Phần 3- Chương 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng



Thành Gumaunten, thủ phủ của vùng đất Á-Raba(1), có tất cả mọi thứ: Quân đội thiện chiến, thành thị rực rỡ và cư dân sùng đạo Chishamga. Gumaunten phủ rộng phần phía Tây và tiến sâu vào gần sát trung tâm khối núi Ar Taijiyad. Những khối kiến trúc dựng bên rìa vách núi. Cung điện Eimajim(2) trên đỉnh ngọn Habah(3) tại trung tâm thành đô. Ở Gumaunten, thảm bay được sử dụng độc quyền.

Những kẻ mọi rợ cự tuyệt vòng tay của Saidanja luôn nhòm ngó thành Gumaunten từ vùng đất cằn cỗi. Chúng ích kỉ ôm rịt món quà của ngài để chống lại ngài. Chúng nhe nanh tấn công như những con chuột thậm thụt. Vì vậy, những người con Tri giáo để chúng ở nơi của chúng và giám sát với sự bao dung bằng sắt, đằng sau những bức tường thành kiên cố. Chỉ có hai cách thông qua cổng Raemlamat: Trở thành nô lệ phục tùng định mệnh hoặc trở thành một thương nhân sở hữu một thương đoàn uy tín. Sự uy tín của một thương đoàn được đánh giá bởi hội đồng Majlas, họ sẽ ủy thác từ Ensaldam bằng hàng chục xe thức phẩm chở về Kinh đô để phục vụ những ngày lễ quan trọng.


Những thương đoàn nhỏ tụ tập thành bãi chợ bên ngoài bức tường thành lớn. Họ là những người sùng đạo thề làm lá chắn sống bảo vệ những người con thông thái của Saidanja. Họ gồm người Otman, những tay Digan gian manh và cả người Do Thái. Thảm dệt xếp xen hoa quả, hương liệu bên cạnh đồ đất nung. Bãi chợ có mùi của cát, của lá khát và mùi nồng của lông và phân gia súc. Khu của những lái buôn bản địa luôn bày trí lộn xộn. Và bãi chợ luôn ồn ào. 

Một gã đàn ông già gầy đét, bẩn thỉu đang ngồi quạt thịt lạc đà nướng. Gã trông như một cái xác khô mà lũ Ghoul moi lên từ hàng tấn cát và nhấm nham nhở. Bên dưới cái nóng ngột ngạt buổi trưa, than đỏ rực, mũ Toro(4), mặc khố và hết. Lão nhe hàm răng lởm chởm vàng ệch với bất kì ai đi ngang, dõi theo họ bằng đôi mắt màu trắng đục ngầu. Một kẻ mù đơn độc.

"Ngươi không vào được Gumaunten đâu, anh bạn đẹp trai! Ngươi không có lệnh thông hành!"


Lão mù ngước khỏi cái chậu đồng, nói với nhóm người vừa tới. Họ gồm một người bản địa cao mặc đồ lữ hành và hai cô gái mặc Nijut đen. Một người đàn bà nhìn gã, cô ta có đôi mắt của sa mạc. Anh chồng đặt tay lên vai cô vợ. Họ đang tìm kiếm vài món ăn trưa, anh trông muốn đi ngay.

"Ta chắc chỗ thịt nướng này sẽ ngon hơn nếu ta ném cái cuộn màu xanh này vào lửa. Chà, phải!"

Gã mù vờn với sự im lặng của những người lạ. Giữa những ngón tay khô như đốt cây gãy nắm thứ mà bất cứ một thương nhân ngoại thành nào đều thèm muốn. Mụ đàn bà nhỏ ngăn chồng, người vừa cúi đầu xuống ngực, và mụ còn lại quay đầu. Hai gã đàn ông đứng chen giữa hàng bán vải và đèn Senjuk(5) rời khỏi nơi họ đã đứng cùng lúc. Họ đi về hai hướng khác nhau. Ở người đàn bà cao có gì đó đáng sợ khiến những tay trộm quyết định ngừng ý định, và bỏ qua con mồi lần này.


Rikamathraa khinh thường một trò rẻ tiền thông thường ở chợ, cô dừng chúng bằng cái nhìn lạnh lẽo. Nhưng khi vừa quay đầu lại, bước chân tiếp theo của cô suýt giẫm phải thứ gì đó, và cô đảo chân nhanh như một con mèo hoang đen, lách qua bên trái. Cái xoay người làm bộ Nijut lùng bùng tạo ra một vòng cung. Người đàn bà nhỏ đứng chắn giữa người đàn bà cao và gã Digan mù. Ông ta như đang chuẩn bị ôm chân kêu ré lên. Có một khoảng cách lớn bằng cả sải tay giữa hai người. Và từ chỗ ngồi cũ của gã mù phải đến hơn một thân lạc đà. Quá nhanh cho một người già.

Lão gian trá ngước đôi mắt đục ngầu, hơi thở phả qua hàm răng lởm chởm. La'ahad trả cho lão 2 Ahas(6) cho hai xiên thịt lạc đà mà cô bắt lấy trước khi chúng rơi xuống cát, ngăn bất cứ trò lừa đảo nào. Sẽ không có một vụ ăn vạ.

"Rất cảm ơn ngài! Thật là một món tốt cho một ngày thế này! Đấng vĩ đại ban phước cho ngài!"

Phụ nữ không nói chuyện ở Gumaunten và luôn trùm kín mặt. Bất cứ giao tiếp nào của họ đều bị cấm. Amahr nhìn gã mù lạnh tanh. Anh nghi ngờ làm cách nào tay xảo trá biết nơi họ đang đứng. Amahr kiệm lời, ngay khi lão già vừa nhanh chân nhường đường, anh đẩy hai người phụ nữ khỏi rắc rối.


Gã mù đột ngột lăn ra đất ôm lấy chân Amahr, bắt cứng lấy bằng cả tứ chi. Túm chặt và gào khóc thật lớn. Đó không phải một trò kiếm tiền. Lão đã thu hút đám đông. Ba người lữ hành biết họ vừa dính phải một vụ rắc rối lớn. Lão Digan phàn nàn rằng tất cả tài sản của lão, những người con đã ở bên trong thành đô và chỉ lão bị tống ra ngoài. Nguyền rủa những tay dị giáo chết tiệt. Một lời nguyền đáng bám lấy Gumaunten. Vì bất kì thứ gì người Digan nghèo hèn không thể vào thánh địa vì không có tiền, trong khi những kẻ bản địa thì được. Ông ta gào to rằng người đàn bà cao bên cạnh tay chồng thương nhân là một người Ai Cập. Một người Ai Cập sẽ được vào Gumaunten. Đám đông bị tách ra khi một đoàn lính Samdo kéo tới. Họ lôi ông già khỏi chân Amahr. Nhưng những tay cò mồi bịp bợm đã thúc giục đám đông về người đàn bà Ai Cập. Rikamathraa ngẩng cao đầu, La'ahad giữ chặt tay cô.

Phải có một cuộc kiểm tra nghiêm ngặt ba người lữ hành. Điều gì đó đang diễn ra bên trong Gumaunten, điều khiến bất kì vụ lùm xùm thông thường nhóm lên bất an. Việc phải để vợ lộ mặt để kiểm chứng thân phận trước nhiều người là xúc phạm bất kì người đàn ông nào. Amahr Awaalsasf phải dàn xếp rắc rối, nhưng không thể chỉ bằng một khoản Diiam(7). Tay mù nhe hàm răng lởm chởm trong lúc bị xốc nách như một bộ xương lừa.


La'ahad sợ hãi vùi đầu vào áo choàng của Amahr, và cô gõ vào tấm giấy thông hành. Amahr siết nhẹ vòng tay giữ La'ahad.

"VỢ TÔI LÀ MỘT NGƯỜI AI CẬP, NHƯNG CÔ ẤY ĐÃ ĐƯỢC ĐẢM BẢO! NGÀI BAIJI AB MOBOTT CÔNG NHẬN CÔ ẤY NHƯ MỘT NGƯỜI ĐÁNG ĐƯỢC ỦY THÁC!"

Amahr Awaalsasf nói to dõng dạc trước đám đông. Anh chen lên giơ cao tấm giấy thông hành từ Ensaldam trước mặt trời. Đội trưởng Samdo kiểm tra tờ lệnh, thấy rằng cả 11 dấu xác nhận đều rõ ràng. Phần ghi chú, rằng cô vợ của người thương nhân này là học trò của một nhà thông thái. Vì vậy, cô ấy được chứng minh thân phận và được đặc cách.

Đội trưởng Samdo giải thích cho đám đông, giọng sang sảng át tiếng ồn ào. Những người lính tuần tra giải tán những kẻ quá khích. Amahr trả tiền phạt vì tội gây tụ tập đông người, anh rằng đấng tối cao luôn che chở cho đội trưởng Samdo. Người đàn ông cao lớn râu rậm mỉm cười nhắc những vị khách nên nhanh chóng vào thành trước khi họ tạm đóng cổng để làm lễ cầu nguyện buổi trưa. Luôn quá nhiều ồn ào cho một buổi sáng.


Những người lính đã đi khuất, Rikamathraa có sự tĩnh lặng của chiến binh Hakhaos. Cô ấy không cần cảm ơn Amahr, vì cô sẽ không hé răng trước khi họ quay trở lại chỗ đóng trại của thương đoàn. Một con chó đen nhỏ vừa chạy đến trước chân La'ahad, và thả xuống một mảnh giấy. Nó cúi chân trước chào lịch thiệp và biến mất ngay phía sau lũ lạc đà.

Mảnh giấy nhắn được viết bằng những kí tự lộn xộn. La'ahad chăm chú đọc, đến lúc Amahr bất an gọi tên cô bé. Cô gái nhỏ nhìn vũ công. Cô kéo cả hai người đồng hành chạy nhanh về nơi tập kết thương đoàn của họ.


-Hết-


Chú giải:

1, Á-Raba (Arabiapan): Danh từ người Otan dùng để gọi Arabiapan.

2, Eimajim (Hư cấu, từ Eikō/Majid nghĩa là Sự vinh quang): Cung điện hoàng gia Otman.

3, Habah (Hư cấu, từ thabt và Shikkari shita nghĩa là Vững chắc): Ngọn núi ở trung tâm thành đô Gumaunten.

4,Mũ Toro (TOUR ס/ Sudra): Toro là một loại mũ truyền thống của người Do Thái cổ đại. Toro có dạng một khăn xoắn màu trung tính xếp nếp, họa tiết đơn giản quấn quanh đầu theo chiều dọc.Nguồn: https://en.m.wikipedia.org/wiki/Sudra_(headdress)&xid=17259,1500004,15700021,15700186,15700191,15700256,15700259,15700262,15700265,15700271,15700302&usg=ALkJrhjXBNZHI5jwL3YqTgsZIY8-Dcq3Jw


5, Đèn Seljuk (Hư cấu): Một loại đèn của đế quốc Seljuk (Xem phần 2 Chương 9).

6, Ahas (Hư cấu, đơn vị tiền tệ): Một Ahas là một đồng xu bằng đồng.

7, Diiam (Hư cấu, từ Diyya và từ Kuiaratameru nghĩa là hối cải): Một loại phí bằng tiền để mua tội. Nếu một người mắc phải một tội lớn như gi*t người hoặc phản bội, anh ta có thể giảm nhẹ hoặc mua hoàn toàn tội lỗi bằng một khoản Diiam.

-Ghoul: Ghoul là loại Jinn khát máu và hung hãn. Chúng có thể ăn thịt đồng loại, con người và kể cả xác chết.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro