88. Cái gối quạ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Vùng Quần Ngựa ngày ấy còn hoang vu. Thành phố mới mở rộng ra quanh hồ Gươm chưa đến mấy vùng ngoại ô. Nhà giam và tòa án không còn ở phố Mã Mây, phố Hàng Tre mà chuyển xuống Hỏa Lò - làng Phụ Khánh. Chẳng qua vì làng Phụ Khánh làm nghề nặn hỏa lò mà chỗ nhà giam thành tên là Hỏa Lò. Người ta làm thêm cái bãi tha ma Tây gần đền Quan Thánh. Chỗ chơi ngựa thì ở trước ga Hàng Cỏ được đưa ra chỗ giáp giới trại Đại Ơn, trại Kho Than. Tuy đất thuộc các trại, nhưng còn bỏ hoang nhiều. Đốc lý Tây không đến nỗi phải lập mẹo vu cho có bệnh chuột dịch hạch để đốt làng như thôn Thể Giao dưới Vân Hồ hay đuổi cả làng Phụ Khánh đi lấy chỗ làm tòa án, sở mật thám và trại nhốt tù.
Vùng để làm Quần Ngựa ngút ngàn lau sậy từ mả quan ba F.Garnier bên Giảng Võ suốt sang sông Tô Lịch, chỗ ấy gần cống Đõ đền Voi Phục, tới bên kia sông lại xanh ngắt những búi cây rút trên nước bùn xâm xấp ra tận mép hồ Tây. Các cụ kể vùng này đời trước có thành lũy rồi bỏ đổ nát, làm nơi cho ma và trộm cướp ẩn náu. Sau dần dần có người tới khẩn hoang, có quãng đã thành vườn tược nhưng vẫn trống trải. Một trại nhốt hàng trăm con bò của người trong phố ra thuê người chăn, rồi cái tha ma đầu làng Thụy rộng ra, nhà Ích Phong xây xưởng dầu cù là. Cổng xưởng gắn tượng ba ông Phúc, Lộc, Thọ, người qua lại gọi chỗ ấy là nhà Tam Đa. Bây giờ thành tên dốc Tam Đa. Chính cái tượng Tam Đa trên cổng ngày trước ở cuối dốc, bên kia đường. Bến tàu điện lên Bưởi đỗ tránh nhau ở cổng Rong. Vườn nhãn của mẹ nuôi ông tri huyện Hải rộng mấy chục mẫu cũng là đất trại Đại Ơn, đã bán cho huyện Hải như cho không. Cái Quần Ngựa được mọc ra trong những năm vùng này lác đác có nhà ở.
Vòng đua ngựa tròn đến bốn, năm cây số, cọc sơn trắng đóng hai bên làm hiệu đường cho ngựa chạy quanh bãi cỏ thẳng tắp. Suốt ngày, người làm cái cầm cái máy xén bấm tạch tạch như cầm tông đơ bờm dầu, cắt cỏ phun ra từng đám. Ngày chủ nhật có ngựa thi, phu làm cỏ mới được nghỉ. Trong vòng đua, đàn ngựa chạy nhấp nhô xa xa, đến gần, những con ngựa tung vó thở phòm phọp, mũ đỏ mũ xanh người dô kề nhô lên, ngựa nhảy qua cái trổ chổi xể dựng ngược nẹp ván gỗ. Ngựa đuối chân, vấp chúi xuống, người dô kề bị ngã tung, con ngựa xổng cương như điên, húc qua bờ rào phi ra đường. Người đứng xem chạy ré. Thấy bảo có hôm ngựa lồng, giẫm lòi ruột người dô kề. Đằng xa, tòa nhà một tầng tường vôi trắng có hàng hiên xanh xanh. Người xem ngựa thi ngồi ngoài hiên nhìn ra khắp vòng bãi. Những người ấy là chủ ngựa, là tây đầm đi hóng mát, là các nhà giàu ăn chơi kiểu Tây - chơi ngựa thi, xem ngựa thi, mà cái chính là cá cược, đánh cá ngựa to cả trăm bạc một suất, có người Tây chơi cá ngựa một hôm mất cả một cái đồn điền. Ngựa thi ở Quần Ngựa là đánh bạc, không phải như chơi quần vợt, bơi thuyền thoi thuyền buồm chỗ nhà thuyền đầu đường Cổ Ngư.
Trẻ con các làng quanh đấy nô nức Quần Ngựa. Đi xem ngựa chạy thi, nhìn đám đông ô tô và người sang trọng đến, chứ biết đâu cá ngựa, cá cược như thế nào. Chúng tôi chỉ dám thập thò bên ngoài bờ rào những cây găng tây. Sợ ngựa nhảy ra giẫm chết, chúng nó trèo lên cây me tây trên đường Thành nhòm xuống. Rồi cũng chóng chán. Chớp mắt, những con ngựa chạy thi đã chen nhau chồm qua trổ. Người dô kề đội mũ xì mẩu tái xanh tái đỏ rạp mình trên lưng ngựa, hai con mắt căng lồi, mặt xám ngoét lẫn với màu cỏ. Nhoáng một cái thế thôi, rồi chú ngựa nào về nhất, nhì hay bét qua chỗ đích vạch vôi có các quan khách đứng trong mái hiên đằng kia. Câu ví "vui xem hát, nhạt xem bơi" kể ra xem đua ngựa còn chóng chán hơn anh Sáu Mủn gà nòi của tuần phủ Cung Đình Vận bơi thi trên hồ Tây.
Những năm sau này, đến chủ nhật càng đông người thành phố đổ lên Quần Ngựa. Không phải lên đứng vòng ngoài xem ngựa chạy như chúng tôi. Người ta mua vé vào cửa để đánh cá ngựa. Cá ngựa, cờ bạc thịt nhau tới số, cứ việc tha hồ được của mất của không bị cấm, bị bắt như đám sóc đĩa. Buổi tối, trong ấy lại mở ra cao lâu ăn uống và nhảy đầm. Đêm mát trời, chiếu phim, khách ngồi trong hiên nhà nhìn ra bãi cỏ. Trẻ con chui bờ rào vào đằng sau phía cái phông vải trắng, xem phim ngược.
Chủ nhật, tôi hay lên Quần Ngựa, nhưng cũng ít khi xem thi ngựa. Bãi Quần Ngựa có từ năm nào không biết, chắc cũng đã lâu. Chẳng như nhà thờ Cửa Bắc mới xây hồi thập niên ba mươi, nhiều người tưởng cái nhà thờ ấy cổ như nhà thờ Hàng Trống. Cái khi còn đương xây, mỗi khi đi học qua, thế nào chúng tôi cũng lách vào trèo trộm lên gác chuông trên mái chóp thò cổ ra nhìn xuống xem hồ Tây, hồ Trúc Bạch trông sang được cửa đình Võng trăng trắng. Quanh rào Quần Ngựa, những mô đất cao như gò, có chỗ dài như bức tường, lau sậy mọc ngập đầu, không rõ đống đất hay tường thành cũ lúc nào cũng nhiều người xúm quanh bới ra.
Người ta nói trong đống đất có cái lưỡi tầm sét. Ai bắt được lưỡi tầm sét đem ra Kẻ Chợ bán cho nhà Bác Cổ được chục bạc một cái. Trời ơi, bạc chục bạc trăm bằng cái vốn to mà lại chỉ bới đất lấy được. Tôi chưa thấy cái lưỡi tầm sét lần nào. Những người đào bới cũng chỉ nhặt được mảnh sành, mảnh chĩnh cái que đồng rỉ xanh như chiếc đinh đỉa có mũi có ngạnh, những của ấy đem bán nhà Bác Cổ cũng mua, được có vài xu.
Tôi hỏi ông tôi:
- Ông đã trông thấy lưỡi tầm sét chưa?
- Trông thấy cái lưỡi tầm sét để mà chết à!
- Sao lại thế?
- Lưỡi tầm sét là cái búa của ông Thiên Lôi. Giời sai Thiên Lôi đánh ai thì ông ấy xách búa đi đánh. "Thiên Lôi chỉ đâu đánh đấy" mà. Khi có mưa gió sấm sét là ông Thiên Lôi đương đánh người đấy, lưỡi tầm sét đánh chết nhiều người lắm.
- Thế thì người ta tìm cái lưỡi tầm sét sao được?
- Ông Thiên Lôi đánh chết ai rồi vứt cái lưỡi tầm sét lại.
- Nhà Bác Cổ mua lưỡi tầm sét làm gì?
- Để đúc đạn. Tây cũng giết người như ông Thiên Lôi. Ngày nào cũng đi bắn người ta, tợn lắm.
Tôi đã biết cái lưỡi tầm sét là cái búa. Nhưng cũng chẳng nhìn thấy bao giờ. Tôi tìm cái lưỡi tầm sét tưởng tượng nhưng nghe chuyện mà hồi hộp sờ sợ.
Một hôm, tôi bới được một hòn đá cuội lạ mắt. Hòn cuội nhẵn thín, đen sẫm, hai đầu vồ lên như cái thành cuộn chỉ. Có người bảo tôi đưa cho xem rồi nói: "Nhà Bác Cổ cũng mua hòn cuội này, một xu một hòn". Tôi đem hòn cuội về. Ông tôi bảo:
- Hòn cuội này là cái gối quạ. Mỗi tổ quạ có một cái gối. Vợ chồng con cái nhà quạ đi ngủ cùng gối chung lên cái gối này.
Tôi cố hỏi:
- Cái gối quạ có phải cái lưỡi tầm sét, hả ông?
- Không phải.
- Thế ông đã nhìn thấy lưỡi tầm sét bao giờ chưa?
- Đã bảo rồi mà. Thằng này dở hơi. Trông thấy cái lưỡi tầm sét để mà chết à!
Tôi không dám hỏi lẩn thẩn nữa. Chỉ biết cái gối quạ không phải cái lưỡi tầm sét.
Cái gối quạ được một xu, một xu mua một que kẹo mạ to. Mà tôi cũng chẳng biết nhà Bác Cổ ở đâu. Tôi để cái gối quạ vào phản, nằm ngắm và nghĩ không hiểu cả nhà quạ ở trong tổ gối đầu lên một hòn sỏi này, thì gối thế nào.
Ông tôi trông thấy cái gối quạ ở đầu phản. Ông quát:
- Không biết sợ à? Cái gối quạ là gối ma, độc lắm, nó làm ốm chết đấy. Vứt ngay đi!
Tôi ném cái gối quạ xuống ao, không sợ cũng không tiếc. Sau này mới biết cái hòn cuội gối quạ các nhà khảo cổ bảo đấy là đồ nghề đẽo để kiếm cái ăn, nó là con dao cái búa cái cưa của người thượng cổ.
Chẳng nhớ Quần Ngựa cứ vẩn vơ nhớ cái chuyện gối quạ như thế.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro