩnh dùng binh của Tống Khuyết đúng là thần không hay quỷ không biết, phải biết Lô Xuyên ở phía nam Thành Đô, là giao giới giữa Đại Giang và Miên Thủy, từ chốn này đưa quân ngược sông trong vòng hai ngày đã đến Thành Đô, siết chặt lấy yết hầu của Thành Đô. Lô Xuyên bị mất, Giải Huy bị ép đến mức không thể nào cục cựa nổi. Hành động tuy giản đơn nhưng kỳ thực bên trọng lại bao hàm kế hoạch bố trí âm thầm trong nhiều năm, tấn công khiến địch không kịp trở tay, khiến cho nhân mã phía Giải Huy ở quận Lô Xuyên hoàn toàn không có cơ hội chống trả.

Khấu Trọng hỏi: “Giải Huy có phản ứng gì không?”

Lâm Lãng đáp: “Đương nhiên là điên tiết lên, tuyên bố là không đời nào khuất phục. Lập tức điều nhân thủ từ các nơi đến phòng vệ Thành Đô, sau khi cắt đứt đàm phán với tứ đại tộc đã hạ lệnh cho người của tứ tộc rời khỏi Thành Đô, nội chiến ở Ba Thục chực chờ diễn ra. Lôi đại ca cùng Hầu công tử sợ hắn đưa Đường quân vào, lại sợ các vị không biết rõ tình hình mà hấp tấp vào thành nên nhờ bọn ta tìm cách thông báo trước cho hai vị.”

Từ Tử Lăng cảm thấy nhức cả đầu, không ngờ một lời của Khấu Trọng quả thật ứng nghiệm, chuyện ở Ba Thục chỉ có thể giải quyết bằng vũ lực, xem xem kẻ nào là mạnh nhất.

Khấu Trọng trầm giọng hỏi tiếp: “Giải Huy có ý đồ đoạt lại Lô Xuyên hay không?”

Lâm Lãng lộ vẻ khinh bỉ, hừ một tiếng: “Hắn bảo vệ Thành Đô còn không xong, sao mà dám vọng động cơ chứ? Chỉ có điều nếu quân Đường vào Thục thì tình thế sẽ không còn lạc quan thế này nữa. Thành Đô tuy nằm ở bình nguyên nhưng thành cao hào sâu cũng chẳng dễ công phá chút nào.”

Gã rõ ràng đứng bên phe Khấu Trọng, dùng thân phận người của Khấu Trọng mà đánh giá tình huống ở Ba Thục.

Khấu Trọng nói: “Trước khi vào Thục, bọn ta có nghe được tin tức nói là Lý Thế Dân kết minh với Thống Diệp Hộ của Tây Đột Quyết, do đó Thống Diệp Hộ cùng đồng đảng giúp Lý Thế Dân giữ Ba Thục, chuyện này có thật hay không?”

Lâm Lãng đáp: “Quả thực là có lời đồn như vậy nhưng chẳng có ai có thể xác định được thật giả thế nào. Chỉ có điều xung quanh Ba Thục đều là núi cao chập chùng, phía bắc có Tần Lĩnh, Ba Sơn, phía đông có Vu Sơn ngăn trở, phía tây có Tự Sơn quanh năm tuyết phủ, phía nam có Vũ Lăng, Ô Mông Sơn cùng nhau chắn giữ, là một vùng đất bốn bề hiểm trở cách tuyệt với bên ngoài, chỉ có đường bộ Thục đạo và đường thủy Tam Hiệp thông ra ngoài, ngoại tộc ở phía tây dù có ý muốn nắm lấy Ba Thục cũng là hữu tâm vô lực mà thôi.”

Từ Tử Lăng hỏi: “Vậy có phải có rất nhiều người Tây Đột Quyết và Đảng Hạng ra vào Độc Tôn bảo hay không?”

Lâm Lãng đáp: “Gần đây trong Thành Đô có rất nhiều nhóm người Tây Vực, nhưng không biết quan hệ của bọn họ với Giải Huy là thế nào, bọn họ bao trọn Ngũ Môn khách sạn ở đường Ngũ Môn, tổng cộng có khoảng năm mươi người nam nữ.”

Sau đó hừ lạnh một tiếng: “Giải Huy không biết tự lượng sức mình, không ngờ lại dám mơ đến chuyện đối đầu với Tống Khuyết, làm người ta băn khoăn chẳng hiểu vì sao, lúc trước còn nói Lý Đường thanh thế càng ngày càng lớn mạnh, có một không hai, Tống phiệt chiếm giữ Lĩnh Nam, khó mà khống chế được. Chỉ có điều Thiếu Soái quân đánh một trận oanh liệt giúp bảo vệ Lạc Dương, tuy bại mà vẫn vinh dự, chẳng hề bị mất nửa phân đất nào. Tống Khuyết dẫn đại quân rời khỏi Lĩnh Nam ủng hộ Thiếu soái, Đỗ Phục Uy lại công khai tuyên bố đứng về phe của Thiếu soái, tình thế thiên hạ đã hoàn toàn đảo ngược, chẳng ai hiểu nổi Giải Huy vì sao lại còn theo đuôi Lý Uyên, kẻ đã ra tay giết Lý Mật, tru Kiến Đức như vậy.”

Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Tin tức truyền đi thật là nhanh, lão ca ngươi xem ra đã hiểu rõ mồn một tình hình của ta rồi.”

Lâm Lãng gật đầu: “Đúng là có chút kỳ quái! Lúc trước tình hình chiến tranh bên ngoài dù có quan hệ với Thục cũng phải qua một lúc khá lâu mới dần dần biết rõ được, nhưng lần này chiến tích thắng lợi vẻ vang chinh nam phạt bắc của Thiếu soái thì lại đến rất nóng hổi, liên miên bất tuyệt, đều là tin thực sự chứ không phải là lời đồn.”

Từ Tử Lăng thầm khen Thạch Chi Hiên nắm rất rõ tâm ý của Tống Khuyết, ông ta mượn truyền bá tin tức để gây ảnh hưởng đến bá tánh thiên hạ, xây dựng hình tượng nhân nghĩa vô địch của Khấu Trọng còn vượt qua cả Lý Thế Dân nữa, càng lộ ra những điều bất nhân bất nghĩa của Lý Uyên, chính là vận dụng cảnh giới tối cao của binh pháp “Không cần đánh cũng có thể khuất phục người” một cách vô cùng khéo léo, thủ đoạn của Tống Khuyết về mặt này đúng là xuất thần nhập hóa, khiến người chỉ biết than thở khen ngợi. Lý Thế Dân lúc trước còn là mặt trời chói lọi ai nấy đều muốn quy phục, sau khi Khấu Trọng quật khởi thì đã trở thành quá khứ rồi.

Lâm Lãng tiếp: “Nhất là chuyện Đỗ Phục Uy tuyên bố đưa quân Giang Hoài quy phục dưới trướng Thiếu soái đã làm cho Giải Huy luống cuống đứng không vững, Hầu vương Phụng Chấn của Khương tộc, Mỹ Cơ Ti Na của Dao tộc, Ưng vương Giác La Phong của Miêu tộc, Lang vương Xuyên Mưu Tầm của Di tộc cũng đã liên hợp với nhau ủng hộ Tống Khuyết, làm quan hệ với Giải Huy vô cùng căng thẳng, đến lúc Tống Khuyết chiếm được Lô Xuyên, Giải Huy không để ý gì tới sự phản đối của con trai, một mực theo ý mình đuổi người của tứ tộc ra khỏi Thành Đô, lại còn kêu gọi người Thành Đô ủng hộ hắn, đương nhiên là ai nấy cũng đều lãnh đạm cả. Nghe nói rất đông người bên dưới hắn không đồng ý với chủ trương của hắn, cho rằng Ba Thục ít nhất cũng nên duy trì thái độ trung lập.”

Khấu Trọng thắc mắc: “Hắn có bản lĩnh gì chứ?”

Lâm Lãng lộ vẻ khinh thị: “Hắn có bản lĩnh gì để mà chống lại Tống Khuyết cơ chứ? Lúc này ở Thành Đô, Độc Tôn bảo của hắn người ngựa tổng cộng không quá một vạn, quân Tống gia chỉ cần đẩy nhẹ một cái thì đám ô hợp đó đã ngã ngửa rồi. Nghe đồn Giải Huy cử người đến Trường An cầu viện, nhưng nước xa khó cứu được lửa gần, Lý Đường vừa lấy được Lạc Dương, gốc rễ chưa ổn, lại còn phải đối phó với Lưu Hắc Thát khởi binh phục cừu cho Đậu Kiến Đức, tự lo cho mình còn chưa xong. Giải Huy chọn con đường trung thành với Lý Uyên thì rõ ràng là tự tìm đường chết mà thôi.”

Khấu Trọng ngạc nhiên: “Lão ca ngươi đúng là có tầm nhìn, tình hình thế nào đều đã nhìn thấu suốt hết cả.”

Lâm Lãng không ngờ lại đáp: “Tin tức đó từ Trường An truyền tới, hỏi xem có ai mà không tin được chứ.”

Khấu Trọng vỗ bàn: “Nhạc trượng tương lai của ta đúng là lợi hại thực”.

Từ Tử Lăng gật đầu đồng ý, chỉ có gã mới hiểu được lời khen tưởng chừng như vô duyên vô cớ của Khấu Trọng, Lâm Lãng nghe vậy mặt cứ nghệch ra chẳng hiểu gì.

Khấu Trọng cũng chẳng giải thích cho Lâm Lãng, chỉ hỏi: “Tình hình Thành Đô hiện thời như thế nào?”

Lâm Lãng đáp: “Giải Huy khống chế Thành Đô nghiêm ngặt, cửa thành đóng chặt, ai đáng nghi đều không được cho vào thành, ban hành lệnh giới nghiêm từ giờ tý đến lúc trời sáng. Lôi đại ca, Hầu công tử và Điệp công tử được bọn ta an bài ở tạm nhà cũ của Công Lương Ký tại Thành Đô, ta phải đến báo trước cho các huynh là ta có biện pháp đưa hai người tiến vào trong thành.”

Khấu Trọng cười ha hả: “Đa tạ hảo ý của Lâm huynh, chỉ có điều hai huynh đệ ta lại muốn vào thành một cách đường đường chính chính, càng ầm ĩ vang dội thì càng tốt.”

Lâm Lãng biến sắc: “Nhưng bọn Giải Huy người đông thế mạnh, ta chỉ sợ các huynh bị thiệt thòi mà thôi.”

Khấu Trọng liếc sang thấy Từ Tử Lăng cũng không phản đối thì lòng can đảm lập tức gia tăng, hạ giọng nói: “Bọn ta có chuyện gì mà chưa thấy qua chứ, chỉ cần có thời gian chuẩn bị đầy đủ, ta có thể tin chắc chỉ cần vẫy tay một cái là có thể đè bẹp lòng tin và ý chí chiến đấu của Giải Huy.”

Lâm Lãng chau mày: “Thời gian chuẩn bị thế nào?”

Khấu Trọng hoan hỷ đáp: “Mặt này cho lão ca ngươi phụ trách, chỉ cần động khẩu chứ không động thủ, đem tin tức bọn ta phải tới Thành Đô đàm phán mặt đối mặt với Giải Huy lan truyền ra ngoài, càng nhiều người biết thì càng tốt. Bọn ta ở chỗ này nghỉ ngơi hai ngày rồi mới khởi hành, hy vọng lúc đến Thành Đô thì chẳng có ai trong thành là không biết đến chuyện này.”

Từ Tử Lăng thung dung tiếp: “Vậy sao Khấu Thiếu soái ngươi không đích thân múa bút viết một phong thư cho người gửi tới Giải Huy, nói ngươi ngày đó giờ đó sẽ đến thăm để trực tiếp bàn tính hữu hảo với hắn, như vậy chẳng phải là nắm vững tình hình trong lòng bàn tay hay sao?”

Lâm Lãng cũng xen vào: “Ta chỉ cần đưa chuyện dâng bái thiếp truyền ra ngoài thì sẽ tin đồn sẽ có cơ sở hơn hẳn.”

Khấu Trọng vò đầu: “Nhưng Bạch lão phu tử vẫn chưa chỉ cho ta bí quyết để viết thư.”

Từ Tử Lăng không nhịn được phá lên cười: “Cao thủ văn chương múa bút như thần như Hầu công tử mà không biết dùng, ngươi còn đáng gọi là Thiếu soái cái quái gì chứ, đó gọi là thuật dùng người, hơn nữa ở Ba Thục chẳng có ai biết được nét chữ của ngươi, có thể thỉnh Hi Bạch làm giúp chuyện này.”

Khấu Trọng cười lớn: “Ta đúng là hồ đồ thật, cứ quyết định vậy đi. Giải Huy à, đây chính là cơ hội cuối cùng của người, nếu còn không biết giữ chắc lấy về sau có hối cũng đã muộn.”

o0o

Hai ngày sau khi gặp Lâm Lãng ở dịch trạm, Khấu Trọng cùng Từ Tử Lăng lên đường đi về phía Thành Đô, để tránh bị người dòm ngó, hai gã không theo quan đạo mà chọn con đường vượt núi băng rừng. Đến lúc thấy được Thành Đô phía trước thì trời vẫn còn lờ mờ tối, cửa thành đóng chặt.

Hai gã ẩn mình trong một khu rừng rậm cách phía đông Thành Đô năm dặm, đây cũng là địa điểm ước hẹn với Lâm Lãng vào một khắc sau khi thành mở cửa. Bọn gã ngồi xếp bằng ở bìa rừng, cảm nhận không khí buổi sáng tĩnh lặng se se lạnh, im lặng ngắm sắc trời từ tối chuyển sáng.

Khấu Trọng dường như không muốn khuấy động bầu không khí tĩnh lặng trang nghiêm, nhẹ giọng nói: “Chuyện ta sợ nhất bây giờ là Giải Huy sợ quá hóa liều dẫn quân Đường vào Thục, như vậy thì chỉ còn nước dùng vũ lực để giải quyết vấn đề mà thôi.”

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Ta thấy Giải Huy không đến nỗi ngu ngốc như vậy đâu. Binh Tống Khuyết đang trấn giữ Lô Xuyên uy hiếp hắn, chỉ cần quân Đường vào Thục, ông ta lập tức có thể ào ạt đưa quân thế như chẻ tre công kích Thành Đô, lại có có tứ đại tộc ủng hộ, Giải Huy nhất định sẽ không thể nào chống nổi. Thành Đô nếu đã lọt vào tay Tống Khuyết, quân Đường vào Thục nhất định sẽ rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan.”

Khấu Trọng chau mày: “Quân Đường tử thủ Hán Trung như thế nào rồi?”

Từ Tử Lăng lạnh lùng đáp: “Không có Lý Thế Dân, Hán Trung có gì đáng sợ chứ?”

Khấu Trọng trầm ngâm: “Ba Thục có thể nói là hậu phương lớn của Quan Trung, nếu lọt vào tay của ta, thì coi như là mở toang cửa lớn để quân ta ung dung tấn công vào phía nam của Trường An. Lý Uyên là con nhà tướng nhất định hiểu rõ Hán Trung quan trọng chẳng kém gì Tương Dương. Tuy không có Lý Thế Dân ở đó chủ trì đại cục nhưng tòa thành này cũng chẳng dễ đánh bại đâu.”

Từ Tử Lăng đáp: “Ngươi chỉ suy bụng ta bụng người nên mới nghĩ là Lý Uyên nhất định phải giữ chặt lấy Hán Trung. Thực ra Lý Uyên vốn chẳng sợ ngươi dẫn quân tấn công Trường An mà còn hoan nghênh ngươi tự đâm đầu vào rọ nữa. Nhân lúc ngươi tấn công Trường An thương vong nặng nề, thì quân Đường từ các thành khác trong Quan Trung đồng loạt xuất phát, trong tình huống bình thường thì Thiếu Soái quân sẽ bị tiêu diệt sạch không còn một mống. Nếu ta là Lý Uyên, ta tuyệt không rảnh hơi điều quân từ Trường An đi lo cho Hán Trung là một nơi có quy mô và lực lượng phòng ngự thua xa Trường An như vậy.”

Dừng lại một chút rồi gã tiếp: “Lý Uyên là người có tài tướng soái, phải có cái nhìn tổng quát toàn cục, trước tiên dùng toàn lực bình định phương bắc, tiêu diệt dư đảng Hà Bắc của Lưu đại ca, đợi gió tuyết qua rồi thì đưa binh nam hạ đánh vào Bành Lương thành và lão gia, đó chính là sách lược hợp lý nhất. Ai mà nghĩ tới ngươi lại lấy được Dương Công Bảo Khố chứ, hà!”

Khấu Trọng an ủi: “Phi Huyên tuyệt không phải là loại người như vậy, ta hoàn toàn tin tưởng vào nàng ta.”

Tiếng gió phần phật từ xa truyền tới, người đến đúng là Lôi Cửu Chỉ, Hầu Hi Bạch, Âm Hiển Hạc và Lâm Lãng, lúc này trời đã sáng rõ, cửa thành mở rộng, bốn người họ rời thành đón tiếp. Khấu Trọng, Từ Tử Lăng vội đứng dậy chào hỏi.

Lôi Cửu Chỉ vào rừng rồi thì vỗ đầu nói: “Các người nếu không muốn theo cửa thành đi thẳng tới Thục Vương phủ, thì hay nhất là để bọn ta nghĩ cách đưa các ngươi bí mật tiến vào thành.”

Khấu Trọng lấy làm lạ hỏi: “Giải Huy đã rời Độc Tôn bảo tiến vào Thục Vương phủ rồi sao?”

Hầu Hi Bạch than: “Giải Huy sau khi nhận được thư lập tức đưa đàn bà trẻ em và đại bộ phận binh lực lùi vào Thục Vương phủ bên trong thành, Độc Tôn bảo hiện giờ chỉ còn khoảng mười người ở lại, qua hành động này có thể nhìn ra Giải Huy đã quyết tâm đánh một trận rồi. Người trong Thành Đô chẳng ai hiểu vì sao Giải Huy lại quyết tâm như vậy, đánh cược tất cả để trung thành với Lý Uyên.”

Lâm Lãng tiếp: “Bọn ta sau khi giao thư ở cửa đông xong thì tập trung lưu ý động tĩnh của Giải Huy, phát giác hắn lập tức tăng cường lực lượng phòng thủ trong thành, rồi còn điều thêm nhân thủ ở mấy vùng phụ cận, ta e hắn đã hiểu lầm Khấu huynh đã hạ chiến thư với hắn.”

Hầu Hi Bạch cười khổ: “Ta viết giùm lá thư của Thiếu soái hết sức cẩn thận cân nhắc, rất coi trọng hắn, hắn không lý nào không nhìn ra ý cầu hòa của bọn ta chứ.”

Lôi Cửu Chỉ hắng giọng: “Giải Huy quá ngu đần, cho dù ngươi trong thư viết phụng vẽ rồng gì gì đi nữa thì gã cũng chẳng nhìn ra được đâu.”

Từ Tử Lăng hỏi: “Quân Tống gia ở Lư Châu có động tĩnh gì không?”

Lâm Lãng đáp: “Tống gia quân ở Lô Xuyên do Tống Pháp Lượng, một đại tướng nổi danh mới quật khởi của Tống gia chỉ huy, không ngừng quy tụ binh lực vật lực, mở rộng ra bốn phía thành trì, biểu lộ rõ ràng ý định muốn tiến về phía bắc công hãm Thành Đô. Bọn ta truyền tin Thiếu soái đưa thiếp đến bái phỏng Giải Huy ra bên ngoài, tứ đại tộc nghe được lập tức kết thành liên minh, tuyên bố hoan nghênh Thiếu soái vào Thục, làm tình thế bên trong Thành Đô càng thêm khẩn trương hơn.”

Khấu Trọng chau mày: “Tứ tộc vẫn còn chỗ đứng trong thành hay sao?”

Lâm Lãng đáp: “Thành Đô trước giờ đều là nơi các tộc dân cùng chung sống, thế lực của tứ tộc trong thành đã bắt rễ rất sâu, tên Giải Huy nói nhổ là nhổ được hay sao. Bây giờ trong thành hơn mười mấy phường nghề đều do tứ tộc khống chế trong tay, việc Thiếu soái nói sẽ đến Thành Đô làm Giải Huy tạm hoãn ý định khai chiến với tứ tộc.”

Lôi Cửu Chỉ tiếp: “Theo ý của ta, bọn ta tốt nhất là theo cửa nam vào thành, trước tiên hãy bàn bạc với thủ lĩnh của tứ tộc, rồi sau đó nghĩ cách cùng với Giải Huy ngồi xuống bàn cách giải quyết sự tình.”

Khấu Trọng mỉm cười đầy vẻ tự tin, lắc đầu nói: “Làm vậy thì càng thúc đẩy nội chiến thêm nữa, ta vẫn giữ ý theo cửa đông vào thành, Giải Huy nếu muốn động chân động tay thì ta sẽ dạy cho hắn biết thế nào là lễ độ.”

Từ Tử Lăng chau mày: “Ngươi chẳng phải là chuẩn bị đại khai sát giới sao! Một khi đã đổ máu thì tình hình sẽ không thể nào vãn hồi được nữa.”

Khấu Trọng bình tĩnh đáp: “Lăng thiếu gia an tâm! Bọn ta đến đây là để cầu hòa chứ không phải cầu chiến. Nói cho cùng, có tứ đại tộc gườm gườm chung quanh, Giải Huy sẽ không dám điều động nhân mã toàn thành bao vây tấn công bọn ta đâu, huống gì nội bộ của hắn bất ổn, giỏi lắm cũng chỉ phái vài tên thủ hạ tâm phúc ra động thủ mà thôi, bọn ta tiến có thể tấn công, lùi thì có thể thoát được. Không phải là ta khoa trương, bằng vào công lực hiện tại của huynh đệ bọn ta, Giải Huy còn chưa có tư cách lưu giữ bọn ta đâu.”

Âm Hiển Hạc nãy giờ lặng thinh giờ mới mở miệng: “Còn có Âm Hiển Hạc ta nữa.”

Khấu Trọng cười nói: “Hy vọng không cần đến Âm huynh giúp đỡ, các người hãy lùi về thành đứng ngoài quan sát trước đã, nửa canh giờ nữa ta và Lăng thiếu gia khoa khoa trương trương theo cửa đông vào thành, xem xem Giải Huy có phải là kẻ biết điều hay không.”

- o O o -

HỒI 692

Thế Sự Nan Liêu

  Khấu Trọng cùng Từ Tử Lăng cười cười nói nói như thường men theo quan đạo đi thẳng về cửa đông, Từ Tử Lăng dĩ nhiên là không có vũ khí, Tỉnh Trung Nguyệt và Thích Nhật cung của Khấu Trọng được giấu trong áo choàng da dê do Sở Sở đích thân khâu vá, và cũng vì đó mà phải chịu bao kiếp nạn. Hai người tay không tất sắt, chẳng lộ chút ý định sát phạt nào.

Khấu Trọng cười nói: “Chỗ hấp dẫn nhất của sinh mệnh là chẳng có ai biết trước được trong tương lai sẽ có chuyện gì phát sinh, xảy ra biến hóa thế nào. Cũng như tình hình hiện tại của bọn ta, sau khi vào thành Giải Huy sẽ đối phó với bọn ta thế nào, hoặc chỉ đơn giản không cho chúng ta vào thành, càng nghĩ thì càng cảm thấy thích thú.”

Từ Tử Lăng than: “Đảm lược của ngươi càng ngày càng lớn, coi chừng lại trở nên quá tự tin đó. Theo tình hình bây giờ, bọn ta cứ thế này vào thành, chính là ép Giải Huy bất chấp tất cả phải giết chết bọn ta, không thì uy tín của hắn còn đâu nữa chứ?”

Khấu Trọng không đồng ý: “Giải Huy cũng đã từng đi lại trong giang hồ, tục ngữ có câu hai nước tương tranh thì không chém sứ giả. Ít ra thì Giải Huy cũng gặp mặt bọn ta một lúc, xem bọn ta có gì để nói với hắn hay không.”

Sau đó gã cười khổ nói: “Nếu không phải vì tình cảm đối với Ngọc Trí, ta nhất định sẽ không mạo hiểm vào trong thành, do đó có một tia cơ hội ta cũng phải tranh thủ bằng được, hy vọng chỉ cần động khẩu mà không cần động thủ.”

Từ Tử Lăng trầm giọng đáp: “Ta cũng vì lý do tương tự mà cùng với ngươi trở thành hai con dê béo tự đi vào miệng hổ. Chỉ có điều chỉ cần sai một bước thì có thể châm ngòi cho cuộc nội chiến giữa Giải Huy và tứ đại tộc.”

Khấu Trọng so vai nói: “Giải Huy không thể là người ngu xuẩn như vậy, do đó cơ hội chính là năm ăn năm thua, phải xem xem bọn ta ứng đối thế nào.”

Cửa thành ở ngay phía trước, bọn gã đứng ngoài nhìn vào chẳng thấy có gì bất thường, chuyện duy nhất làm người bất an chính là chẳng có bình dân bách tính nào ra vào, cả quan đạo vắng tanh không một bóng người, chỉ có hai huynh đệ bọn gã ung dung tiến bước.

Đột nhiên tiếng vó ngựa vang lên dồn dập, hơn mười kỵ sĩ từ cửa thành phóng ra, chạy thẳng đến chỗ hai gã.

Từ Tử Lăng khẳng định: “Đi đầu chính là Giải Văn Long.”

Khấu Trọng lùi lại bước lại cạnh gã, ngưng thần nhìn tới, trầm giọng: “Xem ra không có Giải Huy rồi!”

Từ Tử Lăng cũng lắc đầu biểu thị không nhìn thấy hắn.

Hơn mười kỵ sĩ kéo ngựa dừng cương, chiến mã tung cao vó trước hí vang, Giải Văn Long vừa nhảy xuống thì hơn mười kỵ sĩ cũng đồng thời xuống ngựa. Chỉnh tề đồng loạt, ai nấy đều là thanh niên tráng kiện, thể hình vạm vỡ, đều là cao thủ đời sau của Độc Tôn bảo.

Giải Văn Long bước tới hai bước, còn cách hai gã nửa trượng thì vòng tay thi lễ: “Giải Văn Long đại biểu cho Độc Tôn bảo cung nghênh đại giá của Thiếu soái và Từ công tử.”

Hai gã nghe thấy liền đưa mắt nhìn nhau, tiếp đãi thế này đã vượt qua ý liệu của bọn gã, đương nhiên rất có khả năng Giải Huy tiên lễ hậu binh, đợi bọn gã rơi vào bẫy thì mới lộ rõ bộ mặt thật.

Khấu Trọng cười ha hả hoàn lễ: “Giải huynh không cần đa lễ, tiểu đệ đây thật không dám nhận. Bọn ta không mời mà đến, đường đột vô lễ, Giải huynh xin đừng bực tức.”

Giải Văn Long vội nói: “Không dám! Không dám!”, dứt lời liền ra lệnh cho người dẫn tới hai thớt ngựa: “Gia phụ ở trong thành cung kính chờ đợi đại giá của hai vị, xin để Văn Long dẫn đường.”

Hai bên nhảy lên ngựa, Khấu Trọng ở giữa, Từ Tử Lăng và Giải Văn Long cưỡi ngựa hai bên, có hơn mười mấy kỵ sĩ theo sao hộ vệ chầm chậm đi về phía cửa đông.

Khấu Trọng ngồi trên lưng ngựa quay sang hỏi Giải Văn Long: “Tẩu tẩu có khỏe không?”

Giải Văn Long không ngờ Khấu Trọng lại có thái độ thân thiết gần gũi với mình như vậy, hơi giật mình một chút rồi mặt lộ vẻ ảm đạm, buồn bã đáp: “Những chuyện xảy ra gần đây nàng đều chẳng nhìn đến nữa, Thiếu soái nghĩ tình hình của nàng như thế nào?”

Khấu Trọng than: “Đó cũng chính là nguyên nhân ta cùng Tử Lăng đến Thành Đô, hy vọng hóa can qua thành ngọc bạch. Nói thẳng ra đến lúc này tiểu đệ cũng không hiểu tại sao mọi người lại làm lớn chuyện ra đến thế?”

Giải Văn Long mắt chăm chăm nhìn về phía trước, gương mặt cứng đơ không chút biểu tình nào: “Có vài chuyện Văn Long không tiện nói ra, gia phụ sẽ giải thích rõ cho Thiếu soái.”

Khấu Trọng nghe đáp trong lòng chùng xuống, theo thần thái và giọng điệu của Giải Văn Long thì cơ hội hòa giải với Giải Huy xem ra không nhiều. Cũng may là Giải Huy đồng ý gặp bọn họ nói chuyện, thể hiện hào khí thuở cùng Tống Khuyết vang danh ở võ lâm Ba Thục.

Từ Tử Lăng sau khi nghe mấy lời của Giải Văn Long thì trong lòng chợt nổi lên cảm giác kỳ lạ không sao giải thích được, dường như có ai đó trong thành đang đợi bọn họ, không chỉ đơn giản là Giải Huy và Giải quân đông đảo mà thôi, nhưng người đó là người thế nào thì gã không tài nào đoán ra được.

Ba người cưỡi ngựa dẫn đầu tiến vào bên trong cổng thành, quân thủ thành xếp hàng hai bên cổng, mỗi hàng khoảng năm mươi người, đồng thời giơ cao binh khí cung kính tung hô vang động. Nhưng nếu so sánh với lúc đối diện thiên binh vạn mã của Kim Lang quân bên ngoài thành Long Tuyền thì vẫn còn kém xa.

Chỉ nhìn sơ qua cũng có thể thấy được quân Giải gia là một lực lượng tinh nhuệ mạnh mẽ, không phải là đám đông ô hợp, có thể giúp Giải Huy mấy năm nay ổn định tình hình Ba Thục, bảo trì hòa bình không ai dám xâm phạm. Thế nhưng tình hình này đã bị sự rạn nứt giữa Giải Huy và Tống Khuyết phá hủy.

Con đường lớn dẫn vào trong thành vắng tanh không một bóng khách bộ hành, cửa hiệu đóng chặt cửa, không khí căng thẳng như trước cơn bão lớn.

Mục quang của Khấu Trọng và Từ Tử Lăng tập trung vào người trung niên vẻ mặt phong sương, tay chắp sau lưng đứng đơn độc ở cuối đường, trời mùa đông lạnh lẽo nhưng chỉ khoác một tấm áo xanh mỏng manh, khí thế siêu nhiên vượt hẳn đám chiến sĩ vũ trang đến tận răng đứng hai bên đường.

Người này trán cao mũi thẳng, làn da đen sạm, thần tình cao ngạo lạnh lùng, tùy tùy tiện tiện đứng đó mà trên người vẫn toát ra khí thế bá đạo uy chấn tám phương, tuy còn kém Tống Khuyết ở khí khái coi thiên hạ nằm dưới chân, chỉ có mình ta tung hoành, nhưng lại có thể khiến người gặp sinh lòng kính trọng, ấn tượng thâm sâu. Trên người không đeo bất cứ binh khí gì nhưng không ai dám hoài nghi năng lực sát thương mãnh liệt của y.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng trong lòng thầm than không ổn, Giải Huy chính là người tuyệt không thể bị uy hiếp, lại bày ra trận thế như thế này rõ ràng là không sợ đấu chí và tín tâm bị lay chuyển.

Giải Huy từ xa thản nhiên lạnh lùng lên tiếng: “Ta là Giải Huy, hoan nghênh Thiếu soái và Tử Lăng quang lâm Thành Đô.”

Thanh âm từ xa nhẹ nhàng truyền lại dường như chẳng cần dùng chút sức lực nào mà từng câu, từng chữ đều chấn động màng nhĩ của hai gã, chỉ dựa vào công lực thế này đã khiến hai gã phải sinh lòng đề phòng không dám khinh địch, ngay cả lòng tin có thể dễ dàng trốn thoát cũng bị lay chuyển ít nhiều.

Cây cao bóng cả, Giải Huy có thể cùng tề danh với Tống Khuyết đương nhiên không phải là kẻ tầm thường.

Khấu Trọng ngồi trên lưng ngựa ôm quyền đáp lễ: “Bảo chủ bận rộn trăm công nghìn việc nhưng vẫn có thời gian đến gặp hai tên tiểu tử hậu bối chưa ráo máu đầu như bọn ta, chính là vinh hạnh của bọn ta vậy.”

Giải Huy phá lên cười ha hả: “Nhân tài xuất thiếu niên, Thiếu soái khiêm tốn quá rồi! Hiện tại trong thiên hạ có ai còn không biết đại danh của hai vị chứ!”

Khấu Trọng muốn tỏ vẻ tôn kính, đến cách Giải Huy năm trượng thì xuống ngựa, mấy người khác vội vã làm theo.

Con đường lớn vắng tanh tự thân nó vốn cũng gây áp lực về sự tĩnh lặng khiến người ta không dám mở miệng xâm phạm. Hai bên nói chuyện rền vang cả con đường, bầu không khí ngưng tụ, căng thẳng tưởng chừng như đại chiến có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Giải Huy không lộ chút ý nào một lời nói không hợp thì có thể lay động can qua, hai mắt lộ thần sắc phức tạp không thể đoán nổi chằm chặp quan sát hai gã Khấu, Từ, nhưng đa phần chú ý của y đều tập trung trên người của Từ Tử Lăng. Những người khác xuống ngựa rồi vẫn đứng nguyên chỗ cũ, chỉ có Giải Văn Long dẫn hai người tiến về phía Giải Huy.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đã quen với quang cảnh thế này, tuy thân đang ở trong chốn hiểm địa nguy cơ bốn phía nhưng vẫn bảo trì thái độ ung dung không chút khẩn trương.

Giải Huy lộ vẻ tán thưởng, mắt thu liễm thần quang trở lại vẻ lãnh đạm bình thường, sắc mặt bớt đi nét nghiêm nghị, cười nhẹ: “Hai vị ngàn dặm đến đây, Giải mỗ đã chuẩn bị một bàn trà nước điểm tâm để tẩy trần cho hai vị.”

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng nghe vậy ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau, việc Giải Huy chịu ngồi xuống nói chuyện với hai gã đã là chuyện lạ, nhưng việc chỉ dùng trà ăn điểm tâm chứ không uống rượu ăn thịt lại càng không sao hiểu nổi.

Khấu Trọng thầm cảm thấy bất an, nhưng lại không biết được không ổn ở chỗ nào, vội nói: “Nhờ ơn bảo chủ ân cần tiếp đãi, mọi người có thể ngồi xuống uống chung trà, nói chuyện trên trời dưới đất, thử hỏi trên đời này còn có chuyện gì bằng?”

Từ Tử Lăng trong lòng kích động không thể nào đè nén lại được, lờ mờ cảm thấy phía trước có chuyện gì vượt xa sức tưởng tượng của mình đang chờ đợi.

Giải Huy lộ nét cười có lẫn chút chua chát, khẽ gật đầu truyền lệnh xuống: “Mở cửa đón khách!”

“Soạt!”

Phía bên trái chỗ bốn người họ đang đứng vốn là một quán ăn lớn đóng chặt từ từ mở ra, hai tên chiến sĩ Giải gia thần thái cung kính đẩy cửa lớn ra ngoài, động tác chậm rãi ổn định, từng chút từng chút một hiển lộ sảnh đường bên trong quán ăn.

Sảnh đường bày đầy bàn ăn tựa hồ như bày dư một bàn, khiến người có cảm giác là lạ.

Làm người ta chú ý nhất chính là một tiên tử không vướng bụi trần lay động lòng người đang an ổn ngồi bên một bàn tiệc, ánh mắt điềm tĩnh trong sáng không chút gợn sóng đang chăm chăm nhìn vào Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đang đứng trên đường.

Từ Tử Lăng lúc ấy nào là „tỉnh trung nguyệt”, nào là “kiếm tâm thông minh” cũng đều quên sạch sành sanh, thân hình rung động.

Khấu Trọng cũng chẳng khá hơn gã là bao, rùng mình tái mặt kinh hãi hô lớn: “Phi Huyên!”

Không ngờ Sư tiên tử lại giáng lâm nhân thế.

Sự xuất hiện của nàng quá đột ngột, vượt ngoài ý liệu của người ta, cũng như thanh kiếm Sắc Không của nàng khiến người ta không thể nào phản kháng lại được.

Bọn gã suy tính cẩn mật tưởng chừng như không thể bỏ qua khả năng nào, lại không ngờ được việc gặp lại Sư Phi Huyên ở trong thành.

Từ Tử Lăng toàn thân nóng bừng, đầu óc choáng váng, trong lòng từng đợt từng đợt sóng ào ạt dâng trào.

Chỉ mới đây thôi, gã đã mong ước được gặp nàng biết bao nhiêu, muốn thổ lộ hết mâu thuẫn và thống khổ trong lòng mình với nàng, bởi những mâu thuẫn và thống khổ đó chỉ có mình nàng mới có thể hiểu được, khẩn xin nàng dùng phép tiên giúp đỡ cho gã.

Chỉ mới đây thôi, gã suýt nữa đã không áp chế nổi sự nhớ nhung thống khổ, thậm chí đã nghĩ đến chuyện bỏ qua mọi việc, đi đến Tịnh Trai ở chốn xa xăm mù mịt chỉ để được nhìn nàng thêm một lần.

Một ngày không có nàng dài dằng dặc như cả năm trời, nhưng hiện thực tàn khốc ép gã phải cắn răng gánh chịu, không dám kinh động đến nơi thanh tu thần thánh bất khả xâm phạm của nàng.

Trong giây phút sinh tử tồn vong tại cuộc chiến ở Lạc Dương, gã đã không nhịn được phải phân thân đến gặp Liễu Không, thông qua Liễu Không gửi tới nàng tâm sự của mình, hy vọng nàng thông cảm nỗi khổ tâm của mình khi phải vi phạm ý chỉ của nàng.

Sau khi bị Dương Hư Ngạn đánh trọng thương, Từ Tử Lăng gặp lại Thạch Thanh Tuyền, rồi từ từ đem hết tinh thần chuyển sang người nàng ta, nỗi khổ tương tư với Sư Phi Huyên cuối cùng cũng có thể phai nhạt dần, giấu ở một góc trong tim. Nhưng nàng lại xuất hiện vào thời khắc quyết định thế này rõ ràng là đã chặn ngang đại kế tưởng chừng như sắp thắng lợi của Khấu Trọng.

Tạo hóa trêu ngươi cũng chỉ đến mức thế này thôi.

Sư Phi Huyên vẫn mặc nam trang, trên đầu quấn khăn mềm, thân vận áo vải, bên ngoài khoác áo choàng trắng pha vàng, chân mang giày da mỏng, lưng đeo Sắc Không kiếm, thần sắc bình hòa, khiến người ta không tài nào biết được trong lòng nàng đang nghĩ gì. Thấy hai gã cứ ngẩn người ra chằm chặp nhìn mình thì nàng ung dung đứng dậy, mặt hơi lộ nét cười như có như không, dịu giọng nói: “Thiếu soái, Tử Lăng, xin mời!”

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng lúc này cứng đờ người chẳng khác gì con rối bị người ta điều khiển, quên đi mất cả hai phụ tử Giải Huy, không hẹn mà gặp ngơ ngơ ngẩn ngẩn đi vào trong quán ăn.

Một quán ăn bình thường lập tức biến thành chốn tiên cảnh, chỉ bởi vì có gót tiên đặt chân đến.

Phụ tử Giải Huy theo gót hai gã, mời bọn gã ngồi vào tiệc.

Hai gã ngoan ngoãn theo chỉ dẫn của Giải Huy ngồi xuống đối diện với Sư Phi Huyên, cha con Giải Huy ngồi ở hai bên.

Sư Phi Huyên đích thân rót trà cho từng người rồi cũng ngồi xuống.

Quán ăn ngoài năm người ngồi quanh bàn tiệc rau dưa, quan hệ phức tạp không thể nào nói cho xiết được thì chẳng còn ai khác nữa, mấy chiến sĩ mở cửa đã lặng lẽ đóng cửa lại sau lưng bọn họ rồi lùi ra ngoài.

Giải Huy nâng chén: “Hai vị cho dù đến Thành Đô vì việc gì, một ngày chưa nổi giận dụng võ thì vẫn là khách của Giải Huy ta, Giải Huy mượn trà thay rượu kính hai vị một chung.”

Từ Tử Lăng lảng tránh ánh mắt có thể nhìn xuyên suốt mọi sự vật trên thế gian này của Sư Phi Huyên, cúi đầu nâng chung trà, thầm thở dài một hơi rồi nâng chén đáp lễ.

Khấu Trọng không rời mắt khỏi mục quang của Sư Phi Huyên chút nào, từ từ nâng chén, đưa mắt nhìn sang Giải Huy rồi hồi phục lại vẻ lãnh tĩnh lúc đầu, trầm giọng nói: “Khấu Trọng ta mong rằng lần tới gặp bảo chủ thì vẫn có thể ngồi xuống uống trà như lúc này!”

Bốn nam nhân đồng loạt uống cạn chung trà nóng hổi, Sư Phi Huyên chỉ khẽ nhấp môi rồi ung dung hạ chung trà xuống, thần thái ung dung tự tại, tựa như chuyện trước mắt chẳng có chút liên hệ nào với nàng.

Giải Văn Long lên tiếng: “Mấy món điểm tâm này là do tiện nội đích thân làm, xin mọi người chớ chê cười!”

Khấu Trọng nâng đũa cười khổ: “Ta vốn ăn không quen mấy món này, nhưng Giải thiếu phu nhân đã có lòng như vậy thì thật không dám làm phụ lòng. Tử Lăng lại đây, bọn ta hãy nếm thử tài năng của thiếu phu nhân đi thôi!”

Hai gã ráng ăn hai miếng điểm tâm mà chẳng cảm thấy mùi vị gì, Giải Huy than: “Không nói đến lập trường đối lập của chúng ta, hai vị chính là người Giải mỗ coi trọng nhất trong thiên hạ hiện nay. Chỉ có các vị mới có thể đem vinh dự cho người Hán chúng ta bên ngoài biên ải, không ai là không tán thưởng.”

Sư Phi Huyên chẳng hề có ý định mở miệng, nhưng đối với Từ Tử Lăng sắc mặt khó coi miễn cưỡng ăn vài miếng thì đôi mắt mỹ lệ lộ ra vẻ ôn nhu.

Khấu Trọng tỏ vẻ chán nản lên tiếng: “Nói thẳng ra, ta vốn có trăm ngàn lời nói muốn nói rõ lợi hại với Giải Bảo chủ, để tránh khỏi chuyện can qua giữa chúng ta, gây cảnh lưỡng bại câu thương, cứu vớt cho bách tính vô tội ở Ba Thục. Nhưng tiên giá của Phi Huyên đến đây làm cho ta lúng túng hoang mang không biết nói thế nào cho phải, thôi thì thỉnh Phi Huyên và Bảo chủ dạy bảo.”

Đôi môi mềm mại của Sư Phi Huyên hơi hé nét cười, chẳng hề khẳng định hay phủ nhận, đưa mắt nhìn sang Giải Huy.

Giải Huy không nhìn ai, đắm chìm vào nỗi suy tư, hai mắt lộ vẻ thê lương nhìn ra ngoài cửa, thở dài cảm khái: “Giải Huy ta tung hoành trên thiên hạ mấy chục năm trước giờ chẳng sợ ai, cũng chẳng nghe lời ai, chỉ có hai người là ngoại lệ.”

Giải Văn Long cúi đầu không nói, xem ra cũng rất thông cảm với nỗi thống khổ trong lòng Giải Huy.

Khấu Trọng lấy làm lạ hỏi: “Xin hỏi không biết hai người có thể bắt Bảo chủ làm trái với ý nguyện của mình là ai vậy?”

Ánh mắt của Giải Huy nhìn sang Khấu Trọng biến thành sắc nhọn như đao, trầm giọng nói: “Có một chuyện ta phải nói trước để tránh cho Thiếu soái hiểu lầm, bất kể hai vị có tin hay không, quyền lực phú quý đối với ta mà nói chẳng khác nào như mây mù che mắt, chẳng đáng một đồng xu. Nếu không phải thiên hạ đại loạn, ta đã sớm thoái ẩn sơn lâm, đem chuyện trong gia tộc giao hết cho Văn Long lo liệu, không hỏi đến chuyện thế sự nữa. Do đó khi Dương Quảng chết đi, ta đã lập hiệp nghị với Ba Minh, bảo trì sự trung lập của Ba Thục, để tránh cho bách tính phải chịu cảnh binh lửa tàn phá, nằm yên chờ đợi minh chủ có thể thống nhất thiên hạ xuất hiện.”

Nghe Giải Huy nói đến đây, Từ Tử Lăng không nhịn được nhìn sang Sư Phi Huyên, nàng tiên tử này dường như có cảm ứng đón lấy ánh mắt của gã, khẽ gật đầu biểu thị Giải Huy nói toàn là lời thật lòng.

Khấu Trọng nghe vậy nhăn tít lông mày, không hiểu hỏi lại: “Nếu đã như vậy thì sao Bảo chủ không chịu bảo trì thế trung lập như trước nữa?”

Giải Huy không đáp lời, lộ vẻ bâng khuâng nhớ về chuyện quá khứ, quay trở lại chủ đề chính, khẽ nói: “Hơn bốn mươi năm trước vào một ngày hè nóng bức, lúc ấy ta vẫn còn là một thanh niên chưa biết trời cao đất rộng là gì, Tống Khuyết huynh vì gia tộc áp tải muối vào Thục, ta đại diện cho tộc nhân tiếp nhận hàng hóa. Ta trước giờ chưa hề thấy qua một bậc anh hùng nào như Tống đại ca, đúng là một nhân vật độc nhất trên đời, khiến ta vừa gặp đã phục sát đất, hai bên kết làm hảo hữu, liên thủ quét sạch bọn mã tặc hung hãn lúc ấy đang hoành hành trong đất Thục, qua mấy lượt vào sinh ra tử, sát vai tác chiến, Tống đại ca bao nhiêu lần trong tình huống hết sức hung hiểm đã chẳng màng sinh tử bảo hộ cho ta. Giải Huy ta có được ngày hôm này toàn là nhờ Tống đại ca ủng hộ, vô luận bên ngoài loạn lạc thế nào cũng chẳng có ai dám xâm phạm vào vùng của ta nửa bước, bởi vì thiên hạ ai ai cũng biết, chỉ cần phạm đến Giải Huy ta thì sẽ chọc giận đến Tống Khuyết. Thiên hạ hỏi ai dám đắc tội với Tống Khuyết chứ?”

Suy đoán và sự thật đúng là cách nhau quá xa, Khấu Trọng đến lúc này đích thân nghe Giải Huy nói rõ quan hệ của y với Tống Khuyết, mới biết được là mình đã hiểu lầm Giải Huy. Lãnh tụ của thế tộc quyền thế nhất ở Ba Thục tuyệt không phải là người ham mê quyền vị mà bỏ Tống Khuyết đi theo nhà họ Lý, nhất định phải có nguyên nhân gì khác, điểm mấu chốt chính là người mà Giải Huy không thể không nghe lời ngoại trừ Tống Khuyết.

Là kẻ nào đây?

Từ Tử Lăng sau khi thấy Sư Phi Huyên dáng tiên xuất hiện thì chỉ có thể dùng bốn chữ “lòng dạ rối bời” để mà hình dung tâm tình của gã. Thạch Chi Hiên đã có dự báo bất tường: lúc Lý Thế Dân lâm vào tình trạng sinh tử tồn vong, Phàn Thanh Huệ sẽ không thể ngồi yên bỏ qua.

Bên ngoài trướng của Khấu Trọng và Tống Khuyết thì chỉ có Sư Phi Huyên là người duy nhất hiểu rõ không thể nào để mất Ba Thục. Nếu Hán Trung thất thủ, Khấu Trọng có thể trực tiếp vào Quan Trung đánh tới Trường An, mất đi Dương Công Bảo Khố đã làm cho Lý Uyên mất đi ưu thế lớn nhất của Trường An.

Sư Phi Huyên lần này có mặt tại đây rõ ràng đã qua một quá trình suy tính cẩn thận sâu xa.

Giọng nói của Khấu Trọng lại vang lên: “Ta đã minh bạch rồi! Dám hỏi Bảo chủ, còn một vị mà Bảo chủ không dám không nghe lời nữa là ai?”

Giải Huy chìm đắm trong hồi ức, không kìm nổi xúc động: “Có rất nhiều chuyện ta không dám nghĩ tới, nhưng giờ đây phải nêu lên lại. Tống đại ca vốn là người Giải Huy kính phục nhất, trước giờ không hề thay đổi. Nếu có sự lựa chọn khác, ta tuyệt không muốn nghịch lại ý của huynh ấy, huống gì Ngọc Hoa lại là con dâu mà ta yêu mến nhất.”

Giải Văn Long thảng thốt gọi: “Cha!”

Giải Huy giơ tay cản lại không cho hắn nói tiếp, bình tĩnh lên tiếng: “Còn một vị nữa chính là sư phụ của Phi Huyên: Phàn Trai chủ, nàng vì chuyện của Tú Tâm và Thạch Chi Hiên mà dạo bước giang hồ, còn ta và Tống đại ca vì Tú Tâm mà muốn tìm Thạch Chi Hiên tính sổ, mọi người gặp gỡ giữa đường, tuy vô ý nhưng quả thật là hữu duyên. Nàng cùng đại ca đàm luận suốt một đêm, ta tuy chỉ ngồi một bên nghe ngóng nhưng vẫn nhớ mồn một từng câu nói của bọn họ, cảm nhận được nỗi đau xót của nàng trước thời cuộc, tấm lòng vĩ đại nghĩ cho vạn dân thiên hạ của nàng ta không bao giờ dám quên.”

Sau đó nhìn sang Sư Phi Huyên, ánh mắt lộ vẻ ôn nhu, từ hòa nói: “Do đó khi Phi Huyên vì Lý Thế Dân đến đây nói chuyện với ta, giải thích lý do vì sao nàng chọn Lý Thế Dân, ta nhận thấy sự tình quan hệ trọng đại, không đợi sự đồng ý của đại ca đã lập tức đáp ứng điều kiện của Phi Huyên, không phải vì vinh nhục của Giải gia ta mà là vì hạnh phúc của thiên hạ vạn dân, cho đến nay vẫn không hề hối hận, chỉ đau lòng là không được đại ca tha thứ. Ta hoàn toàn không muốn huynh ấy trở thành kẻ địch, hôm nay tuy đã trở thành kẻ địch của ta nhưng trong lòng ta không chút nào oán trách đại ca, huynh ấy có cái nhìn và lập trường riêng, chẳng ai có thể lay động niềm tin của huynh ấy. Ta đương nhiên không đủ sức, Thanh Huệ cũng chẳng có cách nào, tình huống mà ta không muốn xảy ra nhất cuối cùng cũng đã trở thành hiện thực đáng sợ rồi.”

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng cuối cùng cũng hiểu rõ, Giải Huy tuy không nói rõ quan hệ của y với Phàn Thanh Huệ nhưng rõ ràng y cùng Tống Khuyết đều sinh lòng ái mộ với Phàn Thanh Huệ, tuy nhiên do thân phận xuất thế của bà ta nên đương nhiên chẳng có kết quả gì, cũng giống như quan hệ giữa Từ Tử Lăng và Sư Phi Huyên vậy. Nếu đổi cho Từ Tử Lăng vào vị trí của Giải Huy, đệ tử của Sư Phi Huyên mấy chục năm sau lại đến cầu xin Từ Tử Lăng, gã làm sao có thể cự tuyệt được đây?

Ấn tượng của Từ Tử Lăng và Khấu Trọng đối với Giải Huy đều hoàn toàn thay đổi, cảm thấy y đúng là một vị tiền bối tông sư rất đáng tôn kính.

Ánh mắt của Khấu Trọng từ người Giải Huy chuyển sang Sư Phi Huyên, than: “Phi Huyên cũng biết sự tình đã đến mức không thể nào quay đầu lại được nữa, ta tuy thông cảm với nỗi khổ của Bảo chủ nhưng ta cùng Lý Thế Dân đã kết thành mối thù sâu nặng không thể giải khai, hơn nữa đây không chỉ là chuyện riêng của Khấu Trọng ta mà còn là nguyện vọng của toàn thể liên quân giữa Thiếu soái và Tống gia, nhất thiết phải giải quyết bằng vũ lực, không còn có biện pháp nào khác.”

Sư Phi Huyên cười nhẹ: “Đã như vậy thì chúng ta cứ giải quyết bằng vũ lực đi!”

Khấu Trọng cùng Từ Tử Lăng nghe vậy ngạc nhiên không biết đáp lại thế nào.

- o O o -

Hồi 693

Binh bất huyết nhận

  Sư Phi Huyên miệng nói động thủ nhưng thần tình vẫn lãnh đạm như nước, đôi mắt trong veo lấp loáng dị quang không thể nắm bắt, rõ ràng là tu vi đã tiến bộ vượt bậc so với lúc còn nơi quan ngoại. Chỉ một mình Từ Tử Lăng hiểu nàng đã đạt đến cảnh giới Kiếm tâm thông minh tương tự như Thạch Chi Hiên, khiến cho gã dù với trực giác linh mẫn vô song của mình vẫn không thể đoán định được.

Khấu Trọng há hốc miệng, nhìn sững vào mắt nàng, hồi lâu mới thất thanh kêu lên: “Phi Huyên không đùa đấy chứ? Nàng há phải là người thích dùng vũ lực giải quyết vấn đề?”

Sư Phi Huyên mỉm cười dịu dàng nói: “Như lời huynh nói, thì hẳn là các phương pháp khác đều vô tác dụng, không thể giải thích, tranh luận, khẩn cầu hay uy hiếp… được nữa. Thế thì ngoài cách dùng vũ lực còn cách nào để giải quyết? Phi Huyên ta tuyệt không thể ngồi yên nhìn Ba Thục rơi vào tay Thiếu soái được.”

Từ Tử Lăng buột miệng kêu: “Phi Huyên!”

Sư Phi Huyên vẫn cương nghị nhìn thẳng vào Khấu Trọng, bình thản ngắt ngang lời Tử Lăng: “Bất luận trước đây Tử Lăng đã viện ra ngàn vạn lý do để trợ giúp cho huynh đệ Khấu Trọng, thì những lý do đó giờ đây đều trở thành quá khứ, thiên hạ đã phân thành lưỡng cục. Xin Tử Lăng chàng đừng can thiệp vào chuyện giữa Phi Huyên và Thiếu soái.”

Từ Tử Lăng lòng dạ rối bời, một bên là người ngọc mà gã rất mực yêu thương ngưỡng mộ, một bên là huynh đệ nối khố từ thuở nhỏ, gã thực không biết phải làm sao cho vẹn cả đôi bề. Điều này khiến gã bỗng nhiên rơi vào tình cảnh hết sức khó xử.

Mục quang Khấu Trọng vụt sáng rực, gã lấy lại vẻ sung mãn tự tin của một Thiếu soái hiên ngang không hề ngán ngại bất cứ một ai, thản nhiên cười nói: “Xin mời tiên tử vạch rõ đường lối cho!”

Cha con Giải Huy đều nhìn về phía Sư Phi Huyên, thần sắc lộ vẻ hiếu kỳ, rõ ràng là cũng không hiểu chuyện “giải quyết bằng vũ lực” mà Sư Phi Huyên nói rốt cục là thế nào.

Sư Phi Huyên ung dung nói: “Vận mệnh của Ba Thục ắt phải do Sắc Không kiếm của Phi Huyên ta và Tỉnh Trung Nguyệt của Thiếu soái quyết định rồi.”

Từ Tử Lăng, Giải Huy và Giải Văn cùng biến sắc.

Khấu Trọng thất thanh: “Sao cơ? Phi Huyên chớ có dọa ta chứ.”

Sư Phi Huyên lộ vẻ bất đắc dĩ, than thở: “Đến lúc này, Phi Huyên ta làm gì còn tâm trạng đùa cợt. Bất luận huynh có đồng ý hay không, ta chỉ nghĩ được mỗi cách này để giải quyết vấn đề.”

Khấu Trọng đưa ánh mắt cầu cứu về phía Từ Tử lăng, nhưng chỉ nhận được nụ cười khổ, đành dở cười dở khóc quay sang Sư Phi Huyên nói:: “Phi Huyên nàng có nghĩ như thế là rất bất công không? Cho dù ta không nể tình của tiểu Lăng đi nữa, cũng không nỡ thẳng tay đối phó với nàng, thậm chí ngay cả một sợi tóc của nàng cũng không dám động, trong tình huống như vậy chẳng hóa ra ta mất chắc Ba Thục còn gì!”

Sư Phi Huyên lạnh lùng: “Phi Huyên không những muốn phân thắng bại với huynh mà còn muốn phân rõ sinh tử. Nếu huynh không nỡ ra tay giết chết Phi Huyên thì cũng không có tư cách làm hoàng đế. Từ cổ chí kim, muốn thành đại sự, có ai không quyết liệt nhẫn tâm chứ, phàm những gì cản đường đến đế tọa của mình, đều phải bị quét sạch.”

Khấu Trọng nhăn nhó: “Vậy ra nàng chọn Lý Thế Dân lên làm hoàng đế chính vì khí chất này của y?”

Câu nói này của Khấu Trọng bộc lộ hết nỗi oán giận tột độ trong lòng gã, khiến cho Từ Tử Lăng bên cạnh không khỏi đồng tình, muốn nghe Phi Huyên giải thích sao cho thỏa đáng.

Sư Phi Huyên bình tĩnh đáp: “Vì mục tiêu và lý tuởng lớn nhất là lên ngôi hoàng đế, người ta sẽ không ngần ngại hy sinh cá nhân, phân biệt duy nhất ở chỗ mục đích của việc giành ngôi vị hoàng đế chỉ nhằm thỏa mãn dã tâm riêng, hay là vì vạn dân thiên hạ mà lo nghĩ. Phi Huyên ta có thể nhẫn tâm giết huynh, chính là vì bá tánh không ngại hy sinh cá nhân mình, chấp nhận cả việc vĩnh viễn không thể tiến nhập thiên đạo, và rốt cuộc phải cắn rứt trọn đời.”

Giải Huy đập bàn tán thán: “Nói chí phải, chỉ có Thanh Huệ mới bồi dưỡng được một nhân vật xuất chúng như Phi Huyên.”

Khấu Trọng trầm giọng nói: “Phi Huyên hẳn hiểu rõ giả sử như ta bị vị thiên tử mà nàng lựa chọn kia giết chết trong trận chiến ở Lạc Dương, thì ngay sau đó tên Lý tiểu tử của nàng cũng đã bị người giết liền tay.”

Gương mặt xinh đẹp của Phi Huyên lộ vẻ đau khổ, đôi mắt đẹp đảo về phía Từ Tử Lăng như dò xét, rồi lại nhìn thẳng vào Khấu Trọng, nàng nói: “Đó lại là chuyện khác, Phi Huyên chỉ dựa vào tình thế hiện tại mà hành sự, Lý Thế Dân không mất Ba Thục, thiên hạ sẽ có thể duy trì cục diện phân đôi. Ái chà! Từ lúc nào mà Thiếu soái lại trở nên dụ dự bất quyết như đàn bà vậy? Con đường dài vắng vẻ ngoài kia chính là nơi thích hợp để chúng ta làm cuộc quyết đấu, quyết định vận mệnh tương lai của thiên hạ cũng như Ba Thục.”

Từ Tử Lăng cuối cùng không chịu nỗi phải kêu lên: “Phi Huyên!”

Sư Phi Huyên quay lại nhìn gã, gương mặt thanh lệ thoát tục của nàng lộ vẻ tươi cười, ánh mắt nhìn Tử Lăng như cầu khẩn. Nàng dịu dàng nói: “Tử Lăng có thể đứng ngoài việc này không? Phi Huyên vì mệnh lệnh của sư môn, từ nhỏ đã nghiên cứu lịch sử, lý giải được nhân quả thịnh suy của thời cuộc. Chính trị vốn coi nhẹ động cơ và thủ đoạn mà chỉ bàn đến hậu quả. Chúng ta toàn lực giúp Lý Thế Dân, vì chúng ta cho rằng y là người tốt nhất có thể đem lại hạnh phúc cho bá tánh. Người huynh đệ của chàng có thể là vị thống soái thiên hạ vô địch nhưng lại thiếu đi tài năng và phẩm chất trị quốc như Lý Thế Dân. Nếu Phi Huyên bỏ mặc không lo, cơ hội thống nhất thiên hạ mưu cuộc hòa bình sẽ hỏng mất tại đây. Lý Đường từ thế mạnh chuyển sang thế yếu. Liên quân ngoại bang ắt nhân cơ hội này xâm lấn. Lâu nay Hiệt Lợi đã bồi đắp lực lượng, nếu lần này tiến đánh là có chuẩn bị đầy đủ, cho dù không thể quét sạch Trung nguyên, cũng sẽ gây nên tổn thất nghiêm trọng và lâu dài, như vậy nỗi khổ của bá tánh tới khi nào mới dứt? Trung nguyên có cơ nguy mãi mãi không thể hồi phục nguyên khí.”

Khấu Trọng tràn đầy phẫn nộ: “Vấn đề lớn là hoàng đế Đại Đường hiện nay là Lý Uyên, còn người thừa kế của y là Lý Kiến Thành, cho nên trong chuyện này người được lợi cuối cùng chính là Ma môn, kẻ thù không đội trời chung với các người đó.”

Sư Phi Huyên đã lấy lại vẻ ung dung điềm tĩnh, nhìn thẳng vào Khấu Trọng, ôn tồn nói từng lời một: “Vì vậy Phi Huyên mới nói chính trị không chú ý đến động cơ, chỉ bàn đến kết quả. Phi Huyên tuyệt đối không nghi ngờ Thiếu soái tận lực hành sự vốn không vì dục vọng và dã tâm của cá nhân, nếu không Tử Lăng đã không cùng huynh kề vai sát cánh trong cuộc chiến này. Thử nghĩ xem các người cho dù có thể đánh thắng Trường An, nhưng sẽ khiến nguyên khí của cả hai bên tổn thương không ít. Lý Thế Dân vẫn có thể dựa vào vị thế của Lạc Dương kiên cường kháng cự, lại phát động số binh lực còn lại của Quan Nội và Thái Nguyên toàn diện phản công, lúc đó song phương ắt sẽ lâm vào tình thế lưỡng bại câu thương. Đương lúc giằng co chưa biết thiên hạ thuộc về ai, liên quân quan ngoại lại từ phương bắc đánh xuống. Xin hỏi Thiếu soái, hậu quả này người đã nghĩ tới chưa? Mà đây lại là một tình huống tàn khốc hết sức hiện thực.”

Giải Huy gật đầu nói: “Phi Huyên quyết không nói dối để hù dọa chúng ta, các tộc ngoài quan ngoại đã cùng Hiệt Lợi và Đột Lợi kết thành liên minh, bất cứ lúc nào cũng có thể phát động cuộc tấn công đại quy mô vào Trung thổ, tình thế nguy hiểm khôn lường.”

Sư Phi Huyên vẫn nhẹ nhàng: “Hiện giờ Phi Huyên cũng chỉ biết đi bước nào tính bước đó, tùy tình huống mà hóa giải nguy cơ nào cấp bách nhất, Thiếu soái nếu có thể giết chết Phi Huyên, Từ Hàng Tịnh Trai sẽ tuyệt nhiên không tìm Thiếu soái trả thù, chỉ còn xem Thiếu soái có bản lĩnh đó hay không thôi.”

Khấu Trọng lại một lần nữa hướng cái nhìn cầu cứu về phía Từ Tử Lăng.

Từ Tử Lăng chỉ đành nhăn nhó than thở: “Ta chẳng biết nói gì bây giờ! Thiếu soái xin hãy tự mình làm chủ, bắt đầu từ lúc này, hễ còn Lý Thế Dân thì ta sẽ không can thiệp vào.”

Khấu Trọng gật đầu ra vẻ thông cảm, rồi buồn bã nói: “Tiên pháp của Phi Huyên thật lợi hại, chỉ cần nói mấy câu đã tách được Tử Lăng ra khỏi ta. Thôi được, ta thừa nhận đấu không lại nàng, nhưng ta có một yêu cầu, chính là trước khi Lý Thế Dân trở thành người đứng đầu Lý phiệt, Ba Thục phải duy trì sự trung lập, nếu không ta không có cách nào ăn nói với Tống chủ, càng không thể thuyết phục ông ta rời khỏi Lô Xuyên, cách xa Ba Thục.”

Từ Tử Lăng thầm thở dài, sự xuất hiện của Phi Huyên đã khiến cho kế hoạch đánh Trường An của Khấu Trọng bị phá hỏng hoàn toàn, cuộc chiến thống nhất không cách nào rút ngắn được, mà phải được quyết định tại trận chiến ở Lạc Dương. Cứ như dự đoán của Phi Huyên thì cuộc phân tranh Nam Bắc ắt hẳn vẫn sẽ kéo dài.

Sư Phi Huyên dịu dàng: “Thiếu soái đã rất nhượng bộ, Phi Huyên sao có thể cự tuyệt?”

Giải Huy cũng gật đầu: “Mọi thứ đều do Phi Huyên quyết định.”

Khấu Trọng bỗng cười ha hả: “Phi Huyên quả cao tay, tiểu đệ bái phục sát đất, không phải đổ một giọt máu vẫn đẩy lùi được đại quân của chúng ta, lại không làm tổn thương hòa khí đôi bên. Nhưng tình thế sau này vẫn chẳng mấy lạc quan, tiểu đệ đành phải bỏ xa đánh gần, trước tiên sẽ thu phục toàn bộ hai bờ nam bắc Trường Giang, rồi lại đánh lên phía bắc, để xem Lý Thế Dân lợi hại, hay Khấu Trọng này lợi hại. Tiểu Lăng thì cứ để hắn tạm thời nghỉ ngơi cho khuây khỏa. Ta thật sự muốn biết liệu Phi Huyên đã có đối sách gì để ngăn cản kế hoạch này chăng, có thể nói qua cho ta biết không?”

Sư Phi Huyên buồn bã thở dài, sầm mặt xuống, rồi từ từ nói: “Thiếu soái sẽ sớm biết thôi.”

Khấu Trọng biến sắc mặt: “Thì ra Phi Huyên đã định sẵn kế hoạch, ta hoàn toàn không nghĩ ra được.”

Phi Huyên chầm chậm đứng lên, mắt nhìn Từ Tử Lăng lộ vẻ mệt mỏi, nhu mì nói: “Thiếu soái cứ tiếp tục cùng với Giải Bảo chủ nghiên cứu việc duy trì sự bình ổn cho Ba Thục; Tử Lăng chàng tiễn Phi Huyên một đoạn được không?”

Tử Lăng cùng Phi Huyên song song bước ra cửa phía đông, quân thủ thành cung kính cúi đầu chào.

Sư Phi Huyên hỏi: “Tử Lăng có trách ta không?”

Từ Tử Lăng hơi ngỡ ngàng, rồi lắc đầu: “Phi Huyên không cần để ý xem ta nghĩ gì! Vì hiện giờ ta cũng không phân định được ai đúng ai sai.”

Sư Phi Huyên than: “Ta sao có thể không màng đến việc chàng nghĩ gì kia chứ?!”

Từ Tử Lăng nhìn Phi Huyên một lát lâu rồi buột miệng gọi: “Phi Huyên!”

Phi Huyên ngước mắt lên nhìn Tử Lăng, bình tĩnh nói: “Nếu còn có sự lựa chọn khác, ta quyết không chen vào sự tranh chấp giữa Lý Thế Dân và Khấu Trọng. Chẳng qua đã đến bước đường cùng, không còn cách nào khác. Sư tôn đã dự đoán từ nhiều năm trước, nếu thiên hạ do bắc thống nam, thiên hạ sẽ thịnh vượng thái bình trong thời gian dài, còn như nam thống bắc, thì không những bị ngoại tộc xâm lăng mà thiên hạ tất chia năm xẻ bảy. Đạo lý này Tử Lăng chàng có hiểu hay không?”

Từ Tử Lăng cười khổ đáp: “Trong lòng ta thật không muốn tán đồng cách nghĩ của nàng, nhưng nghe những lời nàng vừa nói, thì không thể không thừa nhận có khả năng đó.”

Sư Phi Huyên nói: “Trước đây nghe sư tôn phân tích, ta hoàn toàn không hiểu hết, chỉ đến khi Khấu Trọng quật khởi, thế lực ngày càng mạnh mẽ, ta mới bắt đầu nghiệm thấu những lời của Sư tôn. Thử nghĩ nếu Khấu Trọng thắng, Lý Đường sụp đổ, tướng lĩnh Lý Đường ai nấy đều cát cứ xưng vương, vì Lý Đường mà trả thù, chính quyền phía Bắc sụp đổ, liên quân ngoại bang nhân lúc Khấu Trọng bận thu dọn tàn cục sẽ xua quân nam hạ, Khấu Trọng sẽ rất khó giữ vững Quan Trung và Lạc Dương. Trong tình thế này thì cục diện Trung nguyên sẽ như thế nào?”

Từ Từ Lăng không còn lời gì biện bác.

Phi Huyên lại nói tiếp: “Trong các nhân vật kiệt xuất ở miền Bắc, chỉ có Lý Thế Dân mới có đủ điều kiện đem lại ấm no hạnh phúc cho bá tánh. Điều này Khấu Trọng cũng không dám hoài nghi. Trước mắt y chỉ còn thiếu một điều kiện là Lý Uyên vẫn chưa quyết định chọn y làm người kế thừa đại thống, khiến cho Ma môn có thể xen vào và Hiệt Lợi có cơ hội thừa nước đục thả câu. Một khi Lý Thế Dân lên ngôi hoàng đế, mọi việc sẽ dễ dàng giải quyết.”

Từ Tử Lăng nhăn nhó: “Phi Huyên nàng có biết Khấu Trọng và Lý Thế Dân đã kết thành mối huyết cừu không đội trời chung?”

Phi Huyên nói: “Nếu lấy hạnh phúc của thiên hạ bá tánh làm đầu, thì có ân oán nào không bỏ qua được chứ? Nơi chiến trường khó tránh chuyện máu đổ đầu rơi, lại cũng nên biết rằng người hạ thủ Đậu Kiến Đức là Lý Nguyên Cát chứ không phải Lý Thế Dân, huống chi Lý Thế Dân cũng đã vì chuyện này mà cảm thấy hết sức có lỗi với các người, nên đã mời Liễu Không đại sư đi khuyên Khấu Trọng, điều này biểu thị giao tình của y với Khấu Trọng vẫn còn. Tử Lăng à! Chàng đã từng nói nếu Lý Thế Dân lên ngôi hoàng đế, chàng sẽ đi khuyên Khấu Trọng rút lui. Vì thiên hạ bá tánh chàng phải chăng nên có thái độ tích cực, tác thành tâm nguyện cho Phi Huyên?”

Tử Lăng buồn bã: “Đã quá muộn rồi! Khấu Trọng giờ đã cỡi lên lưng cọp, muốn lùi cũng không được. Vì như vậy, thử hỏi Khấu Trọng làm sao ăn nói với Tống Khuyết? Cho dù Khấu Trọng có rút chân ra, Tống Khuyết vẫn có thể xua quân Bắc phạt, tấn công vào Lạc Dương và Trường An. Không có Khấu Trọng, Tống Khuyết cũng đủ thực lực và bản lĩnh tranh hùng với Đường triều Lý phiệt.

Sư Phi Huyên nói: “Đó là tình huống mà Phi Huyên vạn lần không muốn trông thấy. Tống Khuyết ở Lĩnh Nam đã lâu năm, mặc dầu ai ai cũng sợ uy thế của ông ta, nhưng sợ không có nghĩa là tâm phục hoàn toàn. Huống hồ người Nam không quen thủy thổ phương Bắc, lại phải lìa xa quê hương; thêm vào đó quân chủ lực của Tống Khuyết vốn đa phần là người Lê Liêu , những người này bị dân miền Bắc cho là man di, không phục. Đến lúc đó Nam Bắc chia cắt là điều có thể nhìn thấy được.”

Từ tử Lăng gật đầu: “Ta và Khấu Trọng chưa nghĩ thông được như Phi Huyên, nhưng việc đã như vậy, còn biết làm thế nào!”

Sư Phi Huyên dừng bước, xoay người lại, mặt đối mặt với Từ Tử Lăng, chúm chím cười nói: “Chàng là người bảo vệ cho sơn môn chúng ta, chàng hãy nghĩ ra cách nào đi!”

Từ Tử Lăng thất thanh nói: “Ta …?”

Phi Huyên đặt ngón tay ngọc của nàng lên miệng của Từ Tử Lăng, không cho gã nói tiếp, rồi rút tay về, dịu dàng nhìn Từ Tử Lăng đang xiêu hồn lạc phách vì động tác vừa rồi của mình, khẽ nói: “Đường đi còn nhiều khó khăn, Phi Huyên chỉ có thể cố gắng hết sức mình bất kể thành bại. Nhưng sức mạnh của cá nhân cũng có giới hạn, cái mà Phi Huyên có thể đem về hoặc có khả năng đem về chỉ là thời cơ mang lại hòa bình. Khi xảy ra chuyện, Tử Lăng huynh phải là người đứng ra gánh vác, không thể thoái thác, chớ phụ lòng Phi Huyên kỳ vọng và tin tưởng bấy lâu.”

Từ Tử Lăng nhận ra đằng sau lời nói ấy của nàng tất có ẩn ý sâu xa, bèn chau mày hỏi: “Phi Huyên có thể nói rõ hơn không? Như vậy, ta mới có thể giúp nàng được.”

Sư Phi Huyên khẽ lắc đầu, điềm đạm: “Bây giờ chưa phải lúc, nhưng không lâu sau chàng sẽ hiểu, Tử Lăng hãy bảo trọng!”

Nói xong nàng lại nhìn gã với ánh mắt đầy yêu thương ấm áp, rồi men theo quan đạo nơi bìa rừng bước đi.

Từ Tử Lăng ngơ ngẩn nhìn theo bóng Sư Phi Huyên dần khuất, trong lòng cồn cào dậy sóng.

Lần này Sư Phi Huyên vì tình thế bức bách phải giáng hạ phàm trần, tu vi của nàng rõ ràng đã tinh tiến vượt bậc, đối với việc khống chế tình cảm đã đạt đến cảnh giới tự do tự tại, không như trước đây cứ phải lo lo lắng lắng, cẩn trọng từng li. Bây giờ nàng không còn phải áp chế cảm giác của mình, không mấy tỏ vẻ đạo mạo tu hành, mà hoàn toàn “nhập thế”. Tuy nhiên, Từ Tử Lăng lại cảm nhận được tâm cảnh của Phi Huyên đã hoàn toàn viễn ly thế tục, những ngày đáng nhớ ở Long Tuyền chẳng còn mong trở lại, khiến cho gã không nén được tiếng thở dài, lòng bâng khuâng khó tả.

Tâm cảnh của đôi bên đều có nhiều biến hóa vi diệu.

Ối chà!

Gã đang nghĩ đến đây, đã nghe tiếng của Khấu Trọng vang vang bên tai: “Không thể phủ nhận tiên tử của chúng ta đã nương tay với tiểu đệ, nếu như nàng đem chuyện bảo khố thật bảo khố giả tiết lộ cùng Lý Thế Dân, với thủ đoạn của Lý tiểu tử xưa nay ắt sẽ khiến chúng ta thảm bại nặng nề. Trước mắt chúng ta đành phải lùi một bước, Ba Thục trung lập, chúng ta cũng khoan hãy đụng đến Quan Trung. Mẹ nó, ta và Lý Thế Dân phải đấu một trận ở Lạc Dương để phân hơn kém rồi.”

Từ Tử Lăng cười khổ: “Họa này do ta mà ra!”

Khấu Trọng khoác tay lên vai gã, lắc đầu nói: “Không, ngươi đã cứu ta mới đúng. Sư Phi Huyên không tầm thường như ta và ngươi, hà hà. Nàng ta là tiên tử mà. Trên thực tế, nàng ta đã theo dấu vết mà đoán được trong chuyện bảo khố có phần trá ngụy, chỉ có điều là nhờ vào lời nói của ngươi mà khẳng định suy đoán của mình, lại hiểu ra đạo lý vì sao người đoạt được bảo khố sẽ có thể đoạt được thiên hạ. Việc chúng ta mưu toan giành lấy Ba Thục lại càng khẳng định thêm một bước niềm tin của nàng. Hà, thật may nhờ việc ngươi tiết lộ bí mật, nàng phải nể tình Lăng thiếu gia mà bỏ qua cho ta, không sử dụng bí mật đó để làm tan rã đạo kỳ binh vốn không phải là kỳ binh dùng để công phá Trường An của bọn ta.”

Từ Tử Lăng cảm thấy trong lòng ấm áp, Khấu Trọng phân tích cũng rất hữu lý, nhưng mục đích chính là an ủi gã. Người huynh đệ tốt này đúng là có tấm lòng quảng đại bao dung, không coi trọng được mất; thắng cũng không kiêu, bại cũng không nản.

Gã hỏi Khấu Trọng: “Phi Huyên vừa nói mấy câu đã khiến ta phải đứng ngoài cuộc, ngươi vẫn không trách ta ư?”

Khấu Trọng bật cười: “Ngươi là huynh đệ đã giúp ta qua những ngày gian khổ nhất, lại còn vì thế mà suýt mất mạng khiến Khấu Trọng này cảm kích vô cùng. Đã là huynh đệ một nhà, ta sao lại không hiểu tâm sự của ngươi chứ, cứ thong thả nghỉ ngơi ít lâu đi. Chà! Phi Huyên không phải là kẻ thích dọa suông đâu, nàng ta hẳn có thủ đoạn lợi hại để đối phó với ta. Ta đang rất lo lắng, phải lập tức quay lại Bành Lương để gặp Tống Khuyết, báo cho ông ấy biết tình hình mới nhất, kế hoạch đánh Trường An coi như trôi sông đổ biển. Phiền tiểu Lăng ngươi giải thích giùm với Lôi đại ca và các huynh đệ việc ta không từ mà biệt.”

Từ Tử Lăng than rằng: “Ta cũng đang lo lắm.”

Khấu Trọng hai mắt sáng rực, trầm giọng nói: “Thiên hạ này không một kẻ nào có thể cản trở quyết tâm bình Nam định Bắc của ta. Vừa rồi trên đường đến đây, ta đã suy nghĩ thông suốt. Sư Phi Huyên có lập trường của nàng, ta có niềm tin và lý tưởng của ta. Để thiên hạ này không rơi vào tay Ma môn hay bọn ngoại bang, hy sinh cá nhân có là cái con bà gì. Ta đã hạ quyết tâm, vứt bỏ mọi thứ, toàn tâm toàn ý vì ngày mai hòa bình thống nhất mà chiến đấu đến cùng, càng gian khổ càng có ý nghĩa, càng tỏ rõ ý nghĩa cao cả của sinh mệnh. Sau khi xong việc ở Trường An, ngươi hãy lập tức Bành Lương đến tìm ta, nói không chừng Âm Tiểu Kỷ đã sớm đến đó tìm huynh trưởng của nàng rồi. Thôi, ta đi đây!”

- o O o -

HỒI 694

Hiệp Lộ Tương Phùng

Từ Tử Lăng từ Đông môn vào thành, Giải Huy đã bỏ lệnh giới nghiêm. Con đường lớn dần hồi phục sinh khí, các cửa hàng lục tục mở cửa làm ăn dù trên đường xe ngựa qua lại còn thưa thớt. Cảnh tượng khác hẳn với thành trì vắng ngắt như quỷ thành lúc trước.

Giải Văn Long đã thay đổi quần áo võ sĩ, đang chờ gã ở cửa thành, cảm kích nói: “Ba Thục tránh khỏi cơn khói lửa điêu tàn, là nhờ có Từ huynh giúp đỡ tiểu thư Phi Huyên. Bằng không Thiếu soái mà chấp nhận khiêu chiến, tình thế thật không thể tưởng tượng được.”

Hai người sánh vai một quãng dài. Từ Tử Lăng cười nói: “Giải huynh không tường con người của Khấu Trọng, do đó bị lầm. Nếu không có tiểu đệ, Khấu Trọng cũng đã thà thối binh, chứ không động thủ với Phi Huyên. Không biết tình hình ở Ba Thục như thế nào?”

Giải Văn Long đáp: “Ba Thục trước nay vẫn giữ thế trung lập, cha tiểu đệ ở thành Nam cùng với tứ đại tộc trưởng thương nghị để sự tình giải quyết trong hoà bình. Mọi người đều hiểu chuyện cho nên chỉ cần Thiếu soái gật đầu mối quan hệ lương hảo này sẽ không xuất hiện vấn đề gì đâu.”

Gã lại nói tiếp: “Từ huynh xin đừng gấp, Ngọc Hoa muốn thể hiện chút tình chủ nhà.”

Từ Tử Lăng chú ý thấy Lôi Cửu Chỉ xuất hiện ở phía trước, ra dấu cho gã, bèn xin lỗi: “Tại hạ phải hồi thành hội ngộ với ba vị hảo bằng hữu, sau đó sẽ đi ngay, xin đa tạ tâm ý của Giải huynh! Xin gửi lời hỏi thăm của tại hạ đến tẩu phu nhân!”

Giải Văn Long cũng thấy Lôi Cửu Chỉ, nắm chặt tay Từ Tử Lăng, luyến tiếc không muốn từ biệt, đoạn nói: “Lần sau Từ huynh đến Thành Đô nhất định phải đến thăm để tiểu đệ và Ngọc Hoa được làm hết bổn phận gia chủ.”

Từ Tử Lăng nảy ra hảo cảm với với tính tình sảng khoái của y, nắm tay từ biệt.

o0o

Khấu Trọng men theo dòng sông thật nhanh, bỏ lại sau lưng tất cả những lo âu phiền não, gã không quan tâm lần này Sư Phi Huyên sẽ dùng thủ đoạn gì đối phó với mình, chỉ nghĩ đến những phương diện tốt đẹp.

Thật ra gã và Tống Khuyết đều hiểu rõ, dẫu có Dương Công Bảo Khố mà muốn thu thập Lý Uyên cũng phải trả giá đắt bằng một trường huyết chiến gian nan.

Đúng như Tống Khuyết đã chỉ ra, Dương Kiên làm phản tiền triều để chiếm lấy đế vị, đương nhiên phải đề phòng thủ hạ. Dương Quảng lại càng tệ hại, luôn luôn chĩa mũi dùi đề phòng vào những nơi có khả năng mưu phản, đặc biệt gia cố lực lượng ở Hoàng thành để phản kích khi cần. Kể cả gã lập được cứ điểm vững chắc trong thành, cũng khó chống đỡ được phản công từ Hoàng thành. Một ngày chưa hạ được cấm vệ sở ở Huyền Vũ môn, ngày đó Trường An còn trong tay Lý Uyên.

Trận chiến tối hậu ở Trường An thành hay bại nằm trong tay bọn gã, nhưng thương vong hiển nhiên sẽ trầm trọng phi thường. Lần này gã đối mặt với một Lý Thế Dân không chịu khống chế của Lý Uyên. Đối phương cần dùng gươm giáo phản công, mà khuếch trương thế lực về hai hướng nam bắc, tạo lập Lạc Dương làm trung tâm của đế quốc mới. Dưới tình thế này, thế chủ động lại nằm trong tay Lý Thế Dân, chiến loạn sẽ kéo dài liên miên là điều có thể đoán trước.

Vì vậy, từ góc độ này mà nhìn thì ý đồ lợi dụng Dương Công Bảo Khố bị Sư Phi Huyên phá hỏng cũng không hẳn là một việc không may. Chỉ cần công hạ Lạc Dương, lật đổ Lý Thế Dân, bức Lý Uyên tử thủ Quan Trung, gã có thể dễ dàng thâu tóm quan ngoại, chờ cơ hội chín muồi mới nhập quan thu thập chủ soái vô danh của Quan Trung.

Ý nghĩ này khiến gã nhẹ nhõm trong lòng, không còn cảm giác bức rứt nữa. Hà huống Ba Thục giữ được hoà bình, hai nhà Tống, Giải không cần ra mặt xung đột, Trí Trí tất sẽ vui mừng, ít nhiều cũng thay đổi cách nhìn với hắn.

“Khấu Trọng ta tuyệt đối không thua.”

Gã cười vang, đi nhanh hướng về Lô Xuyên.

o0o

Từ Tử Lăng, Hầu Hi Bạch, Lôi Cửu Chỉ, Âm Hiển Hạc từ Bắc môn rời thành. Bỗng phía sau có tiếng gọi lớn: “Từ huynh.”

Bốn người ngạc nhiên dừng lại.

Từ Tử Lăng cười hỏi: “Nguyên lại là có chuyện gì vậy Trịnh huynh?”

Hà Nam Cuồng Sĩ Trịnh Thạch Như thở hổn hển, dừng lại trước mặt bốn người, vui vẻ nói: “Nếu không phải tin tức của tiểu đệ linh thông, ắt đã mất cơ hội gặp Tử Lăng. Các vị định rời thành? Chúng ta vừa đi vừa bàn được không?”

Từ Tử Lăng giới thiệu Lôi Cửu Chỉ và Âm Hiển Hạc cho Trịnh Thạch Như biết rồi cùng rời thành.

Bọn Lôi Cửu Chỉ ba người tách đi trước, để hai người họ đàm đạo.

Trịnh Thạch Như nói: “Tại hạ vừa gặp Giải thiếu bảo chủ, được y chỉ cho tìm Từ Tử Lăng. Hà! Tống Khuyết vừa xuất binh, tình thế thiên hạ lập tức đã xoay chuyển.”

Từ Tử Lăng gật đầu công nhận: “Nhãn quang của Trịnh huynh thật độc đáo.”

Trịnh Thạch Như khiêm tốn nói: “Tử Lăng là người trong cuộc, lòng thế nào cũng rối loạn, tiểu đệ ở bên ngoài quan sát nên tỉnh hơn. Lại nghe thiếu bảo chủ vừa đạt thành hiệp nghị với huynh, Ba Thục mà giữ vị trí trung lập, các vị cũng sẽ không chạm tới”.

Từ Tử Lăng xác nhận: “Đúng là có việc như thế.”

Trịnh Thạch Như hạ thấp giọng: “Tử lăng có biết Bàn Cổ An Long đã bị Giải Huy trục xuất khỏi Ba Thục, nửa bước cũng không được vào nữa?”

Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “An Long gặp gây ra chuyện gì? Sao Giải Huy lại tuyệt tình với lão như vậy?”

Trịnh Thạch Như đáp: “Nghe Thục Minh nói, An Long cùng với Tây Đột Quyết ám muội cấu kết, làm trung gian bí mật đưa tin cho Lý Nguyên Cát. Chuyện này phạm vào đại kỵ của Giải Huy, vì vậy Võ Lâm Phán Quan đã bí mật triển khai lực lượng, trong một đêm khống chế hết cả trăm xưởng rượu của An Long tại Ba Thục. Lại ra thông điệp tối hậu với những kẻ có quan hệ thân thiết với An Long, buộc họ phải phân chia giới tuyến với hắn. An Long không còn cách phản kích, đành phải lặng lẽ rời khỏi Ba Thục.”

Từ Tử Lăng nhíu mày: “Bí mật như vậy, làm sao lại bại lộ được thế?”

Trịnh Thạch Như nói: “Do có liên quan đến Phục Khiên của Thổ Cốc Hồn, hắn vào thành bái kiến Giải Huy, tức thì đại sự chấn động cả võ lâm Ba Thục được đồn ra.”

Từ Tử Lăng ngẩn người: “Phục Khiên?”

Trịnh Thạch Như gật đầu: “Chính là Phục Khiên, con trai của tù trưởng Thổ Cốc Hồn Phục Doãn, tuỳ tùng đi theo ước hơn năm mươi tên, ngụ tại Ngũ môn khách sạn trên con đường Ngũ môn giao nhau. Hắn đi đâu cũng cặp kè với hai man nữ nhan sắc như hoa như nguyệt, phong tư mê người, hết sức hấp dẫn ánh mắt người khác, trở thành đề bàn tán sôi nổi trong thành mấy ngày nay. Cũng làm giảm đi bầu không khí kiếm tuốt nỏ giương giữa Ba Minh và Độc Tôn bảo.

Lúc này bọn họ đã đi xa khỏi thành, Từ Tử Lăng dừng bước, nói: “Tiểu đệ và Phục Khiên vốn là chỗ giao tình, biết y ở trong thành cũng nên tới chào hỏi. Nói đùa một chút, tiểu đệ và Khấu Trọng cũng tin vào những lời đồn đại, coi bọn y là người của Thống Diệp Hộ. Còn việc Lý Thế Dân và Tây Đột Quyết cấu kết té ra lại là Lý Nguyên Cát.

Lôi Cửu Chỉ đi phía trước ngừng lại, nhìn Từ Tử Lăng.

Trịnh Thạch Như cười nói: “Mấy hôm nay, Thành Đô đầy dẫy những chuyện đơm đặt thị phi, tiểu đệ nghe được cũng chỉ cười xòa. Tử Lăng muốn hàn huyên với Phục Khiên, cũng không cần hồi thành mà cứ đi tiếp, bọn Phục Khiên vừa từ Bắc môn rời thành sáng nay, nghe đâu đích đến là Trường An. Nếu Tử Lăng nhanh chân ắt có thể bắt kịp ở Hán Trung!”

Từ Tử Lăng vui mừng: “Vậy tiểu đệ cáo từ Trịnh huynh ở đây, ngày sau có duyên gặp mặt sẽ ngồi uống rượu tâm tình, hy vọng lúc đó thiên hạ thái bình, lòng người không còn phiền não vì chinh chiến hỗn loạn nữa.”

Trịnh Thạch Như quay về, gã nói với Hầu Hi Bạch: “Bọn ta đi Trường An chuyến này chỉ muốn hỏi rõ Kỷ Thiến, không cần biết kết quả thế nào lập tức ly khai ngay. Hi Bạch quen thuộc tình thế ở Ba Thục, chi bằng đi cùng với Lôi Cửu Chỉ đến lấy quyển sách mà Hàn Trạch Nam đã nói. Sau đó chúng ta hẹn gặp ở Hán Trung, được không?”

Hầu Hi Bạch vui vẻ: “Tiểu đệ cũng có ý này, để tiết kiệm thời gian, bọn ta chia nhau về Lương Đô rồi mới thương nghị làm sao đối phó với Hương gia.”

Lôi Cửu Chỉ nói: “Quyết định vậy đi. Tử Lăng và Hiển Hạc phải cẩn thận, Trường An là nơi hiểm địa, nếu như thấy tình thế không thuận lợi phải lập tức ly khai ngay”.

Bốn người cùng cười ha hả rồi lên đường.

o0o

Khấu Trọng đến Lô Xuyên lúc trời vừa hoàng hôn. Lính thủ thành nhận ra gã bèn tức tốc sai khoái mã truyền tin cho đại tướng Tống Pháp Lượng của Tống phiệt, đồng thời nghênh đón gã vào thành.

Lô Xuyên là thành ấp nổi tiếng của Ba Thục, địa thế kề với Đại Giang, giao thông phát đạt, xe cộ dập dìu, phồn vinh hưng thịnh, bầu không khí khẩn trương của chiến tranh và thay đổi chủ quyền không mảy may ảnh hưởng, hiển nhiên thủ đoạn an dân của Tống Pháp Lượng rất cao minh. Mặt khác, Tống gia quân kỷ nghiêm minh, không sách nhiễu cuộc sống an bình của dân chúng.

Tống Pháp Lượng nghênh tiếp gã ở trước cửa phủ, vào đến đại đường, Khấu Trọng chỉ thị cho Tống Pháp Lượng bảo tả hữu lui hết, chỉ còn lại riêng hai người, mới lên tiếng hỏi: “Pháp Lượng có thể tức tốc điều động tác chiến bao nhiêu chiến thuyền cả thảy?”

Tống Pháp Lượng nghĩ gã sẽ lập tức tấn công Thành Đô, trả lời dứt khoát: “Thủy sư thuyền của thuộc hạ ở Lô Xuyên khoảng hai trăm, cộng cả quân thủy lục là một vạn rưỡi, chỉ cần một ngày có thể lập tức hành quân ra chiến trường, nhưng mà…

Khấu Trọng mỉm cười: “Có phải lão nhân gia đã từng chỉ thị chiến lược vây Thành Đô để lấy Hán Trung?”

Tống Pháp Lượng cung kính: “Thiếu soái minh xét, quả thật như thế, nhưng Phiệt chủ cũng đã nói, mệnh lệnh của Thiếu soái là tuyệt đối, Thiếu soái chỉ cần hạ lệnh, Pháp Lượng tuyệt không do dự.”

Khấu Trọng gượng cười: “Không chỉ ta mất Hán Trung, mà cũng mất luôn Thành Đô vì vậy phải tìm gì đó bù lại, trong lòng mới thư thả được.”

Pháp Lượng ngạc nhiên nói: “Chúng ta chưa động thủ, sao đã biết là sẽ mất Ba Thục?”

Khấu Trọng nói: “Một lời không thể nói hết, ta muốn ngươi trong vòng hai canh giờ rút toàn quân khỏi Lô Xuyên, theo đường sông tiến đến Giang Đô. Chỉ cần chiếm được Bì Lăng đối diện với Giang Đô, Lý Tử Thông tất không chiến mà bại. Sau khi có Giang Đô rồi, muốn đánh Trầm Pháp Hưng cùng Phụ Công Hựu nơi nào trước tùy chúng ta quyết định.

Pháp Lượng gật đầu: “Thiếu soái muốn rút quân khỏi Ba Thục không thành vấn đề, tuy nhiên chúng quân sĩ phải được thông báo rõ về tình hình Ba Thục, ví dụ như quân Đường đang chuẩn bị tiến vào Ba Thục, có thể sẽ chờ để truy kích quân ta. Như thế quân sĩ sẽ sẵn sàng chuẩn bị kế hoạch lui binh”

Khấu Trọng nói giọng vui vẻ: “Ta thật sự tán thưởng thái độ thành thực của Pháp Lượng. Quân Đường sẽ không nhập Thục, trước khi bọn ta và Lý Thế Dân phân thắng bại, Giải Huy sẽ giữ trung lập.”

Tống Pháp Lượng như trút được gánh nặng: “Giải Huy cuối cùng cũng tránh được nguy hiễm, mọi người không mất hòa khí.”

Khấu Trọng nói: “Ta vẫn cho rằng hạ lệnh lui quân khiến ngươi bất mãn, nhưng xem ra Pháp Lượng đối với sự biến chuyển và phát triển của tình thế này có vẻ rất vui!”

Tống Pháp Lượng cười mỉm, lúng túng đáp: “Pháp Lượng nào dám có ý gì bất mãn với Thiếu soái. Trong lòng chúng thuộc hạ, Thiếu soái dụng binh như thần, là thống soái tung hoành thiên hạ vô địch, làm theo lệnh của Thiếu soái, tuyệt nhiên không chịu thiệt bao giờ.”

Khấu Trọng cười nói: “Đừng khen ta, đều là người nhà, có gì mà không thể nói ra? Tại sao phải rút khỏi Ba Thục lại khiến ngươi thoải mái như thế?”

Tống Pháp Lượng cúi đầu than thở: “Đại tiểu thư là người chúng thuộc hạ kính mộ, chỉ vì Phiệt gia ra lệnh, còn ai dám nói nửa lời?”

Khấu Trọng bật cười lớn: “Phiệt gia, cách gọi rất độc đáo. Hà! Ta hiểu rồi!”

Tống Pháp Lượng cung kính: “Tấn công Bì Lăng là việc nhỏ, Thiếu soái có lệnh, Pháp Lượng tuyệt đối không phụ lòng.”

Khấu Trọng nói: “Pháp Lượng trước đây có kinh nghiệm thực tế hành quân chiến đấu chưa?”

Tống Pháp Lượng lộ ra thần sắc khâm phục, chỉ có người lão luyện nơi chiến trường mới biết tỉ mỉ mối liên quan trọng yếu này. Mỉm cười đáp: “Pháp Lượng được Phiệt gia bồi dưỡng, đã có ba năm kinh nghiệm liên tục lãnh quân tác chiến ở biên ải phía Tây, hai năm gần đây phụ trách thao luyện thủy sư và cùng Lâm Sĩ Hồng giao phong, việc trù bị chiến lược ban đầu tấn công đảo Hải Nam là thuộc hạ giúp Tống Trí Đạo nhị gia nghiên cứu, sau đó trình lên Phiệt gia duyệt lại, xin Thiếu soái minh giám.”

Hai mắt Khấu Trọng bắn ra thần quang sắc như dao, nhìn chăm chăm vào Tống Pháp Lượng, thử lòng can đảm của hắn, trầm giọng nói: “Ngươi nắm vững tình hình ở Giang Đô không?”

Tống Pháp Lượng không chút bối rối trước ánh mắt của Khấu Trọng, thần phục nói: “Thiếu soái an tâm, cũng rõ như hiểu biết của Pháp Lượng đối với thủy sư thuyền đội của mình, có thể đếm được thừa thiếu bao nhiều thuyền, trên thuyền bao nhiêu người. Pháp Lượng dám lãnh quân trạng lệnh.”

Khấu Trọng đưa ngón cái lên, cười nói: “Ta tin ngươi, lập tức thi hành đi. Ta muốn một chiếc thuyền đưa ta đến Lương Đô gặp Phiệt gia.”

Tống Pháp Lượng đứng dậy hành lễ, tư thế đi ra như long hành hổ bộ.

Khấu Trọng nhìn phía sau của hắn, trong lòng cảm xúc lẫn lộn.

Chưa đến một khắc, gã ta cảm thấy mình đang nắm trong tay lực lượng lớn mạnh, vài câu nói có thể quyết định vận mệnh của một tòa thành, ngay cả thành Giang Đô phồn vinh như thế cũng không tránh khỏi. Nghĩ lại ngày trước chỉ là tên móc túi ở Dương Châu, nào dám nghĩ đến ngày hôm nay? Tống gia quân quả thật là một lực lượng tinh nhuệ.

o0o

Đi suốt đêm không nghỉ trong hai ngày liền, Từ Tử Lăng và Âm Hiển Hạc cũng đến được thành Hán Trung. Tòa thành này có vị trí quan trọng, là cánh cửa thông trực tiếp với Quan Trung, do em trai Giải Huy là Giải Thịnh trấn thủ. Cũng vì vị trí địa lý thuận tiện, là con đường thương gia và lữ hành đều phải đi qua nên Hán Trunh hưng vượng không kém Thành Đô. Đang mùa tuyết rơi, nơi nơi tuyết phủ trắng xóa, không khí trầm lắng.

Sau khi vào thành, Từ Tử Lăng trước tiên kiếm một lữ quán, lại tìm cách dò thám tin tức của Phục Khiên, Âm Hiển Hạc nói: “Ta muốn uống hai ly rượu.”

Từ Tử Lăng nhớ lại kỷ lục bất lương của y, thất kinh can: “Âm huynh bạo bệnh mới khỏi, uống rượu sẽ hại thân, tránh được thì nên tránh.”

Âm Hiển Hạc kiên trì nói: “Ta đáp ứng huynh là chỉ uống hai ly thôi, yên tâm đi sẽ không xảy ra chuyện gì đâu. Vì Tiểu Kỷ, ta biết tự kèm chế mà.”

Từ Tử Lăng thấy mé bên trái có một tửu quán liền nói: “Quán này được không?”

Âm Hiển Hạc dừng lại, tỏ vẻ xin lỗi nói: “Từ huynh chớ nên lấy làm lạ, ta muốn uống rượu một mình. Đã bao lâu nay ta có thói quen độc lai độc vãng, muốn một mình nhớ lại sự tình.”

Từ Tử Lăng cũng hết cách với y, tuy trong tâm gã lo lắng không có ai giám sát thì y sẽ mặc tình uống say sưa, nhưng cũng không có cách cản, chỉ nói: “Huynh đi uống rượu, tiểu đệ đi tìm khách sạn, chốc nữa quay lại tìm huynh. Âm huynh xin ở lại quán rượu chờ, nhớ là đừng uống quá hai ly.”

Âm Hiển Hạc gật đầu đáp ứng rồi tự mình bỏ đi.

Từ Tử Lăng ngấm ngầm thở dài, minh bạch rằng Âm Hiển Hạc do sắp tới Trường An, sinh ra lo lắng quá độ chuyến đi này sẽ công cốc. Y vì chuyện lo tìm em gái đã từng gặp vô số thất bại, tâm tình này có thể lý giải được.

Phía trước bên tay phải xuất hiện một lữ quán khá lớn, trên tấm chiêu bài vàng viết “Cao Bằng khách sạn”, phía dưới là bốn ngọn đèn sáng rực. Đổi lại lúc bình thường, gã chắc sẽ không chọn loại quán ở ngay trên đường lớn, tập trung đủ loại người như vậy, có điều gã phải vội về tửu quán để “trông chừng” Âm Hiển Hạc nên không nghĩ ngợi gì, đặt chân ngay vào tiểu quảng trường hướng về cửa lớn.

Còn chưa kịp đặt chân vào trong, đã có tiếng hỏa kế chạy ra treo tấm bảng “đầy khách” bên cạnh cửa.

Từ Tử Lăng cười khổ nói: “Hán Trung thịnh vượng đến vậy sao?”

Tiểu nhị thấy gã ngoại hình xuất chúng, nói hai ba câu lấy lòng: “Quan Trung đang có chiến sự, Ba Thục thì man di làm loạn, sinh ý bấp bênh, hiện giờ có người đã bao hết khách sạn, khách quan sao lại không đi thêm hai bước, ở Hán Trung này, Vọng Thái lữ quán nằm bên đường cùng với khách sạn của bọn tiểu nhân cũng tương đương nhau.”

Từ Tử Lăng động tâm nói: “Bao hết qúy điếm có phải là khách nhân từ Thổ Cốc Hồn tới không?”

Tiểu nhị nhướng mày hỏi: “Thổ Cốc Hồn là cái gì?”

Từ Tử Lăng giải thích: “Thổ Cốc Hồn là dân tộc phía tây Tái ngoại, khách nhân của lão huynh …?”

Tiểu nhị tiếp lời: “Bọn họ là bằng hữu của công tử sao? Công tử nói đúng đó, họ tuy nói tiếng Hán để giả làm người Hán nhưng những người chuyên làm kinh doanh khách sạn như bọn tiểu nhân cặp mắt sắc nhất, mấy kiểu nói năng đó làm sao lừa được. Lúc đầu còn tưởng bọn chúng đến từ Bắc cương, ai ngờ lại là người của cái gì Hồn ở phía Tây, tiểu nhân lập tức đi báo tin hộ công tử, chẳng hay công tử cao tính đại danh là gì?”

Từ Tử Lăng thầm nhủ, nếu nói thật với gã mình chính là Từ Tử Lăng, đảm bảo gã ta sợ xanh mặt, thậm chí còn tưởng rằng Thiếu Soái quân nhập thành. Bèn khẽ mỉm cười: “Ta còn chút chuyện, giải quyết xong sẽ lại làm phiền lão huynh lần nữa”

Vừa lúc chuẩn bị đi, chợt nghe phía sau có tiếng bước chân truyền đến.

Gã quay đầu lại, cả hai giáp mặt nhau, cùng kinh ngạc.

Một mỹ nữ vận loại Hồ phục vẫn lưu hành ở phía bắc Trung thổ, đầu đội một chiếc mũ sặc sỡ của Thổ Cốc Hồn, mình khoác một tấm trường bào màu xanh lục, mặc váy dài màu trắng sữa, áo dài tay màu vàng nhạt, chân mang hài đen, được bốn tên võ sĩ và Đoạn Trử vây quanh, nghi thái xinh đẹp muôn phần đi tới. Khuôn mặt đang cười thoáng chốc đã bình tĩnh lại, cặp mắt mỹ miều ánh lên tia xảo quyệt, làn môi thơm nhẹ nhàng cất tiếng: “Không ngờ được gặp Từ huynh ở đây, đúng là xảo hợp!”

Từ Tử Lăng có nghĩ cách nào cũng quyết không thể nghĩ rằng lại oan gia lộ hẹp, ở đây lại gặp phải Mỹ Diễm Phu Nhân thân phận mập mờ thần bí này, trong đầu chợt nảy ra một chủ ý, cười đáp: “Phu nhân đến Trung nguyên cũng nên đến chào hỏi tại hạ, bằng không tại hạ sẽ phí biết bao nhiêu công sức để truy tìm tông tích của phu nhân.”

Vị phu nhân xinh đẹp chợt biến sắc nhìn Từ Tử Lăng trân trân, không ngờ lại có cơ hội gặp mặt thế này, phảng phất một mùi hương theo gió truyền đến, cười lạnh nói: “Hóa ra Từ huynh cũng giống những nam nhân khác đều thèm khát như mèo thấy mỡ, cứ thấy nữ nhân liền không tha.”

Đoạn Trử mặt mày sớm đã tái mét, run run rẩy rẩy cùng Mỹ Diễm Phu Nhân đi qua bên mình Từ Tử Lăng, bốn tên võ sĩ còn lại mặt lộ địch ý, tay đặt lên cán đao.

Tiểu nhị bây giờ đã hiểu ra mối quan hệ của Từ Tử Lăng và bọn người kia là như thế nào, gã rùng mình ớn lạnh, lẹ làng trốn ngay vào trong khách sạn.

Từ Tử Lăng điềm đạm nói: “Đứng lại cho ta.”

Mỹ Diễm Phu Nhân sắp bước qua cửa liền dừng, thư thả quay người lại, yêu kiều cười nói: “Người ta chỉ nói đùa với công tử thôi! Từ công tử không cần quá nghiêm túc, ai lại không biết công tử là bậc chính nhân quân tử đứng đắn vô cùng.”

Từ Tử Lăng hai mắt sáng quắc, bình tĩnh nói: “Phu nhân nếu không giao Ngũ Sắc thạch ra ngay, ta bảo đảm bà sẽ hối hận.”

- o O o -

Hồi 695

Biến Thiên Chi Chiến

  Khấu Trọng dừng thuyền trên bến ngoài thành Lương Đô rồi lên bờ, ngồi trên lưng chiến mã, được hai viên đại tướng một văn một võ là Hư Hành Chi, Tuyên Vĩnh bồi tiếp lặng lẽ vào thành.

Hỏi đến tình hình sau khi chia tay, Tuyên Vĩnh đáp: “Ba ngày nay Trần Lưu tuyết lúc rơi lúc không, đường thông Trần Lưu và Khai Phong đã bị gió tuyết phong tỏa, chỉ có thủy lộ là vẫn có thể lưu thông, bọn ta và địch nhân đều bế thành cố thủ, không có cách gì tấn công đối phương.”

Hư Hành Chi nói: “Đại quân chủ lực của Phiệt chủ đã được điều tới Đông Hải và Chung Ly, tập hợp thủy sư ở hai thành, chuẩn bị nam hạ quét sạch Lý Tử Thông và Trầm Pháp Hưng, chiếu theo tình hình này, bọn ta tất sẽ thắng.”

Khấu Trọng hỏi: “Đại kế phục cừu của Trường Lâm có tiến triển gì không?”

Tuyên Vĩnh trả lời: “Nhất thiết theo chỉ thị của Thiếu soái mà tiến hành, Trường Lâm đã đến Giang Nam, gặp Trầm Pháp Hưng để thi hành kế ly gián và phân hóa địch nhân, thủy sư quân ta đang tập trung ở Cao Bưu, chỉ đợi Thiếu soái ra lệnh một tiếng, lập tức khởi sự nam hạ tấn công.”

Khấu Trọng gật đầu nói: “Chúng ta nhất định phải lợi dụng thời gian ba tháng này.”

Hư Hành Chi muốn nói lại ngập ngừng, cuối cùng cũng thôi, được Phi Vân Kỵ vây quanh, ba người giục ngựa vào thành trong tiếng reo hò của chiến sĩ.

Khấu Trọng đương nhiên biết Hư Hành Chi muốn nói gì lại dừng không nói, thở dài: “Sự tình đã có thay đổi, ta vốn không đi Trường An, đợi ta gặp Phiệt chủ rồi sẽ giải thích cho ngươi sau.”

Tuyên Vĩnh đến gần nhỏ giọng: “Sư Phi Huyên của Từ Hàng Tịnh Trai mới đến gặp Phiệt chủ hôm nay, nàng ta nói gì thì không ai biết, có điều sau khi nàng ta bỏ đi thì Phiệt chủ lưu lại luôn trong nội đường, chỉ triệu kiến Tống Lỗ, sự tình tựa hồ có điểm không thoả đáng.”

Khấu Trọng lập tức chấn động, biến sắc nói: “Phi Huyên quả nhiên đến gặp Phiệt chủ.”

Tuyên Vĩnh và Hư Hành Chi không tưởng được một người thấy Thái Sơn sụp trước mặt cũng không biến sắc như Khấu Trọng lại có phản ứng như vậy, đồng thời ngạc nhiên, liếc mắt nhìn nhau.

Trông lòng Khấu Trọng dấy lên ngọn sóng nặng ngàn cân.

Sư Phi Huyên cuối cùng cũng đã xuất chiêu! Lại còn nhắm vào Tống Khuyết, chỉ hận dù gã đã biết thế nhưng cũng không thể biết được Sư Phi Huyên định làm gì. Xét theo đạo lý, dù Sư Phi Huyên lưỡi có nở hoa sen, thậm chí còn đưa ra cả đại nghĩa dân tộc gì gì đó, vẫn không có cách nào thuyết phục được con người trí sâu như biển, ngoài thanh đao ra không thiết đến gì khác như Tống Khuyết.

Còn đang suy nghĩ thì nhân mã đã vào Thiếu Soái phủ, ba người tung mình xuống ngựa, đi về đại môn của sảnh đường.

Khấu Trọng trầm giọng nói: “Ta phải lập tức gặp Phiệt chủ!”

Đang lúc lên bậc thềm, một nhân ảnh từ trong đại đường vọt ra, ngã qụy trên bậc cấp, nước mắt chan hòa khóc rống lên: “Thiếu soái xin làm chủ cho Huyền Thứ.”

Khấu Trọng thấy Vương Huyền Thứ hoan nghênh mình bằng cách này lập tức cả kinh, vội vàng đỡ y dậy hỏi: “Khoan khóc đã, đã xảy ra chuyện gì? Lẽ nào tiểu muội….”

Tuyên Vĩnh ghé sát tai gã, dùng phép tụ âm thành tuyến nói: “Tiểu muội vô sự, nhưng về đến ngoại thành thì biến mất tiêu. Ôi! Sáng nay mới có tin tức, cả nhà Vương Thế Sung lớn nhỏ trên trăm mạng giữa đường đến Trường An đều đã ngộ nạn, hai trăm binh sĩ Đường quân hộ tống thương vong trầm trọng. Việc này chấn động Trường An, Lý Uyên nổi lôi đình hạ lệnh tra xét triệt để.”

Khấu Trọng kinh hoàng: “Kẻ nào gây nên chuyện này?”

Hư Hành Chi bên kia thấp giọng đáp: “Thuộc hạ nghe được một tin rất đáng tin cậy, ba chiếc thuyền áp tải Vuơng Thế Sung khi nhập quan bị đột kích, trước tiên là nửa đêm bị địch nhân dùng hoả tiễn đốt thuyền, sau đó bị đồ sát, sáng hôm sau thi thể nổi đầy mặt sông.”

Khấu Trọng nổi giận: “Chuyện này nhất định do Dương Hư Ngạn chỉ thị, Dương Văn Can hạ thủ. Huyền Thứ hãy hóa bi phẫn thành sức mạnh, Khấu Trọng ta thề sẽ đòi lại công đạo cho đệ.”

Tuyên Vĩnh sai Phi Vân vệ đỡ Vương Huyền Thứ, Khấu Trọng tiến vào trong đại đường, đứng lại hỏi: “Việc treo giải thưởng tìm kiếm em gái của Âm Hiển Hạc tiến triển tới đâu rồi?”

Hư Hành Chi nói: “Chúng thuộc hạ đã theo lời Thiếu soái phân phó, dán cáo thị tại tất cả các thành trì của chúng ta, có điều đến giờ này vẫn chưa có tin tức khả quan nào.”

Tuyên Vĩnh cười khổ: “Tin tức giả thì lại đến không ngừng, ngày nào cũng có người đến lãnh thưởng, đều là không thể kiểm chứng.”

Khấu Trọng nhíu mày: “Đúng là vô lý, ít nhất bây giờ cũng phải có nữ hài nào đó cùng trốn khỏi Giang Đô với Âm Tiểu Kỷ xuất hiện mới đúng.”

Hư Hành Chi nói: “Thành địa của chúng ta cũng không nhiều, đợi tin tức truyền bá các nơi, hoặc giả sẽ có đầu mối.”

“Đại ca!”

Tiếng chim đập cánh vang lên, Vô Danh lướt qua không gian đại đường, hạ xuống tay Khấu Trọng, một người một ưng quyến luyến không rời.

Tiểu Hạc Nhi thần tình rạng rỡ như một trận gió lướt tới trước mặt gã, vui mừng nói: “Chẳng phải đại ca sẽ đi vắng một khoảng thời gian sao? Gặp đại ca Tiểu Hạc Nhi mừng lắm.”

Khấu Trọng hân hoan: “Gặp Tiểu Hạc Nhi muội,đại ca còn mừng hơn.” Lại tỏ vẻ kinh ngạc nói: “Tiểu muội không biết chuyện của Huyền Thứ sao?”

Tiểu Hạc Nhi ra vẻ không hiểu: “Có chuyện gì?”

Tuyên Vĩnh cùng Hư Hành Chi ở bên cạnh nháy mắt với Khấu Trọng.

Tiểu Hạc Nhi biến sắc: “Y có chuyện gì? Úi! Chẳng trách hôm nay y buồn bực không vui, kêu y đi chơi thì lúc nào cũng nói không rảnh, mau cho ta biết chuyện gì đã xảy ra!”

Khấu Trọng lập tức minh bạch, Vương Huyền Thứ nguyên không muốn Tiểu Hạc Nhi lo lắng cho y nên đã giấu chuyện thảm biến. Gã vội vàng đánh trống lảng: “Đã treo giải thưởng thật lớn, chuyện này không phải gây chấn động hay sao?”

Tiểu Hạc Nhi lấy làm lạ hỏi: “Treo giải thưởng thật lớn?”

Khấu Trọng ngơ ngác: “Giải thưởng dán đầy hang cùng ngõ hẻm, Tiểu Hạc Nhi muội sao lại không biết?”

Tiểu Hạc Nhi cười, đỏ mặt nói: “Người ta vốn không biết chữ mà! Làm sao biết được mấy cái chữ ở trên tường là thứ quỷ quái gì?” Xong quay lại nói: “Đợi đến lần sau nghe đại ca nói, muội đi hỏi Thứ ca!” Lại như một cơn gió chạy mất.

Khấu Trọng than thở: “Vấn đề có khả năng là ở đây, người biết chữ không nhiều, chỉ có cách truyền tin tức bằng miệng đi thật rộng rãi, bọn ta có được tin tức chính xác về Âm Tiểu Kỷ thôi.”, gã thở ra một hơi rồi nói: “Đợi ta gặp Phiệt chủ rồi nói tiếp.”

o0o

Mỹ Diễm Phu Nhân lộ ra nụ cười ngọt ngào sáng lạn, hai tay chắp ra sau, làm cho gò ngực càng nhô lên cao, như sương khói đến gần như chạm vào Từ Tử Lăng, ngân nga cười nói: “Ngũ Sắc thạch không có trên người nô gia, cũng không mang đến Trung nguyên, Từ công tử nếu không tin có thể triệt để khám xét trên người, nô gia quyết không kháng cự!”

Từ Tử Lăng chẳng chút rung động nào trước phong thái mê hoặc của nàng ta, hai mắt thần quang lấp lánh, mỉm cười: “Phu nhân phải biết Từ Tử Lăng ta xuất thân từ đâu, nói tới mấy chuyện hạ lưu, ta và Khấu Trọng đều là tổ sư gia.”

Mỹ Diễm Phu Nhân khẽ cau mày “ái chà” một tiếng rồi nói: “Ai muốn cùng Từ công tử chơi bời, người ta nói đích thị sự thật, bảo nô gia nói thế nào để Từ đại hiệp tin đây?

Từ Tử Lăng nhạt nhẽo thốt: “Ta trước tiên nên phế bỏ đôi mắt toàn nói chuyện giả dối này!” Gã nhanh nhẹn vung tay, hai ngón tay cùng chĩa ra, nhằm hai mắt nàng ta đâm tới.

Mỹ Diễm Phu Nhân hoa dung thất sắc, phi thân về phía sau. Bốn tên vệ sĩ vội vã rút kiếm, nhằm Từ Tử Lăng đâm tới.

o0o

Tống Khuyết ngồi trong một góc nội đường, cây Thiên Đao danh chấn thiên hạ đặt trên ghế, thấy Khấu Trọng xuất hiện trước mắt cũng không lấy gì làm kinh ngạc.

Đến lúc gã ngồi xuống ghế, Tống Khuyết nhẹ nhàng nói: “Thiếu soái trở về thật đúng lúc, ta có chuyện cần nói với ngươi.”

Khấu Trọng cười khổ nói: “Chắc Phiệt chủ đã biết chuyện ta mất đi Ba Thục chứ?”

Tống Khuyết vẫn như không có chuyện gì nói: “Thiên hạ làm gì có chuyện không thể thay đổi, được được mất mất là sự thường, ngươi bất tất phải để trong lòng, quan trọng nhất vẫn là đạt được chiến thắng cuối cùng.”

Khấu Trọng sửng sốt: “Phiệt chủ không phải đã bị Sư Phi Huyên thuyết phục chứ?”

Tống Khuyết bật dậy, rảo bước đến giữa sảnh đường, ngẩng đầu cười nói: “Tống Khuyết ta đã quyết định chuyện gì, ai có thể làm ta đổi ý? Nhất thống thiên hạ tất phải làm, Khấu Thiếu soái ngươi cần phải có lòng kiên trì, chớ để ta thất vọng.

Khấu Trọng rợn tóc gáy nói: “Phiệt chủ thần thái khác thường, Sư Phi Huyên rốt cục đã nói gì?”

Tống Khuyết chưa vội trả lời, ngẩng nhìn lên xà nhà rồi lắc đầu nói: “Chưa phải lúc để nói.”

Khấu Trọng nhảy bật dậy, rảo bước đến sau lưng Tống Khuyết hỏi: “Tại sao lại chưa phải lúc?”

Tống Khuyết nói như cho chính mình nghe: “Nếu chuyện này xảy ra trước khi ta rời Lĩnh Nam một khắc thì thật là mơ còn chẳng được, nhưng ngay thời khắc có thể trông thấy sự thống nhất này, thật khiến ta tiến thoái lưỡng nan. Ninh Đạo Kỳ! Ngươi thật sự biết chọn thời điểm.”

Khấu Trọng thất thanh: “Ninh Đạo Kỳ?”

Tống Khuyết xoay mình như một cơn gió lốc, hai mắt toát ra khí thế nhiếp chúng chưa từng thấy, trầm giọng nói: “Sư Phi Huyên tự thân đến, thay mặt Ninh Đạo Kỳ ước chiến với Tống mỗ, ngươi nói xem Ninh Đạo Kỳ có phải đã chọn đúng thời điểm không, ngay lúc ta không muốn động thủ với lão ta nhất, lại định cùng Tống Khuyết ta tiến hành cuộc quyết chiến sanh sử mà ta đã khổ công đợi suốt bốn mươi năm nay.”

Sắc mặt Khấu Trọng tái mét, đã hiểu ra mọi việc.

Đây chính là cách Sư Phi Huyên đối phó với gã, gã thật không tưởng nổi nàng ta lại dùng chiêu đó, nên mới lộ ra thần sắc ủ rũ, bởi trận quyết chiến giữa hai nhân vật tối cao của Trung thổ này, không ai có thể dự đoán kết quả. Nhưng Sư Phi Huyên vì muốn ngăn chặn gã giành được thắng lợi cuối cùng, đã giở ra thủ đoạn ác độc này.

Trong lòng gã dâng lên ngọn lửa giận không thể đè nén.

Ánh mắt Tống Khuyết đang lăng lệ chuyển thành ôn nhu hòa ái, nhếch miệng cười nói: “Thiếu soái ngàn vạn lần không nên tức giận, chiến tranh thực sự là như vậy, mưu kế nào cũng phải giở ra, bất kể thủ đoạn đả kích đối thủ, để đạt thắng lợi cuối cùng thì không thể bỏ qua bất kỳ khả năng dẫn đến chiến thắng nào. Ta bây giờ lập tức lên đường nghênh chiến Ninh Đạo Kỳ, xem xem “Tản Thủ Bát Phốc” có thật sự danh bất hư truyền không. Nếu ta thắng, dĩ nhiên là mọi thứ y kế tiếp tục tiến hành. Nhược bằng ta có bất trắc gì, Thiếu soái phải kiên trì cho đến khi thống nhất thiên hạ. Ngoại trừ ngươi ra, Lỗ thúc của ngươi là người duy nhất biết chuyện ta cùng Ninh Đạo Kỳ quyết chiến.”

Khấu Trọng kích động thốt: “Để tiểu tử đi cùng Phiệt chủ.”

Tống Khuyết cười ha hả: “Ngươi không có lòng tin rằng ta có năng lực đối đầu với Ninh Đạo Kỳ sao? Nhưng đã nói thì phải nói luôn, ngươi bình tâm chờ ta ba ngày ở đây, nếu như không thấy ta trở lại, trọng trách thống nhất thiên hạ sẽ đặt trên vai ngươi đó, hiểu không?

Tống Khuyết cười thêm một tràng dài đầy thống khoái lẫn hoan hỷ, đến bên ghế cầm lấy Thiên Đao, thận trọng cài lên sau lưng, bật cười nói: “Ngoài thanh đao này, ta không còn vật nào nữa. May mà Thiếu soái kịp trở lại, khiến ta có thể rũ bỏ mọi lo âu, Ninh Đạo Kỳ có thể khiến ta động tâm chuyển thần, hy vọng y không làm Tống Khuyết ta thất vọng.

Nói đoạn ung dung đi mất.

- o O o -

HỒI 696

Tất thắng tín tâm

  Võ sĩ chặn đường Từ Tử Lăng kẻ ngã đông người gục tây, không ai có thể cản trở gã, kỳ thực thủ hạ của Mỹ Diễm phu nhân đâu phải tệ hại như vậy, chỉ là vì nhất thời không rõ kỳ công dị pháp và hư thực của gã, bị gã tá lực đả lực, không kịp trở tay.

Phàm kẻ bị Từ Tử Lăng đánh trúng huyệt đạo liền bị phong tỏa, không có cách nào bò dậy nổi. Gã từ cửa lớn rượt đuổi Mỹ Diễm phu nhân, thẳng vào đại được của khách sạn, đằng sau gã năm tên thủ hạ của Mỹ Diễm phu nhân bao gồm cả Đoạn Tự Tại nằm dài dưới đất, có thể lấy thân thể chúng đánh dấu lộ tuyến Từ Tử Lăng đi qua.

Năm võ sĩ khác đang chuyện trò ở đại đường, thấy chủ nhân bị người truy sát, kinh hãi vội vàng rút binh khí ùa ra.

Mỹ Diễm phu nhân hoa dung thất sắc, la lớn: “Chặn gã lại!”

Chỉ một câu nói đó đã đủ cho Từ Tử Lăng nhìn xuyên tâm tính của Mỹ Diễm phu nhân. Nếu ả là kẻ chịu cùng sống chết vinh nhục với thủ hạ, giờ phút này bất kể sợ sệt Từ Tử Lăng đến mức nào cũng sẽ đổi thoái thành tiến, phối hợp với thủ hạ phản kích Từ Tử Lăng, đâu phải một lòng một dạ chỉ nghĩ tới đào tẩu.

Từ Tử Lăng hừ lạnh một tiếng, hữu thủ tung hư trảo tới trước, liền sinh ra sức hút mãnh liệt, khiến cho thoái thế của Mỹ Diễm phu nhân giảm chậm loại, tiếp đó gã lại tăng tốc, truy sát theo Mỹ Diễm phu nhân, chưởng hóa thành chỉ, vẫn nhắm ngay đôi mắt đẹp của ả điểm tới.

Khí kình hùng hậu sinh ra từ lưỡng chỉ của gã khiến cho đôi mắt của Mỹ Diễm phu nhân đau điếng như bị đao cắt châm ghim, hoa dung thất sắc bất lực đưa song thủ ảo hóa ra trùng trùng bóng chưởng, đón đỡ song chiêu tựa như tàn độc vùi hoa của Từ Tử Lăng.

Ngoại bào của Từ Tử Lăng đồng thời phình lên, lưỡng đao tam kiếm vù vù ùa lên mình gã đều bị hất văng ra, vượt ngoài ý liệu của năm võ sĩ liều mình công kích gã, gã xoay mình vùn vụt, lưỡng thủ như biến thành Thiên thủ Quan Âm, năm võ sĩ lập tức lăn lông lốc như lá rụng bị cuồng phong quét đi, ngã bệch xuống đất.

Từ Tử Lăng lại một lần nữa đối diện Mỹ Diễm phu nhân, thần tốc như ánh chớp phát ra sau mà tới trước, đá về phía bụng dưới của ả, căn bản không lý gì tới chiêu số hung hãn của ả.

Mỹ Diễm phu nhân thất kinh, đâu nghĩ gì tới đả thương địch nhân, chỉ cầu sao có thể bảo vệ lấy mình, gắng gượng thu hồi ngọc thủ, tạt ngang tránh né.

Một cước Từ Tử Lăng tung ra dùng bản lĩnh hoán khí giữa đường thu hồi, khiến cho đối phương hoàn toàn không ngờ được, nào thể kịp thời biến chiêu ứng phó, Từ Tử Lăng như bóng theo hình, cũng tạt ngang người với ả, hữu thủ vụt bấu ra, lưỡng chỉ vẫn nhắm điểm ngay đôi mắt đẹp của ả, vẫn giữ tư thế hai chiêu cũ không ngừng nghỉ.

Mỹ Diễm phu nhân mặt mày không còn một hột máu, vẫn chưa chịu thua, lưỡng thủ thi triển kỳ chiêu, ngăn đỡ lưỡng chỉ có thể đoạt lấy hồn phách của ả.

“Bộp! Bộp!”

Song thủ của Mỹ Diễm phu nhân trước sau vỗ lên cánh tay phải của Từ Tử Lăng, lại như đập vào đá tảng, không những không thể lay động chút xíu nào, nói gì tới gây tổn thương, hơn nữa không thể giảm chậm tốc độ xuất thủ của Từ Tử Lăng.

“Á!”

Động tác ngưng bặt.

Bàn tay của Từ Tử Lăng cuối cùng đã bóp lấy cái cổ trắng muốt mê hồn của Mỹ Diễm phu nhân, túa ra chân khí, trong một sát na phong bế mấy đại huyệt trên người Mỹ Diễm phu nhân, khiến cho mỹ nữ kia hai tay mềm nhũn, thân thể mất hết kình lực, hoàn toàn lọt vào tay gã.

Mỹ Diễm phu nhân song mục bắn ra thần sắc hãi sợ.

Từ Tử Lăng thủy chung không một chút biểu tình trừng trừng nhìn ả, điềm đạm thốt: “Bọn ta đã đùa vui lắm rồi, phu nhân nếu không lập tức giao Ngũ Sắc thạch ra, ta sẽ phế đi đôi mắt to tròn vừa mỹ lệ lại biết gạt người của ngươi. Nếu ta không lầm, phu nhân chạy đến Trung thổ là vì Phục Nan Đà bị giết, không còn ai có thể bảo vệ ngươi, cho nên ngươi chỉ còn nước chạy xa đại thảo nguyên để giữ Ngũ Sắc thạch, có đúng không?”

Mỹ Diễm phu nhân song mục vẫn bắn ra thần sắc oán độc, cái cổ trắng muốt không ngừng run rẩy dưới bàn tay của Từ Tử Lăng, hổn hển thốt: “Ngươi ác lắm!”

Từ Tử Lăng biết đây là thời khắc then chốt, bề ngoài không để lộ ý tưởng thật sự trong lòng, lãnh đạm không một chút xíu biểu tình: “Đây là cơ hội cuối cùng cho ngươi, Từ Tử Lăng ta hễ nói là làm, chưa từng làm sai. Vì để lấy về Ngũ Sắc thạch, ta có thể giết sạch các ngươi, bất quá tốn thêm chút thời gian lục lọi túi hành lý của các ngươi, phu nhân thấy thế nào?”

Mỹ Diễm phu nhân lại run người, ủ rũ như con gà trúng gió: “Ngươi thắng rồi!”

o0o

Tuyết rơi mù mịt.

Khấu Trọng toàn lực phi nhanh giữa bình nguyên tuyết, hoa tuyết như những nắm đấm lã tã đập vào mặt, chảy thành nước hàn băng giá buốt, rỉ xuống cổ gã, nhưng lòng gã lại là một ngọn lửa đỏ.

Bất kể ở bất cứ lập trường nào, bất kỳ góc độ nào, gã tuyệt không thể bỏ qua trận chiến thiên địa phải kinh quỷ thần phải khóc giữa Tống Khuyết và Ninh Đạo Kỳ.

Gã không lo sự bỏ đi đột ngột của mình sẽ làm cho Thiếu Soái quân quần long vô thủ, bởi đã có Tống Lỗ biết được nội tình đã liệu lý mọi việc cho gã và trấn an bọn Hư Hành Chi.

Bóng dáng hùng vĩ của Tống Khuyết xuất hiện xa xa đằng trước một cách mơ hồ giữa gió tuyết, càng tiếp cận càng hiển hiện rõ rệt.

Khấu Trọng sinh ra cảm giác kỳ dị như lọt vào mộng cảnh, hoa tuyết mù trời càng làm cảnh tượng gia tăng ý vị như ảo như thật; có lẽ đời người thật ra không ngoài một giấc mộng dài, mà tuyệt đại bộ phận thời gian gã đều mê đắm trong mộng cảnh, chỉ có ở những giờ phút đặc biệt, nhờ vào tình tự dẫn dắt mới tỉnh ngộ một sát na, nhưng gã cũng hiểu rõ bất cứ thời khắc nào sẽ lại hãm mình trong mộng cảnh thanh tỉnh đó.

Gã thật sự hy vọng mọi thứ trước mắt chỉ là một giấc mộng.

Tống Khuyết và Ninh Đạo Kỳ đều là người gã tôn kính hâm mộ, bọn họ lại phải đi tới quyết chiến kẻ sinh người tử, nước cờ này của Sư Phi Huyên thật quá nhẫn tâm.

Lướt tới bên cạnh Tống Khuyết, siêu nhân vật được tôn xưng là Thiên hạ đệ nhất đao không chút ngạc nhiên nghiêng đầu nhìn gã, cước bộ chậm lại, thong dong mỉm cười: “Thiếu soái muốn tiễn ta một đoạn đường hay là muốn bàng quan chứng kiến trận quyết chiến?”

Khấu Trọng thốt: “Tiểu tử mong Phiệt chủ cho phép tiểu tử ra quyết chiến với Ninh Đạo Kỳ thay Phiệt chủ.”

Tống Khuyết cười khà khà: “Ta lại cảm thấy Thiêu Soái lòng bất an, đó không phải là biểu hiện không có lòng tin sao! Một khi không có lòng tin, ngươi đã thua trận này từ sớm rồi. Chuyến này Ninh Đạo Kỳ không phải chỉ là đùa chơi với ngươi, mà là sẽ lợi dụng kẽ hở không đủ lòng tin của ngươi, dùng đủ mọi cách dồn ngươi vào tử địa. Sau khi Thiếu soái quy thiên Ninh Đạo Kỳ vẫn không bỏ qua đi khiêu chiến với ta, ngươi thay ta xuất chiến như vậy chẳng khác nào làm chuyện vô ích, lại có thể khiến cho Thiếu Soái quân sụp đổ tan tác.”

Khấu Trọng ngạc nhiên: “Phiệt chủ có lòng tin tất thắng?”

Tống Khuyết điềm đạm đáp: “Luận về công lực tu dưỡng, bọn ta cho dù có không ngang hàng thì cũng chỉ suýt soát không cách biệt mấy. Nhưng trận chiến này đâu phải là cân đo so võ, mà là quyết chiến sinh tử, về phương diện này Ninh Đạo Kỳ khiếm khuyết kinh nghiệm thực chiến trên chiến trường của Tống mỗ, cho nên trận này Ninh Đạo Kỳ bại chắc, Tống Khuyết có lòng tin thập phần.”

Khấu Trọng qua giọng điệu của y khẳng định từng chữ phát ra từ chân tâm của y, tuyệt không phải là lời nói qua loa để trấn an mình: “Nhưng Phiệt chủ vừa nãy khi ngồi một mình trong nội đường thần thái cổ quái, lại nói Ninh Đạo Kỳ biết chọn thời gian, khiến cho tiểu tử lầm tưởng Phiệt chủ đang lo rầu về thắng bại của trận chiến này.”

Tống Khuyết trầm ngâm một hồi, hơi chậm bước: “Thiếu soái thật đã hiểu lầm rồi! Ta lúc đó chỉ là vì bị trường quyết chiến này câu kéo hồi ức về một người, là vì quan hệ của bọn ta đã phát triển đến hồi thương đau, cho nên thần tình cổ quái, chứ không phải là lo đánh không lại Ninh Đạo Kỳ.”

Khấu Trọng khẽ hỏi: “Phạm Thanh Huệ?”

Tống Khuyết lộ biểu tình cay đắng, giọng nói vẫn bình tĩnh không rung động: “Ninh Đạo Kỳ là một trong số ít những người trong thiên hạ đã giành được sự kính trọng của Tống Khuyết ta, nếu không ta đã sớm đi khiêu chiến lão rồi. Thanh Huệ cố ý làm khó ta, thăm dò quyết tâm của ta. Thanh Huệ luôn luôn tính toán không thiếu sót, chuyến này lại đã sai nặng.”

Khấu Trọng nhịn không được hỏi: “Phiệt chủ có thể đao hạ lưu tình không?”

Tống Khuyết cười khà khà: “Đây là một lý do Tống mỗ tuyệt không cho phép Thiếu soái xuất thủ, ngoài việc xả đao ra, không còn gì khác, đao phong đối kháng nhau, đâu cho phép nhân nhượng chút nào. Thanh Huệ à! Đây có phải là kết quả nàng muốn thấy không?”

Hai câu cuối cùng Tống Khuyết cảm khái ngút ngàn, cứ như thổn thức.

Khấu Trọng im bặt không nói gì.

Tống Khuyết đứng yên tại chỗ, hai tay chắp sau lưng, ngửa nhìn tuyết bay mịt mù.

Khấu Trọng liền dừng bước, cúi đầu thốt: “Tiểu tử hy vọng lúc Phiệt chủ cùng Ninh Đạo Kỳ quyết chiến có thể đứng một bên chứng kiến.”

Tống Khuyết nhìn sang gã, lộ nụ cười hòa ái, thần thái hồi phục lại vẻ thong dong nhàn nhã, không có một chút dáng vẻ đang đi nghênh chiến kình địch, điềm đạm nói: “Chuyện không như ý trong đời có tới tám chín phần. Năm xưa ta gặp Thanh Huệ là vào một đêm trăng sáng. Lúc đó ta cỡ tuổi ngươi. Bích Tú Tâm còn chưa xuất đạo, chuyện này ta chưa từng kể với bất cứ một ai.”

Lại dõi nhìn bầu trời đêm, khẽ thở dài một hơi: “Đến lúc Bích Tú Tâm chịu nhục gian đồ vì Thạch Chi Hiên, Thanh Huệ hai lượt hạ sơn, ta với nàng gặp lại trên giang hồ, cách nhau cũng đã mười mấy năm. Thuở sơ ngộ ta vẫn còn là hạng vô danh, uy thế của ‘Bá Đao’ Nhạc Sơn lại như mặt trời giữa ngày, Thanh Huệ nhìn ta bằng ánh mắt khác, cùng khoác tay nhàn du, đàm luận chuyện thiên hạ thời thế, chuyện hưng suy trị loạn xưa nay.”

Khấu Trọng lần khần khó khăn lắm mới thốt nên lời: “Phiệt chủ tại sao lại chịu bỏ nàng?”

Tống Khuyết nhìn gã, song mục loang loáng, lẩm bẩm: “Bỏ nàng? Khà! Ta chưa từng nghĩ theo cách đó. Ta tại sao lại chịu bỏ nàng?”

o0o

Từ Tử Lăng bước vào tửu quán, thấy Âm Hiển Hạc thần tình đờ đẫn đang ngồi một mình ở một góc, trên bàn ngoài một đàn rượu và một cái chén không còn gì khác, liền cảm thấy nhẹ nhõm. Đối với mệnh vận gã không còn nắm chắc chút nào, bởi đụng phải Mỹ Diễm phu nhân, khiến cho gã không thể thần tốc đến đây, sợ khoảng thời gian trì trệ đó Âm Hiển Hạc không biết có xảy ra sự cố gì không. Cho nên gã phải tận mắt thấy Âm Hiển Hạc an nhiên không có sao thì mới có thể thoải mái được.

Gã dời đến bên kia bàn ngồi xuôg, cầm đàn rượu lên rồi đặt xuống, thở dài: “Ngươi không phải đã đáp ứng với ta là chỉ uống hai chén thôi sao? Bây giờ lại là nửa đàn rượu đã chui vào bụng ngươi rồi”.

Âm Hiển Hạc nhìn gã, trầm giọng: “Bởi vì ta sợ.”

Từ Tử Lăng không hiểu: “Ngươi sợ cái gì?”

Âm Hiển Hạc buồn bã đáp: “Ta sợ đi Trường An, năm xưa Dương Châu binh mã hoảng loạn, một đám con gái kinh hoàng trốn chạy, tiền đồ khiến người ta không dám thiết tưởng! Giả như Kỷ Thiện quả là đồng bạn trong lúc đào vong của tiểu muội ta, lại đi kể cho ta biết tin tức xấu về tiểu muội ta, ôi…! Ta làm sao đây? Ôi! Tử Lăng! Ta rất thống khổ!”, hắn lại thò tay cầm lấy đàn rượu.

Từ Tử Lăng tay án giữ đàn rượu, không đêhắn uống nữa, lòng cảm thấy tội nghiệp. Rõ ràng lúc bình thường bộ dạng cao ngạo cô độc lãnh khốc, chỉ là khi ráng hết sức đè nén nỗi lo sợ, mượu rượu quên sầu mới phá tan vỏ ngoài kiên cường của hắn, để lộ một bộ mặt yếu đuối bất lực. Phương pháp giải quyết duy nhất là tìm Âm Tiểu Kỷ về cho hắn, hắn mới có thể sinh sống hạnh phúc như thường.

Ah hiển nhiên có hơi ngà ngà, ngạc nhiên nhìn Từ Tử Lăng, cau mày: “Không cần lao phiền đến ngươi, tự ta biết châm rượu.”

Từ Tử Lăng không thể không châm đầy một chén cho hắn, thanh minh: “Đây là chén cuối cùng trước khi đến Trường An, chuyện tìm Tiểu Kỷ không cho phép có lầm lạc.”

Châm xong bỏ đàn rượu sang mặt bàn bên kia.

Âm Hiển Hạc mục quang nhìn chăm chăm rượu nóng lăn tăn trong chén dưới ánh đèn, nghiêm mặt: “Tử Lăng sao không uống, theo ta thấy ngươi cũng tâm sự trùng trùng, sau khi rời Thành Đô chưa từng thấy ngươi vui vẻ chút nào.”

Từ Tử Lăng rất muốn hé một nụ cười cho hắn thấy, lại phát giác bắp thịt trên mặt cứng đờ, thở dài: “Bởi nội tâm của ta cũng rất thống khổ.”

Sư Phi Huyên bất chợt xuất hiện, làm cho gã lọt vào cảnh tiến thoái lưỡng nan, đây không những chỉ là gã bị kẹp vào giữa mối quan hệ giữa Khấu Trọng và nàng, còn bao gồm tình cảm của gã và Sư Phi Huyên. Giả như Sư Phi Huyên vĩnh viễn không bước chân vào phàm trần, gã và Sư Phi Huyên đương nhiên là bắt đầu ở Long Tuyền, ngưng lại cũng ở Long Tuyền, cũng chính ở dưới tâm tình đó, gã mới toàn lực đi tranh thủ Thạch Thanh Tuyền. Nhưng sự xuất hiện của Sư Phi Huyên đã làm cho tay chân gã rối loạn, trên mặt lý tính gã biết có thể lấy có thể bỏ ra sao, nhưng biết là một chuyện, có thể làm được hay không lại là một chuyện khác. Tình tự của con người giống như một con mãnh thú vĩnh viễn không thể thuần phục triệt để.

Dư tình của gã đối với Sư Phi Huyên còn chưa chấm dứt, Sư Phi Huyên sao có thể vong tình đối với gã. Bọn họ ai ai cũng khốn khổ khắc chế, dựng ngăn rào cản.

Âm Hiển Hạc nhấc chén uống cạn, vỗ bàn: “Biện pháp tốt nhất là uống cho bất tỉnh nhân sự, hà! Cho ta một chén nữa đi!”

Từ Tử Lăng cười khổ: “Ngươi có biết ta vừa mới động thủ với người ta không, trong mình còn có Ngũ Sắc thạch nè.”

Âm Hiển Hạc thân thể gầy gò rúng động, thất thanh: “Mỹ Diễm phu nhân?”

Từ Tử Lăng gật đầu: “Chính là đoạt lại từ trong tay ả, ả từ Tái ngoại chạy đến đây, trốn tránh địch nhân mưu đoạt Ngũ Sắc thạch, hiện tại củ khoai lang lùi này đã lọt vào tay bọn ta, nếu bọn ta biến thành hai tửu quỷ say sưa túy lúy, hậu quả không dám tưởng tượng.”

Âm Hiển Hạc cầm chén rượu lên, đặt giữa bàn: “Để ta uống thêm mấy ngụm được không? Ta đáp ứng là chén cuối cùng.”

Từ Tử Lăng không còn cách, đành châm đầy cho hắn một chén, tâm thần lại quay về Sư Phi Huyên, nhớ tới mỗi một thần thái lúc nàng nói chuyện với gã ngoài Thành Đô thành hồi sáng sớm.

Bằng vào tiêu chuẩn của nàng mà nói, tình cảm chôn giấu của nàng đối với mình đã không còn cách che đậy, cho nên mới nói ra những lời lẽ về lối nhìn của nàng đối với gã dọ ý Từ Tử Lăng. Cái làm cho gã sinh ra cảnh giác là sau khi chia tay với nàng, gã có vẻ không cầm được lòng không ngừng nghĩ tới nàng, đó khiến cho gã sinh ra cảm giác ân hận sâu sắc đối với Thạch Thanh Tuyền. Trời ơi! Đây thật ra là chuyện gì đây!

Rượu cay rót vào cổ họng. Từ Tử Lăng mới phát giác hai tay mình đang bưng đàn rượu, uống một ngụm đầy.

Đặt đàn rượu xuống, Âm Hiển Hạc đang ngây ngốc nhìn gã, một chén rượu châm đầy không ngờ còn chưa động tới.

Từ Tử Lăng rượu thấm dạ sầu, trào dâng hơi say, vẫn hơi bẽn lẽn thốt: “Rượu ngon!”

Tiếng cười dài vang lên, có người đằng sau thốt: “Thì ra Tử Lăng cũng thích chè chén.”

Từ Tử Lăng ngạc nhiền đưa mắt nhìn, vương tử Thổ Cốc Hồn đã lâu không gặp là Phục Khiên đang đi cùng thủ hạ đầu lĩnh Hình Mạc Phi sải bước đi tới bàn của gã.

Từ Tử Lăng hoang mang đứng dậy, mừng rỡ: “Ta đang định đi tìm các ngươi”.

Sau khi giới thiệu Âm Hiển Hạc với hai người, bốn người ngồi quanh bàn, gã chạy bàn lại bưng thêm rượu lên, Phục Khiên tùy tiện nâng chén vài lượt, Hình Mạc Phi kính tửu cho mọi người, không khí thêm phần nhiệt liệt.

Qua được vài tuần rượu, Phục Khiên cười nói: “Ta luôn phái người giám thị khách sạn chỗ con tiện tỳ Mỹ Diễm dừng chân, không ngờ lại phát hiện hành tung của Tử Lăng, thật là mừng quá sức.”

Nói xong liếc nhìn Âm Hiển Hạc.

Từ Tử Lăng liền nói: “Hiển Hạc là người mình, không cần nghi ngại gì.”

Hình Mạc Phi hạ thấp giọng: “Từ gia có biết hình thế vùng Tái ngoại sau khi các ngươi bỏ đi đã có biến hóa long trời lở đất không?”

Phục Khiên tiếp lời: “Đến khi bọn ta lại đi Trung thượng mới biết hình thế Trung nguyên đã nghịch chuyển, sự nổi dậy của Thiếu Soái quân khiến cho Lý Đường không còn cục diện độc bá, điều đó cũng làm loạn kế hoạch của bọn ta, sự phát triển hình thế đối với tương lai Trung ngoại không còn nắm bắt được nữa.”

Từ Tử Lăng đưa mắt quét quanh, trong tửu quán chỉ còn hai bàn có khách ở gần cửa, mười mấy cái bàn xung quanh đều trống không, không sợ bị người ta nghe thấy lời nói của bọn họ, hỏi: “Chuyến này Phục huynh đến Trung thổ là có đại kế gì?”

Phục Khiên cười khổ: “Có đại kế gì? Còn gì ngoài việc ứng phó người Đột Quyết chứ? Ngươi có biết Thống Diệp Hộ của tây Đột Quyết thông qua Vân Soái đã ngấm ngầm ký kết hiệp ước với Lý Kiến Thành không? Chuyện này quan hệ tới hưng thịnh suy vong của Thổ Cốc Hồn ta, cho nên ta không thể không đi Trung nguyên một chuyến nữa, vốn muốn đàm thảo thương lượng với Tần vương, nào hay hình thế đảo lộn, khiến cho bọn ta tay chân bát nháo.”

Từ Tử Lăng thốt: “Thì ra tin tức là từ chỗ Phục huynh truyền ra.”

Hình Mạc Phi hướng tới Âm Hiển Hạc kính rượu: “Âm huynh?”

Âm Hiển Hạc đưa tay che chén rượu, không để Hình Mạc Phi thêm rượu cho hắn, xin lỗi: “Ta đã đáp ứng với Tử Lăng, hồi nãy là chén cuối.”

Từ Tử Lăng quay sang Hình Mạc Phi đang nhìn gã thỉnh thị gật đầu, biểu thị chuyện đó là có, rồi lại quay sang Phục Khiên hỏi: “Hình thế Tái ngoại trước mắt ra sao?”

Phục Khiên trầm giọng: “Hình thế Tái ngoại hiện thời là sự phát triển tất nhiên của lịch sử, từ lúc dòng A Sử Na lãnh nhận làm tù trưởng của Đột Quyết, Đột Quyết ngày càng lớn mạnh, sau khi đánh bại Thiết Lặc và Nhu Nhiên, đã thành bá chủ vùng đại thảo nguyên. Bắt đầu từ lúc đó, Lang quân theo dã tâm của các tù trưởng cũng không ngừng khuếch trương thế lực ra bốn phía, mục tiêu cuối cùng là cục thịt mỡ khổng lồ Trung thổ các ngươi. Sự xưng bá thành công của Dương Kiên làm cho quốc lực của Đại Tùy vọt lên đỉnh cao, cũng chính do quốc lực mạnh mẽ, dẫn tới viễn cảnh Dương Quảng lạm dụng quốc lực đến mức thân bại quốc vong. Lúc Dương Quảng lần đầu viễn chinh Cao Lệ, từng khiến cả hai đông, tây Đột Quyết cao ngạo hùng dũng phải thần phục dưới trướng Đại Tùy, nhưng sau ba lượt đánh Cao Lệ thất bại, hao hụt hết quốc lực của Đại Tùy, Trung thổ chia rẽ, Lang quân lại lần nữa quật khởi ngang nhiên phô trương, thật là cơ hội trời cho để người Đột Quyết xâm lược Trung nguyên, nếu ta là Hiệt Lợi, tuyệt không chịu bỏ qua cơ hội này.”

Thò tay nâng chén, cười khà khà thốt: “Bọn ta ít khi có tâm tình nhàn rỗi nhâm nhi chuyện vãn, Tử Lăng và Hiển Hạc có hứng thú nghe quá khứ đau thương vùng Trung ngoại viết bằng huyết lệ của nhân dân chiến sĩ không? Các ngươi có thể tiến thêm một bước hiểu rõ hơn về hình thế hiện nay và khả năng phát triển của tương lai đó.”

Từ Tử Lăng động dung: “Xin lắng nghe!”

Gã biết tác phong hành sự của Phục Khiên, không nói lời ngụy tạo, càng không nói lời vô nghĩa, chịu tường thuật tận tường chi tiết như vầy tất có dụng ý sau lưng, cho nên đáp ứng không chút do dự.

- o O o -

Hồi 697

Huyết Đích Lịch Sử

Tống Khuyết bắt đầu sải bước, không ngừng tiến sâu vào đêm tuyết không bờ không bến, phảng phất như không có mục đích đặc thù nhất định, lại như y đã hoàn toàn quên đi quyết chiến sinh tử với Ninh Đạo Kỳ. Y dùng khẩu khí chuyện rỗi: “Nếu ngươi chuyện nào cũng không chịu bỏ qua, sinh mệnh sẽ biến thành khổ sai đến chết mới ngưng, bởi đó là chuyện bất kỳ ai cũng không có đủ sức. Nói cho ta biết, nếu ngươi không chịu bỏ Thượng Tú Phương, sẽ có hậu quả gì?”

Khấu Trọng theo cạnh y thừ người: “Đương nhiên sẽ mất Trí Trí, nhưng Phiệt chủ năm xưa hoàn cảnh khác biệt, không cần chọn lựa mà.”

Tống Khuyết cười khổ: “Có khác gì chứ? Ta chỉ có thể chọn một giữa Đao đạo và Phạm Thanh Huệ, giả như nàng phản Từ Hàng Tịnh Trai theo ta, ta dám khẳng định Tống mỗ ngày nay không có thành tựu như vầy. Cảnh giới không còn gì khác ngoài xả đao ra là cảnh giới phải trả một giá đắt, hơn nữa là cảnh giới tàn nhẫn phi thường. Nàng và ta lối kiến giải trên phương diện chính trị cũng theo đường lối đối lập, nếu đi cùng nhau, một bên tất cần biến đổi, nhưng ta vĩnh viễn không chịu cải biến lòng tin của mình, cho nên từ lúc ban đầu bọn ta đã biết sẽ không có kết quả.”

Khấu Trọng nói không nên lời.

Tống Khuyết nhìn sang gã, trầm giọng: “Mấy chục năm nay, ta không lúc nào dám nghĩ tới nàng. Ngươi có hiểu thứ cảm giác đó không? Tư niệm thật quá thống khổ! Hơn nữa ta cần giữ lòng không lạc đường, chuyên chí cho Đao đạo, để ứng phó hình thế trước mắt, ta không chỉ đơn thuần ứng phó một Ninh Đạo Kỳ, mà là hình thể toàn thiên hạ bao gồm cả lão trong đó. Luyện đao tức là luyện tâm, ngươi minh bạch chứ? Không có quá khứ động lòng người, làm sao sử được đao pháp động lòng người?”

Khấu Trọng giật mình: “Văn Lập hiện tại có phải rất thống khổ không?”

Tống Khuyết giơ tay đặt trên vai Khấu Trọng, thở dài: “Ngộ tính của tiểu tử ngươi làm cho Tống Khuyết ta cũng phải khen tuyệt, hôm nay là lần đầu tiên trong hai chục năm ta nghĩ tới nàng không một chút e dè, cho nên ngươi cảm thấy ta khác thường lúc ngồi một mình trong nội đường của soái phủ.”

Không đợi Khấu Trọng đáp lời, y chắp tay sau lưng, tiếp tục cất bước, ngửa mặt đón tuyết trắng đang rụng rơi tìm lối về, mỉm cười: “Phạm Thanh Huệ, thời trẻ, đẹp đến mức khó tin, cho dù giương tròn mắt nhìn kỹ cũng vẫn không tin phàm trần có nhân vật như vậy, Sư Phi Huyên về phương diện này chắc được chân truyền của nàng. Đó là hiện tượng Tiên Hóa tu tập từ ‘Từ Hàng kiếm điển’. Nếu ta không nhìn lầm, Sư Phi Huyên đã vượt lên cảnh giới Kiếm tâm thông minh, so với cảnh giới Tâm Hữu Linh Tê của Phạm Thanh Huệ đã hơn một bậc rồi.”

Khấu Trọng vỗ tay khen tuyệt: “Sự hình dung của Phiệt chủ thật sắc bén, không có gì có thể hình dung khí chất độc đáo đặc thù của Sư Phi Huyên một cách xác đáng hơn là hai chữ ‘Tiên Hóa’.”

Tống Khuyết đón mục quang của gã, điềm đạm như không: “Chớ dùng góc độ bình phẩm từ đầu tới chân mà xem hai chữ Tiên Hóa, bên trong còn có thâm ý huyền diệu trong huyền diệu. Đạo gia Phật môn, bất kể là thành Tiên hay thành Phật, mục đích đâu khác biệt, là cho rằng sinh mệnh không ngưng ở đây. ‘Từ Hàng kiếm điển’ là kỳ thư Phật môn sáng tạo dùng Kiếm đạo tu Thiên đạo, có ảnh hưởng mở mang chỉ điểm rất lớn với ta, khi Đao đạo đạt đến mức tột cùng, cũng nên là cảnh giới vượt qua sinh tử đạt đến đỉnh cao thành Tiên thành Phật.”

Khấu Trọng rúng động: “Tiểu tử đã minh mạch! Trên sự thật cái Phiệt chủ theo đuổi cũng không khác biệt gì với mục tiêu tu hành của Thanh Huệ trai chủ, Phiệt chủ bỏ cơ duyên trở thành quyến thuộc với nàng, tình huống cùng nàng kiên trì tu hành là đồng một mục đích.”

Tống Khuyết lắc đầu: “Ta và nàng có bất đồng căn bản, là ta đâu có để ý tới chuyện vượt qua sinh tử, chỉ là toàn lực cầu tiến trên Đao đạo. Ta đặc biệt đề tỉnh ngươi về chuyện Sư Phi Huyên đã đạt đến cảnh giới Kiếm tâm thông minh là muốn ngươi có lòng cảnh giới, bởi nàng ta là một trong số những người có tư cách đánh bại ngươi.”

Khấu Trọng nghĩ tới sự khiêu chiến của Sư Phi Huyên với gã ở Thành Đô, cười khổ không nói gì.

Tống Khuyết chăm chú nhìn đằng trước, cước bộ không ngưng, hiển nhiên đang chìm mình nghĩ ngợi không chút e dè về chuyện cũ.

Hoa tuyết trắng trong nối nhau lan man hạ mình, bốn bề bình nguyên một vùng trắng xóa, cứ như thật như ảo.

Khấu Trọng vẫn không hiểu mục đích của chuyến đi này, tất cả tựa hồ mờ mịt không mục đích, gã lại có hơi thưởng thức hưởng thụ thứ cảm giác và không khí kỳ dị này.

Gã chợt hỏi: “Phiệt chủ chưa từng giao thủ với Ninh Đạo Kỳ, tại sao lại có niềm tin tất thắng?”

Tống Khuyết cười khà: “Mỗi một người tề danh cùng ngươi, lần lượt từng người nối tiếp nhau nuốt hận dưới đao của ngươi, mấy chục năm liền đều như vậy, ngươi cũng sẽ có lòng tin thập phần như Tống mỗ thôi. Ninh Đạo Kỳ sao lại là ngoại lệ? Đây không phải là khinh địch, mà là niềm tin bồi dưỡng ra từ trăm trui ngàn rèn.”

Khấu Trọng thở dài: “Nhưng tiểu tử vẫn có hơi lo, ít ra Phiệt chủ vì Phạm Thanh Huệ mà tâm tình có biến hóa, e rằng khó có thể dùng trạng thái tốt nhất để nghênh chiến Ninh Đạo Kỳ.”

Tống Khuyết gật đầu đồng ý: “Ngươi có ý tưởng này thật không đơn giản, quả thật đã đạt tới cảnh giới nhân vi. Thanh Huệ kiên trì với niềm tin của mình, không ngại dùng Ninh Đạo Kỳ đến đối phó Tống mỗ, thật đang làm đau xót lòng ta, nhưng ta lại không có ý trách cứ nàng chút nào, trái lại còn tăng phần kính trọng đối với nàng, bởi lúc nàng quyết định như vậy, còn khó chịu hơn cả ta.”

Khấu Trọng nói: “Có thể đó chỉ là chủ ý của Sư Phi Huyên.”

Tống Khuyết lắc đầu: “Sư Phi Huyên biết rõ quan hệ giữa Thanh Huệ và ta, nếu không có sự đồng ý của Thanh Huệ, tuyệt không dám sai phái Đạo Kỳ làm con cờ cuối cùng này.”

Ngưng một chút lại nói: “Chướng ngại khiến ta và Thanh Huệ không thể kết hợp, ngoại trừ niềm tin và lý tưởng khác biệt ra, còn là vì ta có hôn ước trên mình, hôn ước này có quan hệ trọng đại đối với sự phát triển của Tống gia ta ở Lĩnh Nam, có điểm giống như tình huống của ngươi và Ngọc Trí. Nói như vậy ngươi chắc hiểu được ta đem gia tộc đặt ở vị trí tối cao, cái mong chờ là cơ hội đề cao Hán thống của ta, nhất thống thiên hạ trước mắt, trọng yếu hơn bất cứ ái tình nam nữ gì. Bất kể trận chiến này ai thắng ai bại, ngươi cần phải kiên trì.”

Khấu Trọng hỏi: “Phiệt chủ đã bất chấp tất cả kiên trì lo cho Hán thống, tại sao Thanh Huệ trai chủ không ủng hộ người?”

Tống Khuyết điềm đạm đáp: “Phương diện này một lời khó giải thích, ngươi có hứng thú nghe chứ?”

Khấu Trọng gật đầu: “Tiểu tử rất muốn nghe.”

o0o

Tên hỏa kế của tửu quán chăm đèn hai bên vách trong điếm cho ọn họ, dưới ánh lửa mập mờ ấm áp, Phục Khiên râu ria xồm xoàm, tướng mạo hùng dũng nhấp một ngụm rượu, mục quang nhìn rượu sóng sánh trong chén, từ từ thốt: “Chuyện này cần bắt đầu lúc Dương Kiên ép Tĩnh đế của Chu triều nhường ngôi bốn chục năm về trước, Bắc Chu luôn có quan hệ mật thiết với Đột Quyết, Thiên Kim công chúa của Bắc Chu là vợ của Đột Quyết khả hãn Sa Bát Lược, cực kỳ thù hận đối với việc bản triều bị Dương Kiên soán quyền, cho nên không ngừng sách động Sa Bát Lược phục thù cho Bắc Chu của nàng. Dương Kiên lại bỏ chính sách trấn an của tiền triều, không để người Đột Quyết trong mắt, cho nên dưới sự thúc đẩy của nhân tố trong ngoài đó, Đột Quyết thường hay lấn cướp, làm cho Dương Kiên không thể không tăng cường phòng ngự biên giới, sửa sang xây dựng Trường Thành, đồn trú trọng binh sai đại tướng trấn thủ hai châu U, Tịnh. Vào thời kỳ khẩn trương đó, xuất hiện một nhân vật then chốt là Trưởng Tôn Thịnh.”

Từ Tử Lăng cau mày: “Trưởng Tôn Thịnh?”

Phục Khiên gật đầu: “Chính là Trưởng Tôn Thịnh, theo ta biết, người này rất có khả năng là sư phụ của Triệu Đức Ngôn, phụng mệnh Bắc Chu hoàng đế đưa Thiên Kim công chúa gả đến Đột Quyết, một mặt chắn gió thắp lửa ở Đột Quyết, cấu kết Xử La đệ đệ của Sa Bát Lược, mặt khác về Trung thổ được Dương Kiên tín nhiệm, hiến dâng kế sách đâm thọt chia rẽ Đột Quyết. Do hắn ở Tái ngoại lâu năm, cho nên thông thạo tình huống giữa các tù trưởng Đột Quyết, càng nắm rõ hình thế sông núi vùng Tái ngoại, Dương Kiên mừng rỡ tiếp nhận sách lược đại thể của hắn, lần lượt liên kết với hai tiểu khả hãn có thế lực nhất của Đột Quyết là Đạt Đầu và Xử La, cuối cùng khiến cho Đột Quyết chia thành đông tây hai nước, nhưng người Đột Quyết cũng không ngừng xâm nhập quý quốc, cướp bóc tàn sát, quân canh phòng lại phản kích không ngừng, cừu hận sinh ra từ đó, hiện tại ai ai cũng không thể cải biến được, chỉ có một phía bị diệt thì chiến hỏa mới có thể tắt phụt.”

Từ Tử Lăng thốt: “Đa tạ Phục huynh chỉ điểm, ta và Khấu Trọng đâu có rõ chuyện thời Dương Kiên, chưa từng nghĩ tới lại có khúc mắc như vậy. Người của Ma môn thật lợi hại, trước có Trưởng Tôn Thịnh, sau có Thạch Chi Hiên và Triệu Đức Ngôn sử dụng âm mưu quỷ kế, thao túng sự phát triển cục thế. Dám hỏi Phục huynh, quý quốc Thổ Cốc Hồn hiện tại tình huống ra sao?”

Phục Khiên song mục bừng bừng sát khí, trầm giọng: “Địch nhân trực tiếp uy hiếp bọn ta nhất là tây Đột Quyết, từ lúc Thống Diệp Hộ kế vị, tây Đột Quyết quốc lực cường thịnh. Thống Diệp Hộ có Vân Soái phù trợ, bản thân lại văn võ song toàn, hữu dũng hữu mưu, đánh đâu thắng đó, thêm vào dã tâm cực lớn, tuy tạm thời còn bảo trì quan hệ tốt với bọn ta, chỉ là vì có lợi cho hành động thôn tính Thiết Lặc của y, đến như y chịu ngấm ngầm ký kết hiệp ước với Lý Kiến Thành chính là vì muốn cùng Đường quân giáp kích Hiệt Lợi. Nếu Đại Đường có thể nhất thống thiên hạ, Hiệt Lợi đương nhiên không có kẽ hở nào có thể thừa cơ, nhưng sự quật khởi của Khấu Trọng lại giúp cho Hiệt Lợi có cơ hội, nếu ta không đoán lầm, Hiệt Lợi trong một thời gian ngắn sẽ liên kết với Đột Lợi cử binh xâm lăng miền Nam, trấn thành làng xã bị Lang quân đạp chân qua đừng hòng ngói yên vách lành.”

Từ Tử Lăng nghĩ tới chiến thuật tiêu hủy của Lang quân Đột Quyết, trái tim chìm xuống, nhịn không được hỏi: “Kẻ Thống Diệp Hộ cấu kết là Lý Kiến Thành, tại sao Phục huynh lại đồn đại quảng bá tây Đột Quyết cấu kết Lý Thế Dân?”

Phục Khiên chăm chú nhìn gã một hồi, ngạc nhiên hỏi: “Lý Thế Dân hiện tại không phải là địch nhân của Tử Lăng sao? Sao giọng nói lại ẩn hàm ý tứ trách móc vậy?”

Từ Tử Lăng đáp: “Có lẽ là vì ta không ngờ Phục Khiên huynh lại sử dụng thủ đoạn như vậy.”

Phục Khiên cười khổ: “Đang lúc cường địch bắt tay, sự tồn vong của quốc gia chịu uy hiếp, vì để vùng vẫy cầu tồn, bất cứ một ai cũng sẽ bất chấp thủ đoạn đi đối phó địch nhân. Giả như chuyện cấu kết tây Đột Quyết là vô trung sinh hữu, tuyệt không tạo được tác dụng gì. Nhưng lời đồn trong giả có thật, sẽ sinh ra ảnh hưởng vi diệu, có thể làm cho Lý Kiến Thành nghi thần nghi quỷ, lại khiến cho Hiệt Lợi sinh ra cảnh giác, càng có thể tiến thêm một bước chia rẽ sự đoàn kết trong nội bộ Lý phiệt, đối với phe Thiếu soái chắc có lợi chứ không có hại.”

Hình Mạc Phi bổ sung: “Từ gia có nghĩ tới liên quân thảo nguyên của Hiệt Lợi xâm phạm Trung thổ sẽ hình thành cục diện gì chứ?”

Từ Tử Lăng thốt: “Xin chỉ điểm.”

Hình Mạc Phi nghiêm mặt: “Chỉ cần Hiệt Lợi có thể lấy được cứ điểm ở Trung nguyên, Thống Diệp Hộ sẽ không còn đường chọn lựa phải nhào vào Trung nguyên chia một chén canh, tránh chuyện Hiệt Lợi công hãm Trường An. An tọa thế lực, sau đó sẽ chia ra từ Tái ngoại và Quan Tây phát động công kích nhắm Hiệt Lợi, lúc đó Hiệt Lợi sẽ lọt vào cục diện chịu đòn lưỡng diện thụ địch, đây chính là nguyên nhân Lý Kiến Thành và Thống Diệp Hộ bắt tay nhau dễ dàng. Lý Kiến Thành tuy luôn bí mật cấu kết với Hiệt Lợi, một mặt là sợ uy thế của Hiệt Lợi, mặt khác là muốn mượn sức đối phó Lý Thế Dân, lại không phải không biết dã tâm lang sói của Hiệt Lợi, cho nên hy vọng có thể dùng Thống Diệp Hộ chế ngự Hiệt Lợi, nhưng đây lại là dẫn sói vào nhà, nếu Thống Diệp Hộ nhờ vào phương tiện Lý Kiến Thành cung cấp mà mọc rễ thành công đứng vững ở Trung nguyên, hình thế của bọn ta lại càng nguy kịch.”

Phục Khiên tiếp lời: “Thoái một bước mà nói, nếu Hiệt Lợi chỉ cướp bóc một phen, rồi quay về vùng Bắc Tái, còn Lý Kiến Thành ngồi lên hoàng tọa, quan hệ giữa hắn và Thống Diệp Hộ sẽ càng mật thiết. Thống Diệp Hộ không còn nỗi lo Đông Cương, sau khi diệt Thiết Lặc sẽ toàn lực dụng binh đối phó bọn ta, đây là tính huống bọn ta không muốn thấy nhất.”

Âm Hiển Hạc im lặng không nói gì, tựa như không chút nào hứng thú với chuyện thiên hạ đại thế mà ba người thảo luận.

Từ Tử Lăng lại nghe đến mức đầu to như cái đấu, thêm một bước hiểu được quyết tâm của Sư Phi Huyên ngăn cản Khấu Trọng xâm phạm Ba Thục. Phục Khiên biết rõ hình thế Tái ngoại hơn Từ Tử Lăng gã hay bất cứ một người Trung thổ nào, hắn dự liệu Hiệt Lợi trong một thời gian ngắn sẽ nam xâm không phải là lời nói bậy. Hơn nữa trước mắt quả là thời cơ tốt nhất để liên quân Bắc Tái xâm lăng miền Nam, nội bộ Lý Đường chia rẽ, Lý Thế Dân tuy được Lạc Dương, lại lọt vào cục diện khổ chiến ứng phó hai mặt. Lý Uyên căn bản không có sức đề kháng liên quân Tái ngoại do Lang quân dẫn đầu. Nghĩ tới sự đáng sợ của lối đánh thiêu hủy của người Đột Quyết, thêm vào một Thống Diệp Hộ bên cạnh dòm ngó, sự phát triển tương lai quả là khiến cho người ta rùng mình.

Phục Khiên trầm giọng: “Ta đem tin này tiết lộ ra, nói không chừng có thể khiến cho Hiệt Lợi tạm hoãn xâm lăng Trung nguyên, đổi sang đối phó Thống Diệp Hộ. Nếu Hiệt Lợi tin rằng kẻ cấu kết với Thống Diệp Hộ là Lý Thế Dân, tất sẽ thông qua Triệu Đức Ngôn ra lệnh cho đồng bọn Ma môn sau lưng thao túng Lý Uyên và Lý Kiến Thành mau chóng đối phó Lý Thế Dân, cho nên đây là kế nhất thạch nhị điểu. Ta rất hy vọng kẻ thống nhất Trung nguyên là Thiếu soái chứ không phải Lý gia, bằng vào giao tình của bọn ta, đến lượt Thống Diệp Hộ lo cho sự tồn vong của hắn.”

Từ Tử Lăng lòng rúng động, bề ngoài lại không để lộ tình cảm nội tâm, nói đến cùng, mục đích cuối cùng của Phục Khiên là muốn chấn hưng Thổ Cốc Hồn, thay thế người Đột Quyết trở thành bá chủ mới của vùng Tái ngoại. Hắn đến Trung nguyên chính là để tìm cơ hội cho nước nhà. Lời nói của hắn tuy nói rất dễ nghe, nhưng gã lại cảm thấy Phục Khiên có che giấu. Trên lập trường của Phục Khiên, Trung nguyên càng loạn càng tốt, tốt hơn hết là đông tây Đột Quyết đồng thời lún mình ở Trung nguyên, huyết chiến không ngừng với Lý Đường và Khấu Trọng, không có cách thoát thân, vậy Thổ Cốc Hồn mới có thể thừa cơ. Đối với Phục Khiên mà nói, vì lợi ích của nước nhà hắn là chuyện không có gì lầm lỗi. Nhưng Từ Tử Lăng gã sao lại có thể đứng nhìn cục diện như vậy. Cái làm cho Từ Tử Lăng lần đầu tiên sinh ra hoài nghi đối với thành ý của Phục Khiên là Phục Khiên đem tin tức phao đồn sau khi đã bẻ cong. Đây chỉ có thể là thêm dầu vào lửa.

Phục Khiên cười nói: “Nãy giờ nói chuyện phiền nhiễu, còn chưa hỏi Tử Lăng tại sao lại đến Hán Trung, có phải muốn đi Trường An không?”

Từ Tử Lăng thầm nghĩ nếu Phục Khiên thật lòng đem tin tức Lý Kiến Thành cấu kết với tây Đột Quyết tiết lộ, hiệu quả có thể còn lớn hơn, bởi Hiệt Lợi đối với chuyện này nào dám sơ suất. Nói không chừng y một mặt xâm lăng Trung nguyên, một mặt công đả Thống Diệp Hộ bên hông, tự giải cái nguy Lý Kiến Thành. Lý Kiến Thành tuy không có cách phái binh viện trợ Thống Diệp Hộ, lại có thể ủng hộ Thống Diệp Hộ qua phương diện binh khí, lương thực.

Gã thầm than trong lòng, thản nhiên đáp: “Ta đi Trường An sau khi lo xong vài chuyện sẽ lập tức bỏ đi.”

Đôi mắt ốc nhồi loang loáng hữu thần của Phục Phiên nhoáng qua thần sắc phức tạp khó rõ, liền lộ vẻ vui mừng, hân hoan thốt: “Bọn ta đang định vào Trường An bái kiến Lý Uyên, có đội sứ tiết của ta yểm hộ, Tử Lăng có thể không gặp phiền hà gì.”

Từ Tử Lăng thầm nghĩ về hàm ý trong nhãn thần của Phục Khiên, bề ngoài vẫn bất động thanh sắc, mỉm cười cự tuyệt: “Trước khi vào Trường An bọn ta còn có chuyện khác phải lo, hay là chia nhau vào thành tiện hơn.”

Phục Khiên cười nói: “Như vậy Tử Lăng sau khi đến Trường An phải đến gặp Phục mỗ đó, sau khi lo xong chuyện ở Trường An, ta hy vọng có thể gặp mặt Thiếu soái, xem xem mọi người có thể hợp tác gì không. Đi! Bọn ta uống một chén, mong hai nước bọn ta vĩnh viễn tồn tại trong hòa bình, làm hảo hữu đời đời.”

o0o

Tống Khuyết dẫn Khấu Trọng lên một tòa núi, dõi mắt nhìn xa gần, tuyết càng lúc càng dày đặc, bọn họ giống như bị nhốt kín trong một thế giới băng tuyết, không còn bất cứ một sự vật gì khác tồn tại.

Tống Khuyết song mục bắn ra thần sắc trầm túy trong giao tình xa xưa, dịu giọng: “Ta và Thanh Huệ đều thấy từ sự phân chia trường kỳ của Ngụy, Tấn - Nam, Bắc triều đi đến sự thống nhất của Tùy triều Dương Kiên thật là một đoạn lịch sử huy hoàng kế tục thuở Chiến Quốc đi đến sự thống nhất của Tần, không có bất kỳ sự kiện lịch sử nào có thể so bì. Nhưng đối với chuyện làm sao trường trị thiên hạ được an bình dài lâu, ta và Thanh Huệ lại có lối nhìn khác biệt hoàn toàn, trước khi ta nói ra sự khác biệt giữa bọn ta, ta cần phải nói rõ sự khác biệt trong lối nhìn của bọn ta đối với nguyên nhân Dương Kiên có thể nhất thống thiên hạ.”

Khấu Trọng cảm thấy đầu óc mở mang, bất kể từ góc độ nào mà nhìn, Tống Khuyết và Phạm Thanh Huệ đều là người vĩ đại siêu trác, bọn họ tầm mắt sâu xa, thông hiểu sự hưng suy trị loạn tự cổ chí kim, lối nhìn của bọn họ đương nhiên là có cân nặng, liền hứng thú hỏi: “Thống nhất thiên hạ còn cần nguyên nhân gì đó ủng hộ sao? Quyền đầu của ai đủ cứng, tựa nhiên có thể ngang nhiên thu thập những kẻ phản đối.”

Tống Khuyết cười khà khà: “Đó chỉ là điều kiện một bá chủ cần có, còn phải có sự phối hợp của điều kiện khác mới có thể dẫn nước vào kênh. Thử nghĩ xem nếu thiên hạ vạn dân toàn thể đều phản đối để ngươi quản trị, ngươi bằng vào cái gì mà đi thống nhất thiên hạ? Nếu chỉ đơn thuần luận về binh cường mã tráng, thiên hạ không có một đội quân nào có thể hơn được Lang quân của Đột Quyết, lại không thấy bọn chúng có thể chinh phục được Trung nguyên sao? Nhiều lắm là giết người đốt nhà, cướp bóc dày xéo một phen. Mà đó chính là quan điểm của Thanh Huệ, thống nhất là khát vọng của nhân dân, chỉ cần có người phù hợp với nguyện vọng của dân chúng trên các phương diện, y sẽ được ủng hộ, nhất thống thiên hạ thành công.”

Khấu Trọng gật đầu: “Lối nhìn của Thanh Huệ trai chủ không phải không có lý.”

Tống Khuyết điềm đạm thốt: “Vậy ta hỏi ngươi một câu, những năm cuối đời Tây Hán, hay là thời kỳ Ngụy Tấn, lẽ nào người của thời đó không khát vọng thống nhất hòa bình sao? Tại sao lưỡng Hán diễn biến thành thế chân vạc Tam Quốc? Thời kỳ Ngụy Tấn phân chia Nam Bắc đối kháng lâu dài thì sao?”

Khấu Trọng im bặt, gật đầu: “Lời nói của Phiệt chủ là sự thật rành rành, sao lại vẫn không thể sửa đổi ý tưởng của Thanh Huệ trai chủ?”

Tống Khuyết thở dài: “Thanh Huệ thấy như vậy, sau lưng còn ẩn hàm thâm ý khác, ta hơn nữa không khám phá ra, trước hết để ta nói ra lối nhìn của bản thân ta cho ngươi nghe.”

Khấu Trọng thành khẩn thốt: “Tiểu tử xin lắng nghe!”

Tống Khuyết lộ thần sắc trầm tư, chầm chậm nói: “Nam Bắc triều sở dĩ chia cắt trường kỳ, vấn đề là từ ‘Vĩnh gia chi loạn’, từ lúc lịch sử tiến vào giai đoạn đại hỗn chiến của các dân tộc Bắc phương, Hung Nô, Tiên Ti, Yết, Chi các bộ xông vào Trung nguyên như kiến bu mật, thay nhau kiến lập địa bàn và chính quyền của mình, mà cừu hận giữa các dân tộc không có một lực lượng nào có thể hóa giải được, chỉ có sự chấn hưng của một tộc mới có thể giải quyết tất cả mọi vấn đề.”

Khấu Trọng giật mình: “Không trách Phiệt chủ kiên trì ủng hộ Hán thống, lại nói Dương Kiên sở dĩ có thể được thiên hạ là thành quả chấn hưng Hán thống, hiện tại tiểu tử cuối cùng đã minh bạch lời nói năm xưa Phiệt chủ từng nói với tiểu tử.”

Rồi gã lại liền tỏ ra không hiểu: “Vậy chỗ khác biệt giữa Phiệt chủ và Thanh Huệ trai chủ là ở đâu?”

Tống Khuyết song mục bắn thần sắc thương cảm, cười khổ: “Là khác biệt ở chỗ chấn hưng Hán thống, ta đứng trên lập trường một người Hán đi nhìn toàn cục, nàng lại là đi xem hình thế từ góc độ dung hòa các tộc. Cái nàng theo đuổi là một mộng tưởng, ta lại chỉ nhìn tình huống thực tế, đó là chỗ khác biệt căn bản giữa ta và nàng.”

Khấu Trọng tuy vẫn chưa thể nắm bắt hoàn toàn sự phân chia giữa Tống Khuyết và Phạm Thanh Huệ, lại bị giọng điệu thê lương của Tống Khuyết câu dẫn niềm nhớ của gã đối với Tống Ngọc Trí, từ đó mà nghĩ đến chuyện Tống Ngọc Trí phản đối Lĩnh Nam Tống gia quân chui đầu vào dòng thác tranh đoạt thiên hạ, sau lưng chắc có ý niệm sâu xa, còn mình chưa từng tìm cách thấu hiểu, mà chính là sự khác biệt trên mặt tư tưởng đó đã làm cho gã vĩnh viễn không có cách nào đoạt được trái tim của nàng, nhất thời lòng rối như tơ vò, tình cảm như mớ bòng bong.

- o O o -

HỒI 698

Tư Tưởng Phân Kỳ

  Hoa tuyết không ngừng rơi, bay bay trong gió phủ lên mình hai nhân vật xuất sắc một già một trẻ, đại biểu cho Trung thổ.

Tống Khuyết phát giác tình huống kỳ dị của Khấu Trọng, ngạc nhiên nhìn gã: “Ngươi đang nghĩ gì vậy?”

Khấu Trọng buồn bã: “Tiểu tử từ sự khác biệt giữa Phiệt chủ và Thanh Huệ trai chủ mà nghĩ tới sự bất đồng với Ngọc Trí, nhờ vậy mới ý thức sâu sắc hoàn cảnh đương thời của Phiệt chủ.”

Tống Khuyết khẽ gật đầu: “Sự khác biệt giữa ta và Thanh Huệ quả đã làm cho bọn ta khó phát triển thêm một bước, nguyên nhân khác đều là thứ yếu. Thanh Huệ nghĩ Hán tộc không những chiếm ưu thế về nhân số, hơn nữa về mặt kinh tế và văn hóa cũng có tính ưu việt rõ rệt, chỉ cần có đủ thời gian là có thể đồng hóa ngoại tộc nào xâm nhập, một khi đã hết sạch sự khác biệt dân tộc, hỗn chiến giữa các dân tộc tự nhiên kết thúc, từ phân chia đi tới thống nhất, coi đây là tính tất nhiên của lịch sử. Ở một mức độ nào đó, ta đồng ý với lối nhìn về phương diện này của nàng. Nhưng nàng nghĩ sự dung hợp các dân tộc Bắc phương sau khi Hồ hóa mới là sự phát triển trong tương lai của Hán tộc ta, về chuyện này Tống mỗ thật không dám đồng ý.”

Khấu Trọng là lần đầu nghe, bất cứ một ai từ góc độ này phơi bày biến hóa thế cục Trung thổ, hơi có cảm giác mới lạ. Hồ hóa Hán tộc phương Bắc hay Hán hóa Hồ tộc là sự thật đã thành, giống như bọn Vũ Văn Hóa Cập, Vương Thế Sung, chính là Hồ nhân sau khi Hán hóa hay Hán nhân bị Hồ hóa không hơn không kém, họ Lý cũng có huyết thống người Hồ.

Nhưng muốn một người kiên trì ủng hộ Hán thống như Tống Khuyết đi tiếp nhận Hồ nhân đã Hán hóa hay Hán nhân đã Hồ hóa lại là chuyện không thể nào. Sự khác biệt giữa Phạm Thanh Huệ và Tống Khuyết trong đục rõ ràng, mà sự bất đồng này càng thể hiện trên tình thế trước mắt.

Tống Khuyết trầm giọng: “Ta không phản đối văn hóa ngoại lai, đó là bí thức bảo vệ sức sống và sự tiến bộ của dân tộc, Phật học là từ Thiên Trúc truyền đến Hán tộc ta, căn nguyên trải dài, phát dương quang đại sau khi kết hợp văn hóa thâm thúy tinh vi. Nhưng đối với ngoại tộc mà không có lòng đề phòng, sơ sẩy một chút sẽ biến thành dẫn sói vào nhà, giống như bọn Lưu Vũ Châu, Lương Sư Đô, chính vì Hồ hóa quá sâu cho nên không để ý tới mối họa Đột Quyết. Còn cha con họ Lý có dòng Hậu Trần, quan hệ mật thiết với các tộc Tái ngoại, sớm muộn gì cũng thành đại họa. Ta tán thưởng Thanh Huệ có lòng dạ bao dung, nhưng dưới tình huống thực tế, ta cần phải thẳng tay phân biệt Hán di, nếu không các tộc Tái ngoại sẽ lần lượt nối đuôi nhau xen chân vào Trung nguyên, Trung thổ vĩnh viễn không còn ngày yên lành. Bắc phương đã không có sức tự lo, duy chỉ còn nước để người miền Nam bọn ta vùng dậy nhất thống thiên hạ, dẹp loạn sắp xếp trật tự. Buông bỏ thì không còn đường đi nữa, nếu không, Đại Hán ta sẽ vô lực hướng tâm để duy trì hệ thống văn hóa, thiên hạ phải lọt vào tình trạng chia rẽ trường kỳ.”

Tiếp đó lão cười khà: “Tâm sự để Thanh Huệ dụ dẫn khiến phiền não ấp ủ trong tâm tư gần bốn chục năm dốc ra hết, Tống mỗ cảm thấy rất thống khoái. Thiếu soái hiện tại chắc minh bạch mục tiêu và lý tưởng của Tống Khuyết ta, ta giúp ngươi lên đế tọa, không phải là vì vinh nhục của Tống gia, mà là vì chính thống Đại Hán Hoa-Hạ ta. Sự xuất hiện của một dân tộc vĩ đại, hẳn là không có tính tất nhiên trên lịch sử, có được không phải dễ, cũng không phải không thể dựa vào ý chí con người mà chuyển dời, giả như không có Thủy hoàng Doanh Chính, Trung thổ có thể vẫn còn cục diện chư hùng cát cứ. Ta hy vọng thiên thu vạn thế sau, thần dân Hoa-Hạ lúc nghĩ đến Khấu Trọng ngươi, công nhận Khấu Trọng ngươi là kẻ kế thừa Doanh Chính và Dương Kiên, là nhân vật thứ ba kết thúc sự phân chia Trung thổ. Đây là sứ mệnh vĩ đại, tất cả mọi thứ khác đều không dính dáng tới.”

Khấu Trọng lòng trào dâng nhiệt huyết, đồng thời hiểu thấu dụng ý Tống Khuyết chịu thổ lộ tâm sự đã giấu tận đáy lòng bao lâu nay, là y kỳ thực không lạc quan mấy về trận quyết chiến với Ninh Đạo Kỳ. Chỗ sơ hở của y là ở Phạm Thanh Huệ. Đang lúc y nghĩ mình không còn chịu sự chi phối tình cảm đối với Phạm Thanh Huệ nữa, Sư Phi Huyên lại thay Ninh Đạo Kỳ hạ thư khiêu chiến, lại câu dụ mối hoài tình năm xưa của y, một khi phát ra là không thể thu thập, khiến cho y không có cách nào bảo trì cảnh giới tột bực của Đao đạo “ngoài xả đao ra không còn gì khác”, nói gì tới tất thắng.

Tống Khuyết không những muốn Khấu Trọng hiểu rõ nỗi khổ tâm thống nhất thiên hạ của y, còn muốn gã có thể kiên trì giữ niềm tin, cho dù Tống Khuyết y có lạc bại thân vong, vẫn không bị Sư Phi Huyên dùng đại nghĩa lung lạc, khiến Khấu Trọng buông bỏ di chí chấn hưng thiên thu đại nghiệp Hán thống của y.

Khấu Trọng nghiêm mặt: “Phiệt chủ an tâm. Khấu Trọng sẽ kiên trì, cho đến khi hoàn thành lý tưởng tâm nguyện của Phiệt chủ.”

Tống Khuyết cười dài: “Được! Tống Khuyết ta không nhìn lầm ngươi, ngươi nên ghi nhớ, bọn ta không phải là vì nghĩ cho riêng mình, mà là phúc phận của cả dân tộc. Hiện tại ta có thể đặt hết tâm sự xuống, toàn tâm toàn ý cho cuộc quyết đấu với Ninh Đạo Kỳ, xem coi Đạo thiền của hắn được, hay là Thiên Đao của ta vẫn thắng ván này. Ngươi vẫn muốn theo ta đi xem chứ?”

Khấu Trọng gật đầu không chút do dự.

Tống Khuyết lại cười dài, phất người tới trước, tiến sâu vào vùng bình nguyên trắng xóa tuyết rơi lã tã.

Khấu Trọng rượt sát theo sau, hai đại cao thủ một già một trẻ trong nháy mắt đã chìm vào vùng sâu thẳm vô tận tràn ngập tuyết và tuyết.

o0o

“Cộc! Cộc!”

Từ Tử Lăng ngồi một mình trong phòng khách lên tiếng: “Hiển Hạc, mời vào, cửa không có cài then.”

Âm Hiển Hạc đẩy cửa vào phòng, đóng cửa lại, thần tình ngay đơ ngồi đối diện Từ Tử Lăng.

Đây là một lữ quán khá quy mô bên kia đường của tửu quán, sau khi Phục Khiên cáo biệt, bọn họ đã đến đây mướn hai gian phòng.

Từ Tử Lăng quan tâm hỏi: “Ngủ không được sao?”

Âm Hiển Hạc đằm đằm gật đầu, buồn bã thốt: “Ta có phải rất vô dụng không?”

Từ Tử Lăng không đồng ý: “Sao lại có thể coi mình như vậy, ngươi lo được lo mất là hợp với nhân tình. Kể từ khi lệnh muội thất tung, ngươi lặn lội chân trời góc biển tìm nàng, tuy chưa có kết quả, vẫn còn một tuyến hy vọng. Hiện tại nơi hạ lạc của lệnh muội có thể Kỷ Thiến đã tìm ra, đổi lại ta là ngươi, cũng sợ tin tức sẽ là sự thật đáng sợ không có cách nào vãn hồi, lúc đó ngươi sẽ mất đi tất cả hy vọng, ngay cả ý nghĩa của sinh tồn, cho nên sợ là đúng rồi.”

Âm Hiển Hạc khổ não: “Ngươi rất hiểu ta.”

Từ Tử Lăng mắt bắn kỳ quang: “Nhưng ta có dự cảm ngươi nhất định có thể đoàn tụ với tiểu muội, ta thật có cái cảm giác đó, tuyệt không phải là nói để an ủi ngươi.”

Âm Hiển Hạc có vẻ phấn chấn một chút, hỏi: “Ngươi có cảm giác gì đối với Phục Khiên?”

Từ Tử Lăng bần thần nhìn hắn một hồi, cười khổ: “Ta không muốn nghĩ tới vấn đề của hắn, mọi người cuối cùng cũng là bằng hữu.”

Âm Hiển Hạc hỏi: “Đột Lợi không phải cũng là sinh tử chi giao của ngươi sao? Nhưng dưới sự ép bức của tình thế, cuối cùng cũng có một ngày ngươi sẽ đối diện quyết chiến sa trường với y. Hiệt Lợi và Đột Lợi tuy thường hay đấu đá, nhưng về chiến tranh đối ngoại, vì lợi ích của cộng đồng, luôn cùng một đường lối. Ta đồng ý với lời nói của Phục Khiên, liên quân của Hiệt Lợi và Đột Lợi sẽ ào ạt xâm nhập Trung nguyên bất cứ khi nào, đây là hiện thực không ai có thể cải biến.”

Từ Tử Lăng hỏi: “Bọn chúng có lợi ích cộng đồng gì?”

Âm Hiển Hạc đáp: “Ta lưu lãng Tái nội Tái ngoại trường kỳ, tìm kiếm Tiểu Kỷ, cho nên ý thức được tâm trạng của các tộc dân Tái ngoại sâu sắc hơn ngươi và Khấu Trọng. Cái bọn chúng sợ nhất là xuất hiện một đế quốc Trung nguyên thống nhất lớn mạnh, ký ức họa hoằn Dương Quảng tạo cho chúng còn mới tinh. Chỗ duy nhất ta không đồng ý với Phục Khiên là Thống Diệp Hộ của tây Đột Quyết tuyệt sẽ không vào lúc này ngáng giò Hiệt Lợi, đó là truyền thống của đám sói lang bọn chúng, hễ thấy một con cừu mập là tụ bầy cắn xé, no nê hết đói. Trước mắt Lý phiệt trong chia ngoài rẽ, Trung thổ vì Khấu Trọng nổi dậy mà trở thành Nam Bắc đối kháng, nếu người Đột Quyết không lợi dụng thời cơ trời ban nhất thời này mà cắn xé con cừu mập bọn ta, một khi Lý phiệt hay Khấu Trọng bất cứ phe nào thống nhất Trung nguyên, bọn chúng sẽ mất đi cơ hội.”

Từ Tử Lăng cảm thấy lưng ướt đầm mồ hôi, Âm Hiển Hạc chưa từng dùng luận điệu dài dòng đi thuyết minh chuyện gì, chuyến này chịu mở miệng, hơn nữa từng chữ từng lời như phun châu nhả ngọc, đem hình thế Tái nội Tái ngoại phân tích vừa sinh động vừa sắc sảo.

Thình lình gã thấu hiểu nguyên nhân Sư Phi Huyên lại đạp chân vào phàm trần, chính là muốn bất chấp tất cả cản trở sự phát triển sự tình như Âm Hiển Hạc nói.

Chính trị bất kể động cơ, chỉ nói hậu quả.

Sự tranh bá thiên hạ của Khấu Trọng, cái mang đến rất có thể là tai nạn khổng lồ.

“Tử Lăng à! Ngươi đã từng có nói, nếu Lý Thế Dân lên đế tọa, ngươi sẽ khuyên Khấu Trọng thoái lùi. Vì chúng sinh thiên hạ, Tử Lăng có thể đổi sang thái độ tích cực, giúp Phi Huyên hoàn thành tâm nguyện được không?”

Lời nói của Sư Phi Huyên còn lan man trong đầu gã.

Lúc đó gã không nghĩ gì lắm về lời nói đó của nàng, giờ phút này lại như tiếng trống sớm chuông chiều, làm gã sực tỉnh, toàn thân đổ mồ hôi lạnh.

Phúc phận của vạn dân ở giữa một ý niệm như vậy.

Thanh âm của Âm Hiển Hạc vang bên tai gã: “Sao sắc mặt ngươi lại biến thành khó coi như vậy?”

Từ Tử Lăng khốn khó lắm mới cất tiếng: “Ta từng tận mắt chứng kiến tình cảnh đáng sợ bầy sói dữ tụ lại cấu xé một con nai, cho nên sự so sánh của ngươi làm cho tận đáy lòng ta sinh cảm giác sợ hãi.”

Âm Hiển Hạc thở dài: “Người Đột Quyết luôn luôn coi sói như thầy, chiến thuật của bọn chúng chính là chiến thuật của sói, trước hết chạy vòng vòng bốn bề gầm gừ thăm dò hư thực của ngươi, đánh sụp đấu chí của ngươi, làm cho tinh thần ngươi chịu áp lực, một khi ngươi tỏ vẻ khiếp sợ, lập tức tụ lại tấn công, dùng công thế hung tàn nhất cấu xé thú săn, hơn nữa không để ý gì tới sự an toàn của mình.”

Ngưng một chút y lại tiếp: “Nếu ta là Hiệt Lợi, càng không cho phép Khấu Trọng có cơ hội thống nhất thiên hạ, hiềm kỵ Khấu Trọng khẳng định còn hơn là hiềm kỵ Lý Thế Dân, bởi không có ai hiểu rõ năng lực trên chiến trường của Khấu Trọng hơn là Hiệt Lợi. Thời gian nước sông đóng băng ba tháng này chính là cơ hội tốt nhất để Hiệt Lợi xâm nhập.”

Từ Tử Lăng giật nảy mình: “May là được Hiển Hạc đề tỉnh ta. Ta đâu nghĩ tới đóng băng có chỗ hại như vậy.”

Âm Hiển Hạc thốt: “Tử Lăng sinh trưởng ở miền Nam, đương nhiên không biết sự khổ não lo sợ đề phòng đêm đến của con dân ở vùng biên giới phía Bắc. Người Đột Quyết xuất quỷ nhập thần như bầy sói, đến như gió, tới chỗ nào là gạch ngói cũng không chừa.”

Từ Tử Lăng cộc lốc: “Không! Ta tuyệt không cho phép tình huống đó xuất hiện.”

Âm Hiển Hạc chán ngán: “Bọn ta còn có biện pháp gì có thể làm chứ?”

Từ Tử Lăng nhíu mày: “Đột Lợi lẽ nào hoàn toàn không nhìn mặt mũi của ta và Khấu Trọng?”

Âm Hiển Hạc lắc đầu: “Người Đột Quyết vĩnh viễn lấy dân tộc làm đầu, cá nhân làm thứ, Khả Đạt Chí là một ví dụ tốt. Huống hồ có Tất Huyền ủng hộ Hiệt Lợi, chỉ cần Tất Huyền xen tay, Đột Lợi sẽ không dám không theo. Nếu không hắn đâu có giữ được Hãn vị của hắn. Dưới tình huống đó, tình huynh đệ gì gì cũng không có tác dụng. Tử Lăng cần phải đối diện sự thật.”

Từ Tử Lăng trầm giọng: “Ta phải đi gặp Lý Thế Dân.”

Âm Hiển Hạc ngạc nhiên: “Gặp y có tác dụng gì? Các ngươi không còn là bằng hữu nữa, mà là tử địch thế bất lưỡng lập.”

Từ Tử Lăng thần tình kiên quyết: “Lời nói của ngươi đêm nay giúp ta tháo gỡ nhiều chướng ngại trong đầu não, nghĩ thông rất nhiều sự tình. Trong dĩ vãng ta và Khấu Trọng luôn từ lập trường của bản thân mà đi quyết định lý tưởng và mục tiêu, chưa từng nghĩ đến hậu quả dẫn tới.”

Đến phiên Âm Hiển Hạc nhíu mày: “Hình thế đã đến nước một khi bắn ra không thể thu thập lại, Tống Khuyết đã ra Lĩnh Nam, thiên hạ không còn ai có thể nghịch chuyển hình thế như vầy, Tử Lăng gặp Lý Thế Dân còn có gì để nói chứ?”

Từ Tử Lăng đáp: “Ta không biết! Nhưng đây là cơ hội cuối cùng giúp Trung nguyên tránh qua đại họa. Nếu ta không tận lực đi thử, ta sẽ có lỗi với chúng sinh, còn cô phụ kỳ vọng của Phi Huyên đối với ta.”

Âm Hiển Hạc bắt đầu hiểu rõ tâm ý của Từ Tử Lăng, hít một hơi sâu: “Thuyết phục được Lý Thế Dân thì sao, trên Lý Thế Dân còn có Lý Uyên, Kiến Thành Nguyên Cát lúc nào cũng muốn dồn Lý Thế Dân vào tử địa, theo ta thấy Tử Lăng chỉ tốn một chuyến đi vô ích mà thôi.”

Từ Tử Lăng lộ thần sắc trầm tư, không đáp lại hắn.

Âm Hiển Hạc than: “Khấu Trọng không còn là Khấu Trọng của trước đây nữa, gã hiện tại không những là lãnh tụ của Thiếu Soái quân, còn là kẻ kế thừa của Tống Khuyết, trên vai gã có gánh nặng rất ghê gớm, ta thật không muốn thấy hai hảo huynh đệ các ngươi vì chuyện này mà bất hòa.”

Từ Tử Lăng thốt: “Ta không có cách nào xoá đi tranh cãi mặc cả, nhưng bây giờ ta chỉ biết bá tánh Trung thổ sắp đại họa lâm đầu. Bọn họ chịu đựng đủ rồi! Nên có một đoạn ngày tháng an lạc hòa bình trường trị.”

Âm Hiển Hạc gật đầu: “Tử Lăng là người lo tưởng cho người ta, không tính được mất của bản thân. Chỉ tiếc thời gian và hình thế đã đến hoàn cảnh ông trời cũng bất lực, cho dù Khấu Trọng có đầu hàng Lý Đường, Tống Khuyết vẫn không ngưng nghỉ. Ngươi rõ Khấu Trọng nhất, gã dưới hình thế ác liệt nhất vẫn không chịu khuất phục đầu hàng, huống hồ là thời khác có hy vọng thống nhất, gã không những không có cách ăn nói với bản thân, khó lòng mà ăn nói với người theo chân ủng hộ gã, càng không có cách nào ăn nói với tướng sĩ hy sinh vì gã.”

Hắn ngưng một chút lại tiếp: “Ta nói nhiều lời như vậy, không phải là không hiểu khổ tâm và hoài bảo của Tử Lăng, mà là sợ ngươi gặp hiểm, chiến trường đâu bao giờ là chỗ nói nhân tình. Ngươi đi gặp Lý Thế Dân như vầy, y sẽ đối phó ngươi ra sao thật khó dự liệu, cho dù niệm tình xưa, bọn Lý Nguyên Cát, Dương Hư Ngạn càng tuyệt không thể buông tha ngươi. Trừ đi ngươi coi như phế được một nửa người Khấu Trọng. Theo ta thấy Lý Thế Dân không chịu bỏ qua cơ hội Tử Lăng đưa dê vào miệng cọp đâu.”

Từ Tử Lăng sâu sắc cảm nhận được sự thành khẩn đối với mình của con người tựa như không hề quan tâm bất cứ một sự tình nào, cảm động thốt: “Ta sẽ cẩn thận hành sự.”

Người trong lòng nghĩ đến là Lý Tịnh, gã vốn không định tìm hắn, hiện tại lại phải cần đi gặp hắn, không tính toán chuyện này sẽ dẫn đến hiểm nguy gì nữa.

Âm Hiển Hạc thấy không thể thuyết phục gã, ráng nỗ lực lần cuối: “Ngươi nếu muốn thuyết phục Khấu Trọng đầu hàng, sao lại cần gặp Lý Thế Dân?”

Từ Tử Lăng đáp: “Nếu không thể thuyết phục Lý Thế Dân, không có khả năng đả động đến Khấu Trọng, cho nên cần phải trước hết du thuyết y. Chuyện này phức tạp cực kỳ, dây dưa sâu rộng, một lời khó nói hết.”

Âm Hiển Hạc trầm giọng: “Vấn đề Tống Khuyết làm sao giải quyết?”

Từ Tử Lăng buồn bã: “Ta không biết, chỉ còn nước thấy bước nào đi bước đó, Phi Huyên nói nàng có thể kiến tạo một bước chuyển mình cho thống nhất hòa bình, hy vọng nàng quả có thể làm được.”

Âm Hiển Hạc chợt nói: “Ta theo ngươi đi gặp Lý Thế Dân.”

Từ Tử Lăng nói: “Gặp Kỷ Thiến rồi hãy nói đi!”

Âm Hiển Hạc thở dài: “Lời nói của Tử Lăng đối với ta rất có ích, so với hạnh phúc hòa bình của thiên hạ bá tánh, sự đau thương của cá nhân đâu đáng nói tới.”

Từ Tử Lăng chợt thò tay quạt tắt đèn: “Có người đến!”

Âm Hiển Hạc nắm trường kiếm sắt lạnh trên lưng, tiếng xé gió từ ngoài song và ngoài cửa vang lên.

o0o

Giữa gió tuyết mờ mịt, Tống Khuyết và Khấu Trọng đứng ở bờ đông Y Thủy, nhìn nước sông dằng dặc chảy qua trước mắt.

Mãi đến giờ phút này, Khấu Trọng vẫn chưa biết thời gian và địa điểm Ninh Đạo Kỳ ước chiến với Tống Khuyết.

Tống Khuyết thần thái an nhàn, không một chút biểu lộ tình cảm.

Y chợt mỉm cười: “Thiếu soái có cảm giác gì đối với Trường Giang?”

Khấu Trọng nghĩ tới đủ thứ quan hệ cùng Trường Giang, nhất thời trăm mối tơ vò, khẽ thở dài một hơi: “Một lời khó tận.”

Tống Khuyết thản nhiên thốt: “Trường Giang giống như một con rồng lớn, từ trên ngọn núi chính của dãy Đường Cổ Lạp Sơn là Các Lạp Đan Đông dốc xuống, ngang qua Trung thổ, kéo từ tây sang đông ra đại dương, tạo dựng cảnh vật văn minh phồn hoa của phương Nam. So sánh với Hoàng Hà, Đại Giang hơn mấy phần ôn nhu tươi đẹp. Giang, Hà, Hoài, Tế gọi là ‘Tứ Độc’, đều là đường sông chảy vào biển lớn. Danh xưng Thiên hạ đệ nhất Đại Hà tuy là Hoàng Hà, nhưng ta độc chỉ chung tình với Đại Giang, có rất nhiều phương diện Đại Hà không thể nào bì được.”

Khấu Trọng hoàn toàn bối rối, không rõ Tống Khuyết tại sao đột nhiên lại nói đến Trường Giang, tuy tựa như có cảm tình khắc sâu kiểu co kéo thần hồn đối với Đại Giang, giọng điệu lại thê lương thương cảm.

Tống Khuyết nói tiếp: “Ta từng vì thăm dò ngọn nguồn của Đại Giang, dọc Giang Tây mà tiến, đã gặp qua biết bao là dòng băng. Nơi đó núi non liên miên, tuyết trắng phau phau, những khối tuyết khổng lồ tan chảy dưới ánh mặt trời, lần theo vực băng đổ xuống bốn phía, hình thành trăm ngàn thác nhỏ, tụ lại thành sông, trôi dòng sang Đông, uy thế cực kỳ hoành tráng, không phải tận mắt chứng kiến thì đâu dám tin.”

Khấu Trọng nghe đến mức lòng bừng bừng hùng khí: “Có cơ hội tiểu tử nhất định sẽ cùng Tử Lăng đi một chuyến.”

Tống Khuyết đề tỉnh: “Ngươi tựa như đã quên Ngọc Trí.”

Khấu Trọng buồn bã: “Nàng tuyệt sẽ không chịu theo tiểu tử đi!”

Tống Khuyết mỉm cười: “Nếu đổi lại là hôm qua, ta có lẽ sẽ nói với ngươi thời gian có thể gạt bằng tất cả, hiện tại lại không dám nhất định nữa. Sau khi lên làm Hoàng đế, ngươi nghĩ còn có thể tùy tiện chạy chơi tứ xứ sao?”

Khấu Trọng như xót xa mất mát, không nói gì.

Tống Khuyết quay lại thoại đề trước: “Người ta nói Hoàng Hà tương đồng với ba hẻm sông của Trường Giang, có sự hùng vĩ hiểm trở của Cù Đường hạp, có sự đẹp đẽ u trầm của Vu hạp, và sự tuôn chảy không ngừng của Tây Lăng hạp, là ba cái nhất của Trường Giang, đó chỉ là lời của kẻ vô tri. Hổ Khiêu hạp trong Kim Sa Giang, dài mười mấy dặm, mõm đá trồi sụt, sóng tuyết dập dềnh, khói nước mông lung, hai bờ núi tuyết ngàn dặm, dòng băng vắt mình, mây mù quyện quẩn, hẻm núi sâu vạn trượng, cứ như một thế giới khác, đó mới là cái nhất của Trường Giang.”

Khấu Trọng cười khổ: “E rằng tiểu tử vĩnh viễn không có duyên đi minh chứng lời nói của lão gia.”

Tống Khuyết không để ý, điềm đạm thốt: “Thuyền của ta chìm ở đó, ta phải đổi sang thuyền chở khách để đi Ba Thục, là vào một đêm trăng sáng, gặp được Thanh Huệ trên sàn thuyền, ta chưa từng thử chủ động nói chuyện với bất cứ một cô gái mỹ lệ nào, nhưng đêm đó lại không cầm được lòng làm một bài thơ mở đầu tỏ bày, khiến cho ta vĩnh hằng ôm một đoạn thương tình mỹ lệ, hồi ức lúc ta nghĩ đã quên đi thì lại khắc sâu hơn bất cứ lúc nào khác.”

Khấu Trọng lòng giật nảy, không ngờ Tống Khuyết vẫn không thể thoát thân khỏi niềm thương nhớ Phạm Thanh Huệ, trận chiến này thật không mấy lạc quan.

- o O o -

Hồi 699

Nam Bắc Chi Tranh

  Lai giả bất thiện, thiện giả bất lai.

Từ Tử Lăng quay sang Âm Hiển Hạc thấp giọng: “Bốn người.”

Cửa phòng và hai cửa sổ đồng thời vỡ nát.

Âm Hiển Hạc rút trường kiếm khỏi vỏ, như con báo vọt bắn ra, đón đầu địch nhân phá cửa vào.

Từ Tử Lăng nhìn tựa như thong dong đứng dậy khỏi ghế, hai tay phất ra, Bảo Bình kình khí tập trung cao độ nóng bức đập thẳng vào hai địch nhân định lao qua cửa sổ.

Người đến toàn thân vận kình trang, đầu trùm vải đen, chỉ để lộ mũi và mắt, nhưng làm sao có thể che giấu được Từ Tử Lăng.

Kẻ tấn công qua cửa chính đích thị “Đại Tôn” của Đại Minh Tôn giáo Hứa Khai Sơn. Kẻ lao qua hai song cửa là Đoàn Ngọc Thành và Tân Na Á, kẻ duy nhất không đoán được là kẻ giấu mặt ở phòng bên, võ công của người đó chẳng kém Hứa Khai Sơn.

Chính diện xung đột với Thạch Chi Hiên đã khiến cho Đại Minh Tôn giáo hao binh tổn tướng, nguyên khí bị thương trầm trọng, nhưng mấy kẻ đến đây không ai không phải là cao thủ đã trải qua khảo nghiệm rạch ròi, tuyệt không thể khinh suất.

Đến bây giờ, gã mới minh bạch kẻ Mỹ Diễm phu nhân muốn chạy trốn là Đại Minh Tôn giáo. Ngũ Sắc thạch ả mang theo từ Tái ngoại là vật đã theo Quang Minh sứ giả Lạp Ma từ Ba Tư sang đông vào đại thảo nguyên, kiến lập Đại Minh Tôn giáo. Ngũ Sắc thạch là thánh vật chí cao vô thượng của Đại Minh Tôn giáo, cho nên bọn Hứa Khai Sơn tuyệt không cho phép để lọt vào tay người ngoài.

Tiếng hừ lạnh và tiếng quát khẽ đồng thời vang lên, Đoàn Ngọc Thành cùng Tân Na Á còn chưa có cơ hội vượt qua song đã bị Bảo Bình chân khí mãnh liệt cứng cỏi quật loạng choạng thoái về.

Từ Tử Lăng kinh nghiệm thực chiến phong phú làm sao, nào chịu để địch nhân bình tỉnh đánh dai, huống hồ địch nhân phòng kế bên cao thâm khó lường, Hứa Khai Sơn còn là cao thủ cấp bậc gần bằng Thạch Chi Hiên, vọt liền ra trước.

Tiếng kình khí giao kích liên miên bất tuyệt, quang cảnh trong nháy mắt, Âm Hiển Hạc đã sử hết công lực vốn có mà vẫn bị Hứa Khai Sơn dồn ép, bức thoái liên hồi, đã về lại giữa phòng.

Từ Tử Lăng quát khẽ một tiếng, phóng qua kề vai Âm Hiển Hạc, không khí tiền phương như biến thành đậm đặc, đổi lại là Từ Tử Lăng lúc giao thủ với Hứa Khai Sơn ở U Lâm Tiểu Trúc, tất sẽ hữu lực mà khó thi triển như Âm Hiển Hạc, hiện giờ lại nắm chắc một hai, nhất chỉ điểm ra, nhắm song chưởng đang vùn vụt đập tới của Hứa Khai Sơn.

“Tường phải!”

Âm Hiển Hạc hội ý, lúc trường kiếm túa thành đóa đóa kiếm hoa, mặt tường bên phải vỡ tan, địch nhân thần bí còn chưa hiện thân đã phá vách mà sang, hày khí buốt giá xộc ra từ trường kiếm trên tay như làn chớp đâm thẳng tới, tàn độc hung mãnh vô cùng.

Đoàn Ngọc Thành cùng Tân Na Á đã chấn chỉnh lại tay chân, lại vọt qua song cửa mà vào, khiến hình thế phe họ Từ và Họ âm càng thêm nguy cấp.

“Hừ” một tiếng, Từ Tử Lăng tập trung cao độ, chỉ kình xuyên qua bức tường khí hình thành từ song chưởng của Hứa Khai Sơn, đâm thẳng lên người Hứa Khai Sơn. Bên dưới tung một cước, đá vụt vào chỗ yếu hại nơi bụng dưới của Hứa Khai Sơn. Hai chiêu này thần tốc hùng dũng, đến Hứa Khai Sơn cũng không thể không thoái lùi ra sau.

“Keng!”

Âm Hiển Hạc đánh trúng kiếm địch, phát ra tiếng ngân rền vang, nhưng hắn hiển nhiên kém nội kình hơn đối phương một bậc, không trụ được lực, bật ngược về phía sau Từ Tử Lăng.

Từ Tử Lăng bỏ qua Hứa Khai Sơn, thi triển bản lĩnh nghịch chuyển chân khí cứng cỏi chuyển công thế sang địch nhân đáng sợ từ phòng bên cạnh phá tường đánh qua, cười khà khà thốt: “Liệt Hà huynh không phải đi cùng mọi người đến Cao Lệ sao?”

Địch nhân mình trùm đen thui nghe tiếng rúng động, kiếm thế hơi chậm lại, mũi kiếm bị một chỉ của họ Từ điểm trúng, thoái lùi về sau như bị sét đánh.

Đoản kiếm của Tân Na Á, trường kiếm của Đoàn Ngọc Thành hợp thành công thế bài sơn đảo hải quật về phía hai người.

Từ Tử Lăng nào dám luyến chiến, thò tay nắm lấy Âm Hiển Hạc còn đang thoái lùi, vọt thẳng lên trên, phá mái nhà phóng đi.

o0o

Khấu Trọng hỏi: “Bài thơ mào đầu mà Phiệt chủ làm tất có thể khiến cho bất cứ một nữ tử nào cũng nghiêng ngã, tiểu tử thiếu sót bản lĩnh trên phương diện đó.”

Khoé miệng Tống Khuyết hé một nụ cười ôn nhu, chăm chú nhìn bão tuyết mịt mù hòa mình vào sông nước, giống như trùng diễn lại tình cảnh năm xưa, khe khẽ thở dài: “Thủy để hữu minh nguyệt, thủy thượng minh nguyệt phù; Thủy lưu nguyệt bất khứ, nguyệt khứ thủy hoàn lưu” (tạm dịch: “Đáy nước có trăng sáng, trên nước trăng sáng nổi; Nước chảy trăng không đi, trăng đi nước vẫn chảy”).

Khấu Trọng nghe xong quên luôn cả trận quyết chiến, khen hay: “Tức cảnh mà sinh tình, vì tình mà tả cảnh, tình cảnh giao hòa, sau lưng lại có thâm ý ẩn hàm chuyện đời thăng trầm, bài thơ không thể nào hợp tình huống đương thời hơn được nữa!”

Tống Khuyết nhìn sang gã, song mục loang loáng thần quang: “Nói ra ngươi có lẽ không tin, ta lần đầu nhìn thấy nàng, liền khẳng định nàng là đệ tử của Từ Hàng Tịnh Trai, đạp chân vào trần thế tiến hành sự nhập thế tu hành mà sư môn chỉ định, lúc đó Trần triều còn chưa bị Dương Kiên tiêu diệt, Thanh Huệ biết được ta là thế hệ mới của Lĩnh Nam Tống gia, hỏi ta tình huống thịnh suy của Nam Bắc triều.”

Khấu Trọng lại một lần nữa bị Tống Khuyết làm cho hứng thú, hỏi: “Lúc đó Dương Kiên đã ngồi trên bảo tọa Hoàng đế Bắc triều rồi?”

Tống Khuyết gật đầu: “Là lúc Dương Kiên vừa nhận nghi lễ có cái tên đẹp đẽ ‘Thiện nhượng ’, trở thành Bắc triều chi chủ, con người này về mặt quân sự là nhân tài hiếm có, từ lúc đăng ngôi Đế vị cho đến lúc cử binh nam chinh, khoảng cách thời gian cũng cả chín năm, chuẩn bị sung túc, kế hoạch chu tường, bất kể là mặt chính trị hay mặt quân sự đều hơn xa hôn quân Trần Thúc Bảo của nam triều. Nhưng lại có một khuyết điểm lớn, là độc đoán đa nghi, không chịu tin người, cuối cùng giúp cho Ma môn có thể thừa cơ, để Dương Quảng nối ngôi, đánh mất tất cả. Ngày nay Lý Uyên lại dẫm theo đường mòn của Dương Kiên, càng không dám tưởng tượng tới hậu quả.”

Khấu Trọng cảm thấy nói chuyện với Tống Khuyết không những là một thứ hưởng thụ, hơn nữa còn khiến cho mình hừng hực tráng chí hiểu thấu đạo lý làm người và trị loạn hưng suy. Tống Khuyết nằm phục ở Lĩnh Nam, nào có khác gì Dương Kiên xếp đặt mưu kế rồi mới phát động khi nào cơ hội thắng lợi vừa đến.”

Tống Khuyết điềm đạm thốt: “Ta phân tích những điểm then chốt Nam yếu Bắc mạnh cho nàng nghe, miền Nam sở dĩ có thể an bình trường kỳ, đều là vì phương Nam đất đai tài nguyên trù phú, chỉ tiếc kẻ trị quốc không có năng lực, nghèo giàu không đều, đất tốt đều tập trung vào tay giới quyền quý thổ hào, quan lại tham ô hủ bại cấu kết. Trộm cướp dấy động vùng rừng núi, dân lành bị hại, khiến cho bá tánh bỏ nhà cửa mà chạy, lòng người uất ức. Ngược lại Dương Kiên không ngừng tiến triển, ai cao ai thấp liếc mắt là thấy liền.”

Khấu Trọng gật đầu: “Đây là kiến giải sâu sắc, Thanh Huệ trai chủ không....”

Tống Khuyết bình tĩnh thốt: “Nàng quay về vấn đề dung hòa dân tộc, khi Dương Kiên lên ngôi ở Bắc phương, người Bắc chạy loạn vào Trung thổ ta đã sớm đồng hóa, hợp thành một dân tộc mới, vừa có ngoại tộc Bắc Tái, lại không rời Hán thống ta văn hóa quảng bác ưu mỹ, căn nguyên thâm hậu, thêm vào Hán tộc trường kỳ đối kháng các tộc Tái ngoại, đã dưỡng thành một phong thái chuyên cần hùng dũng. Cho dù Dương Kiên thất bại, Nam phương Bắc phương lấy Bắc thống nhất Nam, là hướng đi tất nhiên của sự phát triển lịch sử.”

Khấu Trọng hỏi: “Phiệt chủ có đồng ý không?”

Tống Khuyết mỉm cười: “Ta là người Nam, đương nhiên nghe không lọt lỗi tai, lại không thể không thừa nhận lối nhìn của nàng là nhìn xa trông rộng, thâm thúy chí lý. Ta chỉ ra nếu hiện thời kẻ xuất hiện ở phương Bắc không phải là Dương Kiên mà là một hôn quân, kẻ lãnh đạo miền Nam không phải là Trần hậu chủ thối nát, lịch sử có phải sẽ được viết lại không? Nói đến ai thống nhất ai, thủy chung là vấn đề người này thịnh người kia suy, Tống Khuyết ta đâu chịu thừa nhận sự phát triển của lịch sử có tính tất nhiên không thể cải nghịch. Chính trị, võ công và thủ đoạn là nhân tố trực tiếp quyết định lịch sử. Sự đối đầu Nam Bắc trước mắt, mở một mức độ nào đó là sự lặp lại của hình thế năm xưa, ta muốn lấy sự thật chứng minh cho tất cả mọi người thấy lịch sử là do con người sáng tạo ra.”

Khấu Trọng càng lúc càng hiểu rõ sự khác biệt giữa Tống Khuyết và Phạm Thanh Huệ, đều là vì góc độ lập trường có chỗ bất đồng. Nếu quả Tống Khuyết là người Bắc, cuộc tranh luận này sẽ không còn chỗ đứng. Với sự tài tình và chí khí của Tống Khuyết, tuyệt không thể cam tâm quỳ gối dưới Hán tộc Bắc phương bị Hồ hóa, mà y cũng không tín nhiệm người phương Bắc, nghĩ bọn họ không thể không thể vạch rõ giới tuyến với người Hồ, bọn Lưu Vũ Châu, Lương Sư Đô càng giúp cường điệu hóa định kiến của y. Nói đến Lý Uyên khởi binh từng mượn sức Đột Quyết trợ giúp, đến bây giờ vẫn có quan hệ mật thiết với Đột Quyết, binh Đột Quyết của Khả Đạt Chí hơn nữa còn là cột sống của Trường Lâm quân của Lý Kiến Thành, đủ thứ chuyện như vậy, Tống Khuyết khởi binh Bắc thượng là chuyện đương nhiên.

Triệu Đức Ngôn trở thành Quốc sư của đông Đột Quyết, giúp Ma môn ngang hàng với ngoại tộc. Bất kể Ma môn hay Từ Hàng Tịnh Trai đều thuộc vào hệ thống văn hóa phương Bắc, mà Tống gia của Tống Khuyết chính là cột trụ trung thành của văn hóa phương Nam, kiên trì ủng hộ cờ xí của Hán thống. Sự bất hòa giữa Tống Khuyết với Lý phiệt, tới mức chính diện giao tranh, chính đã thể hiện sự tranh đấu khác nòi giữa Nam và Bắc.

Tống Khuyết nói đúng, lịch sử là do con người sáng tạo ra, nếu không có Tống Khuyết, Khấu Trọng, ai thắng ai bại cũng có thể dự kiến.

Khấu Trọng hỏi: “Phiệt chủ đã biết Trần hậu chủ vô dụng, lúc đó sao không đánh chiếm, rồi chống lại Dương Kiên?”

Tống Khuyết cười khà khà: “Ta lúc đó còn là hạng vô danh, mãi cho đến khi đánh bại người mang danh tự Thiên hạ đệ nhất đao là ‘Bá Đao’ Nhạc Sơn mới vang lừng thanh danh, lên ngôi Phiệt chủ. Ta lúc đó lập tức chỉnh đốn Lĩnh Nam, trước hết bình Di hoạn, liên kết chư hùng miền Nam. Khi đó Dương Kiên dùng thế cuồng phong quét lá rụng dẹp sạch Nam phương, định tiến quân vào Lĩnh Nam, bị một vạn tinh binh của ta bền lòng ngăn trở mười mấy vạn đại quân xâm phạm. Tống Khuyết ta mười trận thắng cả mười, khiến cho Dương Kiên khó lòng tiến tới một tấc đấc, bức bách phải cầu hòa. Ta biết chưa đến thời, chịu thụ phong làm Trấn Nam công, mọi người nước sông không phạm nước giếng, ta chưa từng kính Dương Kiên một nửa lễ, cho nên Dương Kiên trước khi giá băng vẫn vì không thể thu phục Tống Khuyết ta mà lòng luôn canh cánh.”

Tiếp đó lão hừ lạnh: “Người Bắc thống trị miền Nam thì sao chứ, một Dương Quảng đã khiến thiên hạ lại lọt vào loạn cục chia năm xẻ bảy, nguyên nhân bên trong không những là vì Dương Quảng hà khắc hại dân, ham lập đại công, hao mòn quốc lực, càng chứng minh ta không ưa Hán nhân sau khi Hồ hóa là chính xác. Sự dung hòa dân tộc không phải là chuyện tự nhiên là được, kẻ giết Dương Quảng chính là Vũ Văn Hóa Cập một tên người Hồ từ đầu đến đuôi. Muốn Trung thổ chấn hưng, bá tính có ngày tháng an lạc, tất cần phải ủng hộ Hán thống mới có hy vọng. Thiếu soái cần ghi nhớ lời nói này của Tống Khuyết ta.”

Khấu Trọng gật đầu đáp ứng, cảm thấy gánh nặng trên vai càng trầm trọng, hơn nữa lại sinh ra cảm giác quái lạ đối với chuyện Tống Khuyết từ từ khéo léo chỉ dạy này.

Gã nhịn không được nói: “Lấy Nam thống nhất Bắc là mục tiêu tối cao của Phiệt chủ, những chuyện khác đều là thứ yếu, đã là như vậy, Phiệt chủ rất có thể cự tuyệt sự khiêu chiến của Ninh Đạo Kỳ, cứ đơn giản để tôi đi nói với lão là lão nhân gia không có thời gian lý tới, còn Phiệt chủ đi về chủ trì đại kế công đả Giang Đô.”

Tống Khuyết đôi mắt toát ra thần sắc tổn thương bất lực: “Ta không muốn giấu ngươi, đề nghị của ngươi có sức hấp dẫn kinh người đối với ta. Nhưng kẻ hạ chiến thư là ái đồ của Thanh Huệ, mà Phi Huyên càng khiến cho ta nhìn thấy được Thanh Huệ từ trên người nó, cứ như là hóa thân của nàng, làm cho ta không nói nổi lời cự tuyệt. Một khi đã quyết định Tống Khuyết nào sẽ nói ngược đẩy đưa. Thanh Huệ quá rõ cá tính và cảm tình của ta đối với nàng, cho nên chụp được chỗ hiểm của ta. Ta tỏ rõ quyết tâm phù trợ ngươi tranh thiên hạ, ta đã rõ rõ ràng ràng dùng hành động để chứng minh tất cả. Sự vật trong thiên hạ có thể làm cho ta động tâm không có nhiều, Ninh Đạo Kỳ chính là một, thêm vào Thanh Huệ, bắt ta làm sao mà cự tuyệt.”

Khấu Trọng im bặt không nói được.

Tống Khuyết mỉm cười: “Bọn ta kiếm cây gỗ làm một bè gỗ nhé.”

Khấu Trọng ngạc nhiên: “Bọn ta phải đi đường thủy sao?”

Tống Khuyết đáp: “Ninh Đạo Kỳ hiện tại đang ở Tịnh Niệm Thiền Viện đợi ta, đi đường thủy có thể bớt chút cước lực. Đã có Thiếu soái làm bạn đồng hành, ta có thể đỡ mất sức chèo bè, tĩnh tọa mấy canh giờ, đêm mai ta sẽ quyết chiến với Ninh Đạo Kỳ ở thiền viện, xem coi ai là đệ nhất nhân của Trung thổ.”

o0o

Từ Tử Lăng và Âm Hiển Hạc cả đêm leo ra tường thành rời khỏi Hán Trung, đi vội lên Bắc, tiến sâu vào vùng núi Tần Lĩnh, mới thật sự thể hội được tình huống đông cứng của băng tuyết.

Tuyết trên quan đạo dày tới sát gối, còn đông cả trên cây cối thành những chuỗi băng trong suốt, lúc gió phất qua hoa tuyết lã tã rơi, cảnh vật sinh tình.

Đỉnh núi phủ tuyết nhấp nhô, không thấy người đi đường.

Mây mù dày kín che phủ bầu trời thâm trầm một màu xám xịt, bão tuyết tựa như sẽ hạ mình bất cứ lúc nào.

Âm Hiển Hạc quay đầu liếc nhìn hai hàng dấu chân lưu lại: “Người của Đại Minh Tôn giáo quyết tâm không ngừng truy đuổi bọn ta, khẳng định không lâu sau sẽ rượt đến.”

Từ Tử Lăng quan tâm hỏi: “Ngươi có thụ thương không?”

Âm Hiển Hạc đáp: “Không sao! Chỉ có chút ít huyết khí đọng nghẽn. Ài! Công phu của Liệt Hà xem chừng còn cứng cỏi hơn Hứa Khai Sơn, thật kỳ quái.”

Từ Tử Lăng thốt: “Bởi Hứa Khai Sơn còn đang mang nội thương chưa bớt, nếu không, có muốn thoát thân cũng phần phải phí nhiều thời gian. Thật là lạ!”

Âm Hiển Hạc ngạc nhiên: “Ngươi thấy lạ chỗ nào?”

Từ Tử Lăng đáp: “Ngày trước lúc ở Long Tuyền, người của Đại Minh Tôn giáo đâu có coi trọng Ngũ Sắc thạch gì đâu, ít ra không toàn lực tranh đoạt, hiên tại lại như bất chấp tất cả mà giành, làm cho ta cảm thấy kỳ lạ.”

Âm Hiển Hạc gật đầu đồng ý: “Trừ phi bọn chúng không muốn ở lại Trung nguyên nữa, nếu không, không nên đến quấy nhiễu ngươi.”

Từ Tử Lăng rúng động: “Ta hiểu rồi!”

Âm Hiển Hạc ngạc nhiên: “Hai câu nói của ta lại có thể mở đường cho ngươi sao?”

Từ Tử Lăng cười nói: “Chính là như vậy, trên sự thật bọn chúng chính là không muốn ở lại Trung nguyên, còn muốn rời khỏi Tái ngoại, đến một nơi bọn chúng có thể phát dương Đại Minh Tôn giáo. Bất kể là Tái ngoại hay Tái nội, bọn chúng đều có cừu gia, chỉ một Thạch Chi Hiên thôi đã đủ khiến cho bọn chúng lo sợ phập phồng, Bồ Tát hồi nữ lại càng không chịu bỏ qua cho chúng.”

Âm Hiển Hạc không hiểu: “Bọn chúng còn có chỗ nào có thể đi chứ?”

Hai người vượt qua một đỉnh núi, lần theo quan đạo đi xuống triền núi.

Từ Tử Lăng đáp: “Đương nhiên là Ba Tư nơi bắt nguồn của Đại Minh Tôn giáo, chỉ có ở đó Ngũ Sắc thạch mới có giá trị và tác dụng, bọn họ chỉ cần nói năng dễ nghe, đem Ngũ Sắc thạch hoàn lại cho nguyên chủ, chắc có thể có chút thành tựu, nếu không chỉ ngồi đợi bị mổ xẻ.”

Âm Hiển Hạc hân hoan: “Suy đoán của Tử Lăng hợp tình hợp lý quá, ta không tìm ra chỗ hở nào.”

Hắn lại nói: “Nếu Ngũ Sắc thạch đã thành món đồ duy nhất cho bọn chúng lên đường và trùng chấn phong thái, bọn chúng nhất định không chịu tha cho bọn ta.”

Từ Tử Lăng nói: “Vậy cũng tốt, Hiển Hạc không phải muốn tìm công đạo cho An Lạc bang chủ sao? Bọn ta trước khi đến Trường An lo xong chuyện này.”

Âm Hiển Hạc nhíu mày: “Đã là Tử Lăng có tâm ý như vậy, hồi nãy tại sao không chu toàn bọn chúng luôn.”

Từ Tử Lăng đáp: “Hồi nãy quyền chủ động thao túng nằm trong tay bọn chúng, lão ca ngươi lại nửa tỉnh nửa say, công lực bị gò bó đi nhiều, kẻ chịu kém là bọn ta. Hiện tại bọn ta thu mình chực chờ, đón đánh bọn chúng, hơn nữa có thể sinh động biến hóa chiến lược, gọi là tùy tiện mà hành động.”

Âm Hiển Hạc cười khà: “Không lạ gì Khấu Trọng và Từ Tử Lăng có thể danh chấn Tái nội Tái ngoại, ở với các ngươi càng lâu càng cảm thấy các ngươi gan góc chọc trời, quỷ thần khó lường, người khác khó bằng.”

Từ Tử Lăng thốt: “Tâm tình của ngươi đỡ hơn nhiều rồi!”

Âm Hiển Hạc gật đầu: “Không biết có phải bị ngươi lây nhiễm hay không mà ta chợt cảm thấy lạc quan phi thường. Thật ra hoàn cảnh của ngươi không tốt hơn ta bao nhiêu, hơn nữa gần như là gút mắc không có cách nào tháo gỡ được, nhưng ngươi vẫn dũng cảm đối diện. Vấn đề của ta đơn giản hơn của ngươi, Kỷ Thiến một là biết nơi hạ lạc của Tiểu Kỷ, hai là không biết, sau khi đến Trường An là rõ cả, nếu ông trời không chịu để huynh muội bọn ta trùng phùng, ta chỉ còn nước chịu nhận số mạng, sau đó tận lực trợ giúp Tử Lăng hóa giải đại tai kiếp của Trung nguyên này, hy vọng có thể gầy chút phúc đức cho Tiểu Kỷ.”

Từ Tử Lăng hiểu, nguyên nhân làm cho Âm Hiển Hạc chuyển thành tích cực là mình đã kích thích tâm trạng hiệp nghĩa của hắn, tìm được mục tiêu cho cuộc đời.

Gã hân hoan thốt: “Yên tâm đi! Ta có lòng tin ngươi có thể đoàn tụ cùng lệnh muội. Ui! Là mùi gì vậy?”

Âm Hiển Hạc ngước mũi ngửi: “Ừ! Là mùi rất quen thuộc! Nếu ta không đoán lầm, chắc có người nướng thịt sói đằng trước. Ta đã từng ăn thịt sói mấy lần ở Tái ngoại, mùi thịt không khác gì.”

Hai người quẹo vào một hẻm núi, xa xa đằng trước bên quan đạo thấp thoáng đèn đuốc, mùi thơm chính là từ chỗ đó truyền ra.

Âm Hiển Hạc nói: “Là một dịch trạm, không ngờ trời lạnh đông đá như vầy vẫn có người ở lại.”

Từ Tử Lăng thốt: “Cho dù có người ở lại, chắc đã sớm lên giường chui vào chăn ấm say mộng, sao lại đốt lửa nướng thịt, hơn nữa lại là thịt sói dữ.”

Âm Hiển Hạc cười nói: “Mối tư lự của Tử Lăng làm cho tiểu đệ cũng lo, bọn ta đi luôn hay là vào dịch trạm kiếm một hai miếng?”

Từ Tử Lăng điềm đạm đáp: “Qua cửa là khách, đương nhiên cứ tiến vào xem sao. Ý Hiển Hạc huynh thế nào?”

Âm Hiển Hạc vui vẻ nói: “Mọi việc cứ theo ý của Tử Lăng.”

Hai người cười cười nói nói, sải bước về phía dịch trạm.

- o O o -

HỒI 700

Nghĩa Thích Kim Cương

Tuyết nối đuôi nhau từ trên trời bay xuống, càng lúc càng dày, toàn vùng núi chìm vào một màu trắng miên man. Khấu Trọng đẩy mái chèo ở cuối bè, mục quang nhìn bóng lưng hùng tráng như một trái núi của Tống Khuyết đang ngồi xếp bằng dõi trông phía trước. Hoa tuyết rơi đến cách nửa thước trên đầu lão ta, lập tức bị một lực lượng thần bí khôn lường gạt trật qua, tự nhiên bay tránh sang một bên, không một tí nào vấy lên mình lão ta được.

Bão tuyết vẫn đang rầm rập bao trùm trời đất, bè gỗ đã đóng mấy tấc tuyết, tăng gia trọng lượng thân bè, khiến cho Khấu Trọng phải quét dẹp mấy lượt.

Giữa tuyết trắng mênh mông, hai bờ Y Thủy biến thành những đường nét mơ hồ mờ mịt, bất kể bè gỗ động chạm trôi nổi thế nào trên mặt sông, Tống Khuyết vẫn ngồi vững như Thái Sơn, không một chút động đậy.

Thiên Đao danh chấn thiên hạ đặt ngang trên gối, song thủ nắm nhẹ, làm cho Khấu Trọng càng cảm nhận được cảnh giới “ngoài xả đao ra không còn gì khác” của Tống Khuyết.

Trận chiến này của Tống Khuyết thật là may rủi khó liệu.

Khấu Trọng từng giao thủ qua với hai người, lại hoàn toàn không có cách nào nhận được ai cao ai thấp, bọn họ đều như vực sâu biển rộng thâm trầm không lối ra, không thể nào dò tìm mức độ nông sâu.

Giả như Ninh Đạo Kỳ bại trận, đương nhiên mọi việc lại tiến hành như cũ, trường quyết chiến này chỉ là một khúc chen trên con đường thống nhất thiên hạ.

Nếu Tống Khuyết bại trận bỏ mình, Khấu Trọng sẽ không còn đường thoái nào khác, chỉ có thể kế thừa di chí của Tống Khuyết, hoàn thành mộng tưởng của Tống Khuyết, vì nghĩa vụ không còn đường quay lại.

Sau khi thấu qua lời nói của Tống Khuyết hiểu được sự khác biện giữa y và Phạm Thanh Huệ, gã không còn cách nào rõ được vấn đề ai đúng ai sai. Mọi người có lập trường và lối nhìn riêng biệt, không những là đấu tranh tư tưởng, mà còn là đấu tranh khu vực.

Không chỉ đơn độc một lần mà lặp đi lặp lại, Tần Thuỷ Hoàng Doanh Chính kết thúc sự chia rẽ trường kỳ Xuân Thu Chiến Quốc, lúc quốc thế cường thịnh nhất, lại chỉ truyền một đời rồi mất; Tùy Văn đế Dương Kiên khiến cho loạn cục Ngụy, Tấn - Nam, Bắc triều quy hợp thống nhất lại, cũng qua hai đời là sụp đổ. Sự xảo hợp này là số mệnh lịch sử? Hay là hậu quả tất nhiên của việc muốn có đồng hóa dưới sự khác biệt văn hóa?

Hán triều trường trị an bình sau nhà Tần, Trung thổ sau nhà Tùy có phải cũng hưởng vận mệnh giống như vậy?

Khấu Trọng dưới sự mở mang của Tống Khuyết đã vượt quá thời đại của bản thân mình. Dùng góc độ từ trên nhìn xuống để quan sát nguyên nhân sâu xa sau lưng sự trị loạn, hưng suy xưa nay, giúp cho gã thâm nhập hoàn cảnh tự xem xét nội tâm mình.

Bè gỗ dưới sự thao túng của gã tiến tới hướng bắc, đưa Tống Khuyết đến vị trí quyết chiến.

Đây không những là một trường quyết đấu sinh tử chấn động nhất Trung thổ, mà còn là trận quyết chiến then chốt quyết định mệnh vận thiên hạ.

Khấu Trọng sâu sắc cảm nhận được bất kể chiến cục kết quả ra sao, hình thế Trung nguyên sau trận quyết chiến sẽ vĩnh viễn không thể hồi phục lại bộ dạng trước đây.

o0o

Trong dịch quán ấm áp như mùa xuân, mùi thơm lan tỏa, bảy hán tử ăn vận kiểu thương lữ bình dân đang quây quần quanh một lò lửa đắp tạm, thiêu nướng hai cái đùi sói, khói nghi ngút qua song cửa hai bên, trong quán không khí không ngột ngạt chút nào. Thấy Từ Tử Lăng và Âm Hiển Hạc hai vị khách không mời mà đến đẩy cửa đi vào, ai nấy cũng nhìn lên nhìn xuống hai người, lại không chào hỏi nói năng, khiến bọn họ cảm thấy không khí khẩn trương sát khí đằng đằng động chạm là bùng nổ.

Từ Âm hai người lịch duyệt giang hồ, thấy bọn người kia ai ai cũng có bọc dài đặt ở chỗ tầm cánh tay có thể duỗi chụp, đều biết bên trong tất có giấu binh khí, bảy tráng hán kia không những là kẻ có võ, không chừng còn là đạo tặc chuyên cướp của giết người.

Từ Tử Lăng đóng cửa lại, mục quang lạc trên mình một tráng hán cỡ hăm bảy, hăm tám đang ngồi bên lò nướng đối diện cửa lớn, người này thần thái trầm ổn lãnh tĩnh, tuy mặt mày phong trần vẫn khó che đậy anh khí, hiển hiện không phải là tiểu tặc chặn đường cướp của, mà là cao thủ võ công cực cao.

Y không một chút nhân nhượng nghênh đón mục quang của Từ Tử Lăng, cũng lộ thần sắc kinh dị, hiển thị có nhãn lực cao minh.

Những người khác chỉ theo sự dẫn dắt của y, đều đưa mục quang tuân thủ ý hướng của y, chờ y phát lệnh.

Từ Tử Lăng trực giác cảm thấy bọn chúng không phải là hạng đạo tặc, liền hé cười ôm quyền thăm hỏi: “Xin thứ cho bọn ta quấy nhiễu, chỉ vì ngửi thấy mùi thịt thơm lừng, nhịn không được nên chui vào, không có ý gì khác.”

Hán tử cứng cỏi anh khí kia rướn người dậy, ôm quyền hồi lễ: “Huynh đài thần thái diện mạo làm cho tại hạ nghĩ tới một người, dám hỏi cao tánh đại danh.”

Giọng nói của y đậm đặc khẩu âm Tái bắc, Từ Tử Lăng lòng rúng động, thản nhiên đáp: “Bản nhân Từ Tử Lăng.”

Bao gồm cả hán tử anh vĩ kia, ai ai cũng lộ thần sắc chấn động, ai còn ngồi cũng liền đứng dậy, hướng tới gã thi lễ, thái độ thân thiện.

Hán tử anh vĩ hiện ra thần sắc cảm khái anh hùng khí đoản, cười khổ: “Thì ra thật là Từ huynh, tiểu đệ là Tống Kim Cương.”

Từ Tử Lăng ngây người: “Tống huynh sao lại đến đây?”

Tống Kim Cương buồn bã: “Tướng bại trận không đủ dũng khí để nói, chuyện này nói ra thì dài, bọn ta chi bằng ngồi xuống đàm thoại.”

Mọi người lại vây quanh lò lửa ngồi xuống, Từ Tử Lăng và Âm Hiển Hạc chia nhau ngồi hai bên Tống Kim Cương, sau khi giới thiệu Âm Hiển Hạc, mọi người thay phiên dùng dao bén cắt thịt sói, vừa ăn vừa nói.

Tống Kim Cương thốt: “Có thể cùng chia sẻ thịt sói với Từ huynh, Âm huynh như vầy là ân sủng đặc biệt của ông trời đối với ta, sau khi đại bại trận Bách Bích, ta và Định Dương Khã hãn bị Lý Thế Dân phái binh đánh đuổi sát rạt, thủ không được Thái Nguyên, duy chỉ còn nước thoái ra Tái ngoại đầu hàng Hiệt Lợi, nào hay lại trúng gian mưu của Triệu Đức Ngôn.”

Định Dương Khã hãn là Lưu Vũ Châu, chủ của Tống Kim Cương.

Từ Tử Lăng cau mày: “Triệu Đức Ngôn và các ngươi có ân oán gì, sao lại muốn hãm hại các ngươi?”

Tống Kim Cương đáp: “Vấn đề ở chỗ Hiệt Lợi có vẻ coi trọng Tống Kim Cương ta, cho nên khiến cho Triệu Đức Ngôn sinh nghi kỵ, cho nên phao bậy với Định Dương khả hãn là Hiệt Lợi hy vọng bọn ta về lại Thượng Cốc, Mã Ấp chiêu tập binh tướng cũ, sắp xếp phản kích Đường quân. Nào hay trên đường bọn ta y lời dẫn người về Trung nguyên, Triệu Đức Ngôn lại nói với Hiệt Lợi bọn ta có ý đồ mưu phản. Vì vậy bọn ta bị Lang quân truy kích, Định Dương khả hãn tử trận tại đương trường, gần ngàn huynh đệ không ai may mắn, chỉ có bảy người bọn ta thành công chạy thoát.”

Một người trong số nói: “Toàn là nhờ Tống soái nghĩ ra kế Kim thiền thoát xác, dùng một huynh đệ đã chết mặt y phục của người, rạch nát mặt mày người đó, Triệu Đức Ngôn mới chịu thu binh về.”

Từ Tử Lăng lòng đã sớm biết chuyện như vậy sẽ xảy ra, đâu cảm khái gì, Triệu Đức Ngôn nói không chừng là do Hiệt Lợi sau lưng sai phái, bởi Lưu Vũ Châu và Tống Kim Cương đã mất đi giá trị lợi dụng, không cần phải lưu giữ trên thế gian nữa. Nếu công nhiên xử quyết hai người, sẽ làm cho Hán nhân nương tựa Đột Quyết bỏ đi, cho nên phải dùng chút thủ đoạn.

Tống Kim Cương lại thở dài than: “Bọn ta có phải rất ngu xuẩn không?”

Từ Tử Lăng đối với việc y chơi với cọp đòi lấy da nó, làm chó săn cho người Đột Quyết đã thấy bất đồng sâu xa, bất quá Tống Kim Cương đã đến bước sơn cùng thủy tận, không muốn đánh hôi người ta, chỉ còn nước thốt: “Thắng làm vua thua làm giặc, thông minh ngu xuẩn gì chứ. Tống huynh có tính toán gì cho tương lai?”

Tống Kim Cương đáp: “Thật không giấu gì, Bắc phương không còn chỗ cho Tống Kim Cương ta dung thân, cho nên muốn đi Giang Nam đầu hàng Tiêu Tiễn luôn có quan hệ mật thiết với bọn ta, nào ngờ sau khi về Trung nguyên mới biết hình thế đại biến, Tống Khuyết kéo binh ra khỏi Lĩnh Nam trợ giúp Thiếu soái tranh thiên hạ, nhiều người khẳng định phía bắc Trường Giang sớm muộn gì cũng quy hàng Thiếu Soái quân hết, cho nên thám thính ý của Tiêu Tiễn, nhắm xem Ba Thục rời bỏ trọng tâm tranh bá ở Trung nguyên, hy vọng tìm được một chỗ ẩn lánh tươi sáng sống tới già, không lo tới thế sự nữa.”

Âm Hiển Hạc ngạc nhiên: “Tống huynh sao không tính tới đầu quân Thiếu soái, sự rành rọt của Tống huynh đối với Đột Quyết tất sẽ có ích vô cùng cho Thiếu soái.”

Tống Kim Cương lộ thần sắc khổ não: “Ta năm xưa đã lập tâm bất lương đối với Thiếu soái, kết bọn với Tiêu Tiễn và Hương Ngọc Sơn hãm hại gã, còn có mặt mũi nào đi cầu xin gã thu dụng. Bỏ đi! Kim Cương hiện tại lòng đã nguội lạnh, không còn hùng tâm tráng chí nữa.”

Từ Tử Lăng gật đầu: “Tống huynh thoái ra khỏi cuộc phân tranh là việc làm sáng trí.”

Tống Kim Cương nghiêm mặt: “Từ huynh không nhắc chuyện ác cũ, đối với Kim Cương không nửa lời trách cứ, Kim Cương cảm kích phi thường. Hiện nay Tái ngoại hình thế cực kỳ khẩn trương, các tộc Tái ngoại dưới sự lôi kéo của Hiệt Lợi và Đột Lợi đã kết thành liên minh, dùng khẩu hiệu đẹp đẽ nói là phù trợ Khấu Trọng, chính đang bí mật tập hợp quân lực chuẩn bị kéo rốc xâm lăng miền Nam. Mặt khác để Triệu Đức Ngôn thông qua thế lực Ma môn ở Trường An, tận lực trấn an Lý Uyên và Lý Kiến Thành, nghe nói Lý Uyên đối với chuyện liên quân Tái ngoại vẫn còn như nằm mộng không phát giác gì, tình thế bất lợi phi thường.”

Từ Tử Lăng nghe vậy tâm tình càng trầm trọng, Tống Kim Cương chạy trốn khỏi Đột Quyết, nắm bắt được tình báo đầu tay về Hiệt Lợi, Đột Lợi, tuyệt không phải nói bậy. Xem chuyện Lương Sư Đô sai người thông qua Hải Sa bang thu mua binh khí Giang Nam là biết Ma môn và Đột Quyết đang sắp xếp đại âm mưu đối phó Lý Thế Dân, Lý Thế Dân nếu bị hại chết, đại quân Tái ngoại lập tức xâm nhập, chiến lược cao minh cực kỳ. Lời nói của Tống Kim Cương càng làm gã kiên định quyết tâm đi gặp Lý Thế Dân, hơn nữa không thể chậm trễ chút nào.

Tống Kim Cương lại giọng trầm trầm long trọng: “Trong chư hùng Nam phương, Phụ Công Hựu, Lý Tử Thông và Trầm Pháp Hưng đều không đủ gây họa, chỉ là đối tượng dâng cho Thiếu soái luyện đao. Kẻ duy nhất đáng ngại là Tiêu Tiễn và Lâm Sĩ Hồng, đặc biệt là họ Lâm rất khó đối phó. Bọn họ nếu không phải lo kềm chế lẫn nhau, đã sớm vượt Trường Giang lên Bắc, khuếch trương thế lực.”

Cái Từ Tử Lăng quan tâm là sự uy hiếp của liên quân Tái ngoại, đối với Tiêu Tiễn và Lâm Sĩ Hồng giờ phút này đâu để tâm tới, nhưng đối phương tỏ hảo tâm nên lễ độ hỏi: “Tống huynh thấy sao về hai người này?”

Tống Kim Cương đáp: “Khuyết điểm của Tiêu Tiễn là ngoài rộng trong hẹp, đố kỵ nhân tài, hay trấn áp tru sát kẻ có công cao, cho nên nội bộ không ổn. À! Nếu không phải ta không còn đường đi, tuyệt sẽ không nghĩ tới đi đầu hàng hắn.”

Từ Tử Lăng mỉm cười: “Nói như vậy, Khấu Trọng trái lại đã giúp Tống huynh có quyết định chính xác rồi.”

Tống Kim Cương bẽn lẽn cười: “Lâm Sĩ Hồng vừa được Phùng Áng dẫn quân quy hàng, thế lực tăng gia, thực lực vượt trên Tiêu Tiễn, đối phó hắn không phải dễ.”

Từ Tử Lăng đang định nói cảm tạ, chợt lòng sinh cảnh giác, quát khẽ: “Có người!”

o0o

Khấu Trọng nghĩ đến rất nhiều sự tình, còn nghĩ tới đủ mọi khả năng, cuối cùng đi đến một kết luận mà chính gã cũng ngấm ngầm thất kinh, là gã tất phải tuyệt đối bình tĩnh đi ứng phó nguy cơ xuất hiện một khi Tống Khuyết bại trận, phải tạo an bài chính xác và có hiệu quả, không thể dùng tình cảm hành sự, không thể để tình tự theo chiều hướng xấu che phủ lý trí. Gã cần phải đem thắng lợi tối hậu đặt ở vị trí trọng yếu nhất, bởi gã không còn là tên tiểu lưu manh xông nam xáo bắc cùng Từ Tử Lăng nữa, mà là người lãnh đạo tối cao của Thiếu Soái quân. Sai lầm gã phạm phải sẽ dẫn đến hậu quả đáng sợ cho bá tánh theo ủng hộ gã và Thiếu Soái quân.

Ai đủ tàn nhẫn, người đó có thể sống còn.

Thời gian ba tháng băng đá này tất cần phải lợi dụng thích đáng, dùng thủ đoạn quân sự ác liệt nhất khống chế các vùng đất miền Nam một cách toàn diện, gã phải dùng hành động để chứng minh cho tất cả những ai phản đối gã thấy không một ai có thể cản trở Thiếu soái Khấu Trọng gã.

Nghĩ đến đây, đầu óc gã linh hoạt hẳn, nghĩ đi nghĩ lại trật tự tiến thoái có lợi nhất cho công cuộc thống nhất đại nghiệp của gã dưới những khả năng khác nhau.

Giờ phút này, gã cuối cùng đã thành công đem đao pháp hòa vào binh pháp.

Xá đao chi ngoại, tái vô tha vật.

o0o

“Bình!”

Cửa gỗ bể tan tành, như mưa tạt bắn về phía mọi người ngồi quanh lò lửa. Gió tuyết cuồn cuộn ùa vào, thổi lò nướng khói túa mù mịt, thanh thế hãi hùng đến cực điểm.

Với tu vi của Từ Tử Lăng cũng phải rùng mình phát lãnh.

Từ lúc gã cảm ứng được có người đến gần, lên tiếng cảnh cáo, đến lúc người đến phá cửa sát nhân, khoảng thời gian chỉ là một búng tay ngắn ngủi, có thể thấy công lực của người đến không dưới Từ Tử Lăng. Tốc độ của hành động, thủ pháp hung mãnh bạo ác biểu hiện phong cách của sát thủ thích khách cao thâm tột đỉnh, ít nhất cũng thuộc hàng cao thủ cỡ Dương Hư Ngạn.

Đao quang loang loáng như chớp, toàn dịch quán lập tức đao khí ngang dọc, đao phong lấp loáng phảng ánh dưới ánh lửa, thần tốc như lưu tinh nhắm đầu Tống Kim Cương quật xuống, tàn độc đến cục điểm.

Tống Kim Cương còn chưa kịp rút bội đao ra khỏi bao, đao phong chỉ còn cách yết hầu hắn chưa tới ba thước.

Tống Kim Cương không hổ là cao thủ, tuy bị dồn vào thế hạ phong tuyệt đối, lâm nguy vẫn không loạn, lăn lùi ra sau.

Sáu thủ hạ của hắn ai ai cũng vọt dậy rút binh khí ra, nhưng đều chậm mấy bước, nếu đối phương thừa thế truy kích, khẳng định trước khi Tống Kim Cương bị chém chết, bọn họ cả vạt áo của đối phương cũng không đụng tới được.

Âm Hiển Hạc trường kiếm rời khỏi lưng, phạt ngang người địch nhân, Từ Tử Lăng từ dưới đất búng lên, huy quyền đập xéo lên lưỡi đao.

“Bộp!”

Kình khí chạm nhau, phát ra tiếng động như pháo nổ.

Người cầm đao thoái theo hướng cửa, đến đi như tên bắn, đứng sừng sững sau cửa lớp, khẽ lắc lư chút xíu.

Chúng thủ hạ của Tống Kim Cương đang định tiến tới liều mạng, Từ Tử Lăng quát lớn: “Mọi người dừng tay!”

Gió tuyết hù hù thổi rát, từ ngoài ốc cuộn vào, lò lửa dần dần phục hồi nguyên trạng, tuy còn phất phơ lúc sáng lúc tắt, cũng đủ để soi sáng bên trong dịch quán trở lại.

Người vác đao đứng ngoài quát gằn giọng: “Tử Lăng đừng can thiệp, đây là chuyện giữa người Đột Quyết bọn ta và Tống Kim Cương, Tử Lăng nếu vẫn coi ta là bằng hữu, xin lập tức bỏ đi.”

Tống Kim Cương từ dưới đất chống đao đứng dậy, sắc mặt tái nhợt, hít một hơi sâu: “Khả Đạt Chí!”

Khả Đạt Chí đôi mắt sát khí rừng rực, đao khí ép chặt mọi người trong quán, ngửa mặt cười nói: “Chính là bản nhân, Đạt Chí phụng mệnh Đại hãn tuyệt không cho phép ngươi sống sót. Ngươi nghĩ kiếm người mặc y phục của ngươi có thể man thiên quá hải sao? Có phải khi Đột Quyết ta ngu đần không?”

Tống Kim Cương hừ lạnh: “Ta ở đây, có giỏi thì cứ đến lấy mạng ta!”

Khả Đạt Chí mục quang quay sang chỗ Từ Tử Lăng, lãnh đạm thốt: “Là địch hay là bạn, Tử Lăng quyết một lời đi.”

Từ Tử Lăng điềm đạm đáp: “Chỉ cần Đạt Chí có thể nói ra Tống huynh có làm quấy với quý Đại hãn bất cứ chuyện gì, ta và Hiển Hạc sẽ lập tức bỏ đi, không can thiệp vào sứ mệnh của Đạt Chí.”

Khả Đạt Chí mặt lạnh như băng, quát lớn: “Bội phản Đại hãn, tính toán quay về Trung nguyên, mưu đồ bất chính, vậy còn chưa đủ sao?”

Từ Tử Lăng lắc đầu thở dài: “Đó chính là Triệu Đức Ngôn bày trò quỷ, giả truyền chỉ ý của quý Đại hãn, kêu bọn họ quay về Trung nguyên chiêu tập binh tướng cũ, Đại hãn của các người bị y bịt mắt rồi!”

Khả Đạt Chí hơi ngạc nhiên, mục quang quay sang Tống Kim Cương: “Ngươi và Lưu Vũ Châu đâu phải con nít lên ba, sao lại tin lời nói một cách tùy tiện, sao không kiếm Đại hãn minh chứng, lại bí mật đêm đến dẫn người bỏ đi.”

Tống Kim Cương bình tĩnh lại, trầm giọng: “Đừng nghĩ ta sợ ngươi, ta nể mặt Từ huynh mà đáp trả ngươi vấn đề này. Đại hãn lúc đó không có ở nha trướng, bọn ta từng hỏi han Đôn Dục Cốc, được gã chứng thực, mới không nghi ngờ y.”

Quay sang Từ Tử Lăng nói: “Dưới tình huống này, nói gì cũng vậy thôi. Từ huynh xuất thủ làm cho ta cảm kích phi thường, nhưng đây quả là ân oán giữa Tống Kim Cương ta và người Đột Quyết, nguyên nhân chủ yếu là ta không còn chỗ có thể cho người ta lợi dụng nữa. Ta hối hận vì lỗi lầm ban đầu. Nếu ông trời đã định cho ta chôn xương ở đây, ta không oán hận chút nào. Xin Từ huynh và Âm huynh tiếp tục lên đường.”

Âm Hiển Hạc gật đầu: “Hảo hán tử!”

Từ Tử Lăng quay sang Khả Đạt Chí: “Chuyện của Tống huynh đã được nghe lúc chuyện vãn hồi nãy, chắc là thật. Theo ta thấy, quý Đại hãn có ý trách Tống huynh khiến cho y hao tổn một số lớn tướng sĩ, cho nên có ý muốn giết.”

Khả Đạt Chí song mục sát khí có tăng chứ không giảm, lạnh giọng: “Tử Lăng đừng nói bậy nữa, chuyện này ngươi thật sự muốn nhúng tay vào sao?”

Từ Tử Lăng cười khổ: “Ngươi không phải là ngày đầu quen biết ta, chắc biết ta không thể ngồi nhìn chuyện không công bình.”

“Rẻng!”

Vượt ngoài ý liệu của mọi người, Khả Đạt Chí tra đao vào vỏ, đi tới chỗ Từ Tử Lăng, giang rộng hai tay, cười khà khà thốt: “Từ Tử Lăng đã muốn nhúng tay, lại có Âm huynh trợ trận, Kinh Châu ta còn làm gì được chứ?”

Dưới những con mắt ngỡ ngàng của mọi người, Từ Tử Lăng đi tới tiến hành tục lễ ôm chào, cười hỏi: “Vậy ngươi làm sao để ăn nói với Đại hãn?”

Khả Đạt Chí buông gã, mỉm cười đáp: “Đuổi bắt không được bảy người đâu có gì lạ? Huống hồ không phải Đại hãn tận miệng hạ lệnh cho ta, chỉ là Khang Sao Lợi truyền tin cho ta, nói rằng phát hiện Tống huynh chạy đến Hán Trung, có ý đồ tránh sang Ba Thục. Tiểu đệ nghe đồn Tống huynh công phu ghê gớm lắm, nhịn không được tức tốc ngày đêm rượt đuổi.”

Âm Hiển Hạc không hiểu: “Ngươi sao lại biết trong dịch quán có Tống huynh mà không phải là người khác?”

Khả Đạt Chí thản nhiên đáp: “Là người khác thì đã sao? Bất quá ôm nhau xin lỗi. À! Sự thật là ta phát hiện xác sói, thủ pháp cắt xẻ là tập quán của người Tái thượng, lại ngửi được mùi thịt thơm, cho nên đoán được Tống huynh đang ăn trong quán.”

Từ Tử Lăng hoài nghi: “Ngươi thật không tìm Tống huynh và các huynh đệ của y thanh toán chứ?”

Khả Đạt Chí không vui: “Ngươi không phải mới ngày đầu quen biết ta, Khả Đạt Chí từng nói gì mà không giữ lời chứ.”

Quay sang Tống Kim Cương thốt: “Tống huynh tốt hơn hết là lập tức ra đi, trốn càng xa càng tốt, Ma môn thế lực bao la, ta không biết Triệu Đức Ngôn có hành động gì khác để đối phó các ngươi không.”

Từ Tử Lăng gật đầu: “Đây không phải là thời khắc đọ anh hùng, Tống huynh có thể giữ được mạng coi như đã bắt Triệu Đức Ngôn thất bại một phen rồi, lời nói của Đạt Chí có lý.”

Tống Kim Cương ôm quyền thi lễ: “Được! Ân tình của hai vị, Tống Kim Cương ta vĩnh viễn không quên. Giã biệt!”

Hắn nói xong tay cầm túi vải, cùng thủ hạ ra khỏi cửa chìm vào bão tuyết. Hào hùng một đời không ngờ phải lọt vào hạ trường như vầy, khiến ai nấy cũng phải cảm thán.

Khả Đạt Chí cười nói: “Còn thịt sói nướng kìa, có thể cúng miếu ngũ tạng của ta.”

Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Các ngươi không phải là dân tộc thờ sói sao?”

Khả Đạt Chí đáp: “Cái bọn ta thờ là Lang thần, hễ đói thì lá cây còn có thể ăn, huống gì là súc sinh. Ngồi xuống hãy nói, ta rất nhớ cái ngày kề vai tác chiến với các ngươi ở Long Tuyền.”

Từ Tử Lăng lòng dâng tràn cảm giác ấm cúng, nghĩ tới có thể có một ngày phải quyết chiến sa trường với họ Khả, không khỏi cảm khái ngút ngàn.

Tạo hóa trêu người, dễ gì bỏ qua cơ hội này.

- o O o -

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro