Cuốn Sách Định Viết Từ Lâu (9) - EĐUARĐ BAGRITZKY

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

EĐUARĐ BAGRITZKY

Ta có thể báo trước cho những người nghiên cứu tiểu sử Eđuarđ Bagritzky biết rằng họ sẽ phải chịu nhiều khốn khó, hoặc nói theo cách người ta thường nói "phải biết giá bao nhiêu nửa ký đắng cay", bởi vì tìm ra tiểu sử của Bagritzky không phải là chuyện dễ dàng.

Bagritzky kể không biết bao nhiêu chuyện không có thực về mình, những chuyện ấy cuối cùng gắn chặt vào đời ông, đến nỗi có lúc không còn sao biết được đâu là thực đâu là huyền thoại nữa. Không thể nào khôi phục được sự thật, "chỉ một sự thật mà thôi và không có gì khác ngoài sự thật".

Hơn nữa, tôi không tin là cần thiết phải làm cái việc uổng công vô ích ấy. Những chuyện bịa của Bagritzky là một phần đặc sắc trong tiểu sử ông. Chính ông cũng thành thật tin vào những chuyện bịa của mình. Không thể hình dung nhà thơ có đôi mắt xám tươi cười và giọng nói hổn hển, nhưng lại như ca hát ấy, nếu không có những chuyện bịa của ông.

Trên bờ biển Egée có một bộ lạc rất đẹp của những người "levanti". Họ là những người ham hoạt động và vui vẻ. Bộ lạc ấy liên hợp những người đại diện của nhiều dân tộc khác nhau: người Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, người Ả Rập và Do Thái, Sirya và Ý.

Liên bang Xô viết của chúng ta cũng có những "levanti" của nó. Đó là "người Hắc hải". Họ cũng là những người thuộc các dân tộc khác nhau nhưng cùng là những người yêu đời, hay giễu cợt, quả cảm và yêu đến mê mệt Hắc hải của họ, yêu mặt trời khô khan, cuộc sống hải cảng, yêu "mẹ Ôđessa", yêu những quả mơ và những trái dưa hấu, yêu cuộc sống sục sôi muôn màu sắc bên bờ biển.

Eđuarđ Bagritzky là người thuộc bộ lạc đó.

Ông, lúc thì giống như tay thủy thủ lười biếng trên chiếc thuyền buồm tỉnh Kherson, lúc thì giống như một "lỏi" đánh bẫy chim ở cảng Ôđessa, lúc thì giống anh bộ đội ngang tàng trong sư đoàn Kotovsky, lúc thì lại giống như Til Ulenshpigel.

Nếu thêm tính yêu thi ca tha thiết và tài thơ uyên bác cao rộng vào bên những tính chất tưởng như không thể hòa hợp với nhau thì tất cả những cái đó sẽ hợp thành tính cách toàn vẹn và duyên dáng của ông.

Lần đầu tiên tôi gặp Bagritzky là trên đê chắn sóng ở cảng Ôđessa. Ông vừa viết xong bài thơ về trái dưa hấu - một trường ca chính cống, kỳ lạ vì chất tươi ngon của những cảm xúc và từ ngữ, tựa hồ nó bị một ngọn sóng trong bão tố Hắc hải làm bắn nước lên mình.

Chúng tôi câu cá bống và cá phèn bằng dây câu thả dài ngoẵng quăng xuống biển. Những con thuyền chất đến ngọn toàn dưa hấu da sọc, căng những cánh buồm vá víu đi ngang mặt chúng tôi. Gió gió mát nổi lên, những con thuyền nghiêng ngả và chìm xuống tận boong, làm bọt bắn tung tóe quanh chúng.

Bagritzky đưa lưỡi liếm đôi môi mặn và thở gấp, bắt đầu ngân nga đọc bài "Dưa Hấu".

Cô gái bắt gặp trên bờ biển một quả dưa hấu có khắc hình trái tim do sóng vứt lên. Chắc là quả dưa đã trôi dạt từ một chiếc ghe bầu bị đắm.

Chẳng ai bảo cho nàng biết

Rằng tim tôi nàng giữ nơi tay!...

Ông sẵn sàng ngâm thuộc lòng thơ của bất cứ thi sĩ nào. Trí nhớ của ông thực kỳ lạ. Trong lúc ông ngâm, thậm chí những bài thơ quen thuộc cũng nổi lên một âm điệu mới, ngân nga. Tôi chưa thấy ai có lối ngâm thơ như thế, trước và sau Bagritzky.

Những âm chất của từng từ, từng khổ thơ bay bổng lên đến mức diễn đạt đầy đủ, mệt mỏi và làm người nghe đau nhói nơi tim. Bất kỳ thơ của ai, "Bài Ca Về John Hạt Đại Mạch" của Burns, "Dona Anna" của Blok hay là "Vì Bến Bờ Tổ Quốc Xa Xôi" của Pushkin mà được Bagritzky ngâm, thì khi nghe ta không thể không thấy nghẹn nơi cổ họng - điềm báo trước của những giọt nước mắt.

Từ hải cảng chúng tôi ra chợ Hy Lạp. Ở chợ có một phòng trà. Cùng với nước trà ở đây người ta bán đường hóa học, một mẩu bánh và phó mát cừu. Từ sáng sớm chúng tôi chưa ăn gì.

Dạo ấy ở Ôđessa có một lão ăn mày. Lão làm cho cả thành phố khiếp đảm vì lão không xin của bố thí theo cách những người hành khất khác thường làm. Lão không hạ mình chìa bàn tay run rẩy ra và hát bằng giọng mũi: "Lạy các ông các bà giàu lòng thương kẻ khó! Xin các ông các bà hãy để mắt đến tấm thân tàn tật của già!".

Không! Ông lão vóc cao, râu bạc như cước, đôi mắt đỏ kéo màng nọ chỉ đi xin ở các phòng trà.

Chưa bước vào cửa lão đã lên giọng khàn khàn, ầm ầm trút những câu chửi rủa lên đầu khách.

Trong Sấm truyền, nhà tiên tri tàn bạo nhất là Eremi, nổi tiếng bậc thầy vô địch về môn nguyền rủa, cũng phải "ra không" trước lão ăn mày nọ, nói theo cách người Ôđessa.

- Lương tâm các người để đâu cả rồi, hả? Các người là người hay không còn là người nữa, hả?! - lãohành khất thét lên và lập tức tự trả lời câu hỏi hùng hồn của lão - Người gì các người khi mà các người điềm nhiên ngồi chén bánh mì với phó mát cừu béo ngậy, còn lão đây thì lang thang từ sáng đến giờ, lòng đói bụng rỗng! Giá mà mẹ các người biết các người đã trở thành những kẻ như thế nào, chắc bà lão phải lấy làm sung sướng vì đã không phải sống đến lúc phải nhìn thấy cảnh càn rỡ này. Tại sao anh lại ngoảnh mặt đi thế, đồng chí? Anh không điếc đấy chứ? Tốt hơn hết là hãy dằn cái lương tâm đen tối của anh xuống mà giúp cho lão già đói khát này!

Mọi người đều bố thí cho lão. Không ai chịu đựng nổi cuộc tấn công dồn dập của lão. Người ta nói rằng lão già lấy tiền góp nhặt được đi buôn muối lậu.

Trong phòng trà người ta đưa ra cho tôi một miếng phó mát cừu hăng xì bọc trong một mảnh giẻ ướt. Ăn loại phó mát cừu này thường bị viêm lợi.

Đúng lúc đó lão ăn mày bước vào, và ngay từ ngoài cửa lão đã chửi rủa ầm ầm.

- Được lắm! - Bagritzky giận dữ nói - Hình như lão đã dẫn thân vào tròng rồi đấy. Cứ mặc cho lãođến chỗ bọn mình. Cứ để lão đến! Lão mà cả gan thì cứ đến chỗ bọn mình!

Tôi hỏi:

- Thì sao?

- Lão sẽ gặp sự chẳng lành đâu. - Bagritzky trả lời. - Ồ, chẳng lành đâu mà! Cứ để mặc lão đến bànchúng ta.

Lão ăn mày lừ lừ tiến đến. Cuối cùng lão dừng lại bên chúng tôi, mắt long lanh nhìn miếng phó mát cừu trong vài giây và cổ họng lão sôi ầm ầm. Có lẽ lão giận lắm, đến nỗi lão thở hồng hộc và không tuôn cơn giận ra thành lời được. Nhưng rồi lão cũng hắng giọng và quát lên:

- Biết đến bao giờ lương tâm mới thức dậy trong lòng lũ trai trẻ này! Chúng nó đang vội vã hốc chohết miếng phó mát để khỏi phải cho lão già bất hạnh lấy một phần tư chứ đừng nói gì một nửa.

Bagritzky đứng dậy, lấy tay đặt nơi tim và bắt đầu nói khe khẽ và xúc động, mắt không rời khỏi lão già bị xơ cứng động mạch. Ông nói run run trong nước mắt, bằng một giọng nức nở thê thảm.

Bạn tôi, người anh em mệt mỏi và đau khổ của tôi.

Xin chớ ngã lòng, dù anh có là ai đi nữa!

Lão ăn mày câm bặt. Lão chăm chú nhìn Bagritzky. Mắt lão trợn lên. Rồi lão bắt đầu rút lui và khi nghe đến những chữ "Bạn hãy tin đi, sẽ đến ngày cả Vaan cũng chết" thì lão quay ngoắt lại vấp đổ một chiếc ghế và lảo đảo lết chạy ra cửa.

- Các ngài thấy chưa? - Bagritzky nghiêm trang - Đến cả những tên ăn mày ở Ôđessa cũng khôngchịu nổi thơ Nadson.

Cả phòng trà cười phá lên.

Hết ngày này sang ngày khác Bagritzky mất hút trong cánh đồng cỏ đàng sau vịnh Sukhoy để bẫy chim.

Trong căn phòng quét vôi trắng của ông ở Monđavanka có treo hàng chục chiếc lồng, trong đó có những con chim trụi lông. Ông rất hay đem chúng ra khoe, đặt biệt là những con zhurbay dị thường nào đó. Đó là những con sơn ca thảo nguyên xấu xí, cũng xơ xác y như những con chim khác của ông.

Trấu do chim nhè ra từ những lồng chim không ngớt rơi xuống đầu chủ và khách.

Bagritzky dốc những đồng xu cuối cùng của mình mua thức ăn cho chim.

Những tờ báo Ôđessa trả ông rẻ mạt: một bài thơ tuyệt tác chỉ độ năm, mười rúp. Mấy năm sau thanh niên đã biết và đã thuộc lòng bài thơ đó.

Chắc Bagritzky cho rằng như thế là phải giá rồi. Ông không biết giá trị thực của mình và trong những công việc thực tế ông là người nhút nhát. Trong lần đầu tới Moskva, ông không khi nào đến nhà xuất bản một mình. Bao giờ ông cũng phải dẫn theo một người nào đó trong số bạn bè "cho nó vững dạ". Người bạn đóng vai chính trong cuộc đàm phán, còn Bagritzky chỉ nín lặng và cười tủm tỉm.

Tại Moskva ông ở nhà tôi, trong một căn hầm tại ngõ Obưđensky. Đến nơi, ông báo trước: "Tôi sẽ ở nhà anh lâu đấy". Và quả nhiên suốt một tháng trời ông chỉ ra phố có hai lần, còn thì lúc nào cũng ngồi bằng tròn xềm xệp trên đi-văng, thở hồng hộc vì suyễn.

Trên đi-văng ông để đầy sách, bản thảo thơ của người khác và những vỏ bao thuốc lá. Ông ghi thơ của mình lên trên mặt bao. Thỉnh thoảng ông đánh mất những cái vỏ bao nọ, nhưng chỉ buồn bực ít lâu.

Cứ thế ông ngồi hết cả tháng, khoái trá với Ulalaevshina của Selvinsky, kể những chuyện chẳng đúng sự thực chút nào và tán gẫu với lũ "nhóc văn chương" - những người Ôđessa. Đám này kéo đàn kéo lũ bâu lấy ông khi ông vừa mới ló mặt ra ở Moskva.

Ít lâu sau, ông dọn hẳn về Moskva và thay vào lũ chim, ông mua những bể cá rất lớn. Phòng của ông giống như một thế giới dưới nước. Ông có thể ngồi hàng giờ, nghĩ ngợi và ngắm những con cá đủ mọi màu sắc.

Ta có thể nhìn thấy cũng một thế giới dưới nước hệt như thế khi đứng trên con đê chắn sóng ở Ôđessa: cũng những thân cỏ ngầm trắng bạc đung đưa, giống như những đám san hô và những con sứa chậm chạp bơi qua, dồn ép nước biển từng đợt mạnh mẽ.

Tôi cho rằng việc ông dọn về ở Moskva là một sai lầm. Bagritzky không thể sống tách rời miền Nam, biển cả và Ôđessa, tách rời những món ăn Ôđessa quen thuộc của ông: cà, cà chua, phó mát cừu, cá thu tươi. Toàn thân ông được sưởi ấm bởi phương Nam, sức nóng của thứ đá vôi vàng lỗ chỗ đã dựng nên Ôđessa, hương ngải cứu, muối, cây da hợp và biển cả.

Ông chết sớm, chưa kịp chín muồi, chưa chuẩn bị sẵn sàng để chiếm thêm vài đỉnh cao khó đạt tới của thi ca, như ông thường nói.

Một đại đội kỵ binh đi theo sau linh cữu của ông, móng ngựa đập giòn trên mặt đường lát đá. Và ta lại nhớ đến bài thơ "Nghĩ Về Opanas", đến con chiến mã của Kotovsky "Con ngựa trắng lấp lánh như đường nguyên chất", đến nền thi ca thảo nguyên rộng lớn vẫn cùng đi với Bagritzky, vịn vào tay ông mà đi, trên những con đường nóng bỏng đầy cát bụi. Thơ ấy là người thừa kế của "Lời Truyền Về Đạo Quân Igor" và của Taras Shevchenko bền như hương cỏ xạ hương, rám nắng như cô gái nhỏ miền ven biển, vui như gió mát "lê-văng" trên Hắc hải thân yêu.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Pro

#hyin