truyen thai ba tan 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Quả bom chưa nổ Người viết: Thái Bá Tân 22/06/2009 Quả bom chưa nổ

Truyện ngắn. Thái Bá Tân.

Sau lễ tân gia đúng ba ngày thì ông Cần được biết rằng dưới ngôi nhà ông mới xây có quả bom chưa nổ. Mà bom to, loại nghìn cân Anh.

Người cho ông biết cái tin khủng khiếp này chính là bạn ông, đại tá pháo binh về hưu, thời chiến tranh chỉ huy một khẩu đội pháo phòng không ở ngay trên nền đất nhà ông.

"Tôi lấy làm lạ sao khi người ta làm móng, nó không phát nổ", ông đại tá về hưu nói.

Ông Cần cười mếu máo:

"Bác đùa. Chắc gì có mà nổ..."

"Không ai đùa những chuyện thế này. Tôi còn lưu được cuốn sổ ghi chép trực ngày ấy. Bác muốn, tôi cho xem. Đó là ngày 17 tháng Tám năm 1967, lúc bốn giờ ba mươi phút chiều. Hai chiếc F-105 từ biển bay vào. Một chiếc chúi xuống ném hai quả bom, nhưng chỉ nghe một tiếng nổ. Tôi còn ghi thêm vào sổ: "Nhớ báo trên cho công binh xuống phá". May hôm trước khẩu đội chúng tôi kịp dọn đi nơi khác, chỉ chừa lại trận địa giả. Khi báo yên, tôi đến thì thấy có hố bom rất lớn và một vết lõm hun hút cách đấy không xa, bằng chứng của một quả bom khác chưa nổ..."

"Cứ cho là như vậy, nhưng chắc gì nó nằm ngay dưới nhà tôi?"

"Tôi cẩn thận đánh dấu chỗ bom rơi, với mục đích báo người ta tháo gỡ như đã nói. Hướng đông cách cây si trên đường hai trăm mét. Cách giếng làng một trăm năm mươi mét về hướng tây. Căn ra, không đúng nhà bác là gì? Có thể không ngay dưới nhà mà ngoài sân. Nhưng với quả bom nửa tấn thì điều ấy chẳng có gì khác nhau".

"Có thể người ta đã tháo ngòi nổ nó rồi?"

"Tiếc là chưa, vì sau đó chúng tôi được lệnh chuyển ngay đi nơi khác. Tôi không có thời gian báo cấp trên việc này. Rồi dân quân lấp hố bom, lấp luôn cả quả chưa nổ kia".

"Có thể nó sẽ không bao giờ nổ, một khi đã nằm im chừng ấy năm dưới đất."

"Vâng. Với những quả bom loại này thì chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Có thể suốt đời nằm im. Cũng có thể năm phút nữa nó sẽ nổ. Cái nguy hiểm và khó chịu là ở chỗ ấy".

Hai người im lặng hồi lâu. Cuối cùng chủ nhà lên tiếng:

"Thế thì tôi phải làm gì bây giờ?"

Ông đại tá về hưu không đáp, có vẻ bứt rứt vì phải báo bạn một tin chẳng mấy dễ chịu.

Ông Cần quả lúng túng không biết phải làm gì.

Đây là ngôi nhà giấc mơ cả đời của ông và gia đình. Ba tầng, mái giả ngói, thiết kế kiểu biệt thự Pháp, trên diện tích đất hơn trăm mét vuông bên rìa thị xã và nhìn ra hồ. Hồ nước đục, nông choèn, nhưng vẫn là hồ nên những ngôi nhà xung quanh trở nên có giá. Biết làm sao bây giờ? Đập đi, thuê công binh đến phá bom rồi xây lại? Không ổn. Cứ tiếp tục sống như không gì xẩy ra? Cũng không ổn. Ông vốn yếu bóng vía, chắc gì không phát điên lên với ý nghĩ đang ngủ trên một quả bom chưa nổ? Mấy đêm liền ông thức trắng, ban ngày vật vờ như bóng ma. Người ông gầy xọp, mặt mũi hốc hác. Vợ con hốt hoảng, căn vặn mãi nhưng ông không chịu nói. Xưa nay khối người xây xong nhà là lăn đùng ra chết!

Một hôm ông bắn tin bán nhà, bất chấp sự phản đối kịch liệt của bà vợ. "Bà muốn tôi ở đây mà chết à?" Nghe thế, vợ ông bán tín bán nghi, nhưng thôi không ngăn cản nữa, mặc dù không hiểu vì sao chồng bà có thể chết khi được sống trong một ngôi nhà đẹp.

Ngôi nhà được bán một cách nhanh chóng vì giá rẻ. Ông chọn mua một nhà khác nhỏ và xấu hơn, rất xa chỗ cũ. Ông vội vã cho cả nhà dọn đi ngay trong ngày nhận đủ tiền. Đêm hôm ấy lần đầu tiên ông ngủ ngon giấc, tuy không phải không có những giấc mơ toát mồ hôi lạnh.

Mọi việc dần dần rồi đâu cũng vào đấy. Ông hết lo lắng và khỏe mạnh trở lại. Chuyện làm ăn, con cái đều tốt. Hơn thế, khu nhà mới của ông đất bỗng tăng giá vùn vụt, vì theo qui hoạch sẽ có một đường phố lớn chạy qua. Thậm chí có ngày ông còn quên không nghĩ đến ngôi nhà cùng quả bom chưa nổ mà ông đã khôn khéo đẩy sang cho người khác.

Tuy nhiên, chưa đầy hai tháng sau, người mua nhà ông tìm đến nhờ viết lại giấy để ông ta bán nó cho người khác. Chả là họ mới chỉ mua bán trao tay chứ chưa làm thủ tục pháp lý.

"Vì sao bác lại bán nó?" Ông Cần giả bộ thản nhiên hỏi.

"Tôi muốn dọn về đâu đấy gần Cầu Giẽ cho tiện việc đi làm", ông kia đáp, cũng cố lấy vẻ tự nhiên, nhưng nét mặt lo lắng và thái độ lúng túng cho thấy ông ta đang nói dối.

"Vậy là họ đã biết, và đang tìm cách ủn mối nguy hiểm ấy sang người khác. Như mình". Ông Cần nghĩ bụng, thầm lo bị vạch trần sự thật. Nhưng không, nhận được cái muốn có, ông kia vội vàng xin phép ra về. Thậm chí còn nói rất tiếc phải bán ngôi nhà đẹp trên thế đất tốt như vậy.

"Vâng, tôi cũng rất tiếc khi bán nó cho ông", ông Cần lơ đãng đáp.

Làm sao ông ta biết được nhỉ? Nhất định không thể do ông bạn đại tá cho biết. Vậy chỉ có thể ai đó trong số láng giềng. Điều này khó xẩy ra, vì bản thân láng giềng không dễ mà biết được. Nhưng rõ ràng đã có người biết, và cố ý báo cho người mua nhà ông. Để làm gì? Dụng ý tốt hay xấu?

Mấy hôm sau ông Cần phóng xe tới đó, chọn quán nước đối diện ở khoảng cách khá xa và bắt đầu lặng lẽ quan sát. Chủ mới là một đôi vợ chồng còn trẻ với hai đứa con thật kháu khỉnh. Có vẻ giàu. Có vẻ trí thức. Cũng có cả vẻ hài lòng với ngôi nhà mới mua. Chắc giá rẻ.

Bỗng ông Cần nhắm mắt, thầm hình dung quả bom phát nổ, xé vụn cả ngôi nhà, cả đôi vợ chồng trí thức, hai đứa trẻ thiên thần, cùng cái vẻ hài lòng và hạnh phúc ông vừa chứng kiến.

Từ đêm hôm đó, ông lại mất ngủ, với nỗi sợ mơ hồ luôn ám ảnh. Ông có cảm giác như chính ông đang nằm trên quả bom chưa nổ ấy.

Không hiểu cái ông vừa đẩy được nó cho anh chàng trí thức này có mất ngủ như mình không nhỉ?

Mấy tháng sau, ông Cần không chút ngạc nhiên khi thấy anh trí thức kia đến nhờ ông giúp làm giấy bán nhà. Cứ như ông đang chờ vậy. Cả anh này cũng có vẻ vội vã, khuất tất như ông lần trước. Ông Cần không hỏi lý do bán nhà vì đã biết trước câu trả lời. "Anh này coi bộ tử tế. Chắc sẽ không thảnh thơi lắm đâu. Tử tế mà hóa ra không tử tê. Như mình".

* Đến nay, đúng hai năm mười tháng sau khi ngôi nhà mơ ước ấy được xây xong, nó đã qua tay bốn người, và cả bốn người đã đến nhờ ông Cần chữa lại giấy tờ để sang tên cho người khác. Chắc chắn sẽ còn nhiều người nữa tìm đến ông. Ai cũng ra bộ luyến tiếc ngôi nhà, rằng bán nó vì cực chẳng đã, vì những lý do rất xác đáng. Lý do ấy ông biết. Ai cũng biết, nhưng không muốn, không dám nói.

Quả bom vẫn chưa nổ. Có thể nó sẽ không bao giờ nổ. Thậm chí có thể không hề có một quả bom như thế. Nhưng vì an toàn, người ta cứ đùn đẩy nó cho người khác. Toàn những người tử tế đùn đẩy cho nhau. Cũng vì tử tế mà sau đó họ trằn trọc hết đêm này đến đêm khác, mặt mũi phờ phạc, lương tâm cắn dứt đến đổ bệnh. Họ khôn khéo thoát được quả bom nằm tít đâu đó sâu dưới lòng đất mà chưa chắc đã có thật, để tạo ra thêm, hiện giờ là bốn, nhưng sau này sẽ là bốn mươi, bốn trăm quả bom khác trong đầu mình, hoàn toàn có thật, chưa nổ nhưng chắc chắn sẽ nổ.

Những quả bom hẹn giờ mà họ, chỉ mình họ nghe được tiếng đồng hồ đếm ngược đang lạnh lùng kêu tích tắc.

Hà Nội, 2003.

Người lương thiện

Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Có thể mỗi ngày một ít đi, nhưng bây giờ vẫn còn nhiều người trung thực, tốt bụng và thật thà đến mức gần như ngây ngô. Họ không biết làm điều ác, không biết nói dối và luôn mặc cảm với cái bị nhiều người coi là thứ xa xỉ trong cuộc sống xô bồ thực dụng hiện nay, là lương tâm. Cũng vì tốt và trung thực, họ dễ bị tổn thương, nhiều khi thành nạn nhân của chính lòng tốt và sự trung thực ấy. Xét về nhiều phương diện, nhân vật chính câu chuyện tôi sắp kể dưới đây là một người như thế. Một người lương thiện.

Nguyễn Ngọc Tú là một bác sĩ trẻ giỏi nghề, hiền lành và bẽn lẽn như con gái, mặc dù tuần nào cũng cầm dao mổ bụng người khác. Trong con mắt hàng xóm và đồng nghiệp, anh là người hạnh phúc - kinh tế khá giả, cô vợ xinh đẹp, sắc sảo làm việc cho một công ty nước ngoài và thằng con trai ba tuổi mũm mĩm như thiên thần.

Một chiều thứ bảy nọ, khi hai bố con đang chơi trò đánh nhau trên giường thì thằng con thiên thần ấy bỗng cầm chiếc kìm nhỏ mạ trắng đâm mạnh một cái đúng nửa sau bên trái đầu bố. Rồi cười sằng sặc. Còn bố nó thì nằm bất tỉnh đến mười phút, vẫn bị thằng bé vừa reo hò vừa dùng kìm đánh khắp người.

Khi Tú tỉnh lại thì chị vợ vừa đi đâu về. Thấy mặt chồng khác lạ, chị ta hỏi có chuyện gì. Tú ngơ ngác mãi, cuối cùng mới mang máng nhớ ra. "Hình như thằng Phúc đánh làm anh ngất". Chị vợ chỉ cười, đùa bảo: "Cho chết," rồi mắng thằng con một câu về tội nghịch ngợm.

Phần còn lại của ngày thứ bảy hôm ấy trôi qua bình thường. Cả chủ nhật hôm sau cũng vậy. Chỉ Tú cảm thấy có cái gì là lạ trong đầu, không đau nhưng là lạ. Một cảm giác khó tả.

Vốn cẩn thận, lại là bác sĩ, ngay hôm sau anh đến nhờ đồng nghiệp về não khám. Không thấy gì khác thường. Cái cảm giác là lạ trong đầu kia cũng mất dần. Anh yên tâm và thôi không nghĩ đến chuyện này nữa.

Một tuần sau, cũng vào thứ bảy, Tú lại ngồi chơi với con trên giường. Tất nhiên chiếc kìm đã được giấu kỹ. Thằng bé hí húi xếp hình. Anh nhìn nó, bâng quơ nghĩ nhảy cóc hết chuyện này đến chuyện khác. Bất chợt anh thấy người thằng con nhòe ra, và trong khi nó vẫn ngồi đấy xếp hình thì có một hình khác của nó, mờ hơn, hơi run run, từ từ đứng dậy, nhăn nhó kêu: "Bố ơi, con ị ra quần!"

Tú dụi mắt. "Quái, mình dạo này thế nào ấy. Cứ nhìn gà hóa cuốc!" Anh thầm nghĩ rồi vớ tờ báo đọc. Thằng con vẫn say mê chơi trò của nó. Một chốc sau nó đứng dậy, nhăn nhó kêu: "Bố ơi, con ị ra quần!" Cả tiếng nói và điệu y bộ hệt như anh nhìn thấy lúc nãy!

Anh không có nhiều thời gian để ngạc nhiên vì phải vội giải quyết hậu quả của thằng con dẫu đã lớn mà vẫn mắc cái chứng quái ác này. Sau đó thì anh ngồi thừ hồi lâu, cố lý giải chuyện kỳ lạ vừa xẩy ra.

"Sao đần mặt ra thế?" vợ anh hỏi.

"Không, không sao cả."

Anh đáp và chăm chú nhìn vợ, lúc này đang cúi xuống giúp con một hình khó xếp. Anh giật mình khi thấy vợ anh tách làm hai, một ngồi yên trên giường, một bắt đầu đứng dậy, đi xuống bếp chuẩn bị bữa ăn. Anh nhìn nữa thì thấy cô suýt cắt phải tay khi gọt khoai tây, rồi xào nấu, bê thức ăn lên bàn, gọi bố con vào ăn. Anh thấy mình đang uể oải nhai, còn thằng bé thì vẫn lấy thìa gõ coong coong vào bát như mọi ngày. Tò mò, anh tiếp tục chăm chú nhìn tiếp thì thấy vợ rửa bát, đi vào nhà tắm, cởi quần áo, vừa lắc đầu vừa ngắm nghía thân hình đã bắt đầu mập ra trong gương...

Anh lặng lẽ bỏ vào phòng, chốt cửa rồi ngã vật xuống giường. "Đầu mình hình như có gì không ổn," anh lo lắng nghĩ và lờ mờ liên hệ nó với cú đập bằng kìm hôm nọ. Là bác sĩ, anh biết rõ hậu quả các cú đập như thế. Sách báo vẫn hay nói về những khả năng kỳ diệu của một số người bất ngờ bị chấn thương sọ não. Anh đã đọc cuốn "Vùng Chết" của nhà văn Mỹ nổi tiếng Stephan King kể chuyện nhân vật chính, John, ngày nhỏ chơi khúc côn cầu bị bạn đánh đúng đầu, sau đó bỗng có khả năng nhìn thấy cả quá khứ lẫn tương lai. Vừa rồi anh nhìn thấy trước những gì vợ con anh sắp làm. Liệu có biết được quá khứ như John không? Anh có thể nhìn thấy tương lai xa đến đâu và liệu cái khả năng kỳ quặc này sẽ mang lại gì cho anh, điều dữ hay điều lành?

Phòng bên có tiếng nước chảy. Vợ anh tắm. Anh hình dung thấy vợ đang lắc đầu nhìn cơ thể trần truồng của mình hệt như anh đã thấy trước đó. Cả bữa cơm cũng diễn ra đúng như vậy. Anh cố đoán chiều nay vợ anh sẽ làm gì, nhưng không thể. Anh cũng không biết tối nay thằng con chịu ngủ yên hay quấy nghịch. Anh đến đứng trước gương, chăm chú nhìn mình để biết ba mươi phút, một tiếng nữa chuyện gì sẽ xẩy ra với anh. Nhưng nhìn mãi, anh vẫn không thấy gì. Phép màu mất hiệu nghiệm. Bán tín bán nghi, anh uống một lúc hai viên thuốc ngủ rồi lên giường.

Sáng hôm sau, ngồi ăn sáng, Tú chăm chú nhìn vợ hồi lâu, đỏ bừng mặt.

"Anh sao thế?"

"Không sao cả", anh lúng túng nói rồi cúi xuống đĩa thức ăn. Anh vừa thấy vợ ngày hôm ấy ngồi suốt buổi sáng ở văn phòng với đống giấy tờ, đến giờ nghỉ trưa cô đi ra ngoài, ngồi lên chiếc xe của một người đàn ông đang đợi (tiếc không nhìn rõ mặt), rồi hai người đèo nhau đến một ngôi nhà như khách sạn vì có cô gái áo đỏ ngồi sau quầy lễ tân. Họ vào phòng, bắt đầu thong thả cởi quần áo... Thong thả chứ không vội, chứng tỏ họ quen làm điều này.

Anh đứng dậy, phóng xe đi làm, đầu óc nóng bừng như đang lên cơn sốt. Vậy là Nhàn, người vợ anh yêu và tin tưởng nhường ấy đã phản bội anh. Mà chắc không phải mới bắt đầu. Lấy nhau năm năm nay, nói chung họ sống bình thường, mọi việc suôn sẻ. Anh chưa một lần chạm tới người đàn bà nào khác ngoài vợ, cả trong ý nghĩ cũng không. Tất nhiên anh cũng không nghĩ vợ có thể làm khác. Cô ấy là người tốt, khéo lo toan, thương yêu chồng con, vậy mà... Là người hiền lành, anh không thể và không muốn làm ầm ĩ. Khả năng kỳ diệu mới giúp anh phát hiện một sự thật đau đớn, và bằng cách ấy lấy đi ở anh cái hạnh phúc thư thái của một người chồng không biết bị vợ cắm sừng. Như thế là tốt hay xấu hơn?

Ở bệnh viện hôm ấy may anh không có ca mổ nào. Vốn quen với cuộc sống bằng phẳng ít sự cố, lại bản tính hay rụt rè thụ động nên anh thực sự không biết phải xử sự thế nào trong một tình huống bất ngờ và đầy kịch tính thế này. Đến giờ nghỉ trưa, anh bấm số điện thoại di động của vợ. Máy bị tắt. Sợ nghi oan cho người khác, anh vội đi tới cơ quan vợ. Người ta bảo cô đi ăn trưa. Anh ngồi chờ trong quán nước ở góc phố gần đấy. Một tiếng sau vợ anh về, đến gần cơ quan thì xuống đi bộ. Anh không nhìn thấy mặt gã đàn ông, mà cũng chẳng muốn nhìn. Hắn mặc chiếc sơ-mi xanh da trời chứ không sẫm màu như anh thấy buổi sáng bên bàn ăn. Chờ vợ vào hẳn trong nhà, anh mới buồn bã quay lại bệnh viện.

"Trưa nay anh gọi điện cho em nhưng không được", anh nói khi họ gặp nhau vào buổi tối.

"Trưa nay à? Lúc mấy giờ?"

"Mười hai rưỡi".

Chị vợ nhìn chồng vẻ thăm dò rồi thản nhiên đáp:

"À, lúc ấy em ngủ trong phòng làm việc. Tắt máy để khỏi bị quấy rầy. Có chuyện gì vậy?"

"Không, không có gì đặc biệt. Anh chỉ muốn rủ em đi ăn đâu đó". Anh đáp, mặt thoáng đỏ vì không quen nói dối. Trong khi cô vợ chẳng hề bối rối chút nào. Anh thấy ghê tởm sự dối trá thản nhiên ấy, nhưng không nói gì thêm.

Hôm sau, trước lúc đi làm, anh bảo vợ:

"Em nên đội mũ bảo hiểm. Bây giờ bọn thanh niên đi ẩu lắm".

"Vì sao?"

"Vì chốc nữa em sẽ ngã xe. Ở Ngã năm Lò Đúc. Một thằng choai choai tông vào em rồi bỏ chạy. Không nguy hiểm lắm nhưng cứ đội mũ bảo hiểm vào, ngộ nhỡ đầu va xuống đường".

"Sao anh biết chính xác như vậy? " cô vợ ngạc nhiên hỏi. "Mấy hôm nay em thấy anh khang khác thế nào. Anh nói kỳ lắm, cứ như biết trước hết mọi chuyện".

Anh định bảo "Vâng, đúng thế", nhưng lại thôi.

"Dẫu sao cũng nên cẩn thận", anh nói thêm khi vợ ngồi lên xe, tất nhiên không chịu đội mũ bảo hiểm.

Tối hôm ấy, cơm nước và cho con ngủ xong, chị vợ bảo có chuyện muốn nói với anh, mặt nghiêm túc và lo lắng.

"Em quả không sao hiểu nổi! - Cô vào đề luôn, giọng run run và to hơn bình thường. - Sáng nay đúng ở Ngã năm Lò Đúc em ngã xe. May chỉ sây sát đôi chút. Đúng một thằng choai choai tông vào em rồi bỏ chạy như anh nói. Thế là thế nào? Anh giải thích cho em biết đi? Anh là ma hay sao mà biết trước những gì sẽ xẩy ra?

"Ma thì không, nhưng quả anh có cái khả năng ấy", Tú thành thật đáp.

"Không, như thế thì thật phi lý. Xưa nay anh cũng chỉ bình thường như em, như tất cả mọi người. Làm sao bỗng nhiên anh có được khả năng kỳ cục ấy?"

Tú bình tĩnh thuật lại việc anh bị thằng con đánh kìm vào đầu và giải thích những hậu quả có thể có của nó theo góc độ y học. Chị vợ im lặng ngồi nghe, mặt tái nhợt.

"Và hôm qua anh gọi điện cho em cũng vì..."

"Vâng, anh đã biết hết, thấy hết".

"Trời ơi, thế thì kinh khủng quá, kinh khủng quá!" Cô thốt lên, hai tay ôm mặt.

Một tuần sau hai người cùng ký đơn li dị. Chính chị vợ chủ động yêu cầu, sau khi thú thật với chồng mối quan hệ của mình với người đàn ông kia. "Vả lại, em không thể tiếp tục sống với một người có cái khả năng kỳ cục và tai hại như anh. Anh là người tốt. Em có lỗi. Nhưng sau tất cả những chuyện này chúng ta không thể sống chung với nhau được nữa. Cả em và anh sẽ cảm thấy nặng nề".

"Nhưng anh sẽ không nhìn em để đoán biết những việc em làm. Nếu em còn thực sự yêu anh thì hãy cắt đứt với người kia. Ta sẽ lại tiếp tục sống hạnh phúc như trước", anh nhẹ nhàng nói.

"Hắn là một thằng vô lại, em biết và sẽ không bao giờ lấy hắn. Nhưng em thích gần hắn. Ít ra hắn là thằng đàn ông thực thụ với cá tính mạnh mẽ, quyết liệt. Còn anh thì ngược lại, anh hay mặc cảm, rụt rè như một mụ đàn bà ngu ngốc. Cái tên của anh cũng tên đàn bà. Hơn thế, anh quá tốt, quá trung thực, quá chỉn chu, đến mức nhiều khi em thấy nghẹt thở. Anh có thể hạnh phúc với em, nhưng em thì không. Vậy nếu anh muốn em hạnh phúc như vẫn nói, thì chúng ta hãy chia tay nhau. Anh đồng ý chứ?"

Tú ngồi im một lúc rồi gật đầu. Thế là anh bắt đầu sống một mình. Chị vợ đưa con về ở với bố mẹ. Bên ấy nhà rộng, chỉ còn hai ông bà già, trước họ cố bắt anh ở rể nhưng không được. Họ chia tay thật nhẹ nhàng. Không một lời to tiếng, không tranh chấp của cải, không cả suy tính thiệt hơn. Hàng xóm ai cũng trố mắt nhìn, không hiểu chuyện gì đang xẩy ra.

Sau đó là những ngày buồn bã, gần như tuyệt vọng đối với Tú. Chính anh cũng ngơ ngác không hiểu sao bỗng chốc mọi việc lại thay đổi nhanh chóng như vậy. Sống độc thân, anh có nhiều thời gian hơn để suy ngẫm và kiểm tra cái khả năng kỳ quái kia mà cho đến nay chỉ anh và vợ anh biết. Sau nhiều lần thử, anh nhận thấy nó không có hiệu lực với anh. Nghĩa là giả sử chỉ mươi phút nữa anh bị ô tô cán chết, thì anh cũng bất lực không nhìn thấy trước điều đó. Anh chỉ có thể biết trước chuyện của người khác, với điều kiện phải luôn nhìn vào người ấy. Cùng với thời gian, hình ảnh sẽ trở nên mờ dần, muốn thấy rõ hơn, lâu hơn, phải rất cố tập trung, là điều làm anh đau buốt trong đầu. Nhìn ai đó năm phút, anh biết chuyện gì sẽ xẩy ra với người ấy sau nửa ngày, mười phút - sau một ngày, cứ thế nhân lên, nhưng càng về sau hình ảnh càng mờ và anh càng mệt mỏi, đau đớn.

Thoạt đầu anh còn háo hức với các khám phá của mình, nhưng rồi chúng nhanh chóng làm anh buồn, thậm chí hoảng sợ. Có thể do ngẫu nhiên, không hiểu sao anh chỉ thấy toàn những điều chẳng mấy tốt đẹp. Một cô gái rất xinh, ăn diện đúng mốt đứng cạnh Nhà Hát Lớn, chỉ mười phút sau trở thành kẻ ăn cắp hạ tiện ở Tràng Tiền Plaza, lén lút nhét mấy thỏi son vào chỗ kín rồi đi ra với vẻ đẹp ngây thơ trâng tráo. Một quan chức nhà nước oai nghiêm lớn tiếng chống tham nhũng ở hội nghị, thế mà tối lại hẹn mấy bác dân quê đến nhà riêng đưa hối lộ để hắn chạy cho con họ một suất đi lao động nước ngoài. Những cô điếm đứng co ro bên đường giữa trời mưa gió, gần sáng trở về không có tiền cho bọn ma cô, bị chúng đánh thâm tím mặt mày. Một đứa bé mặc đồng phục nhà trường, cổ quàng khăn đỏ đạp xe đi giữa phố trông thật dễ thương thế mà mấy phút sau lại chui vào nhà xí công cộng để tiêm một mũi rồi đạp xe đi tiếp với vẻ mặt còn hồng hào, dễ thương hơn... Tất cả những điều ấy trước đây anh không thấy vì chúng được che giấu, bởi vậy anh nhìn đời lạc quan. Bây giờ thì khác hẳn. Bỗng nhiên anh phải đối mặt với bao điều bỉ ổi của cuộc đời. Như những người trung thực, chất phác và hiền lành khác, anh cảm thấy thật buồn, đến mức không dám nhìn ai lâu, nhất là bạn bè và người thân. Anh sợ có thể phải thất vọng vì họ.

Ở bệnh viện, các phát hiện của anh cũng kinh khủng không kém nhưng đáng buồn hơn, vì đó là cái xấu của những người anh từng cùng làm việc và từng kính phục. Hóa ra ông trưởng khoa chỉ tốt và đạo đức bề ngoài. Trong vòng một tuần Tú thấy ông lôi một nữ bác sĩ trẻ (nổi tiếng đoan trang) và một nữ sinh thực tập vào phòng làm việc của ông. Cả hai lần đều có cảnh cởi quần áo. Đến đây anh không dám nhìn tiếp để biết chuyện gì xẩy ra sau đó. Anh ghê tởm vì có quá nhiều cảnh cởi quần áo. Anh nhìn thấy không ít đồng nghiệp ăn tiền bệnh nhân, quát tháo, hạch sách hoặc thông đồng với các dược sĩ để bán thuốc gấp đôi giá qui định. Có người lúc khám còn sờ cả chỗ kín của họ.

Anh thầm ngạc nhiên sao xưa nay không nhìn thấy, không nghĩ gì về chuyện này. Anh thực sự bị sốc, mặt ngơ ngác như người mất hồn, khiến mọi người nghĩ anh đang ốm. Biết không thể phẫu thuật trong trạng thái như thế, anh đã nhận lời ngay khi trưởng khoa gợi ý có muốn nghỉ phép kéo dài một thời gian không. Trước khi rời bệnh viện, anh moi hết các túi được hơn trăm nghìn đồng, đưa cho một bà mẹ trẻ nông thôn có thằng bé ba tuổi chờ truyền máu nhưng hết tiền, định tối đến ra bến xe bán thân cứu con.

Tú đóng cửa nằm yên trong nhà suốt mấy ngày, suy ngẫm về những sự thật chua xót mà cái khả năng nhìn thấy trước của anh mang lại. Chỉ toàn tai họa. Anh từng sống hạnh phúc với vợ con, đồng nghiệp, mọi chuyện suôn sẻ, thế mà bây giờ phải nằm đây một mình, không việc làm, sắp tới không cả tiền để sống. Anh sực nhớ câu chuyện cổ tích ngày nhỏ về chiếc gương thần biết tố giác những người nói dối. Nhưng rồi tất cả mọi người, kể cả người trung thực và người phát minh ra cái gương kỳ diệu ấy, đã nhất trí đập vỡ nó. Phải chăng trong cuộc sống, sự dối trá cũng cần như sự thật? Liệu xã hội sẽ thế nào khi hoàn toàn không có người nói dối, không có tội ác, đói nghèo, không có những bà vợ, ông chồng lén lút ngoại tình? Những câu hỏi ấy quả rất khó và anh không thể tìm được câu trả lời.

Sao không thử dùng chiếc gương thần kia, cả khả năng kỳ diệu này của anh nữa, vào những mục đích hữu ích, chỉ hữu ích mà thôi? Anh đang cần tiền. Liệu nó có thể giúp anh kiếm tiền được không, tất nhiên chỉ bằng cách lương thiện? Cá cược và số đề bị gạt ngay từ đầu vì thực chất đó là trò cờ bạc. Vậy chơi xổ số chăng, xổ số hợp pháp của nhà nước? Cũng không được. Anh nhìn thấy trước con số trúng giải đặc biệt một trăm triệu đồng, nhưng sau đó lại thấy một ông già nghèo khổ run run bước lên nhận tiền trong tiếng vỗ tay vang dội. Ông cụ sung sướng đến suýt ngất, đôi má nhăn nheo ướt đẫm nước mắt. Không, anh không thể đang tâm cướp đi vận may của người khác. Anh có thể đi lùng mua chiếc vé có con số may mắn kia và trở thành giàu, bề ngoài có vẻ chính đáng, nhưng thực chất cũng là một trò gian lận.

Hay giúp công an phát hiện tội phạm? Giúp các hãng hàng không biết trước tai nạn? Giúp thế giới ngăn chặn khủng bố? Những ý tưởng thật cao đẹp, nhưng làm thế nào thực hiện được? Chắc chắn người ta sẽ nhốt anh vào nhà thương điên nếu tự anh đến đề nghị hợp tác. Cuối cùng anh quyết định giúp những người đang sống quanh mình. Báo trước cho họ những tai nạn sắp xẩy ra chẳng hạn. Anh sẽ không nhìn, không biết, không báo những việc xấu của người thân họ. Chỉ giúp những điều tốt thôi. Tạm thời trước mắt chỉ vậy.

"Hôm nay bác đừng cho thằng Thắng đi trượt pa-tanh. Nó sẽ ngã gãy chân đấy." Anh bảo bà hàng xóm khi đang ngồi uống nước ngoài sân. Hai nhà được ngăn bằng bờ rào khung sắt có lưới mắt cáo. Thỉnh thoảng vào buổi sáng, trước giờ đi làm họ vẫn trao đổi với nhau đôi câu chào hỏi.

Bà kia ngạc nhiên:

"Sao anh biết ?"

"À, tôi linh cảm thấy thế. Dẫu sao, xin bà hãy nghe và đừng cho thằng Thắng đi.".|

Tuy không tin, nhưng vốn mê tín, bà hàng xóm vẫn lặng lẽ giấu đôi giày của con trai. Bà nghĩ bà đã có thêm một bằng chứng khẳng định lời đồn của nhiều người, rằng "dạo này anh Tú thế nào ấy, cứ như người mất hồn. Không khéo lại mắc bệnh tâm thần. Tội nghiệp."

Một hàng xóm khác - ông này làm nghề thầu xây dựng thuộc loại ít chữ nhiều tiền - thì thẳng thừng đốp luôn khi anh bảo ông ta hôm nay cẩn thận kẻo dàn giáo đổ:

"Cậu chỉ được cái nói gở! Tôi mà có chuyện gì, cậu phải chịu trách nhiệm đấy!" Rồi phóng xe đi.

Tối đến thấy có người đèo ông ta về. Quả ông ta có leo lên dàn giáo, và nó đã đổ, may chỉ sái chân. "Cái thằng bác sĩ ấy điên thật rồi, - ông ta bảo một hàng xóm khác. Chẳng trách bị vợ bỏ, bệnh viện bắt thôi việc." Thế là dần dần người ta tin Tú điên. Chí ít cũng tâm thần nặng. Tuy nhiên, từ đấy không hiểu sao trong xóm ai cũng nghe theo lời dặn của thằng điên ấy, và nhờ vậy tránh được tai họa.

Một hôm, ở quán cơm bụi, có cô gái ngồi cạnh anh, ăn xong đang thanh toán tiền với bà chủ. Anh giật mình thấy cô lái xe đi theo bờ đê vắng người rồi bất ngờ bị hai thanh niên đèo nhau ép vào vệ đường. Tiếp đến là tiếng kêu cứu, tiếng quát của một trong hai thằng ấy. Còn thằng kia thì anh thấy cố dằng chiếc túi cô ôm chặt trước ngực mãi không được, bèn giơ con dao sắc nhọn đâm cô.

"Này cô, - anh vội nói. - Cô sắp bị cướp đấy. Chúng còn giết cô. Cô đừng đi nữa. Xin cô hãy tin tôi!"

Cô kia nhìn anh, vẻ nghi ngờ, tư lự một lúc rồi lên xe phóng đi.

"Đừng, tôi nói thật mà. Đừng đi! Nguy hiểm lắm, xin cô đừng đi!"

Tú liền vội vàng đặt bát đũa xuống, lên xe đuổi theo trước con mắt ngạc nhiên của những người xung quanh. Đấy là phản xạ tự nhiên chứ lúc ấy anh không biết đi theo để làm gì. Anh giữ khoảng cách khá xa, cốt không mất hút cô kia. Qua cầu Chương Dương, cô gái rẽ trái theo đường Gia Thượng. Lúc ấy trời nhá nhem tối. Đến đoạn gần Cầu Đuống thì bắt đầu xẩy ra cái việc anh đã nhìn thấy trước...

* Hôm sau báo đưa tin có hai người bị bọn cướp giết lấy tiền và xe ở địa bàn Gia Lâm. Một trong hai người ấy là Tú. Quá lo lắng cho tính mạng người khác, con người lương thiện ấy đã không có thời gian nhìn thêm mấy giây để thấy cảnh chính anh sẽ bị giết. Cũng có thể nhìn thấy nhưng anh đã không coi trọng điều đó.

Hà Nội, 15.6.2002

Đổi đời (Nhưng không phải bằng cách này!) Người viết: Thái Bá Tân 07/01/2010

Đổi đời

Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Như ta biết, trong khoa học đôi khi các sự việc tình cờ lại giúp con người có được những phát minh vĩ đại. Xin hãy nhớ quả táo của Niutơn, cuộc chạy trần truồng của Acsimet từ bờ sông về nhà và nhiều thí dụ khác. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta ai cũng từng gặp những trường hợp tương tự, khác chăng chỉ ở qui mô và ý nghĩa. Và đây là trường hợp của Cái Tý. Một phát hiện giúp nó đổi đời, từ con bé nhà quê chân đất thành "bà quí phái" lọc lõi chốn đô thành, nhiều tiền, nhiều tình và do vậy nhiều cả quyền.

Năm mười sáu tuổi, nó được đưa ra Hà Nội làm ô-xin cho một gia đình khá giả. Chỉ mấy ngày sau, ông chủ, năm mươi tuổi, một người có học và vẻ ngoài rất tử tế, giở trò tán tỉnh rồi cưỡng đoạt nó. Nó sợ tất nhiên, nhưng khốn nỗi nó cũng thích. Thích nhất là sau đó được cho những một trăm nghìn đồng, nghĩa là nửa tháng lương. Không bị quả táo ngẫu nhiên rơi đúng đầu, có thể Niutơn đã chẳng phát minh được định luật vạn vật hấp dẫn. Không bị ông chủ giở trò, tất nhiên nó không biết được nó đang có cái gì và phải khai thác cái ấy như thế nào. Một phát hiện tuyệt vời, có thể nói vĩ đại. Mà khi đã thấy đường đi, biết cách làm thì cứ thế thẳng tiến. Mỗi lần một trăm nghìn đồng ngon ơ, lại còn được thích. Sau đó tuần nào nó cũng đều đều nhận vài lần một trăm nghìn như thế. Số tiền này nó giấu riêng rồi đem gửi nơi khác, chẳng mấy chốc lên tới tiền triệu, rồi nhiều triệu.

Một hôm "xong việc", chỉ đùa thôi chứ chẳng hề có chủ định gì, nó nói: "Cháu có thai!" Ông kia sợ tái mặt, lúc đầu ngồi thần người rồi cuống quýt căn vặn, cuống quýt gợi ý cách "giải quyết". Nó bảo: "Không. Cháu muốn để nuôi!" Cũng buột miệng nói cho vui. Nhưng khi thấy ông chủ hốt hoảng đến líu cả lưỡi thì nó bắt đầu nghĩ. Mà nó nghĩ nhanh lắm, vì nó vốn là đứa thông minh, hay gọi là ranh ma cũng được. Nó nghĩ một khi việc ấy đáng sợ đến thế đối với ông chủ thì tại sao không nhân dịp này kiếm một vố. Một vố lớn chứ không kiểu cò con mỗi lần một trăm nghìn. Rồi nó giả vờ đau khổ và khóc. Điệu bộ và tiếng khóc còn vụng, vì đây mới là bước chập chững đầu tiên trên con đường nghệ thuật chài đàn ông moi tiền rất thành công sau này. Tuy nhiên, sự vụng về ấy cũng đủ bắt ông kia móc túi đưa luôn năm triệu để nó chịu "nạo thai". Nó lấy làm tiếc không đòi luôn mười triệu. Đến bệnh viện, nó dúi cho bà bác sĩ hai mươi nghìn rồi lại leo lên xe ông chủ về nhà. "Người Hà Nội buồn cười thật, - nó nghĩ. - Ở quê mà thế thì được hai mét vải lụa đã mừng rơn, không khéo còn bị đánh, bắt đi nạo".

Nó ngồi trước gương, suy nghĩ rất lung về việc vì sao có thể kiếm được nhiều tiền một cách dễ dàng như vậy. Bỗng nhiên nó phát hiện thêm một điều bất ngờ nữa: Nó xinh! Trời ơi, phải nói là rất xinh! Ông trời bắt đói ăn, làm lụng vất vả từ bé, nay bù lại, ban cho nó một ngoại hình có thể gọi tuyệt mỹ, lại được hoàn thiện thêm nhờ một năm làm đàn bà và ăn ngon. Mặc cũng đẹp hơn, dẫu chỉ quần áo thừa của bà chủ. Người nó cao, tròn lẳn với những đường cong thật khêu gợi; da trắng hồng, khuôn mặt xinh đẹp và thật dễ thương với vẻ thơ ngây hiếm có, thậm chí cả vẻ có học, gia giáo kiểu con nhà lành. Chút việc còn lại phải làm là học cách ăn nói, đi đứng, mồi chài và đưa con mồi vào bẫy. Một việc không khó với nó.

Nó sống thêm một thời gian nữa với ông chủ mà thực chất bây giờ đã thành ô-xin của nó, đòi mỗi lần hai trăm chứ không phải một trăm nghìn như trước. Mê sắc đẹp và cách chiều chuộng của nó, ông kia đành chấp nhận. Cuối cùng, khi cảm thấy đủ lông đủ cánh và thời điểm chín muồi, nó quyết định "ra đời làm ăn lớn". Cái chức ô-xin và khoản thu nhập kia đã không còn làm nó hài lòng.

Thế là một hôm nó tống tiền ông chủ bằng cách dọa mách bà chủ rằng ông đã làm hại cả đời con gái trinh trắng của nó. Tất nhiên nó lại thành công, cầm thêm năm triệu đồng nữa rồi thuê xe ôm dọn đến căn hộ đầy đủ đồ đạc nó mua sẵn trước đó mấy tháng. Ông kia còn tiếp tục đưa tiền cho nó bằng cách thỉnh thoảng đến thăm, bây giờ đã ba trăm nghìn đồng mỗi lần nhưng nó chẳng quan tâm nhiều tới ông, vì người sẵn sàng chịu chơi giá ấy không ít. Tự lúc nào không biết, nó đã lên hàng "thượng lưu", thậm chí "siêu thượng lưu". Ý thức được giá trị bản thân, cả về nhan sắc và nghệ thuật mồi chài, nó muốn một cái gì đấy sang hơn, cao hơn và phải nhiều tiền hơn.

Cái ấy chỉ có thể có được ở giới giám đốc loại cỡ tiêu tiền chùa. Tiếp cận đối tượng này không khó. Nó thường nhắm trước con mồi, tìm hiểu kỹ tính tình, khả năng tài chính rồi xin vào làm thư ký, tất nhiên với vẻ ngây thơ, bẽn lẽn và gia giáo hết mực. Chưa hề có vị nào từ chối. Còn sau đó rút ruột ông ta, hay đúng hơn, rút ruột nhà nước thì nó chỉ cho là chuyện vặt. Trong năm năm kể từ ngày thôi chức ô-xin, nó kịp "làm thư ký riêng' cho ba vị, kiếm được ba xe máy xịn (nó có thể moi được cả ô tô nhưng không muốn), cộng với hai căn hộ, ba chuyến du lịch nước ngoài và vô số quà cáp cùng một tài khoản "nho nhỏ" ở ngân hàng. Một vị tỏ ý sẵn sàng bỏ vợ cưới nó nhưng nó chẳng dại. Vốn còn nhiều, cơ hội làm ăn chưa hết, tội gì phải trói mình với ai. Khi nào cần mới rút, mà nó biết rút đúng lúc và rất êm, nhờ biệt tài đoán gần như chính xác trăm phần trăm lúc nào thủ trưởng sẽ sụp đổ.

* Cái Tý bây giờ đã là Diễm Hạnh (cái tên tự nó đặt sau khi quyết định ra đời "hành nghề" độc lập, chắc hàm ý mình là người kiều diễm và hạnh phúc). Cô Diễm Hạnh, bà Diễm Hạnh, con Diễm Hạnh, mụ Diễm Hạnh. Giới mày râu thường gọi là "nàng". Ta cũng tạm gọi "nàng" cho tiện, vì một người xinh đẹp, giàu có với vẻ ngoài quí phái như thế mà gọi khác e bị coi là nhỏ nhen.

Mấy hôm nay nàng vừa "cắt" một ông. Ông thứ tư. Cái ghế ông này còn lâu mới đổ nhưng nàng ghét vì mụ vợ tỏ ra ghê gớm, còn ông thì keo kiệt đến mức vừa rồi không chịu bỏ mấy nghìn đô mua cho nàng chiếc nhẫn kim cương. Vả lại, nàng phục vụ ông và lấy của ông chừng ấy cũng có thể coi là đủ. Vậy giờ là lúc phải săn con mồi mới. Nhưng nàng không vội. Nàng thừa điều kiện để tự cho phép mình nghỉ ngơi chút ít, cả thể xác lẫn tâm hồn. Kia, nàng vừa bước ra khỏi tắc-xi (nàng ít khi đi xe máy), và đang thơ thẩn dạo quanh Bờ Hồ. Nàng đẹp một cách sang trọng, kín đáo và rất hợp mốt. Đố ai dám nghĩ khác rằng nàng không phải con nhà quyền quí và trong sạch đến từng bước đi, ý nghĩ. Nàng thong thả, kiều diễm lướt qua, thích thú với cảm giác biết bao con mắt ngưỡng mộ, thèm thuồng đang dán lên người nàng. Nàng ghé vào Nhà Thủy Tạ, gọi một ly kem ngoại, châm thuốc hút rồi lơ đãng nhìn ra mặt hồ buổi xế chiều thơ mộng. Tất cả đàn ông có mặt ở cửa hàng quay sang nhìn nàng, trong đó có một người mới vào, chỉ sau nàng khoảng dăm phút. Người này ngồi xuống chiếc bàn bên, cũng gọi một ly kem, châm thuốc và cũng bâng quơ nhìn ra hồ. Kinh nghiệm cho biết điều này không ngẫu nhiên, nhưng nàng không thèm nhìn sang lần nào, dù vẫn thấy hết, nghe hết. Một biệt tài chỉ những người siêu hạng như nàng mới có.

Đó là một người đàn ông khó đoán tuổi nhưng chắc chưa đến năm mươi, mặc toàn đồ xịn, đang cố gắng một cách vụng về để tỏ ra vẻ thạo đời. Những dấu hiệu ban đầu tốt đẹp. Để xem trong túi có đồng nào không đã. Khi cô nhân viên bê ly kem ra, ông ta bo một tờ mười đô còn mới. "Khá. Chịu chơi đấy!" - Nàng nghĩ, biết chắc tờ mười đô được chi hào phóng không vì cô kia mà vì nàng. Chỉ lúc này nàng mới ban cho ông ta một cái nhìn vừa cao ngạo vừa e lệ.

Ông này có khuôn mặt dễ coi, nước da tai tái nhưng may không sần sùi. Mặc dù ít quan tâm đến hình thức con mồi, điều này cũng làm nàng dễ chịu. Đôi mắt ông thật đặc biệt, đẹp, vừa sâu, buồn, đồng thời vừa có ánh đam mê mãnh liệt. Suốt từ nãy đến giờ đôi mắt ấy luôn nhìn nàng, chủ yếu đoạn từ ngực đến đầu gối, nhìn chằm chằm, khiến một người như nàng cũng thoáng chút ngượng ngùng. Bản thân cái nhìn ấy chẳng có gì đáng nói. Xưa nay đàn ông vẫn chiêm ngưỡng nàng cách ấy. Có điều nàng thấy lạ là đôi mắt ông giống hệt mắt một cụ già bảy, tám mươi tuổi nàng gặp hôm kia khi cùng đi thang máy lên tầng hai Tràng Tiền Plaza. Ông cụ cũng nhìn nàng đúng như vậy - sâu, buồn, rực lửa, và cũng chỉ từ ngực tới đầu gối. "Chết đến đít rồi mà còn dê!" lúc ấy nàng nghĩ, mặc dù không ghét cụ chút nào. Đàn ông có "dê" thì nàng mới sống được. Thậm chí cả khuôn mặt hai người cũng có cái gì giông giống. Buồn cười thật, không hiểu sao nhìn ông này, nàng cứ vẩn vơ nghĩ tới cụ già lẩm cẩm đó. Sự quan tâm của nàng tới "con mồi" gia tăng hẳn khi một thanh niên bước vào hỏi ông kia còn phải chờ lâu nữa không để đem ô tô đến bãi gửi. Ông kia bảo còn lâu.

Cân nhắc thêm một chốc, nàng quyết định hành động. Nàng liếc sang bàn bên và...

Nửa giờ sau, nói cười như quen nhau đã lâu, hai người đi bộ tới khách sạn Phú Gia ăn tối. Ăn xong, xe đưa nàng về nhà ông. Rồi một tuần sau, khoảng thời gian cần thiết để không bị chê là quá dễ dãi, nàng dọn đến ở hẳn với ông. Mọi cái đều tốt đẹp. Mọi cái đều đúng như nàng mong muốn. Chỉ tiếc ngôi nhà lớn sang trọng họ đang ở không phải của ông mà nhà thuê, vì theo lời ông, ông là giám đốc một công ty tư nhân ở miền nam có mối làm ăn rộng nên ít khi được ở lâu một chỗ. Về nhiều phương diện, có thể nói đây là con mồi "ngon nhất" của nàng từ trước đến nay. Li dị vợ, nhiều tiền, dễ bảo, mỗi tuần chỉ về nhà một hoặc hai lần. Hơn thế "lão" lại rất yêu, có thể nói si mê nàng một cách chân thành. Điều này lúc đầu có làm nàng chút ít bối rối vì nó nằm ngoài kế hoạch, nhưng sau nghĩ kỹ thấy cũng chẳng sao. Cùng lắm có thể dừng lại ở bến này và lấy "lão" làm chồng nếu "lão" thực sự giàu. Còn trong khi chưa chắc điều ấy thì nàng phải tranh thủ moi càng nhiều càng tốt. Khoản này thì nàng đã thành nghề điêu luyện.

Sống với ông chưa đầy một năm, nàng đã kịp moi được khối thứ, khối tiền. Có lẽ ông giàu thật. Ông chi tiền thoải mái, có khi một lần mấy chục triệu, vì ông thực sự yêu và không thể sống thiếu nàng. Thậm chí không hỏi nàng cần tiền làm gì. Chỉ thỉnh thoáng, khi phải cho nàng một khoản lớn, ông cười, nói: "Em tiêu tiền vậy thì anh chỉ chóng chết mà thôi!" Nàng không hiểu và không muốn hiểu ông nói thế nghĩa là gì, thường chỉ ngăn lại bằng một nụ hôn khêu gợi vào cái miệng đang kêu chết ấy cùng vô số những cử chỉ âu yếm khác. Tuần trước nàng đánh "quả" lớn nhất và quyết định nhất, là xin ông mua ngôi nhà họ đang thuê, tất nhiên đứng tên nàng. Ông chững lại mấy giây, rồi buồn rầu đáp: "Em đang xô anh đến chỗ chết đấy!.." Nàng đã chuẩn bị để nghe câu ấy, cũng như các ngón đòn nàng sẽ tấn công sau đó. Cuối cùng thì nàng cũng đạt được mục đích, chỉ ông hơi buồn, thậm chí nàng thấy như ông gầy sọp và già hẳn đi. Nàng cũng phần nào ái ngại cho ông, nhưng cuối cùng lại nghĩ: "Cho chết. Dại gái cho chết, anh yêu ạ".

Hôm nay, như để bù cho món quà hậu hĩnh ấy, nàng tỏ ra yêu thương ông hơn hẳn mọi lần. Đêm khuya, bốn xung quanh yên tĩnh. Hình như ông đã ngủ, hơi thở nhẹ đều đều, một tay để trên ngực nàng, còn nàng thì nằm bên, mỉm cười hài lòng với số phận và cũng thiếp đi lúc nào không biết.

Gần sáng, chợt tỉnh vì tiếng xe máy rú ngoài đường, nàng quay người, âu yếm xoa ngực ông nhưng liền rút tay lại như bị điện giật. Có cái gì ươn ướt, nhơm nhớp. Có cả mùi tanh lợm. Nàng hoảng sợ nhảy ra khỏi giường, bật đèn rồi đứng đớ người, hai tay ôm miệng: người đàn ông nàng ôm ấp suốt đêm đang nằm kia, dưới ánh sáng rực rỡ của ngọn đèn chùm hai chục bóng. Nhưng lúc này ông ta là một xác chết đang thối rữa, thối rữa rất nhanh và ngay trước mắt nàng. Da thịt ông ngã xám, chương phình rồi từ từ rữa ra, xẹp xuống để nhô hai gò má cao, hai hố mắt sâu dần và chừng năm phút sau chỉ còn lại chiếc sọ dừa trắng hếu. Bộ xương ngực, các xương tứ chi dài ngoẵng cũng trắng như thế. Không bám tí thịt nào. Dần dần mùi tanh lợm cũng biến mất. Cảnh tượng hãi hùng và bất ngờ đến mức một người lõi đời như nàng cũng phải bỏ chạy sang phòng bên, khóa chặt cửa ôm mặt khóc.

* Rạng sáng hôm sau, có người đến gõ cửa nhà nàng. Vẫn co ro ngồi trong phòng riêng, nàng cuống quýt chạy sang phòng ngủ định lấy cái gì che bộ xương, thì ngạc nhiên sao, không thấy nó đâu nữa. Trên giường chỉ còn tấm ga trắng nhàu nát và chiếc chăn rơi một nửa xuống sàn. Tiếng gõ cửa nghe to và có vẻ sốt ruột.

Khách là một ông già nhỏ thó vẻ đáng ngờ, người gầy đét, có con mắt xoi mói và gian xảo.

- Bà là Nguyễn Thị Tý?

- Bà Diễm Hạnh.

- Cũng thế cả. Xin lỗi bà, tôi đến đây để đòi nợ...

- Đòi nợ? Ai nợ, nợ ai? - Nàng ngạc nhiên nhưng cố tỏ ra bình tĩnh và đáo để trước con người mà nàng thấy trước là không phải tay vừa.

- Ông Lương bạn bà có nợ tôi một khoản tiền lớn. Chắc bà không biết, nhưng tôi sẽ chứng minh...

- Ông ấy mà thèm nợ ông? Nếu quả có nợ, sao không tìm ông ấy mà đòi? Hiện giờ ông ấy không có đây.

- Với tôi, bà không cần giấu diếm điều gì. Ông ấy có ở đây, chính xác là cho tới nửa đêm hôm qua. Còn bây giờ thì ông ấy đang ở chỗ cần phải ở, tức là nghĩa trang Văn Điển. Vì ông ấy đã chết cách đây một năm...

- Ông nói gì tôi không hiểu.

- Cũng đúng thôi. - Lão già thích thú nhìn bộ mặt ngơ ngác, bối rối của người đứng trước lão. - Chuyện nghe hơi kỳ, nhưng đúng là có thật. Tôi và ông Lương là chỗ bạn bè thân thiết. Năm ngoái gặp bà ở Tràng Tiền Plaza, ông ấy bị bà hớp hồn. Ông là ngưòi tốt, chỉ tội hơi yếu đuối trước phụ nữ, nhất là một người quyến rũ như bà. Khốn nỗi lúc ấy ông đã trên bảy mươi, lại đang ung thư sắp chết. Ông đến gặp tôi, năn nỉ giúp đỡ - chả là tôi có chút tài vặt mà. Ông thực sự yêu bà, ngưỡng mộ bà, vì sao thì tôi quả không hiểu. Tôi lựa lời khuyên ngăn nhưng ông không nghe. Thôi thì đành giúp vậy. Chẳng dám dấu bà, tôi là thầy thuốc, có loại thuốc làm cho người ta trẻ lại. Không chữa khỏi bệnh, nhưng trẻ lại thì được. Trường hợp ông Lương hơi khó một chút. Ông mắc bệnh ung thư sắp chết như đã nói, nhưng tôi vẫn giúp được ông kéo dài sự sống, dù chỉ sống ảo, vì thực sự ông đã chết cách đây một năm, chính xác là chỉ vài tuần sau khi gặp bà lần đầu. Hơn thế, tôi còn làm ông trẻ lại những ba mươi tuổi để tận hưởng hạnh phúc với bà. Bà đang thắc mắc muốn biết bằng cách nào? Đơn giản thôi, một tuần hai lần ông uống những viên thuốc đặc biệt do tôi bào chế để giữ cơ thể không chỉ không phân hủy mà còn khỏe mạnh thành người tình của bà. Làm được loại thuốc này tốn kém lắm, và dẫu bạn bè thân thiết, ông Lương vẫn phải trả tôi rất nhiều tiền. Ông giàu, bà biết điều ấy, nhưng thậm chí cả khi giàu như ông, đó cũng là một số tiền lớn khó có thể kham nổi trong một thời gian dài. Hơn nữa, bà lại tham lam moi của ông ấy nhiều quá. Ông ấy chẳng bảo bà đang đẩy nhanh ông ấy đến chỗ chết là gì. Nhất là cái vụ bắt mua ngôi nhà này. Vì quá yêu bà, ông ấy không thể từ chối nhưng đồng thời cũng không thể không uống thuốc của tôi, thành ra ông lâm vào cảnh nợ nần, và khi tôi ngừng cấp thuốc thì ông chết, ngay trên giường với bà như bà đã biết. Hôm nay tôi đến đòi lại số tiền thuốc ông ấy còn nợ. Có giấy ghi chép đầy đủ cả đây...

- Nhưng ông ấy đã chết, và tài sản hiện chẳng còn gì.

- Còn đấy, thưa bà, ngôi nhà này chẳng hạn, và nhiều thứ khác.

- Ngôi nhà này đứng tên tôi và là của tôi! - Nàng giận dữ kêu lên.

- Bà nghĩ thế à?

- Tất nhiên. Và đừng hòng ai cướp nổi nó. Đây, ông xem đi, rồi mời ông ra khỏi đây ngay! - Nàng vội móc túi lấy tờ giấy chứng nhận sở hữu ngôi nhà mà nàng luôn giữ chặt bên mình. - Ông đọc đi!

Nàng dí tờ giấy tận mặt lão già.

- Thì nó ghi tên tôi đấy thôi, xin bà hãy xem lại. - Ông kia thản nhiên đáp, rồi đến lượt mình chỉ ngón tay vào tên người sở hữu trên tờ giấy. Nàng trố mắt ngạc nhiên khi thấy đó không phải tên mình mà là một cái tên lạ hoắc. - Thôi, đã đến lúc tôi phải đi, - lão già vừa nói vừa cho tờ giấy vào túi. - Tôi nghĩ ba ngày đủ để bà dọn đi nơi khác. Trường hợp sớm hơn, xin bà báo tôi biết theo địa chỉ này... - Lão đưa cho nàng mẩu giấy có ghi số nhà và một tên phố.

Chờ lão già ra khỏi, nàng chạy bổ vào phòng, run rẩy móc từ chỗ cất giấu một bọc tiền lớn, giở ra chỉ thấy toàn những tập giấy bạc âm phủ. Thử các dây chuyền và nhẫn vàng, cả chiếc có hạt kim cương lớn, cũng thấy chỉ đồ giả. Xót của, nàng kêu to một tiếng rồi ngất xỉu...

* Sau đấy nghe nói nàng ốm một trận phải vào viện nằm cả năm trời chưa khỏi. Có người bảo nàng hóa điên, xé quần áo, bôi đen mặt đi giữa phố. Cả lúc ấy, vẻ đẹp trời cho vẫn hiện ra lồ lộ, và nàng đã mấy lần bị bọn lưu manh lôi vào bụi rậm. Có người lại bảo, điều này nghe có lý hơn cả, rằng mấy năm sau, khi thấy mình không còn trẻ, nàng đã tìm đến lão già kia mua thuốc, nhưng vì vô tình, cũng có thể cố ý, nàng uống quá liều nên lại biến thành Cái Tý tuổi mười sáu đúng như ngày nó lên thành phố làm ô-xin năm nào. Lần này không may nó phải hầu hạ một bà già góa giàu có không con cái, do vậy nó không bị ai cưỡng hiếp nên không có điều kiện biết được cách kiếm tiền dễ dàng. Bà này nổi tiếng nghiêm khắc và thương người. Bà dạy nó đủ điều hay lẽ phải, lại cho tiền ăn học tử tế như con. Vậy là nó đổi đời, từ con bé nhà quê đến ăn không đủ no thành cô tiểu thư thành phố nết na, xinh đẹp. Nó thi đậu đại học, thành hoa khôi trường, hoa hậu thành phố rồi làm kế toán trong một cơ quan nhà nước. Nó, tức là cô Tý, mới lấy chồng năm kia, sinh đứa con rõ xinh và cô có vẻ hạnh phúc lắm. Cô cũng loáng thoáng nghe người ta nói về câu chuyện ly kỳ của một mụ đàn bà xinh đẹp, hư hỏng nào đó tên là Diễm Hạnh, nhưng vì bận việc công, việc nhà, cô chẳng hơi đâu quan tâm tới mụ.

Hà Nội, 22. 8. 2002

Chán đời (Vì do quá nhiều tiền) Người viết: Thái Bá Tân 27/12/2009 Chán đời

Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Trên chiếc cổ thon dài và rất trắng của nàng có vài nốt ruồi nhỏ màu hồng hồng, ngay dưới những sợi tóc thưa mềm và ngắn ở gáy. Tóc nàng búi tụm ngược đằng sau theo kiểu của người chững chạc chứ không như các cô mới lớn. Anh đặc biệt nhạy cảm với những sợi tóc như thế trên nền trắng mịn cổ phụ nữ. Theo anh, ở họ đó là chỗ hấp dẫn nhất. Bây giờ sự hấp dẫn ấy được tôn lên bởi mấy nốt nhỏ đáng yêu kia, cộng thêm màng mồ hôi ẩm ướt trông thật quyến rũ, đến mức anh muốn, rất muốn được chạm khẽ đôi môi mình lên đó.

Mấy phút trước nàng còn ngồi một mình ở bàn bên. Một mình với chiếc ly lớn rượu ngoại. Bất chợt nàng đứng dậy, thản nhiên đi đến bàn anh, và cũng thản nhiên như thế, nàng nói: "Anh cho em ngồi cùng nhé?"

Nhà hàng đang lúc vắng người. Đây là một trong những điểm nghỉ ngơi cuối tuần của dân giàu thủ đô, ở vùng đồi núi cách trung tâm thành phố chưa đầy nửa giờ ô tô, có đủ các tiện nghi hiện đại cho nhu cầu ăn ngủ và giải trí. Mọi cái được thiết kế theo kiểu nước ngoài, dù đôi chỗ hơi phô trương, không hợp lắm với cảnh quan xung quanh, nhưng nói chung tao nhã, yên tĩnh và dễ chịu. Nhà hàng nằm ngay bên con suối nước chảy róc rách với tầm nhìn rộng trông ra một vùng xanh ngát nhấp nhô.

Đang tháng Tư, mặt trời chưa quá nóng và vừa mới nhô lên khỏi dãy núi. Có cảm giác như ánh nắng cũng lạnh, ươn ướt như muốn dính vào tay. Trước đó hình như có mưa vì thoang thoảng mùi ẩm, mùi lá mục, thậm chí như có nhà thơ đã nói, cả mùi hoàng hôn, dù lúc này mới buổi sáng. Tức là phảng phất cái gì đó buồn buồn, dìu dịu.

Trước nhà hàng, ngay bên kia đường có mấy con bò đang thong thả gặm cỏ. Không thấy lũ trẻ chăn chúng, tất nhiên cũng không có tiếng sáo mục đồng, nhưng quang cảnh thật điền viên, thơ mộng. Trong phòng ăn hình như nhạc cũng được cố tình chọn bài thích hợp và với âm lượng vừa phải.

"Đừng vội nghĩ xấu về em!" nàng nói rồi uống một hơi hết cốc rượu vừa mang đến.

Anh có thể nghĩ gì về nàng, một cô gái không quen tự nhiên sán đến, uống rượu và chắc chắn chốc nữa sẽ hỏi xin một điếu thuốc. Một phụ nữ xinh đẹp trạc ba mươi, ba lăm tuổi, ăn diện hiện đại nhưng lịch sự. Khuôn mặt nàng thanh tú, hơi buồn, đôi mắt sâu tròn, chiếc mũi thon thẳng, nhìn toàn cục có nhiều nét giống đức mẹ đồng trinh. Tuy nhiên anh không thật chắc lắm khi thầm nhận xét khuôn mặt ấy. Cùng một lúc dường như nó có cả vẻ trác táng lẫn sự thanh khiết thánh thiện. Vì thời buổi này ít người thánh thiện nhiều gái làm tiền nên dẫu không muốn, anh vẫn thiên về nghĩ nàng thuộc loại thứ hai. Càng tốt, vì anh cũng đang cô đơn và nếu gặp dịp sẽ không từ chối để cuốn vào những cuộc phiêu lưu nho nhỏ. Không nhiều, không chủ động tìm, nhưng những cuộc phiêu lưu như thế vẫn có, vì anh cũng thuộc loại có tiền và chưa già.

"Em buồn lắm", nàng lại nói và với tay lấy bao thuốc. Không hỏi xin. Khi vươn người về phía anh, đầu cúi xuống, chiếc cổ trắng nõn của nàng cùng những túm lông mịn kia trên gáy gần như chạm mặt anh. Anh có cảm giác nếu cúi xuống hôn lên đó, chắc nàng không phản đối.

"Làm sao một người như em có thể buồn được?" anh nói thăm dò.

Nàng không đáp ngay, ra hiệu gọi một chai Martelle, rồi thành thục mở nút, rót cho hai người.

Anh thoáng giật mình về sự tự nhiên quá đáng ấy, cả về giá tiền chai rượu ngoại mà chắc chắn anh sẽ phải thanh toán, nhưng anh không nói gì, chỉ nghĩ tới chiếc cổ và thân hình tuyệt mỹ bên trong chiếc áo thun mỏng màu mận chín và chiếc váy đầm xẻ quá đầu gối. Cả ống chân thon thẳng của nàng cũng có những nốt ruồi nhỏ nhưng xẫm màu hơn một chút.

"Đàn bà ai chẳng buồn, nhất là em. - Anh để ý thấy nàng không gọi mình là con gái, mà đàn bà. - Nhưng thôi, chuyện ấy không liên quan gì đến anh. Không quan trọng. Anh là người tử tế. Vì vậy em mới đến với anh..."

"Sao em biết anh tử tế?"

"Cũng vì em là đàn bà. Nhìn là biết. Em còn biết anh đang muốn em. Đúng thế không?"

Anh gật đầu.

"Thế thì ta đi!" Nàng chìa bàn tay nhỏ bé cho anh. Bàn tay rất nóng, khiến anh tưởng như nàng đang sốt.

Ở quầy lễ tân, nàng hỏi xin một phòng, với vẻ thành thục và tự tin khiến anh không còn chút nghi ngờ nàng thuộc loại người nào. Thậm chí anh nghĩ có thể nàng là nhân viên được chủ giăng ra bẫy khách và chốc nữa sẽ có một vụ chém đẹp. Nhưng lúc này điều ấy với anh đã không còn quan trọng.

* "Em không như anh tưởng đâu. Vì Chúa, đừng nghĩ xấu về em! - Nàng nói khi hai người từ cầu thang đi xuống. Rồi như thể giải thích vì sao nhắc đến Chúa, nàng nói thêm: - Em theo đạo đấy. Mà bên đạo những chuyện thế này là tội lớn lắm. Tội chết. Tất nhiên đây là lần đầu và cũng lần cuối. Với anh cũng ngẫu nhiên thôi. Không anh thì người khác". Giọng nàng run run, có vẻ như khóc.

Nàng vội đến quầy lễ tân, rút ví thanh toán tiền phòng, tiền chai rượu và những thứ khác gọi trước đấy. Anh định tranh trả nhưng nàng nhất quyết không chịu. "Không được nghĩ xấu về em! Em nói rồi". Nàng giơ ngón tay trỏ trước mũi. "Có phải anh đang nghĩ em là người đàn bà hư hỏng không?" Nàng hỏi khi hai người ngồi xuống chiếc bàn với chai rượu uống dở lúc nãy.

"Anh không nghĩ gì cả. Càng không nghĩ em hư. Chỉ thấy hơi lạ. Em thật xinh mà cũng thật kỳ lạ".

Nàng rót hai cốc rượu đầy, đẩy một cốc về phía anh, cốc kia uống một hơi hết sạch rồi lại rót cho mình cốc nữa. Mặt nàng đỏ ửng, vì rượu và có lẽ cả vì xấu hổ. Bất chợt nàng ngước nhìn anh, đôi mắt long lanh, ươn ướt.

"Có lúc con người ta thế đấy. Em chẳng hiểu mình ra làm sao nữa. Em thấy ngột ngạt khó thở. Cả hai nghĩa. Thậm chí muốn chết. Buồn cười thật. Đáng lẽ giờ là lúc em đáng sống nhất. Em giàu. Anh không tưởng tượng nổi em giàu đến mức nào đâu. Đúng hơn là chồng em giàu. Cái gì cũng có. Muốn gì cũng được.Thế mà buồn, chán. Muốn chết. Muốn đập phá cái gì đó. Cuối cùng lại đập phá chính cuộc đời mình. Vì vậy mới có chuyện hôm nay. Trước đây em nghèo như mọi người và tất nhiên sống bình thường như mọi người. Nghèo cũng sướng, anh nhỉ? Được có cái vui khi góp đủ tiền mua chiếc áo mới, hay thậm chí thỏi son Hàn Quốc mấy nghìn đồng. Được bon chen tất bật, được thấy người khác nhiều tiền mà thèm. Còn bây giờ..."

"Bây giờ thì sao?"

"Bây giờ tất cả chỉ là sự chán chường, trống trải và vô nghĩa. Chẳng thiết gì. Chẳng muốn làm gì. Chẳng biết làm gì".

"Còn chồng con?"

"Em chưa có con. Chán không muốn có. Chán cả chồng, nhất là cách kiếm tiền và cách nhìn nhận đồng tiền của ông ta. Ông chủ "Công ty vận tải V và T" ở phố Lò Đúc đấy. T là tên em. Tuyết. Một doanh nhân thành đạt và đáng kính. Báo ca ngợi nhiều lần, chắc anh biết. Em biết hơn người khác ông ta "đáng kính" mức nào".

"Còn ông ta đối với em?"

"Yêu. Rất yêu. Gần bằng yêu kiếm tiền. Kể ra không đến nỗi, nhưng bên ông ta em thấy nghẹt thở. Em thấy nghẹt thở cả khi một mình trong tòa nhà bốn tầng ở Hồ Tây. Này, có lần em định giết ông ta đấy, anh có tin không? Giết bằng dao khi ông ta trần truồng nằm bên và ngủ với vẻ mặt lương thiện như một vị thánh. Nhưng em đã không giết. Em chẳng bao giờ dám giết ai. Chỉ ra toa-let nôn thốc nôn tháo. Chắc anh cho em là con điên. Mà có lẽ em điên thật. Không điên ai đem những chuyện này nói với người lạ? Nhiều khi em ước có cánh để bay lên trời như con chim ấy. Bay thật xa khỏi cuộc sống tởm lợm hiện có. Hoặc bỏ tất cả về quê làm ruộng, hay làm cô công nhân bịt khăn kín mặt đổ nhựa đường giữa nắng. Hôm nọ em còn dừng xe hồi lâu ngắm mấy cô làm việc ấy ở Ninh Bình. Việc nặng nhọc nên họ không có thời gian để nghĩ vẩn vơ như em. Và chắc phải vui lắm khi cuối tháng nhận bốn, năm trăm nghìn đồng tiền lương".

Nàng uống cạn cốc rượu và rót thêm cốc nữa.

"Anh uống đi và đừng bực mình vì những lời nhảm nhí của em. Coi như sự đền bù cho việc anh khỏi phải bỏ tiền để lôi một con điếm lên giường. - Rồi nàng ngước nhìn anh với vẻ rất nghiêm túc: - Anh đã bao giờ nghĩ người ta có thể bất hạnh khi có quá nhiều tiền chưa? Và rằng em đã trở thành cái như các cụ nói "sướng quá hóa rồ?"

Anh chẳng biết trả lời thế nào, tò mò nhìn người đàn bà ngồi đối diện. Thường thì người ta khổ vì thiếu tiền chứ không ngược lại. Tiền có thể làm sa đọa người yếu bản lĩnh, gây tội ác và nhiều chuyện khác, nhưng trong trường hợp này, nếu những gì nàng nói là đúng sự thật, thì đau khổ, buồn chán, thậm chí muốn chết chỉ vì quá giàu thì kể cũng lạ. Hay nàng điên thật, chí ít cũng mắc bệnh trầm cảm? Hay quả đúng nàng đang trong cơn tuyệt vọng cùng cực, và còn những bi kịch lớn khác mà nàng chưa nói? Bỗng nhiên anh thấy ái ngại cho nàng.

"Em đừng uống nhiều như thế. Không tốt đâu", anh nói khi nàng lại uống cạn cốc rượu.

"Cảm ơn anh. Cảm ơn cả chuyện trên giường". Nàng đứng dậy, đi về phía chiếc Land Cruser mới tinh mà anh cứ tưởng của ông chủ khu này.

"Em không đi bây giờ được đâu! - Anh chạy theo, cầm tay nàng. - Em đang...".

"Khỏi lo. Có lúc em uống nhiều hơn mà chẳng sao. Vả lại có chuyện gì đi nữa thì cũng thế cả". Nàng đóng dập cửa xe và rồ máy phóng đi.

* Lúc ấy đã quá trưa, cả nhà hàng chỉ còn lại mình anh và một đôi còn rất trẻ đang ăn cơm ở góc xa phía trong. Chai rượu trên bàn còn gần một nửa. Anh ngồi uống một mình, lơ đãng nhìn ra ngoài.

Mấy con bò gặm cỏ bên kia đường lúc sáng không thấy đâu nữa. Con suối vẫn róc rách, thờ ơ và đơn điệu. Con vẹt trong chiếc lồng cầu kỳ treo bên cửa ra vào chốc chốc ngứa miệng lại kêu "Chào khách! Chào khách!" Hình như sắp mưa. Trời bỗng tối hẳn lại. Có thể chỉ do đám mây dày bay ngang che lấp mặt trời. Nhưng gió thì rõ là đang mỗi lúc một mạnh.

Một chiếc lá bị gió thổi vào, rơi ngay trước mặt, cạnh cốc rượu. Anh chẳng biết lá gì. Mà cũng chẳng muốn biết. Anh vẫn không thôi nghĩ về người phụ nữ kỳ cục với cảm giác mơ hồ lẫn lộn. Về khái niệm giàu nghèo, hạnh phúc, khổ đau. Về cả bản thân anh, một người cũng đang gặp thời, thành đạt, chưa đến mức "quá nhiều" nhưng có tiền, đủ để cho phép mình và vợ bỏ việc nhà nước đã ba năm nay. Anh thì lo bận làm ăn. Vợ anh chẳng làm gì, chẳng phải làm gì, và có lẽ cũng không biết làm gì, không thiếu thốn cái gì. Vợ anh có hạnh phúc không? Có cảm thấy cuộc đời vô nghĩa, trống rỗng, nghẹt thở và buồn chán không? Đã bao giờ cô ấy muốn giết anh chưa? Kể cũng lạ, từ trước đến nay đây là lần đầu anh tự hỏi mình những câu như vậy.

Cuối cùng, khi không còn rượu nữa để uống, anh lái xe về Hà Nội theo đường Láng - Hòa Lạc, con đường nàng đã đi trước đó hai giờ, dù đáng lẽ anh còn có việc phải tới thị xã Sơn Tây. Xe của anh chỉ là chiếc Camry, không còn mới nhưng đời chót.

Tới đoạn rẽ vào Chùa Thầy, anh thấy có chiếc xe khổng lồ chở công-te-nơ, gầm thấp, đứng bên đường. Phía sau nó là chiếc Land Cruser bẹp rúm. Xe của nàng. Loại xe này mà bị bẹp như thế thì chắc phải lao vào đuôi chiếc kia với tốc độ rất lớn. Ít có khả năng người lái còn sống. Gần đó chỉ có anh công an áo vàng và vài người hiếu kỳ, chứng tỏ tai nạn xẩy ra đã lâu. Anh rùng mình cho xe đi tiếp.

* Một tuần sau ngẫu nhiên đọc báo, anh thấy có tin ông Nguyễn Đức Việt, chủ "Công ty vận tải V và T" tự tử. Ông để lại bức thư tuyệt mệnh nói rõ ông đi tới quyết định cực đoan này chỉ vì không chịu nổi cái chết bi thảm của người vợ ông yêu quí. Tuy vậy, công an vẫn tiến hành điều tra xem có vấn đề tài chính hoặc thù hằn gì liên quan đến vụ này không.

Hà Nội, 19.4.2003

Gánh xiếc ông Lùn Người viết: Thái Bá Tân 29/10/2006

Câu chuyện tôi sắp kể dưới đây xảy ra đã lâu, chính xác là khoảng giữa những năm bốn mươi. Chuyện có thật nhưng bị cắt vụn thành từng mẩu rời rạc, lại phân tán nhiều nơi nên tôi phải mất công đi tới nhiều nơi ở Nghệ An để thu lượm và chắp vá các mẩu rời rạc ấy thành chuyện. Chuyện về gánh xiếc ông Lùn.

Tên là Lùn, nhưng ông không lùn, chỉ hơi thấp, to ngang, cộng thêm điệu bộ chậm chạp và nghề nghiệp độc đáo nên mới bị người ta gọi thế.

Ông Lùn và gánh xiếc mang tên ông từng một thời rất nổi tiếng ở hai tỉnh Thanh - Nghệ. Ngày ấy ở nông thôn chất phác và lạc hậu, cái gì cũng có thể làm người ta ngạc nhiên... Dễ hiểu vì sao các tiết mục xiếc, dù của một gánh xiếc rong, ngay lập tức được mọi người chú ý. Lời đồn về ông Lùn và gánh xiếc của ông có nhiều và được truyền đi rất nhanh, rằng ông có tài ném dao phi thường, (và bằng cái biệt tài ấy đã giết chết ba bà vợ, có người nói năm), rằng ông có ô tô riêng đi biểu diễn, có hàng tá người giúp việc, có con chó biết nói, cái hộp sắt biết hát và đặc biệt là kiếm được rất nhiều tiền, giàu có đến bạc triệu, vân vân. Những lời đồn ấy - như phần lớn các lời đồn khác - trên thực tế đều không có thật, trừ việc ông có tài ném dao trăm phát trăm trúng, có con chó khá thông minh và chiếc máy hát quay tay ọc ạch với một chiếc đĩa duy nhất. Ông Lùn xuất thân là nông dân, do gặp chuyện phẫn uất hoặc không kiếm nổi miếng ăn nên bỏ làng lên thành phố. Ông đã phải trải qua khá nhiều năm tháng gian khổ, thử đủ nghề trước khi học được nghề xiếc rong này. Người ta chỉ biết khi vào Nghệ rồi "định cư" hẳn ở đó, ông là chủ "Gánh xiếc ông Lùn", gồm ông, hai cậu con trai, chiếc xe kéo có khung bịt vải chở mấy thứ đồ nghề và xoong chảo. Con chó và chiếc máy biết hát mãi sau này mới xuất hiện. Chiếc xe được trang trí lòe loẹt, bốn góc cắm bốn chùm hoa bằng lông gà nhuộm xanh đỏ. Đầu xe treo chiếc chuông, vừa đi vừa kêu leng keng. Cùng chiếc xe ấy, ông lang thang nơi này sang nơi khác, mưa thì ngủ trên xe, nắng trải chiếu nằm dưới đấi, hôm sau lại dậy lại đi tiếp. Thường thì ông Lùn kéo xe, thằng con lớn mười hai tuổi đẩy phía sau, thằng nhỏ bẩy tuổi được ngồi trên xe, nhưng phải vừa luôn tay đánh trống, vừa chốc chốc lại kêu to. "Xiếc! Xiếc đây! Xiếc ông Lùn đây!" Khi con chó được nhập bọn thì nó lẽo đẽo chạy theo sau.

Gánh xiếc của ông thường biểu diễn ở các bãi chợ và sân làng, nếu được nhà chức trách cho phép sau khi nộp một số tiền mà bây giờ gọi là tiền thuê địa điểm.

Ông Lùn lôi từ xe ra tấm vải dày hình tròn rộng bằng mấy chiếc nong, được chắp nối từ các mảnh vải có màu khác nhau. Nếu không gọi tiếng trống dồn dập là tiết mục, thì tiết mục đầu tiên là chiếc máy hát. Nó có nhiệm vụ thu hút khách xem và nếu cần, lấp thời gian trống giữa các tiết mục. Thằng lớn bê nó ra một cách long trọng, nhẹ nhàng và từ từ nhấc tấm vải phủ màu đỏ trước con mắt tò mò háo hức của mọi người. Rồi nó quay tay lên dây cót. Lát sau, cùng tiếng khùng khục lạo xạo là tiếng một bài hát vui nhộn bằng tiếng Pháp bay ra. Bao giờ cũng đúng những thủ tục ấy, cũng bài hát ấy.

Tiếp đến là phần của con chó. Con chó này chân và mõm đều ngắn, lông dài màu xám , người lại nhỏ nên trông như chó nhồi bông. Cổ nó đeo ruy-băng xanh, mỗi chân leng keng chiếc lục lạc bé tí. Ngoài những trò thông thường như đi bằng hai chân, nhào lộn và nhảy vòng, nó còn biết làm các phép tính đơn giản. Đến cái trò trí tuệ này thì thằng lớn ra điều khiển chó thay em, vì em nó chưa biết tính nhẩm. Nó yêu cầu ai đó trong đám người xem ra đề bài, thí du hai cộng hai, năm trừ ba hay thậm chí mười sáu chia cho bốn là bao nhiêu. Nhẩm tính trong đầu xong, nó ra hiệu cho con chó lúc nào thì sủa và lúc nào dừng lại. Tất nhiên cũng có lúc sai. Người xem tưởng lỗi do con chó nên họ rộng lượng bỏ qua, vì trong họ không phải ai cũng biết làm các phép tính phức tạp ấy.

Đến lượt thằng lớn trổ tài. Nó là diễn viên tổng hợp. Trên hình tròn bằng vải sặc sỡ ấy, nó có thể làm rất nhiều trò, từ uốn dẻo tung hứng đến thăng bằng, nhào lộn, nhưng đặc sắc nhất vẫn là trò ảo thuật. Trước con mắt ngạc nhiên của mọi người, nó ung dung hút thuốc rồi nhả khói qua hai lỗ tai, uống xăng phun ra lửa mà không sợ bỏng, hoặc để thằng em trói nó, trói thật chặt khắp người, nó chỉ rùng mình một cái là các sợi dây sổ tung rơi xuống đất.

Cuối cùng đến phần đặc sắc nhất và cũng thường để kết thúc buổi diễn - tiết mục ném dao găm của ông Lùn.

Ông cho bê ra một chiếc bàn và dựng một chiếc bảng cao trên đó. Thằng nhỏ mang đến chiếc hộp đựng đầy dao găm, những chiếc dao nhỏ, ngắn chỉ độ nửa gang, mũi nhọn và rất sắc. Như hai cậu con trai ông Lùn mặc bộ quần áo nhà nghề áo sặc sở ông tự may, tương xứng với tài năng và túi tiền của ông.

Thằng lớn găm lên bảng một quả quýt. Ông Lùn đỡ lấy con dao thằng nhỏ đứng cạnh đưa cho, và ở khoảng cách mười mét, hầu như không ngắm, ông ném một nhát trúng đích, cắt nó làm đôi. Người xem chưa hết ngạc nhiên thì thằng lớn đã lấy phấn gạch một đường chéo trên bảng. Ông lại ném. Cứ thế năm lần liên tiếp. Khi thằng lớn nhổ con dao thứ năm lên thì mọi người chỉ thấy trên bảng một lỗ cắm duy nhất. Tiếp đến ông mời người xem vẽ lên bảng một hình gì đấy. Cũng không ngắm, ông liên tiếp cắm hết mũi dao này đến mũi dao khác theo hình ấy. Không chệch phát nào. Xong, ông ra hiệu thằng lớn cho chiếc máy hát hoạt động trở lại. Một lúc sau mọi người tản đi trong tiếng trống bì bùm và tiếng bài hát Pháp vui vẻ.

Sự thật thì ông Lùn và gánh xiếc của ông rất nghèo. Thời ấy moi được đồng xu của anh nông dân không dễ, phần vì họ keo, phần chẳng có gì để moi. Bán vé thu tiền là điều không thể, vì nếu thế sẽ chẳng ai đến xem, thành ra chỉ còn biết trông chờ vào lòng tốt tự giác của người đời, nghĩa là cũng phải để chiếc mâm xin tiền như anh xẩm mù để mũ, dù đây là một gánh xiếc với những tiết mục hấp dẫn như vậy. Thường thì ngày nào họ chỉ kiếm đủ ăn ngày đó. Nhiều ngày trời mưa không diễn được, hoặc bị xua đuổi không cho diễn. Đấy là chưa kể những lúc ốm đau hay gặp sự cố.

ở Đô Lương có người kể chính ông ta một hôm nhìn thấy thằng bé lẻn vào vườn moi trộm khoai lang, ông tóm được. Khi nhận ra nó là thằng nhỏ gánh xiếc ông Lùn, ông tha cho đi, thậm chí không giữ lại những củ khoai nó vừa moi được.

Thế thì sao lại có lời đồn ông kiếm tiền dễ dàng và "giàu có đến bạc triệu?" Tôi đã thử tìm hiểu điều đó, cả việc vì sao gánh xiếc thiếu vắng phụ nữ, vợ ông hay ai đó chẳng hạn. Tiếc là đến bây giờ tôi vẫn chưa tìm ra sự thật.

Có người quả quyết với tôi rằng trước đây ông Lùn luôn có vợ đi theo. Bà này thay cho các hình vẽ trên bảng, đứng dang tay để chồng ném dao găm theo hình người bà. Đó là tiết mục hết sức mạo hiểm và giật gân, nhờ thế thu hút được nhiều khách, và cùng với khách là tiền. Tiếc rằng bà này một lần vô ý lắc đầu xua con ruồi trên môi, bị mũi dao đâm xuyên qua óc. Từ đó gánh xiếc bắt đầu sa sút. Có người lại nói người bị ông ném chết không phải vợ mà thằng con cả, anh của hai đứa hiện giờ. Còn vợ ông, khi thấy con chết đã ôm đứa bé nhất, đứa thứ tư, bỏ ra Bắc. Cũng có người nói ông Lùn không bao giờ ném người, vì ông tốt bụng, sợ nhỡ người đứng mẫu không chịu nổi sẽ nhúc nhích hay ngất ngã. Tóm lại, ý kiến có nhiều và khác nhau không ít, nhưng tất cả đều thống nhất ở một điểm, rằng ông Lùn và gánh xiếc của ông trước đó từng làm ăn phát đạt hơn nhiều.

Còn lúc này thì nó đang gặp khó khăn. Các tiết mục có lạ mắt, hấp dẫn thật đấy, nhưng vẫn chưa đủ độc đáo để bắt được người nông dân bỏ công việc kéo nhau đến xem, và - điều này mới quan trọng nhất - chịu móc túi lấy tiền, tất nhiên nếu trong túi có tiền.

Cứ thế mấy cha con ông Lùn kéo xe lang thang khắp nơi, hết huyện này đến huyện khác. Chương trình biểu diễn của họ trở nên phong phú hơn. Hai thằng bé lớn lên học thêm được một số trò mới. Bản thân ông Lùn cũng kiêm luôn một số mục khác, như nằm ngửa để hòn đá to lên bụng cho người khác cầm búa đập vỡ, hoặc bắn cung, tung tạ, vân vân. Chiếc máy hát thì ọc ạch hơn trước, tuy vẫn phát ra được bài hát Pháp vui nhộn nọ. Chỉ có hai cái không thay đổi, là con chó thông minh và món tiền ít ỏi thu được sau mỗi buổi diễn.

Vào một năm mất mùa và gánh xiếc đang trong tình trạng tồi tệ nhất, một đêm nọ ở sân ga Vinh, khi bố con ông Lùn đang ngồi ăn phần cơm ít ỏi của mình, thì một người phụ nữ bước đến chìa tay xin ăn. Người này chưa đến ba mươi, ăn mặc khá tươm tất, mặt dễ coi nhưng xanh gầy bởi đói ăn lâu ngày. Cô ta đội chiếc nón tùm hụp, tay nải bên hông, ngượng ngập chìa tay, miệng lí nhí câu gì không rõ. ở cô toát lên cái gì đấy dễ thương và tử tê, chứng tỏ trước đây không lâu còn thuộc con nhà tử tế.

Sau này cô cho biết rằng cô không may lấy phải người chồng giàu nhưng độc ác. Hắn muốn có con trai thừa tự, mà cô chỉ sinh toàn con gái. Sau khi sinh đứa con gái thứ ba, hắn thẳng tay đuổi cả bốn mẹ con ra khỏi nhà. Không nơi nương tựa, mẹ con cô bồng bế nhau đi ăn xin, khi gặp ông Lùn là vừa tròn ba tháng. Vì không muốn con chết đói, cô lần lượt tìm nơi tin cậy cho hết đứa này đến đứa khác. Đứa cuối cùng chưa đầy một tuổi, cô đem cho một bà hàng bún ở Bến Thủy cách đấy vài ngày.

Vốn thương người, ông Lùn mời cô ngồi xuống cùng ăn. Ngày ấy chia cái ăn cho người khác là việc dũng cảm. Lát sau ông quyết định một việc khác còn dũng cảm gấp bội là mời cô đi theo gánh xiếc.

Tên cô là Lý. Từ ngày có cô Lý, gánh xiếc ông đỡ vất vả hơn trong lo toan hàng ngày, còn ông thì thấy đời cũng ấm áp thêm đôi chút. Nhưng cũng dễ hình dung rằng từ đấy, có thêm một miệng ăn, gánh xiếc của ông trở nên túng thiếu thế nào. Thu nhập ngày một ít; người xem bắt đầu chán những tiết mục diễn đi diễn lại nhiều lần. Họ muốn cái gì đấy mới, hấp dẫn và độc đáo. Nhưng cái gì? Ông Lùn ngày càng ít nói. Hai thằng con thấy ít người xem, mất hứng, sao nhãng chuyện tập tành. Còn cô Lý thì vốn nhẫn nhục và hay mặc cảm, nay thấy mình là gánh nặng cho người khác, nên rất khổ tâm. Cô tự cho cô là người duy nhất có lỗi. Cô cố gắng làm vừa lòng mọi người một cách vụng về, nhiều khi định lén học một vài trò nhưng không được. May không ai trách cô. Ngược lại, cô được mọi người yêu mến, đặc biệt ông Lùn.

Thời gian lặng lẽ trôi qua, chiếc xe của gánh xiếc ông Lùn vẫn lọc cọc lăn trên những con đường quanh co của xứ Nghệ, chở theo nó vẫn những khó khăn và lo âu ấy.

Một hôm tình cờ cô Lý nghe ai đó nói nếu có người chịu đứng làm mẫu cho ông Lùn ném dao, người ta sẽ tới xem đông hơn. Suốt ngày cô nghĩ mãi điều này. Phải chăng đây là khả năng duy nhất cô có thể giúp ân nhân mình trong công việc? Cô chỉ việc nhắm mắt đứng yên, dang hai tay hai chân, còn tài ném dao của ông Lùn thì cô không mảy may nghi ngờ. Có điều tính nhút nhát, mới nhìn mũi dao đã bủn rủn chân tay, liệu cô có đứng vững được không? Hình dung chuyện ấy, cô thấy ớn lạnh nơi sống lưng, trống ngực đập thình thịch. Thật kinh khủng, nhưng không còn cách nào khác...

Tối ấy cô nói ướm với ông Lùn, và như ta dễ đoán hiểu, ông cương quyết từ chối. Ông cũng nhất định không thay đổi ý kiến những lần sau, cả khi cô nói gánh xiếc sẽ kiếm được nhiều tiền và có thể giúp cô chuộc lại con.

Thế mà chưa đầy nửa tháng sau, ở chợ Vinh, thằng nhỏ đã oang oang quảng cáo "ném dao găm theo hình người thật, một tiết mục mạo hiểm rùng rợn nhưng vô cùng hấp dẫn mấy năm chỉ diễn một lần của Gánh xiếc ông Lùn"... Nghĩa là cuối cùng cái đói đã thắng tất cả, và bắt được một người tốt bụng, hiền lành như ông Lùn mạo hiểm với tính mạng của người ông yêu quý. Hôm ấy mọi việc diễn ra giống mọi ngày - vẫn trình tự các tiết mục ấy, vẫn con chó và chiếc máy hát ọc ạch ấy. Điều khác duy nhất là người xem, do được quảng cáo và kháo nhau từ trước, lần này kéo đến rất đông,.

Trước con mắt hồi hộp của mọi người, cô Lý đi ra, khẽ mỉm cười yếu ớt rồi bước lên bục, đứng dán người vào chiếc bảng lớn kê sát phía sau. Cô mặc bộ quần áo đen bó sát người, hai tay để thẳng ngang vai, chân choãi ra thành hình chữ V lật ngược. Mặt cô trắng nhợt, đôi mắt mở to không nhấp nháy.

Ông Lùn đứng trước cô ở cách mười mét, bề ngoài vẫn bình tĩnh như mọi ngày. Bên cạnh là thằng nhỏ, hai tay bê hộp dao. Ông với tay lấy một chiếc, hất đầu ra hiệu với cô Lý, rồi nhanh như tia chớp mũi dao lóe lên, cắm phập sát đỉnh đầu cô. Cô cảm thấy như có dòng điện vừa chạy khắp cơ thể. Chưa kịp định thần trở lại, một mũi khác đã chạm nhẹ bên tai trái. Mấy giây sau, mũi dao xuyên xuống cổ, bờ vai rồi chạy theo cánh tay đến đầu ngón, xuống nách, hông... Cô nhắm mắt. Nỗi sợ làm tê liệt các dây thần kinh cảm giác. Thậm chí cô không còn nghe tiếng những mũi dao liên tiếp cắm vào bảng gỗ sắc gọn, và chỉ chợt tỉnh lại khi ông Lùn ném xong mũi dao cuối cùng bên tai phải.

Sau những phút nín thở theo dõi, người xem bùng lên vỗ tay tán thưởng. Cô Lý loạng choạng bước xuống khỏi bục, để lại phía sau một hình người được cắm bằng những mũi dao tua tủa. Sau đó, như một số người kể lại, cô Lý đã ngất trong cánh tay ông Lùn vừa kịp đến đỡ. Cũng có người nói cô ốm liệt giường mấy ngày liền. Nói chung người ta còn nhớ và kể lại nhiều chi tiết giật gân về buổi biểu diễn hiếm có ấy. Tất nhiên chính xác đến đâu là chuyện khác.

Tôi có bà cô già rất mê các trò múa hát. Cô tôi kể rằng hôm ấy, khi mọi người bỏ đi hết, có hai cô gái nông dân bẽn lẽn đến gặp ông Lùn. Sau một hồi đùn đẩy, hai cô xin ông từ nay đừng ném dao theo hình người thật, vì ném thế sợ lắm, nguy hiểm lắm. Ông Lùn nhìn hai cô mỉm cười hiền lành, cảm ơn và hứa sẽ làm theo. Hai cô gái không nói gì thêm, vội giúi vào tay ông mấy tờ giấy bạc cầm sẵn rồi xấu hỏ bỏ chạy. Chuyện này thì tôi tin chắc có thật, vì một trong hai người ấy là bà cô tôi. Cô tôi nói:

- Thế mà chỉ mấy tháng sau ông ta đã ném chết cô Lý. Con người trông bề ngoài hiền lành, thật thà, hóa ra...

Bà cô tôi nói đúng: Ba tháng sau, ở Phủ Diễn, nay là thị trấn Diễn Châu, cũng vì cái đói bắt buộc, ông Lùn và cô Lý lại mạo hiểm lần nữa. Không may lần này, cô Lý ngất đúng khi ông Lùn ném mũi dao vào nách phải. Cô ngã người, và mũi dao đâm trúng trái tim cô lúc ấy đang đập mạnh vì sợ...

* Tôi yêu xiếc, nghệ thuật của cái đẹp và sự dũng cảm. Một phần vì thế mà tôi bỏ công lần theo truyền thuyết về ông Lùn và gánh xiếc của ông. Để làm gì ư? Để ít ra cũng biết được con người của môn nghệ thuật tôi yêu ấy trước kia đã sống và phải trả giá cho nghề nghiệp của mình như thế nào. Tiếc là sau cái chết của cô Lý, tôi không biết gì thêm về ông Lùn, ngoài một điều chắc chắn rằng từ đấy ở quê tôi không ai còn thấy gánh xiếc của ông. Có người nói ông đem con trở về Bắc, chọn nghề khác kiếm sống. Cũng có tin đồn, rằng ông vào một tỉnh nào đấy phía trong, tiếp tục biểu diễn và còn làm chết thêm mấy bà vợ nữa; rằng ông tự tử chết theo cô Lý; rằng ông bị bắt vì tội giết người, vân vân...

Mới đây, một ông giáo ở Quỳnh Lưu nói với tôi là sau khi miền Bắc giải phóng, gánh xiếc ông Lùn đã nhập vào đoàn xiếc Trung ương, hiện giờ chắc hai con ông đang làm việc ở đó. Đây là giả thiết có vẻ tin được. Khi trở ra Hà Nội, tôi tìm đến đoàn xiếc ấy và cả trường xiếc ở Mai Dịch, nhưng không biết gì thêm.

Bây giờ, mỗi lần vào rạp xiếc thưởng thức những tiết mục hấp dẫn của các diễn viên trẻ đẹp, hạnh phúc, tôi không thể không bùi ngùi nghĩ tới ông Lùn và gánh xiếc của ông, một thời lọc cọc lăn trên những nẻo đường nông thôn xứ Nghệ.

Nha Trang, 1985

Các cô gái làng tôi Người viết: Thái Bá Tân 12/10/2006 CÁC CÔ GÁI LÀNG TÔI

Viết truyện này, tức là vô tình tôi đã chạm đến một nỗi đau khác của chiến tranh. Một nỗi đau âm thầm, đặc biệt và khó nói. Cũng vì thế mà xưa nay dù biết, người ta cứ ngài ngại không muốn nhắc tới. Vì tế nhị, và cả vì thương mà đành bất lực. Ðó là việc từ chiến tranh trở về, hàng vạn, có thể hàng triệu các cô gái nhỡ thì không lấy được chồng. Với phụ nữ, thử hỏi còn nỗi đau nào lớn và "khó nói" hơn?

Tôi được nghe kể và biết khá nhiều chuyện như thế. Trong một truyện ngắn gần đây tôi có sử dụng ít chi tiết từ câu chuyện của một bà bạn. Bà kể với tôi mà cứ như xưng tội với cha đạo. Theo bà thì chính bà đã giết chết một cô thanh niên xung phong tội nghiệp.

Số là vào cuối năm 1971, cái cô gái thanh niên xung phong trong một đơn vị toàn nữ suốt nhiều năm liền ở rừng Trường Sơn heo hút ấy đã bị phát hiện "làm chuyện bậy bạ" bên bờ suối khi lén đi tắm một mình. Và bà bạn tôi, lúc đó là người phụ trách đơn vị, chẳng nhiều tuổi hơn bao nhiêu, đã đem cô ra kiểm kiểm trước mọi người. "Chúng tôi "quần" cô ấy ghê lắm. Ðặc biệt là tôi. Chỉ huy mà. Tuy nhiên, miệng nói vậy thôi, chứ trong lòng thì thương. Tôi chủ trì buổi họp ấy. Bây giờ nghĩ lại thấy thật chua xót và cũng buồn cười. Nghĩ một đường, nói một nẻo. Không ít người cũng lớn tiếng phê bình cô gái đó như tôi. Ðem cả đạo đức cách mạng và lý tưởng ra mà phê bình. Cái thời ấy là thế và nó phải thế" Bà buồn bã nói thêm: "Sáng hôm sau chúng tôi thấy cô ấy treo cổ chết trên cành cây sau lán. Tất cả do tôi, do tôi hết!" Bà còn cho biết cũng vì lý do tâm, sinh lý ấy mà đơn vị bà ngày càng có nhiều chuyện kỳ cục, thí dụ bỗng dưng vô cớ mấy đứa cười sằng sặc như một lũ điên, rồi sau lại ôm nhau khóc. "Có đứa điên thật. Cứ trần truồng chạy tồng ngồng giữa rừng. Tội nghiệp."

Ở chiến trường đã thế, về nhà các cô càng khổ hơn, vì phần lớn đã ngoài ba mươi, lại ở nông thôn. Mà nông thôn thì ai lấy gái già, nếu còn người để lấy?

Khoảng mươi năm đầu sau chiến tranh, một số tờ báo mạnh dạn đề cập vấn đề này. Cũng chỉ nói chung chung, thương chung chung, chứ chẳng gợi ra được giải pháp cụ thể nào. Cả xã hội biết. Cả xã hội muốn làm cái gì đó giúp họ, cuối cùng vẫn bất lực. Không lẽ cho quay lại chế độ đa thê? Thế là hàng vạn, hàng chục vạn các cựu thanh niên xung phong cứ lầm lũi sống một mình và chuẩn bị tinh thần để kéo dài như thế suốt đời. May công đoàn và các cấp chính quyền không còn khắt khe như trước về tội chửa hoang. Con ngoài giá thú cuối cùng cũng được luật pháp và người đời thừa nhận.

Tôi nhớ một lần, năm 1983, trên đường đi Bảo Lộc, Cao Bằng, thì xe chết máy và chúng tôi phải ngủ lại qua đêm ở một đơn vị sửa chữa đường bộ, đúng ngày đơn vị này được tuyên dương thành tích gì đấy. Liên hoan, ăn uống vui vẻ lắm. Nhưng chỉ toàn đàn bà, và đều đã ba bốn chục tuổi. Thì ra họ cũng là thanh niên xung phong chuyển ngành. Cụ thể là sau chiến tranh, cả một đơn vị được bê hầu như nguyên xi từ Trường Sơn ra đây.

Ðêm hôm ấy, sau bữa liên hoan mà chúng tôi được mời dự, tôi nghe có tiếng khóc, không phải một mà hình như nhiều người. Thủ trưởng đơn vị, một ông già hom hem đang chờ về hưu, bảo tôi:

- Các bà ấy vẫn thế đấy. Cứ có dịp vui lại đêm nằm ôm nhau khóc. Chuyện chồng con ấy mà. Tội nghiệp.

- Thế quanh đây không có đàn ông à? - tôi hỏi. - Các cơ quan, xí nghiệp hay đơn vị bộ đội nào chẳng hạn?

- Trong vòng bán kính hai mươi cây số thì không. Xa hơn một chút có công trường khai thác đá và một đội biên phòng. Cũng kết nghĩa, giao lưu, thăm hỏi nhau đủ chuyện, nhưng chẳng ích gì. Chỉ thêm nhiều vụ chửa hoang. - Rồi ông thủ trưởng của hơn hai mươi bà công nhân ấy thở dài chép miệng: - Tôi đến khổ với các bà ấy!

Tôi không hiểu ông nói khổ là khổ theo nghĩa nào.

*

Nếu làng là hình ảnh xã hội thu nhỏ, thì làng tôi phản ánh đầy đủ tình trạng này của toàn xã hội. Thời chỗng Mỹ, nhiều cô gái làng tôi là thanh niên xung phong, một số hy sinh nhưng phần lớn sống sót trở về, (bỏ lại đằng sau gần mười năm tuổi trẻ, cái tuổi dễ lấy chồng nhất) và rồi... ế CHỒNG. Ở quê tôi, con gái ngoài hai mươi lăm chưa lấy được chồng thì bị chính thức coi là ế, bị gạt khỏi danh sách những đối tượng có thể đặt vấn đề.

Như những người cùng tuổi thời ấy, từ những cô bé tóc vàng hoe vì chang nắng suốt ngày ngoài đồng để chăn trâu, bắt cua, làm ruộng, tất cả các cô gái làng tôi học xong phổ thông đều đua nhau viết đơn xung phong, rồi ra đi, miệng hát vang bài ca "đường ra trận ngày này đẹp lắm". Mọi người, mọi chuyện thật hồn nhiên, vô tư. Thật vui. Thật đẹp. Và cái cuộc sống dẫu gian nguy nhưng hồn nhiên và vui vẻ ấy chỉ bị hẫng hụt khi chiến tranh kết thúc, họ bất chợt thấy mình đã không còn trẻ, lờ mờ cảm thấy những mối lo đang đợi. Tôi có một bài thơ thế này, viết trong một dịp về quê và gặp một vài người trong số họ.

Các cô gái làng tôi Lên đường đi diệt Mỹ, Khoác ba-lô, và rồi Từ cô, thành đồng chí.

Họ đi vào chiến tranh Mà như đi vào hội, Những cô gái hiền lành, Vui, hồn nhiên quá đỗi.

Nhiều, nhiều năm chiến trường Họ cũng vui như vậy, Dù đói, dù bị thương, Bom rơi và lửa cháy.

Và chỉ ngày hòa bình Họ buồn khi trở lại Bỗng sững sờ thấy mình Không còn là con gái.

Buồn càng buồn gấp đôi, Vì hình như lúc ấy Không người nào làng tôi Biết họ buồn như vậy.

Nói trong làng không ai biết họ buồn là cách nói của thơ, để nhấn mạnh nỗi buồn và sự mặc cảm của họ. Trên thực tế ai cũng dễ dàng nhận thấy điều đó. Gì thì gì, với phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn, chuyện chồng con vẫn là điều quan trọng nhất. Nó không đơn thuần là hạnh phúc riêng tư, mà còn uy tín của cả gia đình. Dân làng thông cảm và thương họ lắm. Tuy vậy, khi kén vợ cho con trai thì lại chọn những cô mới lớn.

Ở quê tôi người ta lấy vợ gả chồng cho con rất sớm. Ðàn ông ở tuổi các cô mà chưa vợ thì chỉ có thể là mới đi bộ đội về - số này không nhiều do đã hy sinh hay được bố mẹ lo cưới xin trước khi lên đường - hoặc những người "nhỡ nhàng" do vợ chết, li dị, hoặc những người tật nguyền và cả loại thuộc "thành phần bất hảo". Không còn ai khác, một số cô thành vợ những người ấy. Số khác xin đi làm công nhân ở mỏ đá Hoàng Mai để cạnh tranh với những cô khác cũng đang ế chồng ở đấy. Còn phần đông ở lại làng làm ruộng, sống cùng nhà với bố mẹ già, hoặc nếu bố mẹ chết thì thui thủi một mình. Ðơn giản là sự cân bằng của cái quy luật cung cầu tự nhiên về nam nữ trong hôn nhân đã bị phá vỡ.

Thường vẫn thế, trong muôn vàn cái thiếu thốn sau chiến tranh, có một cái thiếu mà phụ nữ thấm thía hơn ai hết. Ðó là thiếu đàn ông để lấy chồng. Thời nào cũng vậy, ở đâu cũng vậy. Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến bài thơ của Iulia Ðrunhina về đề tài này. Bà từng là nữ sinh trung học xung phong ra trận trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô. Ðời tư bà cũng không mấy xuôn xẻ. Bà mới tự tử chết cách đây mấy năm, nghe nói có liên quan đến sự sụp đổ của nhà nước Xô-viết mà bà đã hy sinh tuổi trẻ mình để bảo vệ.

Thắng trận, trở về nhà, Các nữ sinh - chiến sĩ Mang hai mươi tuổi đời Như hai mươi thế kỷ.

Các huân chương, dù sao, Vẫn ít hơn vết sẹo. Hình như đời còn dài Mà đã thành các "cựu".

Các cô gái về nhà. Nhà không còn, giặc đốt. Không cha mẹ, anh em, Không chiếc dao, cái cột...

Nghĩa là lại từ đầu Bắt đầu vào cuộc sống. Bắt đầu diện đôi giày Kiểu nhà binh thô rộng.

Vâng, nhưng diện với ai Khi khắp làng không thấy Bóng một chàng trai nào? Sau chiến tranh là vậy.

Thiếu đàn ông để yêu Ðã trở thành nỗi khổ. Các thế hệ sau này Chắc khó tin điều đó.

Ba mươi năm sau, ở Việt Nam, các cô gái làng tôi cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Còn bây giờ, tức là thêm ba mươi năm nữa, chúng ta vẫn cảm thấy khó tin vào cái sự thật ấy, dù nó đã thực sự tồn tại. Ngay trong làng ta, quanh ta, hay thậm chí với người thân của ta. Một nỗi đau nhức nhối mà xưa nay chẳng ai có thể làm gì được để giúp đỡ. Không cả một lời an ủi hay một cử chỉ nhỏ để bày tỏ sự thông cảm âu yếm.

*

Cuối năm 1978, trên đường công tác từ Hà Nội vào Sài Gòn, tôi ghé thăm nhà và được biết cô Duyên đi tu. Cô cũng là một trong những cựu thanh niên xung phong ở làng tôi và cùng cảnh ngộ.

Cô Duyên là con gái nhà hàng xóm, hơn tôi hai tuổi, nhập ngũ từ năm 1965. Không hiểu sao phải hơn một năm sau khi chiến tranh kết thúc mới thấy cô trở về. Cô là người nổi tiếng xinh đẹp trong làng. Nghe nói đã có hẹn ước gì đó với ông anh con bác tôi. Sau này, khi anh tôi hy sinh ở Quảng Trị năm 1968, không thấy ai nhắc đến chuyện ấy nữa. Có thể người ta ý tứ tránh cho cô những phiền toái trong việc chồng con sau này.

Ðúng như trong bài thơ của Ðrunhina, khi cô trở về thì chẳng còn gì. Nhà trúng bom, cả bố mẹ và cậu em trai cô đều chết. Cô cũng phải tự mình làm lại tất cả, bắt đầu từ việc dựng một ngôi nhà lá, sắm sửa đồ đạc, rồi hòa dần vào nếp sống chung của làng và... để ý tìm chồng. Chính xác hơn là chờ người ta đến hỏi mình làm vợ. Nghe kể lại thì cũng có khá nhiều người tìm đến với cô, nhưng vẫn chỉ là những người "có vấn đề", chắc vì thế nên cô từ chối. Có vẻ như cô sẵn sàng sống độc thân suốt đời chứ không chịu lấy những người cô thấy không xứng đáng.

Trước đây, tuy thuộc hạng em út, nhưng nhờ ông anh, tôi thường được cô cho đi chơi cùng, kể cả những đêm hai người và đám thanh niên lớn hơn ra bờ Kênh Nhà Lê hát đối cùng con trai, con gái làng Phúc Nhạn bên kia kênh. Cô hát hay, đối đáp nhanh và sắc sảo. Chắc thời ấy nhiều người mê cô chứ không riêng gì anh tôi. Hơn thế, cô lại chín chắn, có bản lĩnh và luôn được bầu làm bí thư chi đoàn. Sau chiến tranh, dù không tích cực như trước nhưng cô vẫn tham gia đầy đủ các hoạt động xã hội trong làng xã. Cô cũng là người lao động giỏi, biết lo toan, sống hòa thuận với xóm giềng và được mọi người yêu mến. Tóm lại, trừ chuyện chồng con, mọi việc với cô đều ổn. Vậy sao bỗng nhiên cô bỏ đi tu?

Theo người ta kể lại thì cách đấy độ nửa năm có anh cán bộ tỉnh về làm việc ở xã. Chắng hiểu quan hệ hai người thế nào mà sau đó cô Duyên bỏ làng vào Vinh, nói đã xin được việc làm nhà nước ở đấy. Thế mà chưa đầy hai tháng sau thì thấy cô quay về, rồi xin vào nhà chùa, cũng cắt tóc, mặc áo nâu và sống hẳn ở chùa.

Ðó là chùa Yên Quang, nằm cạnh quốc lộ, phía bên kia sông Bùng, chùa lớn nhất trong cả huyện Diễn Châu, cách làng chúng tôi khoảng mười cây số. Cô chẳng giải thích vì sao. Người ta chỉ có thể đoán già đoán non, rằng phải có chuyện gì đấy nghiêm trọng xẩy ra giữa cô và anh cán bộ nọ, nên một người bản lĩnh và yêu đời như cô mới có một quyết định cực đoan như vậy. Có người bảo cô bị lừa, rằng anh kia đã có vợ và chỉ muốn quan hệ với cô như bồ bịch hay một dạng vợ lẽ. Cũng có người nói chuyện phức tạp hơn nhiều.

Dần dần sự kiện giật gân này cũng lắng xuống. Người ta đã ít bàn tán về cô, và cuối cùng chấp nhận mọi việc như nó hiện có. Thay cho hai tiếng "cô Duyên" giản dị trước đây, bây giờ mọi người, cả già lẫn trẻ, đều gọi cô là "sư cô Ðàm Duyên". Không biết nhà chùa có chức danh "sư cô" không, hay chỉ sư ông, sư bà và chú tiểu thôi. Cũng không biết vì đâu có chữ "Ðàm" ấy. Tôi thấy dân làng gọi thế: Sư cô Ðàm Duyên.

Lần ấy vì vội, tôi không có thời gian tới chùa Yên Quang xem cụ thể thế nào, nhân tiện nói chuyện đôi câu với cô Duyên, nếu cô chịu nói. Dù sao cô cũng suýt là chị dâu tôi, và ngày trước chúng tôi từng chơi thân với nhau.

Mãi ba năm sau tôi mới gặp cô, lần gặp thứ hai kể từ ngày cô đi thanh niên xung phong. Hôm ấy trời không mưa nhưng u ám, lại không đúng ngày lễ nên cảnh chùa có vẻ buồn và cô tịch.

Tôi dựng xe vào gốc cây bên đường, định không vào chùa vội mà đứng bên ngoài quan sát một chốc đã. Chùa chỉ có bốn người. Một vị sư già trụ trì, một bà sư nữa cũng già, và hai người khác trẻ hơn. Một trong hai người ấy là cô Duyên, bây giờ là "sư cô Ðàm Duyên".

Khi tôi đến, cô đang quét sân chùa. Mặt cô buồn buồn nhưng thanh thản và vô cảm. Một khuôn mặt còn giữ được nhiều nét đẹp, khiến tôi không thể không nhớ tới một cô Duyên linh hoạt, yêu đời ngày nào, khi cô cho tôi đi theo trong những đêm hát ghẹo bên Kênh Nhà Lê. Tôi thử hình dung mà không được khuôn mặt ấy thế nào suốt mười năm chiến trường khói lửa. Mỗi người một số phận, một hoàn cảnh, tất nhiên. Một khi cô chọn cách sống thoát tục này thì hẳn phải có lý do của nó. Tôi không có quyền và không muốn can thiệp. Tuy nhiên, đứng nhìn cô từ từ đưa những nhát chổi trên sân chùa vốn đã sạch bóng, tôi cbỗng cảm thấy buồn, và thầm nghĩ:

Ðường đời lỡ bước nhân duyên, Cô bước chân vào cửa thiền,

Quét nhặt từng bông hoa đại, Ðể qua cái thời con gái.

Nay già... Nếu không trọc đầu, Chẳng biết tóc bạc đến đâu.

Tôi đứng thêm chốc nữa rồi lặng lẽ đạp xe về làng, không muốn khuấy động sự yên tĩnh trong lòng cô sau bao sóng gió của cuộc đời. Nhưng cô có thực sự cảm thấy thanh thản trong lòng không? Cô có hoàn toàn dửng dưng với những gì sôi động đang diễn ra xung quanh không?

Từ đấy, những lần hiếm hoi về thăm quê (cả nhà tôi từ lâu đã dọn lên thành phố), tôi đều tranh thủ tới chùa Yên Quang. Lần nào cũng chỉ đứng ngoài nhìn vào. Sau lần gần đây nhất, tức là vào năm 1995, trở lại Hà Nội, tôi có viết bài thơ về cô Duyên, một trong những cô gái làng tôi mà cũng là của nhiều làng khác khắp cả nước. Bài thơ đã đăng báo. Tôi nghĩ nó nói đủ những gì tôi muốn nói về nỗi đau này của chiến tranh. Nỗi đau không của riêng ai.

SƯ CÔ ĐÀM DUYÊN

Lại vãn chùa Yên Quang - Vẫn đều đều tiếng mõ, Hoa đại vẫn rơi vàng Trên sân nền gạch đỏ.

Ngoài đường tiếng ô tô Xen lẫn lời niệm Phật. Chỉ sau chùa, ven hồ Không còn ba chậu quất.

Và sư cô Ðàm Duyên Tay vẫn lần tràng hạt Như ngày mới nhập thiền Còn ngỡ ngàng, dút dát.

Là thanh niên xung phong Những năm gian khổ nhất, Về, nhỡ thì, muộn chồng, Cô nương nhờ cửa Phật

Ðể tìm sự thảnh thơi Trong lời kinh, hương khói, Mong rũ sạch bụi đời Ðã làm cô mệt mỏi.

Kia, sư cô đang ngồi Quay lưng ra mặt phố, Quay lưng cả với đời, Lặng yên như tượng gỗ.

Sư cô đang nghĩ gì? Phải chăng còn vương vấn Chút bụi đời, nhiều khi Nhớ những ngày mặt trận?

Phải chăng nơi cửa thiền Sư tĩnh tâm, hạnh phúc, Hay sư cô Ðàm Duyên Vẫn cô Duyên trần tục?

Vẫn thế chùa Yên Quang, Vẫn đều đều tiếng mõ, Hoa đại vẫn rơi vàng Trên sân nền gạch đỏ.

Và tiếng còi ô tô Vẫn bay vào inh ỏi... Tôi đứng nhìn sư cô Thấy mình như có lỗi

Trong việc để sư ngồi Quay lưng ra mặt phố, Quay lưng cả với đời, Lặng yên như tượng gỗ...

Hà Nội, 21.4.2001

Tuyết lạnh Người viết: Thái Bá Tân 12/10/2006 TUYẾT LẠNH

1 - Con đi Mỹ lần này thế nào cũng phải tìm gặp bằng được bà ấy, - mẹ tôi nói, không biết đã là lần thứ mấy. - Tội nghiệp bà lão!

- Làm sao con gặp được? Nước Mỹ lớn lắm, đâu như làng Vĩnh Yên nhà mình. - Tôi đáp, cũng không phải lần đầu. Tôi vừa thấy bực mình vừa buồn cười vì nói mãi mẹ tôi vẫn không chịu hiểu điều đơn giản đó. - Bà ấy sang Mỹ sống với con trai thì sướng, sao mẹ bảo "tội nghiệp"?

Mẹ tôi thở dài, thong thả nhổ vào chiếc ống đồng miếng bã trầu cụ ngậm đã hơn một tiếng đồng hồ.

- Các anh hiện đại, sống ở thành phố, đâu hiểu được lòng người già.

"Bà ấy" là bà cụ Mật, bảy mươi tuổi, bạn thân của mẹ tôi từ thời con gái. Hai cụ quen sống có nhau đã mấy chục năm, nay xa nhau mẹ tôi nhớ cũng dễ hiểu. Tôi biết thế nên cũng muốn gặp bà Mật để sau này kể cho mẹ tôi nghe về bà ấy. Nhưng làm điều này đâu dễ? Trước khi về quê, tôi được báo có tên trong đoàn nhà văn Việt Nam sắp thăm Mỹ. Cụ thể đi đâu, làm gì thì đến bây giờ vẫn chưa biết. Tuy nhiên, hiểu tính khí người già, tôi đành cầm chiếc phong bì có địa chỉ anh con bà Mật ở Mỹ mà một lần anh ta gửi cho họ hàng ở làng tôi. Tôi hứa sẽ cố tìm bà bạn của cụ nếu có thể. Còn gói cau khô và bó trầu xanh thì cương quyết không nhận mang hộ, vì nghĩ khả năng gặp được bà cụ cùng làng ở tít bên ấy là rất ít, nếu không muốn nói là điều không thể.

2 Chuyện bà cụ Mật đi Mỹ một thời từng làm xôn xao làng tôi và cả mấy làng lân cận. Số là cách đây năm năm, đùng một cái, bà cụ Mật được anh con trai cùng cô vợ đầm trắng hếu, tóc vàng và đứa con lai bốn tuổi từ Mỹ về, tuyên bố đón bà sang sống "bên ấy" với anh ta!

Chà, người kéo đến xem cứ như hội. Mọi người ngạc nhiên không chỉ vì thấy anh Hòa con bà, ngày nào còn là một thanh niên làng chài rất ít khi mặc quần áo, gầy và đen chùi chũi, thế mà bây giờ cứ trắng hồng, com-lê, cà vạt nghiêm chỉnh, lại để cả ria mép nữa. Họ còn ngạc nhiên khi thấy "bà đầm" vợ anh nói được tiếng Việt, thậm chí thuộc lòng cả một đoạn Kiều dài. Chưa hết, "bà ấy" rất thoải mái, dễ gần, hay cười và đặc biệt gặp ai cũng chào. Thằng con lai thì về hôm trước, hôm sau đã thấy chổng mông chơi bi với lũ trẻ chân trần, mũi thò lò trong xóm. Hóa ra người Mỹ họ bình dân như ta! Mà "thằng Hòa" cũng chẳng kiểu cách ta đây như ối anh Việt Kiều khác. Trừ vẻ ngoài, "nó" vẫn là "thằng Hòa" ngày xưa như họ biết - chăm làm, yêu thương mẹ, chất phác và biết kính trọng người khác.

"Ðúng là nhà có phúc!"

"Sang bên ấy, tha hồ mà sướng nhé!"

Bà cụ Mật góa chồng từ ngày mới sinh anh Hòa. Từ đó hai mẹ con ở vậy nuôi nhau. Như mọi người khác trong làng, bà làm ruộng, lúc rỗi việc nhà nông, bà cùng mẹ tôi hàng ngày xuống chợ Hôm cách làng mấy cây số ngồi bán mấy mớ trầu, buồng cau, chục trứng hoặc vài thứ lặt vặt khác.

Anh Hòa lúc nhỏ cũng được đi học như những đứa trẻ khác. Anh học giỏi, thi đại học hai lần nhưng không hiểu sao đều trượt. Vì con một phải nuôi mẹ già nên thời chiến tranh anh không bị gọi nhập ngũ, chỉ ở nhà tham gia dân quân và ra biển đánh cá, lúc đầu còn trong hợp tác xã ngư nghiệp, sau hợp tác tan, anh cùng mấy người nữa sắm thuyền đi riêng. Năm 1979, lúc này đã gần ba mươi nhưng vẫn chưa vợ, một lần anh cùng hai người nữa lên thuyền ra biển như mọi ngày. Không may gặp bão lớn không về kịp, thuyền anh bị sóng đánh vỡ, mỗi người dạt đi một nơi.

Ở nhà ai cũng tin họ đã chết. Bà Mật khóc cả tháng trời, sau đó ốm một trận may lắm mới khỏi. Rồi bà được một người cháu đằng nội, nửa khôn nửa dại, không chồng đến ở chung. Cô cháu này tuy dở người nhưng chịu khó, biết điều, nên hai cô cháu sống cũng tàm tạm. Bà vẫn nhận làm sào rưỡi ruộng khoán, lúc nào cũng có bầy gà và đôi lợn trong chuồng, vẫn đều đều đi chợ Hôm cùng bà bạn thân là mẹ tôi.

Một năm sau, bà bất ngờ nhận được thư con trai. Lại từ nước Mỹ. Hóa ra lúc đắm thuyền, con trai bà vớ được tấm ván, lênh đênh trên biển đúng hai ngày hai đêm, và đang lúc sắp chết thì được một tàu nước ngoài vớt lên, đưa tới hòn đảo nào đó bên Malayxia, ở đấy mấy tháng, làm thủ tục và được người ta cho sang Mỹ.

Thư anh viết ngắn, hỏi hai người kia còn sống không, cho mẹ biết anh mạnh khỏe và đang chuẩn bị vào học một trường Ðại học lớn tại Mỹ. Từ đó anh đều đều viết thư cho bà, thỉnh thoảng gửi cả tiền. Cùng với thời gian, anh báo tin học xong, tìm được việc làm, mua ô tô, nhà riêng, lấy vợ rồi có con...

Hôm nay, đúng mười năm kể từ ngày gặp nạn ngoài biển, lần đầu tiên anh về quê thăm mẹ, và như mọi người đang kháo nhau trong làng, sẽ đưa bà sang "bên ấy" sống hẳn.

- Thế con Sáu thì sao? - Bà cụ Mật hỏi. "Con Sáu" là tên cô cháu dở người vẫn sống với bà cụ.

- Thì cô ấy trước ở đâu nay về đấy. Hoặc ở lại nhà này, nếu muốn. Thỉnh thoảng con gửi tiền giúp đỡ.

- Còn đôi lợn và bầy gà?

Anh con cười:

- Không lẽ mẹ định đem theo sang Mỹ?

Thằng con lai đang ngồi cạnh kêu lên thích chí, giọng lơ lớ:

- Ðem đi theo! Ðem đi theo!

- Còn sào rưỡi ruộng và cái ao mùng?

Ðứa cháu lần nữa lại kêu lên:

- Ðem đi theo! Ðem đi theo!

Bà cụ Mật ngồi im. Bà ngồi im rất lâu vì quả không biết nên nghĩ gì, làm gì. Bà mừng vì cuối cùng lại được gặp con. Mừng cả vì người con dâu và đứa cháu, tuy vẫn thấy họ là lạ và sờ sợ. Bà muốn được sống cùng con, muốn biết cái nước Mỹ ấy là gì mà người ta hay nhắc đến thế. Nhưng gì thì gì, bà không thể bỏ quê hương làng xóm mà đi được. Bà đi, ai chăm sóc con Sáu mỗi lần nó lên cơn động kinh? Ai biết rõ hơn bà tính khí đôi lợn, đàn gà và con chó để chiều chúng, cho chúng ăn, hoặc biết lúc nào thì nên hái mùng, những cây mùng bà biết rõ từng gốc? Mà rồi bà sẽ sống thế nào bên ấy? Không lẽ bà sẽ chết đâu đó và không được chôn cạnh ông Mật chồng bà?

Bà Mật đem những điều này tâm sự với mẹ tôi và hỏi nên làm gì.

- Thì bà bảo con và dâu bà ở lại đây, - mẹ tôi nói. - Thế là vừa sống chung, lại vừa được nuôi lợn, làm ruộng như bà muốn. Tôi và bà cũng được đi chợ với nhau!

Bà cụ Mật lặng thinh, chắc nghĩ mẹ tôi nói có lý. Ðêm hôm ấy bà ướm hỏi con trai điều này, tuy tự bà cũng biết việc đó khó có thể xảy ra.

- Trời, mẹ! Làm sao con ở lại đây được? Vả lại có muốn, nhà nước ta cũng không cho.

Bà Mật không tin nước ta không cho con bà về sống với mẹ. Bà nghĩ con bà chỉ tìm cách thoái thác mà thôi, nên im không nói thêm gì nữa. Từ đó, bà cứ thơ thẩn đi lại khắp nhà, lúc xuống bếp, xuống chuồng lợn, lúc ra vườn, có lúc ra cả ngoài đồng xa dù chẳng làm gì. Bà bước đi vật vờ như cái bóng, đầu chít chiếc khăn nâu mỏ quạ, áo gụ sờn vai, quần đen, da nhăn nheo và đen sẫm như màu bờ ruộng bà đang bước lên. Trong cảnh hoàng hôn sắp tàn, bóng bà như hòa lẫn vào đất.

Mấy hôm sau bà theo con ra đi, chỉ mang hai bộ quần áo và chiếc cơi trầu. Cô Sáu ở lại nhà bà, chăm sóc đàn gà, đôi lợn và sào rưỡi lúa chiêm mới cấy. Cả làng ai cũng mừng cho mẹ con bà. Chỉ mấy người, trong đấy có mẹ tôi, thì im không nói gì.

Ðấy, câu chuyện bà cụ Mật làng tôi đi Mỹ cách đây năm năm là thế. Và bây giờ mẹ tôi bắt tôi phải tìm gặp bà cụ bên ấy , cái bên mà tôi chưa một lần đặt chân tới và chỉ biết loáng thoáng qua ti-vi, sách báo.

3 Trong một tháng ở Mỹ, may mắn tôi được tới Chicagô, nơi bà cụ Mật đang sống cùng con trai. Trên chiếc bì thư mẹ tôi đưa có ghi như vậy. Chicago 2180, Lakeside Drive 370-21, State of Illinois, USA. Nhưng đây là địa chỉ cách đây đã lâu, khi anh Hòa gửi thư báo ý định sẽ đưa mẹ đi cùng. Nghe nói người Mỹ thích thay đổi chỗ ở, nên tôi chẳng dám chắc có tìm được họ theo địa chỉ này không.

Chỉ còn mấy ngày nữa là Noen. Ở Chicagô trời rất rét. Gió thổi mạnh không dứt từ phía hồ Michigân. Thành phố hiện đại nhất, và cũng là trung tâm công nghiệp lớn nhất nước Mỹ này, đúng hơn là một rừng những tòa nhà chọc trời bằng bê tông và kính. Ngồi trên tắc-xi, tôi cố nhưng không thể hình dung nổi làm sao một bà cụ nông dân làng tôi có thể sống, chứ chưa nói hòa nhập được với khu rừng đá lạnh lẽo, xám xịt này.

Tôi đang đứng trước cửa căn hộ cần tìm. Nó nằm tít trên tầng 35 của một chung cư năm mươi sáu tầng. Ở Mỹ, nội điều này đủ rõ chủ nhân nó thuộc loại bình dân, nếu không muốn nói là nghèo. Những người thuộc tầng lớp trung lưu thường sống ở những ngôi nhà một hoặc hai tầng xa trung tâm thành phố.

Tôi bấm chuông, đứng chờ. Không có ai trả lời. Tôi cố tình đứng trước lỗ kính nhỏ ở cánh cửa để người bên trong nhìn thấy, sau đó bấm chuông hai lần nữa. Kinh nghiệm dạy tôi phải kiên nhẫn. Chả là cách đây mấy năm, tôi và nhà thơ Phạm Hổ lặn lội tới tận thành phố Thessaloniki, Hy Lạp, để thăm một người bạn từng là lính lê dương Pháp sau chạy sang hàng ngũ Việt Minh. Chúng tôi cũng bấm chuông chờ như rất lâu, nhưng không thấy ai mở cửa nên cuối cùng đã bỏ đi. Thế mà năm sau gặp nhau ở Hà Nội, người bạn Hy Lạp ấy khẳng định đúng lúc chúng tôi gọi, ông đang ngủ trong nhà và khi ông, vốn già và chậm chạp, mặc quần áo xong đi ra thì chẳng thấy ai.

Tuy nhiên, lần này tôi đã chờ đủ lâu để đoán chắc trong nhà không có người. Khả năng nhầm phòng được loại ngay từ đầu, vì trên cửa có tấm biển nhỏ bằng kim loại ghi rõ tên ông bà Robert Nguyễn và Mary Nguyễn, tức là Nguyễn Văn Hòa, cùng làng và cùng học một trường với tôi.

Ðang lúc thất vọng định vào thang máy đi xuống thì tôi thấy phòng bên có người mở cửa. Một bà già da trắng dắt con chó giống bulldog màu nâu, mõm to và ngắn đi ra. Sau khi chào và tự giới thiệu mình, tôi nói với bà mục đích tôi đến đây.

- Bà cụ trong nhà ấy! - bà già đáp.

- Nhưng tôi bấm chuông mãi không thấy ai mở cửa?

- Thì bà cụ vẫn vậy. Ðâu biết gì mà nói. Vả lại có muốn mở cũng không có chìa khóa...

Thấy tôi ngạc nhiên, bà hàng xóm nói tiếp:

- Thằng bé giờ này ở trường. Ông bà Nguyễn đi làm cầm luôn chìa khóa. Một phần sợ ở nhà cụ không biết, mở cửa cho kẻ xấu vào. Thành ra coi như suốt ngày cụ bị nhốt trong ấy. Tội nghiệp. Tối anh lại, chắc chắn họ có nhà.

Bà già hàng xóm là người cởi mở. Ra phố tôi còn đi với bà một quãng. Bà cho biết anh Hòa hiện làm việc tại một công ty điện toán, chị vợ vốn trước học tiếng Việt và văn hóa phương Ðông, nay dạy ở trường tổng hợp Chicagô. Kinh tế gia đình bình thường như nhiều người ở đây. Căn hộ không thuê mà mua theo kiểu trả góp. Cả hai chiếc ô tô cũng vậy. Còn thằng bé thì học lớp ba. Học bán trú, hết giờ làm bố mẹ mới đón về.

- Bà cụ sống thế nào?

- Chúng tôi là láng giềng tốt, nhưng chỉ thỉnh thoảng mới sang thăm nhau vào các dịp lễ. Bà cụ ở riết một mình trong phòng riêng. Chừng ấy năm tôi chỉ nhìn thấy cụ vài lần khi con cháu đưa ra giới thiệu. Không thấy cụ bước chân khỏi nhà bao giờ. Phải nói cả hai ông bà Nguyễn và đứa cháu rất quý cụ. Chỉ tại tính cụ thích thế.

Tôi cảm ơn bà già tốt bụng, thầm mừng vì đã có những thông tin cần thiết về cụ Mật, coi như việc mẹ tôi giao đã làm xong, nếu không quay lại được thì cũng không có gì phải băn khoăn.

4

Nhưng ngay tối hôm ấy tôi quay lại, dù đã quá chín giờ tối. Chỉ mấy giây sau khi bấm chuông, chính anh Hòa ra mở cửa. Anh nhận ngay ra tôi và vồn vã dẫn vào phòng khách, cứ chân giày bám đầy tuyết dẫm lên thảm, theo đúng phong cách Mỹ. Chúng tôi từng là bạn chăn trâu thời bé cho đến khi tôi đi học xa. Sau đó hình như chúng tôi còn gặp nhau vài lần nữa trước ngày anh mất tích trên biển. Anh tíu tít gọi vợ con ra chào khách. Chúng tôi nói với nhau bằng tiếng Việt. Anh Hòa vẫn giữ nguyên giọng Diễn Châu rất nặng.

Chị Mary vợ anh nói giọng miền Nam, chắc thầy dạy trước đây người Nam Bộ. Còn thằng con thì chẳng ra giọng vùng nào, mặc dù nó nói khá sõi.

Sau một lúc ôn lại kỷ niệm xưa, anh Hòa nói:

- Chiều nay đi làm về, bà hàng xóm cho biết có người từ bên nước sang tìm gặp, nghĩ mãi không biết ai, hóa ra là anh.

- Bà cụ đâu? - Tôi hỏi khi mãi không thấy anh nhắc gì về mẹ.

- Cụ ở đây và vẫn mạnh khỏe. Cụ đang ngồi trong phòng mình. Có điều gần đây chắc do tuổi tác, cụ có vẻ bắt đầu lẩn thẩn. Suốt ngày lặng im ngồi một chỗ, đăm đăm nhìn đâu đó và suy nghĩ những gì có trời mới biết. Anh vào thăm cụ đi, kể thật nhiều chuyện quê hương vào, chắc cụ sẽ mừng lắm.

Tôi theo anh đi sang phòng bên.

Ðó là một căn phòng khá rộng, mọi thứ đều trắng toát như phòng bệnh viện. Từ các bức tường, trần nhà, tấm ri đô, chiếc giường đôi phủ ga phẳng phiu cùng chiếc chăn gấp gọn ghẽ, chiếc gối bông, đến chiếc tủ đựng quần áo và chiếc chao đèn đầu giường - tất cả đều màu trắng. Cả chiếc ghế bành rất sâu và lớn kê sát cửa sổ cũng trắng. Và lọt thỏm trong đó là một bà già bé nhỏ đang đờ đẫn nhìn ra ngoài qua tấm kính cửa sổ không che ri-đô. Bên ngoài tuyết đang rơi những bông lớn và dày, nhìn thấy rất rõ nhờ hệ thống đèn chiếu sáng cực mạnh của các tòa nhà bên cạnh. Bà cụ không nhận thấy chúng tôi đang bước vào.

- Mẹ ơi, có anh Lân bên nước sang thăm mẹ đây này! - Anh Hòa nói to. - Anh Lân con bà Hoạt làng ta, mẹ nhớ không? Bà Hoạt vẫn cùng mẹ đi chợ Hôm ấy mà!

Bà cụ Mật quay sang nhìn tôi bằng cái nhìn vô cảm, chắc vẫn chưa dứt khỏi những ý nghĩa triền miên của mình và vẫn chưa nhận ra tôi là ai, hoặc có nhận ra cũng chưa tin là thật.

Anh Hòa kéo chiếc ghế nhỏ lại gần cho tôi ngồi, rồi khẽ nói:

- Cụ vẫn thế đấy, cứ như người mất hồn. Tôi ra ngoài nhé, để anh và cụ nói chuyện tự nhiên.

Tôi ngồi xuống ghế, nhẹ nhàng cầm bàn tay khẳng khiu, đen xạm của bà trong hai tay mình.

- Chào bác. Cháu là con trai cả bà Hoạt làng Vĩnh Yên ta đây. Mẹ cháu bảo đến thăm bác...

Bà cụ vẫn nhìn tôi không chớp mắt. Bàn tay nhỏ bé của bà run run trong tay tôi. Ðôi mắt rưng rưng như muốn khóc, nhưng bà không nói gì.

- Bác vẫn khỏe chứ ạ? Mẹ cháu nhắc bác luôn.

- Ra mẹ anh còn nhớ đến tôi à? Làng xóm vẫn nhớ tôi à? - Cuối cùng bà cụ lên tiếng.

- Có chứ ạ. Ai cũng nhớ và mừng cho bác được sống với con cháu sung sướng bên này. Nhưng bây giờ quê ta cũng khá lắm rồi, không khổ như trước nữa. Nhiều cái mới lắm.

Tôi bắt đầu kể về những thay đổi trong làng, từ việc có điện lưới cách đây ba năm, nhiều nhà có ti-vi, xe máy, đến việc huyện cho xây con đường lớn rải nhựa hẳn hoi, ô tô chạy qua làng hệt như ngoài thị trấn, còn ủy ban xã thì có cả máy điện thoại. Tôi còn cho bà biết ai trong số người già trong làng vừa chết, con nhà ai được hỏi vợ, gả chồng..

- Anh nói làng ta đủ ăn rồi à?

- Vâng, không còn cảnh đứt bữa như trước nữa. Hơn thế, bây giờ nhà nào cũng ăn cơm trắng, không phải độn khoai...

- Và ngày ba bữa?

- Ðúng thế ạ. Ngày ba bữa.

Bà cụ ngồi im, vẻ không tin.

- Cả nhà ông Thíu? Cả cố Chuyên?

- Vâng, cả ông Thíu. Thằng Dũng con ông ấy còn sắm được máy cày cày thuê cho cả làng đấy. Còn cố Chuyên thì chết năm ngoái, chín mươi chín tuổi, nhưng làng báo lên xã một trăm, và được xã đứng ra tổ chức chôn cất chu đáo lắm. Có cả đại diện trên huyện mang tiền về mừng nữa. Bác biết không. Rú Thần bây giờ được biến thành nghĩa trang của làng ta. Mỗi dòng họ một ô riêng. Bao nhiêu mồ mả các cụ kỵ xưa nay đều gom về đây, cứ theo thứ tự trên dưới mà xếp, vừa ý nghĩa lại vừa đẹp mắt.

- Con Sáu dạo này thế nào? Có hay lên cơn nữa không?

- Cháu ở Hà Nội, thỉnh thoảng mới về nên không rõ lắm. Nghe mẹ cháu nói thì cũng bình thường.

- Còn đôi lợn?

Tôi ngồi im vì chẳng biết nói gì.

Bà cụ lại trầm ngâm nhìn ra ngoài, nơi những bông tuyết lớn vẫn không ngừng rơi, thong thả và chập chạp như ý nghĩ trong đầu cụ.

- Cái Sáu đoảng lắm. Không hiểu nó có biết tính con Cụt Ðuôi thích ăn củ mùng không. Ngoài ao nhiều mùng, không khéo nó lại bỏ tiền mua rau lang trong khi để mùng thối cả đống. - Bà cụ nói, với chính mình nhiều hơn là với tôi.

Rồi cụ thong thả lấy từ dưới ghế bành một hộp trầu và cái ống nhổ bằng đồng cáu bẩn đem từ Việt Nam sang. Cũng thong thả như vậy, cụ têm một miếng, có cả vôi và cau tươi, rồi đưa lên miệng nhai.

- Mẹ cháu bảo mang cho bác ít cau trầu quê nhà, nhưng không chắc tìm thấy nên cháu không mang theo.

- Bên này cũng có. Thằng Hòa nó nhờ mua đâu đó từ miền Tây. Tương cà mắm ớt không thiếu cái gì.

Mãi đến lúc này tôi mới nhận thấy bà cụ Mật vẫn mặc chiếc quần lụa đen, chiếc áo vải gụ đã sờn, và đầu vẫn quấn chiếc khăn nhung cũ hệt như ngày nào tôi gặp cụ ở làng. Nếu không có màu trắng của các đồ vật trong căn phòng sạch sẽ, lạnh lẽo ở tòa nhà kính năm mưoi sáu tầng và màu trắng của tuyết Chicagô những ngày cuối năm này, thì khó có thể hình dung bà cụ đang xa quê nhà hàng chục nghìn cây số, ở một đất nước có thể là no đủ, sung sướng đấy, nhưng thật buồn và xa lạ. Bất giác tôi có cảm giác như bà cụ vừa đi cấy về, đang tỏm tẻm nhai trầu, trò chuyện với mẹ tôi, thì bỗng bị bàn tay vô hình nào đó bê nguyên xi sang đây, tách khỏi màu xanh quê hương làng xóm, khỏi những tập tục và việc làm vốn quen thuộc từ ngàn xưa, để tới cái thành phố khổng lồ, xám xịt và lạnh giá này. Cụ như cây mùng từ ao bùn Việt Nam bị nhổ bật rễ đem cấy xuống cánh đồng tuyết quê người. Và dù được giữ trong nhà kính ấm áp, được chăm sóc tốt, cây mùng ấy vẫn ngày một héo quắt. Ðơn giản do bị đặt nhầm chỗ.

- Nước Mỹ rộng và đẹp, bác có hay đi chơi, xem đây đó không? - Tôi hỏi.

- Không. Năm năm nay tôi không bước chân ra khỏi nhà.

Lúc lái ô tô đưa tôi về khách sạn, tôi hỏi anh Hòa vì sao. Anh nói có lẽ do cụ sợ. Chả là hôm mới đến, để cụ biết nước Mỹ là gì, anh đưa cụ lên tận tầng cuối cùng của tòa nhà Sears Tower 110 tầng, cao nhất thế giới. Cụ nhìn xuống chóng mặt suýt ngất. Khi xuống, thang máy chạy nhanh quá, cụ còn nôn cả ra tay áo con. Từ đấy anh rủ đi đâu, cụ nhất định không chịu.

- Bác có nhớ nhà không? Có muốn về thăm quê không? - tôi hỏi.

Bà cụ ngồi im hồi lâu, hai mắt rưng rưng đờ đẫn nhìn những cánh tuyết xốp rơi không dứt ngoài cửa sổ. Lần nữa bà cụ lại chìm trong thế giới những ý nghĩ đau buồn không dứt của mình. Tôi cũng kiên nhẫn ngồi im, không hỏi thêm câu nào nữa. Cuối cùng, cụ chậm chạp, khó nhọc đứng dậy từ chiếc ghế bành lớn màu trắng. Tôi định đỡ nhưng cụ ra hiệu không cần. Và cũng chậm chạp, khó nhọc như vậy, cụ cởi chiếc áo gụ sờn đang mặc trên người, đút vào hai túi hai miếng trầu têm sẵn, cẩn thận vuốt thẳng từng thân áo, ống tay rồi gói vào một tờ báo. Cụ còn lấy sợi len đỏ gấp bốn, cột chéo vuông vức như chiếc bánh chưng.

Xong, cụ kính cẩn đặt chiếc áo vào tay tôi. Lần này thì cụ khóc thực sự. Hai dòng nước mắt hiếm hoi từ từ lăn xuống và nhòe dần theo những lớp nhăn sâu trên khuôn mặt già nua khô quắt. Tôi cũng xúc động không kém và chỉ biết đứng im, chờ xem cụ định làm gì.

- Anh nói hộ với mẹ anh là tôi nhớ bà ấy lắm, nhớ bà con, làng xóm lắm. Bây giờ gặp anh đây, tôi có thể nhắm mắt được rồi. Tôi biết tôi chẳng còn sống bao lâu nữa, và chắc chắn sẽ phải chết ở cái xứ lạnh lẽo, xa lạ này. Vậy nhờ anh mang cái này về chôn cạnh mộ ông lão nhà tôi, bây giờ đã được đưa về Rú Thần, trong nghĩa trang họ Hoàng mới xây như anh nói. Nếu được, bảo người ta đắp cho tôi nấm mộ giả cho có vợ có chồng. Ông ấy đỡ cô đơn, mà cũng đỡ tủi cho tôi...

Tuyết vẫn không ngừng rơi. Ðêm đã khuya, các đường phố Chicagô vốn đã rộng càng thêm rộng. Anh Hòa cầm lái cho xe đi thong thả vì đường trơn. Tôi ngồi yên phía sau. Chiếc áo sờn nhẹ tênh của bà cụ Mật đè nặng trong tay tôi, như thể tôi đang một mình bế cụ vượt hàng vạn cây số đưa về nơi yên nghỉ cuối cùng trên đất mẹ.

Chicago - Hà Nội, 2.1997

Quí bà ăn cắp Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 QUÍ BÀ ĂN CẮP

Số chủ nhật tuần vừa rồi, ở mục "Bà con hãy cảnh giác", báo"Tiếng còi" có đăng một tin như sau: (trích)

Ăn cắp ở siêu thị, còn mạo danh là Việt Kiều trí thức!

Hôm qua, tại siêu thị Bông Hồng, một phụ nữ trẻ đẹp, ăn diện lịch sự bị bắt quả tang giấu trong người một bánh xà phòng camay, một bàn chải oral-B và hai thỏi son loại hồng nhạt do Xí nghiệp mỹ phẩm Sài Gòn sản xuất. Giá trị vật ăn cắp không lớn, nhưng điều đáng chú ý là sau khi bị nhân viên bảo vệ phát giác, thị tự nhận là Việt Kiều ở Pháp về thăm quê, cho xem cả hộ chiếu và còn giả bắt chước tiếng Việt lơ lớ rất khéo. Khi được hỏi đã vậy sao còn ăn cắp những thứ chẳng mấy giá trị này, thị ấp úng không trả lời được. Nhận thấy đây là trường hợp đáng ngờ, không loại trừ khả năng có âm mưu bôi nhọ uy tín đồng bào ta ở nước ngoài để phá hoại chính sách đại đoàn kết của nhà nước, người quản lý cửa hàng đã đưa thị tới đồn công an. Tại đây, khám người thị, người ta phát hiện thấy có nhiều ngoại tệ và những tờ ngân phiếu giá trị lớn. Những lời khai của thị rất mâu thuẫn và phi lý, khiến nhà chức trách không thể không nghi vấn.. Theo yêu cầu thiết tha của đương sự, và cũng để giúp nhà chức trách làm rõ vụ việc, chúng tôi chưa cho đăng ảnh cũng như chưa nêu rõ đích danh tên tuổi kẻ ăn cắp kỳ cục đó"

Hiện tượng ăn cắp ở siêu thị hiện khá phổ biến và đang có chiều hướng gia tăng. Nhiệm vụ của những tờ báo như "Tiếng còi" là phải kịp thời thổi còi báo động, góp phần ngăn chặn nó. Tuy nhiên, công bằng mà nói, có lẽ cả tờ báo lẫn người đọc sẽ chẳng quan tâm mấy đến một vụ ăn cắp trị giá ba bốn chục nghìn đồng, nếu không vì những chữ giật gân như "Việt Kiều ăn cắp", "xinh đẹp, ăn diện lịch sự" hoặc "trong người thị có nhiều ngoại tệ và những tờ ngân phiếu giá trị lớn". Mà rồi chắc sự "giật gân" cùng "vụ việc" ấy cũng bị người ta quên ngay vào sáng hôm sau như hàng trăm mẩu tin "giật gân" khác đăng nhan nhản trên các báo hiện nay. Thế nhưng "Tiếng còi" số chủ nhật tiếp đã quay lại chuyện này với bài báo dài có nhan đề: "Nói thêm về vụ n cắp siêu thị còn mạo danh là Việt Kiều", với giọng điệu nhã nhặn và thiện chí hơn nhiều.

Thưa bạn đọc, người phụ nữ ăn cắp ở siêu thị Bông Hồng mà chúng tôi đưa tin tuần trước hóa ra đúng là Việt Kiều thật, từ Pháp mới về quê ăn Tết Tân Tỵ này. Hơn thế, sau khi kiểm tra lại, nhà chức trách nhận thấy những lời bà khai không phải không có cơ sở, mặc dù khó tin. Do vậy bà được tự do ngay mà không phải chịu bất kỳ hình phạt nào, ngoài lời nhắc sau này không để xảy ra những trường hợp tương tự. Hôm qua, trước khi lên đường về nước, mặc dù còn mấy ngày nữa mới Tết, bà có đến tòa soạn trao cho bản báo chúng tôi một bức thư dài, được biết cùng một lúc còn gửi cho ông chủ cửa hàng siêu thị Bông Hồng và đồn công an đã xem xét vụ việc của bà. Nhận thấy đây là bức thư đáng chú ý ở vài khía cạnh, và được sự đồng ý của người viết, chúng tôi xin cho đăng toàn bộ để bạn đọc tham khảo.

*

Thưa các ông,

Tôi viết thư này để bổ sung những gì đã khai, hoàn toàn không có ý bào chữa, nếu không muốn nói ngược lại.

Xưa nay những người ăn cắp luôn giấu diếm thói xấu của mình. Trường hợp bị bắt quả tang, họ cũng tìm cách chối cãi nếu chối cãi được. Việc ấy dễ hiểu. Nhưng tôi là một ngoại lệ, vì tôi là kẻ ăn cắp đáng khinh bỉ, và vì cả việc chính tôi đang đem chuyện mình kể với các ông. Xin đừng nghĩ tôi là con ngốc, một mụ tâm thần hay đơn giản muốn trâng tráo tỏ ra khác người. Tôi cũng đau xót lắm, và sau nhiều lần hoãn đi hoãn lại, hôm nay tôi quyết định sẽ nói hết tất cả. Tôi làm thế để phần nào nhẹ bớt trong lòng, để các ông hiểu tôi và nhân tiện thử phân tích tâm lý ăn cắp, nếu quả có một khái niệm tâm lý như thế, và cuối cùng, qua trường hợp của tôi, hy vọng các nhà khoa học có thể rút ra được đôi điều cho công trình nghiên cứu của họ về bệnh ăn cắp. Vâng, bệnh ăn cắp. Hay đúng hơn, bệnh ăn cắp vặt. Và tôi, xét về mọi phương diện, đúng là người đang mắc căn bệnh quái ác ấy. Tôi nói thế không để mong giảm tội, mà thực tình vì không thể gọi cái tính xấu ăn cắp vặt ấy của tôi bằng cái tên nào khác ngoài việc coi nó là một căn bệnh như bao căn bệnh khác.

Vâng, tôi là một người ăn cắp, một mụ ăn cắp chính hiệu, hay các ông có thể gọi là một quí bà ăn cắp. Thực tình, gọi thế không phải không có cơ sở. Vốn là đứa con hoang, tôi không biết và cũng không hề muốn biết bố mẹ đẻ của tôi là ai. Tôi chỉ biết người ta nhặt được tôi đâu đó rồi đưa vào trại mồ côi, lúc lên bốn thì được một cặp vợ chồng người Pháp xin về làm con nuôi. Ðến nay tôi đã 35 tuổi, sống độc thân (không dám lấy chồng vì sợ đẻ ra một lũ ăn cắp giống mẹ).

Tôi nghĩ tôi thừa hưởng gien ăn cắp từ người mẹ đẻ, chắc một mụ đầu đường xó chợ nào đó. Có lẽ nói thế về mẹ mình là không tốt, nhưng tôi thực sự oán ghét bà ta. Thứ nhất vì bà bỏ rơi tôi, thứ hai vì truyền cho tôi bệnh ăn cắp kia. Còn bố mẹ nuôi tôi thì thật là những người tuyệt với. Họ chết từ lâu, để lại cho tôi một gia tài kha khá, đủ sống suốt đời mà không phải làm lụng vất vả. Tôi được nuôi nấng, cho ăn học và dạy dỗ tử tế theo kiểu con nhà giàu.

Như để đền bù số phận con hoang, trời cho tôi bộ óc thông minh và vẻ ngoài ưa nhìn. Vậy là lớn lên, tự lúc nào không biết, tôi trở thành một tiểu thư khả ái trong con mắt nhiều người, cả Pháp lẫn Việt ở Dijon, nơi chúng tôi sinh sống. Có thể nói tôi chẳng có tật xấu nào (trừ cái thói ăn cắp vặt mà chốc nữa tôi sẽ nói rõ), lại chăm học, nên tốt nghiệp khoa luật trường Sorbonne không mấy khó khăn. Sau đấy tôi học thêm để lấy bằng tiến sĩ, có một số công trình nghiên cứu được đánh giá cao trong giới chuyên môn, và không phải không nổi tiếng về phương diện nào đó. Các ông thấy chưa, hóa ra trên đời cũng có những con ăn cắp danh giá. Những quí bà ăn cắp! Những tiến sĩ ăn cắp! Nhưng gì thì gì, ăn cắp vẫn là ăn cắp và đáng bị khinh bỉ.

Nhưng thử hỏi tại sao một người như tôi phải mang hai tiếng nhục nhã ấy? Thì đã nói đây là bệnh, một căn bệnh tôi mắc hàng chục năm nay mà không thứ thuốc hay bác sĩ nào giúp chữa khỏi. Tôi sẵn sàng đánh đổi nó để chịu mắc bệnh ung thư hay bất kỳ một bệnh nan y đau đớn nào khác, để khỏi luôn căng thẳng đề phòng, khỏi đấu tranh chống lại cám dỗ (thường không thành công) rồi sau đó luôn dằn vặt đau khổ.

Theo thuật ngữ chuyên môn, những triệu chứng đầu tiên của bệnh ăn cắp vặt xuất hiện ở tôi ngay những ngày đầu cắp sách tới trường. Cũng có thể sớm nhưng tôi không nhớ.

Cùng ngồi một bàn lớp một với tôi có con bé Marie. Tôi và nó chơi thân với nhau, sống chung khu phố và được bố mẹ hàng ngày đưa đón bằng ô tô, cùng đường, cùng lúc. Nó giúp tôi môn tiếng Pháp, tôi giúp nó những môn khác tôi vốn giỏi hơn nhiều. Tóm lại, chúng tôi là đôi bạn tốt như những đôi bạn khác ở cái tuổi ấy.

Một hôm nó khoe được ai đấy tặng hộp bút màu nhân ngày sinh nhật. Một hộp bút bình thường loại rẻ tiền cho trẻ con học vẽ. Tôi cũng có loại bút ấy, thậm chí không phải một hộp mà hai, nên lúc đầu chẳng chú ý lắm. Tuy nhiên nhìn kỹ, tôi thấy đó là hàng nước ngoài, không hiểu của Nhật hay Trung Quốc, nắp hộp có mấy chữ nho và hình những đứa bé ngộ nghĩnh, bụ bẫm, hai má đỏ hồng như những trái đào. Chỉ thế thôi mà bỗng dưng tôi thấy thích và rất muốn có một hộp bút như thế, đến nỗi suốt buổi học hôm ấy tôi không thể nghĩ về chuyện gì khác. "Mình sẽ bảo bố mẹ mua!" tôi nghĩ rồi tập trung nghe cô giáo giảng bài. Tôi nhìn lên bảng vẻ chăm chú lắm, nhưng chỉ thấy hộp bút kia đang nằm trong chiếc cặp để mở của Marie ngay sát người tôi. Tôi bị nó ám ảnh không sao cưỡng nổi. Có cái gì đấy rất sâu trong tiềm thức cứ quyến rũ, thúc giục tôi cho tay vào cặp của Marie. Tôi biết ngay hôm sau bố mẹ sẽ tìm mua cho tôi một hộp bút như thế ở phố Tàu, hoặc nếu tôi xin, chắc Marie sẽ cho không chút do dự. Chúng tôi vẫn thường cho nhau đủ thứ lặt vặt. Vậy tại sao tôi phải ăn cắp? Ðấy chính là điều tôi không hiểu và không lý giải nổi. Sách vở và người lớn luôn dạy ăn cắp là xấu hổ. Tôi biết. Tôi cũng biết, nếu bị phát giác, tôi có thể bị nhà trường phạt nặng, nhất là bị bêu xấu trước các bạn.

Tôi không biết rượu và ma túy cám dỗ thế nào đối với con nghiện, nhưng rõ ràng tôi đang bị cám dỗ. Một sự cám dỗ ghê gớm. Tất nhiên tôi cố hết sức chống lại sự cám dỗ đó. Mấy lần tôi đã cho tay vào cặp Marie nhưng kịp rút lại. Cuối cùng, như một con ăn cắp lõi đời thực thụ, nhằm lúc Marie đứng dậy trả lời cô giáo, tôi nhanh nhẹn lấy chiếc hộp của nó cho vào cặp mình.

Thật khó diễn tả chính xác cảm giác của tôi lúc ấy. Ngoài nỗi sợ và sự xấu hổ, thật lạ lùng, tôi thấy nhẹ nhõm, thậm chí thỏa mãn, có lẽ giống sự thỏa mãn của con nghiện khi được tiêm chích. Tuy nhiên, sau những giây phút thỏa mãn ngắn ngủi đó, tôi bắt đầu bị lương tâm cắn dứt. Mặt tôi đỏ bừng, người toát mồ hôi, may các bạn và cô giáo không nhận thấy. Bây giờ, điều tôi quan tâm là làm cách nào trả lại hộp bút khốn khổ kia. Nhưng bỗng có chuông báo hết giờ, Marie vội vã đóng cặp và cùng cả lớp chạy ùa ra khỏi phòng học.

Vậy là tôi thành con ăn cắp. Ðể bào chữa cho mình, tôi viện đủ lý do, cuối cùng vẫn phải tự thừa nhận rằng mình đã hành động như một con ăn cắp. Tôi thực sự không hiểu vì sao có thể xẩy ra cái điều kinh khủng đó. Dọc đường về nhà, nhận thấy có gì khác thường, bố mẹ gạn hỏi nhưng tôi ngồi im không nói. Tối đến tôi giả vờ kêu mệt rồi khóa trái cửa ở lỳ trong phòng. Suốt đêm hôm ấy tôi nằm khóc, hối hận và tự xỉ vả mình.

Hôm sau đến lớp, tôi trả lại cho Marie hộp bút, nói tôi cầm xem và bỏ nhầm vào cặp mình. Nó tin, tất nhiên, vì làm sao có thể nghĩ tôi là kẻ ăn cắp.

Sau lần ấy, trong suốt năm cùng học lớp một, tôi còn ăn cắp của nó mấy thứ lặt vặt khác. Lần nào tôi cũng bị ma lực cám dỗ kia thôi thúc, cũng đấu tranh, dằn vặt và cuối cùng vẫn không cưỡng lại nổi. Lần nào tôi cũng khôn khéo tìm được lý do trả lại mà nó không chút nghi ngờ.

Tôi bắt đầu sợ chính bản thân mình. Ðể khỏi bị cám dỗ, từ năm lớp hai, khi Marie theo bố mẹ lên sống ở Paris, tôi xin phép cô giáo cho ngồi riêng một mình một bàn tận cuối lớp. Tôi trở nên sống khép mình, nơm nớp lo sợ. Trong lớp, tôi luôn cố nhìn thẳng lên bảng để khỏi phải thấy cái gì đó của người khác mà tôi có thể nảy sinh sự thèm muốn ăn cắp. THẾ MÀ NHỮNG NĂM tiếp theo tôi vẫn ăn cắp nhiều lần nữa, lúc chiếc bút bi, chiếc cặp tóc, lúc cuốn sách hoặc thậm chí chỉ chiếc tẩy bé tí. Có cái tôi trả lại được, có cái không.

Ở nhà, tôi ăn cắp của cả bố mẹ, toàn những thứ vớ vẩn. Kể cũng lạ, những thứ ấy tôi có thể tự do lấy dùng hoặc hỏi xin, thế mà tôi lại ăn cắp. Vâng, đúng là ăn cắp, vì tôi chọn lúc ông bà đi vắng hoặc không chú ý để lấy chúng. Bản thân hành động ăn cắp ấy tạo cho tôi một cảm giác thích thú đáng kinh tởm không cắt nghĩa nổi. Tất nhiên ở nhà mọi việc đơn giản hơn nhiều. Thường thì sau đó tôi để lại những thứ đã ăn cắp vào chỗ cũ. Nếu không, bố mẹ cũng chỉ rầy la tôi bừa bãi, tự ý lấy cái này, cái nọ của người khác khiến họ phải mất công tìm kiếm.

Lớn lên, tôi lặng lẽ tìm cách lý giải hành vi ăn cắp của mình và cố hiểu nguyên nhân của nó. Phải vất vả lắm tôi mới biết được nguồn gốc xuất thân của tôi ở sở nhập cư, rằng tôi là đứa con hoang bị bỏ rơi khi mới lọt lòng. Bố mẹ nuôi luôn giấu kín việc này, chỉ nói tôi là con gái gia đình một người bạn Việt Nam không may bị tai nạn chết cả bố lẫn mẹ, và ông bà đã nhận tôi về nuôi. Họ còn bịa chuyện như thể bố mẹ đẻ của tôi là người danh giá, có học, thậm chí giàu có. Thật ra tôi cũng không biết mẹ đẻ tôi có phải là một con ăn cắp đầu đường xó chợ hay không. Tôi nghĩ thế đơn giản vì không tìm ra nguyên nhân nào khác ngoài bệnh di truyền, khiến một người như tôi có tính ăn cắp vặt. Hay nói cách khác, sinh ra trên đời, tôi đã mang trong mình gien ăn cắp.

Tôi bỏ công đọc rất nhiều sách về lĩnh vực này. Khoa học đã tìm được mối liên hệ giữa hành vi bạo lực và tội phạm với một loại gien nào đó, và nó có thể truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thực tế cuộc sống cũng chứng minh điều ấy. Tôi biết Viện nghiên cứu y tế Mỹ ở Washington đang tiến hành nghiên cứu để gạt bỏ hoặc vô hiệu hóa loại gien này ở con cái những người có lý lịch tội phạm. Nếu họ thành công, chắc chắn tỉ lệ tội phạm trên thế giới sẽ giảm hẳn.

Còn gien ăn cắp thì sao? Liệu khoa học có thể làm được gì để giúp đỡ những người như tôi không? Liệu các bác sĩ có thể tiến hành phẫu thuật, cắt bỏ cái gì đó, hoặc tiêm loại thuốc gì đó để tôi khỏi bị giày vò bởi sự thèm muốn ăn cắp không?

Trong tương lai rất có thể điều này sẽ trở thành hiện thực. Tạm thời thì tự tôi phải vật lộn với chính mình. Tôi đang bị bệnh mà không dám cho ai biết, không thể nhờ ai giúp. Nhìn bề ngoài ai cũng tưởng tôi hạnh phúc, trong khi thực ra tôi cảm thấy vô cùng bất hạnh. Tôi tốt nghiệp trường luật mà không dám đi làm. Làm sao tôi có thể đứng ra xét xử hay bào chữa cho ai đấy khi tôi là một con ăn cắp, và bất cứ lúc nào cũng có thể ăn cắp cái gì đấy của đồng nghiệp hay bị cáo? Thậm chí tôi phải tránh chỗ đông người, không dám ở lại một mình khi đến nhà bạn chơi, dù chỉ vài phút, vì trong vài phút ngắn ngủi ấy tôi có thể không cưỡng lại được và sẽ làm cái điều tôi luôn lo sợ.

Trong chừng mực nào đó, có thể nói tôi là người bản lĩnh. Tôi đã vượt qua phần lớn các thử thách. Thế mà đến nay tôi vẫn giữ trong nhà mình vài chục chiếc thìa, dĩa, dao ăn, cũng khoảng chừng ấy chiếc bút và nhiều thứ linh tinh khác mà tôi đã ăn cắp trong nhiều trường họp khác nhau nhưng sau đó không hoàn trả được. Tối nào tôi cũng lấy chúng ra đếm để nhắc mình về sự hiện diện của bản năng ăn cắp trong tôi, và cũng để tăng thêm nghị lực đề phòng nó.

Các cửa hàng siêu thị là nơi cám dỗ tôi nhiều hơn cả, và tôi cũng sợ không dám vào nhất. Mọi thứ mua sắm, từ thực phẩm đến các đồ dùng sinh hoạt, tôi đều yêu cầu người bán mang đến nhà, vì biết nếu tới cửa hàng, rất có thể tôi sẽ phạm tội. Ðiều ấy đã xẩy ra mấy lần, may không bị phát giác. Thường sau đó tự tôi quay lại nói quên chưa trả tiền. Một số người bán hàng tỏ ý nghi ngờ, nhưng thấy vẻ bề ngoài quí phái của tôi, họ chẳng nói gì.

Một lần ở Paris, việc này xảy ra cách đây năm năm, tại một của hàng thời trang nổi tiếng dành cho người giàu, tôi đã bị bắt quả tang khi ăn cắp một chiếc nịt vú. Trước đó một thời gian gian dài, nhờ cố gắng phi thường, tôi cưỡng lại được và không hề ăn cắp một cái gì. Có thể vì thế mà tôi đã chủ quan với mình chăng?

Lần ấy tôi mua một chiếc váy dạ hội hiệu Versace giá 990 đô-la, một chiếc sơ-mi Piere Cardin 200 đô-la, thế mà quỉ thần xui khiến thế nào, tôi lại ăn cắp chiếc nịt vú chưa đầy 20 đô-la mà tôi hoàn toàn không cần đến. Tôi kín đáo giấu nó trong ngực. Vì đây là cửa hàng dành cho giới thượng lưu, giá cao gấp ba, bốn bình thường, nên người ta không đặt camera theo dõi, và nhân viên không được phép có bất kỳ sự nghi ngờ nào đối với khách.

Khi tôi bước ra khỏi cửa hàng, đang định lên ô tô về nhà thì một người đàn ông ăn mặc lịch sự đi lại, gọi đúng tên tôi và mời tôi vào quán cà phê gần đấy "để bàn chút việc".

- Việc gì? - tôi khó chịu hỏi.

Hắn bảo chuyện vặt thôi, vào quán sẽ biết. Tôi không chịu.

- Chuyện về cái bà đang giấu trong ngực ấy! - Cuối cùng hắn nói nhỏ nhẹ, với sự thông cảm cố ý. Hắn còn nghiêng mình chỉ tay về phía quán cà phê. - Không có gì nghiêm trọng đâu, xin bà đừng lo. - Hắn trấn an tôi và mỉm cười lịch sự.

Toàn bộ con người hắn toát lên sự nhã nhặn đểu cáng. Tôi cố đoán hiểu hắn muốn gì khi miễn cưỡng đi theo hắn. "Hắn muốn tống tiền mình đây", tôi thầm nghĩ. Nhưng tôi nhầm. Hắn nói hắn là một thám tử được thuê để theo dõi ở cửa hàng này. Sau một hồi bóng gió xa xôi, hắn trâng tráo đề nghị tôi ngủ qua đêm với hắn để đổi lấy việc hắn giữ kín vụ ăn cắp này, và bằng cách ấy "bảo vệ uy tín một quí bà, một người nổi tiếng" như tôi.

Phản ứng đầu tiên của tôi là muốn tát một cái thật mạnh vào cái mặt đẹp trai đểu cáng của hắn rồi đến tự thú với ông chủ cửa hàng, rồi muốn ra sao thì ra. Thế mà điều duy nhất tôi có thể làm lúc ấy là ngồi lặng người, chua xót và đau đớn. Tôi muốn khóc mà không khóc được. Từ giận dữ, nhục nhã, dần dần tôi chuyển sang lo sợ. Không lẽ điều bí mật tôi vất vả giấu kín bao năm nay bây giờ sẽ lộ ra? Và trong mắt những người vốn yêu mến, kính trọng tôi, tôi bỗng lộ nguyên hình là một mụ ăn cắp vặt đáng phỉ nhổ? Tôi hình dung ngày mai các báo sẽ đăng tin giật gân này và thái độ của người ta sẽ thế nào. Tôi co rúm người không dám nghĩ tiếp. Trong khi đó tên thám tử đểu giả kia vẫn kiên nhẫn chờ con mồi của hắn, với vẻ lạnh lùng và thích thú.

Ðêm hôm ấy, gặp hắn xong, từ khách sạn bước ra, tôi đã nghĩ đến cái chết. Chỉ cái chết mới giải thoát khỏi những đau khổ, dằn vặt tôi phải âm thầm chịu đựng. Trước đấy nhiều lần tôi cũng nghĩ tới việc tự tử, nhưng lần này thì sự nhục nhã đã đẩy quyết tâm của tôi tới đỉnh điểm.

Tôi phóng xe ra bờ sông Seine. Phía dưới, dòng nước đen xẫm vẫn lững lờ chảy như bao đời nay và đang sẵn sàng đón nhận tôi như bao người đàn bà bất hạnh khác suốt hàng trăm năm qua. Có lẽ tôi đã ngồi rất lâu trên cầu. Không phải tôi sợ chết, mà chỉ muốn kéo dài sự sống thêm ít phút để suy ngẫm lại lần nữa toàn bộ cuộc đời mình.

Cuối cùng, khi tôi chưa kịp thực hiện ý định tự tử thì một nhân viên cảnh sát xuất hiện. Ông ta dùng sức kéo tôi xa thành cầu, ấn vào ô tô và đưa tôi về nhà. Chắc thoạt nhìn, ông đã biết tôi định làm gì. Nhiều năm trong nghề, có lẽ ông từng gặp không ít trường hợp tương tự và biết nên cư xử thế nào. Sau đó tôi ốm liệt giường suốt một tháng, và chẳng bao giờ đặt chân vào một cửa hàng nào nữa.

Bây giờ tôi nói về chuyện xẩy ra ở siêu thị Bông Hồng.

Dẫu chẳng còn ai thân thích, nhưng thời gian gần đây tôi hay về Việt Nam, khoảng vài năm một lần. Chẳng phải vì nhớ quê hay yêu nước, đơn giản tôi thích đi đây đó cho đỡ buồn. Tôi vẫn thường du lịch khắp nơi trên thế giới. Những lần trước đến Hà Nội, như ở các thành phố khác, tôi luôn tránh không vào các cửa hàng. Vậy mà lần này tôi vào siêu thị Bông Hồng. Có thể lần nữa vì chủ quan, mất cảnh giác với chính mình. Tôi không cần thứ gì phải mua, chỉ tò mò muốn biết trong đấy người ta bày bán những gì, xem có giống bên Pháp không.

Tôi dạo mấy vòng khắp siêu thị, hai tay cố ý cho vào túi áo khoác. Và rồi, như các ông biết, chuyện ấy đã xẩy ra. Các ông tin hay không thì tùy, nhưng quả thật lúc ấy tôi không làm chủ được bản thân mình. Có thể nói tôi ăn cắp những thứ ấy gần như vô ý thức. Tôi chỉ sực tỉnh khi nhân viên bảo vệ khám người và tìm thấy chúng.

Ở đồn công an ra, tôi lại nghĩ đến cái chết. Hôm sau đọc báo, ý nghĩ tự tử càng thêm nung nấu. Tôi thuê taxi đến cầu Chương Dương. Thực tình tôi không nghĩ ra được cách chết nào khác ngoài việc nhảy xuống sông Hồng. Phụ nữ Paris tự tử ở sông Seine. Ở ÐÂY KHÔNG CÓ SÔNG Seine thì có sông Hồng. Ðơn giản thế thôi.

Lúc ấy trời chưa tối hẳn và cầu luôn có nhiều người xe qua lại. Tôi đứng một chốc, chợt nghĩ nếu bây giờ nhảy xuống sông trước con mắt của bao nhiêu người tò mò thì thật lố bịch. Thế là tôi về khách sạn, định bụng đêm khuya quay lại. Tuy nhiên, vào phút chót, thay vào đó, tôi đã gọi điện đăng ký trở về Pháp bằng chuyến bay sớm nhất. Bị bắt quả tang ăn cắp ở Việt Nam đã nhục, tôi không thể chết một cách nhục nhã ở đây theo cách ấy. Tôi sẽ chọn cách khác, nơi khác. Tôi không thể tiếp tục sống cuộc sống bất hạnh này nữa. Tôi muốn kêu to cầu cứu mà chẳng biết kêu ai. Tôi đang trong cơn tuyệt vọng cùng cực.

Trước khi viết thư này, tôi vừa đọc một truyện ngắn làm tôi rất xúc động của tác giả Hòa Vang, có tên là "Quyền không điên" trong cuốn "Truyện ngắn hay Việt Nam" tôi mua ở hiệu sách Tràng Tiền hôm mới đến Hà Nội.

Truyện nói về một cặp vợ chồng đáng lẽ sẽ rất hạnh phúc nếu anh chồng không bị số phận bắt sinh ra trong một gia đình có "mả điên". Ông nội điên, bố điên, cả nhà điên, cuối cùng anh ta cũng điên. Hạnh phúc đổ vỡ, anh ta đã chết một cách bi thảm. Còn con anh ta, một chàng trai tuyệt vời, muốn cưỡng lại số phận, đòi quyền không bị điên. Nhà văn nhân ái đã để anh con không điên mà chỉ bị tàn phế, dù bà mẹ không có "mả điên" lại hóa điên vì quá đau khổ.

Vậy thì tôi, kẻ bị số phận nghiệt ngã bắt mang trong người gien ăn cắp, tôi cũng đòi quyền không ăn cắp! Tuy nhiên, cuộc sống thực phũ phàng và không dễ thay đổi như tác giả các câu chuyên hư cấu. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ có được cái quyền chính đáng ấy. Tôi vẫn mẫi mãi là một con ăn cắp, dù tôi là một tiến sĩ, giàu có, một "quí bà" như người ta vẫn gọi. Nhưng chính vì có học và danh giá, tôi biết tôi không thể tiếp tục sống với hai chữ "ăn cắp" kinh khủng đó.

Mọi người, kể cả các ông, có ai làm được gì để cứu tôi không ?

Quả báo Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 QUẢ BÁO

Không khí có vẻ lắng xuống, nhưng vì còn sớm nên chưa ai muốn về. Sau mấy chén rượu thuốc bữa tiệc mừng tân gia, mấy ông bạn già vẫn còn hăng lắm. Ít khi được gặp nhau nên họ tranh thủ nói đủ chuyện. Từ chuyện "thời xưa" họ học hành hoặc đi lính với nhau, (cái thời mà khi nhắc lại ai cũng kèm theo hai tiếng "khó khăn" nhưng "tốt đẹp", mặc dù các ông thừa biết cái thời ấy cũng khối thứ chẳng hay ho gì), đến chuyện làm ăn kinh tế "thời nay" cùng trăm nghìn loại tiêu cực của nó. Tuy nhiên nói gì thì nói, các ông vẫn phải thừa nhận một thực tế không thể phủ nhận, là bây giờ các ông sống sướng hơn xưa, nếu không muốn nói đổi đời. Bằng chứng là thỉnh thoảng vài năm một lần các ông lại được gặp nhau để mừng nhà mới cho bạn.

- Các vị có tin chuyện quả báo không? Tức là cái chuyện ân oán ở đời ấy mà? - một ông chợt hỏi, chẳng ăn nhập với những gì họ đang nói . Ông này có cái tên nghe rất kêu - Cao Lý Tưởng, mặc dù ông chỉ làm một nghề rất thực dụng là kinh doanh phế liệu, và sống chẳng có lý tưởng nào cao cả ngoài kiếm tiền. - Tôi hỏi thế là vì vừa mới đọc xong cuốn sách có nói đến chuyện quả báo. Chuyện một tên tri huyện rất gian ác thường cậy quyền thế đánh đập, tù tội dân lành. Sau cách mạng bốn lăm, hắn bị người ta trói quặt cánh khuỷu dẫn đi khắp phố huyện làm nhục, rồi bị một người tức giận quá đập vỡ đầu. Nhưng chính người đập vỡ đầu hắn sau này bị qui là phản động và xử bắn. Còn người tuyên án xử bắn anh ta thì hiện đang ốm nằm một chỗ trên giường hơn mười năm nay... Tác giả cuốn sách đó là một ông nhà văn quân đội hàm tướng cơ đấy.

- Nhà văn mà có đến cấp tướng cơ à? - ai đó ngạc nhiên hỏi.

- Sao lại không? Nước ta có hai ông như thế, còn tá thì đầy.

- Tướng nhà văn chắc phải viết hay lắm nhỉ. - Ông kia lại nói, chậc lưỡi thán phục. - Không biết những ông như Sêkhốp và Tônxtôi thì cấp gì. Bét ra cũng phải nguyên soái. Nguyên soái nhà văn!

Không ai đáp lại vì nghĩ hoặc ông ta đang giễu, hoặc ú ớ đến mức không biết hai nghề viết văn và làm tướng chẳng liên quan gì đến nhau.

- Cái chuyện ân oán ấy mà, tôi thì tôi tin, rất tin nữa là khác. - Ông chủ nhà lên tiếng. Ông là cán bộ nghỉ hưu, trước làm chân gì đó ở ủy ban quận. Ông mới được đứa con trai bên Tiệp cho tiền dựng lên ngôi nhà ba tầng trên diện tích chưa đầy ba mươi mét vuông ở tít trong ngõ này. Vốn mê tín, trước khi xây ông mời thầy địa lý chọn ngày chọn hướng, mặc dù trên mặt bằng hẹp ba bên đã xây nhà, có muốn ông cũng chẳng quay theo hướng thầy chọn. - Các cụ chả nói "Ðời cha ăn mặn, đời con khát nước" là gì. Về chuyện này, các tích tây tàu xưa nay không hiếm. Nói đâu xa, hôm nọ tôi vào bệnh viện thấy có thằng oe con bị ngộ độc phải rửa ruột. Hóa ra do hắn uống một lon cô-ca thó được trong nhà chùa. Bố mẹ hắn lu loa định bắt hãng nước ngọt Mỹ bồi thường. Người của hãng và cán bộ y tế đến kiểm tra phần nước còn lại trong hộp, chẳng phát hiện thấy gì độc hại. Thế mà hắn ngộ độc suýt chết đấy. Các bác bảo hắn không bị thần phật bắt tội là gì? Khi xây cái nhà này, tôi cũng bị mất trộm mấy bao xi măng. Tôi biết thằng nào trộm, - ông đưa mắt nhìn phía ngôi nhà hàng xóm vừa mới nhà xây xong. - Tôi tin là nhà hắn nay mai sẽ đổ vì mấy bao xi măng đó. Không thoát được đâu! - Ông nói một cách dứt khoát và tự tin, đến mức mấy ông bạn ngồi nghe cứ tưởng như nhà ông hàng xóm kia sắp sụp đến nơi, nên vô tình xịch xa bức tường thêm chút ít.

- Còn tôi, tôi chẳng tin. Ðơn giản chỉ là sự ngẫu nhiên. - Một ông khác lên tiếng. Ông này trước ở cùng đơn vị bộ đội với chủ nhà, hiện là trưởng một phòng gì đó ở sở giáo dục, và là người gần đây nhất mời mọi người đến "rửa nhà mới" như ông nói. - Cứ theo ý ông thì ắt con cháu lũ trộm cắp sau này sẽ bị người ta trộm cắp lại, còn bọn lừa đảo, tham nhũng thì sẽ thành ăn mày hết. Thực tế như ông thấy, lại chẳng vậy. Có điều chắc chắn là người làm việc thiện sẽ thấy thư thái hơn, hạnh phúc hơn, và ngược lại. Thế thôi. Nếu có gì xẩy ra thì chỉ là do ngẫu nhiên, ngẫu nhiên hết.

Cứ thế, vô tình chia thành hai phe, mấy ông bạn già tranh cãi hồi lâu về đề tài này, dù chẳng mấy hăng hái, vì cái họ tranh cãi thực ra chỉ chuyện đâu đâu, đúng hay sai chẳng chết ai. Rồi một người trong số họ quay sang một ông già từ nãy tới giờ chỉ ngồi im. Ông là chủ một cửa hàng thuốc tư nhân, trước làm dược sĩ quân y. Ông vốn được mọi người kính nể vì tính chín chắn và hào hiệp.

- Còn ý ông thế nào, ông Bảo?

- Tôi ấy à? - Ông cựu dược sĩ quân y lên tiếng với giọng miễn cưỡng của người bị bắt tham gia góp chuyện. - Tôi cũng không tin, dù từng gặp những trường hợp đáng lẽ khiến tôi phải tin. Năm kia có một gã ăn cắp thuốc ở cửa hàng tôi, về uống không đúng bệnh suýt chết. Nhưng tôi nghĩ đó chỉ do người ta mách cho hắn không phải thứ thuốc hắn cần. Ngẫu nhiên thôi chứ chẳng phải ác giả ác báo gì hết. Mới đây tôi còn biết một trường hợp nữa đại loại như thế. Nếu các vị muốn, tôi sẽ kể.

Tất nhiên mọi người muốn. Ông cựu dược sĩ quân y sửa lại thế ngồi cho thoải mái rồi bắt đầu.

*

Hắn ở khu Bách Khoa, trong căn hộ tập thể cách nhà tôi không xa. Bố hắn chết sớm, bà mẹ về hưu non. Hắn còn đứa em gái học phổ thông. Bản thân hắn chỉ học hết lớp mười rồi phải nghỉ để đi làm, sau này là trụ cột của cả nhà. Hắn làm thợ nề tự do, kiêm nghề chỉ trỏ, nếu có dịp. Có vẻ cũng kiếm được, vì em hắn vẫn đi học và hắn còn dành dụm mua được chiếc xe cúp cũ. Hắn rất ham đọc sách, sách văn học nghiêm túc chứ không phải loại kiếm hiệp rẻ tiền. Tóm lại, so với những đứa khác cùng tuổi ở đây, hắn không ÐẾN NỖI NÀO. Thế mà hắn đã vào tù một lần, mấy lần bị gọi ra đồn, và dưới con mắt chính quyền là thành phần bất hảo. Do tuổi trẻ đua đòi, quấy phá thôi, chứ bản chất hắn không xấu như tôi đã nói. Hắn bị tù vì bọn xấu rủ rê ăn cắp vật liệu xây dựng công trường bên cạnh để tiêu xài nhậu nhẹt. Mà việc này xẩy ra cũng lâu rồi. Bây giờ hắn tu chí lắm, không thấy gây gổ đánh nhau với ai. Hắn đã bước sang tuổi hăm lăm, cái tuổi phải lo làm ăn, trước để nuôi mẹ và em, sau nữa để còn lấy vợ. Có lẽ hắn thấm thía bài học mười tám tháng tù, và đang quyết chí làm người lương thiện.

Một tối nọ đi chơi khuya về, hắn phóng xe nhanh trên đường Nguyễn Khát Chân mới mở, không hiểu thế nào va phải bà công nhân vệ sinh đang gom rác trên đường. Bà kia ngã xuống đất, còn xe hắn chỉ loạng choạng chút ít. Lúc ấy trời đang mưa, phố vắng người. Hắn đã định dừng lại xem sao, nhưng rồi phóng đi luôn. Ngã thì dậy chứ quái gì. Ðứng lại có khi thêm rách việc , hắn vừa đi vừa nghĩ, thực sự tin bà kia cùng lắm chỉ xây xát chút ít.

Ðêm ấy hắn cũng thoáng băn khuăn một tí về chuyện này, nhưng sáng hôm sau thì đã hầu như quên hẳn. Và rồi các vị biết không, chỉ hai ngày sau chính mẹ hắn bị một thằng choai choai phóng xe đánh võng húc ngã ở đường Bạch Mai khi bà đi chợ Mơ về. Lại giữa ban ngày ban mặt lúc phố đông người. Người ta hô hoán, có ông xe ôm còn phóng rượt theo nhưng nó chạy mất. Bà già bị gãy chân, đưa vào bệnh viện bó bột mấy hôm rồi về nhà, phải nằm một chỗ hàng tháng trời.

- Các vị thấy chưa! - ông Cao Lý Tưởng kêu lên, gần như sung sướng. - Ðấy, cứ bảo là không có chuỵện ân oán nữa đi!

Ông dược sĩ chờ mọi người im lặng trở lại:

- Tùy các vị cho thế nào cũng được. Tôi chỉ kể sự việc thôi. Phải nói thêm là thằng cha tôi đang kể đây rất thương mẹ. Lại còn sợ nữa. Hắn chẳng bao giờ dám làm trái ý bà điều gì. Vì vậy dễ hiểu hắn tức giận thế nào cái thằng choai choai đâm mẹ hắn gãy chân rồi bỏ chạy ấy. Hắn thề sẽ tìm bằng được để trị tội. Hắn phác họa trong đầu kế hoạch thực hiện điều này. Tôi dám chắc nếu tìm được, thế nào cũng có án mạng.

Một hôm đang nghỉ trưa, hắn bật ti-vi đúng lúc người ta phát bài phóng sự về những nỗi cực nhọc và nguy hiểm của công nhân vệ sinh đường phố. Hắn định chuyển sang kênh khác thì chợt dừng lại vì thấy nói về trường hợp một bà quét rác bị ai đó đâm xe ngã rồi bỏ chạy, bị thương nặng phải vào bệnh viện. Tôi nghĩ có người trong số các vị đã xem chương trình này. Chỉ cách đây vài tháng thôi. Quả đúng một trường hợp rất thương tâm. Vì làm hợp đồng nên bà ta không có bảo hiểm y tế nên phải chi trả mọi khoản thuốc men và viện phí, trong khi ông chồng thất nghiệp, lại kèm theo ba đứa con còn nhỏ. Bài phóng sự nói rõ ngày giờ, địa điểm xảy ra tai nạn, cả việc hiện công an đang truy tìm thủ phạm.

Hắn lặng người khi nghe tin này. Tối đến, hắn hồi hộp chờ xem phát lại lần nữa. Sau đó, các vị biết không, hắn bắt đầu rơi vào trạng thái ta thường gọi là lương tâm cắn rứt, hối hận hay đại loại như vậy. Thì tôi đã nói hắn bản chất không phải người xấu mà. Hắn ngơ ngác không biết phải làm gì. Cùng cảnh ngộ, hắn thừa biết hắn tội lỗi và đáng bị nguyền rủa thế nào. Hắn nghĩ đến chuyện ra trình công an, nhưng liền gạt ngay ý nghĩ đáng khen đó, vì sợ phải vào tù. Vả lại, hắn không thể vào tù lúc này. Cuối cùng hắn quyết định phải bằng mọi giá giấu việc hắn là thủ phạm, và tìm cách giúp đỡ bà kia. Cách nào thì hắn chưa biết, nhưng phải giúp.

Hắn tìm đến bệnh viện và thấy bà ta thực sự đang ở trong tình trạng rất nguy kịch. Bà ta ngã nhẹ nhưng đầu va phải gờ đá vỉa hè, bị chấn thương sọ não đang hôn mê. Bên cạnh là hai đứa trẻ mười và tám tuổi vừa thút thít khóc vừa gặm bánh mì. Chiếu cố hoàn cảnh, bệnh viện tạm ứng tiền thuốc men, sẽ yêu cầu cơ quan thanh toán sau. Một tuần trôi qua mà hắn vẫn chưa biết phải giúp nạn nhân của hắn thế nào. Nếu có tiền, hắn sẽ tìm được cách đưa cho gia đình bà ta mà không bị phát hiện. Khốn nỗi tiền là cái hắn không có và hiện đang rất cần, để nuôi cả nhà và thuốc thang cho mẹ hắn. Bán xe? Không được. Hắn đang làm phụ xây tận Ðức Giang, hơn mười cây số. Mà rồi hắn biết có bán cũng chẳng được bao nhiêu. Tuần sau hắn tới bệnh viện thì nghe nói bà kia đã chết trước đó hai ngày.

Bây giờ thì hắn hoảng hốt thực sự. Hắn đã là một tên giết người. Giết người chứ không phải trộm cắp vặt hoặc gây gỗ đánh nhau như trước. Hắn nghĩ tới chuyện ân oán mà ớn lạnh dọc xương sống. Hắn sợ mẹ hắn sẽ chết. Mạng đòi mạng mà. Hắn đâm xe vào người ta, mẹ hắn bị người ta đâm xe. Nay người ta chết thì có thể mẹ hắn cũng sẽ chết. Không. Phải làm sao để chuyện này không xẩy ra. Hắn đã giết bà kia, không thể chính hắn lại giết mẹ. Hắn suy nghĩ lung lắm, luôn thẫn thờ cứ như người mất hồn. Cùng một lúc cả dằn vặt lẫn sợ hãi đang ám ảnh, thôi thúc hắn phải làm cái gì đấy.

Một cách khôn khéo, hắn đến bệnh viện dò hỏi được địa chỉ bà quét rác nọ. Ðó là một căn nhà cấp bốn tuềnh toàng sát bờ sông Tô Lịch luôn bốc mùi thum thủm. Hắn thận trọng đứng từ xa nhìn vào.

Nhà không cổng, cửa lại mở toang hoang nên hắn nhận ra ngay hai đứa bé đã gặp ở bệnh viện. Ðứa nhỏ đang khóc, không hiểu vì sao. Còn đứa lớn thì lúi húi trong bếp, khói bốc mù mịt. Bố chúng không có nhà. Thoáng nhìn, hắn biết trong nhà không có gì đáng giá. Ngay sát chiếc giường ọp ẹp là giá thờ với tấm ảnh của ngưòi xấu số và mấy que hương đã tắt. Hắn tự hỏi không hiểu ông chồng bà ta là người thế nào, nhưng đoán chắc chẳng ra gì một khi không kiếm nổi việc làm nuôi vợ con. Không khéo lại là tay cờ bạc, nghiện ngập hoặc vũ phu cũng nên. Hắn thấy tội cho mấy đứa nhỏ. Chưa chắc chúng đã được ăn hàng ngày.

Hắn ra ngồi trong quán nước gần đấy, lân la hỏi thêm cho rõ. Ðúng như hắn đoán, mấy đứa trẻ đang đói. Số tiền ít ỏi cơ quan cũ mẹ chúng giúp đỡ chẳng kéo dài được bao lâu. Cũng may ông bố không phải người xấu, chẳng nghiện ngập gì, chỉ tội hơi đần và hay đau ốm. Trước còn dựa vào vợ, nay vợ chết, đói quá phải bò đi kiếm cái ăn bằng cách nào có trời mới biết.

Vốn tìm đến đây chưa có mục đích cụ thể nào trong đầu, giờ hắn ngồi thần người, cảm thấy cái tội của hắn thật lớn. Hắn không chỉ giết chết người vợ, mà còn có thể đẩy người chồng vào con đường tội lỗi, và quan trọng nhất là bắt mấy đứa con họ phải nhịn đói. Cuối cùng hắn đứng dây. Như người mộng du, hắn lửng thửng quay lại ngôi nhà kia. Hắn cho tay vào túi quần. Còn đúng mười nghìn. Hắn mân mê mấy tờ giấy bạc nhàu bẩn trong tay, rồi bất ngờ với cả chính mình, hắn chọn lúc hai đứa bé quay mặt vào bếp, vứt tiền vào sân rồi bỏ đi. Lúc đầu hắn cố đi bình thường để khỏi gây nghi ngờ. Rồi hắn bước nhanh, dáng sợ sệt và vội vã như một tên ăn trộm.

Sau đó, tuần nào hắn cũng đến để lén lút ném tiền vào nhà người ta theo cách ấy. Tháng đầu hắn đến vào ban ngày, sau sợ lộ chuyển sang ban đêm. Chỉ phóng xe đi ngang rồi ném tiền vào. Thế thôi. Thường chỉ dăm nghìn, nhưng cũng có khi mấy chục. Hắn đoán bố con ông kia phải ngạc nhiên lắm khi mỗi sáng dậy lại thấy tiền ai "đánh rơi" ngoài sân nhà mình. Nhưng đang đói thế, chắc họ chẳng ngạc nhiên lâu.

Cuối cùng, cái phải đến đã đến. Không còn cách nào khác, hắn bán chiếc xe dẫu cà tàng nhưng vô cùng cần thiết ấy của hắn, với giá ba triệu rưỡi. Hắn chỉ dám chi một trăm nghìn mua chiếc xe đạp cũ để đi làm. Hắn để riêng một triệu giúp gia đình người kia. Còn lại hắn dành vào việc thuốc thang cho mẹ và những thứ tối cần thiết trong nhà. Tuy nhiên, sau khi bán xe, hắn cũng tự thưởng cho mình hai vại bia hơi và một bao Vina mà đã lâu hắn không dám mơ tới.

Một thời gian sau mẹ hắn lành chân và đã có thể tập tễnh ra hè phố bán thuốc lá, chè chén như trước. Hơn hai triệu đồng hắn định để dành chi dùng cho gia đình không ngờ lại hết trước số tiền hắn cất riêng cho mục đích sám hối. Nhưng tuyệt nhiên hắn không động tay lấy một đồng nào từ đấy. Vậy mà nó cũng chỉ đủ cho hắn kéo dài được mấy tháng.

Một hôm, hắn chẳng còn tiền để vứt vào nhà kia nữa. Mà hắn thì không thể ngừng việc này được, phần vì cảm thấy vẫn còn trách nhiệm giúp đỡ, tất nhiên không phải suốt đời, nhưng lâu chừng nào hay chừng ấy, phần vì hắn sợ nếu thôi, có thể mẹ hắn sẽ ốm trở lại hoặc thậm chí chết. Rủi nữa, việc làm của hắn dạo này lại hôm có hôm không, nên hắn gần như tuyệt vọng.

"Phải làm gì bây giờ?" Câu hỏi ấy cứ bám lấy hắn suốt mấy ngày liền mà không sao tìm được câu trả lời. Chợt một ý định xuất hiện. Lúc đầu chỉ thoáng qua như một sự điên rồ bị hắn xua đuổi ngay, nhưng nó cứ quay lại, mỗi lúc một rõ nét hơn. Cuối cùng thì hắn quyết định dứt khoát: Phải ăn trộm! Không còn cách nào khác. n trộm để có tiền giúp mấy đứa trẻ kia. Ðúng thế, hắn sẽ không đụng tới một xu trong số tiền ăn trộm được vì bất kỳ mục đích nào khác, cho hắn cũng như gia đình. n trộm một vố thật lớn rồi thôi, thôi vĩnh viễn như trước đây hắn từng thề với mình. "Ngộ nhỡ bị bắt thì sao? Thì coi như mình đi tù thay cho việc làm bà kia chết. Sẽ không khai, nhưng tự biết như thế. Ðời có ân có oán, mình làm mình chịu. Mình chịu còn hơn để mẹ chịu!"

Hắn nghĩ thế và bắt đầu các khâu chuẩn bị cần thiết để hành động. Hắn sẽ rất thận trọng, quyết không để bị bắt. Và hắn đã gặp may. Chọn đúng giờ ít ai ngờ nhất - bảy giờ tối, khi mọi người đang ăn cơm, - hắn đột nhập vào một nhà cạnh đấy được theo dõi từ trước, cậy tủ lấy gần chục triệu đồng và một cây vàng tấm còn nguyên giấy bọc nhựa trong suốt. Hắn lách ra khỏi nhà kia cũng nhẹ nhàng, chẳng bị ai phát hiện như khi vào.

Một chốc sau hắn thở dài nhẹ nhõm đạp xe đi giữa phố, thầm nhẩm tính số tiền vừa trộm sẽ giúp được gia đình nạn nhân hắn trong bao lâu, với mức trăm rưởi, vài trăm nghìn đồng một tháng chẳng hạn. Hắn không muốn đưa nhiều một lúc, dù làm thế sẽ tiện hơn cho hắn, vì sợ ông bố ngù ngờ kia cậy nhiều tiền lại hoang phí, rốt cục con vẫn không có gì ăn. "Mà dạo này sao chẳng thấy lão đi làm đâu cả. - Hắn nghĩ. - Cứ suốt ngày ở nhà chờ người ta ném tiền vào sân cho mình. Sau lần này thì phải tự lo mà sống nhé. Không ai nuôi báo cô suốt đời được đâu..."

Ðúng lúc hắn vừa đi vừa nghĩ như thế thì bỗng ai đó phóng xe máy ngang qua, quệt vào xe hắn, làm hắn ngã xuống đường. Nhẹ thôi. Chỉ xây xát chút ít ở khuỷu tay, và tự hắn đứng dậy được ngay sau đó. Người kia, một thanh niên trạc tuổi hắn, vẻ ngoài tử tế, cho xe dừng lại xem có gì nghiêm trọng không. Thấy không sao, thay cho câu xin lỗi, anh ta văng một câu: "Lần sau nhớ đi cẩn thận, con nhé!"

Từ ngày mẹ bị xe đâm, hắn đã vô cùng căm thù những tay phóng ẩu. Bây giờ nghe thế, hắn lộn ruột, vội nhảy xổ vào người kia, đấm đá túi bụi trong cơn điên khùng không kiềm chế được. Chỉ loáng sau, những kẻ hiếu kỳ đã bu kín xung quanh. Rồi công an đến, đưa cả hai về đồn.

Lúc này hắn mới nhận thấy hắn đã phạm một sai lầm nghiêm trọng thế nào. Người đâm xe được thả ngay sau vài lời cảnh cáo, còn hắn thì bị giữ lại, vì người ta thấy có vàng và tiền trong người hắn, kẻ từng có tiền án, tiền sự...

*

Kể đến đây, ông cựu dược sĩ quân y dừng lại, đưa mắt nhìn quanh một lượt rồi nói:

- Bây giờ thì các vị tha hồ mà kêu lên rằng đời này có báo ân báo oán nhé!

- Tất nhiên! - Ông Cao Lý Tưởng hùng hổ nói. - Còn ông thì không chắc, sau khi chính ông kể câu chuyện này, một câu chuyện nghe như bịa nhưng cũng có thể xẩy ra lắm. Rồi sau đó thì sao?

- Sau đó tôi được mời ra đồn công an.

- Ông? - mọi người nhao nhao hỏi. - Sao lại dính ông vào chuyện này?

- Ðơn giản thôi, - người kể chuyện thong thả đáp, có vẻ như cố tình kéo dài để mấy người kia phải sốt ruột. - Vì hắn ăn trộm nhà tôi, là điều khiến tôi ngạc nhiên. Xưa nay hắn có vẻ quí tôi và thường qua nhà tôi mượn sách. Cũng có thể vì thế mà hắn biết tôi cất tiền ở đâu. Nếu theo cách lập luận của các ông thì tại sao tôi đối xử tốt với hắn mà lại bị hắn ăn trộm? Chính tôi cũng băn khuăn điều đó, vì như đã nói, tôi vẫn luôn nghĩ hắn là người tốt. Nên ở đồn công an, tôi yêu cầu được gặp riêng với hắn một chốc. Hắn đã thành thật kể tất cả những gì tôi vừa cho các vị biết.

- Nghe cứ như trong tiểu thuyết ấy nhỉ ? - Ai đó xen vào.

- Rồi tôi phịa chuyện nói với công an rằng hắn là cháu xa của tôi, rằng hắn tới vay tiền tôi mua xe máy nhưng vợ tôi không cho, nên mới nông nổi làm bậy, và rằng bây giờ tôi bảo lãnh, xin tha cho hắn về giáo dục trong gia đình.

- Sau rồi sao?

- Chẳng sao cả. Tôi lấy lại cây vàng, đưa cho hắn mười triệu kia để làm nốt công việc sám hối của hắn. Bảo cho vay, khi nào có thì trả. Tôi tin hắn sẽ trả, mà không trả được cũng chẳng sao. Vì cái việc ấy mà hắn dám liều mình ăn trộm để có thể bị vào tù lần nữa, thì với tôi, mười triệu đồng cũng không lớn lắm.

Ðể kết thúc câu chuyện của mình và cũng là đề tài tranh luận của mấy ông bạn già, ông cựu dược sĩ quân y nói thêm, vẻ triết lý:

- Tóm lại, tôi không tin mà cũng chẳng phủ nhận chuyện có hay không ân oán ở đời. Tôi chỉ nghiệm thấy rằng nếu mình sống ngay thẳng, làm được điều gì đấy tốt cho đời thì lòng mình sẽ thanh thản. Và đó là sự báo ân lớn nhất theo cái nghĩa các vị nghĩ. Nếu muốn, hôm nào tôi giới thiệu hắn với các vị. Dạo này hắn khá lắm. Khá lắm!

Một người vứt đi Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 MỘT NGƯỜI VỨT ĐI

Ở Huế, ngoài những chiếc xe lam chạy dầu ma-dút nhả khói mù mịt và kêu tành tạch từng tràng dài như súng máy, phương tiện đi lại chủ yếu trong thành phố là xích lô và xe đạp thồ.

Xe đạp thồ mới xuất hiện mấy năm trước đó, thoạt trông dễ làm người ta mất cảm tình, nhưng rồi nhìn mãi cũng quen. Vả lại, cái chính là sử dụng nó thuận tiện và rẻ. Chỉ cần bước ra phố, giơ tay là lập tức có ngay mấy chiếc xe đói việc cùng đạp đến một lúc. Anh chọn một chiếc trong số đó, thỏa thuận giá cả - một, ba hoặc năm đồng tùy đi xa hay gần - ngồi lên poóc-ba-ga phía sau (thường được lót bằng miếng mút bọc vải nhựa khách ngồi cho êm và cũng để phân biệt với những chiếc xe đạp bình thường, nghĩa là không chở người lấy tiền), thế là người kia sẽ chở anh đi. Nếu anh là khách từ xa đến, anh ta sẽ kiêm luôn vai người hướng dẫn tham quan thành phố. Anh hỏi bất kì điều gì, kể cả việc riêng tư, anh ta đều sẵn sàng trả lời, tất nhiên trong thâm tâm hi vọng anh trả thêm ít tiền cho dịch vụ đó.

Lần ấy, hai ngày sau khi đến Huế, làm xong những việc cần làm, tôi muốn đi thăm các lăng mộ nổi tiếng của Cố Ðô, trước hết là Lăng Khải Ðịnh. Và tôi đã chọn cái phương tiện giao thông tuy thô sơ nhưng thuận tiện và rẻ tiền này.

Thông thường những người nghỉ ở khách sạn "Sông Hương" như tôi, đi tham quan bằng xe con, ô tô buýt, hay bét ra cũng bằng xích lô. Cho nên thấy tôi từ khách sạn bước ra, lại ăn mặc nghiêm chỉnh, đeo máy ảnh, người đạp xe thồ bị tôi ra hiệu dừng lại có vẻ ngạc nhiên khi được thuê chở ra lăng Khải Ðịnh, cách đấy cả chục cây số, chờ xem xong lại đưa về khách sạn.

Tuy nhiên, hai phút sau chúng tôi đã lên đường. Anh ta ngồi đạp phía trước, tôi ngồi sau, hai chân buông thõng hai bên, giống hệt một tay chơi "bản địa".

Anh bạn đường của tôi ít nói, mặt ảm đạm như đang có điều gì khó chịu. Sau vài câu hỏi thăm mang tính xã giao, anh ta không nói gì thêm. Trả lời các câu hỏi của tôi, anh ta hoặc ậm ự tiếng một, hoặc lờ như không nghe thấy. Ðiều này làm tôi - một người tò mò ít nhiều thất vọng. Tôi bắt đầu hối hận về cái quyết định lãng mạn của mình, vì tôi đã có thể đi nhờ xe buýt của một đoàn nghỉ cùng khách sạn.

Hôm ấy trời đẹp, cảnh nên thơ, chỉ tiếc đường lắm dốc và nhiều lúc tôi phải xuống ủn xe từng đoạn khá dài. Anh kia - còn trẻ nhưng gầy yếu, da đen, ngực lép như người ho lao - nhìn tôi với vẻ biết ơn, nhưng vẫn im lặng một cách bướng bỉnh. Cứ thế chúng tôi đi tiếp.

- Anh có lên xem không? - Tôi hỏi khi hai chúng tôi đến nơi, dựng xe, bước vào một quán giải khát.

- Không.

- Tôi để anh chờ ở đây à?

- Không sao, - anh kia đáp. - Ông cứ xem bao lâu tùy thích. Tôi đợi.

Mặc dù còn trẻ, có khi còn ít tuổi hơn, không hiểu sao tôi được gọi bằng ông. Anh ta muốn bộc lộ thái độ bằng cách ấy chăng?

So với các lăng khác, lăng Khải Ðịnh được nhiều người nói đến và hay tới tham quan hơn cả. Cũng có lí do của nó. Toàn bộ khu lăng được xây trên một ngọn đồi từ chân lên đỉnh phải hơn một trăm bậc đá lớn. Ðây cũng là lăng duy nhất xác định được chỗ chôn người chết - tức là ngay dưới ngai vàng đỡ bức tượng ngồi toàn thân bằng đồng mạ vàng của Khải Ðịnh. Phòng mộ trang trí lộng lẫy, với những nét chạm trổ và những hình ghép sứ hết sức tỉ mẩn. Nghe nói phải nhiều người, nhiều năm mới làm nên tác phẩm nghệ thuật độc đáo này. Cũng nghe nói không ít người phải chết vì nó.

Vào phòng mộ, khách phải bỏ giày dép ở ngoài, đi nhẹ, nói khẽ, và nhất thiết phải nghe một bà già người bé nhỏ ngồi cạnh cửa nhắc nhở những điều cần thiết về nội qui tham quan, hoặc mời mua bưu ảnh, thuốc lá, nước ngọt - những thứ bà ta luôn để sẵn trên chiếc bàn con bên cạnh. Nếu anh đi một mình và cần người hướng dẫn, bà ta sẽ làm điều đó, hăng hái trả lời một cách đầy đủ, tỉ mỉ tất cả các câu anh hỏi. Tất nhiên, sau đó anh sẽ phải trả tiền công.

Khi tôi xem xong quay xuống, anh đạp xe thồ vẫn ngồi chỗ cũ, tay chống cằm tì lên góc bàn, hai mắt lim dim - chắc đang ngủ gật. Thấy tôi, anh ta chẳng tỏ ra mừng, tuy phải chờ khá lâu.

Mặt trời đã ngả sang phía Tây, nhưng trời vẫn nóng và ngột ngạt. Anh ta đứng dậy, búng búng vào đôi lốp xe.

- Ngồi nghỉ đã, - tôi nói. - Chốc nữa mát hẵng về. Anh không vội chứ?

Anh ta lắc đầu, và lại miễn cưỡng ngồi xuống. Tôi gọi hai đĩa bánh và hai cốc nước ngọt.

- Anh là dân ở đây, chắc xem lăng này nhiều lần rồi nhỉ?

- Hai lần. Lúc còn bé và năm kia.

- Sao ít thế?

- Tôi không thích.

Hai chúng tôi lại ngồi im. Lát sau, anh ta chợt hỏi:

- Hôm nay cái bà bán bưu ảnh có hướng dẫn ông xem không?

- Không.

- Cũng không kể ông nghe ai xây và bao nhiều người đã chết khi xây cái lăng này?

- Không, - tôi ngạc nhiên nhìn anh ta. - Sao anh hỏi thế?

- Chẳng sao cả. - Anh ta đáp, không lầm lì như trước, nhưng đôi mắt lộ vẻ giận dữ độc ác. Tôi đoán anh ta đang có điều muốn nói ra cho nhẹ người. Tôi kiên nhẫn chờ.

- Tiếc là ông không được nghe bà ta kể, kể một cách say sưa và thích thú, về cái chết thê thảm của ông nội bà ta... Và cũng là ông nội của tôi nữa.

- Ra bà ta là bà con với anh?

- Chị gái tôi.

- Ông nội anh là một trong những người xây lăng này?..

- Vâng.

- Và xây xong cũng bị Khải Ðịnh giết chết?

- Ðúng thế.

Tôi không hỏi gì thêm, chỉ im lặng ngồi uống nước. Tôi từng tiếp xúc với nhiều loại người, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nên biết gần như chắc chắn rằng trong những trường hợp thế này, người nói chuyện sẽ chẳng bao giờ chịu rời anh, nếu chưa kể hết những gì anh ta vừa bắt đầu.

Ðúng thế, một lúc sau người bạn đường của tôi lên tiếng, vẻ trầm ngâm như tự nói với mình nhiều hơn là với tôi:

- Cũng vì cái lăng này mà chị em tôi giận nhau, thậm chí còn từ nhau. Chị tôi là một người tốt, rất tốt, chứ không phải loại vứt đi như tôi. Không chồng, không con, suốt đời chị ở vậy nuôi em, rồi em lớn - giúp đỡ các cháu. Thế mà ông biết không, chị tôi lại làm cái công việc... - anh ta dừng lại tìm từ, - cái công việc khốn nạn ấy. Tức là tự nguyện đêm ngày hầu hạ chính thằng đã giết ông nội mình. Quét nhà cho nó, lau chân, phủi bụi cho nó! Mỉa mai thay, lại còn say sưa kể người khác nghe việc nó đã giết ông nội mình thế nào! Tôi khuyên ngăn, tôi cấm, chị tôi không nghe, tới nay vẫn tiếp tục làm cái việc như ông thấy. Thật xấu hổ! Thật nhục nhã!...

Tôi vẫn ngồi im, tò mò lắng nghe.

- Ông xem, thế thì hỏi còn chịu sao nổi? Tôi cứ lộn cả ruột khi nghĩ đến cảnh chị tôi xun xoe trước nó, ho không dám ho, nói không dám nói. Nhiều lúc tôi những muốn leo lên, giá có súng, lia cho nó, tức là cái tượng bằng vàng hay mạ vàng gì đó của nó, vài băng vào mặt. Tôi là người dốt nát, không hiểu gì, nhưng cũng biết rằng lúc làm vua, hắn là thằng bán nước và gây không ít tội ác cho nhân dân. Thế mà tại sao bây giờ người ta đua nhau đến đây chiêm ngưỡng hắn? Phải leo đúng một trăm bậc mới được nhìn hắn! Phải nhìn lên, phải nín thở! Phải để dép ngoài cửa! Phải có giờ, có ngày! Có đúng là bất công không? Ðúng, bất công! Một sự bất công được đặt lên ngai vàng! Tôi thật không sao hiểu nổi. Trước kia, thời thằng Mỹ, thằng ngụy là một nhẽ, còn bây giờ các ông - Việt cộng, Cách mạng, - sao các ông chịu thế? Lại nghe nói thế giới định bỏ hàng chục triệu bạc để tô vẽ thêm cho nó nữa. Ðấy, ông nói tôi nghe đi, vì sao, vì sao lại thế?

- Vì ông nhầm lẫn giữa vua Khải Ðịnh và tượng vua Khải Ðịnh. - Tôi đáp. - Cái người ta đến đây xem không phải một con người cụ thể nào đó cùng những việc làm xấu tốt của ông ta, mà là một tác phẩm nghệ thuật do nhân dân tạo ra...

- Ha, ha, ha! Tác phẩm nghệ thuật! - Anh ta cười to ngắt lời tôi. - Vâng, nhưng lẽ nào ông không hiểu rằng chính nhờ cái tác phẩm nghệ thuật ấy của ông mà nó sống được qua các chế độ, sống cho tới ngày nay và sẽ còn sống nữa? Thế mới là vua! Thế mới là Khải Ðịnh! Hắn biết đánh vào chỗ yếu của người khác. Hắn là con mọt biết bám vào bàn thờ tổ tiên người khác mà sống. Mấy ai dễ vứt bỏ tổ tiên mình chỉ vì một con mọt? Nên con mọt ấy cứ đàng hoàng sống. Mà thử hỏi sống ở đâu, sống thế nào? Ha, ha!... - anh ta cười to như một người điên, rồi ngừng một giây, nói tiếp: - Ông không để ý thấy mặt thằng Khải Ðịnh đang vênh lên à? Vì nó biết không những nó được an toàn, cung phụng chu đáo, mà nó còn là ân nhân, hay đúng hơn là nguồn sống của nhiều người khác. Như chị tôi chẳng hạn...

- Và cả những người đạp xe thồ chở khách tham quan nữa, - tôi châm chọc.

- Vâng, cả tôi nữa, - anh ta cụt hứng, cúi đầu thở dài. - Nhưng tôi thì nói làm gì. Tôi là một người vứt đi. Tôi là con số không, con số không cả với năm miệng ăn trong nhà. Tôi ghét chị tôi như thế, nhưng tôi đã làm ngơ để vợ tôi đều đặn nhận tiền giúp đỡ của người tôi ghét... Vâng, tôi là thằng vứt đi. Tôi không bao giờ xem mình ngang hàng với chị tôi, với các ông. Các ông phải khác, phải khác cơ... Ông nói cho tôi hiểu đi!...

Anh ta nhìn chằm chặm vào mắt tôi, mặt mếu máo như muốn khóc. Tôi lấy làm tiếc đã đánh vào chỗ yếu của anh ta. Tôi trả tiền rồi đứng dậy, không muốn kéo dài thêm câu chuyện.

Chúng tôi lại lên xe. Không ai nói thêm câu nào nữa. Ðường trở lại thành phố khó đi hơn, nắng gắt, nhiều dốc ngược. Lần này hầu như chúng tôi đổi chỗ hẳn cho nhau. Tôi ngồi trước còng lưng đạp xe, còn anh ta, con người vứt đi ấy, ngồi phía sau, thỉnh thoảng nhảy xuống ủn xe cho tôi.

Huế - Hà Nội, 1982

Lão Hạ Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 LÃO HẠ

Theo chỗ tôi biết thì cả xã tôi ai cũng ghét lão. Còn hơi sờ sợ. Phần nhiều người ta sợ lão như sợ một vật dơ bẩn, một cái thây ma hoặc một sự gàn quái. Nhưng cũng có người sợ vì những lý do khác.

Xuống tàu ở ga Mỹ Lý, tôi xách cặp đi bộ về nhà, tới cây đa cụt đầu làng thì gặp một người bạn học cũ và đứng lại trò chuyện mấy phút. Mới được vài câu, anh kia bỗng nhìn quanh, bảo tôi:

- Kìa, lão Hạ đang đến đấy! Tối nay lại nhà mình chơi nhé. Mà cậu cũng đi đi, kẻo dây vào lão ấy khó chịu lắm.

Anh bạn tôi vội vã biến mất sau bờ tre non trước mặt. Tính tò mò cố hữu giữ chân tôi lại.

Trên con đường rải xỉ sắt khúc khuỷu đầy những cọng rơm dính phân súc vật, lão Hạ đang chậm chạp, khó nhọc đi về phía tôi. Ðó là một ông già đã hơn bảy mươi, bé nhỏ và đặc biệt rất gầy. Lão chống chiếc gậy bằng gỗ mun có tay cầm cong cong, chạm trổ những hình thù gì đó không rõ. Ðầu gậy chống xuống đất lâu ngày bị mòn, trở thành quá ngắn, đến mức dùng nó, lão phải cúi thấp cái lưng vốn đã rất còng. Lão đội chiếc khăn xếp đen được gấp thành nhiều nếp. Trên người lão, chiếc áo dài, cũng màu đen, có ba chiếc cúc tròn bên nách phải, tuy đã sờn rách đôi chỗ nhưng nhìn chung còn khá tươm tất. Chiếc quần gụ mặc bên trong cũng vậy. Nhìn lão, tôi không thể không ngạc nhiên, thầm nghĩ chắc phải vất vả lắm lão mới giữ được vẻ bề ngoài thế này - nghĩa là đúng như cách đây mấy chục năm, khi lão còn là chánh tổng, làm mưa làm gió ở xã tôi và các xã lân cận.

Lão Hạ bước lại gần, lặng lẽ nhìn tôi một lượt từ đầu đến chân, từ đôi giày da, bộ com lê mới đến cặp kính trắng. Rồi lão dí chiếc gậy ngắn cụt vào sát bụng tôi, oai vệ hỏi:

- Anh con nhà ai?

Lễ phép, tôi nói tên bố mẹ. Sợ lão không nhận ra, tôi nói cả tên ông bà nội.

- À, ra thế, ra thế... Anh có biết ngày xưa ông anh, rồi sau là bố anh, suốt đời phải làm thuê, hầu hạ ta không? - lão hỏi tôi với vẻ thích thú độc ác. Ðôi mắt lão long lên, sáng và nhanh một cách không tương xứng với khuôn mặt già cỗi, nhăn nheo và cáu bẩn.

Chờ mãi không thấy trả lời, lão nói tiếp, lần này ra chiều an ủi:

- Ừ mà ngày ấy không riêng gì ông và bố anh, cả cái vùng Nho Lâm rộng lớn này ai cũng phải hầu hạ ta... - Ngừng một lát, lão lại nhìn tôi lần nữa từ đầu đến chân. - Thế mà bây giờ con cháu những thằng khố rách áo ôm ấy lại trở về làng thế này đây... Hừ, được lắm! Ðược lắm! Nhưng có ngày chúng mày sẽ biết tay thằng Hạ này! Năm năm mươi tư chúng mày không giết tao, nhưng nay mai mà giành được quyền trở lại thì tao không tha chúng mày đâu. Bắn tuốt! Bắn tuốt! Thôi cút đi! Cút!...

Lão đứng thẳng người, một tay tì lên chiếc gậy, tay kia chỉ về phía làng. Môi lão mím chặt, từ khóe miệng ứa ra dòng nước bọt vàng vàng, nhầy nhầy, từ đó chảy xuống chiếc cằm không râu của lão. Trông lão giống con chó dại bị nhốt trong cũi sắt, biết không bị ai đánh nên càng to tiếng sủa.

Trước tôi có nghe nói lão độc ác, càn rỡ, gặp ai chửi người ấy, nhưng không nghĩ đến mức ấy. Lão điên ư? Có người nói thế. Nhưng những lời đầy hằn học, giận dữ và không phải không lô-gích kia không lẽ là của một người điên? Làm gì với lão bây giờ? Khó dùng lời hay lẽ phải nói chuyện hoặc căn vặn lão. Mắng chửi lại càng không, vì lão là người già.

Tôi đành nuốt giận, lặng lẽ bỏ đi, với cảm giác của người bị xúc phạm mà không được tự vệ.

Lão Hạ chống gậy nhìn theo, với vẻ thích thú và thách thức không che giấu.

- Trông cũng khá đấy! Quan lớn! Hà Nội! Thế mà phải cuốc bộ từ ga Mỹ Lý về làng, còn ta ấy à, ngày xưa ta bắt làm riêng cho ta một ga xép ở Chò Diệc nhé! Chỉ mình ta duy nhất được sử dụng! Ha, ha!...

Tiếng cười của lão theo tôi về tận nhà. Ðôi lúc tôi tự hỏi không hiểu ngày trước, - như lão nói, - vì sao người ta tha chết cho lão, để bây giờ lão cậy già yếu, cho phép mình ăn nói càn rỡ như vậy.

Buổi tối, khi cả nhà quây quần bên mâm cơm, tôi đem chuyện vừa rồi ra kể. Mẹ tôi lên tiếng đầu tiên:

- Gặp lão, anh nên tránh xa thì hơn!

Ðúng như lời anh bạn khuyên lúc chiều!

- Lão thật quá đáng. - Bố tôi thong thả nói. - Chính quyền thì quá nhu nhược. Tại sao không gô cổ lão cho vào nhà giam? Cứ nghĩ già là được phép chửi làng xóm, chửi chế độ à? Ðổi đời được ba, bốn mươi năm nay mà lão vẫn không tỉnh ra tí nào. Năm năm tư người ta tha vì con lão. Bây giờ người ta không động đến vì tuổi già. Nhưng cái gì cũng có giới hạn. Tôi thì cứ đà này tiếp tục là tôi bắn, già cũng bắn!

- Ấy chết, gì mà hăng thế? Bắn người đâu phải chuyện dễ. - Mẹ tôi xen vào.

- Bà thì hiểu thế nào được. Bà không đi ở cho nó, bà không biết.

Cứ thế câu chuyện tiếp tục xoay quanh lão Hạ, cái lão Hạ đáng ghét vô tình tôi để xen vào ý nghĩ của mình, và giờ đây không đâu đưa hắn vào ngôi nhà ấm cúng của bố mẹ. Tuy nhiên, qua câu chuyện tôi cũng biết thêm đôi điều về lão.

Trước năm 1953, tức là năm cải cách ruộng đất ở quê tôi, suốt hai mươi năm liền lão Hạ làm chánh tổng của tổng Nho Lâm rộng lớn. Lão nổi tiếng hách dịch và tàn ác. Trong tổng, từ già đến trẻ, gặp lão ai cũng phải chào "Cụ Lớn", mặc dù lúc ấy lão còn trẻ. Nói chuyện với người khác, lão thường quát tháo, bao giờ cũng xưng "ta" (như chiều nay lão xưng với tôi). Lão có những năm người vợ và rất giàu - điều ấy khỏi nói. Uy và lực lão được tăng gấp bội khi bố lão trở thành quan tứ trụ triều đình Huế. Lão bắt dân trong tổng đắp con đường ô-tô chạy thẳng từ Quốc lộ Một đến tận sân nhà lão. Việc lão khoe lập riêng cho lão một ga xép ở Chò Diệc là điều có thật. Tuy việc này mình lão không làm nổi, phải nhờ ông bố can thiệp.

Sau cách mạng, quê tôi là vùng tự do, tất nhiên quyền lực và thái độ hống hách của lão có giảm, nhưng của cải, ruộng đất và cái chức chánh tổng vẫn được giữ nguyên. Chỉ đến năm 1954 lão mới mất những thứ đó, suýt nữa thì mất cả mạng. Số là lúc ấy lão đã bị kết án tử hình, nhưng đúng hôm đem xử bắn thì trời bỗng mưa to phải hoãn lại. Sáng sớm hôm sau thì có lệnh ân xá từ trên đưa xuống, với lí do lão có người con trai trốn nhà tham gia kháng chiến và ở chiến dịch Ðiện Biên Phủ đã lập công lớn.

Từ ngày ấy lão tỏ ra biết điều hơn. Như con cáo trốn trong hang, suốt ngày lão chỉ ngồi lì ở nhà với một bà vợ duy nhất còn ở lại với lão và nuôi lão. Mấy năm gần đây không hiểu sao lão hay ra khỏi nhà. Lúc đầu chỉ quanh quẩn dạo chơi, sau chống gậy đi hết thôn này, thôn nọ, không mục đích, hay với mục đích nào đó mà người ta không biết. Một điều lạ nữa là bao giờ ra đường, lão cũng mặc những bộ quần áo thời còn làm chánh tổng. Từ lâu người ta đã quên sự tồn tại của lão, thế mà đùng một cái, lão xuất hiện với bộ quần áo lạc lõng kia, khiến mọi người vừa ngạc nhiên, vừa thấy buồn cười. Người ta nghĩ có lẽ tuổi già làm lão quẫn trí. Trẻ con, và cả người lớn, bắt đầu cười giễu, nhưng lão cứ phớt. Hơn thế, thấy không ai làm gì mình, càng ngày lão càng tỏ ra ngang ngược.

Một hôm đi ngang đám thợ cày đang làm việc, lão dừng lại, giơ gậy chỉ xuống ruộng:

- , chúng mày phải cày sâu vào! Gãi đất kiểu ấy sẽ làm hỏng ruộng ta đấy.

Mấy người kia ngơ ngác không hiểu lão nói gì.

- Ruộng của ta! Ngày xưa ruộng này là của ta, bị các người cướp, nhưng sắp tới ta lấy lại hết!

- Sắp tới là bao giờ? - Một người hỏi to, ý châm chọc.

- Cứ đợi đấy, không lâu nữa đâu. Nhưng không vì thế mà chúng mày được phép cày nông, làm ruộng ta bạc màu...

Lão chưa nói hết câu thì - đốp! Một nắm bùn từ ruộng bay lên, rơi ngay trước mặt lão. Lão giận dữ giơ gậy chửi rủa mấy câu rồi bỏ đi.

Lần khác, lão chặn một bà đi chợ, chọc gậy vào bụng bà ta:

- Hồi cải cách, người ta lấy của tôi hai chiếc chum cho bà, bà chưa làm vỡ chứ? Sắp tới đổi đời, tôi sẽ đòi lại, bà nhớ lấy!

Vốn yếu bóng vía, bà kia lúng búng gì đó rồi nhanh chân bỏ đi.

Lại lần khác, lão láo xược chỉ gậy vào mặt một bác nông dân, tuyên bố ngày xưa ông cha bác ta từng cày ruộng rẽ và đã tìm cách ăn bớt thóc của lão. Lão suýt bị đánh một trận nhừ tử, nếu không vì bác nông dân kia sợ mang tiếng đánh người già, và sợ ông bà mình đang mồ yên mả đẹp bỗng dưng bị dựng dậy làm trò cười cho thiên hạ...

Tóm lại, lão Hạ đã nhanh chóng trở thành một nhân vật tai tiếng trong xã, và không phải không có người đến gặp chính quyền đề nghị bắt giam lão. Nhưng lão vẫn tiếp tục khăn xếp, áo the, chống gậy đi khắp nơi, tiếp tục nhắc mọi người nhớ thời kì vàng son xưa kia khi lão làm chánh tổng, và rằng sắp tới đổi đời, lão sẽ trở lại với cái chức đó.

Hai năm sau trở về thăm quê, tôi lại gặp lão.

Lão nằm còng queo bên vệ đường, trên nền cát bẩn loang lỗ nước - chắc lão vừa đái dầm ra đấy. Lão rên ư ử, hai tay ôm đầu làm gối. Chiếc khăn xếp bất li thân không còn trên đầu. Những sợi tóc thưa thớt, đen lẫn trắng, dính vào nhau, hoặc cụp xuống, hoặc chổng lên như những chiếc gai nhọn. Chiếc áo dài bị rách một miếng to phía trước bụng, có thể do chó cắn. Mắt lão nhắm, nhưng khó nói lão ngủ hay đang thức. Nước dãi chảy ra từ khóe miệng, gặp bụi bẩn đóng lại thành một dòng đen đen, luôn có vài con ruồi bay vo vo bên cạnh.

Một người cùng làng cho biết vợ lão, - nguồn sống, người thân duy nhất còn lại của lão, - bị bệnh chết cách đây nửa năm. Thế là lão đâm ra bơ vơ không nơi nương tựa, phải đến xin ăn ở những nhà trước đấy lão thường chửi mắng. Mọi người ai cũng ghét lão, thế mà đến xin nhà nào, dù với thái độ kẻ cả láo xược, người ta cũng cho, lí do dễ hiểu là để tống lão đi càng sớm càng tốt. Còn chính quyền xã thì vì không muốn có người chết đói trên địa phận mình, đành trích công quỹ mua thóc cấp cho lão. Lần nào lão cũng đem già nửa số thóc ấy đổi lấy rượu uống say bí tỉ.

Vẫn nằm yên trên cát bẩn, lão Hạ ngẩng đầu, từ từ mở đôi mắt đỏ ngầu nhìn tôi. Lão nhìn rất lâu, chốc chốc nhíu mày như cố nhớ tôi là ai. Cuối cùng lão nhớ ra:

- , chào anh quan Hà Nội... Chắc lại đi bộ từ ga Mỹ Lý về chứ gì? Ngày xưa... è, è... ngày xưa ta bắt lập riêng cho ta một ga xép ở Chò Diệc... è, è... Anh biết điều ấy chứ?

Rồi quá yếu, lão gục xuống trong tư thế cũ.

Cách đây không lâu, nhận được thư nhà, tôi rất ngạc nhiên khi biết lão Hạ vẫn chưa chết. Thì ra lão sống lâu hơn tôi tưởng.

Diễn Châu, 13.1.1984

Kí sự về một ngọn đèn đã tắt Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 KÍ SỰ VỀ MỘT NGỌN ÐÈN ÐÃ TẮT

1

Ở công ty S.B, khi được hỏi ai là điển hình tốt của công nhân đèn biển những năm gần đây, mọi người nhất trí nêu tên Nguyễn Thiếu Sơn, đảo trưởng đảo đèn Hòn mực. Sau đây là một số ý kiến nhận xét về anh ta.

Giám đốc công ty:

Một anh chàng tuyệt diệu! "Người hùng" của chúng tôi đấy. Năm năm liền chiến sĩ thi đua. Không phải nhiệm vụ của mình, nhưng cậu ấy tình nguyện ra đảo và ở liền một mạch đến tận bây giờ. Cũng trong chừng ấy năm, chưa để xảy ra sự cố nào, đặc biệt không bao giờ kêu ca khó khăn, không bao giờ xin về đất liền! Một anh chàng ít lời, khiêm tốn, thông minh, có ý thức kỉ luật tốt. THẾ mà trước thuộc loại "có vấn đề" cơ đấy. Thế nào nhà báo cũng phải ra Hòn Mực thăm cậu ấy và nếu có thể, xin viết cho một bài kha khá vào. Chúng tôi muốn mọi người hiểu hơn nữa cái nghề gian khổ thầm lặng này. Vả lại cũng cần nêu gương cho lớp trẻ noi theo, chứ nói thật, chúng quen sung sướng trong đất liền, ra đảo chưa ấm chỗ đã đòi về.

Thư kí công đoàn:

Hiếm có trường hợp nào như cậu Sơn - năm năm liền không đi phép lần nào. Có vẻ cậu ấy không muốn rời đảo đi đâu cả, dù chỉ ít ngày. Cũng chẳng có nhu cầu tiếp xúc với ai. Người ta kể với tôi rằng cậu ta thường cho đứa bạn cùng nhà đèn về đất liền, có khi đến cả tháng. Còn lại một mình, cậu ta đảm nhiệm hết mọi việc. Tất nhiên như thế là vi phạm nguyên tắc, là mạo hiểm, nhưng dù sao theo tôi, phải là người thực sự yêu nghề mới xử sự như VẬY. À mà sáu tháng đầu năm này Công đoàn Tổng cục Ðường biển lại có giấy khen cho Nhà đèn Hòn Mực, khi nào đi các anh nhắc tôi gửi cho cậu ấy.

Một công nhân, bạn cũ của Sơn:

Em thì em nghĩ mọi chuyện không đơn giản như thế. Sống với nhau nhiều, em biết. Ðúng là nó "an tâm công tác" như người ta nói, và năm năm không nghỉ phép lần nào, không kêu ca, không đòi về đất liền. Nhưng thử hỏi vì sao? Nhất là trước kia nó từng hiếu động, ham hiểu biết và ưa giao tiếp. Chính vì thế mà bao lần mang vạ vào thân, để rồi không hiểu sao cuối cùng tình nguyện ra đảo rồi ở rịt ngoài ấy. Nếu có dịp, anh thử tìm hiểu xem.

Một thủy thủ trên tàu VS.735, chuyên tiếp tế cho các đảo đèn khu vực phía Bắc:

Sơn Hòn Mực ấy à? Một thằng hâm tỉ độ.

2

Những tìm hiểu thêm khi đi trên tầu VS.735.

Nguyễn Thiếu Sơn quê ở Thái Bình, 32 tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ và hiện không còn ai thân thích. Hết phổ thông, được chọn sang Rostok, Cộng hòa Dân chủ Ðức, học trung cấp kĩ thuật ba năm, ngành sửa chữa máy tàu biển. Sau đó ở lại làm việc tại nước bạn bốn năm nữa là bẩy. Về nước được phân công tác ở công ty S.B, theo chuyên môn đã học là sửa chữa máy thủy.

Về công ty chưa bao lâu, Sơn đã nổi tiếng một anh chàng lập dị. Thực ra ở anh mọi cái đều bình thường, kể cả cách ăn mặc lẫn cư xử. Tuy nhiên người ta vẫn thấy có cái gì đấy vừa chương chướng vừa buồn cười. Có lẽ đó là sự thơ ngây cả tin và tính thật thà quá mức, nhiều khi khiến người khác thấy bất tiện. Anh đơn giản hóa mọi chuyện, nghĩ ai cũng như mình nên quá cởi mở, thoải mái, quá thẳng thắn mà không chịu chú ý tới những mối quan hệ phức tạp và rất tế nhị của cuộc sống quanh mình.

Anh là người thông minh, có trình độ chuyên môn giỏi, luôn làm việc hăng hái - quá ư hăng hái - và thường hoàn thành việc được giao nhanh và tốt đến mức ai cũng phải ngạc nhiên. Dễ hình dung anh nổi bật thế nào giữa một tập thể xưa nay vốn trì trệ như phân xưởng nơi anh đang công tác. Sự đời vẫn thế, nếu cả tập thể cùng lười biếng, gian dối thì chẳng sao, ai cũng là người tốt, nhưng có anh chăm chỉ, tử tế xuất hiện thì tình hình lại khác. Có cái để so sánh, sự lười biếng, giả dối trở nên dễ nhận thấy. Vậy thì thằng mới ấy là kẻ thách thức, là tên phá bĩnh và cần phải loại trừ.

Lúc đầu mọi người lặng lẽ quan sát, không khen cũng chẳng chê, nghĩ tay này chẳng mấy mà "xịt" như nhiều lính mới hung hăng trước đó, rồi sẽ tự hòa vào cái không khí chung ở đây và trở thành như họ.

Tuy nhiên thực tế không diễn ra theo hướng ấy. Sơn tỏ ra là người có bản lĩnh. Anh vẫn giữ được phong cách làm việc như những ngày mới đến. Hơn thế, còn bắt đầu công khai phê phán tình trạng kỉ luật lỏng lẻo và những điều bất hợp lí trong quá trình sản xuất của phân xưởng. Những ý kiến anh nêu đều đúng, nhưng phần vì do cách phê bình quá căng, phần vì người bị phê tự ái không chịu tiếp thu, nên dần dần anh rơi vào thế cô lập, một mình chọi cả tập thể. Anh không nao núng, thậm chí còn thích sự cô đơn kiêu hãnh của mình. Mọi người khó chịu nhưng chẳng làm gì được, vì anh làm việc tốt, không có gì để bắt bẻ, cho đến một hôm...

Ðây là lần va chạm lớn đầu tiên. Sơ kết sáu tháng đầu năm, Sơn kiên quyết không nhận danh hiệu Lao động Tiên tiến, nói mình chỉ làm việc bình thường và nhất định từ chối món tiền thưởng phân xưởng "Hoàn thành vượt mức kế hoạch". Theo anh, thực ra phân xưởng không những không vượt, mà còn chưa đạt kế hoạch được giao.

Lần này, vì uy tín và quyền lợi của cả phân xưởng bị đe dọa, ai cũng nhao lên phản đối quyết liệt. Họ kết anh đủ các thứ tội, tìm đủ cách, cả cứng lẫn mềm, cố thuyết phục nhưng anh không nhân nhượng. Lần đầu tiên, sự làm ăn dối trá bị công khai vạch trần bằng những con số không cãi vào đâu được.

Sơn không là người thích chơi trội, cũng không có động cơ cá nhân nào, đơn giản chỉ muốn đấu tranh vì lẽ phải. Anh viết đơn báo cáo tất cả lên công ty. Một thời gian sau càng thất vọng hơn khi thấy phân xưởng vẫn được công nhận vượt kế hoạch, và tất cả trừ anh đều Lao động Tiên tiến và lĩnh thưởng.

Sau vụ này, tình hình phân xưởng vẫn y nguyên. Thay cho thái độ không khen, không chê trước kia, bây giờ người ta bắt đầu để ý những điều nhỏ nhặt nhất ở anh để bới móc. Dễ nhất là đầu tóc và cách ăn mặc. Không thể nói tóc anh quá dài, nhưng trong một cuộc họp nó vẫn bị đem ra phê bình. Anh nhíu trán ngồi nghe, sau không những không cắt ngắn, mà còn cố tình để dài hơn. Kết quả là tóc anh dài thật, dài lút gáy, đến mức một lần bị công an bắt vào đồn cắt trắng nửa đầu. Hôm sau và suốt cả tháng tiếp theo, anh đến phân xưởng với cái đầu bị cắt trọc một nửa ấy, ai khuyên can thế nào cũng không chịu chữa lại. Khi giám đốc công ty nhắc nhở, anh nói: "Ðể tóc thế nào là quyền của tôi. Bị xúc phạm một cách thô bạo, tôi phải để mọi người thấy rõ điều ấy".

Ðợt sơ kết sáu tháng tiếp theo phân xưởng lại vượt kế hoạch, chia thưởng, và Sơn lại từ chối không nhận, sau khi chứng minh chính xác rằng cái vượt kế hoạch ấy chẳng qua là trò ảo thuật của ông quản đốc. Nghĩa là chuyện cũ lặp lại, nhưng lần này anh làm căng. Anh đến văn phòng lãnh đạo công ty, đảng ủy cơ quan, rồi làm ầm lên ở những nơi đó. Người ta lắng nghe anh, tuy không thật chăm chú lắm, và hứa sẽ cho điều tra lại. Trước khi chia tay, họ dành hơn nửa tiếng đồng hồ nhắc anh về tác phong sinh hoạt, về sự khiêm tốn và đoàn kết nội bộ.

Mấy ngày sau, nghe tin phân xưởng vẫn được công nhận vượt kế hoạch, Sơn bỏ không đi làm suốt cả tuần. Lúc trở lại, anh hờ hững nhận quyết định cảnh cáo toàn công ty vì tội tự ý nghỉ việc. Ðang sẵn buồn bực do trục trặc với người yêu, ngay hôm ấy anh viết đơn xin ra đảo làm công nhân gác đèn biển, một việc luôn thiếu người và xưa nay chưa có ai tình nguyện...

3

Hòn Mực là một đảo đá nhỏ nhưng khá cao ở xa ngoài biển, nằm trên luồng tàu chạy vào cảng Cửa Ông. Khi tàu VS.735 chở chúng tôi từ đảo Long Châu đến, trời đã ngả về chiều. Gió thổi mạnh, sóng lớn, có lẽ phải đến cấp năm, cấp sáu - ở đây mùa này bao giờ sóng cũng lớn.

Khác với các nhà đèn khác thường đoán ngày giờ tàu từ đất liền, ra đứng chờ sẵn từ trước, nhà đèn Hòn Mực này tỏ ra thờ ơ. Tàu chúng tôi kéo còi mấy lần mới thấy một bóng người chui ra khỏi ngôi nhà chuồng chim chênh vênh trên vách đá. Người ấy thong thả tuột xuống theo chiếc thang sắt thẳng đứng, rồi bơi về phía chúng tôi bằng chiếc thuyền nan nhỏ.

- Mày lại cho thằng Ba vào đất liền rồi hả Sơn ?

Ông trưởng trạm hỏi, khi chiếc thuyền nan áp vào thành tàu. Ông một ông già nhỏ bé, da đen xạm, nghe nói từng coi đèn ở đảo hơn ba mươi năm. Lần này ông đi kiểm tra khắp một lượt các nhà đèn dưới quyền ông phụ trách. Cùng đi với ông còn một người nữa là thợ chữa máy nổ, nhưng nếu cần chữa luôn cả máy vô tuyến điện.

- Hắn bảo ở nhà có việc quan trọng...

- Lâu chưa?

- Tuần trước.

- Thế sau hắn ra bằng cách nào?

- Chắc đi nhờ tàu Hải quân.

Ông trưởng trạm thở dài rồi buông một câu ông đã nói nhiều lần nhưng không tin lắm vào hiệu quả của nó:

- Cậu phải liều liệu đấy, chứ thế là không ổn ÐÂU. Ở đây một mình, nhỡ cậu ốm chết, ai chịu trách nhiệm? Thôi, - ông hạ giọng, - cậu cho tớ và anh nhà báo này vào trước, rồi đón ông máy nổ và mấy thứ đồ tiếp tế.

Một giờ sau, khi kiểm tra hết mọi việc không thấy có vấn đề gì, ông trưởng trạm giao đồ tiếp tế cho Sơn và Ba (vắng mặt), thông báo sơ qua tình hình công ty. Rồi bất chợt đặt mạnh cốc nước xuống bàn, ông nói:

- Thôi, Hòn Mực thế là được. Bây giờ tranh thủ còn sớm đi luôn ra Cô Tô. Anh nhà báo thấy thế nào? - Ông quay sang tôi. - Ngoài ấy sóng lớn đấy. Nhà đèn Cô Tô lại không có thuyền con ra đón như ở đây. Phải bơi vào bờ, hai trăm mét, không ngại chứ? Hay ở đây một hôm, mai chúng tôi quay lại đón đi Móng Cái luôn thể?

Tôi không sợ sóng lớn, không ngại bơi hai trăm mét, nhưng đã đồng ý ở lại Hòn Mực. Tôi muốn tìm hiểu nhiều hơn về Sơn.

*

Phải nói ngay từ đầu tôi có ác cảm với con người này, dù trong thâm tâm rất muốn ngược lại. Ở anh ta có cái gì đấy vừa lạnh lùng, vừa khinh khỉnh khiêu khích. Người anh ta dong dỏng, quần áo nghiêm chỉnh, là điều ít thấy ở dân đèn biển. Khuôn mặt có thể nói ưa nhìn, nếu không kể đôi mắt mệt mỏi nhiều khi bỗng ánh lên những tia hằn học.

- Tôi không thích những người làm văn, viết báo như anh. - Ðó là câu đầu tiên anh ta nói khi chỉ còn hai người.

- Vì sao?

- Vì các anh nói dối không biết ngượng.

- Có thể cụ thể hơn được không?

Sơn lặng lẽ nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi nhếch mép không chút thân thiện:

- Riêng việc anh vờ không biết đủ chứng tỏ anh đang nói dối. - Hình như cảm thấy mình quá lời, anh ta hạ giọng nói tiếp, chân đá vào gói sách báo ông trưởng trạm vừa mang ra còn để ngổn ngang giữa nền nhà cùng mấy quả bí đỏ: - Ra đây yên tĩnh, anh đọc lại cái mớ này sẽ rõ.

Tôi tự ái, muốn đập lại vài câu thật đau, nhưng rồi nghĩ thế nào lại thôi, và bỏ đi rửa ráy. Sơn cũng lẳng lặng xách bộ đồ nghề leo lên đỉnh núi, nơi có ngọn đèn cùng chiếc máy phát điện chạy bằng sức gió.

Ngôi nhà lợp ngói hiện Sơn đang ở được xây trên một chỗ tương đối bằng phẳng ở lưng chừng núi, diện tích khoảng ba mươi mét vuông, gồm nhà ở, sân, bếp và độ hai mét vuông được phủ đất chở từ đất liền ra để trồng rau sam. Ra ngoài giới hạn ba mươi mét ấy, hoặc là rơi xuống biển, hoặc va đầu vào vách đá dựng đứng.

Tôi đưa mắt nhìn một lượt khắp nhà. Có hai chiếc giường. Một chiếc không chiếu, không màn, chỏng chơ mấy cái xoong đen nhẻm. Giữa nhà là chiếc bàn vuông gỗ mọt với hai chiếc ghế, trên bàn có chiếc đèn dầu, chiếc điếu cày, bàn cờ tướng đang đánh dở và một bộ tú lơ-khơ đã quá nhàu nát. Trong một góc tường treo hai khẩu súng trường, chiếc bản đồ ngả vàng và chiếc đài bán dẫn chắc hết pin từ lâu. Ngay phía dưới, trên chiếc hòm gỗ không khóa là chồng sách lộn xộn, có cả mấy cuốn bìa cứng khá dày, tôi đoán là sách kĩ thuật bằng tiếng Ðức.

Ở đất liền, người ta kể với tôi rằng năm 1955, mải rút chạy khỏi Việt Nam, người Pháp quên không tiếp tế cho đảo Hòn Mực và do vậy để ông già coi đèn chết đói. Khi ta ra tiếp quản thì xác ông đã thối rữa nằm trên sàn xi măng. Nghe nói bây giờ gặp hôm trời ẩm, nền nhà lại nổi lên hình người ông già, đủ cả đầu và tay chân. Lúc này, nhớ lại chuyện ấy, bất giác tôi cúi xuống nhìn, nhưng không thấy gì.

Không còn chỗ nào khác, tôi đặt chiếc túi du lịch khá mốt mới mua xuống chiếc gường không màn, không chiếu, cùng một hàng với mấy chiếc xoong bẩn. Bốn giờ chiều, chúng tôi ăn tối, không ai nói với ai câu nào.

Ðây là bữa cơm đầu tiên tôi ăn với công nhân đèn biển trên đảo. Sự kham khổ của nó khiến tôi sửng sốt, dù tôi từng nếm mùi bếp ăn sinh viên những ngày thiếu thốn nhất.

Ðặt trên tờ báo cũ nhàu nát là một bát nước muối màu vàng nhạt (do muối bẩn), một đĩa rau sam luộc hái từ ô đất hai mét vuông nói trên, một xoong canh lõng bõng mấy miếng bí đỏ vừa chở từ đất liền ra, và nồi cơm gạo hẩm bốc mùi sặc sụa. Hay anh ta định thử thách hoặc tỏ thái độ với tôi? Không, sau này đi các đảo khác, tôi hỏi và biết đời sống những người coi đèn bao giờ cũng kham khổ như vậy. Một tháng mới có một lần tàu từ đất liền ra, chủ yếu mang sách báo, tiền lương, gạo và ít rau xanh, thi thoảng thêm đôi cân cá khô. Gạo và nước ngọt thuộc "hàng chiến lược", phải dự trữ ít nhất đủ dùng mấy tháng, nên quanh năm anh em luôn ăn gạo hẩm.

n xong, tôi thong thả mở túi lấy ra tờ giấy khen người ta nhờ mang cho Sơn. Anh ta cầm lấy, ngắm nghía nhìn nó với nụ cười giễu cợt rồi vứt xuống đất. Lát sau anh ra bếp mang vào siêu nước sôi méo mó, đen xịt đang phả hơi phì phì, rồi thản nhiên đặt lên tờ giấy khen sặc sỡ với những dòng chữ nắn nót.

- Anh thật quá đáng! - Không chịu thêm được nữa, tôi lên tiếng.

Sơn im lặng hồi lâu với vẻ khiêu khích. Cuối cùng anh ta nhìn thẳng vào mắt tôi, đáp dằn từng tiếng:

- Cũng như mọi người cả thôi! Các lần trước tôi dành chúng vào những việc còn tệ hơn nhiều.

- Nhưng vì sao? Ðây là phần thưởng, là sự đánh giá của tập thể, là...

- Là sự giả dối đểu cáng và trắng trợn! Tôi không tin những tờ giấy loại này. Tôi không tin những lời các anh nói. Không tin bất kì ai.

- Nhưng chẳng phải mọi người vẫn tốt với anh đấy sao? Họ đánh giá cao việc anh làm, họ thưởng tiền và giấy khen cho anh! - Tôi cũng cao giọng.

- Chính vì thế mà tôi càng kinh tởm họ. Ðó là việc làm đạo đức giả. Trước kia, một thời tôi từng ngu ngốc tin vào những điều nhảm nhí ấy. Nhưng nay thì đừng hòng! Ðừng hòng!

Sơn ném hai chữ cuối cùng ấy vào mặt tôi, với tất cả sự giận dữ bị đè nén lâu nay. Như để ra hiệu chấm dứt câu chuyện, anh ta cầm chiếc bát và đôi đũa của mình, đứng dậy:

- Ở đây có lệ ăn xong, bát người nào, người ấy rửa.

- Thế đĩa và xoong nồi thì sao? - Tôi châm chọc.

Anh ta không đáp, chỉ lẳng lặng đi ra bể nước.

Sau đó, suốt mấy giờ liền tôi và Sơn không ai nói thêm câu nào. Sơn ngồi đánh cờ một mình trong nhà, còn tôi mang sách ra hiên đọc.

Buổi tối, tôi quyết định đi ngủ sớm. Thấy tôi loay hoay sửa soạn giường chiếu, vẫn không thèm ngoái đầu lại, Sơn nói:

- Nếu lười dọn xoong nồi trên gường thì có thể trải chiếu xuống đất mà nằm. Trên chỗ ông già ngày xưa chết ấy! - Anh ta đập mạnh quân cờ xuống bàn. - Chẳng có gì đáng sợ. Không phải hôm nào hình ông ấy cũng hiện lên đâu. Mà có hiện cũng chẳng sao, đúng thế không, ông nhà văn?

Lại châm chọc! Tôi nghiêm mặt nhìn thẳng vào mắt anh ta, cố kìm giận để không buột ra một lời nào đáng tiếc. Sơn vẫn lì lợm không chịu né tránh của nhìn của tôi. Khuôn mặt trẻ, có thể nói đẹp trai của anh ta vênh lên một cách khó chịu. Trong đôi mắt sâu, lạnh lùng và hằn học ấy không còn dấu vết một con người khác hẳn như tôi được biết. Anh ta đã thành kẻ hằn học, cực đoan và luôn sẵn sàng bùng nổ.

Tuy nhiên, ẩn sâu phía trong cái vẻ ngoài khó chịu, giả tạo và ít nhiều bị đẩy lên quá mức kia, tôi vẫn nhận thấy ở Sơn cái gì đó khác hẳn, một nỗi đau nhức nhối thầm kín, một sự thèm khát được trở lại cuộc sống bình thường, được tin vào những điều tốt đẹp như một thời trước kia từng tin.

Bỗng tôi thấy thương hơn giận. Ðể anh ta không nghĩ mình hèn nhát, tôi lặng lẽ quét nền nhà, trải chiếu, tìm cách mắc chiếc màn cá nhân bao giờ tôi cũng mang theo mỗi lần đi công tác, rồi chui vào nằm đúng chỗ Sơn gợi ý, nơi ông già gác đèn biển ngày xưa đã chết.

Sơn im lặng đánh cờ một mình. Dù rất mệt, tôi trằn trọc mãi vẫn không sao ngủ được. Những ý nghĩ rời rạc, hãi hùng cứ bám chặt lấy tôi. Ðâu đó phía dưới, tiếng sóng vỗ vào vách núi dựng đứng nghe đều đều, dữ dội, nhiều khi to như tràng pháo ngân dài. Cuối cùng tôi cũng thiếp đi, nhưng nửa đêm lại chợt thức giấc.

Chiếc đèn dầu vẫn leo lét cháy trên bàn cờ đặt trên giường Sơn, tuy nhiên tôi không thấy anh ta với dáng ngồi quen thuộc bên cạnh. Tôi đưa mắt nhìn quanh. Anh ta đang đứng trong góc phòng, tay mân mê khẩu súng trường mới được lau sạch bóng. "Hắn định làm gì thế nhỉ?"- tôi lo lắng tự hỏi, sống lưng bỗng thấy lành lạnh. Tôi những muốn kêu to hay vùng dậy bỏ chạy, nhưng sực nhớ mình đang ở đâu, đành tiếp tục nằm im giả vờ đang ngủ say. Thật may, một lúc sau, ngắm nghía chán khẩu súng, Sơn treo nó lên tường, rồi leo lên giường với ván cờ bỏ dở.

Anh ta ngồi bất động, đầu ngoẹo sang một bên, một tay chống cằm, tay kia luôn giữ quân cờ bên đen hoặc bên trắng tùy lúc. Cứ thế mình chống lại chính mình, anh ta ngồi hết giờ này đến giờ khác, ngày này đến ngày khác, năm này đến năm khác.

Cảm thấy ngột ngạt khó thở, tôi quyết định dậy, leo lên chòi đèn ngồi một chốc cho mát. Thật lạ lùng, như đọc được ý nghĩ người khác, thấy tôi chui ra khỏi màn, vẫn không quay đầu lại, anh ta nói:

- Ði ủng vào, đường lên trên kia nhiều rắn lắm đấy!

Tôi lặng lẽ tìm ủng rồi đi ra ngoài. Năm phút sau, men theo vách núi, tôi đã lên đến chòi đèn, khoan khoái đứng tựa vào chiếc lan can bằng sắt sơn trắng bao quanh. Ngọn đèn hải đăng cực mạnh vẫn từ từ quay, chiếu ra bốn phía những luồng ánh sáng dài, khi tắt, khi đỏ do được che bởi những miếng kim loại cách nhau đều đặn.

Ban đêm biển thật đẹp. Trời đầy sao. Trăng mới mọc nhưng còn bị che khuất sau một trong vô vàn những ngọn núi nhỏ giữa vịnh. Mặt biển tối đen, lốm đốm những ngọn đèn xanh của các con thuyền đánh cá. Chắc từ đó, hàng trăm con mắt đang hướng về Hòn Mực quen thuộc. Ngọn hải đăng vẫn sáng, nghĩa là tất cả vẫn bình thường. Những người đi biển nhìn nó để định hướng, có thể yên tâm cho tàu thuyền đi lại mà không sợ bị va đá ngầm hay mắc cạn.

Từ xa, một chiếc tàu lớn như tòa nhà nhiều tầng rực ánh sáng từ từ tiến vào cảng Cửa Ông để ăn than. Ðược Hòn Mực chỉ đường, nó vững tin lao lên phía trước.

Bất chợt, tôi bỗng muốn đánh tín hiệu cấp cứu, muốn kêu to, kêu lên thật to với người thuyền trưởng con tàu kia, với những chiếc thuyền đánh cá, với công ty S.B trong đất liền, với tất cả mọi người, rằng ở đây ngọn đèn hải đăng vẫn sáng, nhưng một ngọn đèn khác còn quan trọng hơn nhiều, ngọn đèn chiếu sáng cho nó, ngọn đèn trong trái tim người coi đèn đã tắt và đang cần được nhanh chóng thắp lại! S.O.S!

Quảng Ninh - Ðà Lạt,

Hèn Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 HÈN

- Nhà báo?

- Gần như thế, - anh đáp. - Chính xác hơn, tôi viết văn.

- Nghe kêu đấy. Nghĩa là thêm một anh đạo đức giả nữa mò đến cái địa ngục thiên đường này. Xin chúc mừng. Dẫu sao thì ở địa ngục hay thiên đường, người ta vẫn cần có bạn. Mà tôi thì ở đây một mình đến phát ngấy lên rồi.

Ðoạn, ông ta chìa bàn tay thô kệch, đen trũi và đầy lông lá cho anh. Anh thấy khó chịu với con người bỗ bã có vẻ ngoài khác thường này: béo, lùn, cụt một chân, tóc bù xù đốm bạc và nét mặt dữ tợn. Cánh tay phải xăm hình chiếc neo khổng lồ. Trên hơn một chút là trái tim với mũi tên xuyên qua. Anh đoán bên trong chiếc áo phông cáu bẩn chắc còn nhiều hình xăm ấn tượng khác. "Thêm miếng vải đen che một mắt thì sẽ là tên cướp biển chính hiệu!" anh nghĩ.

Anh vừa từ Sài Gòn bay ra Côn Ðảo, được bố trí ở ngôi nhà to nhất trên đảo. Nó vốn là tư dinh của bao đời chúa đảo người Pháp ngày trước. Bây giờ là nhà ở và nơi làm việc của trưởng đảo cách mạng. Khi anh đến chẳng có ai, ngoài con người đang ngồi trước mặt.

- Còn ông?

- Tôi là Cướp Biển. Tên chứ không phải nghề. - Ông kia đáp, có vẻ thích thú. - Nhưng tôi hiền, đừng lo. Tôi là nhà hải dương học từ Nha Trang ra, cắm chốt ở đây lâu rồi. Trước lặn dưới biển nghiên cứu biển, nay cá mập xin mất một chân, đành nằm cạn, nghiên cứu cạn.

- Sao ông gọi tôi đạo đức giả?

- Vì năm ngoái một nhà báo như anh ra đây rồi viết một bài tôi không thể gọi bằng cái tên nào khác. Còn tởm hơn cả nói láo. Nhưng lần này thì tôi quyết giúp anh không phạm sai lầm đó.

- Tôi không định viết bài báo nào cả, cũng chẳng hề muốn thành kẻ đạo đức giả.

- Vậy anh ra đây làm gì ?

- Ðể tận mắt thấy Côn Ðảo, và nếu có thể, tìm hiểu thêm về nó.

- Vậy thì gặp may rồi đấy. Tôi là người thích hợp nhất cho anh trong việc này. Có điều xin nói trước: Tôi lắm lời lắm. Chả là bao lâu rồi không có người để nói chuyện mà. Lúc nào không muốn nghe, cứ thẳng thừng ngắt lời. Tôi không tự ái đâu. Tôi còn thích ra lệnh cho người khác nữa. Bây giờ thì anh đi tắm rửa, nghỉ ngơi đi. Phòng số ba, cạnh phòng tôi. Bà Bảy sẽ nấu cơm cho anh. Còn cô Lý, chủ nhiệm kiêm lễ tân, kiêm làm phòng ở đây thì đang ốm nằm ở trạm xá. Chắc tuần nữa mới về.

Tối hôm ấy cô Lý về, nhưng sáng hôm sau anh mới thấy mặt. Ðó là một cô gái đặc sệt Nam Bộ thời kháng chiến, từ bộ bà ba màu đen, chiếc khăn rằn đến giọng nói, cử chỉ. Anh lấy làm lạ sao bây giờ cô vẫn ăn mặc kiểu ấy. Cứ như vừa từ R ra. Cô nhỏ người, thon lẳn, nét mặt buồn buồn, ít nói và hay e thẹn. Toàn bộ con người cô toát ra cái gì đấy rất dịu dàng. "Một cô gái thật xinh và dễ thương", anh nghĩ. Nhưng vừa kịp trao đổi với cô mấy lời thì ông Cướp Biển đã lôi anh đi. Gọi là "làm một vòng tham quan quanh đảo".

*

- Tù đấy, - ông Cướp Biển bảo anh khi họ đi ngang một tốp người đang chơi bóng chuyền.

- Tù? - anh ngạc nhiên hỏi. - Ở Côn Ðảo bây giờ vẫn còn tù à?

- Còn chứ. Nhiều. Không phải tù chính trị hay hình sự, mà tù bất đắc dĩ. Bọn thuyền nhân vượt biên ấy mà. Nhiều đứa vì gặp bão, hết xăng. Nhiều đứa tưởng đây đã là đất tự do, reo hò ầm lên cho đến khi nhìn thấy công an ta. Thế là hòn đảo này phải nuôi báo cô chúng. Hàng ngày đúng giờ đi làm, cuốc xới nhăng nhít gì đấy ngoài Bãi Dương, đúng giờ về điểm danh, chơi bóng, ăn cơm và đi ngủ. Chẳng giam giữ, chẳng quần áo tù, chẳng phải lo canh gác. Chúng còn chạy đi đâu được nữa? Có cấp thuyền cho cũng chịu. Ấy là nói thuyền nhỏ, tất nhiên.

Chốc sau, chỉ tay vào một người đàn ông to béo ngồi bán nước trong quán, ông Cướp Biển lại nói:

- Cũng tù đấy. Chính xác hơn là cựu tù hình sự chế độ cũ. Quá nguy hiểm và chưa hết hạn thụ án nên còn phải ở đây. Loại này cũng nhiều.

Liền lúc ấy một người đàn ông trạc sáu mươi tuổi đạp xe đi ngang, tóc húi cua, dáng gầy gò khắc khổ, mặc bộ quần áo bộ đội mới và rộng thùng thình. Ông Cướp Biển cúi chào cung kính, rồi quay sang bảo anh:

- Cũng tù nốt. Tù chính trị khổ sai. Bây giờ là chúa đảo cách mạng. Ðã hơn ba mươi năm thâm niên ở đây. Vì không có người, vì am hiểu nơi này nên bị người ta yêu cầu ở lại, sau khi về thăm quê đúng một tháng. Không gia đình, không vợ con. Nói chuyện với "cụ" vui lắm. Cứ như người của cái thời cách mạng cách đây ba bốn chục năm. Tháng trước "cụ" vừa ban lệnh cấm uống rượu, cấm để tóc dài, cấm mặc quần loe. Và nhiều lệnh cấm khác. Không tin à? Rồi sẽ biết.

- Như bác nói thì ở đây toàn tù.

- Ðúng thế, trừ mấy ông công an, một đơn vị bộ đội đóng tít trên núi và những người như tớ, cậu và cô Lý. À mà đừng léng phéng rủ cô ấy đi chơi đấy nhé. Ông trưởng đảo sẽ bắt hai người lấy nhau đấy. - Rồi ông hạ giọng nói thêm: - Tội nghiệp con bé. Suy cho cùng, nó cũng là tù nốt...

- Sao lại vậy? - anh ngạc nhiên hỏi.

- Vì năm bảy lăm cô ấy tới đây theo lời kêu gọi ra xây dựng đảo anh hùng, tưởng sáu tháng, một năm, ai dè bây giờ hơn bảy năm rồi vẫn chưa được về đất liền...

- Vì sao?

- Vì không ai chịu ra thay. Tự ý bỏ về thì vướng Ðoàn, Ðảng. Ðịnh đào ngũ à?

- Nhưng không thể kéo dài mãi thế được. Còn chồng con người ta và bao nhiêu chuyện khác nữa.

- Ðúng vậy. Thế mới gọi là tù. Cả ông trưởng đảo cũng tù nốt. Ấy là nói theo cách văn vẻ. Chỉ tớ và cậu thì không. Cậu sẽ bay về Sài Gòn chuyến bay thứ năm tuần tới. Tớ muốn về lúc nào cũng được, nhưng không về. Tớ ghét đất liền. Vả lại còn công việc.

Lúc ấy trời đã xế chiều. Họ ngồi trên tảng đá lớn nhìn ra biển, ngắm mặt trời lặn và nói chuyện. Chủ yếu ông Cướp Biển nói, anh chỉ nghe. Gió thổi nhẹ. Nước biển ở đây sâu và có màu xanh tím. Phía xa xa lác đác một vài con thuyền, không hiểu thuyền đánh cá hay thuyền gì. Nếu không có câu chuyện vừa rồi về những người tù đủ loại và lịch sử rùng rợn của hòn đảo, thì có thể nói đây là nơi tuyệt đẹp. Chí ít cũng là một địa điểm du lịch lý tưởng trong tương lai, với bãi biển cát mịn trắng phau và những dãy núi, những hàng dừa thơ mộng.

Ông Cướp Biển quả "rất hiền" như ông nói, lại xởi lởi, hay chuyện. Chắc túm được anh, ông mừng lắm. Ông kể nhiều điều thú vị về hòn đảo này, đặc biệt về các loài tôm cá và san hô, là cái thực tình anh chẳng quan tâm mấy.

Không hiểu đúng sai thế nào, nhưng theo ông cho biết thì cái tên Côn Ðảo bắt nguồn từ chữ "Condore" của người Pháp trước đây. Mà Condore lại là chữ đọc chệch của "Cundur", cái tên được người Ả-RẬP đặt cho hòn đảo này vào thế kỷ thứ chín. Nghĩa là từ xa xưa nó đã từng in dấu chân của không chỉ các nhà hằng hải phiêu lưu Bồ Ðào Nha, Tây Ban Nha, Anh và Pháp, mà cả đại diện của xứ Trung Ðông ít ai ngờ tới. Thậm chí cả Marco Polo cũng từng có mặt ở đây.

- Vào năm 1294, cả đoàn tàu gồm 14 chiếc của nhà thám hiểm lừng danh người Bồ Ðào Nha này ghé vào Côn Ðảo để tránh một cơn bão khủng khiếp trước đó đã làm chìm tám chiếc tàu khác của ông. Vậy mà sau một mất mát to lớn như thế, ông còn đủ cảm hứng ghi vào nhật ký (sau này viết lại thành những câu chuyện ly kỳ nổi tiếng thế giới) hai chữ "thần tiên" khi nói về hòn đảo xa lạ này. - Ông Cướp Biển vừa hào hứng nói, vừa chỉ ngón tay trỏ múp míp lên trời, như muốn thề rằng ông không phịa.

Anh tin ông, không chỉ vì các con số và tên người cụ thể, mà vì ông có vẻ hiểu biết rất nhiều về hòn đảo nơi ông bị "cầm tù" lâu nay.

- Chưa hết. Cậu là nhà văn, chắc phải thú vị lắm khi tớ cho biết điều này nữa. Tin hay không thì tùy, chứ từng có một nhà thơ lớn châu Âu thời Phục Hưng đã tới Côn Ðảo và viết những vần thơ lai láng về nó. Ngạc nhiên à? Nói có sách, mách có chứng nhé. Cậu đã bao giờ nghe nhắc đến TẬP "Os Lusiadas" của nhà thơ vĩ đại Bồ Ðào Nha Luis Vaz de Campes chưa? Chưa? Thế mà ông ta đã viết nó ở đây đấy, viết vào giữa những năm sáu mươi của thế kỷ mười sáu. Một phần hay tất cả tớ không biết chính xác. Có thể ông ta viết chính nơi ta đang ngồi. Sau đó tàu ông gặp bão, chìm ở cửa sông Tiền. Thế mà bản thảo tác phẩm "Os Lusiadas" bất hủ ấy vẫn được giữ nguyên vẹn và lưu truyền đến tận ngày nay. Nó là một trong những tác phẩm văn học đầu tiên của phương Tây nói về Việt Nam. Tớ định sau này có dịp ra Hà Nội sẽ đến các thư viện lớn, nếu có thì đọc xem sao. Tớ biết tiếng Bồ đấy. Cậu lại không tin? Chả là tớ từng làm chuyên gia ở nggôla mấy năm. Dạy trung học thôi chứ chẳng liên quan gì đến biển.

- Sao bác biết được những chuyện ấy? Tôi chẳng thấy sách báo ta nói gì cả.

- Thì tớ đã bảo tớ biết tiếng Bồ mà lại. Dạo ở nggôla, nội chiến, chẳng dạy dỗ gì được, tớ lên thủ đô nằm dài cả mấy tháng trời và vào thư viện đọc sách. Ngẫu nhiên đọc rồi biết. Thế thôi. Có thể sách báo mình cũng viết nhưng tớ và cậu không đọc nên không biết.

Hôm sau, lúc đi dạo một mình vào buổi sáng sớm, anh phát hiện thêm một điều lý thú nữa về Côn Ðảo mà ông Cướp Biển không biết hoặc quên chưa nói. Trong ngôi nhà gạch to lớn một cách nặng nề sát bờ biển anh thấy có tấm biển bằng đồng đã han gỉ với dòng chữ tiếng Pháp: "Nơi đây nhạc sĩ vĩ đại Camille Saint -Saens đã sống và làm việc từ ngày 20 tháng Ba tới 19 tháng Tư năm 1895". Sau này anh biết thêm là trong quãng thời gian ấy ông đã hoàn tất vở ôpêra nổi tiếng "Brunechilda", và rằng ông tới Côn Ðảo theo lời mời của bạn ông, lúc đó đang làm chúa đảo ở đây.

- Tớ mà còn không biết chuyện ấy! Biết nhiều nữa là khác. - Ông Cướp Biển vội nói khi anh kể với ông. - Ðừng hỏi vì sao tớ biết, nhưng cứ tin đi, rằng con tàu "Fair Margaret" chuyên chạy tuyến Macxây - Sài Gòn và ngược lại, hôm ấy chỉ vì cái ông nhạc sĩ đó mà phá lộ trình, dừng lại ở Côn Ðảo những nửa ngày. Trên tàu người ta thổi kèn tiễn ông lên bờ. Trên bờ, ông bạn chúa đảo bắt lính bồng súng đứng thành hai hàng dài từ cầu tàu cho đến tận nhà khách, nơi có chiếc đàn dương cầm loại lớn màu trắng được ông ta đưa từ đất liền ra đang chờ sẵn. Không có các thiếu nữ Việt Nam xinh đẹp tặng hoa cho khách quí, vì lúc ấy ở đây chỉ toàn tù chính trị, nhưng hai cô con chúa đảo đã làm việc này. Cái tay thực dân khét tiếng ấy cũng mê âm nhạc và quí người tài. Nghe nói trong một tháng nhạc sĩ ở đây, hắn cố tình để ông không nhìn thấy nhà tù và tù nhân, thế mà ông ấy vẫn làm quen được và tranh luận khá nhiều về triết học, chính trị với một nhà cách mạng người bản xứ. Nghe nói ông đã xin tên chúa đảo thả ông ta ra nhưng hắn không chịu. Cũng có thể hắn nghe và làm theo mà ta không biết.

*

Họ lặng lẽ đi bên nhau, đôi lúc tay cầm tay. Mới tám giờ rưỡi mà con đường rải nhựa và cũng là đường phố duy nhất chạy men theo bờ biển Côn Ðảo chẳng còn ai ngoài họ. Các tù nhân bất đắc dĩ đã đi ngủ từ lâu theo kẻng. Hàng quán không có, do vậy không có cả tiếng nhạc và tiếng ồn. Chỉ thấp thoáng đây đó một vài ngọn đèn mờ còn tù mù hơn cả ánh trăng tròn và rất to kề sát mặt nước.

Cuối cùng họ dừng lại ở mép ngoài cầu tàu 787. Nghe nói nó có cái tên này là vì 787 người tù đã bỏ mạng khi cõng đá từ trên núi cao xuống xây nó năm nào. Mặt cầu tàu gồ ghề những hòn đá tròn khiến khi đi anh có cảm giác rờn rợn như đang dẫm lên đầu 787 người đã chết.

- Có phải em ngần ngại mãi không chịu đi chơi với anh vì ở đây có quy định đã đi chơi là phải lấy nhau không? - anh hỏi, nửa đùa nửa thật.

Lý không đáp ngay, vẫn im lặng đi bên anh, mắt không ngắm đêm trăng tuyệt đẹp trên biển mà thường cúi nhìn xuống đất, tay mân mê tà áo phin trắng mà anh để ý cô chỉ mặc những lần đi dạo cùng anh. Ban ngày cô luôn mặc bộ bà ba quen thuộc. Ðôi lúc quàng cả khăn rằn.

- Bác Thắng (ông Cướp Biển) đùa đấy thôi. Anh biết rồi còn gì. - Cuối cùng cô lí nhí nói. Bất chợt ngước lên nhìn anh, cô hỏi: - Thế anh không sợ đi chơi thế này sẽ bị bắt phải lấy em à?

Anh phá lên cười, vòng tay ôm vai cô, định hôn nhưng cô né ra, dù trước đấy họ đã từng hôn nhau.

- Anh đang mong bị bắt làm thế đây. Mà rồi không bị bắt, anh cũng sẽ lấy em và đưa em về đất liền. Về tận Hà Nội cơ.

- Vì thực sự yêu em hay chỉ vì thương em bị tù ở đây như anh nói?

- Cả hai. Em đồng ý chứ?

Lý không đáp, chỉ lặng lẽ quay về phía anh. Anh dịu dàng áp hai tay vào má cô, nâng lên. Dưới ánh trăng rằm, khuôn mặt cô thật đẹp. Hơi nước biển và ánh trăng tạo thành một màng mỏng kỳ ảo nửa xanh nửa vàng phủ lên mái tóc cô. Họ không nói gì thêm, chầm chậm bước đi.

Những gì cần nói đã được nói từ trước. Cả đảo đã biết hết mọi chuyện, kể cả ông trưởng đảo nghiêm khắc. Ông chỉ cười, đó là dấu hiệu tán thành. Còn ông Cướp Biển trong chuyện này thì rõ ràng giữ một vai trò rất quan trọng. Vai trò người làm mối, và ông đã thành công mĩ mãn. Ông giới thiệu họ với nhau, khích lệ, bố trí họ đi chơi. Khi thấy công việc có vẻ tiến triển, chính ông thu xếp để anh nhỡ hai chuyến bay vào đất liền. Chuyến thứ ba tự anh xin hoãn vì tình yêu đã xuất hiện và anh muốn ở lại thêm với cô một tuần nữa. Thứ năm tới, tức là đúng một tháng sau khi tới đảo, anh về Hà Nội thưa chuyện với bố mẹ, một tháng nữa sẽ quay lại cùng Lý về Minh Hải xin phép gia đình cô. Bao giờ cưới bàn sau. Anh đã nói chắc chắn với cô như vậy, với sự chân thành và bồng bột của tuổi trẻ. Ðây không phải mối tình đầu của anh, nhưng là mối tình sét đánh. Anh yêu Lý, yêu từ cái nhìn đầu tiên như người ta vẫn nói, và tin vào tình yêu ấy, không chút tính toán hơn thiệt.

Ðêm trước ngày lên đường, ông Cướp Biển đùa bảo anh:

- Cậu mà không lấy cái Lý thì liệu, thằng cướp biển này sẽ không tha đâu! Nhớ lấy.

Anh chỉ cười, không tin chuyện ấy có thể xẩy ra. Ở sân bay, anh hôn Lý trước mặt mọi người, nhấn thêm một dấu khẳng định nữa cho quyết tâm không gì lay chuyển được của mình.

- Một tháng nữa anh sẽ quay lại với em.

*

Từ ấy đến nay đã hai mươi năm trôi qua. Anh đã là một người đàn ông chững chạc, thậm chí một nhà khoa học nổi tiếng. Tự lúc nào không biết, anh đã thành ông. Ông có vợ và hai con đang học đại học. Việc công, việc tư đều suôn sẻ. Ông chẳng có gì phải than phiền về cuộc đời mình, chỉ tiếc vợ ông không phải cô Lý, và điều này làm ông buồn, đôi khi xấu hổ. Ông đã không quay lại với cô sau một tháng như đã hứa. Chẳng bao giờ quay lại. Chẳng gặp cô thêm lần nào.

Gia đình ông, vốn thuộc loại danh giá và ít nhiều phong kiến ở Hà Nội, đã kịch liệt phản đối khi ông xin phép cưới Lý, một cô gái được coi là không môn đăng hộ đối , làm cấp dưỡng ở tít ngoài Côn Ðảo , không ai biết lai lịch thế nào, thậm chí học hết lớp mấy cũng chẳng rõ! Ông nhất quyết không chịu và mấy lần dọa bỏ nhà ra đi. Nhưng rồi mọi người thuyết phục, bà mẹ suốt ngày than khóc van xin - một đòn tâm lý lợi hại và luôn có kết quả. Cuối cùng, trước khi hết cái thời hạn một tháng đã hứa, ông gửi Lý một bức thư với vẻn vẹn dòng chữ "Hãy tha thứ cho anh, bố mẹ anh không đồng ý". Ông không muốn viết dài, vả lại cũng chẳng biết viết gì thêm. Chưa đầy một tháng sau, ông nhận được thư của ông Cướp Biển với duy nhất một chữ "Hèn!" Chữ ấy được viết hoa, tô đậm ngay chính giữa tờ giấy. Sau đấy họ chẳng liên hệ gì hay biết tin gì về nhau nữa.

Cùng năm tháng, ông cũng nguôi ngoai dần, chỉ thỉnh thoảng nhớ về cô với chút ít lương tâm cắn rứt. Ông biết ông thật có lỗi với Lý. Bằng sự đầu hàng quá nhanh chóng và hèn nhát như vậy, ông đã gây cho cô đau khổ, có thể cả phiền toái khi tiếp tục sống ở Côn Ðảo. Ông Cướp Biển chỉ dùng một từ mà nói đúng thực trạng con người ông lúc ấy. Hèn! Vâng, ông xử sự như một thằng hèn. Nếu can đảm hơn, kiên quyết hơn, ông đã không bỏ rơi cô, có thể không bỏ rơi cả hạnh phúc cuộc đời mình. Ông thực sự yêu Lý, yêu khuôn mặt xinh đẹp được ánh trăng và hơi biển phủ nhẹ một màng xanh vàng kỳ ảo đêm ấy. Nếu không hèn, ông đã với tới được cái đẹp kỳ ảo ấy. Sống ở đời, ông biết, ai cũng phạm sai lầm, nhưng sai lầm dưới dạng hèn nhát thuộc phạm trù khác, phức tạp hơn và cũng khó tha thứ hơn. Có thể một ngày nào đấy ông sẽ quên không nghĩ tới Lý và ông Cướp Biển nữa, nhưng chữ "hèn" ông ta dành cho ông thì chắc chắn còn ám ảnh suốt đời...

*

Lúc này ông đang ở Côn Ðảo. Ông tới đây bằng trực thăng như nhiều khách du lịch khác, và ở khách sạn có điều hòa chứ không phải tư dinh các chúa đảo người Pháp. Côn Ðảo đã thay đổi nhiều, đến mức không còn nhận ra nổi. Cầu tàu 787 nơi ông đang ngồi không còn những viên đá tròn gồ ghề như đầu tử tù ngày xưa ông tưởng tượng. Không còn cô Lý mặc áo bà ba, quàng khăn rằn. Không còn ông Cướp Biển bỗ bã mà tốt bụng. Nhưng vẫn còn đó những lời ông kể về nhà thơ Bồ Ðào Nha thời Phục Hưng cùng bản trường ca bất hủ ông viết ở đây. Còn đó tấm biển đồng nói về nhạc sĩ Camille Saint-Saens vĩ đại. Ông nhắm mắt, hình dung thấy nhạc sĩ đang mỉm cười bước từ tàu "Fair Margaret" xuống, và giữa hai hàng lính bồng súng đứng nghiêm, ông đi về phía chiếc đàn dương cầm lớn màu trắng ... Còn đó tiếng sóng biển rì rào và mặt trăng, cũng tròn và sáng như đêm nào ông ở đây cùng Lý.

Ông khum hai bàn tay, giơ cao nâng ánh trăng. Hơi nước và ánh trăng cũng phủ nhẹ lên tay ông một màng mỏng màu xanh vàng kỳ ảo. Thật tiếc, trong đôi tay đã không còn khuôn mặt xinh đẹp của người ông yêu. Cái còn lại bây giờ là một sự trống rỗng, cả trong tay lẫn trong lòng ông. Cuối cùng, cả sự trống rỗng ấy cũng biến mất để nhường chỗ cho một cảm giác chua xót. Cảm giác rằng mình là một thằng hèn.

Hà Nội, 12. 8. 2001

Đùa Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 ĐÙA

Như trong những trường hợp tương tự, câu chuyện phiếm của mấy người bạn bia nhanh chóng nhảy từ đề tài nọ sang đề tài kia. Lúc này họ đang kể cho nhau nghe các chuyện đùa, của mình và của người khác.

- Có chuyện này hay lắm, để mình kể các cậu nghe nhé, - một người trạc bốn mươi, mãi bây giờ mới lên tiếng lần đầu. Ông ta cầm cốc bia, tu một hơi thật dài, rồi khoan khoái đưa bàn tay chùi mép.

*

Chuyện xảy ra đã lâu, khi mình mới tốt nghiệp đại học và được phân về dạy ở thị trấn N. Hồi ấy trường mình có cô giáo dạy văn rất xinh, tên Kiều Hoa. Kiều Hoa học tổng hợp, ra trường sau mình một năm, từng nổi tiếng hoa khôi của trường và làm không ít các chàng trai si mê đau khổ. Còn ở cái trường tỉnh lẻ kia của bọn mình thì khỏi nói. Mới xuất hiện, Kiều Hoa lập tức trở nên nổi bật hẳn, thành trung tâm chú ý của cả trường. Ðiều đó dễ hiểu vì như đã nói, cô xinh, rất xinh, lại vốn dân Hà Nội nên biết ăn diện đúng mốt mà thanh lịch. Thêm vào đó, Kiều Hoa không vì thế mà đỏng đảnh, kiêu kì như nhiều cô xinh đẹp khác. Cô còn thông minh, dạy giỏi và chịu khó học tập. Lại khiêm tốn, dịu dàng nữa chứ... Tóm lại, không nói các cậu cũng biết, cánh giáo viên trẻ bọn mình đã chạy theo Kiều Hoa thế nào.

Ðúng, tất cả! Hay ít ra cũng gần như thế. Mình nói hầu như vì có ý trừ mấy ông đã có vợ (nhưng chắc không dửng dưng nếu điều kiện cho phép), và trừ mình. Lúc ấy mình còn quá vô tư, thích đùa nghịch hơn yêu đương thật sự.

Thế mà thật lạ, không hiểu sao Kiều Hoa chẳng thèm để ý tới ai. Trong trường có nhiều cậu cũng khá, nhưng không cậu nào lọt được vào mắt nàng. Hay nàng có người yêu đâu xa chăng? Bọn mình lén lút theo dõi thư từ và những người lạ đến thăm Kiều Hoa. Không phát hiện thấy điều gì khác thường. Cứ thế kéo dài một năm. Các cậu nên nhớ rằng đối với các cô gái, nhất là những cô gái xinh đẹp, một năm là quãng thời gian quá dài để kén chọn một chàng trai nào đấy. Kiều Hoa thì cứ như không, như chẳng hề quan tâm điều ấy. Thói đời, các cậu biết đấy, nhất lại ở tỉnh lẻ, anh càng khác đời, người ta càng tò mò muốn biết, thậm chí ghen ghét, càng dễ trở thành đối tượng của những việc làm ngu ngốc và tai hại mà chuyện mình đang kể là một thí dụ.

Một hôm, sau buổi họp hội đồng giáo viên thường lệ, bà hiệu trường nói bằng giọng tự nhiên và rất dễ nghe hàng ngày bà vẫn nói:

- Cô Kiều Hoa hình như đánh rơi cái này! Lúc nãy vào đây sớm, tôi nhặt được.

Rồi bà chìa ra một tờ giấy gấp đôi. Vì Kiều Hoa ngồi cuối phòng nên trước khi tờ giấy đến tay cô, vài người chuyền nhau đã kịp đọc nó. Ai đọc xong cũng lộ vẻ ngạc nhiên. Còn Kiều Hoa thì khi liếc qua những gì ghi trên đó, mặt cô bỗng đỏ bừng, rồi từ đỏ thành tái nhợt. Cô ngồi im ngơ ngác một phút rồi vụt đứng dậy, vội vã chạy về phòng mình, chắc phải cố lắm mới không òa lên khóc.

Mọi người bàn tán sôi nổi. Thì ra đó là tờ giấy chứng nhận của bệnh viện, ghi rõ rằng cô Kiều Hoa đã đến khám ở bệnh viện X, rằng cô mắc bệnh vô sinh do tắc cái gì đấy, có thể ảnh hưởng đến tính mạng nếu không chú ý giữ gìn. Cuối cùng là câu kết luận, yêu cầu miễn cho cô Kiều Hoa, vì lí do trên, không phải tham gia công việc lao động nặng nhọc. Rồi bác sĩ kí tên, đóng dấu.

Vâng, nội dung tờ giấy kia đúng như thế. Các cậu thấy nó ngớ ngẩn và vô lí chứ gì? Hẳn vậy. Chính bọn mình lúc ấy cũng không thể nào nghĩ khác. Không bác sĩ, bệnh viện nào có thể chứng nhận một điều tương tự. Ðây chắc do một anh chàng tinh nghịch nào đó đùa vui quá trớn mà thôi. Thật láo lếu và ngu xuẩn! Vậy mà các cậu biết không, cái điều láo lếu, ngu xuẩn ấy được truyền đi khắp nơi với tốc độ chóng mặt.

Ở tỉnh lẻ, bất kì tin đồn nhảm nhí nào cũng được lan truyền với tốc độ ấy. Hơn nữa đây lại chuyện liên quan đến cô Kiều Hoa nổi tiếng, về một việc quan trọng có tính giật gân như vậy. Thành ra mấy ngày sau, không chỉ giáo viên và học sinh trong trường mà cả người ngoài thị trấn đều biết hết mọi chuyện, biết một cách tường tận, tất nhiên không thể không kèm theo những chi tiết mới được sáng tác thêm, mỗi người theo cách riêng của mình.

Người ta bắt đầu gắn vào cái tên đẹp đẽ của cô một vài từ kém văn hoá nhưng phải thừa nhận là rất ấn tượng, như Kiều Hoa Ðiếc, Kiều Hoa Tịt! Các nữ đồng nghiệp trẻ ghé tai nhau thầm thì điều gì đó, rồi nhìn cô bạn "tội nghiệp" của mình bằng đôi mắt ái ngại không che giấu. Họ an ủi Kiều Hoa bằng những câu đại loại thế này: "Chà, cái thằng nào đùa đểu thật", hoặc: "Ừ, đau thật, nhưng cứ cho đúng thế thì cũng chẳng quái gì phải buồn! Càng đỡ lo chồng con thêm khổ!" Có người còn nói: "Dù sao đợt lao động sắp tới, nếu cần, Kiều Hoa cứ yêu cầu nhà trường..." Vân vân và vân vân.

Còn thái độ của Kiều Hoa thì sao? Ðiều này mới thực sự làm bọn mình ngạc nhiên. Sau phút choáng váng ban đầu, cô nhanh chóng bình tĩnh trở lại và có vẻ như hoàn toàn thờ ơ với những gì đang xảy ra xung quanh. Cô không thanh minh, cũng chẳng căn vặn ai tung ra tờ giấy ấy. Rõ ràng cô cho những gì xảy ra với cô là trò ti tiện đáng khinh. Cô tự xem cô cao hơn bọn mình, những người cô nghi đã làm cái trò ti tiện đáng khinh đó. Có điều cô trở nên ít hồn nhiên hơn, ít giao thiệp với người khác, và một thời gian sau thì tự tách mình khỏi cái tập thể giáo viên trẻ, vui nhộn đến mức ngu ngốc và nhẫn tâm của trường. Sau này mình mới hiểu Kiều Hoa đã đau khổ và khinh bỉ bọn mình chừng nào!

Tất cả chỉ vì một trò đùa ngu ngốc, các cậu ạ. Tuy nhiên đến đây câu chuyện chưa chấm dứt, đúng hơn, mới bắt đầu. Những lời đồn không hề giảm bớt, phần vì người ta muốn thế, phần do Kiều Hoa im lặng nên càng có cớ để tin là thật. Cuối cùng, như người ta vẫn nói, một điều giả dối được nhắc đi nhắc lại hàng trăm, hàng nghìn lần có ngày sẽ thành điều có thật, cả đối với người nghe lẫn người nói. Thế là dần dần, các cậu tin hay không thì tuỳ, cái chuyện vô lí ấy về Kiều Hoa, rằng cô không có khả năng sinh đẻ, rằng cô hỏng tắc cái gì đó và cần phải tránh việc nặng để bảo vệ sức khoẻ, vân vân, đã không còn làm ai nghi ngờ. Thậm chí mình nghĩ hình như cả Kiều Hoa cũng tin điều đó, vì sau này lần nào có lao động, trường cho nghỉ, cô cũng nghỉ.

Lại một chuyện vô lí nữa chứ gì? Có thể, nhưng quả đúng như vậy. Cuộc đời vốn vẫn thế, nếu cái gì cũng xảy ra đúng lô-gích, cái lô-gích do chúng ta phịa ra, thì cuộc đời chẳng còn là cuộc đời nữa, dù nó ngu ngốc và độc ác. Các cậu thử tưởng tượng xem, một người như Kiều Hoa mới ngày nào được chú ý, ngưỡng mộ nhường ấy, vậy mà bây giờ bị người ta nhìn bằng con mắt khác hẳn. Không một chàng trai nào tìm đến cô với ý định nghiêm túc, mà chỉ để chơi bời thì Kiều Hoa không phải hạng người như thế.

Ở tỉnh lẻ, các cậu biết đấy, không có nhiều chàng trai tử tế để kén chọn, còn ở thị trấn N. này thì có thể nói cánh nam giáo viên trường mình là tinh hoa nhất, nhưng bọn mình lại bị Kiều Hoa ra mặt khinh bỉ. Người từ xa đến không có, nếu có, chẳng bao lâu cũng bỏ đi khi được thông báo một cách tỉ mỉ mọi chuyện. Suy cho cùng, ai muốn lấy một người khi biết trước người ấy "điếc", "tịt", nghĩa là không có khả năng tạo ra những cô bé, cậu bé mũm mĩm để kế tục dòng dõi cao quý của mình, đúng không?

Cứ vậy, một năm, hai năm rồi năm năm trôi qua mà Kiều Hoa vẫn không lấy được chồng. Thật trớ trêu, Kiều Hoa, cô gái xinh đẹp, thông minh, hoa khôi một trường đại học lớn ở thủ đô, cuối cùng suốt đời phải độc thân, không được hưởng cái hạnh phúc gia đình cô có quyền và xứng đáng được hưởng...

- Sao, suốt đời? - Một người ngồi cạnh ngừng uống bia, hỏi.

- Vâng, suốt đời, - người kể chuyện đáp, rồi sau một phút trầm ngâm, nói thêm: - Vì cuộc đời của Kiều Hoa không dài - cô chết khi vừa tròn ba mươi tuổi.

- Chết?

- Ðúng thế, chết. Chết vì băng huyết sau khi sinh... Mình biết các cậu đang ngạc nhiên. Cũng đúng thôi. Số là Kiều Hoa có chửa. Không chồng mà chửa mới ngoan... Chà, nếu các cậu biết điều ấy tác động đến trường mình và thị trấn N. mạnh như thế nào! Cô ấy chẳng hề giấu giếm, có vẻ như muốn phô trương khiêu khích nữa là khác. Cô không chịu nói ai là bố đứa bé. Mãi sau này, khi Kiều Hoa chết mình mới hiểu cô ấy chủ tâm làm thế để trả thù đời, trả thù bọn mình. Phụ nữ rất khó hiểu, Kiều Hoa càng khó hiểu hơn. Không ai biết cô ấy nghĩ gì trong đầu. Một người thông minh, cứng rắn đến thế mà cuối cùng không chịu nổi để làm việc cực đoan, vô nghĩa như vậy!

- Rốt cục người ta vẫn không biết kẻ tung tờ giấy kia là ai à, cái thằng khốn kiếp ấy? - một người hỏi.

- Không, nhưng mình biết. - Người kể chuyện ngừng nói, im lặng hồi lâu. - Thằng khốn kiếp ấy là mình.

Mọi người không ai nói gì. Mãi lúc sau người kể chuyện mới lên tiếng:

- Xin thề với các cậu rằng mình không phải người độc ác. Mình chỉ đùa. Ðùa một tí cho vui thôi mà. Lúc ấy mình có người bà con làm bác sĩ ở bệnh viện X, nơi mình thường đến lấy những tập giấy sẵn có chữ kí và con dấu để ngộ nhỡ muốn nghỉ ngày nào thì điền vào đấy. Một hôm, không hiểu nghĩ thế nào, tiện tay mình viết tờ giấy tai hại kia và lén để nó trong phòng giáo viên trước giờ họp. Tất nhiên sau đó mình rất hối hận. Lúc đầu mình không đủ can đảm tự thú, còn sau, khi sự việc đi quá xa thì có nói ra cũng chẳng giải quyết được gì. Thế là mình im, im suốt chừng ấy năm, cho đến hôm nay lần đầu đem kể các cậu nghe. Phải nói thêm rằng mình rất yêu Kiều Hoa. Yêu ngay từ lúc mới gặp, sau này càng yêu hơn, nhưng mình không dám thổ lộ, trước hết vì xấu hổ với lương tâm, như thể mình bày ra cái trò ấy để chiếm đoạt cô. Sau nữa vì biết chắc Kiều Hoa sẽ khinh bỉ từ chối như sẽ từ chối bất kì anh nào trong bọn mình. Vì sao thì các cậu đã rõ...

- Còn đứa bé? - một người hỏi.

- Rất may đứa bé còn sống. Sau khi Kiều Hoa chết, mình đến báo với tổ chức rằng mình là bố của đứa bé và xin nhận nó về nuôi. Các cậu biết không, người ta tin điều ấy cũng dễ dàng như tin Kiều Hoa vô sinh! Từ đó đến nay nó sống với mình. Bao giờ cũng chỉ hai bố con như các cậu thấy.

- Và suốt đời nó không được biết điều bí mật này của bố mẹ nó?

- Không, nếu các cậu không bẻm mép mách lại với nó, tất nhiên. Mà thôi, cho mình thêm cốc nữa!

-

Hà Nội, 1985

Cuộc trở về của đứa con lầm lỗi Người viết: Thái Bá Tân 10/10/2006 CUỘC TRỞ VỀ CỦA ĐỨA CON LẦM LỖI

1

Hàng năm, cứ vào ngày mồng bảy tháng Giêng âm lịch là cả làng D.T lại nhộn nhịp hẳn lên. Cái nhộn nhịp ấy còn lan sang những làng lân cận. Vào ngày ấy, từ sáng sớm, người ta í ới gọi nhau đi chợ, đến trưa thì nhà nào trên bàn thờ tổ tiên cũng có một mâm cỗ với những que hương trầm nghi ngút khói. Trong khi lũ trẻ hoặc đám thanh niên mới lớn vô tư cười nói bên cạnh, những người già đứng chắp tay trước bàn thờ, cúi đầu lầm rầm cầu khấn điều gì chỉ mình họ biết. Cuối cùng mâm cỗ được hạ xuống, một lần nữa, khi cánh trẻ ăn uống vui vẻ, những người già - thường ngồi riêng với nhau ở mâm trên, - vừa nhấm nháp uống rượu, vừa khe khẽ nhắc lại những gì đã xẩy ra vào cái ngày khủng khiếp ấy...

Ðó là ngày mồng bảy tháng Giêng âm lịch năm 1954, nghĩa là lâu, đã lâu lắm rồi, đến mức bây giờ nhớ lại, người ta không khỏi không mâu thuẫn với nhau về chi tiết, thậm chí cả những chi tiết quan trọng. Mỗi người kể một cách và ai cũng cho mình đúng. Ðại khái sự việc xẩy ra thế này.

Ðộ năm giờ sáng vào cái ngày khủng khiếp ấy, một chiếc máy bay khu trục Pháp bất ngờ từ phía biển bay vào, ném một loạt năm quả bom xuống D.T. lúc ấy hẵng còn là một làng nhỏ nhà cửa đứng sát sít bên nhau. Chiếc máy bay ấy còn lượn thêm hai vòng, sau mỗi vòng lại chúc xuống ném những loạt bom dài và chính xác như trước. Rồi vút lên, nó bay mất hút về phía biển.

Sau đấy là một nỗi kinh hoàng thật sự. Làng D.T nằm dài thành một vệt, bị ba lần ném bom trúng ngay vào ba phần đầu, giữa và cuối, thành ra cả làng, không còn ngôi nhà nào nguyên vẹn. Số người chết lại càng khủng khiếp hơn, vì lúc ấy còn sớm, hoặc người ta ngủ chưa dậy, hoặc dậy rồi nhưng chưa đi đâu khỏi làng. Có người bảo chết hai trăm, có người bảo ba, cũng có người nói nhiều hơn. Còn việc vì sao làng D.T bị ném bom chứ không phải làng nào khác, mà lại một cách dã man, mang tính hủy diệt như thế, trong khi suốt một thời gian dài trước đấy cả huyện Diễn Châu rộng lớn chưa bị ném bom lần nào, thì không ai hiểu nổi, mặc dù người ta đã đưa ra rất nhiều giả thiết khác nhau.

Từ đấy hàng năm đúng ngày mồng bảy tháng Giêng âm lịch là cả làng nhà nào cũng có giỗ. Kèm theo giỗ là những câu chuyện rôm rả, những hồi tưởng đau buồn, những tiếng khóc...

2

Năm nay về D.T dự "giỗ làng" có thêm một người. Người ấy lập tức thu hút sự chú ý của dân làng. Ðó là một ông già khoảng 65 tuổi, tóc bạc trắng, da dẻ hồng hào nhưng hình như không được khỏe, vì ông phải dùng gậy để đi lại. Ông về làng trước ngày có giỗ hai hôm, tức là vào ngày mồng năm. Không ai nhận ra ông, có lẽ ông cũng chẳng nhận ra ai quen trong làng. Ông nói tên những người ông muốn gặp, người ta lắc đầu không biết. Ông phải tìm hỏi người cùng tuổi, tự giới thiệc mình là ai, từ đâu tới, vân vân, lúc ấy người ta mới đồng thanh "ồ", "à" cả lên.

Thì ra ông già là dân làng này, có điều ông xa nó gần ba mươi năm, và nay, sau ba mươi năm dài ấy, ông mới trở lại thăm làng lần đầu. Không phải không muốn, ông nói, mà vì ông ở xa, tận bên nước Thụy Sĩ hay gì gì ấy ở châu Âu. Còn những người ông hỏi gặp thì thuộc gia đình một địa chủ lớn ngày xưa ở vùng này. Có điều bây giờ cái gia đình ấy chẳng còn ai, trừ bà Sen, một bà già đơn độc sống cuối làng.

- Chết hết rồi, - người ta thở dài bảo ông. - Chết vào cái ngày khủng khiếp ấy. Bom, máy bay ném bom... ông biết chứ? - Rồi như để an ủi, người ta ái ngại nhìn ông, nói thêm: - Không riêng gì nhà nhà bác, mà cả làng, nhiều lắm...

- Có, tôi có nghe nói, - ông già lặng lẽ lấy khăn mù-xoa lau lau đôi mắt hoe đỏ vì xúc động. - Cũng vì thế tôi về đây xem thực hư thế nào. Kinh khủng quá, trời, kinh khủng quá...

Ông già lại lấy khăn chấm vào mặt. Giọng ông run run. Ðôi tay khô và nhăn nheo của ông cũng run run. Một chốc sau lũ trẻ dẫn ông chống gậy chậm chạp đi về phía nhà bà Sen.

Ðêm hôm ấy, dĩ nhiên ông và bà Sen trò chuyện với nhau rất lâu.

- Trời, bác Ánh, không lẽ bác còn sống à? - Bà Sen kêu lên khi nhận ra khách là ai. Bà và ông là con chú con bác với nhau, tuy ít hơn ông mấy tuổi, bà có vẻ già yếu hơn. - Chừng ấy năm bác ở đâu? Sống thế nào?

Không chờ khách trả lời, bà vội bỏ đi lấy ghế, múc nước. Còn ông già thì cố tỏ ra bình tĩnh. Ông thong thả đưa cả hai tay bê bát chè vối nguội lên tận miệng, rồi cũng thong thả như thế, ông uống từng ngụm nhỏ cho đến hết bát nước, trong khi bà Sen ngồi đối diện, vừa tò mò quan sát, vừa kiên nhẫn chờ nghe ông nói.

- Bà biết rồi đấy. Năm bốn mươi, tôi ra Hà Nội học. Rồi sang Pháp. Rồi lại về nước, làm cái thằng lính. Ðến năm năm tư thì tôi theo người Pháp rời Việt Nam, sang sống với bố mẹ ở nước ngoài. Ờ, mà hai cụ chết đã lâu, hai mươi năm rồi. Còn tôi vẫn sống một mình, không vợ con, những tưởng chẳng bao giờ được thăm lại quê cũ, thế mà tôi vẫn lần được về. Tôi muốn biết...

- Vâng, - đoán hiểu ý ông, bà Sen vội tiếp lời, - ngày kia là giỗ làng rồi. Cả làng, cậu ạ, - những hai ba trăm người chết chứ đâu ít...

- Nhiều thế cơ à? - Ông Ánh khẽ hỏi.

- Vâng, thật khủng khiếp! Tờ mờ sáng, bác ạ. Một chiếc máy bay... ôi! - Bà Sen thở dài, rồi ngồi im, rơm rớm nước mắt.

- Hai cụ nhà cô cũng chết lần ấy?

- Vâng, cả chồng và con trai tôi nữa. Một quả bom rơi trúng nhà. May tôi lúc ấy ra vườn hái rau chuẩn bị cơm sáng nên mới thoát.

- Còn gia đình bác Vị ? (Bác Vị là anh trai cả bố mẹ ông Ánh, bà Sen).

- Cũng thế. Có điều bác gái bị thương, phải nửa năm sau mới chết được.

- Còn chú Xuân?

- Chú Xuân lúc ấy không ở nhà. Chú ấy trốn đi bộ đội từ hai năm trước, sau này hy sinh ở Ðiện Biên.

- Còn làng xóm?

- Làng xóm thì bác thấy đấy, nhà nào cũng bị, không người này thì người nọ. Ngày kia giỗ, rồi bác xem.

Ông ÁNH không hỏi gì thêm. Ông cúi đầu ngồi im, hai tay ôm mái tóc bạc. Ngoài sân, trời đã tối từ lâu. Trong ánh sáng đỏ nhờ của chiếc đèn dầu ma-dút, bà thấy ở khóe mắt ông có hai giọt nước lấp lánh mỗi lúc một to dần. Bà cũng ngồi im thẫn thờ, cho đến lúc bất chợt vụt đứng dậy vì sực nhớ phải làm cơm mời khách.

Ðêm ấy hai người còn ngồi nói với nhau nhiều chuyện, nhưng như đã hẹn trước, ai cũng cố không nhắc tới đề tài lúc nãy.

Cuối cùng cáo mệt, ông Ánh lên giường. Từ buồng trong, bà Sen nghe rõ tiếng ông nằm trăn trở mãi, cho đến khi bà thiếp đi lúc nào không biết.

Hôm sau, tức ngày mồng sáu, ông Ánh nhờ bà Sen dẫn ra thăm mộ những người bị bom chết trong cái ngày xa xưa ấy. Ðến nơi, ông nói muốn ở lại một mình. Tuy không hiểu ý ông làm gì, bà Sen chẳng hỏi, lẳng lặng ra về.

Nghĩa địa Gia Quán nằm trên mé đồi thoai thoải bao quanh bởi những bụi gai còi cọc thấp tè. Mộ được xếp thành từng hàng dài, mỗi họ một khu, chiếc này dính liền chiếc kia như những luống khoai lớn, phía trên nổi lên những mô đất nhỏ đánh dấu từng chiếc. Phần bị mưa xói, phần do trâu bò xéo, nhiều chiếc sụt lở, méo mó. Ðất cằn, cỏ không mọc nổi, không bóng cây, không lăng bia, mộ chí. Nói chung quang cảnh khá tiêu điều và ảm đạm.

Ông ÁNH thận trọng chống gậy đi đến trước hàng mộ người thân của ông bà Sen vừa chỉ. Tay cầm hộp diêm, run run, ông bật lửa châm mấy bó hương mang theo, cắm xuống đấy năm que. Số còn lại ông chia đều cho tất cả những hàng mộ bên cạnh. Sau đó ông chọn một hòn đá phẳng, ngồi xuống, hồi lâu đờ đẫn nhìn một điểm nào đấy trước mặt...

Tối đến ông chống gậy đi hết nhà này sang nhà khác. Ðến đâu ông cũng gợi để chủ nhà nói về cái sự kiện khủng khiếp xảy ra cách đây mấy mươi năm. Còn ông, ông chỉ im lặng ngồi nghe, thỉnh thoảng thêm đôi lời để câu chuyện khỏi bị ngắt quãng.

Ai cũng ái ngại cho ông già sau chừng ấy năm xa cách nay trở lại quê hương phải nghe những chuyện buồn như vậy.

3

Rạng sáng ngày mồng bảy, khi mặt trời chưa lên và sương mù còn dầy đặc, có một bà gánh rau cải xuống chợ bán sớm. Ðến cây đa cụt cuối làng, vì mải nhìn xuống đường để tránh những vũng nước đọng sau cơn mưa, bà bỗng thấy đầu mình va phải cái gì khô cứng.

Bà ngước nhìn lên, kêu to một tiếng vì ngạc nhiên và sợ hãi, rồi vứt gánh, ù té chạy trở lại. Chưa đầy mười lăm phút sau, một nửa dân làng D.T đã có mặt. Mọi người đứng quanh cây đa cụt, sững sờ nhìn cảnh tượng trước mặt.

Trên cành cây choãi ra phía mặt đường, có một người treo cổ chết, xác lủng lẳng, mồm há hốc, đầu ngoẹo sang một bên, mớ tóc bạc lòa xòa dính bết vào trán - có thể vì mồ hôi, cũng có thẻ vì sương ướt.

Người đó là ông Ánh. Chiếc gậy của ông để tựa gốc cây. Trên gậy là chiếc mũ dạ với tờ giấy được gấp tư cẩn thận, to bằng lòng bàn tay. Theo yêu cầu của mọi người, một thanh niên rón rén lại gần gốc đa, cầm tờ giấy lên, đọc to:

"Thưa bà con dân làng,

Chính tôi là người lái máy bay ném bom làng ta ba mươi năm về trước. Tôi đã xin cấp trên được làm điều đó, vì nghe tin gia đình tôi bị Cộng Sản cướp hết ruộng đất, nhà cửa chia cho dân nghèo. Lúc ấy còn trẻ và nông nổi, tôi thèm khát trả thù, lại sẵn bom đạn trong tay, thế là tôi tự nguyện gây nên tội ác khủng khiếp kia, cái mà từ ngày ấy cho đến nay không để lương tâm tôi thanh thản phút nào. Tôi đã phạm một sai lầm không cứu vãn nổi, là tách rời khái niệm "Cộng Sản" khỏi khái niệm quê hương làng nước...

Bây giờ đã bốn giờ hai mươi phút, nghĩa là tôi còn phải chờ thêm mười phút nữa để tự kết liễu đời mình. Thực ra, tôi xem tôi đã chết vào đúng cài giờ phút ấy cách đây ba mươi năm, khi tôi bấm nút ném quả bom đầu tiên xuống khu làng đã sinh và nuôi tôi lớn.

Tôi chẳng dám xin được bà con tha thứ cho tôi, một đứa con tội lỗi sau bao nhiều năm lưu lạc, nay trở về quê cũ để tự đền tội. Trong túi tôi hiện còn ít tiền, nếu được, nhờ bà con cho thuê người chôn tôi ở nghĩa địa Gia Quán, cạnh những người tôi đã giết.

Nguyễn Văn Ánh

Diễn Châu, 1983

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro