Tống Y (宋医) full 7

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 367: Mồ Hôi Trộm

Liêu Quý Binh nghe vậy lại nở một nụ cười, rồi chắp tay nói: “Mời Đỗ đại nhân lên xe ạ!” Sau đó ông ta liền chạy tới dìu Đỗ Văn Hạo lên xe.

Đỗ Văn Hạo quay lại leo lên xe ngựa tiếp tục cuộc hành trình của mình, Kha Nghiêu lúc này mở chiếc rèm che trên xe ra, đưa mắt ra bên ngoài, nhỏ giọng nói: “Cái ông Liêu Quý Binh này đúng là nghĩa nặng tình sâu một cách thái quá, đã tiễn người ta hơn mười dặm đường rồi mà vẫn không chịu thôi! Lẽ nào ông ta muốn tiễn chúng ta đến biên giới của Tĩnh Gi­ang Phủ thật hay sao?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền mỉm cười nói: “Cái này gọi là Túy ông say chẳng say vì rượu!”

Kha Nghiêu nhăn mặt hỏi: “Huynh nói vậy là có ý gì thế?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì chỉ mỉm cười chứ không đáp lại.

Kha Nghiêu thấy mọi người trong này cũng chẳng có ai đáp trả lại câu nói của mình, liền quay sang Đỗ Văn Hạo trợn mắt nhìn hắn một cái. Đỗ Văn Hạo thấy vậy chỉ cười khan lên một tiếng, rồi nhắm hai mắt lại không nói câu gì. Kha Nghiêu thấy vậy liền lân la mò tới chỗ ở ngay giữa Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm rồi ngồi xuống. Sau đó nàng lấy ngón tay chọc chọc vào eo của Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo liền mở mắt ra rồi nheo mắt liếc nhìn nàng ta một cái, thì thấy bộ dạng của Kha Nghiêu đang te tởn khúm núm cười nịnh với mình. Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền nhe răng cười, rồi lại nhắm mắt lại, khi vừa mới nhắm mắt lại, thì hắn lại bị Kha Nghiêu chọc liên tiếp vào eo. Đỗ Văn Hạo kêu ối lên một tiếng rồi nói: “Con tiểu nha đầu này! Muội say rượu cả tối hôm qua đến tận bây giờ vẫn chưa tỉnh hả? Cứ chọc chọc cái gì thế, để ta ngủ chút chứ!”

“Hứ! Ai bảo huynh không chịu để ý đến muội nữa! Huynh nói đi! Huynh nói Liêu Tri Phủ cái gì mà túy ông say chẳng say vì rượu là có nghĩa gì vậy hả?” Kha Nghiêu nũng nịu nói.

“Muội tự nghĩ đi!” Đỗ Văn Hạo ngán ngẩm nói.

“Muội không nghĩ! Muội thích nghe huynh nói cơ!” Kha Nghiêu dùng dằng nói.

Bàng Vũ Cầm ngồi bên cạnh thấy vậy liền nói chen vào: “Kha Nghiêu! Muội để cho Đỗ đại ca của muội nghỉ một chút đi, tối hôm qua huynh ấy cả đêm không chợp mắt lấy một cái đâu đấy! Muội không trông thấy hai mắt Đỗ đại ca của muội đỏ ngầu lên thế kia hay sao?”

Kha Nghiêu nghe vậy liền cong môi hứ lên một tiếng, sau đó lại xích đến sát người Đỗ Văn Hạo, ghé miệng vào tai của hắn, thầm thì nói: “Huynh, nói mau! Đêm hôm qua huynh làm cái gì hả?”

“Nhớ muội chứ còn làm gì nữa! Thế đã được chưa hả?” Đỗ Văn Hạo không hề mở mắt ra trả lời câu hỏi của Kha Nghiêu, chỉ buông thõng một câu bông đùa.

“Thôi đi!” Kha Nghiêu đánh nhẹ vào người của Đỗ Văn Hạo một cái rồi nói: “Huynh còn lâu mới nhớ đến muội! Muội biết rồi! Huynh đang suy nghĩ xem cái ông quan Liêu Quý Binh này rốt cuộc là có bí mật gì không thể nói cho ai biết, đúng không hả?”

“Ố!” Đỗ Văn Hạo hai mắt vẫn nhắm lại dưỡng thần nói: “Muội sao mà biết hay vậy?”

“Cái này thì muội cũng không biết chắc lắm! Đêm ngày hôm qua Tạ đại phu đem theo người nhà đến tìm huynh, mọi người ở trong phòng bàn tán xì xào xôn xao cả nửa ngày trời liền! Tiếp sau đó huynh lại cho gọi Thẩm sư gia đến, hai người lại tiếp tục xì xì xào xào thêm nửa ngày nữa! Muội nghe thấy huynh và ông ấy có mấy lần nhắc tới cái tên của cái ông Liêu Quý Binh kia, sau đó huynh liền quyết định sáng sớm ngày hôm sau rời khỏi Tĩnh Gi­ang Phủ! Đây không phải là vì Liêu Quý Binh mà huynh mới làm vậy, thì là cái gì!”

“Con quỷ ranh mãnh này!” Đỗ Văn Hạo mở mắt ra, mỉm cười nói: “Thôi không nói mấy chuyện này nữa! Ngủ một chút đi, đêm nay còn có nhiều việc để làm đấy!”

Kha Nghiêu ngơ ngác hỏi: “Chuyện gì vậy Đỗ đại ca?”

“Đến lúc đó muội sẽ biết thôi! Nếu muội không muốn ngủ thì đi ra chỗ khác mà chơi, để yên cho ta ngủ chứ!” Đỗ Văn Hạo nói.

“Hứ!” Kha Nghiêu lại trợn mắt lên lườm Đỗ Văn Hạo một cái, sau đó lại lồm cồm bò đến bên mình Lâm Thanh Đại ngồi xuống.

Liên Nhi ngồi bên cạnh thấy Kha Nghiêu đã quay lại chỗ của mình, liền đưa hai tay áp vào má của mình, làm động tác khuyên Kha Nghiêu nhắm mắt lại nghỉ ngơi, nhưng Kha Nghiêu không chịu, nàng vén một góc rèm xe lên nhìn ra bên ngoài, thì thấy Liêu Quý Binh đang an nhàn cưỡi ngựa, đi lẽo đẽo theo sau chiếc xe của mình. Kha Nghiêu thấy vậy liền nhoẻn miệng cười đầy ẩn ý, sau đó nàng buông rèm xuống, đầu áp vào vai của Lâm Thanh Đại, nhắm mắt ngủ.

Lâm Thanh Đại lúc này vẫn nhắm mắt dưỡng thần, thấy Kha Nghiêu nép vào mình ngủ như vậy, liền nhẹ nhàng lên tiếng hỏi: “Sao vậy? Muội không ngủ được hả?”

Kha Nghiêu nghe vậy, liền ài lên một tiếng rõ dài, sau đó liền nhắm hai mắt lại nói: “Mọi người ai cũng ngủ hết cả rồi, muội cũng muốn ngủ với mọi người!”

Lâm Thanh Đại nghe vậy liền đưa tay lên, vỗ vỗ vào bàn tay nhỏ nhắn của Kha Nghiêu ru nàng ngủ, quả nhiên không lâu sau nàng đã nghe thấy tiếng thở nhè nhẹ đều đều hắt ra từ Kha Nghiêu, Đỗ Văn Hạo lúc này mới mở mắt ra nhìn, thì thấy Lâm Thanh Đại đang nhìn mình, hai người bất giác cùng nhìn nhau mỉm cười.

Đến khi trời chập choạng tối, đoàn xe mới chịu dừng lại, Lý Phổ lúc này liền tiến tới mở chiếc rèm che phía cửa xe lên nói: “Đại nhân! Chúng ta đến biên giới của Liễu Châu và Tĩnh Gi­ang Phủ rồi đó ạ! ”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đứng đậy bước xuống dưới xe, khi vừa mới bước xuống thì hắn đã thấy Liêu Quý Binh đã đứng ở trước đầu xe rồi, Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền vươn vai, mỉm cười nói với ông ta: “Liêu đại nhân vất vả quá! Không ngờ đại nhân lại tiễn ta ra tận đến ngoài này!”

Liêu Quý Binh nghe vậy liền chắp tay lên mỉm cười đáp: “Đỗ đại nhân hôm qua ngủ không được tốt, nên trên đường ngủ bù như vậy là nên lắm! Hạ quan tiễn đại nhân ra đến đây thôi, không dám tiễn xa thêm nữa!” Nói xong Liêu Quý Binh liền đưa tay vẫy gọi bọn sai địch tiến lại gần đây, Đỗ Văn Hạo quay lại nhìn, thì thấv bốn người bọn chúng đang khệ nệ ôm một thùng gỗ to đặt xuống trước mặt của hắn.

Liêu Quý Binh lúc này liền chỉ vào chiếc thùng gỗ nói: “Đỗ đại nhân! Đây là một chút tấm lòng mọn của các quan viên ở Tĩnh Gi­ang Phủ, gọi là… Mong Đỗ đại nhân nhận lấy cho bọn hạ quan được mừng! Cái này gọi là quà nhẹ mà nghĩa tình sâu nặng! Mong đại nhân đừng từ chối tấm thịnh tình của bọn hạ quan!”

Đỗ Văn Hạo liền nói: “Trong chiếc thùng gỗ này có cái gì vậy hả?”

Lúc này thì Kha Nghiêu cũng đã tỉnh dậy, nàng nhảy xuống xe, sau đó liền tiến tới nhẹ nhàng vỗ vỗ lên chiếc thùng gỗ, rồi nói với Liêu Quý Binh: “Liêu đại nhân! Lẽ nào đại nhân mang hết gia sản ra tặng Đỗ đại ca của tiểu nữ hay sao vậy?”

Liêu Quý Binh ngượng ngùng cười đáp: “Kha cô nương chê cười bổn quan rồi! Tĩnh Gi­ang Phủ bị thiên tai, nên không có gì tốt để tặng cho Đỗ đại nhân cả!”

Kha Nghiêu nghe xong liền tiến tới mở chiếc hòm gỗ ra, thì thấy bên trong có một ít tơ lụa được đệm phía dưới thùng, còn bên trên thì toàn là những đĩnh bạc trắng ngần, lấp lánh, xem ra số lượng cũng khá nhiều, Kha Nghiêu liền mỉm cười nói: “Ha! Tiểu nữ cứ tưởng Liêu đại nhân là một người tiết kiệm, chắt chiu, vậy mà lại có bao nhiêu là bạc như thế này! Lẽ nào đây đều là mồ hôi nước mắt của dân chúng?”

Liêu Quý Binh nghe vậy thì cười khổ nói: “Kha cô nương quá lời rồi! Nhữngthứ này đều là do các Hương Thân, địa chủ, đại phu trong bảy huyện của Tĩnh Gi­ang Phủ nhờ hạ quan dâng tặng cho Đỗ đại nhân, cùng với các vị phu nhân của người, và cả Kha cô nương nữa! Đỗ đại nhân vì dân chúng của Tĩnh Gi­ang Phủ hao tâm khổ tứ, chữa bệnh cứu nạn, truyền thụ y thuật, công lao ân đức to lớn vô cùng! Tất cả mọi người trong Tĩnh Gi­ang Phủ này đều vô cùng yêu quý và kính trọng Đỗ đại nhân! Chính vì vậy mà…

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền chắp tay lên nói: “Nếu Liêu đại nhân và dân chúng trong Phủ có tấm lòng thành như vậy, mà ta không nhận thì chẳng khác nào là khinh mạn Liêu Tri Phủ cùng với dân chúng nơi đây! Thôi thì bổn quan nhận lấy vậy!”

Kha Nghiêu nghe vậy ngạc nhiên khôn cùng, Liêu Quý Binh thì mừng rỡ ra mặt, vội vàng kêu bốn tên sai dịch mau mau khiêng thùng gỗ lên xe của Đỗ Văn Hạo, rồi theo chân của hắn tiễn thêm một đoạn đường nữa.

Đỗ Văn Hạo nói: “Thôi được rồi! Liêu đại nhân tiễn bổn quan đến đây là được rồi! Đại nhân cứ quay về đi, nhân tiện gửi lời cảm ơn của ta đến Trương đại nhân cùng với những người khác, nói là ta đã làm phiền mọi người nhiều lắm rồi! Hẹn ngày gặp lại!”

Mọi người trên xe ngựa lúc này đều lần lượt xuống xe đến nói lời chia tay với Liêu Quý Binh, sau đó lại lần lượt lên xe ra đi. Liêu Quý Binh dõi mắt nhìn theo đoàn xe của Đỗ Văn Hạo đi vào địa phận của Liễu Châu xong rồi mới lên ngựa quay về.

“Bẩm đại nhân! Có cần cho người bám theo theo dõi không ạ?” Trương Thiên Ninh lúc này không biết ở đâu xuất hiện tiến đến bên cạnh Liêu Quý Binh thì thầm nói.

Liêu Quý Binh nghe vậy thì cười lạnh một tiếng đáp: “Không cần đâu! Ông ta dường như cũng chẳng có phát hiện gì mới mẻ cả! Nếu như ông ấy không nhận tiền của chúng ta, thì đúng là ta sẽ cho người đi theo dõi, nhưng bây giờ ông ấy đã nhận rồi! Hứ! Chẳng qua cũng chỉ là một tên tiểu nhân khát tiền mà thôi!”

Trương Thiên Ninh nghe vậy liền gật gật đầu nói: “Đúng vậy đó! Khi trước bọn họ ra vẻ làm mình làm mẩy, đi dò la tin tức của chúng ta, chẳng qua cũng chỉ muốn ám chỉ cho chúng ta biết, để chúng ta biết điều cống nạp ít tiền cho bọn họ mà thôi! Khi hạ quan trông thấy ông ta nhìn thùng bạch ngân đó, thì mắt cứ như sắp rơi xuống đất đến nơi vậy!”

“Khà khà! Làm gì có người nào có thù gì với ngân lượng cơ chứ? Trên đời này làm quan là vì cái gì, vì ngân lượng chứ vì cái gì nữa!” Liêu Quý Binh đắc chí nói.

Trương Thiên Ninh nghe vậy liền xum xoe nói chêm vào: “Đại nhân nói không sai chút nào! Hạ quan công nhận đại nhân quả là có con mắt tinh đời!”

“Sau khi quay về! Ngươi đem mấy người làm loạn trong mấy ngày gần đây ra thăm hỏi bọn chúng một phen, không được để thoát đứa nào đâu đấy! Ta phải cho chúng biết ai mới là quan phụ mẫu, là cha mẹ của chúng ở cái đất Tĩnh Gi­ang Phủ này mới được!” Liêu Quý Binh hằn học nói.

Trương Thiên Ninh nghe vậy liền đáp: “Tuân lệnh đại nhân!”

Liêu Quý Binh hất cương ngựa lên, kéo ngược nó lại, con ngựa của ông ta hí vang lên một tiếng, sau đó liền phi như bay về phía Tĩnh Gi­ang Phủ, những tên sai dịch cũng lục đục chạy theo chân của ông ta.

Đỗ Văn Hạo lúc này cùng với đoàn người vẫn chầm chậm tiến vào địa phận của Liễu Châu.

Trên xe, Kha Nghiêu giờ đây có vẻ gì đó ấm ức, ngồi ngoảnh mặt ra phía bên ngoài cửa xe, môi mím lại, trông có vẻ rất không cam chịu.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền cười nói: “Muội làm sao vậy? Khi trước ta vẫn thấy muội vui vẻ lắm cơ mà, sao bây giờ lại ấm ức cái gì thế?”

“Hứ!” Kha Nghiêu ngoảnh mặt lại, hướng về phía Đỗ Văn Hạo căm hận nói: “Đỗ đại ca! Đại ca lẽ nào không biết đại ca cầm tiền của người ta như vậy, chẳng khác nào để người ta nắm được đằng chuôi hay sao? Cái ông Liêu Quý Binh đó là người muôn mặt, huynh lại còn nhận tiền hối lộ của ông ta! Muội không ngờ… .không ngờ huynh lại là một tham quan!”

Lâm Thanh Đại ngồi gần đó nghe vậy, liền lên tiếng nhắc nhở: “Kha Nghiêu! Muội không được phép dùng cái giọng đó ra nói Đỗ đại ca của muội như vậy!”

Đỗ Văn Hạo lúc này chỉ mỉm cười nói: “Chúng ta đã đến đó ăn ngủ ở nhà người ta mấy hôm rồi cầm tiền của người ta cũng chẳng lo sợ gì đúng không?”

Kha Nghiêu tức đến tái hết cả mặt lại, nàng xông thẳng đến bên Đỗ Văn Hạo phẫn nộ nói: “Đỗ đại ca! Suốt trên đường đi, huynh dạy học, truyền thụ y học, tiền thu về có thể chất thành núi, ăn cả mấy đời cũng không hết rồi! Vậy mà huynh còn thèm thuồng cái hòm tiền của Liêu Quý Binh hay sao hả?”

Lâm Thanh Đại lúc này mói mỉm cười giải thích nói: “Kha Nghiêu! Đỗ đại ca của muội mới là túy ông say chăng say vì rượu đó, lẽ nào muội không hiểu hay sao hả con bé ngốc nghếch này?”

“Cái gì mà say không phải vì rượu cơ chứ!” Khanh Nghiêu nghệt mặt ra nói.

“Đỗ đại ca của muội đã dự trù hết tất cả mọi việc rồi, huynh ấy rất tự tin! Lúc trước không phải nói là, trên đường đi để tất cả mọi người nghỉ ngơi, tối nay có việc làm hay sao? Nhận tiền của Liêu Quý Binh, chẳng qua chỉ là muốn che mắt ông ta làm cho ông ta tưởng chúng ta chỉ là một bọn quan tham lam, tiểu nhân mà thôi! Khi ông ta thấy chúng ta nhận tiền rồi, đương nhiên sẽ yên tâm ra về, lúc đó chúng ta mới rảnh tay mà hành động được!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền liếc sang Lâm Thanh Đại nói: “Thanh Đại! Nàng đúng là một người thông minh! Xem ra muốn giở trò gì trước mặt muội phải vô cùng cẩn thận mới đuợc!”

“Ha ha! Chàng sợ chưa hả?” Lâm Thanh Đại cũng mỉm cười đáp lại.

“Thanh Đại! Nàng là Gia Cát Lượng của ta! Cái ta cần chính là cái đầu thông minh tuyệt đỉnh của nàng đó!” Đỗ Văn Hạo phỉnh nịnh nói.

“Chàng nói đi! Chàng muốn thiếp làm gì đây?” Lâm Thanh Đại nói.

“Nàng không việc gì phải vội như vậy cả!” Đỗ Văn Hạo thần bí nói: “Chúng ta đến phía trước kia tìm một cái nhà nghỉ tạm trú cái đã! Xong rồi tối nay ta và Thanh Đại cùng vói Thẩm sư gia sẽ âm thầm quay lại Tĩnh Gi­ang Phủ, để điều tra cho rõ ràng!”

“Vậy còn bọn muội thì làm gì đây?” Kha Nghiêu đượm vẻ không vui nói: “Muội cũng muốn đi!”

Lâm Thanh Đại thấy vậy liền lên tiếng khuyên nhủ: “Người mà đi đông quá sẽ rất dễ bị phát hiện, muội và Vũ Cầm, Liên Nhi với Phi Nhi cứ ngoan ngoãn ở lại tại nhà nghỉ chờ tin tức của ta và Văn Hạo là được rồi! ”

Kha Nghiêu nghe vậy thì vùng vằng nói: “Muội không chịu đâu! Muội muốn đi cùng cơ! Chuyện hay như thế này muội không chịu ngồi ngoài đâu, muội cũng biết võ đấy!”

Lâm Thanh Đại nghe vậy thì bật cười nói: “Võ của muội cũng gọi là võ à?”

“Dĩ nhiên rồi!” Kha Nghiêu nói xong liền đưa cánh tay bé nhỏ của mình lên múa một đường: “So với Thanh Đại tỷ thì dĩ nhiên là muội không bằng rồi, chứ so với Tuyết Phi Nhi tỷ thì… Kha Nghiêu nói đến đây liền liếc mắt nhìn về phía Tuyết Phi Nhi, thì thấy Phi Nhi cũng đang nhìn mình cười khinh khinh, nên vội vã nói: “Dĩ nhiên là cũng không thể nào bằng rồi, nhưng mà muội vẫn đủ sức đối phó với hai ba gã đại hán đấy!’

:

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền nói: “Chúng ta cũng có phải đi đánh nhau đâu mà cần phải biết võ, nếu mà cần đánh nhau thì ta đã gọi hội mấy người của Lý Phố đi rồi cần gì phải nhờ đến người khác làm gì cho mệt! Cái chính là người đông thì rất dễ bị bại lộ, muội hiểu chưa hả?”

“Muội gầy như thế này, ban tối có ai trông thấy đâu cơ chứ!’- Kha Nghiêu cong môi lên nói.

Mọi ngưỡi nghe Kha Nghiêu nói vậy, không nhịn được đều cười ồ lên vui vẻ.

Kha Nghiêu lúc này lại chạy đến bên Đỗ Văn Hạo ôm lấy cánh tay của hắn nũng nịu nói: “Đỗ đại ca! Huynh cho muội đi cùng với mà! Trong lúc Thanh Đại tỷ đi thám thính, thì còn có muội ở bên cạnh bảo vệ huynh chứ!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy cảm thấy nực cười, bèn nói: “Muội hả? Thôi cho huynh xin! Có muội đi cùng ta lại phải bảo vệ muội cũng nên!”

“Thôi cho muội đi đi mà!’- Cánh tay khẳng khiu của Kha Nghiêu bấu chặt lấy tay cùa Đỗ Văn Hạo, lắc đi lắc lại năn nỉ nói.

Bàng Vũ Cầm thấy vậy liền mỉm cười nói: ‘Tướng công! Hay là cứ để cho Kha Nghiêu đi theo chàng đi! Muội ấy cũng là người thông minh, hơn nữa cũng biết chút ít võ vẽ, những lúc cần thiết có khi lại cần đến Kha Nghiêu không biết chừng! Hơn nữa Kha Nghiêu mà đã quyết định việc gì rồị thì có cho mười con bò đến níu kéo, muội ấy cũng không chịu buông tha cho chàng đâu! Chàng mà không đồng ý cho Kha Nghiêu đi, đêm nay thế nào cũng hành hạ chàng cả đêm cho mà xem!”

Kha Nghiêu nghe vậy liền hứ lên một tiếng nói: “Vũ Cầm tỷ đừng có nói mười con bò, cho dù đến cả trăm con bò cũng không kéo được muội dứt khỏi đây đâu!”

:

Mọi người lại được một dịp cười lăn cười bò.

Đỗ Văn Hạo đành xuống nước nói: “Thôi vậy! Cho muội đi cùng cũng được, nhưng muội bắt buộc phải nghe theo sự sắp đặt của ta đấy, cấm tuyệt đối không được gây rắc rối nghe chưa hả?”

“Vâng! Muội biết rồi!’’ Kha Nghiêu lè lưỡi, thụt cổ vui vẻ gật gật đầu một cách ngoan ngoãn nói: “Lần quay lại này, chúng ta phải điều tra cái gì đây hả Đỗ đại ca!”

Đỗ Vưn Hạo vén rèm xe lên, chỉ về phía đồng ruộng ở bên ngoài nói: “Muội nhìn xem! Muội phát hiện ra cái gì chưa vậy?”

Lúc nãy mải mê nói chuyện, nên không ai chú ý đến tình hình bên ngoài cả. Đỗ Văn Hạo bỗng nhiên yêu cầu mọi người như vậy, nên tất cả đều đưa mắt nhìn bên ngoài.

“Ý?” Kha Nghiêu kinh ngạc kêu lên: “Mảnh đất kia còn chất đầy rơm rạ lên làm gì thế kia! Lẽ nào đây là chỗ lúa mà bọn họ thu hoạch được hay sao?”

“Xí!” Tuyết Phi Nhi cười lạnh một tiếng lên rồi nói: “Cái này mà vẫn còn phải hỏi sao hả? Muội đưa mắt ra nhìn xa hơn một chút đi, kia kìa, ở bên kia kìa, trong đồng ruộng vẫn còn những chỗ trồng lúa vẫn chưa kịp thu hoạch kìa!

Tất cả mọi người đều dõi theo cánh tay chỉ của Tuyết Phi Nhi, quả nhiên cách đó không xa những mọng lúa chín vàng, nặng trĩu đang cong người phất phơ theo làn gió, làm cho ai nhìn thấy cũng cảm thấy nhẹ nhõm.

Kha Nghiêu lúc này mới trợn mắt lên nói: “Cái này thì đúng là kỳ lạ thật đấy, không phải là đang bị thiên tai hay sao? Sao chỗ này vẫn còn trồng lúa, còn bên kia thì toàn bỏ hoang vậy nhỉ?”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới cất giọng lạnh lùng nói: “Đây chính là cái mà chúng ta phải điều tra cho rõ ràng, ngoài ra vẫn còn một số việc còn phải làm rõ hơn nữa! Suốt dọc đường đi ta đã để ý thấy Trương Tri Huyện lần mò theo sau chúng ta, và Liêu Quý Binh, hừm, bọn chúng cứ theo sát chúng ta như là theo dõi vậy! Chính vì vậy mà chúng ta chẳng điều tra được điều gì cả, vì dân chúng đều phải tránh mặt bọn chúng, có mặt bọn chúng ở đấy thì ai dám nói gì! Hy vọng là lần quay về bí mật này ta sẽ điều tra rõ hết ngọn nghành, chân tuớng!’

“Chân tướng gi cơ?”

“Đêm hôm qua, Tạ đại phu đến tìm ta nói là có vài chuyện quan trọng muốn bàn với ta, và việc ông ta nói đó làm ta vô cùng kinh ngạc, sau đó ta tìm đến Thẩm sư gia thương lượng, thấy việc này ta bắt buộc phải quản mới xong! Không chỉ vì dân chúng của cả Phủ Tĩnh Gi­ang, mà đấy còn là cơ hội để cho ta thể hiện lòng trung thành với tổ quốc! Lần này ta sẽ phải làm cho ra trò mới được! Thẩm sư gia và ta đã vạch ra một kế hoạch vô cùng chu toàn, chúng ta cứ theo kế hoạch mà làm, đảm bảo sẽ không có vấn đề nào phát sinh cả!”

“Kế hoạch gì vậy hả Đỗ đại ca?” Kha Nghiêu ngây người hỏi.

“Ta nói cho muội biết, muội có thề giữ bí mật được không?” Đỗ Văn Hạo nghiêm túc hỏi.

“Dạ được!” Kha Nghiêu nhanh nhẩu đáp.

“Ta cũng bảo mật được!” Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói.

“Hả?”- Kha Nghiêu trợn mắt lên tức giận, hóa ra là Đỗ Văn Hạo cố tình trọc ghẹo nàng, Kha Nghiêu ngúng nguẩy nói: “Đáng ghét! Huynh không nói thì thôi!”

Trời đã bắt đầu tối, đoàn người của Đỗ Văn Hạo liền vào một cái trấn nhỏ, thuê nhà trọ.

Sau khi dùng bữa xong, Đỗ Văn Hạo liền phái Lý Phố đem theo mấy đứa hộ vệ mặc bộ đồ nhẹ ra ngoài đồng ruộng thăm dò tình hình thu hoạch ra sao.

Anh Tử lúc này đã pha cho Đỗ Văn Hạo một tách trà, Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền hỏi: “Khi ăn cơm, ta thấy Hàm Đầu cứ ngây người ra, không biết nó bị làm sao thế nhỉ?”

Anh Tử nói: “Dạ! Không biết! Có lẽ là bị bệnh cũng nên!”

“Bị bệnh? Thế tại sao nó không tìm đến Diệu Thủ hay là Bất Thu xem cho?” Đỗ Văn Hạo cau mày nói.

“Dạ xem qua rồi ah! Diệu Thủ khám cho, sau đó có kê một ít thuốc, nhưng cũng không thấy đỡ hơn chút nào, anh ta nói không có chuyện gì to tát cả, chính vì vậy mà không nhờ đến Tiền Thái Y!” Anh Tử đáp.

“Gọi nó lên đây để ta xem cho, ta cũng đang rảnh rỗi!” Đỗ Văn Hạo đưa tay ra hiệu nói.

“Thưa vâng!”

Không lâu sau, Anh Tử liền dẫn Hàm Đầu đi tới, vừa đi vừa trách móc Hàm Đầu: “Huynh thật là! To đầu như thế này rồi mà chẳng biết tự chăm lo cho bản thân gì cả? Lại còn để người ta phải lo lắng cho huynh!”

Hàm Đầu nghe vậy liền lầu bầunói: “Ta đã nói rồi, ta không có bệnh mà!”

“Huynh nói lung tung gì thế! Ngô Thông đã nói cho muội biết hết rồi, nói là huynh mỗi sáng tỉnh dậy, mồ hôi chảy khắp đầu, khắp trán, ướt cứ như vừa mới gội đầu ấy! Huynh cũng là một người làm trong hiệu thuốc, vậy mà cũng không biết mình mắc bệnh hay sao hả?”

“Cũng chỉ là bị ra mồ hôi vớ vẩn thôi mà! Làm gì mà quan trọng vậy?” Hàm Đầu hậm hực nói.

Anh Tử lúc này vừa bước tới cửa phòng của Đỗ Văn Hạo, thì nghe Hàm Đầu phản bác mình như vậy, liền tức khí dừng chân lại, tay chống nạnh chỉ vào mũi của Hàm Đầu mà nói: “Ai nói là không quan trọng hả? Muội nghe mấy vị phu nhân khi đọc sách y học có nói rằng: “Ngũ tạng hóa dịch, tâm là mồ hôi!” Rồi lại nói dịch của tâm là mồ hôi, huynh ngày nào cũng ra mồ hôi như vậy, chắc chắn là bị bệnh tim rồi! Hứ! Có khi là do huynh hay suy nghĩ bậy bạ, nên mới bị như vậy đúng không?”

Đỗ Văn Hạo ngồi ở trong phòng nghe thấy Anh Tử nói như vậy, thì cười lên ha hả, mở cửa ra nói: “Thật không ngờ, Anh Tử lại thông hiểu về y thuật đến như vậy! Không sai, máu trong tim bắt nguồn từ dịch mồ hôi, cái này còn gọi là Tâm Hãn Đồng Nguyên, mồ hôi là dịch của tim, một khi mồ hôi ra nhiều quá, thì dịch sẽ bị tổn thương nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tim, làm cho người ta hay hồi hộp, lo lắng! Nếu không để ý chữa trị điều dưỡng, thì dễ dẫn đến vô số các bệnh tim khác! Thôi, vào đây nhanh lên!”

Hàm Đầu nghe xong chỉ biết cười trừ hềnh hệch, sau đó liền theo chân Đỗ Văn Hạo bước vào trong phòng, khi vào bên trong rồi thì Hàm Đầu cũng không dám ngồi xuống ghế, mà chỉ đứng ở một bên chờ Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền trừng mắt lên nói: “Còn đứng đó làm gì hả? Lẽ nào ngươi bắt ta phải đứng dậy bắt mạch cho ngươi hay sao?”

“Vâng! Thưa lão gia!” Hàm Đầu vội vã cúi người chạy đến bên chiếc ghế ngồi xuống, tay đặt lên bàn uống trà chờ đợi.

Đỗ Văn Hạo cũng không vội vã bắt mạch, mà chỉ hỏi: “Ngươi nói tình hình bệnh trạng của ngươi trước đi đã, có gì khó chịu cứ việc nói ra!”

“Dạ! Không…không có gì là khó chịu ạ!” - Hàm Đầu ấp úng nói.

Anh Tử đứng ở bên canh nghe vậy, liền trừng mẳt nói: “Còn nói là không có gì? Huynh không nghe thấy thiếu gia nói gì sao hả? Dấu nợ thì nghèo, dấu bệnh thì chết! Huynh muốn chết hả?”

Hàm Đầu nghe vậy gãi đầu gãi tai nói: “Dạ! Chỉ là khi con đi ngủ thì hay bị ra mồ hôi, có những lúc thì đầu hơi choáng, toàn thân mất sức!”

“Bắt đầu từ khi nào vậy?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

“Dạ một hai tháng nay rồi ạ!” Hàm Đầu đáp.

“Ồ? Vậy thì là lúc ở núi Nga Mi Sơn là ngươi đã bị rồi hả?”Đỗ Văn Hạo hỏi.

“Vâng!”

“Ngươi nói xem bệnh tình của ngươi tiến triển ra sao cho ta nghe!” Đỗ Văn Hạo trầm ngâm.

“Vâng! Khi đó, trời nóng quá, con lại béo, nên có phần không chịu nổi nóng, thế là con liền ra ngoài sân hóng mát, kết quả ngủ quên lúc nào không hay, khi con tỉnh dậy, thì thấy mồ hôi đầm đìa, đặc biệt là mặt và ngực, và cả lưng nữa! Con khi đó cứ tưởng trời nóng quá nên mới như vậy, cũng không chú ý gì nhiều thêm! Lúc sau con liền đi tắm nước mát, lúc này thì trời cũng đã mát rồi, con liền quay về phòng ngủ tiếp, kết quả là khi tỉnh dậy, lại thấy người đầy mồ hôi! Từ đó trở đi, con ngày nào cũng như ngày nào, tỉnh dậy một cái là mồ hôi đầy mình!”

“Ừm! Vậy Diệu Thủ kê cho ngươi phưong thuốc gì hả?” Đỗ Văn­Hạo hỏi.

“Dạ là Đương Lục Hoàng Thang! À, và có cả Sinh Mạch Tán nữa, sau đó cho thêm mấy vị thuốc chống ra mồ hôi nữa!” Hàm Đầu đáp.

“Thế kết quả ra sao?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

“Dạ nói thật là con chẳng thấy tốt hơn tẹo nào! Hơn nữa lại càng thấy khó chịu hơn, mỗi lần tỉnh lại mồ hôi vẫn cứ chảy, ngay cả chiếc gối của con cũng đã ướt nhẹp hết cả!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền gật gật đầu, phân phó Anh Tử đi gọi Diêm Diệu Thủ đến, rồi lại hỏi tiếp Hàm Đầu: “Thế ngươi ăn uống ra sao?”

“Dạ con không muốn ăn lắm ạ!’- Hàm Đầu ngây ngô đáp lại.

“Miệng của ngươi thì sao?”

“Dạ! Miệng của con cảm thấy đăng đắng, nhưng lại không muốn uống nước!”

“Đại tiểu tiện thế nào, bình thường chứ?”

“Dạ! Đại tiện còn được, chứ tiểu tiện thì nước có màu đỏ!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong gật gật đầu, sau đó lại bắt mạch, xem lưỡi cho Hàm Đầu, mọi việc xong xuôi đâu đấy rồi, hẳn lại nói: “Trong thời gi­an gần đây ngươi uống nhiều rượu lắm hả?”

“Vâng ạ! Suốt dọc đường đi đến đây, nơi nào cũng mời mọc ăn uống này nọ, nên con cũng nhờ ơn lão gia nhiều, nhờ có lão gia mà bọn con mới được tiếp đãi rượu thịt ê hề như vậy! Con mới đầu cũng không muốn uống, vậy nhưng người ta cứ mời nhiệt tình quá. Không uống không được!”

Đúng lúc này, thì Diêm Diệu Thủ đẩy cửa bước vào trong, cúi người chắp tay nói: “Sư tổ! Người cho gọi con?”

“Ừm! Hàm Đầu bị ra mồ hôi trộm, rồi nó đến tìm ngươi chữa bệnh, ngươi biện chứng ra sao hả?”Đỗ Văn Hạo quay sang Diêm Diệu Thủ hỏi.

Diêm Diệu Thủ vội vã chắp tay đáp: “Con biện chứng là Âm Hư nên mới dẫn đến mồ hôi trộm! Cái này gọi là Dương Hư thì ra mồ hôi tự nhiên, còn Âm Hư thì ra mồ hôi trộm….!”

Chưa kịp để cho Diêm Diệu Thủ kịp nói hết câu, Đỗ Văn Hạo liền cắt đứt câu nói của Diệu Thủ nói: “Vậy ngươi kê thuốc có hiệu quả không hả?”

Diêm Diệu Thủ ngượng ngùng miễn cưỡng đáp: “Cái này, con… thấy không có hiệu quả gì cả…!”

“Lẽ nào ngươi không nghĩ tại sao nó lại không có hiệu quả không?” Đỗ Văn Hạo cau mày nói.

“Dạ con có nghĩ qua rồi, nhưng con không biết là tại sao!” Diêm Diệu Thủ đáp.

“Vậy tại sao ngươi không đi hỏi sư phụ của ngươi hả? Hoặc là đến chỗ ta cũng được!” Giọng nói của Đỗ Văn Hạo có phần tức giận.

Diêm Diệu Thủ nghe vậy hoảng sợ, vội vã đáp: “Dạ! Mấy thời gi­an trước sư phụ và sư tổ đều bận các việc dạy học, vả lại bệnh của Hàm Đầu cũng không có gì nặng lắm, nên con không vội, chờ cho bận xong rồi mới phúc chẩn lại!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền lắc đầu nói: “Đây không phải là lý đo, thời gi­an không phải là nước ở trong khăn, muốn vắt ra là được! Người học y, khi gặp phải một bệnh khó chữa, thì phải tập trung tinh thần mà nghiên cứu biện pháp giải quyết, phải tìm cho ra vấn đề, hiểu nó phát sinh như thế nào! Nếu không hiểu thì phải hỏi, nếu không cái này không hiểu, cái kia cũng không hiểu, cứ như thế này thì cả đống vấn đề tồn đọng lại, như vậy thì sao mà thành tài được?”

Diêm Diệu Thủ bị Đỗ Văn Hạo sạc cho một trận, mặt ngượng đỏ tía tai, ấp úng đáp: “Vâng! Đa tạ sư tổ đã dạy bảo!”

Chương 368: Âm Thầm Qua Trần Thương

Anh Tử lúc này nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy liền nói chen vào: “Thiếu gia? Thế nào gọi là mồ hôi trộm ạ?” Đỗ Văn Hạo đáp: “Mồ hôi trộm chính là khi người ta đang ngủ thì bỗng nhiên toàn thân toát mồ hôi, khi tỉnh lại thì mồ hôi ngừng chảy, loại mồ hôi này giống với hành động của mấy tên kẻ trộm, chuyên rình mò ban đêm chờ người ta ngủ rồi, liền lén lút chui ra ngoài, chính vì vậy nên nó mới có tên là mồ hôi trộm. Ngoài ra vẫn còn một thứ không bình thường nữa gọi là tự ra mồ hôi, cũng có nghĩa là ban ngày bỗng dưng toàn thân mồ hôi vã ra như tắm, loại mồ hôi này không phải là do trời nóng, cũng không phải là do vận động, càng không phải là do uống thuốc mà phát tán ra ngoài. Hai loại mồ hôi này đều bất bình thường, đều là bệnh cả!”

“Ồ!” Anh Tử nghe xong liền ngẫm nghĩ một lúc, rồi lại hỏi: “Thế tại sao lại có mồ hôi trộm hả thiếu gia?”

Đỗ Văn Hạo nghe Anh Tử hỏi vậy liền quay sang Diêm Diệu Thủ nói: “Ngươi nói xem, người ta tại sao lại có mồ hôi trộm!”

Cái này thì dĩ nhiên không thể làm khó Diêm Diệu Thủ được, sau khi nghe Đỗ Văn Hạo hỏi vậy liền ôm quyền cúi người nói: “Bởi vì vệ khí ban ngày hành vì Dương, ban đêm hành vì âm, vào ban ngày thì vệ khí thể hiện ra ngoài, nên mồ hôi bị vệ khí che lại, không thể thoát ra ngoài được, còn về đêm khi người ta đi ngủ rồi, thì vệ khí hành vì âm, khả năng hỗ trợ suy giảm, nội nhiệt ép mồ hôi chảy ra ngoài, chính vì vậy mà người ta bị mồ hôi trộm!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền mỉm cười nói: “Ngươi nói không sai chút nào! Mồ hôi trộm đại bộ phận là do Âm Hư mà ra, nhưng cũng không thể ôm đũa cả nắm, ngoại trừ Âm Hư ra, còn có cả Dương Hư, Thấp Nhiệt đều có thể làm cho người ta bị mồ hôi trộm. Xem ra Hàm Đầu của chúng ta, từ nguyên do căn bệnh của nó ta thấy Hàm Đầu vào thời gi­an trước ngày đêm vận động đi lại nhiều, nên khả năng hỗ trợ trong cơ thể cũng yếu đi! Rồi đột nhiên nó lại dùng nước lạnh để tắm, vậy nên khí lạnh của nước được thể xâm nhập, cộng thêm nó ngày ngày uống rượu, dẫn đến Thấp Nhiệt, kết quả là nội ngoại kết hợp, kết thành Hóa Nhiệt, Thấp Nhiệt dẫn tới mồ hôi túa ra như suối, tạo thành mồ hôi trộm. Lưỡi của Hàm Đầu đỏ hồng, màng lưỡi mỏng nhợt, mạch nhẹ mà nhiều, những điều này đều là hiện tượng của Thấp Nhiệt. Hàm Đầu lại chóng mặt, khó chịu, miệng khô mà không muốn uống nước, tiểu tiện ra màu đỏ, tất cả những thứ này đều do nội Thấp Nhiệt mà ra, chính vì vậy mà nó không phải là Âm Hư mồ hôi trộm, Diệu Thủ! Ngươi biện chứng không đúng, chính vì thế mà đùng thuốc không có hiệu quả!”

Nghe đến đây, thì trán của Diêm Diệu Thủ lấm tấm mồ hôi, vội vã cúi người nói: “Đa tạ sư tổ đã chỉ điểm, con xin ghi nhớ lời dạy của người!”

“Vậy ngươi nói xem! Bây giờ ta nên dùng phương thuốc gì chữa trị cho Hàm Đầu đây!” Đỗ Văn Hạo hỏi.

Diêm Diệu Thủ trầm ngâm một lúc khá lâu, xong liền chắp tay nói: “Nếu đã là Thấp Nhiệt, thì ta nên dùng Phương Hương để thoát nội tiết, làm mát bên trong!”

“Ừm! Không sai!” Đỗ Văn Hạo gật gù nói: “Vậy thì bây giờ ngươi quay về kê lại cho tên béo Hàm Đầu này bài thuốc khác đi!”

“Vâng!” Diêm Diệu Thủ cúi người tuân lệnh, sau đó cùng với Hàm Đầu đi ra bên ngoài.

Theo đúng những chỉ dẫn của Đỗ Văn Hạo, Diêm Diệu Thủ kê lại đơn thuốc cho tên béo Hàm Đầu, sau khi uống thuốc được một thời gi­an, thì bệnh toát mồ hôi trộm của gã béo đã giảm đi đáng kể.

Hai người Diệu Thủ và Hàm Đầu sau khi đi khỏi đây, thì Anh Tử liền quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Thiếu gia! Y học sao mà phức tạp sâu sắc khó dò như vậỵ! Thiếu gia và hai người kia nói chuyện mà con chẳng hiểu gì cả!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy mỉm cười nói: “Ha ha, cái này không trách ngươi được, nghề làm y nó là như vậy, vừa sâu sẳc, lại vừa khó hiểu, có người nghiêm cứu cả đời, cũng chưa chắc đã am hiểu hết tất cả những điều uyên thâm, ảo diệu ở trong đó nữa là!”

Đỗ Văn Hạo đang nói chuyện thao thao bất tuyệt, thì đột nhiên đội hộ vệ mà hắn sai đi dò la tin tức đã quay về, đến bên Đỗ Văn Hạo bẩm báo. Bọn chúng nói rằng không phát hiện ra nơi đây có vụ thiên tai nào cả, kể cả mấy năm gần đây đều không có, việc cấy cầy trồng trọt, thu hoạch đều ổn định đều đều không có bất kỳ vấn đề gì. Và khi dò la tin tức về chuyện Tĩnh Gi­ang Phủ ở sát bên cạnh tại sao đồn điền, ruộng lúa lại bị bỏ hoang như vậy, thì những người dân ở đây chỉ cười mà không nói, ai nấy cũng đều tránh đi với nét mặt lo lắng.

Những điều này dường như đều nằm trong trù liệu của Đỗ Văn Hạo, nên khi nghe đám hộ vệ thông báo như vậy, hắn cũng không cảm thấy ngạc nhiên gì.

Sau khi được Đỗ Văn Hạo hứa dắt đi thăm dò cùng, thì Kha Nghiêu rất nghiêm túc và coi trọng cơ hội này, nàng lợi dụng tất cả cơ hội có thể để giúp Đỗ Văn Hạo dò la thêm tin tức. Kha Nghiêu không tiếc tiền bạc, để lôi kéo những đứa tiểu nhị, đầu bếp trong nhà nghỉ này, mấy người này sau khi nhận được tiền từ tay Kha Nghiêu xong thì vô cùng sung sướng, cho nên Kha Nghiêu hỏi gì, bọn chúng đều răm rắp trả lời một cách ngoan ngoãn.

Kha Nghiêu tự xưng là mình và anh trai đến đây muốn mua một ít đồ về, chuẩn bị đến Tĩnh Gi­ang Phủ thăm thú tình hình, nhưng không biết ở đó có gì mua về được không. Gã đầu bếp hóa ra là người của huyện Lộc Cao ở ngay sát gần Tĩnh Gi­ang Phủ, hơn nữa vợ của ông ta lại là người của phủ Tĩnh Gi­ang, chính vì vậy mà tình hình nơi đó, ông vô cùng hiểu biết, đo vậy mà khi Kha Nghiêu hỏi ông cái gì, ông đều trả lòi được hết.

Kha Nghiêu sau khi nắm bắt được đại khái tình hình của huyện Lộc Cao xong rồi thì nàng còn dò la ra được cả đường tắt nhanh nhất đến huyện, thành của huyện Lộc Cao, ngay cả Đỗ Văn Hạo cũng không thể ngờ được là Kha Nghiêu lại nhanh nhạy đến như vậy. Chính vì thế mà sau khi biết tin nàng nắm bắt được nhiều tin tức như vậy, bất giác gật đầu khen ngợi, làm cho Kha Nghiêu hí hửng, vui sướng đến phổng cả mũi.

Sau khi trời tối, hai người Đỗ Văn Hạo và Thẩm sư gia cùng đi thay một bộ quần áo giản dị hơn, Lâm Thanh Đại phụ trách hóa trang cho hai người, nàng gắn thêm cho Đỗ Văn Hạo một chòm râu giả dưới cằm, còn chòm râu và hai hàng lông mày trắng như cước của Thẩm sư gia được nhuộm đen lại. Cả hai bây giờ trông giống hệt hai người thương nhân đi buôn bán. Còn Lâm Thanh Đại cùng với Kha Nghiêu thì chuyển sang mặc quần áo của nam giới, trên mặt bôi một ít tro bụi, giờ đây thân phận của nàng và Kha Nghiêu là hai người hầu đi bên cạnh Đỗ Văn Hạo.

Theo những nguồn tin tức mà Kha Nghiêu dò la ra được, bốn người liền âm thầm rời khỏi tiểu trấn, đi theo đường tắt về huyện Lộc Cao.

Kha Nghiêu dẫn đường đi trước, trên tay cầm một chiếc liềm sáng quắc đi đầu dò la, cũng may mà con đường mà gã đầu bếp chỉ cho nàng là một con đường khá dễ đi, đi được hơn nửa đường, thì Kha Nghiêu chỉ xuống dưới chân núi nói: “Đỗ đại ca! Huynh xem kìa, gã đầu bếp nói rằng, chỉ cần xuống dưới chân núi, thì đi thêm nửa canh giờ nữa là đến huyện Lộc Cao rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền nói: “Tốt lắm! Nhưng muội đừng gọi ta là Đỗ đại ca nữa, mà cứ gọi ta là chưởng quầy được rồi, còn muội bây giờ là tiểu nhị của ta! Hiểu rồi chứ hả?”

Kha Nghiêu nghe vậy liền lè lưỡi ra đáp: “Được rồi! Muội nhớ rồi!” Sau đó nàng thuận tay lấy bình hồ lô đựng nước đeo ở bên hông ra đưa cho Đỗ Văn Hạo nói: “Mời chưởng quầy uống nước!”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười tiếp lấy nhấp một ngụm, sau đó lấy tay quẹt miệng một cái, rồi đưa bình nước cho Lâm Thanh Đại. Hắn ngước mắt lên nhìn về phía chân trời, thì thấy trời cũng đã bắt đầu hửng sáng, liền nói: “Tốt rồi, chúng ta bây giờ đã quay về mà thần không biết, quỷ không hay, ha ha ha!”

Lâm Thanh Đại sau khi tiếp lấy bình nước cũng không muốn uống, nàng liền đưa cho Thẩm sư gia, nhưng khi Thẩm sư gia tiếp lấy bình nước, thì lại ngừng lại không uống, mà đưa lại cho Kha Nghiêu nói: “Lão phu không khát!”

Kha Nghiêu thấy vậy liền hứ lên một tiếng nói: “Sao vậv? Ông chê bình nước này bẩn à?”

“Ha ha! Lão phu sợ làm bẩn bình nước này của cô nương mới phải chứ!” Thẩm sư gia cười đáp.

Lâm Thanh Đại lúc này thấy vậy bèn quay sang Kha Nghiêu nói: “Lẽ nào muội chỉ mang mỗi một bình nước thôi sao?”

Kha Nghiêu nhún nhún vai đáp: “Muội lúc đầu cũng định đem theo mấy bình cơ, nhưng mà nặng quá nên chỉ mang theo mỗi một bình nước thôi!”

“Vậy thì mọi người uống nước kiểu gì đây!” Lâm Thanh Đại cau mày nói.

“Chẳng sao cả!” Kha Nghiêu nói xong liền lấy tay chùi chùi cái miệng của bình nước, sau đó đưa cho Thẩm sư gia nói: “Được rồi đây! Mời sư gia uống nước!”

Thẳm sư gia thấy vậy, vẫn khoát tay nói: “Không không! Lão phu đúng là không khát thật!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền bất lực quay sang Kha Nghiêu cười nói: “Muội thật là, sao cứ bắt nạt sư gia của ta vậy hả?”

“Hứ! Thực ra Thẩm sư gia không phải là không khát, mà là ông ấy không muốn uống chung nước với mấy người con gái như bọn muội thôi! Hứ! Muội ghét nhất những người đàn ông đạo mạo như lão phu tử, quân tử dở hơi, lúc nào cũng treo trên miệng câu nói, cái gì mà nam nữ thọ thọ bất thân! Theo muội hả, nếu như đàn ông bọn huynh, mà rơi vào cảnh khốn cùng xem xem mấy người đàn ông như huynh thà chết khát hay là cũng uống chung nước với đàn bà con gái như muội hay không? Đến lúc đó khát chết đi! Đáng kiếp!”

“Ê này này! Đại tiểu thư của ta! Muội cũng đừng vơ đũa cả nắm thế!” Đỗ Văn Hạo cười nói: “Lúc nãy ta cũng đã uống nước trong bình hồ lô của muội rồi đấy thôi!”

“Muội đâu nói huynh đâu!” Kha Nghiêu hậm hực đeo bình hồ lô lên trên eo, xong rồi quay sang Thẩm sư gia, tru muôi lên nói: “Muội nói người không chịu uống nước, lão học cứu kia kia!”

Thẩm sư gia thấy vậy thì bật cười nói: “Kha cô nương! Lão phu không phải như cô nương nói như vậy đâu! Lão phu đúng là không khát nước thật mà!”

“Thôi bỏ đi! Không uống thì thôi, càng còn!” Kha Nghiêu ngúng nguẩy nói, sau đó nàng lại cầm chiếc liềm bạt cỏ, rẽ đường đi xuống dưới chân núi, ba người còn lại cũng chỉ biết nhìn nhau mỉm cười cái tính trẻ con của Kha Nghiêu.

Bốn người Đỗ Văn Hạo khi vừa vào đến địa giới của huyện Lộc Cao, thì trời cũng đã sáng hẳn.

Trên đường đi có phần vội vàng, nên khi vừa mới vào đến trong này, thì cả bốn đều cảm thấy mệt mỏi, nên tìm đến một tửu điếm sạch sẽ ngồi nghỉ ngơi, chuẩn bị ăn chút gì cho đỡ đói.

Vì giờ này cũng đã quá giờ ăn trưa, nên khách khứa trong tửu điếm cũng không đông lắm, chỉ lác đác có vài người ngồi ở trong này, chưởng quầy của tửu điếm lúc này còn phủ phục trên bàn nghỉ ngơi, nhưng khi nghe tiếng có người bước chân vào, ông ta lập tức ngẩng mặt lên, quay sang gọi mấy đứa tiểu nhị đang ngồi nói chuyện phiếm ở bên cạnh ra tiếp khách. Tiểu nhị lúc này mới để ý thấy sắp bước vào trong tửu điếm lúc này là bốn người ăn mặc theo kiểu thương gia. Người đi đầu có phần cao gầy, nhưng hai mắt thì không ngừng liếc ngang liếc dọc, trông vô cùng nhanh nhẹn, chưởng quầy thấy vậy liền chạy ra đon đả đón chào: “Mấy vị khách quan không biết là nghỉ chân hay là ở trọ?”

Thẩm sư gia thấy vậy liền hiếu kỳ nói: “Chỗ này của các ngươi ở được hay sao? Ta cứ tưởng đây chỉ là nơi nghỉ chân thôi chứ! Mau chuẩn bị cho ta bình trà mát để giải khát cái đã!”

“Vâng vâng! Mời khách quan lên trên lầu ngồi chờ một chút ạ!” Chưởng quầy nói xong liền gọi tiểu nhị dẫn đoàn người của Đỗ Văn Hạo lên trên lầu.

Khi bốn người lên đến trên lầu, thì chưởng quầy liền bước theo sau, ông ta còn bưng theo một bình trà đi đến trước mặt của Đỗ Văn Hạo cung kính hỏi: “Mấy vị khách quan chắc là mới đến đây phải không ạ? Có phải là lần đầu đến huyện Lộc Cao này?”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười gật đầu đáp: “Đúng vậy! Bọn ta muốn buôn bán một số thứ nên đi ngang qua đây!”

Chưởng quầy thấy vậy liền lấy tay lau lau bàn, xích lại gần dò hỏi: “Khách quan buôn bán cái gì đó ạ?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền hỏi vặn lại nói: “Chưởng quầy đoán xem chúng ta buôn bán cái gì?”

Chưởng quầy nghe Đỗ Văn Hạo hỏi vậy, liền đưa mắt lên liếc nhìn Đỗ Văn Hạo từ đầu đến chân, rồi nói: “Tiểu nhân mắt kém, kèm nhèm hết cả rồi, không biết là khách quan buôn bán cái gì nữa!”

Kha Nghiêu ngồi bên cạnh thấy vậy liền nói chen vào: “Bọn ta cái gì cũng buôn, chỉ cần có tiền là được! ”

Chưởng quầy nghe Kha Nghiêu nói thì giật mình quay lại, vì Kha Nghiêu đã cải trang thành nam giới, mà bây giờ lại dùng một giọng nữ giới nói chen vào. Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền vội vã chừng mắt lên nhìn Kha Nghiêu một cái rồi giải thích nói: “Thực ra đây là muội muội của ta, chỉ là do hành tẩu gi­ang hồ không tiện, nên đã cải trang thành nam nhân, ha ha ha!”

Ở thời cổ đại, các thương nhân cũng hay dùng cách này để bảo vệ bản thân, nên chưởng quầy cũng không lấy gì làm lạ, chỉ mỉm cười nói: “Đúng vậy! Gi­ang hồ hiểm ác, lòng người khó dò, cẩn thận vẫn là trên nhất!”

Kha Nghiêu nghe vậy liền nói: “Thôi! Không phải nói chuyện lung tung nữa! Chưởng quầy, ông mau mau đi chuẩn bị cho ta ít cơm rượu lên đây, tửu điếm của ông có đồ ăn gì ngon cứ việc bưng hết lên đây!”

Chưởng quầy nghe vậy liền mừng rỡ nói: “Vâng vâng! Xin quý vị khách quan chờ một chút, nhà hàng sẽ bưng ngay đồ ăn lên ngay cho các vị, đảm bảo các vị sẽ cảm thấy ngon miệng!”

Đỗ Văn Hạo lúc này bỗng nhiên gọi giật chưởng quầy lại khi ông ta vừa định bước ra khỏi cửa phòng, khách khí nói: “Lúc nãy nghe chưởng quầy nói rằng, chỗ này vẫn còn phòng trọ phải không? Nếu được như vậy, thì chúng ta cũng không cần phải đi tìm kiếm nhọc sức làm gì, chỗ này cũng sạch sẽ, thoáng đãng là một nơi nghỉ chân khá lý tưởng!”

Chưởng quầy nghe vậy vội vã nói: “Xin khách quan cứ yên tâm, ở đây vô cùng an toàn, vô cùng sạch đẹp, tiểu nhân biết khách quan rất quan tâm đến vấn đề này, nên xin khách quan cứ an tâm, nhà nghỉ ở bên cạnh là do em gái của lão phu mở ra, bây giờ các vị cứ ăn uống nghỉ ngơi trước cái đi đã, sau đó đi xem phòng sau cũng không muộn, chỉ cần các vị vừa lòng thì sẽ vào trọ đúng không ạ?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Thế cũng được! Vậy ngươi cứ đi sắp xếp đi, đừng làm phiền bọn ta ăn cơm nữa!”

Chưởng quầy nghe xong vội vã đi luôn xuống dưới lầu dưới, sau đó liền chạy ra sau hậu đường dặn đò nhà bếp chuẩn bị bàn ăn, rồi đi ra cổng đon đả chào mời những vị khách khác ở dưới nhà.

Lúc này, một vị nương tử đầu tóc lòa xòa, dáng người liêu xiêu lẹo xẹo bước vào bên trong này, vừa khóc vừa gào, làm cho chưởng quầy kinh hãi, vội vã chạy ra ngoài nói: “Ngươi định làm cái gì vậy? Bọn ăn mày khố rách áo ôm này định chạy đến quán ăn của ta để ăn xin hả, cút đi ngay! Mấy đứa chúng mày còn đứng đực ra đấy làm gì nữa hả, mau đuổi con mụ này ra khỏi đây cho ta! Trên lầu có mấy vị khách quý đừng có làm phiền đến bọn họ!”

Bọn tiểu nhị trong quán nghe vậy liền chạy ra kéo người phụ nữ kia ra bên ngoài, nhưng người phụ nữ kia lại điên cuồng kháng cự, cố gắng chạy vào bên trong quán, không ngừng kêu gào, bọn tiểu nhị thấy vậy liền túm lấy tóc của người phụ nữ, sau đó vặn ngược tay của bà ta lại, kéo ngược ra ngoài, người phụ nữ kia đau quá lại càng kêu gào to hơn.

Lúc này, ở trên lầu Đỗ Văn Hạo cũng nghe thấy tiếng kêu gào của người phụ nữ kia vọng tới. Kha Nghiêu thấy vậy liền nói: “Này! Mấy người các ngươi không nghe người ta nói gì mà đã kéo tóc người ta thế kia là sao hả? Cho dù người ta đến xin ăn, các ngươi không cho cũng đừng làm cái trò thế chứ! Chúng ta còn nhiều thức ăn, các ngươi không cho thì chúng ta cho!”

Chưởng quầy thấy vậy thì sợ quá vội kêu bọn tiểu nhị dừng tay lại, sau đó đưa tay lên hướng về phía Kha Nghiêu chắp một cái, rồi quay sang người phụ nữ kia quát: “Ngươi muốn gì hả?”

Người phụ nữ kia rít lên nói: “Tôi là người của thôn Chiều Tịch, con gái của tôi bị ngã, đến đây tìm Vương thần y ở đối diện chỗ này, người nhà của ông ta bảo là Vương thần y đang ngồi ở trong này ăn cơm! Vương thần y! Vương thần y!”

Chưởng quầy liền đưa mắt lên nhìn vào tiệm thuốc ở đối điện bên kia đường, thì thấy quả nhiên nơi đó có một chiếc xe kéo, nằm trên đó là một cô gái trẻ đang thiếp lịm đi vì đau.

Khi vừa nghe người phụ nữ này nói vậy, thì ở một bàn trong góc, một người cao tuổi tóc tai bạc trắng liền đứng dậy, tiến tới bên người phụ nữ kia nói: “Ta chính là Vương đại phu! Con gái của bà bị làm sao vậy?”

Người phụ nữ kia nghe vậy thì như người chết đuối vớ được cọc, hai mắt sáng hẳn lên, kéo luôn tay của Vương thần y lôi ra bên ngoài, Vương thần y vừa đi vừa nói: “Ối da! Bà kéo gì mà mạnh thế, ôi! Từ từ thôi, ta ngã bây giờ, đừng vội thế, từ từ thôi!”

Ngồi ở trên lầu Kha Nghiêu cũng trông thấy cảnh tượng này, liền vội vã chạy vào trong phòng của Đỗ Văn Hạo đang ngồi dùng bữa kể cho ba người nghe câu truyện. Thế là cả ba người còn lại cùng với Kha Nghiêu đều đi ra đến bên cửa sổ, ngó đầu ra bên ngoài xem xét, vị trí của cái cửa sổ này vừa vặn nhìn ra được cả bên tiệm thuốc đối diện bên kia đường, nên bốn người đều theo dõi được rất rõ tình hình đang diễn ra. Lúc này chỉ thấy người phụ nữ kia lôi Vương thần y ra gần chỗ chiếc xe kéo, trên đó có một cô gái tầm khoảng mười lăm mười sáu tuổi, nét mặt trắng bệch, hai mắt nhắm nghiền, trên má vẫn còn những vết xây sát, khóe miệng còn rỉ máu.

Vương thần y ngưng thần chăm chú theo dõi một hồi, thì giật mình kinh hãi, ông ta đưa tay lên sờ vào mũi của cô bé, rồi lắc lắc đầu, sau đó lật mi mắt của cô bé kia lên theo dõi, thì ông lại càng lắc đầu ngán ngẩm hơn. Người phụ nữ kia trông thấy vậy thì thần sắc lo lắng, vội vã hỏi: “Vương thần y! Con gái của tôi có còn cứu được nữa hay không hả?”

Vương thần y thấy vậy liền thở đài rồi nói: “Bà đưa nó đến đây chậm mất rồi, nó đã mất rồi, thôi bà quay về lo hậu sự cho nó đi là vừa!”

“Ối….trời ơi….Lan Nhi con gái của tôi! Đứa con gái khổ sở của tôi ơi! Con đi rồi thì mẹ biết sống thế nào đây hả, con ơi là con!”Người phụ nữ đó nằm sấp lên chiếc xe kéo, ôm lấy thân hình của con gái mình lắc đi lắc lại liên hồi, bà gào khóc thảm thiết, như thể trời sắp sập đến nơi vậy. Nhưng vì đứng không vững, nên cả thân hình của bà cùng với xác của con gái bà bị lật xuống khỏi xe, sau đó người phụ nữ này lại quỳ dậy ngửa mặt lên trời kêu gào đau khổ.

Kha Nghiêu thấy vậy liền quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Đỗ đại ca! Huynh xuống xem xem có cứu được cô gái kia không?”

Thẩm sư gia thấy vậy liền thấp giọng nói: “Xin đại nhân cân nhắc cho kỹ lưỡng rồi mới ra tay! Nếu như đại nhân ra tay cứu giúp người ta rồi, thì sẽ bị người khác chú ý, thân phận của chúng ta cũng vì thế mà bại lộ, ảnh hướng tới toàn bộ kế hoạch!”

Kha Nghiêu thấy vậy tức giận nói: “Mạng người là quan trọng! Vì đó không phải là người nhà của ông, nên ông không thương tiếc phải không?”

Thẩm sư gia nghe vậy liền thấp giọng nói: “Chúng ta bây giờ đi điều tra sự việc có liên quan đến tính mạng của hàng ngàn, hàng vạn con người, nó có liên hệ tới sự bình an của dân chúng. Vì vậy mà chúng ta phải chấp nhận hy sinh! Cho dù bây giờ cha mẹ của lão phu có bị bệnh chết ở nhà! Lão phu cũng quyết không để cho thân phận của đại nhân bị bại lộ! ”

Kha Nghiêu thấy vậy liền kéo tay áo của Đỗ Văn Hạo cầu cứu: “Đỗ đại ca! Lương y như từ mẫu! Lẽ nào huynh quên những lời dặn này của huynh cho muội nghe rồi hay sao?”

Thẩm sư gia nghe vậy liền sa sầm nét mặt lại nói: “Thưa đại nhân! Muốn làm được việc lớn, thì không được phép có lòng dạ của một người đàn bà, phải quyết đoán!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền gật gật đầu nói: “Ừm! Ta tự biết mình phải làm gì, chúng ta cứ xuống kia xem tình hình thế nào cái đã!” Nói xong hắn liền bước chân xuống phía bên dưới.

Kha Nghiêu thấy vậy thì vui mừng khôn tả, tí tởn chạy theo sau Đỗ Văn Hạo, còn Thẩm sư gia chỉ biết chắp tay ra đằng sau thở dài, lắc lắc đầu nói: “Lúc cần quyết đoán mà không quyết đoán, sẽ thành hậu hoạn vô cùng!”

Lâm Thanh Đại thấy vậy liền bước tới an ủi Thẩm sư gia nói: “Thẩm sư gia! Xin sư gia cứ an tâm, Văn Hạo huynh không phải đã nói rồi đó sao? Chàng sẽ biết lựa tình thế mà hành động, chúng ta đi thôi!”

“Lựa tình thế mà giải quyết thế nào được? Đây là thời khắc vô cùng quan trọng, chúng ta không nên can thiệp vào bất cứ việc gì có thể để lộ thân phận của chúng ta ra ngoài! Nếu không toàn bộ kế hoạch sẽ đổ sông, đổ bể hết! Tên Liêu Quý Binh không phải là nhân vật tầm thường, nếu như hắn biết đang tìm cách đối phó với hắn thì chắc chắn hắn sẽ hạ thủ chúng ta trước! Bây giờ ta ít địch nhiều, hơn nữa chúng ta bây giờ lại đang ở trong hang cọp, làm sao mà có thể vì chuyện nhỏ mà hỏng chuyện lớn như thế này được?

Lâm Thanh Đại nghe vậy liền nói: “Đối với Văn Hạo mà nói, thì việc cứu người mới là việc lớn, vì nói cho cùng chàng cũng chỉ là một đại phu, cứu người là thiên chức của chàng, chúng ta sao có thể cưỡng ép chàng cho được!”

“Vậy nhưng điều tra tên gi­an tặc Liêu Quý Binh kia lại có liên quan đến tính mạng của hàng vạn người! Thử hỏi cái nào lợi hại hơn?” Thẩm sư gia lắc đầu nói.

Lâm Thanh Đại nghe vậy mỉm cười đáp: “Vâng đúng vậy! Thẩm sư gia nói không sai chút nào cả, Văn Hạo cũng biết mình nên làm gì, và không nên làm gì, chúng ta cứ xuống kia xem tình hình ra sao đã!”

Nói xong, hai người liền vội vã chạy xuống bên phía dưới, qua bên kia hiệu thuốc.

Khi hai người vừa xuống đến nơi, thì thấy Đỗ Văn Hạo đang chen chúc vào giữa đám người đông đúc xem náo nhiệt, vậy nên hai người bèn âm thầm chen sát đến bên hắn, dò hỏi: “Tình hình như thế nào rồi?”

“Chết rồi!” Đỗ Văn Hạo thở dài nói.

Lâm Thanh Đại thấy vậy liền thở phào nhẹ nhõm, nàng bây giờ có thể an tâm Đỗ Văn Hạo không vì chuyện này mà bại lộ thân phận của mình, nhưng nàng lại thấy hắn không hề tiến gần xác chết mà cũng biết cô gái đó chết rồi, bất giác hiếu kì hỏi: “Sao chàng lại biết vậy?”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Nàng chú ý nhìn vào cái cổ của cô bé mà xem! Nàng có thấy cổ của cô ấy đã cứng ngắc hết cả lại rồi không? Đó là chứng cứ xác thực nhất để chứng minh cô bé đã chết, và chết cách đây ít nhất cũng được một canh giờ rồi!”

Lâm Thanh Đại nghe vậy liền ngước mắt lên nhìn, thì thấy người phụ nữ kia lắc con gái của mình mạnh như vậy, đầu của cô bé cứ lắc đi lắc lại nhưng vô cùng cứng ngắc, không hề giống với người vừa mới chết, trông vô cùng đáng sợ.

Kha Nghiêu dĩ nhiên cũng biết kết quả này, nên chỉ im lặng không nói câu gì.

Đúng vào lúc này, thì cách đó không xa có mấy tên bổ khoái đi tới, người chưa đến nơi, mà giọng nói đã quát tới: “Làm cái gì, làm cái gì đấy hả? Túm tụm ở đây làm cái gì hả? Muốn tạo phản à?”

Những người đứng xung quanh xem náo nhiệt liền vội vã tản hết ra một bên, đứng tít ở đằng xa theo dõi tình hình.

Mấy người Đỗ Văn Hạo cũng vội vã cúi đầu, đứng tránh sang một bên cùng với quần chúng.

Người phụ nữ kia thấy vậy, gào khóc nói: “Con gái của tôi ngã bị chết rồi thưa đại nhân!”

Một tên bổ khoái da ngăm ngăm nghe vậy liền hứ lên một tiếng, rồi nghiêm giọng quát: “Chết rồi, chết rồi! Chết rồi thì đem xác nó về chôn đi chứ ngồi ở đây làm gì? Những năm tháng như thế này, ngày nào mà chả có chục người chết hả? Nếu như người nhà người chết nào cũng ngồi khóc ngoài đường thế này thì thành loạn hết à hả? Mẹ con nhà bà có để cho người khác được yên không hả? Mau ôm lấy cái xác rồi cút về nhanh lên!”

Người phụ nữ kia đang đau buồn cùng cực, nhất thời không có phản ứng gì, vẫn ôm lấy xác con gái của mình mà gào khóc, một tên bổ khoái khác thấy vậy ngứa mắt liền tiến đến đạp vào người phụ nữ kia một cái, làm cho bà ta ngã lăn lộn dưới đất: “Mẹ mày! Mày bị điếc rồi hả? Lời nói của bổ đầu mày không nghe thấy hả? Mày mà không đi, thì bọn tao sẽ cho mày ăn cơm tù! Còn xác của con gái của mày thì tao vứt ra cho chó gặm, biết chưa hả?”

Người phụ nữ kia nghe vậy sợ quá, ôm chặt lấy xác của con gái mình, cố gắng đứng dậy, nhưng vì đau lòng quá mà hai chân của bà như mềm nhũn ra, còn xác của cô gái thì lại quá nặng, bà dường như không đủ sức để đưa xác của con gái mình lên trên xe kéo.

“Con mẹ nhà mày! Màv cố tình trêu tức ông mày hả?” Gã bổ đầu da ngăm đen kia lập tức rút thanh gươm ra khỏi vỏ, lưỡi gươm sáng quắc lấp lánh.

Người phụ nữ kia sợ quá, toàn thân như vỡ tan ra, ôm lấy xác của con gái mình, khóc thút thít đứng dậy, sau đó cố gắng lôi lấy bả vai của cái xác kéo lên trên vai mình. Nhưng mặc dù xác của cô gái đã cứng ngắc cả lại, nhưng nó chỉ cứng ở phần cổ và phần đầu, chứ các phần còn lại vẫn oặt ẹo như thường, chính vì vậy mà người phụ nữ kia mặc dù đã lấy hết sức nhưng xác của cô gái vẫn mềm nhũn lăn ở dưới đất.

Do người phụ nữ kia dùng lực quá mạnh, không những không kéo được xác của con gái mình lên, mà ngược lại lại làm cho quần áo của cô gái bị xé toạc ra, làm lộ cả làn da trắng ngần, suýt chút nữa thì lộ ra cả bộ ngực, điều này làm cho mấy tên vô lại đứng xem ở đằng xa, đều bật cười vô cùng khả ố.

Chương 369: Tú Phường (1)

Gã bổ đầu da ngăm đen kia trông thấy vậy, liền cười lên một cách thô bỉ và dâm đãng: “Ối chao chao! Thật không ngờ thân thể con gái của ngươi lại ngon lành đến vậy! Nếu mà chưa chết thì có thể đưa về hầu hạ ta một chuyến, xem xem cảm giác nó ngon ngọt đến đâu, ha ha ha!”

Câu nói này làm cho mấy tên vô lại đứng xung quanh lại cười phá lên một cách hèn hạ, những câu nói tục tĩu, bẩn thỉu tiếp theo sau đó văng ra như mưa, người phụ nữ kia vội vã ôm lấy xác của con gái mình đặt xuống đất, rồi nhanh tay áp sát vào người của mình, bế ngang ra, nhưng bất kể người phụ nữ này ra sức bao nhiêu, thì bà vẫn không bế nổi cái xác lên.

Khi nãy, Đỗ Văn Hạo cũng trông thấy làn da trắng ngần cùng với chiếc eo thon gọn của cô con gái của người phụ nữ kia, nhưng ánh mắt của hắn không phải nhìn vào đó, mà là nhìn vào những vết lằn đỏ ở trên eo của người chết, chắc chắn đó là vết hằn do cào cấu mà ra. Từ vị trí của vết cào, thì hắn biết được vết cào không thể nào do bản thân cô gái tự gây ra cho mình được. Chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo bất giác ý lên một tiếng ngạc nhiên, sau đó hắn lại tỉ mỉ quan sát tiếp thì phát hiện trên cánh tay của xác chết có những đường tím đỏ, những vết tích này đối với một người học Pháp Y như Đỗ Văn Hạo thì quá ư là quen thuộc. Đỗ Văn Hạo sau đó liền vội vã thấp giọng nói với Lâm Thanh Đại: “Cái chết của vị cô nương này có nhiều nghi vấn! Nàng đi giúp người phụ nữ kia một chuyến! Nghĩ cách hỏi cho rõ lý do dẫn đến cái chết của cô gái!”

“Để muội đi!” Kha Nghiêu nói xong liền bước luôn tới chỗ người phụ nữ kia, rồi ôm mặt khóc như mưa: “Tỷ tỷ! Tỷ bị làm sao vậy?” Vừa khóc Kha Nghiêu vừa lồm cồm bò đến gần xác chết, sau đó ôm lấy xác chết gào lên thảm thiết.

Do Kha Nghiêu cúi đầu quá thấp nên người phụ nữ kia không trông rõ mặt nàng được, vì vậy mà nhất thời cũng không biết nàng là ai.

Gã bổ khoái da ngăm đen kia thấy vậy liền đưa mắt lên nhìn Kha Nghiêu, thì thấy nàng ăn mặc kiểu nam nhi, nhưng lại nói bằng giọng con gái, nhìn kỹ thì thấy nàng mặt mày nhem nhuốc, cũng không phân biệt nam hay nữ nữa, nhưng mà ở thời xưa, những nhà nghèo khó không có tiền cho con ăn mặc, vì vậy mà không ít trường hợp con gái mặc quần áo con trai. Chính vì vậy mà tên bổ khoái cũng chẳng lấy gì làm lạ, tiến tới quát: “Con mẹ nhà mày! Mày khóc cái chó gì hả? Còn không mau đưa cái xác này đi chỗ khác?”

Nói xong gã bổ đầu da ngăm này liền giơ chân lên đạp Kha Nghiêu, Kha Nghiêu cũng đã có chuẩn bị từ trước, chuẩn bị sẵn tư thế, định nắm lấy chân của gã hất ngược lại, cho gã ngã một cú để đời.

Nhưng không ngờ gã bổ đầu da năm này khi vừa mới giơ chân lên, chưa kịp đạp vào người Kha Nghiêu, thì đã kêu lên thảm thiết, gã ngã ngửa người ra đằng sau, ôm lấy cái đầu gối của mình kêu cha kêu mẹ vì đau quá.

Những người dân đứng xung quanh thấy vậy thì chẳng hiểu gì cả, chẳng biết gã bổ đầu bị làm sao nữa, ngoại trừ Đỗ Văn Hạo, hắn trông thấy rõ động tác của Lâm Thanh Đại, cổ tay của nàng chỉ nhẹ nhàng phất lên một cái là gã bổ đầu kia đã nằm lăn ra đất kêu gào rồi.

Đỗ Văn Hạo biết là Lâm Thanh Đại đã ra tay, nhưng hắn không biết là nàng đã dùng vật gì để đả thương gã bổ đầu kia nữa.

Tên bổ khoái mặt ngựa đứng ở bên cạnh gã bổ đầu mặt đen, thấy thượng cấp của mình ngã ra như vậy, liền vội vã cúi người xuống xem xét, thì chỉ thấy chân của gã bổ đầu lúc này máu chảy ròng ròng, tên bổ khoái liền vội vã vén chiếc quần của tên bổ đầu lên, thì thấy nơi đầu gối của tên bổ đầu có găm một đồng tiền xu, đồng xu lúc này cắm ngập hơn nửa vào bên trong thịt của tên bổ đầu.

Tên bổ khoái trông thấy tình hình như vậy, biết là có cao thủ đã xuất hiện, vừa sợ vừa lo, vội vã rút đao ra gào thét để phô trương thanh thế: “Ai? Vị…vị cao nhân nào đã ra tay vậy? Tại sao lại đánh lén bổ đầu của chúng ta? Mau ra đây nhanh lên!”

Bọn bổ khoái biết rằng bây giờ bọn chúng cho dù có người đông, nhưng vẫn chưa thể là đối thủ của vị cao thủ này, chính vì vậy mà mặc dù cố gắng gào thét phô trương thanh thế, nhưng lại không dám ăn nói hỗn lão, chỉ sợ hỗn hào quá đỗi làm cho vị cao thủ kia nổi điên lên, rồi găm cho mình mấy đồng tiền vào người nữa thì nguy to.

Gã bổ đầu kia thì lại càng thấu hiểu sự tình, theo tình hình trước mắt thì gã cũng chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt, không dám làm liều, nhưng ngoài mặt thì vẫn cố vớt vát thể diện của mình, nghiến răng ken két thét lên: “Bọn chúng mày kêu gào cái gì hả? Ta không làm sao cả, chẳng qua là do ta bị trẹo chân đó thôi! Mau mau dìu ta về nhanh lên! Còn đứng đó làm gì bọn khốn!”

Mấy tên bổ khoái nghe vậy liền vội vã chạy đến dìu đỡ gã bổ đầu này lên, sau đó xiêu xiêu vẹo vẹo bỏ đi. Thậm chí cả lũ cũng chẳng còn dám mắng chửi người phụ nữ đang ngồi dưới đất kia nữa, vì trong bụng bọn chúng chỉ mong mau mau thoát khỏi đây, còn việc cái xác có để đây bao nhiêu lâu thì cũng mặc kệ, không thèm quan tâm nữa.

Kha Nghiêu lúc này cũng đã đoán ra được là Lâm Thanh Đại đã ra tay giúp nàng, nên nàng liền lấy hết sức giúp người phụ nữ kia kéo xác con gái của bà ta đặt lên trên xe. Kha Nghiêu lúc này vừa dụi mắt, vừa khóc lóc nói với người phụ nữ kia: “Thím ơi! Chúng ta đi thôi!” Nói xong nàng giúp người phụ nữ đẩy chiếc xe kéo này đi.

Người phụ nữ kia vì quá đau lòng trước sự ra đi của con gái, nên khi thấy Kha Nghiêu xông đến giúp đỡ cho mình, thì cho dù không nhận ra nàng là ai, nhưng nghe tiếng nói lại là tiếng của một cô gái, trong lòng thầm nhủ chắc là con nhà họ hàng xa, nên chỉ thầm cảm kích, cùng với Kha Nghiêu đẩy xe ra bên ngoài thành, những người dân đứng vây xung quanh xem náo nhiệt, cũng dần dần giải tán hết cả.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền quăng cho chưởng quầy của tửu điếm một ít bạc vụn để thanh toán tiền cơm nước, rồi nói mình có việc gấp phải giải quyết, một lúc sau mới quay lại, chưởng quầy nghe vậy liền luôn miệng vâng vâng dạ dạ, rất ngoan ngoãn.

Xong đâu đấy Đỗ Văn Hạo cùng với Thẩm sư già và Lâm Thanh Đại lặng lẽ đi theo sau Kha Nghiêu và người phụ nữ kia. Kha Nghiêu bây giờ vẫn vừa khóc vừa dò la tin tức: “Thím ơi! Chị của cháu làm sao mà chết vậy hả thím!”

Người phụ nữ kia gạt nước mắt đi rồi sụt sùi nói: “Sáng sớm hôm nay, thím đang làm việc ở ngoài đồng, bỗng nhiên nghe Vương đại ca chạy lại nói, Thảo Nhi…Thảo Nhi bị ngã ở một tửu lầu bên cạnh Tú Phường (Tú Phường là nơi chuyên thêu thùa may vá), thím liền bỏ dở công việc, vội vã chạy vào trong thành xem sao, vừa vào trong này thì thấy Thảo Nhi đã nằm đơ như cán cuốc, sắp tắt thở đến nơi! Thím liền chạy đi mượn xe kéo lại chở nó đi tìm đại phu, nhưng không ngờ! Thảo Nhi con của thím…hu…hu…hu.”

Kha Nghiêu nghe vậy cũng khóc theo, có lẽ cô gái này là người thêu thùa ở trong Tú Phường, Kha Nghiêu lại lên tiếng hỏi: “Vậy chuyện này chưởng quầy ở Tú Phường không quản sao thím?”

Người phụ nữ kia nghe vậy có phần lo lắng, đưa mắt dáo dác ra nhìn, sau đó ấp úng nói: “Chưởng quầy thì thím chưa gặp…” Nói đến đây người phụ nữ chợt nghĩ ra mình chưa hỏi cô gái giúp mình này là ai, vội vã quẹt nước mắt đi rồi hỏi: “Đúng rồi! Cô nương, cô là…”

Kha Nghiêu vốn đã nghĩ sẵn câu trả lời rồi, nên nấc nghẹn nói: “Cháu và chị Thảo Nhi vốn là hai chị em tốt của nhau, Thảo Nhi tỷ rất hay quan tâm và chăm sóc cho cháu, ngày hôm qua cháu có việc ra ngoài thành, khi quay lại thì…thì thấy Thảo Nhi tỷ đã chết rồi…hu…hu…hu…”

Người phụ nữ kia nghe vậy cũng không nghi ngờ gì cả, cũng tưởng là hai người quen nhau tại Tú Phường, kết thân làm chị em, nên vội kéo tay của Kha Nghiêu lại khóc rưng rức nói: “Cảm ơn cháu nhiều lắm!”

Kha Nghiêu lại khóc đáp: “Thím ơi! Thím định chuẩn bị việc hậu sự cho Thảo Nhi tỷ thế nào vậy?”

Người phụ nữ kia đáp: “Bây giờ còn thế nào nữa, chúng ta phải kéo nó về nhà chôn thôi! Hu hu hu” Người phụ nữ nói đến đây thì càng đau khổ hơn nữa, gia cảnh của bà vốn nghèo, không có thu nhập nào cả. Hồi trước toàn dựa hết vào tiền thêu thùa may vá của con gái gửi về mà sống qua ngày, bây giờ con gái chết rồi, về sau không biết nên sống ra sao nữa, nghĩ đến đây người phụ nữ lại càng cảm thấy cuộc đời lại càng bấp bệnh, bất giác khóc còn to hơn trước.

Kha Nghiêu thấy vậy bèn nói: “Thím sao không đi tìm chưởng quầy của Tú Phường mà hỏi cho ra nhẽ đi? Thảo Nhi tỷ rốt cuộc là vì sao mà chết, nếu mà tìm ra được nguyên nhân rồi, chúng ta có thể đòi tiền bọn họ để chôn cất cho Thảo Nhi tỷ cũng đáng lắm! Vì nói cho cùng thì người cũng chết tại nơi bọn họ! Đi, cháu đưa thím đi tìm chưởng quầy của bọn họ!”

Người phụ nữ kia nghe vậy liền đưa hai tay lên xua đi nói: “Thôi thôi, không cần nữa đâu, cảm ơn cháu, thím không muốn đi nữa!”

Kha Nghiêu ngạc nhiên nói: “Tại sao vậy thím?”

“Đây là do Thảo Nhi không cẩn thận ngã xuống cầu thang, nó mệnh khổ, số khổ nên phải chịu như vậy, cảm ơn cháu, thím không cần nữa đâu!” Nói xong người phụ nữ kia sợ Kha Nghiêu cố kéo bà đi đến Tú Phường, nên có phần hoảng loạn, vội vã đẩn chiếc xe đi càng nhanh càng tốt.

Kha Nghiêu thấy vậy liền chạy lên phía trước nói: “Thím ơi! Thím cũng đừng vì vậy mà buồn quá, Thảo Nhi tỷ làm ở nhà Tú Phưởng nào vậy? Cháu giúp thím đi tìm chưởng quầy!”

Người phụ nữ kia nghe vậy càng sợ hãi hơn, liên tục đưa tay lên xua đi, cũng không nói câu gì, chỉ cặm cụi cố đẩy xe đi thật nhanh, không muốn dây dưa gì với Kha Nghiêu nữa.

Kha Nghiêu lúc này ngoái đầu lại thấy mấy người Đỗ Văn Hạo đứng ở đằng xa đang trông về hướng này, liền cúi đầu buồn bã tiến về phía hắn nói: “Thưa chưởng quầy! Chỉ biết cô gái này tên là Thảo Nhi, là một người thêu thùa trong một Tú Phường. Sáng nay Thảo Nhi bị ngã cầu thang ở một nhà tửu lầu ở bên cạnh Tú Phường, vì thương nặng quá mà chết. Nhưng người phụ nữ kia cũng không chịu nói cho muội biết là nhà Tú Phường đó ở đâu, càng không muốn muội giúp bà ấy đi tìm chưởng quầy ở đó để lý luận, dường như bà ấy sợ cái gì đó!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy gật gật đầu nói: “Thôi chúng ta về ăn cơm trước cái đã.”

Bốn người sau đó lại quay về cái tửu điếm khi trước, chưởng quầy lúc này đang đứng mong chờ mòn mỏi, khi trông thấy bốn người Đỗ Văn Hạo quay lại, liền vội vã đon đả chạy đến đưa lên trên phòng ở lầu hai nói: “Mấy vị khách quan, rượu thịt đã chuẩn bị sẵn hết rồi ạ! Mời các vị khách quan lên lầu!”

Khi cả bốn người cùng lên lầu rồi, chưởng quầy liền đưa mắt ra nhìn Kha Nghiêu, bất giác hỏi: “Cô nương lần đầu tiên đến huyện này, tại sao lại quen con gái của người phụ nữ kia được nhỉ?”

Kha Nghiêu nghe thấy chưởng quầy hỏi vậy thì sững người, nhất thời không biết trả lời ra sao.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy cười nói: “Lúc nãy là do muội muội của ta thấy người phụ nữ kia đáng thương quá, vì vậy nên mới mạo muội nhận làm chị em với cô gái đã chết kia, hòng giúp người phụ nữ kia thôi!”

Chưởng quầy lúc này mới à lên một tiếng nói: “Thì ra là như vậy à! Ừm đúng là đáng thương thật!”

Kha Nghiêu thấy vậy liền lên tiếng hỏi: “Sao mà mấy vị quan sai ở đây lại hung ác như vậy nhỉ? Con gái người ta bị ngã đến đây chữa bệnh, không chữa được nên chết rồi, ai mà chẳng đau buồn, chẳng khóc lóc, nhưng sao mấy vị quan sai đó lại ép người quá đáng thế?”

“Cái này ha ha, cái này thì tiểu nhân cũng không biết!” Chưởng quầy nói xong liền theo phản xạ tự nhiên, nhìn quanh nhìn quất sau đó mới thấp giọng nói: “Tiểu nhân thấy mấy vị khách quan là người tốt bụng, nên tiểu nhân mới nhắc cho mấy vị khách quan biết! Ở cái đất Tĩnh Gi­ang Phủ này, thì nhất thiệt phải cẩn thận, đặc biệt là đừng có động tới mấy vị quan phủ nơi đây, càng không được phép dò la tin tức một cách bừa bãi!”

“Đa tạ chưởng quầy đã nhắc nhở!” Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Nghe nói là quý huyện có rất nhiều Tú Phường thì phải, ta cũng muốn muội muội của ta đến đó học thêm một chút, không biết chưởng quầy có thể giới thiệu cho bọn ta biết được không?”

Chương 369: Tú Phường (2)

Chưởng quầy nghe vậy liền cười đáp: “Khách quan đùa vui thật đấy, ai lại để cho muội muội của mình đi chịu khổ như vậy bao giờ? Ở cái huyện Lộc Cao này, những người đi học thêu thùa may vá, toàn là những đứa trẻ nghèo khổ thôi! Tất cả chỉ là muốn có miếng ăn­mới phải đi học cái đó để sinh sống!”

“Đến Tú Phường học thêu thùa lại khổ như vậy sao?” Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên hỏi.

Chưởng quầyn­ghe vậy liền nói: “Cái đó thì cũng không hẳn là vậy, nhưng mà khi đã vào trong đó rồi, thì coi như mình đã bán thân cho Tú Phường rồi! Sau khi học nghệ xong, xuất sư, thì cũng phải ở trong đó làm ba năm liên tục, một tháng chỉ được vài chục đồng tiền, làm việc thì cực nhọc đến chết, khổ cực lắm ạ!”

Thẩm sư gia nghe vậy bèn nói: “Chúng ta nghe nói Tĩnh Gi­ang Phủ các ngươi bị thiên tai phải không? Nơi đây ta thấy nhiều đồng ruộng, đồn điền hoang phế, đất thì rẻ mạt, ta cũng mua lấy một ít cho mình, vì nơi đây danh lam thắng cảnh khá đẹp, rất thích hợp cho việc hưởng thụ tuổi già ở đây!”

Vị chưởng quầy kia nghe vậy bèn cười nói: “Khách quan nói đúng rồi đấy! Chỗ này của tiểu nhân danh lam thắng cảnh đẹp mê người, đúng là một nơi rất tốt để hưởng thụ tuổi già, mua nhà mua cửa không có vấn đề gì cả! Nhưng mà, muốn mua ruộng, e rằng phải đi gặp Nha Môn mới được!”

Đỗ Văn Hạo và Thẩm sư gia nghe vậy đều đưa mắt lên nhìn nhau nói: “Thế có nghĩa là gì vậy?”

“Nha Môn đã có thông báo từ lâu rồi, trong bổn phủ, bổn huyện thì cấm tuyệt đối buôn bán ruộng đất cho tư nhân!” Chưởng quầy đáp.

“Vậy muốn bán ruộng thì làm thế nào?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

“Chỉ có thể cầm cố cho Nha Môn mà thôi, giá chỉ thu lại được có một nửa, và hạn chuộc lại là một năm, lợi nhuận là bốn phần, quá hạn không chuộc lại, thì bị coi là bán đứt, tất cả ruộng đất lúc này thuộc về Nha Môn quản lý!” Chưởng quầy nói.

“Thế Nha Môn bán với giá bao nhiêu vậy!” Đỗ Văn Hạo hỏi.

“Là giá của thị trường thôi! Mua rẻ bán đắt mà!” Chưởng quầy đáp.

Đỗ Văn Hạo giả bộ kinh ngạc nói: “Nếu mà như vậy thì người cầm cố ruộng đất thiệt quá còn gì nữa? Vậy thì chả ai muốn cầm cố cả!”

Chưởng quầy nghe vậy liền thấp giọng nói: “Những người đang đi vào đường cùng, không có tiền, thì còn có cách nào khác để chọn đâu?” Nói đến đây chưởng quầy đột nhiên thấy mình nói quá nhiều, vội vã khoát tay nói: “Thôi không nói nhiều nữa, mời khách quan dùng bữa!” Chưởng quầy nói xong, liền lui ra khép cửa lại cho bốn người Đỗ Văn Hạo dùng bữa.

Những lời nói của Chưởng quầy cũng giống y hệt những gì mà Tạ đại phu đã nói cho Đỗ Văn Hạo biết, cộng thêm, những việc trước đó nữa, bốn người lúc này chẳng có ai muốn ngồi ăn uống gì nữa.

Kha Nghiêu thấy Đỗ Văn Hạo sa sầm nét mặt, liền lọ mọ tiến về phía hắn, thấp giọng nói: “Đỗ đại ca! Chuyện của cô gái lúc nãy chúng ta có quản hay không vậy?”

Đỗ Văn Hạo quay sang nhìn Kha Nghiêu, thì liền thấy hai đôi mắt ngây thơ trong sáng cũng đang ngước nhìn mình mong đợi, liền nói: “Vậy muội nói xem chúng ta làm thế nào đây?”

Kha Nghiêu nghe vậy liền nói: “Theo như muội thấy thì việc này không hề đơn giản chút nào, người phụ nữ kia khi vừa nghe muội đề cập đến Tú Phường, muốn giúp bà ấy đến đó đòi tiền chôn cất thì vội vã bỏ đi, chắc chắn là có điều gì uẩn khúc!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền gật gật đầu nói: “Những vết thương trên người của cô gái đó cho thấy cô ta trước khi chết có dấu hiệu kháng cự! Hơn nữa những vết thương đó lại khá mới, trong đó nhất định có điều uẩn khúc rồi! Chúng ta không gặp thì thôi, đã gặp thì phải điều tra cho rõ mới được!”

Ba người kia nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy liền gật gật đầu tán đồng.

Sau khi ăn xong, bốn người Đỗ Văn Hạo liền hỏi nơi chốn của Tú Phường, sau đó liền xuống lầu đi đến đó.

Con đường này có tên là con đường thêu thùa, toàn bộ con đường đều là các Tú Phường, phía trước phía sau đều treo những thứ như tơ lụa, vải dệt… khi đi đến đây làm cho người ta như lạc vào những tiểu trấn nhở ở vùng Gi­ang Nam vậy.

Kha Nghiêu thấy vậy liền trợn mắt lên nói: “Ôi trời đất ơi! Sao mà nhiều Tú Phường thế này, chúng ta tìm nó kiểu gì đây?”

Lâm Thanh Đại nói: “Người phụ nữ kia không phải nói là cái Tú Phường kia nằm ở ngay cạnh một tửu lầu hay sao? Chúng ta cứ tìm xem đã!”

Bốn người liền đi bộ xuyên trên con đường thêu thùa này, phát hiện thấy nơi đây có ba tửu lầu, nhưng chỉ có một nhà là ở ngay sát bên Tú Phường, hai nhà còn lại thì không phải. Thế là cả bốn người liền dừng chân ở trước cửa Tú Phượng ở bên cạnh tửu lầu này, cả bốn cùng ngước mắt lên nhìn tấm biển treo ở phía trước, thì thấy nơi đây có ghi ba chữ:

“Phật Thủ Xuân”

Ngay trước cửa tửu lầu có một tên tiểu nhị thấy bốn người đi tới, liền nhiệt tình chạy tới đon đả nói: “Mấy vị khách quan muốn chọn đồ thêu thùa may mặc gì ạ?”

Kha Nghiêu nghe vậy khệnh khạng nói: “Ừm! Để ta xem hàng của nhà ngươi có đủ không cái đã! Chúng ta cần nhiều thứ lắm!”

“Phật Thủ Xuân của tiểu nhân là một Tú Phường to nhất ở đây, nếu như hàng của tiểu nhân mà không đủ, thì khách quan chắc cũng chẳng thể nào tìm đủ hàng được nơi khác đâu! Hề hề, không biết mấy vị khách quan muốn mua bao nhiêu!”

Kha Nghiêu nghe xong liền hứ lên một tiếng rồi nói: “Nghe khẩu khí của ngươi có vẻ khinh thường bọn ta! Chúng ta muốn một trăm thước lụa cao cấp, trung cấp hai ba trăm thước, ngươi có không hả?”

Tên tiểu nhị nghe xong thì thấy khẩu khí của mấy người này đúng là không nhỏ, nhưng khi nhìn lại cách ăn mặc của bọn họ thì cũng chẳng có vẻ gì có tiền. Nhưng mà người có tiền thường không hay lộ ra cho người khác biết mình có tiền, thấy bộ dạng bọn họ đúng là muốn mua hàng thật, nên tên tiểu nhị nghĩ đây đúng là gặp phải mấy vị khách sộp, vậy nên nghe Kha Nghiêu nói xong liền đon đả cười niềm nở: “Mấy vị khách quan muốn số lượng nhiều như vậy, thì chắc phải để bọn tiểu nhân thư thả thêm mấy ngày nữa, chất lượng thì mấy vị khách quan cứ yên tâm, tuyệt đối là tốt! Mời mấy vị khách quan vào trong này uống trà, để tiểu nhân vào mời chưởng quầy ra tiếp chuyện các vị!”

Mấy người Đỗ Văn Hạo nghe xong liền vén áo bước vào bên trong, theo sau gót tên tiểu nhị đến một cái phòng khách ngồi xuống chờ đợi.

Đỗ Văn Hạo lại còn bảo tên tiểu nhị đem một ít vật phẩm trong này lên xem, sau khi xem xét một hồi hắn mới lên tiếng nói: “Chỗ Tú Phường này của các ngươi có phải có một cô gái tên Thảo Nhi đúng không?”

Tên tiểu nhị kia sững người, nhưng rất nhanh lại mỉm cười nói: “Đại gia! Người hỏi Thảo Nhi để làm gì ạ?”

“Chúng ta ở bên nhà Tú Phường bên cạnh nghe nói Thảo Nhi thêu thùa rất đẹp, chính vì vậy mà đến đây thăm hỏi thôi, nếu như đúng là những vật phẩm do Thảo Nhi thêu, thì có bao nhiêu bọn ta mua hết bấy nhiêu, tiền không thành vấn đề, ngươi có thể gọi Thảo Nhi ra đây cho ta nói chuyện được không?”

Tên tiểu nhị nghe vậy liền nói: “Dạ thành thật xin lỗi! Thảo Nhi không còn ở chỗ tiểu nhân làm việc nữa rồi!”

Kha Nghiêu nghe vậy nói: “Thật không hả? Chúng ta nghe nói tay nghề thêu thùa may vá của Thảo Nhi là tuyệt đỉnh ở đây, chính vì vậy mà chúng ta ngưỡng mộ mà đến đây nhập hàng đó! Không biết Thảo Nhi gặp chuyện gì bất trắc rồi?”

Tên tiểu nhị nghe vậy bỗng nhiên cảm thấy khó chịu, lạnh lùng nói: “Bốn vị khách quan, nếu như đến đây mua bán thì tiểu nhân hết mực hoan nghênh, nhưng nếu như muốn đến đây dò la tin tức, thì xin lỗi!”

Kha Nghiêu đang định phát tác, thì Đỗ Văn Hạo đưa tay lên vỗ vỗ yào lưng của nàng, rồi đứng dậy nói: “Bọn ta cũng chỉ là hiếu kỳ nên hỏi vậy thôi, chọn đồ thêu thùa thì dĩ nhiên là phải biết người thêu nó là ai, nếu như ngươi có ý như vậy thì thôi! Cáo từ!”

Người đó thấy Đỗ Văn Hạo nói cũng có lý, liền chạy tới niềm nở nói: “Mấy vị đại gia! Tú Phường của bọn tiểu nhân có nhiều người tay nghề cũng khá lắm, mấy vị có thể ra đằng sau xem là biết ngay tiểu nhân không hề nói điêu!”

Kha Nghiêu nghe vậy hứ lên một tiếng rồi nói: “Chúng ta là người buôn bán, đến đây để mua hàng, chứ không phải đến đây để chuốc cái tức vào mình, cái bộ dạng lúc nãy của ngươi rất là khó chịu, ta không muôn mua bán gì với ngươi nữa!”

“Ối! Xin đừng, tiểu nhân xin lỗi các vị đại gia, như vậy đã được chưa ạ? Thảo Nhi cô nương mấy ngày trước đã không ở Tú Phường của tiểu nhân nữa rồi, mấy vị có đi đến các Tú Phường khác tìm, cũng không tìm thấy đâu! Bọn tiểu nhân còn có nhiều người thêu thùa còn đẹp hơn cả Thảo Nhi nữa cơ!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền chắp tay nói: “Nếu mà thế này thì chúng ta đúng là đành phải đi xem từng nhà trước cái đã, nếu như không thấy có nhà nào tốt bẳng, thì chúng ta sẽ quay lại!”

Tên tiểu nhị nghe vậy, liền gật gật đầu nói: “Vâng, thế cũng được ạ! Toàn bộ con đường thêu dệt này thì Tú Phường của tiểu nhân là nơi rẻ mà lại đẹp nhất, đại gia cứ việc đi xem, tiểu nhân hoan nghênh đại gia quay lại!”

Bốn người sau đó liền đi ra ngoài, rồi sang tửu lâu ở bên cạnh Phật Thủ Xuân, ngước mắt lên nhìn thì thấy tấm biển nơi đây cũng ghi ba chữ: “Tiêu Diêu Lầu”

Tấm đá ở trước cửa tửu lầu này còn ươn ướt, chắc chắn là mới rửa qua, chỗ này dường như đúng là chỗ mà Thảo Nhi vong mạng, nhưng không trông thấy bất kỳ vết máu nào cả.

Kha Nghiêu lúc này nói: “Chúng ta vào trong hỏi thôi!”

Đỗ Văn Hạo liền nói: “Trông bộ dạng chúng ta thế này, vào trong đó dò hỏi, e rằng bọn họ cũng chẳng thèm trả lời chúng ta, có khi còn báo quan nữa cũng nên! ”

Kha Nghiêu cau mày nói: “Vậy chúng ta phải làm sao đây?” Nói xong nàng đột nhiên đưa mắt lên nhìn vào trong ngõ chéo đối điện với Tiêu Diêu Lầu, phát hiện ra nơi đó có mấy đứa nhóc ăn mày đang ngồi ở đó, một ý nghĩ bỗng hiện ra trong đầu của nàng. Kha Nghiêu liền quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Mấy người bọn huynh cứ lên trước đi, chờ muội một chút, muội sẽ lên sau!”

Đỗ Văn Hạo thấy Kha Nghiêu trông sang phía mấy đứa nhóc ăn mày thì cũng đoán ra được ý nghĩ của nàng, hắn liền gật gật đầu đồng ý, sau đó liền dẫn Lâm Thanh Đại, cùng Thẩm sư gia đi lên Tiêu Diêu Lầu.

Kha Nghiêu sau đó liền đi đến một nơi bán bánh bao cách đó không xa, nàng mua liền một lồng bánh bao nhân thịt, rồi cầm nó đi vào trong chiếc ngõ chéo đối diện với Tiêu Diêu Lầu.

Mấy đứa nhóc ăn mày đang nằm dựa vào góc tường, ngửi thấy mùi thơm từ bánh bao phát ra, mắt trợn tròn lên nhìn chằm chằm vào lồng bánh bao trong tay của Kha Nghiêu.

Kha Nghiêu lúc này liền ngồi xuống, đưa mũi lên hít một cách vô cùng ngon lành, rồi nói: “A! Cái lồng bánh bao này thơm thật đấy!”

Mấy đứa nhóc ăn mày kia thấy vậy, liền nuốt nước bọt ừng ực, hai mắt dán chặt vào cái lồng bánh bao thơm phúc vẫn còn đang bốc khói nghi ngút kia,

Kha Nghiêu liền nói: “Muốn ăn không?”

Mấy đứa nhóc ăn mày liền gật đầu lia lịa.

“Được! Tỷ tỷ bây giờ hỏi mấy đứa ba câu hỏi! Nếu như trả lời làm cho tỷ tỷ vừa lòng thì lồng bánh bao này sẽ thuộc về mấy đứa!”

Mấy đứa nhóc ăn mày nghe vậy lại gật đâu lia lịa.

“Câu hỏi đầu tiên, sáng sớm hôm nay mấy đứa có ở đây không?” Kha Nghiêu mỉm cười nói.

Mấy đứa ăn mày lại gật đầu đáp lại.

“Được, tốt lắm! Câu hỏi thứ hai, mấy hôm trước tại sao nơi đây không hề có bất kỳ một người ăn mày nào cả, nhưng hôm nay lại xuất hiện nhiều như vậy?” Kha Nghiêu thắc mắc.

Một đứa nhóc có vẻ lớn tuổi nhất chỗ này đang nuốt nước bọt ừng ực đáp: “Mấy hôm đó là do quan sai đại nhân nói với bọn em rằng, ăn mày không được xuất hiện ở đây, sau đó gi­am chúng em ở một doanh trại bên ngoài thành, mỗi ngày chỉ cho ăn có nửa bát cháo loãng, có mấy người lớn tuổi vì bệnh nặng quá nên đã chết ở đó! Mãi đến đêm hôm qua bọn em mới được thả ra ngoài!”

Mấy đứa nhóc ăn mày nghe xong liền đồng loạt gật đầu, sau đó lại đưa mắt lên dán chật vào lồng bánh bao trên tay của Kha Nghiêu, nước dãi cứ thế chảy ra ầm ầm.

“Đúng là một bọn súc sinh!” Kha Nghiêu căm hận lẩm bẩm, rồi nói: “Ừm! Mấy đứa trả lời tốt lắm, tỷ tỷ vô cùng hài lòng, tỷ tỷ thưởng cho mỗi đứa một cái bánh bao! Nhưng tỷ tỷ còn một câu hỏi thứ ba nữa, và cũng là câu hỏi quan trọng nhất, trả lời tốt thì toàn bộ cái lồng bánh bao này sẽ thuộc về mấy đứa!”

Nói xong, nàng liền lấy bánh bao ra phân phát cho mỗi đứa một cái.

Mấy đứa nhóc ăn mày đưa cánh tay bẩn bẩn của mình ra nhận lấy bánh bao, bọn chúng dường như không hề nhai gì cả, mà cầm nguyên cả cái bánh bao cho thẳng vào miệng, rồi nuốt chửng đến ực một cái, sau đó lại há miệng ra tiếp tục dán mắt vào lồng bánh bao trong tay của Kha Nghiêu, một đứa nhỏ tuổi nhất lên tiếng nói: “Tỷ tỷ! Tỷ tỷ hỏi câu hỏi thứ ba đi!”

“Được! Mấy đứa nghe kỹ nhé, sáng sớm ngày hôm nay, ở cái lầu Tiêu Diêu Lầu đối diện kia, có một cô nương bị ngã chết, nói cho tỷ tỷ biết, cô ấy sao mà bị ngã chết vậy?”

Chương 370: Bí mật bắt cóc

Đứa ăn mày nhỏ tuổi kia đang chuẩn bị mở miệng trả lời, thì đứa lớn tuổi liền vội vã giơ chân lên đá nó một cái, sau đó sợ hãi nói: “Bọn em không biết, bọn em không nhìn thấy bất kỳ thứ gì cả!”

Kha Nghiêu nhìn rõ hành động này của nó, nhưng nàng không tức giận, mà ngược lại mỉm cười nói: “Mấy đứa không phải ngày nào cũng ngồi chầu trực ở đây hay sao? Làm gì có chuyện không biết được? Mấy chiếc bánh bao này thơm lắm đấy!”

Mấy đứa ăn mày này hai mắt cứ mở to tròn nhìn chằm chằm vào lồng bánh bao như muốn ăn tươi nuốt sống nó vậy, bụng của bọn chúng vốn đã trống rỗng, giờ đây trông thấy cái ăn được bày ra trước mắt thì tất cả đều réo lên sôi sùng sục như trống kéo quân vậy.

Vậy nhưng đứa ăn mày lớn tuổi kia vẫn cố gắng lắc lắc đầu nói: “Tỷ tỷ! Bọn em đúng là không nhìn thấy cái gì thật đấy, sáng sớm hôm nay tất cả bọn em đều nằm ngủ không biết cái gì cả!”

“Không thể có chuyện thế được, chuyện một người bị ngã từ trên lầu kia xuống lớn đến như vậy mà mấy đứa vẫn còn ngủ được hay sao hả?” Kha Nghiêu nói.

Đứa ăn mày lớn tuổi kia nghe vậy liền đưa mắt ra hai bên nhìn dáo dác, sau đó kéo mấy đứa ăn mày khác lùi lại hai bước nói: “Bọn em đúng là ngủ thật mà! Chúng mày thấy tao nói có đúng không hả?” Đứa ăn mày lớn tuổi quay sang mấy đứa nhỏ hơn hỏi.

Mấy đứa ăn mày bé tuổi kia liền gật gật đầu một cách miễn cưỡng.

Kha Nghiêu thấy vậy thì cũng chỉ biết cười khổ trong lòng mà thôi. Nếu như ngay cả đến mấy đứa ăn mày này mà cũng không dám nói ra sự thật, thì điều đó chứng tỏ rằng đó là một việc vô cùng trọng đại, và vấn đề vô cùng nghiêm trọng. Kha Nghiêu biết vậy liền đặt lồng bánh bao xuống dưới đất rồi nói: “Vị cô nương bị chết kia là một người chị em vô cùng thân thiết của ta! Ta chỉ muốn điều tra cho rõ ràng vì sao cô ấy lại bị chết thôi! Nếu như mấy đứa trông thấy mà không dám lên tiếng, thì ta cũng chẳng còn cách nào khác nữa, ta cũng không muốn ép người quá đáng, chỗ bánh bao này cho mấy đứa đó!”

Kha Nghiêu nói xong, liền đứng thẳng người dậy rồi đi ra ngoài nõ, bước thẳng lên lầu Tiêu Diêu.

Mấy đứa ăn mày lúc này thấy Kha Nghiêu đi rồi, liền vội vã chạy đến vồ lấy cái lồng bánh bao, rồi chạy vắt giò lên cổ, rất nhanh bọn chúng đã biến mất trong ngõ hẻm.

Mấy người Đỗ Văn Hạo lúc này ngồi trên lầu trên của Tiêu Diêu lầu, khách khứa ở đây khá đông, khó khăn lắm hắn mới tìm được chỗ để ngồi xuống, tiểu nhị lúc này đã bưng lên ấm trà, Thẩm sư gia liền chọn vài món ăn cùng với một ít rượu.

Đúng lúc tên tiểu nhị định rời khỏi đây thì Đỗ Văn Hạo liền gọi giật lại, sau đó lấy trong túi ra một ít tiền, đặt lên mặt bàn rồi đẩy ra phía tên tiểu nhị nói: “Cái này cho ngươi! Ta có chuyện này muốn hỏi ngươi một chút!”

Tên tiểu nhị kia thấy vậy thì tươi cười vui vẻ, vội vã cầm đống tiền lên nhét vào trong người rồi nói: “Khách quan có gì cứ việc hỏi, ở cái huyện Lộc Cao này thì không có gì là tiểu nhân không biết cả!”

“Ố! Vậy thì tốt lắm! Sáng hôm nay ta đến đây đi ngang qua chỗ tửu lầu của nhà ngươi, thì thấy mấy đứa tiểu nhị ở đây đang dội nước cọ rửa mặt sàn, trên đó có cả vết máu! Có chuyện gì xảy ra vậy hả?” Đỗ Văn Hạo lân la dò hỏi.

Khi vừa nghe Đỗ Văn Hạo hỏi như vậy, thì nụ cười của tên tiểu nhị đột nhiên tắt hẳn, cả gương mặt của gã cương cứng, đưa mắt ra nhìn xung quanh, rồi thấp giọng nói: “Là một vị cô nương, từ trên lầu, à…là xảy chân ngã từ trên lầu xuống, hề hề cô ta không cẩn thận chút nào cả!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thấy bất hợp lý liền cố hỏi: “Ta thấy thành lan can trên lầu hai của tửu lầu này khá cao, vị cô nương kia làm sao mà trượt chân ngã xuống bên dưới kia được cơ chứ?”

Gã tiểu nhị liền lấm lét nói: “Cái này, cái này…à…lúc đó tiểu nhân không thấy, vì tiểu nhân đang bận ở trong bếp!”

“Ố! Thật không vậy? Ngươi là tiểu nhị, thì chức trách là đi tiếp đón khách chứ! Tại sao ngươi lại chạy vào bếp làm cái gì vậy hả?” Đỗ Văn Hạo vẫn không buông tha cho tên tiểu nhị kia.

Tên tiểu nhị thấy câu nói của mình bị Đỗ Văn Hạo lật tẩy ra như vậy thì hoảng quá, vội vã cúi người nói: “À không không…tiểu nhân nhớ nhầm…ha…ha…lúc đó tiểu nhân đang đi vệ sinh, thật đúng là không trông thấy cái gì cả, thành thật xin lỗi khách quan…xin khách quan chờ cho một lát, tiểu nhân bây giờ sẽ vào trong bếp đưa thực đơn cho nhà bếp chuẩn bị món ăn cho khác quan!” Tên tiểu nhị nói xong, liền vội vã chạy xuống bên dưới.

Lâm Thanh Đại thấy vậy liền thấp giọng nói: “Nơi đây đúng là có vấn đề thật rồi!”

Đỗ Văn Hạo cũng gật đầu nói: “Ừm! Không biết con tiểu nha đầu Kha Nghiêu kia thế nào rồi, có dò la được thêm tin tức gì không nữa?” Đỗ Văn Hạo vừa nói dứt lời, thì đã trông thấy Kha Nghiêu đi lên trên lầu.

Kha Nghiêu vừa lên tới nơi đã trông thấy bàn của Đỗ Văn Hạo, nàng liền đi tới ngồi xuống thở dài lên một tiếng não nề, sau đó cầm lấy tách trà lên uống luôn một hơi cạn sạch, rồi thấp giọng nói: “Muội nghĩ mấy đứa ăn mày đó chắc chắn là đã trông thấy cái gì rồi, nhưng mà bọn chúng lại không dám nói ra!”

Lâm Thanh Đại nghe vậy liền thấp giọng nói: “Càng như vậy thì càng chứng tỏ rằng Thảo Nhi không phải là do trượt chân ngã xuống mà chết được!”

Kha Nghiêu lúc này gãi đầu nói: “Bây giờ chúng ta phải làm sao đây?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Chúng ta cứ làm theo kế hoạch đã vạch sẵn thôi!”

Kha Nghiêu trợn tròn mắt kinh ngạc hỏi: “Kế hoạch? Kế hoạch gì vậy hả Đỗ đại ca?”

“Chờ chút nữa thì muội sẽ biết ngay thôi!” Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói một cách thần bí.

“Hứ! Huynh lại lên mặt rồi kìa! Huynh không nói thì thôi, muội cũng chẳng thèm nghe!” Kha Nghiêu nói xong liền quay mặt sang chỗ khác.

Bốn người do lúc nãy đã ăn uống xong hết cả rồi, nên khi thức ăn đưa lên cũng chỉ nhấm nháp vài miếng, xong sau đó liền thanh toán tiền đi xuống dưới lầu.

Khi vừa mới ra khỏi cổng của Tiêu Diêu lầu, Kha Nghiêu liền theo phản xạ tự nhiên hướng về phía ngõ đối diện nhìn một cái, đột nhiên nàng trông thấy tít phía bên trong đó, có một đứa ăn mặt ngồi chồm hỗm trong góc tường giơ tay vẫy vẫy nàng.

Kha Nghiêu mừng thầm trong bụng, quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “À! Đỗ đại ca này! Mấy người cứ đi trước đi nhé! Muội đi ra kia xem mấy đứa ăn mày bảo gì cái đã, dường như chúng có điều gì muốn nói với muội thì phải!”

Kha Nghiêu nói xong liền cúi thấp đầu xuống đi về phía cái ngõ nhỏ đó, sau đó nàng bước đi nhanh hơn đến trước mặt đứa ăn mày kia. Kha Nghiêu lúc này mới nhận ra đứa ăn mày này chính là đứa lớn tuổi ban nãy, trông bộ dạng của nó vô cùng lo lắng, không ngừng ngó trước ngó sau, khi thấy Kha Nghiêu đến gần mình rồi nó liền đưa tay ra hiệu cho Kha Nghiêu ngồi thấp xuống.

Chờ cho Kha Nghiêu ngồi thấp xuống rồi, thì đứa ăn mày lớn tuổi này mới nhanh miệng nói: “Người chị em ban nãy của tỷ là do bị tên bổ đầu da ngăm đen của Huyện Nha và tên bổ khoái mặt ngựa ném từ trên lầu Tiêu Diêu xuống làm chết đó! Tỷ đừng nói là em nói cho tỷ biết đấy nhé!” Nói xong đứa ăn mày lớn tuổi này liền lẩn nhanh như con trạch, thoáng cái đã mất hút không thấy bóng dáng nữa đâu cả.

Kha Nghiêu nghe xong mà run lẩy bẩy cả người, cô nghiến răng ken két nói: “Chả trách bọn chúng lại hung hăng đòi đuổi người ta đi nhanh như vậy, thì ra là hai tên cẩu tặc này gây ra cái chết cho Thảo Nhi, bọn khốn! Rồi chúng mày sẽ phải trả giá!”

Kha Nghiêu lúc này liền đứng dậy đi ra khỏi ngõ nhỏ đuổi theo Đỗ Văn Hạo, đem chuyện này kể cho ba người nghe, ai nấy nghe xong cũng đều biến sắc, Lâm Thanh Đại căm phẫn nói: “Hôm nay thiếp sẽ cho hai tên dâm tặc đó về chầu diêm vương!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền khoát tay lên nói: “Làm như thì thật dễ dàng cho bọn chúng quá! Chúng ta phải đường đường chính chính bắt chúng nó về chịu tội trước pháp luật, để làm gương cho những người khác! Nàng chỉ cần làm theo những bước đúng như trong kế hoạch mà ta đã định sẵn ra là được rồi!” Nói xong, Đỗ Văn Hạo liền xích đến gần Lâm Thanh Đại, thì thầm mấy câu.

Lâm Thanh Đại nghe xong liền gật gù nói: “Phương pháp này hay thật đấy!”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Chờ cho việc này làm xong rồi, thì mọi người đi ra Nha Môn nhé!”

Kha Nghiêu nghe xong trợn tròn mắt kinh ngạc nói: “Ra đó làm gì vậy hả chưởng quầy?”

Đỗ Văn Hạo cũng trợn tròn mắt lại trêu nàng nói: “Ra đó đánh trống kêu oan chứ làm gì nữa!”

Kha Nghiêu thấy vậy nhăn mặt nói: “Làm vậy thì chúng ta bị bại lộ thân phận là cái chắc, như vậy thì chuyện của Liêu Quý Binh…”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền mỉm cười nói: “Lẽ nào muội không tin vào thuật hóa trang của Lâm Thanh Đại hay sao hả? Bây giờ chúng ta đã hóa trang hết cả rồi, ta thấy khả năng hóa trang của nàng rất tốt, chắc chắn sẽ không bị phát giác đâu, bọn chúng chắc chắn sẽ không thể ngờ được là chúng ta lại xuất hiện ở đây trong lúc này!”

Kha Nghiêu nghe vậy liền nói: “Nhưng nếu chúng ta đi đánh trống kêu oan cho Thảo Nhi, thì chắc chắn tên quan huyện đó sẽ không chịu nghe đâu, có khi lại cho chúng ta mấy cái gậy vào mông nữa cũng nên!”

“Đó cũng là chuyện bình thường mà! Nếu mà nó không đánh thì mới là bất bình thường. Sao vậy? Muội sợ rồi hả?” Đỗ Văn Hạo nhìn Kha Nghiêu với ánh mắt khiêu khích nói.

“Ai sợ cơ chứ? Đi thì đi ai sợ cái gì!” Kha Nghiêu ưỡn ngực lên, nét mặt oai hùng nói: “Vậy nhưng mấy người bọn huynh thì làm gì?”

“Cũng ra Nha Môn cùng với muội chứ đi đâu! Muội cứ ở phía đằng trước, còn bọn ta ở phía sau, bọn ta cũng cần phải đến Nha Môn!” Đỗ Văn Hạo đáp.

“Huynh đến đó làm gì? Cũng đánh trống kêu oan sao?” Kha Nghiêu nghi hoặc nói.

“Ở Nha Môn ngoại trừ cái việc đánh trống kêu oan ra, lẽ nào không còn việc khác để làm nữa hay sao hả?” Đỗ Văn Hạo cười nói: “Nghe nói các huyện phủ của Tĩnh Gi­ang Phủ này có nhiều việc để làm lắm, ví dụ như: Cưỡng chế mua bán ruộng đất của nông dân­buôn bán người bất hợp pháp này…v…v…! Bây giờ bọn chúng còn có một việc làm nữa đó chính là giết người, gây án mạng nữa! Dĩ nhiên, chúng ta vẫn còn phải cần đến chứng cứ, cầm chứng cứ đến đó rồi thì mới dễ nói chuyện được!”

“Hả?” Lâm Thanh Đại và Kha Nghiêu cùng kêu lên kinh ngạc nói: “Có chứng cứ gì vậy?”

Thẩm sư gia nghe vậy liền mỉm cười thấp giọng nói: “Không cần phải hỏi đâu! Đại nhân đã có đủ tất cả những thứ cần thiết rồi, mấy người chỉ cần ngoan ngoãn nghe theo lời của đại nhân hành sự là được rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền mỉm cười nói: “Cũng chẳng phải ta nghĩ ra những mưu mẹo tinh vi và cao diệu như vậy đâu, tất cả đều là do Thẩm sư gia nhắc nhở bảo cho ta biết đó!”

Thẩm sư gia thấy vậy liền cúi người nói: “Đại nhân khiêm tốn quá rồi!”

Lúc này tại căn phòng dành riêng cho các bổ khoái, tên bổ đầu da ngăm đang ôm lấy đầu gối của mình rên lên từng cơn, gã đang được một vị đại phu gắp những đồng tiền găm nơi đầu gối của gã xuống, xong rồi vị đại phu đó liền băng bó lại cho gã.

Gã bổ đầu mặt đen vừa kêu gào thảm thiết vừa nghiến răng nghiến lợi, căm hận nói: “Con mẹ nhà nó chứ! Ông mày mà biết thằng khốn nào đánh trộm ông mày, ông mày sẽ cho nó chết không toàn thây!”

Vị đại phu kia sau khi băng bó cẩn thận xong đâu đấy hết rồi, liền cáo từ ra về, trong phòng lúc này chỉ còn mỗi gã bổ đầu da ngăm, và gã bổ khoái mặt ngựa. Gã mặt ngựa lúc này đi ra khép cửa lại, sau đó quay sang gã da ngăm kia thấp giọng nói: “Bổ đầu! Tên khốn mà đánh lén huynh đó lẽ nào biết được chuyện chúng ta ban sáng hất con nhóc kia từ trên lầu xuống dưới đất chết hả? Lẽ nào nó muốn tìm chúng ta để trả thù?”

Gã da ngăm nghe vậy liền đưa tay lên gõ luôn vào đầu gã mặt ngựa một cái rõ đau, tức giận nói: “Con mẹ mày! Bên trong đầu mày toàn là đại tiện hả con? Nó mà vì chuyện này mà trả thù, thì nó còn để cho tao sống hả thằng ngu? Con nhóc đó là do tao và mày cưỡng bức không được mới vứt nó xuống đất như vậy, nếu như thằng khốn kia mà biết được thì mấy cái đồng tiền kia không chỉ găm vào đầu gối tao đâu, mà nó sẽ găm cả vào cổ họng cả tao lẫn mày rồi, thằng ngu!”

“Dạ vâng vâng! Đại ca nói đúng lắm ạ! Ha ha ha, nhưng cũng công nhận là con ranh đó nó cũng cứng thật, sống chết thế nào cũng không chịu chiều chúng ta một cái, nhưng sau chuyện này, thì về sau cả cái đường thêu dệt đó đều sợ đại ca hết! Lần sau chúng ta đến đó uống rượu muốn tìm mấy cô nàng xinh đẹp ngồi hầu hạ, e rằng khó rồi, vì bọn chúng chẳng đứa nào dám ngồi nữa, nhưng mà đã đến rồi thì chắc cũng không dám từ chối anh em ta như con ranh đó nữa ha ha ha!” Gã mặt ngựa cười lên khả ố.

“Ừm! Cái Phật Thủ Xuân đó là của lão gia chúng ta, mấy cô em làm trong đó cũng là người của chúng ta thôi! Con mẹ nó chứ! Không nghe lời ông hả, ông cho chúng mày chết không có chỗ chôn, hố hố hố” Tên bổ đầu dặn ra cười lên một cách bệnh hoạn.

Đúng vào lúc này, thì một luồng gió mát thổi đến, từ trên xà nhà một bóng người nhẹ nhàng hạ xuống, người này che mặt, mặc quần áo đen, trong tay lăm lăm một con dao sắc nhọn, sáng quắc.

Gã mặt ngựa phản xạ rất nhanh, rút luôn thanh gươm bên hông ra, còn gã da ngăm thì lập tức há mồm gào thét kêu cứu.

Người mặc đồ đen nọ lắc tay một cái, mấy đồng tiền xé gió kêu lên vùn vụt bay về phía hai tên dâm tặc này, chỉ nghe bộp bộp bộp liền mấy tiếng, hai tên dâm tặc cảm thấy toàn thân đau nói, không kêu thét thêm được câu nào nữa, đầu óc bọn chúng quay cuồng, rồi ầm lên một tiếng, cả hai cùng đổ gục xuống như hai cây chuối.

Khi hai tên khốn này mở mắt tỉnh lại, thì đã phát hiện ra bọn chúng đang nằm trong một căn phòng tối đen như mực, cả thân thể bị trói gô lại như gói giò, không tài nào cựa quậy nổi.

Lúc này có một giọng đàn ông lạnh lẽo vang lên: “Hai tên khốn này! Mau mau khai ra tất cả quá trình các ngươi đã hất Thảo Nhi cô nương từ trên gác Tiêu Diêu lầu xuống chết như thế nào cho ta nghe! Còn nữa, đem hết những chuyện các ngươi chèn ép dân chúng, hoành hành ngang ngược ra nói hết cho ta biết! Nếu không ta sẽ cho các ngươi biết thế nào là sống không bằng chết!”

Gã da ngăm nghe vậy hoảng hốt hỏi: “Ngươi…ngươi là ai vậy?”

Vừa mới lên tiếng, thì gã lập tức bị đá một cú như trời giáng vào đầu, cú đá này làm cho hai mắt của gã nổ đom đóm, sao bay đầy trời, tiếp sau đó một giọng nữ nhân vang lên: “Ai cho phép ngươi được lên tiếng hả? Hỏi ngươi cái gì, thì trả lời cái đó nghe chưa?”

“Dạ…vâng ạ!” Gã da ngăm thầm nhủ, mình phải tìm cách rời khỏi đây, mặc cho chúng hỏi gì, mình nhất quyết không được để bọn chúng đắc ý, chỉ cần ra khỏi đây, dựa vào danh tiếng mệnh quan triều đình, ta sẽ cho chúng mày biết thế nào là lễ độ, nghĩ vậy gã liền ra vẻ khổ sở, van xin thảm thiết: “Ối, các vị đại nhân! Các vị hiểu nhầm hết rồi, tiểu nhân là người ốt, là bổ khoái của Nha Môn, tiểu nhân có quen người nào tên Thảo Nhi đâu, cũng chẳng làm gì cô gái đó cả!”

Gã mặt ngựa nghe vậy cũng hùa thêm vào nói: “Vâng vâng! Bọn con đúng là chẳng làm cái gì hết cả!”

Hự lên một tiếng, cả hai tên khốn này cảm thấy như bị một vật gì đó chọc thẳng vào người, lập tức cả hai đều đau như chết đi sống lại, cảm giác đau như xé gan xé phổi, tiếp sau đó sự đau đớn này bắt đầu lan tỏa ra xung quanh, cả hai tên đau quá chịu không nổi, gào khóc kêu cha kêu mẹ liên hồi.

Giọng nam nhân đó lại tiếp tục lạnh lùng nói: “Kêu đi! Hai ngươi cứ việc kêu cho to vào, kêu rách cả cổ họng cũng không ai nghe thấy gì đâu!”

Tiếp sau đó giọng nữ nhân lại cất lên: “Khi nãy các ngươi ngồi bàn chuyện với nhau ở trong phòng, ta đều nghe thấy hết rồi, còn có cả nhân chứng tận mắt trông thấy hai ngươi đã đem Thảo Nhi cô nương vứt từ trên lầu Tiêu Diêu xuống dưới đất, dẫn đến cái chết của cô ấy! Hai ngươi biết điều thì ngoan ngoãn khai ra, đỡ phải chịu những đau khổ không cần thiết, còn nếu không ta sẽ băm vằm hai tên cẩu tặc các ngươi rồi vứt ra cho chó nó gặm! Đây cũng là thủ đoạn của các ngươi ưa dùng đúng không?”

Cả hai tên dâm tặc này không còn cứng rắn như trước được nữa, những lời nói kia đã làm cho chúng sợ đến đái cả ra quần, gã mặt ngựa vội vã lên tiếng trước: “Đại hiệp tha mạng! Đại hiệp tha mạng! Đúng là bọn con làm những việc đó, là bọn con định hãm hiếp người ta mà không thành, nên đã quăng Thảo Nhi cô nương ngã xuống dưới đất mà chết, bọn con làm vậy chỉ là muốn ra uy với mấy đứa con gái ở trong Phật Thủ Xuân thôi ạ!”

Gã da ngăm nghe vậy cũng gào lên khản cả giọng nói: “Con…con cũng xin khai ạ, con xin khai hết ạ, xin tha mạng cho con, con khai!”

Giọng nam nhân lúc nãy lại vang lên lạnh lẽo: “Bọn ngươi mua hết ruộng đất của người dân tại Tĩnh Gi­ang phủ này, rồi cho nó là thiên tai, nhưng phủ bên cạnh lại không hề có thiên tai, mà ngược lại, nơi đó rất bội thu, không biết bọn ngươi định giở trò gì đây?”

Gã da ngăm lúc này liền rít lên đau đớn đáp: “Con khai, con khai trước! Cái này tất cả đều là do Tri Phủ Liêu Quý Binh làm ra hết đó ạ! Và còn cả các vị quan huyện đều tham gia vào nữa, bọn con chỉ là mấy con chó săn của bọn họ, cụ thể ra sao thì cũng không rõ lắm, tất cả đều là do Liêu đại nhân cùng mấy vị quan huyện chủ mưu làm hết ạ!”

“Rút cuộc là có chuyện gì hả?” Giọng nam nhân kia vang lên.

“Để con, con nói” Gã mặt ngựa gào lên tranh cướp quyền được nói.

Trước cổng Nha Huyện của huyện Lộc Cao, hai bên đông tây có hai con sư tử đá lấy uy, cách đó không xa có đặt một chiếc trống, chiếc trống toàn bộ màu hồng, mặt trống làm bằng da bò màu trắng, cạnh đó còn đặt hai cái dùi trống to như hai cái chầy dã cua.

Kha Nghiêu và Lâm Thanh Đại lúc này đã bận lên mình một bồ đồ của nữ nhân, họ mặc váy dài với chiếc áo vải thô, tóc tai vấn lên buộc lại một cách qua loa, trên mặt còn bôi lên một ít keo làm cho da mặt nhăn lại, sau đó còn bôi mặt cho nhem nhuốc một chút, trông hai người bây giờ quê không tả nổi. Cả hai lúc này tiến đến cổng Nha Huyện, Kha Nghiêu bước đến bên cái trống cầm dùi gõ trống kêu oan.

Rất nhanh, một tên sai dịch tay cầm gậy gỗ chạy ra bên ngoài, sau khi nhìn một lượt Kha Nghiêu từ đầu đến chân, liền sẵng giọng lên nói: “Gõ cái gì mà gõ hả? Gõ một cái thôi là ông mày đã nghe thấy rồi, sao ngươi muốn gõ thủng cả trống của Nha Môn hả?”

Kha Nghiêu vờ như chẳng nghe thấy cái gì, lại cầm dùi trống lên gõ liên hồi thêm mấy cái thật đanh nữa, tên sai dịch kia thấy vậy, liền múa gậy lên quát: “Đừng có gõ nữa! Còn gõ nữa ông cho mày ăn gậy!”

“Tiểu muội thôi, đừng gõ nữa! Quan gia không phải đã chạy ra kia rồi đó sao hả?” Lâm Thanh Đại thấy tên sai dịch kia không có vẻ nói đùa, liền lên tiếng nhắc nhở Kha Nghiêu, sau đó nàng liền tiến tới trước mặt tên sai dịch, cúi đầu thi lễ nói: “Vị quan gia này! Là tiểu muội của dân phụ nóng lòng, sốt ruột, cộng thêm với tiếng trống to quá, nên mới không nghe thấy quan gia nói gì đó ạ!”

Kha Nghiêu lúc này mới thôi gõ trống, mở miệng gào lên: “Oan ức quá!”

Tên sai dịch kia thấy vậy liền quát: “Đừng gào lên nữa! Người nào bị oan thì mới đến đây gõ trống, không có oan ức gì đến đây gõ cái *** gì! Thôi đừng gào lên nữa, có oan ức gì cứ nói!”

“Muội muội của dân phụ bị người ta đánh chết rồi!”

“Ố! Xảy ra án mạng rồi, vậy thì phải mất khá nhiều tiền đây! Đã có tiền lót đường chưa hả?” Tên sai dịch kia thản nhiên nói.

Kha Nghiêu nghe vậy trợn tròn mắt nói lên rõ to: “Tiền lót đường nào vậy?”

Tên sai dịch kia nghe vậy liền khinh khỉnh nhìn Kha Nghiêu rồi nói: “Đồ nhà quê! Kêu oan mà, phải có tiền chứ! Không hiểu quy tắc hả? Ông mày thấy mày cũng tội nghiệp, nói cho mày biết nhé, kêu oan phải cần tiền, bất kể là nguyên cáo hay là bị cáo, mày cứ tưởng chỗ này là chỗ làm từ thiện sao hả?”

Kha Nghiêu nghe vậy thì làm bộ sợ sệt hỏi: “Quy tắc là cái gì vậy ạ? Phải làm thế nào mới được gặp huyện đại lão gia đây?”

Tên sai dịch kia không nói không rằng giơ luôn một ngón tay ra.

Kha Nghiêu không hiểu nói: “Một đồng hả?”

Tên sai dịch kia tức điên lên nói: “Mày điên à? Một đồng? Mày tưởng ông mày là ăn mày hay sao hả? Một trăm đồng tiền!”

“Hả? Sao nhiều như vậy?” Kha Nghiêu há hốc mồm nói.

Tên sai dịch ngẩng cao đầu lên, ngạo mạn nói: “Mày tưởng mấy người bọn ta là gì hả, không có tiền thì cút! Tao nói cho mày biết nhé, đây chỉ là tiền lót đường thôi, còn nhiều khoản khác nữa, mày không muốn kêu oan nữa thì thôi, ông mày cũng chẳng muốn vào thông báo nữa, không có tiền mà cũng làm trò, cút đi!”

Kha Nghiêu nghe vậy lầu bầu nói: “Đúng là Nha Môn chẳng khác gì cướp ngày, cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan!”

Tên sai dịch kia tuy nghe không rõ, nhưng cũng nghe được lõm bõm, nên trừng mắt nói: “Mày nói cái gì?”

“Chẳng nói cái gì cả?” Kha Nghiêu bây giờ trông đáng thương vô cùng, nàng chạy đến bên Lâm Thanh Đại nói: “Tỷ tỷ! Bây giờ phải làm sao đây?”

Lâm Thanh Đại lúc này liền đưa tay vào trong người, móc ra một bọc tiền, mở ra đếm đúng một trăm đồng đưa cho Kha Nghiêu, Kha Nghiêu liền đưa cho tên sai dịch đó. Trong lúc Lâm Thanh Đại đếm tiền thì tên sai dịch kia cũng đã đếm cùng rồi, nên khi nhận tiền gã cũng không cần đếm lại nữa, cầm lấy tiền mỉm cười nói: “Đi theo ta vào trong!”

Hai Người không nói không rằng, nối gót theo sau tên sai dịch vào trong hậu viện, nơi này có mấy dãy nhà, đều là nơi làm việc của Nha Môn, tên sai dịch này sau khi đưa hai người cho một tên sai dịch khác rồi liền bỏ ra ngoài, chẳng thèm quan tâm gì nữa.

Tên sai dịch mới này lại giơ tay lên nói: “Tiền lót đường đâu?”

Kha Nghiêu lầu bầu nói: “Làm trò quỷ gì thế này?”

“Tiền chứ còn gì nữa? Nhanh lên, ông mày cũng đang bận đây!” Tên sai dịch sốt ruột nói.

Kha Nghiêu cúi đầu lúi húi, sợ sệt nói: “Không phải đưa rồi hả?”

“Nó là nó, còn ta là ta, của ta các ngươi đã đưa đâu hả? Không đưa thì cút” Tên sai dịch sẵng giọng nói.

Kha Nghiêu len lét nói: “Vậy bao nhiêu!”

“Một trăm đồng! Đến cái quy tắc này mà cũng không hiểu, còn kêu oan cái****gì!” Tên sai dịch chán nản nói.

Lâm Thanh Đại lại đành phải móc tiền đưa ra cho tên sai dịch kia.

Tên sai dịch này nâng nâng nắm tiền trong tay, rồi quay sang nhìn Kha Nghiêu và Lâm Thanh Đại với vẻ ghê tởm, rồi ngoái đầu ra hiệu nói: “Đi đi! Ra phòng bên kia mà đăng ký!”

Tên sai dịch sau đó liền đưa hai người đến phòng đăng ký, gi­ao bọn bọ cho tên Thư Lại, tên Thư Lại này lại đòi thêm một trăm đồng tiền nữa, sau đó mới lên tiếng: “Có oan ức gì muốn nói!”

“Có án mạng muốn kiện!” Lâm Thanh Đại đáp.

“Kiện ai?” Tên Thư Lại uể oải nói.

Lâm Thanh Đại đáp: “Kiện bổ đầu da ngăm và bô khoái mặt ngựa, hai người bọn chúng ném em gái của ta xuống lầu mà chết!”

Tên Thư Lại kia nghe mà sững sờ, chiếc bút trong tay hắn rơi luôn xuống đất: “Ngươi nói cái gì?”

“Chúng ta là người của thôn Triều Tịch, em gái của ta là Thảo Nhi, là người thêu thùa trong Phật Thủ Xuân, sáng ngày hôm nay bị hai tên bổ đầu da ngăm và bổ khoái mặt ngựa ném từ trên lầu Tiêu Diêu xuống dưới đất mà chết!” Lâm Thanh Đại thuật lại từng từ từng chữ.

Khi nàng vừa dứt lời, thì những người nơi đây đều kinh ngạc há hốc mồm.

Tên Thư Lại kia lúc này đứng hẳn dậy nói: “Ngươi nói cái gì? Ngươi có chứng cứ không mà nói nhảm thế hả?”

Lâm Thanh Đại lạnh lùng nói: “Dĩ nhiên là có rồi! Nhưng mà những chứng cứ này phải đến khi gặp Tri Huyện đại lão gia mới nói được!”

Tên Thư Lại đó, lúc này cũng thấy sự việc nghiêm trọng, nên vội vàng thay đổi thái độ, mỉm cười nói: “Mời ngồi, mời hai vị ngồi! Ta sẽ đi báo cho Tri Huyện đại lão gia biết!”

Lúc này ở trong phòng Giám Áp của Huyện Nha.

Đỗ Văn Hạo và Thẩm sư gia cũng đã hóa trang đâu ra đấy, cả hai bây giờ trông nghèo nàn rách rưới, ngồi thu lu một chỗ trong phòng làm việc của quan huyện (phòng này còn gọi là Hoa Phòng).

Giám Áp phòng là nơi nghỉ ngơi của quan huyện, phòng này vô cùng kín kẽ, từ bên trọng vọng ra những tiếng đùa giỡn.

Trong phòng, Châu Tri Huyện của Huyện Lộc Cao đang ngồi phe phởn với một cô gái ăn mặc hở hang, suồng sã. Cô gái đó thân hình khêu gợi, giọng nói ngọt như mật: “Lão gia, chút nữa ra làm việc có được không hả?”

“Cưng yêu! Nhanh thôi! Cưng cứ ngồi đây chờ ta một chút! Ta sẽ quay lại ngay!”

“Chuyện gì mà gấp vậy lão gia?”

“Là hai đứa khố rách áo ôm muốn bán đất!”

“Vậy thì cho nô gia đi xem với, được không hả? Nô gia cũng muốn mua!”

“Được chứ! Chỉ cần cưng làm cho lão gia thoải mái, sung sướng thì cái đất của hai thằng nghèo kiết xác kia sẽ là của cưng đó!”

“Thật sao hả lão gia!”

Phòng Giám Áp và phòng làm việc thông với nhau, chính vì vậy là Châu Tri Huyện liền đưa người con gái lẳng lơ kia sang bên Hoa Phòng chơi.

Đỗ Văn Hạo ngồi đây cũng nghe thấy những tiếng cười dâm đãng phát ra, sau đó là cửa Hoa Phòng hé mở, một người con gái ăn mặc hở hang, áo ngực trễ xuống, làm lộ ra cả nửa phần trên, vừa trắng lại vừa tròn, cặp mắt của cô ả thì to tròn, môi đỏ chum chím, trông rất khêu gợi. Tóc của cô ả long lánh những chân chu lấp lánh, trông vô cùng đĩ thõa…

Chương 371: Thu lưới và thu hoạch

Nữ tử kia chống nạnh đứng ở giữa cửa nhìn Đỗ Văn Hạo đánh giá một phen sau đó còn trừng mắt nhìn Đỗ Văn Hạo theo thói quen rồi mới uốn éo đứng tránh ra. Một nam nhân bụng phệ, dáng vẻ ngồi không mà hưởng bước tới. Người này chính là Chu Tri huyện, huyện Cao Lộc.

“Cc ngươi muốn cầm cố ruộng đồng sao?” Chu Tri huyện dài giọng hỏi.

Đỗ Văn Hạo cùng Trầm sư gia sợ hãi, rụt rè đứng ở bên khẽ nói: “Dạ” Hắn lấy mấy tấm khế ước từ trong ngực ra rồi hai tay trình lên. Mấy tấm khế ước này là khi trước Tạ đại phu báo mọi chuyện với Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo liền xuất tiền ra mua, là nhà mẹ đẻ của con dâu Tạ đại phu chuẩn bị cầm cố ruộng đồng.

Chu Tri huyện không tiếp nhận tấm khế ước. Ông ta vẫn ngồi yên trên ghế nói: “Có biết quy củ không?”

Đỗ Văn Hạo ra vẻ ngơ ngác hỏi: “Lão gia, quy củ gì cơ ạ?”

“Thời hạn cầm cố là tám tháng, năm phần lãi. Đến hạn không chuộc coi như là bán”.

“Hả?” Đỗ Văn Hạo khẽ giật mình, hắn hơi lắp bắp nói: “Không phải là thời hạn Điển kỳ là một năm, bốn phần lãi sao?”

Chu Tri huyện trừng mắt nói: “Đó là giá của vụ thu hoạch trước. Bây giờ đã sắp lập đông rồi, biết không? Chỉ ít ngày nữa là tới mùa đông khắc nghiệt. Điển kỳ còn tăng lên là nửa năm và sáu phần lợi. Điển hay không Điển là tuỳ ngươi. Nhanh lên, lão gia ta còn có việc”.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn Trầm sư gia rồi hắn lắc đầu nói: “Nhiều quá, lời nhiều quá. Nhiều như vậy thì sống sao hả?”

Chu Tri huyện vỗ tay vào lan can, lạnh lùng nói: “Hai gã nhà quê, nói muốn cầm lại không cầm. Ăn no rửng mỡ không việc gì làm tới trêu bản quan sao? Tống chúng ra ngoài”.

Thẩm sư gia vội nói: Đại lão gia bớt giận. Chúng ta cầm, chúng ta cầm’.

“Hừ!” Lúc này Chu Tri huỵên mới ngồi xuống, hắn sai viên thư lại ghi văn tự cầm cố.

Sau khi văn khế viết xong, ký tên đồng ý, nhận tiền cầm ruộng, Chu Tri huyện cầm lấy tờ văn khế đất đưa cho nữ tử diêm dúa nói: “Ừ, trả ngươi”.

Nữ tử kia vui mừng ngạc nhiên, vội vàng thi lễ nói: “Đa tạ Đại lão gia, đa tạ Đại lão gia” rồi vội vàng nhận lấy tờ khế ước.

Đỗ Văn Hạo nói toạc ra với Chu tri huyện xem ra đang líu lưỡi lại: “Lão gia, tiểu nhân còn muốn chuộc lại đất”.

“Chuộc lại sao? Ha ha, năm phần lãi, ruộng đất không có thu, ngươi lấy cái gì chuộc lại? Nếu như ngươi có thể chuộc lại thì cũng không cần phải tới đây. Ha ha ha”.

Trong lúc Chu tri huyện trắng trợn ngửa mặt lên trời cười như điên cuồng, viên thư lại Hình phòng hấp tấp chạy vào nói: “Đại lão gia, đã xảy ra chuyện…” Thấy trong khách sảnh có người lạ, hắn vội vàng ngậm mồm lại.

Chu tri huyện trừng mắt nhìn hắn nói: “Vội vàng hấp tấp cái gì?”

Viên thư lại tất tả bước tới thì thào vào tai Chu tri huyện: “Có hai phụ nhân tới tố cáo mấy người bộ đầu cưỡng gi­an và giết chết dân nữ. Hai người đó còn nói mấy người bộ đầu đã nhận tội, họ muốn Đại lão gia ngài ra ngoài nhận tờ khẩu cung”.

Chu Tri huyện giật mình kinh hãi, ông ta phất tay áo đứng dậy, bất chấp chuyện trong này, hấp tấp đi ra ngoài cửa.

Đỗ Văn Hạo và Trầm sư gia thờ ơ nhìn nhau. Mục đích chuyến đi này của hai người là muốn điều tra việc cầm cố văn khế của dân chúng. Nay mục đích đã đạt dược nên lập tức rời khỏi.

Chu tri huyện vội vàng đi vào Hình phòng thì chỉ thấy mấy viên thư lại đang đứng ở cửa ra vào xem một tờ bản thảo nhưng không thấy phụ nhân gì đó, hắn vội vàng hỏi: “Này, hai phụ nhân đó đâu?”

Viên thự lại đang cầm bản thảo vội tiến lên trước, khom người nói: “Bẩm Đại lão gia, đã đi rồi, chỉ để lại một tờ cung khai. Nghe nói đây là bản cung khai của các bộ đầu nhưng đây chỉ là bản sao”.

Chu tri huyện cầm lấy bản cung khai, hắn đọc lướt rất nhanh. Trong bản cung khai có ghi rất rõ ràng tiến trình cưỡng gi­an dân nữ không thành rồi ném từ trên lầu xuống chết như thế nào của bộ đầu Mặt Đen và bộ khoái Mặt Dài. Trong đó còn ghi lại rất nhiều chuyện mờ ám của chúng mà không ai biết. Lập tức Chu tri huyện tái mét mặt, hắn tức giận nói: “Vì sao không giữ hai phụ nhân lại?”

Mấy viên thư lại gượng gạo nói: “Mấy người này rất lợi hại. Đặc biệt là nông phụ cao cao, chỉ vung tay một cái bọn tiểu nhân ngã hết, khi đứng dậy thì mấy người đó đã đi mất”.

“Phạn Dũng” Chu tri huyện tức giận nói: “Bộ đầu ở đâu?”

“Không thấy. Mới rồi bọn tiểu nhân tới phòng trực của bộ khoái nhưng cũng không thấy người”.

Sắc mặt Chu tri huyện càng tái, hắn quát to: “Lập tức phái người đi lục soát toàn thành cho ta. Nhất định phải bắt được hai phụ nhân này”.

“Dạ!” Viên thư lại trả lời rồi hắn vội vã chạy đi truyền lệnh.

Chu tri huyện cũng lập tức gọi mấy sư gia tới, đưa cho họ xem bản sao cung khai.

Mấy sư gia đưa mắt nhìn nhau. Sư gia phụ trách khởi thảo tấu chương khom lưng nói: “Đông ông, chuyện này chỉ e không đơn giản như vậy. Trong bản cung khai của bộ đầu có rất nhiều chuyện quan trọng liên quan tới Liêu đại nhân của phủ nha. Việc này phải bẩm báo Liêu đại nhân mới được”.

Những sư gia khác cũng liên tiếp gật đầu.

Chu tri huyện cũng cảm thấy chuyện này không bình thường nên hắn dậm chân nói: “Chuẩn bị xe. A, không, chuẩn bị ngựa. Lão gia ta muốn ngay lập tức tới phủ nha, bẩm báo ngay với Tri phủ đại nhân”.

Phủ nha phủ Tĩnh Gi­ang.

Sắc mặt Liêu Quý Binh âm trầm, ngồi ở ghế thái sư. Ngồi ở hai hàng ghế hai bên với thái độ khép na khép nép là các quan tá và tri huyện các huyện.

Liêu Quý Binh chậm rãi nói: “Vừa rồi các vị đã nghe Chu tri huyên, huyện Cao Lộc nói. Các vị có suy nghĩ gì?”

Nhất thời tất cả các quan tá không biết nói gì.

Liêu Quý Binh nhìn Trương Thiên Ninh.

Trương Thiên Ninh lưỡng lự một lát rồi lên tiếng: “Rốt cuộc vẫn không biết trong chuyện này đối phương có địa vị như thế nào, tại sao chúng lại mang bao sao cung khai của hai bộ khoái cho chúng ta xem? Mục đích là gì hiện chưa rõ. Thế nhưng cẩn thận vẫn không bao giờ thừa. Theo như ty chức thấy, nhất định phải phòng ngừa cẩn thận. Phải xử lý trước một số sự việc. Chuyện nào nên làm thì phải làm. Ví dụ như trong kho thóc sao lại có nhiều hạt giống như vậy. Không cần nói gì cứ tiêu huỷ toàn bộ. Tất cả sổ sách cũng phải…”.

Trương Đồng tri cắt ngang nói: “Trương tri huyện nói phải đề phòng chu đáo cũng không sai nhưng cũng không thể thần hồn nát thần tính như vậy. Nếu như thiêu huỷ tất cả hạt giống thì sang năm lấy gì bán ra ngoài? Chẳng lẽ không được phép bán hạt giống sao? Triều đình trợ giúp tiền và gạo chống thiên tai đã giảm đi rất nhiều. Phải liên tục có thiên tai. Cái đó giúp cho thiên tai mới đủ dữ dội khi đó kế hoạch của chúng ta mới có thể hoàn thành thuận lợi”.

Các tri huyện, quan tá khác cũng gật đầu đồng ý với quan điểm của Trương Đồng tri.

Liêu Quý Binh nói: “Đúng vậy, kho thóc lớn như vậy không có khả năng tiêu huỷ hết. Chúng ta không thể chỉ vì hai phụ nhân không rõ tung tích quấy rối mà kiếm củi ba năm thiêu huỷ một giờ. Nhưng Trương tri huyện nói phải cẩn thận xử lý cũng không sai chút nào. Chu tri huyện, các ngươi phải tăng cường truy bắt tối đa, nhất định phải bắt được hai phụ nhân này, tra hỏi ra rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Trước khi chuyện này được làm rõ ràng. Tất cả các sổ sách của các huyện phải gi­ao cho bản quan thống nhất quản lý, phải do người thân tín của các ngươi đưa tới. Tất cả các hạt giống đều vẫn bảo quản trong các kho lương thực như bình thường, để lẫn trong số lương thảo triều đình cấp phát chống thiên tai nhưng phải có dấu hiệu cẩn thận đừng để lẫn lộn. Những người làm rối loạn trong đại lao phủ nha đều phải chuyển tới quân doanh. Đồng thời trong thời gi­an này, các nơi phải tăng cường cảnh giác. Đối với những người xa lạ, khả nghi phải kiểm tra nghiêm chỉnh”.

Những quan tá cũng đồng thanh nhất trí.

Mấy ngày sau.

Liêu Quý Binh hỏi phụ tá của mình là Trương Đồng tri: “Tại sao tất cả sổ sách của các huyện không thấy đưa lên một quyển nào? Người cũng không thấy đâu cả?”

Trương Đồng tri cũng nghi hoặc nói: “Đúng vậy. Hay là để ty chức xuống bên dưới xem xét?”

“Không cần”.

Những lời này không phải là Liêu Quý Binh nói mà là một giọng nói vang lên phía sau hai người. Hai người hoảng hốt giật nẩy người, vội vàng quay đầu lại thì chẳng biết từ lúc nào trong phòng đã xuất hiện một hắc y nhân. Thanh chuỷ thuỷ lóng lánh trong tay đang chỉ thẳng vào hai người.

Hai người đang định lên tiếng gọi thì người đó đã bắn phi tiêu. Cả hai kêu lên một tiếng đau đớn rồi xụi lơ, ngã xuống đất.

Ngay khi Liêu tri phủ và Trương Đồng tri tỉnh lại, cả hai đều sợ ngây người. Cả hai đều bị trói giống như một cái bánh chưng. Hơn nữa xung quanh cũng có mấy người khác cũng bị trói gô lại. Nhìn kỹ thì đúng là tất cả các tri huyện. Tất cả đều đang ngồi ủ rũ dưới đất.

Bốn xung quanh là các hộ vệ cầm đao dựa lưng vào tường, nhìn rất quen mắt, xem ra cả hai đã gặp những người này ở chỗ nào đó. Khi nhìn lên ghế thái sư ở xa, Liêu Quý Binh sợ tới run bắn cả người, hắn lập tức hiểu hết mọi chuyện.

Một người đang ngồi ở đó chính là quan đề hình Đỗ Văn Hạo. Ngồi bên cạnh là sư gia và hai người thiếp của hắn.

Bên cạnh Đỗ Văn Hạo là chiếc bàn trà tứ phương. Trên bàn trà là hàng chồng sổ sách. Tất cả đều là sổ sách của các huyện mà Liêu Quý Binh rất quen thuộc, ghi lại tất cả những chuyện bí mật nội bộ mà người ngoài không thể biết. Trong phủ nha của chúng cũng giữ một bản như vậy. Bây giờ một khi đã bị triều đình phát hiện ra thì Liêu Quý Binh dùng ngón chân cũng hiểu rằng sẽ nhận kết cục gì.

Liêu Quý Binh thở dài nói: “Đỗ đại nhân, chiêu này của ngươi chính là dụ rắn ra khỏi hang. Thật độc”.

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: “Đối phó với loài rắn độc như các ngươi chỉ có thể dùng chiêu này. Trước tiên ta nói cho ngươi một số chuyện để giúp ngươi có thể quýêt định. Chính là người của chúng ta đã bí mật bắt cóc bộ đầu Mặt Đen và bộ khoái Mặt Dài của huyện Cao Lộc. Ta đem lời khai đưa cho các ngươi chính là muốn các ngươi lay động. Bởi vì ta nghe nói người bản tính đa nghi trời sinh. Khi người triệu tập tất cả các tri huyện thương nghị đối sách, ngươi đã không biết thiếp của ta đang ở trên nóc nhà đại sảnh các ngươi tụ họp. Chúng ta biết tất cả những bố trí, sắp đặt của ngươi vì vậy chúng ta mời tất cả các tri huyện đang trên đường mang sổ sách tới gi­ao cho ngươi về đây. Bọn họ rất phối hợp với chúng ta, tất cả đều khai báo mọi vấn đề. Rốt cuộc là các ngươi làm những gì bản quan đều đã biết. Bây giờ quan trọng là xem thái độ của ngươi. Nói hay không tuỳ ngươi. Nhưng có một điều: Thái độ hợp tác có lẽ không còn ý nghĩa gì với ngươi nhưng nói không chừng có thể trợ giúp người nhà của ngươi giảm bớt, thậm chí miễn trừ trách nhiệm liên luỵ”.

Liêu Quý Binh nhìn lướt qua đám tri huyện mặt mày ủ rũ. Hắn hiểu Đỗ Văn Hạo nói đúng sự thật. Hắn lại thở dài và nói: “Được, ta nói. Trong vòng mười năm nay ta đã cưỡng ép nông hộ ở các huyện trong bản phủ chỉ được mua hạt giống của phủ nha. Trong khi đó hạt giống chúng ta bán ra đều là hạt giống giả như vậy không có thu hoạch được bất kỳ cái gì, sau đó có thể xin triều đình trợ giúp gạo, tiền chống thiên tai thì ngầm chiếm lấy. Đồng thời dân chúng không thu hoạch được gì từ ruộng đồng chỉ còn cách bán ruộng đồng, đất đai. Ta lại quy định không cho phép tư nhân mua gom đất đai, chỉ có thể cầm cố cho nha môn. Điều kiện cầm cố rất hà khắc. Trên thực tế đến kỳ chuộc đều không thể chuộc lại, những ruộng đất đó lại cũng bị ngầm chiếm đoạt. Đồng thời ở phủ Tĩnh Gi­ang và tất cả các huyện đều mở phương thêu và các phường thủ công khác, tuyển nhân công là những nông dân mất ruộng vào làm”.

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: “Chủ ý của các ngươi rất cao minh. Cùng lúc các ngươi có thể dễ dàng chiếm đoạt gạo và tiền triều đình trợ giúp thiên tai, lại có thể thôn tính một số lượng lớn ruộng đất tốt với giá thấp hơn rất nhiều sau đó những nông dân mất ruộng lại cung cấp sức lao động rẻ tiền cho các phương thợ của các ngươi. Cái này so với “Quyển vận động” còn độc ác hơn rất nhiều”.

Liêu Quý Binh không biết “Quyển vận động” là gì nên hắn ngơ ngác nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo cũng chẳng buồn giải thích, hắn cầm sổ sách, mở ra nói: “Những tài khoản đen này của các ngươi, bản quan đã kiểm tra cẩn thận. Thật sự có thể nói là từ những người khiêng kiệu trở xuống cũng đều được hưởng lợi. Ngay cả nha dịch, tráng đinh cũng được chia hoa hồng lợi nhuận, thảo nào những người này một mực bảo vệ ngươi. Dường như dân chúng chưa từng được giải oan sức mà hình như chính bọn họ cũng không biết có nỗi oan nào. Dù bọn họ đoán được các ngươi giở trò quỷ bên trong nhưng vẫn không thể biết được trò quỷ đó là gì. Thế nhưng không phải đi đêm lắm cũng có ngày gặp quỷ sao?”

Nói tới đây, Đỗ Văn Hạo chợt nhớ ra, nếu như vậy thì nói chính mình là quỷ. Mấy người Liêu Quý Binh cũng nhận ra nhưng không ai cười mà cũng chẳng còn ai có tâm trạng để cười.

Đỗ Văn Hạo ho khan một tiếng rồi nói: “Các ngươi có biết đây là đâu không? Đây chính là Hành châu. Bản quan hiểu rõ ngươi đang ở phủ Tĩnh Gi­ang đã lâu. Sau khi bí mật bắt giữ các ngươi, ta đã dùng thuốc gây mê, tránh kinh động tới nhiều người. Bản quan cũng ra lệnh cho Tri phủ Hành châu tạm thời kiêm nhiệm Tri phủ Tĩnh Gi­ang, phái ra một số lượng lớn bộ khoái Hành châu. Với sự trợ giúp của Sương quân Hành châu, tất cả các tá quan dưới quyền ngươi ở phủ Tĩnh Gi­ang đã bị khống chế, ta cũng đã thả những người dân bị các ngươi bắt. Dùng bọn họ làm chứng cứ để tâu lên triều đình xử lý”.

Đám người Liêu Quý Binh nghe xong nhất thời toàn thân xụi lơ. Chúng không thể tưởng tượng được quan Đề Hình này lại mưu kế thâm sâm, kế hoạch rất chặt chẽ chu đáo. Đáng tiếc là công sức kinh doanh nhiều năm đã bị huỷ mất.

……..� �� �…

Tháng tư hương sắc phai tàn hết

Sơn tự đào hoa mới nở đầy

Còn giận xuân đi không dấu vết

Đâu ngờ xuân đến nở nơi đây.

Đỗ Văn Hạo mang theo chúng nữ Bàng Vũ Cầm, Trầm sư gia với sự hộ tống của hộ vệ Lý Phổ, đang đứng ngắm cảnh trên đỉnh Lư Sơn, nhìn thấy hoa đào nở rộ, không nhịn được bèn ngâm mấy câu thơ của Bạch Cư Dị.

Sau khi Đỗ Văn Hạo phá án và bắt gi­am bọn người Liêu Quý Binh, phá được vụ án ức hiếp dân chúng báo về triều Tống. Tống Thần Tông vô cùng căm hận loại tham quan như này, Long nhan trong cơn giận dữ đã mang hết cả một đám quan lại Liêu Quý Binh, còn cả bộ đầu Mặt Đen và bộ khoái Mặt Dài ra lăng trì xử tử. Tống Thần Tông lại hạ chỉ trả lại toàn bộ đất đai cho nông dân bị bắt buộc phải cầm cố ruộng đất, cấp phát một khoản tiền riêng trợ cấp thiên tai, không cho phép vay mua lúa non. Tăng cường số tiền vay cùng thời hạn để dân chúng có thể bình an vượt qua mùa đông khắc nghiệt. Tống Thần Tông còn cấp phát một khoản riêng cho nhà của dân nữ Thảo nhi bị bộ khoái bức tử. Dân chúng địa phương vô cùng cảm kích Hoàng ân nhưng cũng hiểu rõ đây chính là công lao của quan Đề Hình Đỗ Văn Hạo, bọn họ cũng vô cùng cảm kích hắn. Mẫu thân của Thảo nhi cùng những dân chúng thiện lương khác đều bày hương án thờ phụng Đỗ Văn Hạo như Bồ Tát, ngày ngày thắp hương cầu khấn.

Đương nhiên Tống Thần Tông có thể xử lý như thế có một nguyên nhân rất lớn là nhờ vào bản tấu chương có bút phát thần kỳ như hoa của Trầm sư gia làm Tống Thần Tông hoàn toàn hiểu rõ chân tướng của chuyện này. Tống Thần Tông càng tán thưởng Đỗ Văn Hạo. Thái Hoàng Thái Hậu lại không bỏ lỡ cơ hội này ra sức nói giúp Đỗ Văn Hạo, cuối cùng Tống Thần Tông cũng rỡ bỏ nghi kỵ với Đỗ Văn Hạo, hạ chỉ đề bạt Đỗ Văn Hạo lên hàm tứ phẩm. Mặc dù còn kém hơn một bậc so với quan Đề Hình đề điểm các lộ hình ngục nhưng cũng đã cùng cấp so với quan Đề Hình các lộ. Thế nhưng không cho hắn có quyền thẩm tra án tất cả các tá quan. Tống Thần Tông cũng hạ chỉ bổ nhiệm Lý Phổ làm lục phẩm Chiêu Vũ phó uý. Coi như cuối cùng Lý Phổ cũng có chút thu hoạch.

Ngay sau đó Đỗ Văn Hạo tiếp tục lên đường tuần y, kiểm tra án.

Mấy tháng sau.

Đã qua tháng chạp, xuân về hoa nở. Trên đường tuần y, một ngày Đỗ Văn Hạo tới chân núi Lư Sơn ở Lư châu.

Trên đường đi Đỗ Văn Hạo vui đùa, du sơn ngoạn thuỷ. Lư Sơn là một thắng cảnh nên hắn tuyệt đối không thể bỏ qua. Sau khi công vụ xong xuôi, như thường lệ hắn lại mang theo người nhà đi du lãm danh sơn, sông lớn. Đương nhiên cũng như những lần trước, khi đi du lãm, hắn không cho quan lại địa phương cùng đi, thậm chí còn không cho phép tiết lộ hành tung của mình. Hắn muốn dùng thân phận của một người dân thường đi du ngoạn thì nhiều hứng thú.

Bọn họ đang trên đường đi lên, qua đỉnh Tú Phong, đi tới trước một thác nước nổi tiếng. Đây là nơi năm đó nhà thơ Lý Bạch đã viết câu danh ngôn:

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,

Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây…

Sau một hôi cảm khái, Đỗ Văn Hạo lại tiếp tục đi lên.

Đi được một lúc, đột nhiên Lâm Thanh Đại kinh ngạc kêu lên một tiếng, nàng đứng yên, ngơ ngác nhìn cảnh sắc.

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên, hắn đi tới cạnh nàng hỏi: “Có chuyện gì vậy?”

Lâm Thanh Đại chỉ vào ngọn núi xa xa khẽ nói: “Văn Hạo, chàng xem tại sao ngọn núi kia lại trông quen thuộc vậy?”

Đỗ Văn Hạo chăm chú nhìn hồi lâu vẫn không phát hiện ra có gì quen thuộc liền hỏi: “Trước kia nàng đã tới Lư Sơn sao?”

“Không có. Nhưng cảnh sắc này thật sự thiếp đã thấy ở chỗ nào đó” Lâm Thanh Đại nhíu mày suy nghĩ.

“Trước kia nang đã nhìn thấy cảnh sắc giống như này sao?”

“Không phải” Lâm Thanh Đại lắc đầu nói: “Thiếp chỉ cảm thấy thiếp đã nhìn thấy cảnh này ở đâu đó nhưng mà nghĩ mãi vẫn không ra”.

“Là gặp qua trong tranh hả? ‘ Đỗ Văn Hạo cười nói. Thời cổ đại không có TV, lại chưa từng nhìn thấy cảnh sắc giống như này trước kia vậy đương nhiên chỉ có thể nhìn thấy trong tranh.

Ánh mắt Lâm Thanh Đại sáng lên: “Không sai. Là nhìn thấy qua bức hoạn. Bức hoạ trong quyển da dê”.

“Quyên da dê?” Nhất thời Đỗ Văn Hạo không kịp phản ứng.

“Đúng vậy. Bức tranh lụa kẹp trong Thánh quyển da dê của Bạch Y Xã. Thiếp vẫn cứ cảm thấy trong bức tranh này ẩn giấu bảo bối vậy. Nhất định là có mục đích. Trước khi cất nó đi thiếp đã nhiều lần nghiên cứu kỹ bức hoạ đó nên nhớ rất rõ cảnh sắc của nó. Tuyệt đối không thể sai, cảnh trong bức hoạ đó chính là chỗ này. Đáng tiếc là đã khâu khe hở của Thánh quyển đó lại, bằng không lấy ra sẽ lập tức biết liền”.

“Không cần so sánh. Ta tin tưởng con mắt không nhìn lầm” Đỗ Văn Hạo khum tay nhìn cảnh vật nói: “Nàng nói như vậy, ta cũng có chút ấn tượng. Ừ, chính là chỗ này, cảnh vật nơi đây khá giống, không khác biệt gì lớn nên không cần phải lấy bức tranh giấu trong Thánh quyển ra so sánh’.

Lâm Thanh Đại gật đầu nói: “Đúng vậy. Thánh quyển da dê đó là thủ bút của Tuệ Viễn đại sư, bức tranh trong đó nhất định cũng là do ông ta giấu vào đó. Đúng rồi, thiếp đã nghe Tri châu Lư châu giới thiệu năm đó Tuệ Viễn đại sư ở Lư Sơn tu luyện ba mươi năm, trong khi đó bức tranh đó vẽ cảnh sắc Lư Sơn. Nhất định trong đó có che giấu bí mật gì”.

Đỗ Văn Hạo trêu chọc: “Cứ làm như bức tranh này cất giấu kho tàng vậy? Ha ha ha”.

Nhưng Lâm Thanh Đại lại không cười: “Hoàn toàn có thể. Bằng không, ông ta vẽ bức tranh giấu trong một chỗ bí mật như vậy làm gì?”

“Có lý. Hay. Chúng ta không có gì làm, hãy tìm hiểu xem vị đại sư Đông Tấn này cất giấu bảo bối gì ở trong núi này?”

* Mấy câu thơ đó do các tiền bối dịch.

Chương 372: Phi bộc chi nội

Nguyệt nhi và Kha Nghiêu chạy tới sau lưng hai người hù doạ rồi hỏi: “Hù, hai người đang nói chuyện gì vậy?”

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo không tiện nói chuyện bí mật cất giấu trong quyển sách da dê kia cho các nàng biết. Đây là chuyện có liên quan tới Bạch Y Xã, càng ít người biết càng tốt. Hắn cười nói: “Thanh Đại tỷ của muội là một thầy tướng số. Trước mặt chúng ta là một toà bảo sơn. Bên trong đó không chừng có cất giấu bảo bối. Hai chúng ta đang nghiên cứu xem nếu có bảo bối thì nó được cất giấu ở chỗ nào”.

Kha Nghiêu a lên một tiếng nói: “Thanh Đại tỷ, tỷ còn là một thầy tướng số sao?”

“Ha ha ha. Tính không chuẩn, chỉ là tính mò’ Giọng nói của Lâm Thanh Đại tựa như là công nhận điều đó. Nàng còn ra vẻ suy tư như thật: “Tại sao núi này nhìn trên đỉnh trông giống như chậu châu báu. Có lẽ có bảo bối thật”.

Lập tức Kha Nghiêu cảm thấy hứng thú: “Thật vậy sao? Con mắt của muội rất tinh tường. Nếu thật sự có bảo bối, nhất định sẽ không thoát khỏi con mắt của muội” Nói xong nàng cũng nghiêng đầu quan sát.

Mấy người Tuyết Phi Nhi thấy mấy người như vậy cũng chạy tới. Nghe thấy lời nói dóc của Kha Nghiêu và Đỗ Văn Hạo, mọi người cũng cảm thấy hứng thú, chăm chú nhìn ngọn núi.

Anh Tử nhìn tới mỏi mắt cũng không thấy có gì liền nói: “Không thấy gì cả. Hay chúng ta đi gọi người của nha môn tới, giúp chúng ta tìm. Nhất định có thể tìm được”.

Kha Nghiêu nói: “Vậy không được. Núi này rất lớn. Nếu muốn lục soát, cả vạn người lục soát cả mấy tháng chỉ sợ cũng không lục soát ra cái gì”.

Tuyết Phi Nhi cũng nói: “Đúng vậy. Thanh Đại tỷ, tỷ đừng tính sai. Đừng có mất cả nửa ngày mà không được ích lợi gì”.

“Ta nói rồi. Ta cũng chỉ tính mò mẫm mà thôi. Việc có đúng hay không vẫn chưa biết chính xác” Lâm Thanh Đại cười nói.

Nghe xong, mọi người như hả hết sự tò mò.

Thế nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn rất cẩn thận đề phòng. Hắn tiến tới thì thầm vào tai Lâm Thanh Đại: “Nếu như thực sự bức hoạ này là một tấm địa đồ, hẳn trong đó sẽ có chỉ dẫn, đánh dấu vị trí bảo vật. Nàng hãy cố gắng nhớ lại xem trong đó có những dấu hiệu như vậy không?”

Lâm Thanh Đại cẩn thận hồi tưởng lại cảnh vật trong bức tranh, từng điểm một rất đúng với cảnh vật trước mắt. Đột nhiên ánh mắt nàng rực sáng. Nàng cũng thì thầm vào tai Đỗ Văn Hạo: “Ở chính giữa của bức hoạ có vẽ một ngôi đình hóng mát. Nhưng trước mắt lại không thấy”.

“Đình hóng mát? Tranh sơn thuỷ của Hoa Hạ cũng không bắt buộc phải hoàn toàn tương xứng, có thể tuỳ ý tăng giảm cảnh vật” Đỗ Văn Hạo thì thầm vào tai Lâm Thanh Đại.

“Nhưng tại sao những chỗ khác lại rất giống nhau? Kể cả hình dáng ngọn núi cũng như đá phân bố dưới đáy của thác nước. Tất cả đều giống như trong bức hoạ. Chàng hãy xem. Trên bức hoạ có vẽ đình hóng mát ở vị trí kia, ở đó không có sơn đạo để đi lên. Hoàn toàn trên vách núi. Sao có thể xây dựng đình hóng mát ở đó. Không có sơn đạo, xây dựng một đình hóng mát làm gì?”

“Có lý” Hình như Đỗ Văn Hạo nghĩ ra điều gì, hắn alị thì thầm vào tai Lâm Thanh Đại: “Nếu như bức hoạ đó là một tấm địa đồ thì cảnh tượng phải hoàn toàn giống mới đúng. Trong bức hoạ có đình hóng mát nhưng thực tế không có. Hơn nữa trong bức hoạ vẽ đình hóng mát trên một tảng đá ở giữa lưng chừng nhưng lại không có đường lên. Thật sự kỳ quái”.

“Ai ai. Lâu quá rồi” Kha Nghiêu nghiêng người trêu chọc nói: “Nhìn hai người kìa, cứ như dán mặt một chỗ với nhau vậy. Nơi đây còn rất nhiều người bọn muội đó”.

Lâm Thanh Đại trừng mắt nhìn Kha Nghiêu rồi nói với Đỗ Văn Hạo: “Thiếp xuống dưới đó nhìn một chút”.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn thác nước chóng mặt bên dưới nói: “Nàng xuống được không?”

“Yên tâm! ‘ Lâm Thanh Đại nói: “Cái này còn dễ hơn so với một ngôi nhà. Hơn nữa bên dưới là đầm nước. Cho dù ngã xuống đó cũng không chết được. Cứ chờ tin của thiếp”.

“Vậy nàng phải cẩn thận”.

“Dạ!”

Lâm Thanh Đại nắm lấy dây leo trên vách núi trượt xuống dưới. Khi tới tận cùng của dây leo nàng bắt đầu bám vào vách đá leo xuống. Mấy người Đỗ Văn Hạo ở trên nhìn hoa hết cả mắt nhưng tốc độ trượt của Lâm Thanh Đại rất nhanh. Từ trên nhìn xuống vách núi hoàn toàn không có khe hở nào để bám vào nhưng Lâm Thanh Đại lại như một con nhện thoải mái trèo xuống dưới.

Rốt cuộc nàng cũng đã tới tảng đá to nhô hẳn ra ngoài. Tảng đá đó nằm trong thác nước. Nước từ trên đỉnh thác bay qua đỉnh đầu nàng, quả thực rất mạo hiểm.

Từ trên nhìn xuống thì thấy hình như Lâm Thanh Đại đang lần mò tìm kiếm cái gì.

Đột nhiên nàng vui mừng kêu lên: “Văn Hạo, tảng đá lớn ở trên vách núi này hình như có thể đẩy ra được. Hình như bên trong có sơn động”.

Đỗ Văn Hạo vừa mừng vừa sợ nói: “Nàng không được vào trong trước. Nếu như là sơn động phong bế lâu ngày, bên trong không khí không lưu thông, có chướng khí, coi chừng trúng độc. Trước tiên hãy đẩy tảng đá ra để lưu thông không khí. Đừng vội. Đợi bọn ta xuống rồi cùng vào”.

“Được rồi” Lâm Thanh Đại đẩy tảng đá ra, nhìn vào bên trong sơn động và nói: “Bên trong sơn động rất nhỏ. Mọi người đều xuống thì không chứa hết đâu”.

Tuyết Phi Nhi nói: “Ca, muội đưa ca xuống”.

‘Đừng mạo hiểm. Lý Phố, ngươi dẫn người đi lấy dây rừng xoắn lại thành một sợi dây thừng dài. Ta cùng Phi Nhi sẽ xuống dưới. Ta có nhuyễn giáp phòng thân. Võ công của Phi Nhi cũng rất khá. Ba người chúng ta xuống dưới là đủ. Những người khác đợi ở bên trên”.

Kha Nghiêu nói: “Muội cũng muốn xuống. Thân thể muội rất nhẹ, có thể cùng bám vào một sợi dây thừng với Phi Nhi tỷ. Võ công của muội cũng không tệ”.

Đỗ Văn Hạo hiểu rõ chuyện gì Kha Nghiêu muốn làm không cho nàng làm, nàng sẽ lẽo nhẽo tới điếc cả tai, hắn lại không muốn dây dưa nhiều với nàng nên nói: “Vậy được rồi”.

Kha Nghiêu không thể tưởng tượng lúc này Đỗ Văn Hạo lại rộng rãi đồng ý với mình nên nàng vô cùng vui sướng.

Lý Phố vội vàng chỉ huy các hộ vệ cắt dây rừng bện thành dây thừng. Nhiều người, công việc nhanh, chỉ chưa tới nửa canh giờ đã bện xong hai sợi dây rừng rất dài. Trước khi Đỗ Văn Hạo xuống dưới hắn lấy cành cây tùng bó lại, quệt mỡ để làm đuốc rồi mới cùng Kha Nghiêu và Tuyết Phi Nhi tuột xuống dưới.

Khi ba người hạ xuống tảng đá lớn, nhóm đuốc sau đó ném một cây đuốc vào trong. Một lúc lâu sau cây đuốc vẫn không tắt, chứng tỏ không khí bên trong không có vấn đề gì.

Đỗ Văn Hạo dùng khăn che mặt, hắn muốn vào trong động trước nhưng Lâm Thanh Đại đã ngăn cản hắn: “Có lẽ bên trong có độc xà, mãnh thú. Thiếp vào trước, mọi người vào sau”.

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo hiểu Lâm Thanh Đại lợi hại hơn hắn rất nhiều, nàng vào trước là hợp lý nhất vì vậy hắn cũng không giằng co, để nàng đi vào trong sơn động trước.

Đường vào sơn động rất nhỏ hẹp, phải khom người mới có thể đi vào. Hơn nữa còn có bậc thềm đi lên trên. Lúc mới vào sơn động, bốn người dùng khen che mặt (miệng và lỗ mũi). Được một lát Kha Nghiêu cảm thấy buồn bực nên bỏ khăn ra. Đi tiếp một quãng vẫn không thấy đầu choáng váng, khó thở nàng liền bảo mọi người bỏ khăn che mặt ra.

Đi được một quãng xa, mấy người tới một hang động đá vôi to bằng nửa sân bóng rổ.

Kha Nghiêu phát hiện trên đỉnh đầu có ánh sáng dọi vào. Mọi người liền ngẩng đầu nhìn thì phát hiện trên nóc động có một khe hở to cỡ bàn tay, ánh sáng có thể chiếu dọi qua đó vào bên trong. Thảo nào cửa động đóng chặt nhiều năm mà không khí bên trong vẫn không có vấn đề gì.

Bên trong sơn động này có một chiếc giường đá, có một cái rương to, một ít đồ sứ, ngoài ra không còn vật gì khác, cũng không còn đường để đi lên phía trước.

Ánh mắt mọi người đều tập trung vào cái rương to. Tuyết Phi Nhi nói: “Thanh Đại tỷ, tỷ thật sự rất lợi hại. Quả nhiên có bảo bối”.

Lâm Thanh Đại cũng rất hưng phấn nói: “Để ta xem đó là cái gì?’

Kha Nghiêu nói: “Nói không chừng đó chỉ là một cái rương không. Tất cả đồ vật bị lấy đi hết rồi”.

“Đừng…trù ẻo thế” Tuyết Phi Nhi trừng mắt nói. Nàng cầm cây đuốc đi tới cạnh chiếc rương, ngạc nhiên nói: “Có khoá”.

“Tìm tảng đá đập khoá ra” Đỗ Văn Hạo nói.

“Không cần, để thiếp làm cho” Lâm Thanh Đại đi tới ngồi xổm cạnh chiếc rương. Nàng nâng chiếc khoá đồng lên, giựt đứt sau đó một tay nàng đè nắp rương, nàng quay đầu lại ý bảo mọi người lui ra sau đề phòng có cơ quan ám toán. Bản thân nàng hít một hơi thật sâu rồi hất tung nắp rương lên sau đó lui người lại.

Khung cảnh vẫn im ắng như trước, không có phát sinh gì. Chỉ có tiếng nước chảy róc rách bên ngoài.

Bốn người, tay giơ phòng vệ phía trước, một tay cầm đuốc chậm rãi đi tới nhìn vào chiếc rương. Bên trong chiếc rương toàn là sách. Sách được đóng buộc chỉ cẩn thận (đóng buộc chỉ - một cách đóng sách truyền thống của Trung Quốc, sợi chỉ lộ rõ ra ngoài bìa)

“Này!” Kha Nghiêu thất vọng nói: “Muội tưởng bên trong là bảo bối gì, không ngờ lại là một chiếc rương sách. Chẳng có ích gì hết”.

Đỗ Văn Hạo gi­ao cây đuốc cho Lâm Thanh Đại, hắn ngồi xổm cầm lấy một quyển sách. Hắn nhận ra đó là một bản viết tay. Những chữ trong đó hắn không biết một chữ nào bởi vì đó đều là Phạn văn. May mắn là lần trước ở Báo Quốc tự trên núi Nga Mi, hắn có nghe qua phương trượng trụ trì nói, cũng đã nhìn qua Phạn văn.

Đỗ Văn Hạo tiếp tục lấy những quyển sách trong rương ra, hắn phát hiện toàn bộ đều viết bằng Phạn văn. Đây nhất định là kinh thư phật giáo. Trang giấy đã ố vàng, nhất định đã lâu đời rồi.

Đỗ Văn Hạo đã nghe Tri châu Lư châu nói vào thời Đông Tấn, đại sư Tuệ Viễn, người sáng lập Bạch Y Xã đã từng ẩn cư ba mươi năm ở Lư Sơn. Những quyển sách này nhất định do ông ta lưu lại. Từ thời Đông Tấn tới Bắc Tống đã sáu, bảy trăm năm. Những cuốn sách này vẫn còn lưu giữ được tới bây giờ thì quả thật rất hiếm thấy.

Kha Nghiêu nói: “Đã không có bảo bối vậy chúng ta đ thôi”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Mang những quyển sách này lên trên”.

“Đây chỉ là những quyển sách cũ nát, lấy làm gì?”

“Những quyển sách này được cất giấu trong sơn động bí mật như này, nhất định rất giá trị. Mang lên”.

“Nặng quá” Kha Nghiêu chu môi nói.

“Để ta” Lâm Thanh Đại đậy nắp thùng lại như cũ, cài chiếc khoá đồng vào sau đó nàng nhấc lên rời khỏi động.

Khi đi ra ngoài sơn động, Kha Nghiêu và Tuyết Phi Nhi lên trước, Đỗ Văn Hạo mang theo rương sách cuối cùng là tới Lâm Thanh Đại lên trên đỉnh thác nước.

Mấy người Lý Phố nghe nói chỉ phát hiện ra một rương sách thì không khỏi buồn cười. Bọn họ là binh lính nên đương nhiên không có hứng thú với sách. Ngược lại Trầm sư gia rất hứng thú nhưng chiếc khoá đồng của rương sách đã bị Lâm Thanh Đại cặn chết lại, không mở ra được, cũng không nâng lên được.

Mấy người Đỗ Văn Hạo ở lại Lư Sơn du ngoạn mấy ngày rồi xuống núi. Khi đó đã là cảnh sắc mùa xuân tươi đẹp tháng ba.

Thành Lư châu ở cách Lư Sơn năm mươi dặm. Nơi đây sông nước mênh mông. Dân chúng ở đây không làm nghề nông thì bơi thuyền bắt cá, hơn nữa nơi này mưa thuận gió hoà. Trên suốt đường đi chỉ nhìn thấy cảnh nam cày ruộng, nữ dệt cửi, trẻ nhỏ vui đùa. Mấy người Đỗ Văn Hạo trông thấy vậy cũng có chút hâm mộ.

Vào lúc hoàng hôn, mấy người Đỗ Văn Hạo đi vào cổng thành.

Vừa qua cổng thành, một nam nhân có dáng vẻ quan sai gọi theo xe ngựa của mấy người Đỗ Văn Hạo. Kha Nghiêu nhẹ nhàng vén màn xe nhìn chỉ thấy nam nhân kia thở hồng hộc đuổi theo, bên hông đeo một thanh yêu đao.

Tuyết Phi Nhi buồn bực thò đầu ra ngoài nói: “Mới khen là quan lại ở đây cai trị rất tốt. Xem ra ngươi quá phóng đại. Nhất định là vì chúng ta không nộp tiền mãi lộ”.

Lý Ấm đánh xe chở dược liệu dừng lại nói: “Đại nhân, để tiểu nhân xem có chuyện gì?”

Xe phía trước cũng dừng lại, Lý Phố nhảy xuống chạy lại đón viên quan sai.

Kha Nghiêu cười nhạt, nàng buông rèm, tìm cái gì đó trong rương lý. Đỗ Văn Hạo cười hỏi: “Kha Nghiêu, muội tìm cái gì vậy?”

Kha nghiêu quay đầu, giương đôi mắt hạnh nhìn chằm chằm vào Đỗ Văn Hạo. Nàng cười mà như không cười nói: “Tìm tiền mãi lộ”.

Đỗ Văn Hạo cười phá lên nói: Ta thất chưa nhất định là như vậy. Nói không chừng lại tới mời chúng ta đi uống rượu”.

Kha Nghiêu không để ý tới. Nàng chỉ cúi đầu nói: “Ca ca tốt bụng của ta ơi, ca cứ đợi đi uống rượu đi nha.

Muội thấy ngoại trừ mấy người chúng ta mời ca ca đi uống rượu, vị quan sai kia tất nhiên là không biết ca”.

Kha Nghiêu còn chưa nói xong, màn xe đã vén lên, Lý Phố thò đầu vào trong, hắn cười nói: “Đại nhân, là người của Tri châu Lư châu, An Dật Long đại nhân cung kính chờ ngài ở đây đã lâu”.

Sau khi nghe xong Kha Nghiêu không khỏi a lên một tiếng nói: “Tại sao không phải là quân cướp đường? Ta còn đang muốn đánh cướp?”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Quan sai cướp bóc sao? Ha ha, vậy mà muội cũng nghĩ ra được”.

“Không phải là cướp bóc. Nhìn xem dáng vẻ sốt ruột của hắn kìa”.

“Rõ ràng là có việc khẩn cấp”.

Lý Phố nói: “Đại nhân nói không sai. Tri châu đại nhân nói là có việc gấp muốn tìm ngài thương nghị. Hãy để ty chức đưa các phu nhân đi trước tới dịch quán”.

Lâm Thanh Đại nói: “Viên Tri châu này cũng rất có ý tứ, bỏ qua chúng ta sang một bên. Không phải sẽ mời chàng đi uống hoa tửu đấy chứ?” (Hoa tửu - uống rượu có kỹ nữ hầu)

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: “Vậy cũng không chừng”.

Lý Phố vội nói: “Không phải, hắn nói có một kiện cáo nhân mạng quan trọng. Hắn cũng không biết làm gì bây giờ. Hắn cũng không biết tình hình cụ thể”.

Kha Nghiêu mỉm cười nói: “Viên Tri châu này cũng không giống quan lại ở những nơi khác chút nào, không mời ăn uống, không tặng lễ vật, vừa đến đã có vụ án gì đó. Hay thật”.

Đỗ Văn Hạo đứng dậy nói: “Vậy được, mấy người hãy cùng Lý Phố quay về dịch quán nghỉ tạm. Ta đi xem thế nào”.

Kha Nghiêu đột nhiên đứng dậy, nàng chuẩn bị xuống xe. Đỗ Văn Hạo vội hỏi: “Này, làm gì vậy? Ta tuyên bố là không ai đi cùng ta. Hãy ngoan ngoãn cùng với mấy người Cầm tỷ đi về dịch quán đi”.

Kha Nghiêu cười nói: “Vậy tại sao ca chỉ đi một mình?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Ai bảo ta đi một mình, ta mang theo Trầm sư gia và Tiền Bất Thu”.

“Muội mặc kệ” Kha Nghiêu hừ một tiếng rồi nhảy xuống xe. Nàng thấy cách đó không xa có hai người đang đứng chờ. Một người là vị quan sai đuổi theo xe, người còn lại mặc áo màu xanh, đại khái hơn bốn mươi tuổi, vóc người tráng kiện, mỉm cười nhìn Kha Nghiêu.

Nhìn thấy Đỗ Văn Hạo đi tới, Tri phủ An Dật Long vội vàng bước tới, cung kính nói: “Ty chức đang định lên núi bái kiến đại nhân nhưng nghe nói đại nhân đã xuống núi nên chờ ở đây”.

Đỗ Văn Hạo thấy Kha Nghiêu đứng cạnh mình ra dáng một tuỳ tùng liền nói: “Muội còn đứng ở đây làm gì? Sao không mau theo mấy người Cầm tỷ đi về dịch quán?”

Kha Nghiêu bực tức, chu môi, không nói câu nào, cũng không đi.

Đỗ Văn Hạo nói: “Ta cùng với An đại nhân bàn công việc. Muội đứng đây làm gì?”

An Dật Long thấy Kha Nghiêu có vẻ rất muốn đi theo mà Đỗ Văn Hạo cũng có vẻ rất cưng chiều vị muội tử xinh đẹp này liền vội nói: “Đỗ đại nhân, ty chức cũng không có chuyện cơ mật, đại sự gì. Thật ra gần đây ở châu của hạ quan có một vụ án rất khó giải quyết. Ty chức cũng không biết xử lý thế nào. Lệnh muội cùng đi thẩm án cũng không có vấn đề gì”.

Đỗ Văn Hạo nhìn Trầm sư gia nhưng hắn cũng chỉ mỉm cười, không có ý kiến gì. Đỗ Văn Hạo đành phất tay ra hiệu cho mấy người Lý Phố rời đi.

Chương 373: Lần đầu tiên thăng đường

An Dật Long nói: “Đỗ đại nhân đi đường xa mệt mỏi. Hay đại nhân tới phủ nha nghỉ ngơi trước”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Không có gì. Ngươi tới cửa thành chờ ta, nói chuyện này rất khó giải quyết. Hơn nữa ngươi cũng rất sốt ruột. Dù sao từ đây tới nha môn cũng không xa lắm. Chúng ta vừa đi vừa nói chuyện. Ta đi xe ngựa nhiều cũng rất mệt mỏi. Ta muốn đi bộ”.

An Dật Long cười giả lả nói: “Đỗ đại nhân nói rất đúng. Ty chức cũng có ý này. Nếu như vậy chúng ta vừa đi vừa nói chuyện. Đại nhân, mời đi bên này. Đây là một ngõ nhỏ đi tắt tới nha môn, rất yên tĩnh, có thể nói chuyện được”.

An Dật Long dẫn mấy người Đỗ Văn Hạo rẽ vào một con ngõ tắt ở phía đông. Hắn chậm rãi nói: “Mấy ngày trước đây, có một thôn phụ tới phủ nha đánh trống kêu oan. Thôn phụ đó nói lão lang trung rất có danh vọng ở phố đông kê đơn nhầm dẫn tới giết chết mẹ chồng Triệu thị của nàng ta. Ty chức đã truyền lang trung tới hỏi. Lang trung đã đưa đơn thuốc cho ty chức thẩm định, ty chức không hiểu y thuật liền mới lang trung khác tới kiểm nghiệm. Ty chức hỏi bất kỳ ai cũng bảo phương thuốc đó không có vấn đề gì. Ty chức vốn định bác đơn kiện của nguyên cáo nhưng…”.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Có phải gia đình lão phụ nhân này có bối cảnh gì không?”

An Dật Long kinh ngạc nói: “Đại nhân quả thật thông minh hơn người. Đoán cái ra ngay”.

“Cái này có gì khó đoán. Nếu một khi các đại phu đã nói đơn thuốc đó không có vấn đề gì, ngươi chỉ việc bác đơn kiện là xong, cần gì phải chạy tới cổng thành đợi ta. Ngươi định đá quả bóng này sang cho ta, đúng không?’

An Dật Long tái mét mặt nói: “Ty chức không dám. Quả thật phụ nhân này có chút bối cảnh. Ty chức quả thật không dám làm bừa”.

“Thật vậy sao?” Đỗ Văn Hạo cười nói: “Rốt cuộc lão phụ nhân có địa vị gì?”

“Thật ra cũng không có địa vị gì. Lão phụ nhân đã chết này khi còn trẻ tuổi đã từng được Nhân Tông Hoàng đế đề biển”.

“A!” Đỗ Văn Hạo kinh ngạc, lắp bắp hỏi: “Một nông phụ nông thôn làm sao lại được tiên đế ngự bút?’

Nói tới việc này, An Dật Long có phần đắc ý, hắn vuốt ria mép nói: “Khi Nhân Tông hoàng đế đi tuần du, có từng qua Lư châu. Đó là vào mùa đông giá rét. Ngày hôm đó, lúc rạng sáng, Nhân Tông Hoàng đế dậy sớm, người lo lắng chuyện quốc sự nên không ngủ được nên muốn đi dạo trên phố. Người chỉ mang theo hai hộ vệ tuỳ thân. Trong lúc đang chậm rãi đi trên đường phố trống vắng thì gặp phụ nhân Triệu thị này. Bà ta đang quang gánh đi khắp hang cùng ngõ hẻm rao bán điểm tâm sáng.

Vừa lúc đó Nhân Tông Hoàng đế thấy đói bụng, người liền gọi một chén. Người thấy mùi vị thơm ngon, lại thấy phụ nhân này vất vả trong ngày đông, tháng chạp nên mới hỏi han gia cảnh, biết trượng phu của phụ nhân chết sớm, để lại hai trai, một gái, tuổi vẫn còn nhỏ, cuộc sống vô cùng gi­an nan. Nhất thời Nhân Tông Hoàng đế hứng thú rao hàng giúp phụ nhân đó bán hàng”.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Quả nhiên tiên đế đồng cảm với dân chúng”.

“Mới sáng sớm tất cả mì vằn thắn đều đã bán hết sạch, phụ nhân đó rất cảm kích. Nhân Tông hoàng đế thấy buôn bán rất khá nên tâm trạng cũng hưng phấn, người thấy bên đường có một quán viết chữ thuê liền tới lấy giấy bút viết bốn chữ to: “Thục phận tá cao”. Người lại lấy ngọc tỷ ra đóng dấu ở trên đó. Phụ nhân không hiểu ý tứ đó nhưng lão giả viết chữ lại là người tinh ý nhìn kỹ con dấu trên mặt giấy thì biết đây chính là ngọc ấn của Hoàng Thượng, lão quá sợ hãi, cuống quýt quỳ xuống dập đầu, hô ba lần vạn tuế. Lúc này phụ nhân đó mới hiểu ra. Người giúp bà rao hàng, viết chữ tặng lại mình lại là đương kim Hoàng Thượng. Phụ nhân sợ hãi quỳ xuống dập đầu mấy lần. Nhân Tông hoàng đế khen ngợi, động viên mấy câu sau đó người ngửa mặt lên trời cười to và bỏ đi”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Nhân Tông hoàng đế chơi trò phong trần này, phụ nhân này cũng coi như hồng phúc tề thiên, chiếm được tiện nghi của người”.

“Còn không phải vậy sao? Chuyện phụ nhân đó được Hoàng Thượng ban chữ nhanh chóng làn truyền trong và ngoài thành, người người tranh nhau tới gặp. Phụ nhân sợ bản vẽ bị hỏng nên mới làm khung treo ở trước hương án phòng khách nhà mình, tận tâm thờ cúng. Tri châu trước của bỉ châu cũng đã tới tận nơi chiêm ngưỡng, thừa nhận tấm lòng, phẩm hạnh của phụ nhân đối với Hoàng Thượng, cho rằng đây là một việc vô cùng vinh quang đối với bỉ châu, lập tức dâng biểu cho bộ Lễ xin lập đền thời trinh tiết đối với phụ nhân này. Đền thờ này đến bây giờ vẫn còn tồn tại ở cổng thôn của bọn họ bên ngoài thành”.

Đỗ Văn Hạo đã dần hiểu ra: “A, thì ra đây là một trinh tiết liệt phụ. Hơn nữa tên đế còn đề từ khen ngợi, quả thật rất khó giải quyết”.

“Đúng vậy. Phụ nhân này cả đời thủ tiết. Một mình nuôi dưỡng ba hài tử của mình thành người. Lần này phụ nhân ốm chết, ba người xúc động và nhớ nhung lòng từ ái của mẫu thân, không thể bỏ qua tội chẩn lầm của đại phu. Bọn họ còn tuyên bố nếu như quan phủ bao che, ba người sẽ ôm ngự bút của tiên đế vào kinh ngự cáo”.

“Thật vậy sao?” Đỗ Văn Hạo cũng cảm thấy đau đầu. Hắn đứng lại, nghiêm nghị suy nghĩ. Muốn cởi chuông thì phải tìm người buộc chuông, trước tiên phải nghĩ cách đả thông tư tưởng ba người con này. Xem ra phải xuống dưới thôn để trực tiếp hoà giải.

Kha Nghiêu một mực lắng nghe, giờ nàng với nói chen vào: “An đại nhân, không biết đường tới Dương Liễu thôn có xa không?’

Đỗ Văn Hạo cười thầm trong lòng, quỷ nha đầu này thực sự giống như con trùng trong bụng mình. Ta vừa mới dừng bước, còn chưa nói ra mà ngươi đã đoán ra.

An Dật Long hỏi: “Ý của tiểu thư là gì?”

Kha Nghiêu chắp tay sau lưng, cười nhỏ nhẹ nói: “Nếu như không phải quá xa, không bằng chúng ta tới đó ngay bây giờ. Tìm hiểu tình hình ở đó rồi tìm cách thuyết phục ba người con”.

An Dật Long vội vàng hỏi: “Thôn Dương Liễu cách cổng thành hơn mười dặm đường, ít nhất phải mất hai canh giờ. Bây giờ sắc trời đã tối. Theo như ty chức thấy trước tiên chúng ta nên để Đỗ đại nhân nghỉ ngơi tối nay. Hơn nữa thi thể đang quàn tại quê nhà nhưng người phụ nhân tới cáo trạng vẫn đang chờ ở khách điếm. Nếu như muốn thuyết phục thì chỉ e phải thuyết phục phụ nhân này trước. Nàng ta là con dâu trưởng của lão phụ nhân, tính tình vô cùng mạnh mẽ. Thuyết phục được nàng ta là có thể thuyết phục được người khác”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Được rồi. Đã như vậy, ngày mai chúng ta tuyên thôn phụ này tới công đường hỏi tình hình rồi tính sau”.

An Dật Long vội vàng cúi đầu đồng ý.

Ai ngờ An Dật Long thấy Đỗ Văn Hạo nói muốn thăng đường thẩm vấn, hắn liền quay về phủ nha phân phó những người liên quan rằng: Chỉ cần có người đánh trống kêu oan thì một mực báo cho Đỗ Văn Hạo biết’.

Sáng sớm hôm sau, Đỗ Văn Hạo vẫn còn đang chìm trong giấc mộng thì có người ở bên ngoài cửa khẽ gọi. Đỗ Văn Hạo ngồi dậy thấy Bàng Vũ Cầm có vẻ vẫn đang ngủ say liền đứng dậy mặc quần áo, buông màn rời đi ra mở cửa.

Hắn thấy chỉ có Anh Tử đang đứng trước cửa, nàng đang định lên tiếng thì hắn đưa tay lên miệng “xuỵt” một tiếng rồi kéo tay nàng ra hành lang hỏi: “Có chuyện gì vậy?”

“Thiếu gia, vừa rồi có một người là Trương sư gia của nha môn châu phủ tới báo bọn họ làm theo phân phó của An đại nhân là phàm có người đánh trống kêu oan thì tới thỉnh đại nhân quyết định”.

Khoé miệng Đỗ Văn Hạo khẽ giật, hắn nói: “An Dật Long có ý gì đây? Hắn muốn bêu xấu ta sao?”

Đột nhiên lúc đó sau lưng hắn vang lên tiếng nói: “Không đâu”.

Đỗ Văn Hạo và Anh Tử quay đầu nhìn thì thấy Trầm sư gia đang mỉm cười phe phẩy cái quạt tứ quý, vật bất ly thân, chậm rãi đi tới.

Đỗ Văn Hạo nói: “Tiên sinh nghĩ thế nào?”

Trầm sư gia nói khẽ: “Trên quan trường có một quy định bất thành văn. Đó chính là quan trên làm, cấp dưới nhìn xem. Đây là sự khiêm tốn của cấp độ lễ nghĩa. Ngài đã nói muốn hỏi nguyên cáo. Hắn đương nhiên nghĩ rằng ngài muốn thăng đường thẩm vấn, đương nhiên hắn phải chuẩn bị đầy đủ cho ngài. Ngài cũng là quan Đề Hình, có quyền tra xét hình ngục. Nếu cần thiết thì vẫn có thể thăng đường thẩm vấn”.

“Thật vậy sao?” Đỗ Văn Hạo thoáng sợ hãi nói: “Nhưng tới giờ ta vẫn chưa bao giờ thăng đường thẩm vấn”.

Cây quạt xếp của Trầm sư gia dừng ở giữa không trung, đôi mắt của ông ta híp lại như đang ngủ. Ông ta lặng im một hồi lâu rời mới chậm rì rì nói: “Đã tới thì cứ an tâm ở lại. Đại nhân là người tài đức, nhìn xa trông rộng. Vụ án nhỏ nhoi này chỉ như một cái nhấc tay, không thể làm khó đại nhân được”.

Đỗ Văn Hạo khẽ thở dài nói: “Cũng được, tiên sinh đã nói như vậy. Ta đây, không có trâu thì cũng phải bắt chó đi cày một lần”.

Sau khi ăn sáng xong, Đỗ Văn Hạo mặc quan phục rồi đi tới hậu đường của nha môn.

Trầm sư gia đã nói cho Đỗ Văn Hạo biết những quy tắc thăng đường đơn giản. Hơn nữa còn có Trầm sư gia ở ngay sau hắn trợ giúp nên trong lòng Đỗ Văn Hạo cũng không có lo lắng.

Sau khi đánh trống thăng đường, Đỗ Văn Hạo đi ra công đường đã được bố trí sẵn. Hắn ngồi xuống ghế thái sư đặt sau phương án ở chính giữa công đường. Trên đỉnh đầu hắn có một tấm biển đề: Quang Minh Chính Đại. Bên trái hắn là đại nhân An Dật Long, quan phục nghiêm chỉnh ngồi ở bên.

Hai bên là hai nha dịch tay cầm chuỳ. Bên dưới công đường có một phụ nhân trung niên đang quỳ gối theo quy định. Tuy phụ nhân này ăn mặc đơn giản nhưng trước khi tới công đường đã thay đổi trang phục sạch sẽ. Đây chính là nguyên cáo kiện lão lang trung ở y quán Tiên Khách Lại, con dâu trưởng của liệt phụ trinh tiết.

Người phụ nhân cúi đầu, hai tay đặt trên gối. Trương sư gia ngồi ở bên phải dưới công đường. Trên bàn có bày văn phòng tứ bảo (bút, mực, giấy, nghiên). Một tay ông ta cầm bút, một tay để trên bàn. Không khí trên công đường vô cùng trang trọng nghiêm túc.

Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ trong lòng. Không trách được mấy người làm quan trên TV chỉ thích thăng đường thẩm vấn nạn nhân. Cảm giác này quả thực chỉ có một chữ là “sướng”. Không, phải là “rất sướng”.

Trước đó hắn đã nghe Trầm sư gia có nói qua trong quan trường có một lời đồn rằng “Chỉ cần một lần thăng đường xử án thì lập tức sẽ không phải âu lo về cái ăn cái mặc. Đừng nói tới quan lại các cấp, chỉ cần mấy tay nha dịch vác gậy trên công đường đại khái cũng tìm cách cáo mượn oai hùm. Nhưng ngược lại Đỗ Văn Hạo không có suy nghĩ giống như những quan tham kia “Đầu đội mũ cánh chuồn, ăn nguyên cáo, ăn bị cáo”. Hắn có suy nghĩ rằng một khi mình đã ngồi ở cái ghế này, tất phải thẩm tra vụ án rõ ràng, một lần làm thanh thiên Đại lão gia.

Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy, một tay hắn cầm kinh đường mộc, hắn vừa liếc mắt nhìn Trầm sư gia ở sau lưng. Hắn thấy Trầm sư gia mỉm cười nhìn hắn, ý muốn cổ vũ hắn.

Kinh đường mộc vừa mới gõ vào sam mộc trên án, lập tức nha dịnh bên dưới đx cùng kêu lên “uy vũ’. Nguyên cáo ở dưới công đường nghe vậy hoảng hốt, sợ hãi, nàng ta sợ tới mức ngã quỵ xuống đất rồi lại vội vàng ngồi dậy.

Đỗ Văn Hạo lên tiếng hỏi: “Người bên dưới là ai? Vì đánh trống kêu oan, muốn kiện cáo ai?”

“Ta” Thôn phụ còn chưa kịp nói, An Dật Long ngồi bên trên đã ho khan một tiếng nói: “Trước mặt quan Đề Hình đại nhân, sao có thể xưng “ta”?”

“A, dân nữ muốn kiện lang trung họ Tôn, ông ta bày mưu sát hại mẹ chồng của dân nữ”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Ngươi hãy nói tên, người ở đâu? Vì sao lại để một nữ nhân như ngươi tới kiện, nam nhân nhà ngươi đi đâu hết rồi?”

“Dân phụ là Chu thị, người thôn Dương Liễu cách thành Lư châu mười dặm. Nam nhân nhà dân nữ vì bi thương quá độ nên mắc bệnh. Hơn nữa trong nhà vẫn còn ông nội tuổi già và hài nhi đang gào khóc đòi ăn”.

Đỗ Văn Hạo hỏi Chu thị: “Những lời này đều là của ngươi, hay là trước đó có ai đã chỉ bảo ngươi nói?”

Chu thị liếc trộm Trương sư gia, lúng túng hồi lâu rồi quanh co nói: “Đây chính là những lời dân phụ nghĩ ra”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Ngươi nói lang trung họ Tôn hại chết mẹ chồng của ngươi. Ngươi có chứng cứ gì không?”

Chu thị tức giận nói: “Mẹ chồng dân phụ có căn bệnh ho, suyễn kinh niên, cứ tới mùa xuân thì bệnh nặng hơn, có khi cả ngày ho liên miên không dứt. Nghiêm trọng hơn nữa là có khi cả đêm cũng không ngủ được. Bởi vì Tôn lang trung có danh tiếng rất lớn, rất nhiều người nói y thuật của ông ta rất giỏi. Dân nữ liền dẫn mẹ chồng của mình tới xem bệnh. Ông ta còn khoác lác nói rằng chỉ cần chưa uống hết ba thang thuốc của ông ta, bệnh của mẹ chồng dân nữ sẽ thuyên giảm nhiều. Ai ngờ. Ông trời ơi” Chu thị nói tới đây, khóc to lên.

Đỗ Văn Hạo nói: “Chu thị, đây là công đường, không được làm náo loạn”.

Sau khi Chu thị nghe xong, không dám khóc nữa.

Đỗ Văn Hạo nói: “Tốt lắm. Người đâu, dẫn Tôn lang trung lên công đường”.

Một lát sau hai quan sai dẫn một lão nhân lên công đường, vóc người gầy gò, tóc bạc trắng phơ, lưng hơi cong, sắc mặt vô cùng sợ hãi. Lão nhân nhìn thấy ngồi trên công đường là một viên quan mà ngay cả Tri phủ đại nhân cũng phải cung kính thì càng sợ hãi, đầu cúi thấp xuống. Chưa đợi nha dịch trong công đường nói đã run rẩy quỳ xuống, kêu lên một tiếng: Thanh thiên Đại lão gia.

“Người bên dưới có phải là Tôn lang trung của y quán Tiên Khách Lai không? ‘ Đỗ Văn Hạo hỏi.

“Dạ, chính là thảo dân”.

“Ngươi hành nghề y đã bao nhiêu năm rồi?”

“Từ năm mười hai tuổi đã theo sư phụ học y. Hai mươi hai tuổi xuất sư. Tới hôm nay hành nghề y đã năm mươi năm”.

Thì ra đây là một lão lang trung. Trong lòng Đỗ Văn Hạo không khỏi xúc động. Hắn nói với Chu thị: “Ngươi có mang theo đơn thuốc Tôn lang trung kê cho mẹ chồng ngươi không?’

Chu thị móc từ trong người ra một tờ giấy, Trương sư gia đứng dậy nhận lấy, hắn đưa tới trước đài, hai tay cung kính đưa cho Đỗ Văn Hạo. “Ngươi có còn giữ lại bã thuốc không?”

“Đã gi­ao cho nha môn” Chu thị liếc nhìn Trương sư gia nói.

Trương sư gia đứng dậy khom nói: “Bẩm Đỗ đại nhân, bã thuốc được giữ lại tại phủ nha để tiểu nhân lấy cho ngài” Nói xong Trương sư gia lấy một cái hũ đựng bã thuốc dưới bàn lên mang để trước đài.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền chăm chú nhìn sau đó lại nhìn đơn thuốc rồi căn dặn để sang một bên.

“Chu thị, bản quan hỏi ngươi. Có phải thuốc này lúc đó ngươi mua ở y quán Tiên Khách Lai không?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

Chu thị gật đầu khẳng định: “Dân phụ đương nhiên lấy thuốc của Tiên Khách Lai, tổng cộng ba thang, không sai chút nào”.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi: “Có phải sau khi mẹ chồng ngươi uống thuốc thì chết không?”

Chu thị nói: “Sau khi uống xong thang thứ nhất thì hình như có chuyển biến tốt hơn. Tôn lang trung nói ba ngày uống một thang. Ai ngờ ba ngày sau mẹ chồng dân nữ lại uốn thuốc thì bị tháo dạ điên cuồng, cuối cùng chết vì tiêu chảy không ngừng. Ôi ôi ôi”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Thôi được. Chu thị, ngươi cũng đừng khóc. Bản quan lại hỏi ngươi: “Ba thang thuốc này mỗi lần mẹ chồng ngươi uống đều do ai sắc hả?”

Chu thị trầm ngâm một lát rồi nói: “Lần đầu tiên là do dân phụ sắc. Lần thứ hai là do tiểu thúc sắc. Hắn vẫn đang ở bên ngoài công đường chờ phán xét”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Chu thị, ngươi cần phải nghĩ cho kỹ”.

Chu thị ngơi ngác nói: “Đại lão gia, thuốc này đều bốc ở y quán Tiên Khách Lai, ai sắc mà chả vậy vì sao ngài lại hỏi dân phụ?”

An Dật Long trầm giọng nói: “Điêu dân lớn mật. Đại nhân hỏi ngươi cái gì, ngươi hãy trả lời cái đó. Ở đâu có cái đạo lý ngươi hỏi ngược lại đại nhân?”

Đỗ Văn Hạo khoát tay áo, ý bảo An Dật Long không nóng vội. Hắn gọi Trầm sư gia tới nói nhỏ mấy câu vào tai ông ta. Trầm sư gia gật đầu lui xuống. An Dật Long muốn hỏi nhưng lại há miệng mà không dám hỏi.

Đỗ Văn Hạo nói: “Tiểu thúc của ngươi đang ở bên ngoài, vậy hãy dẫn hắn vào đây”.

Chỉ một lát sau, một nam nhân trên dưới năm mươi tuổi, chân trần đi vào công đường, hắn quỳ xuống không nói.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Ngươi tên gì, năm nay bao nhiêu tuổi? Có quan hệ gì với người chết?”

“Tiểu nhân là Hồng tam, năm nay năm mươi sáu tuổi, là con thứ hai của người chết”.

“Hồng tam, nhìn ngươi từng này tuổi, hẳn phải có cháu rồi, đúng không?”

“Bẩm Đại lão gia, thảo dân có ba cháu trai, một cháu gái”.

Đỗ Văn Hạo ra hiệu Trương sư gia đưa hũ bã thuốc cho Hồng ta và hỏi: “Hồng tam, ngươi có biết thuốc trong hũ này do ai sắc không?”

Hồng ta quan sát cẩn thận sau đó hắn còn dùng mũi ngửi rồi nói: “Là thảo dân sắc”.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Làm sao ngươi biết bã thuốc này chính là do ngươi sắc? Vạn nhất chúng ta đưa cho ngươi một cái hũ đựng bã thuốc giống hệt cái hũ này, bên trong có bã thuốc khác thì sao?”

Hồng tam nói: “Vị thuốc này thảo dân rất quen. Ngày hôm đó mẹ thảo dân uống thuốc bà còn nói vị thuốc này có mùi lạ, không muốn uống.

Thảo dân nói thuốc đắng dã tật. Mẹ thảo dân liền uống. Ai ngờ, buổi tối thì…Nếu thảo dân sớm biết như vậy? Tất cả đều là lỗi thảo dân. Bà đã không muốn uống. Không uống thì không sao. Ai ngờ tên lang băm giết người này lại kê đơn lung tung. Thảo dân lại còn khuyên mẹ mình dùng thuốc. Quả thực là tội nhân. Thảo dân thực đáng chết. Ô ô ô”.

Đỗ Văn Hạo quay sang hỏi Chu thị: “Chu thị, lần đầu tiên ngươi sắc thuốc cho mẹ chồng ngươi uống, bà ấy có ý đùn đẩy không muốn uống không?”

Chu thị lắc đầu nói: “Không có”.

Đỗ Văn Hạo nhìn An Dật Long bên cạnh hỏi: “An đại nhân có còn muốn hỏi gì không?”

An Dật Long hắng giọng một cái, hắn cung kính gật đầu với Đỗ Văn Hạo sau đó hỏi Chu thị: “Chu thị, vậy mẹ chồng của ngươi có nói thuốc có mùi lạ không?”

Chu thị nói: “Cũng không nói. Khi dân phụ bưng thuốc lên, bà liền uống ngay”.

An Dật Long gật đầu nói với Tôn lang trung: “Những lời nói của bọn họ ngươi cũng đã nghe thấy hết rồi, liệu có phải ngươi kê đơn sai không?”

“Tuyệt đối không có khả năng” Tôn đại phu nói: “Có lẽ là phụ nhân này giở trò quỷ”.

Chu thị lạnh lùng nói: “Ngươi nói cái gì? Ngươi đừng có ngậm máu phun người”.

“Hừ, mẹ chồng ngươi tuổi cao, cơ thể suy nhược, trên người mắc rất nhiều bệnh, thường xuyên phải coi sóc. Cái này là cái gọi: Ôm lâu ngày tất không có hiếu tử. Ngươi nhất định là chán ghét hàng ngày đều phải phục dịch như vậy nên ngươi nổi dã tính sát hại mẹ chồng ngươi”.

“Ngươi nói bậy. Ngươi là một đại phu gi­an xảo. Ngươi hại chết mẹ chồng của ta vậy mà miệng còn phun đầy cứt thối. Ngươi chết không yên lành. Ngươi sẽ bị thiên lôi đánh chết” Chu thị liên tục văng ra những từ ngữ ô uế.

Đỗ Văn Hạo cũng không ngăn cản, hắn chỉ mỉm cười nhìn, dáng vẻ rất hứng thú như thể hắn chưa nghe thấy nữ nhân chanh chua chửi bới bao giờ.

Tôn lang trung bị Chu thị chửi mắng một hồi thì gương mặt già nua đỏ lên, miệng lắp bắp muốn nói rồi lại thở dài.

An Dật Long thực sự không chịu nổi nữa, hắn ho khan mấy tiếng. Lúc này Chu thị mới tỉnh ngộ, không dám mắng chửi nữa, liền dập đầu nói với Đỗ Văn Hạo: “Đại lão gia, dân phụ một lòng phụng dưỡng mẹ chồng, không có hai lòng. Xin đại lão gia minh giám”.

Chương 374: Tin cấp báo tám trăm dặm

Đỗ Văn Hạo nói với phụ nhân Chu thị: “Ta nghe nói mẹ chồng của ngươi được tiên đế ngự bút vì bà một đời đức hạnh nuôi dưỡng ba người con, phải không?”

Chu thị kiêu ngạo nói: “Đúng vậy”.

Đỗ Văn Hạo sa sầm mặt nói: “Ngươi có người mẹ chồng đức hạnh, thuần thiết cao như vậy. Tại sao ngươi lại thành một con đàn bà chửi đổng, chanh chua ở đây? Ngươi hãy nghĩ xem vừa rồi ngươi chửi mắng những lời thô tục, chỉ e là cứt đái trong hầm cầu vẫn còn sạch sẽ hơn. Ngươi làm như vậy, chẳng phải là đã bôi nhọ đền thờ trinh tiết của mẹ chồng ngươi sao?”

Sau khi Chu thị nghe xong, đỏ bừng mặt, cúi đầu không dám lên tiếng, sự kiêu ngạo vừa rồi đã mất đi tám, chín phần.

Bây giờ mấy người An Dật Long mới hiểu vì sao Đỗ Văn Hạo lại làm ngơ như mắt mù tai điếc với hành vi chửi bới của Chu thị. Thì ra hắn vẫn có một thủ đoạn hay như vậy. Một khi dùng chiêu này, đả kích vẻ kiêu ngạo của Chu thị, tiếp theo sẽ tiến tới công tác tư tưởng. Nghĩ vậy mấy người không khỏi tán thưởng tâm tư kín đáo của Đỗ Văn Hạo.

Thật ra chiêu này Đỗ Văn Hạo cũng không nghĩ ra mà là chủ ý của Trầm sư gia.

Đỗ Văn Hạo nói với Tôn lang trung: “Ngươi hãy tới nhìn xem bã thuốc trong bình có phải là thuốc ngươi kê lúc trước không?”

“Dạ, đa tạ Đại lão gia” Tôn lang trung cảm kích việc vừa rồi Đỗ Văn Hạo nói giúp cho mình, quở trách người đàn bà chanh chua đó. Coi như là trợ giúp cho mình. Tôn lang trung đứng dậy vái chào Đỗ Văn Hạo rồi mới bước tới nhìn bình thuốc.

Bã thuốc nằm hỗn độn trong bình. Ánh sáng trong công đường cũng không tốt lắm, nhìn xem cũng không rõ, Tôn lang trung cũng không dám nói mang bình thuốc khỏi an của Đại lão gia, ông ta đang cân nhắc xem nên làm gì thì Đỗ Văn Hạo hỏi: “Ngươi có còn nhớ thuốc ngươi kê cho mẹ chồng của Chu thị là thuốc gì không?”

Tôn lang trung nói: “Thời gi­an còn chưa lâu lắm nên thảo dân vẫn nhớ rõ. Hôm đó Chu thị dẫn mẹ chồng tới Tiên Khách Lai của thảo dân chữa bệnh. Thảo dân nhớ lão thái thái thân thể suy nhược. Mới đi vào tới trước bàn của thảo dân mà đã thở hổn hển như là nói chuyện cả nửa ngày vậy”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Vậy ngươi chuẩn đoán thế nào?”

Tôn lang trung nói: “Thở hổn hển, ho khan, nhiều đờm, loãng, trong. Mạch rất yếu. Tưa lưỡi trắng bạch. Chuẩn đoán là đàm ẩm, dùng ôn dược, kê phương Ôn Dương tiêu đàm”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Ngươi vẫn chưa nói cho ta biết bã thuốc trong bình này có phải là thuốc ngươi kê không?”

Tôn lang trung khom người nói: “Đại lão gia, thảo dân, cái mũi của thảo dân không có tác dụng, không ngửi thấy mùi vị gì”.

“Ừ. Lúc trước ngươi nói ngươi nghi ngờ Chu thị mưu hại mẹ chồng rồi vu oan giá hoạ cho người. Ngươi có chứng cứ không?’

Tôn lang trung sợ hãi nói: “Đây cũng chỉ là dự đoán về sự tình bên trong mà thôi. Phàm những việc mưu hại người, tuyệt đối không để chứng cứ cho người khác biết được”.

“Việc này cần có chứng lý đầy đủ. Vì cần những tình tiết rõ ràng của vụ án, tối hôm qua bản quan đã điều tra một chút, có lẽ có thể trợ giúp cho vụ án này” Nói xong Đỗ Văn Hạo quay đầu lại liếc mắt nhìn Trầm sư gia.

Trầm sư gia hiểuý, ông ta quay người rời khỏi công đường. Một lát sau ông ta cùng với hai nha dịch của nha môn tiến vào. Trên tay mấy người còn cầm gì đó.

Trầm sư gia nói: “Đại nhân, dựa theo căn dặn của ngài. Tối hôm qua lão hủ đã dẫn theo hai nha dịch đi tới thôn Dương Liễu một chuyến, đã vào trong nhà của Hồng tam điều tra”.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Có thu hoạch gì không?”

Trầm sư gia nói: “Sau khi điều tra đã phát hiện ra Chu thị đã mua ba thang thuốc. Một thang đã sắc cho mẫu thân Triệu thị của Hồng tam uống, một thang để ở trong bình, làm chứng trước công đường. Trong khi đó ở trong nhà Hồng tam còn phát hiện ra hai thang thuốc vẫn chưa sắc dấu dưới đống củi trong góc tường nên bọn lão hủ cầm về đây” Nói xong, Trầm sư gia bảo nha dịch cầm hai cái bọc giấy mang lên án.

Đỗ Văn Hạo mở ra nhìn một lát sau đó hắn nhìn lướt qua Tôn lang trung cùng Chu thị và Hồng tam nói: “Còn phát hiện gì nữa không?”

Trầm sư gia nói tiếp: “Khi ở trong thôn, lão hủ có nhân tiện hỏi thăm được một số tin tức về việc sống chung với mẹ chồng của Chu thị. Lão hủ nghe nói một ngày trước khi dẫn mẹ chồng đi khám bệnh, Chu thị cãi nhau kịch liệt với mẹ chồng mình. Lão hủ còn nghe nói hàng ngày Chu thị cư xử với mẹ chồng không tốt lắm. Chu thị là người nhanh mồm nhanh miệng, hàng ngày thường cãi nhau với mẹ chồng nhưng lão hủ không nghe nói tới việc ngược đãi”.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Ngươi tới Tiên Khách Lai một chuyến, có thu hoạch được gì không?’

Trầm sư gia nói: “Tiên Khách Lai đã đóng cửa, đại để là vì chuyện này mà hàng xóm trong lúc rảnh rỗi thường bàn tán linh tinh. Chưởng quỹ của Tiên Khách Lai vốn cũng là một người học y, thấy lão hủ mang theo hai nha dịch tới, ban đầu không muốn mở cửa nhưng sau khi nha dịch bảo phá cửa nên ông ta mới mở cửa. Chưởng quỹ nói Tôn lang trung là người tinh thông y thuật nên đương nhiên sẽ không có cái gì gọi là kê sai đơn thuốc”.

An Dật Long nói: “Nếu như là kê đơn không sai, vậy liệu có phải là bốc thuốc sai không?”

Trầm sư gia nói: “An đại nhân nghĩ rất chu đáo. Lão hủ cũng đã hỏi tiểu nhị bốc thuốc của Tiên Khách Lai chuyện này. Bọn họ nói Tiên Khách Lai có một thói quen bốc thuốc đó là khi bốc xong còn phải mang cho đại phu toạ đường kiểm tra lại. Tiểu nhị đó cũng nói Tôn lang trung cũng đã kiểm tra qua, không phát hiện có gì sai”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Cẩn thận là không có thừa. Dù gì đây cũng là chuyện liên quan tới sinh mạng con người”.

Tôn lang trung nơm nớp lo sợ nói: “Đại lão gia, tiểu dân quả thực đã kiểm tra lại. Vừa rồi tiểu dân còn ngửi thấy hình như trong bình này có Đại hoàng, một loại dược tháo dạ. Tất nhiên tiểu dân không kê vị này, hơn nữa trong thang thuốc của tiểu dân cũng không có loại dược này vì vậy tiểu dân rất buồn bực”.

Đỗ Văn Hạo bảo nha dịch mang cái bình đựng thuốc tới để trên mặt đất, sau đó lại mang hai thang thuốc tới đặt ở chỗ đó để Tôn lang trung xem qua sau đó Đỗ Văn Hạo hỏi: “Trong đây có thang thuốc ngươi kê không?”

Tôn lang trung nhanh chóng chỉ vào một thang thuốc nói: “Đây chính là thang thuốc tiểu dân kê cho lão thái thái đó”.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi Chu thị: “Trong nhà các ngươi còn có ai khác bị bệnh không?”

Chu thị lắc đầu nói: “Không có. Nhưng dân phụ không hiểu tại sao lại còn thừa ra một thang thuốc nữa”.

An Dật Long cười nhạt nói: “Ngươi chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ sao? Trong nhà ngươi không còn người nào uống thuốc, vậy một thang thuốc nữa là từ đâu ra?”

Nói rồi theo thói quan An Dật Long đưa tay định cầm lấy lệnh bài nhưng đúng lúc này hắn mới chợt nhớ ra Đỗ Văn Hạo đang là người thăng đường thẩm vấn chứ không phải hắn. Hắn vội chắp tay nói: “Theo ý kiến của ty chức, điêu phụ này rất xảo quyệt, không để nó nhận được chút lợi hại, nhất định sẽ không nhận tội”.

Đỗ Văn Hạo không nói, An Dật Long lại nghĩ Đỗ Văn Hạo ngầm đồng ý nên hắn liền giơ tay cầm lệnh bài trong hộp. Thấy vậy Đỗ Văn Hạo lãnh đạm nói: “An đại nhân, hay là ngươi ngồi chỗ này đi nha?”

An Dật Long lập tức hiểu ra, hắn cười ngượng ngùng rụt tay về nói: “Rất xin lỗi. Đại nhân, ty thức quá thất lễ” Nói xong An Dật Long ngượng ngùng ngồi trở lại vị trí của mình.

Đỗ Văn Hạo nói: “Chu thị, trước khi xảy ra chuyện, có phải ngươi và mẹ chồng của ngươi đã cãi nhau không?”

Chu thị nói: “Bẩm Đại lão gia, quả thực ngày đó dân phụ cùng mẹ chồng có cãi nhau vì việc dạy bảo đứa con tinh nghịch của dân phụ. Chuyện này tướng công của dân phụ cùng tiểu thúc cũng biết nhưng mà dân phụ tuyệt đối không vì chuyện này có có dã tâm sát hại mẹ chồng của mình”.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Ngươi có chứng cớ gì chứng minh không?”

Chu thị suy nghĩ một lát rồi nói: “Đại lão gia có thể hỏi tướng công của dân phụ cùng với tiểu thúc. Gần đây dân phụ đều như vậy, nhìn thấy chuyện gì không vừa mắt thì lẩm bẩm mấy câu. Ngài xem, bây giờ đang là mùa xuân, nước sông rất lạnh. Mẹ chồng của dân phụ lại rất cưng chiều con của dân phụ. Con dân phụ muốn đi bơi ở sông cũng không ngăn cản, lại còn muốn dẫn nó đi bơi. Dân phụ liền nói mấy câu nặng nhẹ với bà. Dân phụ cũng biết sức khoẻ của bà không tốt. Nhưng tình hình lúc đó khẩn trương, cũng không thể nghĩ nhiều như vậy được nên đã để cho hàng xóm láng giềng nghe được. Về sau Vương thẩm ở cạnh nhà dân phụ sang khuyên giải. Vào bữa cơm tối, dân phụ cảm thấy mình đã sai nên đã bảo trượng phu tới nhà Triệu đồ tể trong thôn mua ba lạng thịt về làm một bữa ngon cho bà ăn. Buổi tối đó coi như mẹ chồng nàng dâu không còn xảy ra chuyện gì nữa. Sáng hôm sau dân phụ mới đưa bà vào thành chữa bệnh”.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Hồng tam, lão bà của ngươi nói có đúng không?”

Hồng tam gật đầu nói: “Đại lão gia, tiện nội gần đây nói chuyện đều như vậy. Người trong nhà cũng đều biết, đôi khi nói chuyện với nhau cũng tức giận nhưng chính bản thân mình vẫn không chịu bỏ qua. Sau này vẫn tiếp tục nói giỡn với mọi người mà không biết mọi người vẫn còn đang tức giận. Quả thật buổi tối hôm đó có mua mấy lạng thịt. Mẹ của tiểu nhân cũng là người mềm lòng, thấy con dâu có ý nhận lỗi nên cũng không so đo”.

Đỗ Văn Hạo hỏi tiếp: “Vậy ngươi hãy nhớ xem trong thời gi­an gần đây trong nhà ngươi có ai uống thuốc hay mua thuốc từ trước, không uống hết rồi tiện tay vứt ở góc tường không?”

Hồng tam lúng túng gãi đầu nói: “Quả thực tiểu dân cũng không nhớ”.

Tôn lang trung nói: “Hừ, thuốc để cho người uống sao lại bỏ ở góc tường. Đại khái chính là sợ người khác nhìn thấy nên mới cố ý dấu đi”.

Đột nhiên Chu thị nói: “Đại lão gia nhắc dân phụ mới nhớ ra. Mấy ngày trước con heo nái nhà dân phụ bỏ ăn, dân phụ tìm thú ý trong thôn tới chữa cho nó. Thú ý cho hai thang thuốc, mới ăn hết một thang thì heo nái đã khoẻ. Dân phụ nghĩ ném đi thì tiếc nên mới…chẳng lẽ?”

Đỗ Văn Hạo “a” lên một tiếng, hắn hỏi Chu thị: “Ngươi nói gia súc nhà ngươi bị bệnh sao?’

Chu thị nói: “Đúng vậy. Đại khái là mấy ngày trước khi dân phụ dẫn mẹ chồng mình đi vào thành chữa bệnh”.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Thú y trong thôn tên gọi là gì?”

Chu thị nói: “Vương mặt rỗ”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Được, xem ra vụ án này cần tra thêm manh mối. Người đâu, tới thôn Dương Liễu dẫn Vương mặt rỗ tới đây. Tạm thời thoái đường”.

Đỗ Văn Hạo phất tay quay lại hậu đường, An Dật Long vội vàng đi theo.

Khi vào đến hậu đường, An Dật Long vội vàng phân phó nha dịch bưng nước trà và điểm tâm cho Đỗ Văn Hạo sau đó hắn cười tủm tỉm ngồi đối diện với Đỗ Văn Hạo. An Dật Long khẽ nhấp một ngụm trà, hắn nhìn sắc mặt của Đỗ Văn Hạo rồi dè dặt nói: “Không biết Đỗ đại nhân thấy vụ án này thế nào?”

Đỗ Văn Hạo cầm một cái bánh hạt sen, nhìn cũng không tệ lắm, ăn. Sau đặt miếng bánh ăn dở vào trong mâm, Đỗ Văn Hạo vỗ vỗ mảnh bánh rơi trên áo choàng và nói: “Bản quan muốn nghe suy nghĩ của An đại nhân”.

An Dật Long ồ một tiếng rồi hắn khiêm nhường nói: “Trước đó ty chức cũng đã hỏi qua Chu thị, cũng đã tới thôn điều tra, hỏi thăm người trong thôn, cũng nghe nói chuyện mẹ, chồng nàng dâu xung khắc với nhau, cũng thường xuyên xảy ra chuyện đánh chửi nhau. Thời gi­an này mẹ chồng không những không đồng cảm mà còn hay cãi nhau với con dâu nên tất nhiên Chu thị không thoải mái, có ý nghĩ đó cũng là chuyện bình thường”.

Đỗ Văn Hạo nhấp một ngụm trà thơm nói: “Thang thuốc thứ nhất Chu thị sắc cho mẹ chồng uống không có vấn đề gì. Tại sao thang thứ hai lại xảy ra chuyện như vậy?”

An Dật Long nuốt một ngụm nước bọt nói: “Chẳng lẽ thật sự Chu thị đã hạ độc thủ sau đó cố ý đổ tội lên đầu Tôn lang trung sao?”

Đỗ Văn Hạo cầm miếng bánh còn lại trong mâm bỏ vào mồm, tinh tế thưởng thức sau đó hắn uống một ngụm trà và nói: “Thẩm án không thể dự đoán. Ở đây có một lỗ hổng rất lớn. An đại nhân hoàn toàn không chú ý tới tại sao lại có thừa ra một thang thuốc. Đại nhân nghĩ đã xảy ra chuyện gì?”

An Dật Long đứng dậy, xoa tay nói: Đây là chuyện vẫn chưa rõ ràng. Có lẽ Chu thị đã mua một thang thuốc khác. Trước hết sắc một thang thuốc của Tôn lang trung cho Triệu thị uống để bà ta thấy có chuyển biến mà mất cảnh giác sau đó mới đưa thang thuốc kia cho Hồng tam sắc cho Triệu thị uống để hại chết Triệu thị”.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “An đại nhân nói cũng có đạo lý”.

An Dật Long cười đắc ý, hắn ngồi lại vào chỗ của mình. Bất chợt hắn phát hiện nụ cười có phần giễu cợt của Đỗ Văn Hạo, sự đắc ý lập tức tan thành mây khói, hắn ngượng ngùng nói: “Đại nhân có thể chỉ điểm chỗ sai lầm không?”

Đỗ Văn Hạo nhấp một ngụm trà, hắn chậm rãi nói: “Có lẽ vụ án này căn bản không phải là vụ án giết người nên sẽ không có hung thủ”.

Nghe xong An Dật Long ngạc nhiên nói: “Xin chỉ giáo”.

“Với trực giác của bản quan, đây là một vụ án ngoài ý muốn. Chờ lát nữa thú y tới mọi việc sẽ minh bạch”.

“Ngoài ý muốn? Ý của đại nhân là?”

“Một khi đã làm kẻ trộm thì không cần phải hô to bắt trộm như vậy vì căn bản không có ai tới tìm nàng ta gây chuyện, cũng không có bất kỳ ai nghi ngờ. Nếu thật sự Chu thị mưu hại mẹ chồng của mình, lựa chọn đầu tiên chính là thu xếp ổn thoả, che dấu tai mắt của người ngoài nhưng Chu thị lại tới nha môn đánh trống kêu oan. Chẳng lẽ Chu thị không sợ bị bại lộ chân tướng sự việc sao?’

“Đại nhân phân tích rất có lý” An Dật Long khen ngợi.

Đỗ Văn Hạo vẫn ung dung nói: “Vấn đề mấu chốt để sét đoán vẫn là đơn thuốc. Căn cứ vào đơn thuốc có thể hiểu được rất nhiều thứ”.

“Hiểu rõ cái gì?”

“Cái này hãy đợi lát nữa ta sẽ nói trên công đường. Ta không muốn nói hai lần”.

“…”.

Không bao lâu sai nha dịch vào báo Vương mặt rỗ đã tới.

Một lần nữa Đỗ Văn Hạo lại thăng đường, sau khi hỏi rõ thân phận của Vương mặt rỗ hắn nói tiếp: “Ngươi có từng tới chữa bệnh cho gia súc của nhà Triệu thị mới qua đời ở trong thôn của ngươi không?”

“Có chữa, đại nhân. Con lợn nái nhà bọn họ mắc bệnh, có mời tiểu dân tới chữa. Tiểu dân chỉ cho ít thuốc đã chữa khỏi. Hì hì”.

“Ô, xem ra y thuật của ngươi cũng không tệ” Đỗ Văn Hạo nói: “Con lợn đó bị bệnh gì? Ngươi cho nó thuốc gì?”

“Đó chính là bạch lỵ. Thuốc của tiểu dân kê có những loại như Đại hoàng, Phác tiểu”.

Ánh mắt Đỗ Văn Hạo sáng lên, hắn hỏi: “A, ngươi có kê Đại hoàng trong thuốc hả?”

“Đúng vậy”.

Đỗ Văn Hạo nói với nha dịch: “Người đâu, mang bình thuốc đổ mặt đất để bọn họ nhận dược. Ta muốn xem rốt cuộc bên trong là những thứ gì? Đây là bã thuốc Triệu lão thái thái dùng trước khi chết. Các ngươi hãy nhìn xem có phải là thuốc các ngươi kê hay không?’

Ngay lập tức có nha dịch mang bình thuốc đổ thuốc ra trước mặt nhị vị lang trung và Chu thị. Dựa vào bã thuốc này vẫn còn có thể nhận ra dược liệu. Sau khi hai người Vương mặt rỗ và Tôn lang trung xem xong đều giật mình kinh hãi.

Tôn lang trung kinh hãi hô lên: “Không đúng. Thuốc trong bình này tuyệt đối không phải là thuốc tiểu dân kê. Tiểu dân kê cho Triệu lão thái thái dùng Đáp quế thuật cam thang cùng với nhị trần thang*. Có đơn thuốc làm chứng”.

Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, hắn lại nhìn thú ý Vương mặt rỗ lúc này đang trợn mắt há hốc mồm.

Quả thật Vương mặt rỗ không thể tin vào mắt mình, hắn lẩm bẩm: “Cái này. Đây chính là thuốc của mình. Nhưng mà thuốc của mình là kê cho lợn nhà họ ăn. Tại sao lại nằm trong bình thuốc của lão thái thái?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Rất đơn giản. Có người sắc lầm thuốc, lấy thuốc dùng cho lợn mang cho lão thái thái uống. Bản quan căn cứ vào việc điều tra của sư gia thì thấy. Đích xác Triệu thị ốm đã nhiều năm. Nhiều làn tới dược phổ của Tôn đại phu chữa bệnh. Sư gia cũng lấy được phương thuốc chưa bệnh cho Triệu thị khi trước lưu lại dược phổ, biết Triệu lão thái này mắc bệnh đàm ẩm. Hàng năm khi mùa đông tới thì phát tác nặng thêm. Triệu lão thái tuổi tác đã cao, dương khí suy yếu, đàm ẩm phát triển, dùng Ôn dương hoá ẩm vì vậy Tôn đại phu đã kê đơn đúng bệnh. Thang thuốc thứ nhất đã hiệu quả, chứng minh thuốc có hiệu nghiệm nhưng đáng tiếc là có người sắc lầm thuốc dùng cho gia súc thành thuốc cho người để Triệu lão thái thái uống nên mới có kết quả này”.

Hai mắt Hồng tam đẫm lệ nhưng hắn vẫn không tin vào điều này. Hắn lắp bắp nói: “Đại lão gia, thuốc dành cho lợn ăn. Một con lợn bé uống một liều thuốc đó không chết. Tại sao người uống lại chết?’

Đỗ Văn Hạo thở dài nói: “Triệu lão thái là người tuổi cao, dương suy, ẩm ta thịnh lúc này dùng Ôn dương hoá ẩm chỉ e vẫn còn không kịp. Tại sao lại còn dùng Đại hoàng, Phác tiêu nhưng loại dược có tính hàn, nên đương nhiên không thể chữa được bệnh suyễn của lão thái thái. Có câu nói: Hảo hán cũng không chịu được ba bãi cứt nhão, huống chi là một bà lão tám mươi”.

Hồng tam gào khóc nói: “Mẹ! Con thực xin lỗi. Tại sao khi sắc thuốc không nhìn cẩn thận vậy?”

Chu thị cũng lớn tiếng khóc ngay tại chỗ: “Trách ta đi! Đều là tại ta tiếc của. Tại sao ta lại làm vậy? Thuốc thừa của lợn, không vất đi còn giữ lại làm gì hả trời?”

Đỗ Văn Hạo thở dài một tiếng, hắn lắc đầu đang định nói thì bất chợt sau lưng hắn vang lên tiếng bước chân. Một tên sai dịch lẻn tới nói nhỏ mấy câu vào tai Trầm sư gia. Trầm sư gia biến sắc, ông ta vội vàng bước tới cũng thì thào vào tai Đỗ Văn Hạo: “Đại nhân, có tin cấp báo quân tình khẩn cấp tám trăm dặm”.

Đỗ Văn Hạo “a” lên một tiếng, hắn phất tay áo nói: “Vụ án đã tra xét rõ ràng. Tôn đại phu vô tội phóng thích. Bãi đường”.

Đỗ Văn Hạo vội vàng đi vào hậu đường. An Dật Long cũng vội vàng vào theo, sắc mặt hắn tươi như hoa, hắn đang định nói mấy câu vuốt mông ngựa nhưng thấy sắc mặt Đỗ Văn Hạo nghiêm trọng thì vội vàng nuốt lời nói vào trong bụng.

Sắc mặt của Đỗ Văn Hạo và Trầm sư gia đại biến là có nguyên nhân. Tin cấp báo quân tình khẩn cấp tám trăm dặm là loại hình truyền tin tức nhanh nhất của thời cổ đại. Loại phương thức chưa tới lúc quân tình khẩn cấp thì không ai được phép dùng vào bất kỳ chuyện gì, càng không thể dùng tiền là có thể được. Nhất định đã xảy ra đại sự.

Đỗ Văn Hạo vội vàng phân phó mời người mang tin cấp báo quân tình tiến vào.

Người mang tin tức cấp báo quân tình này là một Hiệu uý, hơn nữa còn nói việc quân tình cực kỳ khẩn cấp và quan trọng nên trong lòng Đỗ Văn Hạo cũng vô cùng nôn nóng.

Một tên Hiệu uý người đầy mồ hôi, trên vai đeo một chiếc ống bằng đồng, eo đeo đơn đao, y phục trên người ướt đẫm mồ hôi, cực kỳ bụi bặm, nhếch nhác bước nhanh vào phòng, hắn quỳ xuống ôm quyền nói: “Mạt tướng tham kiến quan Đề Hình đại nhân. Xin thứ cho mạt tướng vô lễ muốn xem quan ấn của đại nhân”.

Đối với tin cấp báo quân tình tám trăm dặm, người tiếp nhận phải đưa ra chứng nhận hợp cách. Sau khi kiểm tra hư thực rõ ràng mới được tiếp nhân. Đỗ Văn Hạo vội vàng lấy con dấu của quan Đề Hình đưa ra. Tên Hiệu uý lấy ra một tờ giấy trắng trên đó có đóng sẵn một con dấu, hắn đóng con dấu của Đỗ Văn Hạo chồng lên ở mặt trái, gấp lại so sánh, cả hai hoàn toàn ăn khớp với nhau. Lập tức hắn gỡ ống đồng trên lưng xuống, rút tiểu đao, dỡ bỏ ấn phong kín. Hắn lấy ra một cuộn giấy dài màu vàng, cũng được niêm phong, còn nguyên xi phong ấn, hai tay dâng lên Đỗ Văn Hạo.

* NHỊ TRẦN THANG

(Hòa tể cục phương)

Thành phần:

Bán hạ 8 - 12g Trần bì 8 - 12g

Cam thảo 4g Phục linh 1g

(nguyên phương có Sinh khương, Ô mai, trên lâm sàng hiện nay không dùng).

Cách dùng: Sắc nước uống.

Tác dụng: Táo thấp hóa đàm, lý khí hòa trung.

Giải thích bài thuốc:

Bài thuốc dùng trong các trường hợp ăn phải chất sống lạnh, chức năng tỳ vị bị rối loạn, thấp sinh đàm. Trong bài:

• Bán hạ cay táo ôn có tác dụng táo thấp hóa đàm, giáng nghịch cầm nôn, tiêu tán tích kết là chủ dược.

• Trần bì lý khí hóa đàm.

• Bạch linh kiện tỳ lợi thấp.

• Cam thảo hóa trung kiện tỳ.

Các vị thuốc cùng dùng có tác dụng táo thấp hóa đàm, lý khí hòa trung. Trong bài các vị Trần bì, Bán hạ đều phải dùng loại lâu năm để bớt tính cay táo, nên gọi là Nhị trần thang.

Ứng dụng lâm sàng:

Trên lâm sàng bài này thường dùng để hóa đàm hòa vị nên dùng nhiều trong các chứng đàm. Nếu chứng thuộc phong đàm gia Chế nam tinh, Bạch phụ tử để trừ phong hóa đàm. Nếu thuộc hàn đàm, gia Can khương, Tế tân để ôn hóa đàm. Nếu thuộc nhiệt đàm gia Qua lâu, Bối mẫu, Hoàng cầm để thanh nhiệt hóa đàm. Nếu thuộc thực đàm gia La bạc tử, Chỉ xác để tiêu thực hóa đàm.

1. Trường hợp viêm phế quản mạn tính, ngực tức khó thở, ho...
2. Trường hợp rối loạn tiêu hóa, bụng đầy chán ăn, buồn...
3. Trên lâm sàng có báo cáo dùng bài này chữa bướu cổ đơn thuần có gia thêm Côn bố, Hải tảo có kết quả.

Phụ phương:

ÔN ĐỞM THANG

(Thiên kim phương)

Thành phần:

Bài NHỊ TRẦN THANG gia:

Trúc nhự 8 - 12g

Chỉ thực 8 - 12g

Sinh khương 3 lát

Đại táo 2 quả

Cách dùng: Sắc nước uống.

Tác dụng: Thanh đởm hòa vị, tiêu đàm, cầm nôn.

Chủ trị: Chứng đởm hư đàm nhiệt xông lên, gây bứt rứt khó ngủ, ngực đầy tức, mồm đắng nôn đàm, có thể dùng chữa các chứng suy nhược thần kinh, ăn kém, khó ngủ, bụng đầy, váng đầu, tim hồi hộp, có thể dùng tong các trường hợp người béo phị, đau tức ngực do đàm thấp.

KIM THỦY LỤC QUÂN TIỂN

(Cảnh nhạc toàn thư)

Bài NHỊ TRẦN THANG gia:

Đương qui 8 - 12g

Thục địa 16 - 20g

Gừng tươi 3 lát.

Cách dùng: Sắc nước uống.

Tác dụng: Dưỡng âm huyết hóa đàm.

Chủ trị: Chứng phế thận âm hư, tỳ thấp sinh đàm ho suyễn đàm nhiều, nôn, họng khô mồm táo.

ĐẠO ĐÀM THANG

(Tế sinh phương)

Bài NHỊ TRẦN THANG gia:

Đởm nam tinh 6 - 10g

Đảng sâm 4 - 8g

Xương bồ 4 - 8g

Trúc nhự 2 - 4g

Sinh khương 3lát

Đại táo 2 quả

Cách dùng: Sắc nước uống.

Tác dụng: Ích khí, trừ đàm hóa trọc, khai khiếu.

Chủ trị: Chứng trúng phong, đàm mê tâm khiếu, cứng lưỡi không nói được.

Chương 375: Muốn gán tội cho người khác

Đỗ Văn Hạo tiếp nhận, hắn móc trong người ra một tờ ngân phiếu đưa cho tên Hiệu uý: “Huynh đệ hãy nhận lấy”.

Tên Hiệu uý nhìn lướt qua thì thấy đó là tờ ngana phiếu hai mươi lượng, hắn rất cao hứng. Hắn từng nghe nói vị quan Đề Hình, Ngự y đại nhân này là người hào phóng, trọng nghĩa khinh tài. Bây giờ chứng kiến quả không sai, hắn liền ôm quyền thi lễ tạ ơn, tiếp nhận tờ ngân phiếu rồi mới đứng dậy, quay người rời đi.

Nếu là quân tình khẩn cấp, người ngoài không có quyền nhìn, phải lui ra ngoài.

Lúc này Đỗ Văn Hạo mới dùng tiểu đao mở lớp xi niêm phong, lấy từ bên trong ra một ống quyển màu vàng sáng rực.

Nhìn thấy ống quyển màu vàng này Đỗ Văn Hạo liền hiểu rõ đây là thánh chỉ của hoàng thượng. Trong lòng Đỗ Văn Hạo vô cùng ngạc nhiên, tại sao Hoàng thượng lại dùng tin cấp báo quân tình tám trăm dặm mà không dùng thái giám truyền chỉ?

Nhưng ngay bây giờ không có nhiều thời gi­an để suy nghĩ. Đỗ Văn Hạo vừa mở ống quyển ra đã trợn tròn mắt kinh ngạc. Thì ra đây lại là ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu. Trên thánh chỉ chỉ có một câu: “Bệnh tình Hoàng Thương nguy kịch, hoả tốc vào kinh”.

Hẳn bệnh tình của Hoàng Thượng đã thập phần nguy kịch bằng không Thái Hoàng Thái Hậu đã không dùng quân tình cấp báo tám trăm dặm để hắn vào kinh khẩn cấp. Hơn nữa nhất định Thái y trong triều cũng đã thúc thủ vô sách, lúc đó Thái Hoàng Thái Hậu mới nghĩ tới chính hắn.

Trước khi rời kinh thành, Đỗ Văn Hạo đã từng kiểm tra kỹ càng tình trạng sức khoẻ của Tống Thần Tông. Hắn phát hiện Tống Thần Tông có dấu hiệu suy thận. Hắn đã kê một đơn thuốc, căn dặn Tống Thần Tông phải uống thuốc đúng thời hạn. Ngoài ra khi ở phủ Thành Đô, hắn đã bất ngờ thu được trên người tên gi­an tế của dân tộc Thổ Phiên một bọc Đông Trùng Hạ Thảo, hắn đã đưa Ninh công công mang về cho Hoàng Thượng dùng. Đạo Thánh chỉ này rốt cuộc lại không nói là Hoàng Thượng bị mắc bệnh gì nhưng cũng có thể hiểu rõ một chút nếu như bệnh thận của Hoàng Thượng trở nên nguy kịch, nhất định đã không uống thuốc đúng theo đơn hắn đã kê. Nếu không tuyệt đối trong vòng một năm, bệnh của Tống Thần Tông sẽ không thể trở nên nguy kịch như vậy.

Đỗ Văn Hạo lập tức thông báo Bàng Vũ Cầm và mấy người Lý Phố tới phòng của mình. Hắn trầm giọng nói: “Ta có việc khẩn cấp cần phải vào kinh ngay. Thanh Đại đi theo đi. Trầm sư gia cùng mấy người Lý Phố hộ tống những người còn lại vào kinh sau”.

Trầm sư gia cùng Lý Phố không dám hỏi, cả hai khom người nhận lệnh.

Bàng Vũ Cầm lại nôn nóng hỏi: “Tướng công, có chuyện gì khẩn cấp?”

Chuyện bệnh tình hoàng Thượng nguy kịch là chuyện tuyệt đối bí mật, là chuyện người ngoài tuyệt đối không thể biết. Đương nhiên Đỗ Văn Hạo cũng không dám nói lung tung. Hắn chỉ nói: “Đây là tin tức tuỵêt mật, ta không thể nói. Bây giờ ta phải lập tức xuất phát”.

Kha Nghiêu hấp tấp nói: “Ca, muội cũng muốn đi theo ca”.

Đỗ Văn Hạo sầm mặt nói: “Không được!”

“Tại sao?”

“Không cần biết tại sao. Không được là không được”.

Kha Nghiêu thấy sắc mặt Đỗ Văn Hạo âm trầm, nghiêm trọng, nàng hiểu hắn nói đúng, nàng cũng hiểu đây là chuyện cực kỳ nghiêm trọng nên không dám mè nheo. Nàng chỉ chu môi đứng sang một bên.

Những người còn lại càng không dám hỏi nhiều. Lâm Thanh Đại thu thập bọc hành lý rất nhanh, phái người đi tới các trạm dịch. Bọn họ muốn đổi ngựa ở các trạm dịch để đi cả đêm vào kinh. Bệnh tình Hoàng Thượng nguy kịch không phải là chuyện đùa giỡn.

An Dật Long nghe nói Đỗ Văn Hạo phải lập tức vào kinh, hơn nữa lại đi trước, hắn lại nghe nói Đỗ Văn Hạo mới nhận được tin cấp báo quân tình tám trăm dặm từ kinh thành nên càng không dám hỏi. Hắn chỉ cuống quýt liên lạc với trạm dịch rồi đi tiễn hai người Đỗ Văn Hạo.

Hai người Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại không kịp cáo biệt quan lại nha môn đã vội vàng lên ngựa của trạm dịch, chắp tai cáo biệt, giục ngựa, ra doi nhanh chóng rời đi.

Từ Gi­ang Tây tới kinh thành đường xá xa xôi nhưng hai người dùng tuấn mã. Trên đường băng băng, chỉ biết thay ngựa, ngày cũng như đêm chạy không ngừng nghỉ. Trên đường đi không dừng chân chút nào, trải qua mấy ngày đêm không chợp mắt cuối cùng cũng tới phụ cận kinh thành.

Ngay khi hai người đi vào cửa nam kinh thành thì thấy trên tường thành cao cao có treo một lá cờ trắng dài mấy trượng, thê lương tung bay trong gió. Ở cửa thành cũng nhiều quan binh hơn thường lệ. Hơn nữa ai cũng quấn lụa trắng ở eo.

Đây là quốc tang!

Đỗ Văn Hạo không khỏi thầm kêu khổ, cuối cùng vẫn tới chậm. Nhất định Tống Thần Tông đã băng hà.

Đỗ Văn Hạo phóng ngựa qua, quan thủ cổng thành nhận ra Đỗ Văn Hạo, hắn ôm quyền thi lễ nói: “Đỗ đại nhân, ngài đã trở lại”.

Đỗ Văn Hạo ghìm cương ngựa nói: “Vì sao trong thành ai cũng để tang?”

Quan thủ cổng thành than dài một tiếng, hắn chắp tay hướng Hoàng cung nói: “Hoàng Thượng cùng Thái Hoàng Thái Hậu đã băng hà” Nói xong hắn che mặt rơi lệ.

Đỗ Văn Hạo ngẩn ngơ. Ý chỉ gửi cho hắn là của Thái Hoàng Thái Hậu. Tại sao bây giờ đã băng hà?: “Chuyện này xảy ra khi nào?’

“Hôm qua. Hoàng Thượng băng hà buổi sáng, buổi chiều lão tổ tông Thái Hoàng Thái Hậu cũng về cõi tiên. Ô ô ô”.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo lạnh buốt. Hắn vội bảo Lâm Thanh Đại đi về Ngũ Vị đường còn hắn đi vào Hoàng cung, Lâm Thanh Đại nói: “Không, thiếp theo chàng vào. Có chuyện gì còn giúp chàng”.

Đỗ Văn Hạo không nói nhiều, hắn gật đầu mang theo Lâm Thanh Đại, giục ngựa chạy thẳng vào Hoàng cung.

Trên đường thỉnh thoảng hai người gặp binh giáp tuần tra. Đây cũng là chuyện hết sức bình thường, đương nhiên cần phải tăng cường đề phòng, ngăn ngừa có người thừa cơ gây loạn. Bên ngoài Hoàng cung càng đề phòng nghiêm ngặt hơn. Có thể nói ba bước một tốp, năm bước một trạm gá trọng giáp kỵ binh tuần tra liên tục.

Thái giám trông coi Hoàng thành nhìn thấy Đỗ Văn Hạo chạy tới, hắn đứng tại chỗ khóc lóc nói: “Ngự y đại nhân, ngài đã tới chậm. Hoàng thượng đã băng hà. Lão tổ tông Thái Hoàng Thái Hậu cũng đã…”.

Đỗ Văn Hạo rơi lệ hỏi: “Ta đã nghe nói. Hôm nay ai chủ trì trong triều?”

“Thượng thư Thái Xác, Thái đại nhân”.

Đỗ Văn Hạo không quen biết người này. Hắn gật đầu hỏi: “Ai làm chủ sự trong nội cung?”

‘Hoàng Thái Hậu”.

Hoàng Thái Hậu thì đương nhiên Đỗ Văn Hạo rất quen thuộc. Lần đó Đỗ Văn Hạo đã chữa khỏi căn bệnh đau bụng kinh niên hơn mười năm của Hoàng Thái Hậu. Hoàng Thái Hậu từng bị căn bệnh này tra tấn tới chết đi sống lại nên bà vô cùng cảm kích Đỗ Văn Hạo. Năm đó bà còn tặng Đỗ Văn Hạo gối tơ vàng của tiên đế.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi linh cữu quàn ở nơi nào thì được biêt vì mới qua đời nên linh cữu của Hoàng Thượng tạm thời quàn ở điện Cần Chính. Linh cữu của Thái Hoàng Thái Hậu thì ở tẩm cung của người.

Lâm Thanh Đại không được phép vào Hoàng cung nên đành phải đứng bên ngoài cửa Hoàng cung chờ đợi. Một mình Đỗ Văn Hạo vào trong.

Không khí trong nội cung cực kỳ bi thương. Đỗ Văn Hạo tới trước điện Cần Chính thông báo tên. Hắn nhanh chóng được phép vào. Đỗ Văn Hạo tiến vào trong điện. Tiếng khan khóc vang lên ầm ầm. Một viên quan bụng phệ đứng trước mặt hắn, nhìn hắn với thái độ hung ác.

Đỗ Văn Hạo chẳng hiểu sao cả. Viên quan hướng dẫn khẽ nói: “Đỗ đại nhân, vị này là hữu Thượng thư bộc xạ kiêm Trung thư thị lang Thái Thực, Thái đại nhân”.

Tống Thần Tông thay đổi chế độ xã hội. Cái gọi là hữu Thượng thư bộc xạ kiêm Trung thư thị lang này chính là hữu Tể tướng, là nhân vật ở dưới một người, ở trên vạn người, thảo nào lại có vẻ mặt như vậy.

Đỗ Văn Hạo vội vàng khom người thi lễ nói: “Ty chức Đỗ Văn Hạo tham kiến Thái đại nhân”.

Thái Thực hừ giọng mũi một tiếng, hắn ưỡn bụng hỏi: “Ngươi là Ngự y Đỗ Văn Hạo?”

Đỗ Văn Hạo nghe giọng nói của hắn chút ác ý, trong lòngkhỏi khó chịu nhưng hắn vẫn khom người nói: “Dạ, ty chức chính là Đỗ Văn Hạo”.

Thái Thực lạnh lùng nói: “Ngươi đã là Ngự y của Hoàng Thượng. Khi bệnh tình Hoàng Thượng cực kỳ nguy kịch, ngươi đang ở đâu?” Trong lòng Đỗ Văn Hạo thoáng khó chịu. Hắn khom người nói: “Ty chức phụng chỉ tuần y, đề điểm hình ngục. Lúc trước ty chức đang tuần y ở phương nam, nhận được tin cấp báo quân tình tám trăm dặm về bệnh tình nguy cấp của Hoàng Thượng. Ty chức đang ở phủ Lư Gi­ang đã lập tức lên đường không kể ngày đêm”.

Thái Thực quát to: “Lớn mật! Bệnh tình Hoàng Thượng trầm trọng như vậy, ngươi vẫn đi ngao du sơn thuỷ. Trong lòng ngươi có Hoàng Thượng nữa không?’

Đỗ Văn Hạo thầm tức giận, hắn thầm nghĩ người này chưa hỏi rõ trắng đen đã chụp mũ loạn bậy như này. Đây là phong thái của một tể tướng sao? Nhưng đối phương là quan lớn, hắn nào dám chống đối nên nén giận đáp: “Ngay khi ty chức nhận được tin quân tình cấp báo tám trăm dặm đã chạy suốt cả ngày đêm, không ngờ vẫn đến chậm một bước”.

‘Chỉ nói bậy” Thái Thực lạnh lùng nói: “Bản tướng hỏi ngươi, ngươi có biết Hoàng Thượng mắc trọng bệnh trong người không?”

“Trước khi ty chức rời kinh, quả thật Hoàng Thượng có bệnh nhẹ nhưng hoàn toàn chưa tới tình cảnh nguy hiểm. Còn vì sao Hoàng Thượng lại mắc bệnh nặng thì ty chức hoàn toàn không rõ”.

“Ngươi đã biết Long thể Hoàng Thượng có bệnh vậy vì sao ngươi vẫn muốn rời kinh thành, bản thân tiêu dao tự tại ở bên ngoài?”

Quả thực Đỗ Văn Hạo lâm vào cảnh giở khóc dở cười: “Đại nhân, không phải là ty chức tự tiện tời kinh thành ra ngoài tiêu dao tự tại mà là vì Thánh mệnh của Hoàng Thượng”.

Đỗ Văn Hạo mới nói tới đây, lập tức có người bên cạnh tức giận nói: “Đỗ Văn Hạo! Ngươi thân là Ngự y của Hoàng Thượng, lại không để ý tới Long thể Hoàng Thượng đến nỗi không kịp chạy chữa, tự ý rời khỏi cương vị của mình, ngươi đáng tội gì?”

Đỗ Văn Hạo vội quay đầu nhìn, hắn chỉ thấy đó là một người béo ục ịch, mặc quần áo tang, đang trợn mắt nhìn hắn.

Đỗ Văn Hạo vội vàng ôm quyền, khom người nói: “Không dám thỉnh quý danh của đại nhân”.

Người ục ịch đó hừ một tiếng nói: “Bản quan mà ngươi cũng không nhận ra sao?” Viên quan hướng dẫn vội vàng nói: “Vị này chính là Kiểm Giáo Lịch sử quán, Tá lang Tà Thứ, Tà đại nhân”.

Đỗ Văn Hạo hoàn toàn chưa nghe nói về nhân vật này, thế nhưng hắn vẫn chắp tay nói: “Điều đại nhân vừa mới nói chính là áp tội cho người khác. Sau khi ty chức nhận được tin cấp báo tám trăm dặm…”.

“Bản quan mặc kệ ngươi làm cái gì sau đó. Ta chỉ hỏi ngươi, trước đó ngươi làm cái gì? Ngươi thân là Ngự y vì sao lại tự ý rời bỏ chức trách của mình?”

“Ty chức không có”.

“Lớn mật. Trước Hoàng linh, ai dám làm huyên náo?” Bên cạnh Đỗ Văn Hạo lại vang lên một giọng nói. Đỗ Văn Hạo vội quay đầu lại thì thấy đó là một trung niên thân thể gày còm, người mặc quần áo tang, khoan thai đi tới, nhìn mặt rất quen nhưng không nhớ nổi là ai.

Lần này không đợi Đỗ Văn Hạo lên tiếng hỏi, viên quan hướng dẫn ở bên cạnh vội giới thiệu: “Đỗ đại nhân, vị này là Tào Vương”.

Lập tức Đỗ Văn Hạo nhớ ra, Tào Vương Triệu Mạch này là tứ Hoàng tử của tiên đế Tống Anh Tông, thân Hoàng đệ của Tống Thần Tông. Mặc dù sau khi Đỗ Văn Hạo vào kinh, hắn không kết gi­ao với giới quyền quý nhưng Đỗ Văn Hạo đã gặp qua hai vị Vương gia đó. Lúc đó Tống Thần Tông vì né tránh mấy người Tư Mã Quang quỳ gối khuyên can nên mới giả bộ té xỉu. Vương, công đại thần trong triều đều tới thăm. Tào Vương này cũng ở trong số đó. Lúc ấy Đỗ Văn Hạo cũng chỉ gặp qua một lần hơn nữa khi ấy có quá nhiều người, lại bận xem bệnh cho Hoàng Thượng nên cũng không quá chú ý.

Đỗ Văn Hạo vội vàng khom người nói: “Ty chức tham kiến Vương gia”.

Tào Vương liếc nhìn Đỗ Văn Hạo rồi nghênh ngang nói: “Ngươi chính là Ngự y Đỗ Văn Hạo?”

“Đúng là ty chức”.

“Khi bệnh tình Hoàng huynh ta nguy kịch, ngươi đang ở đâu?”

Trong lòng Đỗ Văn Hạo thoáng giận dữ. Tại sao khẩu khí của ba người này lại giống nhau như vậy? Chính bản thân mình năm đó nhậm chức Thành Đô phủ lộ Nhã châu cũng không phải lén lút mà đi, không chỉ có công văn chiếu cáo của bộ Công, còn có cả Thánh chỉ của Hoàng Thượng tuyên triệu. Dù gì thế nào mấy người này từ đầu đến cuối chỉ làm như không nghe thấy gì hết.

Không đợi Đỗ Văn Hạo giải thích một tiếng, Tào Vương đã quát to: “Người đâu. ắt tên Ngự y ngu ngốc, không làm tròn trách nhiệm, tự rời bỏ chức trách lại. Tống vào Thiên lao”.

Thị vệ bên ngoài dạ dan một tiếng, vọt vào trong điện, chụp lấy tay Đỗ Văn Hạo nhưng bàn tay chúng vừa chụp vào bả vai Đỗ Văn Hạo đã gào lên đau đớn, liên tiếp rụt tay lại.

Đỗ Văn Hạo nhân dịp thị vệ còn đang hết sức lúng túng, hắn đã thi triển Phân cân thác cốt thủ Lâm Thanh Đại đã dạy bắt được một thị vệ ở bên cạnh, tháo khớp cổ tay của hắn, túm lấy đơn đao trong tay hán. Ngay khi Tào Vương còn chưa lấy lại tinh thần, Đỗ Văn Hạo đã như tia chớp lắc tới, một tay túm lấy Tào Vương chắn trước ngực, tay phải cầm đơn đao đặt trên cổ Tào Vương gia, lạnh lùng nói: “Nếu muốn hắn chết thì hãy xông lên”.

Tất cả mọi người trên đại điện đều sợ ngây người. Không ai tưởng tượng được một Ngự y yếu ớt lại có dũng khí dám dùng sức mạnh bắt ép tào Vương gia con tin, hơn nữa công phu lại rất cao.

Đỗ Văn Hạo không còn lựa chọn nào khác. Từ lúc nhận được ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu, hắn liên tục chạy khắp ngày đêm về kinh, ngoại trừ thời gi­an nghỉ ngơi, gần như cả ngày hắn đều ngồi trên lưng ngựa. Mỗi khi thay ngựa chỉ tranh thủ chợp mắt, mấy ngày đêm liền chạy tới kinh thành dù không kịp cứu chữa Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu nhưng công bằng mà nói, hắn không dám chậm trễ chút nào. Tào Vương gia này quả thực võ đoán, tự phán xét mình rời bỏ chức trách, quả thực là gán tội xằng bậy, còn muốn hạ lệnh tống gi­am. Lập tức Đỗ Văn Hạo tức giận, bất chấp tất cả, âm thầm phát động lạp tác trong góc áo, dựng thẳng những đầu nhọn của nhuyễn giáp. Những thị vệ đó đương nhiên không thể bắt được hắn, hắn lại thừa dịp lộn xộn chế ngự Tào Vương.

Đỗ Văn Hạo không muốn là người thế tội trong chuyện này, chết một cách oán ức trong đại lao.

Tất cả mọi người đều quát mắng Đỗ Văn Hạo bỏ binh khí xuống. Đỗ Văn Hạo không thèm để ý. Đơn đao trong tay hắn cứa một đường nhỏ trên cổ Tào Vương gia. Máu tươi chảy ròng. Tào Vương kinh hoàng hét lên: “A! Đỗ đại nhân tha mạng. Tha mạng”.

“Nếu không muốn chết, hãy bảo chúng lùi lại phía sau” Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói.

‘Lui lại phía sau. Các ngươi muốn giết bản Vương sao? Lui lại cho Lão Tử” Tào Vương xua tay, hoảng sợ gào lên.

Những thị vệ vây xung quanh cuống quýt thôi lui lại nhưng vẫn quát mắng đòi Đỗ Văn Hạo thả người.

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: “Các ngươi đừng nghĩ ghép tội cho Lão Tử. Đừng nghĩ Lão Tử chỉ là một quả hồng mềm”.

Thái Thực chỉ vào Đỗ Văn Hạo nói: “Ngươi đừng làm xằng bậy. Nếu ngươi làm bị thương Tào Vương gia. Ngươi muốn cả nhà ngươi chết sao?”

Tuy Đỗ Văn Hạo không biết tại sao mấy người này muốn vu oan hãm hại cho một Ngự y nho nhỏ như hắn nhưng hắn vẫn mơ hồ đoán được trong này tất nhiên có liên quan tới việc tranh đoạt quyền lợi trong Hoàng cung, hắn cũng không muốn dây dưa ở chỗ này nên lạnh lùng nói: “Thôi đi! Lão Tử hiểu rõ quỷ kế của các ngươi. Ta mặc kệ các ngươi tranh đoạt quyền lợi như thế nào. Ta không muốn dính vào các ngươi. Ta chỉ muốn cao chạy xa bay. Các ngươi muốn ta gánh tội thay, là con cờ của các ngươi thì đừng có mơ”.

Nói xong đơn đao trong tay hắn lại cứa một vòng. Trên cổ Tào Vương gia lại có một vết cắt, máu tươi lại tứa ra. Tào Vương sợ hãi tới cực điểm, gào lên: “Đỗ đại nhân, đừng kích động. Có chuyện gì hãy từ từ nói. Ngươi muốn cái gì bản Vương cũng đều đồng ý”.

“Hoàng Thái Hậu. Ta muốn gặp Hoàng Thái Hậu” Đỗ Văn Hạo hiểu rõ. Thái Hoàng Thái Hậu cực kỳ quyền uy, luôn cực lực bảo vệ hắn đã chết rồi. Người lúc này có thể cứu hắn chỉ e chỉ có mỗi Hoàng Thái Hậu.

Chương 376: Ung vương.

Tà Thứ bên cạnh cười lạnh nói: “Lúc này đừng nói là Hoàng thái hậu, cho dù là Thái hoàng Thái hậu sống lại cũng không cứu được ngươi!”

Khụ khụ, Thái Xác vội ho khan, trừng mắt lườm Tà Thứ. Tà Thứ biết mình lỡ lời, vội vàng co đầu rụt cổ lại, thối lui không dám nói thêm cái gì.

Đúng lúc này chợt nghe một tiếng nói lạnh lùng vang lên: “Các ngươi làm gì thế hả? Trên linh đường mà động đao động thương cái gì? Đều không cần mạng nữa sao?”

Đám hộ vệ vừa nghe thấy giọng nói đó vang lên liền vội vàng đút đao kiếm vào vỏ, đồng loạt khom người thi lễ.

Đỗ Văn Hạo nhìn về phía phát ra âm thanh, chỉ thấy một trung niên nam tử mặc bộ tang phục chậm rãi bước tới, lướt mắt về phía mọi người rồi chắp tay với Đỗ Văn Hạo: “Đỗ ngự y, bổn vương thất lễ rồi!”

Viên quan dẫn đường đứng bên cạnh vội vàng nói: “Đề hình quan đại nhân, vị này chính là Ung vương gia!”

Đỗ Văn Hạo càng giật mình. Vị Ung vương - Triệu Nhan này chính là thứ tử của Tống Anh Tông, thân đệ đệ của Tống Thần Tông, anh trai của Tào vương. Lần trước khi Tống Thần Tông giả bệnh, hắn cũng tới, lúc ấy từng gặp qua một lần, cho nên nhìn có chút quen mắt. Thấy Ung Vương khách sáo như vậy lập tức sinh lòng kính sợ, nói: “Vương gia, ngài bất tất phải đa lễ. Hôm nay mọi người đều đã trở mặt, với hạ thần, hạ thần cũng không mong dàn xếp được. Ta chỉ muốn gặp Hoàng thái hậu, lão nhân gia hiện giờ đang ở đâu?”

Ung vương nhìn lướt về phía đám hộ vệ: “Còn không lui ra ngoài?”

Bọn hộ về nghe vậy, vội vàng khom người lui ra.

Lúc này Ung vương mới chắp tay nói: “Đỗ đại nhân, bên trong sợ còn nhiều điều hiểu lầm. Xá đệ hắn có chút nóng nảy, nhớ tới hoàng huynh còn tráng niên mà mất sớm, trong lòng bi thống nên vừa rồi mới lỗ mãng. Không bằng bỏ binh khí xuống, mọi người cùng ngồi xuống, nói rõ mọi chuyện.”

Đỗ Văn Hạo tất nhiên sẽ không buông binh khí xuống, lạnh lùng nói: “Ung vương gia, ty chức cũng không muốn như vậy, nhưng các ngươi nên biết, hơn nửa năm trước, ta rời kinh thành là phụng chỉ đảm nhận quản lý Thành Đô phủ Nhã châu, sau đó Hoàng Thượng lại hạ chỉ để ta tuần y các lộ cùng Đề Điểm Hình Ngục Các Lộ. Ta ở bên ngoài cũng không phải là tự ý rời khỏi cương vị, chính là phụng chỉ ban sai, ta nhận được tin tức bệnh tình hoàng thượng nguy kịch, ngày đêm tới đây, trên đường không có dám nửa điểm chậm trễ. Nhưng bốn người bọn họ lại luôn miệng đổ tội, nói rằng Thánh Thượng băng hà đều là do ta. Cái này là không công bằng! Ta muốn gặp Hoàng thái hậu! Trừ phi Hoàng thái hậu tới đây ta mới buông binh khí!”

Ung vương rơi lệ nói: “Hoàng Thương cùng Thái hoàng Thái hậu lần lượt băng hà, hai cuộc tang sự cần người xử lý. Hoàng Thái hậu đang được quận chúa chăm sóc, không ở trong này.”

Đỗ Văn Hạo nói: “Tốt lắm, ty chưc không dám làm phiền Hoàng thái hậu đích thân tới, nhưng sợ một mình rời đi sẽ gặp độc thủ, đành phải để Tào Vương gia đi cùng, khi nào đến nơi tất sẽ thả Tào Vương gia. Chỗ nào đắc tội mong vương gia thứ tội!” Dứt lời liền túm lấy Tào vương, định đi ra ngoài.

Không ngờ Tào vương vừa bị dí đạo lên cổ đã sợ đến hồ phi phách tán, toàn thân mềm nhũn ra, ngay cả nước tiểu cũng chảy ướt quần, nào có thể đi được nửa bước.

Ung vương cất bước tiến lên nói: “Đỗ đại nhân, hãy để bổn vương thay cho xá đệ, cùng đại nhân đi gặp Hoàng thái hậu, thế nào?”

Dứt lời liền không để cho Đỗ Văn Hạo phản ứng, bước tới hai bước, quay lưng về phía sau, bộ dáng như bó tay chịu trói.

Đỗ Văn Hạo trong lòng cũng sinh vài phần bội phục vị Ung vương này, thầm nghĩ đối phương hành động quang minh như thế, mình lại muốn bắt cả hai con tin thì cũng có vẻ hẹp hòi. Bất quá, đang trong lúc nguy hiểm, bảo vệ tính mạng quan trọng hơn, không thể để ý nhiều thứ như lúc thường được. Lập tức hắn vươn tay trái, nắm lấy mạch môn Ung vương.

Lâm Thanh Đại từng nói, mạch môn bị giữ, cả nửa thân thể đều trở nên tê dại, căn bản không thể kháng cự. Cho dù đối phương có võ công cao hơn mình bao nhiêu thì chỉ cần mạch môn bị giữ thì cũng chỉ có thể chờ chết mà thôi. Vì thế trong lòng Đỗ Văn Hạo liền đại định, hạ đơn đao xuống, đi tới sau lưng: “Ung vương gia, ty chức là người sợ chết, vì bảo vệ tính mạng, đành phải đắc tội.”

Ung vương gia một tay bị giữ chặt nhưng lại chưa từng dụng lực một chút nào, giống như cả cánh tay đó không phải của mình vậy, trên mặt hắn vẫn trấn định tự nhiên: “Đỗ đại nhân, người sảng khoái nói chuyện sảng khoái. Bổn vương đã nói, vừa rồi chỉ sợ là một sự hiểu lầm. Xá đệ cùng bổn bương cũng không biết nguyên nhân trong đó, chỉ nghe nói đại nhân là ngự y, lúc Hoàng Thượng cùng Thái hoàng thái hậu bệnh tình nguy kịch lại không ở bên người, nhất thời tình thế cấp bách cho nên mới mạo muội, không phải cố ý vu oan hãm hại.”

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm, lời này cũng có lý, cũng không phải quan viên nào được điều động ra ngoài, những người khác cũng nắm rõ. Rất nhiều người là việc. Rất nhiều người chẳng bao giờ đi tim hiểu việc không liên quan tới mình, huống chi người ta đường đường là vương gia và Tể Tướng đương triều, lại càng không để ý tới một viên quan nho nhỏ như mình. Nghĩ đến đây, trong lòng hắn thoáng buông lỏng.

Hai người sóng vai đi ra ngoài, Ung vương thoáng đánh giá Đỗ Văn Hạo từ trên xuống dưới, thấy hắn người đầy bụi đất, trong mắt tràn ngập tơ máu, mặt mày mỏi mệt liền biết hắn không hề nói dối, thở dài nói: “Đỗ đại nhân quả nhiên bất kể ngày đêm chạy tới, nếu không sẽ không có bộ dạng chật vật thế này. Đại nhân đúng là không nói dối, là bọn họ trách lầm đại nhân.”

Đỗ Văn Hạo nghe hắn nói chân thành, trong lòng không khỏi có cảm giác ấm áp, một nỗi ủy khuất tự nhiên dâng lên, bất giác trong mắt cho ướt át, nói: “Chỉ tiếc, ty chức đã tới chậm một bước, không thể cứu được Hoàng Thượng và Thái hoàng Thái hậu, thật sự là trong lòng không yên.”

“Đại nhân không nên tự trách, bổn vương từng nghe hoàng huynh nói, đại nhân nhậm chức ở Thành Đô phủ, thứ nhất là do đại nhân có kiến giải về an bang trị quốc khá đặc biệt, hoang huynh rất muốn kiến thức một chút. Thứ hai nữa là tới biên giới Thổ Phiên tìm một loại linh dược tên là đông trung hạ thảo, chữa bệnh cho hoàng huynh.”

“Ngươi cũng biết chuyện hoàng thượng sinh bệnh?”

“Đúng vậy, Ninh công công mấy lần tìm bổn vương, nói ngươi trước khi đi đã từng luôn miệng dặn dò, muốn Hoàng Thượng nhớ uống thuốc. Nhưng Hoàng Thượng một mực nói không mình không có bệnh, không cần uống thuốc. Bức bách mãi mới uống một chén, nhưng sau đó lại bận rộn quốc gia đại sự không uống nữa. Dược liệu trân quý ngươi đưa từ Tây Vực tới, hắn cũng đem toàn bộ cho Tư Mã đại nhân, bản thân chưa từng dùng một chút nào.”

Đỗ Văn Hạo trong lòng cười khổ. Trước khi đi hoàng thượng quả thật nghĩ như vậy. Mình cũng từng trịnh trọng khuyên hắn phải thận trọng mới bệnh tình của mình, nhưng hắn lại ngoảnh mặt không quan tâm. Hiện tại Ung vương nói ra việc này, chứng tỏ biết rõ chuyện này, không khỏi có chút cảm kích. Bất quá cánh tay nắm mạch môn cũng không thả lỏng chút nào. Bây giờ thà rằng làm tiểu nhân còn hơn là mất mạng.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Xin hỏi vương gia, khi hoàng thượng lâm chung có di chiếu cho ai quản lý xã tắc?”

Ung vương thở dài một tiếng, lắc đầu: “Ngươi là người trong nhà, việc này ta cũng không gạt người, hoàng huynh đột nhiên phát bệnh, ngay cả thái y cũng chạy đến không kịp, đã cưỡi hạc về tây. Cho nên chưa từng lưu lại di chiếu.”

“Đột nhiên phát bệnh? Thậm chí ngay cả di chiếu cũng không có? Là đột tử cấp tính hay là bị người hãm hại? Đỗ Văn Hạo cũng chẳng dám suy đoán nhiều. Loại đấu đá cung đình thế này tốt nhất là kính nhi viễn chi. Đặc biệt là lúc này, khi đế vị chưa xác định, hoàng cung chính là nơi nguy hiểm nhất, phải tránh càng xa càng tốt, nghe càng ít những điều không nên nghe càng tốt. Cho nên hắn cũng không dámỏi nữa, dẫn theo Ung vương đi về phía trước.

Ung vương cũng nói khá nhiều. Trên đường thỉnh thoảng tán dương y thuật Đỗ Văn Hạo như thần, Đỗ Văn Hạo lại khẩn trương lưu ý đám hộ và đám người Tào vương bán theo phía sau, sợ là Ung vương lợi dụng điểm này phân tán sự chú ý của mình, để bọn hộ về cứu ra. Nhưng thấy đám hộ vệ chỉ dám đi theo với khoảng cách khá xa, cũng không có ý xuất thủ cứu chủ, trong lòng an tâm hơn một chút.

Nhìn thấy cờ trắng trong tẩm cung thái hoàng thái hậu xa xa, Đỗ Văn Hạo trong lòng hơi trấn định, nói với Ung vương: “Vương gia, ty chức đắc, nếu như ty chức còn mạng trở về, nhất định sẽ đích thân đến tạ tội!”

Ung vương đứng lại, chăm chú nhìn Đỗ Văn Hạo, nói: “Được! Bổn vương sẽ nhớ kỹ những lời này của ngươi. Hơn nữa bổn vương cũng cam đoan với ngươi, việc hôm nay chỉ là hiểu lầm, bổn vương không truy cứu bất kẻ nào cũng không cho phép nhắc tới chuyện này nữa, các ngươi nghe rõ chưa?” Câu cuối cùng hắn nói chính là nói với đám ngưới phía sau, thanh âm rất lớn, khắp nơi đều có thể nghe thấy.

Bọn người Tào vương vội vàng khom lưng vâng dạ.

Đỗ Văn Hạo không biết Ung vương nói vậy là có ý gì, nhất thời không biết nói gì cho phải, dẫn hắn đến trước tẩm cung Thái Hoàng Thái Hậu.

Đỗ Văn Hạo hỏi tên lính canh cửa: “Hoàng thái hậu có ở bên trong?”

Tên lính khom người nói: “Có. Nhưng mà lúc này Hoàng thái hậu cùng các vị nương nương tự mình niệm kinh siêu độ cho hoàng thường và thái hoàng thái hậu. Người nói niệm kinh siêu độ phải toàn tâm toàn ý, quyết không thể có nửa điểm quấy rầy, cho dù chuyện lớn tới đâu cũng phải đợi người niệm xong mới nói.”

Đỗ Văn Hạo: “Phải mất bao lâu?”

Tên lính canh nói: “Phải bảy ngày.”

Đỗ Văn Hạo trong lòng kêu khổ: “Có thể vào trong thông báo, nói là ta đã trở về?”

Tên lính canh lắc đầu: “Xin Đỗ địa nhân thứ lỗi, Hoàng thái hậu đã nói rõ, trong bảy ngày này, vô luận ai cũng không tiếp/ Nàng muốn chuyên tâm tụng kinh. Phàm là quốc sự chính vụ đều tạm do Ung vương gia, Tào vương gia, còn có Thái Xác cùng Vương Gi­ai hai vị đại nhân cùng xử lý.”

Đỗ Văn Hạo nhất thời lưỡng lự, không biết nên chờ ở tẩm cung 7 ngày hay là trở về. Lại không biết vừa rồi Ung vương vừa rồi có thật hay không.

Không ngờ Ung vương lại nói: “Đỗ đại nhân ngày đêm trở về, dọc đường vất vả, xin hãy về nghỉ ngơi trước. Nếu muốn cúng viếng điện hoàng thượng và thái hoàng thái hậu, sợ phải đợi thêm mấy ngày, trong triều sẽ thiết hạ tế đường để bá quan văn võ phúng viếng. Đi, bổn vương hộ tống đại nhân xuất cung hồi phủ!”

Dứt lời liền cất bước đi, Đỗ Văn Hạo tâm niệm vừa chuyển. Như vậy cũng tốt, cửa cung có Lâm Thanh Đại ở đó, có nàng thì trong lòng cũng an tâm. Nếu phải chiến đấu, chắc chắn với võ công của nàng, cứu mình thoát khốn hẳn không thành vấn đề.

Hai người vừa đi vừa nói chuyện. Ra đến cửa cung, Lâm Thanh Đại nhìnt hấy hắn đằng xa liền vội tới đón.

Đỗ Văn Hạo quay đầu lại nhìn, thấy bọn hộ vệ vẫn còn ở phía xa, lúc này mới thở phào nhẹ nhõm. Lâm Thanh Đại chạy tới đây chắc chắn sẽ nhanh hơn bọn chúng. Nghĩ đến đây hắn liền ném đơn đao xuống đất, đá đi rồi buông tay Ung vương, ôm quyền thi lễ thật sâu: “Ung vương gia, ty chức cáo tội lần nữa.”

Ung vương chắp tay sau lưng, chăm chú nhìn Đỗ Văn Hạo một lát rồi thấp giọng nói: “Nói thật, bổn vương rất trân trọng tài hoa của ngươi, có tâm kết gi­ao. Chờ tang sự kết thúc, bổn vương sẽ thiết yến, đến lúc đó đại nhân ngàn vạn lần đừng từ chối đó.”

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm, nếu như Ung vương muốn động thủ với mình, căn bản không cần đợi đến lúc tang sự kết thúc rồi mới bày Hồng Môn yến giết mình. Như vậy cũng nói lên Ung vương này không muốn làm lớn chuyện này, thật sự buông tha mình. Người ta là thân vương, thịnh tình mời đến há có thể không đi. Đỗ Văn Hạo vội thi một lễ thật sâu: “Đa tạ vương gia, ty chức nhất định sẽ đăng môn tạ tội!”

“Không dám! Mời đại nhân về sớm nghỉ ngơi đi a.”

Đỗ Văn Hạo lại thi lễ, rồi mới xoay người, nắm lấy tay Lâm Thanh Đại, nhảy lên ngựa, phóng đi.

Sau khi rời khỏi hoàng cung, lúc này Đỗ Văn Hạo mới đem những truyện xảy ra kể lại. Lâm Thanh Đại cả kinh, cả người phát lạnh, không thể tưởng được những người này vâ㹠­mà lại áp đặt tội danh. Cái chức ngự y này thật sự là không tốt lành a. Tiếp đó Lâm Thanh Đại vội hỏi Đỗ Văn Hạo tiếp theo nên làm cái gì.

Đỗ Văn Hạo nghĩ một lúc rồi nói: “Không có cách nào, hiện tại chỉ có thể chờ Hoàng thái hậu niệm kinh xong. Đợi sau khi nói cho nàng biết thì mới an toàn.”

Lâm Thanh Đại nói: “Có lẽ chúng ta trốn đi trước. Chúng ta chẳng phải mua được một tòa trạch viên có đồn đại chuyện ma quái sao. Người khác hẳn là không nghĩ tới chúng ta lại trốn ở đó. Xem xét động tĩnh rồi nói sau.”

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Có lý. Vậy chúng ta không quay về nữa. Thử xem có kẻ nào bám theo không ròi mới đến tòa trạch viện có chuyện ma quái đó trốn vài ngày.”

Hai người vừa đi vừa chú ý quan sát phía sau nhưng không hề phát hiện có kẻ nào bám theo, rồi tới trà lâu cách Ngũ Vị Đường không xa. Sau khi hai người đi vào, chưởng quỹ kia vô cùng cao hứng, vội vàng ra chào hỏi Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo chỉ hàn huyên qua loa vài câu rồi kêu hắn maag ngựa và hai bộ quần áo sạch sẽ tới, nói mình có chuyện gấp phải ly khai. Hai người thay đổi trang phục rồi rời khỏi trà lâu bằng cửa sau. Trên đường mua chút đồ ăn rồi gói kỹ. Sau khi tới tòa trạch viện, quan sát không có ai rồi mới leo vào.

Tòa trạch viện này vẫn hoang vắng như trước, hai người nhanh chóng tìm lấy một căn phòng nhỏ ở lại.

Sau đó vài ngày, Lâm Thanh Đại liền lợi dụng bóng đêm trở về Ngũ Vị Đường, xem xét động tĩnh xung quanh nhưng vẫn không phát hiện ra điều gì bất thường. Ngũ Vị Đường toàn bộ đều như trước, Hàm Đầu ở tiền đường chẩn bệnh, người bệnh vẫn đông như trước, còn có hai vị đại phu hỗ trợ. Bốn phía cũng không phát hiện ra người nào đáng chú ý. Sau khi trở về nói cho Đỗ Văn Hạo, hai người đều cảm thấy, Ung vương này thật biết giữ lời, nói không chừng đã thật sự bỏ qua chuyện mình bắt hai vị vương gia làm con tin. Chỉ là không biết Ung vương là rộng lượng hay lại có mục đích khác.

Ba ngày trước có tin tức truyền ra, hoàng cung lập linh đường, bắt đầu tiếp nhận văn võ bá quan phúng viếng. Chức quan của Đỗ Văn Hạo trong triều cũng chẳng tính là gì, cho nên không cần phải vào vội.

Đợi đến ngày thứ năm vẫn không có động tĩnh gì, haingười khẳng định Ung vương thật sự không có ý đối phó Đỗ Văn Hạo rồi mới trở lại Ngũ Vị Đường.

Hàm Đầu thấy Đỗ Văn Hạo trở về, vừa mừng vừa sợ, lập tức bước tới, qùy xuống dập đầu, hỏi thăm bọn Bàng Vũ Cầm. Đỗ Văn Hạo chỉ nói mình phải trở về phúng viếng gấp, đi trước một bước, bọn họ sẽ tới sau.

Ngày hôm sau, bọn Bàng Vũ Cầm rốt cuộc cũng tới nơi. Bọn họ cũng đoán được trong kinh thành nhất định xảy ra đại sự. Nếu không Đỗ Văn Hạo cũng không vội vã trở về như vậy, cho nên trong lòng cũng nóng như lửa đốt, vội vàng chạy tới. Cả bọn dọc đường mệt mỏi, người kiệt sức ngựa hết hơi. Cũng mà may dọc đường bình an.

Đến kinh thành, nhận được tin hoàng thượng cùng thái hoàng thái hậu băng ha, Đỗ Văn Hạo không thể đến kịp cứu chữa hoàng thượng và thái hoàng thái hậu, cả bọn đều không khỏi thở dài.

Chương 377: Thái Dương Bệnh

Hôm nay, cũng là ngày thứ sáu Đỗ Văn Hạo quay lại kinh thành, bầu trời lúc bắt đầu âm u, mưa dầm rả rích.

Ngay đêm đầu tiên, Đỗ Văn Hạo đem toàn bộ sự tình ra kể cho Thẩm sư gia nghe. Thẩm sư gia nghe xong đầu đuôi câu chuyện liền quyết định trong sáng sớm ngày hôm đó sẽ đi dò la tình hình xem thế nào.

Sau khi Thẩm sư gia lên đường đi đo thám, Đỗ Văn Hạo vẫn hoang mang không biết nên ứng phó với tình hình ra sao, nên làm thế nào cho phải.

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng chẳng có tâm trí đâu mà ra Tiền Đường để chữa bệnh, tất cả đều đo Tiền Bất Thu ngồi ở đó thay cho hắn những bệnh án thông thường Tiền Bất Thu đều có thể giải quyết ổn thỏa. Đỗ Văn Hạo trong lúc không biết làm gì liền cầm lấy quyển y học trên kệ sách ngồi trong thư phòng, con hổ con Tiểu Khả hai mắt lim dim ngồi dưới chân của hắn gật gù.

Mấy vị phu nhân của Đỗ Văn Hạo cùng với Kha Nghiêu đều biết hắn bây giờ đang cần yên tĩnh một mình để suy nghĩ, nên không ai đến làm phiền hắn cả, giờ đây trong thư phòng chỉ còn mỗi một mình Đỗ Văn Hạo ngồi xem sách mà thôi.

Mặc dù hắn hai mắt dán vào sách, nhưng trong lòng của hắn cứ lo ngay ngáy, chẳng có tâm tư nào mà đọc sách cả, cứ chốc chốc hình ảnh của Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu lại hiện về trong tâm trí của hắn, đặc biệt là Thái Hoàng Thái Hậu. Hắn rất muốn đến thắp hương cho người, nhưng do khi trước hắn và Thẩm sư gia đã quyết định hết cả rồi bây giờ việc hắn cần phải làm là ngồi im chờ động tĩnh, không được phép vọng động. Vì việc này có quan hệ đến sự sống còn của hắn, trong thời gi­an này hắn tuyệt đối không được phép hé đầu lộ diện, dù sao thì việc tang lễ vẫn còn mấy ngày nữa. chờ cho tình hình ổn định hơn rồi đi vẫn chưa muộn.

Đỗ Văn Hạo đang trong lúc chán ngán đến cùng cực, thì bỗng nhiên có tiếng gõ cửa ở bên ngoài, hắn uể oải đáp lên tiếng nói: “Ai vậy? Cứ vào đi, cửa không đóng đâu!”

Đỗ Văn Hạo vừa dứt lời thì tiếng cửa kêu lên két, sau đó một cái đầu thò vào bên trong phòng nói: “Tướng công! Thiếp muốn hỏi chàng mấy vấn đề về y học có được không vậy hả?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền ngẩng đầu lên nhìn, thì trông thấy người vừa lên tiếng là Tuyết Phi Nhi. Hắn liền miễn cưỡng cười lên đáp lại nói: “Phi Nhi đó hả? Có chuyện gì vậy? Sao bỗng nhiên lại chăm chỉ ghê vậy? Nàng không phải học y chỉ là học cùng Cầm Nhi tỷ cho đỡ buồn thôi hay sao?”

Không đợi cho Tuyết Phi Nhi kịp lên tiếng trả lời, thì ở phía sau lưng của Phi Nhi bỗng nhiên có một người bước ra, đó chính là Kha Nghiêu, tay nàng cầm một cuốn sách, hai mắt cười híp tịt cả lại nói: “Đỗ đại ca! Phi Nhi tranh cãi với muội suốt mà chẳng ai chịu thua ai cả, chính vì vậy mà muội và Phi Nhi mới tìm đến huynh, để huynh nói xem ai đúng ai sai!”

“Ố! Hóa ra mấy nàng lại học hành chăm chỉ như vậy sao? Đúng là dấu hiệu của sự tốt lành, đây! Học đi đôi với hành, học thì cần phải cần cù chăm chỉ. biết tìm tòi suy nghĩ, vào đây đi, mỗi người tự kê lấy ghế cho mình trước đi đã!” Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói.

Tuyết Phi Nhi và Kha Nghiêu nghe vậy thì hai người vội chạy đi bê cho mình một chiếc ghế lại đặt xuống bên cạnh Đỗ Văn Hạo. Kha Nghiêu lên tiếng trước: “Lúc nãy muội xem sách y học, trong đó có một câu mà muội đọc chẳng hiểu gì cả, muội định đi tìm Tiền Thái Y để hỏi, vậy nhưng ông ấy lại đang bận chữa bệnh ở Tiền Đường cùng với Diệu Thủ và Hàm Đầu. Chính vì vậy mà muội ngại không dám hỏi! Thế là muội đi tìm Phi Nhi tỷ, nhưng không ngờ cách suy nghĩ của Phi Nhi tỷ lại khác hoàn toàn với muội, chính vì vậy muội và Phi Nhi tỷ tranh cãi một hồi. Phi Nhi tỷ tức quá liền đánh cược với muội

“Này…này…! Là muội muốn đánh cược với ta, chứ có phải ta muốn đánh cược với muội đâu!” Phi Nhi trợn tròn mắt lên nói.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền mỉm cười nói: “Ai đánh cược vói ai không quan trọng, mà quan trọng là hai muội đánh cược với nhau cái gì? Ta làm trọng tài cho hai muội rồi thì có được hưởng lợi gì không..

Kha Nghiêu nghe vậy liền hứ lên một tiếng rồi nói: “Huynh đúng là tham lam! Lại còn đòi bọn muội cho huynh được hưởng lợi nữa! Bọn muội cược xem ai thua sẽ phải bắt chước con cún sủa gâu gâu”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền phá lên cười ha hả nói: “Ha.. .ha.. .ha! Cái đánh cược này thú vị đấy, thế ta cũng chẳng cần đòi hỏi gì nữa, nghe hai muội sủa gâu gâu như con cún cũng hay đấy! Nhưng ta cảm giác là Kha Nghiêu sủa gâu gâu giống hơn Phi Nhi.. .ha ha….

“Huynh thật đáng ghét!” Kha Nghiêu nói xong liền cuộn cuốn sách trong tay lại đánh nhẹ lên người của Đỗ Văn Hạo một cái rồi nói: “Huynh làm sao mà biết được là muội sẽ thua cơ chứ? Thật đáng ghét!”

“Hai muội thử nói xem, hai muội tranh luận vấn đề gì!” Đỗ Văn Hạo cười nói.

“Bệnh Thái Dương!” Kha Nghiêu nói xong liền đưa cuốn sách cho Đỗ Văn Hạo nói: “Đây này, chính là câu này đây!”

Đỗ Văn Hạo cầm lấy cuốn sách, đây là cuốn <Thương Hàn Luận> của Trương Trọng Cảnh, trong có một câu là: “Căn bệnh gọi là Thái Dương, thường có triệu trứng mạch phù, đau trên đỉnh đầu, và sợ lạnh, ác hàn!” Đỗ Văn Hạo đọc xong liền quay sang hỏi: “Câu này thì có gì không hiểu?”

Kha Nghiêu nghe vậy liền đáp: “Muội và Phi Nhi tranh luận những bệnh chứng thông thường và cơ bản của bệnh Thái Dương là nó có làm cho người bệnh bị sốt hay không! Muội nói trong sách của Trương Trọng Cảnh đã viết rõ ràng là bệnh Thái Dương mạch phù, đỉnh đầu đau dữ đội và ác hàn, rõ ràng không hề có nhắc đến người bệnh bị sốt hay gì cả, như vậy cũng có nghĩa là người mắc bệnh Thái Dương chưa chắc đã lên cơn sốt, và lên cơn sốt thì chưa chắc đã phải là bệnh Thái Dương!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong liền quay sang Tuyết Phi Nhi nói: “Thế còn nàng? Nàng thấy thế nào?”

Tuyết Phi Nhi nghe vậy liền nói: “Bệnh tại Thái Dương, vệ khí chống tà khí, vị tất sẽ làm người bệnh lên cơn sốt, người nóng, đây là một việc tất yếu, chính vì vậy mà trong sách không đề cập tới vấn đề này!”

Kha Nghiêu nghe vậy liền nói chen vào: “Vậy ý của tỷ là Y Thánh Trương Trọng Cảnh viết triệu chứng căn bệnh này đã quên mất không cho triệu chứng bị sốt vào trong sách hả?”

Tuyết Phi Nhi nghe vậy liền nói: “Ta không hề nói đó là do thiếu sót của Trương Trọng Cảnh, mà ý ta nói là ông ấy cảm thấy không cần thiết viết vào hiện tượng tự nhiên như vậy, viết hay không viết thì nó đã bao gồm ở trong hết đó rồi, lẽ nào người bệnh trong người thấy khó chịu, ông ta cũng phải viết hai chữ khó chịu vào sách hay sao?”

“Tuyết Phi Nhi! Tỷ nói như vậy là hơi bị quá đáng rồi đấy!” Kha Nghiêu ấm ức nói.

Tuyết Phi Nhi hứ lên một tiếng đáp: “Đó là muội ngụy biện không có căn cứ!”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì cười lên sảng khoái nói: “Thôi được rồi, không cần phải tranh cãi nữa đâu! Vậy ta hỏi hai người nhé, bệnh Thái Dương phát sinh, như thế nào? Kha Nghiêu, muội nói trước đi!”

“Cái này quá dễ, không làm khó muội được đâu! Kha Nghiêu vẻ mặt câng câng, dương dương tự đắc nói: “Thái Dương Kinh (kinh mạch Thái Dương) của cơ thể người nằm ở trên bề mặt da, nó giống như bức tường trong một gia đình, khi khí tà độc xâm nhập vào thì sẽ bị nó ngăn chặn lại đầu tiên, chính khí trong cơ thể sẽ nổi lên chống lại tà khí, chính khí và tà khí gi­ao phong ngay tại bề mặt cơ thể, gọi là bệnh Thái Dương….!”

“Nói đúng lắm, vô cùng chính xác, vậy tại sao bệnh Thái Dương lại làm cho mạch phù, đỉnh đầu đau và ác hàn vậy? Phi Nhi, nàng nói xem nào!” Đỗ Văn Hạo gật gù khen Kha Nghiêu, xong quay sang Tuyết Phi Nhi hỏi.

“Cái này thì có gì là khó cơ chứ!” Tuyết Phi Nhi cũng có phần đắc ý nói: “Mạch là điều đầu tiên quyết định khí, khi ngoại tà xâm nhập, chính khí hưng thịnh thể hiện ra ngoài để đối chọi lại vói khí tà, mạch tượng do đó mà phù, còn gọi là mạch phù. Thái Dương Kinh bắt đầu từ hốc mắt, qua đỉnh đầu, dọc xuống đến chân, khi khí tà xâm nhập, thì Thái Dương Kinh vì thế mà bị ngăn lại rồi bị tắc, chính vì vậy mà gây nên đau đớn nơi đỉnh đầu, còn về ác hàn thì càng đơn giản, do vệ khí có chức năng làm nóng ấm cơ thể, điều dưỡng da dẻ, vậy nhưng khi khí tà xâm nhập, thì vệ khí mải lo đi chống đỡ khí tà, làm gì có thời gi­an điều dưỡng da dẻ, hơn nữa dưới tác động của phong hàn, vệ khí lại bị cưỡng chế, dĩ nhiên không thể làm nóng bề mặt cơ thể được, chính vì vậy mà bệnh Thái Dương sẽ làm cho người bệnh ác hàn, sợ lạnh!”

Đỗ Văn Hạo nghe Tuyết Phi Nhi giải thích mà gật đầu tán thưởng liên tục: “Phi Nhi! Không ngờ nàng trong thời gi­an gần đây lại tiến bộ thần tốc như vậy! Không giống như hồi trước nữa rồi, khá lắm!”

Kha Nghiêu nghe vậy liền cười nói: “Vì Phi Nhi tỷ thấy muội cũng muốn học y, dĩ nhiên là không muốn bị muội bỏ rớt lại đằng sau, chính vì vậy nên mới cố gắng chăm chỉ để đuổi kịp muội đấy!”

Tuyết Phi Nhi nghe vậy liền hứ lên một tiếng nói: “Ai cần phải học đuổi theo muội chứ? Từ khi Đỗ đại ca đến huyện Đổng Đạt này, ta đã đi theo huynh ấy học y rồi, từ trước đến giờ ta học y lúc nào mà chả nghiêm túc chăm chỉ, hứ!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy mỉm cười nói: “Đúng, đúng rồi! Tuyết Phi Nhi học hành rất nghiêm túc và chăm chỉ, thôi, chúng ta cùng không nên đi lạc vấn đề nữa, về căn bệnh Thái Dương này thì cơ bản là ta thấy hai người đều nắm được khá là vững vàng, biết được ba triệu chứng điển hình của căn bệnh Thái Dương. Mỗi một triệu chứng là một đặc trưng của căn bệnh, chỉ cần là căn bệnh này thì nó nhất quyết phải có những triệu chứng đặc biệt của nó, nếu không có đặc trưng, hoặc thiếu một trong những đặc trưng đó, thì ta có thể đoán định là nó không thuộc vào căn bệnh này. Cái này còn gọi là triệu chứng cơ bản của bệnh, học y bắt buộc phải như vậy, đối với mỗi căn bệnh đều phải nắm bắt được những cái cơ bản, cốt lõi nhất của nó, chỉ cần nắm được căn bản của nguồn bệnh, thì chúng ta có thể ứng phó được với chúng. Ví dụ như căn bện Thái Dương này, mạch phù, đỉnh đầu đau dữ dội, ác hàn sợ lạnh, trong ba thứ này thì thiếu một thứ cũng không xong, nếu như chỉ có đau đỉnh đầu, ác hàn nhưng mạch lại không phù, thì nó chắc chắn không phải là bệnh Thái Dương. Dĩ nhiên, cũng có những trường hợp kèm theo chứng bệnh khác, hoặc là những bệnh chứng cũ tái phát dẫn đến biến chứng, thì chúng ta tạm không bàn tới….! ”

Kha Nghiêu nghe vậy liền nói: “Đúng như vậy đấy! Trong sách đã viết rõ ràng như vậy, bệnh Thái Dương chỉ có ba cái bệnh chứng cơ bản này thôi, làm gì có lên cơn sốt đâu, chính vì vậy mà lên sốt thì không phải là bệnh Thái Dương!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đưa ngón trỏ lên lắc qua lắc lại nói: “Kha Nghiêu! Muội nói câu này chỉ đúng một nửa thôi, bệnh Thái Dương ban đầu thì do khí Vệ Dương bị tích tụ, chưa được phát tác, thì dĩ nhiên không phát hiện ra hiện tượng bị sốt, nhưng theo thời gi­an của căn bệnh thì người bệnh sẽ có hiện tượng bị sốt, trong bệnh Thái Dương thì sốt và ác hàn đều thể hiện ra ngoài, đó là đặc trưng của bệnh Thái Dương, là một trong những sự khác biệt so với các bệnh về Kinh Lạc khác!”

Tuyết Phi Nhi nghe vậy liền xoa xoa hai tay nói: “Thế nào hả? Ta nói có đúng không vậy?’

Kha Nghiêu nghe mà vẫn không chịu thua, ấm ức nói: “Đỗ đại ca! Huynh không công bằng, huynh thiên vị, huynh cứ giải thích lung tung! Huynh làm như vậy là nể Phi Nhi! Muội không chịu đâu!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy chỉ biết mỉm cười nói: “Những việc khác thì ta có thể đùa được, chứ những chuyện về y thuật thì ta chưa bao giờ nói đùa cả, bởi vì nếu để cho người khác nghe được, người ta lại không cho đấy là đùa mà cứ tưởng là thật, như vậy thì chẳng khác nào đi hại người ta cả!”

“Vậy huynh nói đi, nếu mà bị sốt cũng là chứng bệnh cơ bản của bệnh Thái Dương, thì tại sao trong sách lại không ghi rõ ra vậy?” Kha Nghiêu cong môi lên cãi lại.

“Đằng sau có viết đấy thôi, muội lật ra đằng sau xem Ma Hoàng Thang Chứng! Đem nó ra đọc cho ta nghe xem nào!” Đỗ Văn Hạo chỉ vào sách nói.

Kha Nghiêu nghe xong liền không nói không rằng, đưa sách lên giở ra đoạn phía đằng sau đến câu Ma Hoàng Thang, rồi dõng dạc lên tiếng đọc: “Bệnh Thái Dương, đầu đau, sốt toàn thân, eo hông và khớp xương đều có hiện tượng nhức mỏi, khó chịu, ác hàn sợ lạnh, sợ gió, nên dùng Ma Hoàng Thang điều trị là chính! ”

“Thế nào hả Kha Nghiêu muội? ở đây không phải nhắc tới người mắc bệnh Thái Dương là có dấu hiệu sốt hay sao?” Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói.

“Làm gì có?” Ban nãy Kha Nghiêu chỉ chăm chăm ngước đầu lên cao giọng đọc sách, chứ không hề để ý thấy bên trong sách có viết cái gì, chính vì vậy mà khi nghe Đỗ Văn Hạo nhắc nhở, nàng mới định thần cúi đầu xuống quan sát một hồi, sau đó mới ý lên một tiếng kinh ngạc nói: “Bệnh Thái Dương, đau đầu, sốt cao.. .đúng là có sốt rồi!”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới mỉm cười giải thích: “Trong sách ở đoạn trước không nhắc tới người bệnh bị sốt, là vì tác giả muốn đưa những thứ cơ bản ra cho người đọc nắm được trước đã, còn bệnh Thái Dương thì có Thương Hàn và Trúng Gió hai loại, khi mới phát bệnh thì không có hiện tượng sốt nào, nhưng sau một thời gi­an phát bệnh người bệnh sẽ có hiện tượng nóng sốt. Chính vì vậy mà bị sốt cũng là một trong những bệnh chứng đặc trưng của Thái Dương Bệnh. Muội giở ra phía sau đọc thì sẽ rõ, trong đó có ghi cả những điều mà hai muội tranh luận từ nãy tới giờ đấy,nó viết rất rõ ràng: ‘Bệnh Thái Dương, có dấu hiệu nóng sốt, ra mồ hôi, ác hàn sợ lạnh, sợ gió,còn gọi là Trúng Gió!”

Kha Nghiêu nghe xong mới đưa mắt lên ngắm một lượt thật kỹ càng, quả nhiên đúng như Đỗ Văn Hạo vừa nói, nàng bất giác thầm kêu khổ trong lòng, sau đó tự trách mình sao không đọc kỹ trong sách viết những cái gì. Nhưng lập tức Kha Nghiêu đột nhiên quay ngoắt một trăm tám mươi độ, cười híp tịt cả mắt lại nói: “Đỗ đại ca, trong lời nói của huynh thì nó là trúng gió, muội biết rồi, đó là bệnh làm cho người ta bị méo mồm, méo miệng, thậm chí còn làm cho cơ thể bị tê liệt, muội nói có đúng không hả?” Kha Nghiêu nói xong thì trợn tròn mắt lên, miệng vẹo sang một bên, hai tay đưa lên run run, nhìn không khác gì người vừa bị trúng gió vậy.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy chỉ biết cười phá lên, lắc lắc đầu nói: “Muội nói cái trúng gió kia là hiện tượng làm cho người ta bị tê liệt, khác hẳn hoàn toàn với căn bệnh trúng gió trong bệnh Thái Dương, trúng gió trong bệnh Thái Dương là do bị gió độc, hoặc khí tà xâm nhập mà chữa trị!”

“Ha..! Muội hiểu rồi!” Kha Nghiêu làm ra vẻ bừng tỉnh, lĩnh hội được ý của Đỗ Văn Hạo, sau đó nàng ngẫm nghĩ một lúc rồi lại lên tiếng hỏi: “Vậy thế nào gọi là sợ gió? Sợ gió và sợ lạnh, có gì khác nhau?”

“Dĩ nhiên là khác nhau rồi, cả hai đều là do khí tà xâm nhập cơ thể, ừm! Chúng ta có thể hiểu như thế này, một người bị bệnh, nếu như không có gió thì không thấy lạnh, nhưng khi có gió thổi qua thì người đó lại cảm thấy lạnh, đây chính là chứng sợ gió, nếu như ngồi trong phòng không có chút gió nào, mà người bệnh vẫn cảm thấy lạnh, thì đó chính là ác hàn, hay còn gọi là sợ lạnh!”Đỗ Văn Hạo giải thích.

“ồ! Thì ra là vậy!” Kha Nghiêu gật gù ra vẻ đã hiểu, sau đó lại ngước mặt lên quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Thế muội hiểu như thế này không biết có đúng không! Đó là một người bệnh cho dù là thời tiết nóng nực, trong phòng không có gió mà vẫn cảm thấy lạnh, thì gọi là ác hàn! Còn khi trời nóng mà lại có gió, người khác cảm thấy mát mẻ, sảng khoái, nhưng người bệnh lại toàn thân lạnh lun lên, thì đây gọi là sợ gió! Muội nói như vậy có đúng không?”

“Hoàn toàn chính xác!” Đỗ Văn Hạo gật đầu khen ngợi.

“Ha ha! Đỗ đại ca! Huynh thấy chưa, muội thông minh lắm mà!” Kha Nghiêu cười phá lên thích thú.

“Thì ta từ trước đến giờ đều thấy muội thông minh mà!” Đỗ Văn Hạo cười nói.

Tuyết Phi Nhi lúc này ngồi bên cạnh, không nhịn nổi nữa liền nói chen vào: “Đúng vậy! Muội thông minh lắm, nhưng đừng quên cuộc đánh cược giữa hai chúng ta!”

Kha Nghiêu vẫn cố tình không để ý đến Tuyết Phi Nhi nói gì, cứ hí ha hí hửng cười nói với Đỗ Văn Hạo: “Đỗ đại ca! Huynh lúc nãy nói rằng bệnh Thái Dương có hai loại trúng gió và thương hàn, hai loại này khác nhau phải không ạ?”

Đỗ Văn Hạo gật gù nói: “Dĩ nhiên là khác nhau rồi!”

Kha Nghiêu nghe xong thì hai mắt long lanh, há hốc mồm lên kinh ngạc, nàng làm ra vẻ mình rất muốn học hỏi, muốn tìm hiểu thêm về căn bệnh này: “Vậv thì phân biệt như thế nào ạ?”

Tuyết Phi Nhi thấy Kha Nghiêu đang giở trò đánh trống lảng, liền cười khan lên hai tiếng rồi lạnh giọng nói: “Này này! Muội làm gì thế hả? Muội muốn đánh trống lảng để lờ đi phải không? Đừng quên là chúng ta đã đánh cược với nhau rồi đấy nhé?”

Kha Nghiêu nghe xong liền quay sang Tuyết Phi Nhi cười khan lên hai tiếng lấy lệ đáp: “Ai quên chứ? Muội chỉ muốn hỏi những vấn đề mình không hiểu thôi mà?”

“Đừng có điêu…! Muội muốn lân la, cà kê để ta quên luôn chuyện đó hả? Đừng có mơ nhé, mau lên!” Tuyết Phi Nhi lạnh giọng nói.

“Mau lên làm cái gì cơ?” Kha Nghiêu giả vờ ngơ ngác hỏi lại.

“Sủa gâu gâu chứ còn gì nữa! Đã chơi thì phải chịu, thua thì phải làm chứ còn gì nữa!” Tuyết Phi Nhi gắt lên.

Kha Nghiêu nghe xong thì hai má đỏ ửng lên, sau đó xích lại đến gần Tuyết Phi Nhi nịnh nọt nói: “Ha ha..! Phi Nhi tỷ tỷ là người hiền lành tốt bụng, yêu thương người nhất nhà, sao tỷ nỡ lòng nào để cho muội sủa gâu gâu như mấy con….cún được, đúng không? Hay là muội mời tỷ ăn một bữa được không? Khắp cái kinh thành này, tỷ thích ăn món gì, ăn ở đâu cũng được, tùy ý của tỷ hết, bất kỳ sơn hào hải vị nào muội cũng chiều! Được chưa?”

“Ha! Muội đúng là cũng có đầu óc tính toán đấy! Ai không biết Hoàng Thượng và Hoàng Thái Hậu vừa băng hà, tất cả các tiệm ăn trong cả cái kinh thành này đều đã bị bắt đóng cửa để chịu tang, chờ đám tang lễ của hai người xong hết rồi bọn họ mói khai trương trở lại! Bây giờ muội dẫn ta đi ăn cái gì? Ăn mấy quán mỳ vớ vẩn ven đường hả?” Tuyết Phi Nhi nói.

Kha Nghiêu nghe vậy thì chỉ biết cười trừ lên đáp: “Muội.. .ha..ha.. .muội quên béng mất chuyện này, hay là chờ cho bọn họ khai trương trở lại rồi muội mời được không?’’

“Thôi miễn đi! Cái tang lễ này không biết bao giờ mới xong, hơn nữa ta thấy bữa ăn đó không thú vị bằng việc nghe muội sủa lên như cún được! Nhanh lên, tai của ta đang dựng ngược lên nghe muội sủa đây này…!” Tuyết Phi Nhi mỉm cười nói.

“Thôi mà Phi Nhi Tỷ tốt bụng! ” Kha Nghiêu nhăn mặt nhăn mũi năn nỉ.

“Thua thì phải chịu! Không có lằng nhằng gì hết, nhanh lên! ” Tuyết Phi Nhi cũng không chịu buông tha cho Kha Nghiêu.

Kha Nghiêu bất đắc dĩ không biết nên làm thế nào cho phải, nhưng vẫn cứ xích lại gần Tuyết Phi Nhi nói: “Hay là chờ chút nữa về phòng rồi muội sủa cho Phi Nhi tỷ nghe có được không?”

Kha Nghiêu nói xong liền đứng dậy, nhưng vừa mới định đứng dậy thì nàng đã bị Tuyết Phi Nhi kéo lại nói: “Sủa luôn tại đây đi! Đỗ đại ca đã nói rồi, muội mà sủa thì nghe hay phải biết, ha ha ha!”

Nghĩ đến cảnh Kha Nghiêu phải tru môi lên sủa. Tuyết Phi Nhi đã không nhịn nổi cười

rồi.

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng quay sang Kha Nghiêu nói: “Đúng vậy đấy! Ta trông thấy muội khóc rồi, nhưng vẫn chưa nghe muội sủa theo kiểu con cún bao giờ, mau sủa đi! Ha ha ha!”

“Đỗ đại ca, huynh thật độc ác! Chỉ biết bắt nạt muội thôi! Hứ!” Kha Nghiêu lườm Đỗ Văn Hạo một cách căm hận, sau đó cắn răng chặt lại đưa mắt ra nhìn bên ngoài, thấy không có một ai, Kha Nghiêu liền tru miệng lên: “Sủa thì sủa có gì mà phải sợ… .Gâu.. .gâu… .gâu..

Ha ha ha!

Kha kha kha!

Tuyết Phi Nhi ôm lấy bụng cười lăn cười bò, đến nước mắt cũng túa cả ra bên ngoài. Đỗ Văn Hạo cũng vậy hắn ngửa hết cả mặt lên trời cười như chưa bao giờ được cười vậy.

Đến cả con hổ Tiểu Khả vốn đang nằm lim dim gật gù dưới sàn nhà cũng bị tiếng cười của hai người làm cho bừng tỉnh, nó ngẩng đầu lên nghiêng nghiêng cái đầu nhìn Đỗ Văn Hạo và Tuyết Phi Nhi, không biết hai người này tại sao lại cười sặc sụa như vậy.

Kha Nghiêu sủa gâu gâu xong thì căm hận nhìn hai người kia rồi ấm ức nói: “Cứ cười đi, cười đến sặc mà chết đi, đúng là hai kẻ độc ác!”

Tuyết Phi Nghi lúc này vẫn cảm thấy không nhịn nổi cười, nàng nghe Kha Nghiêu nói vậy liền chỉ vào mặt nàng nói: “Muội cứ tưởng muội tốt lắm đấy hả? May mà ta đánh cược thắng đấy, chứ nếu mà ta thua, thì không biết muội giở trò gì ra để trừng phạt ta đâu? Ha ha ha”

Kha Nghiêu nghe vậy liền ưỡn ngực lên nói: “Có giỏi thì chúng ta lại đánh cược thêm lần nữa! Lần này muội thắng chắc cho mà xem!”

“Chơi thì chơi, ai sợ gì chứ! Nói đi, muội muốn cược cái gì?” Tuyết Phi Nhi liếc mắt nói.

“Chúng ta sẽ đáng cược.. .ừm.. .thế này nhé. Đồ đại ca sẽ hỏi chúng ta mỗi người một câu hỏi, ai trả lời sai coi như thua !” Kha Nghiêu nheo mắt lên nói.

“Được thôi! Vậy cược cái gì đây? Lẽ nào lại sủa gâu gâu như muội!” Tuyết Phi Nhi cười nói.

“Không…! Muội vừa sủa rồi, nếu như mà Phi Nhi tỷ thua mà cũng làm như vậy thì cũng chỉ ngang với muội lúc nãy, muội không muốn vậy, muội muốn tỷ phải chịu thua nặng hơn nữa, đó là ai thua không những phải sủa gâu gâu, mà còn phải bò dưới đất một vòng! Tỷ có dám đánh cược không vậy?” Kha Nghiêu vênh váo nói.

Tuyết Phi Nhi cũng là một người hiếu thắng, chính vì vậy mà khi Kha Nghiêu khiêu khích như vậy, nàng liên ngẩng cao đầu lên nói: “Chơi thì chơi, ai sợ muội cơ chứ! Nào! Đỗ đại ca, huynh ra câu hỏi đi!”

Đỗ Văn Hạo thấy hai người đã bắt đầu đánh cược máu me, liền cười nói: “Làm như vậy sẽ làm cho đôi bên mất mặt, như vậy sẽ mất hòa khí, không tốt!”

“Không sao đâu Đỗ đại ca! Bọn muội cũng chỉ là đánh cược cho vui thôi. Phi Nhi tỷ cũng chỉ bò quanh một vòng, sủa lên mấy tiếng trước mặt chúng ta thôi, cũng chẳng có gì là mất mặt cả, đúng không hả Phi Nhi tỷ?” Kha Nghiêu liếc sang Tuyết Phi Nhi cười đầy ẩn ý.

Tuyết Phi Nhi nghe vậy cũng gật đầu nói: “Không sai! Chờ chút nữa mà muội thua bò dưới đất sủa gâu gâu cũng không cảm thấy mất mặt đúng không? Ha ha ha!”

“Hứ! Cứ chờ đấy mà xem, xem xem ai sẽ thua! Đỗ đại ca, huynh ra câu hỏi đi!” Kha Nghiêu quay sang Đỗ Văn Hạo hất hàm ra hiệu.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy chỉ biết lắc lắc đầu nói: “Vậy thì được! Chúng ta tiếp tục lấy bệnh Thái Dương ra làm đề cũng được, lúc nãy Kha Nghiêu không phải đã nêu câu hỏi rồi đó hay sao? Bệnh Thái Dương có thương hàn và trúng gió hai loại, vậy chúng khác nhau ở điểm nào?”

Kha Nghiêu nghe xong liền giơ tay lên nói: “Muội muốn nói trước! Cái này là chứng thương hàn của bệnh Thái Dương!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền mỉm cười nói: “Nói trước là hay bị thiệt lắm đó…

Kha Nghiêu nghe vậy hiểu ngay ý của Đỗ Văn Hạo liền nói: “Đúng đúng, chúng ta viết ra giấy sau đó đưa cho Đỗ đại ca mới là công bằng….!”

Tuyết Phi Nhi nghe vậy liền cười nói: “Chuyện nhỏ!”

Hai người Kha Nghiêu và Tuyết Phi Nhi liền đi tới chiếc bàn gần đó, cầm lấy bút lông viết ra những gì mà mình nghĩ, sau đó cả hai liền lén l đưa mắt lên nhìn Đồ Văn Hạo cầu cứu xem mình viết có đúng không, nhưng Đỗ Văn Hạo chỉ mỉm cười rồi lại cầm sách lên xem. hai người thấy vậy liền lẩm bẩm trách mắng Đỗ Văn Hạo ở trong bụng, nhưng vẫn phải cố gắng viết ra đáp án để đưa cho hắn đọc.

Đồ Văn Hạo xem xong kết quả của hai người liền lắc lắc đầu nói: “Bệnh Thái Dương có thương hàn và trúng gió hai loại, chính vì vậy mà hai loại này ngoài những nét cơ bản của bệnh Thái Dương, chúng còn có thêm những hiện tượng bệnh khác nữa. Hai muội viết sự khác nhau của hai loại này đều là những triệu chứng ngoài, không ăn nhập gì cả. Chúng ta cùng phân tích một chút nhé, đem loại trúng gió ra nói, thì nó là chất dinh dưỡng trong cơ thể không được điều hòa, làm cho cơ thể không được vững, chính vì vậy mà khí thoát ra ngoài làm cho người ta đổ mồ hôi. vì hiện tượng ra mồ hôi này nên hiện tượng trúng gió trong bệnh Thái Dương sẽ làm cho mạch phù, yếu!”

“Nói tóm lại bệnh Thái Dương trúng gió có hiện tượng ra mồ hôi, mạch phù yếu là trọng điểm.”

Đỗ Văn Hạo vừa nói đến đây thì vẻ mặt cả hai người Tuyết Phi Nhi và Kha Nghiêu đều biến sắc, nhưng cả hai vẫn cố tỏ ra như không có chuyện gì xảy ra, tuy nhiên không ai dám đưa mắt nhìn nhau, sợ đối phương nhận ra thái độ của mình.

Đỗ Văn Hạo lại nói tiếp: “Bây giờ chúng ta lại xem xét trường hợp của bệnh Thái Dương Thương Hàn, nó có hiện tượng khác hẳn vói trúng gió, khí dương trong cơ thể bị ngưng trệ, chính vì vậy mà mồ hôi không thể nào bài trừ ra khỏi cơ thể từ lỗ chân lông, loại bệnh này làm cho người bệnh không thoát được mồ hôi, vì bệnh Thái Dương Thương Hàn là do khí hàn xâm nhập cơ thể vô cùng mạnh mẽ, làm cho khí dương bị cưỡng chế, ngưng trệ không hoạt động, chính vì vậy mà mạch phù đập nhanh. Dĩ nhiên. Thái Dương Thương Hàn vẫn còn những hiện tượng đặc trưng khác nữa, ví dụ như toàn thân nhức mỏi, buồn nôn.. .Những thứ này là biểu hiện đặc trưng nhất của bệnh!”

Nói đến đây Đỗ Văn Hạo liền đưa mắt lên liếc nhìn Kha Nghiêu và Tuyết Phi Nhi, rồi mỉm cười nói: “Ta đã phân tích xong nguyên nhân cùng vói những bệnh trạng cơ bản của hai loại bệnh này rồi ai có thể tổng kết cho ta nghe những lời ta vừa nói xem xem Thái Dương Thương Hàn và Thái Dương trúng gió khác nhau ở điểm nào?”

Tuyết Phi Nhi nghe xong lầu bầu nói: “Huynh đã nói hết cả rồi, nếu như mà không nghe ra thì đúng là chữ thầy trả thầy hết rồi, khác nhau đó chính là hiện tượng ra mồ hôi chứ còn gì nữa! Thái Dương trúng gió thì ra mồ hôi, mạch phù yếu, còn Thái Dương Thương Hàn thì không ra mồ hôi, mạch phù đập nhanh, cái này muội chưa kịp nghĩ tới, không tính chứ?”

Kha Nghiêu nghe vậy mừng rỡ nói: “Được được, không tính! Ha ha ha! Khi nãy muội cũng vội quá mà viết thiếu, không tính cũng được, ha ha ha…!”

Kha Nghiêu nói đến đây xong mới sực nhớ ra điều gì đó, nàng liền quay sang Tuyết Phi Nhi nói: “Phi Nhi tỷ cũng viết thiếu?”

Đỗ Văn Hạo liền đưa hai tờ giấy của hai người kia viết lên nói: “Ngoại trừ những hiện tượng bệnh chứng của bệnh Thái Dương ra, thì Phi Nhi có viết tới mạch tượng, còn Kha Nghiêu viết tới ra mồ hôi, chính vì vậy mà cả hai đều trả lời thiếu, vậy coi như là hòa!”

Chương 378: TRanh Quyền Đoạt Thế

Nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy xong cả hai người Tuyết Phi Nhi và Kha Nghiêu đều thở hắt ra. Kha Nghiêu sau đó liền quay sang Tuyết Phi Nhi mặt câng câng lên nói: “Phi Nhi tỷ vừa rồi may mắn đấy, chẳng qua muội lúc nãy do hồi hộp quá nên quên thôi, nếu không hả… .hề hề! Ván tiếp theo muội sẽ thắng cho mà xem!”

Tuyết Phi Nhi nghe vậy cười lạnh nói: “Nghe Đỗ đại ca nói hết cả ra rồi mới nói, thế thì ai mà chả biết, có giỏi thì thắng ta thêm một ván nữa xem nào!”

Kha Nghiêu nghe vậy liền quay sang Đỗ Văn Hạo hất hàm nói: “Đỗ đại ca! Huynh mau ra câu hỏi nhanh lên…

Đỗ Văn Hạo đang định mở miệng ra nói, thì đột nhiên Anh Tử chạy vào trong thông báo: “Thưa thiếu gia! Có Bàng đại lão gia và Kinh Thành Phủ Doãn Thái đại lão gia đến thăm! Bọn họ đang ngồi chờ trong hoa phòng đó ạ!”

Vị Bàng đại lão gia này không phải ai khác mà chính là phụ thân của Bàng Vũ Cầm, nhạc phụ của Đồ Văn Hạo, Bàng Cảnh Huy, chức đến Thôi Quan của Phủ Khai Phong. Còn vị Kinh Thành Phủ Doãn Thái đại nhân thì Đỗ Văn Hạo chưa từng nghe nói hai người này có qua lại với nhau bao giờ cả, bây giờ cả hai đột nhiên đến thăm hắn, làm cho hắn không biết là có chuyện gì, nên vội vã mặc quan bào chạy ra hoa phòng nghênh đón.

Khi vừa bước vào trong phòng thì Đỗ Văn Hạo đã trông thấy một gánh quà đặt ở trong góc tường, Bàng Cảnh Huy và Thái Phủ Doãn đang ngồi uống trà trò chuyện với nhau, khi thấy Đỗ Văn Hạo đi vào, cả hai vội vã đứng đậy thi lễ.

Đỗ Văn Hạo cũng vội vã bước tới trước mặt Bàng Cảnh Huy cúi người hành lễ: “Tiểu tế tham kiến nhạc phụ đại nhân!”

Bàng Cảnh Huy thấy vậy liền mỉm cười vuốt râu gật gật đầu, sau đó ông tránh người sang một bên đưa tay lên giới thiệu Thái Phủ Doãn cho Đỗ Văn Hạo biết: “Hiền tế! Vị này là Thái Kinh, là Phủ Doãn Kinh Thành của chúng ta, Thái đại nhân!”

Thái Kinh? Sao cái tên này nghe quen quá vậy. Đỗ Văn Hạo suy nghĩ rất nhanh, ngay lập tức hắn nhớ tới nhân vật Thái Kinh trong bộ truyện tiểu thuyết nổi tiếng <Thủy Hử>, Thái Kinh trong bộ tiểu thuyết này chính là người có liên quan đến quà sinh nhật Sinh Thần Cương, sau đó bị hội Tiêu Cái cướp mất giữa dọc đường. Nếu đây đúng là ông ta, thì Thái Kinh là một nhân vật gi­an tà khét tiếng ngang với lão Cao cầu đáng ghét kia. Vậy nhưng, bây giờ trông ông ta mới khoảng trên dưới bốn mươi tuổi, mũi cao miệng rộng, tướng mạo đường đường chẳng có gì giống với bộ dạng của một gã gi­an thần cả, nên Đỗ Văn Hạo nhất thời cùng không biết được vị Thái Kinh trước mặt hắn đây có phải là nhân vật Thái Kinh trong truyện <Thủy Hừ> hay không nữa. Nhưng, nghĩ đi nghĩ lại người giống tên người cũng nhiều, hắn cũng không nhớ tên tự và tên hiệu của gã Thái Kinh trong <Thủy Hử> kia là gì nữa, nên bây giờ Đỗ Văn Hạo cũng khó mà phân biệt được.

Còn Thái Kinh trông thấy Đỗ Văn Hạo cứ đứng nhìn mình không nói câu gì, hơn nữa gương mặt của hắn lúc thì sa sầm lại, lúc thì lắc đầu nguầy nguậy, nên không biết hắn đang nghĩ cái gì nữa, vì vậy mà vội vã chạy đến cúi người thi lễ nói: “Hạ quan tham kiến Đỗ đại nhân!”

Vị Thái Kinh này là Khai Phong Phủ Kinh Thành Phủ Doãn, quan chức là tòng tam phẩm. Đỗ Văn Hạo là Đề Điểm Các Lộ Hình Ngục Công Sự Đề Hình Quan, quan chức vốn là chính tam phẩm, nhưng vì hắn tự động lạm dụng binh quyền, sau còn có kết gi­ao với Bạch Liên Giáo, chính vì vậy mà Tống Thân Tông rất khó chịu với hắn,nên hạ cấp của hắn xuống còn tòng tứ phẩm, chức cấp kém hơn hẳn Thái Kinh một cấp. Nhưng vì Đỗ Văn Hạo được ban tặng Tử Y Kim Ngư nên quan chức của hắn là chính tam phẩm, vì vậy mà Thái Kinh mới tự xưng mình là hạ quan.

Đỗ Văn Hạo thấy Thái Kinh cúi người thi lễ với mình thì sực tỉnh lại cúi cười đáp lễ, sau đó cung kính mời hai người ngồi xuống. Anh Tử lúc này cũng đã dùng chiếc khay nạm vàng bưng trà lên mời, sau đó nàng cúi người lui ra cho ba người ngồi trò chuyện với nhau.

Thái Kinh lúc này quay sang Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Nghe nói Đỗ đại nhân là người trượng nghĩa khinh tài, tính cách hào phóng hơn người, thích cứu giúp người nghèo, giúp đỡ kẻ khó, hạ quan cứ nghĩ rằng trong phủ đệ của đại nhân hẳn phải chất cả núi vàng mới có những hành động như vậy. Thế mà không ngờ hôm nay đến quý phủ, thấy nơi đâ đơn giản, thô sơ, người ở cũng chẳng có mấy người. Lúc nãy nghe Bàng đại nhân nói các vị phu nhân của Đỗ đại nhân lại là những người hiền thục, hiểu biết, chăm chỉ chịu khó, trong nh mỗi một đứa nha hoàn là Anh Tử, lại là người bên nhà gái qua. Đại nhân là người chức cao vọng trọng, là cánh tay mặt của Thánh Thượng, vậy mà không ngờ lại có cuộc sống giản dị như vậy, thật làm hạ quan khâm phục vô cùng, xem ra hạ quan làm quan lâu năm vẫn không bằng được một góc của đại nhân, thật vô cùng hổ thẹn!”

Đỗ Văn Hạo nghe Thái Kinh nói vậy mới ngẩn người ra. hắn đưa mắt ra nhìn xung quanh, quả nhiên dinh phủ của hắn cũng đơn sơ, mộc mạc thật, nhất là mấy đứa người hầu, chủ yếu là bản thân hắn cũng không coi mình là một đại lão gia, cũng không có thói quen có người hầu bên cạnh, ngay cả đến chuyện đi nhà xí mà cũng cần người hầu đi theo thì hắn không thể chịu nổi. Còn Bàng Vũ cầm thì cũng chẳng qua là một tiểu thư cùng lắm cùng chi cần một người hầu. Liên Nhi, Phi Nhi, Thanh Đại thì càng không nói làm gì, bọn họ chẳng cần đến người hầu, vì ai cũng tự chăm sóc được cho bản thân mình. Một đại gia đình như hắn trông ra cũng chẳng giống một gia đình giàu có gì cả, có rất nhiều việc bản thân hắn còn đích thân làm hết, chính vì vậy mà hắn cũng chẳng mua đứa người ở nào cả. Bây giờ nghe Thái Kinh nói vậy, liền mỉm cười chắp tay nói: “Thái đại nhân đến thăm bổn phủ, không phải là để nói mấy thứ này khen ta đấy chứ?”

Thái Kinh nghe vậy sững người, sau đó ông ta lại bật cười ha hả nói: “Đỗ đại nhân thật là vui tính, vui tính quá.. ,ha,.ha.ha…!” Nói xong ông ta liền liếc mắt sang Bàng Cảnh Huy ra hiệu.

Bàng Cảnh Huy trông vậy hiểu ý, liền quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Thái đại nhân sớm đã nghe nói y thuật của hiền tế như thần, nên rất muốn kết gi­ao với con, nhưng vì công việc của cả con và ông ấy đều bận rộn, nên chưa có dịp gặp mặt. Sau đó, con lại bị điều đi Nhã Châu, tiếp sau đó lại tứ phương tầm y, rồi lại làm Đề Điểm Hình Ngục, mãi mới về đến kinh thành. Chính vì vậy mà hôm nay ta mới dẫn Thái đại nhân đến đây giới thiệu cho con biết. Ông ấy cũng nghe nói tửu lượng của con hơn người, mà Thái đại nhân cũng là người rất thích uống rượu, nên rất muốn cùng được chung vài ly với con, không say không về. Nhưng vì bây giờ Thánh Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu vừa mới băng hà, cho dù trong triều, không cấm ai được phép uống rượu, nhưng vì âu cũng là chuyện buồn của trăm họ, nên chúng ta hôm nay lấy trà thay rượu, cùng hàn huyên với nhau vài câu.”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy vội vã chắp tay nói: “Thái đại nhân khách khí quá!”

Thái Kinh nghe vậy liền đưa tay lên vuốt chòm râu đen nhánh dưới cằm của mình mỉm cười nói: “Lời của Bàng đại nhân vừa nói, đúng là ý nghĩ của hạ quan, đại nhân y thuật như thần, còn bổn quan lại không hiểu biết gì về y thuật; nên không dám đến đây múa rìu qua mắt thợ. Vậy nhưng, hạ quan là Kinh Thành Phủ Doãn, cho dù đầu óc có ngu muội, hành động có chậm chạp cũng không dám phụ lòng kỳ vọng của Hoàng Thượng, nên dù có gan óc lầy đất cũng quyết làm tròn bổn phận của mình. Hạ quan nghe nói Đỗ đại nhân có sách lược cai trị quốc gia vô cùng độc đáo, nên hôm nay đến tham kiến, một là mong muốn được Đồ đại nhân không chê hạ quan ngu muội mà chỉ dạy cho hạ quan, hai là muốn học hỏi đại nhân về đạo làm quan thế nào cho phải!”

Không chờ cho Đỗ Văn Hạo kịp lên tiếng trả lời. Bàng Cảnh Huy đã chắp tay lên nói: “Thái đại nhân và tiểu tế cứ ngồi đây đàm đạo với nhau, tại hạ xin phép vào trong kia thăm nom con gái của mình một chút, tại hạ cũng đã một năm nay chưa gặp mặt nó rồi!”

Thái Kinh nghe vậy chắp tay lên đáp lễ nói: “Vâng…vâng! Bàng đại nhân cứ việc tự nhiên!”

Bàng Cảnh Huy nghe xong liền đứng dậy cáo từ, bước ra khỏi cửa, sau đó thuận tay khép cửa lại cho Đỗ Văn Hạo và Thái Kinh tiện bề nói chuyện

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì sững người lại, hắn hiểu ngay rằng vị Kinh Thành Phủ Doãn Thái Kinh này hẳn có chuyện muốn nói riêng với hắn, nghĩ vậy liền mỉm cười quay sang Thái Kinh nói: “Thái đại nhân! Lần này đại nhân đến đây chắc không chỉ hỏi mỗi chuyện cái đạo làm quan ra sao đúng không?-’

Thái Kinh nghe vậy liền mỉm cười thấp giọng đáp: “Đồ đại nhân…e hèm..chúng ta nói chuyện riêng với nhau thế này, không cần phải khách khí làm gì, thôi thì cứ việc xưng huynh đệ cho nó tiện, không biết Vân Phàm huynh nghĩ sao?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cúi đầu đáp: “Như vậy cũng được, không biết tên tự của Thái đại nhân….!”

“Ngu­vên Trường…!” Thái Kinh đáp

“Hả? Vân Trường? Triệu Vân Trường…?” Đỗ Văn Hạo nghe câu được câu không, kinh ngạc hỏi lại.

Thái Kinh nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy liền cười ha hả nói: “Ngu huynh sao mà so bì được với Phụ Quốc An Bang, một trong ngũ hổ tướng Thường Sơn Triệu Tử Long! Ngu huynh tên tự là Nguyên Trường, chữ Nguyên trong Tết Nguyên Đán, còn chữ Trường trong chữ Trường Kỵ…!”

“ồ vậy sao? Thành thật xin lỗi huynh…ha ha ha….tại tiểu đệ nghe không rõ, mong Nguyên Trường huynh thứ lỗi!” Đỗ Văn Hạo chắp tay nói.

“Không sao…không sao…! Ngu huynh hơn tiểu đệ mấy tuổi, bây giờ chúng ta cứ xưng nhau là huynh đệ cho nó thân mật, ngu huynh thực chất tài mọn cũng không hơn tiểu đệ là mấy, vậy nhưng tiểu đệ đã khiêm tốn như vậy, thì ngu huynh cũng xin đắc tội, tự xưng mình là huynh trưởng vậy! Chúng ta về sau cứ gọi như vậy. Vân Phàm tiểu đệ không trách gì ngu huynh chứ?” Thái Kinh niềm nở nói.

Đỗ Văn Hạo cũng cảm thấy vô cùng kỳ quặc, vị Kinh Thành Phủ Doãn Thái Kinh này vừa gặp mặt mình đã định người sang bắt quàng làm họ rồi, mặc dù hắn cũng chẳng có gì là sang cả, vì thế nên Đỗ Văn Hạo nhất thời cũng không biết dụng ý của Thái Kinh là gì, liền lên giọng nói: “Ngu­vên Trường huynh khách khí rồi, chúng ta cứ xưng huynh đệ như vậy cũng tốt!”

“Ha ha…ha..! Hiền đệ quả nhiên là người sảng khoái, phóng khoáng! Chả trách gì mà Ung Vương Gia lại xem trọng hiền đệ như vậy!” Thái Kinh vui vẻ nói.

“Ung Vương Gia?” Đồ Văn Hạo nghe đến đây thì cảm thấy mình như bị điện giật, toàn thân bất giác run lên một cái. Dùng đao uy hiếp bắt gi­am hai vị Vương Gia làm con tin, cái tội này cũng đủ để tru di cửu tộc rồi, cho dù mấy ngày hôm nay không thấy có động tĩnh gì, nhưng trong lòng Đỗ Văn Hạo vẫn thấp thỏm bất an vô cùng. Bây giờ, vị Kinh Thành Phủ Doãn Thái Kinh này đột nhiên nhắc đến Ung Vương Gia, làm cho Đỗ Văn Hạo sợ đến toát mồ hôi hột.

Thái Kinh dường như biết được chuyện này, nên ông ta liền mỉm cười đầy vẻ thần bí, đưa tay vỗ vỗ vào vai của Đỗ Văn Hạo nói: “Hiền đệ không cần phải lo lắng quá như vậy đâu! Vương Gia rất xem trọng hiền đệ đó, dĩ nhiên những hiểu nhầm ngày trước, Vương Gia cũng chỉ mún cười rồi cho qua chuyện luôn, không để bụng gì cả đâu!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì cười khan lên hai tiếng, nhưng hắn không hề đáp lại câu nói của Thái Kinh, hắn biết bây giờ mà hắn lên tiếng thì đồng nghĩa với chấp nhận.

Thái Kinh nói xong liền đưa tách trà lên miệng, nhấp một ngụm sau đó nhẹ nhàng đặt xuống bàn rồi nói tiếp: “Hiền đệ nhậm chức Đề Điểm Các Lộ Đề Hình Hình Ngục, lại tứ phương tầm y đã gần một năm không quay về kinh thành rồi. trong một năm trở lại đây kinh thành xảy ra rất nhiều chuyện, e rằng hiền đệ cũng không biết rõ phải không?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền gật đầu đáp: “Đúng vậy!”

“Nếu đã như vậy, thì hiền đệ cứ việc ngồi nghe ngu huynh kể lại cho hiền đệ nghe!” Tài ăn nói của Thái Kinh vô cùng tốt, chỉ loáng một cái thôi ông ta đã đem những chuyện xảy ra trong kinh thành trong vòng một năm trở lại đây lần lượt kể hết cho Đỗ Văn Hạo nghe. Những sự việc này đại để đều có liên quan tới Ung Vương, cứ trong hai ba câu nói là có Ung Vương thế này, Ung Vương thế kia. Tống Thần Tông cũng vô cùng xem trọng vị Vương đệ này của mình, ở trước mặt ai cũng khen ngợi Ung Vương, cứ như Ung Vương là người giỏi nhất thế gi­an này vậy.

Đỗ Văn Hạo nghe mà chỉ mỉm cười không nói, hắn chỉ im lặng lắng nghe Thái Kinh kể chuyện, đến tận bây giờ hắn vẫn chưa hiểu được tại sao Thái Kinh lại đem chuyện của Ung Vương ra kể cho hắn để làm cái gì nữa.

Thái Kinh nói năng hăng say, mồm mép tép nhẩy, nước miếng tung bay tứ phía, nói một thôi một hồi, nói liền một canh giờ mới chịu ngừng lại, thở dài một cái: “Hoàng Thượng và Ung Vương Gia tình thân như thủ túc, vậy mà không ngờ Hoàng Thượng lại băng hà, quy tiên sớm như vậy! Ngay cả đến ý chỉ chỉ định ai lên kế vị cũng chưa kịp viết! Việc kế vị ngai vàng đại sự do vậy mà đến tận bây giờ vẫn chưa quyết định được!”

Nói đến đây thì Thái Kinh mới nhướng mắt lên nhìn trộm Đồ Văn Hạo một cái.

Nhưng Đỗ Văn Hạo thì cứ ngây ra như khúc gỗ, chẳng có biểu hiện gì cả. Tuy ngoài mặt như vậy, nhưng thực chất trong bụng của hắn bây giờ đang nổi phong ba bão táp, hắn hiểu ngay rằng vị Kinh Thành Phủ Doãn này hôm nay đến đây vì mục đích thuyết phục hắn. Tất cả đều là vì tranh quvền kế vị, việc này là việc vô cùng nguy hiểm, nó chẳng khác gì hòn than nóng cả, không xử lý khéo léo thì bỏng tay như chơi, nếu không có đủ thế lực tuyệt đối không nên nhúng mũi vào chuyện này, tốt nhất là tránh càng xa càng tốt! Nếu như vẫn không tránh được thì tốt hơn hết là nên học tập Từ Thứ trong truyện Tam Quốc, cứ giả ngây giả ngô, không nói câu gì là tốt nhất.

Thái Kinh trông nét mặt của Đỗ Văn Hạo cũng không thể nào đoán ra được thái độ của hắn trong sự việc này ra sao, trong lòng cũng thấp thỏm, liền tiếp tục nói: “Các đại thần ở trong triều chỉ vì mỗi cái việc kế vị này mà đã điên hết cả đầu, làm rối tung rối mù hết mọi thứ trong cung lên rồi, thậm chí bọn họ suýt chút nữa động tay động chân đánh nhau nữa! Bây giờ chỉ có hai người có đủ tư cách kế vị, và Ung Vương Gia là người lựa chọn xứng đáng nhất, cũng là người được lòng các đại thần trong triều nhất. Các trọng thần trong triều đều biết rằng Ung Vương Gia là người thông minh nhanh nhẹn, tính tình năng động khoáng đạt, là người rất được lòng của Hoàng Thượng. Hoàng Thượng nghe Ung Vương Gia thích sưu tầm sách, thế là cho người đi tìm rất nhiều sách hiếm về tặng Ung Vương, hiền đệ xem, tình cảm của Hoàng Thượng dành cho Ung Vương có tốt không?”

Đỗ Văn Hạo nghe mà rung động cõi lòng, hắn liền lên tiếng hỏi: “Ung Vương Gia cũng thích sưu tầm sách cổ sao?”

Thái Kinh ban nãy nói hươu nói vượn, nói sông nói biển, nói tái nói hồi mà thấy Đỗ Văn Hạo trơ ra như khúc gỗ mục, nhưng khi nói đến chuyện sưu tẩm sách thì bỗng nhiên thấy hắn mở miệng, bất giác mừng rỡ, đưa tay lên vỗ bồm bộp vào thành ghế nói: “Đúng vậy đấy! Lẽ nào hiền đệ cũng thích sưu tầm sách?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cười lên hai tiếng nói: “Không…. không….tiểu đệ làm gì rảnh rỗi mà có mấy nhã hứng đó chứ, hàng ngày thời gi­an tiểu đệ xem bệnh còn chẳng có nữa là!”

“Cũng đúng!” Thái Kinh gật gù nói.

Sau đó ông ta lại liến thoắng nói: “Quan hệ giữa Hoàng Thượng và Ung Vương Gia thân mật vô cùng, ở với nhau lâu ngày Hoàng Thượng thường để cho Ung Vương Gia lo liệu mấy việc quốc gia đại sự nữa. Ung Vương Gia lần nào cũng vậy, làm việc vô cùng cẩn trọng và chăm chỉ, rất được lòng Hoàng Thượng. Chính vì vậy mà Ung Vương Gia rất hiểu nỗi lòng của Hoàng Thượng, nếu như Ung Vương Gia có thể kế vị làm Hoàng Đế thì ngu huynh, tin rằng gi­ang sơn của Đại Tống nhất định sẽ huy hoàng như lúc Hoàng Thượng còn tại vị vậy. Khi đó dân chúng trăm họ an cư lạc nghiệp, như vậy không phải đó chính là hồng phúc của trăm họ hay sao, ngu huynh nói vậy không biết hiền đệ nghĩ sao?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy cũng chỉ mỉm cười không nói câu gì.

Thái Kinh lại cầm tách trà lên nhấp thêm một ngụm nữa, rồi lại tiếp tục khả năng phun nước bọt của mình: ‘”Người thứ hai kế vị Hoàng Đế chính là lục Hoàng Tử. Vậy nhưng, hiền đệ cũng biết rồi đấy, lục Hoàng Tử cũng không phải là con của Hoàng Hậu, chỉ vì ngũ vị Hoàng Tử khi trước chẳng may chết yểu, nên lục Hoàng Tử mới có ngày hôm nay, bây giờ Hoàng Tử cũng mới có chín tuổi, hiền đệ nghĩ xem để một đứa bé chín tuổi kế nghiệp ngôi vua, kế nghiệp làm sao nổi cơ chứ! Để đứa bé lên kế vị, không bằng để Ung Vương Gia lên kế vị thì nghe hợp lý hơn nhiều!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy cũng chỉ mỉm cười không nói.

Thái Kinh lại tiếp tục với màn diễn thuyết của mình: “Triều đình hiện nay, các đại thần trong triều phân làm hai phe, đại bộ phận thì ủng hộ Ung Vương Gia, dĩ nhiên cũng có người ủng hộ lục Hoàng Tử. Hai phe đều không ai nhường ai cả, bên lục Hoàng Tử thì dựa vào cái lẽ cha truyền con nối. Vậy nhưng ai cũng biết được khi xưa Tống Thái Tông cũng là em lên kế vị thay cho anh trai mình là Tống Thái Tổ đó thôi! Đây cũng coi như là tiền lệ của tổ tông để lại!”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì đưa con mắt hiếu kỳ lên nhìn Thái Kinh một cái, bởi vì hắn cũng lần đầu tiên nghe Tống Thái Tông hóa ra là em trai của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn, hắn tự thầm trách mình kiến thức lịch sử quá kém, nhưng rốt cuộc vẫn chỉ im lặng, không nói câu nào cả.

Thái Kinh vẫn coi như không, mặc kệ Đỗ Văn Hạo thái độ ra sao, ông vẫn cứ thao thao bất tuyệt: “Các vị đại thần trong triều đều mong Hoàng Thái Hậu đứng ra làm chủ, nói xem rốt cuộc ai làm chủ xã tắc. Hai người suy cho cùng đều là ruột thịt với người, một người là con ruột, còn một người là cháu ruột. Bây giờ trong cung, Hoàng thân quốc thích thì chỉ có mỗi Hoàng Thái Hậu là người có địa vị cao nhất, nên lẽ dĩ nhiên sẽ do Hoàng Thái Hậu làm chủ, vậy nhưng Hoàng Thái Hậu đến tận lúc này vẫn cứ im lặng, không đưa ra ý kiến gì, mà cứ lấy lý do niệm kinh siêu độ mà đóng cửa lẩn tránh trách nhiệm, bà đã đóng cửa siêu độ được sáu ngày rồi! Trong triều thì đang loạn hết cả lên, vậy mà Hoàng Thái Hậu vẫn…. Ái chà….Thật là…!”

Thái Kinh vừa nói đến đây thì Đỗ Văn Hạo liền lên tiếng nói: “Hoàng Thái Hậu là người hiền lành nhân hậu, người cũng là người rất có chính kiến riêng của mình, yên tâm! Bà ắt sẽ có chủ ý riêng của bà!”

Thái Kinh nghe xong thì vỗ đùi đánh đét lên một cái rồi nói: “Đúng vậy đấy! Hiền đệ quả nhiên là một người thông minh biết nhiều hiểu rộng! Hoàng Thái Hậu đúng là một người nhân hậu, lương thiện, chính vì vậy mà chỉ e rằng có người ngồi bên cạnh xui đại Hoàng Thái Hậu mấy câu, làm cho Hoàng Thái Hậu chọn nhầm người thì e rằng đó là tai họa cho trăm họ! Gi­ang sơn Đại Tống của chúng ta đang đứng trước một sự chọn lựa vô cùng hệ trọng, bây giờ cũng là lúc những người trung nghĩa như chúng ta phải đứng ra vì dân vì nước, không biết ý của hiền đệ ra sao?”

Thái Kinh nói đến đây liền liếc trộm Đỗ Văn Hạo một cái, nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn im lặng chẳng nói câu gì, mặt mũi vẫn đơ ra.

Thái Kinh thấy vậy liền dí sát mặt đến bên Đỗ Văn Hạo, thấp giọng nói: “Hiện giờ phải có người phân tích tình hình lợi hại cho Hoàng Thái Hậu biết, để cho Hoàng Thái Hậu biết được rằng con trai Ung Vương Gia của người mới là người xứng đáng ngồi lên ngai vàng đó nhất! Còn người đi khuyên Hoàng Thái Hậu thì không phải là ai khác, mà chính là hiền đệ đó!”

“Tiểu đệ ư?” Đỗ Văn Hạo sững người một cái rồi đáp: “Tiểu đệ e rằng không đảm nhận nổi trách nhiệm này đâu, tiểu đệ chẳng qua chỉ là một viên Ngự Y quèn, ai cho phép can thiệp vào chuyện quốc gia đại sự cơ chứ! Hơn nữa Hoàng Thái Hậu còn lâu mới chịu nghe lời khuyên của một Thái Y, Nguyên Trường huynh đề cao tiểu đệ quá rồi đấy!”

“Hiền đệ đừng khiêm tốn làm gì nữa! Toàn bộ triều đình ai mà không biết hiền đệ là ân nhân cứu mạng của Hoàng Thái Hậu cơ chứ? Hoàng Thái Hậu bị Trân Mỹ Nhân hãm hại, bị đau bụng đến hơn chục năm trời, khi lên cn thì sống không bằng chết, chỉ vì tiểu đệ diệu thủ hồi xuân cứu chữa được cho Hoàng Thái Hậu. Hoàng Thái Hậu vì vậy mà vô cùng tán thưởng hiền đệ! Ngay cả chiếc Gối Như Ý Vân Long Phượng Tường, một kỷ vật của người và Tống Anh Tông còn tặng cả cho hiền đệ nữa là! Nếu như hiền đệ chịu khó đứng ra nói với Hoàng Thái Hậu vài câu, thì việc tất thành!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền bật cười nói: “Thái đại nhân hiểu nhầm rồi. Hoàng Thái Hậu khen ngợi chẳng qua chỉ là khen ngợi tài y thuật của tiểu đệ mà thôi! Đó không đồng nghĩa với việc Hoàng Thái Hậu sẽ nghe lời của tiểu đệ! Trong mắt của Hoàng Thái Hậu thì tiểu đệ chẳng qua là một đại phu chữa bệnh thông thường, còn chuyện kế vị điều hành thiên hạ, thì Hoàng Thái Hậu sao lại đi nghe lời một gã đại phu quèn như tiểu đệ cơ chứ? Nếu như tiểu đệ mà cả gan góp ý này nọ trong truyện này, nhẹ thì bị chửi mắng, còn nặng thì bị chém đầu cũng không biết chừng!”

Thái Kinh nghe vậy liền nhoẻn miệng cười một cách thần bí, sau đó dướn người lên trước, tựa hồ như nằm hẳn lên chiếc bàn dí sát đến tận tai Đỗ Văn Hạo thấp giọng nói: “Có chuyện này e rằng hiền đệ vẫn chưa biết, đó là tối ngày hôm qua Hoàng Thái Hậu bỗng nhiên nhắc tới hiền đệ đó!”

Chương 379: Đứng về phe nào!

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền kinh ngạc kêu lên: “Hoàng Thái Hậu đã xuất quan rồi hay sao?” Thái Kinh nghe vậy liền đáp: “Đúng vậy! Tối ngày hôm qua tụng kinh nhiệm phật xong là xuất quan rồi!”

“Không phải không phải là….không phải là..tụng kinh niệm phật cần bảy ngày hay sao? Nếu là bảy ngày thì đến tối ngày hôm nay mới coi là xong chứ đúng không?” Đỗ Văn Hạo thắc mắc nói.

“Hôm qua chính là vừa vặn ngày thứ bảy, bắt đầu từ ngày Hoàng Thượng băng hà đến nay cùng đã được bảy ngày rồi!” Thái Kinh đáp.

Đỗ Văn Hạo lúc này mới ngã ngửa người vỡ lẽ hiểu ra vấn đề, bản thân hắn đã đến chậm mất một ngày, nên hắn cứ tưởng là Hoàng Thái Hậu tụng kinh niệm phật mới được có sáu ngày, thực chất là đã được bảy ngày rồi, vì vậy mà hắn liền vội lên tiếng hỏi: “Hoàng Thái Hậu hỏi gì đến tiểu đệ vậy hả Nguyên Trường huynh?”

“Hoàng Thái Hậu hỏi rằng hiền đệ bao giờ quay trở lại, viên công công túc trực liền nói hiền đệ đã đến đây rồi, chỉ là đến muộn mất một ngày, sau đó thì Hoàng Thái Hậu cũng không hỏi thêm câu gì nữa!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì bỗng nhiên cảm thấy thất vọng vô cùng, nhưng lại cũng mừng vì trong giờ phút quan trọng như thế này hắn cũng muốn phát huy tác dụng của mình, nhưng lại sợ không hành động không được cẩn trọng sẽ tự làm hại bản thân mình. Hắn cũng mừng vì Hoàng Thái Hậu không cho triệu kiến hắn, hắn cùng lắm cũng chỉ là một gã Thái Y trong triều, làm gì có quyền gì mà can dự vào những việc quốc gia đại sự như thế này, vớ vẩn chẳng may bị tru di cửu tộc cũng không phải là chuyện không thể xảy ra.

Chính vì thế mà khi nghe Thái Kinh nói vậy, Đỗ Văn Hạo cũng chỉ ồ lên một tiếng nhạt thếch, sau đó lại tiếp tục im lặng, không có ý kiến gì cả.

Thái Kinh thì thể hiện rõ sự ngưỡng mộ của mình với Đỗ Văn Hạo: “Hiền đệ! Hiền đệ nghĩ xem.. Hoàng Thái Hậu xuất quan chưa nói chưa rằng gì mà ngay câu nói đầu tiên đã hỏi xem hiền đệ đã về chưa! Như vậy cũng đủ cho thấy rằng vị trí của hiền đệ trong lòng của Hoàng Thái Hậu cao như thế nào rồi đấy! Từ việc Hoàng Thái Hậu đặc biệt quan tâm đến hiền đệ có thể thấy rằng, hiền đệ chỉ cần nói một hai câu với Hoàng Thái Hậu thôi, đảm bảo Hoàng Thái Hậu sẽ nghe lời của hiền đệ ngay ấy mà!”

Đỗ Văn Hạo cũng có một số ý định ở trong lòng, nhưng lúc này gương mặt hắn vẫn chẳng biểu lộ bất kỳ cảm xúc gì cả, chỉ trơ trơ ra, thậm chí còn chẳng hỏi rằng tại sao Thái Kinh lại biết chuyện Hoàng Thái Hậu muốn gặp hắn nữa! Dĩ nhiên là Ung Vương Gia chắc chắn đã cho người kè kè bên cạnh Hoàng Thái Hậu, chỉ cần có chút động tĩnh gì là biết ngay chính vì vậy mà mới sáng sớm thế này Thái Kinh đã lợi dụng bản thân là thượng cấp của Bàng Cảnh Huy đến đây để tìm mình muốn mình nói đỡ, điều này cũng chứng tỏ Thái Kinh là người của Ung Vương Gia.

Thái Kinh lúc này lại dướn người lên nhích vào gần Đỗ Văn Hạo hơn, suýt chút nữa thì cắn luôn cả vào tai của Đỗ Văn Hạo, thấp giọng thì thào nói: “Ung Vương Gia nói rồi! Chỉ cần hiển đệ làm tốt việc này, thì hiền đệ chắc chắn đã lập công to rồi đấy, nghe nói hiền đệ không những am hiểu về y thuật, mà còn cả các ngành nghề trong Hình Ngục cũng đều thông suốt, chỉ cần thành công thôi thì cái chức Đại Lý Tự Khanh là của hiền đệ rồi đó!”

Đại Lý Tự Khanh là người cầm quyền pháp luật cao nhất của thời nhà Tống bây giờ, còn có tên gọi là Viện Trưởng Viện Tối Cao Pháp Viện, quan lên đến chính tam phẩm. Nhưng Đỗ Văn Hạo hiểu rằng cho dù quan có đến nhất phẩm đi chăng nữa, thì cũng không thể nào bằng được chiếc đầu trên cổ của hắn. Chính vì vậy mà khi nghe Thái Kinh nói xong, hắn vẫn cứ ngây ra như củ đậu, chẳng nói chẳng rằng.

Thái Kinh thấy vậy thì sững người kinh ngạc, nhưng ông ta quyết không chịu thua, lại lân la đến gần bên Đỗ Văn Hạo lựa lời nói: “Hình như hiền đệ không có hứng thú gì với Đại Lý Tự Khanh đúng không? vậy thì Ngự Sử Trung Thừa Đại Phu thì sao hả? Mặc dù bây giờ Ngự Sử Đại Phu đang còn trống, chưa có ai lên đảm nhiệm, nhưng nếu như hiền đệ có hứng thú với cái chức này. thì Ung Vương Gia cũng sẽ cho hiền đệ làm, cực kỳ dễ dàng!”

Ngự Sử Đại phu là người đứng đầu trong Ngự Sử Đài, quan chức là tòng nhị phẩm. Ngự Sử Đài thời nhà Tống tương đương với chức Viện Trưởng Viện Kiểm Sát tối cao kiêm ủy Viên Quốc Hội Đảng Trung Quốc bây giờ, nhưng quyền lực lại lớn hơn bây giờ rất nhiều, Ngự Sử Đại Phu có thể tấu trình bới móc cả Tể Tướng, và Tể Tướng một khi mà bị Ngự Sử Đại Phu bới móc thì chỉ có nước cáo quan về hưu, và Phó Tể Tướng có thể lên thay, còn Ngự Sử Trung Thừa Đại Phu hay còn gọi là Ngự Sử Trung Thừa thì có thể thăng lên chức Phó Tể Tướng Chấp Chính, chính vì lý do này mà vị trí của Ngự Sử Trung Thừa là vô cùng quan trọng, và họ thường là tâm phúc của Tể Tướng.

Chức vụ này dĩ nhiên là có sức lôi cuốn hơn Đại Lý Tự Khanh rất nhiều, nhưng đối với Đỗ Văn Hạo mà nói thì nó vẫn không quan trọng bằng cái đầu trên cổ của hắn. Chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo vẫn chỉ im lặng, mỉm cười không nói.

Thái Kinh thấy thái độ của Đỗ Văn Hạo vẫn cứ dở dở ương ương, chẳng ra đâu vào đâu cả, ông suốt ruột quá liền đưa hai tay xoa xoa vào nhau, hạ quyết tâm nói: “Hiền đệ! Nếu như hiền đệ vẫn chưa vừa ý với cái chức Ngự Sử Trung Thừa, thì ngu huynh mạo muội hành sự thay cho Ung Vương Gia, để cho hiền đệ chức Xu Mật Phó Sử, hiền đệ thấy thế nào?”

Xu Mật Phó Sử còn có tên gọi là Tri Xu Mật Viện Sự, quan chính nhị phẩm, là Phó Viện Trưởng của Xu Mật Viện. Xu Mật Viện là cơ quan quân sự tối cao của thời nhà Tống. Viện Trướng bao gồm tả hữu Xu Mật Sử đảm nhiệm. Thời nhà Tống thì những quyết sách quan trọng nhất đều gọi là ‘Chấp Chính’ do Tể Tướng, Phó Tể Tướng, Xu Mật Sử (quan Võ), Xu Mật Phó Sử cùng đảm nhiệm . Những người này tương đương với Thường ủy Chính Trị Trung Ương Quốc Gia, chỉ nghe lệnh Hoàng Đế. Còn ngoài ra không cần phải nghe lệnh người nào khác. Tất cả các việc quốc gia đại sự đều do Hoàng Đế triệu tập mấy nhân vật này đến bàn bạc và giải quyết, dĩ nhiên Hoàng Đế là người có quyết định cuối cùng.

Đỗ Văn Hạo đã đến đời nhà Tống được hơn năm nay rồi, quan cũng làm lên đến chính tứ phẩm Đề Hình quan, nên hắn cũng khá hiểu về bộ máy chính quyền của nhà Tống, dĩ nhiên biết rằng Xu Mật Phó Sử là chức quan to và quan trọng như thể nào, sự thu hút và sức lôi cuốn của nó e rằng khó làm cho người thường cưỡng lại nổi. Đỗ Văn Hạo cũng là một người bình thường, nên dĩ nhiên hắn cũng bị dao động bởi lời mời chào béo bở này.

Chính vì vậy mà hắn liền quay sang Thái Kinh nhếch môi lên cười một cái, nhưng rốt cuộc vẫn chỉ là cười chứ không nói, bởi vì nói gì thì nói cái đầu của hắn là quý hơn tất cả.

Hành động này của Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên không thể thoát khỏi ánh mắt như cú vọ của Thái Kinh, ông ta nắm luôn thời cơ, nở một nụ cười gi­an xảo, sau đó rút ở trong người ra một tấm thiệp rồi cung kính dâng lên cho Đỗ Văn Hạo, tiếp đó lại chỉ vào gánh Đỗ lễ đặt ở góc tường, cười nói: “Đây là một chút quà mọn của Ung Vương mong hiền đệ nhận lấy!”

Đỗ Văn Hạo liền tiếp lấy tấm thiệp, dò xét những món quà ghi trên đó, hắn không ngờ Ung Vương lại tặng hắn những món đồ quý hiếm và đắt đỏ như vậy. Ngoại trừ vàng bạc mỗi thứ hai trăm lạng ra, còn có trân châu mã não, lụa tơ tằm nhiều không kể xiết. Đỗ Văn Hạo xem xong thì sợ hãi đòi trả quà lại ngay lập tức: “Người ta có câu không có công thì không nhận quà, tiểu đệ vẫn còn nợ Ung Vương Gia một mối nhân tình nữa, sao lại có thể nhận quà của Vương Gia được cơ chứ!”

Thái Kinh nghe vậy lại cười lên bí hiểm nói: “Chút tiền mọn này thì có đáng là bao, chờ hiền đệ giúp cho Vương Gia hoàn thành sự việc rồi, thì hiền đệ sẽ ngồi vào cái ghế Xu Mật Phó Sử, đến lúc đó hiền đệ muốn hô phong hoán vũ thế nào thì cũng chẳng có ai dám ho he đến nửa lời! Khi đó muốn gì được nấy, chỗ quà mọn này có khác gì là hạt cát trong sa mạc!”

Đỗ Văn Hạo liền nói: “Vậy nhưng nếu như Hoàng Thái Hậu nhất định không nghe theo lời khuyên của tiểu đệ thì làm sao đây?”

“Ung Vương Gia cũng đã nói rồi chỉ cần hiền đệ cố gắng hết sức mình là được, ông cha ta có câu mưu sự tại nhân thành sự tại trời mà! Chỉ cần thành công, thì hiền đệ muốn gì được nấy! vậy nhưng….” Thái Kinh cố tình kéo lê cái giọng lưỡi của mình ra nói: “Ung Vương Gia là người vô cùng xem trọng những người có trí nghĩa. Ung Vương là người độ lượng, thậm chí không hề câu nệ tiểu tiết, vậy nhưng đối với những người không trọng chữ tín, thì dĩ nhiên Ung Vương cũng không thể nào bỏ qua dễ đàng đâu. đây cũng là bản tính của Ung Vương, chỉ cần tiếp xúc nhiều là hiền đệ sẽ hiểu được thôi!”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì giật thót tim, mặc dù những lời nói của Thái Kinh đã vô cùng hàm xúc rồi, nhưng hắn vẫn nghe ra được ẩn ý trong câu nói của ông ta. Như vậy cũng có nghĩa là nếu như bản thân hắn không nghe lời, không chịu quy thuận Ung Vương Gia, thì đến lúc đó Vương Gia sẽ tính sổ với hắn, ngay cả cái chuyện hắn uy hiếp Vương Gia cũng bị vạch trần ra hết, đây hoàn toàn không phải là chuyện đùa, Ung Vương là một Vương Gia, bất kể sau này có làm được Hoàng Thượng hay không, nếu Ung Vương mà muốn giết hắn thì dễ dàng như bóp chết một con kiến vậy.

Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ không biết mình nên theo phe bên nào? Cái này cũng cần phải suy nghĩ cho kỹ mới được.

Người nào kế vị Tống Thần Tông lên làm Hoàng Đế ấy nhỉ? Rốt cục là em trai kế nghiệp anh lên làm vua hay là con nối nghiệp cha lên làm Hoàng Đế đây? Đỗ Văn Hạo chẳng có chút ấn tượng gì về gi­ai đoạn lịch sử này cả, hắn chỉ nhớ thời Bắc Tống có một ông vua thư pháp rất giỏi, vẽ cũng rất cừ, ông ta còn sáng tạo ra một loại thư pháp mới có tên Sấu Kim Thể (một loại thư pháp nét chữ thanh mảnh nho nhã), sau đó bị Hoàn Nhan Tông Bật của Đại Kim bắt đi. Đại Kim? Hừm hình như bây giờ Đại Kim vẫn chưa xuất hiện, chỉ có mỗi Đại Liêu thôi, như vậy có nghĩa là vị lục Hoàng Tử này không phải là ông vua bị bắt Tống Huy Tông đen đủi kia, còn vị Ung Vương này thì lại càng không phải.

Vậy thì rốt cuộc ai là người kế thừa ngôi vua nhỉ? Đỗ Văn Hạo lúc này, mới cảm thấy hối hận vì đã không chịu khó đọc sách lịch sử, bây giờ mà hắn có một quyển sách lịch sử của thời hiện đại trong tay thì chắc chắn là hắn đã phát tài rồi.

Thái Kinh thấy Đỗ Văn Hạo chần chừ do dự, lúc thì trầm ngâm suy nghĩ, lúc thì mỉm cười một mình cứ như bị hâm vậy. Thái Kinh thấy vậy liền thấp giọng nói: “Hiền đệ! Lời nói ban nãy của ngu huynh hiền đệ thấy thế nào?”

Đỗ Văn Hạo cũng biết Ung Vương bây giờ đang cố tình ép hắn nếu như hắn ra tay giúp đỡ Ung Vương thì tiền đồ vô lượng, vinh hoa phú quý hưởng không bao giờ hết. Còn nếu không giúp đỡ Ung Vương thì chắc chắn hắn sẽ bị tru di cửu tộc. Ai bảo hắn uy hiếp em trai của Hoàng Thượng làm con tin cơ chứ, không những vậy lại còn để lại vết tích trên cổ của một trong hai người nữa.

Làm thế nào bây giờ?

Đỗ Văn Hạo liếc sang nhìn Thái Kinh.

Thái Kinh thấy vậy liền mỉm cười khẽ nói: “Thực ra thì Ung Vương gi­ao cho hiền đệ nhiệm vụ cũng chẳng có gì là nặng nề cho lắm, chỉ là khuyên bảo Hoàng Thái Hậu chỉ định Ung Vương lên làm người kế thừa là được rồi! Chi cần hiền đệ chịu mở miệng, việc thành công hay không thì tất cả đều trông vào số trời! vẫn là câu nói đó, chỉ cần hiền đệ cố hết sức là được!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền nở một nụ cười miễn cưỡng, nhưng vẫn im lặng không nói.

Thái Kinh thấy vậy lại trườn người đến bên cạnh Đỗ Văn Hạo, cố gắng ghìm giọng mình thấp nhất có thể, như tiếng muỗi vo ve bên tai hắn: “Lúc trước ngu huynh cũng đã nói rồi. hiền đệ cũng biết đấy, bây giờ cũng chỉ có mỗi ngu huynh và hiền đệ! Ngu huynh cũng đem hết lòng dạ của mình ra nói cho hiền đệ biết, việc kế thừa ngôi vị này thực ra cũng chẳng có liên quan gì nhiều đến chúng ta cho lắm! Chúng ta chỉ là quan trong triều, vậy nhưng nếu chúng ta giúp đỡ Ung Vương thì những ngày về sau chúng ta sẽ sống sung sướng hơn, hiền đệ thấy ta nói có đúng không? Bây giờ chỉ có mỗi Ung Vương là hứa hẹn cho chúng ta chức tước, chỉ có thằng ngu mới không nhận, hiền đệ thấy ta nói đúng không! Lẽ nào hiền đệ lại đi trông mong vào cái vị lục Hoàng Tử kia cho hiền đệ ngồi lên chức quan cao như vậy hay sao?”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì cũng thấy trong lòng dao động dữ dội, bởi những lời nói của Thái Kinh là hoàn toàn đúng, ai làm Hoàng Thượng thì có liên quan quái gì đến hắn chứ. Vậy nhưng nếu như mà hắn đứng ở giữa không cần phải mạo hiểm gì cũng được vô vàn cái lợi, thì việc gì mà không làm cơ chứ! Bản thân hắn cũng chỉ nói vài lời tốt cho Ung Vương trước mặt Hoàng Thái Hậu. Như vậy cũng chẳng có gì là nguy hiểm cho lắm. Vì để có được cái chức Xu Mật Phó Sử thì mạo hiểm cũng là đáng lắm! Hơn nữa, bản thân mình cũng biết Hoàng Thái Hậu cũng chẳng phải là loại người độc ác, ra tay tàn bạo. Hoàng Thái Hậu còn được mình cứu mạng qua nữa là, chắc là sẽ không vì mình khen con trai bà ấy vài câu mà bà ấy cắt đầu mình đâu.

Mình thì đã có Hoàng Thái Hậu là hậu thuẫn cho rồi. Cái ô dù này đủ to để che chở cho mình, cho dù về sau Ung Vương không thể lên làm Hoàng Đế, mà để cho lục Hoàng Tử kế vị thì mình cũng lại có công cứu mạng cho hai mẹ con của lục Hoàng Tử, nhất là Chu Đức Phi nương nương, hơn nữa mình còn cứu cả Hoàng Hậu nữa, đệ tử Tiền Bất Thu của mình còn dùng Hoàng Thủ Thang cứu tính mạng của lục Hoàng Tử. Mấy mạng người này gộp lại thì làm gì không hơn với cái mạng nhỏ này của mình chứ, cho dù là có là lấy công chuộc tội, thì mấy cái công đó của mình cũng đủ chuộc cả đống tội rồi, về sau chắc lục Hoàng Tử sẽ không làm khó dễ mình đâu.

Nghĩ thông suốt việc này rồi thì Đỗ Văn Hạo cũng cảm thấy bản thân mình nhẹ nhõm đi một chút, vậy nhưng rốt cuộc ai làm Hoàng Đế thì hắn vẫn không biết.

Đột nhiên, Đỗ Văn Hạo nhớ lại một việc, đó chính là hắn xuyên việt vượt thời gi­an quay về quá khứ, không biết có làm ảnh hưởng gì tới kết quả của lịch sử hay không? Ví dụ như, hắn bây giờ giết chết Hoàng Đế,hoặc là nghiên cứu thành công một loại vũ khí hủy diệt cả Đại Liêu, Tây Hạ thống nhất Trung Quốc, thậm chí còn chặt chém Thành Cát Tư Hãn nữa. Vậy thì các đời Nguyên, Minh sau này sẽ không có nữa!

Đây là một ý nghĩ làm cho người ta cảm thấy nhộn nhạo vô cùng, nhưng mà theo tình hình trước mắt thì bản thân hắn vượt thời gi­an quay về đây cũng chẳng làm cho sự kiện lịch sự to lớn nào thay đổi cả, lịch sử vẫn cứ trôi đi theo cách mà nó đã trôi mà thôi.

Nếu mà như vậy. thì cho dù mình có khen ngợi Ung Vương trước mặt Hoàng Thái Hậu, thì lịch sử cũng không thể vì hành động này của mình mà thay đổi được, vậy thì mình việc gì phải lo lắng cơ chứ, đây vốn thuộc về vòng quay của lịch sử, tất cả đều phát triển theo hướng mà nó đã định sẵn, cho dù mình có làm gì quá đà đi chăng nữa thì lịch sử không thể vì thế mà thay đổi.

Cuối cùng Đỗ Văn Hạo cũng đã cởi bỏ được những khúc mắc ở trong lòng.

Đỗ Văn Hạo nghĩ tới đây lại bắt đầu nghĩ về Ung Vương, nhớ lại lúc hắn cầm đao uy hiếp Tào Vương, thì Ung Vương vẫn vô cùng trấn tĩnh, sau đó còn yêu cầu mình để ông ta làm con tin thay cho em trai của mình, dưới sự uy hiếp của ngọn đao sắc lạnh như vậy mà ông ta không hề e sợ, thậm chí còn mỉm cười chấp nhận nguy hiểm. Hành động này của ông đúng là hơn người, không những thế Ung Vương lại là một người rất có uy tín, nói một là một hai là hai. Ung Vương đã nói là không làm khó mình, quả nhiên mấy ngày hôm nay đúng là không có người đến làm phiền mình. Vó ngựa của Đại Kim sắp vùng lên đánh chiếm Đại Tống đến nơi rồi, Đại Tống đúng là đang rất cần một vị lãnh tụ ưu tú.

Lại quay ra nghĩ đến lục Hoàng Tử. Người thì mới chỉ có mười tuổi, nhưng đã nổi tiếng là một đứa nghịch ngợm có tiếng ở trong cung, lúc thì bày trò hại người này, khi thì đầu trò chơi người khác, cũng chẳng phải là người thủ nguyên tắc, lại chẳng có phong cách của một vị lãnh, tụ tài năng gì cả. E rằng lại trở thành một tên Tống Huy Tông vô tích sự chỉ biết thêu hoa dệt gấm, làm thơ làm thẩn, chứ chẳng có tài cán gì cả.

Hơn nữa, lục Hoàng Tử bây giờ cũng chỉ mới mười tuổi, hiển nhiên không thể nào chấp chính được, vậy thì sẽ do Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính rồi. Còn mình thì sau khi tiếp xúc với Hoàng Thái Hậu thì biết được bà là một người nhân hậu, tính tình vô cùng nhu mì, yếu đuối, chẳng có chủ kiến gì cả, để một người phụ nữ yếu ớt, không quyết đoán như vậy lên cầm trịch cả một đất nước thì đúng là đáng lo.

Cho dù Hoàng Thái Hậu không muốn buông rèm chấp chính, lập một đại thần khác lên phò tá, các vị đại thần khác thì không biết chứ. Thái Kinh chắc chắn sẽ ngồi vào cái chức đó rồi hơn nữa tên Thái Kinh này lúc nãy còn khua mồm múa mép nói mình này nọ, cũng là một tên vô cùng đáng ghét, nếu như để hắn ta lên làm Tể Tướng, thì những năm tháng sau này của mình e rằng….

Trong lòng của Đỗ Văn Hạo bây giờ như nổi phong ba bão táp, sóng vỗ tràn bờ, bao nhiêu ý nghĩ hỗn loạn vẩn vơ trong đầu hắn.

Sau khi nghĩ kỹ, Đỗ Văn Hạo thấy sự việc cũng không đến nỗi tồi tệ như hắn nghĩ, liền chắp tay nói: “Nếu như Ung Vương đã xem trọng tiểu đệ như vậy, thì tiểu đệ sẽ cố hết sức mình nói vài câu vói Hoàng Thái Hậu, để Ung Vương có thể đăng cơ làm Hoàng Đế!”

“Vậy thì tốt quá rồi!” Thái Kinh nghe thấy Đỗ Văn Hạo nói vậy thì vô cùng vui mừng, đưa tay lên vỗ vỗ vào bả vai của Đỗ Văn Hạo nói: “Hiền đệ cứ việc yên tâm, ngu huynh có thể dùng cái đầu của mình ra để đảm bảo cho hiền đệ! Một khi sự việc thành công. Ung Vương đăng cơ làm Hoàng Đế, hiền đệ ít nhất cũng ngồi được lên chức Ngự Sử Đại Phu! Đây là cái chức mà Ung Vương đã định sẵn cho hiền đệ rồi đó! Còn cái chức Xu Mật Phó Sử, thì Ung Vương vẫn chưa nói cho ngu huynh biết, tại lúc nãy huynh tự ý hứa với đệ trước, vậy nhưng hiền đệ cứ yên tâm, chuyện này cũng không khó lắm! Chỉ cần hiền đệ chịu làm. thì cái chức đó sớm muộn cũng sẽ thuộc về hiền đệ! Ngu huynh bây giờ sẽ về bẩm báo với Ung Vương!”

Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ, bản thân mình bỗng nhiên trở thành một kẻ hám lợi,làm việc mà còn đòi quan, đòi chức như vậy Ung Vương chắc chắn sẽ có ấn tượng xấu về hắn. Tuy bây giờ ông ta có thể miễn cưỡng Đỗng ý, vậy nhưng sau này thì lại khó nói vô cùng. Thôi thì mình biết thân biết phận, có gì thì làm nấy, tốt nhất là không nên nổi quá nghĩ vậy liền đưa tay lên xua xua nói: “Không, không cần đâu! Nguyên Trường huynh không cần nói vói Vương Gia đâu. Tiểu đệ cũng không mấy hứng thú với mấy cái chức quan cao đó cho lắm! Tiểu đệ chỉ muốn làm một Ngự Y là được rồi, được làm Ngự Y là mãn nguyện lắm rồi!”

Thái Kinh không ngờ Đỗ Văn Hạo lại có hành động như vậy. bất kỳ quan chức nào hắn cũng không muốn thì sững người lại, bởi vì đây là lần đầu tiên ông ta gặp người như vậy, trong lòng bất giác cảm động, lại vỗ vỗ lên vai Đỗ Văn Hạo nói: “Hiền đệ cứ yên tâm! Mọi chuyện đã có ngu huynh đứng ra lo liệu hết rồi, hiền đệ chắc chắn sẽ có quan để làm, có ngựa để cưỡi! Ngu huynh xin được phép cáo từ, có tin tức gì hiền đệ cứ cho người đến gọi cho huynh biết là được!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy mỉm cười nói: “Vâng! CungN­guyên Trường huynh!”

Chương 380: Hoàng Thái Hậu triệu kiến

Sau khi Thái Kinh bước ra khỏi phòng, thì Đỗ Văn Hạo cũng đi theo ra cửa tiễn. Thái Kinh nghe nói Bàng Cảnh Huy muốn ngồi lại nói chuyện tâm sự với con gái của mình, nên ông ta liền về trước một mình.

Khi Thái Kinh bước lên kiệu chắp tay lên tiễn biệt Đỗ Văn Hạo, bất giác ngẩng đẩu lên nhìn phủ đệ của hắn, thấy trước công phủ trống rỗng không có gì cả. Thái Kinh động lòng thở dài nói: “Hiền đệ à! Hiền đệ vốn là một trọng thần trong triều, vậy mà phủ đệ của hiền đệ sao lại để thô sơ quá như vậy, đến cả tấm biển treo trước công phủ cũng không có, chờ cho sau này hiền đệ lên chức làm một phủ đệ mới, nếu như hiền đệ không chê cười tài thư pháp của ngu huynh, thì ngu huynh, xin được đích thân viết tặng hiền đệ một tấm biển! ”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì sững người sửng sốt, hắn nhớ tới chỉtiết trong tiểu thuyết <Thủy Hử> Ngô Dụng vì muốn cứu Tống Gi­ang tại Gi­ang Châu nên đã nghĩ ra một kế cho người mạo danh thư pháp của Thái Kinh, trong đó có nói rằng thời đó thịnh hành bốn loại thư pháp, bao gồm Tô Đông Pha, Hoàng Lỗ Trực, Mễ Nguyên Trương và Thái Kinh Thái Sư. Người ta gọi tắt là “Tô, Hoàng, Mễ, Thái” mệnh danh là tứ tuyệt của đời nhà Tống. Trong đó thì thư pháp của Thái Kinh là đẹp nhất, ngay cả Mễ Nguyên Chương cũng cảm thấy thư phép của mình còn kém Thái Kinh tận mấy bậc. Chính vì vậy mà Kinh Thành Phủ Doãn Thái Kinh mới thấy mình thư pháp tốt, muốn viết tặng mình một tấm biển treo đây mà. Như vậy cũng có nghĩa là vị Thái Kinh này là một đại gi­an thần rồi.

Nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo liền khách khí chắp tay ôm quyền đáp: “Nghe tiếng thư pháp của Nguyên Trường huynh tuyệt thế vô song, là một kỳ tài hiếm thấy trong thiên hạ, là người đứng đầu trong tứ tuyệt Tô Hoàng Mễ Thái, được Nguyên Trường huynh đích thân cất bút viết biển cho thật là vinh dự cho tiểu đệ vô cùng!”

Viên Kinh Thành Phủ Doãn Thái Kinh này đúng là đại gi­an thần Thái Kinh Thái Sư sau này, lúc này thì thư pháp của ông ta đã nổi tiếng khắp cả nước, được rất nhiều người mến mộ. chính vì vậy mà khi nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy. Thái Kinh vô cùng đắc ý, chắp tay lên nói: “Hiền đệ quá khen rồi! Nếu hiền đệ muốn vậy, thì ngu huynh cũng vinh dự vô cùng, ngu huynh xin được phép cáo từ!”

Thái Kinh nói xong rồi bước lên kiệu, chiếc kiệu liền đong đong đưa đưa rời khỏi phủ đệ của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nhìn theo chiếc kiệu dần khuất bóng, trong lòng chán nản vô cùng. Hắn không ngờ bản thân mình xuyên thời gi­an quay về thời nhà Tống, lại còn xưng huynh đệ với tên đại gi­an thần Thái Kinh, hắn tự thấy kinh tởm bản thân mình.

Đỗ Văn Hạo sau khi tiễn Thái Kinh ra về liền quay về phòng của mình. Tuyết Phi Nhi và Kha Nghiêu lúc này vẫn ngồi trong phòng đợi hắn, hai người vẫn nhất định phải phân tài cao thấp. Đỗ Văn Hạo lúc này làm gì còn tâm trí đâu mà luận bàn y học, rồi nghe hai người sủa gâu gâu nữa, sau khi bảo hai người quay về đọc sách hôm sau lại đến. Hắn lại uể oải chán chường ngồi xuống ghế. Tuyết Phi Nhi và Kha Nghiêu thấy hắn có tâm sự, thì cả hai không dám làm phiền gì thêm nữa, liền lặng lẽ cáo từ ra ngoài.

Đỗ Văn Hạo lúc này ruột gan rối bời. Tâm trạng đầy mình, hắn cứ đi đi lại lại trong thư phòng của mình ngước đầu lên trời mong ngóng Thẩm sư gia của mình quay về, vậy nhưng quá trưa rồi mà vẫn không thấy ông ấy đâu cả.

Sau khi dùng xong bữa trưa, thì có một đứa người ở chạy vào thông báo cho Đỗ Văn Hạo biết có vị khách quý đến thăm hắn, và người này không phải ai khác chính là lão thần Tư Mã Quang.

Đỗ Văn Hạo vừa nghe có Tư Mã Quang đến thì vội vã chạy ra ngoài đón, cũng may mà khi nãy hắn mặc quan bào chưa kịp thay ra. Chính vì vậy mà hắn không cần phải thay quan phục lần nữa.

Khi vào đến phòng khách, Đỗ Văn Hạo đã trông thấy Tư Mã Quang được quản gia Tư Mã Đạo dìu đỡ cầm gậy đứng lom khom trong phòng khách. Khi trông thấy Đỗ Văn Hạo đi vào Tư Mã Quang liền chống gậy làm điểm tựa, rồi đưa hai tay lên chắp tay nói: “Đỗ lão đệ! Lão đệ đã về rồi đó à?”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền vội vã tiến tới dìu đỡ Tư Mã Quang: “Tư Mã đại ca! Đại ca cứ ngồi đi. Bệnh của đại ca vừa mới lành không nên đứng lâu quá. như vậy có hại cho sức khỏe lắm! Đệ đệ phúc chẩn cho đại ca một cái đã!”

Sau khi dìu Tư Mã Quang ngồi xuống xong xuôi đâu đấy, thì Anh Tử đã bưng lên một bình trà thơm phức.

Đỗ Văn Hạo sau đó cũng ngồi xuống rồi bắt lấy cổ tay của Tư Mã Quang ngưng thần chẩn mạch, xong đâu đấy hắn lại lên tiếng hỏi những cảm giác thường ngày của ông ta, ăn uống, ngủ nghỉ, đại tiểu tiện ra sao. Đỗ Văn Hạo phát hiện ra Tư Mã Quang tuy là không có hiện tượng tế bào ung thư di căn, nhưng sức khỏe của ông khôi phục không được tốt cho lắm.

Vậy nhưng đối với một ông lão bị dự đoán chỉ sống được có ba tháng thôi, thì sau lần phẫu thuật đó ông đã sống được hơn một năm rồi, và đó cũng là một thành công không nhỏ.

Tư Mã Quang cùng không để ý đến tình trạng sức khỏe của mình, ông ngưng thần ngầm nhìn Đỗ Văn Hạo đang ngồi xem bệnh cho mình, quản gia Tư Mã Đạo sau khi thấy Đỗ Văn Hạo đã phúc chẩn xong, liền cúi người xuống hỏi: “Ngự Y đại nhân, không biết tình hình căn bệnh lão gia của tiểu nhân..

“Lần trước ta có gửi Đông Trùng Hạ Thảo về cho Tư Mã đại ca, đại ca vẫn dùng chứ hả?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

“Vẫn dùng đều đều ạ! Theo như lời dặn dò của đại nhân, lão gia tiểu nhân đều làm theo hết, ngay cả những phương thuốc ngày trước đại nhân kê cho, lão gia vẫn uống đó ạ!” Tư Mã Đạo cúi người đáp.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền gật gật đầu nói: “Bệnh tình của Tư Mã đại ca bây giờ đã không còn dấu hiệu nguy hiểm gì nữa rồi, nhưng đại ca tuổi tác đã cao, cộng thêm bao năm lao lực vất vả, trước ca phẫu thuật lần trước thì sức khỏe đã rất yếu rồi, chính vì vậy mà chính khí trong cơ thể đã yếu lại càng yếu, lúc này cần phải cẩn thận điều dưỡng, không được phép lao tâm tổn tứ!”

Nói đến đây, Đỗ Văn Hạo ngập ngừng một lúc, rồi đưa tay lên vỗ vỗ vào bàn tay của Tư Mã Quang rồi nói: “Tư Mã đại ca! Sức khỏe là của mình, mình phải biết trân trọng nó! Nói thực lòng, khả năng phục hồi sức khỏe của đại ca không đúng như sự hy vọng của tiểu đệ! E rằng trong một năm gần đây, Tư Mã đại ca cũng vất vả nhiều rồi đúng không?”

Tư Mã Đạo đứng bên cạnh nghe vậy liền nói: “Đúng vậy đó! Sức khỏe của lão gia mới bình phục được có vài tháng thôi mà lão gia đã mò dậy đi duyệt lại bộ sách của mình, ngày nào cũng bận đến tận nửa đêm, người nhà khuyên thế nào cũng không được! ”

Đỗ Văn Hạo cũng biết Tư Mã Quang đang làm bộ sách vô tiền khoáng hậu <Tư Trị Thông Giám> nên nói: “Tư Mã đại ca! Bây giờ là lúc mà đại ca phải chú trọng đến sức khỏe của mình, nếu như đại ca mà cố quá, thì e rằng….!”

Tư Mã Quang nghe một người tung, một người hứng như vậy liền lắc lắc đầu nói: “Thôi được rồi! Chuyện này để sau hẵng nói, nghe nói lần này lão đệ về đây nên ta cũng rất đỗi vui mừng! Chính vì vậy mà hôm nay ta đến đây chào lão đệ một câu, còn một việc nữa vô cùng quan trọng muốn bàn vói lão đệ!” Tư Mã Quang nói xong, liền quay sang Tư Mã Đạo ra hiệu.

Tư Mã Đạo trông vậy biết ý liền cúi người đi ra bên ngoài khép cửa lại.

Tư Mã Quang nói: “Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu vừa mới băng hà, bây giờ trong triều đang vì chuyện này mà loạn như cào cào, không biết lão đệ có biết không vậy?”

“Cũng biết một chút chút!” Đỗ Văn Hạo vừa nghe đến đây thì lập tức trở nên cảnh giác vô cùng, cho dù hắn rất tin vào nhân phẩm của Tư Mã Quang, nhưng bất luận thế nào thì cẩn thận không bao giờ là thừa cả, ông cha ta có câu cẩn tắc vô áy náy mà lại.

“ừm! Theo như truyền thống của các triều đại, thì người kế vị ngôi báu nên là lục Hoàng Tử mới phải, vậy nhưng đúng vào lúc này thì đột nhiên Ung Vương tự nhiên đến nhúng tay vào. Ung Vương còn rêu rao khắp nơi là ông ta mới là người có đủ tư cách ngồi vào ngôi báu này! Hành động này của Ung Vương chẳng khác gì là khinh thường liệt tổ liệt tông dưới suối vàng! Khụ khụ khụ…!”

Vừa nói đến đây thì Tư Mã Quang liền ôm chặt lấy chiếc gậy chống, gập hẳn người xuống ho khù khụ không ngừng, nghe vô cùng đau khổ.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền lập tức hiểu ngay. Tư Mã Quang đứng về phe ủng hộ lục Hoàng Tử. Chính vì vậy mà hắn cũng không dám nói chen vào, chỉ im lặng ngồi chờ Tư Mã Quang ho xong xem ông ta nói như thế nào. Tư Mã Quang sau một hồi khù khụ xong liền cầm lấy tách trà đưa lên miệng nhấp lấy một ngụm, rồi nói tiếp: “Vân Phàm lão đệ à! Lão ca ta lần này đến đây chỉ muốn cầu xin đệ một việc! Việc này lão đệ phải nhất quyết đông ý với lão ca. Ta nghĩ kỹ rồi, chỉ có mỗi một mình lão đệ mới làm nổi việc này! Nếu như không làm được, để cho cái tên lòng lang dạ sói Ung Vương Gia kia được lợi, thì đúng là có lỗi với liệt tổ liệt tông!”

Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ, cái này thì có gì cơ chứ? Liệt tổ liệt tông ở đây bao gồm cả Tống Thái Tông, ông ấy không phải cũng là người phản đối truyền thống cha truyền con nối hay sao, ông ấy cũng là em trai lên ngôi thay cho anh trai mình đấy thôi! Ông ấy lên ngôi làm việc cũng tốt đó thôi, tại sao cứ phải bảo vệ cái truyền thống vớ vẩn thế nhỉ?

Nhưng mình nghĩ cũng chỉ nghĩ vậy thôi, nói ra thì có để mà làm gì. Đỗ Văn Hạo lại ngồi im lặng nghe Tư Mã Quang chống gậy thở dốc một hồi, rồi mới nặng nề lên tiếng: “Bâv giờ theo tình hình trước mắt thì chỉ có mỗi Hoàng Thái Hậu là người quyết định ai là người kế ngôi! Vậy nhưng tính tình của Hoàng Thái Hậu lại quá ư nhân từ, phúc hậu, yếu đuối mà không có chính kiến, e rằng không chống lại nổi sự nham hiểm của Ung Vương! Lão ca hôm nay vốn muốn gặp mặt Hoàng Thái Hậu để thương lượng, nhưng Hoàng Thái Hậu sau khi xuất cung thì đã hạ chỉ, không có truyền chỉ thì không được phép có ai được tự tiện vào tiếp kiến cả, ài!!”

Đỗ Văn Hạo trong lòng cũng hiểu, Hoàng Thái Hậu muốn tránh không muốn gặp ai. Vì sự việc bây giờ vô cùng phức tạp, đây cũng là bệnh của phụ nữ, khi gặp những chuyện phức tạp, thì phản ứng đầu tiên là chạy trốn, không muốn đối mặt một cách trực diện vấn đề. Cho dù việc này rất khó mà trốn tránh được, nhưng phụ nữ vẫn cố tìm mọi cách để kéo dài thời gi­an, không muốn xử lý ngay.

Đỗ Văn Hạo liền nói: “Sau khi Hoàng Thượng băng hà, trước khi Hoàng Thái Hậu bế quan, tại sao đại ca và những người khác không tìm đến Hoàng Thái Hậu bàn bạc?”

“Sao lại không tìm cơ chứ!” Tư Mã Quang dậm chân xuống sàn bình bịch nói: “Hoàng Thượng vừa mới băng hà. Tả Thừa Tướng Vương Quái và lão ca đều lên thư tấu trình Hoàng Thái Hậu. Có xin Hoàng Thái Hậu làm theo truyền thống cha truyền con nối, chỉ định lục Hoàng Tử lên kế vị Hoàng Đế. Nhưng đúng vào lúc này thì Ung Vương đột nhiên xuất hiện, nói rằng bản thân mình muốn tiếp nối truyền thống của Thái Tông Hoàng Đế, kế vị huynh trưởng. Thái Kinh cùng với các vị đại thần khác đều ủng hộ Ung Vương, ta và các vị đại thần khác thấy vậy đều đến cầu cứu Hoàng Thái Hậu. Nói rằng việc này là không thể được, ngôi vị Hoàng Đế nhất định phải do Hoàng Tử kế thừa, đây mới là chính thống. Bây giờ trong triều đang loạn hết cả lên. Hoàng Thái Hậu thì có ý trốn tránh, chỉ định bốn vị đại thần chấp chính. Sau đó Hoàng Thái Hậu mượn cớ siêu độ cho Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu đóng cửa tụng kinh không gặp bất cứ ai cả, mãi đến tối hôm qua mới xuất quan!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền nói: “Vậy tối hôm qua sao đại ca không tấu trình thương lượng?”

“Ta có làm rồi, nhưng người của cả hai phe đều đứng đầy chật ở ngoài cổng, sau đó Hoàng Thái Hậu hạ chỉ nói rằng nếu người nào không có chỉ thì không cho gặp, thế là tất cả mọi người vì thế mà giải tán hết cả!” Tư Mã Quang lắc đầu nói.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy cười khổ nói: “Nếu Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ không có chỉ thì không vào gặp người được, vậy thì tiểu đệ cũng vậy thôi, tiểu đệ làm gì có chỉ mà vào thăm Hoàng Thái Hậu cơ chứ!”

“Lão đệ dĩ nhiên là có thể gặp được rồi! Hôm qua khi Hoàng Thái Hậu xuất quan, câu đầu tiên nói là hỏi xem lão đệ đã về chưa? Hoàng Thái Hậu nói vậy thì lão đệ chắc chắn là sắp được Hoàng Thái Hậu triệu gặp rồi!” Tư Mã Quang nói.

Đỗ Văn Hạo nghe Tư Mã Quang nói vậy thì giật mình cái thót, cũng giống với Ung Vương Gia. Bên cạnh Hoàng Thái Hậu cũng có người của lục Hoàng Tử. Cả hai bên đều Đỗng thời nhận được tin tức này. Đỗ Văn Hạo vì vậy cảm thấy lo lắng hơn bao giờ hết. Nếu đã là như vậy thì lần nói chuyện này vói Tư Mã Quang mình phải vô cùng cẩn thận mới được. E rằng bên cạnh ông ta cũng có tai mắt của Ung Vương, một khi bọn chúng mà nghe ngóng được gì thì mình toi mất.

Chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo chỉ mỉm cười rồi đáp: “Có lẽ Hoàng Thái Hậu tìm tiểu đệ chẳng qua là muốn tiểu đệ xem bệnh cho người. Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu cùng lúc băng hà như vậy. Hoàng Thái Hậu chắc hẳn là buồn lắm. Chính vì vậy mà người mới tìm đến tiểu đệ để tiểu đệ điều chỉnh lại trạng thái tâm lý, cũng như sức khỏe mà thôi!”

“Như vậy thì ổn quá rồi còn gì nữa! Chỉ cần lão đệ gặp được Hoàng Thái Hậu nói chuyện thì mục đích của chúng ta thành hiện thực rồi! Lúc này Hoàng Thái Hậu cần một người ở bên cạnh giúp đỡ người trong sự phán đoán và lựa chọn, hơn nữa lão đệ đã từng cứu mạng Hoàng Thái Hậu, lại là một Ngự Y trụ cột ở trong cung, sau còn làm chức Câu Quản Thường Bình Thương, rồi lại thăng lên Đề Điểm Hình Ngục, ngoài ra lão đệ đều không ở trong kinh thành, quan hệ không rõ ràng với hai phe. Chính vì vậy mà Hoàng Thái Hậu mới triệu kiến lão đệ vào để hỏi ý kiến!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong chỉ cười khan lên đáp: “Ha ha! Tiểu đệ thì có ý kiến gì cơ chứ, tiểu đệ chỉ biết khám bệnh thôi! Những chuyện quốc gia đại sự thì tiểu đệ vẫn còn ngu muội lắm!”

Tư Mã Quang nghe vậy liền nghiêm nét mặt nhìn thẳng vào Đỗ Văn Hạo hỏi: “Ta chỉ hỏi lão đệ một câu thôi, lão đệ ủng hộ lục Hoàng Tử, hay là ủng hộ Ung Vương?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì trầm ngâm một lúc, rồi mới mỉm cười, hắn dùng một thái độ vô cùng thành khẩn nói với Tư Mã Quang: “Tư Mã đại lão ca! Nói thực lòng nhé, ai làm Hoàng Thượng thì trong lòng Hoàng Thái Hậu đã định sẵn hết cả rồi chỉ mấy ngày nữa thôi, chúng ta sẽ biết kết quả ngay ấy mà! ”

Tư Mã Quang nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy, liền cầm cây gậy chống trong tay đập xuống sàn kêu lên cồm cộp nói: “Đỗ đại lão đệ! Sao lão đệ lại khôn ba năm hồ Đỗ một giờ thế hả? Nếu như Hoàng Thái Hậu đã biết chắc ai làm Hoàng Thượng rồi, thì cũng không trốn trong cung bảy ngày không dám ra ngoài rồi! Và cũng không hạ chỉ không triệu kiến ai, thì người đó không được tự tiện vào! Điều này chứng tỏ rằng Hoàng Thái Hậu đang rất không có chủ kiến của nêng mình! Lúc này người đang cần một người có đủ khả năng chỉ điểm cho mình! Một khi chọn lựa sai lầm, thì gi­ang sơn Đại Tống sẽ loạn như cào cào! Một việc lớn như vậy! Lão đệ khụ khụ khụ !”

Tư Mã Quang nói đến đây lại ho lên khù khụ, càng lúc càng nặng thêm, ông mặt đỏ tía tai, ho đến rạc cả người trông vô cùng khổ sở.

Đỗ Văn Hạo trông thấy vậy liền vội lên tiếng nói: “Lão ca! Lão ca đừng nóng vội như vậy, có gì cứ từ từ nói!”

“Từ từ nói? Cứ từ từ thế này thì mọi việc hỏng bét hết cả! ” Tư Mã Quang chống cây gậy xuống đất, sau đó bắt đầu giảng dạy lên lớp cho Đỗ Văn Hạo nghe về lịch sử, về những điển tích ví dụ của những người chiếm ngôi đoạt vị cho Đỗ Văn Hạo nghe. Ngoài miệng ông ta cứ nói là không thể chờ được nữa, thời gi­an đang gấp gáp, là vàng là bạc. Vậy nhưng ông ta vẫn cứ thao thao bất tuyệt hơn nửa canh giờ liền. Mãi cho đến khi Đỗ Văn Hạo nghe đến đờ đẫn cả người rồi thì Tư Mã Quang mới ngừng lại lấy hơi, rồi lại nói tiếp: “Đỗ lão đệ! Lão đệ xem xem, con trưởng kế vị ngôi báu là lẽ thường tình, là chính thống, lại không loạn kỷ cương! Ta nói có đúng không hả?”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì gật đầu lia lịa, nhưng hắn nhớ tới việc mình đã hứa giúp đỡ Ung Vương kế vị ngôi báu. Nếu như bây giờ lại Đỗng ý giúp Tư Mã Quang thuyết phục Hoàng Thái Hậu để lục Hoàng Tử kế vị. Thì một khi tin Đỗn bại lộ ra ngoài để cho Ung Vương biết được, vậy thì kết cục của hắn vô cùng thê thảm. Hơn nữa Đỗ Văn Hạo lại thích Ung Vương lên kế vị hơn là lục Hoàng Tử. vì hắn cho rằng Ung Vương là người đứng đắn và thích hợp hơn. Chính vì vậy mà hắn không hề lên tiếng gì ủng hộ Tư Mã Quang cả.

Tư Mã Quang cũng nhận thấy Đỗ Văn Hạo không muốn dây dưa vào chuyện này, nên ruột lại nóng như lửa đốt nói: “Đỗ lão đệ! Đây mới là thời khắc quan trọng, chỉ có lão đệ mới cứu vớt được Đại Tống mà thôi! Bây giờ tất cả đều trông chờ hết cả vào lão đệ!”

Khi Tư Mã Quang vừa mới dứt lời, thì bên ngoài có người gõ cửa kêu công cốc.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền cau mày nói: “Vào đi!”

Đỗ Văn Hạo vừa mới dứt câu, thì cánh cửa mở ra kêu két lên một tiếng, sau đó là Anh Tử lấm lét bước vào, cúi người lễ phép nói: “Thiếu gia! Hoàng Thái Hậu hạ chỉ mời thiếu gia ra chính đường tiếp chỉ ạ!”

Đỗ Văn Hạo và Tư Mã Quang nghe vậy thì giật mình kinh hãi. Tư Mã Quang quăng luôn chiếc gậy ở trong tay mình xuống, ôm quyền lên trước mặt Đỗ Văn Hạo cầu xin: “Đỗ lão đệ! Hôm nay coi như lão ca cầu xin lão đệ đó! Mong lão đệ hãy vì gi­ang sơn xã tắc mà hành sự!”

Thánh chỉ đến rồi. Đỗ Văn Hạo nào dám chậm trễ làm mất thời gi­an, hơn nữa đây cũng là cơ hội cho hắn thoát khỏi cái cảnh lằng nhằng này, nên nghe Tư Mã Quang nói vậy cũng chỉ chắp tay lên một cái, sau đó vội vã ra chính đường.

Người đến tuyên chỉ là Tiêu công công, người hầu hạ thân cận nhất của Thái Hoàng Thái Hậu. Ông lúc này vẫn mặc áo tang, thấy Đỗ Văn Hạo đi ra liền cao giọng nói: “Hoàng Thái Hậu khẩu dụ! Truyền Đề Hình Quan Đỗ Văn Hạo vào cung tiếp kiến!”

“Thần tuân chỉ, đa tạ ân điển của Hoàng Thái Hậu!”Đỗ Văn Hạo tiếp chỉtạ ơn.

Đỗ Văn Hạo sau khi tiếp chỉliền đứng dậy cúi người nói: “Công công tuyên chỉvất vả quá, mời công công vào trong dùng tách trà!”

“Thôi không cần đâu! Hoàng Thái Hậu đang ngồi chờ chúng ta đó! Chúng ta cùng vào cung trước cái đã!” Tiêu công công lắc đầu đáp.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cúi đầu vâng lên một tiếng.

Đỗ Văn Hạo liền đưa mắt ra xung quanh, nhưng vẫn không trông thấy bóng dáng của Thẩm sư gia đâu cả. Lúc này hắn rất cần một người có thể cho hắn nghe ý kiến, vậy nhưng quân sư của hắn, trí đa tinh Ngô Dụng của hắn lúc này mãi vẫn chưa về, điều này làm cho Đỗ Văn Hạo đứng ngồi không yên.

Đỗ Văn Hạo sau đó cũng thay một bộ đồ tang lễ khoác lên người rồi đi theo Tiêu công công đến bên cỗ xe ngựa dừng ở ngoài cổng, sau khi lên xe kéo rèm xuống xong hết rồi Đỗ Văn Hạo mới quay sang Tiêu công công thấp giọng nói: “Tiêu công công! Thánh Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu rốt cuộc là vì sao mà băng hà vậy?”

“Ta cũng chẳng biết được, chẳng có bất kỳ dấu hiệu nào báo trước cho ta biết cả!” Tiêu công công thở dài nói: “Sáng sớm ngày hôm đó, Hoàng Thượng mới dùng bữa xong thì đột nhiên toàn thân run rẩy. Sau đó thì ngã xuống đất bất tỉnh nhân sự! Mọi người sợ quá cho gọi Thái Y vào. Khi Thái Y vừa đến nơi thì Hoàng Thượng đã tắt thở rồi! Đến cả di chiếu Hoàng Thượng cũng không kịp để lại nữa! ”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền thắc mắc nói: “Thế lúc đó có hiện tượng gì khác thường không?”

“Khi đó ta không có mặt tại hiện trường, lúc đó ta đang ở bên cạnh Thái Hoàng Thái Hậu. Khi đến nơi thì Hoàng Thượng đã băng hà rồi!” Tiêu công công buồn bã nói.

“Thái Hoàng Thái Hậu cũng cùng lúc đó toàn thân mềm nhũn ôm lấy miệng mình nằm bất tỉnh xuống đất! Mọi người khi đó đều sợ hãi vô cùng, sau khi khiêng người vào trong hậu cung, làm đủ mọi cách cũng không thể nào cứu chữa nổi! Thái Hoàng Thái Hậu cũng băng hà tiếp ngay sau đó!” Tiêu công công hai mắt vô hồn nói.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền gấp rút hỏi: “Thế triệu chứng của Thái Hoàng Thái Hậu khi đó ra sao?”

“Không có gì đặc biệt cả, chỉ ôm lấy miệng của mình sau đó nằm vật xuống không nói câu gì, hơi thở lúc được, lúc ngắt quãng, mãi đến trưa thì người quy tiên!” Tiêu công công đờ đẫn đáp.

“Thế có nôn ọe, đau đầu hay có những biểu hiện khó chịu, bực bội gì không?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

Tiêu công công ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Cái này thì dường như là không có, trông Thái Hoàng Thái Hậu khi đó như là đang nằm ngủ vậy, không có bất kỳ động tĩnh gì cả!”

“Thái Hoàng Thái Hậu đột nhiên ngất lịm bất tỉnh nhân sự, hay là do chóng mặt rồi ngất đến độ không có cảm giác gì?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

“Là đột nhiên ngất lịm!” Tiêu công công thấp giọng đáp.

“Khi trước Thái Hoàng Thái Hậu làm gì? Có hiện tượng khó chịu gì không?”

“Khi trước thì Thái Hoàng Thái Hậu còn đang trồng hoa ở trong vườn! ”

“Thái Hoàng Thái Hậu không ăn thứ gì chứ?”

“Không! Thái Hoàng Thái Hậu sáng nào cũng ra chăm sóc vườn cây hoa lá trong vườn của mình, sau đó mới dùng bữa sáng, nhưng ngày hôm đó thì người chưa kịp dùng bữa thì đã nghe được tin ác rồi!”

“Cũng không uống gì chứ? Ví dụ như thuốc chẳng hạn!”

“Không có! Mấy người của Ung Vương cũng đã kiểm tra lại vô cùng kỹ càng rồi, khi đó những cung nữ và thái giám theo hầu bên cạnh Thái Hoàng Thái Hậu cũng biết rõ. Thái Hoàng Thái Hậu sau khi tỉnh dậy liền đi ra vườn chăm sóc vườn hoa của mình, xong đâu đấy mới dùng bữa sáng. Nhưng hôm đó người đâu có kịp ăn gì đâu!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì trầm ngâm suy nghĩ một hồi, hiện tượng Hoàng Thượng đột nhiên băng hà thì đúng là khó đoán, nhưng các hiện tượng của Thái Hoàng Thái Hậu cho thấy bà dường như không phải là do trúng độc. Ở thời cô đại, chất độc chủ yếu là Thạch Tín. những chất độc khác đại loại như Hạc Đỉnh Hồng thực chất cũng là một dạng Thạch Tín mà thôi! Hiện tượng trúng độc của nó là buồn nôn, khó chịu trong người, nói chung là rất dễ nhận ra. Thái Hoàng Thái Hậu chết mà an lành như đang ngủ khác hẳn với hiện tượng trúng độc, hơn nữa sáng ra Thái Hoàng Thái Hậu vẫn chưa ăn gì. Chính vì vậy mình có thể loại trừ khả năng trúng độc.

Nhưng, hay là lại có người lợi dụng thuốc gây mê của mình để hại Thái Hoàng Thái Hậu? Đỗ Văn Hạo nghĩ đến đây thì lại phủ định ngay, vì thuốc gây mê của hắn trước mắt vẫn là dạng nước, phải uống vào mới có tác dụng. Nhưng Tiêu công công nói rằng Thái Hoàng Thái Hậu cả buổi sáng chưa ăn uống gì cả! Hơn nữa công hiệu của thuốc cũng khá chậm, chính vì vậy mà khả năng này hoàn toàn có thể loại bỏ.

Nhưng từ lời kể của Tiêu công công, thì các hiện tượng của Thái Hoàng Thái Hậu giống với hiện tượng nhồi máu cơ tim dẫn đến đột tử nhiều hơn. Có lẽ là do Thái Hoàng Thái Hậu bắt gặp Hoàng Thượng đột tử như vậy. Bà đau lòng quá đỗi nên mới dẫn tới hiện tượng nhồi máu cơ tim. Hiện tượng này ngay cả xảy ra trong thời hiện đại cũng khó mà dự liệu được, nếu không kịp thời cấp cứu thì e rằng cũng khó tránh khỏi cái chết. Chính vì vậy mà dù lúc đó mình có ở bên cạnh Thái Hoàng Thái Hậu thì e rằng cũng bất lực, bó tay chịu thua mà thôi.

Đỗ Văn Hạo nói: “Trước khi lâm chung Thái Hoàng Thái Hậu còn nói điều gì nữa không?”

“Không có! Vậy nhưng, trước đó Thái Hoàng Thái Hậu cứ nhắc tới Đỗ đại nhân suốt thôi! Khi đó Thái Hoàng Thái Hậu luôn cảm thấy trong ngực khó chịu, thấp thỏm bất an. Ta cũng đã khuyên Thái Hoàng Thái Hậu tuyên chỉ gọi đại nhân về triều! Nhưng Thái Hoàng Thái hậu nói đại nhân có liên quan tới Bạch Y Giáo, cùng với việc tự ý cầm quân làm cho Hoàng Thượng vô cùng khó chịu! Nếu khi đó mà gọi đại nhân về thì mấy người bên Ngự Sử Đài chắc chắn không buông tha cho đại nhân đâu!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì cảm kích vô cùng, cúi đầu buồn bã nói: “Thái Hoàng Thái Hậu đối với ta thật là ân nặng như núi!”

“Đúng vậy đó!” Tiêu công công cũng thở dài, lắc đầu nói.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì hai mắt chơm chớp rớm lệ, sau đó cả hai người đều im lặng không ai nói thêm câu gì nữa.

Khi xe ngựa dừng ở trước cổng của hoàng cung, Tiêu công công mói lên tiếng nói: “Đỗ đại nhân! Lão nô có câu này không biết có nên nói hay không?”

Chương 381: Sét đánh ngang tai

Đỗ Văn Hạo nói: “Tiêu công công có gì cứ việc nói!” Tiêu công công nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy liền đưa mắt lên nhìn hắn một cái rồi nói: “Nghe nói Đỗ đại nhân lúc mới về có phát sinh hiểu lầm với hai vị Vương Gia là Tào Vương và Ung Vương! Sau đó còn lẄѡo lần lượt kề cổ hai người làm con tin. Thậm chí còn làm cho Tào Vương bị thương nữa, không biết có thật như vậy không?”

“Đúng vậy! Khi đó có cả Tể Tướng Thái Xác và những người khác có thể làm chứng cho bổn quan! Bọn họ vu oan cho bổn quan là tự ý rời bỏ chức trách của mình làm hại Hoàng Thượng, chính vì vậy mà muốn bắt lấy bổn quan vào ngục để trị tội! Bổn quan lúc đó sợ quá, nên đã hành động lỗ mãng bắt lấy Tào Vương, sau đó Ung Vương đứng ra xin đổi bản thân mình làm con tin thay cho Tào Vương cùng với bổn quan đi gặp Hoàng Thái Hậu. Hoàng Thái Hậu khi đó đã bế quan tụng kinh rồi, Ung Vương lại đưa bổn quan ra ngoài cửa cung, sau đó còn dặn dò người khác là không ai được phép làm phiền bổn quan và cũng không truy cứu bổn quan về việc này nữa! Sự việc là như vậy, và Ung Vương quả nhiên là giữ đúng lời hứa của mình, ông ta rất nghĩa khí. Trong mấy ngày hôm nay đều không cho người đến làm phiền gì bổn quan cả!”

Tiêu công công nghe xong thì nghi hoặc vô cùng, ông ta đưa mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo rồi nói: “Ung Vương mà gọi là người có nghĩa khí ư? Cái này có lẽ Đỗ đại nhân nên nói chuyện với Thẩm sư gia của mình nghe thì đúng hơn! ”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền lắc lắc đầu nói: “Thẩm sư gia của bổn quan đã vào trong cung từ lâu lắm rồi, đến tận giờ phút này vẫn chưa thấy quay ra! ”

“Vậy thì đúng rồi! Đỗ đại nhân à! Đại nhân và lão nô đều là những huynh, đệ tốt của nhau, lão nô bây giờ muốn nhắc nhở đại nhân một điều đó là đại nhân đừng có đem lời nói của lão nô đi nói với người khác nhé!” Tiêu công công nghiêm nét mặt nói.

Đỗ Văn Hạo thấy Tiêu công công nói vậy liền vội vã cúi người nói: “Làm gì có chuyện đó! Công công cứ việc nói, miệng của bổn quan kín vô cùng!”

“ừm.. .vậy thì tốt…!” Tiêu công công nói xong liền ghé đầu sát vào tai Đỗ Văn Hạo thấp giọng nói: “Đỗ lão đệ à! Lão đệ nhất thiết phải để ý đến Ung Vương đấy, người này không đơn thuần như lão đệ tưởng tượng đâu!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì sững người kinh ngạc vô cùng hỏi: “Sao vậy? Ung Vương lẽ nào là người không đáng tin cậy hay sao?”

“Cái này thì lão nô không đám nói bừa, vậy nhưng trong tình hình sinh tử trước mắt thế này. Hơn nữa Đỗ lão đệ lại có quan hệ với lão nô rất tốt, lão nô không nhẫn tâm trông thấy Đỗ lão đệ gặp nguy hiểm mà không ra tay giúp đỡ được! Ung Vương là người như thế nào thì lão đệ đi hỏi Thẩm sư gia của mình là biết ngay thôi! Thẩm sư gia lăn lộn trong triều bao nhiêu năm như vậy, chuyện gì mà ông ta chẳng biết! ”

Đỗ Văn Hạo nghe xong liền đưa con mắt hiếu kỳ lên nhìn Tiêu công công, thấy Tiêu công công vô cùng nghiêm túc không hề có chút gì đùa cợt mình cả. Đỗ Văn Hạo trong lòng bất giác rùng mình kinh hãi, từ trước mình cứ nghĩ rằng mình lấy đao kề vào cổ của Ung Vương như vậy mà ông ta không hề trách tội mình, cứ tưởng ông ta là người độ lượng hào phóng, nhưng không biết rằng ông ta làm vậy là có chủ ý khác. Bây giờ ông ta tạm thời tha cho mình để lấy điểm trong mắt mình, muốn mình giúp ông ta hoàn thành nhiệm vụ thuyết khách đưa ông ta ngồi lên ngai vàng, hiện giờ ông ta cần một trợ thủ đắc lực hơn là một kẻ địch. Chờ sau khi ngồi lên được ngai vàng rồi thì lúc đó muốn hỏi tội mình ra sao cũng chưa muộn mà. Hành động sai Thái Kinh hôm qua đến đây thuyết phục mình đúng là một ví dụ điển hình nhất, e rằng mình giúp ông ta lên ngôi xong rồi, ông ta lại quay lại cho mình một vố cũng nên, vì mình đã cầm đao hạ nhục ông ta trước mặt bao nhiêu người như vậy, không tính sổ với mình mới lạ.

Nghĩ tới đây, Đỗ Văn Hạo bất giác rùng mình toát mồ hôi lạnh, vội vàng chắp tay nói: “Đa tạ Tiêu công công đã nhắc nhở, tiểu đệ sẽ nhất định nghe theo lời chỉ dạy của công công! Tiêu đệ sẽ cẩn thận hơn nữa!”

Tiêu công công nghe vậy liền lắc lắc đầu cười khổ nói: “Cẩn thận? Ha ha ha, việc này chỉ cần cẩn thận là thoát được hay sao hả?”

“Vậy thì…vậy thì xin công công chi đường vẽ lối cho tiểu đệ với!” Đỗ Văn Hạo nói xong liền móc trong người ra một tập ngân phiếu, rồi đưa hết cho Tiêu công công.

Tiêu công công lần này lại đẩy lại xấp tiền cho Đỗ Văn Hạo rồi nói: “Đỗ đại lão đệ! Tiền của lão đệ lần này lão nô không thể nhận được!”

“Tại sao vậy?” Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên hỏi.

“Lão nô cùng có một việc muốn cầu cứu lão đệ, và cũng là điều vô cùng then chốt có thể giải quyết vấn đề của lão đệ, mong lão đệ giúp đỡ cho! ” Tiêu công công chắp tay nói.

Đỗ Văn Hạo nghe mà chẳng hiểu cái gì cả, hắn ngờ ngợ nhìn Tiêu công công lên tiếng nói: “Công công có gì cứ nói, không việc gì phải ngại cả!”

Tiêu Công công liền đáp: “Lão nô hy vọng rằng chút nữa lão đệ gặp mặt Hoàng Thái Hậu, bất kể là lập lục Hoàng Tử hay là lập Ung Vương lên kế vị ngôi báu, mong lão đệ khuyên nhủ Hoàng Thái Hậu mau mau quyết định đi cho nhanh, nếu không thì ”

“Nếu không thì sao?” Đỗ Văn Hạo cắt ngang nói.

“Theo như lão nô được biết thì mấy ngày hôm nay Ung Vương có những hành động bất thường, lão nô e rằng…ài…tính tình của Hoàng Thái Hậu yếu đuối, nhu nhược quá nếu như…. Ài…! Huyền Vũ Môn Chi Biến không nên tái hiện trong thời buổi này nữa! (Huyền Vũ Môn Chi Biến xảy ra vào đời nhà Đường lúc đó Lý Thế Dân, tức Đường Thái Tông nhân lúc Đường Thái Tổ Lý Uyên vẫn còn chưa biết chọn ai làm Thái Tử kế vị ngôi vua, thì Lý Thế Dân đã mượn thế binh quyền trong tay giết chết anh trai là Thái Tử Lý Kiến Thành và em trai Tề Vương Lý Nguyên Cát, sau đó lên ngôi Hoàng Đế!)”

Đỗ Văn Hạo nghe mà sững người sửng sốt, Huyền Vũ Môn Chi Biến? Đó không phải là Đường Thái Tông Lý Thế Dân vì tranh quyền đoạt vị mà mở ra vụ thảm sát đó hay sao? Lý Thế Dân vì quyền lực mà giết chết cả anh em trai của mình, lẽ nào Ung Vương…? Đỗ Văn Hạo nghĩ tới đây thì không đám nghĩ thêm nữa, vội vàng chắp tay hỏi: “Ung Vương có những hành động cụ thể nào vậy?”

“Cái này.. .lão nô cũng không rõ lắm. lão nô chỉ biết rằng trong mấy ngày gần đây Thị Vệ Bộ Quân và Thị Vệ Mã Quân bị điều động đi điều động lại rất nhiều lần, trong Điện Tiền Ti, có nhiều tướng lĩnh chủ chốt cũng sắp bị thay đổi hết cả… !”Nói đến đây Tiêu công công liền thấp giọng xuống nói với Đỗ Văn Hạo: “Đô Chỉ Huy Sứ nắm quyền Thị Vệ Bộ Quán và Thị Vệ Mã Quân e rằng bây giờ tất cả người bọn họ đều là của Ung Vương hết rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây bất giác lạnh hết cả gáy và sống lưng, nếu như những lời nói của Tiêu công công là sự thật, vậy thì Ung Vương đã chuẩn bị rất kỹ càng rồi, nếu như không thể nào được kế vị trong giải pháp hòa bình thì ông ta sẽ chọn vũ lực để giải quyết, và nếu cần thì sẽ giết luôn cả đứa cháu ruột lục Hoàng Tử của mình, Đỗ Văn Hạo nghĩ tới đây liền cúi đầu ngẫm nghĩ giây lát rồi nói: “Ung Vương lẽ nào là con người như vậy hay sao?”

“Có phải hay không thì Đỗ lão đệ cứ việc mở to mắt ra mà nhìn cho kỹ thì biết ngay thôi! Những chuyện như thế này lão nô không tiện nói nhiều!” Tiêu công công thấp giọng đáp.

Đỗ Văn Hạo lại lên tiếng hỏi: “Vậy thì Điện Tiền Ti Đô Chỉ Huy Sứ bây giờ là ai vậy?”

“Là Vi Ngạn Vi đại nhân! Thiên kim tiểu thư của ông ấy ngày trước mắc bệnh, cũng chính là lão đệ đã ra tay cứu chữa, cứu được mạng cho vị tiểu thư đó đấy thôi!” Tiêu công công đáp.

Đỗ Văn Hạo làm sao lại quên được chuyện này cơ chứ, vị Vi tiểu thư này hát hay múa giỏi, rất được Thái Hoàng Thái Hậu ưu ái, và mến mộ. Thái Hoàng Thái Hậu còn dự định để cho nàng sau này làm phi tần của lục Hoàng Tử nữa, và cũng chính vì vị Vi tiểu thư thà chết cũng không chịu mổ bụng chữa bệnh mà Đỗ Văn Hạo mới có cơ hội vào cung chữa trị cho Thái Hoàng Thái Hậu, nghĩ lại Đỗ Văn Hạo còn thấy bản thân hắn còn nợ vị Vi tiểu thư một mối ân tình.

Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy liền chắp tay hỏi: “Ấy! Vị Vi Ngạn Vi đại nhân này không phải là Điện Tiền Ti Đô Ngu Hầu hay sao? Ông ta từ lúc nào đã lên được cái chức Đô Chỉ Huy Sứ rồi?”

Chỉ Huy Sứ là chức vụ cao nhất của Điện Tiền Ti, dưới còn có Phó Chỉ Huy Sứ. Sau đó thì mới đến Đô Ngu Hầu, tính ra Đô Ngu Hầu thấp hơn Đô Chỉ Huy Sứ tận hai cấp, chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo mới nói Vi Ngạn thăng chức.

Tiêu công công liền nói: “Thái Hoàng Thái Hậu bảo Hoàng Thượng thăng chức cho đấy, hình như là nửa năm trước thì phải!”

Đỗ Văn Hạo lại hỏi: “Vi Ngạn Vi đại nhân có thái độ như thế nào về người kế vị ngôi báu sắp tới này?”

“Cái này còn phải hỏi hay sao? Con gái của ông ta đã được chỉ định làm Hoàng Phi rồi. Một khi mà lục Hoàng Tử đăng cơ lên làm Hoàng Đế, thì con gái của ông ta chắc chắn sẽ làm Hoàng Hậu rồi còn gì nữa! Lão đệ thử nói xem, con gái ông ta làm Hoàng Hậu thì ông ta dĩ nhiên là liều chết để bảo vệ cho lục Hoàng Tử đăng cơ làm vua chứ còn làm gì nữa! Khi Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu vừa mới băng hà, thì Vi đại nhân đã bố trí Điện Tiền hộ vệ bao vây khắp cả Hoàng cung, vô cùng nghiêm ngặt, không một con ruồi nào có thể lọt qua được, và có lẽ chính vì vậy mà Ung Vương mới chần chừ chưa dám ra tay…!” Tiêu công công nói.

Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ, Thái Hoàng Thái Hậu đề bạt Vi Ngạn lên làm Đô Chỉ Huy Sứ quả thật là cao tay và có tầm nhìn quả là cao rộng, việc làm này chẳng khác gì tặng cho lục Hoàng Tử một tấm bùa hộ mệnh, trong lúc thập tử nhất sinh, phát huy tác đụng đến tối đa, Thái Hoàng Thái Hậu quả là cao siêu.

Đột nhiên, Đỗ Văn Hạo nhớ ra chuyện gì đó. Hắn liền lên tiếng hỏi: “Cái này.. .hình như Ung Vương không có quyền cầm binh thì phải vì quyền phát binh nằm trong tay của Xu Mật Viện, không có binh phù thì Ung Vương làm sao mà có thể điều động quân đội được? Lẽ nào…!”

Tiêu công công thấy vậy liền đáp: “Đúng là như vậy, nhưng bọn chúng đúng là có điều động quân đội thật! Đây là sự thật không thể chối cãi, e rằng Xu Mật Sứ Hàn Chẩn đã là người của Ung Vương mất rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền lắc lắc đầu nói: “Không đúng! Nếu như Xu Mật Sử đã là người của Ung Vương rồi, thì Ung Vương cũng đã nắm trong tay binh quyền rồi, vậy thì ông ta chỉ việc điều động Điện Tiền Ti Đô Chi Huy Sứ Vi Ngạn ra bên ngoài thành, hoặc là đi nơi khác cho rảnh nợ, đến lúc đó lục Hoàng Tử chắc chắn là cá nằm trên thớt rồi, cần gì phải chần chờ mãi thế này?”

Tiêu công công nghe Đỗ Văn Hạo phân tích như vậy xong cũng gật gật đầu Đỗng ý: “Đúng vậy! Nhưng rốt cuộc chuyện là như thế nào thì lão nô cũng không thể hiểu nổi nữa! ”

“Vậy bây giờ ý của Hoàng Thái Hậu ra sao, rốt cuộc là chọn ai lên kế vị, công công có biết không vậy?” Đỗ Văn Hạo sốt ruột nói.

Tiêu công công nghe vậy chỉ biết lắc lắc đầu nói: “Từ khi Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu băng hà đến giờ, Hoàng Thái Hậu cứ khóc suốt, dường như không nói câu nào cả. càng không muốn nhắc tới việc kế vị…

“Vậy công công có vào khuyên bảo Hoàng Thái Hậu không vậy?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

“Lão nô chẳng qua chi là Nội Thần (bao gồm Thái Giám. Thị Vệ, Hộ Vệ), mà Nội Thần thì không được phép can dự vào chính sự, đây là quy tắc từ xưa đến giờ, lão nô cũng chưa nhúng tay vào những chuyện thế này bao giờ cả! Lão nô chỉ hy vọng tất cả mọi thứ đều bình an, thế là tốt lắm rồi. Vậy nhưng, nói cho cùng thì.. .Đỗ lão đệ.. .việc của lão đệ thì lão đệ cũng nên suy ngẫm một chút…. đừng để Hoàng Thái Hậu chờ lâu quá!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền gật gật đầu tán đồng, hai người sau đó liền xuống xe đi đến trước cổng Hoàng Cung được canh phòng vô cùng nghiêm ngặt. Sau khi đưa tấm lệnh bài chứng minh thân phận của mình xong, thì hai người liền lục đục đi vào trong cung, sau đó liền nhanh chân bước tới tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu, vì Hoàng Thái Hậu ở đây chịu tang, canh chừng linh cữu cho Thái Hoàng Thái Hậu.

Hoàng Thái Hậu sau khi biết tin Đỗ Văn Hạo đã đến, liền cho người ra mời Đỗ Văn Hạo vào tiếp kiến.

Đỗ Văn Hạo vào trong tẩm cung, qua không biết bao nhiêu là hành lang cuối cùng cùng đến được Chính Đường Viện, nơi đây cổng đóng kín mít. Viên quan dẫn đường liền dẫn Đỗ Văn Hạo đi ở cửa bên vào bên trong, sau khi đi qua một khoảng sân Đỗ Văn Hạo bước tới một lạc viện, trước cổng có một đứa cung nữ đứng đón, thấy Đỗ Văn Hạo đi tới liền cúi người thi lễ, sau đó vén rèm cửa lên mời Đỗ Văn Hạo đi vào bên trong.

Trong phòng lúc này tất cả các cửa sổ đều đóng kín hết cả. nơi đây cũng không thắp nến, ánh sáng thì yếu ớt, khung cảnh thì ảm đạm, trống rỗ mênh mông. Ngay chính giữa căn phòng có một chiếc sạp mềm, trên đó có nằm một quý phụ. Quý phụ mặc trên người một chiếc váy dài màu đen. đai lưng thắt bằng một sợi vải trắng xóa như tuyết, vì quý phụ nằm ở trong vùng tối, nên Đỗ Văn Hạo không nhìn rõ mặt, nhưng nhìn thân hình hắn cũng có thể đoán ra được vị quý phụ này không phải ai khác mà chính là Hoàng Thái Hậu.

Theo như quy tắc trong cung, thì Hoàng Thái Hậu khi gặp những đại thần trong triều đều phải có một tấm rèm che. Vậy nhưng tấm rèm che lần này được vắn sang hẳn một bên. Bên cạnh chiếc sạp mềm của Hoàng Thái Hậu lúc này đã đặt một chiếc ghế ngồi sẵn ở đó.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền bước tới, cúi người thi lễ một cái rồi nói: “Hạ thần Đỗ Văn Hạo, tham kiến Hoàng Thái Hậu!”

Giọng nói của Hoàng Thái Hậu lúc này có vè khàn khàn, bà đưa tay lên vẫy vẫy nói: “Đứng dậy đi! Ngươi ra linh đường cúng tế, bái kiến Thái Hoàng Thái Hậu trước đi. Sau đó quay lại đây nói chuyện với ta!”

“Thưa vâng!” Đỗ Văn Hạo đáp.

Đỗ Văn Hạo lúc này đứng thẳng người dậy đang định hỏi linh đường của Thái Hoàng Thái Hậu được đặt ở đâu, thì bên tai hắn văng vẳng có tiếng người tụng kinh niệm phật, và những tiếng khóc thút thít vọng lại quanh đây. Hắn đưa mắt đảo một vòng thì phát hiện bên cạnh hắn có một cánh cửa được mở sẵn, và tiếng động được truyền từ đó ra. Đỗ Văn Hạo hiểu ngay là linh đường được đặt ở trong đó. Liền cúi người cáo lui. Sau đó bước sang phòng bên cạnh, quả nhiên trong này là một phòng rất rộng. Trên trần giăng đầy những tấm vải trắng, lấp ló sau những tấm vải trắng kia là một chiếc quan tài màu đen. Cạnh đó có hai dãy hòa thượng ngồi gõ mõ tụng kinh siêu thoát.

Phía mé trước linh đường có mấy vị nương nương ngồi quỳ ở đó. Ai cũng mặc một bộ Đỗ trắng toát, tuy là ánh sáng trong này khá tối, nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn nhận ra được bọn họ là những ai. Đó là Hoàng Hậu, Chu Đức Phi, Lâm Tiệp Trữ…

Ngay chính giữa linh đường là một bài vị được dựng thẳng ngay ngắn, phía trước bài vị có bày rất nhiều Đỗ cúng và một bát hương, trong bát hương có cắm những nén vương vừa to vừa đầy, khói bay nghi ngút.

Đỗ Văn Hạo đi đến trước linh đường đưa mắt lên nhìn linh vị của Thái Hoàng Thái Hậu. nghĩ tới những gì mà Thái Hoàng Thái Hậu làm cho mình, bất giác cảm thấy đau xót vô cùng. Đỗ Văn Hạo vén áo lên quỳ xuống, sau đó khóc rống lên một cách đau khổ.

Hắn vừa mới cất tiếng khóc thì mấy vị nương nương cũng theo đó mà khóc theo, nhất thời cả cái linh điện này tiếng khóc, tiếng sụt sịt vang lên rần rần không dứt.

Trông thấy mấy vị nương nương cùng gào khóc theo mình. Đỗ Văn Hạo lại cảm thấy ngại ngùng không dám khóc nữa, nhưng vì lúc nãy hắn khóc nên những gì bức xúc, bực bội đè nén trong lòng bấy lâu nay cũng được giải tỏa ra ngoài không ít. Sau đó hắn liền dập đầu chín cái cúi lạy linh bài của Thái Hoàng Thái Hậu.

Hắn vừa lạy xong liền len lén đưa mắt lên nhìn, thì cũng thấy mấy vị nương nương cũng đưa mắt lên nhìn hắn, những gương mặt xinh đẹp tuyệt trần kia trông thấy hắn liền cảm thấy an ủi rất nhiều, cứ như họ vừa gặp được cứu tinh của mình vậy.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền miễn cưỡng nở một nụ cười đáp lại, đang định đứng dậy thì ánh mắt của hắn bắt gặp một bóng hồng làm cho hắn không thể nào dời mắt khỏi nàng nửa giây

Bóng hồng đó mặc trên mình một bộ Đỗ trắng toát, lông mày lá liễu của nàng nhẹ nhàng như khói phủ, đôi môi mọng đỏ anh đào, làn da trắng hồng, nhưng nét mặt của nàng lại buồn đau thê thảm, điệu bộ của nàng làm cho người ta càng nhìn lại càng thương, nàng không phải ai khác mà chính là Hoàng Hậu.

Hoàng Hậu vốn xinh đẹp tuyệt trần, giờ đây lại mang thêm những nét u sầu, thảm thương làm cho Đỗ Văn Hạo càng ngắm càng say. Hắn muốn tiến tới ôm nàng vào lòng, rồi dùng môi của mình hứng hết những dòng lệ trên gương mặt đáng yêu của nàng, sau đó đưa đôi tay của hắn lên an ủi vuốt ve khuôn mặt trắng mịn như ngọc, nói với nàng những lời an ủi tràn đầy yêu thương nhất.

Đang trong lúc Đỗ Văn Hạo ngắm nhìn Hoàng Hậu hồn siêu phách lạc, thì bỗng nhiên bên tai hắn vang lên tiếng chuông gõ mõ của các hòa thượng nơi đây, làm cho hắn như tỉnh giấc nồng vội vã ngoảnh mặt sang chỗ khác không dám nhìn lâu. Sau đó, Đỗ Văn Hạo lồm cồm bò dậy cầm lấy ba nén hương cắm vào bát hương, rồi lại quỳ xuống cúi đầu lạy tạ sau đó mới đứng dậy dời khỏi linh đường.

Khi trở lại căn phòng ở bên cạnh, Đỗ Văn Hạo vẫn còn ngẩn ngơ tiếc nuối không nỡ dời. Hắn tiến đến bên Hoàng Thái Hậu cúi người thi lễ mà quên mất là mình nên nói cái gì nữa.

Hoàng Thái Hậu lúc này dường như cùng quên đi sự tồn tại của Đỗ Văn Hạo. Bà vẫn nằm trên chiếc sạp mềm một lúc sau mới đưa tay lên vẫy Đỗ Văn Hạo, sau đó chỉ vào chiếc ghế bên cạnh mình, ra ý bảo Đỗ Văn Hạo ngồi xuống đó. Đỗ Văn Hạo ngồi xuống một lúc lâu rồi mà Hoàng Thái Hậu vẫn cứ im lặng không nói gì cả.

Hoàng Thái Hậu không nói câu gì. Đỗ Văn Hạo cũng không đám mở miệng lên tiếng, chỉ biết ngồi ngây như khúc gỗ ở bên cạnh bà.

Lại thêm một lúc lâu nữa, Hoàng Thái Hậu mới buồn bã thở dài nói: “Ai gia có chuyện vô cùng phúc tạp muốn tìm người đứng ra quả quyết cho ai gia! Mấy ngày hôm nay nghĩ đi nghĩ lại mãi mà chỉ có mỗi mình ngươi là thích hợp nhất!”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì giật thót lên một cái.

Thái Kinh và Tư Mã Quang quả là đã đoán đúng, hai con cáo già trong triều này đúng là cao thủ trong chính trị, khả năng đánh hơi của hai người này quả nhiên sắc bén. Mình so với bọn họ đúng là tay mơ không hơn không kém. Muốn đọ với bọn họ thì mình đúng là không phải đối thủ.

Hoàng Thái Hậu nói: “Hoàng Thượng đột nhiên băng hà. không để lại bất kỳ di chiếu nào cả. Thậm chí còn chưa kịp lập Thái Tử kế vị ngôi báu nữa. Trong triều bây giờ các đại thần đã chia thành hai phái. Một phái do Thái Xác cầm đầu ủng hộ Ung Vương, còn phe còn lại là do Tư Mã Quang cầm trịch ủng hộ lục Hoàng Tử kế vị, sau đó để ai gia buông rèm chấp chính! Ai gia bây giờ không biết nên làm thế nào cho phải, nên quyết định thế nào cho đúng! Ngươi… .ngươi là người ngoài cuộc, ngươi đưa ra chủ ý giúp ai gia được không?”

Đỗ Văn Hạo cũng biết Hoàng Thái Hậu sẽ hỏi mình về vấn đề này. Suốt đọc đường đi hắn cũng suy nghĩ suốt, nhưng bây giờ khi Hoàng Thái Hậu đột nhiên hỏi hắn làm cho hắn trong óc trống rỗng không biết nên trả lời ra sao nữa. Hắn cũng không ngờ rằng Hoàng Thái Hậu vừa mới gặp hắn đã đi vào vấn đề một cách trực diện như vậy. Nên nhất thời cứ ngẩn người không đáp. Nhưng, Đỗ Văn Hạo không biết được rằng vì cái vấn đề này mà suốt bảy ngày bảy đêm gần đây, Hoàng Thái Hậu không thể nào chợp được mắt. Trong đầu của bà cứ vương vấn cái vấn đề này. Chính vì vậy mà bà không hề vòng vo tam quốc mà đi thẳng luôn vào vấn đề.

Đỗ Văn Hạo trước khi đến đây vốn là muốn thuyết phục Hoàng Thái Hậu ủng hộ Ung Vương lên kế vị, vậy nhưng khi nghe Tiêu công công khuyên mình như vậy, hắn lại chần chừ, nếu như những lời của Tiêu công công nói là đúng, thì Ung Vương là người không giữ chữ tín, lại hay trở mặt. Một khi ông ta mà lên ngôi xong xuôi đâu đấy rồi quay lại cắn mình một nhát, vậy thì cái mạng bé nhỏ của mình cũng tiêu tùng theo rồi còn gì nữa!

Chuyện này quan hệ đến tính mạng của mình, nhất thiết không được vội vàng hấp tấp, phải bình tĩnh mới được.

Chính vì vậy mà khi nghe Hoàng Thái Hậu lên tiếng hỏi như vậy, Đỗ Văn Hạo liền cúi người nói: “Vi thần đa tạ Hoàng Thái Hậu đã tin tưởng vi thần, Ung Vương và lục Hoàng Tử mỗi người đều có thế mạnh của riêng mình, đúng là rất khó chọn lựa…! Không biết ý của Hoàng Thái Hậu là muốn chọn ai ạ?”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy liền buồn bã đáp: “Nếu như ai gia đã có ý định của riêng mình rồi thì việc gì phải hỏi ngươi cơ chứ?”

“Bẩm Hoàng Thái Hậu! Tuy là nói như vậy, nhưng sớm muộn gì người cũng phải đưa ra quyết định của mình chứ ạ!” Đỗ Văn Hạo muốn thăm dò xem Hoàng Thái Hậu rốt cuộc là chọn ai, sau đó mới lên tiếng phụ họa theo.

Hoàng Thái Hậu lúc này đã coi Đỗ Văn Hạo là một tâm phúc của mình, nên chẳng có gì giấu diếm hắn cả. Nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy, bà chỉ biết thở dài nói: “Theo như quy củ thì nên để cho con trưởng nối ngôi, đây là truyền thống của các triều đại! Để cho Hoàng Tôn của ta kế vị thì rất hợp vói tổng thể. Vậy nhưng khi Hoàng Tôn lên kế vị, thì ai gia chắc chắn sẽ phải buông rèm chấp chính, nhưng ai gia không hiểu chút gì về chính trị cả. Không biết sẽ chấp chính kiểu gì đây? Suy đi nghĩ lại. Ai gia thấy hai đứa con trai của ta đều là những người có tài trị quốc, là trụ cột của muôn dân. Nếu như Hoàng Tôn nhường ngôi cho bọn họ thì ai gia cũng an lòng lắm rồi nhưng mấy người đại thần như Tư Mã Quang lại không chịu. ài…! Hơn nữa Nghiêm Nhi (Ung Vương) và Cố Nhi (Tào Vương) đều là hai người hiếu thắng, từ nhỏ muốn gì là phải lấy cho bằng được, bây giờ nếu bảo hai đứa chúng nó không thể kế vị, e rằng cả hai sẽ làm khó dễ cháu của mình mất.”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cúi đầu nói: “Hoàng Thái Hậu quả là anh minh!”

Hoàng Thái Hậu sững người lại hỏi: “Ngươi nói vậy là có ý gì?”

“Hoàng Thái Hậu cũng đã nhận ra Ung Vương có dã tâm muốn đoạt ngôi như vậy, thì vi thần cũng nghĩ như vậy. Vi thân bây giờ cho rằng bây giờ lập ai lên kế vị đều không quan trọng!” Đỗ Văn Hạo đáp.

Hoàng Thái Hậu nghe vậy kinh ngạc vô cùng: “Vậy thì vẫn còn chuyện gì quan trọng hơn chuyện này hả?”

“Dĩ nhiên là có chứ ạ!” Đỗ Văn Hạo nói: “Huyền Vũ Môn Chi Biến đang sắp sửa tái diễn!”

“Hả?” Hoàng Thái Hậu bảy ngày gần đây đều đóng cửa trốn ở trong cung, làm gì biết được những chuyện đang xảy ra ở bên ngoài, cộng thêm bản tính của Hoàng Thái Hậu lại yếu ớt, trù trừ. Giờ lại bị mọi người đẩy lên làm người đứng đầu quyết định hết toàn bộ những việc quan trọng! Hoàng Thái Hậu chỉ là người biết ngâm thơ làm phú, ca hát múa vui. Chứ nói đến việc cai trị đất nước thì làm gì có khả năng! Chính vì vậy khi nghe Đỗ Văn Hạo nhắc tới huyết án thê thảm đời nhà Đường Huyền Vũ Môn Chi Biến làm cho bà hoảng hốt lo lắng vô cùng, trong thâm tâm Hoàng Thái Hậu cũng lo sợ nhất là việc đầu rơi máu chảy vì quyền lợi. Bà giờ đây không còn giữ nổi bình tĩnh nữa, run run hỏi lại Đỗ Văn Hạo: “Có thật không vậy?’

Đỗ Văn Hạo cũng biết Hoàng Thái Hậu không bao giờ hỏi về các vấn đề chính trị quan trọng trong triều, nên không biết chính trị nó dã man và ghê gớm ra sao nên hắn cúi người nói: “Ngự Lâm Quân trong kinh thành phân ra làm ba bộ phân, đó là Điện Tiền Thị Vệ Ti, Thị Vệ Bộ Quán Ti và Thị Vệ Mã Quân Ti, ba đạo quân này đêu không chung một vị quan chỉ huy, và chỉ nghe lời của Hoàng Thượng, không một ai có quyền điều động ba đạo quân này khi không có binh phù, và binh phù thì lại nằm trong tay của Xu Mật Sứ. Vậy nhưng hiện giờ không biết tại sao, khi Hoàng Thượng băng hà, thì Ung Vương đã khống chế được hai lộ binh là Bộ Quán và Mã Quân, còn lục Hoàng Tử thì khống chế được Vi Ngạn, và Vi Ngạn là người cầm đầu Điện Tiền Thị Vệ!”

“Hả? Sao lại có thể như vậy được cơ chứ?” Giọng nói của Hoàng Thái Hậu run lên bần bật.

“Đúng vậy! Tuy là Ung Vương đã có trong tay hai lộ quân, và Vi Ngạn chỉ có trong tay có một lộ quân, nhưng quân của Vi Ngạn là Điện Tiền Thị Vệ, là đội quân tinh nhuệ nhất của Đại Tống, giờ lại đang khống chế được Hoàng Cung, dựa vào thành trì vững chắc, kiên cố của Hoàng Cung làm điểm cố thủ. Chính vì vậy mà lực lượng hai bên bây giờ vẫn ngang sức ngang tài. Chính vì vậy mà bất kể Hoàng Thái Hậu người quyết định ai lên kế vị làm vua thì chắc chắn sẽ tạo cho một bên có lý do dùng vũ lực để cướp ngôi! Đến lúc đó, cảnh tượng Huyền Vũ Môn Chi Biến sẽ được tái diễn, hình ảnh bi kịch huynh đệ tương tàn sẽ một lần nữa diễn ra!”

Hoàng Thái Hậu nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy giật mình cái thót, bà nắm chặt lấy chiếc dây nịt màu trắng buộc ngang hông của mình, lo lắng hỏi: “Không phải chứ? Ngươi làm sao biết được!”

“Là Tiêu công công khi cùng với vi thần đến đây nói cho vi thần biết! Vậy nhưng vi thần vẫn chưa đi xác nhận nó xem có đúng hay không? Nếu như Hoàng Thái Hậu cảm thấy cần thiết, thì vi thần có thể phái người đi dò la tình hình, nhưng xin Hoàng Thái Hậu phải có sẵn kế sách để đối phó! Nếu không, e rằng khi người tuyên bố người kế vị cũng là ngày tận thế của Đại Tống chúng ta! Cho dù tin tức này có là giả đi chăng nữa, thì chúng ta cũng phải chuẩn bị kỹ càng để ứng phó với mọi điều có thể xảy ra, không nên mất bò mới lo làm chuồng!”

Sắc mặtHoàng Thái Hậu giờ đây trở nên tái xanh, cắt không còn giọt máu. Giọng của bà vốn đã khàn khàn giờ lại cộng thêm sự run rẩy trông đáng thương vô cùng: “Vậy… .vậy theo ngươi thì ta nên làm thế nào đây?”

“Chúng ta phải thu hết binh quyền của cả hai bên lại!” Đỗ Văn Hạo quả quyết nói.

“Thu lại kiểu gì? Bọn chúng không chịu thì sao?” Hoàng Thái Hậu lo lắng nói.

Đỗ Văn Hạo nghe Hoàng Thái Hậu nói vậy thì sững người kinh hãi. Hắn đúng là chưa nghĩ đến nước này. Thôi tốt nhất là nên về thương lượng với Thẩm sư gia trước đã. Nói vậy liền đứng dậy ôm quyền nói: “Bây giờ tình hình vẫn chưa rõ ràng cho lắm nên vi thần vẫn chưa có đối sách!”

“Vậy thì làm thế nào?” Hoàng Thái Hậu tuyệt vọng nói.

Chương 382: Chỗ dựa

Lúc này Đỗ Văn Hạo đúng là cũng không có đối sách nào cả, khi nghe Hoàng Thái Hậu nói có vẻ tuyệt vọng như vậy liền ngượng ngùng nói: “Vi thần.. .vi thần đúng là không biết nên làm thế nào để thu lại binh quyền của cả hai bên cả…

Hoàng Thái Hậu nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì lại càng kinh sợ, một bên là hai đứa con trai ruột của mình, một bên là đứa cháu ruột của mình, tất cả đều là những người mà bà yêu thương nhất, nếu như cả hai bên đều động thủ thì nguy to, bởi vì bà đều không muốn trông thấy ai phải đổ máu vì chuyện này cả.

Vậy nhưng bây giờ phải làm thế nào?

Hoàng Thái Hậu nói: “Có thể gọi cả hai bên vào ngồi nói chuyện bàn bạc vui vẻ với nhau được không? Như vậy thì đỡ phải gươm giáo gặp nhau!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì chỉ biết lắc đầu cười khổ nói: “Thưa Hoàng Thái Hậu! Đây là ngôi vua, mà ai đã lên ngôi vua thì người đó có quyền lực cao nhất thiên hạ, e rằng khó mà có thể ngồi nói chuyện bàn bạc một cách vui vẻ là xong chuyện được! Trừ phi một bên chịu nhường một bước, nhưng bây giờ xem ra cả hai đã rút gươm ra với nhau không phân rõ cao thấp thì quyết không thôi!”

“Không được! Không thể như thế được! Tuyệt đối không thể để hai bên rút gươm ra mà giải quyết nhau được!” Hoàng Thái Hậu bật cả người dậy vội vã nói: “Lập tức hạ lệnh bảo Nhan nhi và Cố nhi vào gặp ai gia ngay lập tức!”

Hoàng Thái Hậu mấy ngày gần đây đau buồn u uất, cơm không ăn, nước không uống, sức khỏe vô cùng kém, giờ lại nghe được cái tin này lại càng lo lắng sợ hãi, cộng thêm vừa xong bà bật người đứng dậy đột ngột quá làm cho khí huyết trong người đảo lộn nhất thời hoa mày chóng mặt, trước mắt tối sầm lại ngã quỵ xuống.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thất kinh liền nhanh tay chạy ra đỡ lấy, trong phút chốc hắn đã đỡ lấy được thân hình của Hoàng Thái Hậu, thân thể của bà lúc này mềm nhũn nằm gọn trong vòng tay của hắn.

Đỗ Văn Hạo kinh hãi xốc hẳn người của Hoàng Thái Hậu lên thì cảm thấy thân hình của bà nhẹ bẫng, không cảm thấy sức nặng gì cả, chính vì vậy mà hắn không khó khăn gì khi dìu đỡ Hoàng Thái Hậu nằm lên chiếc sạp mềm.

Đỗ Văn Hạo vừa định thu tay về, thì Hoàng Thái Hậu lại đưa tay ra nắm chặt lấy hắn, Hoàng Thái Hậu lúc này đầu choáng mắt hoa, hai mắt nhắm nghiền lại, bà phản xạ một cách vô thức cố nắm cho chắc vật gì đó cho cơ thể có thêm điểm tựa. Đỗ Văn Hạo vì thế mà bị bà tóm gọn lấy, hắn không dám giằng ra, cứ cúi người như vậy để mặc cho Hoàng Hậu túm lấy.

Cái tư thế này làm cho Đỗ Văn Hạo nhức mỏi vô cùng, sau một tuần trà thì hắn không thể chịu đựng thêm được nữa, muốn giằng tay thoát khỏi Hoàng Thái Hậu, nhưng bà ta lại bấu vào cánh tay hắn càng chặt hơn, Đỗ Văn Hạo lúc này còn cảm nhận được cơ thể yếu ớt của Hoàng Thái Hậu đang run lên bần bật. Hiển nhiên là giờ đây, Hoàng Thái Hậu đang ở trong trạng thái hoang mang lo sợ cực độ, nên hắn lại không nhẫn tâm giằng tay ra ngoài, thế nhưng cứ duy trì mãi cái tư thế này thì cái cột sống của hắn sẽ gẫy vụn ra mất. Đỗ Văn Hạo không còn cách nào khác là nghiêng người ghé mông ngồi lên chiếc sạp mềm cho đỡ mỏi.

Nhưng hắn không ngờ rằng, khi vừa ngồi lên chiếc sạp thì Hoàng Thái Hậu lại ôm chặt cả cánh tay của hắn lại, rồi nép người sát vào đó.

Đỗ Văn Hạo bị hành động này của Hoàng Thái Hậu làm cho kinh hãi vô cùng, toàn thân hắn như điện giật cứng đờ như một khúc gỗ không dám động đậy gì cả. Cũng may mà trong phòng lúc này chỉ còn có mỗi hai người, không có một ai nữa cả, nếu không để người khác trong thấy được, thì hắn chắc chắn sẽ mắc vào tội sỉ nhục Hoàng Gia, tru di cửu tộc.

Đỗ Văn Hạo rất muốn giằng thoát ra ngoài, nhưng lúc này hắn lại không dám làm liều, trong bóng tối mờ ảo hắn dường như nghe thấy tiếng khóc rưng rức, tiếng khóc này không phải phát ra từ linh đường của Thái Hoàng Thái Hậu, mà là phát ra ngay bên cạnh hắn đó là tiếng khóc của Hoàng Thái Hậu. Nấc trong tiếng khóc của bà có kèm theo giọng nói nhỏ nho, nghẹn ngào: “Làm thế nào bây giờ hả Tông Thực? Nói cho thiếp biết, thiếp nên làm thế nào đây?”

Tông Thực là tên tục của Tống Anh Tông, mẹ của Hoàng Thái Hậu, Cao Thị là chị ruột của Hoàng Hậu của Tống Nhân Tông, chính vì vậy mà Hoàng Thái Hậu từ nhỏ đã sống ở trong cung, bà và Tống Anh Tông chơi với nhau từ bé, có thể coi hai người như là thanh mai trúc mã vậy. Đỗ Văn Hạo biết được điều này từ miệng của Tiêu công công, bây giờ nghe Hoàng Thái Hậu nắm lấy cánh tay của mình mà khóc gọi tên tục của Tống Anh Tông bất giác lạnh, hết cả sống lưng, hắn hoảng hốt cảm giác như ở một góc đâu đó trong căn phòng này, Tống Anh Tông đang đứng đó đưa con mắt u lạnh của mình lên nhìn hắn.

Đỗ Văn Hạo nghĩ tới đây sởn hết cả gai ốc, vội vã đưa mắt ra khắp căn phòng dáo dác nhìn, nhưng căn phòng rộng lớn này vẫn trống hoang hoác, không một bóng người, cũng không có âm hồn ma quỷ gì cả, hắn liền đưa mắt ra nhìn cửa sổ, thấy nơi đó có tia sáng hắt vào, biết là quỷ hồn không thể xuất hiện giữa ban ngày được nên thầm định thần, an tâm hơn một chút.

Hoàng Thái Hậu lúc này vẫn khóc lên rưng rức. Đỗ Văn Hạo sau khi đã ổn định tinh thần liền đưa tay ra thử vỗ vỗ lên đôi tay của Hoàng Thái Hậu đang ôm chặt cánh tay mình nói: “Hoàng Thái Hậu! Người đừng đau buồn nữa! Vi thần là Văn Hạo!”

Hoàng Thái Hậu nghe xong thì rung người xúc động, bà chợt như người vừa bừng tỉnh từ cơn mê, vội vã buông cánh tay của Đỗ Văn Hạo ra, mỉm cười miễn cưỡng nói: “Xin… xin…xin lỗi!”

“Hoàng Thái Hậu! Người mấy ngày hôm nay đã mệt mỏi quá rồi. vừa xong lại do lo lắng quá độ nên mới như vậy, để thần cho người đi hầm một bát canh sâm cho người uống nhé!”

Đỗ Văn Hạo nói xong đang định đứng dậy, thì Hoàng Thái Hậu lại kéo giật hắn lại nói: “Ngươi đừng đi!”

Đỗ Văn Hạo lúc này nửa mông đít vẫn còn ngồi trên chiếc sạp, hắn bị Hoàng Thái Hậu giật ngược lại như vậy đành phải ngoan ngoãn ngồi lại, ngoảnh đầu sang nhìn Hoàng Thái Hậu.

Hoàng Thái Hậu lại đưa tay lên nắm chật lấy cánh tay của Đỗ Văn Hạo, u buồn nói: “Văn Hạo! Ngươi giúp ai gia đi! Ngươi đừng để cho Huyền Vũ Môn Chi Biến tái diễn lại được không hả?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đưa mắt trông bộ dạng phờ phạc, u sầu, lo lắng khôn nguôi của Hoàng Thái Hậu, tuy bà đã đến tuổi trung niên nhưng do những thủ phép bảo dưỡng bí truyền trong cung, cộng thêm trong cung có rất nhiều vật liệu dưỡng da quý giá, nên làn da của bà vẫn cứ như thiếu nữ mười tám, mỏng manh và trắng mịn như tuyết vậy. Ngoại trừ nơi đuôi mắt của bà có vài nếp nhăn mờ mờ ra, thì bà trông vẫn còn rất trẻ so với độ tuổi của mình, hai hàng lá liễu cong cong, chiếc mũi cao thẳng, cùng với đôi môi đỏ mọng như máu, duy chỉ có đôi mắt phượng của bà lúc này buồn bã, u sầu mà thôi.

Thấy Hoàng Thái Hậu đau buồn, sầu thảm như vậy Đỗ Văn Hạo bất giác cảm thấy dòng máu khí phách anh hùng cứu vớt người yếu cuồn cuộn trào dâng, đầu hắn trở nên nóng bừng bừng đưa tay lên vỗ vỗ vào mu bàn tay của Hoàng Thái Hậu nói: “Vâng! Vi thần cho dù có gan óc lầy đất cũng phải ngăn chặn cuộc chiến giữa hai người xảy ra!”

“Thật sao? Ngươi sẽ giúp đỡ ai gia thật sao?” Hoàng Thái Hậu run rẩy nói.

“Vâng!” Đỗ Văn Hạo trông điệu bộ cầu xin yếu ớt u sầu của Hoàng Thái Hậu như vậy, thì hắn làm sao mà nỡ lòng nào từ chối được cơ chứ, hắn gật đầu lia lịa, nhưng không biết rằng hắn bây giờ hắn làm gì có năng lực mà quản chuyện này, vậy nhưng vẫn cứ hứa hon với Hoàng Thái Hậu cho bà yên lòng.

Hoàng Thái Hậu trông thấy Đỗ Văn Hạo đồng ý giúp mình như vậy, thì khóe miệng của bà miễn cưỡng nở một nụ cười chua chát. Đỗ Văn Hạo đã từng chữa trị cho Hoàng Thái Hậu căn bệnh đau bụng hành hạ bà cả hơn chục năm nay, cứu vớt bà ra khỏi bể khổ của bệnh tật, chính vì vậy mà trong tiềm thức của Hoàng Thái Hậu, bà đã coi hắn như là chỗ tựa tinh thần, cũng như sự sống của bà vậy. Bây giờ nghe Đỗ Văn Hạo hứa với mình như vậy, Hoàng Thái Hậu mới thả lỏng được toàn thân, thả lòng tất cả kể cả thể xác lẫn tinh thần, người bà mềm như bún nép vào vai của Đỗ Văn Hạo nương tựa.

Lần này thì Đỗ Văn Hạo không né tránh nữa, hắn cảm thấy Hoàng Thái Hậu quả thật vô cùng đáng thương, bà đã sống một cuộc sống hình đơn bóng chiếc gần hai mươi năm nay, bây giờ con trai của bà, Hoàng Thượng lại vừa mới băng hà, ngay cả Thái Hoàng Thái Hậu cũng theo đó mà quy tiên, bà cô đơn khổ sở bao nhiêu năm nay không một ai biết đến, vậy mà bây giờ bao nhiêu là việc đổ đồn hết lên đầu bà, làm cho bà càng u sầu, càng chán nản buồn bã hơn. Nhưng, việc đến đây vẫn còn chưa hết, trong lúc tang gia bối rối như thế này thì hai đứa con trai và đứa cháu ruột của bà lại huy động binh lực chuẩn bị một cuộc đổ máu để tranh giành ngôi báu, thử hỏi một con người yếu đuối như bà sao có thể chịu đựng thêm được nữa, gánh nặng của trách nhiệm cũng như sứ mệnh nặng nề bây giờ đang đặt lên đôi vai gầy nhỏ của bà, thử hỏi bà làm sao mà chịu đựng được? Cái mà Hoàng Thái Hậu cần nhất lúc này đó chính là một bờ vai vững vàng có thể nương tựa. Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ cho dù bờ vai của mình chẳng có gì là vững vàng cho lắm, nhưng có vẫn còn hơn không.

Chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo không những không né tránh, mà thậm chí còn ngồi ngay ngắn hẳn người lên để mặc cho Hoàng Thái Hậu thích ôm gì thì ôm, thích dựa gì thì mặc, Hoàng Thái Hậu được thể càng ôm chặt lấy hắn khóc rên rưng rức, tiếng khóc của bà ai oán. đau đớn như đang rỉ máu vậy.

Đỗ Văn Hạo ghé mắt lên nhìn bờ vai gầy của Hoàng Thái Hậu không ngừng rung lên, tiếng khóc càng lúc càng u buồn, cảm giác thương hoa tiếc ngọc trong lòng hắn bỗng nhiên trỗi lên mãnh liệt, hắn vốn là người của thời hiện đại, đối với những giáo điều phong kiến thì vô cùng xem nhẹ, hơn nữa lúc này nơi đây cũng chẳng có ai ngoài hắn và Hoàng Thái Hậu, mà hắn cũng chỉ muốn an ủi Hoàng Thái Hậu mà thôi, chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo sau một vài phút chần chừ liền đưa tay ra ôm lấy eo của Hoàng Thái Hậu mà an ủi, mà vỗ về.

Dưới sự vỗ về an ủi của Đỗ Văn Hạo, Hoàng Thái Hậu như một con thuyền nhỏ giữa đại dương hung dữ tìm được bờ, hành động này của Đỗ Văn Hạo làm cho Hoàng Thái Hậu dường như quay về với ngày xưa. Ngày đó mỗi lần có chuyện gì không vui, bà đều chạy vào lòng của Tống Anh Tông rồi gục đầu khóc trong đó, và Tống Anh Tông liền đưa tay lên vuốt vuốt lưng bà như Đỗ Văn Hạo bây giờ. Chính vì vậy mà bây giờ Hoàng Thái Hậu như có cảm giác được ở trong lòng của Tống Anh Tông, trong lúc tình cảm trào dâng mãnh liệt như thế này, Hoàng Thái Hậu không kìm nổi lòng bà quay sang Đỗ Văn Hạo đưa cả hai tay lên ôm lấy cổ của hắn, gục vào trong ngực của hắn mà khóc.

Thân thể của Hoàng Thái Hậu đúng là được duy trì vô cùng tốt. chỗ nào ra chỗ nấy. Đỗ Văn Hạo cũng vòng hai tay mình ra ôm ghì lấy Hoàng Thái Hậu, sau đó lại vỗ vỗ nhè nhẹ lên lưng của bà, nhẹ nhàng an ủi, nhưng hắn lại không hề cảm thấy thân hình ngọc ngà thom ngát của Hoàng Thái Hậu, mà chỉ cảm thấy sự chua xót, đắng cay và tủi hận của bà mà thôi.

Hoàng Thái Hậu gục trong lòng của Đỗ Văn Hạo nấc nghẹn nói: “Ta vốn là muốn triệu gặp ngươi vào trong cung từ tối ngày hôm qua cơ! Vậy nhưng… .nhưng lại sợ ngươi không chịu giúp ta! Ta suy nghĩ đi suy nghĩ lại suốt cả một đêm, nhưng lại thấy không thể nào kéo dài thời gi­an thêm được nữa, chính vì vậy mà….!”

Đỗ Văn Hạo lúc này nghe Hoàng Thái Hậu nói mà bất giác cảm thấy bà đã đổi giọng với hắn đi rất là nhiều. Hoàng Thái Hậu không còn dùng đại từ ai gia đầy tôn nghiêm như trước nữa, mà lại tự xưng mình là ta, tuy là vẫn còn uy thế của người trên, nhưng nó lại thân thiện hơn từ ai gia rất là nhiều, như thể Hoàng Thái Hậu đã coi hắn là người một nhà rồi vậy. Đỗ Văn Hạo nghĩ đến đây bất giác cảm thấy ấm lòng vô cùng, hắn lại ôm ghì lấy Hoàng Thái Hậu chặt hơn nữa, sau đó lại đưa tay lên gương mặt đẹp rạng rỡ của Hoàng Thái Hậu nhẹ nhàng gạt đi những giọt lệ đang lăn trên má, dịu dàng nói: “Hoàng Thái Hậu đúng là nên gọi thân đến bàn bạc vấn đề sớm hơn! Nhưng bây giờ chúng ta vẫn còn thời gi­an cùng nhau nghĩ cách đối phó, nhất định sẽ có cách giải quyết thôi!”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy liền ngửa mặt lên nhìn vào Đỗ Văn Hạo trông chờ, nhưng nước mắt vẫn cứ lăn ra không thể nào kìm lại được, Đỗ Văn Hạo trông bộ dạng của Hoàng Thái Hậu đáng thương như vậy cũng cảm thấy chua xót vô cùng, nhất là khi trông thấy đôi môi của bà, hắn muốn hôn lên đó một cái, nhưng chưa kịp làm gì thì Hoàng Thái Hậu đã lên tiếng nói: “Văn Hạo! Bây giờ ta phải làm sao đây?”

Đỗ Văn Hạo may mà lúc này hãm phanh kịp lúc chưa kịp hôn lên môi của Hoàng Thái Hậu, hắn tự nguyền rủa mình là thằng đểu lợi dụng lúc người ta yếu đuối nhất để giở trò, nên sau khi trấn tĩnh lại liền nhích người mình ra ngoài một chút, ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Bây giờ việc chúng ta cần làm nhất là kìm hãm, ổn định Ung Vương trước! Ung Vương lúc này là nhân vật quan trọng nhất trong vụ việc! Hoàng Thái Hậu bây giờ là người duy nhất có thể triệu kiến được cả Ung Vương và Tào Vương, người có thể tán thưởng cả hai, sau đó ra ý cho hai người biết là họ đều có thể trở thành người kế vị, nhưng không biết nên chọn ai, như thế sẽ hóa giải được quan hệ giữa Ung Vương, Tào Vương và lục Hoàng Tử tránh được cảnh nội chiến!”

Cho dù Đỗ Văn Hạo lúc này đã nhích người ra ngoài một chút rồi, nhưng Hoàng Thái Hậu vẫn thuận thế nhích lại gần hắn ôm lấy, rồi áp sát mặt vào người hắn ngước lên hỏi: “Nếu như cả đứa chúng nó muốn đánh thì làm thế nào đây?”

“Cái này thì phải xem nghệ thuật ăn nói của Hoàng Thái Hậu ra sao rồi! Người có thể nói uyển chuyển một chút, làm cho hai vị vương gia đều cảm thấy Hoàng Thái Hậu đứng về phía họ, ủng hộ họ kế vị ngôi báu, nhưng đồng thời cũng phải khen ngợi lục Hoàng Tử để nói lên sự khó xử của người, như vậy là đã kìm hãm, ổn định được hai vị vương gia rồi! Nói cho cùng thì sử dụng vũ lực là sự lựa chon cuối cùng, chỉ cần hai vị vương gia thấy có hy vọng rồi thì nhất định sẽ không động thủ nữa, như vậy có nghĩa là chúng ta đã đạt được mục đích của mình vì mục đích của chúng ta là kéo dài thời gi­an. Hoàng Thái Hậu cũng có thể cho gọi Tiêu công công đến, ông ấy là một người rất có kinh nghiệm, lại túc trí đa mưu, bên cạnh lại có cả lũ nội thị vạm vỡ chắc chắn sẽ không có vấn đề gì đâu! Bây giờ vi thần phải quay về tìm hiểu tình hình trước, sau đó sẽ nghĩ cách đối phó, nghĩ ra được cách đối phó rồi thì sẽ nói cho Hoàng Thái Hậu biết, như vậy có được không?”

“Ừm! Ta nghe theo lời của ngươi hết!” Hoàng Thái Hậu vẫn nép vào ngực của Đỗ Văn Hạo nhắm mắt tận hưởng cảm giác an bình mà bấy lâu nay bà chưa từng được hưởng.

Sau khi ra khỏi hoàng cung, con tim của Đỗ Văn Hạo vẫn đập thình thịch như trống kéo quân vậy, hắn hồi tưởng lại những cảnh tưởng vừa xẩy ra với mình mà cứ ngỡ như vừa nằm mơ vậy.

Tiếp theo mình phải làm thế nào đây? Mình chỉ là một tên Ngự y quèn, làm cách nào có thể ngăn chặn được cuộc chính biến này đây?

Đỗ Văn Hạo về đến Ngũ Vị Đường thì đã thấy Bàng Vũ Cầm, Lâm Thanh Đại và những người khác đã đứng chờ ở bên ngoài cổng từ rất lâu rồi, mọi người trông thấy hắn bình an trở về ai cũng thở phào nhẹ nhõm.

Thẩm Thăng Bình lúc này cũng đã về đến phủ của hắn, ông đang lo sốt vó lên với tình trạng của Đỗ Văn Hạo, Đỗ Văn Hạo liền gọi ông ta đến thư phòng, sau khi đóng cài then chốt cẩn thận xong liền hỏi han ông ta về tình hình hiện nay.

Thẩm Thăng Bình liền trầm giọng nói: “Ung Vương lúc này đang điều động binh mã rất là ghê gớm, có lẽ sẽ sử dụng vũ lực để tranh quyền đoạt lợi! Còn bên lục Hoàng Tử thì đã có Vi Ngạn canh giữ cẩn mật, binh sĩ hai bên đã nhiều lần phát sinh xung đột rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe mà giật mình sợ hãi: “Quả là đúng thật! Tiêu công công nói quả nhiên không sai!”

“Tiêu công công?” Thẩm Thăng Bình kinh ngạc hỏi lại.

Đỗ Văn Hạo liền gật gật đầu đáp lại, sau đó hắn thuật lại chuyện Thái Kinh, Tư Mã Quang đến tìm hắn ra sao, sau đó vào trong cung gặp gỡ Hoàng Thái Hậu như thế nào, hết thảy đều sơ lược nói qua cho Thẩm Thăng Bình nghe. Dĩ nhiên, hắn không kể cho Thẩm Thăng Bình biết hắn mới đầu cũng ủng hộ Ung Vương, và những hành động quá đỗi thân mật của hắn với Hoàng Thái Hậu, đồng thời còn đem những lời của Tiêu công công nói cho Thẩm Thăng Bình biết.

Thẩm Thăng Bình trầm ngâm đôi lúc rồi nói: “Tiêu công công nói không sai một chút nào cả, Ung Vương đúng là người nổi tiếng không giữ đúng chữ tín của mình! Ông ta đúng là rất thích sưu tầm sách cổ, chính vì vậy mà chỉ cần ông ta biết người nào có sách cổ ở trong nhà là phải nghĩ cách lấy bằng được những quyển sách đó, và sau khi có đưcợc sách trong tay rồi thì lật mặt nhanh như trở bàn tay, hứa nhăng hứa cuội với người ta xong không bao giờ thực hiện lời hứa của mình! Ung Vương thực chất là một kẻ hai mặt, lòng dạ nham hiểm khó lường, xa xôi gì không nói, cứ đem chuyện lão phu ngày trước ra nói là biết ngay thôi! Không biết đại nhân có biết đến Phú Bật không?”

“Phú Bật? Biết chứ, làTể Tướng tiền nhiệm đúng không? Ta còn chữa bệnh cho ông ta rồi nữa!” Đỗ Văn Hạo nói.

“Ông ấy chết rồi!” Thẩm Thăng Bình lắc đầu nói.

“Hả?” Đỗ Văn Hạo kinh ngạc nói: “Sao mà chết vậy?”

“Nói là bị bệnh chết, thực ra là do bị Ung Vương hại chết!” Thẩm Thăng Bình ngao ngán nói.

“Rốt cuộc là có chuyện gì?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

“Trong nhà của Phú Bật có một quyển Phật Kinh, nghe nói cuốn Phật Kinh này là do Đại Sư Huệ Viễn thời Đông Tấn đích thân dùng chữ phạn viết, Ung Vương đã từng ra giá ba trăm lạng vàng để mua cuốn sách đó của Phú Bật! Nhưng, Phú Bật lại không bán, Ung Vương ngoài mặt thì có vẻ coi như không, vẫn tôn trọng, vẫn quan tâm đến Phú Bật! Vậy nhưng Ung Vương lại đứng ở sau lưng không ngừng đả kích Phú Bật, không ngừng nói xấu ông ta trước mặt Hoàng Thượng, cuối cùng Phú Bật bị đầy khỏi kinh thành đến Hào Châu. Sau vụ án của Bạch Y Giáo, Ung Vương lại vu cáo Phú Bật cấu kết với Bạch Y Giáo, Hoàng Thượng liền bắt gi­am Phú Bật vào thiên lao, Ung Vương nghe tin liền cho người đi thong báo cho người nhà của Phú Bật biết, và nói rằng chỉ cần dâng tặng cuốn Phật Kinh viết bằng chữ phạn kia cho Ung Vương thì Phú Bật sẽ được tha! Người nhà của Phú Bật tưởng thật liền cầm ngay cuốn Phật Kinh đó đến dâng cho Ung Vương, nhưng sau khi nhận được cuốn kinh phật này rồi thì Ung Vương lại trở mặt ngay lập tức, ông ta vu cáo Phú Bật có ý làm phản, theo tội thì đáng bị chu di cửu tộc! Nhưng may mà Hoàng Thượng lượng tình tha thứ, chỉ bắt Phú Bật đi tòng quân, đày ra tận quan ải cách kinh thành ba ngàn dặm, và Phú Bật chết trên đường đi tòng quân.”

Đỗ Văn Hạo nghe Thẩm Thăng Bình nói vậy xong thì giật mình kinh hãi, hắn bây giờ mới nhận ra thì ra Ung Vương là con người như vậy, trước mắt thì thơn thớt nói cười, sau lưng thì lại giết người không dao. Cũng may mà mình kịp thời biết được về bản chất con người của Ung Vương, chưa đề xuất ông ta lên kế vị ngôi vua, nếu không thì…hix…hix…Phú Bật chẳng qua chỉ là có một quyển kinh phật của Huệ Viễn đại sư mà đã bị hãm hại như vậy, còn mình thì trong nhà có cả một thùng đựng kinh phật, nếu mà để cho Ung Vương biết được, e rằng…ặc…ặc…!

Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy liền nói: “Nếu mà như vậy thì Ung Vương đúng là người không thể tin tưởng phó thác việc lớn được!”

“Tuyệt đối không được!” Thẩm Thăng Bình nói: “Từ khả năng của một vị vua mà nói, thì hạ thủ tàn độc, ra tay tàn bạo cũng chẳng có gì là ghê gớm cả, nhưng mà không giữ chữ tín, trở mặt nhanh như chớp thì tuyệt đối là một đại kỵ của một vị Quân Vương. Bây giờ cướp ngôi không được thì sử dụng vũ lực, không hề để ý đến mẫu thân của mình nói gì, thực là bất hiếu bất kính! Người có nhân phẩm như vậy sao có thể lên làm vua được? Nhưng lục Hoàng Tử thì hoàn toàn trái ngược, tuy là lục Hoàng Tử nổi tiếng nghịch ngợm, nhưng đó là tính trẻ con nó vậy, ai mà chẳng thế! Lục Hoàng Tử là người rất mực lương thiện, lại vô cùng có hiếu, bất kể là Hoàng Hậu hay Chu Đức Phi nương nương đều đối xử vô cùng lễ phép, sau này chắc chắn sẽ là một vị vua nhân nghĩa!”

“Vậy ý của sư gia là muốn ta phò tá lục Hoàng Tử lên ngôi?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

Thẩm Thăng Bình gật gật đầu đáp: “Đối với đại nhân mà nói thì đây là sự lựa chọn duy nhất của đại nhân rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy sững người nhìn thẳng vào Thẩm Thăng Bình khó hiểu nói: “Sư gia cho rằng một khi Ung Vương đăng cơ lên làm Hoàng Đế sẽ tính sổ với ta về vụ kề đao vào cổ bắt làm con tin hay sao?”

“Theo như tính cách của Ung Vương thì bất luận đại nhân có công lớn như thế nào trong việc phò tá ông ta lên ngôi Hoàng Đế, thì mối thù này ông ta vẫn phải trả cho bằng được! Ung Vương tuyệt đối không phải là người phóng khoáng độ lượng! Những hành vi qua cầu rút ván, ăn cháo đá bát của ông ta nhiều không sao kể xiết, nếu đại nhân muốn có yên bình thì nhất quyết không thể để cho Ung Vương lên ngôi được!” Thẩm sư gia trầm ngâm nói.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đưa hai tay lên cười khổ nói: “Vậy nhưng không phò tá ông ta lên ngôi vua, thì ông ta vẫn cứ tính sổ với ta thì biết làm sao đây! Ông ta là Ung Vương là vương gia trong triều, ta chỉ là một tên Ngự Y quèn, muốn tính sổ với ta dễ như trở bàn tay vậy! Ta trước sau gì cũng phải chết mà thôi!”

“Chính vì vậy mà đại nhân phải nhân cơ hội này mà chiếm lấy một cái chức thật là cao, tốt nhất là nắm trong tay binh quyền, đến khi đó thì không phải sợ Ung Vương báo thù, còn có thể thừa thế tố cáo ông ta chuẩn bị binh lực để làm phản, rồi cho ông ta một vố thật nặng, cắt luôn cả vây cánh xung quanh ông ta, cho ông ta trọn đời không có cơ hội có thể ngóc đầu lên được! Dĩ nhiên cách tốt nhất thì vẫn là…” Thẩm Thăng Bình nói đến đây liền đưa tay lên cổ của mình làm hành động cứa cổ rất ghê rợn.

“Hoàng Thái Hậu không muốn ta làm tổn thương đến bất kỳ một người nào cả!” Đỗ Văn Hạo chán nản nói: “Hơn nữa, ta bây giờ cũng chỉ là một tên Ngự Y nhỏ bé, muốn leo lên chức cao như vậy cũng chẳng thể nào leo lên được!”

“Vừa làm Tể Tướng vừa làm Xu Mật Sử!” Thẩm Thăng Bình chầm chậm nói: “Đại nhân chỉ cần ngồi lên chiếc ghế của Tể Tướng và Xu Mật Sử, trong tay vừa có binh quyền, vừa có danh tiếng thì chẳng việc gì phải sợ Ung Vương cả!”

“Vậy nhưng Tể Tướng và Xu Mật Sử không thể nào kiêm chức cùng làm được!” Đỗ Văn Hạo sốt sắng nói.

“Được chứ sao lại không! Những năm Khánh Lịch (từ năm1041 sau công nguyên tới năm 1048 sau công nguyên) thì đã có người thống lĩnh ba quân tấn công Tây Hạ, thân kiêm chức Tể Tướng và Xu Mật Sử! Chính vì vậy mà các quy định đều do con người đặt ra cả!” Nói tới đây, Thẩm Thăng Bình liền đưa con mắt sâu thăm thẳm của mình lên nhìn Đỗ Văn Hạo rồi nói: “Chỉ có lục Hoàng Tử lên kế vị, Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính! Nếu đại nhân có Hoàng Thái Hậu đỡ lưng cho thì muốn có chức vụ này là có thể thành hiện thực được!”

“Vậy nhưng, bản thân ta không phải là người có thể làm quan to như vậy, để ta chữa bệnh cho người còn được, chứ bắt ta cai trị quốc gia thì thật ta không làm được! Khi đó ở Phủ Tĩnh Gi­ang tại Thành Đô, chỉ mỗi cái chức Câu Quản Quan bé tí tẹo thôi mà ta đã quay như chong chóng rồi chứ đừng nói đến làm Thủ Tướng cả cái Đại Tống to lớn này, à không là Tể Tướng của Đại Tống, lại còn bảo ta chỉ huy quân đội, ta có biết cầm quân đánh trận đâu cơ chứ!”

Thẩm Thăng Bình nghe vậy liền mỉm cười nói: “Đại nhân từng đem quân đánh tan giặc Tây Sơn trong tình thế quân địch đông hơn quân ta, trận chiến đó thắng đẹp như vậy, sao đại nhân lại nói mình không biết cầm quân hả?”

“Cái đó…cái đó không giống như bây giờ! Hơn nữa ta kiêm cả hai chức vụ to lớn như vậy chắc chắn sẽ làm cho người khác đố kỵ, Hoàng Thái Hậu lúc đó cũng sẽ nghi ngờ ta, như vậy không hề tốt chút nào cả!” Đỗ Văn Hạo cố cãi.

Thẩm Thăng Bình nghe vậy liền gật gật đầu tán đồng nói: “Đại nhân nói cũng có lý! Hơn nữa, đại nhân còn trẻ người non dạ như vậy mà đã từ một Đề Hình Quan tòng tứ phẩm tăng vọt lên Tể Tướng kiêm Xu Mật Sử nhất phẩm chắc chắn sẽ có nhiều người không phục, ngay cả Hoàng Thái Hậu e rằng cũng không dám cất nhắc đại nhân thăng chức nhanh như vậy!”

“Ta đã nói mà! Sư gia mau mau nghĩ cách khác cho ta, chỉ cần tránh khỏi sự trả thù của Ung Vương là được rồi!” Đỗ Văn Hạo nói.

“Cho dù không cần phải kiêm cả hai cái chức vụ cao như vậy, đại nhân cũng nên lợi dụng cơ hội này mà thăng chức! Đại nhân bắt buộc phải là người chức cao vọng trọng thì Ung Vương mới không dám đụng tới đại nhân, lão phu nghĩ đi nghĩ lại thì đại nhân tốt nhất là nên nắm binh quyền trong tay! Đồng thời phải nhân cơ hội này mà chèn ép, kìm hãm các thế lực của Ung Vương, chúng ta bây giờ chỉ còn mỗi cách là đi đến đâu hay đến đó mà thôi!” Thẩm sư gia lắc lắc đầu nói.

“Được!” Đỗ Văn Hạo gật đầu tán đồng: “Vậy thì bước tiếp theo ta phải làm thế nào?”

“Đại nhân khi trước đưa ra chủ ý cho Hoàng Thái Hậu là rất chuẩn xác và cao tay, bây giờ tình hình trước mắt là ổn định, kiềm chế Ung Vương trước, sau đó mới nghĩ cách đối phó! Cái đối sách này thì lão phu cũng vừa mới nghĩ ra, bây giờ nói cho đại nhân nghe xem thế nào!”

Thẩm Thăng Bình nói xong liền ghé sát miệng vào tai của Đỗ Văn Hạo lì xì lào xào cái gì đó vô cùng bí ẩn.

Đỗ Văn Hạo vừa nghe vừa gật đầu khen hay nói: “Ta thấy cách này hay đấy! Chúng ta cứ theo đó mà làm!”

Chương 383: Bẩy

Trong phủ tể tướng.

Tể tướng Vương Khuê thân mặc cẩm bào, ngồi khoanh chân trên chiếc giường mềm bằng gỗ lim mạ viền vàng, dưới mông là đệm bào đại hồng kim tuyến, dựa nghiên vào gối đoạn hoa màu vàng, tay cầm một chuỗi phật châu bằng mã não, tay kia bưng một chén trà bằng sứ trắng, nắp đậy lệch, để lộ ra một mùi thơm thoang thoảng. Lão mấy lần đưa chén trà lên miệng rồi lại dừng, đặt xuống trở lại. Đôi lông mày rậm đã hoa râm của lão lúc này đang nhíu chặt, đôi mặt già nua một mực nhìn chằm chằm vào mặt đất, không biết trong đầu đang nghĩ gì.

Bên cạnh giường mềm là một lão già tuổi già sức yếu, tay cầm một quải trượng làm bằng gỗ mun, đang không ngừng lầu bầu. Người này đương nhiên chính là lão thần Tư Mã Quang.

Tư Mã Quang đang vô cùng lo lắng, giậm quải trượng xuống đất, nói: “Vũ Ngọc huynh, da miệng ta như sắp rách cả rồi, nói bao nhiêu như vậy mà huynh không nói được câu nào à?”

Vương Khuê mặt mày buồn bã, cùng lầm bầm một câu: “Còn nói cái gì nữa? Lúc trước ở trên đại điện, ý tứ trong lời nói của Hoàng Thái Hậu đã rất rõ ràng rồi, tuy còn chưa đưa ra quyết định cuối cùng, nhưng ý kiến của bà ấy vẫn là chỉ định nhi tử Ung vương hoặc là Tào vương kế vị. Tôn tử dẫu sao vẫn còn cách một đời, nhi tử vẫn thân hơn một chút.”

Tư Mã Quang vội vàng nói: “Đúng vậy! Chúng ta không thể trơ mắt nhìn Đại Tống chính thống rơi vào tay người ngoài được!”

Vương Khuê cuối cùng cũng đưa chén sứ trắng lên miệng, chưa kịp nhấp đã lại bỏ xuống: “Huynh không phải nói là tên ngự y Đỗ Văn hạo đó có thể thuyết phục được Hoàng Thái Hậu sao?”

“Đúng vậy! Từ thái độ của Hoàng Thái Hậu hôm nay cho thấy, hắn khẳng định là không nêu ý kiến với Hoàng Thấu Hậu về chuyện để Lục hoàng tử kế vị! Ài! Ta coi như là cầu xin vô ích rồi! Vốn cho rằng hắn còn trẻ nên dũng cảm, nào ngờ tên này rốt cuộc vẫn sợ phiền phức, quả thực là gan nhỏ như gan chuột!”

“Không phải vậy đâu!” Vương Khuê chậm rãi lắc đầu: “Hắn nếu gan nhỏ như gan chuột, vậy thì sao dám bắt cóc hai vị vương gia? Thậm chí còn làm bị thương Tào vương nữa?”

Tư Mã Quang tức giận nói: “Hắn đó là chó cùng cắn…Phì phì, ta không nên nói hắn như vậy, hắn suy cho cùng cũng đã cứu cái mạng già của ta. Hắn lúc đó là dưới tình thế cấp bách nên bất đắc dĩ mà thôi. Đến khi thực sự tới lúc trọng yếu, vẫn là hạng ôm đầu chạy trước! Ta phì! Ta sao lại nói năng linh tinh như vậy chứ! Phì ph!”

Vương Khuê mỉm cười nói: “Quân Thực huynh, đừng quên lúc trước ở phủ thành đô, đối diện với hai vạn phiên quân. Dưới tay Đỗ Văn Hạo chỉ có năm ngàn người mà y vẫn không hề sợ hãi, còn dùng xảo kế tiêu diệt toàn bộ quân địch, vừa có dũng lại vừa có mưu. Hắc hắc, người này không phải là hạng chuột nhắt đâu, cũng tuyệt không phải là hạng người chịu ở lâu bên dưới người khác. Có khi, hắn chính là một con kim lân đó!”

“Đỗ Văn Hạo là một nhân vật, thành tựu của hắn cũng tuyệt không chỉ như hiện tại. Cái này ta biết. Có điều, thành đô nhất chiến có phải cũng giống như chuyện hiện tại đâu? Trên chiến trường ngươi chết ta sống, đó là chuyện bất đắc dĩ. Trên quan trường thì đâu có đơn giản như vậy. Ta đoán rằng hắn cũng chính là vì từng đắc tội với hai vương gia, cho nên mới bất đắc dĩ phải làm vậy, muốn ủng hộ Ung vương để đổi lấy hào cảm của Ung vương, để tránh tương lai Ung vương tìm hắn gây phiền phức. Hắn chẳng lẽ không biết Ung vương là hạng người nhỏ mon chuyên lật lọng sao?”

Vương Khuê nói: “Cho dù biết thì hắn e rằng cũng chỉ đành cược một ván thôi, phụ tá có công, lấy công chuộc tội cũng là một biện pháp hay mà. Còn chúng ta thì sao? Có thể làm gì được hắn chứ? Hắn vì sao mà phải giúp Lục hoàng tử? Cái này gọi là cân nhắc lợi hại đó!”

Mắt Tư Mã Quang sáng lên: “Lời này của huynh đã nhắc nhở ta. Đúng rồi, chúng ta nên tìm Lục hoàng tử, phong quan hứa nguyện cho Đỗ ngự y, xu lợi trốn hại là bản tính của con người, cái này cũng không thể trách hắn được, nếu trách thì chỉ có thể trách chúng ta không cho người ta lợi ích gì thôi. Người không vì mình thì trời tru đất diệt, có được mấy lão gia hỏa chỉ nghĩ tới cương thường chính thống như chúng ta chứ? Không sai, tìm Lục hoàng tử đi. Bảo ngài phong quan hứa nguyện cho Đỗ Văn Hạo!”

“Lục hoàng tử mới mười tuổi, hiểu được cái gì chứ! Phong quan hứa nguyện như thế nào bây giờ? Không hiện thực tí nào.”

Tư Mã Quang ngẫm thấy cũng đúng, nhưng cục tức trong lòng lão vẫn chưa trút ra được, lạnh lùng nói: “Vậy! Chúng ta đi tìm Hoàng Thái Hậu quỳ gối can gián đi!”

“Chậm đã!” Vương Khuê nhẹ nhàng đặt chén sứ trắng lên chiếc bàn nhỏ đặt ngang trên giường: “Quân Thực huynh, chớ có nóng nảy, quỳ gối can gián cũng không có tác dụng gì đâu! Hoàng Thái Hậu hiện tại vẫn chưa nên gặp, chúng ta ngay cả thẩm cung cũng không vào được thì quỳ gối can gián kiểu gì!”

“Vậy thì quỳ ở trước cửa hoàng cung đi, quỳ đến chết còn hơn là trơ mắt nhìn tên Ung vương đó soán vị!” Tư Mã Quang nói xong liền chống quải trượng đi ra ngoài cửa.

Vương Khuê bước xuống giường, cầm phật châu mã não bước tới bên cạnh Tư Mã Quang, nói: “Quân Thực huynh, ta hỏi huynh. Huynh nói xem thên Đỗ Văn Hạo này thực sự là có thể thao túng ý kiến của Hoàng Thái Hậu không?”

Tư Mã Quang quay người lại, nói: “Đương nhiên! Lúc buổi chiều, hắn tới hoàng cung, nói chuyện với Hoàng Thái Hậu cả tiếng đồng hồ. Sau khi rời đi, Hoàng Thái Hậu liền hạ lệnh triệu tập chúng ta vào cung, nhưng lại không nghe lời khuyên can của bất cứ người nào, chỉ một mực khen Ung vương có tài trị quốc an bang. Đúng rồi, còn khen cả Tào vương nữa, khen xong thì đi thẳng vào hậu đường, mặc kệ chúng ta có nói gì. Cho dù cũng nói rằng Lục hoàng tử tính tình nhân từ, bà ta vẫn còn chưa đưa ra ý kiến cuối cùng, bảo chúng ta trước tiên giúp cân nhắc. Huynh cũng nghe thấy những lời này, nhưng ai ai cũng nghe ra rằng ý kiến của bà ta là muốn để Ung vương kế vị rồi! Huynh chẳng lẽ không nhìn thấy Ung vương lúc đó vui mừng như thế nào à? Nếu không phải là Đỗ Văn Hạo đổ thuốc lú cho Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu sao lại tỏ thái độ như vậy? Thế gi­an nào có chuyện trùng hợp như vậy chứ?”

Vương Khuê gật gật đầu, trầm ngâm một lát rồi nói: “Quân Thực huynh, theo ý kiến của huynh, nếu hiện tại Đỗ Văn Hạo lại tìm đến khuyên bảo Hoàng Thái Hậu, bảo bà ta quay sang chỉ định Lục hoàng tử kế vị, cái này liệu còn có khả năng hay không?”

“Đương nhiên là có thể rồi! Chỉ cần là chưa đăng cơ thì có thể đổi!” Tư Mã Quang nghe ra ý ngầm trong lời nói của Vương Khuê, nghi hoặc hỏi: “Vũ Ngọc huynh, huynh hỏi câu này là có ý gì? Chẳng lẽ huynh còn có chủ ý hay nào đó rồi ư?”

Vương Khuê cười rất thần bí, vê phật châu rồi từ từ bước về chỗ, bước lên bậc, cởi dép mềm, ngồi lại lên đệm ở giường mềm, ung dung thưởng thức trà thơm.

Tư Mã Quang thấy cảnh này, cộp cộp gõ quải trượng quay lại, nằm bổ lên cái bàn nhỏ đặt cạnh giường mềm, thấp giọng hỏi: “Ê! Vũ Ngọc huynh, huynh có chủ ý gì thì mau nói ra đi! Ài! Đừng có làm ta tò mò muốn chết chứ?”

Vương Pháp liếc xéo lão một cái, thần bí hề hề nói: “Tuy chúng ta không thể phong quan hứa nguyện cho hắn, nhưng chẳng lẽ lại không có biện pháp khác để hắn giúp chúng ta ư?”

“Biện pháp gì vậy?”

“Khuyên bảo lợi hại, phong quan hứa nguyện là mồi, là lợi. Chúng ta không có “lợi” thì chúng ta có thể dùng “hại”, ha ha!”

Tư Mã Quang nhíu mày, nói: “Hại? Ý tứ gì đây?”

“Huynh sao thông minh cả đời mà lại hồ đồ nhất thời như thế? Cái gì là hại? Hại chính là cái tròng! Bố trí một cái tròng cho hắn chui đầu vào, để hắn có cái phải sợ! Thế chẳng phải hắn sẽ ngoan ngoãn nghe lời chúng ta sao?”

Tư Mã Quang từ trên giường mềm ngồi dậy, sợ hãi nói: “Không được! Ta không tán thành! Nói sao thì hắn cũng là ân nhân cứu mạng của ta. Mà hắn tính tình nhân hậu, không có lòng hại người mà chúng ta lại bố trí bẫy để hại hắn. Không được! Chúng ta không thể làm ra loại chuyện bất nghĩa như vậy được!”

Vương Khuê mỉm cười kéo lão ngồi lên lại giường mềm: “Quân Thực huynh, cái tính nóng vội của huynh bao giờ mới có thể sửa được đây! Nghe ta nói xong đã nào.”

“CÒn cái gì để mà nói nữa!”

“Huynh trước tiên cứ nghe cho xong đã rồi hẵng đánh giá! Chúng ta đương nhiên không thể làm ra loại chuyện bất nghĩa như vậy. Có điều, muốn dụ người vào bẫy, cũng không nhất định phải dùng chuyện bất nghĩa. Cái bẫy này nếu giúp hắn có được lợi lộc thì khi nghĩ lại cũng c tâm tình nguyện thôi.”

Từ Mã Quang chậm rãi quay đầu lại nhìn lão, nói: “Ồ? Còn có loại bẫy này ư? Nói ra nghe xem nào!”

Vương Pháp ghé vào tai Tư Mã Quang, thì thầm nói ra kế hoạch. Tư Mã Quang vỗ tay cười to: “Diệu! Đúng là diệu! Lão gia hỏa huynh giỏi thật, huynh đây là một mũi tên bắn chết hai con chim, chính là khiến hắn không thể không giúp chúng ta làm việc, lại tìm cho bản thân huynh một…”

“Hây!” Vương Gi­ai ra dấu hiệu chớ có lên tiếng, bảo: “Kế này đã được rồi thì chúng ta lập tức đi làm thôi. Thời gi­an không đợi người đâu!”

“Tốt!”



Đúng vào lúc này, chính đường của phủ Ung vương.

Ung vương đang ngồi trên ghế xếp tủm tỉm cười, ngồi ở một hàng ghế phía tay trái là Tào vương, hữu tể tướng Thái Xác, lịch sử quán kiểm giáo kiêm tá lang Hình Thứ ngồi ở ghế bên phải.

Thái Xác và Hình Thứ hai người liên tục buông những lời nịnh hót rất êm tai, Ung vương nghe mà vô cùng cao hứng.

Tào vương vuốt chòm râu đen, nói: “Không ngờ mẫu hậu lại đưa ra quyết định nhanh như vậy. Xem ra, sự điều binh khiển tướng trước đây của chúng ta có chút lo xa quá rồi?”

Ung Vương xua tay, nói: “Không! Tuyệt không phải là dư thừa đâu, nếu không có những động tác này. Mẫu hậu cũng sẽ không đưa ra quyết định nhanh như vậy, mà huống chi hiện tại mẫu hậu vẫn chưa đưa ra quyết định cuối cùng. Sự chuẩn bị về võ lực chỉ có thể tăng cường chứ không được bớt đi!”

Ba người vội vàng vâng dạ.

Thái Xác nghĩ một chút rồi khom người nói: “Ung vương gia, hiện tại thái hoàng thái hậu đã biểu lộ ý tứ chỉ định vương gia kế vị rồi. Hành động của chúng ta có phải là nên kín đáo hơn một chút không? Để tránh tương lai để người ta mượn cớ, nói vương gia là dùng vũ lực để cưỡng đoạt hoàng vị, thế thì sẽ không hay.”

Ung vương gật đầu, nói: “Ừ, ngươi nhắc nhở rất đúng, rất có đạo lý. Lập tức nói với mã quân đô chỉ huy sứ Mã Toàn Dũng cùng bộ quân đô chỉ huy sứ Thạch Nguyên, bảo bọn chúng hạ lệnh khắc chế thủ hạ, đừng gây hấn với đám người Điện tiền ti của Vi Ngạn. Bảo trì cự ly nhất định với chúng, đề cao cảnh giác đợi lệnh!”

Thái Xác vội vàng đáp ứng.

Tào vương nói: “Hoàng huynh, không ngờ tên họ Đỗ này thực sự có phân lượng, vào cung gặp mẫu hậu, mẫu hậu lập tức tỏ thái độ. Hoàng huynh, huynh nói xem, mẫu hậu vì sao lại nghe lời của tên ngự y nho nhỏ này?” Nói tới đây, Tào vương sờ sờ băng vải vẫn còn quấn trên cổ, cảm thấy vết thương ở trên cổ vẫn còn ngâm ngẩm đau, không khỏi hậm hực nói: “Tên tiểu thử này khiến bản vương phải chịu nhục trước mặt mọi người, bản vương tuyệt đối sẽ không nuốt cục tức này đâu!”

Ung vương hờ hững nói: “Chuyện nhỏ không biết nhịn thì mưu lớn ắt sẽ loạn. Mẫu hậu vì sao lại nghe lời tên tiểu tử đó thì bản vương cũng không biết. Có điều xem ra phán đoán của chúng ta đã đúng rồi. Tên tiểu tử này cũng bởi vì đã đả thương ngươi, bắt cóc ta mà cảm thấy sợ hãi, cho nên mới quyết một lòng giúp chúng ta. Bất kể là hắn dùng biện pháp gì để thuyết phục mẫu hậu, chỉ cần mẫu hậu đáp ứng để bản vương kế vị là được rồi. Hắc hắc, còn muốn trút giận ư. Đợi khi hắn nằm trong tay chúng ta thì lúc đó muốn giày vó hắn thế nào thì cứ giày vò hắn thế nấy!”

Tào vương cũng đắc ý mà bật cười, nói: “Vậy thì tốt rồi! Đúng rồi, vừa rồi mẫu hậu cũng khen đệ, nói đệ cũng có tài trị quốc an bang đó, hắc hắc!”

Hình Thứ ở bên cạnh làm cẩm tú văn trương thì quả thực không tồi, nhưng tính tình thì lại chẳng ra làm sao, hơn nữa thường thường lời cứ ra khỏi miệng là như ngựa chạy không gì cản nổi, cũng không nhìn thấy sắc mặt của Ung vương khi nghe thấy những lời này thì trầm xuống mà bợ đít rất không đúng lúc đúng chỗ: “Đúng vậy, Hoàng Thái Hậu nói Ung vương gia và Tào vương gia đều là lương đống có tài trị quốc an bang, còn đặc biệt nhắc tới Tào vương tính tình cơ cảnh, hiểu rõ nhân tình.”

“Đủ rồi!” Ung vương vỗ manh lên tay nắm ghế, trừng mắt nhìn Tào vương: “Sao hả? Hoàng đệ, ngươi cũng muốn tranh đoạt hoàng vị với bản vương ư?”

Tào vương hai tay vung vẩy không biết để vào đâu, sợ hãi nói: “Không không! Hoàng hunh, đệ vừa rồi chỉ nói vậy mà thôi, không có ý gì cả. Hoàng huynh chớ có đa nghi.”

Ung vương nặng nề hừ một tiếng, nói: “Kẻ nào một lòng một ý giúp bản vương, bản vương sau khi đăng cơ, tự nhiên sẽ không thiếu cho tốt cho hắn. Nếu ở sau lưng bản vương mà đâm một đao, bản vương tuyệt sẽ không mềm tay đâu!”

Tào vương, Thái Xác và Hình Thứ vội vàng cúi người đáp ứng. Tào Vương trên mặt vẫn có chút xấu hổ, nói: “Hoàng huynh, tên Đỗ Văn Hạo coi bộ cũng là một lòng một ý phụ tá huynh, vậy tương lai…”

“Hắn ư?” Giữa hai lông mày của Ung vương thoáng hiệu một tia sát khí, nói: “Hắn cho dù có công lao to bằng trời thì cũng không thoát được tội dám bắt cóc bản vương! Bản vương tương lai sau khi đăng cơ, nhất định sẽ phải đem hắn lăng trì xử tử!” Nói tới đây, Ung vương đứng bật dậy, chắp tay sau lưng nhìn ba người, lạnh lùng như băng sương nói gằn từng chữ: “Đối với bản vương mà nói, không hề có chuyện lấy công chuộc tội gì cả. Vô luận là ai, đều không được phép phạm phải bất kỳ một sai lầm nào. Kể cả một lần cũng không được. Mệnh lệnh của bản vương phải tuyệt đối kiên quyết chấp hành, đối với bản vương thì càng không được phép có bất kỳ một lời bất kính nào. Nếu không, kết cục tương lai của Đỗ Văn Hạo chính là tấm gương cho hắn.”

Tào Vương, Thái Xác, Hình Thứ vội vàng cúi người đáp ứng, mặt ai cũng đầy vẻ sợ hãi.

Đúng vào lúc này, một phó tùng cầm một tấm thiệp bái phỏng trong tay tiến vào, cúi người nói: “Hồi bẩm vương gia, Đề hình quan Đỗ Văn Hạo cầu kiến!”

Bốn người quay sang nhìn nhau, sát khí trên mặt Ung vương trong nháy mắt đã biến mất sạch sành sanh, biến thành tươi cười hớn hở, giống như là vừa rồi không hề nói tới chuyện giết người, mà là đang đàm luận về một cô nương mỹ mạo, cười tủm tỉm nói: “Nhắc tới Tào Tháo và Tào Tháo tới liền, tên tiểu tử này có phải tới để đòi công không? Mau mời vào! Mấy người các ngươi lui vào hậu đường trước đi!”

Ba người bọn Tào vương dạ một tiếng rồi tránh vào trong hậu đường.

Ung vương mặt mày tươi cười bước nhanh ra ngoài chính đường, đi qua sân nhà, tới trước cửa thùy hoa, từ xa đã thấy Đỗ Văn Hạo đang đứng dưới hành lang phòng khách. Ung vương ha ha cười lớn, dang hai tay ra nghênh đón, nắm lấy vai Đỗ Văn Hạo rồi ra sức mà lắc, thỉnh thoảng còn vỗ một cái: “Vân Phàm lão đệ, làm tốt lắm! Ha ha, không cô phụ hi vọng của bản vương.”

Đỗ Văn Hạo thụ sủng nhược kinh vội vàng chắp tay nói: “Đa tạ Ung vương khen ngợi, ti chức sao dám xưng đệ gọi huynh với vương gia.”

“Ài! Ngươi có thể giúp bản vương thuyết phục mẫu hậu để bản vương được kế vị thì chính là hảo huynh đệ của bản vương rồi. Từ này về sau cứ gọi nhau là huynh đệ với bản vương đi! Nếu không, bản vương sẽ tức giận đó!” Nói xong liền thổi râu cố ý làm mặt nghiêm.

Xương cốt trong người Đỗ Văn Hạo giống như là lập tức nhẹ đi mấy lần, lộ ra bộ dạng nộ tài được yêu quá mà sợ, luống cuống chắp tay nói: “Ngu đệ đa tạ vương gia, à không, đa tạ hoàng huynh yêu mến!”

Hắn gọi Ung vương là hoàng huynh, rõ ràng là có chút bất loại bất luân. Có điều Ung vương bảo hắn gọi huynh xưng đệ với mình, đương nhiên chỉ có thể xưng hô như vậy thôi.

Ung vương đưa tay ra nắm lấy cánh tay Đỗ Văn Hạo, vai sánh vai vừa quay về chính đường vừa nói chuyện, trước tiên bảo Đỗ Văn Hạo ngồi xuống ghế, rồi lại thân thiết vỗ vỗ vai hắn, ngẩng cổ lên lớn tiếng phân phó người hầu đứng ở cửa dâng trà, sau đó mới ngồi xuống ghế gập ở chính giữa.

Trà thơm được đưa lên, Ung vương nhấc chén mời: “Hiền đệ, đây là cống phẩm long trà, là hoàng huynh của ta tặng cho ta!” Nói tới đây, sắc mặt của Ung vương lập tức trở nên ảm đạm, tròng mắt ươn ướt, nói: “Ài! Hoàng huynh của ta đang lúc tráng niên, sao có thể lại…đúng là trời đố kỵ anh tài mà!”

Đỗ Văn Hạo cũng buồn bã nói: “Đúng vậy, có điều, nghe nói hoàng thượng lăng thiên trường thệ (chết nhanh), không hề phải chịu đau đớn dằn vặt, cũng tính là đại hạnh trong bất hạnh rồi.”

Ung vương gật đầu nói: “Đúng vậy, chỉ đáng tiếc khi hoàng huynh bệnh phát, hiền đệ lại tuần y ở địa phương xa xôi. Nếu không, hoàng huynh chắc cũng không đến nỗi…Ài, đây cũng là ý trời.”

Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng nói: “Đúng vậy, kỳ thực viện sử Trịnh Cốc, đại phương mạch thái y thừa Ngụy Triển, sang dương thái y Lý Khánh Thái của thái y viện y thuật đều rất tài giỏi, không hề dưới ngu đệ. Nghe nói bọn họ thậm chí còn không kịp chạy tới nơi để cứu trị thì hoàng thượng đã băng hà rồi. Cái này cũng là không có cách nào khác.”

“Hừ! Hiền đệ nếu không nhắc tới bọn chúng còn đỡ, nhắc tới bọn chúng là bản vương thấy tức giận rồi. Trị thủ thái y (thái y trực nhật) của hoàng thượng hôm đó chính là đại phương mạch thái y thừa Ngụy Triển! Hôm đó hắn không ngờ lại uống tới say mềm, gọi hắn tới cấp cứu mà không cách nào lay tỉnh được hắn, làm chậm trễ việc cứu trị cho hoàng huynh, mà phái người đi gọi thái y khác thì đã không kịp. Hừ! Cái đám vô dụng đó, bản vương đã hạ lệnh tống thằng nhãi Ngụy Triển vào tử lao rồi. Đợi sau khi bản vương đăng cơ, hiền đệ, ta sẽ để ngươi trọng trấn thái y viện, đuổi hết những tên thái y vô dụng đó đi, tìm kiếm những danh y khác, nhất thiết phải tuyển chọn người có y đạo cao minh, y đức cao thượng. Không thể để những tên hỗn trướng, lừa gạt như Ngụy Triển được tiến vào thái y viện nữa!”

Đỗ Văn Hạo vội vàng cúi người nói: “Ngu đệ cẩn tuân mệnh lệnh của hoàng huynh!”

Ung vương lại nhìn Đỗ Văn Hạo, có chút hứng thú hỏi: “Đúng rồi, hiền đệ, ngươi làm thế nào mà thuyết phục được mẫu hậu, khiến mẫu hậu để ta kế thừa hoàng vị vậy?”

Đỗ Văn Hạo vội vàng nói: “Kỳ thực ngu đệ cũng không nói gì nhiều, chỉ nói là hoàng huynh tính tình trượng nghĩa, nhắc tới chuyện ngày đó ngu đệ bắt cóc Tào vương, nói lúc ấy hoàng huynh đại nghĩa lăng nhiên, làm con tin thay cho Tào vương, thực sự là chân hán tử, đại anh hùng đỉnh thiên lập địa. Hoàng Thái Hậu liền khen ngợi hoàng huynh một chập, có lẽ là chuyện đã đã giúp người đưa ra quyết định. Kỳ thực Hoàng Thái Hậu phi thường liễu giải về tài trị quốc an bang của vương gia, sớm đã tính sẵn trong lòng, những lời này của ta chẳng qua là cổ vũ thêm mà thôi.”

Ung vương cười ha ha, nói: “Không ngờ chuyện đó là chuyện xấu mà lại thành chuyện tốt, trở thành vốn mua danh chuộc tiếng cho bản vương, ha ha ha.”

Ung vương lấy mình ra để giễu cợt, Đỗ Văn Hạo tất nhiên không dám phụ họa, chỉ cười bồi hai tiếng.

Ung vương lại nói: “Hiền đệ, nhiệm vụ sau này của ngươi chính là tiếp tục thuyết phục mẫu hậu, để mẫu hậu sớm tuyên bố cho bản vương kế thừa hoàng vị. Sau khi bản vương đăng cơ, ngươi sẽ lập công đầu, bản vương sẽ không bạc đãi ngươi đâu. Hắc hắc, nói đi, muốn được thưởng gì?” Ung vương cười tủm tỉm nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo mặt mày sợ hãi, vội vàng đứng dậy cúi người nói: “Ngu đệ không dám, chỉ cần hoàng huynh và Tào vương gia có thể tha thứ cho hành vi bất kính của ngu đệ ngày đó, miễn cho ngu đệ tội chết thì ngu đệ đã hài lòng lắm rồi. Không dám có hi vọng xa vời gì khác.”

Ung vương cố ý sầm mặt xuống, nói: “Hiền đệ nói cái gì vậy? Bản vương không phải đã nói rồi sao, chuyện đó chỉ là hiểu lầm, đã qua rồi thì đừng có nhắc đến nữa! Sao? Lời của hoàng huynh ngươi không nghe ư?”

Chương 384: Hang hổ

Đỗ Văn Hạo bộ dạng cảm động đến chảy nước mắt, vội vàng chỉnh lại vạt áo rồi khom mình nói: “Hoàng huynh khoan hồng đại lượng, ngu đệ sau này sẽ không nhắc tới nữa.”

Ung vương lúc này mới chuyển giận thành vui, nói: “Lần trước Thái tể tướng nói với bản vương, hứa cho ngươi đảm nhiệm chức xu mật phó sứ, bản vương lập tức đáp ứng rất thống khoái. Hiền đệ tại phủ lộ thành đô nghênh chiến phiến quân Thổ Phiên Tây Sơn lộ, dưới tình huống lấy ít địch nhiều, né tránh mũi nhọn của chúng, dắt mũi địch nhân, lợi dụng chiến cơ có lợi kịp thời tổ chức phản kích, giành được toàn thắng, tiêu diệt toàn bộ phiến quân Tây Sơn bộ, trận này thắng rất đẹp. Tuy ngươi tự ý nắm quân quyền, phạm phải đại kỵ, nhưng cũng là vì quân tình khẩn cấp mà thôi. Bản vương đã khuyên hoàng huynh đừng xử phạt ngươi quá nặng, hơn nữa còn phải chú ý tới tài năng quân sự của ngươi, thép tốt thì phải dùng trên lưỡi đao, vị trí xu mật phó sứ này chính là để sẵn cho ngươi đó. Ha ha!”

Đỗ Văn Hạo trên mặt lộ ra vẻ đắc ý: “Hoàng huynh quá khen. Hắc hắc!”

“Được rồi! Sau này bản vương đăng cơ sẽ để ngươi suất quân bắc chinh Tây Hạ cho bản vương, tiêu diệt đám chuột Đại Liêu này, hoàn thành đại nghiệp thống nhất gi­ang sơn.”

Đỗ Văn Hạo vừa kinh vừa hỉ vội vàng đứng dậy, chắp tay nói: “Đa tạ hoàng huynh, ngu đệ sẽ cúc cung tận tụy, sau này huy sư bắc thượng san bằng Hạ Liêu.”

“Được rồi, chúng ta một lời đã định. Ngươi hiện tại quay về đi, việc khác không cần quản làm gì, chỉ cần thay bản vương nói với mẫu hậu, để người sớm quyết định, tránh cho đêm dài lắm mộng.”

“Vâng!” Đỗ Văn Hạo cúi người đáp ứng rồi vén áo đứng đó, chưa có ý tứ cáo từ.

Ung vương thấy vậy liền mỉm cười nói: “Hiền đệ còn có chuyện khác ư.”

“Vâng.” Đỗ Văn Hạo từ trong lòng lấy ra mộ quyển sách, nói: “Ngu đệ nghe nói hoàng huynh thích cổ thư thiện bản. Ngu đệ vào lúc tuần y khắp nơi vừa hay mua được quyển sách này. Cũng không biết có tác dụng gì hay không, đặc biệt cầm tới cho hoàng huynh xem thử.”

Sở thích đối với cổ đại thiện bản của Ung vương đã đạt tới trình độ điên cuồng, đã từng vì mưu đoạt một bản Đông Tấn Phật kinh thiện bản của tể tướng Phú Bật mà hại cho Phú Bật tan nhà nát cửa. Hiện tại nghe Đỗ Văn Hạo nói hắn có một bản cổ thư thì lập tức có hứng thú, mặc dù không tin Đỗ Văn Hạo có thể thu được sách tốt gì nhưng vẫn đứng dậy bước đến nhận.

Sau khi nhìn một cái thì mắt Ung vương lập tức trợn tròn lên, hô hấp cũng biến thành gấp rút, ngay cả tay cũng trở nên run rẩy, lời nói cũng không còn lưu loát: “Vô Lượng Thọ Kinh do tự tay Tuệ Viễn…Tuệ Viễn đại sư viết. Trời ơi, đây chính là trân bản đó. ậm đã, nói không chừng chính là chất phẩm, đợi bản vương xem kỹ đã.”

Ung vương hai tay cầm sách mà giống như là cầm tâm can của mình bước về chỗ ngồi, cẩn thận đặt sách lên bàn, bình tĩnh lại rồi dùng ngón tay đang run rẩy lật từng trang giấy, mắt sáng rực lên, nói: “Không sai, giấy này của thời Đông Tấn.”

Hắn vừa lật xem vừa không ngừng gật đầu, chỉ dùng thời gi­an một bữa cơm để đọc. Ung vương lúc này mới ngẩng đầu lên, vẻ mặt vô cùng kích động, nói: “Hiền đệ, bộ sách này đúng là Vô Lượng Thọ Kinh Phạm văn do Tuệ Viễn đại sư thời Đông Tấn tự mình viết. Ông ấy cùng Vương Hi Chi là hảo hữu, trên thư pháp nhận được sự chỉ điểm của Vương Hi Chi, rất có phong vị của thư thánh. Lời tựa của quyển sách này chính là thủ tích của ông ấy, còn có ấn chương nữa. Bản vương cũng có được một bản Phật kinh Phạm văn do chính tay Tuệ Viễn đại sư viết. Ấn chương bên trên giống hết như ấn chương trên quyển này của hiền đệ, chắc là bản gốc được hoàn thành sao chép vào cùng thời!”

Đỗ Văn Hạo cười hắc hắc, nói: “Là thật thì tốt quá rồi.”

Ung vương cầm quyển kinh thư mà vui đến mức không khép miệng lại được, vén áo dài ngồi xuống, tay vẫn đặt trên bản Phật kinh, mắt nhìn Đỗ Văn Hạo: “Hiền đệ, bộ sách này bản vương mua lại, ngươi nói giá đi, bản vương tuyệt đối không mặc cả.”

“Không không không, hoàng huynh, quyển sách này, ngu đệ không thể bán.”

Trên mặt Ung vương lóe lên vẻ không vui, giơ một ngón tay lên: “Bản vương ra giá một trăm lượng hoàng kim.”

Một trăm lượng hoàng kim có thể nói là tương đương với một trăm vạn nhân dân tệ.

Đỗ Văn Hạo lắc đầu.

Ung vương lại giơ năm ngón tay lên: “Năm trăng lượng. Hiền đệ, năm trăm lượng hoàng kim không phải là ít đâu.”

Đỗ Văn Hạo vẫn chỉ mỉm cười lắc đầu.

Ung vương nắm chặt quyền đầu: “Nể mặt huyền đệ, ta ra giá chót là một ngàn lượng hoàng kim.”

Đỗ Văn Hạo vẫn chỉ lắc đầu.

Ung vương chậm rãi bỏ tay xuống, nói: “Xem ra hiền đệ không muốn tiền rồi. Hắc hắc, muốn gì thì cứ nói đi.”

Đỗ Văn Hạo cúi người nói: “Ngu đệ không muốn gì cả, quyển sách này là tiến cống cho hoàng huynh làm quà mừng hoàng huynh đăng cơ.”

Ung vương ngây người rồi lập tức bật cười, tay chỉ vào Đỗ Văn Hạo, nói: “Hiền đệ, ngươi hay lắm! Ha ha ha, tốt! Hảo huynh đệ! Lễ vật này của ngươi thật sự là tặng vào tâm khảm của bản vương đó. Đa tạ hiền đệ, ha ha ha.”

“Đây là điều nên làm mà.” Đỗ Văn Hạo lại cười hắc hắc, nói: “Ngoài ra, ngu đệ còn mua mấy trăm con dê béo, chuẩn bị đưa tới cho các huynh đệ của thị vệ mã quân và thị vệ bộ quân. Bọn họ cực khổ nhiều ngày chắc cũng mệt mỏi lắm rồi. Chỉ là chỗ dê bò này đều còn sống, phải giết mổ chắc cũng phí chút công.”

Ung vương khen: “Huynh đệ quả thực là nghĩ rất chu đáo. Không sao cả, dê nướng cả con vừa hay là thứ mà các huynh đệ thích nhất. Vậy chiều nay bản vương dẫn ngươi đi gặp mặt các huynh đệ, để họ mời ngươi mấy chén rượu. Bản vương biết tử lượng của ngươi rất khá. Ha ha ha.”

Ung vương lại sờ sờ bộ kinh thư đó, quả thực là yêu thích đến độ không nỡ rời tay. Đỗ Văn Hạo tặng quân đội thủ hạ chính là một bầy dê sống, tất nhiên không thể hạ độc được, cho nên mới không hề nghi ngờ gì hắn, liên tục xưng tán Đỗ Văn Hạo nghĩ rất chu đáo.

Đỗ Văn Hạo lại cúi người, nói: “Ngoài ra ngu đệ còn có một kiến nghị nhỏ, không biết có thích hợp hay không.”

“Ừ, kiến nghị của hiền đệ thì lúc nào chẳng chuẩn xác, cứ nói ra đi.”

“Ngu đệ định một lát nữa vào cung thuyết phục Hoàng Thái Hậu, để người triệt tiêu binh quyền của Điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ Vi Ngạn, không biết có được hay không?”

Ung vương vừa kinh ngạc vừa vui mừng đứng bật dậy, tay vẫn còn cầmquyển Phật kinh, kinh ngạc thốt lên: “Cái gì, hiền đệ quả thật có thể thuyết phục mẫu hậu triệt tiêu binh quyền của đô chỉ huy sức Vi Ngạn ư.”

“Ngu đệ chỉ là muốn thử, cũng không có gì nắm chắc.”

“Được được!” Ung vương liên tục nói hai chữ được. Cố kỵ duy nhất của hắn chính là Điện tiền thị vệ quân nắm giữ hoàng cung của Vi Ngạn. Đây là chướng ngại lớn nhất khi hắn đăng cơ. Chỉ cần nhánh quân đội này quay đầu làm thủ hạ của mình, vậy thì không còn phải lo lắng điều gì nữa. Thiên hạ đã xác định là nằm trong tay rồi. Ung vương bước tới trước mặt Đỗ Văn Hạo, thậm chí có chút thiết tha, nói: “Hiền đệ, ngươi nếu quả thật có thể hoàn thành chuyện này. Bản vương sau khi đăng cơ, chức xu mật sức chính là của ngươi. Bản vương ngoài ra còn phong cho ngươi làm Trung Dũng hầu.”

Từ xu mật phó sứ hứa cho lên thành xu mật sứ, Đỗ Văn Hạo cười đến nỗi miệng ngoác tới tận mang tai, cúi mình chắp tay nói: “Đa tạ hoàng huynh, vậy nếu Hoàng Thái Hậu đồng ý giải trì quân quyền của Vi Ngạn thì ngu đệ nên bảo Hoàng Thái Hậu gi­ao điện tiền thị vệ quân cho ai chỉ huy đây.”

“Gi­ao cho ngươi là được rồi.” Ung vương bị một chuỗi tin mừng khiến cho lòng hoa nở rộ, nghe Đỗ Văn Hạo chủ động hỏi vậy thì càng không nghi ngờ gì hắn, không nghĩ ngợi gì mà trả lời ngay.

“Ngu đệ nếu có thể hoàn thành chuyện này sẽ lập tức quay lại nghe hoàng huynh sai khiến.”

“Rất tốt, mau đi đi. Bản vương đợi tin tức tốt của ngươi. Ha ha ha.” Ung vương ôm kinh thư, cười vô cùng đắc ý.

“Vâng.”

Đỗ Văn Hạo cáo từ rồi rời khỏi Ung vương phủ.

Sau khi bước lên kiệu, nụ cười của hắn biết thành lạnh lùng, phân phó khởi kiệu tới thẳng hoàng cung.

Hoàng Thái Hậu đã thông báo cho tất cả thị vệ hoàng cung, Đỗ Văn Hạo có thể tự do ra vào hoàng cung.

Cho nên Đỗ Văn Hạo một đường thông suốt tới thẳng chính đường thẩm cung của Hoàng Thái Hậu.

Hoàng Thái Hậu đang ngồi trên giường mềm, mặc váy màu đen, hông thắt đai màu trắng, đứng bên cạnh là Tiêu công công.

Lão vốn là thiếp thân thái giám ở bên cạnh Thái Hoàng Thái Hậu, căn cứ theo sự an bài của Đỗ Văn Hạo, Hoàng Thái Hậu lệnh cho lão sau này theo hầu mình. Tiêu công công đương nhiên biết đây là chủ ý của Đỗ Văn Hạo nên vui vẻ đáp ứng.

Mặc dù Tiêu công công cũng ủng hộ Lục hoàng tử, nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn chưa nói kế hoạch cho lão biết, loại tuyệt mật này càng ít người biết thì càng tốt.

Cho nên Đỗ Văn Hạo ho khan một tiếng, nháy mắt với Hoàng Thái Hậu rồi chu miệng về phía các cung nữ và thái giám ở bên cạnh.

Hoàng Thái Hậu hiểu ý, xua tay nói: “Tiểu Tiêu tử, các ngươi lui xuống hết đi.”

“Vâng!” Tiêu công công dẫn tất cả các cung nữ, thái giám lui ra ngoài. Trong nhà chỉ còn lại Đỗ Văn Hạo và Hoàng Thái Hậu.

Đôi mắt phượng của Hoàng Thái Hậu Ung vương buồn nhìn chằm chằm vào Đỗ Văn Hạo, muốn nói rồi lại thôi.

Đỗ Văn Hạo quay đầu lại nhìn cửa phòng đã đóng kín rồi bước về phía Hoàng Thái Hậu. Hắn nhìn thấy trong mắt của Hoàng Thái Hậu rõ ràng là có một tia vui mừng rất khó phát giác, trong lòng lập tức quyết định bước tới trước giường mềm, vén áo bào rồi ngồi xuống bên cạnh Hoàng Thái Hậu, sau đó gọi khẽ một tiếng: “Thao Thao!”

Hoàng Thái Hậu nghe thấy hắn gọi tiểu danh của mình, hai má liền đỏ hồng, trong mắt lóe lên một tia nhu tình.

Đỗ Văn Hạo liền đưa tay ra, ôm lấy eo thon của bà ta.

Hoàng Thái Hậu bị hắn ôm eo, cả người lập tức cứng đờ. Lần trước hai người cũng từng ôm ấp nhau, nhưng đó là Hoàng Thái Hậu vì đang ở trong lúc tâm trí hoảng hốt, sầu khổ. Hiện tại đột nhiên thân mật như thế này, Hoàng Thái Hậu vẫn không thể thích ứng kịp. Dẫu sao thì bà ta đã gần hai mươi năm rồi không bị nam nhân ôm như vậy.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy thân thể bà ta cứng đờ, nhưng cũng nghe thấy tiến thở gấp rút của bà ta, nhìn thấy sự hoảng loạn trong mắt của bà ta, gan càng lớn hơn, tay kéo bà ta vào lòng.

Hoàng Thái Hậu ối chà một tiếng, muốn giãy dũa nhưng đừng nói là mấy ngày nay bà ta cơm nước ăn không vô, đã hư nhược tới cực độ, mà cho dù là mình thường thì một nữ tử yếu đuối như bà ta sao có thể địch được cái ôm này của Đỗ Văn Hạo, giãy dụa hai cái rồi buông xuổi nằm trong lòng hắn thở hổn hển.

Đỗ Văn Hạo cũng không dám làm quá, chỉ ôm lấy bà ta, nhưng tới bước này rồi thì hắn cũng không biết tiếp theo nên làm gì.

Hoàng Thái Hậu mượn cơ hội này để bình ổn lại tâm thần, ngẩng đầu lên nhìn hắn, hỏi: “Tình hình sao rồi?”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười, ôm bà ta chặt hơn, nói: “Ta làm việc thì nàng yên tâm đi, tất cả cứ án theo kế hoạch mà tiến hành.”

“Ừ, vậy thì ngàn vạn lần đừng khiến hai hoàng nhi bị thương, đương nhiên càng không thể làm bị thương Lục hoàng tôn.”

Đỗ Văn Hạo vỗ vỗ lòng bàn tay của bà, nói: “Ta nhớ rồi.”

Hoàng Thái Hậu triệt để thả lòng người, dựa vào đầu vai hắn, hai mắt nhắm lại, thở dài một hơi nhẹ nhõm, nói: “Đợi chuyện này xử lý xong, ta thực sự muốn được ngủ liền mấy ngày mấy đêm, mệt quá.”

Đỗ Văn Hạo ôn nhu nói: “Đúng vậy, mấy ngày này nàng chịu khổ quá rồi. Có điều tương lai sau này sẽ buông rèm nghe chính sự, lúc đó nàng sẽ bận đến nỗi không có thời gi­an để nghỉ ngơi đâu.”

“Ta mặc kệ, ngươi phải giúp ta xử lý.” Hoàng Thái Hậu câu này thì lại cảm thấy mình đang nũng nịu giống như một tiểu cô nương vậy, có chút xấu hổ đỏ bừng cả mặt, giãy dụa muốn đứng dậy nhưng lại bị Đỗ Văn Hạo ôm chặt không nhúc nhích được.

Sự giãy dụa của Hoàng Thái Hậu khiến Đỗ Văn Hạo cũng cảm thấy cứ ôm như vậy không cũng thỏa đáng lắm, liền buông lỏng tay, giả vờ hờn dỗi nói: “Một tên mao đầu tiểu tử, không quyền không thế như ta, người ta không thèm để vào mắt đâu.”

Hoàng Thái Hậu mượn cơ hội này ngồi thẳng dậy, hừ một tiếng, nói: “Bọn chúng dám, ai dám không để ngươi vào mắt ta sẽ lột da hắn.”

Đỗ Văn Hạo cười to một tiếng, lớn gan đưa tay ra vuốt nhẹ lên khuôn mặt trắng nõn như thiếu nữ của bà ta, nói: “Hung ác quá, ta sợ lắm.”

Hoàng Thái Hậu mặt lập tức đỏ bừng, cúi đầu xuống.

Không biết vì sao mà Hoàng Thái Hậu cảm thấy mình khi ở trước mặt Đỗ Văn Hạo liền biến thành một tiểu cô nương không hiểu chuyện, thích cảm giác hắn ôm mình, thích nghe những lời nói trấn tĩnh của hắn, thích nhìn ánh mắt kiên nghị của hắn. Ở trong lòng hắn, mình như trở lại tuổi thanh xuân, sự thống khổ của mấy ngày nay có hắn liền được giảm bớt đi rất nhiều.

Hoàng Thái Hậu trong lòng ấm áp ngẩng đầu nhìn hắn, rồi lại nhẹ nhàng dựa sát vào lòng hắn, mặt tựa vào bộ ngực săn chắc của hắn rồi thẽ thọt gọi: “Văn Hạo.”

Đỗ Văn Hạo thấy bộ dạng xấu hổ như thiếu nữ của bà ta, quả thật khiến người ta phải động lòng, không nhịn được mà nhẹ nhàng ve vuốt mái tóc suôn mượt như tơ lụa của bà ta.

Bà ta không trang điểm, chỉ để tóc xõa ra sau gáy rồi dùng một đoạn vải trắng buộc lại. Đỗ Văn Hạo trong lòng âu yếm dí sát mặt vào, một mùi hương thoảng thoảng như chui sâu vào tâm can, trong lòng không nhịn được mà cúi đầu hôn lên mái tóc của bà ta.

Thân hình Hoàng Thái Hậu khẽ run rẩy. Đây là lần đầu tiên Đỗ Văn Hạo hôn bà ta, cho dù là chỉ là hôn lên tóc, nhưng dẫu sau đây cũng là lần đầu tiên được nam tử hôn sau gần hai mươi năm. Tim bà ta không khỏi đập thình thịch, tâm hoảng ý loạn càng dụi sâu vào ngực hắn.

Hai người nhất thời im lặng ôm nhau, chỉ có thể nghe thấy tiếng tim đập của đôi bên.

Một lát sau, Hoàng Thái Hậu mới kề má lên má hắn, thấp giọng nói: “Đỗ Văn Hạo, ngươi giúp ta như vậy, bảo ta phải cảm tạ ngươi thế nào đây?”

Đỗ Văn Hạo thở dài một tiếng, nói: “Tới lúc đó nàng chỉ cần bảo Ung vương và Tào vương đừng giết ta là được rồi.”

Hoàng Thái Hậu ngây người, ngồi thẳng dậy rồi nghi hoặc hỏi: “Bọn chúng vì sao lại muốn giết ngươi.”

Đỗ Văn Hạo liền đem chuyện mình cưỡng ép Ung vương, Tào vương ra kể lại một lượt.

Hoàng Thái Hậu nghe xong liền mỉm cười, nói: “Chuyện này á, ngươi không phải là cố ý, chỉ là hiểu nhầm mà thôi. Nhan nhi và Mạch nhi sẽ không nhỏ nhen như vậy đâu. Tới lúc đó ta sẽ nói với chúng đừng tìm ngươi làm phiền, ngươi cứ yên tâm đi.”

Đỗ Văn Hạo cười khổ, nói: “Ta nghe nói Ung vương gia thù rất dai, ta lúc đó bắt hắn đi ngay trước mặt mọi người, lại còn làm Tào vương gia bị thương ở cổ. Loại sĩ nhục này bất kỳ ai cũng đều không dễ dàng bỏ qua đâu. Thao Thao à!”

Chương 385: Tước binh quyền

Hoàng Thái Hậu chậm rãi gật đầu, nói: “Lời này cũng đúng, Mạch nhi còn đỡ hơn một chút, chứ Nhan nhi tính tình bá đạo, bình thường chưa bao giờ phải chịu thiệt, phải nghĩ cách để hắn không thể tìm ngươi gây phiền phức mới được.”

Cái mà Đỗ Văn Hạo muốn chính là câu này của Hoàng Thái Hậu, bèn ôm lấy cái eo nhỏ của bà ta, vẫn làm mặt khổ, nói: “Có thể có biện pháp gì nữa? Hắn ta là vương gia mà, giẫm chết ta còn dễ hơn là giẫm chết một con kiến nữa.”

Hoàng Thái Hậu nhìn hắn một cái oán trách, nói: “Xem ngươi nói cái gì kìa! Làm sao mà như thế được, không phải vẫn còn có ta ư?”

“Thao Thao, ta không thể nào cứ trốn trong thẩm cung của nàng cả đời được? Ta cho dù không sợ chết thì cũng không thể làm hỏng danh tiẴ của nàng.”

Hoàng Thái Hậu mặt lại đỏ hồng lên, lườm hắn một cái rồi nói: “Vậy ngươi nói xem nên làm thế nào đây.”

“Nàng không thể ngày nào cũng bảo hộ ta được, vậy thì chỉ có thể tìm người khác để bảo hộ ta thôi. Nếu ta có quân quyền thì tốt rồi, ví dụ như là Điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ vậy, nhiều người làm chuyện gì cũng dễ, tương lai vương gia nhìn ta không thuận mắt, muốn giẫm chết ta thì ta cũng có thể gọi bọn họ cản giúp ta, có thế thì ta mới thoát thân mà tìm nàng thưa kiện được.”

Hoàng Thái Hậu rốt cuộc cũng không nhịn được mà bật cười khúc khích: “Thị vệ đô chỉ huy sứ thì có gì là khó đâu, ta bảo Vi Ngạn nhường cho ngươi rồi thăng hắn lên làm quan khác là được thôi.”

“Đúng vậy.” Đỗ Văn Hạo vừa kinh ngạc lại vừa vui mừng, ôm chầm lấy Hoàng Thái Hậu rồi hôn một cái lên mặt bà ta. Hoàng Thái Hậu xấu hổ đến nỗi mặt đỏ tới tận mang tai, oán tránh giãy dụa nói: “Đừng làm vậy, ngoan ngoãn ngồi đó đi.”

Đỗ Văn Hạo cười hắc hắc, nói: “Thao Thao! Nàng tốt với ta quá!”

Hoàng Thái Hậu đỏ mặt, nhìn xung quanh theo phản xạ rồi thấp giọng nói: “Ngươi cũng rất tốt với ta mà!”

Đỗ Văn Hạo cười hắc hắc, nói: “Có điều chỉ sợ Vi Ngạn không bằng lòng gi­ao quyền ra thôi. Hiện tại hắn vẫn phải dùng Điện tiền thị vệ để đối kháng với hai vị vương gia, hòng giúp Lục hoàng tử đăng cơ.”

Hoàng Thái Hậu gật đầu: “Đúng vậy, chuyện này có chút khó giải quyết đây. Nếu không đợi sau khi chuyện này xong rồi thì hẵng bảo hắn gi­ao Điện tiền ngự lâm quân cho ngươi.”

Đỗ Văn Hạo nói: “Thế cũng được, nhưng chỉ sợ hắn lại dẫn Điện tiền thị vệ cùng với hai vị vương gia giết nhau đến lưỡng bại câu thương thôi. Lúc đó lại nhét Điện tiền thị vệ vào tay ta thì cũng có còn nhân mã gì nữa đâu. Làm một tư lệnh không quân thì cũng chẳng có gì thú vị.”

Hoàng Thái Hậu trong lòng trầm xuống, đây chính là điều mà bà ta lo lắng nhất, vội vàng nói: “Ngươi không phải là đang nghĩ biện pháp không để cho bọn chúng đánh nhau cơ mà?”

“Thì hiện tại chính là đang làm vậy đây. Thao Thao. Ta đã nói rồi, muốn giải quyết trường nguy cơ này, phải để song phương bọn họ đều gi­ao ra binh quyền, chỉ có như vậy mới có thể giải quyết vấn đề thừa kế hoàng vị trong hòa bình. Tới lúc đó lời mà nàng nói mới thực sự có phân lượng.”

“Ngươi nói cũng có đạo lý, vậy nên làm sao đây. Ngươi đưa ra chủ ý đi, ta sẽ nghe theo ngươi hết.”

“Được!” Đỗ Văn Hạo nắm tay bà ta, nghiêm mắt nói: “Tình huống trước mặt là như thế này. Ta dùng một chút thủ đoạn, khiến hai vị vương gia tin tưởng rằng ta đang giúp bọn họ đăng cơ. Bọn họ đã rất tín nhiệm ta rồi, cho nên hiện tại chỉ cần khiến Vi Ngạn gi­ao chức Điện tiền thị vệ chỉ huy sứ cho ta là hai vị vương gia cũng sẽ không động đao binh nữa. Sau đó ta sẽ thừa cơ thu hồi bình quyền của hai vị vương gia. Tới lúc đó song phương đều không có binh thì tự nhiên là không đánh nhau được.”

Hoàng Thái Hậu vội vàng hỏi: “Ngươi làm thế nào mà thu được binh quyền của hai vị hoàng nhi. Ngàn vạn lần không được làm tổn thương tới chúng đâu đấy.”

“Yên tâm.” Đỗ Văn Hạo nắm tay bà ta chặt hơn: “Ta sớm đã nói rồi, ta đã làm việc thì nàng yên tâm đi, biện pháp ta đã nghĩ kỹ rồi, thế nào cũng sẽ không làm bị thương tới một sợi lông của hai vị vương gia đâu.”

“Ừ, vậy thì tốt rồi, nhưng làm thế nào để khiến Vi Ngạn gi­ao quyền, ngươi có biện pháp không?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Ta đã nghĩ ra một biện pháp rồi, nàng nghe thử xem thế nào nhé.”

Hắn ghé vào tai Hoàng Thái Hậu nói một hồi, Hoàng Thái Hậu gật đầu lia lịa nói được.

Hai người lại thương nghị chi tiết cụ thể, sau đó quyết định chiếu theo cách này mà thực thi.

Nửa tiếng sau, thẩm cung của Hoàng Thái Hậu.

Điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ Vi Ngạn giận bốn phó đô chỉ huy sứ tới trước thẩm cung của Hoàng Thái Hậu. Sau khi thông báo thì lập tức được triệu kiến.

Tiến vào trong phòng thì chỉ thấy một tấm vải trắng được phủ xuống, người ngồi trên giường mềm ở phía sau chính là Hoàng Thái Hậu mặc váy đen thắt đai trắng. Vi Ngạn và bốn phó đô chỉ huy sứ ôm quyền cúi người thi lễ: “Mạt tướng tham kiến Hoàng Thái Hậu.”

“Ừ, miễn lễ, ban ngồi.”

Tiêu công công ở bên cạnh phất tay với mấy cung nữ. Các cung nữ vội vàng mang bốn chiếc ghế đến đặt thành hình chữ nhất, năm người sau khi tạ ơn thì ngồi xuống.

Hoàng Thái Hậu nói: “Mấy ngày nay các ngươi giới bị hoàng cung rất là khổ cực, ai gia sai người nấu canh yến để úy lao mấy vị tướng quân.”

Nói xong từ hậu đường có một hàng cung nữ tiến vào, tay cầm bàn nhỏ, bên trên đặt mấy chén canh, khói bốc nghi ngút tới trước mặt năm người bọn họ, sau đó thì quỳ xuống giơ bàn lên quá đỉnh đầu.

Năm người bọn Vi Ngạn vội vàng đứng dậy ôm quyền cảm tạ, cầm chén canh lên uống một ngụm. Bát canh này ngửi thì rất thơm, nhưng khi uống vào trong miệng thì lại hơi đắng.

Vi Ngan hơi nhíu mày rồi đặt lại chén canh vào khay, quay đầu lại nhìn bốn vị phó chỉ huy sứ thì thấy họ đều uống cạn cả một bát canh to. Dẫu sao đây cũng là do Hoàng Thái Hậu ban thưởng, đó là ân đức lớn lao, cho nên làm gì có chuyện do dự không uống. Vi Ngạn muốn ngăn cản nhưng lại không tiện làm mất mặt Hoàng Thái Hậu. Trong một thoáng do dự này, bốn phó thủ đã uống cạn bát canh mất rồi, lại còn lau miệng nữa.

Hoàng Thái Hậu nói: “Vi ái khanh vì sao không uống.”

Vi Ngạn ôm quyền, nói: “Đa tạ Hoàng Thái Hậu ân điển, vi thần mấy ngày nay đang phục dụng một loại thuốc, sợ hai thứ xung đột với nhau.”

“Đây là nhân tham yến oa thang, không xung đột với thuốc khác đâu, mau uống đi.”

Vi Ngạn nhíu mày, nghĩ ngợi một chút rồi bưng bán canh lên dùng tay áo che lại, sau đó thì đổ hết canh vào trong tay áo. Sau đó lau miệng ôm quyền cảm tạ Hoàng Thái Hậu, nói: “Cảnh giới trong cung không thể rời bỏ được, vi thần cáo lui.”

“Đợi đã.” Hoàng Thái Hậu nói: “Vi ái khanh, ai gia còn có lời muốn hỏi ngươi.”

“Vâng.”

“Ai gia có ý sắc phong cho Lục hoàng tôn làm đế, ý của ngươi thế nào.”

Vi Ngạn vừa kinh ngạc lại vừa vui mừng, nói: “Lời này của Hoàng Thái Hậu rất phải.”

“Ai gia chỉ là đang chưng cầu ý kiến của ngươi thôi.”

Vi Ngạc ôm quyền nói: “Lục hoàng tử thừa kế hoàng vị là chính thống chi đạo, vi thần vô cùng ủng hộ.”

Hoàng Thái Hậu nói: “Nhưng Lục hoàng tôn tuổi còn nhỏ không thể thân chính được.”

“Cái này tất nhiên là nên do Hoàng Thái Hậu người buông rèm thính chính rồi.”

Hoàng Thái Hậu dừng lại một chút rồi chậm rãi hỏi: “Ngươi quả thật khuyên gián ai gia thính chính ư?”

“Vâng. Bản chức thề chết phụ tá Hoàng Thái Hậu.”

“Vậy lời ai gia nói ngươi có nguyện ý nghe theo không?”

Vi Ngạn không nghĩ ngợi gì mà đáp ngay: “Vi thần nhất định sẽ cẩn tuân ý chỉ của Hoàng Thái Hậu.”

“Vậy thì tốt. Ai gia hiện tại muốn ngươi nhường chức Điện tiền thị vê ti đô chỉ huy sứ cho Đỗ Văn Hạo Đỗ ái khanh.”

Vừa nghe thấy lời này, Vi Ngạn không nhịn được mà lui hai bước, vô thức đưa tay ra án lên chuôi đao nhưng thấy trống không, lúc này mới nhớ tới khi vào thẩm cung đã lưu lại bội đao ở cửa rồi, vội vàng cúi người nói: “Vi thần…vi thần không biết Hoàng Thái Hậu đây là có ý gì.”

“Lời của ai gia ngươi chưa nghe rõ sao? Ta chỉ hỏi ngươi có bằng lòng nhường chức đô chỉ huy sứ cho Đỗ ái khanh không?”

Vi Ngạc quét mắt nhìn xung quanh, không phát hiện ra điều gì dị thường liền vội vàng cúi người nói: “Ý chỉ của Hoàng Thái Hậu vi thần tất nhiên là phải nghe theo. Chỉ là trước mắt hai vị vương gia có lòng dùng võ lực để soán vị, tình hình rất khẩn cấp, e rằng lúc này từ nhiệm thì sẽ bị hai vị vương gia thừa cơ đánh vào. Xin Hoàng Thái Hậu đợi mấy ngày nữa, đến khi Lục hoàng tử đăng cơ, Hoàng Thái Hậu buông rèm thính chính, vi thần lập tức đem chức chỉ huy sứ gi­ao cho Đỗ đại nhân.”

Hoàng Thái Hậu lạnh lùng nói: “Nói vậy là ngươi không bằng lòng gi­ao quyền rồi.”

Trán Vi Ngạn đã lấm tấm mồ hôi. Hắn cũng là hạng người quyết đoán, lập tức quyết định trước tiên giúp Lục hoàng tử đăng cơ rồi hẵng nói, do đó chỉ có thể kháng mệnh rồi, ôm quyền chắp tay nói: “Lệnh của Hoàng Thái Hậu, vi thần theo lý thì phải cẩn tuân. Chỉ là hiện tại quân tình khẩn cấp, để đảm bảo cho Lục hoàng tử và Hoàng Thái Hậu được an toàn, vi thần không dám từ chức.”

Hoàng Thái Hậu nói: “Ngươi có nhiều lý do như vậy, miệng nói cũng rất dễ nghe. Nhưng lại không nghe lời của ai gia.”

“Vì thần không dám.”

“Ngươi có gì mà không dám. Hừ, vừa rồi nhân tham yến oa thang mà ai gia ban thưởng, bốn vị ái khanh bọn họ đều uống, duy có ngươi chỉ nhấp một ngụm, chỗ còn lại thì đổ hết vào tay áo. Ngươi khinh ai gia mấy ngày này khóc lóc nhiều nên mắt nhìn không rõ rồi phải không.”

Vi Ngạc sợ hãi nói: “Vi thần không dán, vi thần quả thực là lo dược liệu xung đột nhau, cho nên mới cô phụ thịnh ý thái hậu. Vi thần đáng tội.”

“Vi ái khanh không cần phải sợ hãi, Đỗ ngự y đã về rồi, ngươi có bệnh thì hắn cũng trị được cho ngươi hết. Không cần phải lo lắng tới chuyện dược hiệu xung đột làm gì. Người đâu, mau mang tới một chén nhân tham yến oa thang cho Vi ái khanh.”

Hậu đường có cung nữ dạ một tiếng, một lát sau lại có một vị cung nữ hai tay bưng khay tới trước mặt Vi Ngạn, quỳ xuống rồi giơ khay lên quá đỉnh đầu.

Hoàng Thái Hậu nói: “Mau uống đi.”

Vi Ngạc chậm rãi đưa tay ra cầm lấy chén canh, ngửi ngửi một chút rồi nhíu mày, sau đó thì từ từ đặt lại vào khay, ôm quyền cúi người nói: “Xin lỗi Hoàng Thái Hậu, vi thần mang trọng nhiệm trên vai, nhất định phải phụ tá Lục hoàng tử đăng cơ, không thể uống canh này được, để tránh thân thể hiện tại không chống đỡ được mà xảy ra vấn đề, để rồi làm hỏng đại sự. Xin Hoàng Thái Hậu tha thứ tội kháng chỉ cho vi thần.”

Vừa nói tới đây thì ở dưới khay vô thanh vô thức thò ra một ngón tay đâm vào hai bên thắt lưng của hắn.

Một thân đao mã công phu của Vi Ngạn rất khá, nhưng cận thân đoản đả thì lại là chỗ yếu của hắn. Mà một chỉ này lại có khay che thị tuyến của hắn, hắn vừa ôm quyền thi lễ nên căn bản không ngờ cung nữ này lại đánh lén hắn.

Một chỉ này vô thanh vô tức nhưng lại nhanh như thiểm điện, hắn mang trọng giáp trên người mà một chỉ này lại thi triển ngay cạnh người, từ khe hở của giáp trụ đâm thẳng vào, lập tức toàn thân như bị điện giật, muốn hoàn kích nhưng toàn thân vô lực.

Cung nữ bưng khay đó một chiêu đắc thủ nhưng vẫn không chậm trễ, đứng dậy liên tục tung ra mấy chỉ điểm vào những nơi yếu hại trên người Vi Ngạn. Vi Ngạn mang theo khôi giáp nặng nề ngã xuống đất.

Bốn phó chỉ huy sứ quát lên một tiếng, xông lên trước muốn xuất thủ, nhưng vừa động đậy đã phát hiện chân tay hoàn toàn vô lực, lập tức hai mắt tối sầm, trời đất quay cuồng, sau đó thì cũng ngã xuống đất bất tỉnh nhân sự.

Phía sau rèm của Hoàng Thái Hậu có một người cười hắc hắc, nói: “Xong rồi!”

Người này đương nhiên chính là Đỗ Văn Hạo, còn cung nữ ra tay chế trụ Vi Ngạn tất nhiên chính là nhất thiếp Lâm Thanh Đại của Đỗ Văn Hạo giả trang.

Vốn là nửa tiếng trước Đỗ Văn Hạo về Ngũ Vị đường gọi Lâm Thanh Đại mang theo ma túy quay lại hoàng cung.

Hoàng Thái Hậu hạ chỉ gọi Vi Ngạn và bốn phó chỉ huy sứ tới, trong nhân tham yến oa thang hạ ma túy dược vật ngã bốn phó đô chỉ huy sứ. Vi Ngạn cho dù đã phát hiện thang dược có gì đó không ổn, nhưng vẫn bị Lâm Thanh Đại giả trang làm cung nữ một chiêu chế trụ.

Vi Ngạn nằm trên mặt đất vốn không hiểu xảy ra chuyện gì, nhưng thấy Đỗ Văn Hạo thì đột nhiên hiểu ra. Hắn toàn thân không động đậy được nhưng miệng thì vẫn nói được, thế là bèn rít lên: “Hoàng Thái Hậu không thể trao hoàng vị cho hai vị vương gia được, đế hoàng chính thống quyết không thể lạc ra ngoài.”

Đỗ Văn Hạo nói: “Vi đại nhân đừng nóng vội. Hoàng Thái Hậu không hề nói là chỉ định hoàng vị cho hai vị vương gia kế thừa, hoặc có thể nói là, Hoàng Thái Hậu vẫn chưa quyết định hoàng vị sẽ do ai quyết định. Có điều có một điểm ngài phải hiểu rõ, hoàng vị rốt cuộc là gi­ao cho ai thì dưới trời đất này chỉ có Hoàng Thái Hậu có thể quyết định. Ngài nắm binh quyền, muốn dùng vũ lực để bảo hộ Lục hoàng tử đăng cơ, mà hai vị vương gia thì cũng muốn dùng vũ lực đoạt quyền. Một khi đánh nhau rồi thì không ai có kết cục tốt cả. Đây là chuyện mà Hoàng Thái Hậu quyết không cho phép xuất hiện. Cho nên mới bất đắc dĩ phải sử dụng hạ sách này để thu binh quyền của ngài, tạm thời do bản quan đảm nhiệm. Hi vọng ngài có thể lý giải.”

Vi Ngạn nói: “Đỗ đại nhân, ngài đoạt quân quyền của ta nhưng lại không đoạt quân quyền của hai vị vương gia thì chẳng khác nào là hai tay bưng hoàng vị lên cho hai người bọn họ.”

“Cái này đại nhân không cần phải lo lắng, sơn nhân ắt có diệu kế. Đắc tội rồi.” Nói xong liền cởi khôi giáp của Vi Ngạn, rút binh phù lĩnh binh và ấn chương từ trong ngực hắn ra. Dưới sự giúp đỡ của Lâm Thanh Đại và các vị cung nữ mặc giáp trụ vào. Vi Ngạn to cao hơn Đỗ Văn Hạo, bộ giáp trụ này Đỗ Văn Hạo mặc vào tuy hơn rộng nhưng vẫn tính là uy vũ.

Tiêu công công chỉ uy cung nữ tháo bộ giáp của người gầy nhỏ nhất giúp Lâm Thanh Đại mặc lên, nàng ta lập tức biến thành một võ tướng hiên ngang.

Sau khi thấy hai người đã mặc chỉnh tề, Hoàng Thái Hậu liền nói với Vi Ngạc đang nằm trên mặt đất: “Vi ái khanh, ai gia muốn tạm thời nhốt năm người các ngươi lại. Ai gia đã hạ chỉ điều nhiệm ngươi làm binh bộ viên ngoại lang. Đợi sau khi chuyện này được giải quyết triệt để sẽ phóng thích ngươi.”

Tiêu công công phất tay một cái, mấy thái giám của đả thủ đội Hoàng cung cầm xích sắt tới, nói một tiếng xin lỗi rồi dùng xích sắt trói bọn Vi Ngạn lại, khênh lên giường mềm rồi đẩy đi.

Sau khi Đỗ Văn Hạo mặc giáp trụ xong thì thi lễ nói: “Thái Hậu, mạt tướng mặc quân trang thế nào?”

Hoàng Thái Hậu mỉm cười nói: “Cũng được nhưng hơn rộng một chút. Đợi ngày khác ai gia sẽ cấp cho ngươi một bộ mới vừa vặn hơn.”

“Tạ ơn Hoàng Thái Hậu!”

Đúng vào lúc này, từ bên ngoài có hai thái gi­am chạy vào bẩm báo: “Bẩm Hoàng Thái Hậu, chư tướng giáo quân của Điện tiền thị vệ đã truyền tới, đang đợi trong đại viện tử ở bên ngoài.”

Hoàng Thái Hậu gật đầu với Tiêu công công.

Tiêu công công vội vàng bước vào trong. Một lúc sau cầm ý chỉ kim quyển sớm đã viết xong ra. Dẫn Đả thủ đội cùng Đỗ Văn Hạo, Lâm Thanh Đại ra khỏi thẩm cung của Hoàng Thái Hậu. Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại phân biệt treo đao kiếm mà bọn Vi Ngạn để lại ở bên ngoài lên hông.

Binh sĩ dẫn ngựa thấy người đi ra không phải là năm vị đại nhân ban đầu mà biến thành hại vị võ tướng lạ hoắc, ngoài ra còn có một đám thái giám đi theo. Hắn nhận ra một vị trong đó chính là đại hồng nhân Tiêu công công ở bên cạnh Hoàng Thái Hậu đang ôm kim quyển thánh chỉ ở trong lòng thì biết tình huống có biến, không dám hỏi loạn một tiếng nào, chỉ ngoan ngoãn đỡ Đỗ Văn Hạo, Tiêu công và Lâm Thanh Đại lên ngự. Sau đó dẫn ngựa ra khỏi cửa thùy hoa của thẩm cung, tới đại viện tử ở cửa tiền điện.

Chương 386: Một người quật ngã mấy chục người

Trong đại viện tử đông nghìn nghịt, có mấy chục người đang đứng, đó là Tứ nghi châu mô hầu, đô ngu hầu, chỉ huy sứ các doanh, phó chỉ huy sứ của điện tiền thị vệ ti.

Mà hơn chục tùy thân thị vệ bọn Lý Phổ mà Đỗ Văn Hạo lần này về nhà dẫn tới cũng đợi ở đó.

Tiêu công công ưỡn bụng, hắng giọng nói to: “Đỗ Văn Hạo, Lý Phổ quỳ xuống nghe ý chỉ của Hoàng Thái Hậu!”

Đỗ Văn Hạo và Lý Phổ hai người vén áo bào quỳ xuống.

Tiêu công công ngâm nga: “Ý chỉ của Hoàng Thái Hậu chiếu viết: Điều nhiệm Điện tiền thị vê ti đô chỉ uy sứ Vi Ngạn làm binh bộ viên ngoại lang, bốn vị phó đô chỉ huy sứ bổ nhiệm sau. Chức Điện tiền thị vệ ti đô chỉ huy sứ do đề hình quan Đỗ Văn Hạo đảm nhiệm, phó đô chỉ huy sứ do Lý Phổ đảm nhiệm. Khâm thử!”

Đỗ Văn Hạo và Lý Phổ hai người vội vàng khấu đầu tạ ơn.

Chúng tướng có mặt không khỏi thấp giọng nghị luận mấy câu, nhưng rất nhanh liền yên tĩnh trở lại.

Tướng lĩnh Tống triều xưa nay vốn thường thay đổi như đèn kéo quân, mục đích chính là để tướng không biết binh, binh không biết tướng. Cho nên thay đổi chủ soái đối với những giáo úy này mà nói chính là chuyện quá bình thường. Huống chi hiện tại là lúc hoàng vị gi­ao thế, đối với những tướng quan này mà nói, cái mà bọn họ hi vọng nhất chính là có thể yên bình quá độ. Không hi vọng mình trở thành con cờ trong công cuộc tranh đoạt hoàng quyền. Dẫu sao thì ai làm hoàng đế đối với họ mà nói cũng không có khác biệt quá lớn.

Chúng tướng đều nhìn Đỗ Văn Hạo, những người này gần như là đều nhận ra Đỗ Văn Hạo. Hắn thân là ngự y của Hoàng Thượng, thường ra vào hoàng cung, những người này đều là thị vệ trong cung, tức nhiên là nhận ra. Cũng từng nghe nói tới chiến lệ hắn suất lĩnh năm ngàn cấm quân, lấy ít thắng nhiều tiêu diệt hai vạn phiên quân, đối với hắn cũng tràn ngập sùng kính, cho nên đều ưỡng ngực đợi hắn lên tiếng.

Phản ứng của các tướng quân đều nằm trong dự liệu của Đỗ Văn Hạo, hắn lại một lần nữa nhảy lên ngựa, cao giọng nói: “Các vị huynh đệ! Ý chỉ của Hoàng Thái Hậu mọi người đều nghe rõ rồi phải không? Vi Ngạn đại nhân đã được điều nhiệm sang binh bộ, Điện tiền thị vệ do bản quan đảm nhiệm thay. Từ rày về sau điện tiền thị vệ trên dưới phải nghe lệnh của bản quan, ai kháng chỉ không tuân, giờ xin đứng ra khỏi hàng đi!”

Chúng tướng ở dưới đài đều lặng ngắt như tờ.

Vi Ngạn vốn là Điện tiền đô chỉ huy sứ, đó là quan lớn hàng nhị phẩm, nhưng lại bị giáng xuống làm binh bộ viên ngoại lang hàng lục phẩm. Còn bốn phó chức thậm chí ngay cả quan chức cũng không được bổ nhiệm, còn có ai ngu tới mức không biết đây là ý gì? Cho nên không có ai dám thốt một tiếng nào.

Đỗ Văn Hạo đợi một lát, thấy không có ai bước ra khỏi hàng mới tiếp tục nói: “Chư vị huynh đệ, Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu trước sau băng hà, chưa từng lưu lại di chiếu chỉ định người kế thừa hoàng vị. Hiện tại có một số lời đồn, nói Lục hoàng thượng và hai vị vương gia đang tranh đoạt hoàng vị. Bản quan muốn nói với mọi người một câu, đó chính là hoàng vị thừa kế như thế nào, chỉ có thể do Hoàng Thái Hậu tự mình chỉ định, bất kỳ ai có ý đồ sử dụng thủ đoạn phi pháp để giành lấy hoàng vị, đều là tử địch của Đại Tống ta! Chúng ta thân là điện tiền thị vệ, bảo hộ sự an toàn của Hoàng Thái Hậu và chư vị hoàng tử, tần phi và công chúa là sứ mệnh thần thánh của chúng ta. Chúng ta chỉ cần thực hiện tốt chức trách này là được rồi. Cái khác chúng ta không cần phải để ý đến. Tuyệt đối cấm chỉ bất kỳ ai dùng bất kỳ cớ nào để nhúng tay vào chuyện kế thừa hoàng vị. Mọi người nghe rõ chưa?”

Tất cả tướng giáo đều đồng thanh đáp ứng.

Đỗ Văn Hạo lại lạnh lùng quát: “Các ngươi là điện tiền thị vệ, chưc trách của các ngươi là bảo hộ tốt người mà các ngươi được phân công bảo hộ, chỉ có ở dưới tình huống người mà các ngươi bảo hộ bị người ngoài xâm phạm thì mới có thể sử dụng vũ lực để ngăn cản, chuyện khác không cần phải để ý. Bản quan tuyên bố, tất cả những quyết định của Vi Ngạn đều được bỏ hết, không chấp hành nữa. Hiện tại ta ra lệnh cho các ngươi mỗi người suất lĩnh thuộc hạ của mình, quay về cương vị mà trước đây mỗi người được phân công phụ trách. Không có mệnh lệnh trực tiếp của bản quan, bất kỳ ai cũng không được rời bỏ cương vị. Ngươi trái lệnh - chém. Nghe rõ rồi chứ?”

Chúng tướng lần này hồi đáp còn vang rền hơn.

Trước đây, Vi Ngạn muốn điện tiền thị vệ chuẩn bị phản kích hành động dùng võ lực đoạt quyền của hai vị vương gia, điều chỉnh an bài lại tất cả công tác của điện tiền thị vệ, mà lần này Đỗ Văn Hạo lại bảo bọn họ toàn bộ quay về cương vị trước kia, chẳng khác nào là thủ tiêu toàn bộ bố trí chiến đấu của Vi Ngạn.

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Lý Phổ nghe lệnh.”

Lý Phổ vội vàng bước lên cúi người thi lễ: “Có mạt tướng.”

“Bản quân lệnh cho ngươi đốc tra tướng sĩ các doanh về cương vị của mình, dùng nửa tiếng làm thời hạn, ai quá thời gi­an mà chưa tới thì dùng quân pháp xử phạt!”

“Tuân lệnh!”

Đỗ Văn Hạo lập tức thay đổi điện tiền thị vệ tứ trực đô ngu hầu, toàn bộ thay bằng bốn thiếp thân hộ vệ trung thành năm đó theo mình chinh chiến và một mực theo mình cho tới giờ.

Trong lúc Đỗ Văn Hạo điều chỉnh nhân sự tầng cao nhất của điện tiền thị về thì Tiêu công công quay về phục mệnh với Hoàng Thái Hậu. Sau đó lại cầm một kim sắc ý chỉ quyển trục, dẫn một đội ban chỉ hộ huyện đội đi ra. Bên này Đỗ Văn Hạo đã an bài thỏa đáng, Tiêu công công cùng Đỗ Văn Hạo, Lâm Thanh Đại ra khỏi hoàng thành, đi tới phủ Ung vương.

Ngoài phủ Ung vương giới bị sâm nghiêm, biết Tiêu công công tới truyền chỉ, vội vàng vào thông báo. Rất nhanh, Ung vương, Tào vương cùng với Thái Xác, Hình Thứ, Thái kinh đều bước ra nghênh đón.

Ung vương thấy Đỗ Văn Hạo mặc quân phục của Điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ, lập tức vừa kinh ngạc lại vừa vui mừng, bước lên nắm vay Đỗ Văn Hạo không ngừng lắc, ha ha cười lớn nói: “Hảo huynh đệ, ngươi thực sự làm được rồi ư?”

“Vâng! Hoàng Thái Hậu đã ban ý chỉ ủy nhiệm ngu đệ làm Điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ, vừa rồi Tiêu công công đã ban chỉ.”

Tiêu công công mỉm cười nói: “Ý chỉ của là để Đỗ Văn Hạo Đỗ tướng quân thay Vi Ngạn làm Điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ.”

“Được! Tốt quá! Huynh đệ, vậy Vi Ngạn thì sao?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Vi Ngạn đã được điều nhiệm làm binh bộ viên ngoại lang.”

Ung vương ngây người rồi lập tức ngẩng mặt lên trời cười lớn: “Ha ha ha, ngươi khá lắm! Tốt! Rất tốt! Ha ha ha.”

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Tất cả điện tiền thị vệ trong hoàng cung đều đã trở về vị trí ban dầu, không có ngu đệ trực tiếp ra lệnh, không cho phép bất kỳ ai được rời bỏ cương vị. Vương gia có thể yên tâm rồi.”

Tin tức này càng khiến Ung vương vui mừng bất ngờ, nắm lấy vai Đỗ Văn Hạo rồi vừa lắc vừa vỗ, luôn miệng khen Đỗ Văn Hạo là hảo huynh đệ, làm việc rất giỏi.

Tiêu công công nói: “Hai vị vương gia, chúng ta tới là để truyền thánh chỉ của Hoàng Thái Hậu, xin bày hương án để tiếp chỉ.”

Ung vương vội vàng nghênh đón Tiêu công công và Đỗ Văn Hạo vào trong phủ để, bày hương n ở chính đường rồi quỳ xuống tiếp chỉ.

Tiêu công công gân cổ cò lên nói: “Ý chỉ của Hoàng Thái Hậu chiếu viết: Truyền Ung vương Triệu Nhan, Tào vương Triệu Mạch lập tức vào cung thương nghị chuyện kế thừa hoàng vị. Khâm thử!”

Ung vương và Tào vương hai người kinh hỉ đan xen, xem ra thuốc lú của Đỗ Văn Hạo quả thật khiến cho Hoàng Thái Hậu quay cuồng rồi, vội vàng khấu đầu tạ ơn rồi nhận lấy ý chỉ.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Không biết chỗ dê mà ngu đệ phái người đưa đến đã tới chưa?”

“Tới rồi, đã đưa tới các điểm rồi, đang giết mổ để nướng. Đợi bản vương từ trong cung trở về, sẽ dẫn hiền đệ tới các điểm tuần tra, để các huynh đệ kính ngươi mấy chén!”

Đỗ Văn Hạo vội vàng cúi người tỏ ý cảm tạ.

Tào vương cười ha ha, nói: “Hoàng huynh, nếu lần này đi, mẫu hậu quả thực xác định để huynh kế vị, vậy chúng ta chẳng phải là sẽ tiện thể chúc mừng luôn sao?”

Hình Thứ ở bên cạnh cũng cười ha ha bợ đít: “Đúng vậy, đại sự như thế này, nên cuồng hoang sướng ẩm mới đúng.”

Ung vương mắt thấy chướng ngại lớn nhất là Vi Ngạn đã bị cách chức, điện tiền thị vệ đã rơi vào trong tay “người của mình” là Đỗ Văn Hạo, mà Đỗ Văn Hạo lúc này lại ở trong phủ của mình, chỉ cần lưu hắn ở lại đây là không sợ hắn giở trò quỷ gì nữa. Cho nên trong lòng vững tin, vui đến nỗi quên hết tất cả, cười lớn nói: “Đúng đúng! Nói rất đúng! Bày yến tiệc! Bày đại yến tiếc để chiêu đãi Đỗ hiền đệ thay cho bản vương. Gọi mã quân, bộ quân đô chỉ huy sứ Mã Toàn Dũng và Thạch Nguyên tới, còn có tất cả phó đô chỉ huy sứ, đô ngu hầu, chỉ huy sứ của các doanh cùng nhau tới phủ bản vương uống rượu ăn mừng. Những người khác thì ở nguyên tại chỗ đợi lệnh. Bản vương quay về cũng sẽ khen thưởng thật tốt huynh đệ ở các doanh! Ha ha ha!”

Tể tướng Thái Xác cảm thấy hiện tại đang là lúc quốc tang, linh cữu của Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu vẫn để trên linh đường. Lúc này mà bày yến tiệc uống rượu ca hát thì e rằng không hay. Nhưng mắt thấy Ung vương hưng phấn như vậy, một khi tối nay xác định do hắn kế vị thì hắn chính là Hoàng Thượng. Hắn có thể quyết định lo việc tang ma như thế nào, cho nên cũng không nên làm hắn mất vui vào lúc này.

Ung vương sau khi an bài thỏa đáng liền dẫn Tào vương chia nhau ngồi kiệu theo Tiêu công công vào cung.

Tiến vào trong cung, trên tường thành của Hoàng cung quả nhiên không thấy điện tiền ti tướng sĩ kéo cung đặt tên như lúc trước nữa. Các nơi của Hoàng cung đều là đại nội thị vệ canh gác giống như bình thường. Phảng phất như nơi đây căn bản là chưa từng xảy ra chuyện gì.

Hai vị vương gia rất là cao hứng, một đường tới thẳng thẩm cung của Hoàng Thái Hậu. Tiến vào cung, chỉ thấy Hoàng Thái Hậu ngồi trên giường mềm, đang ưu thương nhìn bọn họ.

Hai người vui sướng cúi người thi lễ, Ung vương nói: “Mẫu hậu đêm khuya gọi hài nhi tới, không biết có gì phân phó?”

Hoàng Thái Hậu nói: “Mẫu hậu nhớ các con, gọi các con tới nói chuyện với mẫu hậu. Ngồi đi.”

Hai người nghe vậy, lập tức có chút há hốc miệng, cái này hoàn toàn không giống như trong dự liệu của bọn họ. Ung vương vẫn chưa nản lòng, lại hỏi một câu: “Mẫu hậu tìm bọn còn tới không biết có phải là để thương nghị chuyện kế thừa hoàng vị không?”

Hoàng Thái Hậu lắc đầu nói: “Chuyện này ngày mai mẫu hậu sẽ triệu tập các lão thần trong triều cùng thương nghị, cuối cùng sẽ xác định người thừa kế.”

Ung vương các ngây ngốc: “Mẫu hậu chẳng lẽ không cảm thấy nên chỉ định hoàng vị cho hài nhi kế thừa ư? Hài nhi so với Lục hoàng tử thì mạnh hơn cả trăm lầm!”

Hoàng Thái Hậu cười khổ: “Hài tử, kế thừa hoàng vị không phải nói ai có bản lĩnh sẽ là do người đó làm hoàng đế được, thế há chẳng phải là làm loạn quy củ sao!”

Ung vương triệt để nản lòng, phất tay áo, nói: “Mẫu hậu, hài nhi còn có chuyện gấp, cáo từ!” Nói xong liền quay người đi, Tào vương cũng vội vàng chắp tay cáo từ, chạy ra theo. Hoàng Thái Hậu không lên tiếng ngăn cản.

Hai người vừa ra tới cửa thì ngoài cửa lớn có mấy chục đại nội thị vệ lướt ra, ôm quyền nói: “Hai vị vương gia xin dừng bước!”

Ung vương đại nộ: “Làm cái gì vậy hả? Các ngươi dám vô lễ với bản vương ư?”

“Xin lỗi, đây là ý chỉ của Hoàng Thái Hậu, hai vị vương gia không thể rời khỏi thẩm cung!”

Ung vương quay phắt người lại, nhìn về phía Hoàng Thái Hậu đang nằm trên giường mềm, nói: “Mẫu hậu muốn gi­am lỏng hài nhi ư?”

Hoàng Thái Hậu chậm rãi đứng dậy, trong mắt tràn ngập bi thương: “Nhan nhi, Mạch nhi, mẫu hậu không thể trơ mắt nhìn các con vì tranh đoạt hoàng vị với Lục hoàng tôn mà dùng vũ khí nói chuyện với nhau được. Cho nên, trước khi xác định người thừa kế hoàng vị, các con không thể rời khỏi thẩm cung của mẫu hậu. Cái này cũng là muốn tốt cho các con thôi!” Nói xong, Hoàng Thái Hậu phất tay áo, quay người đi vào hậu điện.

Ung vương đuổi heo mấy bước thì mấy đại nội thị vệ ở hai bên đại điện ùa ra, ôm quyền cúi người, cản đường hắn.

Ung vương trong lòng lạnh toát, hắn biết mình đã trúng kế rồi, đã rơi vào tròng của tên tiểu ngự y Đỗ Văn Hạo.

Lúc này, Đỗ Văn Hạo đang ăn uống rất cao hứng ở bên trong phủ Ung vương.

And chiếu theo sự phân phó của hai vị vương gia, tửu yến rất nhanh được bày ra. Mã quân đô chỉ huy sứ Mã Toàn Dũng và bộ quân đô chỉ huy sứ Thạch Nguyên, dẫn phó đô chỉ huy sứ, đô ngu hậu, chỉ huy sứ các doanh hối hả chạy đến. Trong đại sảnh bày mấy bàn, đám người Thái Xác cũng ẩm tửu cùng.

Mã quân thi vệ ti và bộ quân thị vệ ti của Tống triều vốn đều thuộc điện tiền thị vệ ti, là cơ cấu thiết lập dưới điện tiền thị vệ ti, tại điện tiền ti bố trí quân sự trưởng quan đô điểm kiểm tối cao. Về sau vì phân tán binh quyền, triệt tiêu đô điểm kiểm và phó chức, chia nó ra làm ba, phân biệt do đô chỉ huy sứ của riêng phần mình trực tiếp phụ trách với hoàng thượng. Nhưng do nguyên nhân trên thể lệ, đô chỉ huy sứ của điện tiền thị vệ là quan nhị phẩm, ngay cả phó đô chỉ huy sứ cũng là quan tứ phẩm. Mà đô chỉ huy sứ của mã quân và bộ quân là Mã Toàn Dũng và Thạch Nguyên lại chỉ là quan ngũ phẩm, về cấp bậc thì còn kém xa Đỗ Văn Hạo. Lại biết Đỗ Văn Hạo hiện tại là đại hồng nhân của Ung vương gia, cho nên càng ra sức nịnh bợ Đỗ Văn Hạo.

Thái Xác là hữu tể tướng, chính nhất phẩm, trừ vương gia ra thì lão là to nhất. Có điều, lão biết vương gia hiện tại muốn lôi kéo Đỗ Văn Hạo, cho nên cũng đành hạ mình kính rượu Đỗ Văn Hạo.

Có người muốn kính rượu Lâm Thanh Đại, nhưng Đỗ Văn Hạo nói hắn phải chiếu cố mình, không cho phép hắn uống rượu, rượu kính hắn cứ để mình uống. Lâm Thanh Đại không uống một giọt rượu nào, còn Đỗ Văn Hạo thì uống cạn lia lịa. Mà người kính rượu hắn thì phải tự mình uống trước, Đỗ Văn Hạo tự mình châm tửu, ai dám không uống.

Nháy mắt một tiếng đồng hồ đã qua đi, đã là nửa đêm canh ba, hai vị vương gia vẫn chưa trở về. Lúc này, đai đa số quân quan bọn Mã Toàn Dũng và Thạch Nguyên đều đã uống say, nằm bò lên bàn mà ngáy o o, còn có nửa lớn nằm vật trên đất.

Các phó tòng muốn tới đỡ đều bị Đỗ Văn Hạo đuổi ra. Nói rằng bọn họ tỉnh rượu thì còn phải uống tiếp, mấy văn quan bọn Thái Xác tửu lượng không ra làm sao, sớm đã uống say đến bất tỉnh nhân sự.

Đỗ Văn Hạo cũng uống đến to cả đầu, nhưng vẫn một tay cầm chén một tay cầm bình rượu đi khắp nơi mời rượu.

Uống tới cuối cùng, không ngờ tìm không thấy một người nào có thể uống được nữa. Bởi vì người đang đứng chỉ còn lại có Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại, các phó tòng hầu hạ ở xa xa đều nhìn mà tặc lưỡi không thôi.

Lúc này, bên ngoài có một đội người tiến vào, dẫn đầu chính là Tiêu công công, dẫn đại nội thị vệ đội tới tuyên chỉ, thấy tình cảnh ở đây đều thập phần kinh ngạc.

Đỗ Văn Hạo lắc lử bình rượu trong tay, cười hắc hắc nói: “Bình rượu hai lớp này quả thật là thần kỳ, cho bọn họ uống rượu thuốc còn lão nhân gia ta uống rượu ngon. Một người quật ngã mấy chục người. Ha ha, lão nhân gia ta tửu lượng quá khủng bố. Ha ha ha!”

Thì ra, Đỗ Văn Hạo lần này mang bình rượu đặc chế tới, là từ chỗ Hoàng Thái Hậu mà có. Loại bình rượu này bên trong chia làm hai tầng, chỗ tay cầm có một lỗ nhỏ, ấn vào lỗ thì thứ chảy ra là rượu ở lớp trong, mà thả lỗ nhỏ ra thì thứ chảy ra là rượu ở lớp ngoài. Hắn cho vào rượu ở lớp trong ma túy dược. Khi kính rượu, hắn để lấy cớ là rượu trong chén đối phương không đầy nên rót thêm một tí. Các tướng quan này uống rượu có ma túy, tất nhiên là ngủ rất nhanh.

Đỗ Văn Hạo cần bình rượu ngẩng mặt lên trời cười lớn: “Được rồi, xem ra ở đây không cần tuyên chỉ đâu, đợi bọn họ tỉnh lại ở trong lao rồi hẵng tuyên đi.”

Tiêu công công gật đầu, phất tay một cái, những thị vệ đại nội đó tiến lên trước, dùng xích sắt trói toàn bộ tướng gi­ao đang say xỉn lại. Các phó tòng ở phía sau sợ hãi muốn chạy trốn thì phát hiện cửa lớn ở thông đạo các nơi trong đại sảnh toàn bộ đã bị thị vệ đại nội khống chế rồi, căn bản là không ra được, toàn bộ bị đuổi vào trong một đại sảnh rồi gi­am lại.

Lúc này, bên ngoài có mấy chiếc xe lớn đi tới, các thị vệ tống toàn bộ các quan quân say xỉn lên xa rồi nhốt lại, ngoại trừ hai người Mã Toàn Dũng và Thạch Nguyên. Ba văn quan Thái Xác, Thái Kinh và Hình Thứ thì được khiêng vào trong phòng đặt lên giường, ba người bọ họ đều ngá vo vo.

Đỗ Văn Hạo bước ra bên ngoài, gọi binh sĩ canh gác lại, lè nhè bảo bọn họ rằng Vương gia có lệnh, bảo bọn họ lập tức thông tri cho đô tri, phó đô tri và bộ quân đô đầu, phó đô đầu của toàn thành mã quân, bộ quân, ngay cả cấp quân quan cũng đều gọi tới uống rượu.

Vừa rồi lúc Tiêu công công bọn họ vào vương phủ, còn khênh kiệu lớn của Ung vương và Tào vương về, những binh sĩ canh gác vừa rồi thấy thái giảm truyền chỉ và đại kiệu của vương gia tiến vào, còn cho rằng vương gia đã về, khẳng định thừa kế hoàng vị đã được xác định, đều hối hả chạy đi thông tri các nơi.

Lúc này, tướng sĩ mã quân và bộ quân cảnh giới ở các nơi trong thành cũng đang uống rượu ăn thịt, vô cùng cao hứng.

Rất nhanh, các quân quan hạ cấp của mã quân và bộ quân toàn thành đều tề tụ đông đủ, trong đai viện thiên tỉnh của Ung vương phủ đông nghịt người, ai ai cũng cao hứng mở to mắt xếp thành hàng đứng đợi.

Đột nhiên, trên nóc nhà quanh thiên thỉnh đều xuất hiện vô số cung nỗ thủ, kéo cung đáp tiễn nhắm vào bọn họ. Bên dưới cũng xuất hiện vô số trường mâu đao phủ thủ, đao thương sáng loáng. Các quan quân sợ hãi, không biết xảy ra chuyện gì. Bọn họ trước khi vào vương phủ, đao kiếm đều để lại bên ngoài. Lúc này tay trống trơn, nào còn dám loạn động.

Cửa lớn của đại điện mở toang, Tiêu công công tay cầm thánh chỉ từ bên trong bước ra, còn có cả Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại toàn thân khôi giáp. Lập tức, từng đội thị vệ đại nội áp tải mã quân đô chỉ huy sứ Mã Toàn Dũng và bộ quân đô chỉ huy sứ Thạch Nguyên lảo đảo bước ra, bắt quỳ ở trên bậc.

Tiêu công công ưỡn bụng lướt nhìn các tướng quan đứng bên dưới, gân cổ cò lên nói: “Điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ Đỗ Văn Hạo tiếp chỉ!”

Đỗ Văn Hạo mặc khải giáp nặng nề bước tới dưới đài, vén áo quỳ xuống.

Tiêu công công ngâm nga: “Ý chỉ của Hoàng Thái Hậu chiếu viết: Mã quân đô chỉ huy sứ Mã Toàn Dũng và bộ quân đô chỉ huy Thạc Nguyên tự ý điều động quân đội, mưu đồ bất chính, lập tức chém đầu thị chúng. Hai chức thị vệ mã quân ti đô chỉ huy sứ và thị vệ bộ quân ti đô chỉ huy sứ do điện tiền thị vệ đô chỉ huy sứ Đỗ Văn Hạo kiêm nhiệm. Khâm thử!”

Đỗ Văn Hạo sau khi tạ ơn liền đứng dậy tiếp chỉ, đứng sang bên cạnh.

Mã Toàn Dũng và Thạch Nguyên đã được dùng nước lạnh hắt tỉnh, lúc này đầu óc vẫn quay cuồng không biết chuyện gì xảy ra, song nội dung thánh chỉ thì chúng vẫn nghe rõ. Nghe xong liền giật nảy mình, luôn miệng kêu oan uổng. Mã Toàn Dung hớt hải kêu lên: “Tha mạng, đây đều là ý của Ung vương, lệnh cho bọn ta suất quân chuẩn bị công đả hoàng cung, muốn dùng vũ lực đoạt lấy hoàng vị. Đây đều là ý của ông ta.”

“Câm miệng.” Tiêu công công nghiêm giọng nói: “Chết tới nơi rồi còn dám vu hãm hai vị vương gia! Người đầu! Hành hình!”

Thị vệ ở bên cạnh bước tới, tháo đầu khôi của hai người ra, lôi cổ ra để cố định. Từ trong đại điện có hai vị đao phủ mặt che vải đen bước ra, một tay xách quỷ đầu đao, một tay bưng bát rượu trắng, uống liền mấy ngụm rồi phun lên thân đao, giơ lên không trung vạch một vòng tròn, sau đó thì thì chém vào cổ hai người.

Hai người quỳ dưới đất vẫn lớn tiếng kêu oan, nói là chủ ý của vương gia, quỷ đầu đao chém tới, giọng nói đột nhiên ngưng bặt, đầu người lăn xuống dưới bậc, máu phun ra ngoài mấy bước, trên người tướng quan đứng ở phía trước đều nhiễm máu. Thị vệ đứng ở hai bên đem ném thi thể không đầu về phía trước, hai cỗ thi thể rầm rầm ngã xuống bậc.

Thấy cảnh này, hơn trăm tướng quân có mặt đều rùng mình sợ hãi, ai ai cũng co đầu rụt cổ không dám lên tiếng.

Chương 387: Hạn Lâu Gặp Mưa Lành

Đỗ Văn Hạo tay cầm thánh chỉ cao giọng nói: “Chư vị huynh đệ, hai tên Mã Toàn Dũng, Thạch Nguyên không có hổ phù điều binh của xu mật viện, tự ý điều động quân đội, mưu đồ bất chính, đã phải đền tội. Những phó đô chỉ huy sứ, đô ngu hậu, chỉ huy sứ các doanh còn lại có tham dự đã bị nhốt vào ngục, đợi xử lý sau. Hoàng Thái Hậu ra ý chỉ, để bản quan kiêm nhiệm mã quân và bộ quân đô chỉ huy sứ, ai kháng chỉ không tuân thì mời đứng ra khỏi hàng!”

Trong sân tất nhiên là không có ai dám đứng ra. Những hạ cấp quân quan này có ai mà nguyện ý vì loại chuyện này mà kháng lệnh chứ? Trong lòng bọn họ đều hiểu rất rõ, Mã Toàn Dũng và Thạch Nguyên hai người chỉ chẳng qua là phải chịu tội thay cho hai vị vương gia có ý đồ tranh đoạt hoàng vị mà thôi. Đó khẳng định là muốn tìm hai con dê chịu tội thay, giết một dọa trăm. Đối với những quân quan hạ cấp như bọn họ, chỉ cần thật thà ngoan ngoãn nghe lệnh thì còn có thể tiếp tục được làm quân, cái đầu trên cổ cũng được nằm ổn định.

Đỗ Văn Hạo nói: “Vậy thì tốt rồi, tướng quân của mã quân và bộ quân cứ xếp hàng theo đội của mình!”

Những tướng quan này đều đã được huấn luyện, rất nhanh liền xếp xong tung đội.

Đỗ Văn Hạo lấy ra một danh sách, cao giọng đọc: “Tiếp đây bản quan sẽ bổ nhiệm danh sách phó đô chỉ huy sứ, đô ngu hậu tân nhiệm của mã quân và bộ quân cùng với chỉ huy sứ tân nhiệm của các doanh. Từ Tam ở đâu?”

Đội hộ vệ ở bên cạnh hắn có một người bước ra khỏi hàng, chính là hộ vệ theo Đỗ Văn Hạo chinh chiến với đại quân Thổ Phồn, về sau một mực theo hắn tuần y. Từ Tam quỳ một gối xuống ôm quyền lĩnh mệnh.

“Bản quan bổ nhiệm ngươi làm mã quân phó đô chỉ huy sứ!”

“Mạt tướng lĩnh mệnh, tạ đại nhân!”

Từ Tam sau khi cảm ơn thì đứng sang một bên.

“Vương Đỉnh Lực đâu?”

“Lại có một thiếp thân thị vệ của Đỗ Văn Hạo bước ra, quỳ một gối xuống ôm quyền thi lễ: “Có mạt tướng!”

“Bản quân bổ nhiệm người làm bộ quân phó đô chỉ huy sứ!”

“Mạt tướng lĩnh mệnh! Tạ ơn đại nhân!”

Tiếp theo, trong danh sách mà Đỗ Văn Hạo tuyên bố, trong phó đô chỉ huy sứ và bộ phận đô ngu hầu của mã quân và bộ quân do hắn chọn ra mấy chục người, đều là những hộ vệ theo hắn tuần y đảm nhiệm. Những nhân tuyển khác cũng đều là tương quân trong năm ngàn cấm quân năm xưa hắn suất lĩnh tây chinh đã cùng hắn kề vai sát cánh.

Những người này có cảm tình rất sâu với Đỗ Văn Hạo, không ngờ Đỗ Văn Hạo sau khi quay về, chuyện đầu tiên chính là thăng quan cho bọn họ, tất cả đều vô cùng cảm kích, ai nấy đứng ở trước hàng của doanh mình.

Một phen điều chỉnh này, Đỗ Văn Hạo đã đổi toàn bộ chỉ huy sứ và tướng quân của mã quân và bộ quân thành người của mình. Những tướng quân trước kia thì đều bị Đỗ Văn Hạo gi­am lại, những người này hầu như đều là thân tín của hai vị vương gia, tất nhiên là phải diệt trừ.

Sau khi bổ nhiệm xong, Đỗ Văn Hạo phân phó: “Mã quân vân kỵ quân và vũ kỵ quân phân biệt phụ trách thành phòng của nam thành và bắc thành, cùng với nhiệm vụ tuần tra canh gác các nhai đạo. Những tướng sĩ các doanh khác lập tức quay về điểm cảnh giới, dẫn toàn bộ binh sĩở hạt về binh doanh, đao thương cho vào kho, ngựa về chuồng, ngoài vệ đội trị thủ ra, tất cả tướng sĩ không ai được phải mang theo bất kỳ binh khí nào. Không có mệnh lệnh của bản quan, nghiêm cấm bước ra ngoài binh doanh một bước. Ai trái lệnh - chém đầu!”

Chúng tướng đồng thanh đáp ứng, sau đó theo chỉ huy sứ của mình rời đi.

Tiếp theo, Đỗ Văn Hạo phi thân lên ngựa, dẫn Lâm Thanh Đại cùng với phó đô chỉ huy sứ, đô ngu hậu tân nhiệm đi tuần thị các nơi.

Không tới một tiếng đồng hồ, mã quân, bộ quân mà Ung vương bố trí ở các nơi trọng yếu trong thành toàn bộ lui về binh doanh của mình. Cửa lớn binh doanh đóng chặt, Đỗ Văn Hạo và các chỉ huy sứ tân nhiệm dẫn vệ đội đi khắp nơi kiểm tra.

Vân kỵ quân và vũ kỵ quân một bộ phận thì phòng thủ bốn cửa thành, đội tuần tra thì tuần tra các đường lớn ở trong thành, cả kinh thành đều vô cùng trật tự.

Đỗ Văn Hạo lúc này mới yên tâm, nhưng không lười biếng. Cả một đêm đều tuần tra khắp toàn thành, cho tới tận khi trời sáng.

Khi bách tính của kinh thành tỉnh lại, binh sĩ vốn đầy đường lớn giờ ít đi rất nhiều, ngoại trừ mười gi­ao lộ có binh sĩ trấn thủ và mấy đội kỵ binh mặc khải giáp sáng bóng đang tuần tra trên đường lớn ra thì đại đội nhân mã vốn tồn thủ khắp nơi đã biến mất không thấy đâu.



Thẩm cung của Hoàng Thái Hậu.

Sau khi nghe Đỗ Văn Hạo kể lại những chuyện vừa qua xong, Hoàng Thái Hậu thở phào nhẹ nhõm, nói: “Vậy thì tốt rồi! Văn Hạo, vẫn là ngươi làm việc giỏi! Chuyện này làm rất thỏa đáng, ta cũng yên tâm rồi.”

Đỗ Văn Hạo cười hắc hắc, nói: “Đúng vậy, hiện tại trong tay hai vị vương gia không còn quân đội, Lục hoàng tử cũng không còn sự hỗ trợ của quân đội. Hoàng Thái Hậu có thể thoải mái cùng các vị đại thần thương nghị chuyện thừa kế hoàng vị rồi.

Hoàng Thái Hậu nghe thấy lời này, sắc mặt lại biến thành có chút không tự nhiên, do dự một thoáng rồi thấp giọng hỏi: “Ý tử của ngươi thì sao? Để ai thừa kế hoàng vị thì tốt hơn?”

Đỗ Văn Hạo trong lòng khẳng định là nguyện ý để Lục hoàng tử thừa kế rồi. Dẫu sao thì mình hiện tại đã kiêm nhiệm quan chỉ huy tối cao của ba nha điện tiền thị vệ, mã quân và bộ quân. Mà quân đội toàn quốc đều quy về thống lĩnh của ba nha này, trên thực tế mình lúc này đã là quan chỉ huy quân sự tối cao của toàn quốc, là đại nguyên soái của binh mã thiên hạ. Nhưng, mình đã đắc tội với Ung vương. Nếu Ung vương làm hoàng đế, mình sẽ gặp phiền phức lớn. Cho nên tốt nhất là Ung vương đừng làm hoàng đế.

Nhưng câu này Đỗ Văn Hạo vẫn không nói ra miệng. Hắn ở bên ngoài rêu rao khắp nơi rằng người có thể xách định ai thừa kế hoàng vị chỉ có thể là Hoàng Thái Hậu, mà hắn nếu như thao túng ý tứ của Hoàng Thái Hậu thì rất khó ăn nói với người ta.

Hắn hiện tại nắm binh quyền trong tay, đằng sau lại có Hoàng Thái Hậu chống lưng, cũng không quá sợ Ung vương làm hoàng đế. Bởi vì hắn đã nghĩ kỹ kế sách để ứng đối, nếu thực sự tới bước đường cùng, quân quyền trong tay tuyệt đối không thể buông bỏ, phải dùng Hoàng Thái Hậu để đối kháng với Ung vương, tuyệt không gi­ao binh quyền, có binh quyền thì mới có thể tự bảo vệ mình. Một khi phát hiện Ung vương có ý đồ bất lợi với mình thì lập tức động quân sự chính biến, lật đổ Ung vương, rồi đưa một hoàng đế bù nhìn lên là được. Vậy lúc đó có thể ép thiên tử để ra lệnh cho chư hầu, làm một Tào Tháo kiêu hùng cũng chưa chắc đã không được.

Hiện tại điều cần phải giải quyết là quyền điều binh. Binh chế của Tống triều là ba nha chưởng quản quyền lĩnh binh, xu mật viện nắm quyền điều binh. Hiện tại quyền điều binh vẫn không nằm trong tay, vẫn là một ẩn hoạn, phải giải quyết xong chuyện này trước khi Ung vương thừa kế hoàng vị. Hiện tại xem ra Hoàng Thái Hậu vẫn chưa hoàn toàn buông bỏ ý định để nhi tử của mình làm hoàng đế, không thể để bảo khố ở bên cạnh Hoàng Thái Hậu được. May mà hổ phù điều động điện tiền thị vệ đã nằm trong tay mà, không phải sợ gì. Đương nhiên, tốt nhất có thể nắm được cả quyền điều binh ở trong tay.

Cho nên Đỗ Văn Hạo cười nhạt, hỏi: “Không biết nàng chuẩn bị tổ chức các đại thần thương nghị chuyện thừa kế hoàng vị như thế nào?”

“Cái này ta cũng nghĩ qua rồi, trước tiên tổ chức các tế chấp thương nghị trước, nếu ý kiến nhất trí thì tốt, nếu không nhất trí thì có thể mở rộng phạm vị thương nghị. Ta hi vọng tới lúc đó ngươi có thể tham gia, có ngươi ở bên cạnh thì ta sẽ yên tâm hơn.”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: “Ta không tham gia được. Thao Thao. Đừng quên rằng quan chức cao nhất hiện tại của ta chỉ là điện tiền đô chỉ huy sứ, không thuộc tế chấp, không có quyền tham gia dạng hội nghi hạch tâm cơ mật này. Trừ phi ta đồng thời kiêm nghiệm cả xu mật viện sứ thì mới có thể tham gia.”

Lời này của Đỗ Văn Hạo rất rõ ràng là hi vọng Hoàng Thái Hậu thuận miệng bổ nhiệm hắn làm xu mật viện sứ. Có điều, Hoàng Thái Hậu dẫu sao cũng không phải là tiểu cô nương mới sa vào lưới tình. Bà ta rốt cuộc vẫn là Hoàng Thái Hậu, duy hộ hoàng quyền là trách nhiêm số một của bà ta, mà lối suy nghĩ của Đỗ Văn Hạo rõ ràng là sẽ uy hiếp tới hoàng quyền.

Cho nên một câu này của Đỗ Văn Hạo liền khiến Hoàng Thái Hậu ngây người, áy náy nói: “Cái này, quyền lĩnh binh và quyền điều binh bắt buộc phải chia ra, đây là quy củ mà thái tổ hoàng để chế định, trước giờ chưa hề thay đổi, cho nên ta…”

Đỗ Văn Hạo cũng chỉ là thuận miệng nói mà thôi, hắn không hi vọng Hoàng Thái Hậu có thể phá lệ này. Cho dù Hoàng Thái Hậu hạ chỉ thì đám quan ngự sử cũng sẽ không đồng ý, không khiến cho trời đất quay cuồng thì không được. Bởi vì một khi như vậy, quân quyền của hắn sẽ không phải chịu bất kỳ sự kiên chế nào, tất nhiên sẽ dẫn tới thành viên của hoàng thất và triều dã trên dưới cảnh giác và bất mãn. Lời của Hoàng Thái Hậu hắn hoàn toàn có thể hiểu được.

Đỗ Văn Hạo ngồi xuống bên cạnh bà ta, nắm lấy tay bà ta, nói khẽ: “Ta hiểu mà, ta chỉ là thuận miệng nói ra mà thôi.”

Hoàng Thái Hậu cười áy náy: “Ta biết sự lo lắng của ngươi, ngươi vẫn sợ nếu như Nhan nhi đăng cơ, sẽ tìm ngươi gây phiền phức.”

“Đúng vậy, ta chính là sợ tương lai Ung vương gia sẽ dùng xu mật viện để đối phó với ta. Lần này hắn có thể điều động mã quân và bộ quân, khẳng định là có quan hệ rất tốt với xu mật viện.

“Ừ, xu mật sứ Hàn Chẩn có đi lại khá thân cận với Nhan nhi, lần này Nhan nhi điều binh, hắn chắc là có gây ảnh hưởng. Mặc kệ là Nhan nhi có thể thừa kế hoàng vị hay không thì cũng phải điều chỉnh lại tên Hàn Chẩn này, không thể để hắn trở thành công cụ để Nhan nhi đối phó ngươi. Ta sẽ điều chỉnh chức vị này. Ừ, vậy để Vương Gi­ai làm xu mật sứ là được rồi, hắn ủng hộ Lục hoàng tôn, sẽ không giúp Nhan nhi đối phó ngươi đâu.”

Đỗ Văn Hạo trong lòng mừng rơn, mình đã không thể kiêm quyền lĩnh binh và quyền điều binh, vậy chỉ cần Ung vương không nắm được xu mật viện thì nguy hiểm đối với mình sẽ không lớn. Có điều, hắn vẫn tiếp tục làm mặt khổ, nói: “Vậy vạn nhất nếu Ung vương làm hoàng thượng thì sao? Hắn vẫn có thể loại trừ Vương Gi­ai, thậm chí miễn chức ta cũng là hết sức bình thường.”

Hoàng Thái Hậu cười tươi rói, nói: “Nếu như các tế chấp đều quyết định để Nhan nhi thừa kế hoàng vị thì không phải vẫn còn ta sao? Ta trước khi hội sự sẽ yêu cầu hắn tại đương triều bảo chứng tương lại tuyệt đối không được điều chỉnh ba nha và xu mật. Làm thế ngươi đã yên tâm chưa?”

Đỗ Văn Hạo đương nhiên không thể tin rằng tương lai sau khi Ung vương vương đăng cơ còn chịu nghe lời Hoàng Thái Hậu. Có điều, Hoàng Thái Hậu có thể nói vậy, hắn đã rất hài lòng rồi, cũng rất cảm kích bà ta. Cho nên Đỗ Văn Hạo rất kích động ôm lấy Hoàng Thái Hậu rồi hôn một cái lên khuôn mặt đầy đặn của bà ta.

Hoàng Thái Hậu lận này đỏ bừng mặt nhưng không giãy dụa, chỉ đánh yêu hắn một cái, nói: “Ngươi vẫn phải cùng ta tham gia thảo luận kế thừa hoàng vị. Được không? Ta sẽ giải thích rõ với Nhan nhi rằng tất cả những chuyện ngươi làm đều là do ta dặn dò, không liên quan gì tới ngươi cả, để hắn không hận ngươi. Có được không nào? Ta muốn có ngươi ở bên cạnh ta.”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy lời này liền biết rằng Hoàng Thái Hậu vẫn có một chút động tâm muốn để Ung vương thừa kế hoàng vị. Cho dù mình hi vọng Lục hoàng tử thừa kế hoàng vị, nhưng cảm giác mẫn duệ của Đỗ Văn Hạo nói cho hắn biết lúc này không thể trực tiếp khuyên bà ta để Lục hoàng tử kế thừa được, rất dễ gây ra phản tác dụng. Cho nên bèn lấy tiến làm thoái, ôm bà ta nói: “Thao Thao, cảm ơn nàng, có điều, cuộc thảo luận về thừa kế hoàng vị ta vẫn không tham gia đâu, bởi vì quyền lĩnh binh của ba nha nàng đều gi­ao cho ta rồi, e rằng sẽ dẫn tới nghi kỵ. Ý kiến của ta khẳng định sẽ làm ảnh hưởng tới ý kiến của các tế chấp, nếu để truyền ra ngoài thì cũng không thỏa đáng. Tốt nhất cứ để bọn họ mặc sức biểu lộ ý kiến của mình đi.”

Hoàng Thái Hậu cố gắng nhoẻn miệng cười: “Nhưng, nếu như không có ngươi ở bên cạnh, ta thật sự không biết nên xử lý chuyện này như thế nào.”

Đỗ Văn Hạo nói: “Ta đoán rằng bọn họ khẳng định sẽ tranh cãi to, không thể đạt thành thỏa hiệp một cách nhanh chóng được đâu. Như thế này đi, nàng trước tiên cứ nghe bọn họ cãi nhau, đừng tỏ thái độ, để khi quay về chúng ta sẽ thương lượng.”

Hoàng Thái Hậu gật đầu nói: “Ừ, cứ vậy đi.”

Hoàng Thái Hậu gọi Tiêu công công vào, bảo lão truyền chỉ triệu tập các tế chấp thương nghị về chuyện thừa kế hoàng vị tại chính sự đường.

Sau khi Tiêu công công đi, Hoàng Thái Hậu lại kéo tay Đỗ Văn Hạo bảo hắn ngồi xuống cạnh mình, ngẩng đầu lên nhìn hắn, nói: “Nhìn ngươi một đêm không ngủ, mắt đầy tia máu rồi kìa. Hay là ngươi ngủ một lát ở chỗ ta đi. Ta sau khi thương nghị với bọn họ xong cũng tiện nói chuyện với ngươi hơn.”

Đỗ Văn Hạo ôm lấy eo thon của bà ta, áp má vào má bà ta, nói: “Ta nằm một mình thì không ngủ được đâu. Trừ phi là ôm nàng ngủ!” Nói xong, một cánh ma trảo đã từ vạt áo của bà ta thò vào, sờ lên da thịt trơn nhẵn của bà ta, rồi tập kích lên ngực.

Hoàng Thái Hậu bảo dưỡng rất tốt, mặc dù đã lớn tuổi, nhưng da thịt vẫn mịn màng trơn nuột như bánh kem, ngực cao vút săn chắc mà lại rất đàn hồi.

Hoàng Thái Hậu ái chà một tiếng, cảm thấy toàn thân mềm nhũn, hổn hển nói: “Văn Hạo, đừng, ngươi nghe ta nói đã…”

Đỗ Văn Hạo nắm lấy ngực bà ta mà nắn bóp: “Ừ, nàng nói đi, ta nghe đây.”

Hoàng Thái Hậu đánh một cái vào tay hắn: “Ngươi bỏ ra đi, cứ thế này ta nói thế nào được!”

Bộ dạng đang hờn dỗi của Hoàng Thái Hậu khiến Đỗ Văn Hạo động lòng, bất chấp tất cả mà cúi người xuống hôn lên môi bà ta. Hoàng Thái Hậu vội vàng lắc đầu tránh né, thế là Đỗ Văn Hạo hôn lên mà bà ta.

Hoàng Thái Hậu chống cự trong hoảng loạn: “Đừng làm vậy, Văn Hạo, không được đâu!”

Đỗ Văn Hạo mặc kệ, đè Hoàng Thái Hậu lên giường, tay trái túm chặt lấy hai tay của bà ta, sau đó thì đưa tay phải ra đố định mặt bà ta, hôn lên đôi môi hồng của bà ta. Môi Hoàng Thái Hậu rất mềm rất thơm, chỉ là hơi lạnh.

Đỗ Văn Hạo bắt đầu cởi y phục của Hoàng Thái Hậu.

Hoàng Thái Hậu dưới sự cường công thô dã của Đỗ Văn Hạo, sự chống trả rất yếu đuối, rất nhanh liền bị Đỗ Văn Hạo lột trần.

Đỗ Văn Hạo ngậm chặt lấy môi bà ta. Một chiêu này khiến Hoàng Thái Hậu triệt để mềm oặt, vuốt ve đầu hắn rồi rên rỉ khe khẽ.

Nhưng khi ma trảo của Đỗ Văn Hạo thò xuống hạ thân của bà ta thì Hoàng Thái Hậu ra sức tóm lấy tay hắn.

Đỗ Văn Hạo giật ra rồi lại tập kích về nơi âm u ấy, nhưng lại một lần nữa bị Hoàng Thái Hậu bắt lấy tay.

Lần này, Hoàng Thái Hậu gi­an nan thở dốc, nghẹn ngào nói một câu: “Văn Hạo, đừng, ta vẫn đang chịu tang!”

Đỗ Văn Hạo lập tức cứng đờ như bị điểm huyệt, dục hỏa trong đầu giống như bị hắt một thùng nước lạnh, xoẹt một cái bốc hơi lên, rồi biến mất hoàn toàn.

Đỗ Văn Hạo lấy quần áo của Hoàng Thái Hậu che đi bộ ngực cao vút của bà ta, sau đó hôn lên má bà ta một cái, thấp giọng nói: “Xin lỗi, Thao Thao, ta vào lúc này không nên…”

Hoàng Thái Hậu cúi đầu chỉnh lại quần áo, lắc lắc đầu rồi đỡ lấy cánh tay của Đỗ Văn Hạo, dựa đầu lên vai hắn.

Đỗ Văn Hạo đưa tay ôm lấy eo thon của bà ta, lại hôn một cái lên tóc bà ta rồi thấp giọng nói: “Xin lỗi, Thao Thao. Ta quá lỗ mãng rồi, không ngờ lại quên…”

“Đừng nói gì cả, Văn Hạo.” Hoàng Thái Hậu dựa sát vào lòng hắn, nói: “Có thể như thế này là ta đã rất thỏa mãn rồi. Văn Hạo, đáp ứng ta đi, chúng ta về sau chỉ có thể như thế này thôi, không thể làm quá nữa, được không?”

Đỗ Văn Hạo ôm chặt bà ta hơn: “Đợi qua kỳ tang của nàng mà cũng không được sao?”

Hoàng Thái Hậu kiên định lắc lắc đầu: “Không được! Chúng ta như thế này là đá quá lắm rồi, ngươi nếu như cứ bức ta thì ta chỉ đành không gặp ngươi nữa thôi.”

Đỗ Văn Hạo nắm chặt tay bà ta rồi hôn một cái, nói: “Nàng nhẫn tâm lắm!”

Hoàng Thái Hậu cố nhoẻn miệng cười trông rất buồn bã: “Văn Hạo, xin lỗi!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Không! Là ta phải xin lỗi nàng mới đúng. Thao Thao.”

Hoàng Thái Hậu nhẹ nhàng tựa vào lòng hắn, nỉ non khóc.

Đỗ Văn Hạo biết vì sao bà ta lại khóc, thân là nữ nhân, bà ta rất cần tình yêu của nam nhân, mà khi đối diện với sự mơn trớn của nam nhân mà mình động lòng, trong nội tâm của bà ta cũng có khát vọng cháy bỏng. Nhưng thân phận của bà ta lại khiến bà ta không thể tiếp nhận được. Cho nên hắn không biết nên an ủi Hoàng Thái Hậu như thế nào, chỉ đành ôm chặt lấy rồi lau đi nước mắt cho bà ta.

Hoàng Thái Hậu cuối cùng cũng ngẩng đầu lên, nói: “Hay là ngươi về nghỉ ngơi trước đi, ở chỗ ta dẫu sao cũng không hay lắm. Đợi thương lượng xong rồi ta sẽ phái người gọi ngươi vào cung thương nghị.”

Đỗ Văn Hạo gật đầu, dùng trán đụng nhẹ vào trán bà ta, nói: “Vậy này không được khóc nữa đâu đấy!”

“Ừ!”

“Hôn ta một cái đi rồi ta sẽ đi.”

“Không” Hoàng Thái Hậu lắc đầu nói.

“Nàng vừa rồi nói là chúng ta không thể làm chuyện đó chứ không nói là không thể hôn.”

“Nhưng.”

Đỗ Văn Hạo bĩu môi nói: “Nếu như ngay cả hôn cũng không được thì nàng cứ hạ lệnh giết ta đi cho xong!”

Hoàng Thái Hậu nhịn được mà bật cười khúc khích, đưa tay ra nhéo má hắn một cái: “Ngươi đúng là biết chơi xấu!”

Đỗ Văn Hạo biết là có cửa, miệng cười hi hi rồi chu môi lên, rồi nhìn vào môi bà ta: “Mau hôn đi! Một cái thôi!”

Hoàng Thái Hậu mặt đỏ tới tận mang tai, hôn phớt một cái lên môi hắn như chuồn chuồn lướt nước: “Được chưa?”

“Không! Hôn kiểu ăn bớt ăn xén như thế không được, phải hôn cho tử tế!”

“Ngươi vô lại quá đi!”

“Nhanh lên nào!” Đỗ Văn Hạo ôm chặt lấy eo thon của bà ta, nhìn chằm chằm vào đôi môi hồng kiều diễm, luôn miệng giục.

Hoàng Thái Hậu xấu hổ không thôi, chậm rãi đưa môi tới, cẩn thận chạm vào môi hắn một cái. Vừa muốn rụt lại thì Đỗ Văn Hạo đã ôm chặt bà ta, sau đó miệng sớm đã hôn lại bà ta rồi thè lưỡi ra, tách môi bà ta ra rồi tiến vào trong miệng bà ta.

Hoàng Thái Hậu thở hổn hển, lưỡi thơm muốn né tránh, nhưng nào có chỗ mà tránh, bị Đỗ Văn Hạo ngậm lấy mà mút.

Một chiêu này đã nhen lên ngọn lửa khát vọng trong nội tâm của Hoàng Thái Hậu, bà ta ôm lấy cổ hắn, thử đáp lại hắn.

Tay của Đỗ Văn Hạo lại một lần nữa thò vào trong chéo áo của Hoàng Thái Hậu, ve vuốt ngực của bà ta. Hoàng Thái Hậu lần này không hề cự tuyệt, để mặc cho ma chưởng hắn sờ mó. Đỗ Văn Hạo cũng nhớ lời ban nãy của bà ta, không tiến thêm một bước tập kích hạ thân của bà ta, điều này dần dần khiến cho thần kinh đang căng cứng của Hoàng Thái Hậu được buông lỏng.

Hoàng Thái Hậu cũng giống như đại đa sѠnữ nhân, đều khát vọng được hưởng cuộc sống phu thê bình thường, đối với sự ở góa lâu ngày cũng tràn ngập sự mất mát, thất vọng và bất lực. Sau khi Tống Anh Tông chết, những đêm dài đằng đẵng thường bị dục hỏa tiêu đốt không tài nào ngủ được, chỉ có thể mỗi đêm dùng nước lạnh để cho trái tim đang rực cháy của mình được tạm thời bình tĩnh lại. Cũng bởi vì nguyên nhân này mới dẫn tới việc bà ta chịu đựng sự giày vò hành kinh đau bụng hơn mười năm trời.

Âm soa dương tác gặp phải một tên trẻ tuổi Đỗ Văn Hạo tới từ xã hội hiện đại với tư tưởng cởi mở, bất chấp quân thần cương thường luân lý mà trộm tình với bà ta, khiến bà ta lại một lần nữa được thưởng thức tư vị nam nữ hoan ái. Bà ta cũng đã làm mẹ, quan niệm phong kiến trinh thao so với thiếu nữ thì mờ nhạt hơn nhiều, lại ở trong phòng của mình, không sợ người ngoài biết được, càng dễ mở rộng nội tâm. Lại chịu sự chi phối của sinh lý, cho dù là thân đang ở trong thời kỳ chịu tang, khống chế để bản thân không được phép làm chuyện nam nữ thực sự, nhưng ôm ấp hôn hít vỗ về như vậy đã vô cùng thỏa mãn khát vọng sinh lý của bà ta rồi. Đồng thời cũng vẫn nằm trong giới hạn mà đạo đức phong kiến của bà ta có thể chấp nhận được.

Cho nên, bà ta tận tình hưởng thụ sự ôm ấp và hôn hít của Đỗ Văn Hạo, khiến cho thân thể gần hai mươi năm bị khô hạn cảm thụ sự mưa móc tưới nhuần của Đỗ Văn Hạo.

Chương 388: Gi­ai nhân ước hẹn

Đỗ Văn Hạo là pháp y, hắn đương nhiên hiểu rất rõ về tâm sinh lý của nữ nhân, hắn lại có nền tảng là cuộc sống gia đình nên càng hiểu được cách thế nào khơi mào nữ nhân, hiểu được cách làm thế nào để nữ nhân thoả mãn.

Mặc dù Đỗ Văn Hạo cùng Hoàng Thái Hậu không có chính thức “mây mưa” cùng nhau nhưng dưới sự khiêu khích vuốt ve của Đỗ Văn Hạo nên cũng là một tình cảm gắn bó. So với cuộc sống vợ chồng với Tống Anh Tông năm đó, bây giờ Hoàng Thái Hậu còn thoả mãn hơn. Dù sao khi đó Hoàng Thái Hậu hoàn toàn bị động. Tống Anh Tông cũng không có khả năng khiêu khích, kích thích như Đỗ Văn Hạo, hiểu được cảm thụ sinh lý của nữ nhân.

Đỗ Văn Hạo giở thủ đoạn, vuốt ve khắp thân trên của Hoàng Thái Hậu. Hắn hé miệng hôn khắp thân thể Hoàng Thái hậu, đương nhiên có đột kích trọng điểm, miệng và nhũ hoa của Hoàng Thái Hậu.

Thân thể Hoàng Thái Hậu mịm màng, non mềm khiến Đỗ Văn Hạo gần như quên mất bản thân mình đang thân mật, âu yếm một phụ nhân trung niên. Đặc biệt phản ứng của Hoàng Thái hậu, càng về sau càng phối hợp với hắn khiến Đỗ Văn Hạo suýt chút nữa không thể kiềm chế bản thân mình.

Vì vậy khi hai người chuẩn bị phá vỡ phòng tuyến ngăn cách cuối cùng, Đỗ Văn Hạo đã hô quyết tâm, lấy nghị lực lớn nhất của mình dừng lại, hắn hiểu dục tốc bất đạt, thời gi­an còn nhiều.

Dưới sự trợ giúp của Đỗ Văn Hạo, sau khi Hoàng Thái Hậu sửa sang lại quần áo, nàng liếc nhìn hắn vẻ u oán xen lẫn cảm kích. Hai gò mà nàng ửng hồng giống như uống một thùng rượu lớn để lâu năm.

Đỗ Văn Hạo đợi khi Hoàng Thái Hậu bình tĩnh lại, hắn kéo tay nàng hỏi: “Nàng đi thượng nghị, còn ta đi đâu?”

“Ngươi tới tam nha môn xem thế nào. Ta sẽ cho người tới gọi ngươi sau. Ta có chuyện muốn thương lượng với ngươi”.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy chủ ý này rất hay. Bây giờ hắn là quan thống lĩnh cao nhất của tam nha. Đương nhiên là hắn muốn tới xem xét nha môn của chính mình.

Đỗ Văn Hạo ngồi kiệu rời khỏi Hoàng cung, trên đường đi hắn cực kỳ đắc ý.

Chính bản thân mình chỉ mới vuốt ve, hôn môi đã khiến Hoàng Thái hậu say như điếu đổ, như ngây dại. Trong lúc hắn vừa dương dương tự đắc với ‘hành động” của mình, hắn lại có chút thương cảm với Hoàng Thái Hâu. Điều này đã chứng minh trong những năm tháng qua Hoàng Thái Hậu đã cô quạnh như thế nào.

Đỗ Văn Hạo cũng không rõ đến tột cùng tình cảm của hắn với Hoàng Thái Hậu chính là gì. Là yêu sao? Có một chút nhưng phần lớn là sự đồng cảm và thương hại. Đương nhiên còn có cả yếu tố lợi dụng trong đó.

Cho dù là thế nào đi nữa, Đỗ Văn Hạo vẫn rất hài lòng với kết quả của việc săn sóc Hoàng Thái hậu sáng hôm nay cùng với thành công tối hôm qua nhưng hắn vẫn không thể bình chân như vại. Bởi vì nếu sau khi Ung Vương đăng cơ thành công sẽ còn phải đương đầu với rất nhiều vấn đề. Bản thân hắn vừa mới nắm giữ binh quyền, vẫn chưa hoàn toàn tạo dựng được thế lực riêng của mình. Việc cấp bách lúc này chính là thống lĩnh hoàn toàn tam nha, loại bỏ sự đối lập, để hắn có thể hoàn toàn sử dụng.

Điện tiền tư mã quân, bộ quân tam nha môn không cùng ở một chỗ với nhau. Điện tiền tư nha môn nằm bên trong hoàng thành. Thị vệ mã quân tư cùng thị vệ bộ quân và Xu mật viện đều nằm một chỗ, đều ở cửa trước ngoài hoàng thành.

Tin tức tân quan tới nhậm chức đã sớm bay tới đây. Ở đó vốn cũng phải chuẩn bị một chút để nghênh đón nhưng bây giờ Đỗ Văn Hạo cũng chẳng quan tâm tới những điều hào nhoáng bên ngoài. Hắn cần nhanh chóng tạo ra sự chuyển biến. Theo truyền thống, Điện tiền tư là lão đại của tam nha môn nên phủ quan chính của hắn cũng ở trong đó.

Phó Điện tiền tư Đô chỉ huy sứ Lý Phố sau khi Đỗ Văn Hạo được bổ nhiệm tối hôm qua hắn đã nghĩ tới việc Đỗ Văn Hạo phải tới nhậm chức nên sau khi sắp xếp việc tuần tra, phòng thủ trong thành hắn liền ngay trong đêm tới đây sắp đặt công việc.

Vì vậy ngay khi Đỗ Văn Hạo đi tới Điện tiền tư. Trước cửa Điện tiền tư đã treo đèn kết hoa, lập tức chiêng trống đánh vang trời, pháo nổ vang. Tất cả quan lại của tam nha đều tụ tập ở đây, xếp thành hai hàng bên đường nghênh đón.

Đỗ Văn Hạo xuống kiệu, Lý Phố tiến tới giới thiệu Đỗ Văn Hạo với các quan lại chủ yếu của nha môn sau đó Đỗ Văn Hạo nói mấy câu ngắn gọn. Thực ra đây chỉ là quá trình làm quen với nhau. Sau khi xong việc, Đỗ Văn Hạo căn dặn tam nha phó Đô chỉ huy sứ cũng tới Điện tiền tư họp.

Tòan bộ tam nha phó Đô chỉ huy sứ đã được thay đổi bằng cận vệ trước kia của Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo chỉ tìm hiểu chưa tới một canh giờ đã nắm được tình hình cơ bản của tam nha, làm quen với tất cả quan lại sau đó hắn lại chọn đội thân binh của bản thân mình.

Lần trước Đỗ Văn Hạo thống lĩnh năm ngàn cấm quân bôn tập đường dài phủ Thành Đô. Năm ngàn cấm quân đó chính là được lựa chọn trong Ngự lâm quân của tam nha sau đó tất cả đều quay về đội cũ của mình.

Những người có tài năng, tác chiến dũng mãnh của năm ngàn cấm quân khi đó đã được Đỗ Văn Hạo bổ nhiệm làm cấp quan chỉ huy của tam nha. Bây giờ hắn lại lựa chọn những binh lính trung thành, thiện chiến, dũng mãnh làm đội thân binh của mình. Những người này đã cùng Đỗ Văn Hạo vào sinh ra tử nên Đỗ Văn Hạo có thể tin dùng.

Đội trưởng của đội thân binh mới này là Hứa Văn Cường. Hắn không chỉ là một người có võ công cao cường mà còn là một người rất cơ trí.

Sau khi Đỗ Văn Hạo hoàn thành công việc kiểm tra tam nha thì đã tới giữa trưa. Hoàng Thái Hậu cũng không phái người tới ban chỉ dụ bảo hắn tiến cung. Điều này chứng tỏ hội nghị rất có thể vẫn chưa xong. Đỗ Văn Hạo đã dự đoán được chuyện lập Hoàng đế là chuyện đại sự. Trong một buổi sáng tuyệt đối sẽ không thể thương lượng xong. Những viên quan chấp chính đó chắc chắn sẽ tranh đoạt tới mặt đỏ tía tai. Dù sao ngôi Hoàng đế quá hấp dẫn nên không ai dễ gì từ bỏ. Huống chi bây giờ không còn tình huống bị đại binh uy hiếp, hai bên chỉ còn tranh cãi với nhau, tất cả đều cố gắng theo ý của mình.

Đỗ Văn Hạo dẫn theo đội thân binh mới quay về nhà.

Cả đêm hôm qua không ngủ nên Đỗ Văn Hạo rất mệt mỏi. Hắn chỉ muốn ngủ một giấc ngon nhưng những chuyện xảy ra liên tục đã khiến cho tinh thần của hắn hưng phấn, không thể ngủ được, về tới nhà mà vẫn mỉm cười vui sướng.

Chúng nữ Bàng Vũ Cầm đã chờ đợi hắn cả một đêm, tới tận giờ phút này mới thấy hắn về đến nhà nhưng lại mặc nhung trang (trang phục quân đội), mang theo một đội thân binh hộ vệ mới nên các nàng rất kinh ngạc. Chỉ khi Đỗ Văn Hạo lấy ra hai đạo thánh chỉ của Hoàng Thái Hậu, chúng nữa mới biết hắn lại được thăng quan, hơn nữa lần này được thăng lên quan lớn nhị phẩm, quan to nắm toàn bộ binh quyền triều đình nên vừa mừng vừa sợ.

Triều đình đã có chiếu lệnh: Trong lúc tang ma, tất cả không được uống rượu, ca hát. Tất cả các tửu quán lớn nhỏ đều phải đóng cửa cho dù yến tiệc tại gia cũng không được phép uống rượu vì vậy dù mấy người Bàng Vũ Cầm muốn tổ chức ăn mừng Đỗ Văn Hạo cũng thật sự không dám bày rượu thiết yến. Mấy nàng chỉ làm mấy món ăn, dùng trà thay rượu chúc mừng Đỗ Văn Hạo.

Sau khi Đỗ Văn Hạo ăn cơm xong, hắn đi ngủ, ngủ một mạch tới tận lúc lên đèn buổi tối.

Rốt cuộc Tiêu công công cũng dẫn thị vệ đại nội tới truyền chỉ, khiến Đỗ Văn Hạo cùng thê tử Bàng Vũ Cầm, tam thiếp Lâm Thanh Đại tiếp chỉ.

Đỗ Văn Hạo thăng quan, cáo mệnh của Bàng Vũ Cầm đương nhiên cũng lên theo. Điều này không có gì kỳ quái nhưng bây giờ lại khiến mấy người Lâm Thanh Đại tiếp chỉ nên mọi người biết nhất định Hoàng Thái hậu có khen tặng đối với Lâm Thanh Đại. Tất nhiên Đỗ Văn Hạo cũng hiểu rõ. Chế ngự Vi Ngạn, giải trừ thị vệ võ trang trước điện, Lâm Thanh Đại đã lập công lớn. Hoàng Thái Hậu đương nhiên không thể ban thưởng.

Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm mặc quan bào. Lâm Thanh Đại mặc một bộ áo dài xanh lơ, cả ba quỳ xuống trước chính đường tiếp chỉ.

Tiêu công công ngâm nga tuyên đọc ý chỉ của Hoàng Thái Hậu, bổ nhiệm Đỗ Văn Hạo làm Vi Vũ Hiển tướng quân, tước vị Khai quốc huyền công, cũng truy phong tổ tiên ba đời. Sắc phong nguyên phối Bàng Vũ Cầm làm cáo mệnh phu nhân nhị phẩm, sắc phong tam thiếp Lâm Thanh Đại làm cáo mệnh cung nhân ngũ phẩm.

Sau khi tuyên chỉ, mọi người xúm lại chúc mừng Lâm Thanh Đại. Dù bản thân Lâm Thanh Đại cũng không quan tâm chức hão cáo mệnh cung nhân ngũ phẩm nhưng dù saoon người ai cũng thích hư vinh nên trong lòng nàng cũng cực kỳ vui mừng.

Đỗ Văn Hạo cám ơn Tiêu công công truyền chỉ vất vả, hắn định mời vào uống trà nhưng Tiêu công công lại nói: “Đỗ tướng quân, Hoàng Thái Hậu còn có một khẩu dụ khác, lệnh cho người mau vào cung thương nghị”.

Đỗ Văn Hạo vội vàng lên kiệu cùng Tiêu công công vào Hoàng cung.

Vừa nhìn thấy gương mặt u sầu của Hoàng Thái Hậu, Đỗ Văn Hạo liền hiểu ngay. Sự việc vẫn chưa thuyết phục xong. Sau khi hành lễ, Hoàng Thái Hậu phất tay cho những người khác lui ra ngoài chỉ còn một mình Đỗ Văn Hạo trong điện.

Tất nhiên Đỗ Văn Hạo ngồi bên cạnh Hoàng Thái Hậu. Nhìn thấy tâm sự nặng nề của nàng, hắn liền kéo tay nàng hỏi: “Thế nào? Không thuận lợi ư?”

Hoàng Thái Hậu gượng cười nói: “Tất cả đều tranh nhau. Ai”. Nói một cách đơn giản, tể tướng Thái Xác cùng Vương Khuê mỗi người đứng về một bên, tranh giành kịch liệt. Hoàng Thái Hậu nghe theo lời Đỗ Văn Hạo không tỏ thái độ gì, chỉ nghe hai người tranh cãi. Suốt một ngày tới khi tối đen vẫn không có kết qủa gì.

Hoàng Thái Hậu nghĩ: Nếu như ngày hôm sau vẫn tiếp tục tranh cãi thì vẫn tiếp tục tình trạng này. Trong khi đó còn có việc tang của Hoàng thượng và Thái Hoàng Thái Hậu nên tạm ngừng việc này. Sau khi thương lượng cùng với hai phái đã quyết định, trước khi việc tang của Thái Hoàng Thái hậu và Hoàng thượng xong xuôi, việc triều chính vẫn do bốn vị phụ chính đại thần xử lý.

Đây là chuyện Đỗ Văn Hạo đã dự đoán trước. Vậy cũng tốt, hắn càng có nhiều thời gi­an làm quen với tình hình tam nha, nhanh chóng bồi dưỡng thế lực của mình vì vậy Đỗ Văn Hạo tỏ vẻ đồng ý với quyết định của Hoàng Thái Hậu, để cho nàng toàn lực xử lý tang sự trước.

Tang lễ của Thái Hoàng Thái Hậu và Hoàng thượng là quốc tang nên đương nhiên không thể hi, ba ngày có thể làm xong.

Mặc dù Đỗ Văn Hạo đã là quan lớn nhị phẩm nhưng hắn không được phép tham dự việc điều hành tang lễ, hắn chỉ phụ trách việc an ninh của kinh thành vì vậy dựa theo việc bố trí tang ma, Đỗ Văn Hạo dẫn theo Bàng Vũ Cầm cùng tân cáo mệnh cung nhân Lâm Thanh Đại vào triều tế điện còn ngoài ra không còn chuyện nào của hắn.

Việc tang mà xử lý rất rườm rà. Cả hai lễ tang đều do chính Hoàng Thái Hậu đích thân xử lý. Những chuyện này nàng cũng không thể triệu kiến Đỗ Văn Hạo vào cung trợ giúp nên trong một khoảng thời gi­an sau đó nàng cũng không gọi Đỗ Văn Hạo tiến cung thương nghị công việc.

Trong những ngày đó Đỗ Văn Hạo đều ở lỳ trong tam nha cùng các doanh binh, thị sát việc canh phòng cũng như thao luyện, triệu kiến Hiệu uý các cấp, không được uống rượu, không được giải trí, chỉ có thể uống trà, tán gẫu. Bởi vì các quan quân của tam nha tư từ trung cấp trở lên đã được thay bằng bộ hạ cũ của Đỗ Văn Hạo nên tất cả các mệnh lệnh đều thông suốt.

Tối hôm nay, Đỗ Văn Hạo cùng đội thân binh quay về từ doanh binh mã quân.

Hắn vừa mới thị sát binh lính của quân mã doanh cưỡi ngựa bắn cung. Tất cả binh lính ở đây cũng có thể coi là những cao thủ một trong một trăm, tuy không thể nói là thiện xạ thì cũng gần như là trăm phát trăm trúng. Nhưng điều làm Đỗ Văn Hạo buồn bực chính là tuy được gọi là mã quân, có nghĩa là quân kỵ binh nhưng có một nửa binh lính ở đó không có ngựa. Qua đây Đỗ Văn Hạo mới biết tình trạng khan hiếm ngựa của triều Tống nghiêm trọng như thế nào. Đường đường là kỵ binh Ngự lâm quân mà hai người cưỡi chung một con ngựa. Nói ra nhất định sẽ có người cười rụng cả răng.

Đỗ Văn Hạo ngồi trong kiệu trầm ngâm suy nghĩ biện pháp giải quyết vấn đề chiến mã.

Lúc này trời đã tối đen, kiệu của hắn không thể đi nhanh được. Con đường phía trước khá chật hẹp. Hết lần này tới lần khác lại có một chiếc xe ngựa dừng lại trên đường. Con đường chật hẹp, đám thân binh vội vàng tiến tới, tay ấn vào chuôi đao, quát mắng để đối phương nhường đường nhưng xe ngựa vẫn chen chúc nhau trên đường, không có ý định tránh đường.

Đỗ Văn Hạo khá căng thẳng, hắn vội vàng vén màn kiệu lên xem xét thì thấy màn xe ngựa kia cũng vén lên, một gương mặt ló ra. Nương theo ánh đèn đường, Đỗ Văn Hạo chăm chú quan sát, hắn thấy gương mặt đó rất quen nhưng nhất thời không nhớ ra đó là ai.

Ng­wời nọ sửng sốt khi nhìn thấy Đỗ Văn Hạo, sau đó người đó vui mừng nói: “Đỗ tướng quân, quả thật rất trùng hợp. Hết lần này tới lần khác đều gặp ngài ở đây”.

Đỗ Văn Hạo chắp tay hoàn lễ, hắn cười hỏi: “Các hạ là?”

“Đỗ tướng quân là quý nhân nên hay quên. Ty chức là Văn Lý, Viên ngoại lang bộ lễ. Tiểu nữ đã từng tới cầy y đại nhân”.

Lập tức Đỗ Văn Hạo nhớ ra bản thân hắn đã từng xem bệnh cho nữ như của người này. Nữ nhi của Văn Lý là Văn Phượng, tính cách dịu dàng ít nói, cả ngày chỉ nhốt mình trong phủ để học nữ công, giống như kiểu cá chậu chim lồng. Đỗ Văn Hạo vội vàng vén cao màn kiệu thi lễ: “Thì ra là Văn đại nhân. Văn đại nhân đang đi đâu vậy?”

“Ty chức đang muốn đi tìm tướng quân cứu mạng” Văn Lý nói cứu mạng như sắc mặt hắn cũng không quá hoảng hốt.

Đỗ Văn Hạo nói: “Đại nhân nói quá lời. Có điều gì cần tại hạ ra sức sao?”

“Là như này. Lần trước nữ nhi đã được Đỗ tướng quân cứu chữa. Thân thể đã khoẻ mạnh nhưng tỷ tỷ của nó lại mắc bệnh. Cũng không biết mắc bệnh gì, không muốn ăn uống, thân thể ngày một gày gò. Có vẻ là bệnh tinh thần gì đó. Ty chức đang muốn tới Ngũ Vị đường thỉnh tướng quân. Nay vừa vặn gặp ngài ở đây, không biết có thể làm phiền tướng quân qua hàn xá chữa bệnh cho tiểu nữ không?’

“Được” Đỗ Văn Hạo chưa bao giờ từ chối người khác thỉnh cầu hắn chữa bệnh. Dựa theo thân phận bây giờ của hắn, vốn không cần phải tới nhà thăm bệnh nhưng hắn nghĩ rằng bản thân người ta là tiểu thư khuê các, đã mắc bệnh còn chạy tới tìm mình thì không hay lắm nên đành chịu vất vả đi xem bệnh một phen.

Văn Lý vui mừng quá dỗi, hắn vội vàng sai quay xe ngựa lại dẫn Đỗ Văn Hạo và đội thân binh đi tới thẳng Văn phủ.

Trước kia Đỗ Văn Hạo đã từng tới đây nhưng mà khi đó hắn chỉ là một Thái y nhỏ bé. Bây giờ hắn là quan lớn nhị phẩm, là người tâm phúc bên cạnh Hoàng Thái Hậu. Tình cảnh bây giờ đã hoàn toàn thay đổi.

Thái độ của Văn Lý cực kỳ cung kính. Hắn sai mở rộng cổng để kiệu của Đỗ Văn Hạo đi thẳng vào trước cửa khuê phòng tỷ tỷ của Văn Phượng rồi mới dừng lại.

Thân binh của Đỗ Văn Hạo lập tức tản ra hai bên cảnh giới. Thiếp thân thị vệ Hứa Văn Cường cùng Đỗ Văn Hạo đi thẳng tới khuê phòng của tỷ tỷ Văn Phượng.

Khi đi qua sân vườn tới bậc thềm tam cấp chính diện, thị nữ khom người hành lễ rồi vén màn cửa.

Đỗ Văn Hạo đi vào trong phòng. Hắn ngửi thấy mùi hương khí sộc vào mũi làm trong người khó chịu. Đỗ Văn Hạo không nhịn được liền đứng lại nhìn. Chính giữa nhà là đại án bằng đá cẩm thạch hoa lê. Trên án có mấy chồng sách xếp đặt chỉnh tề, mấy nghiên mực hình vuông, mấy ống đựng bút bằng sứ trắng to nhỏ khác nhau, bên trong đựng đầy các loại bút lông như bút lông sói, bút lông cừu. Ở những góc bên kia của án có đặt mấy chậu hoa thấp, bên trong chậu có trồng mấy cành Lan diệp mọc xiên thanh nhã, ở chính giữa có một bông hoa lan màu trắng tỏa ra hương thơm dìu dịu.

Ở giữa chiếc bàn dài có một tờ giấy Tuyên Thành dài, trắng như tuyết mở sẵn. Trên mặt giấy có một cái chặn giấy nặng chịch đè lên. Trên mặt giấy có một bức tranh đôi uyên ương tràn đầy sức sống nghịch nước đang vẽ dở. Bức tranh dùng lối vẽ tinh vi. Đôi uyên ương trông rất sống động, như đang dập dờn trên sóng, giống như người thường. Qua đó có thể thấy thủ pháp của người vẽ không tầm thường chút nào.

Bên cạnh án là một cái giá bằng gỗ tử đàn. Trên mặt giá có một cái bình gốm hoa đại trắng. Bên trong có cắm mấy quyển tranh hơi hé mở. Nhìn qua cũng thấy đó là mấy tranh chữ.

Bức tường phía bắc có treo một bức tranh sơn thuỷ rộng theo kiểu vẩy mực (một cách vẽ tranh thuỷ mặc), nguy nga, hùng vĩ. Không thể ngờ tỷ tỷ của Văn Phương lại là một người cực kỳ thanh nhã. Quả thực phải khiến người ta bội phục.

Chương 389: Gió táp mưa sa sao mất hồn?

Bên phải là một phòng nhỏ, ngăn cách bằng một bức vách chạm chổ bằng gỗ mun. Kê sát vào bức vách là một cái giá, bên trên có bài trí bằng các loại đĩa bằng mã não màu trắng, các loại bình ngọc.

Ở chính giữa phòng là một cái cửa hình bán nguyệt, có treo một bức mành thêu hoa màu xanh lơ.

Văn Lý vén tấm mành lên, Đỗ Văn Hạo khom người đi vào. Hắn cảm thấy có mùi thơm kỳ lạ, toàn thân rất thư thái.

Liếc mắt nhìn quanh căn phòng thì thấy khắp phòng để đầy các loại hoa cảnh khác nhau, có loại còn lan tràn tới nóc nhà, cũng có một số loại cây san hô có treo những quả nhỏ không biết là quả gì, rủ xuống trông rất đẹp.

Kê sát góc trong là một chiếc giường. Màn giường bằng lụa thuê màu xanh lá mạ. Có thể nhìn thấy bên trong giường mờ mờ hình dáng người đang nằm dưới chăn nệm màu phấn hồng, mái tóc xoã trên chiếc gối màu phấn hồng.

Văn Lý đặt một chiếc ghế cạnh giường rồi mời Đỗ Văn Hạo ngồi xuống. Ngay lúc đó bên ngoài có một tiểu nha hoàn bước vào, vái chào nói: “Lão gia, lão thái thái mời lão gia tới gặp, nói có chuyện gấp muốn gặp lão gia’.

Văn Lý cau mày nói: “Không thấy ta đang cùng Đỗ tướng quân ở đây chẩn bệnh cho tiểu thư sao?”

Nha hoàn sợ hãi, rụt rè nói: “Nhưng lão thái thái rất sốt ruột. Lão thái thái nói lão gia phải tới ngay”.

Văn Lý còn định nói thêm, Đỗ Văn Hạo đã mỉm cười nói: “Không sao, Văn đại nhân bận việc cứ đi”.

Văn Lý khom người nói: “Thỉnh tướng quân chữa bệnh cho tiểu nữ. Ty chức đi một lát rồi sẽ quay lại ngay” Nói xong Văn Lý lập tức rời khỏi phòng.

Đây là khuê phòng của tiểu thư khuê các, sau khi cận vệ Hứa Văn Cường dò xét ở cửa ra vào, không phát hiện ra điều gì bất thường nên đã đi ra ngoài phòng cảnh giới. Trong phòng chỉ còn lại Đỗ Văn Hạo và tiểu nha hoàn.

Tiểu nha hoàn đứng cạnh giường, khẽ nói: “Tiểu thư, Đỗ tiên sinh đã tới”.

Người trong màn khẽ ừ một tiếng. Một cánh tay trắng bóc như tuyết vén màn thò ra ngoài.

Cánh tay mát lạnh như ngọc, mịn màng như phấn, mười ngón tay thon dài, mềm mại, trong suốt. Đôi bàn tay này đẹp đẽ vô ngần, làm cho trái tim Đỗ Văn Hạo rung động từng hồi.

Đỗ Văn Hạo vội vàng lắc đầu. Hắn muốn xua đuổi sự dao động trong lòng.

Đỗ Văn Hạo đặt ba ngón tay vào chiếc cổ tay trắng như tuyết của Văn tiểu thư. Ngay khi ngón tay hắn vừa chạm vào đó liền cảm thấy chỗ bên dưới ngón tay mềm mại như bông. Tâm thần hắn càng chấn động, hắn vội rụt tay lại một cách vô thức.

Đó là một cảm giác mà Đỗ Văn Hạo chưa từng gặp. Mặc dù dung mạo của Hoàng Thái Hậu xinh đẹp như vậy nhưng cũng chưa từng kích thích cảm giác ở ngón tay hắn như vậy.

Tiểu nha hoàn bên cạnh dường như nhìn thấy suy nghĩ trong lòng Đỗ Văn Hạo liền khẽ cười. Đỗ Văn Hạo nóng mặt khi thấy có kẻ đọc được nội tâm của mình. Hắn khẽ ho khan một tiếng, lấy lại bình tĩnh. Một lần nữa Đỗ Văn Hạo lại đặt ngón tay lên cổ tay ngọc của Văn tiểu thư.

Sau một hồi chăm chú bắt mạnh, Đỗ Văn Hạo phát hiện ba bộ mạch thốn quan xích bình thường, không nổi, không chìm, không nhanh, không chậm, không lớn, không thing dong hoà hoãn, hơi thờ điều hoà không có bệnh gì. Đỗ Văn Hạo thoáng sững sờ khi phát hiện ra điều này, hắn suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Cô nương cảm thấy khó chịu ở đâu?”

Từ trong màn vang lên giọng nói yếu ớt của Văn tiểu thư: “Khó chịu ở ngực”.

Nghe giọng nói đó, Đỗ Văn Hạo cảm thấy ngực mình như bị búa tạ giáng cho một búa, giọng nói quả thực rất kỹ miều, thanh âm mềm mại, uyển chuyển như gió nhẹ khẽ thổi, như tiếng hót của chim oanh. Nghe xong mấy lời này Đỗ Văn Hạo cảm thấy xương cốt toàn thân như tan ra, cổ họng khô rát, hắn không nhịn được nuốt nước bọt đánh “ực” một tiếng.

Vẻ kinh hãi của Đỗ Văn Hạo làm tiểu nha hoàn cười khách khách mãi không thôi.

Đỗ Văn Hạo thầm mắng bản thân mình không có tiền đồ gì cả. Mới nghe thấy giọng nói mà đã có biểu hiện như vậy. Nếu trong thấy người thật, không phải sẽ chảy máu mũi sao? Thực sự là không đứng đắn gì cả.

Đỗ Văn Hạo mấp máy miệng, cố gắng hỏi: “Ngoại trừ ngực khó chịu còn có chỗ nào khó chịu nữa không?”

“Đau bụng. Không muốn ăn. Ăn cái gì cũng không ngon”.

Căn bản Đỗ Văn Hạo không nghe thấy lời của nàng nói. Hắn như chỉ nghe thấy thanh âm rì rào như gió thổi. Hắn kinh hãi khi phát hiện ra nhịp tim của mình hoà theo với nhịp điệu trầm bổng, uyển chuyển, lúc nhanh lúc chậm của giọng nói, giống như hắn đang vỗ tay tán thưởng giọng nói của nàng.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy cổ họng mình khô bỏng như bốc lửa. Hắn cố gắng nín nhịn nhưng rốt cuộc vẫn không nhịn được. Một tiếng “ực” lại một lần nữa vang lên.

Tiểu nha hoàn lại cười khanh khách rồi khẽ nói: “Tiên sinh, tỳ nữ sẽ đi lấy cho người một chén trà để ngài bôi trơn cổ họng. Hì hì hì’.

Đỗ Văn Hạo cực kỳ lúng túng, hắn thì thào: “Làm phiền cô nương”.

Tiểu nha hoàn liếc mắt nhìn Đỗ Văn Hạo cười rồi đi ra gi­an ngoài, thuận tay nàng kéo màn che xuống.

Cuối cùng trong phòng chỉ còn Đỗ Văn Hạo và tiểu thư Văn gia đang nằm trên giường. Đỗ Văn Hạo do dự một lát rồi cuối cùng hắn lấy hết dũng khí nói: “Tiểu thư, xin cho tại hạ vọng chẩn cho tiểu thư”.

“Ừ, làm phiền tiên sinh”.

Đỗ Văn Hạo giơ tay định vén tấm màn lụa lên nhưng hắn nhận ra cánh tay hắn khẽ run rẩy. Lúc này hắn mới đột nhiên nhận ra trong lòng hắn đang kích động vì sắp nhìn thấy dung nhan của Văn tiểu thư làm cho cánh tay cũng run rẩy theo.

Đỗ Văn Hạo nghiến răng ổn định cánh tay, rốt cuộc hắn cũng vén được tấm màn lụa lên nhưng khi tấm màn được vén lên cánh tay hắn vẫn run rẩy.

Khi tấm màn lụa được chậm rãi vén lên, Đỗ Văn Hạo nhìn thấy tấm mềm màu phấn hồng đang phập phồng. Tiếp theo đó hắn nhìn thấy một nửa bộ ngực với cặp tuyết lê trắng như tuyết loã lồ bên ngoài tấm mền. Mỹ nhân đang nằm nghiêng, cằm thon, đôi môi đỏ như son, hàm răng nhỏ đều, mũi cao thẳng, hai má đào trắng mịn, hồng hồng.

Nhìn tới đây, Đỗ Văn Hạo phát hiện ra nhịp đập của tim hắn như đã đông cứng lại. Đỗ Văn Hạo tiếp tục nhìn thì thấy dưới hai hàng lông mày kẻ đen, cong cong. Bên dưới đó là một đôi mắt sáng lấp lánh. Đôi mi mắt thật dài, một âm ảnh nhàn nhật thật nhanh hạ xuống, có vẻ mơ màng như màn sương ban mai. Khoé mắt nhếch lên. Hai con ngươi trong sáng, long lanh, vũ mị có một sức cuốn hút kỳ lạ tiêu hồn đoạt phách.

Trong thế giới này lại có một mỹ nữ như này sao?

Đỗ Văn Hạo nhìn tới ngây dại. Hắn thầm nghĩ tất cả các ngôi sao điện ảnh hắn từng nhìn thấy trước kia cộng lại cũng kém một bậc so với mỹ nữ này. Ngay cả một người đẹp như thiên tiên như Hoàng Hậu khi đứng trước mặt mỹ nữ này cũng lu mờ đi rất nhiều.

Đặc biệt là đôi mắt kia, không còn có thể gọi là con người nữa mà là hai vịnh thăm thẳm âm u. Ẩn giấu ở chỗ sâu nhất trong hai vịnh đó là thâm sơn. U nhã tĩnh mịch mà thần bí. Với ánh sáng chói lọi từ hai con ngươi đó, Đỗ Văn Hạo cảm thấy như bị vẻ tĩnh mịch đó hoà than, hoàn toàn không biết bản thân đang ở đâu nữa.

“Tiên sinh! Tiên sinh” Cuối cùng giọng nói uyển chuyển của Văn tiểu thư cũng vẫy gọi hồn phách của Đỗ Văn Hạo quay về. Đỗ Văn Hạo phát hiện ra đôi mắt mình cứng đơ. Nhớ lại một chút hắn mới nhận ra từ lúc nãy tới giờ đôi mắt hắn vẫn trợn tròn, không hạ xuống. Thảo nào bản thân hắn lại cảm thấy mắt mình cứng đơ.

Mặc dù Đỗ Văn Hạo si ngốc nhìn Văn tiểu thư như vậy nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn biết dáng vẻ đó không phải, hắn muốn cúi đầu xuống như cái cổ của hắn đã không còn thuộc về hắn, nó vẫn cứng đơ không cúi xuống. Hắn không nỡ cúi đầu xuống, không chiêm ngưỡng dung nhan của nàng nữa. Đôi mắt của hắn không còn nhanh nhẹn như trước, muốn nháy mà cũng không nháy, hắn chỉ còn thiếu nước chảy nước miếng ra mà thôi. Hắn ngây ngốc hỏi: “Cô nương có chỗ nào không thoải mái?”

Ánh mắt Văn tiểu thư đung đưa như sơn ca múa lượn, giọng nói yếu ớt phảng phất như gió thổi rì rào: “Bụng ta đau đớn, ở dưới đan điền”.

“Để ta coi”.

Ấn chẩn là một trong tứ chẩn của Trung y. Một khi bụng đau nhức, nhất định phải ấn chẩn để xác định vị trí đau đớn. Đây chỉ là một tình huống bình thường trong xem bệnh nhưng mà lúc này ngược lại Đỗ Văn Hạo lại thấy lo lắng, hắn chỉ sợ Văn tiểu thư không đồng ý.

Văn tiểu thư khẽ “ừ” một tiếng làm Đỗ Văn Hạo cực kỳ hớn hở. Mới chỉ nghĩ tới việc vòng eo ở trần của Văn tiểu thư, hai tay Đỗ Văn Hạo lập tức trở nên ong ong, hai cánh mũi hắn phập phồng như nổi sóng.

Chẳng lẽ chảy máu mũi ư? Đừng có hạ lưu như vậy!

Đỗ Văn Hạo vội vàng giơ tay lau chóp mũi một cái nhưng hắn không thấy máu liền khẽ thở dài ngay sau đó hắn nghe thấy Văn tiểu thư khẽ cười một tiếng. Tiếng cười như hờn giận như mừng vui, lại còn pha chút nũng nịu làm Đỗ Văn Hạo khoái trá tới mức không nhịn được chỉ muốn khoa chân múa tay. Máu trong người hắn tuân chảy mãnh liệt.

Đỗ Văn Hạo bật cười. Hắn nhận ra điệu cười của mình cực kỳ ngu ngốc, hắn xoa xoa tay vào đùi. Hắn cũng không biết tại sao bản thân mình phải làm như vậy. Đây chỉ là một động tác vô thức. Chẳng lẽ cần phải lau sạch tay để tránh làm bẩn Văn tiểu thư sao? Đỗ Văn Hạo biết không phải như vậy. Đây không phải động tác chỉ hoàn toàn là kiềm chế cảm xúc thì còn mang ý nghĩa gì nữa? Là một sự chuẩn bị sao?

Nhất định chuẩn bị làm cái gì đó?

Đỗ Văn Hạo biết đây chính là rối loạn trong tiềm thức của chính hắn. Hắn cảm thấy lòng bàn tay đổ rất nhiều mồ hôi, dinh dính. Đỗ Văn Hạo muốn lau tay nhưng cuối cùng hắn cũng kiềm chế được suy nghĩ trẻ con này.

Đỗ Văn Hạo cầm lấy góc chăn. Đây là một loại chăn mềm, không biết làm bằng tơ sợi gì, khi cầm vào tay có cảm giấc rất dễ chịu, tương tự với cảm giác hắn có được lúc trước khi chạm vào cổ tay để bắt mạch cho Văn tiểu thư.

Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng kéo chăn che bên dưới Văn tiểu thư ra. Cùng với việc chăn bị kéo ra, một mùi thơm lạ lùng xộc vào mũi càng lúc càng đậm hơn. Đây là hương thơm cơ thể của mỹ nữ sao? Đỗ Văn Hạo cũng không thể phân biệt được. Hắn chỉ nhận ra hương thơm này có chút kiều diễm, mùi hoa quỳnh. Mỗi lần hít vào một hơi lập tức máu trong người như sôi lên.

Đỗ Văn Hạo tham lam hít lấy mùi hương lạ lùng say đắm lòng người này. Hắn mặc kệ máu trong cơ thể mình bắt đầu nóng lên. Hắn chậm rãi lột tấm chăn che giấu thân thể mềm mại của Văn tiểu thư.

Ông trời ơi! Văn tiểu thư chỉ mặc một chiếc áo lót màu hồng nhạt, hơn nửa thân thể của nàng ở trần. Văn tiểu thư thẹn thùng dùng tay định che đi phần da thịt loã lồ của mình. Hành động của nàng ngược lại làm lộ ra một nửa đôi nhũ hoa, quanh co uốn lượn, thuần khiết như cánh hoa sen.

Đầu Đỗ Văn Hạo kêu ‘ông’ một tiếng

Nhưng rốt cuộc Đỗ Văn Hạo cũng không phải người thường. Nghị lực của hắn vẫn rất mạnh mẽ. Hắn cố gắng di chuyển ánh mắt về phía bụng dưới của Văn tiểu thư.

Vòng eo thon thả, nhỏ nhắn, đường cong mê người, tuyệt mỹ, tinh xảo khiến cho Đỗ Văn Hạo nhớ tới Xuân gi­ang Hoa Nguyệt Dạ khúc*.

Xuống một chút nữa chính là nơi sâu kín.

Bàn tay kéo chăn xuống của Đỗ Văn Hạo rốt cuộc cũng dừng lại một cách khó nhọc. Đỗ Văn Hạo cực kỳ kích động, hắn chỉ muốn tiếp tục kéo chăn xuống dưới nhưng lý tính cuối cùng trong người hắn đã chiến thắng, khắc chế được thú tính trong con người hắn.

Trong thoáng chốc trong khi hắn thầm kiêu ngạo vì lý tính của chính mình. Hắn nhận ra trong quá trình kéo chăn ra của hắn, Văn tiểu thư chỉ lặng lẽ nằm, không có bất kỳ hành động nào ngăn cản việc kéo chăn xuống của hắn. Thậm chí trong thời khắc hắn sắp kéo lộ ra nơi thầm kín nhất của người thiếu nữ, thân thể mềm mại của nàng còn thoáng run rẩy. Đôi bàn tay mềm mại thon dàicủa nàng vẫn nắm chặt, không mở ra, cũng không có biểu hiện ngăn cản nào.

Phát hiện này bắt đầu làm cho tâm trạng điên cuồng của Đỗ Văn Hạo bắt đầu nổi sóng.

Đỗ Văn Hạo phát hiện ra bàn tay hắn lại run rẩy như thường lệ khi hắn vén áo lót của Văn tiểu thư lên. Hơi thở của Văn tiểu thư càng trở nên dồn dập, bộ ngực hấp dẫn của nàng cũng phập phồng lên xuống cùng với hơi thở của nàng.

Đỗ Văn Hạo không nhịn được ngẩng đầu nhìn lên thì thấy đôi mắt đẹp của Văn tiểu thư khép hờ. Làn môi thơm khẽ run rẩy, ngập ngừng muốn nói rồi lại thôi, hai gò má ửng hồng, xấu hổ như mỹ nhân say, vô cùng thẹn thùng pha lẫn chút bối rối.

Đỗ Văn Hạo cố gắng giữ bản thân mình bình tĩnh. Hắn đưa tay ấn chẩn trên bụng nàng nhưng hắn không phát hiện ra bất kkỳ điều gì bất thường. Đỗ Văn Hạo nói khẽ: “Cô nương, hãy để tại hạ xem lưỡi của cô nương”.

“Ừ” Đôi môi anh đào của Văn tiểu thư hé mở, cánh lưỡi thơm mùi hoa sen dần lộ ra ngoài.

Lúc này đã vang lên tiếng trống canh một. Bầu trời đã tối đen. Đèn lồng đặt trên bàn trong phòng phát ra ánh sáng mờ mờ. Đỗ Văn Hạo không thấy rõ nên hắn muốn cúi gần xuống để xem xét cẩn thận. Mùi hương thân thể của Văn tiểu thư lan toả, hơi thở như hoa lan. Hương thơm kỳ lạ lúc này đây đã làm bầu máu nóng trong thân thể hắn bốc lên. Hắn chỉ muốn nhào tới hôn nàng, nhào tới chinh phục thân thể của nàng.

Suy nghĩ điên cuồng đó giống như độc xà chui vào trong đầu hắn khiến hắn gần như phát điên. Hắn định đứng dậy nhưng lại bối rối trượt ngã, thân thể hắn bổ nhào lên người Văn tiểu thư. Thậm chí Đỗ Văn Hạo đã nghi ngờ đây chính là sự cố ý của chính mình bởi vì trơng sâu thẳm tiềm thức của mình hắn cũng muốn vậy.

Đỗ Văn Hạo lúng ta lúng túng xin lỗi. Hắn muốn ngồi dậy nhưng khi hắn vừa chống tay xuống thì chạm ngay phải một chỗ cực kỳ co dãn, tròn trịa và mềm nhũn. Không cần cúi đầu nhìn Đỗ Văn Hạo cũng có thể đoán ra. Trong lúc bối rối bàn tay hắn đã đặt lên bộ ngực cao vút mà mềm mại của Văn tiểu thư.

Văn tiểu thư khẽ “a” lên một tiếng, nàng cầm lấy tay hắn. Dường như nàng muốn đẩy tay hắn ra nhưng cuối cùng lại trở thành nắm lấy không cho bàn tay hắn buông ra. Đỗ Văn Hạo càng lúc càng luống cuống, hắn muốn rút tay ra nhưng bàn tay hắn lại như keo dính, dính chặt trên bộ ngực của Văn tiểu thư không muốn rời.

Không biết bản thân hắn không còn sức để rụt tay lại hay không muốn rút lại. Bàn tay hắn vẫn bị bàn tay của Văn tiểu thư đè chặt, không rời.

Bộ ngực thiếu nữ của Văn tiểu thư dưới lòng bàn tay hắn không ngừng run rẩy, giống như hai chú thỏ trắng đầy sinh động muốn thoát khỏi sự khống chế của Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo càng bối rối hơn khi hắn phát hiện ra ánh mắt của Văn tiểu thư càng nồng ấm hơn, tràn ngập khát vọng cùng sự e ấp.

Ánh mắt của Văn tiểu thư làm thần trí Đỗ Văn Hạo hoàn toàn sụp đổ. Thú tính trong cơ thể hắn, khát vọng chinh phục nhục dục của nam nhân lan tràn khắp cơ thể hắn.

Đỗ Văn Hạo nhoài người lên hôn lên đôi môi mọng đỏ của Văn tiểu thư. Ma trao của hắn xoa nắn bộ ngực căng tròn của nàng một cách lỗ mãng. Thân thể Văn tiểu thư bên dưới người hắn giãy giụa như muốn giãy ra thoát khỏi hắn nhưng lại tựa như muốn phối hợp, lại càng giống với khiêu khích hơn.

Động tác đó của Văn tiểu thư làm Đỗ Văn Hạo tức giận. Lý trí của hắn đã bị dục hoả thiêu đốt sạch sành sanh. Hắn điên cuồng xé rách áo lót của Văn tiểu thư rồi cuống quýt lột y phục của mình sau đó giơ thương dũng mãnh ra trận.

Ngay khi Đỗ Văn Hạo tiến vào trong người Văn tiểu thư, nàng khẽ ‘a” lên một tiếng rồi cắn mạnh một cái vào bả vai hắn. Hai cánh tay trắng như ngọc của nàng ôm ghì lấy lưng hắn, thân thể nàng mở ra nghênh đón hắn cưỡi ngựa rong ruổi.

Dông tố nổi lên. Cơn cuồng dã ban đêm, những điểm hồng xuất hiện.

Cuối cùng Đỗ Văn Hạo ngồi phịch trên người Văn tiểu thư thở hổn hển.

Đỗ Văn Hạo nghe thấy tiếng khóc rấm rứt của Văn tiểu thư, trong lòng hắn cực kỳ căng thẳng. Lý trí quay lại đầu hắn. Văn Lý đã nói sẽ quay lại ngay, còn có cả tiểu nha hoàn đi lấy trà. Nếu như hắn bị phát hiện trong tình trạng này…

Đỗ Văn Hạo hông dám nghĩ tiếp, lại càng không dám nghĩ tới trách nhiệm của chính mình. Hắn vội vàng ngồi dậy, luống ca luống cuống, vội vội vàng vàng mặc lại y phục vừa lắng tai nghe động tĩnh bên ngoài.

Nhưng ngoại trừ tiếng gõ mõ cầm cầm xa xa truyền tới, bên ngoài không có bất kỳ động tĩnh nào khác, giống như kiểu trong cả cái Văn phủ rộng lớn này chỉ có hai người đang hiện hữu. Tiểu nha hoàn kia nói đi lấy trà nhưng vẫn chưa quay lại. Có lẽ đã quay lại nhưng phát hiện ra sự việc nảy sinh nên thẹn thùng trốn mất. Còn Văn Lý thì sao. Không phải hắn cũng quay lại rồi chứ?

Đỗ Văn Hạo toát mồ hôi trán, hắn cẩn thận chỉnh lại trang phục ngay ngắn. Nhưng áo bào dễ sửa còn nỗi hổ thẹn trong lòng thì vô luận như nào đi nữa cũng không bao giờ có thể sửa lại được.

Trên giường Văn tiểu thư vẫn khe khẽ khóc, nước mắt ròng ròng, thoảng thoảng như gió nhẹ nhưng khi lọt vào tai Đỗ Văn Hạo không khác gì tiếng sét.

Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng ngồi xuống ghế bên cạnh giường. Hắn thấy Văn tiểu thư nằm nghiêng người vào trong. Bờ vai trần khẽ rung rung theo tiếng khóc, làn da nàng trắng như tuyết lại khiến cho Đỗ Văn Hạo thoáng rung động trong lòng.

Đỗ Văn Hạo vội vàng trấn định tinh thần. Hắn lắp bắp không biết mở miệng thế nào. Sau khi suy nghĩ một lát hắn mới gắng gượng thốt lên một câu: “Cô nương, thực rất xin lỗi”.

Giọng nói trầm trầm của Văn tiểu thư vang lên: “Ngươi hãy yên tâm đi”.

Đỗ Văn Hạo ngẩn người. Hắn định đứng dậy rời đi một cách vô thức. Nhưng hắn nghĩ tới việc bản thân mình tới xem bệnh cho người ta không xem ngược lại còn cướp mất “cái kia” của người ta. Liệu có thể bỏ đi như vậy được không?

Tuy Đỗ Văn Hạo cảm thấy sự việc này phát sinh chủ yếu là do ánh mắt cùng cử động thân thể của Văn tiểu thư đã ám chỉ điều này khiến hắn cảm thấy Văn tiểu thư sẽ không từ chối hắn, thậm chí nàng còn hy vọng hắn sẽ làm như vậy. Đặc biệt là mùi thơm kỳ dị trên thân thể của Văn tiểu thư. Hương thơm lạ lùng đó đã nhen nhóm dục vong điên cuồng trong cơ thể hắn, tất cả cùng tụ hội một chỗ mới khiến cho hắn mất hết lý trí. Bằng không cho dù đối phương có là mỹ nữ, hắn cũng mượn cớ xem bệnh mà xâm phạm thân thể người ta. Những chuyện như này dù có đánh chết Đỗ Văn Hạo hắn cũng không làm được.

Thế nhưng bây giờ mặc kệ Văn tiểu thư có chủ động hay hấp dẫn chính hắn hay không, hắn cùng càng mặc kệ có phải mùi hương kỳ dị trên người nàng làm hắn mất hết lý trí hay không. Cho dù thế nào đi nữa, một sự thật là bản thân hắn đã chiếm đoạt thân thể Văn tiểu thư. Những đốm đỏ hồng rải rác trên giường đã chứng minh điều này.

Bây giờ phải làm sao đây. Chẳng lẽ rũ tay bỏ đi như vậy sao?

Đỗ Văn Hạo nhìn thân thể mềm mại của Văn tiểu thư. Hắn muốn đưa tay an ủi nàng nhưng lại không dám. Hắn đành phải nói khẽ: “Cô nương, ta thực sự xin lỗi. Thỉnh cô nương hãy cho ta biết nên làm gì để đền bù lỗi lầm của ta. Ta nhất định sẽ làm theo”.

Sau khi nói xong những lời này, Đỗ Văn Hạo mới có cảm giác bản thân mình đã nêu lên một vấn đề rất ngu, thậm chí cực kỳ ngu ngốc, rất thấp hèn, quá chiếm lợi thế, thậm chí rất xấu xa.

Văn tiểu thư chậm rãi quay người lại, hai mắt nàng đẫm lệ nhìn hắn. Nàng nhẹ nhàng lắc đầu, ánh mắt nàng tràn ngập sự ai oán, đau đớn cùng nỗi tuyệt vọng.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo cực kỳ áy náy khi nhìn thấy nước mắt đọng trên gương mặt trắng đẹp, nõn nà của nàng. Cuối cùng hắn cũng lấy hết can đảm, đưa tay vuốt ve bờ vai tròn của nàng, khẽ nói: “Ta làm ô nhục thân thể cô nương. Ta nhất định phải trả lại công bằng cho cô nương. Nếu như cô nương không chê ta. Ngày mai nhất định ta sẽ tới nhà cầu thân, xin lấy cô nương, có được không?”

Hắn nghĩ tới việc hôm nay đã biến một cô nương mỹ mạo tuyệt luân như tiên nữ không nhuốm bụi trần thành nữ nhân của mình, ngày ngày cùng nàng ôn nhu tiến lên đỉnh Vu Sơn, quả thật không khác gì một đôi uyên ương làm máu nóng trong cơ thể hắn lại sôi lên.

Ánh mắt Văn tiểu thư chợt loé lên sự vui mừng khi nghe thấy Đỗ Văn Hạo nói vậy nhưng rồi này lại buồn rầu nói khẽ: “Thiếp nghe nói tướng quân đã có thê thiếp”.

“Ừ” Đỗ Văn Hạo cảm thấy xấu hổ, hắn áy náy hỏi khẽ: “Không biết cô nương có thể uỷ khuất làm thiếp của ta được không?”

Văn tiểu thư cười cay đắng, nước mắt lại tuôn rơi, nàng khóc nói: “Cha thiếp là Tể tướng đương triều. Nhất định người sẽ không đồng ý cho thiếp làm thiếp người ta”.

Đỗ Văn Hạo kinh hãi, hắn lắp bắp hỏi: “Cha tiểu thư không phải là Viên ngoại lang bộ lễ sao?”

“Không, cha ta là Tể tướng”.

“Cha cô nương tên gọi là gì?”

“Tên huý của gia phụ là Vương Gi­ai”.

“Vương Gi­ai? Tể tướng Vương Gi­ai là cha cô nương?”

“Ừ. Đúng là gia phụ”.

* Đây là bài thơ Xuân Gi­ang Hoa Nguyệt Dạ với bản dịch của Trần Trong Kim

Xuân gi­ang hoa nguyệt dạ

Trương Nhược Hư - Sơ Đường

Sông liền biển nước sông đầy dẫy

Trăng mọc cùng triều dậy trên khơi

Trăng theo muôn dặm nước trôi

Chỗ nào có nước mà trời không trăng

Dòng sông lượn quanh rừng thơm ngát

Trăng soi hoa trắng toát một màu

Trên không nào thấy sương đâu

Trắng phau bãi cát ngó hầu như không

Không mảy bụi trời sông một sắc

Một vầng trăng vằng vặc giữa trời

Trăng sông thấy trước là ai

Đầu tiên trăng mới soi người năm nao

Người sinh hóa kiếp nào cùng tận

Năm lại năm trăng vẫn thế hoài

Trăng sông nào biết soi ai

Dưới sông chỉ thấy nước trôi giữa dòng

Mảnh mây bạc mông lông đi mãi

Rừng phong xanh trên bãi gợi sầu

Thuyền ai lơ lững đêm thâu

Trong lầu minh nguyệt chỗ nào tương tư

Trên lầu nọ trăng như có ý

Vào đài trang trêu kẻ sinh ly

Trong rèm cuốn cũng không di

Trên chày đập áo phủi thì vẫn nguyên

Mong nhau mãi mà tin bặt mãi

Muốn theo trăng đi tới cạnh người

Nhạn bay trăng cứ đứng hoài

Cá rồng nổi lặng nước trôi thấy nào

Đêm trước thấy chiêm bao hoa rụng

Thương quê người chiếc bóng nửa xuân

Nước sông trôi hết xuân dần

Trăng sông cũng lặn xế lần sang tây

Trăng xế thấp chìm ngay xuống bể

Cách núi sông xa kể dường bao

Cõi trăng về ấy người nào

Cây sông trăng lặn nao nao mối tình

Chương 390: Thiên hạ đệ nhất mỹ nữ

Đỗ Văn Hạo kinh ngạc không hiểu gì bèn hỏi: “Cô nương không phải là tỷ tỷ của Văn Phượng cô nương sao?”

Vương Nhuận Tuyết nói: “Là do ta cùng Văn Phượng kết bái tỷ muội”.

“Hả?” Đỗ Văn Hạo cực kỳ kinh ngạc hỏi: “Vậy tại sao cô nương lại ở trong Văn gia?”

“Điều này thì có gì lạ. Văn Phượng cũng có một phòng tại nhà của ta”.

“Thì ra là thế. Không dám xin thỉnh giáo phương danh của cô nương”.

“Nhuận Tuyết”.

“A, thì ra là Nhuận Tuyết cô nương. Quả thực người cũng như tên. Cô nương là người thanh cao thoát tục, trong sáng như tuyết trắng”.

Vương Nhuận Tuyết cười xấu hổ nói: “Cám ơn tướng quân” Đôi mắt óng ánh nước mắt của nàng lại bừng sáng làm Đỗ Văn Hạo nhìn thấy lại như ngây dại.

Đúng lúc đó bất chợt bên ngoài vang lên giọng nói truyền đến từ xa: “Đỗ tướng quân có còn ở bên trong không?”

Bên ngoài cửa có tiếng của một thiếu nữ đáp lại: “Còn, vẫn đang xem bệnh cho tiểu thư”.

Nghe giọng nói thì đúng là của tiểu nha hoàn đi lấy trà lúc trước.

Đỗ Văn Hạo kinh hãi giật nẩy mình. Hắn đứng dậy đi quanh phòng một vòng. Hắn không biết làm gì bây giờ.

Vương Nhuận Tuyết khẽ cười, nàng nhổm nửa người lên, cánh tay trắng muốt duỗi ra nhẹ nhàng buông tấm màn lụa xuống.

Đỗ Văn Hạo thấy Vương Nhuật Tuyết bình tĩnh như vậy, bản thân mình thì luống cuống như một kẻ trộm thì không khỏi xấu hổ. Hắn vội vàng trấn tĩnh. Hắn khẽ vén một góc màn trướng lên, trầm trầm nói với Vương Nhuận Tuyết: “Nhuận Tuyết cô nương hãy yên tâm. Ta sẽ gánh chịu trách nhiệm về chuyện lúc trước. Hãy chờ tin của ta, được không?”

Trong mắt Vương Nhuận Tuyết sự vui mừng. Nàng khẽ gật đầu, kéo chiếc chăn che người, nàng nằm trong chăn, hai mắt long lanh ẩn chứa tình cảm thầm kín nhìn Đỗ Văn Hạo.

Nghe thấy tiếng bước chân vang lên ngoài cửa, Đỗ Văn Hạo vội vàng buông màn xuống, lui lại mấy bước. Hắn quay lưng lại làm bộ đang thưởng thức một chậu lan điếu trên tường.

Tiếng cánh cửa bị đẩy ra “két’ một tiếng. Giọng nói của Văn Lý vang lên bên gi­an ngoài: “Đỗ tướng quân, thật sự có lỗi khiến cho ngài phải đợi lâu” Nói xong Văn Lý vén màn cửa lên tiến vào, chắp tay tạ lỗi.

Đỗ Văn Hạo có tật giật mình. Hắn quay người nhìn sắc mặt của Văn Lý. Ngoại trừ vẻ áy náy trên gương mặt ấy, vẫn là vẻ bình tĩnh như chưa phát hiện ra chuyện gì. Đỗ Văn Hạo hơi trấn tĩnh, hắn vội chắp tay nói: “Không sao, tại hạ cũng vừa mới xem xong bệnh cho tiểu thư”.

“Ai, không biết tiểu nữ mắc bệnh gì?”

Đỗ Văn Hạo lưỡng lự một lát, hắn liếc nhìn màn giường, hắn tiến lại hai bước, hỏi nhỏ Văn Lý: “Có thật vị cô nương này là lệnh ái không?”

Văn Lý thoáng giật mình sau đó hắn cười hì hì nói: “Cũng coi như vậy nhưng thật ra là thiên kim tiểu thư của Tể tướng Vương Gi­ai, Vương đại nhân. Bởi vì tiểu thư hợp tính với tiểu nữ nên kết làm tỷ muội vì vậy cũng gọi ty chức là phụ thân”.

Quả nhiên là như vậy. Đỗ Văn Hạo thầm than thở trong lòng. Nếu cô nương trước mặt là nữ nhi của vị Văn đại nhân này thì hắn còn có khả năng thuyết phục Văn Lý gả nữ nhi cho hắn làm tiểu thiếp nhưng bây giờ người ta là đương nhiên Tể tướng của triều đình, tương đương với chức vụ thủ tướng quốc vụ viện ở hiện đại, quan chính nhất phẩm, còn cao hơn bản thân hắn ba cấp. Hắn muốn một nhân vật như vậy gả nữ nhi cho hắn làm thiếp thì quả thực là đang hy vọng hão huyền.

Nhưng vừa rồi chính hắn đã chiếm đoạt thân thể của cô nương kia. Món nợ này tính toán sao đây? Bồi thường tiền sao? Người ta là Tể tướng cần mấy món tiến bẩn dơ bẩn đó sao? Hơn nữa không thể xách quần đứng dậy là coi như không có chuyện gì. Chuyện xấu xa như vậy hắn không thể làm được.

Bây giờ phải làm sao đây? Trong đầu Đỗ Văn Hạo không ngừng tính toán.

Văn Lý thấy dáng vẻ chán nản như mất hồn của Đỗ Văn Hạo, chưa phát hiện ra tâm trạng của hắn nên vội vàng hỏi: “Tướng quân, bệnh tình của tiểu nữ đáng lo ngại lắm sao?”

Đỗ Văn Hạo lấy lại tinh thần. Hắn thầm nghĩ Vương Nhuận Tuyết cô nương này quả thực không có bệnh gì. Có thể là khẩu vị không tốt, ăn ít nên thân thể có cảm giác không khoẻ nên mới mời hắn tới xem bệnh, kết quả đã làm hắn vướng vào món nợ phong lưu này, coi như đây cũng là ý trời nên hắn vội lắc đầu nói: “Không có gì đáng ngại, thân thể của tiểu thư không có vấn đề gì lớn, chỉ là khẩu vị không tốt lắm. Tại hạ sẽ kê một đơn thuốc, chỉ cần điều trị qua là khỏi”.

Văn Lý thở phào nói: “Vậy là tốt rồi. Đa tạ tướng quân. Mời tướng quân” Văn Lý nghiêng người mời Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn tuyệt thế mỹ nhân nằm trên giường trong tấm màn lụa vừa cùng với hắn mây mưa lên đỉnh Vu Sơn, cảnh tượng kiều diễm, hương vị vẫn còn lưu lại trên người trong lòng càng lưu luyến nhưng hắn không dám biểu lộ, đành phải buồn bực vô cớ bước chân đi ra gi­an ngoài. Đỗ Văn Hạo đi tới trước án, cầm bút viết một đơn thuốc đưa cho Văn Lý.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn ánh trăng rủ xuống tấm mành cửa thông phòng, khẽ thở dài một tiếng, cuối cùng tinh thần kiên định, hai tay chắp sau lưng bước chân ra khỏi cửa.

Tiểu nha hoàn ở cửa liếc nhìn Đỗ Văn Hạo cười thầm. Đỗ Văn Hạo chột dạ, hắn gượng cười, cúi đầu đi xuống bậc thềm.

Khi ngồi kiệu rời khỏi Văn gia về phủ, Đỗ Văn Hạo không biết trong lòng mình có cảm xúc gì, hắn nghĩ tới mỹ cảnh, hương vị ôn nhu lúc trước mà như đã trôi qua mấy thế hệ. Hắn chỉ muốn quay lại trực tiếp tới tìm Vương Gi­ai cầu thân nhưng việc sắp đặt danh phận thế nào thì hắn không thể tìm ra cách giải quyết. Hắn thực sự không có dũng khí mở miệng để Tể tướng đương triều gả nữ nhi cho hắn làm tiểu thiếp.

Khi Đỗ Văn Hạo về tới Ngũ Vị đường trong cơn hốt hoảng, mấy người Bàng Vũ Cầm vẫn một mực chờ hắn ăn cơm.

Đỗ Văn Hạo ăn cơm một cách uể oải sau đó hắn quay về phòng nằm nghỉ. Chúng nữ nghĩ rằng hắn phiền lòng vì việc công nên không dám quấy rầy hắn.

Đêm nay tới lượt Bàng Vũ Cầm hầu hạ. Khi Bàng Vũ Cầm vào trong phòng, Đỗ Văn Hạo đang nằm nghiêng người vào trong. Bàng Vũ Cầm nhẹ nhàng thoát quần áo của mình. Nàng thổi tắt đèn rồi nương theo ánh trăng nhàn nhạt chiếu qua khe cửa sổ bước lên giường, nàng bò qua chân của Đỗ Văn Hạo ở cuối giường vào bên trong, nhẹ nhàng vén chăn chui vào, cuộn người lại, nàng chỉ sợ đánh thức Đỗ Văn Hạo.

Thật ra Đỗ Văn Hạo không ngủ. Hắn từ từ nhắm hai mắt lại, đưa tay ôm vòng eo mịn màng của Bàng Vũ Cầm, kéo nàng vào ngực mình.

Bàng Vũ Cầm dựa sát vào người phu quân mình. Đột nhiên nàng hít hít mũi, khẽ nói: “Phu quân, trên người phu quân thơm quá”.

“Thật vậy sao?” Đỗ Văn Hạo thoáng giật mình. Hắn cũng hít hít mũi, lập tức hắn phát hiện sau cơn bão tố của hắn và cô nương Vương Nhuận Tuyế­tia, thân thể của hắn đã dính mồ hôi của nàng. Tất nhiên cơ thể hắn cũng có mùi thơm khác thường của nàng, hắn ngượng ngùng nói: “Là mùi hương xông quần áo”.

“Không phải. Hương thơm xông quần áo của chúng ta không có mùi như vậy” Bàng Vũ Cầm nhìn Đỗ Văn Hạo nói.

Đỗ Văn Hạo nhéo nhéo gương mặt nàng và nói: “Có lẽ là hương xông trong nội cung” bất chợt tới đó hắn nhớ ra cả ngày hôm nay hắn hoàn toàn ở trong doanh binh, không đi vào nội cung nên vội vàng sửa lại. “Không phải. Ta nhớ ra rồi. Nhất định là mùi thơm trong phòng của tiểu thư Văn gia. Mới rồi ta tới Văn gia xem bệnh cho đại tiểu thư. Trong phòng của vị đại tiểu thư kia có đủ các loại kỳ hoa dị thảo, hương thơm xộc vào mũi. Ha ha, mấy nữ nhân các nàng chỉ muốn trong khuê phòng của mình có hương thơm. Khuê phòng của nàng trước kia cũng vậy. Ha ha ha”.

Bàng Vũ Cầm cười nhẹ, nàng vung tay đánh vào vai Đỗ Văn Hạo.

“Ôi chao!” Đỗ Văn Hạo buột miệng kêu lên một tiếng.

Bàng Vũ Cầm cực kỳ kinh ngạc. Nàng thấy có vẻ như không phải Đỗ Văn Hạo đang giả đò. Nàng vội vàng sờ tay vào thì phát hiện bả vai Đỗ Văn Hạo có một vết thương, nàng kinh hãi lắp bắp nói: “Phu quân, vai chàng bị làm sao vậy?”

“Không biết” Đỗ Văn Hạo cũng sờ thử, hắn cũng rất kỳ quái. Hắn tuyệt đối không nhớ nổi vết thương đó xảy ra khi nào.

Bàng Vũ Cầm nghe Đỗ Văn Hạo nói cũng không biết thì cũng luống cuống, nàng vội vàng nhổm nửa người dậy, vén màn kêu lên: “Anh Tử, Anh Tử, mau lấy đèn”.

Anh Tử đang nằm ở gi­an ngoài. Bởi vì nàng phải thường xuyên săn sóc việc đi tiểu đêm của Đỗ Văn Hạo nên trong phòng có một chiếc đèn lồng để cả đêm. Nàng cũng vừa mới nằm nghỉ, nghe Bàng Vũ Cầm gọi liền vội vàng choàng dậy, khoác vội chiếc ao choàng cầm đèn lồng vào trong. Anh tử vén màn lên móc vào móc treo, nàng xách đèn lồng soi gần vào. Nhị nữ kêu “a” lên một tiếng.

Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn nghiêng, hắn phát hiện trên bả vai hắn có một vết thương hình lưỡi liềm. Hắn là người học pháp y, một vết thương như vậy cũng nhìn không ra thì quả thực không phải quá kém cỏi sao? Đó là một vết răng cắn.

Ngay khi phát hiện ra vết răng cắn, lập tức Đỗ Văn Hạo đã nhớ ra khi hắn chiếm đoạt sự trong trắng của Vương Nhuận Tuyết, Vương Nhuận Tuyết vì đau đớn đã cắn vào bả vai hắn.

Đỗ Văn Hạo có thể hiểu, Bàng Vũ Cầm và Anh Tử không phải là người ngốc nghếch. Tất nhiên hai người cũng nhận ra. Cả hai người nghi ngờ liếc nhìn vết thương. Anh Tử là người hiểu chuyện, nàng nói khẽ: “Thiếu gia, phu nhân, không còn việc gì nữa thì tỳ nữ về ngủ”.

Hai người đều im lặng. Ngay khi Anh Tử cầm đèn lồng ra ngoài, trong phòng lại lập tức trở nên tối đen.

Bàng Vũ Cầm nằm xuống, nàng nằm nghiêng người vào trong, cuộn tròn người, giống như một con mèo nhỏ đang chịu oan ức.

Đỗ Văn Hạo áy náy trong lòng. Hắn ôm bờ vải của nàng, hôn lên đó, nói khẽ: “Vũ Cầm, có chuyện này ta nhất định phải nói cho nàng biết. Đây là một chuyện rất hệ trọng”.

Bàng Vũ Cầm vốn vẫn nằm nghiêng, không để ý tới Đỗ Văn Hạo nhưng khi nàng nghe xong hắn nói câu cuối cùng thì lập tức quay người lại. Đôi mắt sáng chăm chú nhìn hắn, vẫn không nói câu nào.

Đỗ Văn Hạo kéo Bàng Vũ Cầm vào ngực mình, nói khẽ: “Ta đã gây ra đại hoạ. Một khi giải quyết không tốt sẽ bị bãi miễn chức quan”.

Thân thể Bàng Vũ Cầm khẽ run lên: “Đã xảy ra chuyện gì?”

“Ta…ta đã chiếm đoạt nữ nhi của quan Tể tướng. Cái vết thương ở bả vai của ta là do nàng ta cắn”.

“Hả? Tại sao lại như vậy?” Bàng Vũ Cầm sợ hãi tới mức nàng run lên, ôm chặt người hắn.

Là thiên kim tiểu thư của gia đình quan lại nên đương nhiên nàng hiểu rõ đạo lý quan trên đè chết cấp dưới. Huống chi người ta còn là quan Tể tướng, ở dưới một người, ở trên vạn người. Phu quân của nàng làm nhục khuê nữ nhà người ta. Bãi chức quan là vẫn còn nhẹ.

“Ta cũng không biết tại sao lại xảy ra điều này” Đỗ Văn Hạo cười gượng, hắn lúng túng kể lại chuyện đã xảy ra.

Khi Đỗ Văn Hạo thuật lại Bàng Vũ Cầm không nói một lời, nghe xong nàng mới buồn bã nói: “Thiếp cảm thấy hình như đây chính là một cái bẫy”.

Đỗ Văn Hạo hơi sửng sốt hỏi: “Vì nguyên nhân gì? Tại sao lại là cái bẫy?”

“Nếu như nàng ta là tiểu thư khuê các, thiên kim của Tể tướng, lại bị đau bụng, biết rõ chàng sẽ ấn chẩn vậy tại sao lại ăn mặc một c áo lót mỏng manh như vậy? Trong khi đó hết lần này tới lần khác trong phòng không có bất kỳ ai khác. Đừng nói là chữa bệnh cho nữ nhi của Tể tướng. Ngay chính bản thân thiếp năm đó còn rất nhỏ khi cần chẩn bệnh thì bên người lúc nào cũng phải có nha hoàn hay bà vú hầu hạ, trong khi đó nàng ta đường đường là thiên kim của Tể tướng lại chỉ có một mình trong phòng với chàng. Không phải như vậy rất kỳ quái sao?”

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Đúng vậy. Ta cũng cảm thấy rất kỳ quái”.

Dù Đỗ Văn Hạo nói là kỳ quái nhưng thật ra ngay lúc đó hắn hoàn toàn không có bất kỳ suy nghĩ nào. Khi đó hắn đã bị Vương Nhuận Tuyết mê hoặc tới chết mê chết mệt. Không thấy lo lắng, kỳ quái gì cả.

Bàng Vũ Cầm lại nói: “Đặc biệt mùi thơm lạ lùng trên người chàng lúc nãy. Chàng nói cái mùi thơm đó làm chàng không kiềm lòng được nên mới xảy ra chuyện. Liệu có phải bọn họ dùng loại hương này để mê hoặc chàng không?”

Trong lòng Đỗ Văn Hạo hoàn toàn không có cái gì gọi là hận mùi hương đó. Nếu như không có mùi hương đó, hắn sao có thể như một tặc đảm Bá vương chiếm đoạt thân thể ngọc ngà của tuyệt sắc gi­ai nhân đó? Nhưng hắn lại làm ra vẻ vô cùng oán hận nói: “Đúng vậy. Ta đã hiểu nguyên nhân ta không kiềm chế nổi lòng mình. Hừ”.

Bàng Vũ Cầm buồn bã nói: “Vương Tể tướng này có hai nữ nhi quả thực là nổi danh kinh thành, đặc biệt người con gái thứ hai được xưng là thiên hạ đệ nhất mỹ nữ. Khắp kinh thành này không ai không biết. Cho dù không cần mùi thơm lạ lùng đó thì chỉ e tướng công cũng không giữ nổi lòng mình”.

“Thật vậy sao? Nàng ta là thiên hạ đệ nhất mỹ nữ ư? Ha ha. Ai nói như vậy?” Bên ngoài miệng tựa như Đỗ Văn Hạo không đồng ý nhưng trong lòng hắn lại cực kỳ tán thưởng. Cũng chỉ có cái danh xưng thiên hạ đệ nhất mỹ nữ mới xứng đáng với nhan sắc của Vương Nhuận Tuyết cô nương.

“Khắp kinh thành này còn ai là không biết? Vương Tể tướng có năm nhi tử cùng với hai nữ nhi. Cả hai nữ nhi này đều có dung mạo khuynh quốc khuynh thành. Khi đi ra ngoài phố, cả hai đều dùng kiệu, che mặt. Đơn giản là nếu không ngồi kiệu, che mặt thì sẽ có rất nhiều người đứng lại ngắm nhìn, thêm nữa có rất nhiều nam nhân điên cuồng si ngốc chạy theo là con phố bị tắc nghẽn, ngay cả các bộ khoái tuần tra trên phố cũng quên mất nhiệm vụ của mình. Vì thế trên phố chỉ có những nam nhân khóc khóc cười cười như điên khùng”.

“Ha ha. Thật vậy sao? Có phải nói quá lời không?” Thật ra trong lòng Đỗ Văn Hạo cũng đã tin tưởng như vậy. Ngay bản thân hắn kh lần đầu tiên nhìn thấy Vương Nhuận Tuyết cô nương cũng có bộ dáng ngây ngốc.

“Thiếp chỉ nghe người ta nói”.

“Trưởng nữ của Vương Tể tướng gả cho đại văn hào Lý Cách Phi. Thứ nữ là hòn ngọc quý trong tay Vương Tể tướng, tới nay vẫn là khuê nữ. Nghe nói vị thiên kim tiểu thư này là người rất kiêu ngạo.

Bây giờ chàng đạp cửa xông vào lại không chống cự, nhất định là có chuẩn bị trước”.

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: “Thật vậy sao?” Hắn nghĩ tới việc một mỹ nữ như vậy đã bị mình chinh phục, trong lòng có chút lâng lâng sung sướng.

Bàng Vũ Cầm lại quan tấm tới kết quả của chuyện này, nàng hỏi tiếp: “Nếu như đây chính là một cái bẫy vậy bọn họ có đặt điều kiện gì với chàng không?”

“Không có. Hình như Văn Lý còn không phát hiện ra chuyện này. Vương Gi­ai cũng không xuất hiện. Nếu như đây là một cái bẫy, bọn họ hẳn phải bắt tại trận. Khụ khụ, ngay khi xảy ra chuyện bọn họ phải xuất hiện ép buộc ta. Tại sao bọn họ lại mặc kệ, từ đầu đến cuối mặc kệ như vậy?”

“Đây mới là chỗ caom minh của bọn họ” Bàng Vũ Cầm nói khẽ: “Bọn họ hiểu rằng chàng là người ăn mềm không ăn cứng. Nếu như dùng việc này bức chàng, chỉ e sẽ có tác dụng ngược lại. Hơn nữa bọn họ hoàn toàn tin tưởng vào mị lực của Vương cô nương, hiểu rằng chàng nhất định sẽ mắc câu nên mới lấy tĩnh chế động để chàng ngoan ngoãn chui đầu vào lưới, tự nguyện ra sức vì bọn họ”.

“Nàng lại còn nói tự chui đầu vào lưới” Đỗ Văn Hạo ngoài miệng miễn cưỡng nói lo lắng nhưng thật sự trong lòng hắn hiểu rất rõ ràng. Trái tim hắn quả thực đã bị thiên hạ đệ nhất mỹ nữ này cầm tù. Từ lúc hắn rời khỏi Văn phủ tới giờ, trong đầu hắn luôn in đậm bóng hình yêu kiều của Vương Nhuận Tuyết cô nương, luôn luôn như đang hiện hữu trước mắt hắn. Coi như hắn đã đi đời, đã rơi vào một lưới tình không thể tự thoát ra ngoài, hắn cũng đã cam tâm chui đầu vô lưới nên đành ngượng ngùng tự giễu mình: “Ta có cái gì mà có thể dốc sức cho bọn họ?”

Đỗ Văn Hạo vừa nói xong câu này liền hiểu ra. Hiện tại Vương Gi­ai muốn bản thân hắn dốc sức chỉ e chính là vì chuyện thừa kế ngôi vị Hoàng Đế. Triều đình và dân chúng cũng đều biết hắn là người tâm phúc của Hoàng Thái Hậu. Câu nói của Hoàng Thái Hậu khi xuất quan chính là hỏi xem hắn đã quay về hay chưa sau đó liền đem ngay quyền chỉ huy tam nha gi­ao cho hắn. Thậm chí Hoàng Thái Hậu còn không ngần ngại gi­am lỏng h nhi tử của mình. Nếu như trong triều đình và thần dân, người có thể tác động tới quyết định của Hoàng Thái Hậu chỉ e là chỉ có một mình hắn vì vậy Đỗ Văn Hạo tự giễu cợt mình: “Tại sao ta phải dốc sức vì bọn họ?’

“Chàng trở thành con rể của Vương Tể tướng, đương nhiên bọn họ muốn chàng dốc sức vì bọn họ”.

“Con rể ư? Ta đã có nàng”.

“Có lẽ bọn họ đang chờ đợi chàng bỏ vợ lấy Vương cô nương”.

Đỗ Văn Hạo nghe thấy mấy câu nói u oán của Bàng Vũ Cầm, hắn nhẹ nhàng nhéo một cái vào kiều đồn mịn màng, ở trần của nàng nói: “Không được phép nói bậy. Thể tử của ta chỉ có một mình nàng. Cho dù phải mất chức quan, đao kề cổ, ta cũng không từ bỏ vợ, lấy vợ khác”.

Dù trong thâm tâm Đỗ Văn Hạo không thể từ bỏ Vương Nhuận Tuyết cô nương nhưng không vì thế mà bắt hắn phải từ bỏ vợ. Hắn thật sự không thể làm được. Không nói tới việc Bàng Vũ Cầm đã chiếm một vị trí trong trái tim hắn, cho dù chỉ là chuyện đạo nghĩa hắn cũng không thể làm như vậy. Hắn không thể làm được cái chuyện mặt người dạ thú đó.

“Phu quân” Trong lòng Bàng Vũ Cầm vừa vui mừng vừa đau xót. Nàng nằm trong lồng ngực Đỗ Văn Hạo, nước mắt chảy ròng ròng.

Đỗ Văn Hạo dỗ dành nàng: “Đừng lo lắng. Hãy ngủ đi. Phu quân ta sẽ xử lý tốt chuyện này”.

Bàng Vũ Cầm khóc gật đầu, nàng lau nước mắt nói: “Nhưng dù sao phu quân cũng đã chiếm đoạt khuê nữ nhà người ta, nhất định phải trả lại người ta sự công bằng. Dù người ta không nói chúng ta cũng không thể coi như không biết. Nhưng người ta là thiên kim của Tể tướng, không thể làm thiếp. Bây giờ phải làm gì đây?”

Đỗ Văn Hạo thầm kêu khổ trong lòng nhưng hắn vẫn ra vẻ không quan tâm: “Yên tâm đi. Xe tới trước núi, ắt có đường. Nếu như thực sự bức bách quá, ta sẽ từ quan quay về mở một dược đường, làm một lang trung. Cùng lắm thì như vậy chứ sao”.

Nghe phu quân của mình nói như vậy, Bàng Vũ Cầm còn có thể nói cái gì đây? Nhưng nàng cũng không thể thiêu đốt sự nghiệp của trượng phu mình. Chỉ vì chuyện này mà bao công sức đổ xuống sông xuống biển, thậm chí gặp đại hoạ. Nàng nằm nép vào ngực phu quân, mắt đẫm lệ, trong lòng tràn ngập tâm sự.

Đỗ Văn Hạo nói xong câu đó thì tảng đá đè nặng trong lòng hắn cũng được hạ xuống. Hắn ngủ gà ngủ g? tay ôm Bàng Vũ Cầm nhưng trong đầu hắn vẫn hiện lên hình ảnh xinh đẹp của Vương Nhuận Tuyết cô nương, hắn đang mơ mơ màng màng thì Bàng Vũ Cầm nói một câu làm bừng tỉnh: “Phu quân. Hay cả hai cùng làm thê, được không?”

“Đồng thê?”

Đồng thê có nghĩa là cưới hai thê tử, cả hai đều có cưới hỏi đàng hoàng, đều có địa vị như nhau. Con cái sinh ra đều được coi là vợ cả, đều có quyền thừa kế. Sau khi qua đều, hai thê tử này đều có quyền chôn cất trong phần mộ tổ tiên, được xếp bài vị trong từ đường của dòng họ. Trong khi đó thiếp không có những quyền lợi trên.

Xu hướng hôn nhân chủ yếu trong thời cổ đại là nhất phu, nhất thê, đa thiếp. Pháp luật quy định chỉ có thể có một thê nguyên phối. Nếu có đa thê sẽ bị xử tử. Thế nhưng lực ràng buộc của chế định pháp luật cổ đại rất yếu. Quy định hôn nhân này thường xuyên bị phá vỡ. Không chỉ trong dân chúng đầu trọc mới xuất hiện việc đồng thê mà trong giới vương công, đại thần hiện tượng đồng thê cũng xuất hiện tương đối nhiều.

Đỗ Văn Hạo xuyên việt tới triều Tống đã nhiều năm. Đương nhiên hắn cũng hiểu biết về hiện tượng hôn nhân này nhưng hắn là người hiền như khúc gỗ nên cũng không nghĩ tới biện pháp giải quyết vượt mức pháp luật này. Bây giờ hắn nghe thấy Bàng Vũ Cầm chủ động nói ra thì thoáng sững người hỏi: “Đồng thê, bắt buộc phải vậy sao?”

Bàng Vũ Cầm gượng cười nói: “Ngoại trừ đồng thê, chúng ta không còn biện pháp nào khác”.

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một lát rồi ôm Bàng Vũ Cầm nói: “Thế thì thiệt thòi cho nàng quá”.

Lệ trào ra khoé mắt, Bàng Vũ Cầm gượng cười nói: “Phu quân rất tốt với thiếp. Thiếp còn thiệt thòi gì nữa sao. Việc này đã bị định đoạt như này, nhất định không thể để người ta bị thiệt thoài. Mặc kệ bọn họ có mục đích gì, việc chúng ta làm chúng ta phải chịu trách nhiệm. Sáng sớm mai thiếp sẽ cho người tới mai mối”.

“Điều này…”.

“Việc này cứ nghe lời thiếp đi nha? Chàng không cần để ý, cứ để thiếp xử lý là được”.

Đỗ Văn Hạo thấy ấm áp trong lòng, thật sự không thể nói gì nữa khi cưới được một người vợ khéo léo chiều lòng phu quân như nàng. Hắn cực kỳ cao hứng khi ôm sát bvc vào người, còn cả kích động cùng với hổ thẹn.

Chương 391: Vụ Án Oan Ức

Đỗ Văn Hạo vẫn đến chỗ làm việc như mọi khi, nhưng người đi cùng thị sát là Lý Hàng phát hiện ra Đô Chỉ Huy hôm nay có vẻ thất thần, bồn chồn bất an, đứng ngồi không yên, không chú ý đến xung quanh. Tuy hai mắt của Đỗ Văn Hạo vẫn chăm chú nhìn binh sĩ luyện tập, nhưng thực chất trong lòng của hắn đang nghĩ vẩn vơ lung tung, lúc thì hắn cau mày lại, lúc lại mỉm cười ngu ngơ. Khi thủ hạ của Đỗ Văn Hạo lên bẩm báo cho hắn, thì hắn cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ, mãi phải đến khi tên thủ hạ nhắc lại lần hai thì hắn mới giật mình tỉnh lại. Vậy nhưng những chỉ thị của hắn đưa cho thủ hạ lại lung ta lung tung, không ăn nhập với chủ đề gì cả.

Đến buổi trưa, Đỗ Văn Hạo quay trở lại tiền điện để xử lý một số công vụ của Nha Môn.

Đúng lúc này, binh sĩ đến bẩm báo nói rằng Tể Tướng Vương Gi­ai đến thăm.

Đỗ Văn Hạo khi nghe thấy có Tể Tướng đến chơi thì chiếc bút trong tay của hắn rơi luôn xuống đất, thần trí trở nên hốt hoảng lo lắng vô cùng, hắn vội vã đứng dậy rồi lại ngồi xuống bộ dạng vô cùng bất an, nhưng cũng không thể để Tể Tướng đứng chờ mình mãi được, bất đắc dĩ hắn mới cho người đi mời Vương Gi­ai vào trong.

Đỗ Văn Hạo lúc này đã quần áo chỉnh tề, cố gắng chấn tĩnh bước vào trong phòng khách. Khi vào trong này thì hắn đã trông thấy Vương Gi­ai đã ngồi ở đó tự bao giờ, Vương Gi­ai vừa trông thấy Đỗ Văn Hạo bước vào thì đã vội vã đứng dậy cúi người chắp tay nói: “Đỗ Tướng Quân!”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới để ý thấy bộ dạng của Vương Gi­ai, ông ta tươi cười vui vẻ, không có vẻ gì là muốn đến đây hỏi tội hắn cả, trong lòng cũng cảm thấy an tâm hơn đôi chút, nghĩ tới ông lão này sẽ trở thành bố vợ tương lai của mình, Đỗ Văn Hạo cũng tiến lên phía trước cúi người thi lễ.

Hai người sau màn chào hỏi liền ngồi xuống, Đỗ Văn Hạo lúc này mới đưa mắt để ý kỹ tướng mạo của Vương Gi­ai, ông lão này thực sự diện mạo chẳng có gì đặc biệt cả, da mặt thì quắt queo lại như quả quýt, trông xấu xí vô cùng, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bất giác nhớ tới Vương Nhuận Tuyết, thì cảm thấy hết sức khó hiểu. Vương Nhuận Tuyết xinh đẹp tuyệt trần, vậy sao mà Vương Gi­ai lại xấu đau xấu đớn như vậy? Xem ra, đúng là không nên nhìn mặt mà bắt hình dong được.

Đỗ Văn Hạo lại thấy Vương Gi­ai cứ nhìn mình cười, thì cũng chỉ biết cười khan đáp lại, nhất thời không biết nên nói chuyện gì với ông ta nữa.

Thái độ của Vương Gi­ai thì vẫn rất bình thản, ông ta thấy Đỗ Văn Hạo chỉ biết nhìn mình cười gượng như vậy, liền chắp tay lên nói: “Đỗ Tướng Quân! Hôm nay lão phu đến đây là vì chuyện của tiểu nữ!”

Đỗ Văn Hạo nghe Vương Gi­ai bỗng nhiên nói như vậy, thì đầu của hắn hốt nhiên như một quả tạ ngàn cân bổ vào kêu boong lên một tiếng vang trời, hắn lo lắng sợ hãi hai tay bấu chặt vào thành ghế trong lòng không ngừng kêu khổ, lẽ nào Vương Gi­ai hôm nay đến đây là muốn hỏi tội mình thật sao? Ông ấy lẽ nào muốn ép mình lấy con gái ông ấy làm vợ? Nếu mà như vậy thì mình nên từ chối ra sao đây? Bảo mình bỏ Bàng Vũ Cầm thì không đời nào, vậy nhưng ông lão này cũng có phải là hạng vừa đâu, e rằng sẽ không dễ dàng bỏ qua cho mình! Đỗ Văn Hạo trong lòng kinh hãi, vội vã chắp tay lắp bắp nói: “Cái này! Tể Tướng đại nhân…Hạ quan…Ty chức muốn giải thích tình hình lúc đó, cái này…cái này…!”

Vương Gi­ai nghe vậy liền mỉm cười nói: “Lão phu đa tạ Đỗ tướng quân đã ưu ái! Lệnh phu nhân hôm nay đã đích thân đến cầu thân, thật là ngại quá…!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì sững người sửng sốt, hóa ra ông ta hôm nay đến đây không phải là muốn hỏi tội mình, thấy vậy thái độ của hắn thay đổi một trăm tám mươi độ, nét mặt tươi tỉnh, vui vẻ vô cùng: “Cái này…ha…ha…ha…ty chức thật là thật là lỗ mãng, mạo muội quá, thực là…”

“Làm gì có chuyện đó…!” Vương Gi­ai vuốt vuốt chòm râu bạc của mình mỉm cười nói: “Tiểu nữ của lão phu từ bé đã ngang ngược, ương bướng, còn mẫu thân của nó thì lại mất sớm, lão phu nuông chiều nó quá, về sau mong tướng quân chú ý quản giáo nó giúp lão phu…!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì mừng húm, đến cả giọng nói của hắn cũng run lên vì sung sướng: “Đại…đại…đại…nhân…nhân…đại nhân đã đồng ý rồi hả?”

Vương Gi­ai nghe xong liền gật gật đầu mỉm cười, sau đó lại thắc mắc nói: “Tôn phu nhân sáng sớm ngày hôm nay đến cầu thân thì lão phu đã đồng ý ngay tức khắc, sau đó nhận sính lễ, làm dạm ngõ…v…v…mọi việc cũng đã hoàn tất hết cả rồi, bây giờ chỉ còn mỗi việc đón dâu thành thân nữa thôi, lẽ nào Đỗ tướng quân lại không biết chút gì hay sao?”

“Cái này…ha ha…cái này là do ty chức suốt ngày ở trong doanh trại quân đội, chưa kịp về nhà, chính vì vậy mà mọi việc đều do Cầm Nhi làm hết thay cho ty chức, ha…ha…ha…ty chức…à không bây giờ nên xưng là tiểu tế mới đúng! Tiểu tế xin ra mãi nhạc phụ đại nhân!” Đỗ Văn Hạo nói xong liền đứng luôn dậy cúi người thi lễ.

Vương Gi­ai thấy vậy bèn đứng dậy đưa tay đỡ lấy Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: “Hiền tế không cần phải đa lễ!”

Đỗ Văn Hạo nghe Vương Gi­ai gọi mình là hiền tế, thì trong lòng vui sướng không sao kể siết, hắn bây giờ biết rằng Vương Gi­ai khi trước thậm chí còn gọi Bàng Vũ Cầm là tôn phu nhân, như vậy đồng nghĩa với việc ông ta đã đồng ý với chế độ Bình Thê (có nghĩa là hai người cùng là vợ chính thất của hắn!) Đỗ Văn Hạo mừng như mở cờ trong bụng, cả ngày hôm nay hắn thấp thỏm lo âu chính là lo sợ Vương Gi­ai không đồng ý cái chuyện Bình Thê này, bây giờ đã định như vậy rồi thì thiên hạ đệ nhất mỹ nữ đã là vợ của mình rồi ha ha ha. Đỗ Văn Hạo nghĩ tới đây mà sướng đến độ không biết dùng lời lẽ nào có thể miêu tả được nữa.

Hai người sau đó lại quay lại chỗ ngồi, Đỗ Văn Hạo khó khăn lắm mới kiềm chế được sự vui sướng ở trong lòng của mình lại, liền cúi người chắp tay nói: “Nhạc phụ đại nhân! Hôn sự này nên làm ra sao, mong nhạc phụ đại nhân chỉ dạy!”

Vương Gi­ai nghe vậy liền vuốt vuốt chòm râu nói: “Sáng sớm ngày hôm nay tôn phu nhân cũng đã định sẵn ngày giờ rồi, lão phu cho rằng hiện giờ mọi người trong triều đều đang để tang Thái Hoàng Thái Hậu và Hoàng Thượng, trong triều bây giờ ra lệnh cấm ăn chơi, uống rượu bừa bãi, chính vì vậy mà mới để hôn sự định kéo dài đến khi mãn hạn tang lễ cái đã! Không biết ý của hiền tế ra sao?”

“Ồ! Cái này thì là lẽ đương nhiên rồi, tất cả đều nghe theo sự sắp xếp của nhạc phụ đại nhân hết!” Đỗ Văn Hạo vui mừng nói. Tuy là hắn biết tình hình bây giờ bắt buộc phải như vậy, nhưng bắt hắn phải ngồi chờ một thời gi­an nữa mới được rước thiên hạ đệ nhất mỹ nhân về, bất giác cảm thấy bồn chồn, nhộn nhạo vô cùng.

Vương Gi­ai thở dài nói: “Theo như lý mà nói thì đám lễ này đã cử hành được gần cả tháng nay rồi, cũng nên đưa Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu vào trong lăng mộ được rồi, vậy nhưng Hoàng Thái Hậu đến tận bây giờ vẫn chẳng tỏ thái độ gì cả, lẽ nào Hoàng Thái Hậu muốn định xong việc kế vị rồi mới lo việc này hay sao? Vì mỗi cái chuyện kế vị này thôi mà bây giờ hai bè phái ở trong cung đấu đá nhau suốt như vậy, nếu như Hoàng Thái Hậu vẫn cứ chần chừ như thế này, e rằng ba bốn tháng sau chắc vẫn không có kết quả gì cả!”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì giật thót cả tim, quả nhiên Vương Gi­ai đã nhắc tới vấn đề kế vị hiện nay, vừa mới nghe ông ta nhắc tới vấn đề này, hắn đã lựa lời thở dài nói: “Đúng vậy! Hoàng Thái Hậu nên hạ quyết tâm càng sớm càng tốt, một nước không thể nào một ngày không có chủ được! Định được sớm ngày nào, trăm họ được hưởng phúc ngày đó!”

“Đúng là như vậy, Ung Vương cũng nên biết rằng lục Hoàng Tử lên kế vị mới là chính đáng, mới là đúng đắn và chính thống nhất, vậy nhưng ông ta lại cứ muốn nhảy ra tranh giành, Ung Vương mà cũng đòi đem mình ra so sánh với Tống Thái Tông Hoàng Đế hay sao? Khi Thái Tông Hoàng Đế kế vị thì là do lúc đó tình hình bất đắc dĩ! Còn bây giờ nếu để chuyện đó xảy ra thì sẽ loạn hết ngôi thứ, loạn hết kỷ cương, chỉ cần nó xảy ra lần thứ nhất, thì sẽ có lần thứ hai lần thứ ba, vậy về sau ai chịu trách nhiệm! Việc này vô cùng quan trọng, không biết ý của hiền tế ra sao?” Vương Gi­ai lắc lắc đầu nói.

Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên là ủng hộ lục Hoàng Tử kế vị rồi, hắn bây giờ đã thấu hiểu được bản tính nham hiểm của Ung Vương, nếu mà bây giờ mà để cho Ung Vương kế vị, thì bản thân hắn chắc chắn sẽ là người đầu tiên làm phản mất. Theo tình hình hiện giờ thì hắn vẫn chưa được phép hé lộ suy nghĩ của hắn, nhưng giờ đây hắn phải bày tỏ thái độ ủng hộ lục Hoàng Tử cho Vương Gi­ai biết, nếu không thì ông ta đời nào chịu để cho cô con gái xinh đẹp như tiên của ông ấy về làm vợ mình được cơ chứ.

Chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo sau khi nghe Vương Gi­ai nói thế thì cố tình ra vẻ khó xử nói: “Thực tình thì tiểu tế cũng khá có cảm tình với Ung Vương, nghĩ tới cái hôm tiểu tế dùng đao bắt nhị vị Vương Gia làm con tin, lại còn chẳng may làm bị thương Tào Vương, thế mà nhị vị Vương Gia đều không oán trách gì cả! Đặc biệt là Ung Vương, khí chất phi phàm độ lượng của ông ấy làm cho tiểu tế khâm phục vô cùng! Tiểu tế thiết nghĩ chỉ cẩn có ông ta, thì Đại Tống của ta nhất định sẽ hùng mạnh hơn bao giờ hết, chỉ có ông ấy gi­ang sơn Đại Tống của chúng ta mới trở nên vững vàng được!”

Đỗ Văn Hạo vừa mới dứt lời xong liền lén lút đưa mắt lên nhìn Vương Gi­ai, thì thấy sắc mặt của ông ta sa sầm, sắc đanh cả lại, mấy lần định lên tiếng cắt ngang lời của mình, nhưng rồi lại thôi. Vậy nhưng ông vẫn vô cùng kích động, kích động đến nỗi râu tóc như muốn dựng ngược cả lên, Đỗ Văn Văn Hạo thấy vậy thì bất giác mỉm cười, hắn trở mặt nhanh như lật bàn tay: “Lời nói ban nãy của nhạc phụ đại nhân chẳng khác nào tiếng sét đánh bên tai của tiểu tế cả! Bây giờ tiểu tế mới phát hiện ra tiểu tế quả là con người có cái nhìn vô cùng thiển cận, tiểu tế chỉ đế ý đến nhân phẩm của ông ta, mà bỏ qua truyền thống tổ tống ông cha ta để lại, may mà có nhạc phụ đại nhân có con mắt tinh đời nhắc nhở cho tiểu tế, làm tiểu tế hiểu được ra vấn đề! Lục Hoàng Tử lên kế vị ngôi vua mới là đúng đắn nhất, mới là đường đường chính chính nhất, cho dù Ung Vương có tài giỏi thao lược đến đâu, thiết nghĩ cũng chỉ nên làm người phò tá, giúp đỡ cho lục Hoàng Tử trị vì đất nước thôi, chứ kế vị thì thật không xứng đáng chút nào cả!”

Vương Gi­ai nghe xong thì vỗ đùi cái đét một tiếng ngửa mặt lên trời cười ha hả sung sướng, ông ta vuốt vuốt chòm râu của mình, không giấu nổi niềm vui nói: “Hiền tế quả nhiên là người hiểu biết! Tốt lắm! Quá tốt rồi! Nếu như câu nói này để cho Hoàng Thái Hậu nghe được thì quả nhiên là rất tuyệt! Ha ha ha!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì lập tức đứng thẳng người dậy, cúi người cung kính thi lễ nói: “Tiểu tế bây giờ sẽ vào trong cung ngay lập tức để bẩm báo với Hoàng Thái Hậu, cho người sớm định đoạt chuyện nối ngôi này, để lục Hoàng Tử lên kế vị làm Hoàng Đế!”

“Được! Được lắm!” Vương Gi­ai vui sướng luôn miệng khen hay, ông ta xúc động hai tay không ngừng xoa xoa vào nhau nói: “Hôn lễ của hiền tế ta sẽ định vào khoảng một tháng sau khi làm lễ xây mộ cho Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu, hiền tế thấy sao hả?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì vui mừng khôn tả, cúi người đáp: “Tất cả đều nghe theo sự sắp đặt của nhạc phụ đại nhân hết ạ!”

Hai người sau đó lại ngồi bàn bạc cụ thể các việc hôn lễ ra sao, xong xuôi đâu đấy thì Vương Gi­ai mới cáo từ ra về. Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền ra tận cổng tiễn đưa nhạc phụ tương lai của hắn, sau khi ông ta lên kiệu rời hẳn đi rồi hắn mới cười sung sướng đi vào bên trong.

Đỗ Văn Hạo vui sướng đi lòng vòng trong doanh trại của mình mấy vòng liền, hắn nhất thời không biết làm thế nào bây giờ nữa, hắn nghĩ bây giờ có nên đi vào tiếp kiến Hoàng Thái Hậu nói chuyện này ra hay không, gặp Hoàng Thái Hậu rồi thì nên nói kiểu gì, việc này là vô cùng hệ trọng phải nghĩ cho kỹ rồi mới đi gặp Hoàng Thái Hậu nói chuyện được. Nếu mà chưa có chuẩn bị trước thì mở miệng ra khen Hoàng Thái Hậu mà không có lý do nào xác đáng thì mình sẽ có nguy cơ bị phiền phức to. Bởi vì, Đỗ Văn Hạo biết được Hoàng Thái Hậu hiện giờ rất muốn Ung Vương lên nối ngôi, nhưng bà vẫn chưa có đủ lý do để đưa Ung Vương lên mà thôi.

Đang trong lúc Đỗ Văn Hạo vắt óc nên nghĩ xem giải quyết ra sao, thì thị vệ của hắn đã vào thông báo là có hai bà lão muốn đến gặp hắn, một người là mẹ của Thái Y Ngụy Triển, còn một người là vợ của ông ta.

Đỗ Văn Hạo nghe tên thị vệ nói vậy liền chạy ra ngoài mời hai người vào trong tiếp đãi.

Hai người phụ nữ này sau khi vào gặp Đỗ Văn Hạo thì quỳ xuống dập đầu cầu xin, Đỗ Văn Hạo thấy vậy vội vã chạy đến nâng hai người đứng dậy, nhưng hai người nhất quyết không chịu chỉ một mực ôm mặt khóc lóc: Đỗ tướng quân! Cầu xin tướng quân cứu con trai của lão phụ với…!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đáp: “Lão phu nhân, mời lão phu nhân đứng dậy trước đã, có chuyện gì cứ từ từ bình tĩnh mà nói!”

Lão phu nhân kia vẫn không chịu đứng dậy chỉ ôm mặt gào khóc, người phụ nữ trung niên quỳ ngay cạnh bà ta lúc này cũng nước mắt ngắn nước mắt dài nói: “Đỗ tướng quân! Mấy người đó nói phu quân của tôi vì say rượu mà làm lỡ mất chuyện cấp cứu chữa bệnh cho Hoàng Thượng, vậy nhưng phu quân của tôi vì sức khỏe không được tốt, đã nhiều năm nay không uống rượu rồi, tại sao lại vì chuyện say rượu mà làm lỡ việc cứu chữa cho Hoàng Thượng cơ chứ! Trong này chắc chắn là có uẩn khúc, mong đại nhân đèn trời soi sét!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong cũng vô cùng khó xử nói: “Bản thân bổn quan chẳng qua cũng chỉ là Tam Nha Đô Chỉ Huy Sứ mà thôi! Chức cũng chỉ là Đề Điểm Các Lộ Hình Ngục, bổn quan cũng chẳng có quyền hành gì đi quản mấy chuyện ngục tốt trong kinh thành cả! Mấy người muốn cứu Ngụy Thái Y thì cũng nên đến Nha Môn của Khai Phong Phủ, hoặc là tìm đến Đại Lý Tự, Hình Bộ, Ngự Sử Đài mà kêu oan! Những bộ sở này đều có trống kêu oan hết, hai người cứ đến đó mà gióng trống kêu oan!”

Người phụ nữ kia nghe vậy liền dập đầu xuống đất kêu lên cồm cộp nói: “Đều đến tìm hết cả rồi! Những nơi mà tướng quân vừa nói bọn tôi đều đã đến tìm hết cả rồi, nhưng tất cả bọn họ chẳng cần nghe chúng tôi nói gì cả, không nói không rằng đuổi thẳng chúng tôi ra ngoài! Khi chúng tôi đến Ngự Sử Đài đánh trống kêu oan, thì còn bị bọn sai dịch ở đó ra đánh cho một trận nữa, hu hu…hu…hu!”

“Thật là quá quắt lắm!” Đỗ Văn Hạo tức giận nói: “Nhưng mời nhị vị cứ đứng dậy nói chuyện cái đã!”

Lão phu nhân nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy vẫn một mực không chịu đứng dậy, lại không ngừng dập đầu xuống đất nói: “Đỗ tướng quân! Mấy hôm trước lão phụ nghe nói bọn chúng sắp đưa con trai ta ra ngoài kia chặt đầu để răn đe dân chúng rồi! Ta và con dâu của ta không còn cách nào khác là đến đây! Nghe nói Đỗ tướng quân là người trượng nghĩa, lại là Đề Điểm Các Lộ Hình Ngục, lại đã từng là người trong Thái Y với Ngụy Triển con trai ta nữa! Ta không còn cách nào nữa rồi, mong Đỗ đại nhân ra tay nghĩa hiệp! Con trai của ta thực là oan ức lắm! Mong Đỗ đại nhân cứu mạng con trai ta!” Lão phu nhân nói xong lại dập đầu xuống đất cầu xin.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy không còn cách nào khác, đành phải tiến tới bên người của lão phu nhân đỡ lấy hai tay của bà ta nói: “Lão phu nhân! Mời lão phu nhân đứng dậy, có chuyện gì chúng ta từ từ nói! Lão phu nhân cứ quỳ như vậy, thì bổn quan thật sự không biết phải làm sao!”

Lão phu nhân nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy mới bắt đầu thôi kêu khóc, bà được con dâu của mình đỡ dậy, khó khăn lắm mới nhấc được người dậy thì lại ôm lấy hai tay của Đỗ Văn Hạo nước mắt không biết từ đâu lại tuôn ra như suối, kêu khóc thảm thiết.

Đỗ Văn Hạo liền đỡ lão phu nhân dậy ngồi lên ghế, sau đó hỏi dò tình hình của Ngụy Triển bây giờ ra sao, nhưng hai người này nói đi nói lại lòng vòng mãi mà vẫn không biết mình đang nói cái gì, ngoài ra bọn họ chỉ khăng khăng rằng Ngụy Triển không hề uống rượu làm lỡ chuyện cấp cứu Hoàng Thượng, chính vì vậy mà Ngụy Triển bị oan ức.

Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên biết chuyện này quan hệ trọng đại ra sao, chính vì vậy mà ngay cả Đại Lý Tự, Bộ Hình, Ngự Sử Đài, và cả Khai Phong Phủ cũng không dám nhúng tay vào quản, bản thân hắn thì cũng chỉ là Đề Điểm Các Lộ Hình Ngục Đề Hình Quan, nhưng hắn lại không có quyền hành gì ở kinh thành này cả, hắn lại càng không đủ tư cách để quản những vụ án liên quan đến hoàng thân quốc thích thế này. Vậy nhưng hai người phụ nữ này vẫn cứ khăng khăng rằng Ngụy Triển không có tội, nếu mà như vậy thì vụ án này có rất nhiều vấn đề.

Rốt cuộc là nên giải quyết ra sao đây? Mình có nên quản hay không? Đỗ Văn Hạo ngẫm nghĩ đắn đo.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy vô cùng khó xử, Thẩm sư gia đã dạy hắn đạo làm quan, và điều đầu tiên khi làm quan đó chính là nan đắc hồ đồ, đừng tự cho mình là thông minh tài giỏi, mà kể cả có thông minh tài giỏi thế nào đi chăng nữa cũng phải hồ đồ mới được! Đó mới là thông minh! Điệu bộ làm quan phải có, hô hào khẩu hiệu làm quan phải làm, có liên quan đến những việc có tính nguy hiểm thì phải tránh! Nếu theo đúng như đường lối này mà đi thì vụ án của Ngụy Triển mình tuyệt đối không được dây vào, chỉ cần giả ngây giả ngô là xong, dù sao mình cũng có liên quan gì với Ngụy Triển đâu, cái thân mình còn chưa lo xong, lo cho ông thì ta có mà…

Vậy nhưng, nghĩ đi nghĩ lại thì Đỗ Văn Hạo lại cảm thấy hắn không được phép như vậy, từ nhỏ cha mẹ hắn đã dạy cho hắn những đạo đức của người trong ngành y, nói cho hắn biết rằng bổn phận của hắn chính là cứu người, giúp người. Đối mặt với vụ án này của Ngụy Triển, hắn thấy ông ta đúng là có vẻ như là hàm oan, nếu như hắn có năng lực xử lý mà bắt hắn phải làm ngơ, thì hắn chắc chắn là không thể làm ngơ được.

Nhưng trong những năm tháng làm quan lại đây, chỉ vì hắn hành động lỗ mãng mà tự gây cho mình bao nhiêu là phiền toái, vụ án của Ngụy Triển lại còn có liên quan đến cái chết của Hoàng Thượng, chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo tự nhủ mình nên âm thầm lén lút điều tra trước, rồi mới làm sáng tỏ vụ việc sau.

Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên là không dám nói gì trước mặt hai người phụ nữ này rồi, hắn chỉ nói Hoàng ân to lớn, tuyệt đối không thể tha cho kẻ ác, và dĩ nhiên là người tốt chắc chắn cũng sẽ không bị hàm oan. Còn bản thân hắn sẽ phản ánh ý kiến của hai người lên cho phía trên xem xét cho. Sau khi hắn nói toàn những điều trống rỗng, hứa hon hão huyền xong hắn liền lên tiếng khuyên nhủ hai người ra về.

Đỗ Văn Hạo lúc này thấy mình cũng không gấp gáp vào trong cung nữa, mẫu thân và phu nhân của Ngụy Triển đến tìm hắn có chuyện như vậy làm cho hắn nảy sinh một suy nghĩ. Đỗ Văn Hạo mới về đến kinh thành, thì bỗng nhiên Hoàng Thượng qua đời, hắn thấy việc này vô cùng trùng hợp. Bởi trước khi hắn đi, hắn đã kiểm tra lại toàn bộ tình hình sức khỏe của Hoàng Thượng rồi, mặc dù Hoàng Thượng có bệnh thận mãn tính, nhưng nếu cứ uống thuốc mà hắn đã kê cho, cộng thêm với Đông Trùng Hạ Thảo thì chắc chắn bệnh tình sẽ không bị xấu đi đến như vậy, và càng không vì thế mà qua đời.

Đặc biệt là tình hình phát bệnh của Hoàng Thượng vô cùng nhanh chóng, đến cả Thái Y cũng không đến kịp để cứu chữa cho Hoàng Thượng, căn bệnh phát tác quá nhanh, nhanh hơn mức bình thường và trở thành khác thường. Khoảng cách giữa Thái Y Viện và Tẩm Cung của Hoàng Thượng cũng không xa, nếu như chạy nhanh thì tầm khoảng mười lăm hai mươi phút là tới nơi rồi, vậy tại sao Thái Y vẫn đến chậm một bước? Theo lý thông thường thì suy thận mãn tính không thể nào làm người ta bị đột tử như vậy được! Nhưng cũng không thể nào đảm bảo được là trong người Hoàng Thượng không có những căn bệnh khác làm cho bị đột tử, hơn nữa con người ta thường cũng có lúc bị đột tử một cách vô cùng bất ngờ, ngay cả xác nghiệm tử thi cũng không tìm ra được nguyên do ại sao. Trong tim, não, huyết quản của con người ta có rất nhiều trường hợp dẫn đến đột tử bất ngờ, nếu mà đứng trên phương diện này mà xét, thì đột tử cũng chẳng có gì là kỳ lạ cả.

Chính vì tồn tại những khả năng như vậy mà Đỗ Văn Hạo không tìm hiểu nghiên cứu sâu thêm, nhưng sau khi nghe mẫu thân và phu nhân của Ngụy Triển vào trong này than khóc như vậy, hắn liền nghi ngờ về cái chết của Hoàng Thượng. Lẽ nào cái chết của Hoàng Thượng có uẩn khúc gì?

Đỗ Văn Hạo nhấc tách trà lên nhấp một ngụm rồi ngẫm nghĩ một lúc, nhưng cứ ngồi ngẫm nghĩ như vậy thì chẳng bao giờ tìm được đáp án nào cả, nhất định phải tìm được các tài liệu có liên quan thì mới có thể phán đoán được.

Sau một hồi suy xét, Đỗ Văn Hạo bây giờ quyết định không đi tìm Hoàng Thái Hậu nữa, cho dù bây giờ quan hệ giữa hắn và Hoàng Thái Hậu là tình nhân với nhau, nhưng chuyện này có liên quan đến chuyện gi­ang sơn xã tắc và kế vị ngôi báu, quan hệ người tình e rằng cũng chẳng làm cho Hoàng Thái Hậu có thể thay đổi được quyết định của mình. Chính vì vậy mà lúc này khi không nắm chắc phần thắng trong tay, thì mình tuyệt đối không nên mở miệng ra thuyết phục Hoàng Thái Hậu chỉ định lục Hoàng Tử lên kế thừa ngôi báu.

Dù sao thì việc đính hôn với Vương Gi­ai cũng đã hòm hòm hết cả rồi, có sáu lễ thì mình cũng đã hoàn thành xong bốn lễ rồi, bây giờ còn mỗi việc chọn ngày thành thân, và rước dâu về thế là xong. Hơn nữa, mình cũng đã quan hệ với Vương Nhuận Tuyết rồi, cũng chẳng lo gì nàng từ chối mình nữa, sớm muộn gì mà mình chẳng rước nàng về làm vợ. Chỉ tiếc mỗi một điều là không rước nàng về sớm hơn được thôi.

Đỗ Văn Hạo bây giờ cảm thấy nhiệm vụ đầu tiên của hắn là đi điều tra cái chết của Hoàng Thượng trước, nghĩ vậy hắn liền cho người chuẩn bị kiệu đi vào trong cung tìm Ninh công công. Ninh công công là thái giám thân tín bên cạnh Hoàng Thượng, khi Hoàng Thượng băng hà thì ông luôn ngồi hầu bên linh cữu của Hoàng Thượng.

Trước linh đường của Hoàng Thượng, bây giờ có hai vị trong bốn vị đại thần chấp chính phụ trách làm tang lễ là Thái Xác và Vương Gi­ai, còn hai vị chấp chính đại thần khác chính là Ung Vương và Tào Vương đang bị Hoàng Thái Hậu gi­am lỏng trong tẩm cung của mình, chờ cho Hoàng Thái Hậu xác nhận ai là người kế vị xong rồi mới thả hai người đó ra, chính vì vậy mà hiện giờ cũng chỉ có mỗi hai vị tể tướng lo liệu hết việc tang lễ.

Tể tướng Vương Gi­ai khi trông thấy Đỗ Văn Hạo vào trong này, thì chỉ quay sang hắn mỉm cười một cái, chứ không tiến tới chào hỏi gì với hắn thêm nữa, chỉ có Thái Xác là bước tới thi lễ với hắn.

Thái Xác bây giờ trông thấy Đỗ Văn Hạo thì vô cùng khó xử, bản thân ông là Tể Tướng đương triều, người cầm đầu trong văn võ bá quan, cấp bậc cao hơn hẳn Đỗ Văn Hạo tận mấy cấp liền, ông vốn chẳng cần phải đi đến nghênh đón Đỗ Văn Hạo làm gì, mà chỉ cần đứng chờ Đỗ Văn Hạo ngoan ngoãn đến trước mặt ông thi lễ. Vậy nhưng, tình hình hiện nay lại vô cùng khó nói, Thái Xác vốn ngày trước thuộc vào phe cải cách của Vương An Thạch, nếu như sau này lục Hoàng Tử kế vị, Hoàng Thái Hậu chắc chắn sẽ buông rèm chấp chính, mà Hoàng Thái Hậu lại đứng về phe bảo thủ, vậy thì chức vụ Tể Tướng của ông cũng sẽu têu tùng theo. Ung Vương lại là người theo trường phái cải cách, chính vì vậy mà Thái Xác mới hết lòng ủng hộ Ung Vương như vậy, vì chỉ có Ung Vương mới bảo đảm được cái ghế Tể Tướng này của ông.

Vậy nhưng bây giờ cả hai Vương Gia là Ung Vương và Tào Vương đã bị giảm lỏng, còn lục Hoàng Tử có kế vị hay không thì đến giờ vẫn chưa biết được, bây giờ theo tình hình chính cục thì Đỗ Văn Hạo là người có lợi thế hơn hẳn Thái Xác, hắn không những nắm binh quyền trong tay, lại là người rất được lòng Hoàng Thái Hậu, chính vì vậy mà vì tiền đồ của mình nên Thái Xác mới cúi đầu trước Đỗ Văn Hạo như vậy.

Vì thế mà khi Đỗ Văn Hạo ngang nhiên bước vào, thì Thái Xác lại mỉm cười đon đả chạy ra chắp tay nghênh đón hắn: “Đỗ tướng quân đến rồi đó hả?”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng chắp tay cúi người đáp lễ nói: “Vâng! Tể Tướng đại nhân vất vả quá, ty chức hôm nay đến tìm Ninh công công, không biết Ninh công công có ở đây không nữa?”

“Có! Có chứ! Khi nãy lão phu trông thấy Ninh công công bước vào bên trong, dường như là đi ra phía sau thắp hương đốt giấy cái gì đấy…! Lão phu đi gọi ông ta giúp Đỗ tướng quân nhé?” Thái Xác cười nói.

Đỗ Văn Hạo nghe ông ta tự xưng mình là lão phu, thái độ vô cùng khiêm nhường, nên dĩ nhiên biết được trong bụng ông ta lúc này đang nghĩ cái gì, nên hắn cũng vội vã đáp lại một cách khách sáo: “Không không! Ty chức làm sao dám làm phiền Tể Tướng đại nhân được cơ chứ! Cứ để cho Ty Chức đi được rồi!”

Đỗ Văn Hạo nói xong liền cúi người thi lễ vô cùng cung kính.

“Không sao, không sao! Nơi này có nhiều người qua lại, tướng quân cũng khó tìm ra Ninh công công, thế này vậy, để lão phu đưa tướng quân đi tìm được không?” Thái Xác vẫn khách khí nói.

“Ồ! Vậy thì phiền Tể Tướng đại nhân quá!” Đỗ Văn Hạo cúi người đáp.

Hai người sau đó cùng nhau đi ra phía sau, đi vòng qua những mảnh rèm tang trắng xóa giăng xung quanh phòng đến bên linh đường, trong linh đường lúc này người đến phúng viếng thắp hương khá đông, ánh sáng lại thiếu nên Đỗ Văn Hạo nhất thời không thấy Ninh công công ở đâu cả.

Chương 392: Chức Trách

Thái Xác lúc này đứng bên Đỗ Văn Hạo thấp giọng nói vài câu lấy lòng với hắn: “Lần trước Đỗ tướng quân phụng chỉ của Hoàng Thái Hậu, chỉ dùng một bàn rượu nhạt thôi mà đã đập tan được âm mưu làm loạn của hai tên Đô Chỉ Huy Sứ, ổn định được đại cục, giúp cho Hoàng Thái Hậu có thêm thời gi­an suy nghĩ chín chắn hơn về việc chọn ai lên ngôi Hoàng Đế! Công lao to lớn của tướng quân chắc chắn sẽ được vang danh sử sách đó!”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy Thái Xác bỗng nhiên lại khen ngợi, vuốt đuôi mình như vậy bất giác đưa con mắt hiếu kỳ lên nhìn ông ta một lượt, hắn không ngờ rằng hắn vừa tước hết binh quyền của bọn họ, lại còn trừng trị một trận như vậy, thế mà Thái Xác lại đi vuốt đuôi nịnh hót hắn như bây giờ, thậm chí lại còn đem mình ra so sánh với Triệu Khuông Dận (Triệu Khuông Dận khi mới lên ngôi Tống Thái Tổ đã bày một bàn tiệc rượu mời những người có công trong việc khai sáng ra nhà Tống đến. rồi tước hết binh quyền trong tay bọn họ. nhằm tránh khỏi bọn họ cậy quyền cậy thế mà uy hiếp đến ngôi vua), phải công nhận đầu óc của Thái Xác vô cùng linh hoạt, lòng dạ nham hiểm sâu sắc khó dò, chỉ có thể dùng hai từ kinh khủng để hình dung ông ta. Chả trách gì mà ông ta leo được lên cái chức Tể Tướng này. Nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo liền chắp tay đáp: “Thật không dám! Có chỗ nào đắc tội mong đại nhân lượng thứ cho!”

“Đỗ tướng quân quá lời rồi! Tướng quân mới đúng là người tài hiện nay trong thiên hạ!” Thái Xác nói xong lại cúi người chắp tay thấp giọng thì thào: “Thực ra thì, Ung Vương vô cùng khâm phục và hâm mộ Đỗ tướng quân, hơn nữa Ung Vương là một người rất trọng trí nghĩa, không bao giờ nuốt lời cả. lần trước Ung Vương hứa hẹn với tướng quân cái chức Xu Mật Viện Phó Sứ. thực ra là chỉ cái chức Đồng Tri Xu Mật Viện, chứ không phải là chức Thiêm Thư Xu Mật Viện, Đỗ tướng quân cứ an tâm. Ung Vương nói lời là giữ lấy lời, lão phu có thể lấy cái đầu trên cổ của mình ra đảm bảo!”

Đồng Tri Xu Mật Viện và Thiêm Thư Xu Mật Viện cũng là Xu Mật Viện Phó Sử, nhưng địa vị lại hoàn toàn khác nhau. Đồng Tri Xu Mật Viện là Phó Sử thường vụ, còn Thiêm Thư Xu Mật Viện chỉ là một Phó Sử thông thường. Đồng Tri chức lên chính nhị phẩm, còn Thiêm Thư thì là tòng nhị phẩm. Lúc trước Ung Vương không hề nói rõ cho Đỗ Văn Hạo biết hắn sẽ làm Phó Sứ nào, nên Đỗ Văn Hạo cứ tưởng hắn là Thiêm Thư Xu Mật Viện, bây giờ Thái Xác đã xác nhận lại cho hắn tin này, đó là hắn thực chất được Ung Vương hứa hẹn lên làm chức Đồng Tri Xu Mật Viện. Đỗ Văn Hạo làm gì mà không hiểu được dụng ý của Thái Xác, nên cũng làm ra bộ kinh ngạc mừng rỡ, sau đó lại cúi người tạ ơn nói: “Đa tạ! Đa tạ Ung Vương! Đa tạ Tể Tướng đại nhân!”

Thái Xác để ý thấy Đỗ Văn Hạo là vui mừng thật sự, không hề có chút gì là đóng kịch cả, tựa hồ như hắn rất mong mỏi được lên làm chức đó lắm vậy, nên bất giác trong lòng cảm thấy vui mừng khôn tả, Thái Xác thầm nghĩ người trẻ tuổi đúng là trẻ người non dạ, mới có tý thế mà đã vui mừng như bắt được vàng rồi, ha ha ha. Vậy nhưng, Thái Xác không hề biết được cho dù Đỗ Văn Hạo làm quan chưa lâu, nhưng lại có con cáo già Thẩm Thăng Bình làm tham mưu, trong lúc còn là Đề Hình Quan đi tầm y, Thẩm Thăng Bình đã dạy cho hắn không biết bao nhiêu chiêu bàivới các thủ đoạn khi làm quan. Đỗ Văn Hạo cũng đã thực hành nhiều lần, có nhiều tâm đắc, cộng thêm hắn rất tự tin trong việc đánh đổ Ung Vương, chính vì vậy mà Thái Xác không hề nhìn ra được bất kỳ sơ hở nào của hắn cả.

Thái Xác vô cùng đắc ý, vuốt vuốt chòm râu của mình mỉm cười nói: “Đỗ tướng quân! Gặp được cơ ngộ lớn như thế này, e rằng không phải người nào cũng gặp được đâu, có người có khi cả đời cũng không gặp được nữa ấy chứ! Tướng quân phải nắm chắc cơ hội này mới được! Chỉ cần nắm bắt được nó rồi thì thăng quan phát tài không cần phải nói! Còn nếu không nắm bắt được thì e rằng sẽ ân hận cả đời đấy!”

“Vâng, vâng! Thái Tể Tướng nói đúng lắm, không sai chút nào! Ha ha ha!” Đỗ Văn Hạo mỉm cười vui vẻ đáp lại một cách chân thành, sau đó lại còn cúi người tạ ơn lần nữa.

Thái Xác thấy vậy thì ngay lập tức chuyển luôn sang chuyện khác, cứ như vừa rồi chưa có chuyện gì xảy ra vậy: “Không biết Đỗ tướng quân tìm Ninh công công có chuyện gì vậy hả?”

Đỗ Văn Hạo trong bụng đã chuẩn bị sẵn câu trả lời từ lâu rồi, nên khi mới nghe Thái Xác nói vậy liền đáp: “Ty chức tìm ông ta có chút việc mọn! Lần trước ty chức có nhờ Ninh công công đem về trong cung một ít Đông Trùng Hạ Thảo, nhưng dường như Hoàng Thượng chưa kịp dùng hết thì đã băng hà rồi. Loại thuốc này rất bổ với những người có thể chất yếu đuối! Hôm nay, Hoàng Thái Hậu vì lo lắng nhiều việc, thân thể suy nhược chính vì vậy mà ty chức muốn vào trong này lấy một ít về bồi bổ cho Hoàng Thái Hậu! ”

Thái Xác nghe xong thì chợt hiểu ra vấn đề, ông ta liền gật gật đầu nói: “Thì ra là vậy, vậy thì chúng ta phải mau mau đi tìm Ninh công công mới được!”

Sau một hồi tìm kiếm, hai người mới tìm thấy Ninh công công đang ngồi ở bên cạnh linh điện của Hoàng Thượng tay đốt hương, miệng lảm nhảm cúng tế.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền tiến lại gần Ninh công công rồi nói: “Công công đừng quá đau buồn…!”

Ninh công công nghe thấy có tiếng nói liền từ từ ngước đầu lên nhìn hai mắt của ông lúc này ướt nhòe, nhìn một hồi lâu Ninh công công mới nhận ra Đỗ Văn Hạo, ông liền vội vã đứng dậy nói: “Thì ra là Đỗ tướng quân! Tướng quân tìm lão nô có việc gì vậy ?”

“Có chuyện gấp muốn gặp công công một lát. chúng ta ra đằng kia nói chuyện một chút nhé, được không?” Đỗ Văn Hạo thấp giọng nói.

Ninh công công nghe xong liền gật gật đầu. Sau đó đi theo chân Đỗ Văn Hạo ra bên ngoài. Thấy hai người Đỗ Văn Hạo và Ninh công công có chuyện muốn bàn riêng với nhau. Thái Xác lúc này cũng cảm thấy không tiện khi đi theo để nghe ngóng, vì vậy ông ta không đi theo nữa. Đỗ Văn Hạo cẩn thận dòm trước ngó sau một hồi mới cúi người thấp giọng nói: “Ninh công công! Nghe nói lúc Hoàng Thượng băng hà, thì vừa vặn là lúc Ngụy Triển trực ban, nhưng Ngụy Triển lại uống rượu say làm lỡ việc cứu chữa Hoàng Thượng, còn Thái Y khác thì lại đến muộn không kịp cứu chữa, chính vì vậy mà Hoàng Thượng mới băng hà. Không biết sự việc có phải như vậy không?”

Ninh công công nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy liền ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Hình như là vậy! Không biết Đỗ tướng quân tại sao tự nhiên lại hỏi đến chuyện này vậy?”

Đỗ Văn Hạo và Ninh công công có gi­ao tình khá là mật thiết, biết Ninh công công cũng là người kín mồm kín miệng, chính vì vậy mà hắn liền thấp giọng đem sự thật ra nói cho ông ta nghe: “Không dám giấu gì công công! tiểu đệ và Thái Y Thừa Ngụy Triển là anh em bằng hữu khá tốt của nhau, khi tiểu đệ mới chân ướt chân ráo vào Thái Y Viện thì ông ta hết mực giúp đỡ cho tiểu đệ! Lần này Ngụy Triển chẳng may bị tội nhốt trong ngục tối, nghe nói là sắp bị chém đầu nữa! Thực ra hôm qua vợ và mẫu thân của Ngụy Triển có đến tìm tiểu đệ, rồi tiết lộ cho tiểu đệ một tin vô cùng quan trọng, làm cho tiểu đệ không thể không chú ý được, chính vì vậy mà hôm nay đến tìm công công!”

“ố! Không biết là tin gì mà quan trọng như vậy?” Ninh công công hỏi.

“Mẫu thân cũng với phu nhân của Ngụy Triển đã thề với tiểu đệ rằng Ngụy Triển từ trước đến giờ sức khỏe khá yếu. nên đã cai rượu từ nhiều năm nay rồi. Chính vì vậy mà ông ta không thể nào vì say rượu mà làm lỡ việc cứu chữa cho Hoàng Thượng được! Chắc chắn là có người vu khống cho ông ta. Vì thế nên mà hai người đó mới tìm đến tiểu đệ để kêu oan!” Đỗ Văn Hạo nói.

Ninh công công nghe xong thì sững người kinh hãi. Ông ta đưa mắt sang hai bên dò xét một lúc rồi mới thấp giọng nói: “Có thật là như vậy không hả?”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Tiểu đệ chỉ nghe hai người đó nói với tiểu đệ vậy thôi! Chính vì vậy mà tiểu đệ mới chạy đến đây để tìm công công! Thực ra tiểu đệ vẫn chưa xác nhận xem nó là thật hay giả nữa! Vậy nhưng, xem bộ dạng của người đó thì dường như không phải là đóng kịch, hơn nữa Hoàng Thượng băng hà vốn có rất nhiều điều bí ẩn. Chúng ta cũng phải quan tâm và điều tra một chút mới không cảm thấy cắn rứt lương tâm với Hoàng Thượng! Tiểu đệ nói vậy có đúng không hả công công?”

Ninh công công nghe xong thì gật gù nói: “Đỗ lão đệ nói chí lý lắm! Lão nô thực ra là đã có ý nghi ngờ từ trước rồi. Theo lý mà nói thì người trực ban tuyệt đối không được phép uống rượu, và cũng không được phép rời Hoàng Thượng nửa bước! Vậy thì tại sao khi Hoàng Thượng băng hà Ngụy Thái Y lại năm say khướt trong căn nhà nhỏ ở trong Ngự Hoa Viên, mặc cho người ta lay lắc thế nào cũng không tỉnh! Cái này rốt cuộc là ai đã làm cho Ngụy Thái Y bị như vậy thì chúng ta phải điều tra cho rõ ràng mới được! ”

“Ngụy Thái Y vẫn chưa nhận tội?”

“Vừa nãy thì không thừa nhận tội kêu khóc van xin nói mình bị oan. Ông ta nói rằng mình không uống rượu kết quả là ông ta bị gi­ao cho Ngự Sử Đài. dưới cực hình đau đớn thì làm sao mà chịu nổi cơ chứ? Thế là ngay tối ngày hôm đó Ngụy Triển đã tự nhận hết tội, nhận mình uống rượu làm hỏng việc lớn! Nhưng vì ông ta khai nhiều lời khai khác nhau quá. Hôm nay thì nói là mình đi trộm rượu uống, ngày khác thì lại khai là không biết ai đã đặt rượu ở trong phòng để ông ta phát hiện ra rồi uống! Còn sau đó ông ta lại khai là mình tự đi mua rượu uống…!” Ninh công công nói.

“Thật vậy sao?” Đỗ Văn Hạo ngẫm nghĩ một lúc rồi trầm giọng hỏi: “Công công! Trước khi Hoàng Thượng băng hà thì công công có ở bên cạnh Hoàng Thượng không vậy?”

“Dĩ nhiên là có rồi. Ngày hôm đó là ngày trực của lão nô mà!”Ninh công công đáp.

“Khi đó Hoàng Thượng bị bệnh ở nơi nào? Phát bệnh ra sao? Triệu chứng như thế nào?” Đỗ Văn Hạo nôn nóng hỏi.

“Ngay đêm đầu tiên Hoàng Thượng đến ngủ với Chu Đức Phi nương nương, sau đó trời sáng thì người tỉnh dậy rồi làm vệ sinh là dùng bữa sáng. Chu Đức Phi nương nương nói Hoàng Thượng uống thuốc trước, bảo là Đỗ lão đệ đã dặn dò như vậy rồi,nên Hoàng Thượng phải dùng thang thuốc này. Hoàng Thượng nghe vậy liên mỉm cười rất vui vẻ. vì người biết trong dám phi tần ở trong cung thì duy chỉ có mỗi Chu Đức Phi nương nương là còn giục Hoàng Thượng uống thuốc, đốc thúc rất là nghiêm ngặt, sau đó Hoàng Thượng liền uống thuốc của Đỗ lão đệ đã kê cho! ”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền thở dài nói: “Trong các phi tần nơi hậu cung, thì chỉ có mỗi Đức Phi nương nương là có thể khuyên nhủ được Hoàng Thượng mà thôi! Các phi tần khác thì thường hay chiều theo ý của Hoàng Thượng. Hoàng Thượng không muốn uống thì cũng không ép người uống, như vậy thì chẳng khác gì là hại Hoàng Thượng cả!”

“Đúng vậy! Các phi tần trong hậu cung chỉ có mỗi Chu Đức Phi nương nương là đối xử với Hoàng Thượng đúng mực nhất! Sau khi Hoàng Thượng bãng h thì nương nương khóc lóc thảm thiết, đến mấy đứa người hầu trông mà cũng cảm thấy xót xa thay cho nương nương!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền gật đầu tán đồng, hắn bỗng nhiên nhớ ra là hắn đã quay về kinh thành khá lâu rồi mà cũng mới chỉ gặp Chu Đức Phi nương nương có mỗi một lần, mà lần đó lại chính là lần hắn vào bái kiến Hoàng Thái Hậu bắt gập Chu Đức Phi nương nương tại linh đường của Thái Hoàng Thái Hậu. Hắn nhớ lúc đó trông nàng khô héo, bơ phờ, rệu rã lắm. Chắc là nàng rất đau lòng vì cái chết của Hoàng Thượng, nên thần sắc mới trở nên khổ sở như vậy! Nói tới Chu Đức Phi nương nương thì Đỗ Văn Hạo mới sực nhớ ra nàng vốn là tỷ tỷ của hắn vậy nên sau khi bận bịu xong công việc trong quân đội xong cũng nên đi thăm Chu Đức Phi nương nương một chuyến mới được, mong rằng nàng đừng đau buồn quá mà hóa bệnh.

Cho dù con trai của Chu Đức Phi nương nương là lục Hoàng Tử rất có khả năng kế vị lên làm Hoàng Đế nhưng theo như quy định của Hoàng tộc Chu Đức Phi không phải là mẹ chính thống, chính vì vậy mà nàng không thể nhận được những sự đãi ngộ như Hoàng Thái Hậu. Hơn nữa Chu Đức Phi nương nương cũng chẳng phải là người máu me gì với mấy cái công danh này, nên e rằng cũng chẳng mong chờ con mình lên làm vua cho lắm.

Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy liền quay sang Ninh công công hỏi tiếp: “về sau thì sao? Hoàng Thượng bị làm sao?”

“Chu Đức Phi nương nương thường phải khuyên Hoàng Thượng uống thuốc rất lâu Hoàng Thượng mới chịu đồng ý, và lần này cũng vậy, Chu Đức Phi nương nương phí không biết bao nhiều là công sức mới dỗ dành được Hoàng Thượng uống thuốc, rồi nương nương liền cho gọi đầu bếp trong Dược Phòng bưng thuốc lên cho Hoàng Thượng, đó chính là vị thuốc Đông Trùng Hạ Thảo do Đỗ lão đệ gửi về cho Hoàng Thượng. Sau khi dùng thuốc xong, thì mọi người liền dùng bữa, trong lúc Hoàng Thượng và Chu Đức Phi nương nương đang ăn thì Hoàng Thượng đột nhiên ôm lấy ngực của mình nói tim của người đập loạn xạ, có cảm giác vô cùng hồi hộp bất an! Tiếp sau đó Hoàng Thượng liền lảo đảo đứng đậy đến cả bát đũa ở trên bàn cũng bị hất văng tung tóe!” Ninh công công tỉ mỉ kể lại sự tình.

“Chờ chút!” Đỗ Văn Hạo vội vã cắt lời của Ninh công công nói: “Hoàng Thượng khi đó cụ thể cảm thấy trong người như thế nào? Công công có thể nói rõ cho tiểu đệ nghe được không?’’

Ninh công công nghe vậy liền ngửa đầu lên ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Lão nô chỉ nhớ khi đó Hoàng Thượng ôm lấy ngực của mình nói cảm thấy tim đập rộn ràng, lo lắng, bất an! À…. Đúng rồi. Hoàng Thượng còn cảm thấy chóng mặt, đứng cũng không vững sau đó liền ngã vật trên chiếc sạp mềm!”

“Hồi hộp bất an, lại cảm thấy chóng mặt….?” Đỗ Văn Hạo cau mày lại suy ngẫm, hai triệu chứng này rất giống với các hiện tượng trúng độc, không thể nào có cách lý giải khác được.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi cặn kẽ hơn tình hình lúc đó. Ninh công công thì lại không nhớ rõ hơn được nữa vì tình hình lúc đó vô cùng hỗn loạn. Ninh công công cũng chẳng phải là thầy thuốc cũng chẳng nghi ngờ trong đồ ăn, hay thuốc uống là có vấn đề, ngẫm nghĩ một hồi lâu Ninh công công liền thấp giọng nói: “Đỗ lão đệ! Lẽ nào trong này có vấn đề gì hay sao?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đáp: “Theo tình hình trước mắt thì đúng là tiểu đệ vẫn chưa thể tìm ra được chứng cứ cụ thể chứng minh là có người đã giở trò! Vậy nhưng, công công lẽ nào không cảm thấy trong chuyện này nó có vấn đề gì hay sao?”

“Theo như Đỗ lão đệ nói, thì lão nô cũng thấy trong chuyện này đúng là có một cái gì đó vô cùng khó hiểu và kỳ quái! Vậy nhưng, lão nô lại là một người ngoài ngành, không hiểu gì về những cái Hình Ngục điều tra như Đỗ lão đệ, rốt cuộc là Ngụy Triển có bị oan hay không, và câu chuyện cuối cũng là như thế nào? Nên điều tra ra sao? Lão nô không thể nào biết được, không biết ý của Đỗ lão đệ ?” Ninh công công lắc lắc đầu nói.

Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy liền im lặng ngẫm nghĩ một hồi, rồi lên tiếng đáp: “Đúng vậy! Trong chuyện này có quá nhiều điểm nghi ngờ, đúng là phải điều tra cho rõ ràng mới được!”

Ninh công công nghe vậy liền nhòm trước ngó sau, thấy không có ai ở gần đây liền thấp giọng nói với Đỗ Văn Hạo: “Đỗ lão đệ! Hoàng Thượng đối xử với lão đệ quả thật là vô cùng tốt! Nếu như Hoàng Thượng băng hà mà có nhiều điểm nghi vấn. Hoặc có thể lão nô suy nghĩ có phần nghiêm trọng hơn nữa là có người đang đứng trong bóng tối bày trò hãm hại Hoàng Thượng, lại còn cố ý chuốc rượu Ngụy Thái Y say mèm làm cho ông ta không thể đến kịp để cứu chữa cho Hoàng Thượng được, thì kẻ đó tội đáng muôn chết! Chuyện này mà lão đệ không điều tra cho rõ ràng, thì rất có lỗi với Hoàng Thượng đó biết không?”

“Công công nói chí phải! Tiểu đệ cũng muốn điều tra việc này lắm đấy chứ! Vậy nhưng chức quyền của tiểu đệ không được phép quản vụ án này…!” Đỗ Văn Hạo nói xong liền liếc mắt nhìn Ninh công công dò xét.

Ninh công công nghe vậy liền nói: “Đỗ lão đệ nói cũng hơi bị quá đáng rồi đấy! Đỗ lão đệ đã từng được Hoàng Thượng đích thân khâm điểm lên chức Đề điểm Các Lộ Hình Ngục Đề Hình Quan, cho dù các nơi do lão đệ quản trong đó không bao gồm kinh thành, nhưng lại không hề nhắc tới là không được phép điều tra các vụ án trong kinh thành. Chính vì vậy cũng không thể nói là lão đệ đã làm trái với pháp luật được! Hơn nữa, lão đệ cho dù không nhậm chức Đề Điểm Các Lộ Hình Ngục Đề Hình Quan đi chăng nữa, thì lão đệ vẫn còn là một Ngự Y ở trong triều! Thủ hạ của lão đệ gây ra chuyện tày trời như vậy, thì lão đệ đĩ nhiên phải có trách nhiệm điều tra cho rõ ràng chứ! Cái này có quan hệ rất lớn với Hoàng Thượng đó!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền chắp tay lên nói: “Công công trách cứ tiểu đệ đáng lắm! Nghe những lời công công vừa nói tiểu đệ bỗng nhiên thấy mình thật là ngu dại, tiểu đệ đã hiểu rồi. Tiểu đệ khi trước đã quá để ý đến việc phạm pháp mà không dám làm gì! Chuyện lớn tày trời như thế này cho dù tiểu đệ không được phép can dự vào, nhưng tiểu đệ nhất quyết vẫn phải nhúng tay vào. Chứ đừng nói đây lại là chức trách của tiểu đệ! Tiểu đệ bây giờ sẽ lập tức bắt tay vào điều tra ngay! ”

“Được như vậy thì tốt quá rồi! Nếu như Đỗ lão đệ có chỗ nào cần dùng đến lão nô thì cứ việc nói với lão nô một tiếng, lão nô rất vui lòng được giúp đỡ!” Ninh công công cũng không hỏi thêm hắn nên điều tra ra sao, đối với những chuyện như thế này thì biết càng ít càng tốt.

“Cái này thì chắc chắn rồi, tiểu đệ xin được phép cáo từ!” Đỗ Văn Hạo nói xong liền chắp tay thi lễ.

Đỗ Văn Hạo sau khi ra khỏi nơi đó liền chạy thẳng đến tẩm cung bầy linh đường của Thái Hoàng Thái Hậu, hắn bây giờ phải tìm đến Chu Đức Phi nương nương, khi đó Đức Phi nương nương là người ở ngay bên cạnh Hoàng Thượng, nên nàng chắc chắn sẽ biết rất nhiều chuyện.

Hắn không ngồi kiệu đi đến đây, bởi vì hai nơi này cách nhau cũng không xa lắm, hắn cũng nhân tiện trên đường đi bộ đến đây nghĩ nên điều tra vụ án này ra sao.

Trời lúc này cũng đã tối. Màn đêm đầu hè bắt đầu buông xuống mảnh đất khô cứng ở phía bắc này, những ngọn gió hiu hiu thổi vào cánh cửa sổ làm cho cánh cửa kêu lên kẽo kẹt. Những nụ hoa chớm nở rơi rớt trên thềm như cúi đầu đau thương, gió đêm theo những hạt mưa rơi tí tách lên trên những mầm hoa, chúng như những giọt nước mắt chảy đêm hè vắng, lách tách đến chạnh lòng.

Khi Đỗ Văn Hạo đến tẩm cung thì thật thật không may cho hắn là có mấy vị phu nhân của các công tôn đại thân đang đến tế lễ và thăm nom các vị phi tần, bọn họ đang ngồi nói chuyện với nhau. Tiêu công công vốn lúc đầu định vào bẩm báo cho Hoàng Thái Hậu biết, nhưng Đỗ Văn Hạo liền ngăn lại rồi sau đó hắn đi vào trong hoa phòng ngồi đợi. Tiêu công công thấy vậy cũng bước theo cũng hắn vào ngồi bên trong.

Gió bên ngoài tiếp tục nổi lên, những chiếc rèm màu tím khẽ phất phơ trong gió. trong ánh đèn leo lét, yếu ớt, lay lắt như bóng dáng của một cô gái đang bay người uốn lượn, đêm xuống càng lúc càng nhanh ánh đèn phất lên bóng hình của rặng trúc bên ngoài đung đưa hiu quạnh, xa xa còn vãng văng tiếng chó sủa khi đêm về. Tiêu công công ngồi bên cạnh Đỗ Văn Hạo lúc này có lẽ vì mấy ngày nay vất vả mệt nhọc, dường như không có thời gi­an để ngủ nghỉ, chính vì vậy mà chả mấy chốc ông đã nằm bẹp lên bàn ngáy lên đều đều.

Đỗ Văn Hạo ở trong hoàn cảnh này cũng cảm thấy không thể nào cưỡng lại được cơn buồn ngủ đang kéo về ầm ầm.

Đột nhiên có một tiếng động vang lên kêu loảng xoảng làm cho Đỗ Văn Hạo kinh hãi giật mình tỉnh dậy.

Đứa cung nữ thấy Đỗ Văn Hạo đột nhiên ngồi thẳng người dậy như vậy, sợ quá quỳ luôn xuống đất đập đầu van xin: “Nô tỳ đáng chết mong tướng quân xá tội! nô tỳ chẳng qua là sợ đại nhân bị lạnh, nên định choàng lên cho đại nhân một chiếc áo giữ ấm, nhưng ai ngờ nô tỳ chẳng may làm rơi tách trà đặt trên bàn làm tướng quân tỉnh giấc, nô tỳ thật đáng chết! ”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới để ý thấy trên người mình đã có thêm một chiếc áo khoác, sau đó lại nhìn vào đứa cung nữ đang run lên vì sợ hãi. Hắn liền ngáp dài lên một tiếng rồi hỏi: “Bây giờ là canh mấy rồi?”

“Dạ bẩm tướng quân, cũng vừa mới đến canh một ạ!” Đứa nô tỳ sợ hãi đáp.

Tiêu công công cũng nghe thấy tiếng động nên cũng bừng tỉnh dậy, khi ông ngóc đầu lên thì Đỗ Văn Hạo đã đưa tay ra ý cho đứa nô tỳ lui ra bên ngoài, sau đó hắn liền vỗ vỗ vào vai của Tiêu công công mỉm cười nói: “Công công bị sao mà lại ngủ gà ngủ gật vậy?”

Tiêu công công nghe vậy liền mỉm cười rồi rót cho Đỗ Văn Hạo một tách trà đặc nói: “Đúng là có tuổi rồi có khác, ngày trước lão nô thức mấy đêm liền cũng chẳng nhằm nhò gì cả! Ài!”

Đỗ Văn Hạo cũng chẳng muốn nhắc lại chuyện cũ chút nào, vì nói cho cũng thì Tiêu công công mới là người đau lòng nhất. Thái Hoàng Thái Hậu khuất núi rồi thì ông ta cứ như người mất hồn vậy. Cái cảm giác này cũng giống như cái lúc Trần Mỹ Nhân bị bệnh, Liên Nhi khi đó bồn chồn lo lắng cứ như xé nát ruột gan của nàng ra vậy, chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo rất thấu hiểu tình cảm giữa Tiêu công công và Thái Hoàng Thái Hậu. Nên không để cho Tiêu công công kịp ôn nghèo kể khổ, hắn đã nhanh miệng chuyển sang chủ đề khác: “À đúng rồi! Chờ sau khi việc tang lỠnày kết thúc thì tiểu đệ mời công công đến nhà chơi một chuyến được không nhỉ?”

“Tiểu đệ sẽ gọi Liên Nhi làm mấy món mà công công thích ăn, đến lúc đó công công đừng có mà chối từ đó!” Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói.

Tiêu công công nghe vậy liền đáp: “Được thôi! Lão nô bây giờ cũng nhàn rỗi lắm ha ha! Bây giờ lão nô phải đi xem Chu Đức Phi nương nương đã bận việc xong chưa cái đã!”

Chương 393: Thêm Thuốc

Tiêu công công nói xong liền quay người đi vào trong, không lâu sau thì Hoàng Thái Hậu dắt theo Chu Đức Phi nương nương bước ra ngoài.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy vội vã tiến tới cúi người thi lễ. Hoàng Thái Hậu sau đó ra ý bảo hắn ngồi xuống. Đỗ Văn Hạo lúc này mới nhìn kỹ nét mặt của Chu Đức Phi nương nương, trông nàng tiều tụy hơn ngày trước rất nhiều, trông thấy Đỗ Văn Hạo mà cứ như là không vậy, điều này làm cho Đỗ Văn Hạo cảm thấy ruột đau như cắt.

Hoàng Thái Hậu sau khi đã an tọa đâu đấy rồi liền quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Ngươi đến đúng lúc lắm! Ai gia đang định phái người đi gọi ngươi vào đây! Thế mà ngươi đã tự đến đây rồi. Ta cũng đã thương lượng với các vị Phụ Chánh đại thần cũng với các vị vương gia, và đã chọn ngày lành tháng tốt rồi! Tất cả đều quyết định là ba ngày sau sẽ làm lễ đưa Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu đến lăng Vĩnh Dụ, các việc về an toàn, cảnh giới thì đều do ngươi lo liệu, phụ trách hết.”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cúi người đáp: “Xin Hoàng Thái Hậu cứ an tâm, vi thần nhất định sẽ làm đến nơi đến chốn!”

“Được vậy thì tốt rồi, mà ngươi tìm Chu Đức Phi nương nương có việc gì vậy?” Hoàng Thái Hậu mỉm cười hỏi.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền trầm ngâm một lúc, Hoàng Thái Hậu đã lên tiếng hỏi vậy rồi, thì mình cũng nên nói cho Hoàng Thái Hậu biết để còn có dự trù về sau. Nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo liền thấp giọng nói: “Khi Hoàng Thượng băng hà, Thái Y Thừa Ngụy Triển của Thái Y Viện vì uống rượu say mà làm lỡ việc lớn, bây giờ ông ta đã bị bắt gi­am vào trong ngục rồi, vi thần muốn điều tra xem việc này rốt cuộc là làm sao?”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy khẽ sững người lại nói: “Sao vậy? Lẽ nào có vấn đề gì sao?”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền đứng lên đi đến bên cạnh Hoàng Thái Hậu thấp giọng nói: “Hồi bẩm Hoàng Thái Hậu, mẫu thân và thê tử của Ngụy Triển đã tìm đến vi thần, bọn họ thề thốt với vi thần rằng Ngụy Triển mấy năm gần đây sức khỏe rất kém,đã cai rượu từ lâu không uống rồi! Chính vì vậy mà ông ta không thể nào vì uống rượu say mà làm lỡ việc cứu chữa cho Hoàng Thượng được! Vi thần vốn là người cầm đầu trong dám Ngự Y, bây giờ thuộc hạ của vi thần gây ra chuyện tày trời như vậy, nếu như vi thần không điều tra sáng tỏ. thì vi thân cảm thấy ăn không ngon ngủ không yên!”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy liền gật đầu khen phải, sau đó thấp giọng nói: “Ngươi nói cũng có lý lắm, vậy thì ngươi cứ điều tra đi, nếu như có gì đó khả nghi thì cứ trực tiếp bẩm báo cho ai gia biết!”

“Vi thần tuân chỉ!” Đỗ Văn Hạo cúi người đáp.

Hoàng Thái Hậu nói xong liền quay sang Chu Đức Phi nương nương ngồi bên cạnh nói: “Đỗ tướng quân bây giờ có chuyện muốn nói với ngươi, ngươi cứ ngồi đây nói chuyện với Đỗ tướng quân, ai gia vào trong kia trước đây!”

Chu Đức Phi nương nương nghe vậy liền đứng lên thi lễ đáp. Giọng của nàng lúc này khản đặc cả lại, vô cùng đáng thương: “Thưa vâng!”

Hoàng Thái Hậu liền đứng dậy liếc nhìn Đỗ Văn Hạo một cái rồi quay vào bên trong linh đường. Đỗ Văn Hạo muốn điều tra sự việc có quan hệ trọng đại. Chính vì vậy mà Tiêu công công liền biết ý đưa tay xua đuổi tất cả các cung nữ và thái giám trong này ra ngoài, sau đó tự tay khép cửa lại cẩn thận.

Cho dù Đỗ Văn Hạo đã được Hoàng Thái Hậu cho phép ngồi xuống ghế, nhưng hắn cũng không dám vô lễ với Chu Đức Phi nương nương, chính vì vậy mà hắn vội vã đi đến trước mặt nàng cúi người thi lễ nói: “Tỷ tỷ! Đừng đau buồn quá mà hại cho sức khỏe!”

Chu Đức Phi nương nương nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì như người mộng du sực tỉnh cơn mê. Nàng chầm chậm quay đầu lại phía hắn ánh mắt đau buồn của nàng cuối cũng cũng có thêm sức sống: “Văn Hạo! Văn Hạo! Là đệ đó ư?”

Đỗ Văn Hạo nghe mà quặn thắt cõi lòng, mắt của Chu Đức Phi nương nương đã khóc sưng tấy hết cả lên. Nhìn mọi vật vô cùng khó khăn, chả trách gì lúc nãy trông thấy mình mà nàng cứ dửng dưng như không vậy. Nghĩ vậy hắn liền vội vã chắp tay đáp: “Vâng! Đệ là Đỗ Văn Hạo đây!”

“Văn Hạo!” Chu Đức Phi nương nương xúc động tóm lấy cánh tay của hắn. giọng nàng khàn khàn nấc lên nói: “Văn Hạo! Sao bây giờ đệ mới quay lại. Hoàng Thượng… Hoàng Thượng….!”

Chu Đức Phi nương nương nghẹn giọng nói. ân hình nàng run rẩy yếu ớt cứ như nàng có thể ngã quỵ xuống lúc nào cũng được vậy. Đỗ Văn Hạo thấy vậy có ý muốn tiến đến ôm lấy nàng an ủi, nhưng vì Hoàng Thái Hậu đang ở ngay bên cạnh, nếu mà để cho Hoàng Thái Hậu trông thấy thì hắn tiêu đời ngay. Nhưng cứ để Chu Đức Phi nương nương trong tình trạng như thế này cũng không ổn, hắn nghĩ vậy liền vội tiến đến đỡ lấy cánh tay của Chu Đức Phi, rồi dìu nàng ngồi xuống ghế. Sau đó hắn mới an tâm ngồi xuống.

Chu Đức Phi nương nương vẫn khóc lên rưng rức, cứ luôn miệng trách mắng Đỗ Văn Hạo đã đến muộn. Đỗ Văn Hạo chỉ biết ngồi nghe nàng ai oán cũng không biện hộ gì cho bản thân mình.

Được một lúc lâu sau, Chu Đức Phi nương nương mới lấy lại bình tĩnh, ngồi im lặng không nói gì. Lúc này Đỗ Văn Hạo mới lên tiếng nói: “Khi nãy Hoàng Thái Hậu đã ủy quyền cho tiểu đệ điều tra về vụ Thái Y Ngụy Triển vì say rượu mà làm lỡ chuyện cứu chữa, làm cho Hoàng Thượng băng hà! Nghe Ninh công công nói rằng khi Hoàng Thượng băng hà thì tỷ ở bên cạnh Hoàng Thượng, tỷ có thể nói cho tiểu đệ biết tình hình lúc đó ra sao không?’

“Tất cả đều tại ta hết. Ta không nên khuyên Hoàng Thượng uống thuốc, nếu không thì…!” Chu Đức Phi nương nương lại nghẹn ngào nói.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì kinh hãi vô cùng nói: “Tỷ nói vậy là có ý gì? Lẽ nào đơn thuốc mà tiểu đệ kê cho Hoàng Thượng lại có vấn đề gì sao?”

“Không phải thuốc có vấn đề, vì thuốc của đệ Hoàng Thượng đã uống được cả nửa năm rồi, vẫn còn tốt lắm, làm sao mà có vấn đề gì cơ chứ? Ý ta nói là cho thêm vị thuốc khác vào thuốc của đệ!” Chu Đức Phi nương nương tủi thân nói.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì cả kinh nói: “Cho thêm vị thuốc khác vào thuốc mà tiểu đệ đã kê? Thuốc của tiểu đệ bị người khác cho thêm thuốc vào?”

“Đúng vậy!” chu Đức Phi nương nương gật đầu nói.

Đỗ Văn Hạo giật thót tim nói: “Ai đã làm vậy?”

“Ung vương gia!” Chu Đức Phi đáp.

Đỗ Văn Hạo nghe xong mà như bị một quả búa tạ ngàn cân đập vào đầu, không biết là do sự phát hiện này làm cho hắn xúc động hay là làm cho hắn sợ hãi nữa. Đỗ Văn Hạo vội vàng hỏi: “Cho thêm vị thuốc gì vậy?”

“Tỷ cũng không rõ nữa! Nhưng cho thêm vị thuốc cũng được một thời gi­an khá lâu rồi, khi đệ vừa rời khỏi kinh thành không lâu thì Hoàng Thượng cảm thấy sức khỏe không được tốt. Thái Y Viện Viện Sử Trịnh Cốc xem bệnh cho Hoàng Thượng, rồi kiểm nghiệm đơn thuốc mà đệ để lại cho hoàng Thượng, ông ta nói rằng phương thuốc của đệ kê cho Hoàng Thượng rất tốt, chỉ cần kiên trì uống đều đặn thì bệnh tình sẽ khỏi thôi. Vậy nhưng Hoàng Thượng cứ cho rằng khi nào cảm thấy không được khỏe thì mới dùng thuốc, tỷ khuyên Hoàng Thượng thế nào cũng không nghe, khi Hoàng Thượng ở bên cạnh tỷ thì mới chịu uống thuốc, nhưng không ở bên cạnh tỷ thì phải mấy ngày mới chịu uống một lần, mặc cho tỷ có khóc lóc van xin thế nào vẫn không có tác dụng gì cả.” Chu Đức Phi nương nương ôm mặt khóc.

Đỗ Văn Hạo nghe nàng càng nói càng đi xa vấn đề, nên vội vã khuyên nhủ: “Tỷ tỷ, tỷ nói về chuyện thêm thuốc trước đã được không? Các chuyện khác chờ khi nào rảnh rỗi rồi thì tiểu đệ sẽ ngồi nghe tỷ tỷ kể tiếp!”

Chu Đức Phi nương nương nghe hắn nói vậy nhất thời hoảng hốt không nhớ ra là mình đang nói về cái gì nữa. Nàng ngơ ngác nhìn hắn nói: “Cũng chẳng có gì để nói cả, chỉ có vậy mà thôi!”

Đỗ Văn Hạo chỉ biết cười khổ lên tiếng nhắc nhở nói: “Tỷ không phải lúc nãy nói rằng Ung vương gia bảo rằng phải cho thêm vị thuốc khác vào thuốc của tiểu đệ hay sao? Câu chuyện rốt cuộc thế nào?”

“ồ.. .đúng rồi! Khi nãy đang nói về chuyện này, đúng rồi! Ngày hôm đó khi Viện Sử Trịnh Cốc khám bệnh cho Hoàng Thượng thì Ung vương cũng biết được tin này nên đến thăm nom. Nghe Trịnh Cốc nói xong liền cầm phương thuốc của đệ lên ngắm nhìn một hồi. Một lúc sau Ung vương mới nói rằng vì ông ta không hiểu gì về y thuật nên cũng không biết là phương thuốc của đệ có chữa khỏi được cho Hoàng Thượng hay không, nhưng Ung vương lại nói thêm rằng đơn thuốc của đệ dường như thiếu một vị thuốc, không cho vào thì đáng tiếc vô cùng. Hoàng Thượng vội hỏi đó là vị thuốc gì. Ung vương liền nói đó là Chu Sa.”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì thất kinh nói: “Chu Sa? Không được…! Thuốc của Hoàng Thượng tuyệt đối không được phép cho thêm Chu Sa vào!”

Chu Đức Phi nương nương nghe vậy cả kinh nói: “Thật vậy sao? Vậy nhưng đến cả Thái Y Viện Viện Sử Trịnh Cốc cũng nói rằng Ung vương nói rất hợp lý!”

“Hợp lý cái rắm, ông ta thì biết cái gì!” Đỗ Văn Hạo tức đến nổ đom đóm mắt. Cuối cùng hắn cũng đã lần ra được manh mối rồi. Hắn tức giận đứng bật người dậy nói: “Chu Sa cho vào các đơn thuốc khác thì không có vấn đề gì đáng ngại lắm! Vậy nhưng, tuyệt đối không được phép cho thêm vào đơn thuốc của Hoàng Thượng!”

“Tại sao vậy?” Chu Đức Phi nương nương lúc này đã run sợ vô cùng nói: “Chu Sa không phải là vị thuốc có thể làm tăng tuổi thọ của người ta lên sao? Hoàng Thượng cũng nói như vậy mà…!”

Thời cổ đại của Trang Quốc thì những người luyện đơn cho rằng Chu Sa có thể gia tăng tuổi thọ của con người, thậm chí còn làm cho người ta trường sinh bất lão. Chính vì vậy mà những người luyện đơn khi luyện những bài thuốc trường sinh bất lão thường hay cho thêm Chu Sa vào. Những người luyện đơn cổ xưa và những thầy thuốc thời đó đều đồng tình cho rằng Chu Sa không những vô độc mà còn là vị thuốc thượng thặng (cái này lấy trong <Thần Nông Bách Thảo Kinh>). Thậm chí còn coi Chu Sa là vị thuốc tốt nhất nhất trong các loại thuốc. Nhưng trong thực tế thì bản thân Chu Sa vốn là có độc, và thành phần của nó bao gồm Lưu Huỳnh, Thủy Ngân, khi uống vào cơ thể người thì sẽ làm cho người bị nhiễm độc từ Thủy Ngân. Tần Thủy Hoàng ngày xưa chết cũng là do uống thuốc trường sinh, tích tụ Thủy Ngân trong người nhiều quá mà chết.

Chất Lưu Huỳnh, Thủy Ngân trong Chu Sa có thể phá hoại tất cả hệ thống trong cơ thể con người, đặc biệt là các thần kinh tạo máu, thần kinh tiêu hóa và các hệ thống tuần hoàn máu, làm hư tổn lục phủ ngũ tạng bao gồm gan. thận, nội tạng. Tống thần Tông vốn đã mắc phải chứng suy thận bây giờ lại cho thêm Chu Sa vào uống thì chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa, đã bệnh rồi còn bệnh thêm.

Đỗ Văn Hạo biết rằng muốn thay đổi nhận thức, hiểu biết của người xưa về Chu Sa là không thể được, chính vì vậy mà hắn cũng chẳng buồn giải thích nhiều làm gì cho mệt, mà cho dù hắn có giải thích thế nào đi chăng nữa thì Chu Đức Phi nương nương cũng chẳng hiểu, nên liền hỏi sang chuyện khác: “Hoàng Thượng uống thuốc cho thêm Chu Sa từ bao giờ vậy?”

“Khi đệ vừa rời cung được một tháng! Đúng vào lúc Hoàng Thượng lâm bệnh thì Ung vương liền khuyên bảo như vậy. Trịnh Cốc cũng nói rằng Chu Sa không hề xung đột gì với thuốc của đệ cả. Chính vì vậy mà Hoàng Thượng mới….!”

Từ đó đến nay tính ra cũng gần một năm rồi. Đỗ Văn Hạo lẩm nhẩm tính, sau đó lại lên tiếng hỏi: “Hoàng Thượng dùng thuốc xong thì tình trạng thế nào?”

“Trông Hoàng Thượng khỏe ra có lúc còn thức qua đêm để phê duyệt tấu trình, bàn bạc những việc cơ mật đại sự, cứ như vậy cho đến sáng mà không thấy mệt mỏi gì cả!” Chu Đức Phi nương nương đáp.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy chỉ biết cười khổ bởi vì hắn biết rằng, khi sử dụng hàm lượng ít Chu Sa đúng là sẽ kích thích con người có trạng thái hưng phấn, chính vì vậy mà tinh thần sẽ vô cùng sảng khoái. Cũng chính vì điều này mà Chu Sa mới được người xưa coi là loại thuốc trường thọ. Vậy nhưng, khi dùng Chu Sa trong một thời gi­an dài sẽ làm cho hàm lượng Thủy Ngân gia tăng, tích tụ đến một mức độ nhất định sẽ làm cho người ta bị trúng độc, nguy hiểm đến tính mạng. Nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo lại hỏi: “Hoàng Thượng ngoại trừ tinh thần phấn chấn ra. thì còn có các triệu chứng gì khác không? Ví dụ như run rẩy, nói năng không rõ ràng….!”

Chu Đức Phi nương nương nghe vậy liền đáp: “Đúng rồi! Khi Hoàng Thường phát bệnh thì tay chân, cũng như nét mặt không ngừng run rẩy, nhưng sau khi uống thuốc vào thì lại hết…ý’

Các mô cơ lun rẩy là hiện tượng điển hình trúng độc thủy ngân mãn tính. Đỗ Văn Hạo nghe mà nặng trìu cõi lòng, hắn lại hỏi: “Còn gì nữa không? Ví dụ như miệng của Hoàng Thượng có mùi vị gì khác lạ không?”

“Mùi vị?” Nghe Đỗ Văn Hạo nhắc nhớ như vậy. Chu Đức Phi nương nương lập tức nhớ ra nói: “Đúng rồi, Miệng của Hoàng Thượng có mùi vị khác lạ! Cái mùi vị đó cứ như người ta vừa đưa cái thìa sắt ngậm vào trong miệng vậy… ”

Đỗ Văn Hạo hiểu ra được ý của Chu Đức Phi nương nương nói cái mùi đó ở đây chính là mùi vị của kim loại, hắn càng nghĩ càng cảm thấy ghê sợ. đây cũng là một trong những hiện tượng của trúng độc Thủy Ngân mãn tính. Chu Đức Phi nương nương ở bên cạnh Hoàng Thượng lâu ngày, lại vô cùng quan tâm đến sức khỏe của Hoàng Thượng nên mới có thể tỉ mỉ nói ra những đâu mối quan trọng như thế này. Vậy nhưng Đỗ Văn Hạo không muốn dở trò dẫn dụ nàng khai báo ra hết. Vì như vậy thì độ tin cậy không được cao lắm, chính vì thế mà chỉ hỏi những câu hỏi vô cùng đem giản: “Hoàng Thượng có những biểu hiện gì không được tốt? Tỷ cố gắng nhớ lại những hiện tượng khác thường của Hoàng Thượng giúp đệ được không?’’

Chu Đức Phi nương nương nghe vậy liền cúi đầu suy nghĩ một lúc, rồi cất giọng khàn khàn của mình nói: “Hoàng Thượng…! Đúng rồi nước miếng của Hoàng Thượng rất nhiều, có hôm khi mới tỉnh dậy thì cả cái gối của Hoàng Thượng đều ướt nhẹp! Tỷ ngày trước còn trêu đùa Hoàng Thượng lớn rồi mà chẳng khác gì trẻ con cả.”

đây cũng là một trong những hiện tượng trúng độc mãn tính Thủy Ngân gây ra. Đỗ Văn Hạo lại hỏi: “Đại tiểu tiện của Hoàng Thượng ra sao? Có gì khác thường không?”

“ừm..Hoàng Thượng khi tiểu tiện hay có vệt đỏ như máu! Hoàng Thượng cũng đã cho gọi Trịnh Cốc đến hỏi. Trịnh Cốc nói rằng Hoàng Thượng không có vấn đề gì cả. ông ta còn nói đó là hiện tượng thông thường khi sử dụng Chu Sa, bảo hiện tượng như vậy là bài tiết chất độc trong cơ thể người ra ngoài nên mới có hiện tượng như vậy!” Chu Đức Phi nương nương nói.

“Tên khốn!” Đỗ Văn Hạo không nhịn nổi liền chửi đổng một câu rồi lại nói tiếp: “Trịnh Cốc cũng là một Thái Y Viện Viện Sứ mà lại có thể hồ đồ như vậy được hay sao?”

Tuy ngoài miệng hắn chửi như vậy, nhưng trong thâm tâm Đỗ Văn Hạo cũng biết rằng người cổ xưa đúng là không nhận thức được trong Chu Sa có độc. Cho dù Trịnh Cốc có là người đứng đầu trong Thái Y Viện đi chăng nữa thì cũng không thể nào biết được trong Chu Sa lại có độc Thủy Ngân, chứ nếu không thì ông ta cũng đã không tán đồng việc Hoàng Thượng dùng thuốc rồi.

Ngoại trừ các hiện tượng này ra thì Chu Đức Phi nương nương không nghĩ ra được thêm các hiện tượng nào khác nữa cả, vậy nhưng Hoàng Thượng dùng thuốc cho thêm Chu Sa thì hoàn toàn là xác thực, cộng thêm các bằng chức khác nữa thì hắn có thể nhận định được rằng Hoàng Thượng chết vì chất độc Thủy Ngân mãn tính. Nhưng làm thế nào để chứng minh rằng cái chết của Hoàng Thượng là do chất độc Thủy Ngân gây ra. Cái này là một vấn đề khá là nan giải.

Làm thế nào mới có thể lấy được chứng cứ chứng minh cái chết của Tống Thần Tông là do độc tố của Thủy Ngân? Đỗ Văn Hạo suy đi nghĩ lại cũng chỉ có mỗi một cách, đó là giải phẫu.

Thời Bắc Tống thì không có hạn chế gì lắm về mặt giải phẫu con người, chính vì vậy mà các thành tựu trong giải phẫu người của thời này rất cao, trong đó có hai bộ sách về giải phẫu rất có tầm ảnh hưởng trong thời cổ đại đó là <Âu Hy Phạm Ngũ Tạng Đỗ> và <Tồn Chân Đỗ> xuất hiện ở thời Bắc Tống. Và<Âu hy Phạm Ngũ Tạng Đỗ> là sản phẩm do triều đình tổ chức giải phẫu có quy mô khá lớn. Khi đó triều đình xét xử năm sáu mươi tên cướp Âu Hy Phạm ở Quảng Tây. Nha Môn liền tô chức các danh y và các danh họa đến làm một cuộc đại phẫu thuật và vẽ đồ họa, bộ <Âu hy Phạm Ngũ Tạng Đỗ> được sản sinh, ra từ đó. Thời Tống Huy Tông thì trong triều cũng tổ chức khá nhiều các cuộc giải phẫu lớn nhỏ, từ đó cho ra lò <Tồn Chân Đỗ>, bộ sách này về sau trở thành điển phạm cho người hậu thế.

Cuốn <Tẩy Oan Lục> của Tống Từ (là người thời Nam Tống, được mệnh danh là ông tổ của làng Pháp Y Trung Quốc) cũng được thiết lập nên từ những cuộc giải phẫu như thế này, điều này chứng tỏ một điều rằng thời nhà Tống thì người ta không ngăn cấm việc giải phẫu thi thể người, không những vậy còn đề cao nó lên. Đỗ Văn Hạo khi lên lớp học môn Lịch Sử Y Học cũng biết về gi­ai đoạn lịch sử này. Nhưng, vấn đề của hắn bây giờ giải phẫu ở đây không phải là người bình thường, mà là Hoàng Thượng. Tống Thần Tông bây giờ đã nhập liệm rồi! Bây giờ lôi ra để giải phẫu thì không phải là chuyện đùa, giải quyết không ổn có thể dẫn tới tội chết.

Chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo thà không điều tra rõ ràng còn hơn là bị mất đầu, điều tra đến mức nào thì đến mức đó được rồi, không nên đi sâu vào trong quá như thế chẳng khác nào tự tìm cái chết cả.

Giờ đây. đêm đã về khuya. Đỗ Văn Hạo cũng đã điều tra được những thứ mà hắn cần, đúng lúc này thì có một đứa cung nữ chạy vào trong bâm báo: “Thưa tướng quân! Có thiên kim tiểu thư của Vương Tể Tướng đang đứng ở cổng hoàng cung chờ tướng quân!”

Đỗ Văn Hạo vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ nói: “Là Nhuận Tuyết cô nương? Sao nàng lại vào trong cung rồi?”

“Vương cô nương theo mẫu thân của mình vào trong này thăm Hoàng Thái Hậu!” Đứa nô tỳ đáp.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì lập tức hiểu ra vấn đề, khi nãy người ngồi trong cung nói chuyện hàn huyên với Hoàng Thái Hậu thì ra là mẹ con Nhuận Tuyết. Nghĩ tới đây trái tim của Đỗ Văn Hạo bỗng nhiên đập lên rộn ràng.

Đỗ Văn Hạo sau khi cáo từ Chu Đức Phi nương nương ra về, liền nhanh chân chạy ra khỏi tẩm cung lên kiệu hướng ra bên ngoài hoàng cung. Khi ra gần đến nơi thì từ rất xa Đỗ Văn Hạo đã trông thấy một cỗ xe sang đài các đang dựng ở trước công thành. Bên cạnh còn có mấy tên thị vệ đứng canh gác vô cùng nghiêm ngặt.

Đỗ Văn Hạo vội vàng xuống kiệu, cũng không biết cái cỗ xe đó có phải là của Vương Nhuận Tuyết hay không, nên cứ đứng ở một chỗ lấm lét nhìn. Lúc này rèm che của cỗ xe mới được vén lên. một đứa nha hoàn ló đầu ra ngoài đưa tay ra vẫy vẫv Đỗ Văn Hạo nói: “Tướng quân mỏi lại đây! Tiêu thư đang ngồi trên xe chờ tướng quân!”

Đỗ Văn Hạo thấy con nha hoàn này chính là đứa nha hoàn nghịch ngợm lần trước đã trông thấy hắn và Nhuận Tuyết đang XXX nhau, nên Đỗ Văn Hạo liền vội vàng chạy tới cúi người mỉm cười nịnh nọt nói: “Xin chào tiểu cô nương! Tiểu cô nương khỏe chứ?”

“Tướng quân quá khách khí với nô tỳ rồi! Nô tỳ làm gì mà khỏe với không khỏe cơ chứ? mời tướng quân lên xe, tiểu thư của nô tỳ có chuyện muốn nói với tướng quân!” Đứa nha hoàn lém lỉnh nói.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì lập tức vén rèm chui vào trong xe. dưới ánh đèn sáng trưng của hoàng cung trông rõ Vương Nhuận Tuyết mặc một bộ quân áo mòng như cánh ve. Trên eo của nàng có thắt một chiếc váy Yên La màu xanh. Vương Nhuận Tuyết trông xinh đẹp lạ thường đang mỉm cười nhìn Đỗ Văn Hạo đang giương to đôi mắt nhìn nàng không chớp mắt.

Vương Nhuận Tuyết lên tiếng trước: “Tướng quân! Mời ngồi!”

Không gi­an bên trong xe khá là lớn. bên dưới được phủ một tấm thảm mềm mại. Đỗ Văn Hạo nghe Nhuận Tuyết nói vậy liền khoanh chân ngồi xuống, ngượng ngùng nói: “Vương cô nương tìm ta có chuyện gì vậy?”

“ừm! Lúc nãy nghe Hoàng Thái Hậu nói Đỗ tướng quân sẽ phụ trách cảnh giới việc đưa linh cữu của Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu nhập mộ, không biết tướng quân chuẩn bị công tác canh gác ra sao?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì sững người không biết trả lời ra sao cả, hắn đúng là chưa từng đảm nhiệm những công tác an ninh có quy mô lớn như thế này bao giờ cả, chính vì vậy nên không có kinh nghiệm xem tổ chức ra sao. Hắn vốn định về gập thầm sư gia thương lượng đối sách, nhưng bây giờ nghe Vương Nhuận Tuyết hỏi vậy, bất giác thấy nàng dường như có ý gì đó, liền chắp tay lên nói: “Ta cũng đang đau đầu vì việc này đây, mong cô nương chỉ điểm giúp ta với!”

“Không dám. không dám…! chỉ là tướng quân lần đầu đảm nhận trách nhiệm nặng nề như vậy. Có những quy tắc cấm kỵ mà có lẽ tướng quân cũng không được biết. Vì vậy mà gia phụ đã bảo thiếp đến đây để dặn dò tướng quân tướng quân biết rồi thì sẽ không mắc phải lỗi gì nghiêm trọng nữa…

Đỗ Văn Hạo nghe xong mà rùng mình kinh sợ, làm dám tang cho Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu đều là những việc trọng đại, đâu phải là chuyện đùa. Mình mà làm hỏng cái gì cái thì cứ coi như là tiêu đời rồi, e rằng không bị chặt đầu thì cũng bị tù tội như chơi, nghĩ vậy hắn liền vội vã cúi người chắp tay nói: “Nếu vậy thì đa tạ Vương Tể Tướng vô cùng! Mong cô nương chỉ dạy cho ta được biết.”

Chương 394: Tuẩn Táng

Vương Nhuận Tuyết nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy liền mỉm cười đáp: “Thực ra thì tướng quân nhất mực thông minh như vậy cũng không cần đến thiếp phải nhiều lời làm gì. nhưng gia phụ vẫn cứ nằng nặc đòi thiếp đi nói cho tướng quân biết, thật thiếp cũng đành phải nghe lệnh của người vậy….

Đỗ Văn Hạo nghe vậy vội vã lên tiếng nói: “Cô nương nói quá lời rồi, Vương Tể Tướng vốn là quan chức cao nhất trong triều, dĩ nhiên là học rộng tài cao, hiểu biết nhiều thứ. Chúng ta về sau lại là người cũng một nhà, cô nương không nhắc nhở cho ta, thì lẽ nào lại muốn mắt nhắm mắt mở trông ta phạm sai lầm hay sao?”

“Tướng quân chê cười rồi! Vậy thì thiếp xin được đem những thứ mình biết ra nói cho tướng công được biết, cho tướng công còn biết bề lo liệu!” Nói xong Vương Nhuận Tuyết liền đem các quy tắc, nghi thức trong việc đưa tiễn, an táng của Hoàng Thượng ra nói cho Đỗ Văn Hạo nghe một lượt. Sau nửa canh giờ sau thì nàng mới nói cho hắn nghe hết các quy tắc đó. Đỗ Văn Hạo nghe xong thì chỉ biết mắt chữ o mồm chữ a. Không ngờ việc đưa tiễn này lại có nhiều quy tắc đến như vậy, hơn nữa trong đó còn có nhiều mặt có liên quan đến công việc cảnh giới, an ninh của hắn. Nếu như không biết những quy tắc rườm rà, rắc rối này thì e rằng nhiệm vụ lần này của hắn chắc chắn sẽ không hoàn thành tốt được, mà có khi lại còn làm hỏng việc, như thế thì thật không hay chút nào, thậm chí lại còn phạm vào tội bất kính nữa cũng nên.

Đỗ Văn Hạo nghe xong vội vã chắp tay lên đa tạ Vương Nhuận Tuyết nói: “Đa tạ Vương cô nương đã tận tình nhắc nhở, ngày mai ta sẽ ban bố lệnh cảnh giới, ta biết mình đã phải làm gì rồi!”

Vương Nhuận Tuyết nghe vậy liền đưa mắt lên nhìn hắn âu yếm rồi nói: “Tướng quân lẽ nào lại cứ thích khách khí với thiếp như vậy hay sao?”

Đỗ Văn Hạo nghe Nhuận Tuyết nói vậy nhất thời sững người một lúc. Sau đó không nói không rằng sịch mông xích gần đến bên nàng mà ôm lấy chiếc eo kiều diễm, hương thơm từ thân thể Vương Nhuận Tuyết tỏa ra ngào ngạt làm cho Đỗ Văn Hạo càng thêm ngây ngất.

Vương Nhuận Tuyết lúc này e thẹn cúi đầu ngượng ngùng, càng như vậy nàng càng trở nên đẹp đẽ và quyến rũ hơn. Đỗ Văn Hạo như lạc vào xứ sở thần tiên, cỗ xe của Vương Nhuận Tuyết đã rời khỏi hoàng cung, chiếc rèm che bên ngoài cửa xe cũng đã được đứa nha hoàn kia buông xuống rồi. Đỗ Văn Hạo liên nhẹ nhàng đặt Vương Nhuận Tuyết nằm lên trên thảm, tay của hắn không ngừng hoạt động như chim gõ kiến tìm mồi, còn Vương Nhuận Tuyết thì cứ nằm im mặc kệ cho hắn thích làm gì thì làm.

Nhưng nói cho cùng thì đây cũng đang là ở ngoài đường. Đỗ Văn Hạo cũng không dám làm liều, hắn chỉ làm đến chừng mực nhất định nào đó rồi lại thu tay về, không dám dấn vào sâu hơn nữa.

Đang trong lúc hai người tình tự nhau say đắm đê mê như vậy, thì bỗng nhiên nghe thấy tiếng của con nha hoàn bên ngoài nhắc nhở: “Thưa tướng quân, tiểu thư! Chúng ta đã đến phủ đệ của tướng quân rồi đó ạ…!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì giật mình liền vội vã dìu đỡ Vương Nhuận Tuyết ngồi dậy. Sau đó hai người chỉnh sửa lại quần áo, xong xuôi đâu đấy Đỗ Văn Hạo mới vén rèm xe bước xuống bên dưới.

Đua mắt lên tiễn cỗ xe của Vương Nhuận Tuyết xong. Đỗ Văn Hạo lẩm nhẩm hát trong miệng vui vẻ đi vào trong viện của mình, mấy đứa hộ vệ thấy hắn đi vào trong phủ rồi mới bắt đầu giải tán.

Anh Tử lúc này thấy Đỗ Văn Hạo đã về liền tiến gần tới nhăn mặt lên nói: “Thiếu gia! Nhị phu nhân bao giờ định về đây vậy?”

Chuyện Bàng Vũ Cẩm đi dạm ngõ ăn hỏi cho Đỗ Văn Hạo đã được mọi người trong nhà biết hết rồi, chính vì vậy mà khi nghe Anh Tử hỏi vậy Đỗ Văn Hạo liền buông thõng một câu: “Cũng nhanh thôi! Ngươi thấy nhị phu nhân là người thế nào?”

“Nghe nói nhị phu nhân là kinh thành đệ nhất mỹ nữ, không những vậy lại là con nhà dòng dõi, quý tộc hiển hách, chắc chắn là người hiểu biết lễ nghĩa, đoan trang hiền thục, thiếu gia đã chọn thì làm sao mà có thể sai được cơ chứ?” Anh Tử chua ngoa nói.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đưa tay lên bẹo vào má của Anh Tử nói: “Con nhóc này biết ăn nói gớm nhỉ! Không sai, cho dù ta cưới nhị phu nhân có phân ngẫu nhiên nhưng không bao giờ ta chọn sai người cả, người ta còn giúp đỡ mình rất nhiều nữa!”

“Được vậy thì tốt, hy vọng là thiếu gia đừng cưới một cái bình hoa di động về là được rồi!” Anh Tử hậm hực nói.

“Làm gì có chuyện đó, à đúng rồi! Phi Nhi và mấy người kia có ý kiến gì không vậy?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

“Làm gì có ai dám có ý kiến gì cơ chứ. Thiếu gia là chủ của cả cái nhà này, lại là một tướng quân oai phong lẫm liệt! thiếu gia cứ cưới hết người này đến người khác bọn họ cho dù không thích nhưng có ai dám mở miệng phản đối câu nào!” Anh Tử rất không cam tâm uất ức thay cho mấy vị phu nhân trong nhà.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền dừng chân quay sang nhìn Anh Tử với con mắt ngạc nhiên rồi nói: “Ngươi nói cái gì thế hả? Sao ngươi dám nói ta là cưới hết người này đến người khác hả? Vũ Cầm là nguyên phối của ta! Liên Nhi là do Trần Mỹ Nhân ban tặng cho ta, ta không thể nào từ chối được! Tuyết Phi Nhi là người con gái đầu tiên đối xử tốt với ta, lại còn một lòng một dạ theo ta nữa, ta không lấy Phi Nhi thì còn mặt mũi nào đi nhìn người khác nữa. Lương tâm ta cũng bị cắn rứt mà chết! Còn Thanh Đại thì lại càng khỏi phải nói! Thanh Đại đã thu nạp ta, chăm sóc cho ta, ta cũng mới chỉ có một thê ba thiếp, làm gì có chuyện gặp ai cũng lấy về hả?”

Anh Tử nghe vậy liền cười nhạt nỏi: “Bây giờ thêm một Vương cô nương nữa là hai thê ba thiếp rồi còn gì nữa! ”

“Thế thì đã làm sao chứ hả? Người ta ba thê bốn thiếp đầy rẫy kia kìa, ta vẫn còn thiếu hai người nữa cơ!” Đỗ Văn Hạo phùng mồm trợn má nói một cách vô sì.

“Thiếu gia vẫn còn trẻ. Quãng đời còn rất dài. Những cô nương xinh đẹp như Vương cô nương thì rất nhiều, nếu như ai cũng đối xử tốt với thiếu gia, cũng giúp thiếu gia này nọ thì lẽ nào thiếu gia cũng lấy họ về hay sao? Hơn nữa, trong nhà chúng ta lúc này vẫn còn Kha cô nương đang ngồi chờ nữa kia kìa!” Anh Tử nói.

“Kha Nghiêu là em gái ta, ta nói là ta không lấy rồi!” Đỗ Văn Hạo nói đến đây thì thần sắc của hắn trở nên nham hiểm, dâm tà và đê tiện nhìn vào Anh Tử nói: “Còn với ngươi hả? Tuy là nha hoàn nhưng ta vẫn chấp nhận được…

Anh Tử nghe vậy tức đến đỏ hết cả mặt, dậm chân thình thịch nói: “Thiếu gia đừng quá đáng như thế! Đừng đem người ta ra đùa cợt như vậy!”

“Ai đùa với ngươi chứ hả!” Đỗ Văn Hạo nói xong liền liếc nhìn thân hình của Anh Tử. Bỗng nhiên nhớ tới lần hắn chẳng may nhìn trộm thấy thân thể của nàng qua khe tường, bất giác trong lòng sôi lên, ngó nghiêng trước sau không thấy có người liền choàng tay ôm lấy eo của Anh Tử, bẹo vào mông nàng một cái rồi nói: “Con nhóc này! chỉ cần ngươi mang bầu sinh cho ta em bé, bất luận là gái hay trai, ta vẫn sẽ nạp người làm thiếp, được không hả?”

Anh Tử nghe vậy thì vừa mừng vừa xấu hổ cúi đầu nói: “thiếu gia sao cứ thích đùa cợt người khác nhưvậy, thiếu gia có bao nhiều là phu nhân đấy rồi còn gì nữa Làm sao lại để ý đến một đứa thân phận nha hoàn như nô tỳ! ”

“Nàng không phải nha hoàn, nàng là một người rất biết thương yêu chăm sóc người khác! Nàng cứ yên tâm, ta cũng không phải là người lăng nhăng, cũng chẳng bao giờ có chuyện gặp ai là cưới người đó ngay được! Ta chỉ cần có nhị thê bốn thiếp cũng đã mãn nguyện lắm rồi! Vậy nhưng, nàng phải sinh, cho ta một em bé trước mới được, phu nhân của nàng vừa mới mang bầu đã lại mất rồi, còn mấy người kia thì lại chả thấy có động tĩnh gì cả. Nếu như nàng là người đầu tiên sinh nở cho ta, thì nàng đã lập được công to rồi đấy!…!”

Anh Tử nghe xong ngại ngùng cúi đầu giọng nói nhẹ như tơ hồng: “Chuyện này thì người ta làm sao một người có thể làm được cơ chứ?”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì như mở cờ trong bụng, hắn đưa tay ra ôm ngay lấy người Anh Tử nói: “Hay là đêm nay nàng đến ngủ với ta!”

Anh Tử nghe xong kinh hãi xua tay lên nói: “Không không được đâu thưa thiếu gia. Hôm nay đến lượt phu nhân, nô tỳ không dám!”

Đỗ Văn Hạo trông bộ dạng vừa mừng vừa xấu hổ lại vừa hoảng loạn của Anh Tử thì không cầm được muốn hôn lên đôi môi nàng, bỗng nhiên lúc này có tiếng nói từ trong phòng vọng ra: “Tướng công mới về rồi đó hả?” Đỗ Văn Hạo nhận ra giọng nói đó là của Bàng Vũ Cầm. Hắn liền không hề chậm trễ buông luôn Anh Tử ra.

Anh Tử thấy vậy liền nhìn hắn với ánh mắt tinh nghịch sau đó nhẩy cẫng lên đi vào bên trong. Bàng Vũ Cầm lúc này đã vén rèm bước ra ngoài nhìn Đỗ Văn Hạo mỉm cười.

Đỗ Văn Hạo hắng lên một tiếng rồi nói: “ừm… Cái này… trong nhà chúng ta nha hoàn có vẻ hơi bị ít. Ngày mai ta ra ngoài kia kiếm vài đứa về làm. Nếu không cả cái phủ này chỉ có mỗi Anh Tử lo liệu thì đúng là cũng có phần khổ thân nó!”

Bàng Vũ Cầm nghe vậy liền gật đầu tán đồng nói: “Vâng! Mấy ngày nữa thiếp sẽ ra ngoài kiếm!”

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Ba ngày sau thì linh cữu của Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu sẽ được đưa đi an táng, ta mấy ngày nữa chắc chắn sẽ rất bận, phải phụ trách tình hình an ninh, cảnh giới, các việc trong nhà nàng lo liệu giúp ta nhé!”

Bàng Vũ Cầm gật đầu đáp: “Tướng công cứ việc an tâm! Trong nhà thì làm gì có việc gì to tát đâu. Ngoài tiệm thì đã có Tiền Bất Thu lo hết cả rồi. hơn nữa cũng đã nhận thêm mấy vị đại phu nữa rồi, không đến nỗi bận bịu cho lắm…! ”

“ừm..! Chuyện ba ngày tiễn đưa tới này chúng ta phải ăn chay đấy. Nàng đừng quên nhắc nhở mọi người, còn nữa! Nàng và Thanh Đại hai người được lệnh đi theo an táng Thái Hoàng Thái Hậu đấy, đừng quên!”

“Thiếp nhớ rồi. Tướng công cứ an tâm!” Bàng Vũ Cầm đáp.

Hai người sau đó nói chuyện thêm một lúc rồi mới đi lau rửa rồi lên giường đi ngủ. Nằm trên giường lúc này Đỗ Văn Hạo lại cảm thấy bất an, cứ nghĩ mãi về chuyện khi trước nói với Anh Tử, đúng vậy, mình mới chỉ hơn hai mươi tuổi mà đã có nhiều phu nhân như vậy. Cuộc đời của mình vẫn còn dài. Nếu như gặp ai mà cũng lấy họ về thì đúng là quá đáng quá thể quá. Mình phải có một nguyên tắc, một chuẩn mực nhất định mới được, nếu không về sau trong nhà toàn là đàn bà phụ nữ với nhau, khi đó có khi lại thành tai họa.

Ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo đến Điện Tiền Ti. Thời hạn cho hắn làm công tác chuẩn bị cảnh giới chỉ còn có hai ngày nữa thôi. Hắn phải hoàn tất nhiệm vụ, sắp xếp công việc chu đáo trước khi lễ an táng được cử hành. Đông Kinh cách Hoàng Lăng tạià Nam (Lăng mộ của vua chúa, công tôn) cũng đến cả trăm dặm. Trong vòng ba ngày hắn phải chuẩn bị xong công tác an ninh từ đây tới đó thật chu đáo. Chính vì vậy mà công việc vô cùng gấp gáp, không thể nào bê trễ thêm được nữa.

Đỗ Văn Hạo liền điều các chức từ Ngu Hầu trở lên đến các cấp tướng lĩnh trong Tam Nha triệu tập hết cả lại. Sau đó tuyên bố quyết định của Hoàng Thái Hậu, rồi đưa bản đồ từ Kinh Thành đến Vĩnh Dụ Lăng (nơi an táng) để phân bố sắp xệp nhiệm vụ cảnh giới. Không những vậy Đỗ Văn Hạo còn làm theo đúng như những lời chỉ dẫn của Vương Nhuận Tuyết, bố trí những kế hoạch phòng chống thích đáng.

Sau khi nghiên cứu nên sắp xếp công tác an ninh ra sao, binh lực điều động thế nào. Đỗ Văn Hạo liền kéo thêm Ngự Lâm Quân đích thân đi thăm dò tình hình anh ninh trên đường từ kinh thành đến Vĩnh Dụ Lăng, không những vậy hắn còn kiểm tra cả những điều cấm kỵ nên xử lý ra sao.

Ngày hôm đó Đỗ Văn Hạo dẫn dám Ngự Lâm quân đến Vĩnh Dụ Lăng thăm dò tình hình bố trí an ninh ở đây ra sao vì nơi đây rất quan trọng, nên hắn và đám Ngự Lâm Quân bận tối mắt tối mũi đến tận đêm khuya.

Đỗ Văn Hạo chỉ chợp mắt có hai canh giờ. Sau đó hắn lại thức dậy. Trời vẫn còn chưa sáng tỏ Đỗ Văn Hạo đã lại lặn lội cũng đội Ngự Lâm Quân quay ngược về xem tình hình an ninh sắp xếp ra sao. Đến tận chiều tối hắn mới về tới kinh thành.

Khi vừa mới tới cổng của hoàng cung thì đội quân của hắn bị chặn lại. Đội trưởng hộ vệ Hứa Hoa Cường vội vã chạy tới bẩm báo với hắn. Nói rằng có mẫu thân và thê tử của Ngụy Triển đến tìm hắn. Cả hai đang dập đầu lạy tạ cầu xin hắn cứu mạng Ngụy Triển.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cau mày lại, thầm nghĩ mình không phải là đang điều tra đây hay sao, hai người này làm gì mà nóng vội thế. Nghĩ vậy liền cho người ra gọi hai người đó lại.

Qủa nhiên đúng là hai người đó. Cả hai vừa tới nơi đã lại quỳ rạp luôn xuống đất ôm mặt gào khóc, dập đầu xuống đất kêu cỗm cộp cầu xin Đỗ Văn Hạo cứu mạng.

Đỗ Văn Hạo nói: “Ta bây giờ đang lo vụ án này! Hai người cứ quay về kiên nhẫn chờ đợi một thời gi­an đi đã!”

“Không thể nào đợi được nữa rồi thưa tướng quân!” Mẫu thân của Ngụy Triển lúc này dường như nằm liệt dưới đất khóc lóc thảm thương: “Bọn họ ngày mai sẽ đem con trai của dân phụ ra hành quyết rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì kinh ngạc vô cùng nói: “Phu nhân nói cái gì cơ? Ai nói với phu nhân như vậy?”

thê tử của Ngụy Triển lúc này liền lên tiếng giải thích: “Trưa ngày hôm nay có hai vị sai dịch trong Nha Môn đến thông báo nói rằng trưa ngày mai dân phụ đến pháp trường thu nhận thi thể!”

Đỗ Văn Hạo lại hỏi rõ xem rốt cuộc đây là lệnh của ai, nhưng cả hai người đều nói không biết, sau đó lại ôm mặt khóc lóc, cầu xin Đỗ Văn Hạo mở lòng từ bi mà ra tay cứu giúp.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền nói: “Việc này ta vẫn còn chưa được biết, được rồi ta sẽ vào cung hỏi ngay bây giờ đây! Hai người cứ về nghỉ ngơi trước đi, ta sẽ xử lý việc này giúp cho!”

Hai người nghe vậy lại lạy tạ ân đức của Đỗ Văn Hạo. sau đó mới chịu đứng dậy ra về. Đỗ Văn Hạo ngay lập tức dẫn người đi vào trong hoàng cung, hắn là Đô Chỉ Huy Sứ của Tam Nha trong đó còn phụ trách cả an ninh trong hoàng cung, chính vì vậy mà ra vào hoàng cung dễ như đi chợ.

Đỗ Văn Hạo liền chạy thẳng tới tẩm cung tìm Hoàng Thái Hậu, rồi đem chuyện này kể cho bà nghe, không ngờ Hoàng Thái Hậu không hề tỏ ra kinh ngạc chút nào chỉ chậm rãi nói: “Việc này đều là do các vương công đại thần trong triều muốn vậy. Ai gia cũng đã đồng ý rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong mà kinh hãi vô cùng, hắn hoa mày chóng mặt không hiểu chuyện gì đang xảy ra nữa, vội vã hỏi lại: “đây có phải là chủ ý của Tể Tướng Thái Xác không ạ?”

Hoàng Thái Hậu có phần kinh ngạc gật đầu nói: “ừm…! Cũng không hẳn là chủ ý của ông ta, có rất nhiều vương công đại thần đều tán đồng!”

Đỗ Văn Hạo hoảng sợ nôn nóng nói: “Bẩm Hoàng Thái Hậu! Vi thần đang điều tra về vụ án này, sự tình chưa được điều tra rõ ràng thì không được phép chém Ngụy Triển, nếu như chém rồi mà vụ án có sai lầm thì ta sẽ không lật lại được nữa đâu!”

“Có lẽ là trong vụ án này có nhiều điểm nghi ngờ, nhưng bất kể cái gì đi chàng nữa thì Ngụy Triển hôm đó đúng là đã không làm tròn bổn phận của mình, ông ta không cứu chữa được cho Hoàng Thượng, đây là sự thật, chỉ riêng với điểm này thôi thì ông ta đáng bị chém để cúng tế cho Hoàng Thượng rồi!” Hoàng Thái Hậu nói.

Đỗ Văn Hạo nghe mà muốn nổ tung đầu: “Giết Ngụy Triển để cúng tế cho Hoàng Thượng?”

“Đúng vậy! Các nhà chiêm tỉnh đã bói quẻ xong hết cả rồi. Bọn họ nói rằng Hoàng Thượng chết oan nên linh hồnđược siêu thoát, cần máu của kẻ thù để cúng tế an táng!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong mà tức đến hộc máu mồm, mặc dù ở thời nhà Tống đã văn minh hơn thời Xuân Thu chiến Quốc rất nhiều rồi, nhưng vẫn còn rất ngu muội và rất lạc hậu. Hình phạt lăng trì tàn khốc cũng do đây mà ra cả. Đỗ Văn Hạo trong bụng tuy là vô cùng căm phẫn, nhưng lại không dám phê phán cái chế độ cúng tế như thế này. Vì dù sao thì đây cũng là thời đại cũ, thời đại phong kiến lạc hậu. Nghĩ vậy liền cúi người nói: “Nếu như Ngụy Triển mà chết thì vụ án không thể nào điều tra tiếp được nữa! ”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy liền nói: “Cũng chẳng sao cả. Vụ án này ngươi điều tra tiếp cũng chẳng sao, mà chẳng điều tra ra cái gì cũng chẳng có gì, vì người dù sao cũng đã chết rồi!” Hoàng Thái Hậu nói đến đây liền ngập ngừng giây lát, giọng nói thêm phần bi thương: “Nếu như ngươi điều tra ra Ngụy Triển là oan ức, thì ai gia sẽ bù đắp tổn thương cho gia đình nhà ông ấy vậy! Ta cũng chẳng biết sao nữa, thôi thì đành xin lỗi ông ta vậy, cứ để ông ta ở bên cạnh hầu hạ Hoàng Thượng cũng được!”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì cũng hiểu ra vấn đề, ý của Hoàng Thái Hậu đã rõ ràng, đó chính là bắt Ngụy Triển phải hy sinh trong vụ cúng tế lần này. cho dù có giết nhầm đi chăng nữa, thì lời nói, mệnh lệnh cũng đã ban bố rồi vua muốn thần chết thì thần bắt buộc phải chết, những điển tích như vậy trong lịch sử xuất hiện quá nhiều rồi.

Hoàng Thái Hậu thấy Đỗ Văn Hạo vẫn ngẩn người ra như vậy liền tiếp tục nói: “vẫn còn một chuyện nữa! Ngươi có lẽ cũng không biết, đó là ai gia đã hạ chỉ cho mấy vị phi tần mà Hoàng Thượng sủng ái tự tiện theo Hoàng Thượng rồi. Trong đó bao gồm Trần Mỹ Nhân, còn có cả Dụ Cáp Nhi nữa…

Đỗ Văn Hạo nghe mà chẳng hiểu cái từ tự tiện ở đây có nghĩa là gì nữa, hắn đưa mắt lên nhìn Hoàng Thái Hậu, nhưng lại không dám mở miệng ra hỏi.

Hoàng Thái Hậu dường như cũng nhận ra được rằng Đỗ Văn Hạo đang không hiểu mình nói cái gì, liền cười lên chua chát nói: “Đây là ý của Thái Hoàng Thái Hậu. Thái Hoàng Thái Hậu lúc còn sống đã nói với ai gía rằng, Hoàng Thượng đặc biệt yêu thương Trần Mỹ Nhân và Dụ Cáp Nhi, chính vì vậy mà khi Hoàng Thượng quy tiên sẽ cho cả hai người bọn họ đi cũng để hầu hạ Hoàng Thượng…!”

Đỗ Văn Hạo bây giờ đã nghe hiểu rồi, và hắn dĩ nhiên là nghe những lời này như sấm đánh ngang tai, lắp ba lắp bắp nói: “Ý của Hoàng Thái Hậu là…. là muốn… là muốn Trần … .Trần Mỹ Nhân với Dụ Cáp … Cáp Nhi đi theo cũng Hoàng Thượng lên tiên cảnh…?”

Hoàng Thái Hậu nhẹ nhàng gật đầu nói: “Đây là ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu! Ai gia cũng đã cho người đi đón Trần Mỹ Nhân quay về cung rồi, giờ tý đêm nay Tiêu công công phải lo cho xong chuyện này..!”

Tiêu công công đứng ở bên cạnh đó nghe vậy liền cúi người đáp: “Lão nô đã chuẩn bị đâu vào đấy cả rồi, xin nương nương cứ an tâm!”

Cho dù sau đời nhà Hán, thì tục lệ tuẫn táng (đua người sống chôn cũng với người chết, gọi là tế lễ, người chết bình thường quý những ai, yêu ai nhất khi chết rồi thì cho dù là người kia vẫn còn sống thì vẫn bị chôn cũng với người chết, cái này gọi là tuẫn táng) đã bị phế trừ rồi, nhưng trong các triều đại thì vẫn tổ chức cái tục lệ đã man này, đời nhà Tống cũng như vậy, chính vì vậy mà trong quyển sách <Tống Sử> có đề cập tới vấn đề này, ví dụ như Tống Cao Tông trước lúc chết rất yêu quý Tài Nhân Lý Thị, Vương Thị chính vì vậy mà Hoàng Hậu khi đó rất lấy làm ghen ghét, khi Tống Cao Tông băng hà thì Tống Hiếu Tông vô cùng hiếu thuận đã đem Lý Thị và Vương Thị đi tuẫn táng cũng với Tống Cao Tông.

Đỗ Văn Hạo không ngờ đợt vượt thời gi­an quay về quá khứ lần này lại được tận mắt chứng kiến cái cảnh tuẫn táng này, hắn không biết nên nói thế nào. Nếu như là Ngụy Triển bị tuẫn táng thì nói cho cũng là ông ta cũng đã lơ là trong việc chăm sóc Hoàng Thượng, nên có thể miễn cưỡng hiểu được. Nhưng để cho các phi tần của Hoàng Thượng tuẫn táng thì rất khó mà có thể giải thích được. Đỗ Văn Hạo tức giận đến cũng cực, phẫn nộ tới cực điểm. Hắn nắm chặt lấy thành ghế như muốn bóp nát nó thành trăm mảnh vậy.

Hoàng Thái Hậu dường như cũng nhìn ra được ý nghĩ trong đầu của Đỗ Văn Hạo. Bà chỉ thở dài ra một tiếng rồi phất tay lên ra hiệu. Tiêu công công đứng cạnh đó hiểu ý liền đưa tất cả các cung nữ và thái giám cũng với mình ra hết bên ngoài rồi khép cửa lại cho Hoàng Thái Hậu với Đỗ Văn Hạo được một mình ở trong này.

Hoàng Thái Hậu sau khi thấy mọi người đã đi hết liền lên tiếng nhẹ nhàng nói: “Văn Hạo, chàng lại đây…!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền ngập ngừng giây lát mới đứng dậy, lầm lầm lũi lũi bước tới chiếc sạp mềm của Hoàng Thái Hậu ngồi xuống bên cạnh, nhưng vẫn còn cách một đoạn.

“Sao vậy? Không vui sao?” Hoàng Thái Hậu hỏi.

“Vi thần không dám!”Đỗ Văn Hạo hậm hực đáp.

Hoàng Thái Hậu kinh ngạc đưa mắt lên nhìn hắn, rồi bà tự động nhích gần đến bên hắn, đưa tay lên nắm lấy tay của hắn rồi nhìn âu yếm nói: “Ta đưa Ngụy Triển, Trần Mỹ Nhân và Dụ Cáp Nhi đi tuẫn táng cũng với Hoàng Thượng nên chàng mới không vui phải không?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cố gắng nở một nụ cười gượng gạo. Nhưng hắn không thể nào cười nổi, cố gắng lắm vẫn chỉ cười khô đáp: “Làm sao mà có thể trách nàng được, nàng đã quyết định rồi ta chỉ biết phục tùng mà thôi, nàng là vua còn ta chỉ là thần mà thôi…!”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì buồn buồn nói: “Ta cũng biết làm như vậy là không tốt. Vậy nhưng các vương công đại thần ở trong triều đều nói như vậy. Người ra quẻ bói toán tế lễ cũng không sai. Chúng ta phải nghe theo ý trời, ta cũng không còn cách nào khác cả!”

“Nếu như vẫn muốn tuẫn táng thì tại sao không thay bằng mấy tên tử tù có phải hơn không?” Đỗ Văn Hạo cố gắng giải thích.

Hoàng Thái Hậu nghe vậy mỉm cười nói: “Xem chàng nói kìa. Những người tuẫn táng thì toàn là người đi hầu hạ Hoàng Thượng cả. Đưa tử tù đi tuẫn táng cũng Hoàng Thượng, cái chủ ý như vậy mà chàng cũng nói ra được sao?”

“Vậy thì tại sao cứ phải là Ngụy Triển? ông ta tuẫn táng rồi thì sao? Có thể xem bệnh cho Hoàng Thượng ư? Hơn nữa Hoàng Thượng lần này băng hà đã có nhiều điểm khả nghi! Nếu như giết Ngụy Triển thì vụ án này đành bỏ dở giữa chừng thôi, chứ biết làm sao!” Đỗ Văn Hạo không cam tâm nói.

“Ta đã nói rồi. nếu đúng là ông ta oan ức thì ta sẽ bù đắp cho gia đình ông ấy. Hơn nữa ông ta lần này đúng là đã thất chức, không làm tròn bổn phận, ông ấy phải trả giá!” Hoàng Thái Hậu nghiêm giọng nói.

“Vậy Dụ Cáp Nhi và Trần Mỹ Nhân thì sao? Bọn họ làm gì có tội tình gì đâu?” Đỗ Văn Hạo nhăn mặt nói.

“Trần Mỹ Nhân dĩ nhiên là có tội rồi, nó làm loạn nơi hậu cung đáng phải chịu tội chết, chẳng qua là Hoàng Thái Hậu quá đỗi nhân từ nên đã tha cho nó. Nó sớm đã đáng chết rồi, bây giờ đưa nó đi tuẫn táng là cả một vinh dự cho nó rồi! Hơn nữa, Hoàng Thượng yêu thương nó như vậy, đưa nó tuẫn táng cũng lẽ nào không tốt hay sao?” Hoàng Thái Hậu đanh mặt lại nói.

“Vậy còn Dụ Cáp Nhi thì sao? Dụ Cáp Nhi làm gì có tội tình gì?” Đỗ Văn Hạo nói.

Hoàng Thái Hậu nghe hắn nói vậy thì buồn bã, giọng của bà như sắp khóc thấp giọng nói: “Ta cũng biết là Dụ Cáp Nhi không có tội gì, nhưng Hoàng Thượng rất yêu quý Dụ Cáp Nhi, và nó cũng rất quý và nghe lờ Hoàng Thượng! Ta ngày nào cũng nằm mơ thấy Hoàng Thượng nói ta rằng Hoàng Thượng ở cõi âm một mình lẻ loi cô đơn, ta tỉnh lại khóc hết cả nước mắt. Để Dụ Cáp Nhi xuống cõi âm nói chuyện với Hoàng Thượng cho Hoàng Thượng đỡ buồn!”

Đỗ Văn Hạo nghe giọng nói của Hoàng Thái Hậu như sắp khóc thì cũng cảm thấy lòng đau như cắt. Hắn thở dài một tiếng rồi vòng tay ôm lấy eo của Hoàng Thái Hậu, ấp bà ta vào trong lòng của mình rồi nói: “Ta biết, ta biết nàng là một người rất lương thiện. Hoàng Thượng mất rồi nên nàng rất buồn, nỗi buồn của nàng ta rất hiểu! ”

Lời nói của hắn càng làm cho Hoàng Thái Hậu buồn hơn. Bà gục vào ngực của Đỗ Văn Hạo khóc lên hu hu.

Đỗ Văn Hạo lại vuốt vuốt mái tóc của bà nhẹ nhàng hôn lên trán Hoàng Thái Hậu một cái rồi nói: “Ta biết tất cả những thứ này đều là do Thái Hoàng Thái Hậu và các vị vương công đại thần trong triều sắp đặt cả. Đó cũng không phải là ý nguyện của nàng, đúng không?”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy liền ngước mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Ta làm như vậy có tàn nhẫn quá không?”

Đỗ Văn Hạo nhìn vào gương mật đẫm lệ của Hoàng Thái Hậu liền đưa môi mình lên hôn bà ta một cái. Hoàng Thái Hậu cũng hưởng ứng lại bá lấy cổ của hắn hôn lấy hôn để, vừa hôn vừa khóc.

Chương 395: Ôn NHu Kế

Đỗ Văn Hạo ôm chặt lấy Hoàng Thái Hậu hôn một cách nồng nhiệt hơn. Lưỡi của hắn như một con rắn luôn lách trong miệng của Hoàng Thái Hậu. sau đó cái miệng của hắn dần lân la lên mắt, rồi ra dái tai của Hoàng Thái Hậu rồi thì thầm nói vào tai của bà: “Thao Thao (tên gọi thân mật của Hoàng Thái Hậu, và chỉ có Đỗ Văn Hạo mới được phép gọi như vậy)! Nàng có biết đến chuyện kết cỏ báo ân không?”

Hoàng Thái Hậu khẽ lắc đầu tỏ vẻ không biết.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy lại hôn lên gương mặt xinh đẹp của Hoàng Thái Hậu nói: “Thời Xuân Thu, người ta rất thịnh hành tuẫn táng, khi đó đại phu của nước Tấn là Ngụy Võ Tử rất yêu quý một tiểu thiếp của ông ta. Sau đó ông ta bỗng nhiên mắc bệnh nặng, biết mình sẽ không qua khỏi. Trong thâm tâm của ông vẫn vô cùng luyến tiếc vị tiểu thiếp đó của mình, thế là ông liền dặn dò con trai của mình là Ngụy Khỏa rằng sau khi ông qua đời thì hãy đem người tiểu thiếp này gả cho người khác, sau đó trong lúc bệnh nặng sắp chết Ngụy Võ Tử đột nhiên thay đổi ý định của mình, dặn dò con trai của mình rằng ông ta chết rồi thì phải đem người tiểu thiếp kia tuẫn táng cũng với mình, nói xong thì ông ta tắt thở mà chết. Sau khi Ngụy Võ Tử chết rồi thì Ngụy Khỏa cho rằng ông trước lúc chết ăn nói hồ đồ, nên làm theo lời dặn dò khi ông ta vẫn còn tỉnh táo. Thế là Ngụy Khỏa không tuẫn táng vị tiểu thiếp kia cùng với cha của mình, mà đem nàng đi gả cho người khác!”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy liền ngước mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo, ánh mắt sáng lên nói: “Ngụy Khỏa quả là một người tốt!”

“Đúng vậy! Và người tốt thì luôn gặp được điều tốt lành. Ngụy Khỏa là đại tướng của nước Tấn, sau đó trong một trận đại chiến với nước Tần, Ngụy Khỏa bị đại tướng của nước Tần là Đỗ Hồi truy sát. Lúc đó bỗng nhiên xuất hiện một bà lão. Bà lão đó ngồi ở ven đường kết những ngọn cỏ lại với nhau thành cái bẫy chuyên để ngáng vó ngựa, quả nhiên ngựa của đại tướng Đỗ Hồi bị mắc vào bẫy. Đỗ Hồi mất vó ngã nhào xuống ngựa. Ngụy Khỏa không những bảo toàn được tính mạng, mà còn bắt sống được đại tướng của nước Tần là Đỗ Hồi nữa. Khi trận chiến kết thúc, thì Ngụy Khỏa nằm mơ thấy bà lão kia. Bà lão đó nói với Ngụy Khỏa rằng. Bà lão vốn là tiểu thiếp khi xưa của Ngụy Võ Tử, bà lão ngồi bên vệ đường kết cỏ cứu Ngụy Khỏa là muốn báo đáp công ơn của Ngụy Khỏa đã không đưa bà tuẫn táng cũng với Ngụy Võ Tử. Đây chính là câu chuyện kết cỏ báo ân!” Đỗ Văn Hạo kể.

Hoàng Thái Hậu nghe xong liền ngước nhìn Đỗ Văn Hạo. Một lúc sau mới lên tiếng nói: “Văn Hạo! Ta đã hiểu ý của chàng khi kể cho ta nghe câu chuyện này rồi, vậy nhưng tình hình hiện giờ không giống trong câu chuyện của chàng vừa kể chút nào. Ngụy Võ Tử về sau bắt tiểu thiếp tuẫn táng cũng mình là lúc bệnh nguy, thần trí hỗn loạn nói thế. Nên không thể nào coi là đúng được! Vậy nhưng Thái Hoàng Thái Hậu đã dặn dò rõ ràng ta việc này lắm rồi! Thái Hoàng Thái Hậu khi đó nói rất trang trọng, người cũng không hề phát bệnh, thậm chí vô cùng tỉnh táo. Hơn nữa cũng chỉ nói có mỗi một lần đó thôi, ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu ta không thể nào không tuân theo được! ”

“Vậy nhưng, ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu đã đi ngược lại với luân thường đạo lý rồi! Đưa người sống ra tuẫn táng cũng với người chết, nàng nghĩ xem người bị tuẫn táng và người nhà của người ta sẽ nghĩ gì, họ cảm thấy thế nào đây?” Đỗ Văn Hạo hỏi lại.

Gương mặt của Hoàng Thái Hậu nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì thất sắc ảm đạm, nhưng bà vẫn thấp giọng nói: “Xin lỗi Văn Hạo! đây là ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu, ta chỉ có thể làm theo ý của người được thôi! Chàng hãy tha thứ cho ta, việc này ta không thể nào nghe theo chàng được!”

Đỗ Văn nghe Hoàng Thái Hậu nói vậy thì chỉ biết trơ mắt ếch ra không biết nói thêm gì nữa. hắn biết tính tình của Hoàng Thái Hậu tuy rất yếu mềm, nhưng lại là người rất quy tắc, không nhún bước trước cường quyền, nên hắn nghĩ chỉ có thể dùng đầu óc để dụ dỗ bà được thôi. Nghĩ vậy, hắn liền chỉnh sửa lại mái tóc của Hoàng Thái Hậu, dịu dàng nói: “Thao Thao! Nàng cả tháng nay đã vất vả lắm rồi, trông nàng gầy đi thấy rõ!”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy mỉm cười nói: “cũng chẳng có gì cả đâu! Cũng may mà chàng đã kịp thời phát hiện mấy người bọn nó gươm giáo gặp nhau rồi kịp thời ngăn chặn lại nếu không thì hậu quả vô cùng nghiêm trọng!”

“Chờ cho mọi việc xong rồi. Việc kế vị Hoàng Đế ổn thỏa, thuận lợi xong đâu đấy, ta sẽ đưa nàng đi nghỉ ở một nơi thanh tịnh để tĩnh dưỡng vài hôm. nàng thấy có được không?” Đỗ Văn Hạo ngọt ngào nói.

Hoàng Thái Hậu nghe vậy mừng rỡ đáp: “Thật không?’’

“ừm!” Đỗ Văn Hạo nói xong lại cúi xuống hôn lấy đôi môi của Hoàng Thái Hậu. Sau đó đặt bà nằm ngửa xuống chiếc sạp mềm, tiếp tục hôn lên khắp khuôn mặt Hoàng Thái Hậu, và ngày càng mãnh liệt hơn, sau đó hắn nhẹ nhàng cỏi nút áo của Hoàng Thái Hậu, rồi hôn lên bộ tuyết lê của bà, hắn rất khéo léo gọi lên ngọn lửa dục vọng của Hoàng Thái Hậu. Mặc dù Hoàng Thái Hậu đang thở dốc khó khăn, nhưng bà vẫn nắm chặt lấy tay của Đỗ Văn Hạo cầu xin: “Văn Hạo đừng! Bây giờ chưa được!”

“Vậy thì bao giờ mới được vậy? Ta muốn nàng…!” Đỗ Văn Hạo hôn lên tai của Hoàng Thái Hậu không ngừng thầm thì bên tai của bà.

Hoàng Thái Hậu hôn lấy Đỗ Văn Hạo nói: “Chờ.. .chờ cho ta mãn hạn tang đã!”

“Bao lâu?”

“Ba năm! Ta phải chịu tang Thái Hoàng Thái Hậu, phải đợi ba năm nữa!” Hoàng Thái Hậu đáp.

“Không được! Ta không thể đợi lâu thế được, chờ cho việc an táng này xong xuôi hết cả rồi, ta muốn có được nàng!”Đỗ Văn Hạo nói xong lại bóp lên bộ ngực của Hoàng Thái Hậu.

Hoàng Thái Hậu bỗng nhiên nghe thấy hai từ an táng, thì đầu óc vốn đang hỗn loạn của bà bỗng nhiên tỉnh táo hẳn ra. Bà nhẹ nhàng đẩy Đỗ Văn Hạo sang một bên, hờn giận nói: “Văn Hạo! Chàng lúc nãy nói ta phải làm theo đúng cương thường đạo lý. Vậy thì chàng cũng không nên ép ta làm trái lại với những đạo lý này mới phải chứ….! ”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì thất kinh, hắn lấy lại bình tĩnh vội vàng ôm lấy thân hình của Hoàng Thái Hậu nhẹ nhàng dỗ dành nói: “Được rồi, ta đã sai rồi! Ta không ép nàng nữa, ta đợi ba năm nữa, như vậy đã được chưa?”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy mới gật gật đầu, rồi lại dựa đầu vào ngực của hắn mỉm cười nói: “Của chàng thì chắc chắn sẽ thuộc về chàng, đừng vội vàng như vậy…!”

“ừm! Vậy nàng cứ thoải mái đi, để ta hôn nàng một cái đã, cái này có được không vậy?”

“ừm!” Hoàng Thái Hậu nói xong liền ngẩng mặt lên nhắm mắt lại chờ đợi nụ hôn của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo bắt đầu giờ hết tài nghệ của mình ra, hắn áp dụng cả những kỹ thuật trong các bộ phim XXX thời hiện đại, cộng thêm với kinh nghiệm đã có được khi tích lũy từ Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi, Liên Nhi và còn cả Vương Nhuận Tuyết nữa. Chính vì vậy mà hắn rất có tự tin khi muốn khêu gợi Hoàng Thái Hậu.

Kinh nghiệm của Đỗ Văn Hạo cả về lý luận và thực tiễn trong khoản này là vô cùng phong phú, còn Hoàng Thái Hậu thì làm gì đã được tận hưởng những giây phút thần tiên như thế này.,nên rất nhanh bà đã bị Đỗ Văn Hạo Đỗn vào thế bí, đầu óc quay cuồng, không cầm nổi nữa cứ thế rên lên từng chập.

Đỗ Văn Hạo nhân lúc Hoàng Thái Hậu đang đê mê trong cơn xúc cảm mãnh liệt, liền ghé tai nói như rót mật: “Thao Thao cưng yêu! Cục cưng của ta, hứa với ta đi, đừng để mấy người Dụ Cáp Nhi tuẫn táng cũng Hoàng Thượng được không?”

Hoàng Thái Hậu bị Đỗ Văn Hạo kích thích khiến cho ngọn lửa dục vọng bốc lên ngùn ngụt, đầu óc không còn tỉnh táo nữa, bà rên lên đáp lại: “Vậy nhưng, đây là.. .đây là … là ý …ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu…. ta không thể….! ”

“Dụ Cáp Nhi còn trẻ như vậy, đã thế còn xinh đẹp nữa, nếu mà bị tuẫn táng cũng thì có phải là đáng thương quá không?” Đỗ Văn Hạo thủ thỉ nói.

Hoàng Thái Hậu mở to mắt ra, ôm chặt lấy tay của hắn rồi ôm hôn một cách điên dại. Sau đó nhẹ nhàng nói: “Chàng thích Dụ Cáp Nhi hả? Nếu chàng thích thì ta sẽ tha cho nó, rồi đem nó tặng cho chàng!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì mừng húm. Tuy hắn đối với Dụ Cáp Nhi cũng chẳng có tình cảm gì đặc biệt, cũng không hẳn là tình yêu, nhưng nếu như hắn bây giờ đồng ý thì có thể cứu được mạng của Dụ Cáp Nhi. Như vậy cũng đáng lắm. Nhưng, Đỗ Văn Hạo đột nhiên để ý thấy trong ánh mắt của Hoàng Thái Hậu có một cái gì đó đau xót khó tả. Hắn lập tức hiểu ngay ra rằng Hoàng Thái Hậu đang ghen! Cái này cũng đúng thôi tình yêu vốn ích kỷ mà. Hoàng Thái Hậu nói vậy thôi, có khi là đang muốn thử mình đây mà.

Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy liền đanh mặt lại, dí chặt môi của Hoàng Thái Hậu xuống mà nói: “Nàng nói lung tung cái gì thế? Ta khi nào nói thích Dụ Cáp Nhi hả? Trong trái tim ta chỉ có một mình Thao Thao nàng thôi! Hơn nữa, Dụ Cáp Nhi là người của Hoàng Thượng, ta làm sao mà dám thích nàng ta được cơ chứ?”

“Ta còn là mẹ của Hoàng Thượng nữa là…Hoàng Thái Hậu nói đến đây thì nghĩ tới việc con trai mình đột nhiên qua đời trẻ như vậy. Mặc dù sự việc đã qua được cả tháng, cộng thêm có cả Đỗ Văn Hạo an ủi, nỗi đau cũng đã nguôi đi phần nào, nhưng lúc này đây bỗng nhiên bà lại cảm thấy chưa xót, đau đớn, nét mặt càng thêm ảm đạm.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy cả kinh, hắn không muốn bao nhiều công sức của mình bỗng nhiên đổ sông đổ bể được, rất nhanh Đỗ Văn Hạo lại dùng kỹ xảo kích dục của mình khơi dậy lại ngọn lửa dục đang dần dần nguội tắt của Hoàng Thái Hậu. hắn phải trân trọng những thời cơ như thế này mới mong thành công được, chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo lại hôn như mưa lên môi của Hoàng Thái Hậu rồi dịu dàng, âu yếm nói: “Quan hệ mẹ con với quan hệ vợ chồng là khác nhau chứ? Dụ Cáp Nhi là người của Hoàng Thượng rồi, chỉ có mỗi Thao Thao nàng là của ta thôi! Ta biết nàng thực ra rất yêu ta, nàng tặng ta chiếc gối Như Ý ngày đó đã nói lên tất cả rồi!”

Hoàng Thái Hậu ngày trước bị bệnh đau bụng kinh đã hơn mười năm, đau đớn khôn cùng, Đỗ Văn Hạo khi đó chữa bệnh cho bà, làm đứt được cơn đau quái ác hành hạ suốt mười năm của Hoàng Thái Hậu. Hoàng Thái Hậu cảm kích công ơn của hắn đã đem chiếc gối Như Ý là kỹ vật của bà và Tống Anh Tông ra tặng Đỗ Văn Hạo để tỏ lòng cảm ơn của mình.

Khi đó đúng là trong thâm tâm của bà cũng đã thầm thương trộm nhớ anh chàng Thái Y trẻ tuổi đẹp trai lại tài giỏi này rồi vậy nhưng bà không dám nói ra. Hoàng Thái Hậu tặng gối Như Ý là một hàm ý gửi tới Đỗ Văn Hạo. Bây giờ Đỗ Văn Hạo nhắc lại chuyện xưa. Đột nhiên cảm thấy ngượng ngùng vô cùng, bà liền đưa tay lên đánh yêu Đỗ Văn Hạo một cái rồi mắng: “Xí! Tự tưởng bở, ai thèm yêu chàng cơ chứ….!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy lại hôn lên đôi môi của Hoàng Thái Hậu cười nói: “Vậy thì ta yêu nàng, như vậy đã được chưa hả?”

Người ta thường nói tai của người phụ nữ dùng để nghe những lời yêu đương ngọt ngào, không có một người phụ nữ nào lại không thích những lời đường mật cả, ngay cả Hoàng Thái Hậu cũng vậy. Trái tim khô quạnh bao nhiều năm nay, một khi đã bị ngọn lửa tình yêu thổi bùng lên có khi còn hung dữ hơn cả những cô gái mới yêu nữa. Chính vì vậy mà rất nhanh Hoàng Thái Hậu đã bϠhết những sự đau khổ ra khỏi đầu óc của mình, nhẹ nhàng nói: “Ta là Hoàng Thái Hậu, chàng cũng dám yêu sao? Không sợ người khác nói xấu chàng sau lưng sao?”

“Không sợ! Yêu thì là yêu, kể cả tất cả mọi người trên thế gi­an này đều biết thì ta cũng không sợ. Cho dù trời có sập xuống ta cũng vẫn ở bên cạnh nàng!” Đỗ Văn Hạo thề thốt.

Hoàng Thái Hậu nghe mà ngọt lịm trong lòng, bà hưng phấn nói: “Vậy nhưng! Ta vẫn là Hoàng Thái Hậu, ta không thể nào lấy chàng được, cũng không thể nào cũng chàng bách niên gi­ai lão với nhau…!”

“Tình yêu nếu mà đã trở thành vĩnh cửu rồi. thì chúng ta việc gì phải quan tâm đến thời gi­an của nó ngắn hay là dài nữa! chỉ cần trong tim ta có nàng, trong tim nàng có ta, thế là đã đủ lắm rồi!” Đỗ Văn Hạo dịu ngọt nói.

Hoàng Thái Hậu trong lòng cảm kích vô cùng, ôm ghì lấy cổ của Đỗ Văn Hạo khóc lên tu tu.

Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên là không để cho Hoàng Thái Hậu có thêm thời gi­an để đau buồn, hắn đưa tay gặt nước mắt trên mắt của bà rồi âu yếm nói: “Ngoan nào, đừng khóc nữa! Khóc nhiều quá mắt nó sưng như con gấu mèo trông buồn cười lắm! ”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy liền phì cười đánh nhẹ vào người hắn hờn mát: “Đáng ghét….!”

Đỗ Văn Hạo lại đưa tay lên bóp lấy đôi tuyết lê của Hoàng Thái Hậu, tiếp tục hành động khiêu gợi của mình, rồi lại rót những lời ngọt như mật của mình vào tai của Hoàng Thái Hậu nói: “Thao Thao là của ta, chỉ của riêng mình ta mà thôi! Ai cũng không thể nào cướp được nàng khỏi tay ta cả!”

Hoàng Thái Hậu mềm nhũn người ra, ôm ghì lấy cổ của Đỗ Văn Hạo, nhẹ nhàng đáp lại: “ừm…! Thao Thao là của chàng đó, chỉ của riêng một mình chàng mà thôi…!” Nói xong Hoàng Thái Hậu hôn lên môi của Đỗ Văn Hạo một cách cuồng­bạo và tham lam.

Hai người ôm ghì lấy nhau mà hôn cho đến khi Hoàng Thái Hậu rên rỉ, đầu óc mụ mị rồi thì Đỗ Văn Hạo lại dở giọng cầu xin: “Thao Thao! Nàng tha cho mấy người như Dụ Cáp Nhi đi được không? Đừng bắt họ phải chịu tuẫn táng cũng như vậy nữa. Coi như nể mặt ta mà tha cho họ đi!”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì phì cười, ôm chặt lấy cổ của hắn, giọng như tơ hồng nói: “Theo lý mà nói, thì chàng mở miệng ra nhờ vả ta, ta không thể nào không nể mặt chàng được!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì mừng húm nói: “Nói như vậy là nàng đồng ý hả? Tốt quá rồi!”

“chưa đâu, đừng mừng vội! Nghe ta nói xong cái đã!” Hoàng Tháii Hậu làm bộ nghiêm trọng nói: “Ta biết chàng là người lương thiện, tính tình nhân hậu. Mấy người đại phu như chàng người nào cũng cho rằng mình phải có nghĩa vụ cứu người này, cứu người nọ, không muốn người khác phải chịu bị tuẫn táng cũng đúng không?”

“Đúng vậy. đặc biệt là những người đó là nữ nhân, nữ nhân được làm từ nước (theo cách hiểu của người Trung Quốc thì phụ nữ được làm từ nước, và nước thì thường hay gây tai họa!), nhưng làm từ nước là để chúng ta yêu thương, chứ không phải là để gây tai họa đâu!” Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng nói.

Hoàng Thái Hậu nghe vậy giả vờ tức giận nói: “Ý của chàng là ta là tai họa hay sao hả?”

“Không phải…! Nàng làm vậy cũng đâu phải là chủ ý của nàng đâu. Ta nói người gây tai họa ở đây là kẻ phát minh ra cái tục lệ tuẫn táng này. Thao Thao của ta là người lương thiện, nhân hậu nhất trên thế gi­an này! Đến cả con kiến cũng không nỡ dẫm chết nữa là…! Làm gì có chuyện thích đưa người ta đi tuẫn táng bao giờ chứ!”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì mỉm cười hạnh phúc nói: “Chàng thật đúng là…. Lúc nào cũng biết nịnh bợ ta thôi! chỉ vì mấy người đó mà phải hao tâm khô tứ như vậy! Chàng nói thật đi, những lời nói ngọt như mật bên tai ta vừa rồi có phải là chàng cố ý nói ra để giải cứu cho mấy người này không hả?”

“Những lời ta nói với nàng dĩ nhiên là thật rồi!” Đỗ Văn Hạo nghiêm nét mặt nói. Sau đó giơ ba ngón tay của mình lên thề thốt: “Những lời nói ban nãy của ta nếu như là giả dối sẽ bị sét đánh chết tươi!”

Hắn vừa đút lời xong thì Hoàng Thái Hậu đã nhanh tay bịt miệng của hắn lại hờn dỗi nói: “Chàng nói thật là được rồi, việc gì mà phải thề độc như vậy cơ chứ?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy lại ôm lấy Hoàng Thái Hậu hôn như mưa xuống môi của bà rồi nói: “Thao Thao! Ta thật một lòng một dạ yêu nàng đó, có xảy ra chuyện gì đi nữa cũng chẳng hề ảnh hưởng gì tới tình yêu của chúng ta cả! ”

“Thôi được rồi! Đừng nói nữa, chàng nói nhiều câu nịnh bợ ta quá rồi đấy.,ta tin chàng mà! ” Hoàng Thái Hậu ngượng ngùng khẽ đáp.

“Ta cứ nói đấy!” Đỗ Văn Hạo nói xong liền đè ngửa Hoàng Thái Hậu ra mà nằm lên, ghé miệng sát vào tai của bà nói: “Ta yêu nàng, yêu nàng nhiều lắm….!”

Hoàng Thái Hậu cười lên khúc khích vì hạnh phúc, cố gắng đẩy hắn ra rồi khẽ nói: “Thôi ngay! Chàng dừng lại nghe ta nói đã!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy, liền đưa tay lên xoa xoa bộ ngực của Hoàng Thái Hậu nhẹ nhàng nói: “Vậy nàng nói đi! Ta nghe đây!”

“Thế này nhé, chàng đã cầu xin ta, và đây cũng là lần đầu chàng xin ta nữa, ta dĩ nhiên sẽ nể mặt chàng….! Nếu không thì không biết sau lưng chàng mắng ta là người tàn nhẫn thế nào nữa!” Hoàng Thái Hậu nói.

“Làm gì có chuyện đó cơ chứ? Thao Thao của ta….” Đỗ Văn Hạo vừa nói đến đây thì Hoàng Thái Hậu đã chặn hắn lại: “Đừng cắt ngang lời nói của ta! vốn lúc đầu là định tuẫn táng năm người, đó là Trần Mỹ Nhân, Dụ Cáp Nhi và hai vị Tài Nhân nữa là Tô Thị và Mai Thị, cộng thêm Ngụy Triển nữa! Chờ chút nữa ta sẽ hạ lệnh tạm thời không giết Ngụy Triển, chờ chàng điều tra xong vụ án rồi sẽ tính tiếp! còn Tô Thị thì là cháu gái của Tô Thức (Tô Đông Pha). Tô Thức khi trước còn xuất chinh đánh giặc Tây Sơn với chàng, cũng có chiến công nên cho ông ta nợ chàng một ân tình nữa, ta tha cho Tô Thị luôn, không cần phải tuẫn táng cũng nữa!”

“Ối hay quá!” Đỗ Văn Hạo vui mừng khôn xiết, hắn không ngờ sự ôn nhu, dịu dàng của hắn lại có kết quả mỹ mãn như vậy. hắn liền ôm chầm lấy Hoàng Thái Hậu hôn lấy hôn để nói: “Ta biết mà. Thao Thao của ta là người nhân hậu mà!”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy liền vuốt ve gương mặt anh tuấn của hắn dịu đàng nói: “Chàng mới thực sự là người tốt! Người ta hay nói chàng là Nhân Y mà!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì mỉm cười tình tứ đáp lại: “Ta chỉ biết chữa bệnh cho người, có nhân từ thế nào cũng chỉ chữa được có vài chục người, còn nàng thì khác! Một khi nàng buông rèm chấp chính, thì sau này trị quốc, hàng ngàn hàng vạn sinh mệnh của trăm họ đều nằm trong tay của nàng hết, cái nhân từ của nàng lúc đó có tác dụng hơn ta rất nhiều…

Hoàng Thái Hậu nghe vậy sững người nói: “Chàng thấy rằng ta buông rèm chấp chính như vậy có được hay không?”

“Dĩ nhiên là được rồi! Ung Vương thực ra cũng là người tốt, nhưng nếu mà luận bàn về việc lấy nhân trị quốc thì không thể nào bằng nàng được, cái cốt yếu nhất là khi nàng buông rèm chấp chính, ta cũng có thể…. ăn hôi theo một chút hề hề hề!” Đỗ Văn Hạo cười nói một cách vô sỉ.

Hoàng Thái Hậu nghe vậy liền nhoẻn miệng cười đáp: “Chàng thấy ta có thể buông rèm chấp chính thật sao?”

“Dĩ nhiên là được rồi! Hơn nữa nàng còn có ta nữa cơ mà, ta ủng hộ nàng hết mình!” Đỗ Văn Hạo nói.

Hoàng Thái Hậu gật gật đầu nói: “Có chàng giúp đỡ ta thì ta dĩ nhiên là an tâm rồi. Chỉ là việc này vô cùng trọng đại. Để ta suy nghĩ thêm vài ngày nữa có được không?’

“Được chứ!” Đỗ Văn Hạo cuối cũng cũng đã nói hết ý nghĩ của mình cho Hoàng Thái Hậu nghe rồi, nên khi nghe Hoàng Thái Hậu bảo mình suy nghĩ thì mừng thầm quay lại chủ đề cũ ôm lấy Hoàng Thái Hậu nói: “Nàng đã tha cho Ngụy Triển và Tô Thị rồi, vậy thì tha cho ba người còn lại đi!”

“Cái này không được!” Hoàng Thái Hậu lắc đầu nói: “Trần Mỹ Nhân tội đáng muôn chết, lại là người mà Hoàng Thượng yêu thương nhất! Nếu như để nó tuẫn táng chết cũng với Hoàng Thượng thì đó là vinh dự của cả đời của nó rồi. Sau này còn được truy phong chức tước làm phúc cho dòng họ của nó. Thế còn sung sướng hơn là bị chật đầu ở Ngọ Môn!”

Đỗ Văn Hạo thấy Hoàng Thái Hậu nói cứng như vậy, thì cũng cảm thấy e dè. Hơn nữa bà ta nói cũng có lý nên quay sang hướng khác nói: “Còn Dụ Cáp Nhi và Mai Thị thì sao? Bọn họ có thể miễn không phải tuẫn táng cũng được không?’’

“Mai Thị là tự nguyện xin được tuẫn táng, khi Hoàng Thượng băng hà thì nó đã có ý định này rồi, chỉ đợi ngày an táng là sẽ tự sát theo Hoàng Thượng thôi!” Hoàng Thái Hậu nói.

“Thật sao?” Đỗ Văn Hạo kinh ngạc cứng họng không nói được câu nào.Người ta tình nguyện được chết mình mà cứ cố xin cho người ta như vậy thật chẳng hợp lý chút nào cả. Cho dù mình trơ mắt ếch ra nhìn nàng ta tự tử như vậy cũng chẳng phải tốt đẹp gì, nhưng ở thời cổ đại lại vô cùng đề cao chữ tiết, một khi Hoàng Thượng băng hà mà có vị phi tần nào tự nguyện chết theo, thì sẽ được rất nhiều người khen ngợi.

Đỗ Văn Hạo thấy bản thân mình tự nhiên xen vào chuyện của người ta như vậy cũng không phải, người ta đã không cần thì mình chẳng cần phải nhọc sức làm gì: “Thế còn Dụ Cáp Nhi thì sao? Nàng ta cũng tự nguyện ư?”

“Nó thì không có ý đó. vậy nhưng Hoàng Thượng dưới cõi âm cô độc như vậy. cũng phải có người hầu hạ chứ!” Hoàng Thái Hậu nói.

Đỗ Văn Hạo nôn nóng nói: “Vậy chúng ta có thể làm người giấy ngựa giấy đốt đi để cúng tế cho Hoàng Thượng không phải là tốt hơn hay sao? Nếu mà vẫn không đủ, thì chúng ta có thể mô phỏng theo Binh Mã Dũng của Tần Thủy Hoàng tuẫn táng cũng cũng không tồi chút nào! Vừa uy phong, lại vừa hợp lý. Hoàng Thượng ở cõi âm chắc chắn sẽ rất thích”

“Binh Mã Dũng!”Hoàng Thái Hậu kinhngạc hỏi: “Binh Mã Dũng là cái gì vậy?”

Đỗ Văn Hạo cũng kinh ngạc không kém. vì cái phát hiện khảo cổ vĩ đại này tận thế kỷ hai mươi mới phát hiện ra. Trước đó các thời vua chúa cổ đại cũng không có ghi chép gì tới cái Binh Mã Dũng của Tần Thủy Hoàng này. Chính vì vậy mà Hoàng Thái Hậu mới không biết. Đỗ Văn Hạo ngay lập tức vội vã lên tiếng giải thích: “Binh Mã Dũng là người ta dùng đất nung tạo thành hàng ngàn hàng vạn hình người ngựa, quân đội giống hệt như người thật đem chôn cùng với Hoàng Thượng, đạo quân này sẽ hộ giá Hoàng Thượng đời đời kiếp kiếp!”

Hoàng Thái Hậu nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì ngẩn người nói: “Ý kiến này của chàng cũng hay đấy! Vậy nhưng, để nung được thiên quân vạn mã như vậy thì cũng cần đến cả chục năm ấy chứ. chúng ta bây giờ làm gì có thời gi­an đâu mà làm!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì cũng buồn bã nói: “Cái này cũng đúng! Chúng ta có thể tạo một đạo quân Binh Mã Dũng nhỏ thôi, về sau từ từ tạo tiếp cũng được!”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy liền lắc đầu nói: “Thôi bỏ đi! Cái công trình này nó to lớn quá, quốc khố của chúng ta không đủ, nếu như đem tiền vứt vào làm cái này thì dân chúng sẽ thấy bất hợp lý, e rằng không hay!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền hôn lên môi Hoàng Thái Hậu một cái rồi khen ngợi nói: “Ta đã nói rồi mà! Thao Thao của ta tốt bụng lắm, nàng một lòng một dạ vì dân như vậy thì nàng buông rèm nhiếp chính là đúng rồi. Nàng đúng là cái phúc của muôn dân!”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì liền mỉm cười nói: “Thôi được rồi, đừng nịnh hót ta nữa! Chàng nói nửa ngày trời vòng vo tam quốc mãi cũng chỉ là muốn ta tha cho Dụ Cáp Nhi chứ gì? Được, ta sẽ nhượng bộ cho chàng thêm một bước nữa, không cần đem Dụ Cáp Nhi đi tuẫn táng cùng với Hoàng Thượng nữa, như vậy đã được chưa hả? Nhưng mà ta nói cho chàng biết nhé, đây là bước nhượng bộ cuối cùng của ta đó. Năm người tuẫn táng ta đã tha cho ba người rồi, còn Trần Mỹ Nhân và Mai Thị thì chàng không được phép đòi hỏi thêm nữa, nếu không ta tức giận thật đó! “Hoàng Thái Hậu nói xong liền sa sầm nét mặt xuống.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền hôn luôn vào môi cùa Hoàng Thái Hậu nói: “Được! Ta không cầu xin nữa, ta không quan tâm gì nữa, thế đã được chưa? Dù sao thì Mai Thị cũng là tự nguyện, còn Trần Mỹ Nhân thì hại chết bao nhiều phi tần như vậy, lại còn sai sát thủ đến ám sát ta nữa, coi như chết cũng là đáng tội!”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy mới mỉm cười nói: “Đúng rồi đó, thôi chàng bỏ ta ra, rồi mau ra gọi Tiêu công công vào đây để ta tuyên chỉ thả người!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì cười lên sung sướng, hắn lại ôm lấy Hoàng Thái Hậu hôn thêm một chập nữa rồi mới buông ra, sau khi chỉnh đốn quần áo chỉnh tề xong liền mở cửa gọi Tiêu công công vào trong.

Chương 396: Mừng vui và bi thương

Hoàng Thái Hậu nói: “Tiểu Tiêu tử, ngươi cùng Đỗ tướng quân đi truyền khẩu dụ của Ai gia để cho hai người Trần mỹ nhân và Mai mỹ nhân tự xử chết theo Hoàng Thượng. Còn mấy người Dụ Cáp Nhi, Tô tài nhân cùng Thái y thừa Nguỵ Triển miễn tội chết”.

Tiêu công công vội vàng khom người nói: “Dạ! Xin nhận ý chỉ của Hoàng Thái Hậu”.

Đỗ Văn Hạo vội hỏi: “Hoàng Thái Hậu, vi thần cũng đi tuyên chỉ sao?”

“Ừ” Hoàng Thái Hậu mỉm cười nói: “Ngươi tốn sức thuyết phục Ai gia miễn tội chết cho ba người. Phần ân tình này hãy để các nàng ấy ghi tạc trên người ngươi. Tương lai sau này hãy để các nàng ấy kết cỏ ngậm vành báo đáp ngươi”.

Đỗ Văn Hạo cười hà hà nói: “Đây đều là ân điển của Hoàng Thái Hậu, vi thần hoàn toàn không có chút công lao nào. Khi vi thần tuyên chỉ sẽ nói rõ”.

Lúc này từ xa vang lên tiếng kẻng cầm canh, nghe âm thanh thì lúc này đã là canh hai như vậy chỉ còn cách hạn tự vẫn cuối cùng một canh giờ. Hoàng Thái Hậu nói: “Mau đi đi, xong xuôi sớm thì đi nghỉ sớm. Ngày mai khiêng linh cữu, ngươi còn trọng trách cảnh giới ven đường. Trách nhiệm rất lớn đó”.

Đỗ Văn Hạo khom người nói: “Dạ! Vi thần cáo lui”.

Đỗ Văn Hạo cùng Tiêu công công đi ra, mang theo một nhóm thái giám và cung nữ đội Nội thị đi thẳng tới trong điện ở bên cạnh điện Phúc Ninh. Linh cữu của Tống Thần Tông quàn tại điện Phúc Ninh. Bốn phi tần Dụ Cáp Nhi đang chờ chết theo ở ngay trong điện bên cạnh.

Tiêu công công hiểu rằng Hoàng Thái Hậu muốn Đỗ Văn Hạo đảm đương vai người tốt nên trên đường đi ông ta nói với Đỗ Văn Hạo: “Đỗ tướng quân, lát nữa ngài đừng vội vàng tuyên ý chỉ của Hoàng Thái Hậu. Đợi khi chúng ta cũng kính tiễn đưa hai vị nương nương kia lên đường, ngài hãy tuyên chỉ. Thứ nhất hiển lộ ân đức của Hoàng Thái Hậu. Thứ hai cũng là để nhị vị nương nương tưởng có bạn, yên tâm quy thiên, trong lòng sẽ dễ chịu hơn nhiều. Thế nào?”

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Chủ ý của công công cực kỳ nhân từ. Ty chức há có thể không tuân theo sự sắp xếp sao?”

Sau khi hai người thống nhất xong lại dặn dò thái giám và cung nữ đi cùng. Lúc này đoàn người đã tới trước điện.

Ở bên trong trắc điện, bốn vị nương nương cùng với thị nữ thân tín đang khóc lóc nhưng khi nghe thấy tiếng bước chân vang lên bên ngoài điện, tiếng quát mắng thị vệ lui ra thì hiểu rằng đại nạn đã tới lập tức tiếng khóc bốc lên vang trời.

Tiêu công công mở cửa điện, nghiêm mặt đi vào trong nội đường, nhìn đám nữ tử đang ôm nhau khóc, cất giọng the thé, lạnh lùng nói: “Chúng ta phụng ý chỉ của Hoàng Thái Hậu, tống tiễn các phi tần tuẫn táng. Những nha hoàn bên cạnh hãy mau mau tránh ra”.

Những nữ tử này nào ai có lá gan dám kháng chỉ, các nàng cũng hiểu rằng có cầu xin công công tuyên chỉ cũng vô ích bèn khóc lóc thối lui sang bên cạnh, quỳ trên mặt đất, khóc lóc thảm thiết ngay tại chỗ.

Tiêu công công vẫn không có bất kỳ biểu hiện gì khác, ông ta khoát tay ra hiệu. Tám thái giám bưng bốn cái khay mạ vàng, bên trên có đặt bốn dải lụa trắng cùng với bốn bình sứ nhỏ tinh xảo.

Tiêu công công nói: “Bốn vị nương nương, ngày mai đưa tang Hoàng Thượng cùng Thái Hoàng Thái Hậu. Ý chỉ của Hoàng Thái Hậu đã chỉ rõ: Trước giờ tý tối nay xin mười bốn vị nương nương tự tiện. Đây là dải lụa trắng cùng với Hạc Đỉnh Hồng. Bốn vị nương nương hãy chọn lấy một thứ mà quy thiên”.

Dụ Cáp Nhi mặt đẫm lệ, nghe xong mấy lời này của Tiêu công công, nhất thời cả người run rẩy giống như chim bồ câu nhỏ, tuyệt vọng nhìn Đỗ Văn Hạo, buồn bã nói: “Tướng quân, cứu ta”.

Bây giờ Đỗ Văn Hạo muốn tận mắt chứng kiến nhị vị nương nương tự sát. Mặc dù hắn hiểu rõ Dụ Cáp Nhi đã được miễn tội chết theo nhưng hiện tại không thể nói ra nên chỉ đứng yên lặng mà không có biểu hiện gì.

Thị nữ thân tín của Dụ Cáp Nhi vội vàng quay người dập đầu với Đỗ Văn Hạo cầu khẩn xin tha mạng.

Trần mỹ nhân ngẩng khuôn mặt tuyệt mỹ vốn đã bị Hoàng Hậu cào nát, một mắt bị mù, lại giả điên lâu ngày, dung nhan sớm đã tiều tuỵ nhưng dù sao ham sống là lẽ thường tình của con người. Mặc dù trong thâm tâm Trần mỹ nhân biết không thể thoát khỏi nạn này nhưng sau khi nghe Dụ Cáp Nhi cầu khẩn Đỗ Văn Hạo. Lại nghĩ tới việc Đỗ Văn Hạo đã từng cứu mạng trước đây nên không khỏi có kỳ vọng nay thấy hắn cũng tới lại nghĩ hắn tới cứu mạng như trước kia tức thì hai đầu gối mềm nhũn, Trần mỹ nhân quỳ dạp xuống đất, cất giọng khàn khàn, buồn đau nói: “Tướng quân, cứu mạng”.

Đương nhiên thị nữ của Trần mỹ nhân cũng quỳ xuống trước mặt Đỗ Văn Hạo, khóc buồn bã cầu khẩn cứu mạng.

Lúc này Tô tài nhân vốn đã sợ tới mức ba hồn bảy vía đã bay đi hết, người đã giống như một hành thi, chỉ còn chờ chết. Bây giờ thấy hai người Dụ Cáp Nhi cùng quỳ xuống dập đầu cầu khẩn, sợ chết là bản tính tự nhiên của con người, huống chi lại còn bị ép chết theo nên trong lòng càng không cam tâm, hiểu rõ vị Đỗ đại tướng quân này là người một tay che trời ở trong triều, là người tâm phúc bên cạnh Hoàng Thái Hậu. Cầu khẩn người ta có khi giữ được tính mạng của mình thì cần gì chú tâm tới mặt mũi nữa, nghĩ vậy Tô tài nhân cũng buồn bã quỳ dạp xuống cầu khẩn nhưng lại quá hoảng sợ, tuyệt vọng nên không thể mở miệng.

Thị nữ thân tín của Tô tài nhân cũng khóc như mưa dập đầu như giã tỏi, miệng không ngừng cầu khẩn: “Tướng quân, đại tướng quân. Van xin ngài hãy cứu lấy nương nương của chúng nô tỳ. Hãy để cho nô tỳ chết thay nương nương”.

Chỉ trong khoảng thời gi­an ngắn, tiếng khóc đột ngột vang lên giống như tiếng trống đánh thùng thùng trong phòng. Tiêu công công tức giận, phất tay áo, lạnh lùng nói: “Tuẫn tiết theo Hoàng Thượng, quy thiên hầu hạ Hoàng Thượng là cực kỳ vinh hạnh. Các người hết lần này tới lần khác làm ra dáng vẻ đau khổ, thật không ra gì cả. Người đâu, mau kéo mấy nha hoàn ra, hầu hạ bốn vị nương nương quy thiên”.

Lập tức thái giám và cung nữ cùng trả lời rồi xông tới chỗ những thị nữ đang quỳ gối trước mặt Đỗ Văn Hạo, nắm tóc, lôi kéo chân tay kéo ra bên ngoài điện. Tám thái giám đồng loạt quỳ xuống, giơ cao khay.

Thân thể Tô tài nhân mềm nhũn, ngồi phịch xuống đất, sợ hãi tới đờ đẫn cả người, không cả khóc được nữa.

Dụ Cáp Nhi có thể gắng gượng bình tĩnh, thấy Đỗ Văn Hạo không nói gì, sắc mặt không biểu hiện biết là không hy vọng, bàn tay run rảy đưa ra, sờ soạng chạm phải dải lụa trắng lại lấp tức rụt tay về như bị điện giật. Dưới sự thúc ép nghiêm ngặt của cung nữ ở bên cạnh đưa tay run run cầm lấy bình Hạc Đỉnh Hồng nhưng lại không có dũng khí mở nắp bình, nước mắt đoạn tuyệt giống như trân châu rơi xuống.

Trần mỹ nhân vẫn phủ phục trên mặt đất cầu khẩn cứu mạng.

Chỉ có Mai mỹ nhân vẫn đứng im từ trước tới giờ. Nàng chậm rãi đi tới trước, nhìn lướt qua hai vật trên khay, lưỡng lự một lát rồi đưa tay cầm lấy dải lụa trắng, chọn một chỗ thích hợp dưới xà nhà. Ngay lập tức có thái mang tới một chiếc bàn trà để đứng chân. Mai thị bước chân làn bàn, quăng dải lua lên xà nhà, buộc thắt nút đầu lại với nhau, kéo thử, thấy rất chắc chắn, hai tay nắm chặt dải lụa, Mai mỹ nhân ngửa mặt lên trời than: “Hoàng Thượng, thiếp thân tới làm bạn với người đây”.

Mai mỹ nhân thản nhiên tự vẫn chết càng làm ba vị nương nương còn lại cực kỳ hoảng sợ. Trần mỹ nhân nghe thấy tiếng khóc đột nhiên bốc cao, ngẩng đầu nhìn thì thấy một thi thể đang đung đưa ở giữa phòng, tức thì sợ hãi tới mức hồn phi phách tán, thân thể mềm nhũn, ngồi phịch xuống đất, không khống chế được tiểu tiện.

Tiêu công công cười nhạt, nghiêng đầu nói với cung nữ và thái giám bên cạnh mình: “Các người hãy nhìn xem, Trần nương nương đã sợ tới mức són đái ra quần. Xem ra bản thân không thể nào tự ra đi. Các ngươi còn đứng đờ ra đó làm gì? Hãy hầu hạ nương nương quy thiên”.

Bốn, năm cing nữ, thái giám vội vàng chen nhau tiến tới. Hai người ôm tay Trần mỹ nhân kéo đứng dậy, hai người ôm chân để không cử động, một người giật tóc để ngẩng đầu lên. Một cung nữ khác vóc người cao lớn, tay trái nắm mũi Trần mỹ nhân, tay phải mở rộng ra đặt vào hai bên má, dùng hết sức bóp mạnh để miệng Trần mỹ nhân há ra.

Một thái giám lấy bình Hạc Đỉnh Hồng để trên khay, mở nắp bình, đổ một ít bột phấn màu đỏ trong bình vào miệng Trần mỹ nhân, tay kia cầm bình trà do thái giám khác cầm tới, nhét vòi bình trà vào trong miệng Trần mỹ nhân rồi dốc hết nước trong bình trà ra.

Hiển nhiên người cung nữ to cao đã nhiều lần làm những chuyện này nên thủ pháp rất thuần thục. Khi đổ nước, nàng kéo ngửa đầu Trần mỹ nhân, tay bấu mạnh vào miệng làm cho Trần mỹ nhân không thể nhổ ran ngoài. Tay bóp mạnh để Trần mỹ nhân không thở được phải nuốt vào. Sau khi nhìn thấy cả nước và thuốc đều trôi xuống dưới, Trần mỹ nhân cũng vì không thở nổi, mắt trắng dã mới buông ra.

Trần mỹ nhân không ngừng thổi phì phò, ho khan, muốn thò tai vào cuống họng móc ra nhưng hai cánh tay đã bị cung nữ, thái giám giữ chặt, không sao cử động được. Trần mỹ nhân ngửa mặt lên trời gào lên ‘ôi ôi ôi”, không biết đó là khóc hay cười.

Một lát sau bụng Trần mỹ nhân đau giống như đao xoắn, thân thể không ngừng giãy giụa. Cung nữ, thái giám đang giữ hai tay nàng hiểu độc tính trong bụng đã bắt đầu phát tác lúc này mới hất Trần mỹ nhân ra, vất xuống đất.

Trần mỹ nhân ôm bụng lăn lộn trên mặt đất, miệng sùi bọt mép, hơi thở gấp gáp. Trần mỹ nhân giãy giụa quỳ trên mặt đất, đưa tay móc cổ họng. Oạ, oạ, nôn khan ra một ít nước chua.

Tiếp đó Trần mỹ nhân nằm xụi lơ trên mặt đất, con mắt còn lại trắng dã, vừa nôn khan vừa thở phì phò nói: “Nước, khát nước, cho ta nước”.

Đỗ Văn Hạo hiểu rõ đây chính là biểu hiện của tình trạng ban đầu khi trúng độc Hạc Đỉnh Hồng, sau đó còn khó chịu gấp bội.

Quả nhiên một lát sau, Trần mỹ nhân liền ôm bụng kêu gào thảm thiết, cả người lăn lộn trên mặt đất, không ngừng nôn khan, thở hổn hển. Tiếp theo đó là mùi thối của phân và nước tiểu. Thân thể của Trần mỹ nhân dính đầy nước tiểu và phân màu vàng nhạt.

Tiêu công công cùng các thái giám, cung nữ bịt mũi cuống cuồng lùi lại sau.

Tiếp đó Trần mỹ nhân khàn khàn kêu đau đầu, đập đầu binh binh xuống mặt đất, máu tươi chảy đầm đìa trên trán, hết lần này tới lần khác mà vẫn không chết. Kéo dài một lúc thì nằm yên lặng, co quắp trên mặt đất, con mắt còn lại trợn trừng, hơi thở gấp gáp, chỉ còn biết thở ra, thân thể không ngừng run rẩy.

Một hồi lâu sau, thân thể Trần mỹ nhân co giật vài cái, hơi thở ngừng lại, khuôn mặt bất động đầy vết thương, méo mó trông rất đáng sợ, chỉ có con mắt vẫn trợn trừng như trước, nhìn chằm chằm lên trần nhà, giống như đang nhìn vào một vật gì đó.

Tiêu công công liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, thấy hắn không bước tới kiểm tra xem Trần mỹ nhân đã chết hay chưa liền bước tới, bịt mũi ngồi xổm trước người Trần mỹ nhân, thử hơi thở sau đó lại dùng hai ngón tay sờ động mạch bên gáy. Sau khi xác nhận quả thực Trần mỹ nhân đã chết, Tiêu công công liền đi tới bên cạnh Đỗ Văn Hạo, mỉm cười nói: “Tướng quân, phận sự của chúng ta đã xong. Việc còn lại gi­ao cho ngài”.

Đỗ Văn Hạo không nói một lời, hắn chắp tay sau lưng tiến tới chỗ Tô tài nhân và Dụ Cáp Nhi.

Tô tài nhân nhìn thấy bộ dáng trung độc chết thảm của Trần mỹ nhân, sợ tới ngây người, không khống chế được tiểu tiện. Giữa hai chân đã ướt sũng màu nước tiểu vàng nhạt, ánh mắt đờ đẫn nhìn Đỗ Văn Hạo.

Dụ Cáp Nhi không còn ảo tưởng nữa. Nàng nhìn thấy dáng vẻ đó của Trần mỹ nhân nên hạ quyết tâm treo cổ tự vẫn giữ cho thân thể sạch sẽ. Lúc này khuôn mặt nàng đã tái nhợt, không còn chút máu. Nàng bước tới sau lưng những thái giám, cung nữ, cười sầu thảm nói với Đỗ Văn Hạo: “Tướng quân, đa tạ ngài tới tống tiễn ta”.

Nói xong nàng quay đầu cầm lấy dải lụa trắng trong khay thái giám đang cầm, quay đầu nhing bà vú đang khóc như mưa ở cửa đại điện nói: “Nương…Nhi đi”.

Nàng xoay người bước lên bàn trà, run rẩy tung dải lụa lên trên xà nhà.

Đỗ Văn Hạo bước tới, đá tung chiếc bàn trà dưới chân Dụ Cáp Nhi.

Dải lụa trắng của Dụ Cáp Nhi vẫn còn chưa bay lên tới xà nhà. Dưới chân nàng không còn cái gì đỡ. Nàng kêu “a” một tiếng ngã xuống dưới. Đỗ Văn Hạo đưa tay đỡ lấy thân thể nàng, hắn đặt nàng xuống, mỉm cười nói: “Nương nương, người không cần chết”.

“Hả?” Dụ Cáp Nhi kinh ngạc kêu lên, nàng trừng mắt nhìn hắn, không hiểu hắn nói gì.

Bàn tay Đỗ Văn Hạo nắm chặt bả vài nàng, hắn cao giọng nói: “Hoàng Thái Hậu có khẩu dụ: Miễn trừ tuẫn táng cho Dụ Cáp Nhi và Tô tài nhân”.

Thân hình Dụ Cáp Nhi chấn động, nàng đứng lặng tại chỗ.

Tiêu công công cũng khàn khàn nói: “Nhị vị nương nương, đây là ân điển của Hoàng Thái Hậu, cũng là kết quả do Đỗ tướng quân cầu khẩn Hoàng Thái Hậu, cần phải nhớ kỹ trong lòng” Nói xong Tiêu công công phất tay, dẫn theo thái giám và cung nữ rời khỏi điện.

Thị nữ thân tín của Dụ Cáp Nhi và Tô tài nhân nghe thấy Đỗ Văn Hạo nói vậy tức thì giống như tiếng sấm mùa xuân vang lên giữa trời quang, tâm trạng mừng vui như muốn nổ tung, không thể tin được sự thật trước mắt mình. Sau khi nhìn thấy Tiêu công công dẫn người đi, lúc này mới thực sự hoàn toàn tin tưởng, thoáng cái tất cả tràn vào trong điện.

“Nương nương! Nương nương đã thoát chết. Đa tạ Bồ Tát. Cám ơn trời đất. Đa tạ Hoàng Thái Hậu. Đa tạ Đỗ tướng quân…”.

Chúng nữ vây quanh nhị vị nương nương, dáng vẻ tung tăng như chim sẻ. Nhưng trong sự mừng vui đó, Dụ Cáp Nhi vẫn ngây người đứng tại chỗ, cầm dải lụa trắng trong tay, kinh ngạc nhìn Đỗ Văn Hạo, hai hàng lệ không ngừng trào xuống.

Tô tài nhân ngã ngồi trên mặt đất vẫn đang ngây ngốc tại chỗ, giống như không nghe thấy lời nói của Đỗ Văn Hạo vậy. Bà vú của nàng ké nàng vào trong ngực khóc to: “Con của ta! Hoàng Thái Hậu ân điển, con không cần phải chết theo. Con của ta, con đừng doạ nương vậy nha. Con khóc đi. Hãy khóc đi”.

Rốt cuộc hồn phách của Tô tài nhân cũng loạng choạng quay về thân thể mình. Nàng kinh ngạc nhìn bà vú, nhìn thấy nước mắt, sự mừng vui trên gương mặt già nua, lại nghe thấy thị nữ vây quanh mình đang khóc hu hu nói có ý chỉ của Hoàng Thái Hậu, miễn cho nàng khỏi chết theo Hoàng Thượng, rốt cuộc nàng cũng hiểu ra, ôm lấy bà vú khóc ròng.

Đỗ Văn Hạo nhìn mấy người cười rồi quay người bước đi nhưng bị Dụ Cáp Nhi gọi giật lại: “Tướng quân, xin chờ một chút”.

Đỗ Văn Hạo đứng lại. Dụ Cáp Nhi tiến lên hai bước. “Rầm” một tiếng, nàng quỳ dạp xuống dập đầu khóc không thành tiếng: “Đa tạ ơn cứu mạng của tướng quân. Cáp Nhi

Đỗ Văn Hạo định đưa tay đỡ Dụ Cáp Nhi dậy thì Tô tài nhân ở bên kia cũng phủ phục bò tới dập đầu nói: “Đa ta đại ân cứu mạng của tướng quân”.

Đỗ Văn Hạo xua xua tay nói: “Nương nương xin đứng dậy. Nhị vị nương nương hãy mau mau đứng lên. Đây tất cả đều là ân điển của Hoàng Thái Hậu. Vi thần không dám nhận đại ân này”.

Nhị vị nương nương đã quỳ xuống, tất nhiên những thị nữ thiếp thân kia cũng lập tức quỳ theo, vui mừng xen lẫn xót thương dập đầu tạ ơn.

Lúc này bên ngoài cửa có mấy thái giám và cung nữ tiến vào tháo thi thể của Mai mỹ nhân đang treo giữa nhà xuống, cùng với thi thể vặn vẹo của Trần mỹ nhân trên mặt đất lên đặt lên giường sau đó đi khiêng đi trang điểm, chuẩn bị sáng ngày mai khiêng linh cữu thì chôn theo.

Những thị nữ của hai vị nương nương mới chết ở bên ngoài điện nhìn thấy thi thể của hai nương nương bị khiêng đi tức thì dập đầu khóc lóc dậy đất. Du Cáp Nhi, Tô tài nhân cũng chúng nữ ở trong phòng thì cảm xúc hỗn loạn, càng cảm kích ơn cứu mạng của Đỗ Văn Hạo, lại bắt đầu dập đầu tạ ơn.

Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng an ủi mấy câu, hắn thấy trời đã khuya liền sai thị nữ thân tín của hai vị nương nương đỡ hai vị nương nương quay lại tẩm cung tạm nghỉ. Hắn nói sáng sớm ngày mai còn phải đưa tang theo linh cữu của Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu.

Dụ Cáp Nhi cùng Tô tài nhân càng cảm kích sự săn sóc chu đáo của Đỗ Văn Hạo, lại một lần nữa tỏ vẻ biết ơn và cám ơn rồi mang theo thị nữ rời đi.

Đỗ Văn Hạo rời khỏi cung Phúc Ninh, Tiêu công công và đội Nội thị thái giám, cung nữ đã đang chờ bên ngoài. Hai người lại ngồi kiệu đi tới thiên lao. Thái y thừa Nguỵ Triển vẫn đang còn ở đó chờ chết, cả hai phải tới đó sớm để tuyên chỉ xá tội chết.

Thiên lao ở góc Tây bắc bên ngoài Hoàng thành. Ở nơi này canh phòng rất nghiêm ngặt. Trên đường đi Đỗ Văn Hạo và Tiêu công công thương lượng với nhau. Vì để điều ntra thêm rõ ràng tình huống vụ án nên tạm thời không công bố ý chỉ xá miễn tội chết cho Nguỵ Triển.

Vì thế khi hai người tới Thiên lao, Tiêu công công liền ở bên ngoài phòng trực đợi. Một mình Đỗ Văn Hạo đi vào phòng gi­am tra hỏi tình hình.

Đỗ Văn Hạo đi vào hầm ngầm nơi gi­am giữ tử tù của Thiên lao. Nguỵ Triển là khâm phạm. Ông ta bị gi­am giữ một mình trong một phòng gi­am âm u ẩm ướt ở sâu nhất trong hầm ngầm. Thậm chí Đỗ Văn Hạo còn cảm thấy không khí cực lạnh lẽo, bất chợt hắn rùng mình một cái.

Ánh sáng trong hầm ngầm mờ mờ, Đỗ Văn Hạo chỉ nhìn thấy bóng một người nằm cuộn mình trong góc phòng gi­am, trên cổ đeo một cái gông gỗ, hai chân và hai tay đều bi xiềng xích sắt dài, to bằng ngón tay cái.

Ngay khi Đỗ Văn Hạo vẫn chưa nhận ra người đó là ai, người nọ đã vui mừng, ngạc nhiên hô lên khi nhận ra hắn: “Đỗ đại nhân? Là ngài sao, Đỗ đại nhân?”

Chỉ cần nghe âm thanh Đỗ Văn Hạo cũng có thể nhận ra đó là giọng nói của Thái y thừa Nguỵ Triển, hắn liền nói: “Nguỵ đại nhân, ta là Đỗ Văn Hạo. Ta nghe nói đại nhân bị tống tử lao, ngày mai xử chém nên đặc biệt tới tiễn đưa”.

Nguỵ Triển đương nhiên cũng biết tin ngày mai sẽ bị xử chém, nghe vậy ông ta cười sầu thảm nói: “Đa tạ tấm lòng trượng nghĩa của Đỗ đại nhân, lão hủ không dám nhận”.

Đỗ Văn Hạo căn dặn cai ngục mang tiệc rượu tới. Lao đầu Thiên lao biết rõ sự lợi hại của vị tướng quân trước mặt này nên liên tiếp gật đầu đồng ý. Hắn nhanh chóng đặt mua một tiệc rượu thuộc loại hảo hạng mang tới, bày bát, đũa trên chiếc bàn trong phòng gi­am.

Đỗ Văn Hạo lại hạ lệnh tạm thời tháo gông cổ của Nguỵ Triển. Đương nhiên đích thân lao đầu giúp tháo gông trên cổ cho Nguỵ Triển.

Đỗ Văn Hạo cho lao đầu cùng ngục tốt đều tháo lui ra bên ngoài sau đó hắn mời Nguỵ Triển ngồi xuống. Sau khi cáo lỗi, Nguỵ Triển liền nghiêng người ngồi xuống

Sau khi cạn chén rượu đầu, Đỗ Văn Hạo nói: “Nguỵ đại nhân, nghe nói hôm Hoàng Thượng băng hà, ngài mải mê rượu chè mà hỏng việc, không kịp thời cứu chữa Hoàng Thượng, phải không?’

Nguỵ Triển cầm chén rượu. Uống một hơi cạn rồi cúi đầu nói: “Đại nhân, ty chức không thể cứu chữa Hoàng Thượng, quy tội như vậy, ty chức không có oán thán gì, dù chết cũng không oán. Nhưng vấn đề là ty chức không ham rượu. Nhiều năm nay ty chức không uống rượu. Hơn nữa đại nhân cũng hiểu Ngự y trực trị bệnh bất kỳ lúc nào cũng túc trực bên cạnh Hoàng Thượng. Ở nơi đó có cơ hội uống rượu sao? Làm gì có rượu mà uống”.

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Lúc ây đã xảy ra chuyện gì? Ngài có thể nói ta nghe một chút không?”

Nguỵ Triển thở dài một tiếng nói: “Ngày mai đã xử chém. Nói những điều này còn tác dụng gì không? Không bằng hãy nâng ly một hồi, uống say mơ màng ra pháp trường” Nói xong Nguỵ Triển tự tay rót một bát lớn, hắn chắp tay hướng Đỗ Văn Hạo nói: “Đa tạ đại nhân ban thưởng rượu” Nói rồi ông ta nâng bát uống một hơi cạn sạch rồi ho khan một hồi lâu.

Đỗ Văn Hạo đợi cho Nguỵ Triển ho xong mới trầm giọng nói: “Thực không dám dấu giếm, Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ để cho ta điều tra vụ án của ngài. Nếu như thực sự như ngài nói, có lẽ có cơ hội xoay chuyển”.

Nguỵ Triển cười gượng nói: “Cơ hội xoay chuyển? Trưa ngày mai đã bị xử chém, xoay chuyển làm gì? Hơn nữa lão hủ đã luôn nói không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì thì làm thế nào rửa nỗi oan khuất?”

Chương 397: Không Phải Độc Dược của Độc Dược

“Quả thực có gì đó rất kỳ quặc” Nguỵ Triển di chuyển thân hình, đụng phải xích sắt khiến ông ta cảm thấy gân cốt như muốn đứt ra. “Lão hủ xưa nay ngủ không quá sâu. Chỉ cần có tiếng động nhẹ là sẽ tỉnh lại. Nhưng tại sao đêm đó lại chìm vào giấc ngủ sâu, sau khi tỉnh lại thì đã là tối ngày hôm sau? Khi thẩm vấn lão hủ nghe nói lúc đó cho dù dùng bất kỳ hình thức nào, kể cả đánh lão hủ cũng không tỉnh lại. Không phải như vậy rất kỳ lạ sao?”

Trong lòng Đỗ Văn Hạo khẽ chấn động: “Trước khi đi ngủ ngài uống chén trà đó sao?”

“Đúng vậy”.

“Đó là trà gì? Ai bưng lên cho ngài?”

“Một chén trà đậm đặc. Ta có thói quen khi trực trị bệnh thì muốn uống một chén trà đậm đặc, như vậy mới khó ngủ, thậm chí là không ngủ vì sợ ảnh hưởng tới việc chữa trị. Trà là do cung nữ hầu hạ mang tới. Các nàng ấy cũng biết thói quen của ta. Bao nhiêu năm này đều như vậy, không cần phải căn dặn”.

“Ngài có uống hết chén trà của buổi tối đó không?”

“Đương nhiên là uống cạn. Sau khi uống cạn thì ta nằm nghỉ, ngủ rất nhanh”.

“Trong trà có mùi vị khác thường nào không?”

Nguỵ Triển sững sờ, hắn cau mày suy nghĩ một lát nói: “Có, có một chút. Hơi đắng. Lúc đó ta đã hỏi cung nữ bưng trà xem đây có phải là trà hỏng không. Cung nữ còn nói đây là trà Khổ Đinh mới tiến cống. Đó chính là vị trà. Ta không nghi ngờ gì nữa liền uống cạn”.

“Mùi đắng?” Đỗ Văn Hạo trầm ngâm một lát rồi lại hỏi: “Ngài có ấn tượng nào với người cung nữ bưng trà cho ngươi không?”

“Là Đại Đào, cung nữ trong phòng của Đức Phi nương nương, khoé miệng có một nốt ruồi”.

Đỗ Văn Hạo thường xuyên tới tẩm cung của Đức Phi, Đại Đào này là một trong những thị nữ thân cận của Đức Phi nương nương. Nguỵ Triển vừa nói Đỗ Văn Hạo đã đoán ra. Hắn lại tiếp tục hỏi một số tình huống nhưng Nguỵ Triển không biết bởi vì khi ông ta đang ngủ, Hoàng Thượng băng hà lúc nào ông ta cũng không biết.

Đỗ Văn Hạo nói: “Nguỵ đại nhân, ngài cứ từ từ uống. Ta đi trước”.

Nguỵ Dương khó nhọc đứng dậy, chắp tay, tiếng leng keng của xích sắt vang lên: “Đa tạ đại nhân. Ai!, trước khi chết có thể gặp mặt đại nhân, lại được đại nhân ban cho rượu, lão hủ cũng cảm thấy mãn nguyện rồi”.

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: “Nguỵ đại nhân, Hoàng Thái Hậu có khẩu dụ, miễn trừ tội chết ngày mai của ngài. Đợi sau khi vụ án này được tra xét rõ ràng thì sẽ căn cứ vào đó xử lý”.

“Hả?” Nguỵ Triển kinh ngạc vui mừng hỏi: “Đại nhân, chuyện này có thật sao?”

“Ha ha ha. Ta dù gan to bằng trời cũng không dám giả truyền ý chỉ. Tiêu công công, thái giám truyền chỉ đang đợi ở bên ngoài. Ta ra gọi, ngài cứ chờ”.

‘Cám ơn! Ta tin. Ta tin lời nói của đại nhân. Đa tạ ơn đại nhân cứu mạng” Nói xong Nguỵ Triển vén áo bào, khuỵ xuống dập đầu.

“Đây là ân điển của Hoàng Thái Hậu. Ta không có làm gì hết” Đỗ Văn Hạo mỉm cười, đỡ Nguỵ Triển đứng dậy.

Nguỵ Triển khó nhọc đứng dậy, kích động trào lệ nói: “Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ để lão hủ chết. Lão hủ hiểu rõ nếu không có đại nhân nói tốt trước mặt Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu nhất định sẽ không thu hồi mệnh lệnh đã ban. Ơn cứu mạng này của đại nhân, lão hủ trọn đời không quên”.

“Có giữ được mạng sống hay khônh thì còn dựa vào kết quả điều tra. Nhưng ngài có thể yên tâm. Nếu quả thực đúng như lời ngài nói, có người hãm hại, ta sẽ điều tra rõ việc này. Nếu quả thực đúng như vậy, ta nhất định sẽ bảo vệ tính mạng của ngài”.

Nguỵ Triển nức nở, liên tục chắp tay thi lên, đang định quỳ xuống thì bị dvh ngăn cản. Sau khi nói mấy câu an ủi Nguỵ Triển, Đỗ Văn Hạo liền cáo từ đi ra. Bên ngoài Tiêu công công đã đang tuyên ý chỉ của Hoàng Thái Hậu tha chết cho Nguỵ Triển với cai ngục, thấy Đỗ Văn Hạo đi ra liền dẫn người đi vào tuyên chỉ với Nguỵ Triển. Đương nhiên Nguỵ Triển cảm kích rơi nước mắt.

Sau khi Đỗ Văn Hạo nói lại với Tiêu công công việc đó, Tiêu công công quyết định mang theo người cùng Đỗ Văn Hạo tới tẩm cung của Đức Phi nương nương điều ta sự việc.

Khi đoàn người tới Thánh Thuỵ cung của Đức Phi nương nương, cửa cung đã đóng chặt. Lập tức có thái giám bước tới gõ cửa, cửa cung nhanh chóng mở ra. Vừa nhìn thấy Tiêu công công mang theo đội Đả thủ, cung nữ đã sợ run bắn cả người, vội vàng quỳ dạp xuống thi lễ nói: “Công công, nương nương chúng tôi không ở đây. Nương nương đang túc trực bên linh cữu ở tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu”.

“Chúng ta không tới tìm nương nương của các ngươi” Tiêu công công đẩy người cung nữ sang bên rồi bước vào trong, mhìn lướt qua sân tối om như mực hỏi: “Người cung nữ có tên là Đại Đào có ở đây không?”

“Dạ, đã ngủ rồi”.

Tiêu công công quay đầu nhìn đội cung nữ Nội thị nói: “Hai người các ngươi đi theo cung nữ này dẫn Đại Đào tới đại dường. Mau!”

Hai cung nữ Nội thị trả lời rồi kéo người cung nữ cùng đi. Tiêu công công và Đỗ Văn Hạo đi thẳng vào đại sảnh. Lập tức thái giám hầu hạ thắp sáng đèn cung đình.

Một cung nữ trong trạng thái buồn ngủ nhanh chóng bị dẫn ra đạnh sảnh, lúng túng quỳ dưới đất.

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng hỏi: “Ngươi chính là Đại Đào?”

“Dạ!”

Đỗ Văn Hạo hỏi thẳng: “Ngày Hoàng Thượng băng hà, có phải ngươi đã bưng một lên trà tới cho Thái y thừa Ngụy Triển uống không?”

Đại Đào bất giác sợ run cả người, sợ hãi cúi đầu chậm rãi trả lời: “Dạ, là nô tỳ mang tới”.

“Trà đó lấy ở đâu?”

“Là nô tỳ pha”.

“Là trà gì?”

“Dạ, hình như là trà Khổ Đinh”.

Đỗ Văn Hạo nặng nề đập tay xuống bàn trà. Đại Đào sợ hãi tới mức cả người run lập cập. “Bản quan nói thật cho người biết. Chính vì Nguỵ thái y uống trà Khổ Đinh đó mà kết quả là ngủ mê man tới tận chiều hôm sau mới tỉnh lại, nên đã chậm trễ cứu chữa Hoàng Thượng. Rốt cuộc ngươi đã cho cái gì vào trong trà?”

Đại Đào sợ quá “rầm” một tiếng quỳ dạp xuống đất nói: “Nô tỳ oan uổng”.

“Oan uổng?” Đỗ Văn Hạo nghe giọng nói chưa có gì lo lắng, ánh mắt láo liên lập tức trong lòng đã hiểu phần nào. Hắn cười nhạt nói: “Ha ha. Không dùng đại hình ngươi không nhân tội. Công công, hãy tra khảo con tiện tỳ này”.

“Được! Dụng hình!” Tiêu công công vung tay. Hai cung nữ cao lớn thô kệch, chân tay nhanh nhẹn, cho Đáng chỉ vào hai tay Đại Đào rồi ra sức kéo. Tiếng kêu thảm thiết của Đại Đào vang lên khắp đại sảnh, cùng với đó là tiếng vỡ vụn của xương cốt khiến lòng người run sợ, cực kỳ doạ người.

Đại Đào chỉ kiên cường trong khoảng thời gi­an uống chưa hết một chung trà rồi gào thảm thiết nói: “Xin tha mạng. Nô tỳ nói” Tiêu công công vung tay, lúc này hai cung nữ mới thu lại Đáng chỉ. Mười ngón tay của Đại Đào máu thịt lẫn lộn, hình như đã có mấy đầu ngón tay đã bị kẹp nát, đau đớn như châm kim, suýt chút nữa ngất xỉu. Đại Đào quỳ dạp trên mặt đất khóc nói: “Là trà của Ung Vương. Ung Vương đưa cho nô tỳ năm lạng, bắt nô tỳ nói với Nguỵ Thái y đây là trà Khổ Đinh mới tiến cống. Tất cả cũng đều là do Ung Vương dạy nô tỳ. Nô tỳ thực sự không biết uống trà vào mê man không tỉnh. Thật sự việc này không liên quan tới nô tỳ”.

Đỗ Văn Hạo mừng thầm trong lòng. Quả nhiên chuyện này có quan hệ tới Ung Vương vậy đừng trách mình lòng dạ độc ác. Phải điều tra tới cùng, thẩm vấn nghiêm chỉnh các chi tiết liên quan. Đại Đào này nói rất cặn kẽ, không giống như đang bịa chuyện.

Trong cả quá trình thẩm vấn có một thái giám chuyên môn phụ trách ghi chép khẩu cung ghi lại, cuối cùng để Đại Đào ký tên rồi mới đeo gông xiềng dẫn đi.

Đỗ Văn Hạo cùng Tiêu công công thương lượng. Cả hai quyết định tới ngay Ngự dược viện.

Căn cứ theo quy định của hoàng cung. Bất kỳ loại thuốc nào dùng cho Hoàng Thượng đều phải chia làm hai phần. Một phần được lưu lại, một phần để Hoàng Thượng dùng. Phần lưu lại có thể dùng để kiểm tra lại xem có tồn tại vấn đề gì không.

Khi hai người tới Ngự dược viện, tất nhiên ở đây cũng đã đóng cửa. Sau khi viên quan trực mở cửa ra thấy Tiêu công công và tam nha Đô Chỉ Huy Sứ tới liền vội vàng chạy đi báo cho Viện sứ Ngự dược viện. Viện sứ Ngự dược viện họ Khang không kịp mặc quan bào vội vàng chạy ra nghênh đón.

Đỗ Văn Hạo nói: “Khang Viện sứ, xin mời đem tất cả đơn thuốc cùng mẫu thuốc Hoàng Thượng dùng trước khi băng hà ra đây. Bản quan muốn điều tra thực hư”.

Khang Viện sứ khó xử, ông ta chắp tay nói: “Tướng quân, thật sự xin lỗi. Chỉ có Hoàng Thượng hạ chỉ mới có thể lấy đơn thuốc cùng mẫu thuốc lưu lại ra để kiểm tra thực hư”.

Tiêu công công the thé mắng: “Đầu ngươi hôn mê à? Hoàng Thượng đã băng hà, chưa chỉ định ngưòi thừa kế ngôi vị Hoàng Đế. Ngươi bảo chúng ta đòi Thánh chỉ ở chỗ nào?”

“Hì hì. Ý chỉ của Hoàng Thái Hậu cũng được. Nếu không chúng ta chỉ còn cách đợi tới khi tân Hoàng Thượng lên ngôi hãy điều tra. Thật sự xin lỗi. Đây là quy định. Làm trái với quy định chính là tử tội. Ty chức không dám làm trái”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Ai kêu ngươi làm trái? Bản quan phụng ý chỉ của Hoàng Thái Hậu điều tra vụ án Nguỵ Triển không làm tròn chức trách, cần lấy thuốc lưu tồn để kiểm tra. Ngay cả điều này cũng không được sao?”

Khang viện sứ cúi đầu hành lễ nói: “Tất nhiên là được. Nhưng mà dựa theo quy định, tướng quân vẫn phải đưa raăn bản ý chỉ của Hoàng Thái Hậu làm bằng chứng. Ty chức nhìn thấy ý chỉ mới có thể hạ lệnh đi lấy. Bằng không dù ty chức đồng ý, chỉ e nhị vị giám sát của Ngự Sử đài không nhìn thấy ý chỉ cũng sẽ không đồng ý. Một khi bọn họ không đồng ý, không thể lấy đơn thuốc cùng thuốc lưu giữ được”.

Các vấn đề liên quan tới việc dùng thuốc của Hoàng Thượng trong hoàng cung được quy định cực kỳ nghiêm ngặt. Sau khi kê đơn thuốc, phải trải qua cục dược tiến hành kiểm tra lại, xác nhận không có vấn đề gì, gi­ao cho Ngự dược viên dựa theo đơn thuốc tiến hành bốc thuốc gấp đôi liều dùng. Sau khi phối thuốc lại trả qua sự kiểm tra của nôi thị giám sát Ngự Sử Đài, chia thuốc ra làm hai phần. Một phần đem sắc, một phần niêm phong cất vào kho, đóng dấu, gắn xi phong kín lại, hai nội thị giám sát chia nhau ký tên rồi mới niêm phong cất vào tủ bảo vệ. Chìa khoá của tủ bảo vệ này cũng do Viện sử cùng hai nội thị giám sát quản lý. Phải sử dụng đồng thời chìa khoá của ba người mới có thể mở ngăn tủ bảo quản ra. Chế độ nghiêm ngặt đó chính là để bảo đảm thuốc lưu giữ không bị đánh tráo.

Trong khi đó muốn lấy thuốc lưu giữ tiến hành điều tra thì nhất định phải có Thánh chỉ của Hoàng Thượng. Không có Thánh chỉ của Hoàng Thượng, tự tiện mở ra chính là tử tội. Khang Viện sứ cũng không thể giỡn chơi với cái đầu của mình được.

Khang Viện sứ thấy Đỗ Văn Hạo không dùng sức mạnh để ép lấy thuốc lưu giữ, ông ta thở phào nhẹ nhõm, cười nói: “Tướng quân, Ung Vương gia đã có nghiêm lệnh, không có sự đồng ý của người, cho dù là bất kỳ kẻ nào cũng không được lấy thuốc lưu giữ ra kiểm tra. Vì vậy muốn lấy thuốc ra còn cần sự cho phép của Ung Vương gia”.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn Khang Viện sử hỏi: “Thật vậy sao?”

“Đúng vậy. Đây chính là tử lệnh của Ung Vương gia. Ty chức không dám không theo. Ha ha”.

“Vậy coi như đã làm phiền. Cáo từ!”

Đỗ Văn Hạo dẫn theo mấy ngưòi Tiêu công công rời khỏi Ngự dược viện. Tiêu công công khẽ hỏi Đỗ Văn Hạo: “Tướng công, chuyện này bỏ qua như vậy sao?”

“Đương nhiên là không” Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: “Tại sao Ung Vương lại ra nghiêm lệnh này? Ha ha, chỉ sợ là giấu đầu lòi đuôi. Đi, chúng ta tới gặp Hoàng Thái Hậu lấy ý chỉ”.

Nhóm người của Đỗ Văn Hạo đi vào tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hâu. Ngày mai là ngày đưa tang Thái Hoàng Thái Hậu. Đêm nay là đêm cuối cùng, Hoàng Thái Hậu mang theo các phi tần túc trực trước linh cữu. Sau khi thông báo vào trong, Hoàng Thái Hậu lập tức triều kiến.

Hoàng Thái Hậu cho tả hữu lui ra, ngoắc tay ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo tới ngồi cạnh mình trên giường: “Văn Hạo, ngươi tới đúng lúc, ta đang định cho người tới truyền đòi ngươi”.

Bây giờ đã gần nửa đêm canh ba. Hoàng Thái Hậu sốt ruộ phái người triệu kiến hắn nhất định là có chuyện khẩn cấp. Đỗ Văn Hạo chưa kịp bẩm báo tiến triển của tình hình điều tra đã vội hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì sao?”

“Không có! Chỉ là có một chuyện quan trọng. Lúc trước ta đã không để ý tới. Vừa mới rồi quan chấp sự phụ trách khiêng linh cữu bẩm báo với ta: Muốn cử hành lễ từ linh rạng sáng ngày mai thì phải có người thống lĩnh Hoàng tộc tế lễ theo thứ tự. Sau đó khi khiêng linh cữu đưa tang cũng phải có người thống lĩnh Hoàng tộc bắt đầu nghi thức tế lễ, tiến hành tế lễ tổ tông. Khiêng linh cữu trước Ngọ Môn cũng phải có người chỉ huy. Ai là người có thể đảm đương trách nhiệm này?”

Đỗ Văn Hạo trả lời không cần suy nghĩ: “Điều này đương nhiên là người. Trong Hoàng tộc còn có ai cao hơn người sao?”

“Quan chấp sự nói: Dựa theo quy định của tổ tiên, người chủ trì tế lễ chỉ có thể là Hoàng Đế’.

Hoàng Đế ở đây chính là Hoàng Đế kế vị. Người chủ trì tế lễ của Hoàng Đế băng hà chính là chuyện đại sự. Điều này Đỗ Văn Hạo hiểu, vấn đề ở đây là Ung Vương và lục Hoàng tử đều tranh giành ngôi vị Hoàng Đế. Dựa theo quy định trong Hoàng cung, người trủ trì tế lễ chính là Hoàng Đế kế thừa ngôi vị. Một khi xác định bất kỳ ai trong số hai người trủ trì tế lễ khiêng linh cữu thì đã đương nhiên chấp nhận người đó chính là người thừa kế ngôi vị Hoàng Đế.

Đỗ Văn Hạo gật đầu. Hắn cũng cảm thấy đây là một chuyện khó giải quyết. Hắn nhìn Hoàng Thái Hậu hỏi: “Thao Thao, ý của nàng?”

“Ta?” Hoàng Thái Hậu cười nói: “Ta không có ý gì, ngươi cứ nói đi”.

Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng nói: “Chuyện này có quan hệ tới người thừa kế ngôi vị. Ta không thể làm thay cho nàng được”.

Hoàng Thái Hậu sẵng giọng nói: “Ngươi còn khách sáo với ta sao? Ngươi đã nói giúp ta. Ngươi có chủ ý gì hãy mau nói ra đi”.

Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng cầm bàn tay mềm mại của nàng nói: “Được, ta giúp nàng nhưng mà có một chuyện ta muốn bẩm báo với nàng trước…”

Hoàng Thái Hậu cau mày nói: “Ta đang như có lửa đốt trong lòng ngươi còn nói sang chuyện khác. Trước tiên hãy nói chuyện này. Việc khác nói sau”.

“Chuyện ta muốn nói chính là có liên quan tới chuyện đó. Sau khi nàng nghe xong chuyện này, có lẽ sẽ giúp cho nàng hạ quyết tâm ai là người đảm đương trách nhiệm trủ trì trách nhiệm khiêng linh cữu”.

“Hả?” Hoàng Thái Hậu ngạc nhiên nhìn hắn: “Vậy ngươi nói đi”.

Đỗ Văn Hạo liền thuật lại chuyện điều tra vừa rôi, cuối cùng hắn nói: “Sau khi điều tra sơ bộ thì thấy Ung Vương từng bắt Đại Đào, thị nữ thân cận của Đức Phi nương nương bưng một chén trà tới cho Thái y thừa Nguỵ Triển uống. Sau khi uống chén trà này, Nguỵ Triển ngủ mên man tới chiều tối ngày hôm sau. Sau khi tỉnh lại thì toàn thân hắn sực mùi rượu. Từ trước tới nay Nguỵ Triển không uống rượu vì vậy ta hoài nghi trong này có chuyện mờ ám nào đó”.

Sắc mặt Hoàng Thái Hậu trở nên tái nhợt. “Ngươi nói là Nhan nhi giở trò quỷ khi Hoàng Thượng băng hà sao?”

Đỗ Văn Hạo chậm rãi gật đầu nói: “Mặt khác căn cứ vào lời của Đức Phi nương nương: Sau khi thuốc của Hoàng Thượng tăng thêm đan dược chu sa, bệnh không thuyển giảm, trái lại còn trầm trọng hơn vì vậy ta nghi ngờ thuốc của Hoàng Thượng đã bị người thay đổi. Vừa rồi ta và Tiêu công công tới Ngự dược viện định bụng lấy thuốc lưu giữ ở đó để kiểm tra làm rõ thực hư. Kết quả Khang Viện sứ nói muốn lấy thuốc lưu giữ để kiểm tra phải có Thánh chỉ hoặc ý chỉ của Hoàng Thái Hậu. Nhưng Khang Viện sứ còn nói: Lúc trước Ung Vương gia có ra nghiêm lệnh ai muốn lấy thuốc điều tra phải có mệnh lệnh của Ung Vương gia”.

“Thật vậy sao?” Hoàng Thái Hậu cắn đôi môi son suy nghĩ sau đó chậm rãi đứng dậy nói: “Đi! Ngươi theo ta tới lấy thuốc lưu giữ điều tra”.

Đỗ Văn Hạo thầm vui mừng trong lòng. Hắn vội kêu Tiêu công công mang đội Nội thị đi cùng. Sau khi Ngự giá của Hoàng Thái Hậu tới Ngự dược viện, cảnh cửa mở ra, viên quan trực thấy Hoàng Thái Hậu thân chinh ngự giá tới thì hoảng sợ giống như con thỏ vậy, hắn vội vàng chạy đi báo cho Khang viện sứ.

Khang viện sứ vừa mới cởi quần áo nằm nghỉ lại, vẫn chưa ngủ được, nhận được tin tức liền hấp tấp mặc quan bào chạy tới nghênh đón. Nội thị giám sát do Ngự sử đài phái tới ở Ngự dược viện cũng nhận được thông báo Hoàng Thái Hậu muốn kiểm tra vấn đề của thuốc lưu giữ thì cũng cuống quýt rời khỏi giường chẠtới.

Hoàng Thái Hậu chỉ lạnh lùng nói một câu với ba người đó: “Lấy thuốc dùng cho Hoàng Thượng trong ngày băng hà. Ai gia muốn kiểm tra”.

Khang viện sứ và hai viên nội thị giám sát liên thanh trả lời, chạy đi mở các khay tủ, cẩn thận lấy thuốc lưu giữ ra. Sau khi kiểm tra dấu vết niêm phong vẫn còn nghiêm chỉnh, bỏ vào khay đưa tới dâng lên Hoàng Thái Hậu.

Hoàng Thái Hậu nói với Đỗ Văn Hạo: “Đỗ ái khanh, người hãy tới kiểm tra”.

“Dạ” Đỗ Văn Hạo tiến lên tiếp nhận khay đựng thuốc. Sau khi kiểm tra thấy dấu vết niêm phong không có gì thay đổi, xác nhận thuốc không bị đánh tráo, hắn mới dùng tiểu đao, mở niêm phong, lấy gói thuốc bên trong đặt lên bàn, cởi bỏ dây buộc, mở ra nhìn. Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói với Hoàng Thái Hậu: “Thái Hậu, vi thần còn cần phải kiểm nghiệm những gói thuốc trước đó để tiến hành đối chiếu. Tốt nhất là lấy trong vòng thời gi­an mười ngày”.

“Được. Hãy mang thuốc dùng cho Hoàng Thượng trước đây được giữ lại ra kiểm nghiệm”.

Khang viện sứ cùng hai viên nội thị vội vàng chạy đi lấy thuốc dùng cho Hoàng Thượng trong vòng mười ngày mang tới. Sau khi Đỗ Văn Hạo lấy ra, nhìn qua một lượt rồi hắn nói với Hoàng Thái Hậu: “Thái Hậu, thỉnh người di giá tới xem”.

Hoàng Thái Hậu đứng dậy, chậm rãi đi tới trước bàn.

Đỗ Văn Hạo chỉ vào mười gói thuốc để trân bàn nói: “Hoàng Thái Hậu, những thuốc dùng cho Hoàng Thượng đều do vi thần kê đơn. Nhưng có gia tăng thêm một vị thuốc. Đó là Chu sa. Căn cứ theo điều tra biết được chính là Ung Vương gia đã đề nghị gia tăng Chu sa. Hơn nữa lượng Chu sa trong mười thang trước này đều rất nhiều, vượt qua giới hạn bình thường mấy lần. Ba thang sau lượng Chu sa gấp mười lần. Đặc biệt ở thang cuối cùng này, xin thỉnh Hoàng Thái Hậu nhìn xem, lượng Chu sa trong thang thuốc này đã vượt qua lượng Chu sa trong ba thang kia mấy chục lần. Với lượng Chu sa đó đủ để cho một người trúng độc chết rất nhanh chóng”.

Khang viện sứ cũng là Ngự y, ông ta nghe vậy sợ hãi, rụt rè hỏi một câu: “Tướng quân, không phải Chu sa là thượng phẩm tiên dược sao? Hình như hạ quan chưa bao giờ nghe thấy trúng độc Chu sa”.

Hoàng Thái Hậu cũng nghi ngờ nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nói: “Cách để kiểm nghiệm lời nói của vi thần chính là hãy thử nghiệm một lần. Dùng một lượng Chu sa giống như lượng Chu sa dùng cho Hoàng Thượng trong ngày băng hà cho một con lợn béo có trọng lượng tương tự với trọng lượng của một người ăn thử là sẽ biết có trúng độc hay không”.

Hoàng Thái Hậu thấy Đỗ Văn Hạo khẳng định như vậy thì vung tay nói: “Đi tìm một con lợn phù hợp tới đây. Lấy liều Chu sa tương tự như vậy cho nó ăn”.

Tiêu công công trả lời rồi lập tức dẫn người đi tới chỗ chăn nuôi súc vật ở Ngự Thiện Phòng, tìm một con lợn rồi mang tới Ngự dược phòng.

Khang viện sứ cùng hai nội thị giám sát của Ngự Sự Đài ước lượng lượng Chu sa trong gói thuốc rồi mang tới một liều Chu sa tương tự, quấy vào trong thức ăn gia sức, ép con lợn đó ăn.

Chỉ chưa tới thời gi­an ăn xong một bữa cơm, con lợn đó liền kêu lên một tiếng, lăn lộn trên mặt đất, miệng sùi bọt mép. Chỉ trong một thời gi­an đốt một nén nhang, nó run rẩy nằm trên mặt đất sau đó thì không nhúc nhích được nữa.

Tiêu công công tiến lên kiểm tra hơi thở của con lợn, rồi khom người nói: “Hoàng Thái Hậu, con lợn đã chết”.

Hoàng Thái Hậu quá sợ hãi, nàng đứng dậy đi tới trước, ngồi xổm kiểm tra hơi thở của con lợn ngay lập tức sắc mặt tái nhợt, chậm rãi đứng lên, nhìn chằm chằm vào mặt Khang viện sứ hỏi: “Rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì?”

Chương 398: Thẩm vấn đêm khuya

Khang viện sứ hốt hoảng quỳ xuống, dập đầu nói: “Hoàng Thái Hậu, vi thần không biết. Những gói thuốc này không bốc theo đơn cũ, cũng không phải do vi thần kiểm tra”.

“Là ai?” Hoàng Thái Hậu lạnh lùng hỏi.

“Căn cứ theo ký tên trên gói giấy, nhất định là Ngự dược viện Viện phán Hoàng Cẩm Mộc và Hồ Húc kiểm nghiệm”.

Hoàng Thái Hậu quay đầu nhìn Tiêu công công nói: “Hãy phái người đi bắt hai người đó tới đây”.

Tiêu công công trả lời rồi mang theo một đội Nội thị vội vã rời khỏi Ngự dược viện.

Trong đại sảnh Ngự dược viện, Hoàng Thái Hậu âm trầm, nghiêm mặt ngồi lặng lẽ. Dù chính mắt nàng đã nhìn thấy con lợn trúng độc Chu sa mà chết nhưng trong lòng vẫn trăm mối tơ vò. Nàng nhìn Đỗ Văn Hạo hỏi: “Đỗ ái khanh, vì sao Chu sa có thể trúng độc?”

Người cổ đại hoàn toàn tin tưởng Chu sa không có độc đó là vì Chu sa không giống với thạch tín. So với thạch tín, lượng trúng độc phải nhiều hơn nhiều, dẫn tới cái chết lại càng nhiều hơn. Trong khi đó lượng Chu sa dùng trong thuốc lại rất bình thường, không đạt tới lượng để gây chết người. Dù tương truyền là Chu sa có thể kéo dài tuổi thọ, nhưng mà ngay cả dân thường cũng biết cần phải có đại sự luyện đan chế luyện mới thành vì vậy không ai vì muốn kéo dài tuổi thọ mà trực tiếp dùng Chu sa. Vì vậy việc trúng độc Chu sa cực kỳ hiếm gặp. Chính vì vậy người cổ đại thiếu sự hiểu biết về độc tính của Chu sa. Hơn nữa đa phần chu sa gây trúng độc mãn tính. Ví dụ như một số bậc đế vương mưu cầu trường sinh bất lão dùng đan dược có Chu sa nên trở thành người trúng độc mãn tính.

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ kỹ lưỡng cách giải thích vấn đề này, Hắn cúi người nói: “Hồi bẩm Hoàng Thái Hậu. Phàm cái gì gọi là thuốc thì đều có ba phần độc. Bất kỳ loại dược liệu nào cũng có độc. Cứ nhìn xem liều lượng dùng trong đơn. Nếu như liều thuốc nằm trong phạm vi bình thường, cho dù loại kịch độc như thạch tín cũng là dược liệu. Như trong đơn thuốc Thánh Huệ có cao thạch tín, có thể dùng để trị liệu vết thương lở loét ác tính làm thịt thối. Trong Tử Kim đan có phối hợp với thạch tín, cóp thể trị chứng hàn đờm, thở khò khè. Nhưng nếu một khi vượt quá liều thuốc dùng thì cho dù dược liệu thưởng phẩm như Chu sa cũng trở thành độc vật. Lại ví dụ như dược liệu “Rễ bản lam” (vị thuốc Bắc dùng giải nhiệt, tiêu độc, phòng bệnh) thường dùng trị liệu cảm mạo, ôn bệnh phát nhiệt. Từ xưa tới nay trong tất cả các y thư đều không ghi “Rễ bản lam” có độc nhưng mà nếu xử dụng liều lượng lớn cũng sẽ trúng độc chết. Trước kia vi thần hành nghề y cũng đã từng gặp qua bệnh án này. Lại ví dụ như “Thanh mộc hương” có thể được dùng trị chứng đau bụng. Y thư cũng không ghi có độc nhưng mà dùng với liều lượng lớn cũng có thể gây ra cái chết. Nếu như Hoàng Thái Hậu không tin thì có thể nhân dịp này kiểm nghiệm lại lần nữa”.

Hoàng Thái Hậu nói: “Ai gia tin tưởng lời của ngươi, không cần phải thử”.

Đỗ Văn Hạo khom người, chắp tay nói: “Đa tạ Hoàng Thái Hậu. Hoàng Thượng dùng Chu sa còn có một điều cực kỳ hại. Đó chính là bệnh của Hoàng Thượng. Bệnh của Hoàng Thượng gọi là thận suy kiệt. Đây là do thận xuất hiện vấn đề. Trong khi đó hậu quả trực tiếp của dùng Chu sa quá liều đó là làm tăng mức độ của thận suy kiệt khiến cho bị suy thận cấp tính mà chết. Vì thế đối với Hoàng Thượng mà nói, dùng Chu sa quá liều không khác gì dùng thạch tín”.

Hoàng Thái Hậu chậm rãi gật đầu nói: “Ai gia đã hiểu. Chuyện này nhất định phải tra ra manh mối. Ai gia tất có phán xét”.

“Dạ!” Đỗ Văn Hạo thầm vui mừng. Trước đây hắn một mực nghi ngờ Ung Vương gia đứng sau giở trò quỷ. Bây giờ xem ra càng có nhiều điểm để chứng minh điều này. Chỉ cần Hoàng Thái Hậu có thái độ này, Ung Vương nhất định sẽ không thể đăng cơ”.

Một lát sau Ngự dược viện Viện phán Hoàng Cẩm Mộc cùng Hồ Húc bị dẫn tới. Ngay khi cả hai nhìn thấy gói thuốc mở ra để trên bàn, trên mặt đất còn có một con lợn chết tức thì cả hai giật nảy mình, quay người quỵ xuống lê tới dập đầu.

Hoàng Thái Hậu lạnh lùng hỏi: “Những gói thuốc trên bàn có phải do các ngươi phối chế và kiểm nghiệm không?”

Tiêu công công bước tới cầm gói thuốc để trên mặt đất trước mặt hai người. Sau khi hai người xem xét cẩn thận thì dập đầu trả lời là đúng.

Hoàng Thái Hậu lạnh lùng nói: “Lúc nãy Ai gia đã lấy một lượng Chu sa ngang bằng với lượng các ngươi dùng trong gói thuốc cho lợn ăn. Kết quả con lợn trúng độc chết. Hãy nói đi, đây là chuyện gì?”

Hai người sợ ngây người, dập đầu thình thịch nói: “Hoàng Thái Hậu tha mạng! Đây toàn bộ là chỉ lệnh của Ung Vương gia cho bọn vi thần làm”.

Mày liễu của Hoàng Thái Hậu dựng lên, nàng lạnh lùng nói: “Đến tột cùng là đã xảy ra chuyện gì? Hãy nói thật ra. Nếu không Ai gia xử tử lăng trì hai ngươi, tịch thu gia sản cả nhà các ngươi”.

Hai người sợ tới mức hồn phi phách tán. Hoàng Cẩm Mộc run rẩy nói: “Vi thần nguyện nhận tội. Trước khi Hoàng Thượng băng hà…”.

“Chờ một chút!” Đỗ Văn Hạo cắt ngang lời, hắn nhìn Hoàng Thái Hậu: “Hoàng Thái Hậu, tách hai người này ra thẩm vấn từng người một. Ghi lại khẩu cung sau đó đối chiếu hai khẩu cung là biết thật hay giả”.

Hoàng Thái Hậu giật mình. Nàng sai người mang Hồ Húc ra đợi thẩm vấn sau, thẩm vấn Hoàng Cẩm Mộc trước.

HHoàng

Hoàng Cẩm Mộc dập đầu nói: “Trước khi Hoàng Thượng băng hà ba ngày, Ung Vương gia tới Ngự dược viện, gọi hai người vi thần ra ngoài nói: Hôm nay tinh thần Hoàng Thượng không tốt, cần điều dưỡng. Ung Vương nói đã tham khảo Trịnh Cốc, Viện sứ Thái y viện là có thể gia tăng liều lượng Chu sa trong thang thuốc của Hoàng Thượng.

Hai người vi thần có phần khó xử, bèn nói chỉ có thể bốc liều lượng thuốc theo đơn thuốc. Ung Vương gia nói đây là để kéo dài tuổi thọ của Hoàng Thượng. Nếu xảy ra chuyện gì Vương gia sẽ chịu trách nhiệm, bảo hai người vi thần cứ làm theo như lời Vương gia. Hai người bọn vi thần suy tính thấy Chu sa chính là tiên dược thượng phẩm, không những không có độc, hơn nữa còn có công dụng kéo dài tuổi thọ, gia tăng liều lượng cũng không có vấn đề gì xấu nên đồng ý”.

Hoàng Thái Hậu lạnh lùng nói: “Không bốc thuốc theo như đơn, tội trạng như thế nào ngươi có biết không?”

Hoàng Cẩm Mộc phủ phục trên mặt đất khóc nói: “Luận tội, luận tội đáng chém. Vi thần tội đáng chết nhưng tất cả đều là chỉ lệnh của Ung Vương gia, vi thần không dám không tuân theo, nhất thời hồ đồ, cầu xin Hoàng Thái Hậu tha mạng”.

Đỗ Văn Hạo nói xen vào: “Liều thuốc của ngày Hoàng Thượng băng hà nhiều hơn rất nhiều so với liều lượng của ba ngày trước đó. Đã xảy ra chuyện gì?”

Hoàng Cẩm Mộc nói: “Trước khi Hoàng Thượng băng hà một ngày, Ung Vương gia lại tới tìm hai người vi thần nói Hoàng Thượng vẫn có cảm giác tinh thần không tốt, muốn hai người vi thần thêm lượng thuốc lớn. Hai người bọn vi thần cũng không suy nghĩ gì cả liền tuân theo. Ngày hôm sau biết tin Hoàng Thượng băng hà. Chúng vi thần lo lắng có quan hệ tới liều thuốc dùng cho Hoàng Thượng nên tìm tới Ung Vương gia hỏi. Ung Vương gia hỏi lại hai người vi thần có bao giờ nghe nói người dùng Chu sa trúng độc chết chưa? Đương nhiên hai người vi thần lắc đầu. Ung Vương gia an ủi nói chỉ là chuyện trùng hợp. Hoàng Thượng mắc bạo bệnh, không có liên quan tới việc dùng dược, bảo hai người vi thần không cần lo lắng, cũng đừng nói lung tung ra bên ngoài”.

Hoàng Thái Hậu nghiêm mặt, sai người mang Hoàng Cẩm Mộc xuống dưới, dẫn Hồ Húc vào thẩm vấn. Sau khi thẩm vấn đem so với lời khải của Hoàng Cẩm Mộc thì hoàn toàn ăn khớp.

Hoàng Thái Hậu hạ lệnh tống hai người vào Thiên lao, gi­ao cho Đại Lý Tự hỏi tội. Cách toàn bộ chức vụ của Khang viện sứ Ngự dược viện, phế xuống làm thứ dân sau đó ra lệnh mang theo những gói thuốc đó, khởi giá hồi cung.

Sau khi quay lại tẩm cung, Hoàng Thái Hậu gọi Đỗ Văn Hạo vào trong phòng, đuổi người xung quanh ra khỏi phòng, rơi lệ nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Văn Hạo, bây giờ ta nên làm gì?”

Hoàng Thái Hậu không thể tưởng tượng lại tra ra kết quả này. Chính con trai thứ hai của nàng lại hạ độc giết chết con trai trưởng là Hoàng Thượng. Bất luận là nguyên nhân gì thì đối với một bà mẹ mà nói, không có cách nào nhận sự thật này.

Thật ra kết quả này khiến Đỗ Văn Hạo mừng thầm trong lòng nhưng gương mặt hắn lại làm bộ cực kỳ thông cảm: “Thao Thao, nàng cũng không cần quá thương tâm. Có lẽ Ung Vương gia cũng không biết liều lượng lớn Chu sa có thể làm người trúng độc chết. Có lẽ Vương gia có ý tốt nên mới làm vậy”.

Hoàng Thái Hậu nghe vậy nén lệ thương tâm, vui vẻ nói: “Đúng, đúng! May có ngươi nhắc nhở ta. Hoàn toàn có khả năng này. Nhan nhi tâm địa thiện lương, nó tuyệt đối không làm cái chuyện giết huynh đoạt vị này. Nhất định là nó nghĩ sai hay nghe người ta nói sai. Đúng, đúng. Ta lập tức cho người đi gọi Nhan nhi tới hỏi là biết liền”.

“Thao Thao, đợi một chút” Đỗ Văn Hạo vội vàng nắm lấy tay nàng.

“Có chuyện gì vậy?” Hoàng Thái Hậu ngẩng đầu hỏi.

“Hoàng Thái Hậu muốn tra ra chân tướng hay muốn thoát tội cho Ung Vương?”

“Đương nhiên muốn tra ra chân tướng”.

“Vậy nhất định nàng không thể hỏi thế được”.

Hoàng Thái Hậu sửng sốt rồi lập tức hiểu ý tứ của Đỗ Văn Hạo. Nàng gật đầu nói: “Không sai. Nếu như hỏi trực tiếp Nhan nhi như vậy, nói không chừng nó sẽ từ chối trách nhiệm. Không. Hỏi được tình huống thật sự, không có kết quả chính xác. Ngươi có đề nghị gì hay không?”

Đỗ Văn Hạo chậm rãi nói: “Chỉ có một cách nhưng vấn đề là cách này cũng hơi nguy hiểm một chút”.

“Ngươi hãy cứ nói xem biện pháp thế nào?”

“Hoàng Thái Hậu đã nghe qua chuyện Khấu Chuẩn đêm tối thẩm vấn Phan Nhân Mỹ chưa?”

Hoàng Thái Hậu thoáng sửng sốt hỏi: “Khấu Chuẩn? Khấu Bình Trọng? Tể tướng của Thái Tông Hoàng đế sao?’

“Đúng vậy”.

“Ta hiểu rồi nhưng mà ta không nghe nói tới Phan Nhân Mỹ. Người này là ai vậy?”

Đỗ Văn Hạo sửng sốt. Phan Nhân Mỹ là một đại gi­an thần thời Bắc Tống như vậy. Nàng thân là Hoàng Thái Hậu đương triều, tại sao lại không biết? Chuyện xưa của Dương gia tướng, bình thư (một hình thức văn nghệ dân gi­an của Trung Quốc, khi kể một câu dài dùng quạt, khăn làm đạo cụ), kịch truyền hình có rất nhiều, nhất là bình thư Dương gia tướng, Đỗ Văn Hạo nghe nhiều nên đã thuộc, hắn lập tức nói: “Phan Nhân Mỹ chính là Thái sư nắm quyền dưới thời Thái Tông Hoàng đế, là quốc cữu của Thái Tông Hoàng đế. Nữ nhi của hắn là Thái Tố Dung chính là Tây cung nương nương của Thái Tông Hoàng đế”.

“Tây cung nương nương của Thái Tông hoàng đế?” Hoàng Thái Hậu cau mày liễu. Nàng thân là Hoàng Thái Hậu, cực kỳ quen thuộc với gia phả Hoàng tộc. Nàng cẩn thận nhớ lại. “Thái Tông hoàng đế trước sau có bốn vị Hoàng Hậu. Theo thứ tự là Doãn Hoàng Hậu, Lý Hoàng Hậu cùng Lý Hiền phi. Sau khi Lý Hiền phi chết được truy phong. Phi tần có Vương Đức phi, không có ai là phi tần họ Phan”.

“Thật vậy sao?” Đỗ Văn Hạo thoáng trợn tròn mắt. Hắn nghiêm chỉnh suy nghĩ lập tức hiểu ra. Chuyện xưa Dương gia tướng đã trải qua quá trình cải biến nghệ thuật, trong đó có rất nhiều chuyện xưa là hư cấu, có khác biệt rất lớn với lịch sử chân thật. Nói không chừng Phan Nhân Mỹ này cũng chỉ là người dựa theo nguyên mẫu một nhân vật nào đó trong lịch sử vì thế không có thực hắn liền cười nói: “Cái này, ta cũng chỉ xem qua dã sử diễn nghĩa. Có khả năng là không đúng”.

Lúc này Hoàng Thái Hậu chỉ muốn biết làm thế nào để tra ra xem con thứ hai Ung Vương Triệu Nhan có phải thực sự hạ độc giết con trưởng là Tần Lạc hay không, cũng không muốn tìm hiểu nên gật đầu nói: “Vậy ngươi hãy nói tiếp chuyện xưa đó đi”.

Đỗ Văn Hạo tươi như hoa nói: “Ái tướng của Thái Tông hoàng đế là Dương lão lệnh công, Dương Kế Nghiệp, võ công cái thế, văn võ song toàn. Dưới trướng có tám con trai, được xưng là “thất lang bát hổ”, anh dũng thiện chiến, cực kỳ trung thành. Thái sư Phan Nhân Mỹ là con cáo già, mưu đồ gi­ang sơn Đại Tống, dung túng cho con là Phan Báo lập lôi đài, mưu đoạt ấn soái, bị con trai thứ bảy của Dương Kế Ngiệp là Dương thất lang đánh chết tại lôi đài, từ đó hai nhà kết oán. Sau này khi Thái Tông hoàng đế bị vây ở thành U Châu, Dương gia tướng tới U Châu cứu quân vương, huyết chiến Kim Sa Than”.

Hoàng Thái Hậu ngạc nhiên hỏi: “Thái Tông hoàng đế bị vây ở U Châu sao? Tại sao ta không biết?”

“Ha ha ha. Ta đã nói tất cả chỉ là chuyện dã xử. Có thể không đúng”.

“Ai, người cứ nói đi”.

“Dương gia tướng huyết chiến Kim Sa Than. Dương Kế Nghiệp binh mã bị vây ở bia Lý Lăng. Dương thất lang đánh mở đường máu xuống núi cầu viện. Phan Nhân Mỹ thân là đại soái không những phái quân cứu viện ngược lại còn mượn cơ hội báo thù, hắn dùng ế bắt Dương thất lang, treo lên trên cột cờ, dùng vạn tên bắn chết Dương thất lang. Dương lão lệnh công không muốn chịu nhục bị bắt nên đã đâm đầu vào bia Lý Lăng tự vẫn chết. Trận huyết chiến Kim Sa Than, cả nhà Dương gia tướng lần lượt chết trận, cuối cùng chỉ còn lại có Dương lục lang Diên Chiêu”.

“Chờ một chút. Ta nghe ngươi nói chuyện xưa này, hình như là chuyện Dương Nghiệp thời Thái Tông hoàng đế. Con trai của Dương Nghiệp là Dương Diên Chiêu”.

“Vậy đúng rồi. Dương Nghiệp, Dương Kế Nghiệp cũng không khác biệt nhau lắm. Đúng rồi, Dương gia tướng vẫn còn có hậu nhân sao?”

“Nếu đúng đó là Đại tướng Dương Nghiệp thì vẫn còn. Thiên Ba Dương phủ ở sau Hoàng cung không xa lắm”.

Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: “Dương lục lang còn sống không?”

“Ngươi nói đúng, Dương Diên Chiêu, đã sớm qua đời. Sau khi chết đã được an táng trong Vĩnh Hậu lăng cùng Anh Tông hoàng đế”.

Bây giờ Đỗ Văn Hạo mới hiểu được, sau khi Dương Diên Chiêu chết, được hưởng Hoàng ân chôn cất trong đế lăng. Hơn nữa còn được chôn cất trong lăng của Tống Anh Tông, trượng phu của Hoàng Thái Hậu. Hắn lại hỏi: “Vậy con của hắn là Dương Tông Bảo?”

“Dương Tông Bảo?” Hoàng Thái Hậu kinh ngạc nói: “Nghe nói Dương Diên Chiêu có ba con trai. Đứa con nhỏ nhất là Dương Văn Nghiễm, chưa nghe nói tới Dương Tông Bảo nhưng mà Dương Văn Nghiễm cũng đã chết. Chết cũng sớm lắm”.

“Dương gia tướng còn có ai không?”

Chuyện xưa của Dương gia tướng được thịnh hành lưu truyền là từ triều Minh sau này. Vào triều Tống thì Dương gia tướng vẫn chưa nổi danh như vậy. Hoàng Thái Hậu cũng không biết rõ nên lắc đầu nói: “Chờ sau khi chuyện này xong xuôi, người tới bái phỏng Thiên Ba phủ một chuyến, không phải sẽ biết sao? Trước tiên ngươi hãy nói về sự tích thẩm vấn đêm Phan Nhân Mỹ”.

“Đúng, đúng. Sau này Dương Diên Chiêu cực kỳ thương tâm, phẫn nộ, dâng tấu lên Kim điện tố cáo Phan Nhân Mỹ dùng việc quân báo tư thù. Phan Nhân Mỹ tìm mọi cách chối cãi, tuyệt đối không nhận tội. Thái Tông hoàng đế sai Ngự Sử Khấu Chuẩn thẩm tra vụ án này. Bát Hiền Vương Triệu Đức Phương cùng Khấu Chuẩn liền thiết kế một màn giả trang cảnh âm tào địa phủ. Bát hiền vương Triệu Đức Phương giả trang Diêm Vương, Ngự Sử Khấu Chuẩn giả trang Phán quan, đêm tối thẩm vấn Phan Nhân Mỹ. Phan Nhân Mỹ bị đưa tới Diêm La điện trong cảnh tối đen, không biết đó là giả. Trong cơn hoảng hốt hắn cứ tưởng là tới âm tào địa phủ thật, cuối cùng hắn bị doạ tới mức sợ hãi liền cung khai hết chân tướng sự việc. Cuối cùng bị khép tội chết. Ha ha ha”.

Hoàng Thái Hậu kinh ngạc nói: “Ý của ngươi là chúng ta cũng bày ra cảnh âm tào địa phủ, thẩm vấn Nhan nhi sao?”

“Đúng. Chúng ta bày ra cảnh âm tào địa phủ, bắt Ung Vương gia gặp Hoàng Thượng ở dưới âm tào địa phủ. Có câu cửa miệng là: Không làm việc trái với lương tâm, không sợ quỷ gõ cửa. Nếu như Ung Vương gia thực sự không hạ độc Hoàng Thượng, khi nhìn thấy Hoàng Thượng nhất định sẽ không sợ hãi. Nếu như thật sự Ung Vương gia làm, khi nhìn thấy Hoàng Thượng sẽ sợ chết khiếp. Khi đó lại cho người giả trang Diêm Vương thẩm vấn, nhất định sẽ nói thật”.

Hoàng Thái Hậu sửng sốt hồi lâu rồi chậm rãi gật đầu nói: “Chủ ý này cũng được. Vậy cứ làm thế. Nhưng mà phải nhanh lên. Trước canh năm phải tra xét rõ ràng chuyện này, không được để chậm trễ chuyện đưa tang ngày mai”.

“Được” Đỗ Văn Hạo lưỡng lự một lát rồi hắn nói khẽ: “Nhưng mà vẫn còn một chuyện lo lắng”.

“Chuyện gì?”

“Nếu thật sự Ung Vương gia mưu hại Hoàng Thượng, một khi nhìn thấy Hoàng Thượng ở âm tào địa phủ, rất có khả năng Vương gia sẽ bị điên khùng. Nàng cần chuẩn bị tâm lý. Tới khi Ung Vương gia bị doạ điên rồi, nàng đừng trách ta”.

Sắc mặt Hoàng Thái Hậu ảm đạm. Nàng rất hy vong kết quả chứng minh con trai thứ hai Ung Vương Triệu Nhan không có mưu hại con trai cả là Tống Thần Tông. Nhưng khi nàng tổng hợp lại tất cả kết qảu điều tra tình huống trước khi chết của Tống Thần Tông, trong lòng nàng hiểu rõ chắc chắn con trai cả Tống Thần Tông đã bị con trai thứ hai Ung Vương Triệu Nhan hạ độc chết. Khi Đỗ Văn Hạo nói xong mấy lời này nàng không khỏi rơi lệ nói: “Yên tâm đi. Ta sẽ không trách tội ngươi. Nếu như Nhan nhi thật sự mưu hại Hoàng huynh của nó, nó có nổi điên thì cũng là gieo gió gặt bão. Nó đã dám soán nghịch, hại chết Hoàng huynh, đáng luận tội chết. Nay chỉ nổi điên là đã tốt cho nó rồi”.

“Được” Đỗ Văn Hạo ghé sát vào người Hoàng Thái Hậu thì thào vào tai nàng kế hoạch của mình. Sau khi Hoàng Thái Hậu nghe xong, chậm rãi gật đầu nói: “Đi, hãy cứ làm như người định liệu. Hãy làm đi”.

Ung Vương Triệu Nhan ngồi kiệu theo mẫu hậu xuất cung, đi trên đường phố vắng lặng. Sau khi Hoàng Thượng v Thái Hoàng Thái Hậu băng hà, trong thời gi­an tang lễ, toàn kinh thành nghiêm cấm người đi lại vào ban đêm vì vậy trên đường cực kỳ yên tĩnh, ngẫu nhiên chỉ nghe thấy mấy tiếng chó sủa.

Ung Vương không biết đi tới đâu, mẫu hậu cũng không nói cho hắn biết. Hắn muốn vén màn kiệu lên nhìn nhưng màn kiệu đã bị cài chặt ở bên ngoài. Hắn đành chỉ buồn bực đi theo.

Qua một lúc lâu, chiếc kiệu dừng lại. Tiếp đó bên ngoài có người nói: “Vương gia, đến rồi. Có thể hạ kiệu” giọng nói ồm ồm giống như nói vào trong cái hũ vậy.

Ung Vương gia đợi một lúc lâu cũng không thấy có người vén màn kiệu giúp hắn. Hắn đành phải tự mình vén màn kiệu thì phát hiện ra chốt bên ngoài đã được bỏ ra.

Ung Vương vén màn kiệu lên, xuống kiệu, ngẩng đầu nhìn thì thấy hình như là trong một ngôi nhà, rất hoang vắng, không biết là nhà của ai. Sau đó nương theo ánh trăng mờ mờ, hắn có thể thấy cách đó không xa có một hồ nước hình bán nguyệt, ánh trăng phản xạ phát ra ánh sáng màu bạc. Trên mặt hồ có thể nhìn thấy bọt khí bốc lên ùng ục giống như tiếng nước sôi vậy.

Cỗ kiệu của hắn dừng lại gần hồ. Những người khiêng kiệu không thấy đâu. Kiệu của mẫu hậu hắn cũng không thấy. Bên cạnh hắn không có bất kỳ ai.

Ung Vương thấy sợ hãi. Hắn cảm thấy tim đập thình thịch. Đột nhiên hắn nghe thấy có tiếng động vang lên sau lưng. Đó là tiếng bước chân, răng rắc, răng rắc.

Ung Vương hốt hoảng quay đầu lại thì thấy cách đó không xa có một người đang đứng. Đúng ra là một người mặc y bào màu vàng. Người đó thấy hắn quay lại liền đứng yên.

“Là ai?” Ung Vương lấy can đảm quát hỏi.

Đối phương vẫn không trả lời, chỉ đứng im không nhúc nhích.

Ung Vương bình tĩnh nhìn thì phát hiện người đó mặc Hoàng bào kim long, còn đội cả vương miện. Đây là trang phục của Hoàng đế. Ai dám to gan mặc Hoàng bào? Nghĩ vậy Ung Vương nghiêm nghị quát hỏi. Đột nhiên Ung Vương cảm thấy ánh mắt của người đó rất quen thuộc nhưng mà không có miệng chỉ có một lỗ thủng tối om.

Đúng lúc này Ung Vương lại nghe thấy sau lưng có âm thanh. Đó là loại âm thanh dóc rách, bập bềnh. Ung Vương vội vàng quay đầu lại thì hắn trông thấy trên không trung có hai hình người màu trắng, đen, áo choàng dài, không ngừng di chuyển trên mặt hồ.

Ung Vương chăm chú nhìn thì phát hiện ra hai người đó đều là mặt xanh nanh vàng, lưỡi dài thè ra, tay cầm cây đại tang (lúc động quan, người con để tang chống gậy, trên đó có quấn một tờ giấy trắng), cười nhạt với hắn. Chẳng lẽ đây chính là Hắc Bạch Vô Thường trong truyền thuyết sao?

Ung Vương sợ hãi, hắn hoảng hốt thối lui mấy bước. Hắn bối rối đâm vào vật gì đó, hắn vội vàng quay đầu lại thì phát hiện ra người mặc Hoàng bào chẳng biết đã tới sau lưng hắn từ lúc nào, đang giương mắt nhìn hắn. Ung Vương sợ hãi tới hồn phi phách tán.

Thì ra đó là Hoàng huynh đã chết, Tống Thần Tông.

Ung Vương sợ hãi tới tè cả ra quần, té ngã xuống đất. Hắn muốn vùng dậy bỏ chạy nhưng hai chân hắn sợ tới mức cứng đơ, sao có thể nhúc nhích được đây? Mắt hắn nhìn thấy Tống Thần Tông bồng bềnh lướt tới, âm thanh từ xa dập dềnh đưa tới: “Trả lại mang ta! Trả lại mạng ta!”

Chương 399: Tức Vị Trước

Ung Vương vô vùng hoảng sợ, ngồi phịch xuống đất, gương mặt co rúm, hắn hoảng sợ gào lên chói tai: “Hoàng huynh! Hoàng huynh tha mạng!”

Hắc Bạch Vô Thường bồng bềnh, đung đưa trên mặt hồ cũng đã tiến tới nơi. Bốn phía xung quanh cũng lờ mờ xuất hiện vô số quỷ hồn bị đứt đầu, chặt chân, tay, phát ra những tiếng rên rỉ bi thảm.

“Trả lại mạng ta” Tống Thần Tông lơ lửng trên không trung, giơ cao hai tay.

Ung Vương vung tay loạn xạ gào lên: “Tha mạng! Tha mạng! Hoàng huynh. Đệ sai rồi. Đệ hiểu rằng đệ sai rồi. Tha mạng”.

“Nói. Tại sao người phải dùng Chu sa hại chết ta?” Âm thanh phiêu đãng của Tống Thần Tông vang lên.

“Đây đều là chủ ý của Tư Mã Thiên Sư. Đệ không có suy nghĩ như vậy. Hoàng huynh tha mạng!”

Hai mắt Ung Vương hoảng sợ trợn trừng trừng. Hắn ngồi trên mặt đất, liên tiếp trượt lại phía sau, không ngờ đã lui tới cạnh bờ hồ. Hai tay hắn không còn gì chống đỡ. Hắn mất đà ngã xuống dưới. “Thùm” một tiếng vang lên, Ung Vương ngã vào trong bùn nhão.

Âm thanh phần phật không ngừng vang lên. Bốn phía xung quanh liên tiếp xuất hiện hài cốt, vươn cánh tay trắng hếu chụp vào người Ung Vương. Kéo tay hắn, kéo tóc hắn, cắn vào vai hắn.

Ung Vương đã sợ tới mức mất hết cả dũng khí: “Hoàng huynh! Đệ sai rồi. Đệ không nên hạ độc hai huynh. Xin tha mạng”.

Thân hình Tống Thần Tông phiêu lãng trên không trung nghiêm nghị quát to: “Nói. Tại sao phải hại chết ta?”

“Đệ đáng chết. Tất cả là vò đệ thèm thuồng ngôi vị Hoàng Đế của Hoàng huynh nên mới thế. Đây tất cả đều là chủ ý của Tư Mã Thiên Sư”.

“Nói. Các ngươi hại chết ta như thế nào?”

“Tư Mã Thiên Sư hắn nói cho đệ. Hắn nói hắn luyện đan nên biết rõ ăn nhiều Chu sa cũng có thể gây chết người nhưng người khác lại không biết. Hắn bảo đệ cho thêm Chu sa vào trong thuốc của huynh, có thể hại chết huynh mà quỷ thần đều không hay biết. Đệ đáng chết. Đệ đáng chết, đệ đã tin lời hắn. Cầu xin Hoàng huynh tha mạng”.

Ung Vương không ngừng vùng vẫy trong đám bùn nhão. Sặc sụa, gào thét hoảng loạn, âm thanh cực kỳ bi thương, thê thảm, gương mặt bị cào xé, máu be bét, co rúm lại vì sợ hãi. Hai tay Ung Vương không ngừng cào cấu, loạn đả, cắn xé, vật lộn chống cự lại những cánh tay của quỷ hồn.

Những quỷ hồn kia kéo Ung Vương ra giữa hồ nước. Ung Vương vừa hoảng sợ la gọi người của mình, vừa vùng vẫy một cách hoảng sợ tuyệt vọng trong nước, thân thể hắn không ngừng di chuyển ra giữa hồ nước.

Ngay khi nước ngập tới thắt lưng của Ung Vương, ở trên ngọn núi nhỏ ngay cạnh hồ vang lên một giọng nói: “Mau cứu người”.

Đột nhiên ánh sáng nổi lên bốn xung quanh, sáng rõ như giữa ban ngày. Mấy thị vệ đeo một nạ phòng độc đã chạy tới, kéo Ung Vương từ dưới vũng bùn dưới hồ lên bờ rồi nhanh chóng đưa tới một ngôi viện nhỏ cách đó không xa.

Toàn thân Ung Vương dính bùn bẩn thỉu, hắn đã không còn khống chế đại, tiểu tiện của mình. Phân, nước tiểu chảy tràn ra, vương vãi khắp trên mặt đất. Mùi hôi thối bay khắp không trung. Những thị vệ đeo mặt nạ phòng độc tới kéo Ung Vương lên thì không thể hứng chịu cái mùi đó nhưng những thị vệ cảnh giới dưới chân núi nhỏ thìm không thoát được. Bọn họ chỉ có thể cau mày, bịt mũi, không dám đứng quay mặt theo hướng gió.

Lúc này từ trên ngọn núi nhỏ có ba người đi xuống. Đó chính là Hoàng Thái Hậu, Đỗ Văn Hạo cùng Tiêu công công.

Hoàng Thái Hậu nhìn Ung Vương toàn thân dơ bẩn, vẫn đang quỳ gối, hoảng sợ gào thét cứu mạng, khẽ thở dài một tiếng nói: “Nhan nhi, thật không ngờ ngươi vì ngôi vị Hoàng Đế mà lại hạ thuốc độc giết chết Hoàng huynh của mình”.

Lúc này “Tống Thần Tông” ở bên hồ đã đi tới nơi, hắn gỡ mặt nạ phòng độc ra, cởi tiếp chiếc áo Hoàng bào trên người xuống, buồn rầu khom người nói: “Mẫu hậu, hài nhi cũng không thể ngờ hắn lại mưu hại Hoàng huynh. Thật sự là…Ai!”

Thì ra Đỗ Văn Hạo đã đạo diễn màn kịch này ngay trong toà trang viện ma quái mà hắn đã mua. Hồ nước trong toà trang viện vào nửa đêm canh ba vẫn toát ra chất khí có thể khiến con người sinh ra ảo giác khủng khiếp, bao phủ mù mịt ở khu vực xung quanh hồ nước. Người đóng vai Tống Thần Tông là Tào Vương Triệu Mạch, mặt đeo mặt nạ phòng độc, Hắc Bạch Vô Thường trên mặt hồ là người giấy dùng dây thừng điều khiển. Chỉ cần dùng người giấy điều khiển bằng dây thừng, Ung Vương gia dưới tác động của chất khi sinh ảo giác sẽ coi những người đó là người thật.

Đặc biệt là Tào Vương gia giả trang làm Tống Thần Tông. Cả hai vốn là anh em ruột thịt, cho dù có đeo mặt nạ phòng độc che miệng và mũi nhưng đôi mắt và thần hình vẫn đủ làm cho Ung Vương gia đang trong cơn ảo giác cảm thấy đó là quỷ hồn của Tống Thần Tông, hoảng hốt khai ra sự thật dùng Chu sa mưu hại Tống Thần Tông.

Đỗ Văn Hạo hỏi Hoàng Thái Hậu: “Hoàng Thái Hậu, vừa rồi Ung Vương gia có nói Tư Mã Thiên Sư đó là ai?”

Hoàng Thái Hậu căm hận nói: “Là môn khách của phủ Ung Vương, đạo nhân luyện thuỷ ngân chế đan dược. Tiểu Tiêu tử, ngươi hãy lập tức dẫn người đi bắt gã Tư Mã đạo nhân đáng chết đó lại, tống vào Thiên Lao, đợi trưa ngày mai xử tử lăng trì”.

Tiểu công công vội vàng trả lời rồi dẫn theo thị vệ đại nội rời đi.

Tào Vương thấy Ung vương quỳ dạp trên mặt đất kêu khóc xin tha mạng, trong lòng không nỡ bèn tiến tới ôm lấy hắn nói: “Hoàng huynh, không có việc gì. Mẫu hậu sẽ khoan thứ tội cho huynh”.

Lúc này Ung Vương đã hoàn toàn bị điên, Tào Vương ôm mình lại nghĩ rằng đó là lệ quỷ, cho rằng muốn tới mưu hại hắn. Hắn sợ tới mức phát nổi điên lên, há mồm cắn vào bả vai của Tào Vương sau đó Ung Vương bò dậy, lảo đảo chạy ra ngoài.

\Lúc này Ung

“Hãy mau ngăn cản nó lại” Hoàng Thái Hậu kinh hãi hô lên.

Thị vệ đại nội vội vàng xông tới bắt được Ung Vương, dẫn hắn quay lại. Ung Vương liều mạng giãy giụa, vừa đá vừa đánh, miệng khàn khàn gào lên: “Hoàng huynh tha mạng! Đệ sai rồi. Đệ không nên mưu hại huynh. Bọn lệ quỷ các ngươi không được tới đây. Hãy bỏ ta ra”.

Hoàng Thái Hậu nhìn con trai mình mà nước mắt cứ tuôn trào không thôi. Nàng nói với Đỗ Văn Hạo: “Nhan nhi làm sao vậy? Ngươi hãy xem qua cho nó một chút”.

Đỗ Văn Hạo cười thầm trong lòng. Hắn nhìn thất Ung Vương thực sự đã phát điên, cầu còn không được nên thực sự hả lòng hả dạ, hắn nào muốn chữa bệnh cho Ung Vương đây. Nhưng hắn vẫn biểu hiện ra vẻ cuống quýt bước tới, cầm tay Ung Vương bắt mạch, một lát sau hắn lại đổi tay.

Ung Vương liên tục giãy giụa, điên cuồng kêu gào tha mạng.

Cũng may có thị vệ đại nội cầm giữ hai bên nên Đỗ Văn Hạo mới thuận lợi bắt mạch. Bắt xong hắn lắc đầu nói: “Hoàng Thái Hậu, Ung Vương gia chính là hoảng sợ quá mức. Mạch chìm hỗn loạn, âm dương không đều, khí huyết ứ trệ, tinh thần hôn mê tới mức bị điên. Vì Ung Vương gia hoảng sợ cực độ khiến gang, mật bị tổng thương cực độ, chứng điên khùng đã quá nặng chỉ e không dễ dàng chữa trị. Đợi khi quay về vi thần sẽ kê một đơn thuốc, để Ung Vương gia tĩnh tâm điều dưỡng, có lẽ sẽ có chuyển biến tốt cũng chưa biết chừng”.

Hoàng Thái Hậu rơi lệ nói: “Cũng không cần phải chữa trị. Nó mưu tội phản nghịch, đáng tội chết. Hãy bắt nó chết theo Hoàng Thượng”.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo vui mừng như nở hoa. Đây mới chính là kết quả tốt nhất.

Tào Vương thập phần sợ hãi khi nghe Hoàng Thái Hậu nói vậy. Mặc dù hắn bị Ung Vương hung ác cắn một cái nhưng dù sao vẫn là thủ túc tình thâm. Hắn quỳ xuống dập đầu với Hoàng Thái Hậu: “Mẫu hậu, cầu xin người. Hãy tha thứ cho Hoàng huynh. Giờ đây Hoàng huynh đã điên rồi, đã bị trừng phạt rồi. Xin hãy giữ lại mạng sống của Hoàng huynh”.

Hoàng Thái Hậu nhìn đứa con thứ hai điên điên khùng khùng, không ngừng chỉ tay lên trời cầu xin tha mạng, rơi lệ khẽ gật đầu, nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Ý của ngươi thế nào?”

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo hy vọng nhổ cỏ nhổ tận gốc, không muốn lưu lại mối hoạ này. Nói không chừng một ngày nào đó Ung Vương khỏi căn bệnh điên khùng này, có thể tìm tới tính sổ với hắn. Khi đó nhất định không có kết quả hay nhưng mà hắn không thể nói những lời này. Đỗ Văn Hạo vội vàng chắp tay nói: “Hoàng Thái Hậu chính là nữ trung Nghiêu Thuấn, nhất định sẽ có phát xét sáng suốt. Vi thần không dám nói bừa”.

“Nữ trung Nghiêu Thuấn? Ai!” Hoàng Thái Hậu rơi lệ nói: “Nhan nhi như vậy, còn nói gì mà nữ trung Nghiêu Thuấn. Nghiệp chướng! Ai! Húc nhi băng hà, giờ đây không thể không chôn Nhan nhi theo cùng. Nửa đời sau của Ai gia biết trông cậy vào ai”.

Tào Vương khó chịu, nói vẻ ngượng ngùng: “Mẫu hậu hãy nén bi thương. Không phải vẫn còn hài nhi sao?”

Hoàng Thái Hậu vung tay áo, tức giận quát: “Cút!”

Tào Vương sợ tới mức quỳ gối ở bên cạnh, không dám lên tiếng nữa.

Hoàng Thái Hậu nước mắt lưng tròng nói với Đỗ Văn Hạo: “Đỗ ái khanh, ngươi hãy nói một chủ ý với Ai gia”.

Đỗ Văn Hạo đã hiểu, trong lòng Hoàng Thái Hậu hoàn toàn không muốn người con thứ hai này chết. Điều này cũng có thể lý giải. Chuyện đã xảy ra như này, Hoàng Thái Hậu sẽ không để. Chỉ cần Ung Vương không lên làm Hoàng Đế, lại nổi điên, việc chết hay không chết cũng chẳng có quan hệ gì lớn.

Nhưng chuyện này nhất định phải để cho mọi người biết, đá quả bóng sang các quan đại thần phụ chính, để bọn họ đưa ra chủ ý là tốt nhất. Bọn họ nhất định sẽ đưa ra một biện pháp thích hợp nhất.

Vì vậy Đỗ Văn Hạo khom người nói: “Hoàng Thái Hậu, việc này vô cùng trọng đại. Vi thần thật sự không dám ngông cuồng khuyên can. Không bằng hãy thỉnh ý kiến của các đại thần phụ chính, nhân tiện hãy lựa chọn luôn Hoàng Đế. Bây giờ cũng sắp bình minh rồi, tránh chậm trễ việc đưa tang sáng mai”.

Hoàng Thái Hậu suy nghĩ rồi gật đầu nói: “Cũng chỉ còn cách đó. Vậy cứ làm theo ý của ngươi nhưng mà ngươi cũng tham gia”.

“Hoàng Thái Hậu, vi thần chỉ là tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, không thuộc đại thần phụ chính. Theo như quy tắc thì không được”.

“Quy tắc đều do con người định ra. Ai gia cho phép ngươi tham gia, ngươi cứ tham gia. Tới khi đó Ai gia còn có chuyện muốn nói”.

Đỗ Văn Hạo vội vàng khom người nói: “Dạ, vi thần tuân chỉ”.

Trắc điện cung Phúc Ninh.

Lúc này trời đã gần canh năm. Đất trời vẫn còn chìm trong bóng đêm đen kịt. Bởi vì rạng sáng chính làthời điểm khiêng linh cữu đưa tang. Các trọng thần trong triều tới lúc đó đều phải nâng linh cữu tới Đế lăng, ai cũng gần như cả đêm không ngủ, đều chờ ở linh đường vì vậy khi ý chỉ của Hoàng Thái Hậu truyền xuống, toàn bộ bảy vị đại thần phụ chính lập tức đi vào trắc điện cung Phúc Ninh.

Bảy vị đại thần phụ chính theo thứ tự là: Tả Thừa tướng (tả Thượng thư bộc xạ kiêm môn hạ thị lang hành thị trung sự) Vương Pháp, hữu Thừa tướng (hữu Thượng thư kiêm môn hạ thị lang hành thị trung sự) Thái Xác, Môn hạ thị lang Chương Cụ, tả thừa Thượng thư Thái Ca, hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý, Viện sứ Xu Mật viện (tri Xu Mật viện sứ) Hàn Chẩn, Xu Mật viện phó sứ (đồng tri Xu Mật viện sứ) Lâm Hi.

Bảy người đi vào trắc điện thì thấy ở phía sau chính điện có một bức rèm buông xuống. Đằng sau bức rèm có một chiếc giường êm. Hoàng Thái Hậu mặc đồ tang đang ngồi ngay ngắn trên giường.

Phía trước về phía trái của bức rèm có một đứa bé choai choai đang đứng. Người đó chính là lục Hoàng tử, An Duyện Quận Vương Triệu Hú. Đứng ở ở trái là Ung Vương Triệu Nhan cùng Tào Vương Triệu Mạch. Sắc mặt Tào Vương lo lắng, sắc mặt Ung Vương lại hoảng sợ, núp sau lưng Tào Vương, thỉnh thoảng ngẩng đầu nhìn trộm, miệng không ngừng lẩm bẩm.

Phía bên phải đại điện có một người đang đứng. Đó chính là tân quan tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, Ngự y Đỗ Văn Hạo.

Thấy vậy bảy vị phụ chính đại thần không khỏi kinh ngạc. Thừa tướng Vương Gi­ai khẽ nhếch miệng cười, trong lòng vô cùng đắc ý, ông ta khẽ gật đầu với Đỗ Văn Hạo sau đó khom người thi lễ với Hoàng Thái Hậu. Sáu người còn lại cũng khom người thi lễ.

Hoàng Thái Hậu nói: “Chúng ái khanh, Ai gia có một việc muốn thông báo cho các vị phụ chính đại thần biết”.

Nghe xong bảy người lập tức hiểu đây chính là chuyện cớ liên quan tới Hoàng Đế tương lai. Bảy người đều vểnh tai, không dám thở mạnh, chú ý lắng nghe.

Hoàng Thái Hậu dừng lại một chút rồi mới chậm rãi nói: “Hoàng Thượng đột nhiên băng hà, vô cùng khả nghi. Ai gia đã yêu cầu Đỗ ngự y âm thầm điều tra. Hiện tại đã tra ra Ung Vương Triệu Nhan bị thực khách trong phủ là Tư Mã đạo nhân xúi bẩy đã hạ độc dược trong thuốc của Hoàng Thượng khiến cho Hoàng Thượng trúng độc chết”.

Tin này giống như sét đánh giữa trời quang, chấn động bảy vị phụ chính đại thần. Tất cả đều ngây người rôi không tự chủ được cùng nhìn Đỗ Văn Hạo.

Hoàng Thái Hậu nói tiếp: “Trong chuyện này, nhân chứng, vật chứng đã đầy đủ. Thủ phạm Tư Mã đạo nhân đã chịu trói, hắn đã lập tức thú nhận tội này. Ung Vương Triệu Nhan vì sợ tội mà nổi điên khùng. Hiện giờ thần trí đã điên loạn, không thuốc nào có thể chữa khỏi”.

Hoàng Thái Hậu mới nói tới đó, Ung Vương Triệu Nhan tựa như muốn giải thích cho lời nói của Hoàng Thái Hậu, hắn khàn khàn gào lên, quỳ thụp xuống đất, không ngừng dập đầu, miệng cầu khẩn: “Hoàng huynh, tha mạng. Đệ sai rồi. Đệ không nên hạ độc Hoàng huynh. Tha mạng!” “thình thình thình” mấy tiếng vang lên. Trên trán Ung Vương lập tức đầm đìa máu tươi.

Bảy người cực kỳ hoảng sợ không biết phải làm gì.

Hoàng Thái Hậu nhìn Ung Vương đang điên loạn dập đầu, không cho người tới ngăn cản, giống như là không nhìn thấy gì, dài giọng nói: “Ung Vương đã phạm phải trọng tội như vậy. Tội không thể tha. Ý của Ai gia bắt nó chết theo Hoàng Thượng. Ý của các khanh thế nào?”

Vương Gi­ai không ngờ lại xảy ra chuyện tới mức đó, nhất thời đứng ngây người không có phản ứng. Ông ta vốn là người đứng đầu, vốn phải là người lên tiếng trước nhưng ông ta cứ ngây người đứng vậy, không nói câu nào, sau người còn lại cũng không thể lên tiếng trước. Nhưng tình hình lúc này không giống với lúc bình thường nên không thể tuân theo quy định, Thái Xác ho nhẹ một tiếng rồi tiến lên khom người nói: “Hoàng Thái Hậu, vi thần cho rằng, Ung Vương cùng Hoàng Thượng thủ túc tình thâm. Nếu như không có kẻ khác xúi giục, nhất định sẽ không phạm phải trọng tội như vậy. Bây giờ thần trí rối loạn, vốn đã chịu sự trừng phạt của ông trời, có thể miễn tội chết. Có thể hạ lệnh cho Ung Vương vĩnh viễn coi sóc Đế lăng, thủ hộ Vĩnh Dụ lăng, bầu bạn với Hoàng huynh”.

Hoàng Thái Hậu khẽ gật đầu, sắc mặt âm u lạnh lẽo hoàn hoãn hơn rất nhiều. Sáu người còn lại làm quan tới vị trí này đương nhiên đều là những người tinh khôn, sao có thể không nhận ra Hoàng Thái Hậu tương đối hài lòng với ý đó nên cũng đều phụ hoạ theo đuôi.

Kết quả này thực sự rất kỳ diệu, Đỗ Văn Hạo như mở cờ trong bụng. Điểm tốt của chủ ý này là bắt thằng nhãi Ung Vương kia đi thủ hộ lăng Hoàng huynh cả đời này, nhất định không còn cơ hội tìm tới gây chuyện với hắn. Chủ ý này quá hay!

Đỗ Văn Hạo không nhịn được liếc nhìn Thái Xác. Hắn thầm nghĩ lão già này đoán ý rất chính xác. Hơn nữa tâm tính rất độc ác, Ung Vương đối xử với lão không bạc, lão lại giậu đổ bìm leo. Lão biết rõ Hoàng Thái Hậu sẽ không thực sự c lòng bắt Ung Vương chết theo, chính hắn không chỉ nói ra chủ ý cho mọi người biết mà còn có thể làm theo ý tức thoát tội chết của Hoàng Thái Hậu, mà chủ ý như vậy còn khủng khiếp hơn cả lưu đày ba ngàn dặm. Hơn nữa cách xử lý cũng vô cùng thoả đáng.

Hoàng Thái Hậu thấy tử Thừa tướng Vương Gi­ai từ nãy tới giờ vẫn không nói gì liền nhạt nhẽo hỏi: “Vương ái khanh, ý định của khanh thế nào?”

Vương Gi­ai thoáng sửng sốt, sau khi suy nghĩ một lát ông ta liền khom người nói: “Hồi bẩm Hoàng Thái Hậu, lão thần tán thành đối với chủ ý của Thái Tể tướng. Lão thần cho rằng vì thể diện của Hoàng gia nên chuyện này không nên loan truyền ra ngoài, cũng không nên đưa vào chính sử. Đối với bên ngoài chỉ nói ngắn gọi là Ung Vương thương tiếc Hoàng huynh nên tự nguyện vào lăng thủ hộ”.

Hoàng Thái Hậu rốt cuộc cũng nhếch mép cười vẻ thoả mãn. Nàng nhìn lướt qua mọi người, chậm rãi nói, ý kiến của Vương ái khanh, chúng ai khanh nghĩ sao?”

Giây phút này trong trắc điện sáng như ban ngày. Nụ cười thoả mãn của Hoàng Thái Hậu đều lọt vào trong mắt của các phụ chính đại thần nên ai nấy cũng khom người nói: “Bọn thần tán thành”.

“Được, đã như vậy thì việc này đã xong rồi” Hoàng Thái Hậu dừng lại một lát rồi nói tiếp: “Thế nhưng còn chưa tới một canh giờ nữa là tới lúc khiêng linh cữu đưa tang, phải chỉ định ra người dẫn dắt Hoàng gia khiêng linh cữu. Chúng ái khanh có đề nghị gì không?’

Giờ đây trong việc tranh đoạt ngôi vị Hoàng Đế, Ung Vương vì mưu hại Hoàng Thượng mà bị hạch tội, vĩnh viễn ở Đế lăng, lại đã nổi điên, đương nhiên cũng không thể chỉ định một người điên làm Hoàng Thượng, đã rút lui ra khỏi cuộc canh tranh này. Lúc này chỉ còn một lựa chọn duy nhất là lục Hoàng tử, Duyên An Quận Vương Triệu Hú. Hoàng Thái Hậu biết rõ mà còn hỏi hiểu nhiên chỉ muốn từ miệng mọi người có kết quả này, càng lộ rõ vẻ độ lượng, uy nghi.

Mặc dù kết quả này giống như là rận trên đầu hói nhưng rõ ràng dù lớn hay nhỏ cũng coi như công lao ủng hộ. Nhưng mà lúc này đây Thái Xác thực sự không có ý nói trước. Dù sao trước kia ông ta cũng gắng sức ủng hộ Ung Vương nối ngôi Hoàng Đế. Lần này tình hình xoay chuyển quá nhanh theo chiều hướng xấu. Tốt nhất là để cho Vương Gi­ai nói trước sau đó bản thân mình ra mặt ủng hộ. Trong khi đó Vương Gi­ai cũng có tính toán riêng của mình. Ông ta hiểu rằng ngôi vị Hoàng Đế rốt cuộc đã định, lục Hoàng tử sẽ nối ngôi. Lúc này ủng hộ hay không, công lao cũng đã được xác nhận, dù lúc này không nói cũng không ảnh hưởng gì. Tốt nhất hãy để người phe bên kia nói ra trước như vậy là hai phái thống nhất, lại càng thêm thoả đáng.

Thái Xác thấy Vương Gi­ai không biểu hiện thái độ gì, trong khi đó Hoàng Thái Hậu lại nhìn mình nên đành phải chắp tay nói: “Thần cho rằng Duyên An Quận Vương chính là Hoàng tử trưởng, xứng đáng thừa kế ngôi vị Hoàng Đế của tổ tiên. Vì Hoàng Đế chỉ huy khiêng linh cữu đưa tang. Sự việc gấp gáp, xin Hoàng Thái Hậu noi theo Lưu Hoàng hậu của Nhân Tông hoàng đế nghe báo cáo và quyêt định sự việc, tham gia công việc quốc sự” Nói xong ông ta vén áo bào quỳ xuống dập đầu.

Thái Xác vốn kiên quyết ủng hộ Ung Vương kế vị nhưng nay thủ lĩnh của phe đó đã đào tẩu, ủng hộ lục hoàng tử kế vị, mấy người Hàn Chẩn bên phe đó đương nhiên cũng phải đi theo. Tất cả đều tỏ thái độ tán thành, cùng quỳ xuống dập đầu.

Kết quả này khiến Vương Gi­ai cực kỳ cao hứng, ông ta cũng vén áo bào quỳ xuống nói: “Duyên An Quận Vương xứng đáng kế thừa thiên hạ, cũng là thuận theo thiên mệnh. Hoàng Thái Hậu có thể dùng cương vị Thái Hoàng Thái Hậu, buông rèm chấp chính, nhất định sẽ khiến quốc thái dân an”.

Triệu Hú chính là cháu nội của Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao. Triệu Hú lên ngồi Hoàng Đế. Tất nhiên Cao Thao Thao chuyển từ Hoàng Thái Hậu lên Thái Hoàng Thái Hậu.

Hoàng Thái Hậu liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, thấy hắn nhìn mình mỉm cười gật đầu lúc này mới chậm rãi nói: “Chúng ái khanh đã đồng lòng nhất trí Duyên An Quận Vương kế thừa ngôi vị Hoàng Đế, Ai gia cũng đồng ý. Việc này đã định. Chúng ái khanh hãy nói xem chừng nào có thể tiến hành lễ đăng cơ của tân Hoàng Đế?”

Vương Gi­ai khom người nói: “Việc tang của tiên đế hơn một tháng rồi. Việc quốc sự một mực do lão thần và Thái Tể tướng cùng nhị vị Vương gia tạm cai quản. Mọi việc bọn vi thần đều cẩn thận mà không dám quyết định. Nay tân Hoàng Đế đã định, mọi việc cũng nên quay lại quy củ. Theo như lão thần thấy hãy mô phỏng theo sau thời Tây Hán Vũ Đế, lập tức lên ngôi, cũng xin thỉnh Hoàng Thái Hậu lập tức chấp chính, nghe tấu sớ và quyết định”.

Hoàng Thái Hậu nói: “Hôm nay đăng cơ liệu có gấp quá không?”

“Xin Hoàng Thái Hậu yên tâm. Hơn một tháng nay bọn lão thần đã chẩn bị cho việc tân Hoàng Đế đăng cơ, chỉ còn chờ quyết định của Hoàng Thái Hậu”.

“A, các ngươi nghĩ rất chú đáo. Chúng ái khanh, ý của các khanh thế nào?”

Thái Xác cũng khom người nói: “Vi thần cũng tán thành ý của Vương Tể tướng”.

Hoàng Thái Hậu cười thoả mãn, chậm rãi nói: “Nếu đã như vậy thì hãy làm theo lời các khanh nói tức vị trước. Còn về phần nghe tấu chương, quyết định quốc sự, Ai gia vốn tính thích yên tính nhưng Hú nhi tuổi còn nhỏ, các khanh lại một mực đề nghị Ai gia nghe tấu chương và quyết định. Ai gia nghĩ cũng không thể trốn tránh được. Ai gia đồng ý với bản tấu của các khanh, cùng nghe tấu và quyết định quốc sự sau này khi Hoàng Thượng trưởng thành, Ai gia sẽ trả lại cho Hoàng Thượng”.

Tân Hoàng Đế đã xác định. Sắc mặt mọi người đều vui mừng nhưng vấn đề là nụ cười của mấy người Thái Xác có vẻ miễn cưỡng.

Chương 400: Tám vị phụ chính đại thần

Tể tướng Vương Gi­ai khom người nói: “Hoàng Thái Hậu, hôm nay tân đế mới tức vị, xưa không bằng nay, nên chọn sư bảo mới. Chọn người nào thích hợp, ai có thể đảm đương, kính xin Hoàng Thái Hậu định đoạt”.

Sư bảo chính là là gia sư của Hoàng Đế. Hoàng Thái Hậu nhìn lướt qua mọi người nói: “Theo ý kiến của các khanh. Người có có thể đảm đương công việc này?”

Thái Xác vội vàng nói xen vào: “Hai người Lục Điền, Thái Biện từ trước vẫn là sư bảo của Duyên An Quận Vương, cẩn thận, chỉ dạy có phương pháp, cũng quen thuộc bản tính của tân Hoàng Đế, không bằng cứ nên để hai người này tiếp tục đảm nhiệm”.

Vương Gi­ai nhíu mày suy nghĩ. Lục Điền, Thái Xác tuy hai người này đều là hai người tài năng xuất chúng thời nay nhưng đều là người ủng hộ biến pháp. Nếu để hai người này tiếp tục đảm nhiệm công việc sư bảo của tân đế chỉ e sẽ lại xuất hiện một Tống Thần Tông thứ hai. Ý của ông ta là muốn thay thế hai người này tránh để tiếp tục ảnh hưởng tới tân đế, Vương Gi­ai đang định tiến lên can gián thì Hoàng Thái Hậu đã nói: “Hai vị sư bảo trước kia của lục Hoàng tử Duyên An Quân Vương cũng không tệ. Nhưng hôm nay Duyên An Quận Vương đăng cơ làm Hoàng Đế, sư bảo của Hoàng Đế phải căn cứ vào tình hình có sự điều chỉnh, sự lựa chọn phải rất thích hợp. Vương ái khanh, ngươi có đề nghị người nào thích hợp không?”

Vương Gi­ai thực đang chờ những lời này của Hoàng Thái Hậu, ông ta vội vàng khom người nói: “Lão thần cho rằng nhị vị đại nhân là học sĩ Xu Mật viện Triệu Ngạn cùng Ngự sử kiêm hầu cận của Anh Tông hoàng đế trước kia Phó Nghiêu Du có thể đảm nhiệm việc này”.

Triệu Ngạn, học sĩ Xu Mật viện chính là một con một sách điển hình, được xưng tụng là không sách nào không đọc, hơn nữa lại cực kỳ chống đối biến pháp, thuộc phái bảo thủ. Tài học của Phó Nghiêu Du có thể nói chất đầy năm xe. Năm xưa vì phản đối biến pháp và bị biếm chức ra khỏi kinh thành tới nhậm chức ở châu, huyện. Vương Gi­ai giới thiệu hai người đều thuộc phái bảo thủ, mục đích là muốn tân đế ngay từ nhỏ rời xa biến pháp, không thay đổi phương pháp trị vì của tổ tông.

Thái Xác nào không biết, ông ta đang định phản đối, Hoàng Thái Hậu đã gật đầu nói: “Vương ái khanh tiến cử người, Ai gia cho rằng rất thoả đáng. Vậy cứ định hai người đó đi. Hơn nữa chúng ái khanh đều là phụ chính đại thần, cũng phải bớt chút thời gi­an tới Tư Thiện đường, giúp tân đế học tập, truyền dạy sở học của mình”.

Bảy người vội vàng trả lời đồng ý. Thái Xác nghe thấy Hoàng Thái Hậu lựa chọn một cách không do dự, trong lòng thoáng giá lạnh. Ông ta cảm thấy biến pháp chỉ e đã đi tới con đường cùng.

Hoàng Thái Hậu nói với Triệu Hú đang đứng bên ngoài rèm che: “Hú nhi, hãy bước lên gặp mặt tám vị phụ chính đại thần”.

Đám người Thái Xác lắp bắp kinh hãi khi nghe Hoàng Thái Hậu nói câu đó. Bọn họ chỉ có bảy người, Hoàng Thái Hậu lại nói tám người. Không phải Hoàng Thái Hậu nói sai mà chính là ám chỉ. Trên triều đình hiện nay người có thể gia nhập phụ chính đại thần chỉ e cũng chỉ có mình Đỗ Văn Hạo mà thôi.

Lập tức Thái Xác phản ứng thần tốc, ông ta khom người nói: “Chúc mừng Đỗ tướng quân thăng chức phụ chính đại thần. Đỗ tướng quân đánh một trận Tây Sơn, dùng năm ngàn tướng sĩ tiêu diệt hai vạn phiến quân Thổ Phiên, chiến cổng hiển hách, tuần y đề điểm các lộ, vì dân tạo phúc. Lần này lại nhất cử phá đại án mưu thoán nghịch. Càng vất vả, công lao càng lớn, quả thực là bậc lương đống của đất nước, đương nhiên có thể gia nhập Tể chấp, phù tá tân đế”.

Những người còn lại cũng kịp thời phản ứng, đều lên tiếng chúc mừng.

Hoàng Thái Hậu gật đầu mỉm cười nói: “Các khanh nói rất đúng. Đỗ ái khanh bước lên nghe phong”.

Đỗ Văn Hạo vội vàng vén áo bào bước lên, quỳ xuống.

“Khanh thân là tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, kiêm chức không bằng chuyên trách. Ai gia phong khanh là tam nha Đô Kiểm Điểm, thống lĩnh tam nha”.

Vào thời Tống, tam nha phân chỉ thống lĩnh binh mã trong cả nước, Đô Kiểm Điểm thì chính là Tổng tư lệnh ba quân, quyền lực rất lớn. Năm đó trước khi Tống Thái Tổ, Triệu Khuông Dẫn làm binh biến Trần Kiều đã đảm nhiệm chức Đô Kiểm Điểm nhà Hậu Chu sau này khi khoác áo Hoàng bào lập ra nhà Đại Tống, ông ta dựa theo nghiệm tạo phản thành công của mình đã nhận ra chức Đô Kiểm Điểm quyền lực rất lớn, phải tăng cường cảnh giác vì vậy vẫn giữ lại chức vị này nhưng lại không phong cho bất kỳ người nào đảm nhiệm, khiến nó vẫn để trống, sau này thì dứt khoát huỷ bỏ, Tống Thái Tổ cũng chia tam nha là ba, phân chia ba người phụ trách, từng người một chịu trách nhiệm với Hoàng Thượng, đạt được mục đích phân chia quyền lực.

Không thể tưởng tượng nổi bây giờ Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao lại phục hồi chức quan này, trao tặng cho nhân tình của mình là Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo dập đầu nói: “Vi thần lĩnh chỉ. Tạ ơn Hoàng Thái Hậu” Sau đó hắn vén áo bào đứng dậy.

Hoàng Thái Hậu nhìn lướt qua gương mặt kinh ngạc của mấy người Thái Xác nói tiếp: “Từ nay về sau, phẩm hàm của Đô Kiểm Điểm chính là quan nhị phẩm, tham gia Tể chấp, cùng với xử lý việc quân chính. Các vị ái khanh hãy đồng tâm hiệp lực để phò tá tân đế”.

Mấy người Vương Giải, Thái Xác cùng chắp tay trả lời rồi quay sang chúc mừng Đỗ Văn Hạo.

Mấy người Thái Xác quả thực không thể tưởng tượng nổi sau khi Hoàng Thái Hậu quyết định buông rèm chấp chính, đạo thánh chỉ đầu tiên chính là thăng quan cho vị Ngự y Đỗ Văn Hạo này, trong lòng không khỏi suy xét. Trước đây Đỗ Văn Hạo chỉ là quan tứ phẩm. Văn võ bá quan trong triều công lao so với Đỗ Văn Hạo còn lớn hơn rất nhiều. Năng lực của nhiều người còn xuất sắc hơn Đỗ Văn Hạo, nhưng không ai có thể đi theo con đường một bước lên mây, nhậm chức tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, Hoàng Thái Hậu còn khôi phục chức Đô Kiểm Điểm vì hắn, phẩm hàm của hắn cũng tăng lên, gia nhập nhóm phụ chính đại thần. Từ một viên quan tứ phẩm nhảy vọt lên vào nhóm phụ chính đại thần có thể thấy Hoàng Thái Hậu đối xử với Đỗ Văn Hạo không bình thường, sau này tuyệt đối không thể xem thường.

Trong lòng Vương Gi­ai như nở hoa, thầm vui mừng con mắt già nua của mình vẫn còn chưa hồ đồ, nhìn người không sai, tìm được một rể hiền như vậy cho nữ nhi bảo bối của mình. Sau này không cần phải lo lắng gì nữa.

Hoàng Thái Hậu nói với mọi người: “Trước khi tiên đế băng hà, nghe tin Đỗ ái khanh láy ít thắng nhiều, tiêu diệt toàn bộ phản quân của tộc Thổ Phiên ở Tây Sơn, cực kỳ thoải mái, có xưng tụng rằng từ thời Vĩnh Nhạc tới nơi không có cuộc chiến nào khoan khoái như vậy. Hôm đó tiên đế có mời đầy đủ chúng phi tần tới uống rượu. Tiên đế có khen ngợi Đỗ ái khanh am tường binh pháp, cầm quân rất có phương pháp. Mặc dù tự ý đoạt quân quyền, dựa vào luật pháp đáng phạt nhưng tương lai sau này cần phải trọng dụng. Vì thế Ai gia mới phong cho Đỗ ái khanh làm lãnh binh tam gia, thực ra cũng là làm theo di mệnh của tiên đế”.

Đỗ Văn Hạo không ngờ lại còn có thông tin này. Hắn vốn chỉ nghĩ là Hoàng Thượng tức giận, không ngờ lại đánh giá hắn cao như vậy. Trong lòng Đỗ Văn Hạo thầm xúc động, hắn khom người, cúi đầu.

Hoàng Thái Hậu lại nói tiếp: “Tiên đế đã từng luận bàn về việc trị quốc với Đỗ ái khanh, đã từng nói với Ai gia Đỗ ái khanh có tài năng trị quốc, có rất nhiều chủ trương mới. Mặc dù có thể thực sự gây chấn động nhưng lối suy nghĩ rất tinh tế, rất độc đáo. Cũng chính vì lý do đó tiên đế mới gi­ao cho cai quản phủ Tĩnh Gi­ang, tiêu diệt giặc cỏ ở nơi đó, chỉnh đốn quan lại địa phương, giúp nạn dân thiên tai, an dân, khuyến khích nông nghiệp hưng thịnh. Rất nhiều việc làm đã được tiên đế khen ngợi, khen Đỗ ái khanh có thể được trọng dụng. Tiên đế cử Đỗ ái khanh làm tuần y các lộ, đề điểm hình ngục chính là để thể nghiệm, quan sát dân tình, hiểu rõ về sự vụ các địa phương, chuẩn bị cho tương lai nhưng đáng tiếc tiên đế không thể đợi tới khi Đỗ ái khanh triển khai kế hoạch to lớn của mình”.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo cực kích động, hắn vén áo bào quỳ xuống hướng về lĩnh cữu của Tống Thần Tông ở chính điện Phúc Ninh, nức nở nói: “Vi thần không ngờ lại được Hoàng Thượng yêu mến như vậy. Vi thần du có thịt nát xương tan cũng quyết không phụ thánh ân”.

Nói xong hắn dập đầu thình thịch mấy tiếng, khóc lóc ngay tại chỗ.

Vương Gi­ai cũng vén áo bào quỳ xuống, hướng điện Phúc Ninh dập đầu. Vương Gi­ai thân là quan Tể tướng, một khi ông ta đã quỳ xuống, mấy người Thái Xác đương nhiên cũng phải quỳ xuống dập đầu.

Hoàng Thái Hậu nồng nàn nhìn Đỗ Văn Hạo, chậm rãi nói: “Chúng ái khanh hãy đứng dậy. Hú nhi, mau bước lên ra mắt tám vị phụ chính đại thần”.

Triệu Hú khom người nói: “Hoàng tôn lĩnh chỉ” Hắn do dự một lát rồi nói: “Hoàng tổ mẫu, Hoàng tôn có một yêu cầu, không biết có nên nói hay không”.

Hoàng Thái Hậu nói: “Cứ nói”.

“Hoàng tôn nghe Hoàng tổ mẫu nói nhiều về tài năng của Đỗ tướng quân, trong lòng vô cùng ngưỡng mộ, muốn mời Đỗ tướng quân làm sư bảo của mình. Không biết có được không?”

Hoàng Thái Hậu thoáng sững người liếc nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Đỗ ái khanh, ý của khanh thế nào?”

Hai mắt Đỗ Văn Hạo đỏ đỏ, hắn hít hít mũi, trong lòng cực kỳ cảm động và nhớ tới ơn tri ngộ của Tống Thần Tông đối với mình. Yêu ai yêu cả đường đi, tất nhiên Đỗ Văn Hạo cũng cảm động với người con của Tống Thần Tông. Bản thân hắn có tri thức của một ngàn năm sau so với triều Tống, hắn có thể dạy vị Hoàng Đế nhỏ này rất nhiều tri thức. Cảm xúc bắt đầu dâng trào trong lòng hắn, hắn quyết tâm sẽ bồi dưỡng vị tiểu Hoàng Đế trước mắt này thành một Hoàng Đế có tri thức mới, có thể cứu vớt Đại Tống suy tàn lâu nay. Hắn lập tức tiến lên nói: “Vi thần nguyện ý, nguyện tận tâm tận lực làm tròn chức trách sư bảo của tân đế”.

Sắc mặt Hoàng Thái Hậu vui mừng, nàng chậm rãi gật đầu nói: “Nếu đã như vậy thì làm phiền Đỗ ái khanh”.

Triệu Hú tươi cười vẻ đắc ý, hắn liếc nhìn Đỗ Văn Hạo rồi tiến lên trước điện hai bước, chắp tay nói: “Hú nhi ra mắt chư vị phụ thần”.

Mấy người phụ chính đại thần hoảng sợ, liên tiếp vén áo bào quỳ xuống, Vương Gi­ai xuất lĩnh nói to: “Thần, tả Phó bộc xạ, môn hạ thị lang Vương Giải khấu kiến Thánh Thượng” Nói xong ông ta cung kính hành đại lễ, bái ba bái, dập đầu chín cái.

Thái Xác cũng nói: “Thần, hữu phó bộc xạ, trung thư thị lang Thái Xác, khấu kiến Thánh Thượng”.

Mấy người còn lại cũng lần lượt báo danh, hành đại lễ.

Mặc dù Triệu Hú vẫn chưa tiến hành đại lễ đăng cơ, vẫn chưa phải là tân đế. Nhưng điều này cũng giống như lãnh đạo mới nhậm chức ở một cơ quan. Tổ chức của bộ đã họp, nghiên cứu và quyết định, tin tức làn truyền ra bên ngoài. Cho dù còn chưa chính thức thông báo xuống bên dưới, ai gặp mặt cũng xưng là cục trưởng, viện trưởng làm người nghe rất sảng khoái.

Triệu Hú mới mười tuổi. Lần đầu tiên hắn thấy người hành đại lễ bái ba bái, dập đầu chín cái thì rất ngạc nhiên, hơn nữa lại gần như toàn những ông lão râu tóc bạc phơ nên bật cười khanh khách.

Từ sau rèm Hoàng Thái Hậu hừ lạnh một tiếng nói: “Hú nhi, phụ hoàng ngươi, Tằng tổ hoàng hậu còn quàn ở bên. Tại sao ngươi lại vui cười lúc này?”

Triệu Hú kinh hãi, hắn vội vàng quay người dập đầu nói: “Hoàng tôn biết sai rồi, thỉnh Hoàng tổ mẫu trách phạt”.

Tân đế mới lập, Hoàng Thái Hậu cũng không muốn làm Triệu Hú quá mất mặt liền thản nhiên nói: “Sau này ngươi thân là vua một nước, tất cả hành xử phải cực kỳ suy xét cẩn thận, phải giống như Hoàng cao tổ Nhân Tông hoàng đế của ngươi vậy, làm một Hoàng Đế nhân từ. Hãy đứng lên đi”.

Mấy người Thái Xác nghe Hoàng Thái Hậu dạy bảo Hoàng tôn không đề cập với trượng phu của mình là Anh Tông hoàng đế cho là có ý nghĩa khiêm tốn mà thôi, không đề cập tới Tống Thần Tông hoàng đế mà ngược lại đề cấp tới Tống nhân Tông hoàng đế của mấy chục năm trước, biết hiển nhiên Hoàng Thái Hậu không muốn tân đế Triệu Hú sau này học tập ý chí tiến thủ cương quyết của Tống Thần Tông mà muốn Triệu Hú biết kính cẩn lắng nghe, tiết kiệm nhân ái, học tập cách bảo thủ giữ vững nghiệp lớn của Tống Nhân Tông thì trong lòng lại càng lạnh buốt.

Triệu Hú chậm rãi đứng dậy, chắp tay, bập bẹ giọng nói trẻ thơ nói: “Chư vị ái khanh bình thân. A, Đỗ ái khanh, chư vị khanh gia đều dùng đại lễ khấu kiến ta. Tại sao khanh lại vẫn đứng ở đó?”

Triệu Hú vẫn chưa đăng cơ, theo quy định chặt chẽ vẫn không thể xưng là “Trẫm” nên hắn do dự một lát dùng chữ “ta”.

Đỗ Văn Hạo thấy Triệu Hú tuổi còn nhỏ tựa như đã có tính kiêu căng tức thì trong lònh tức giận cười nhẹ một tiếng chắp tay nói: “Văn Hạo chỉ là thần tử, đương nhiên phải cùng bọn họ quỳ lạy dùng đại lễ quân thần. Nhưng nay Văn Hạo là sư bảo của Thánh Thượng. Cái gọi là sự tôn nghiêm của đạo học. Người làm thầy phải bái kiến đệ tử của mình, không hợp với lễ nghi tôn sư của Nho gia. Vì vậy Văn Hạo khẩn cầu Thánh Thượng từ nay về sau miễn trừ cho Văn Hạo dùng đại lễ quỳ lạy, thể hiện sự tôn sùng của Thánh Thượng với phẩm đức học thuật của Nho gia”.

Triệu Hú thoáng ửng sốt rồi hắn chỉ vào Thái Ca đang quỳ lạy trên mặt đất nói: “Ông ấy đã từng là sư bảo của ta, tại sao vẫn phải quỳ?”

“Hoàng Thái Hậu mới vừa thay đổi sư bảo. Hiện nay Thái đại nhân không còn là sư bảo của Thánh Thượng, đương nhiên phải hành đại lễ quân thần. Thế nhưng một ngày làm thầy, cả đời làm thầy. Khụ khụ. Thái Ca đại nhân đã từng là sư bảo của Thánh Thượng, Thánh Thượng cũng không nên tiếp nhận đại lễ của ông ấy. Coi trọng tôn sư, lễ giáo có quan hệ với việc hưng thịnh của một quốc gia. Thánh hiền Tuân Tử có câu: “Quốc có hưng cần phải quý sư, trọng phó (thầy giáo). Quý sư trọng phó thì luật pháp được duy trì.

Quốc suy chính là khinh rẻ sư, coi nhẹ phó. Thích dùng sai nha thì pháp luật hỏng. Thánh Thượng mới là bậc quân chủ của một nước mà đã không tôn sư, coi trọng giáo thì thực sự không phải điều may mắn của một quốc gia”.

Triệu Hú không ngờ Đỗ Văn Hạo lại chỉ trích một cách không khoan nhượng, lại còn trích dẫn câu nói của bậc thánh hiền Tuân Tử nên nhất thời mặt đỏ lên không biết làm thế nào phản bác lại. Nhưng Triệu Hú trời sinh nhanh nhẹn, không dễ dàng chịu thua người khác, mắt hắn đảo lên rồi nói: “Khanh đã đưa ra lời dạy của thánh hiền Tuân Tử. Nhưng Tuân Tử nói: “Thiên Tử là đấng chí tôn, trong thiên hạ không ai sánh bằng, ngoảnh mặt về nam và sai khiến thiên hạ, không ai được trái lệnh, đều phải chấn đọng phục tùng. Khanh giải thích mấy lời này thế nào?”

Mấy câu này Đỗ Văn Hạo nghe không hiểu nhưng hắn nghe thấy kiểu nói của Triệu Hú, tức giận không nhịn được, chậm rãi nói: “Quân chính là Thiên Tử, Quân lâm thiên hạ (ý muốn nói quân chủ quay mắt về phía thiên hạ, quân vương bao trùm trên vạn người), thần tử phải phục tùng quân vương. Nhưng mà Thánh Thượng cũng nên nghe qua một câu nói khác của Tuân Tử: Quân sư chính là gốc rễ, không quân sư tất sinh ác trị”.

Triệu Hú thoáng sửng sốt, ánh mắt khẽ chuyển, nói: “Đỗ sư bảo, khanh chuẩn bị dạy ta bộ nào trong tứ thư ngũ kinh”.

Đỗ Văn Hạo nhìn thấy sắc mặt này của Triệu Hú lập tức nhớ tới những hành động tinh nghịch, hồ đồ của hắn, bất giác nhíu mày. Lúc trước hắn chỉ nhất thời xúc động chấp nhận làm lão sư của Hoàng Thượng. Hiện tại hắn nghĩ tới việc làm lão sư cho Hoàng Thượng, không thích hợp, không thoải mái, lại càng không được nghiêm khắc tức thì trong lòng thoáng hối hận. Đỗ Văn Hạo nghe thấy Triệu Hú nói câu đó lập tức mượn cớ xuống lừa, chắp tay nói: “Tài học thiên hạ không chỉ có tứ thư ngũ kinh. Sở học của Thánh Thượng đương nhiên đã thuộc lòng điển tích của các bậc tiên hiền. Nhưng Thánh Thượng chính là vua của một nước, chi bằng hãy học qua, tri thức cổ kim nhiều thứ cần học. Thánh Thượng đã chọn Văn Hạo làm thầy, nhất định không phải nhìn trúng trình độ tứ thư ngũ kinh của Văn Hạo. Nếu một khi như thế đừng nói tới học giả uyên thâm, tài học năm xe khi xưa là Tư Mã Quang, mà ngay cả Thư Thụ tiên sinh, Hạo cũng không sánh bằng. Văn Hạo thỉnh cầu được từ chức sư bảo của Thánh Thượng. Văn Hạo đã không phải sư bảo của Thánh Thượng, đương nhiên phải hành đại lễ quân thần. Thần tam nha Đô Kiểm Điểm, Ngự y Đỗ Văn Hạo cầu kiến Thánh Thượng”.

Nói xong, Đỗ Văn Hạo vén áo bào, định quỳ xuống.

Sở dĩ Triệu Hú muốn Đỗ Văn Hạo làm lão sư của mình chẳng qua là lúc trước Hoàng Thái Hậu mới lập hắn làm Hoàng Đế, trong lòng cảm kích, lại nghe Hoàng Thái Hậu tôn sùng Đỗ Văn Hạo như vậy nên mới thuận miệng nói ra, cũng là một cách tâng bốc Hoàng Thái Hậu mà thôi. Hắn nghe nói Đỗ Văn Hạo muốn từ chức, vuốt mông ngựa không được lại còn ngược lại làm cho Hoàng Thái Hậu có cảm giác bản thân mình tuỳ hứng, bướng bỉnh, làm lão sư tức giận bỏ đi, vậy chẳng khác gì chữa lợn lành thành lợn què.

Triệu Hú liếc mắt nhìn trộm Hoàng Thái Hậu trong rèm, thất mày liễu Hoàng Thái Hậu cau lại, hiển nhiên trong lòng rất khó chịu. Triệu Hú không khỏi thoáng rùng mình. Thân là con cháu Hoàng tộc, hắn đã được nghe nhiều chuyện xưa của các Hoàng tộc tiền triều. Hắn hiểu rằng trong lịch sử đã từng có tiền lệ Ấu quân vì chọc giận Thái Hậu buông rèm chấp chính mà bị xử phạt, thậm chí còn bị phế. Mới rồi Hoàng Thái Hậu tôn sùng Hoàng Thái Hậu như vậy, không thể khinh xuất chọc giận Hoàng Thái Hậu, khi đó ngội vị Hoàng Đế khó giữ được.

Triệu Hú phản ứng rất nhanh, hắn vội vàng tiến lên xua tay nói: “Chờ một chút, Đỗ sư bảo”.

Đỗ Văn Hạo vừa vén sáo bào, vẫn chưa quỳ xuống, nghe Triệu Hú nói vậy thì dừng lại, ngẩng đầu nhìn hắn nói: “Thánh Thượng có gì phân phó?”

“Ừ. Hú nhi thỉnh tướng quân làm sư bảo của ta. Tướng quân học rộng tài cao, có tài trị quốc. Điểm này phụ vương cùng tổ mẫu, Thái Hoàng Thái Hậu đều tôn sùng. Vừa rôi sư bảo nói về sự tôn nghiêm của đạo học rất đúng. Hú nhi sắp đăng cơ, cần phải là tấm gương sáng, lễ kính tôn sư, không vì tôn nghiêm của đế vương mà bỏ qua tôn sư trọng đạo. Hú nhi biết sai rồi. Sau này miễn Đỗ sư bảo và các sư bảo khác tiến hành đại lễ quân thần”.

Đỗ Văn Hạo thoáng sững người khi nghe tiểu Hoàng Đế nhận sai sót, cũng miễn cho hắn sau này tiến hành quỳ đại lễ. Hắn nhìn Hoàng Thái Hậu ở sau bức rèm, thấy nàng mỉm cười, chậm rãi gật đầu với mình, trong mắt ngậnp tràn sự mong đợi thì mới chắp tay cúi dạp người thi lễ nói: “Thánh Thượng quá lời. Vi thần đa tạ Thánh Thượng giữ gìn sự tôn nghiêm của đạo tôn sư”.

Đúng lúc này từ xa vang lên tiếng kẻng canh năm.

Hoàng Thái Hậu nói: “Canh nắm rồi, sắp tới lúc khiêng linh cữu đưa tang. Vương ái khanh, khanh phụ trách việc lên ngôi của Hoàng Đế. Đỗ ái khanh, khanh phụ trách cảnh giới. Các khanh gia còn lại hãy theo phụ tá bên cạnh. Tất cả các khanh hãy mau đi”.

Tám người đồng loạt trả lời.

Bình minh, điện Phúc Ninh.

Linh cữu của Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thấi Hậu đều quàn ở trong này.

nghi lễ tế lễ khiêng linh cữu bắt đầu, tân Hoàng Đế Triệu Húc, mặc quần áo tang, đứng đầu, bái vị

Phía sau Triệu Hú là Hoàng Thái Hậu, Ung Vương, Tào Vương cùng các thân vương khác, còn có các Hoàng tử, phi tần hậu cung, công chúa cùng hoàng thân quốc thích, cũng mặc quần áo tang, đứng theo tôn ti trật tự trong Hoàng tộc. Các trọng thần đều xếp hàng theo thứ tự ở bậc thềm bên ngoài điện và sân điện.

Những đại thần này thấy người chủ trì tế lễ chính là lục hoàng tử Duyên An Quận Vương thì đều hiểu đây chính là tân Hoàng Đế.

Trong tiếng hô của viên quan lĩnh xướng, bái lạy bốn lễ, hiến tế, hiến rượu, đọc điếu, lại bốn vái sau đó quan chấp sự nói” Khóc!” một hiệu lệnh vang lên tất cả Hoàng tộc buồn bã kêu khóc.

Dù sao Hoàng Đế Triệu Hú dẫn đầu mới chỉ có mười tuôit, căn bản còn chưa hiểu biết nhiều, đương nhiên còn hiểu biết rất hạn hẹp về cái chết. Ngày hôm đó khi biết tin phụ hoàng đã băng hà, hắn đã cùng mẫu thân gào khóc một hồi nhưng sau đó dần dần quên lãng. Giờ đây đã qua một tháng lại biết mình sẽ trở thành Hoàng Đế mới, trong lòng không ngừng đắc ý. Bây giờ đột nhiên bắt một đứa trẻ như hắn chảy nước mắt khóc rống lên, hắn không phải là một diễn viên, đâu có làm được như vậy. Hắn không ngừng khóc khan, không ngừng giả bộ đau đớn, sánh mắt quay loạn mọi chỗ, nhìn đông nhìn tây. Quan chấp sự nhìn thấy nhưng biết hắn sắp làm Hoàng Đế nào dám nói nửa câu.

Sau khi lễ Khải điện qua đi, đoàn người hoàng thân quốc thích bắt đầu đi vào dưới sự chỉ dẫn của viên quan lĩnh xướng vào chỗ quàn lĩnh cữu Hoàng Đế

Quan chấp sự thu lại tấm màn, lau chương cung (quan tài làm bằng gỗ chương), thì ra là để lau bụi đất cho quan tài của Hoàng Đế. Quan chấp sự chỉ dẫn thiết lập Long tập, chân đình, thần bạch dư, dật sách bảo dư (tên những đồ cúng lễ) trên điện sau đó bắt đầu cúng tế tổ tiên, thiết điện tế vong linh, lại là bốn vái, hiến tế, lại bái sau đó khẩu lệnh kêu khóc. Như thường lệ tân Hoàng Đế Triệu Hú lại đảo mắt xung quanh, gào khan.

Sau đó quan Tư lễ cung thỉnh Hoàng Đế đi vào trước hai cỗ quan tài của Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu cao hơn đầu người, mặt quay về tây. Quan dẫn lĩnh quỳ tấu, thỉnh linh giá xuất phát.

Chương 401: Lễ Đăng Cơ

Chấp Sự Quan bưng Dật Sách Bảo Dư dùng để chiêu hồn, còn Minh Tinh thì dùng để viết tên hiệu của Hoàng Đế để truy phong.

Hàng trăm Chấp Sự Quan đến dự lễ đón linh cữu của Tống Thần Tông đã đứng vây quanh quan tài, dùng để khênh chiếc linh cữu của Tống Thần Tông là một chiếc đòn gỗ to và nặng, nó có tên là Độc Long Gi­ang, phía trước có khắc trạm đầu rồng, còn phía sau thì chạm trổ đuôi rồng, phải cần một trăm hai mươi tám người mới nâng nổi nó lên. Còn linh cữu của Thái Hoàng Thái Hậu thì do chín mươi sáu người khênh, những người khênh linh cữu này đã được rèn luyện vô cùng nghiêm ngặt, ngày thường tập luyện, bọn họ đều phải khênh những chiếc quan tài trên đó có đặt một bát nước đầy, khi khênh nó xuống cầu thang thì đến một giọt nước ở trong bát trên quan tài không được đổ ra ngoài,

Đám Nội Thị vô cùng cẩn thận khi khênh linh cữu của Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu, linh cữu của Tống Thân Tông ra trước, còn của Thái Hoàng Thái Hậu ra sau, trước sau đều vô cùng cẩn trọng và vững vàng.

Đám Chấp Sự Quan lúc này cũng lục đục mỗi người cầm một chiếc lọng, che lấy linh cữu của Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu.

Tiếp sau đó thì viên quan dẫn đường liền quỳ xuống mời linh cữu của Hoàng Thượng lên Long Tập, Long Tập thực chất là một chiếc xe chạm trổ hoa văn rồng phượng, chuyên dùng để chờ quan tài cho Hoàng Thượng. Mấy tên Nội Thị lúc này cũng đã đặt linh cữu của Hoàng Thượng lên trên Long Tập một cách cẩn thận, sau đó dùng một tấm vải màu sắc sặc sỡ che lên linh cữu của Hoàng Thượng,

Còn đám Chấp Sự Quan thì cầm lọng đứng ở hai bên, sau khi viên Tư Lễ Quan cao giọng khởi xướng xong, thì chiếc Long Tập bắt đầu lăn bánh rời khỏi hoàng cung. Phía sau là những viên quan Chấp Sự khác bưng Dật Sách Bảo Dư, Thần Bạch Dư, Chân Đình, Minh Tinh (Những vật dùng trong tế lễ, chiêu hồn, viết truy hiệu cho Hoàng Đế) tiếp sau đó là Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu, Thân Vương, Hoàng Tử, Phi Tần, Hoàng Thân Quốc Thích, ai cũng khóc lóc vô cùng đau thương.

Dọc trên đường đưa lễ đám Ngự Lâm Quân cũng mặc áo hiếu, để tang đứng trang nghiêm ở hai bên đường, Đỗ Văn Hạo cũng khoác trên người tấm áo tang, tay cầm kiếm đi bên cạnh linh cữu của Hoàng Thượng.

Toàn bộ quá trình tang lễ thì chỉ có mỗi một mình Tam Nha Đô Chỉ Huy Sứ Đỗ Văn Hạo là được phép cầm kiếm, đây là Hoàng Thái Hậu đặc cách cho hắn.

Đội khênh linh cữu ra khỏi cung từ cổng Tả Điện, sau đó đi thẳng ra cổng Ngọ Môn, nơi này cũng là nơi tổ chức nghi thức tang lễ, dĩ nhiên vẫn là Tự Hoàng Đế Triệu Hú dẫn đầu. Tư Lễ Quan khởi xướng xong thì tất cả cùng vái lạy bốn lần, rồi lại phải lạy thêm một lần nữa, tiếng khóc than lại một lần nữa vang lên dữ dội.

Tiễn đưa linh cữu đến đây là kết thúc, cũng là thời điểm vĩnh biệt Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu, tất cả Hoàng Thân Quốc Thích đều khóc rống lên chấn động cả hoàng cung, có người còn nằm ngửa ra đất giãy giụa không ngừng sửa sắp chết đến nơi, có người thì chạy bổ đến linh cữu cứ như muốn theo Hoàng Thượng xuống dưới suối vàng luôn không bằng, mỗi người một kiểu không ai giống ai, đám Nội Thị phải vất vả lắm mới khuyên ngăn lôi kéo được bọn họ ra.

Trong đám người này còn có cả Ung Vương Triệu Nhan không ngừng dập đầu xuống đất kêu gào thê lương.

Tiếp sau đó, thì vẫn còn một nghi thức khác vô cùng quan trọng phải cử hành, đó là làm lễ kế vị cho Hoàng Đế mới.

Tư Lễ Quan mở to giọng hết cỡ khởi xướng mời Tự Hoàng Đế Triệu Hú lên kế vị. Triệu Hú lững thững áo tang đứng trước linh cữu của Tống Thần Tông cúi lạy ba lạy, dập đầu chín cái, rồi chính thức nhận lệnh kế vị lên ngôi Hoàng Đế.

Tiếp theo, Tư Lễ Quan quỳ xuống trước linh cữu mời mọi người khởi giá.

Sau đó, viên quan dẫn đường liền quỳ xuống mời vị tân Hoàng Đế về cung, về cùng với Triệu Hú còn có Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thân Quốc Thích để bắt đầu cử hành buổi nghi lễ quan trọng nhất, trang nghiêm nhất tại Đại Điện. Tại đây Tể Tướng Vương Gi­ai đã hoàn tất công việc cho buổi lễ đăng cơ.

Ngoài cổng Ngọ Môn, các lễ quan liền quỳ xuống trước linh cữu mời lên Long Tập để xuất phát, Ngoại trừ Tự Hoàng Đế ra, thì các Thân Vương khác đều phải đi theo cùng linh cữu, khi đi ra đến cổng Thụy Môn đến Thái Miếu thì Tào Vương Triệu Cố sẽ chủ trì buổi lễ từ biệt tổ tông tại Thái Miếu.

Vĩnh Dụ Lăng của Tống Thần Tông đến giờ vẫn chưa xây dựng xong, chính vì vậy mà bây giờ phải đặt linh cữu trong Thái Miếu, chờ lăng mộ xây xong rồi mới đưa ra đó để an táng. Còn Thái Hoàng Thái Hậu thì chôn cùng với Tống Nhân Tông tại mộ Vĩnh Chiêu Lăng, chính vì vậy mà sau buổi lễ cáo từ tổ tông xong, thì Lễ Quan lại quỳ xuống mời linh cữu của Thái Hoàng Thái Hậu khởi giá.

Thân Vương lại tiếp tục đưa linh cữu đến cổng Đức Thắng Môn rồi quỳ xuống bái biệt tại đây, sau đó dõi mắt theo lĩnh cữu rồi lại quay lại hoàng cung tham gia buổi lễ đăng cơ của Hoàng Đế Triệu Hú.

Người dẫn đội Ngự Lâm Quân tiễn đưa linh cữu của Thái Hoàng Thái Hậu về Vĩnh Chiêu Lăng an nghỉ là Tam Nha Phó Đô Chỉ Huy Sứ đại tướng quân Lý Phổ, còn Đỗ Văn Hạo thì ở lại Hoàng Cung tham dự buổi lễ kế vị của Hoàng Đế, hắn còn phụ trách khâu an ninh của buổi lễ quan trọng này.

Buổi lễ đăng cơ cử hành tại Đại Khánh Điện, nơi đây đã được trang hoàng lại mới tinh, sau khi xác định tân vương xong thì các quan viên đã được phái đến Thái Miếu tiến hành công bố việc đăng cơ.

Các văn võ bá quan trong triều khi trước đều tiễn đưa linh cữu của Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu ra cổng Ngọ Môn xong rồi lại cùng với Tự Hoàng Đế về Đại Khánh Điện, thay đổi quần áo để chuẩn bị buổi lễ kế vị cho Triệu Hú,

Các viên quan lại trong Bộ Lễ đã đặt chiếc Ngọc Ti Hoàng Đế ở trên mặt bàn Hương Án của Hoàng Thượng, cạnh đó còn có cả những bức thiệp chúc mừng tân vương, cùng với chiếu thư và bút nghiên.

Ở hai bên Đại Điện lúc này đã có đội ngũ quan lại chỉ đứng chuyên để ghi chép lại sự việc, đứng trông vô cùng nghiêm túc, hai bên ngoài cổng Đại Khánh còn đặt hai cỗ xe nạm ngọc có tên gọi Ngọc Liễn và Kiêm Liễn, phía trước cổng Tuyên Đức thì có đặt năm cỗ xe có tên Kim Cách, Ngọc Cách, Mộc Cách, Cách Cách chuyên dành cho Thiên Tử sử dụng, ngoài ra còn có các đội ngũ âm nhạc nữa.

Vì lễ hội đăng cơ của Triệu Hú là thuộc vào dạng vừa đưa tang vừa lên ngôi, chính vì vậy mà đội ngũ âm nhạc được bày biện ở trước Đại Khánh Điện chỉ có dụng cụ âm nhạc thôi, chứ không có người chơi nhạc, bày chúng ở đó chăng qua là muốn biểu thị sự vui vẻ thôi, chứ thật sự không cần phải nổi nhạc lên, vì dù sao trong đây còn là buổi tang lễ.

[Trong các bộ truyện xuyên việt, vượt thời gi­an khác thì trong đại lễ đăng cơ không quản là đang có tang hay không, tất cả đều nổi nhạc kèn trống vui vẻ, điều này không phù hợp với thực tế, cũng chẳng phù hợp với lịch sử chút nào. Đây là lão Mộc Dật nói vậy! ]

Trước đó, Đỗ Văn Hạo đã bố trí an ninh trong buổi lễ đăng cơ này vô cùng thỏa đáng và chặt chẽ rồi, trong giờ phút quan trọng cuối cùng này hắn lại còn đem theo Đại Nội Thị Vệ đi tuần hết cả cái Đại Điện này mấy vòng nữa.

Trong hoàng cung lúc này đã an bài rất nhiều Ngự Lâm Quân, tất cả các đường cửa ra vào đều được canh phòng vô cùng cẩn mật, kẻ địch bên ngoài cũng khó mà có thể trà trộn vào bên trong được, và chủ yếu đối phó với những người trong nội bộ, chính vì vậy mà khi Hoàng Thượng chưa xuất hiện Đỗ Văn Hạo đã đi kiểm tra cả cái Đại Điện này hết mấy lần liền, trong đó có cả cung nữ, thái giám, nội thị cùng với văn võ bá quan, ai hắn cũng kiểm tra một cách kỹ lưỡng.

Cũng trong lúc này, Triệu Hú cũng đã ở phía trong Đại Khánh Điện mặc xong quần áo của Hoàng Đế, Triệu Hú trước tiên phải đến Điện Văn Đức nằm ở bên trái trước để tiếp nhận tám vị Tể Tướng cùng với Tam tỉnh và Lục Bộ, sau đó là tới Đại Lý Tự, Hàn Lâm Viện. Nói chung là những người phụ trách những nhiệm vụ trọng yếu hai quỳ mười lạy. Vì tân vương đã miễn cho Đỗ Văn Hạo rồi, nên hắn không phải quỳ lạy như mấy người kia nữa, mà chỉ việc cúi người lạy tạ mà thôi.

Xong xuôi đâu đấy, Lễ Bộ Thượng Thư liền quỳ xuống mời Hoàng Thượng, Triệu Hú liền bắt trước bộ dạng của người lớn khệnh khạng bước ra khỏi điện, sau đó đi tới Đại Khánh Điện, rồi ngồi lên ngai vàng trong đây.

Phía sau ngai vàng lúc này đã xuất hiện một chiếc rèm che, Hoàng Thái Hậu ngồi ngay sau đó ra chỉ cho các quan Thần trong triều.

Còn đám quần thần đứng nghiêm thành hai hàng phía dưới, Tể Tướng Vương Gi­ai thì đứng cúi người bên cạnh ngai vàng từ từ mở chiếu thư ra đọc, bức Chiếu thư kế vị này là do môn hạ của Trung Thư ngày đêm ngẫm nghĩ và chỉnh sửa mới viết ra được, chính vì vậy mà chữ đầu tiên là môn hạ, chứ không giống như đời nhà Thanh là Phụng thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết gì gì đó.

Vương Gi­ai lúc này khẽ hắng giọng lên một cái, rồi lắc lư cái đầu của mình cất tiếng khàn khàn lên đọc bản chiếu thư kế vị.

“Môn hạ viết: để dân chúng được ấm no mà lập ra quân vương, quân vương hiệu lệnh thiên hạ bốn phương là vì sự an nguy ngàn đời của trăm họ, Tiên Đế tài giỏi văn võ song toàn, tài trị quốc hơn hẳn thiên cổ, nay Thế Tử anh minh, vì sự nghiệp Tiên Đế nên kế vị làm nên nghiệp lớn! Bố cáo cho toàn dân thiên hạ được biết!”

Sau khi đọc xong chiếu thư kế vị, Vương Gi­ai liền cuộn nó vào gi­ao cho Đại Học Sĩ dâng lên cho Nội Các Học Sĩ, Nội Các Học Sĩ tiếp lấy cẩn thận đóng dấu lên đó, rôi đem cuộn chiếu thư này gi­ao cho Lễ Bộ Thượng Thư.

Lúc này, tiếng trống tại cổng Ngọ Môn đã vang lên, dưới sự chỉ dẫn của Tư Lễ Quan, các vương công đại thần ở bên ngoài Đại Khánh Điện đều đồng loạt quỳ xuống tiến hành ba quỳ chín lạy. Sau đó là một đám nội thị tay cầm roi ngựa dài tầm hai mét quất liền mấy tiếng kêu đen đét trong không trung.

Tiếp sau đó, Vương Gi­ai lại cung kính cầm lấy một cuộn thánh chỉ khác, để tuyên bố chỉnh sửa niên hiệu.

“Trẫm kế nghiệp Tiên Đế, nguyện đem tâm sức ra giúp đời giúp nước, làm việc chăm chỉ không ngại gi­an khó, chính thức tuyên bố bắt đầu từ ngày một tháng một cải hiệu Nguyên Phong năm thứ chín thành Nguyên Hữu năm thứ nhất!” Vương Gi­ai lắc lắc đầu đọc xong rồi lại cuộn lại đưa cho Nội Các Học Sĩ đóng dấu.

Sau đó ông lại cầm thêm một bản chiếu thư khác, đây là bản chiếu thư tôn Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao lên thành Thái Hoàng Thái Hậu, Vương Gi­ai lại hắng giọng đọc.

“Từ đời vương giả khi xưa, thì quân phương là người đứng đầu trong thiên hạ, Hoàng Thái Hậu nổi tiếng là người nhân đức, cần kiệm liêm chính, lại phò tá Anh Tông làm mẫu nghi thiên hạ, nhân hậu đảm đang, được nhân dân kính ngưỡng, quân thần kính nể, tạo phúc cho muôn dân từ bi hỷ sả, nay truy phong lên Thái Hoàng Thái Hậu!”

Vương Gi­ai đọc xong lại đem bản chiếu thư này đưa cho Nội Các Học Sĩ đóng dấu rồi lại dâng lên một đạo thánh chỉ khác, thánh chỉ này tuyên bố Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao quyết định buông rèm chấp chính, Vương Gi­ai cầm chiếu thư lên quét mắt nhìn quần thần một lượt xong lại hắng giọng đọc.

“Thái Hoàng Thái Hậu nhân đức vẹn toàn, thông minh tuyệt đỉnh, thấu hiểu lòng dân, từ bi độ lượng, biết thâu nạp lời trung nghĩa, hiểu biết về quân sự, nên quết định phò giúp Hoàng Thượng nhiếp chính…!”

Lần này tới lượt Lễ Quan khởi xướng, các vị quan lại trong triều nhất thời quỳ xuống ba lần, lạy chín cái cung chúc Thái Hoàng Thái Hậu và Hoàng Thượng.

Tiếp sau đó, Vương Gi­ai lại tiếp tục đọc thêm mấy đạo thánh chỉ nữa, trong đó phong Hoàng Hậu lên làm Hoàng Thái Hậu, phong Chu Đức Phi nương nương lên làm Hoàng Thái Phi, ban cho Ung Vương và Tào Vương vào triều đặc quyền không cần xưng danh tính, phong Ninh Quốc Công Triệu cố lên làm Quận Vương, còn các vương công khác cũng đều được phong tước hết.

Sau khi kết thúc, chiếu thư lại được đưa cho quan trong bộ lễ, rồi sau đó lần lượt ra được đưa ra khỏi cổng Đại Khánh đến công Tuyên Đức bố cáo cho thiên hạ được biết.

Đỗ Văn Hạo ngoại trừ việc tham gia lễ bái ra, thì chức trách chủ yếu của hắn vẫn là hông đeo bảo kiếm đề phòng canh gác không một phút lơ là,

Cuối cùng thì nghi lễ cũng đã hòan toàn kết thúc, tân Hoàng Đế Triệu Hú lui ra khỏi hậu điện, quân thân lúc này cùng giải tán, Đỗ Văn Hạo cũng thở phào nhẹ nhõm. Hắn sau đó lại đem đám thị vệ tuần tra một lượt nữa cho kỹ càng, sau khi dặn dò canh gác cẩn mật đâu đấy xong rồi thì trời cũng đã tối, cũng may mà mọi việc rất thuận lợi, không hề có chuyện gì xảy ra cả.

Đỗ Văn Hạo đi đến tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu Thao Thao, nhưng sau khi hỏi han thì hắn được biết Thao Thao của hắn bây giờ đã không còn ở đây nữa mà chuyên sang nơi ở của Thái Hoàng Thái Hậu Tào Thị, tức cung Càn Ninh rồi, Đỗ Văn Hạo nghe vậy lại chạy sang đó, đến nơi trông thấy tên thái giám đứng ở bên ngoài canh giữ liền lên tiếng hỏi: “Thái Hoàng Thái Hậu đâu?”

“Dạ! Bẩm tướng quân! Thái Hoàng Thái Hậu bây giờ đang ở trong vườn hoa Hậu Uyển ạ!” Tên thái giám đáp,

Vườn hoa Hậu Uyển tức là Ngự Hoa Viên trong Hoàng Cung, đó là nơi mà Thái Hoàng Thái Hậu Tào Thị rất yêu quý. Đỗ Văn Hạo cũng đã từng dạy bà cách làm thế nào cho hoa nở nhanh, và làm thế nào cho hoa nở muộn, chỉ cần nắm giữ nhiệt độ hợp lý là có thể làm hoa ra trái mùa, chính vì vậy mà nơi đây hoa mọc tươi tốt, do thế mà Thao Thao của hắn rất là ngưỡng mộ và yêu thích nơi đây. Nên khi mới dọn về đây bà đã ra luôn vườn hoa ngắm cảnh rồi.

Đỗ Văn Hạo được tên thái giám dẫn đường đi vào bên trong Hậu Uyển, từ xa hắn đã trông thấy Thao Thao của hắn ngồi trong một chiếc đình ngẩn người ngắm những bông hoa tươi đẹp ở trong vườn.

Việc tang lễ cũng đã lo xong, Thái Hoàng Thái Hậu cũng đã bỏ áo tang xuống, thay bằng một bộ áo váy bồng thắt eo màu đen, quanh eo còn thắt thêm một tấm lụa trắng nữa, mái tóc của bà không hề vấn cao lên, mà cứ để nó xõa xuống dưới vai, chỉ cột nó bằng một sợi dây màu trắng đơn giản, trông vô cùng đạm bạc lại có phần cô đơn.

Đỗ Văn Hạo liền nhanh chân bước vào trong đình cúi người thi lễ nói: “Vi Thần bái kiến Thái Hoàng Thái Hậu!”

Cao Thao Thao đang ngẩn người ngắm cảnh, thì bỗng nhiên bị tiếng nói của Đỗ Văn Hạo làm cho sực tỉnh, khi nhận ra hắn rồi thì bà vô cùng mừng rỡ quay mặt lại mỉm cười vẫy tay với hắn nói: “Không cần đa lễ, mau lại đây với ta!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền tiến tới đứng cạnh bên Thái Hoàng Thái Hậu.

Cao Thao Thao lúc này liền vẫy tay ra ý cho bọn thái giám và cung nữ đều lui hết ra bên ngoài, sau đó quay sang Đỗ Văn Hạo ra ý bảo hắn ngồi xuống bên cạnh mình.

Tuy rằng bây giờ trời đã chập choạng tối, sắc trời cũng đã âm u, nhưng vì cái Ngự Hoa Viên này quá rộng cho dù trong này không có một bóng người nào nữa, nhưng vẫn có cảm giác dường như có người đang đứng ở đâu đó trong này đưa mắt lên nhìn trộm hai người, chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo trong bụng có phần sợ hãi, khép nép ngồi xuống nhưng vẫn giữ một khoảng cách với Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao.

Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao thấy Đỗ Văn Hạo như vậy liền sẵng giọng nói: “Sao chàng ngồi xa ta thế làm gì? Ta lẽ nào là cọp hay sao mà chàng lại sợ ta thế?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì cười híp cả mắt lại thấp giọng đáp: “Nàng mà ghê gớm lên thì còn kinh hơn cả cọp nữa!”

Câu nói này của Đỗ Văn Hạo có hai ý, một là hắn nói Thao Thao của hắn giết chết Tư Mã Đạo Nhân vô cùng ghê gớm, hai là lúc hai người gần gũi nhau, Thao Thao của hắn tham lam như hổ đói vậy.

Thái Hoàng Thái Hậu dĩ nhiên là hiểu theo ý sau của hắn, nên nhất thời đỏ mặt lên nói: “Lúc nãy thì sợ co rúm cả vào, bây giờ lại giở trò mồm mép hả? Còn không ngồi gần vào đây? Không có lệnh của ta thì không ai dám vào trong này đâu?”

Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên là hiểu điều này, nên hắn lấy hết sức can đảm ngồi xịch gần đến bên Cao Thao Thao, rồi vòng tay ra ôm lấy eo của bà,

Cao Thao Thao cũng thuận thế dựa đầu vào vai của Đỗ Văn Hạo, nhu mì nói: “Một tháng trước đây thôi, Thái Hoàng Thái Hậu vẫn còn ngồi ở trong này chăm sóc vườn hoa của người, vậy mà bây giờ người đã cưỡi hạc về nơi tiên cảnh rồi! ”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy Thao Thao của hắn buồn bã như vậy, liền ôm ghì lấy áp sát mặt của hắn vào mặt của bà nói: “Thao Thao! Tang lễ cũng đã lo xong đâu đấy hết cả rồi, người mất thì cũng đã mất rồi! Còn người sống thì vẫn phải sống chứ, thôi nàng đừng nghĩ đến những chuyện buồn nữa được không?”

“ừm!” Thái Hoàng Thái Hậu nghiêng đầu nhìn hắn rồi mỉm cười một cách miễn cưỡng nói: “Bây giờ ta cũng đã thành Thái Hoàng Thái Hậu rồi đó, chỉ trong nháy mắt mà ta đã già đến thế này rồi!”

“Già đâu mà già…Đỗ Văn Hạo nói xong liền hôn luôn lên môi của Thái Hoàng Thái Hậu, tuy nó vẫn mềm mại, nhưng lại lành lạnh. Đỗ Văn Hạo liền thương cảm nói: “Làn da của Thao Thao của ta vẫn còn mượt mà lắm, nó mềm trơn mịn như quả trứng vậy! Thao Thao sẽ không bao giờ già, cứ trẻ đẹp mãi thế này thôi!”

Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì hai mắt sáng lên vì hạnh phúc, bà ngẩng đầu lên nhì hắn rồi vòng cả hai tay bá lấy cổ của Đỗ Văn Hạo hôn lấy hôn để, rất lâu sau mới miễn cưỡng buông Đỗ Văn Hạo ra, rồi bà lại dúi đầu vào ngực của hắn khẽ nói: “Văn Hạo! Ta sợ lắm!”

“Sợ cái gì chứ?” Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng vuốt mái tóc của Thái Hoàng Thái Hậu nói.

“Sợ một ngày nào đó, ta cũng giống với Thái Hoàng Thái Hậu, hai mắt ta nhắm lại vĩnh viễn không thể trông thấy chàng được nữa Thái Hoàng Thái Hậu buồn bã đáp. Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền nâng cằm của Thái Hoàng Thái Hậu lên, thấy đôi mắt phượng của bà nhắm lại và ngấn lệ, hai hàng lông mi khẽ chớp lên một cái, một giọt nước mắt nóng hổi lăn dài trên gương mặt đáng thương của bà.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy thương xót vô cùng, hắn liền hôn luôn lên đôi mắt ngấn lệ đáng thương đó rồi nhẹ nhàng an ủi: “Ngốc ạ! Nàng cũng có hơn ta được bao tuổi đâu, ta là một tướng quân nam chinh bắc chiến có khi lại về cõi vĩnh hằng trước nàng cũng nên!”

“Bậy nào…! Không được nói bậy!” Thái Hoàng Thái Hậu nghe Đỗ Văn Hạo nói gở như vậy thì vội vã đưa tay lên bịt miệng hắn lại rồi nói: “Tất cả đều tại ta, tại ta nói những điềm gở như thế, nên chàng mới nói khùng như vậy!”

“Ha ha!” Đỗ Văn Hạo bật cười rồi hôn lên bàn tay của Thái Hoàng Thái Hậu nói: “Chúng ta cùng sống lâu trăm tuổi, đến lúc đó về trời rồi làm một đôi phu thê thần tiên chốn bồng lai tiên cảnh, ngày nào cũng hái đào trong vườn Thượng Uyên!”

Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy cũng bật cười, nét mặt đắm chìm trong sự vui vẻ và hạnh phúc, bà lại dụi đầu vào lòng Đỗ Văn Hạo nói: “Nếu mà thật như vậy thì tốt biết bao nhiêu!”

“Dĩ nhiên là thật như vậy rồi, ông trời có mắt nhất định sẽ không nỡ lòng nào tách rời hai chúng ta ra đâu!” Đỗ Văn Hạo cười nói.

“ừm!” Thái Hoàng Thái Hậu mỉm cười nhắm mắt hưởng thụ câu nói vừa rồi của Đỗ Văn Hạo.

Trời cũng dần dần tối dần. Đúng lúc này bên tai của hai người bỗng nhiên nghe thấy gió thổi vù vù, cát bay lên tứ tung.

“Mưa rồi!” Đỗ Văn Hạo mừng rỡ nói: “Lâu lắm rồi mà chưa có mưa! Lần này ông trời đổ mưa xuống cho chúng ta rồi, thật là sảng khoái!”

Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì mở mắt ra, bà liền trông thấy những giọt mưa tí tách rơi bên ngoài chiếc đình, bà vui mừng ra mặt đứng thẳng người lên kéo lấy tay của Đỗ Văn Hạo đứng sát hiên của chiếc đình nói: “Ta thích nhất là trời mưa, khi trời mưa trái tim ta rất tĩnh lặng, nghe tiếng mưa rơi lộp bộp trên lá chuối, cái cảm giác ấy khó tả vô cùng.

“Đúng vậy! Gốc chuối bên cửa sổ…. Hứng những giọt mưa rơi, mưa rơi hoài không ngớt, tâm trạng nỗi đầy vơi….!” Đỗ Văn Hạo bỗng nhiên cao hứng ngâm một bài thơ lên,

Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì kinh ngạc quay sang hắn nhìn nói: “Thơ hay quá, là chàng viết ư?”

“Ồ không, là một nữ thi sĩ thời đại Tống chúng ta có tên là Lý Thanh Chiếu viết đó! ” Đỗ Văn Hạo nói, ,

“Lý Thanh Chiếu? Ai vậy nhỉ? Sao ta chưa bao giờ nghe qua tên của người này? Người ấy bây giờ đang ở đâu?” Thái Hoàng Thái Hậu hỏi.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy ngượng ngùng đáp: “Cái này thì ta không rõ…!”

Đỗ Văn Hạo chỉ biết Lý Thanh Chiếu sống vào những năm cuối của Bắc Tống, sau đó thì Bắc Tống bị diệt vong bà liền dời vào nam, Bắc Tống lúc đó chuyển thành Nam Tống, vậy nhưng cụ thể thời gi­an là bao giờ thì hắn không rõ lắm, cũng không biết Lý Thanh Chiếu là người ở đâu, Đỗ Văn Hạo lúc này cũng nghĩ, đến cả Thái Hoàng Thái Hậu cũng không biết thì chắc Lý Thanh Chiếu vẫn chưa ra đời, mà cho dù ra đời rồi thì cũng chưa nổi tiếng.

Thái Hoàng Thái Hậu lúc này liền nói: “Hình như chàng vẫn chưa đọc hết cả bài thơ thì phải, chàng đọc tiếp cho ta nghe đi!”

“ừm, được! Canh ba tí tách nỗi sầu ai, từng giọt xót xa như sương đắng, nhớ về người đó nơi trời Bắc, mưa xa bỗng dậy nỗi lòng không!” Đỗ Văn Hạo ngân lên.

Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì mê mẩn như người mất hồn lẩm nhẩm: “Gốc chuối bên cửa sổ…hứng những giọt mưa rơi! Mưa rơi hoài không ngớt, tâm trạng nỗi đầy vơi! Canh ba tí tách nỗi sầu ai, từng giọt xót xa như sương đắng! Nhớ về người đó nơi trời Bắc,

mưa xa bỗng dậy nỗi lòng không ! Bài thơ này hay quá! Lúc nãy chàng nhắc ta mới nhớ, trong này ta cho đựng một cái lầu, rồi trồng thật nhiều chuối xung quanh, khi mưa xuống chúng ta tới đó uống rượu ngâm thơ, đánh đàn nghe hát, chàng thấy thế nào?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cười nói: “Cái này tuyệt đấy, vậy nhưng ta lại không biết làm thơ, cũng không biết đàn hát, còn uống rượu thì không có vấn đề gì cả, hề hề, hay là nàng đánh đàn ngâm thơ, còn ta chỉ ngồi uống rượu thôi, nàng đánh một khúc nhạc, ta uống một cốc rượu, nàng làm một bài thơ, ta uống thêm một cốc nữa, được không hả?”

“Không được không được, chỉ một mình ta đánh đàn ngâm thơ thì có gì là hay, chàng không phải vừa ngâm một bài thơ rất hay rồi đó hay sao?” Thái Hoàng Thái Hậu lắc đầu nguầy nguậy nói,

“Nhưng đó là của Lý Thanh Chiếu, chứ có phải ta làm đâu!” Đỗ Văn Hạo cười khổ nói,

“Ta không tin! Chàng vừa ngâm một bài thơ hay như vậy, cứ nói không phải của mình, lại còn nói là do cái gì mà Lý Thanh Chiếu viết! Không phải ta nói ngoa chứ ta đọc sách ngâm thơ từ bé đến giờ, chưa từng nghe đến bài thơ này bao giờ, đừng nghĩ là ta đọc ít sách, ta đọc nhiều lắm đó, nhiều đến nỗi mà bây giờ có rất ít bài thơ nào là ta không biết! Hứ…! Chàng biết làm thơ mà cứ dối ta là Lý Thanh Chiếu viết, ta không cần biết, chàng phải làm thơ cho ta nghe cơ…! ”

Chương 402: Tiêu chuẩn của thắng bại

“Văn Hạo” Đỗ Văn Hạo thấy dáng vẻ làm nũng của Cao Thao Thao vô cùng đáng yêu. Đỗ Văn Hạo không nhịn được ôm lấy nàng, gắn miệng vào đôi môi mọng đỏ của nàng, trong đầu thầm tính toán: Thơ Đường, Tống từ. Nàng đương nhiên hiểu rõ từ Bắc Tống về trước, vậy chỉ còn từ Nam Tống về sau. Người nổi tiếng ở Nam Tống cũng không thiếu. Ví dụ như Lý Thanh Chiếu gì đó, Lục Du, Tân Khí Tật, Khương Toạ, Văn Thiên Tường vân vân. Cũng may bản thân mình có bá phụ không chỉ tinh thông Trung y mà còn rất yêu thích thơ, từ cổ. Khi mình còn bé, đã rất nhiều lần bắt mình học thuộc lòng, trong đầu vẫn còn nhớ được một ít, thật sự để đối phó lại cũng không thành vấn đề. Hắn liền nói: “Vậy được rồi, ta cung kính không bằng tuân lệnh.

Nhưng mà cũng cần phải nói trước ta ngâm thơ, sáng tác từ không được tốt lắm, nàng cũng đừng làm khó ta. Ta làm không được cũng đừng chê cười ta”.

Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao vỗ tay nói: “Ừ. Vậy chúng ta đã định, không được phép chơi xấu”.

“Đó là đương nhiên. Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy”.

“Được. Ngươi còn phải giúp ta đánh đàn” Cao Thao Thao hưng phấn ôm mặt hắn, ngẩng đầu nói.

“Đánh đàn ư? Đàn tranh, cầm, tỳ bà ta đều không đánh được. Nói không chừng nàng phải nút bông”.

“Ai bảo ngươi đánh đàn” Cao Thao Thao cười hì hì. Nàng chụp lấy thanh bảo kiếm bên hôn Đỗ Văn Hạo, xoàn xoạt rút kiếm ra một nữa, ánh kiếm lấp lánh, lạnh giá rồi lại ấn thanh kiếm lại nói: “Ta đánh đàn, ngươi múa kiếm’.

“Múa kiếm?”

“Ngươi đường đường là Đại tướng quân, đừng nói với ta là ngươi không biết múa kiếm chứ?”

Quả thật Đỗ Văn Hạo không học qua kiếm thuật. Hắn mới học Cầm nã thủ và Phân thân thác cốt của Lâm Thanh Đại. Nhưng mà Lâm Thanh Đại là võ lâm cao thủ. Hắn có thể bớt chút thời gi­an học kiếm thuật, có sự trợ giúp của Lâm Thanh Đại hẳn cũng không có vấn đề gì. Bất chợt Đỗ Văn Hạo nhớ tới phim “Tần Dũng” có cảnh lá rụng, mữ nữ đánh đàn, tướng quân múa kiếm, tức thì nhiệt huyết trong lòng bốc lên, hắn gật đầu nói: “Được. Nàng đánh đàn, ta múa kiếm trợ hứng”.

“Hay hay hay” Cao Thao Thao hưng phấn nói hay ba lần. “Chỉ tiếc bây giờ trời đã tối đen, nếu không ta thực sự muốn bắt đầu ngay lập tức”.

“Ha ha. Ta muốn trước tiên sửa lại toà đình ngắm mưa, có cảnh sắc đẹp, khi đó mới có tâm tình tốt”.

“Nói rất đúng. Ngày mai ta cho bọn chúng tiến hành, sẽ hoàn thành trong vòng nửa tháng”.

“Ừ, tốt lắm”.

Cao Thao Cao thấy sắc trời ngày một tối dần, cảnh sắc bên ngoài đình không còn nhìn thấy rõ, mưa cũng dần dần to lên. Được sự che giấu của màn đêm, lá gan của Cao Thao Thao cũng lớn dần. Nàng ôm cổ Đỗ Văn Hạo, kiễng chân hôn hắn.

Đỗ Văn Hạo ôm lấy vòng eo nhỏ nhắn của Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao, đôi ma trảo của hắn không ngừng vuốt ve thân thể lồi lõm hấp dẫn của nàng. Lần này hai người hôn nhau rất lâu, bốn phía chỉ có tiếng mưa rơi tí tách.

Khuôn mặt Cao Thao Thao đỏ bừng, hơi thử gấp gáp, nàng lên tiếng: “Lần trước chúng ta nói, sau khi việc tang xong xuôi sẽ tìm thời gi­an đi chơi, nghỉ ngơi thoải mái, hồi phục mấy ngày. Ngươi nói xem chúng ta nên đi chỗ nào?”

“Nàng quyết định. Nàng muốn đi đâu ta sẽ theo nàng đi tới đó” Đỗ Văn Hạo ôm lấy khuôn mặt trơn mịn của nàng, ôn nhu nói.

“Ừ. Để ta suy nghĩ xem thế nào. Chỉ e bây giờ chúng ta vẫn chưa đi được”.

“Tại sao vậy?”

“Lúc trước quan Tể tướng Vương Gi­ai nói: Trong hơn một tháng qua còn tồn đọng rất nhiều tấu chương chờ ta phê duyệt. Mới vừa rồi ta đã quyết định chấp chính, bây giờ lại bỏ ra ngoài du ngoạn, chỉ e sẽ có ảnh hưởng không tốt, hơn nữa còn làm chậm trễ chính sự. Tốt nhất là chờ đợi đã, để qua quãng thời gi­an bận rộn này hẵng nói”.

“Được. Bây giờ nàng lấy quốc gia đại sự làm trọng, ta rất mừng. Sau này gi­ang sơn Đại Tống ở trong tay nàng, nàng phải hết lòng vì chuyện quốc gia đại sự. Chuyện nhi nữ thường tình cũng có thể bỏ qua đi”.

“Ta không” Cao Thao Thao ở trong ngực Đỗ Văn Hạo, lắc lắc thân hình nhỏ nhắn xin xắn, nũng nịu nói: “Ta đã phải xử lý chuyện quốc gia đại sự, ta cũng muốn chuyện nhi nữ thường tình với ngươi. Ta phê duyệt tấu chương cũng muốn ngươi ở bên. Dù gì ta cũng không cho phép người rời khỏi ta”.

Đỗ Văn Hạo hôn phớt nàng nói: “Thôi nào, ta cũng không nỡ rời khỏi nàng. Nàng không cho ta rời đi, cả ngày ta ở với nàng, chạm vào mái tóc, vành tay nàng, được không?”

“Ừ” Cao Thao Thao hạnh phúc hôn Đỗ Văn Hạo, nhưng rồi nàng lại khẽ thở dài nói: “Nhưng mà ngươi là tam nha Đô Kiểm Điểm, phụ trách quân đội cả nước, cũng có rất nhiều chuyện phải xử lý, chỉ sợ ngươi không có nhiều thời gi­an theo giúp ta”.

“Không sao. Không phải vẫn còn cấp phó sao? Một mình ta làm, mệt chết đi được mà vẫn không hết”.

Bàn tay phải của Cao Thao Thao khẽ bịt miệng hắn, sẵng giọng nói: “Hãy hứa sau này không được nói tới chữ “chết” nha”.

“Được” Đỗ Văn Hạo bỏ tay nàng xuống, cười nói: “Nhưng mà sinh lão bệnh tử là quy luật tự nhiên. Thân ta chính là Đại tướng quân trong triều. Sau này một khi xảy ra chiến trận, nhất định phải lãnh binh xuất chinh. Không vị tướng quân nào bách chiến mà không chết”.

“Bảo người đừng nói người còn nói. Còn nói nữa ta sẽ phạt ngươi” Cao Thao Thao lập tức dùng miệng ngăn chặn miệng của Đỗ Văn Hạo, hôn hắn một cái rồi gắt lên: “Hơn nữa ta không cho phép ngươi rời khỏi ta, cũng không phê chuẩn cho người dẫn quân xuất chính. Không phải như vậy sẽ tốt sao?”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Được. Dù sao ta cũng không am hiểu binh pháp, lãnh binh xuất chinh, tám chín phần mười sẽ bị đánh bại, làm nàng mất mặt”.

“Ngươi còn nói không hiểu binh pháp. Tiên đế tán thưởng ngươi lãnh binh có phương pháp, tinh thông binh pháp, đánh một trận với người Thổ Phiên, lấy ít thắng nhiều. Sau này lãnh binh xuất trận nhất định sẽ là thường thắng tướng quân”.

Đỗ Văn Hạo cười hì hì, hắn lắc đầu nói: “Thao Thao, nói thật ta tới tam nha một thời gi­an, cũng đã hiểu được một chút tình hình của tam nha. Nếu như quân đội Đại Tống của chúng ta bây giờ, muốn đánh thắng trận, đánh bại Tây Hạ cùng nước Liêu quả thật không dễ dàng chút nào”.

Trước kia Cao Thao Thao một mực ở trong thâm cung, không hỏi tới chính sự, cũng không hiểu gì về quân đội, lại càng không hiểu binh pháp. Bây giờ vì tiểu Hoàng Đế mới mười tuổi, còn cách tuổi trưởng thành để tự chấp chính những bảy, tám năm. Thời gi­an buông rèn chấp chính của Cao Thao Thao còn rất lâu, không thể chỉ đối phó qua loa. Nàng cũng muốn tìm hiểu, quản lý tốt. Bây giờ nghe Đỗ Văn Hạo nói quân đội Bắc Tống rất kém cỏi, khó có thể đánh thắng trận, bất giác nàng lắp bắp kinh hãi: “Thật vậy sao? Binh lực của chúng ta kém hơn so với nước Liêu và Tây Hạ sao?”

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: “Đại Tống chúng ta chiếm ưu thế. Cho dù là “Tiên, Xuyên” binh. Ngay cấm binh chúng ta cũng có sáu mươi vạn người, chừng đó đủ để tác chiến theo quy tắc thông thường. Sương quân địa phương có hai mươi vạn quân. Sương quân phụ cận kinh thành có mấy vạn quân nhưng tất cả chỉ là binh lính tạp dịch, không có sức chiến đấu, không thể trực tiếp đánh trận. Nếu như tăng thêm Sương quân, tổng binh lực của chúng ta sẽ gần chín mươi vạn người. Mặc khác chúng ta còn một số lượng không xác định hương binh trong dân gi­an. Phiên binh của Khương tộc cùng các dân tộc thiểu số, cùng với binh lính và quân cung thủ của các nha môn các nơi”.

Cao Thao Thao vui vẻ nói: “Nhiều binh lính như vậy ư? So với Tây Hạ và nước Liêu thì thế nào?”

“Quân đội nước Liêu là do Cung trướng quân, quân của các bộ tộc lớn, quân bộ tộc, ngũ kinh hương đinh cùng với quân đội các nước chư hầu hợp thành. Quân Cung trướng của nước Liêu tương đương với Cấm quân của chúng ta, là bộ đội tinh nhuệ chủ lực của nước Liêu, tổng binh lực có mười vạn người ggì đó. Quân bộ tộc của các đại thủ lĩnh thật ra là đội vệ binh của các đại thần cùng các thân vương, binh lực nhiều thì hơn một ngàn, ít thì mấy trăm, tổng binh lực có ba vạn người gì đó. Quân bộ tộc là loại quân đội quân dân kết hợp của các bộ lạc, không phải là quân đội thường trực chính quy, thời binh là dân thường, thời chiến là binh lính. Hơn nữa chủ yếu phụ trách việc bảo vệ nội địa nước Liêu và kinh thành, bình thường không bao giờ tác chiến ở biên giới vì vậy không tính vào số lượng quân đội tác chiến chính quy. Ngũ kinh hương đinh cũng giống như hương đinh của chúng ta, hiệu quả thì như Sương quân chúng ta, cũng là lính tạp dịch, không trực tiếp tham gia đánh trận”.

Cao Thao Thao nói: “Rốt cuộc thì nước Liêu có bao nhiêu quân đội?”

“Quân đội chính quy có thể trực tiếp đánh trận không vượt quá hai mươi vạn quân, cộng thêm số lượng lính tạp dịch cùng lực lượng vũ trang địa phương, tổng số cũng không vượt qua con số ba mươi vạn quân”.

“Ít như vậy sao?” Cao Thao Thao vui vẻ nói: “Chỉ tương đương một phần ba quân đội chúng ta. Còn Tây Hạ thì sao? Có bao nhiêu binh lính?”

“Quân đội Tây Hạ do quân thị vệ trung ương, Cầm sinh quân cùng địa phương quân hợp lại. Quân thị vệ trung ương Tây Hạ kể cả năm ngàn quân Ngự lâm “Chất tử quân”, ba ngàn người là thân binh trọng giáp kỵ binh của Hoàng Đế, hai ngàn năm trăm người là binh lính thiếp vệ kinh thành. Số lượng của quân đội tinh nhuệ chính quy của Tây Hạ “Cầm sinh quân” ước chừng mười vạn người. Tổng số quân đội chính quy không quá mười lăm vạn người. Bởi vì ở Tây Hạ và Đại Liêu, toàn dân là binh lính trong biên chế quân đội. Tổng số quân đội có thể lên tới năm mươi vạn người nhưng mà không thoát ly sản xuất, không thể tính là quân chính quy. Đương nhiên nếu tính thêm bộ phận này thì có thể tăng lên tới sáu mươi lăm vạn quân”.

Cao Thao Thao vui vẻ nói: “Như vậy vẫn kém hơn rất nhiều so với chúng ta. Hơn nữa quân chính quy của chúng mới có mười lăm vạn quân. Tổng binh lực Cấm quân của chúng ta đã có sáu mươi vạn người, nhiều hơn chúng rất nhiều. Cho dù tổng binh lực của Tây Hạ và Đại Liêu cộng lại mới miễn cưỡng vượt chúng ta. Nếu chia ra đánh, chúng ta nhất định thắng”.

Đỗ Văn Hạo lắc đầu cười gượng nói: “Nhưng hết lần này tới lần khác chúng ta đánh không lại chúng. Hay nói chính xác một chút là khi chiến tranh với Tây Hạ và Đại Liêu chúng ta thắng ít, bại nhiều”.

Cao Thao Thao sửng sốt hỏi: “Thật vậy sao?”

“Tại sao lại không. Ta chỉ cần kể ra một số thì nàng sẽ hiểu. Trước tiên hãy nói chuyện chiến tranh Tống Liêu của Thái Tổ hoàng đế’.

“Chờ một chút” Cao Thao Thao cắt ngang lời Đỗ Văn Hạo: “Ta cảm thấy đói bụng, để ta truyền lệnh, chúng ta vừa ăn, vừa nói, được không?”

Đỗ Văn Hạo hôn nàng rồi nói: “Nàng hồ đồ rồi, Thao Thao. Đừng quên nàng là Thái Hoàng Thái Hậu, là quân, ta chỉ là thần tử. Làm gì có thần tử nào ngồi ăn cơm cùng bàn với bậc đế vương. Nàng thấy thuận mắt thì thưởng cho ta mấy khay thức ăn để ta mang về ăn là được”.

Cao Thao Thao cười nói: “Ta không. Ta muốn ăn cùng với ngươi”.

“Nếu để cho những giám quan Ngự Sử Đài kia biết được, hạch tội ta, ta không không chịu nổi”.

“Sợ cái gì? Không phải là không thể làm chúng không biết. Đợi lát nữa truyền lệnh xong, ta sẽ cho người lui ra ngoài, không cho chúng hầu hạ ở bên. Cũng chỉ cần mang tới một chiếc bàn con, cùng thức ăn và một bình mỹ tửu là được. Chúng ta tự mình rót uống rượu. Vừa ngồi lắng nghe trời mưa, vừa nghe ngươi nói chuyện quân đội, gián quan sẽ không biết được.

Ta còn muốn ngươi theo giúp ta nhiều việc, có được không?”

Đỗ Văn Hạo thoáng sững người, hắn không trải qua sự giáo dục về lễ giáo phong kiến, cũng không quá quan tâm tới nghĩa vị quân thần liền gật đầu đồng ý.

Cao Thao Thao vui mừng đi ra rìa đình hóng mát, cao giọng nói về hướng chiếc cổng vòm ở phía xa: “Tiểu Tiêu tử”.

“Ai! Tới đây!” Cao Thao Thao kêu lên một tiếng, Tiêu công công từ xa trả lời, tay cầm một cái ô vải dầu màu đỏ hấp tấp đội mưa chạy tới, ông ta khom người nói: “Thái Hoàng Thái Hậu có gì phân phó?”

“Truyền lệnh. Hãy mau chọn mấy món ăn ngon cùng một bình mỹ tửu tới đây”.

“Dạ!” Tiêu công công trả lời rồi chạy đi truyền lệnh.

Cao Thao Thao đi tới ngồi xuống cạnh lan can, bắt Đỗ Văn Hạo ngồi bên cạnh mình rồi nói: “Văn Hạo, không ngờ ngươi lại hiểu rõ tình hình quân sự của Đại Liêu và Tây Hạ như lòng bàn tay mình”.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Nói như lòng bàn tay thì vẫn chưa được. Lần trước sau trận đánh quân bộ lạc Thổ Phiên ở Tây Sơn, phủ Thành Đô, ta cũng rất quan tâm về vấn đề này. Trước đây mấy ngày nàng để cho ta tiếp nhận binh quyfn từ tay mấy người, bổ nhiệm ta làm ta nha Đô Chỉ Huy Sứ ta đã muốn tìm hiểu về tình hình quân sự. Ta không thể không biết bất kỳ điều gò có liên quan tới mình. Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Ta đã bố trí cảnh giới. Ta đã đọc qua các tư liệu quân sự có liên quan tới Đại Liêu và Tây Hạ, mặt khác ta đã tìm đọc các tư liệu từ khi kiến quốc tới nay của Đại Tống, nghiên cứu kỹ càng các tư liệu xuất chính bên ngoài. Bây giờ nàng hỏi ta có thể trả lời. Hơn nữa thủ hạ của ta năm đó đã thăm dò một chút tình hình chinh chiến Tây Hạ của các tướng sĩ. Bọn họ cũng đã cung cấp cho ta khá nhiều tình hình chiến tranh với Tây Hạ. Ta đã hỏi bọn họ tất cả những việc cần hỏi”.

Cao Thao Thao vui vẻ nói: “Ngươi quả thực có dụng tâm. Xem ra ta dùng ngươi làm tam nha Đô Kiểm Điểm thực không sai”.

“Không sai hay không thì bây giờ vẫn còn chưa nói được. Dù sao ta cũng có dụng tâm”.

“Tốt lắm. Ngươi hãy nói tiếp điều đang nói đi. Ta muốn nghe. Những điểm nào ta không biết, ngươi phải nói rõ cho ta biết một chút. Vì sao binh lực của chúng ta đông hơn quân Tây Hạ và nước Liêu nhiều lần mà chúng ta lại bại nhiều hơn thắng?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Đầu tiên phải hiểu chính xác thế nào là chiến thắng.

Cái gì gọi là tiểu chuẩn thắng bại của chiến tranh. Đó là bởi vì sau khi xảy ra chiến tranh, hai bên đều thường tự tuyên bố là mình chiến thắng nhưng rốt cuộc là ai thắng ai bại, chỉ có một cách là suy xét các tiêu chuẩn một cách khách quan mới có thể đưa ra kết luận một cách khách quan”.

Cao Thao Thao gật đầu nói: “Đúng vậy, ngươi nói rất có lý. Tiêu chuẩn của thắng bại là gì?”

“Ta cũng không phải là một nhà quân sự. Trước kia ta đã từng tham khảo qua Tư Mã Quang vấn đề này. Ông ta đã viết một bộ sách. Tiên đế ban tặng tên là “Tư Trị thông giám”, đánh giá lịch sử từ đời nhà Chu tới thời Ngũ đại, trải qua hơn một nghìn năm trong lịch sử, trong đó có khá nhiều nội dung có liên quan tới quân sự chiến tranh. Bộ sách này được tiên đế rất đề cao, tán thưởng. Ta đã lãnh giáo ông ta về tiêu chuẩn thắng bại trong sách của mình. Ông ta nói tiêu chuẩn chủ yếu nhất là mục đích phát động chiến tranh có thực hiện được hay không. Đây là điều chủ yếu nhất. Có rất nhiều mục đích của chiến tranh, có công thành chiếm đất, có hỗ trợ vây Nguỵ cứu Triệu, có tấn công trừng phạt, có phòng ngự chống cự. Mặc kệ là mục đích gì, chỉ cần thực hiện được mục tiêu tác chiến là thắng lợi. Giả sử thương vong của phe mình nhiều hơn bên đối phương thì vẫn có thể được coi là chiến thắng. Nhưng nếu như mục đích chiến tranh không thực hiện được, cho dù có giết được số lượng địch nhân vượt xa số lượng thương vong của bên mình thì cũng không thể nói là thắng lợi. Đương nhiên cũng không tính là bại. Nói cách khác, Tư Mã Quang đã cởi bỏ quan niệm thủ thắng nặng nề, phân tích thắng bại trong chiến tranh. Còn về phần so sánh tỷ lệ thương vong của hai bên, địa bàn được mất, ông ta không quá coi trọng”.

Hình như Cao Thao Thao không mấy hứng thú với quan điểm chiến tranh mới mẻ của Tư Mã Quang. Nàng nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Đừng nói về ông ta. Hãy nói xem ngươi nghĩ thế nào?”

“Ta ư? Ta cảm thấy tiêu chuẩn thắng bại của chiến tranh đối với chính khách và giới lãnh đạo quân sự. Khụ khụ. Đối với tướng quân lãnh binh cùng quyết sách của đế vương mà nói, tiêu chuẩn đánh giá cũng không hoàn toàn giống như vậy, có đôi khi thậm chí rất khác biệt”.

Cao Thao Thao là Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính, đương nhiên quan tâm tới tiêu chuẩn của hắn nên hỏi: “Đế vương đánh giá thắng bại trong chiến tranh là như thế nào?’

“Đế vương đánh giá thắng bại của cuộc chiến tranh thì phần nhiều dựa vào góc độ suy xét chính trị, đánh giá tình thế trước cuộc chiến và sau cuộc chiến, đánh giá cái được, cái mất sau cuộc chiến. Đánh thắng một cuộc chiến nhưng quốc gia cuối cùng không đạt được lợi ích, thậm chí phải đối mặt với một tình hình nghiêm trọng. Đối với bậc đế vương mà nói, cuộc chiến tranh đó đã không thắng”.

Cao Thao Thao chỗ hiểu chỗ không, gật đầu hỏi: “Còn tướng quân lãnh binh thì sao?”

“Tiêu chuẩn thắng bại của tướng quân là tương đối. Bởi vì nếu thật sự xảy ra chiến tranh, có thể chia ra làm ba mức độ như sau: Mức độ thứ nhất là tình hình thắng bại từ đầu đến cuối của toàn bộ cuộc chiến tranh. Mức độ thứ hai là tình huống thắng bại của chiến dịch đại quy mô. Mức độ thứ ba chính là tình huống thắng bại của những trận chiến. Là một tướng lĩnh quân sự cao cấp nên chú trọng tới mức độ thắng lợi chiến tranh ở mức độ thứ nhất. Nếu như đạt được thắng lợi này thì cho dù có thua một số chiến dịch hay những trận chiến nhỏ thì cũng coi là người chiến thắng”.

“Có lý” Cao Thao Thao liên tục gật đầu. “Thắng bại của chiến dịch đại quy mô là như thế nào?”

“Đây cũng là một điều rất quan trọng. Sau một chiến dịch đại quy mô, rất có thể sẽ ảnh hưởng rất lớn tới tương quan thực lực của hai bên, đến nỗi ảnh hưởng tới kết quả của cả một cuộc chiến. Vì vậy nhất định phải tận dụng được kết quả thắng lợi của nhiều chiến dịch đại quy mô mới có thể chuyển hoá thành thắng lợi cuối cùng của cả một cuộc chiến. Nhưng đây không phải là điều tuyệt đối. Vì dù có đôi khi liên tiếp giành được mấy thắng lợi trong chiến dịch đại quy mô nhưng lại thua trong một chiến dịch quan trọng nhất sẽ dẫn tới thất bại trong cả một cuộc chiến. Cuộc chiến giữa Tây Hán Lưu Bang cùng Hạng Vũ chính là một minh chứng tốt nhất”.

Cao Thao Thao thở dài nói: “Đúng vậy. Tây Sở Bá Vương đánh giết Lưu Bang đại bại nhưng không giết chết Lưu Bang ở Hồng Môn Yến. Kết quả cuối cùng thất bại trong cuộc chiến Cai Hạ, tự vẫn ở Ô Gi­ang”.

“Đúng vậy. Thắng bại của trận đánh nhỏ có thể chuyển hoá thành thắng bại của cả một chiến dịch lớn. Nhưng mà phán xét thắng bại một cuộc chiến không thể giới hạn trong những trận đánh nhỏ lẻ. Bởi vì trận đánh riêng lẻ có thể là vì suy sét tới toà cục mà cố ý để thua. Ví dụ như cuộc chiến dụ địch nhân xâm nhập, nhất định phải thua vì thế khi xét đoán thắng bại của hai bên nhất định vẫn phải căn cứ vào kết quả của chiến dịch đại quy mô cùng cả cuộc chiến. Lúc đó mới có ý nghĩa”.

Những giải thích này dễ hiểu, Cao Thao Thao có thể hiểu được: “Vậy nhận xét của ngươi thế nào?”

Nói tới đây, Tiêu công công đã mang theo người của Ngự Thiện phòng đưa cơm tới. Mấy món ăn ngon, cộng thêm một bình rượu thượng gi­ai tinh khiết cùng cho yến tiệc cung đình.

Sau khi đặt trên bàn đá, cùng với để thêm một chiếc đèn bão trên bàn. Loại đèn này che kín gió, không bị ảnh hưởng bởi mưa gió bên ngoài. Tiêu công công không đợi Thái Hoàng Thái Hậu căn dặn đã cực kỳ biết điều, dẫn tất cả mọi người ra khỏi cửa vườn hoa, đóng cửa lại.

Bên ngoài trời mưa phùn bay lất phất, rơi xuống lá cây, những bông hoa, trong bụi cỏ, tiếng mưa rơi tí tách, không khí tràn ngập tình thơ ý hoạ.

Cao Thao Thao kéo Đỗ Văn Hạo ngồi song song, đích thân rót cho hắn một chén rượu, lại rót cho mình một chén. Nàng bưng chén lên, cười ngọt ngào nói: “Hai chúng ta uống cạn chén này. Chỉ mong hai ta có thể lâu dài ở bên nhau”.

Đỗ Văn Hạo cũng bưng chén rượu lên nói: “Trên đời này, nàng là lão đại, chỉ cần nàng không ghét ta, không đuổi ta, sẽ không ai có thể đuổi ta rời khỏi nàng”.

Cao Thao Thao cười nói: “Đánh chết ta, ta cũng sẽ không bao giờ đuổi ngươi đi”.

“Ha ha ha. Lần này chính là nàng nói từ ‘chết” trước đó nha. Phạt rượu”.

Cao Thao Thao cười khanh khách nói; “Được, được, ta nhận phạt” Nói xong nàng nâng ly rượu, uống một hơi cạn sạch, sau đó nàng rót một chén khác, ánh mắt đắm đuối nhìn hắn: “Vì tình ý đời này, kiếp này, hai ta cùng uống một chén”.

Đỗ Văn Hạo cầm chén rượu, một tay ôm vòng eo nhỏ của nàng nói: “Hay! Cũng vì kiếp sau chúng ta có thể ở cùng một chỗ. Cụng ly”.

“Ừ, đúng vậy” Trong mắt Cao Thao Thao ngập tràn niềm hạnh phúc, nàng nhìn Đỗ Văn Hạo, chậm rãi uống chén rượu.

Đỗ Văn Hạo cũng ngửa cổ, uống cạn chén rượu, hắn đặt chén rượu xuống, cầm đôi đũa ngà, gắp một con tôm càng xanh bỏ vào miệng nhỏ nhắn của nàng.

Chương 403: Buồn Bực

Cao Thao Thao mỉm cười nói: “Tốt lắm. Ngươi nói xem tiêu chuẩn thắng bại chiến tranh của ngươi là gì?”

“Ừ. Trước hết hãy cho người đi lấy bản đồ biên giới ra đây. Có bản đồ nói tốt hơn, ta cũng nhớ tường tận hơn” Đỗ Văn Hạo nói.

“Được” Cao Thao Thao đứng dậy, đi ra ngoài rìa đình hóng mát, gọi Tiêu công công vào, bảo ông ta tới tam nha lấy bản đồ tác chiến biên giới Tống Liêu cùng biên giới Tống Hạ tới đây.

Đỗ Văn Hạo nói: “Nhân lúc chưa có bản đồ, ta nói tiếp chủ đề lúc trước vẫn đang nói dở. Ta hoàn toàn đồng ý với đánh giá về tiêu chuẩn thắng bại trong chiến tranh của Tư Mã Quang. Muốn xem một cuộc chiến tranh thắng hay bại, quan trọng nhất là xem mục đích phát động chiến tranh có thực hiện được hay không mà không nên giới hạn trong phạm vi đất đai, thành trì được hay mất, hoặc chỉ đơn giản so sánh tình hình thương vong của hai bên. Đương nhiên mục đích chiến tranh có nhiều loại. Ví dụ như mở rộng lãnh thổ, đoạt lại đất đai bị mất, trừng phạt đối phương, tiêu diệt binh lực đối phương, vây Nguỵ cứu Triệu, chống ngoại xâm”.

Đỗ Văn Hạo giơ đũa gắp thức ăn bỏ vào miệng nhai rồi nói tiếp: “Phán xét thắng bại của một cuộc chiến tranh nhất định phải có vật tham chiếu, cũng giống như đi lại vậy. Nàng ngồi thuyền nhỏ đi trên sông. Đối với cảnh vật hai bên bờ sông, nàng đang vận động. Đối với vật, nàng lại đang bất động. Xét đoán thắng bại của một cuộc chiến cũng như vậy. Nếu như mục đích tiến hành chiến tranh của một quốc gia là chống ngoại xâm. Kết quả cuối cùng quân thù bị đuổi ra khỏi đất nước, cho dù thương vong lớn hơn quân địch, cũng không chiếm được một tấc đất nào của đối phương nhưng cũng có thể coi là chiến thắng. Nếu như mục đích chiến tranh là mở rộng lãnh thổ, cho dù thương vong lớn hơn quân địch nhưng vẫn duy trì sự chiếm đóng lãnh thổ kẻ thù, cũng được coi là thắng”.

Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao nói: “Vậy tính thương vong giữa quân mình và số quân thù giết được, có ảnh hưởng tới xét đoán thắng bại của cuộc chiến tranh không?”

“Đương nhiên là có ảnh hưởng” Đỗ Văn Hạo nói: “Nếu mục đích chiến tranh là trừng phạt đối phương thì có. Nàng muốn đi trừng phạt kẻ thù. Nếu như thương vong của đối phương thê thảm hơn thì có được coi là nàng đã chiến thắng hay không? Đương nhiên. Giết địch một vạn, thương vong bản thân ba nghìn thì có thể khẳng định là thắng. Trong chiến tranh có tính chất trừng phạt, xét đoán có chiến thắng cuộc chiến hay không, ngoại trừ thương vong quân mình rõ ràng không thể vượt qua thương vong của kẻ thù, còn phải tính tới những tổn hại nghiêm trọng của đối phương về thành trì, kinh tế, tâm lý của dân chúng. Nếu như đánh thọc sâu vào hậu phương kẻ thù mấy trăm dặm, phá được mấy toàn thành trì, phá huỷ hoàn toàn các điều kiện kinh tế, cuối cùng chủ động rút về thì cho dù số lượng thương vong tương đương với quân thù, cũng có thể được coi là chiến thắng bởi vì khi đó tổn thất của đối phương đã lớn hơn mình rất nhiều, mục đích của chiến tranh đã đạt được. Chiến tranh tấn công trừng phạt còn thườn đi kèm theo những ý đồ chính trị. Ví dụ vây Nguỵ cứu Triệu là một điển hình với chiến tranh tự vệ tấn công). Mặt khác so sánh tỷ lệ thương vong của hai bên có thể ảnh hưởng tới mức độ chiến thắng. Một khi thương vong nặng nề, vượt xa thương vong của đối phương thì khi đó cho dù có chiến thắng thì cũng chỉ tính là chiến thắng thê thảm”.

Cao Thao Thao nghe Đỗ Văn Hạo nói về tiêu chuẩn xét đoán thắng bại trong chiến tranh, đã hiểu thêm một bước sự phức tạp của chiến tranh. Nàng nâng chén uống cùng Đỗ Văn Hạo sau đó nói: “Lúc trước ngươi nói. Binh lực của Đại Tống chúng ta vượt xa nước Liêu và Tây Hạ, tương đương với tổng binh lực của cả hai nước nhưng khi tác chiến với nước Liêu và Tây Hạ, chúng ta lại thắng ít bại nhiều. Nhưng trước kia ta đều chỉ nghe trên dưới từ Hoàng Thượng, triều đình và dân chúng nói chúng ta đánh bại Tây Hạ, đánh bại nước Liêu. Tuy ngẫu nhiên chúng ta có trận đại bại nhưng đại đa số trận đánh chúng ta đều thắng, hoàn toàn không giống như những gì ngươi nói. Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Lý do rất đơn giản. Tốt thì khoe ra, xấu xa đậy lại. Nàng cứ tới kho lưu trữ tình hình chiến sự của tam nha, đọc cẩn thận mấy ngày, nàng sẽ biết rốt cuộc chúng ta thắng nhiều bại ít hay thắng ít bại nhiều”.

“Ngươi đã xem qua rồi phải không?”

“Ừ. Sau khi nàng để ta làm tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, ta liền rành chút thời gi­an ở trong tam nha nghiên cứu một số tư liệu chiến tranh về tổn thất, tình hình chiến sự của các cuộc chiến tranh với Tây Hạ và Đại Liêu, mục đích phải là biết người biết ta. Kết quả chiến tích của quân Đại Tống chúng ta làm ta rất thất vọng, không hề giống như những tuyên truyền về thắng lợi lớn ở trên triều đình. Vì thế để biết được chân tướng sự việc thì chỉ còn cách tự mình nghiên cứu trong đám tư liệu, không thể tin vào tin đồn nhảm”.

“Ừ. Vậy ngươi hãy nói với ta về thực lực thật sự của quân Đại Tống, ta cũng muốn hiểu một chút”.

“Ta vẫn chỉ có một ý này: Không thể đánh giá mình quá thấp, đương nhiên cũng không thể đánh giá mình cao hơn hẳn so với thực lực của mình. Điều thứ hai còn nguy hiểm, đáng sợ hơn điều thứ nhất rất nhiều”.

Cao Thao Thao gật đầu nói: “Không sai, chờ lát nữa đưa địa đồ tới, chúng ta sẽ nói căn cứ vào địa đồ. Bây giờ chúng ta uống rượu ăn cơm”.

Hai người vừa ngồi uống rượu nói chuyện, vừa ngồi nghe tiếng mưa rơi ở bên ngoài. Một lát sau Tiêu công công ôm hai quyển địa đồ quay về, theo thứ tự là địa đồ biên giới Tống Liêu, và địa đồ biên giới Tống Hạ. Đỗ Văn Hạo nhận lấy, hắn trải bản đồ biên giới Tống Liêu trên mặt đất, dùng chén chận bốn góc, lại bảo Tiêu công công bẻ một cành liễu ở trên cây liễu bên ngoài đình, tước hết lá làm thước chỉ.

Đỗ Văn Hạo nói: “Chiến tranh Tống Liêu tổng cộng tiến hành trên hai mươi lăm năm, trên một trăm trận đánh lớn nhỏ. Chúng ta chỉ tính toán ra số chiến dịch đại quy mô sẽ tính toán ra thắng bại. Bắt đầu từ cuộc chiến sớm nhất là cuộc chiến Cao Xa Hà”.

Đỗ Văn Hạo chỉ cành liễu vào một chỗ trên địa đồ nói: “Trận chiến này là Đại Tống chúng ta khởi xướng. Mục tiêu tối thượng của cuộc chiến này là đoạt lại mười sáu châu Yên Vân, thừa cơ đoạt U Châu (bây giờ là Bắc Kinh). Thực ra trận chiến này không được chuẩn bị tốt đã vội vàng ra quân. Ban đầu quân Tống liên tiếp khải hoàn ca, đánh thẳng tới chân thành U Châu, bao vây thành U Châu tầng tầng lớp lớp nhưng cường công không hạ nổi. Nước Liêu phái ra mười vạn kỵ binh tinh nhuệ bất ngờ tập kích đường tiếp viện của quân ta, quyết chiến cùng quân Tống ở bờ sông Cao Lương bên ngoài thành U Châu. Quân Tống không địch nổi, kết quả đại bại. Quân Liêu thừa thắng đuổi giết một mạch, quân Đại Tống tan vỡ hoàn toàn, chết hơn một vạn người. Thái Tông hoàng đế của chúng ta vì không còn ngựa mà cưỡi nên phải cưỡi lừa trốn về nội địa Đại Tống. Toàn bộ đất đai chiếm được khi trước lại quân Liêu chiếm lại. Đại Tống không đạt được mục tiêu của cuộc chiến nên trận chiến này thất bại”.

Cao Thao Thao nói: “Trận chiến này quân ta đơn độc xâm nhập nội địa quân địch, quả thực rất mạo hiểm”.

“Hẳn như vậy. Trận chiến thành Vĩnh Nhạc cũng bởi vì xâm nhập nội địa, xây thành ở nơi hiểm địa mà thất bại”.

“Thật vậy sao? Ngươi hãy nói tiếp cuộc chiến Tống Liêu đi”.

“Được. Cuộc chiến thứ hai là cuộc chiến thành trì. Đối với Đại Tống chúng ta mà nói đây là một cuộc chiến phòng ngự. Mục đích chiến lược của cuộc chiến là phòng ngự chống lại quân Liêu tấn công. Nước Liêu muốn trả thù Đại Tống đã đánh U Châu, mấy vạn quân Liêu đã tấn công vào biên giới Đại Tống. Hai bên quyết chiến một trận ở Hà Bắc. Chiến thuật của quân Tống được bố trí như sau; sử dụng quân vu hồi đánh bọc sườn quân địch, quân Liêu đại bại, chém giết hơn một vạn quân Liêu, thu được hơn một ngàn thớt chiến mã. Quân Liêu thất bại lui về biên giới nước Liêu. Trận chiến này tuy quân Tống tham gia tác chiến được hình thành bởi mấy cánh quân nhưng bởi vì có quan quân chỉ huy thống nhất, sử dụng chiến thuật chính xác vì vậy đã giành thắng lợi”.

Cao Thao Thao vui vẻ nói: “Ta nghe nói Thái Tông hoàng đế đánh trận rất lợi hại”.

“Đúng vậy. Thuở ban đầu mới lập nước, quân Tống đều là những binh lính dũng cảm, thiện chiến, mạnh mẽ, sức chiến đấu rất mạnh, ít nhất không thua kém quân Liêu”.

“Ừ. Vậy những trận chiến sau đó?”

Đỗ Văn Hạo lại dùng cành liễu chỉ vào địa đồ nói: “Sau chiến đánh đó là chiến dịch Nhạn Môn Quan này, là một trận đại thắng vô cùng rạng rỡ của Đại Tống chúng ta. Sau khi quân Liêu tấn công Mãn Thành thất bại, vào mùa xuân năm sau đã phái đại quân tấn công Nhạn Môn, bị Đại tướng Dương Nghiệp, phụ thân của Dương lục lang phối hợp với Phan Nhân Mỹ chặn đánh, quân Liêu đại bại ở Nhạn Môn. Đây là cuộc chiến Nhạn Môn lần thứ nhất”.

Cao Thao Thao nói: “Trận chiến này tuy thắng như không có nhiều điều đặc sắc”.

“Đặc sắc là cuộc chiến thứ hai” Đỗ Văn Hạo cười tươi nói: “Năm sau mười vạn quân Liêu tấn công mãnh liệt Nhạn Môn. Đại tướng trấn thủ ải Nhạn Môn chỉ có mấy ngàn quân, Dương Nghiệp cầu viện Phan Nhân Mỹ, Phan Nhân Mỹ lại án binh bất động. Dương Nghiệp không còn cách nào khác đành phải dùng kỳ binh, chỉ huy mấy ngàn cảm tử quân lẻn ra sau đột nhiên tập kích hậu quân quân Liêu. Quân Liêu không biết rõ tình huống, lập tức đại loạn. Dương Nghiệp xác định chính xác mục tiêu: Phá giặc phải bắt vua trước, ông tập trung binh lực liều chết tấn công vào chỗ soái kỳ quân Liêu, quả nhiên đã chém chết thống soái quân Liêu, quân liêu như rắn mất đầu lập tức đại loạn. Quân trấn thủ Nhạn Môn thừa thắng ùa ra đánh giết. Quân Liêu tan tác bỏ trốn về nội địa nước Liêu. Trận chiến này Dương Nghiệp lấy ít thắng nhiều, mấy ngàn quân đánh tan mười vạn quân Liêu. Có thể nói đây chính là trận đánh lấy ít thắng nhiều điển hình”.

Cao Thao Thao vỗ tay cười nói: “Thật tốt, thật tốt! Cạn chén!”

Hai người lại uống cạn một ly. Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo nhỏ khẹ nói: “Dương Nghiệp dùng mấy ngàn quân đánh thắng mười vạn quân Liêu, lợi hại hơn người. Hì hì hì”.

Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng nói: “Ta có đáng gì đâu. Quân Thổ Phiên kém xa quân Liêu. Hơn nữa sở dĩ ta có thể đánh bại chúng chính là dùng thủ đoạn gi­an trá”.

Cao Thao Thao bày trò chọc Đỗ Văn Hạo nay thấy hắn tự nhận mình không bằng người thì lại an ủi hắn, cười nói: “Binh bất yếm trá, có thủ đoạn dùng mánh lới mới được coi là có mưu lược. Dương Nghiệp chẳng qua là đánh lui quân Liêu, ngươi lại tiêu diệt quân Thổ Phiên bộ Tây Sơn. Có thể nói ngươi lợi hại hơn ông ấy nhiều”.

“Ha ha ha. Ta không dám so sánh với Dương gia tướng. Trận đại thắng ải Nhạn Môn, Đại Tống chúng ta lấy ít địch nhiều thắng lớn. Nhưng trận chiến sau đó lại không được như ý người. Trận chiến kế tiếp chính là trận chiến Ngoã Kiều quan. Quân Liêu tập kết binh lực, chuẩn bị xuôi nam với quy mô lớn, tấn công Đại Tống. Thái Tông hoàng đế biết tin, thống lĩnh đại quân tiếp viện, chuẩn bị quyết chiến với quân Liêu ở Ngoã Kiều quan. Không ngờ quân Liêu tấn công thần tốc, đã bao vây bốn mặt trọng trấn Ngoã Kiều quan trước, quân Tống ở phụ cận tới tiếp viện bị đánh lui. Đợi lâu không thấy quân Kinh sư tới tiếp viện, quân Liêu vượt sông tấn công mãnh liệt, quân Tống thất bại lui quân. Quân Liêu đánh giết một mạch tới Mạc châu rồi mới thu binh quay lại. Trận này quân Tống thương vong thê thảm. Ở góc độ phòng ngự mà nói, không ngăn cản được quân địch tấn công, tháo chạy, lại hao binh tổn tướng nên chỉ có thể nói là thất bại”.

Cao Thao Thao thở dài nói: “Ai. Nếu đại quân Kinh sư của Thái Tông hoàng đế tới nơi kịp thời, có lẽ sẽ không thất bại”.

“Đại quân Kinh sư ngày đêm hành quân với tốc độ nhanh nhất. Nhưng đáng tiếc là chúng ta có quá ít ngựa. Không có ngựa, không có cách nào tiến quân nhanh được. Trong lúc tác chiến với quân Liêu, chúng ta rất bất lợi ở phương diện này. Cuộc chiến Cao Xa Hà, kỵ binh tinh nhuệ của quân Liêu nhanh chóng cứu viện. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu làm quân ta thất bại. Cuộc chiến Kỹ Câu quan sau này cũng như vậy. Sở dĩ triều Tây Hán và triều Đường có thể tác chiến với quân Hung Nô trong thế thượng phong, nguyên nhân chủ yếu chính là có một đội thiết giáp kỵ binh tinh nhuệ. Lần gi­ao tranh thứ nhất giữa Tây Hán và Hung Nô, Tây Hán đã huy động được ba mươi vạn chiến mã tham gia. Đây quả thực là con số chúng ta không thể tưởng tượng nổi”.

“Ừ. Vấn đề này ta đã nghe tiên đế bàn luận nhiều lần, luôn can thán chúng ta thiếu chiến mã. Trong nội địa Đại Tống nuôi được quá ít chiến mã.

Đại bộ phận chiến mã là mua của Tây Hạ và Đại Liêu. Chúng không chỉ nâng giá mua mà còn hạn chế số lượng. Khi mối quan hệ hai bên căng thẳng, dù chưa tới mức nổ ra chiến tranh chúng cũng lập tức cấm bán ngựa cho chúng ta. Thật sự rất đáng hận. Chúng ta đã nghĩ rất nhiều biện pháp nhưng vẫn rất thiếu ngựa. Ngươi có cách hay nào không?”

Đại Tống thiếu ngựa. Đây là vấn đề mà ngay khi xuyên việt tới đây, Đỗ Văn Hạo đã lập tức cảm nhận được. Khi hắn ở huyện thành, tới nhà dân khám chữa bệnh, chỉ có thể đi xe trâu, hoặc cưỡi lừa. Chỉ có nha môn mới có mấy thớt ngựa.

Đỗ Văn Hạo cau mày suy nghĩ một hồi nhưng thực sự không thể nghĩ ra một biện pháp hay nào để gia tăng số lượng chiến mã, hắn đành cười gượng lắc đầu nói: “Tạm thời ta không thể nghĩ ra biện pháp hay nào. Đợi khi ta về nhà suy xét cẩn thận tìm ra rồi sẽ nói sau”.

“Ừ, được”.

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Sau này khi quân Liêu tổ chức mấy lần xâm nhập phía nam nhưng đều bị quân ta đánh lui. Thương vong của hai bên cũng không lớn, quy mô trận đánh cũng nhỏ, thắng bại không đáng kể. Sau này khi Hoàng Đế nước Liêu chết, nước Liệu vội vàng dụng binh với Cao Ly và Nữ Chân, không rảnh chú ý tới phía nam. Hai bên đã ngưng chiến mấy năm. Sau này khi tiểu Hoàng Đế nước Liêu kế vị, Thái Tông hoàng đế liền quyết định tổ chức bắc phạt lần thứ hai nhưng thật sự không ngờ lại thất bại nặng nề”.

Sắc mặt Cao Thao Thao có chút hổ thẹn: “Chúng ta lại thất bại sao?”

“Lần bắc phạt này chính là cuộc chiến Kỳ Câu quan. Quy mô của cuộc chiến này rất lớn. Hai bên đều huy động lượng binh lực lên tới mười vạn người. Cả chiến dịch diễn ra mấy tháng trời. Vào thời kỳ đầu chiến dịch, quân Tống chúng ta chia ra làm ba lộ. Đông lộ đánh nghi binh U Châu, trung lộ, tây lộ tấn công mạnh mẽ Sơn Hậu, Chư châu sau đó hội quân ở U Châu. Thời gi­an đầu chiến dịch, quân ta chiến thắng tiến quân một mạch, đánh chiếm được khá nhiều châu, huyện của nước Liêu. Vì chủ lực quân Liêu chưa tới kịp, ưu thế cơ động của kỵ binh đã được phát huy đầy đủ, chúng lợi dụng địa hình bình nguyên, gò đồi tiến hành tập kích quấy rối, đã thành công làm thất bại ý đồ chiến lược bao vây U Châu của quân . Sau khi quân chủ lực quân Liêu đánh tới, đã đánh bại lộ quân phía đông của Đại Tống ở Kỳ Câu quan. Bởi vì quân Tống dựa lưng vào sông tác chiến, tan tác tháo chạy qua sông, chết chìm rất nhiều. Quân Liêu vượt sông đuổi giết, tiêu diệt mấy vạn quân ta. Hai lộ quân kia của quân ta sau khi gi­ao tranh cũng đều tan tác, Đại tướng Dương Nghiệp tử trận. Toàn bộ lãnh thổ chiếm được lại mất. Lúc đó nguyên khí Đại Tống chúng ta tổn thương nặng nề. Từ đó về sau không thể tổ chức bắc phạt nữa”.

Cao Thao Thao giơ ngón tay đếm đếm rồi cười gượng nói: “Tổng cộng xảy ra sáu chiến dịch lớn với quân Liêu. Chúng ta chỉ thắng có ba. Dùng quân chi sư bách chiến đối đầu với quân Liêu mà chỉ đánh ngang tay, coi như quân ta cũng kém cỏi”.

Đỗ Văn Hạo cười gương nói: “Nói bất phân thắng bại là ta tự an ủi mình. Trong sau chiến dịch lớn, trong hai cuộc chiến Nhạn Môn, hẳn chỉ nên tính lần thứ nhất, còn lần thứ hai chỉ là một đánh đơn lẻ, không tính là chiến dịch. Mặc dù giết chết chủ soái quân Liêu nhưng không giết được nhiều quân địch. Quân Liêu cũng vì không biết rõ tình hình mà chủ động triệt thoái về chứ không phải vì bị đánh bại. Đặc biệt trong chiến dịch cuối cùng, cuộc chiến Kỳ Câu quan thì thực sự chúng ta thất bại thê thảm. Tổng cộng tổn thất mấy vạn tướng sĩ, số lượng thương vong này vượt xa mấy lần số lượng thương vong của mấy chiến dịch trước cộng lại. Thất bại của chiến dịch này nặng nề hơn nhiều mấy chiến dịch trước, thời gi­an lại lâu hơn. Tính về quy mô có thể tương đương với hai chiến dịch. Vì vậy nói một cách khách quan: Về tổng thể trong chiến tranh Tống Liêu, Đại Tống chúng ta thắng ít hơn bại. Mười phần chỉ thắng ba, thua bảy”.

Cao Thao Thao thầm thở dài một tiếng nói: “Nghe những chiến bại này quả thực làm người rất buồn bực. Không nói nữa. Chúng ta uống rượu”.

Sau khi hai người uống mấy chén rượu, lại dựa sát vào nhau nghe tiếng mưa rơi. Trong lòng Cao Thao Thao vẫn nặng nề, rốt cuộc nàng vẫn lo nghĩ tới tình hình chiến sự Liêu Tống. Mặc dù tâm trạng vẫn buồn bực khi nghe nhưng lại vẫn muốn biết kết cục phía sau nên nói: “Ngươi nói tiếp đi. Sau này chúng ta có còn thắng ít bại nhiều không?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Thôi được rồi. Chiến bại sau này nghe càng nản hơn nữa. Ta chỉ nói rất đơn giản”.

Chương 404: Nhiều lần chiến bại

Cao Thao Thao lắc đầu nói: “Không cần phải như vậy. Ngươi cứ nên nói tỉ mỉ một chút. Ta cần phải hiểu càng nhiều càng tốt để sau này sẽ phải quyết định chúng ta nên ứng phó với chúng thế nào”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Được. Sau này quân ta gi­ao chiến với quân Liêu cũng không có trận đánh nào nổi tiếng. Sau chiến dịch Kỳ Câu quan, quân Liêu gặt hái thành quả nên mùa đông năm sau chúng lại tập hợp đại quân, một lần nữa xuôi nam với quy mô lớn, quyết chiến với quân Tống ở Quân Tử quán (trung tâm bình nguyên Hoa Bắc, nằm giữa vùng tam giác Bắc Kinh, Thiên Tân và Thạch Gia Trang), quân ta bị quân Liêu bao vậy, toàn quân mấy vạn người hoàn toàn bị tiêu diệt, chỉ có chủ soái kịp thời trốn thoát. Quân Liêu thựa dịp tiến quân thần tốc, sau khi đánh cướp mấy châu mới đắc thắng rút quân khải hoàn. Sau đó kỵ binh quân Liêu lợi dụng ưu thế tốc độ, sau khi nhanh chóng tập kết binh lực, quân ta còn chưa kịp phản ứng đã xâm nhập đánh phá các châu huyện. Sau khi đánh cướp một hồi chúng lại lui quân, không để chúng ta có cơ hội tập trung binh lực áp chế. Năm sau quân Liêu lại một lần nữa xuôi nam xâm nhập. Sau khi đánh chiếm mấy châu của chúng ta, chúng mới bị đánh lui. Cho tới khi Thái Tông hoàng đế băng hà, Chân Tông hoàng đế kế vị, hai bên không xảy ra trận đánh quy mô lớn nào. Chủ yếu vào gi­ai đoạn này là quân Liêu xuôi nam xâm nhập, tập kích quấy rối, quân ta quyết đấu trong thế phòng ngự, tuy thắng bại hai bên đều có nhưng xét về tổng thể, quân ta vẫn coi như rơi vào thế xấu, tỷ lệ thắng bại vẫn là ba phần như trước”.

Cao Thao Thao thở dài nói: “Đúng vậy, quân Liêu có ưu thế kỵ binh, chúng có thể tập trung binh lực ở một điểm, đánh rồi rút lui. Chúng ta phòng ngự bị động, nhất định là bất lợi. Sau này thì sau?”

“Về sau Tống Liêu có một trận quyết chiến cuối cùng, cuộc chiến Thiền Uyên. Sau mấy năm chiến thuật phòng ngự của quân ta đã được củng cố hơn rất nhiều. Khả năng phòng ngự ở biên giới của chúng ta đã tăng lên rất nhiều. Khi đó Tiêu thái hậu của Đại Liêu chỉ huy hai mươi vạn quân Liêu xuôi nam, đánh chiếm nhiều châu, huyện ở biên giới nhưng liên tiếp gặp khó khăn, không thành trì nào bị công phá nhưng mà tổn thất của hai bên cũng không lớn”.

Rốt cuộc Cao Thao Thao cũng nở một nụ cười khi nghe Đỗ Văn Hạo nói tới đó: “Bị nhiều thiệt thòi như vậy hẳn cũng phải học được bài học chứ”.

“Đúng vậy. Mặc dù những trận chiến trước đó quân ta cũng không thiệt hại nhiều nhưng khi tin tức hai mươi vạn đại quân Liêu xuôi nam quy mô lớn bay tới triều đình, một số quần thần trong triều dao động mạnh mẽ. Đa số quần thần chủ trương rời kinh đô xuống phía nam, thậm chí có một số chủ trương bỏ chạy tới Thành Đô”.

Với sự cố gắng của phái chủ chiến cầm đầu bởi Khấu Chuẩn. Chân Tông hoàng đế vốn cũng muốn bỏ chạy nhưng với sự tận lực khẩn cầu của mấy người Khấu Chuẩn, Chân Tông hoàng đế quyết định ngự giá thân chinh. Khi đi vào thành Thiên Uyển, vẫn còn run run khi trèo lên lâu thành”.

Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo vẻ quái dị: “Những điều này ngươi lấy ở đâu vậy?”

Hiệp ước Thiền Uyên cực kỳ nổi tiếng trong lịch sử cổ đại Trung Quốc. Giáo viên dạy môn lịch sử trung học đã giảng giải rất lỹư lưỡng về vấn đề này. Thật ra câu nói đó của Đỗ Văn Hạo là hình dung có chút khoa trương của giáo viên đó để đùa cợt với bậc đế vương cổ đại. Đỗ Văn Hạo và Cao Thao Thao là cặp tình nhân, khi nói chuyện không giữ ý tứ, hắn thuận miệng nói ra. Bây giờ hắn nghe Cao Thao Thao hỏi lại mới biết trêu chọc tiên đế như vậy là phạm trọng tội bất kính.

Đỗ Văn Hạo vội vàng cười giả lả, hắn ôm eo nàng hôn một cái rồi nói: “Thực xin lỗi. Thao Thao, những chi tiết này là trong dã sử, có mấy chỗ không có thật. Là ta nói hưu nói vượn. Nàng đừng để tam. Thật ra Chân Tông hoàng đế cực kỳ dũng cảm. Những Hoàng Đế có can đảm ngự giá thân chinh thật ra không có mấy người. Chân Tông hoàng đế đích thân ra tuyền tuyến chỉ huy đã khiến cho quân Liêu bãi binh, không dám xuôi nam nửa bước. Có thể xưng là anh hùng. Ha ha ha”.

Sau khi Đỗ Văn Hạo xin lỗi hắn lại liên tiếp vuốt mông ngựa. Rốt cuộc Cao Thao Thao cũng tươi cười nói: “Những lời nói trước kia của ngươi chỉ có thể nói trước mặt ta. Nếu để cho người ngoài nghe thấy, quả thực không hay chút nào. Sau này ngươi phải cẩn thận chú ý mới được”.

“Biết rồi!” Đỗ Văn Hạo ôm Cao Thao Thao hôn một hồi lâu. “Ta cũng chỉ ở trước mặt nàng mới ăn nói tuỳ tiện như vậy. Nếu đổi lại trước mặt người khác, kể cả phu nhân của mình ta cũng không nói như vậy”.

Cao Thao Thao nghe nói Đỗ Văn Hạo đặt nàng cao hơn cả người nhà của hắn, cùng với sự thân mật của hai người, hiển nhiên hắn đã coi mối quan hệ của hai người quan trọng hơn cả người nhà nên trong lòng càng cao hứng. Nàng mỉm cười nói: “Thôi được rồi. Sau này phải chú ý một chút. Ngươi nói tiếp đi”.

“Được. Chân Tông hoàng đế của chúng ta ngự giá thân chinh, lập tức sĩ khí quân ta đại chấn. Trong trận quân Liêu có một viên Đại tướng khoác Hoàng bào ra trước trận vênh váo tự đắc, khoa chân múa tay, xem dáng vẻ là một viên quan lớn, quân ta liền bẩm báo Chân Tông Đại đế. Chân Tông Đại Đế hạ lệnh dùng nỏ sàng có tầm bắn rất xa, bắn ra như châu chấu, lập tức bắn chết viên tướng Liêu đó. Sau này mới biết được người đó là tướng tiên phong của quân Liêu”.

Cao Thao Thao vỗ tay cười nói: “Bắn hay lắm!”

Đỗ Văn Hạo cũng cười nói: “Đúng thế! Quân Liêu đơn độc xâm nhập, liên tục công thành thất bại. Bây giờ tướng tiên phong lại bị bắn chết, lại thấy Hoàng Đế Đại Tống ngự giá thân chinh, sĩ khí quân ta đại chấn, trong lòng liền e sợ, đề nghị giản hoà. Trên đường ngự giá thân chinh, Chân Tông hoàng đế nhìn thấy dân chúng vùng biên cương hơn hai mươi năm chịu thảm hoạ chiến tranh, trong lòng vô cùng đau xót, nay thấy quân Liêu muốn giảng hoà. Lão nhân gia người là người nhìn xa trông rộng, lại thương xót sự khổ sở hai mươi năm qua của dân chúng biên cương hai nước nên cuối cùng quyết định tốn chút tiền mua sự bình yên. Hai bên ký hiệp định, kết làm hai nước anh em. Liêu Thánh Tông tôn Tống Chân Tông làm huynh. Tống Chân Tông lại xưng Tiêu Thái hậu là thúc mẫu (thím). Đại Tống ta hàng năm phải tiến cống cho Đại Liêu mười vạn lạng bạc trắng, hai mươi vạn súc lụa. Đôi bên cử sứ gia bang gi­ao. Sử sách gọi là: Hiệp ước Thiền Uyên”.

“Vậy trận này chúng ta thua hay thắng?”

“Phải nói là trận này hai bên đều thắng. Những trận chiến trước đó hai bên đều không có thiệt hại cụ thể. Cuối cùng hiệp ước Thiền Uyên cũng kết thúc gi­ao tranh. Số tiền tiến cống hàng năm của hiệp ước Thiên Uyên không lớn lắm. Đối với Đại Tống chúng ta, số tiền ấy chỉ như chín trâu mất một sợi lông. Nhưng đối với Đại Liêu mà nói lại như một miếng bánh lớn, tất nhiên chúng vô cùng mững rỡ, không cần phải mạo hiểm xuôi nam đánh cướp, dùng số tiền đó có thể có cuộc sống tương đối sung túc. Vì vậy từ đó về sau quân Liêu không phái quân xuôi nam. Hai bên tiếp tục chung sống hoà bình với nhau, không có chinh chiến, cùng với thời gi­an cuộc sống của dân chúng cũng trở nên giàu có sung túc. Quả nhiên Chân Tông hoàng đế là người biết nhìn xa trông rộng, dùng tiền trinh đổi lấy sự bình yên mấy chục năm của biên giới. Số tiền đó cũng chỉ là tiết kiệm quân lương không đi viễn chinh. Điều chủ yếu nhất là chúng ta tránh được hàng vạn người phải tử chiến xa trường, dân chúng vùng biên cương rơi vào cảnh lầm than. Chân Tông hoàng đế là người có lòng thương tiếc dân chúng, tấm lòng bao la”.

Đỗ Văn Hạo liên tiếp vỗ mông ngựa khiến cho Cao Thao Thao mặt mày hớn hở, nghe thấy câu cuối nàng không hiểu nên ngạc nhiên hỏi: “Điểu Sinh ngư thang?’

Câu này là câu cửa miệng của Vi Tiểu Bảo, Đỗ Văn Hạo thuận miệng nói ra, cũng có ý trêu chộc nhưng nghe Cao Thao Thao hỏi hắn vội vàng sửa lại: “Thật xin lỗi là Nghiêu Thuấn Vũ thang. Chắc ta nói nhanh quá nên không rõ ràng. Ha ha ha”.

Cao Thao Thao mỉm cười nói: “Ngươi nha! Lại nói loạn rồi!”

“Ha ha. Lúc trước tâm tình nàng nặng nề mà sao thoáng chốc đã thay đổi?”

Nụ cười trên gương mặt Cao Thao Thao biến mất, nàng thở dài nói: “Đúng vậy. Ta nghe ngươi nói giữa Đại Tống và Liêu xảy ra nhiều cuộc chiến như vậy, quân ta chỉ có ba phần thắng, bảy phần thua trận. Cuối cùng chúng ta còn phải dùng tiên đổi lấy sự yên bình. Tại sao không phải là chúng dùng tiền mua sự bình an từ chúng ta? Nói cho cùng thì vẫn là không đánh lại chúng. Ai! Điều này khiến trong lòng ta rất buồn bực”.

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: “Đó đã đáng gì. Chờ khi nàng nghe xong mấy cuộc đại chiến với Tây Hạ nàng sẽ thấy mấy cuộc chiến trước không đáng gì”.

“Hả?” Đánh nhau với Tây Hạ chúng ta còn thua thảm hơn sao?”

“Đúng vậy. Khi chiến tranh với nước Liêu là lúc chúng ta vừa mới lập nước, binh hùng tướng mạnh, tuy có thất bại nhưng cũng không quá nặng nề. Khi xảy ra chiến tranh với Tây Hạ, chúng ta đã trải qua một thời thái bình quá dài. Mặc dù chúng ta có quân đội đông đảo hơn rất nhiều quân đội Tây Hạ. Nhưng kết quả chiến tranh thì chúng ta lại còn thất bại thảm hại hơn”.

“Không thể nào” Cao Thao Thao cười buồn bực nói: “Trước kia ta toàn nghe những chiến thắng khải hoàn”.

“Nghe những văn nhân đó tuyên truyền thì chiến tích của chúng ta rất hay. Nàng phải biết rằng Tây Hạ vốn là đất thuộc địa của chúng ta. Chúng ta dùng quốc lực một đất nước nhưng lại không thể nào khiến nó thuần phục ngược lại còn bị tổn thất nặng nnề. Chuyện đó phải nói thế nào đây? Dù sao cũng phải giữ thể diện cho Thiên triều chúng ta mà”.

“Vậy làm thế nào ngươi biết được?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Nàng đừng quên, hơn tháng trước nàng bổ nhiệm ta làm tam nha Đô Chỉ Huy Sứ. Tam nha lại cai quản quân đội. Trong tam nha có rất nhiều tư liệu chiến tranh, rất phong phú. Ta đã không lãng phí thời gi­an những ngày đó.

Những khi rảnh ta đều nhốt mình trong các lý tư liệu của tam nha. Ta lấy những tư liệu nguyên gốc nên có thể hiểu được chân tướng sự việc. Trong khi đó nàng lại nghe người khác tuyên truyền nên chỉ có thể nghe những điều nói dối hào nhoáng”.

Cao Thao Thao đứng dậy. Nàng chắp tay sau lưng đi ra ngoài cạnh đình, chẳng biết mưa ngoài trời đã ngớt từ lúc nào. Bầu trời mù mù đã quang dần, mây tan ra, thậm chí đã xuất hiện một vài ngôi sao nhỏ.

Cao Thao Thao quay lại, nàng nghiêm mặt nói với Đỗ Văn Hạo: “Văn Hạo, ngươi phải nói với ta chân tướng của sự việc. Ta muốn biết sự thật chứ không phải là lời nói dối, bất kể là có ý tốt hay không. Ta chỉ muốn biết sự thật. Muốn trị vì một quốc gia tốt, nhất định phải nắm được tình hình thực tế của đất nước”.

“Được!” Đỗ Văn Hạo vội vàng đứng dậy, nhẹ nhàng ôm nàng nói: “Nàng cứ yên tâm. Ta nhất định sẽ giúp nàng trị vì quốc gia tốt, chỉnh đốn quân đội, thành lập một đội quân dũng mãnh bách chiến bách thắng”.

“Ừ” Rốt cuộc trên gương mặt xinh đẹp của Cao Thao Thao cũng hiện ra nụ cười vui vẻ: “Có người ở cùng ta, trong lòng ta cũng thấy rất an tâm”.

“Ha ha nhưng mà tiên đế đã từng nói chủ kiến của ta thường không thể tưởng tượng nổi, nói cách khác là kỳ quặc. Nhất định nàng sẽ không tiếp thu được”.

“Ta biết. Tiên đế đã từng nói. Nhưng mà chỉ cần ngươi nói có đạo lý, dù có khác người cũng chẳng sao”.

“Vậy là tốt rồi. Ta rất an tâm. Tiếp theo ta nói về chiến tranh Tống Hạ”.

“Chờ một chút” Cao Thao Thao nói: “Thức ăn lạnh rồi, để ta bảo bọn họ hâm nóng thức ăn. Chúng ta vừa ăn vừa nói chuyện”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Được. Cứ để bọn họ hầu hạ ở bên cạnh cũng được. Dù sao bây giờ chúng ta cũng chỉ nói chuyện chiến tranh, không làm gì khác”.

Gương mặt vốn hai tái vì men rượu của Cao Thao Thao ửng hồng. Nàng liếc nhìn hắn, sẵng giọng nói: “Chuyện khác? Ngươi còn muốn làm chuyện gì khác?”

“Nàng nói thử xem?” Đỗ Văn Hạo ôm nàng sát vào người, hôn lên đôi môi mọng đỏ, bàn tay hắn vuốt ve đôi gò bồng đảo cao ngất của nàng rồi miệng hắn khẽ mơn man vàng tai mềm mại của nàng. “Nàng biết ta muốn làm gì không?”

Cao Thao Thao thở gấp gáp, nàng nhẹ nhàng đấm hắn một cái: “Đừng lộn xộn. Hãy ngồi xuống nói chuyện chiến tranh một cách nghiêm chỉn. Chúng ta thất bại thê thảm như vậy, ngươi vẫn còn tâm tư làm cái đó ư?”

“Ha ha. Tất cả những thất bại đó đều là chuyện trước kia. Lần sau chúng ta hãy đánh thắng chúng một trận thật thống khoái làm cho chúng không dám giở giọng nữa, chẳng phải như vậy sẽ thu lại cả vốn lẫn lãi sao?”

‘Vậy phải xem bản lĩnh Đại tướng quân của ta” Cao Thao Thao hôn Đỗ Văn Hạo, nàng đẩy hắn ngồi xuống rồi kêu Tiêu công công tiến vào, bảo thay thức ăn. Sau khi hai người ăn một chút, uống mấy chén rượu, Đỗ Văn Hạo lại mới nói tiếp.

Đỗ Văn Hạo nói: “Trong lúc Đại Tống và Đại Liêu đang gi­ao tranh, bộ tộc Đảng Hạng Tây Hạ nhiều lần khởi binh làm phản lại Đại Tống. Bởi vì khi đó Đại Tống chúng ta phải dốc toàn lực đối phó với Đại Liêu, không rảnh tay quan tâm tới bộ tộc Đảng Hạng, dùng phương sách dùng người Di, chế ngự người Di (di; rợ - người Trung Quốc thời xưa gọi các dân tộc ở phía Đông), dùng đồng minh là người Thổ Phiên đối phó với người Đảng Hạng, chỉ thỉnh thoảng mới xuất binh chinh phạt. Thời kỳ này thực lực quân đội Tây Hạ không mạnh, Đại Tống cũng không xuất binh nhiều. Đại khái hai bên đánh cũng chỉ ngang nhau. Nhưng bốn mươi năm trước Tây Hạ nguyên Hạo phản lại Đại Tống, tự xưng làm Đế, thành lập nước Tây Hạ, trước sau cùng Đại Tống chúng ta đánh năm chiến dịch lớn”.

“Không cần phải nói cũng biết lại là chúng ta thất bại thảm hại” Cao Thao Thao cười gượng nói.

Đỗ Văn Hạo cười cười nói: “Trận chiến đầu tiên gọi là cuộc chiến Tam Xuyên Khẩu. Quân Tây Hạ phát động tấn công trước, bao vây Diên Châu. Tướng trấn thủ biên cương của Đại Tống phán đoán tình thế sai, cho rằng quân Tây Hạ chỉ tập kích quấy rối quy mô nhỏ, liền tập hợp một vạn binh sĩ tới cứu viện. Ai ngờ khi đó Nguyên Hạo đã chuẩn bị binh lực lên tới mười vạn quân. Hắn đã chọn kế sách bao vây, diệt viện, bao vây một vạn quân tiếp viện của Đại Tống trùng trùng điệp điệp. Quân Tống quyết chiến đột phá vòng vây cũng không thoát được. Ngoại trừ một số ít phá được vòng vây, một vạn quân Tống gần như bị tiêu diệt. Nhưng quân Tây Hạ đánh mãi cũng không thể hạ được thành liền thu quân quay về”.

Cao Thao Thao thở dài nói: “Không biết rõ tình hình địch, tuỳ tiện tiến quân, không thất bại mới là lạ”.

Bởi vì Đỗ Văn Hạo thấy nhiều cung nữ, thái giám hầu hạ xung quanh nên hắn không dám gọi thẳng tên của Thái Hoàng Thái Hậu, hắn vỗ đùi khen: “Thái Hoàng Thái Hậu nói rất đúng. Thật ra trước khi xông vào vòng vây đối phương, quân ta đã phát hiện đại quân Tây Hạ rất đông, cũng không phải là tập kích, quấy rối nhỏ nhưng lại không cảnh giác.

Trong khi đó chỉ huy tác chiến lại là văn nhân, hoàn toàn không có hiểu biết gì về quân sự, cái gì gọi là cầm quân tác chiến. Thường nhân trở thành chỉ huy, không thua mới là lạ”.

Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Quan văn lãnh binh chính là di chiếu của Thái Tổ”.

Đỗ Văn Hạo đang định nói chính vì di chiếu đó khiến thất bại nhưng hắn liếc mắt nhìn thấy cung nữ và thái giám đang đứng bên cạnh nên sửa thành: “Dạ, vi thần nói tiếp. Trận chiến sau đó là trận chiến Thuỷ Xuyên, quân Tống chúng ta còn thất bại thảm hại hơn nhiều. Năm thứ hai sau cuộc chiến ở Tam Xuyên Khẩu, một lần nữa mười vạn đại quân Tây Hạ lại xâm nhập phía nam nhưng quân Tây Hạ lại dùng quân chủ lực mai phục ở Thuỷ Xuyên, dùng một lượng nhỏ binh lực dụ địch đánh nghi binh. Hơn một vạn đại quân ta nghênh chiến, quân địch giả vờ thất bại, quân ta trúng kế, truy kích đường xa, rơi vào trận địa phục kích của quân địch. Hơn một vạn tướng sĩ chỉ có vẻn vẹn hơn một ngàn người huyết chiến phá được vòng vây, còn lại đều chết trận”.

“Ai! Lại là toàn quân bị tiêu diệt” Cao Thao Thao thở dài một tiếng nói: “Chúng ta không thể làm quân Tây Hạ toàn quân bị tiêu diệt sao?”

“Thái Hoàng Thái Hậu, quân đội hai bên gi­ao chiến cũng giống như hai người đánh nhau. Khí lực mạnh, võ công giỏi nhất định có thể đánh thắng khí lực yếu, võ công kém”.

Tiêu công công cảm thấy mấy lời này của Đỗ Văn Hạo không lọt tai, sợ Thái Hoàng Thái Hậu mất hứng liền gượng cười nói xen vào: “Đại tướng quân nói sai rồi Đại Tống chúng ta là thượng quốc, trên trăm vạn hùng binh, sao lại nói là khí lực yếu, võ công kém? Tây Hạ chỉ là một nước man di, có một, hai chục vạn quân ô hợp sao lại có thể nói là khí lực mạnh, võ công giỏi được?”

Không đợi Đỗ Văn Hạo lên tiếng, Cao Thao Tháo đã nói trước: “Tiểu Tiêu tử, ngươi không hiểu. Quân đội Đại Tống nhiều hơn thì làm gì? Điều này cũng giống như một con bò lớn và một con sói đói. Con bò béo có vóc dáng to lớn hơn một con sói đói, khí lực cũng mạnh hơn, sao có thể alf đối thủ của con sói đói? Đại Tống là một thượng quốc nhưng lại thiếu một đội quân thiện chiến, dũng mãnh, cũng giống như con bò không có răng nanh, bị con sói ăn sạch sành sanh”.

Tiêu công công cười hì hì nói: “Đúng vậy. Thái Hoàng Thái Hậu nói đúng. Đại tướng quân đúng là người lão luyện trong phương diện này, phân tích vô cùng chính xác, suy nghĩ rất sâu xa làm người khác bừng tỉnh. Ha ha ha”.

“Ai! Ngươi nói không sai, lời nói của Đỗ tướng quân khiến Ai gia bừng tỉnh. Đỗ tướng quân, ngươi nói tiếp đi”.

Đỗ Văn Hạo mừng thầm khi nghe Cao Thao Thao nói những lời đó, hắn đã không uổng phí một phen uốn lưỡi, hắn liền nói tiếp: “Được. Trận chiến sau đó được gọi là cuộc chiến Định Xuyên. Quân Tây Hạ chia làm hai đtấn công. Quân ta cũng chia binh đón đánh. Một lộ quân quyết chiến ở trại Định Xuyên, thất bại tan tác liền giẫm đạp lên nhau chạy vào thành. Chủ tướng còn suýt chút nữa bị loạn quân giết chết. Quân Tây Hạ cắt đứt đường tiếp viện, không còn hy vọng thủ thành, chủ tướng đành phải hạ lệnh phá vây, kết quả tríng mai phục, gần một vạn tướng sĩ toàn quân bị ntiêu diệt”.

“Ai! Lại là toàn quân bị tiêu diệt. Nào, uống rượu!”

Đỗ Văn Hạo vội vàng nói: “Thái Hoàng Thái Hậu, chúng ta cũng thắng được một trận đánh nho nhỏ. Lộ đại quân kia của quân Tây Hạ đã bị quân ta kiên cường chặn lại, tổn thất không tiến được nên Tây Hạ quyết định bãi binh”.

Cao Thao Thao cười nói: “Ờ, chúng ta cũng có lúc đánh thắng sao?”

‘Đúng vậy. Ha ha ha vì vậy sau ba cuộc chiến Tâ Hạ liền kế kết hiệp ước với Đại Tống chúng ta, xưng thần với chúng ta. Nói là xưng thần nhưng kỳ thật Tây Hạ hoàn toàn độc lập. Hàng năm chúng ta còn phải cung cấp cho Tây Hạ mười ba vạn súc lụa, năm vạn lượng bạc trắng, ba ngàn cân trà”.

“Nỗi nhục mất nước! Vô cùng nhục nhã” Cao Thao Thao tức giận nói. Sắc mặt nàng tai nhợt vì tức, hai hàm răng nghiến chặt. Hai bàn tay trắng như tuyết nắm chặt.

Đỗ Văn Hạo thở dài nói: “Ai! Đây cũng là vì không còn cách nào khác, cũng là dùng tiền mua hoà bình. Cũng may chúng ta cũng nhiều tiền nên cũng không quá quan tâm”.

“Tiền, tiền nhiều tiền hơn nữa cũng không thể dùng tiền mua hoà bình. Đây là dùng tiền mua sự sỉ nhục”.

Đỗ Văn Hạo thấy Cao Thao Thao tức giận như vậy, trong lòng hắn lại càng cao hứng. Hắn cố làm ra vẻ ủ rũ, liên tục gật đầu rồi nói tiếp: “Đúng vậy, chúng ta đánh không lại người ta. Có thể không tốn tiền sao? Đúng như Thái Hoàng Thái Hậu đã nói, một con bò béo không có rănh nanh chỉ có thể chịu bị lang sói cấu xé”.

Cao Thao Thao sững sờ, tròn mắt nhìn Đỗ Văn Hạo một lát rồi nàng chậm rãi nói: “Lời của ngươi có ý gì?”

Đỗ Văn Hạo nhìn lướt qua mấy người Tiêu công công bên cạnh rồi hắn thở dài một tiếng nói: “Trận chiến đánh thành đã vậy. Cho dù muốn nói gì cũng không có gì mà nói”.

Cao Thao Thao gật đầu. Nàng cầm chén rượu uống một hơi cạn rồi chậm rãi nói: “Ngươi cứ nói tiếp đi. Hãy cứ nói những điều trọng yếu thôi”.

“Dạ! Sau khi hai bên ký hoà ước hoà bình. Biên giới hai bên yên tĩnh trong vòng ba mươi năm sau đó lại xảy ra chiến tranh”.

Cao Thao Thao nói: “Hai cuộc chiến sau này chính là cuộc chiến Linh Châu và cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc không?”

“Đúng vậy”.

“Vậy không cần phải nói. Hai cuộc chiến này Ai gia đã nghe tiên đế nhắc tới nhiều lần. Ta hiểu hai cuộc chiến này chúng ta đều thất bại nhưng không nắm rõ về tổn thất. Ngươi hãy nói vắn tắt một chút”.

“Được. Trận đánh ở Linh Châu, quân ta xuất ba mươi vạn quân, chuẩn bị một ntrận tiêu diệt Tây Hạ, một đường thẳng tiến, tiêu diệt hơn một quân Tây Hạ. Quân Tây Hạ thất bại, liên tiếp tháo lui. Quân ta liều lĩnh tấn công thần tốc, đánh thẳng vào nội địa Tây Hạ mấy trăm dặm. Tất cả các lộ quân Tây Hạ bắt đầu vây kín chúng ta. Quân ta bị bốn mặt giáp công, thất bại tháo lui, hao binh tổn tướng tới mấy vạn người”.

Chương 405: Binh cường không biến pháp

Cao Thao Thao thở dài nói: “Đơn độc xâm nhập. Đơn độc xâm nhập”.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Lãnh binh của chúng ta đều là quan văn, chưa từng học qua binh pháp, cũng chưa từng lãnh binh đánh giặc. Phạm sai lầm là lẽ đương nhiên”.

Cao Thao Thao sửng sốt hồi lâu rồi mới chậm rãi nói: “Ngươi nói tiếp đi”.

“Được. Năm sau hai nước Tống Hạ diễn ra chiến dịch thành Vĩnh Nhạc”.

“Không cần phải nói trận chiến này, Ai gia đã biết rất rõ ràng. Cũng giống như chiến dịch trước. Quân ta xuất hai mươi vạn đại quân, sử dụng vũ khí làm mỏi mệt cùng mặt nạ phòng độc của ngươi cung cấp, công thành chiếm đất, lại là một đường thẳng tiến, giết vô số quân địch, một mực đuổi tới dưới chân thành kinh đô Tây Hạ nhưng Tây Hạ thu được trang bị phòng độc của ngươi, tiến hành nghiên cứu, phỏng chế ra rất nhiều làm cho vũ khí dịch bệnh của quân ta mất hiệu quả. Quân Tây Hạ vây kín, quân ta thua chạy vào thành Vĩnh Nhạc. Đại quân Tây Hạ mạnh mẽ tấn công phá thành, hai mươi vạn đại quân gần như bị tiêu diệt vì vậy tiên đế khóc lóc ba ngày liền ở Thái miếu, không ăn không uống, cả ngày dùng nước mắt rửa mặt”.

Nói xong những lời cuối cùng đó, Cao Thao Thao lại nhớ tới dáng vẻ con trai mình là Tống Thần Tông lúc đó, trong lòng lại cực kỳ bi thương, nức nở nghẹn ngào, khóc oà.

Đỗ Văn Hạo cúi người chắp tay nói: “Thái Hoàng Thái Hậu hãy bớt bi thương”.

Cao Thao Thao gạt lệ, phất tay cho mấy người Tiêu công công lui ra. Nàng đứng dậy đi tới mé ngoài đình hóng mát, nhìn những ánh sao lờ mờ trên bầu trời một lúc lâu rồi mới yếu ớt hỏi: “Văn Hạo, ngươi nói cho ta biết những chuyện chiến bại xưa kia của Đại Tống là có mục đích gì?”

“Thao Thao, nàng rất thông minh” Đỗ Văn Hạo cười hì hì. Hắn đứng dậy đi tới ôm Cao Thao Thao từ sau lưng. “Thao Thao, nàng đã bổ nhiệm ta làm tam nha Đô Kiểm Điểm, cũng không quản ngại cho phép ta tham gia Tể chấp. Cả ngày hôm nay ta chỉ nghĩ tới chuyện làm thế nào chấn hưng sự oai hùng của Đại Tống? Ta nói với nàng những chuyện cũ đau buồn chính là muốn để cho nàng có một sự hiểu biết thực sự khách quan với quân đội Đại Tống. Thao Thao, giờ đây quân đội Đại Tống thực sự giống như lão hổ bị bẻ gãy hết hàm răng cùng móng vuốt, chỉ e ngay cả hồ ly cũng không đánh lại. Nếu không nghĩ ra cách nào, sớm muộn Đại Tống chúng ta cũng lâm nguy”.

Những lời đó của Đỗ Văn Hạo hoàn toàn không chút khoa trương. Trong lịch sử, chỉ bốn mươi năm sau Bắc Tống quả thật đã bị nước Đại Kim tiêu diệt. Đỗ Văn Hạo đã tới nơi này, hắn muốn thay đổi lịch sử.

Cao Thao Thao móc đôi bàn tay mềm mại vào tay Đỗ Văn Hạo, nàng ngả đầu vào vai hắn, thân hình nhỏ nhắn xinh xắn dựa hẳn vào lòng Đỗ Văn Hạo. Đôi mắt phượng không ngừng ngơ ngẩn nhìn sao trên bầu trời: “Không phải tiên đế không có giấc mộng binh cường. Mục đích chính của việc sử dụng biến pháp của Vương An Thạch chính là muốn nước mạnh, binh cường. Lúc ban đầu bản thân ta cũng hông phản đối biến pháp. Nhưng sau khi thực hiện biến pháp không những không có nước mạnh binh cường, ngược lại còn làm cho thần dân công phẫn, dân chúng lầm than. Ai! Phải làm thế nào thì mới có nước mạnh binh cường đây?”

Đỗ Văn Hạo xiết chặt vòng eo nhỏ của nàng nói: “Chỉ cần cố gắng tìm đúng con đường đi, nhất định sẽ làm cho nước mạnh binh cường”.

Cao Thao Thao chậm rãi quay người, nàng ôm cổ Đỗ Văn Hạo, đôi mắt đẹp chăm chú nhìn hắn: “Ngươi đã nghĩ ra cách làm cho nước mạnh binh cường sao?’

Đỗ Văn Hạo nói: “Ngay khi tiên đế bổ nhiệm ta làm Lộ câu quản phủ Thành Đô, ta đã suy nghĩ tới vấn đề làm thế nào để cho nước mạnh binh cường.

Khi ở phủ Thành Đô ta cũng đã áp dụng một số biện pháp thực tế. Nhưng vấn đề là ta chưa biết hiệu quả thực sự thế nào đã bị điều đi. Nếu muốn biết hiệu quả thế nào, có thể hỏi Tô Thức (còn gọi là Tô Đông Pha). Nhất định hắn vẫn tiếp tục áp dụng biến pháp của ta ở Tĩnh Châu”.

Cao Thao Thao lắc đầu nói: “Ta không cần bíên pháp của ngươi, không muốn dùng biến pháp của ngươi di hoạ cho dân chúng. Ta chỉ muốn ngươi giúp binh cường, giúp ta thành lập một đội quân kiêu dũng thiện chiến, bách chiến bách thắng, dẹp yên Tây Hạ và Đại Liêu, báo thù rửa hận”.

Cao Thao Thao vốn tính tình nhu nhược nhưng một khi đã bị rơi vào thế bắt buộc phải buông rèm chấp chính, không thể không suy nghĩ vì đất nước. Vừa rồi nàng lại nghe Đỗ Văn Hạo kể lại chuyện chiến tranh thời trước của Đại Tống với Tây Hạ và Đại Liêu thắng ít bại nhiều, tâm tình cực kỳ buồn bực, sinh lòng oán hận với Tây Hạ và Đại Liêu, cuối cùng đã thốt lên câu nói cực kỳ khí phách nói trên.

Đỗ Văn Hạo hiểu rõ Cao Thao Thao là nhân vật lãnh tụ của phái bảo thủ, kiên quyết phản đối biến pháp của Vương An Thạch, kiên trì phương pháp thống trị của tổ tông vì vậy khi nàng nghe tới biến pháp, lập tức phản đối như một phản xạ có điều kiện. Đỗ Văn Hạo cũng hiểu chuyện này không gấp được nên vội ôm nàng nói: “Được, chỉ là binh cường, không biến pháp, không gây tai hoạ cho dân chúng. Không…hãy cho ta một chút thời gi­an để suy nghĩ xem làm thế nào để binh cường”.

“Ừ. Ta cho ngươi ba ngày, không năm ngày suy nghĩ. Có đủ không?”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Nếu như bế môn suy nghĩ thì chỉ một ngày là đủ, không cần phải năm ngày”.

“Thôi được, một ngày bế môn suy nghĩ sao? Bế môn suy nghĩ có thể làm cho binh cường sao? Ta muốn ngươi có thể tìm ra biện pháp thật sự có thể làm cho binh cường”.

“Vậy thì năm ngày sẽ không đủ”.

“Ồ? Vậy thì mấy ngày?”

Đỗ Văn Hạo cầm tay nàng chậm rãi nói: “Thao Thao. Nói thật ta vẫn có một vấn đề tồn tại trong quân đội Đại Tống chúng ta cần phải làm rõ. Nàng đã trao cho ta quyền thành lập một đội quân hùng mạnh, ta không thể giải tán toàn bộ quân đội hiện nay thành lập đội quân mới. Ta chỉ có thể tiến hành cải cách quân đội hiện tại. Không phải trong triều đình đã từng ồn ào nói đến ba nhũng sao (vào thời Bắc Tống có ba nhũng là: Quan lại, Sương quân và tăng đạo). Một trong tam nhũng đó chính là nhũng binh. Quân đội nhũng nhiễu như thế nào, nhũng nhiễu tới mức độ nào. Tại sao sức chiến đâu lại giảm sút. Tại sao đánh trận là bại? Những điều này không phải vô cớ mà nghĩ ra được. Nhất định phải tiến hành điều tra, khảo sát trong quân đội một cách nghiêm chỉnh, tìm ra vấn đề mấu chốt. Muốn hoàn thành công việc này chỉ e ba năm cũng không thể làm xong được. Ta cũng thực sự không biết chính xác cần bao nhiêu thời gi­an. Thế nhưng ta tin tưởng rằng cũng không cần nhiều quá nhiều thời gi­an bởi vì nhiều vấn đề rất rõ ràng. Ta nghĩ rằng một khi đã tìm đúng vấn đề, nghĩ ra phương pháp giải quyết ta sẽ bẩm báo với nàng, được không?’

“Nhưng mỗi khi nghĩ tới Đại Tống chúng ta đã nhiều lần thua Đại Liêu và Tây Hạ, hàng năm chúng ta còn phải tiến cống tiền, vật phẩm cho chúng, trong lòng ta không yên, ta chỉ muốn sớm báo thù rửa hận”.

“Ta hiểu tâm tình của nàng. Ta thân làm quan chỉ huy cao nhất của tam nha, sao có thể không nghĩ tới thù hận này? Ta chỉ muốn ngay lập tức xây dưng một đội quân mãnh hổ, bách chiến bách thắng, đánh xuyên Tây Hạ, Đại Liêu, thậm chí là cả thế gi­an này. Nhưng mà nóng vội ăn không hết đậu hũ nóng (nói một cách ví von là: Nóng vội được không bằng mất - hay là dục tốc bất đạt). Những vấn đề của quân đội Đại Tống đã chồng chất hơn một trăm năm. Rất nhiều vấn đề rắc rối rất khó gỡ, thậm chí là thâm căn cố đế. Nếu muốn thay đổi, không phải chỉ cần một đạo thánh chỉ là có thể thay đổi được. Nếu công việc đơn giản như vậy, tiên đế đã sớm hoàn thành công việc này. Chúng ta cũng đã không bị Tây Hạ đánh bại thê thảm như vậy. Thao Thao, nàng phải cho ta đủ thời gi­an mới có thể hoàn thành công việc này, thực hiện mục đích binh cường”.

Hai mắt Cao Thao Thao đẫm lệ, nàng ngẩng đầu nhìn hắn buồn bã nói: “Khi nào mới có thể thực hiện được mục đích này?”

“Thao Thao, nàng phải chuẩn bị tâm lý, có thể là rất lâu. Vấn đề tối kỵ là cải cách quân đội chỉ vì mối lợi trước mắt”.

“Nhưng dù sao ngươi có phải đại khái có một hạn định thời gi­an”.

“Căn bệnh tồn tại trên một trăm năm muốn thay đổi cho dù không cần hơn một trăm năm cũng cần mấy chục năm. Thời gi­an cụ thể bao lâu quyết định là ở hai yếu tố”.

Cao Thao Thao vội vàng hỏi: “Hai yếu tố nào?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Một yếu tố là biện pháp của mình có mạnh mẽ hay không, biện pháp cải cách có thông suốt hay không, có kiên quyết triệt để hay không. Yếu tố thứ nhất quyết định bởi ta. Yếu tố thứ hai chính do nàng quyết định”.

Cao Thao Thao cười nói: “Ngươi cứ . Chỉ cần ngươi chú tâm điều tra, xác định được biện pháp là binh cường, ta sẽ hoàn toàn ủng hộ ngươi. Chỉ cần có thể để quân Đại Tống chúng ta đánh bại quân Tây Hạ và Đại Liệu, ta sẽ đồng ý bất kỳ yêu cầu nào, biện pháp nào ta cũng ủng hộ”.

“Được” Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: “Như vậy chúng ta coi như đã định”.

Đỗ Văn Hạo ôm Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao. Hai người ôm nhau đứng yên một chỗ.

Rất lâu sau hai người mới buông nhau ra. Cao Thao Thao nói: “Văn Hạo. Hôm nay Hú nhi đăng cơ thuận lợi. Chuyện này có thể giải quyết thuận lợi như vậy, hai bên có thể tránh khỏi dùng binh đao với nhau, công đầu là của ngươi. Hơn nữa ngươi còn điều tra ra chân tướng tiên đế bị mưu hại, ta rất cảm kích vì vậy ta muốn thưởng công cho ngươi”.

Đỗ Văn Hạo vuốt ve đôi gò bồng đảo của nàng, hôn lên đôi môi mọng đỏ của nàng, cười hì hì nói: “Nàng chính là phần thưởng của ta. Đây chính là phần thưởng cao nhất của phần thưởng”.

Cao Thao Thao hờn dỗi đánh Đỗ Văn Hạo: “Hai chúng ta đều là có tình cảm với nhau. Sao có thể xem như là phần thưởng đây?’

“Ha ha ha. Thôi được rồi. Phần thưởng của ta là gì?”

“Ừ. Bây giờ ngươi đã là quan nhị phẩm Đô Kiểm Điểm, vẫn còn làm việc ở Ngũ Vị đường thì không ra thể thống gì. Không phải Tiền Bất Thu là đồ đệ của ngươi sao? Ta nghe nói y thuật của hắn cũng rất khá. Hãy để Ngũ Vị đường cho hắn trông nom. Sau này ta còn rất nhiều chuyện cần ngươi trợ giúp. Chỉ e người sẽ không còn nhiều thời gi­an đi xem bệnh cho người khác”.

Đỗ Văn Hạo nhéo nhéo khuôn mặt trơn mềm của nàng, cười trêu chọc: “Ta là đại phu. Không để ta đi xem bệnh cho người ta. Nàng muốn đập bể chén cơm của ta sao?”

“Đúng. Ta muốn đập bể chén cơm đại phu của ngươi nhưng ta sẽ cho ngươi một chén vàng khác. Ngươi đang ở Ngũ Vị đường làm đại phu, chỉ có thể cứu chữa được một số ít người bệnh. Bây giờ ngươi giúp ta trị vì quốc gia, có thể cứu vớt được trăm ngàn vạn người trong thiên hạ. Trước kia ngươi là y nhân. Bây giờ ta muốn ngươi là y quân, chữa khỏi căn bệnh của quân đội Đại Tống chúng ta”.

Đỗ Văn Hạo trịnh trọng gật đầu nói: “Thao Thao, nàng yên tâm. Ta là đại phu chữa bệnh cho người đời, là một đại phu tốt. Chữa trị bệnh nhũng cho quân đội, ta cũng nhất định là một đại phu tốt, một đại phu ưu tú làm nàng thoả mãn”.

Cao Thao Thao ôm Đỗ Văn Hạo, hôn hắn nói: “Tất cả ta đều nhờ vào ngươi”.

“Dựa vào sự cố gắng của hai chúng ta”.

“Ừ!” Cao Thao Thao trịnh trọng gật đầu: “Sau này ngươi không cần ở Ngũ Vị đường nữa. Nơi ấy gi­ao cho mấy người Tiền Bất Thu. Ta sẽ cho ngươi một toà phủ lớn, được không?”

“Được. Phủ đệ nàng cho ta nhất định là không chê được” Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: “Nàng chuẩn bị cho ta ở đâu?”

“Ở đằng sau Hoàng cung, cùng với hai toà Thiên Ba phủ của Dương gia và phủ đệ của Tể tướng Vương Gi­ai. Bên trái là Thiên Ba phủ, bên phải là phủ Tể tướng. Nơi đó rất rộng lớn, lớn hơn rất nhiều lần so với Thiên Ba phủ của Dương gia và phủ đệ của Vương Tể tướng. Tu sửa đã hai năm, cũng sắp hoàn thành”.

“Hả? Tu sửa hai năm? Nhất định lúc trước tu sửa không phải cho ta. Là của ai vậy?”

“Trước kia chuẩn bị cho Nhan nhi. Nó nói Ung Vương phủ của nó quá nhỏ, cả ngày hắn ầm ĩ nói muốn ta cho hắn một toà phủ đệ khác ở sau Hoàng cung. Ta đồng ý. Hiện tại nó đã nổi điên, hơn nữa cả đời này phải thủ hộ lăng của Hoàng huynh, không dùng toà phủ đệ này nữa. Ta thưởng cho ngươi”.

Đỗ Văn Hạo ngượng ngùng nói: “Đây là phủ của vương gia. Ta chiếm dụng không tốt lắm”.

“Hiện tại vẫn chưa tu sửa xong, lại chưa có treo biển. Ai dám nói đây là phủ Vương gia. Chỉ cần treo biển Đại tướng quân thì không phải là phủ Đại tướng quân sao? Nếu như ngươi. Nếu như người ta nghĩ đó là phủ Vương gia vậy ngươi cứ lo liệu đi, giúp đỡ ta, ngày nào đó ta sẽ phong ngươi làm Vương gia, chẳng phải xứng đôi sao?”

“Hãy từ từ. Ta vẫn còn rất trẻ. Từ quan Đề Hình tứ phẩm thăng thẳng lên tam nha Đô Kiểm Điểm chính nhị phẩm, còn tham gia Tể chấp. Ta vẫn còn chưa có đại công nào. Điều này đã làm rất nhièu người thì thầm vụng trộm sau lưng. Bây giờ nàng nhắc ta làm vương gia, văn võ bá quan trong triều đều không ưa, ta cũng không dám tiếp nhận. Chờ tới khi ta chính thức hoàn thành mấy đại sự. Ít nhất có thể cải cách quân đội thành công, đánh thắng mấy trận chiến lớn, có chiến công. Khi đó cất nhắc có lẽ sẽ tốt hơn một chút”.

“Vậy cũng đúng. Nhưng ta tặng ngươi phủ đệ đó ngươi có muốn không?’

“Muốn! Có gì mà không muốn” Đỗ Văn Hạo ôm sat Cao Thao Thao vào lòng hôn lên đôi môi thơm của nàng, ôn nhu nói: “Nàng tặng đồ đạc cho ta, đừng nói là một toà phủ Đại tướng quân tốt như vậy mà ngay cả một cây châm, một khi là thành tâm của nàng ta cũng cất kỹ”.

Cao Thao Thao ngượng ngùng nói: “Vậy là được rồi. Ngày mai ta sẽ hạ chỉ ban toà phủ đẹ đó cho người là phủ Đại tướng quân, cũng yêu cầu đẩy nhanh tiến độ, tranh thủ hoàn thành sớm để ngươi có thể chuyển vào. Ngươi cũng nên bớt chút thưòi gi­an đi xem một chút. Hãy dựa vào yêu cầu mà có điều chỉnh, nhân lúc có thợ cũng nên sửa sang cẩn thận’.

“Được. Cám ơn Thao Thao của ta đã tặng ta một toà phủ đệ lớn”.

Cao Thao Thao cười hì hì nói: “Thật ra ta cũng có tư tâm. Toà phủ đệ kia ở ngay sau Ngự hoa viên của Hoàng cung. Khoảng cách rất gần. Sau này ta gọi ngươi, đi vào lối cửa sau rất thuận tiện. Ngươi ở gần như vậy thì cũng giống như đang ở bên cạnh ta, trong lòng ta càng yên tâm hơn”.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo vô cùng ấm áp khi nghe nàng nói giọng si tình như vậy, hắn nhẹ nhàng nói: “Đúng vậy. Nàng nghĩ thật chu đáo. Sau này mỗi khi ta nghĩ đến nàng, ta vào Hoàng cung với nàng cũng rất thuận tiện”.

Cao Thao Thao lại ôm cổ Đỗ Văn Hạo thân mật một hồi lâu rồi mới ôn nhu nói: “Thôi được. Ngày hôm nay cũng rất mệt mỏi rồi. Ngươi hãy về sớm một chút nghỉ ngơ. Bắt đầu từ ngày mai ngươi sốc sức giúp ta làm chuyện đó. Nhất định phải làm tốt. Trước khi ngươi đề xuất biện pháp cải tạo quân đội, ngươi không cần phải tới lâm triều. Hãy tập trung tinh lực làm việc này”.

“Được” Đỗ Văn Hạo suy nghĩ rồi nói: “Có một vài chuyện vẫn cần phải có ý chỉ của nàng”.

‘Nói đi” Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo vẻ nồng nàn: “Chuyện gì ta cũng đồng ý với ngươi”.

“Đừng gấp gáp. Ta vẫn chưa nói. Nếu như ta đòi đi giết người phóng hoả nàng cũng đồng ý sao?”

“Đồng ý! Hì hì. Ngươi là người có tấm lòng nhân hậu, sẽ không bao giờ làm những chuyện thương thiên hại lý. Điều này ta rất yên tâm. Nếu ngươi đòi đi giết người phóng hoả, nhất định ngươi có lý do của mình vì vậy ta cũng đồng ý”.

Đỗ Văn Hạo thực sự cảm động: “Thao Thao, cám ơn nàng tin tưởng ta như vậy. Ta sẽ không phụ lòng tín nhiệm của nàng”.

“Ừ. Chuyện gì? Nói đi”.

“Tỷ lệ chết của trẻ mới sinh của Đại Tống chúng ta cực kỳ cao. Lần này ta đi tuần y phát hiện phương pháp đỡ đẻ của các bà đỡ của các địa phương rất lạc hậu. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu là hài nhi chết sau khi sinh. Mặc khác còn nhiều chứng bệnh đau bụng cấp. Các loại bệnh tật của người bệnh thường gây ra đau bụng. Bây giờ các đại phu chỉ dùng thuốc chén để điều trị trong khi đó rất nhiều trường hợp đau bụng cấp cần phải mổ. Ngoại trừ ta ra không còn ai có thể thực hiện loại giải phẫu này”.

“Ta hiểu. Ngươi cứ nói thẳng suy nghĩ của ngươi”.

“Ta muốn đồng thời kiêm nhiệm Đề Cử Thái y cục (cục trưởng), tiến hành cải cách giảng dạy của cục Thái y. Các gi­ao sinh của Thái y cục tiếp nhân một số tri thức ngoại khoa cơ bản cùng với phương pháp đỡ đẻ mới và một số loại giải phẫu ngoại khoa đơn giản. Sau này bọn họ tới dạy học ở các cục y học ở các nha môn thì có thể phổ cập phương pháp đỡ đẻ mới cùng với các kiến thức cơ bản của giải phẫu ngoại khoa. Như vậy có thể làm giảm rất lớn tỷ lệ hài nhi chết khi sinh ra cùng tỷ lệ chết của người trưởng thành do đó nâng cao được tuổi thọ của người dân Đại Tống chúng ta. Hai điều này một giảm, một tăng làm tốc độ tăng trưởng của dân cư Đại Tống nhanh hơn, không chỉ có thể cung cấp một lượng lớn sức lao động mà còn bổ sung một nguồn binh lính dồi dào. Đây chính là một biện pháp hữu hiệu của binh cường. Ta đi tuần y được một năm đã điều tra đầy đủ. Người học hai hạng mục kỹ thuật này ở các nơi đã trở thành một xu thế, người người nối tiếp nhau không dứt. Kết quả đã chứng minh: Phương pháp đỡ đẻ mới cùng kiến thức ngoại khoa cơ bản của ta đã giúp làm giảm tỷ lệ hài nhi mới sinh chết cùng với tránh gây ra tử vong đối với những trường hợp ngoại thương. Rõ ràng rất có hiệu quả. Điều này không cần phải nghiên cứu, có thể áp dụng được”.

“Thật tốt quá. Ta hoàn toàn đồng ý. Đây là biện pháp tốt làm nước mạnh binh cường” Cao Thao Thao hưng phấn nói. “Ta hoàn toàn tin tưởng lời ngươi nói. Ta cũng nghe nói ngươi tổ chức các lớp bồi dưỡng đỡ đẻ ở kinh thành phủ Khai Phong này rất được hoan nghênh. Các bà đỡ trải qua việc bồi dưỡng của Ngũ Vị đường các ngươi được các bà đỡ trong toàn thành tranh nhau mời, giá tiền tăng lên gấp bội. Phẫu thuật chữa thương chính là tuyệt kỹ của ngươi, ngươi muốn hiến dâng ra để cứu tính mạng dân chúng. Ta thay mặt dân chúng cám ơn ngươi”.

“Ha ha ha, không cần cám ơn. Tuy ta chuẩn bị dạy kỹ thuật phẫu thuật chữa thương ở Thái y cục nhưng đó vẫn chỉ là những điều cơ bản. Những phương pháp cao thâm của kỹ thuật này không phải cứ dạy là học được. Sẽ phải học từ từ, trước tiên học cơ bản, từ trong đó lựa chọn ra những y giả trẻ tuổi xuất sắc, y đức cao thượng, học giỏi ta sẽ tự tay thu nhận bọn họ làm đồ đệ, truyền thụ thần kỹ cho bọn họ”.

“Tốt. Cứ tiến hành từng bước một có chất lượng mới có thể vững chắc. Rất tốt, ngày mai ta sẽ hạ thánh chỉ phong ngươi làm Đề Cử Thái y cục”.

“Cám ơn Thao Thao” Đỗ Văn Hạo hôn nàng nói: “Nhưng mà Thái y cục chỉ truyền dạy những kiến thức liên quan, còn những dược phẩm, thiết bị có liên quan phải mua ở Ngũ Vị đường của ta. Đây không thể là cống hiến miễn phí. Hì hì hì”.

“Đó là đương nhiên. Hẳn cũng không nên để ngươi vất vả kiếm tiền”.

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: “Không phải ta vì tiền. Lương tháng của quan nhị phẩm Đô Kiểm Điểm cũng đủ cho người nhà ta. Ta chỉ muốn lập nên ý thức về nhãn hiệu, tương lai sẽ thành lập chế định bảo vệ bản quyền tri thức”.

“Nhãn hiệu? Bản quyền tri thức?” Đương nhiên Cao Thao Thao chưa từng nghe qua những thuật ngữ hiện đại nanỳ nên nàng nghi ngờ hỏi.

“Giống như là phát kiến ra một cái gì đó tốt. Tất cả mọi người đổ xô tới mua. Thứ tốt đó chỉ do nàng làm, những người khác không được. Ví dụ như nàng vẽ một bức tranh, trên bức tranh đó có một vòng tròn. Bên trong vòng tròn ghi: Ngũ Vị đường. Bức tranh đó được dán trên vật nàng làm ra. Thứ này gọi là nhãn hiệu. Người khác nhìn thấy nhãn hiệu này thì biết đó là do Ngũ Vị đường làm ra, biết tên của cửa hiệu, sẽ không mua phải hàng giả mạo của người khác làm ra”.

“Nếu như người khác cũng bắt chước dán cái nhãn gì đó lên thì phải làm thế nào?”

“Chỉ cần nàng ban một đạo thánh chỉ nói rõ Ngũ Vị đường của ta sản xuất vật này. Ai dám giả mạo nhãn hiệu Ngũ Vị đường của ta thì sẽ bị đánh bằng roi, phạt tiền, tống ngục, lưu đày vân vân. Người khác sẽ không dám giả mạo. Điều tốt của quy định này là có thể bảo vệ được sản phẩm tốt, cổ vũ sáng tạo khiến cho những người tài năng được hưởng lợi thực tế”.

“Nghe ngươi nói ta cũng động tâm” Cao Thao Thao mỉm cười nói. “Điều này rất đơn giản. Ngày mai ta sẽ hạ một đạo thánh chỉ như vậy. Muốn viết nội dung gì ngươi cứ định ra, gi­ao cho bọn họ. Ta cho bọn họ truyền đi”.

Chương 406: Việc vui trong nhà

Đỗ Văn Hạo nói: “Hay. Hãy lấy Ngũ Vị đường của ta là chiêu bài thí điểm. Chờ sau khi thí điểm thành công, tích luỹ kinh nghiệm, từng bước mở rộng tới một số sản phẩm của các cửa hiệu lâu đời, cũng cần phải ban hành một số pháp lệnh bảo vệ. Sau này không cần phải ban thánh chỉ cho từng sản phẩm”.

Cao Thao Thao nói: “Cái này ta không hiểu ngươi cứ quyết định là được. Muốn ta làm gì cứ nói, ta cho người làm cái đó. Bảo vệ danh dự của các cửa hiệu lâu đời, phòng ngừa thương nhân bất lương giả mạo. Ta tin tưởng biện pháp bảo vệ các cửa hiệu lâu đời của ngươi nhất định không phải là một chủ ý ôi thiu”.

“Ha ha. Có phải là chủ ý ôi thiu hay không vẫn còn rất khó nói. Có một vĩ nhân nói: Thực tế chính là tiêu chẩn duy nhất kiểm nghiệm chân lý. Ai nói cũng không tính, thực hiện tốt mới tính”.

“Vĩ nhân này nói không sai” Tuy Cao Thao Thao không hiểu lắm lời của Đỗ Văn Hạo nhưng đại khái cũng hiểu một chút. Nàng cười hì hì nhìn hắn, thầm nghĩ câu nói này không phải là của cái gọi là vĩ nhân gì đó nếu không tại sao mình chưa bao giờ nghe nói. Nhất định lại là do Đỗ Văn Hạo bịa ra nhưng cũng không hỏi.

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Ta muốn toàn lực ứng phó chỉnh đốn quân đội. Thái y cục nhất định phải có một người tín nhiệm, có nghiệp vụ giúp ta mới được”.

“Vậy được! Ta phong cho đồ đệ của người là Tiền Bất Thu làm Cục phán Thái y cục để hắn giúp ngươi.

Đúng rồi, không phải còn có bà đỡ cùng nữ quan giáo học. Ta phong cho phu nhân và tiểu thiếp của ngươi trước kia làm bà đỡ phủ Khai Phong làm y quan, thế nào?”

“Hay!” Đỗ Văn Hạo mừng rỡ, hắn hôn nàng nói: “Thao Thao, nàng thật tốt. Ta thay Vũ Cầm và Phi Nhi cám ơn nàng”.

“Cám ơn cái gì? Suy nghĩ của ngươi cũng chính là suy nghĩ của ta”.

“Vậy coi như là chúng ta tâm linh tương thông”.

Thái Hoàng Thái Hậu cười to nói: “Còn gì khác nữa không?”

“Còn nữa” Đỗ Văn Hạo nói tiếp: “Muốn học phẫu thuật chữa bệnh nhất định phải tiến hành giải phẫu thi thể vì vậy ta muốn thỉnh nàng hạ một đạo thánh chỉ yêu cầu các địa phương sau này xử tử phạm nhân không được phép cho người lãnh thi thể cũng với các trường hợp tử vong vì thiên tai cũng không cho người lãnh về. Tất cả các thi thể phải dùng khối băng niêm phong cất vào kho sau đó cấp cho Thái y cục, ta muốn dùng để giải phẫu dạy học. Sau khi thi thể sử dụng xong chúng ta sẽ tiến hành hoả táng”.

Cao Thao Thao gật đầu nói: “Điều này không có vấn đề gì. Dù sao những thi thể không có người nhận cũng đều hoả thiêu hay là chôn lung tung ở các nghĩa địa. Nay các ngươi dùng để dạy học y thuật, học xong hãy cứu càng nhiều người càng tốt. Đây là chuyện tốt. Ngày mai ta sẽ hạ chỉ thông báo các nơi. Còn chuyện gì khác không?”

“Đúng vậy. Có khả năng công tác điều tra của ta có liên quan đến tam tỉnh lục bộ cùng các bên liên quan khác. Ta cần bọn họ phối hợp cung cấp các tư liệu”.

“Ta hiểu. Ta lập tức ghi cho ngươi một đạo thủ dụ, lệnh cho cả triều đình cùng nha môn các địa phương đều phải nghe lệnh của ngươi, thuận tiện cho việc điều tra của ngươi. Thế nào?”

Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: “Vậy thì tốt quá”.

Cao Thao Thao gọi Tiêu công công tới, mang giấy bút. Nàng cầm bút viết một đạo thủ dụ, đóng đại ấn, đưa cho Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo vui mừng phấn khởi, hai tay cung kính nhận lấy, cẩn thận cất vào trong người rồi cáo từ ra về.

Ngay khi Đỗ Văn Hạo ngồi kiệu ra tới cửa cung Khôn Ninh. Một trong hai nội thị gác cổng tiến lên trước, khom người nói: “Đại tướng quân, chuyện dạy học cho Hoàng Thượng thì nên làm thế nào bây giờ?”

“Ha ha. Ngươi hỏi ta ta hỏi ai bây giờ?” Tâm tình Đỗ Văn Hạo rất tốt nên tuỳ tiện vui đùa nhưng khi nhìn thấy vẻ thắc thỏm lo âu của viên nội thị hắn mới ý thức được rằng bây giờ bản thân mình không còn là một Ngự y nho nhỏ mà đường đường là quan nhị phẩm Tể chấp, tam nha Đô Kiểm Điểm. Bất kỳ lời nói giỡn nào cũng khiến người khác tin là thật. Nụ cười vụt tắt, hắn nói tiếp: “Ngươi nên đi tìm người phụ trách việc dạy học cho Hoàng Thượng đi. Ngươi tìm ta, ta thực sự không biết”.

Viên nội thị vội vàng nói: “Thái Hoàng Thái Hậu đã có dặn dò việc dạy học cho Hoàng Thượng do ngài phụ trách”.

“Ta?” Đỗ Văn Hạo ngẩn người: “Vừa rồi ta ở chỗ Thái Hoàng Thái Hậu ra, người không nói với ta chuyện này”.

“Điều này đúng là do Thái Hoàng Thái Hậu nói. Tiểu nhân cũng không dám giả truyền thánh chỉ. Ban chiều khi Hoàng Thượng đi gặp Thái Hoàng Thái Hậu bẩm báo về chuyện dạy học, Thái Hoàng Thái Hậu đã nói vậy”.

“Thật vậy sao?” Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ: Lúc trước chỉ nói chuyện thất bại chiến trận giữa Đại Tống cùng Tây Hạ và Đại Liêu, Cao Thao Thao rất phẫn nộ, trong cơn tức giận của mình chỉ e nàng đã quên chuyện này nên hắn nói tiếp: “Nếu là chỉ dụ của Thái Hoàng Thái Hậu, đương nhiên phải tuân theo. Hoàng Thượng phải học những gì?”

“Tứ thư ngũ kinh và các loại nghi lễ cung đình”.

“A. Bây giờ đã muộn rồi. Hãy để ngày mai hẵng tính. Sáng mai bản tướng quân đi gặp Hoàng Thượng, mời hai vị thầy dạy khác của Hoàng Thượng cùng thương nghị”.

Người nội thị kia vội nói: “Đại tướng quân, chỉ e sáng mai không được”.

“Vì sao?”

“Sáng mai ngài phải thảo luận chính sự ở Chính sự đường. Đây là công văn của nha môn Tể tướng gửi cho ngài” Nói xong hai tay viên nội thị cầm công văn, khom người đưa cho Đỗ Văn Hạo.

“Ồ?” Đỗ Văn Hạo nhận lấy, mở ra lấy ra một tờ giấy, mở xem thì ra đó là một giấy thông báo hội họp, thông báo cho hắn sáng sớm ngày mai, giờ thìn tới nha môn Tể tướng thương nghị sự vụ quân chính.

Lần đầu tiên Đỗ Văn Hạo nhận được thông báo hội họp nên trong lòng rất cao hứng. Sáng sớm ngày mai là lần đầu tiên hắn tham gia thương nghị sự vụ quân chính, thực hiện chức năng Tể chấp của mình, trong lòng niềm vui không khỏi nhân lên. “Sáng mai phải họp thương nghị việc quân chính. Điều này không thể chậm trễ. Vậy hãy để chiều ngày mai, hay tối ngày mai, thế nào?”

Viên nội thị cười nói: “Đại tướng quân, chỉ sợ là không chờ đợi được. Nghe nói trước kia Hoàng Thượng còn là Hoàng tử rất lười biếng, không chịu học hành, đi ra ngoài chơi lâu mới quay về, Thái Hoàng Thái Hậu biết được, dùng thước đánh vào lòng bàn tay Hoàng Thượng vì vậy Hoàng Thượng bây giờ sợ chậm trễ việc học nên mới cho tiểu nhân mời Đại tướng quân tới thương nghị chuyện học sau này”.

“Chẳng phải những thầy dạy của Hoàng Thượng đã định rồi sao? Không được, lúc sáng sớm, hai sư bảo Lục Điền cùng Thái Các đã bị bãi thay mới. Mặc dù đã chọn hai người sư bảo Triệu Ngạn cùng Phó Nghiêu Du nhưng vẫn còn chưa thương nghị phân công nên không thể dạy học được”.

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một chút rồi nói: “Bây giờ trời cũng đã muộn. Lúc này mời nhị vị đại nhân tới thương nghị cũng không tiện. Ừ. Như này đi, ngươi hãy quay về bẩm báo Hoàng Thượng, thỉnh Hoàng Thượng sáng mai cứ xem lại những bài học ngày trước. Chiều mai ta muốn khảo sát xem Hoàng Thượng lúc trước học thế nào. Đợi ngày mai sau khi ta tìm nhị vị đại nhân thương nghị, xác định lại công việc đảm nhiệm dạy học”.

Viên nộ tị vội vàng khom người trả lời.

Đỗ Văn Hạo thưởng cho hai viên nội thị một ít bạc vụn. Hai viên nội thị vui mừng, suý chút nữa quỳ xuống dập đầu tạ ơn.

Đỗ Văn Hạo vui mừng phấn chấn mới ngồi kiệu rời khỏi Hoàng cung, quay trở về Ngũ vị đường.

Hôm nay đã xảy ra nhiều chuyện. Đỗ Văn Hạo vẫn chưa kịp thích ứng nên hắn cười khúch khi đi vào nhà. Anh Tử hiếu kỳ hỏi: “Thiếu gia, nhìn người phấn chấn như vậy, hẳn là có chuyện tốt?”

“Đương nhiên là có chuyện tốt. Chuyện rất tốt. Ha ha ha. Mau đi mời phu nhân và các vị nãi nãi, Trầm sư gia, Kha cô nương, Tiền Bất Thu, Diêm Diệu Thủ, Khờ Đầu tới chánh đường. Thiếu gia ta có việc muốn công bố”.

“Vừa hay phu nhân cũng có chuyện muốn nói với người”.

“Thật vậy sao? Có chuyện gì vậy?’

“Nô tỳ cũng không dám mau miệng. Đợi lát nữa phu nhân sẽ cho thiếu gia biết. Hì hì”.

“Ngươi tiểu nha đầu này. Dám nói dối với ta. Xem ta trị ngươi thế nào” Nói xong Đỗ Văn Hạo thò tay muốn ôm Anh Tử. Anh Tử cong người né tránh, cười hì hì chạy đi.

Bốn phu nhân của Đỗ Văn Hạo, Kha Nghiêu cùng mấy người Trầm sư gia, Tiền Bất Thu nhanh chóng đi vào đại sảnh. Sau khi mọi người ngồi xuống nhìn thấy sắc thái phấn chấn của Đỗ Văn Hạo thì rất hiếu kỳ.

Đỗ Văn Hạo ho nhẹ một tiếng rồi nói: “Mọi người, sáng hôm nay bản tướng quân lại thăng quan. Ha ha. Thái Hoàng Thái Hậu ân điển thăng ta làm tam nha Đô Kiểm Điểm, hàm nhị phẩm, còn đặc biệt xếp ta vào Tể chấp tham gia xử lý sự vụ quốc gia. Ha ha ha”.

Mọi người kinh ngạc, vui mừng khi nghe tin này. Lúc trước Đỗ Văn Hạo đã là tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, tòng nhị phẩm. Bây giờ thăng lên chính nhị phẩm Đô Kiểm Điểm. Nhưng điều nay không thực sự làm mọi người kinh ngạc vui mừng. Điều làm bọn họ kinh ngạc chính là Đỗ Văn Hạo được tham gia Tể chấp. Nếu trong xã hội hiện đại thì tương đương với thường uỷ viên bộ chính trị, thuộc về một tập đoàn lãnh đạo cao nhất của đất nước nên ai nấy đều đứng dậy chúc mừng.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo vui như hoa nở nhưng hắn không thể biểu lộ sự đắc ý quá mức trên gương mặt mình. Hắn chỉ mỉm cười chắp tay đáp lễ: “Đều là ân điển của Thái Hoàng Thái Hậu, ta xấu hổ không dám nhận”.

Kha Nghiêu cười hì hì nói: “Ca ca. Ca lại khiêm tốn rồi. Chức vị này nên sớm để người ngồi. Ca tham gia vào Tể chấp cũng hoàn toàn đủ tư cách”.

Đỗ Văn Hạo vội vàng khoát tay nói: “Quá khen, quá khen! Ngoại trừ việc đảm nhiệm Tể chấp, Thái Hoàng Thái Hậu còn muốn ta kiêm nhiệm Đề Cử Thái y cục, phụ trách công việc của Thái y cục” Đỗ Văn Hạo quay đầu nói với Tiền Bất Thu: “Bất Thu, Thái Hoàng Thái Hậu đã nói muốn phong ngươi làm Cục phán Thái y cục (phó cục trưởng) để ngươi giúp đỡ ta trong việc cải tiến chế độ dạy y thuật của Thái y cục. Ngươi có hứng thú không?”

Tiền Bất Thu cười khom người nói: “Đương nhiên là có hứng thú. Sư phụ có rất nhiều thần kỹ. Trên đường tuần y đã dạy không ít người. Nếu có thể duy trì lâu dài hệ thống truyền thụ của Thái y cục thì sẽ rất tốt. Lão hủ nhất định sẽ dốc sức phụ tá sư phụ, làm tốt công việc của Thái y cục”.

“À, đúng rồi. Cầm nhi, Phi nhi. Thái Hoàng Thái Hậu còn nói muốn phong hai người là y quan Thái y cục, chuyên phụ trách giảng dạy môn nữ khoa. Hai người có nguyện ý không?”

Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi vui mừng phấn chấn, cả hai liếc nhìn nhau đứng dậy, đáp lễ. Bàng Vũ Cầm nói: “Tướng công, chúng thiếp nguyện ý, nhất định sẽ trợ giúp tướng công dạy tốt môn nữ khoa”.

“Ừ. Trách nhiệm cải cách chế độ học tập của Thái y cục ta nhờ cả vào mấy người. Thật ra chỉ cần thực hiện theo chương trình chúng ta thực hiện trên đường tuần y là được. Đúng rồi. Thái Hoàng Thái Hậu còn đồng ý sau này những người chết đói, xử trảm không được để người nhà lãnh về. Toàn bộ thi thể đưa tới Thái y cục, dùng vào việc tiến hành giải phẫu thi thể dạy học. Ba người cũng đã học được nhiều kiến thức về giải phẫu, nhất định có thể đảm đương được”.

Kha Nghiêu nói: “Vậy Ngũ Vị đường do ai cai quản?”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Đừng có gấp. Hãy nghe ta sắp xếp. Ta trở thành Tể chấp. Bất Thu, Cầm nhi, Phi nhi cùng tới Thái y cục chỉ e không còn thời gi­an cai quản Ngũ Vị đường. Sau này Ngũ Vị đường gi­ao cho hai người Khờ Đầu quản lý. Những năm qua Diêm Diệu Thủ đi theo ta, y thuật cũng tiến rất xa, đặc biệt là trong việc chữa trị vết thương lở loét cùng xương cốt, hoàn toàn có thể đảm nhiệm, nội khoa hắn cũng có nhiều tiến bộ. Trong năm qua y thuật của Khờ Đầu cũng tiến bộ không ngừng. Hai người các ngươi phụ trách Ngũ Vị đường nhất định không có vấn đề gì. Nếu gặp các chứng bệnh phức tạp hãy để sư phụ các ngươi xử lý. Ngũ Vị đường chính là chiêu bài của chúng ta. Nhất định phải trông nom cẩn thận”.

Diêm Diệu Thủ cùng Khờ Đầu vội vàng đứng dậy chắp tay thi lễ nhận lời.

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Sau này thuốc mê, thuốc nước trừ độc, dụng cụ giải phẫu ngoại khoa sử dụng trong ngoại khoa của cả nước. Tất cả đều phải nhập hàng của chúng ta. Thái Hoàng Thái Hậu đã đồng ý ban thánh chỉ bảo vệ tên cửa hiệu Ngũ Vị đường của chúng ta, không để cho người khác làm giả mạo xâm hại. Sau này Ngũ Vị đường không chỉ là một dược đường mà còn là một công ty y dược. Tất cả các công việc sản xuất thuốc cùng khí tài và việc tiêu thụ sản phẩm đều do Thanh Đại phụ trách. Kha Nghiêu, muội theo trợ giúp, được không?”

Lâm Thanh Đại cùng Kha Nghiêu liếc nhìn nhau, rồi cùng mỉm cười gật đầu đồng ý.

Lâm Thanh Đại hỏi: “Vậy chúng ta có nên mua lại nhà cửa để chuyên dùng sản xuất dược phẩm cùng dụng cụ không?’

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Không cần. Sản xuất ở ngay đây”.

Lâm Thanh Đại nói vẻ khó xử: “Nhà của chúng ta cũng không nhỏ. Nhưng nếu chúng ta sản xuất dược phẩm cùng dụng cụ ở ngay chỗ này, cũng rất phiền toái. Đương nhiên nếu như cả trang viện này để làm nơi sản xuất cũng đủ. Nhưng chúng ta phải chuyển chỗ ở”.

“Đúng, chúng ta sẽ chuyển đi. Nơi này chỉ để làm nơi chữa bệnh cùng sản xuất dược phẩm cùng dụng cụ”.

Mọi người kinh ngạc khi nghe nói vậy. Kha Nghiêu nhanh mồm nhanh miệng hỏi: “Ca, chúng ta chuyển đi đâu? Lại mua nhà mới sao? Nói trước muội không muốn tới ngôi quỷ trạch đó đâu”.

“Ai bảo muội tới quỷ trạch?” Đỗ Văn Hạo cười nói: “Chúng ta có chỗ rồi. Thái Hoàng Thái Hậu ân điển nói trước đây ta có chút công lao nên thưởng công tặng cho ta một toà phủ đệ mới. Toà phủ đệ đó ở ngay sau Hoàng cung, bên cạnh Thiên Ba phủ của Dương gia và phủ Tể tướng của quan Tể tướng Vương Gi­ai. Toà phủ đệ này tu sửa cũng sắp xong, ta nghe nói cũng không tệ lắm. Thái Hoàng Thái Hậu nói chúng ta hãy bớt chút thời gi­an đi xem qua một chút, có chỗ nào không vừa mắt thì cho tu sửa lại để sau này được như ý muốn”.

Lập tức chúng nữ vui mừng tung tăng như chim sẻ. Nữ nhân chính là vậy. Việc chuyển nhà mới luôn luôn háo hức như vậy.

Kha Nghiêu hỏi Trầm sư gia: “Ai! Sư gia, ngươi có biết toà phủ đệ này không?”

Trầm sư gia vuốt chòm râu bạc cười nói: “Tất nhiên biết. Toà phủ đệ này trước kia là tân Vương phủ của Ung Vương gia, nghe nói sắp sửa xong, không ngờ bây giờ lại tặng tướng quân”.

Kha Nghiêu nói: “Toà phủ đệ này có lớn không? So với trang viện Ngũ Vị đường này của chúng ta thì thế nào?”

“Ha ha. Không thể so sánh như vậy được. Muội hãy nghĩ xem. Con phố ngay sau Hoàng cung, một nửa là phủ đệ. Hơn nữa hai bên là Thiên Ba phủ của Dương gia và phủ đệ của Vương Tể tướng. Nói cách khác phủ đệ này của Đại tướng quân, lớn hơn nhiều so với phủ của Vương Tể tướng và Thiên Ba phủ của Dương gia. Nhưng ta vẫn chưa vào trong nên không biết bên trong như thế nào”.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Kha Nghiêu, đừng nóng vội. Sáng sớm mai, muội và các tẩu tử đi xem qua một chút không phải sẽ biết sao? Thôi được, chuyện của ta đã nói xong. Đúng rồi, Vũ Cầm, lúc nãy Anh Tử nói nàng có chuyện muốn nói với ta. Ha ha. Gần đây nhà chúng ta liên tiếp có chuyện vui. Chuyện gì vậy?”

Bàng Vũ Cầm mỉm cười nói: “Lúc chiều, phu nhân của Vương Tể tướng tới nói hôm nay quốc tang đã kết thúc. Lệnh cấm tiệc rượu, cấm yến tiệc kết hôn đã kết thúc vì vậy cũng nên thảo luận chuyện hôn nhân. Thiếp cảm thấy cũng đúng. Hai người thiếp đã tra xét Hoàng lịch rồi thống nhất vào đầu tháng sáu. Tướng công thấy thế nào?”

Nghe nói tới chuyện này, mặt Đỗ Văn Hạo nóng lên, liếc trộm mấy phu nhân của mình, thấy mấy nàng nhìn mình cười mà như không phải cười, càng cảm thấy ngượng ngùng khó xử, hắn ngượng ngùng nói: “Chuyện này cứ do phu nhân làm chủ là được”.

“Vậy cứ quyết định vào đầu tháng sáu. Hôn lễ nghênh đón tân nương xuất giá bái thiên địa”.

“Ừ” Đỗ Văn Hạo lại nhớ tới dung nhan tuyệt thế của Vương Nhuận Tuyết, trong lòng hắn không khỏi nhảy loạn lên. Đặc biệt mùi thơm kín đáo trên cơ thể nàng. Mới nghĩ tới đó dục hoả đã bốc lên, không thể kiềm chế. Quả thực làm hại cái mạng già này.

Đỗ Văn Hạo lắc lắc đầu. Bây giờ không phải là lúc nghĩ tới chuyện nhi nữ thường tình, có rất nhiều chuyện cần hắn xử lý. Hắn nhìn Lâm Thanh Đại mỉm cười nói: “Thanh Đại, còn có một việc phiền nàng”.

Lâm Thanh Đại cười nói: “Chuyện tốt có thể làm. Chuyện xấu xin miễn”.

Tất cả mọi người cùng cười. Đỗ Văn Hạo nói: “Không phải chuyện tốt, cũng không phải chuyện xấu mà là chuyện khổ sai”.

“Khổ sai? Được, ta không sợ khổ”.

“Vậy là được. Hãy dạy ta luyện kiếm”.

Lâm Thanh Đại ngạc nhiên nói: “Luyện Kiếm sao? Chàng là Đại tướng quân toạ trấn trướng trung quân. Trù tính việc quân trong trướng, không cần phải anh dũng xông lên giết địch. Luyện kiếm làm gì?”

Kha Nghiêu ở bên cũng che miệng nói: “Đương nhiên là để phòng thân. Không đúng. Ca, ca có đội thân binh bảo vệ. Ca còn đề phòng cái gì?”

“Phòng muội” Đỗ Văn Hạo trêu chọc nàng: “Phòng muội cắn ta. Ha ha ha”.

“Hay lắm. Ca dám mắng muội là con chó nhỏ. Được, hãy chờ coi!”

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: “Ta thân là tam nha Đô Kiểm Điểm, tam nha quản lý và huấn luyện quân đội. Ta là Đại tướng quân, là Đại tướng quân thao luyện binh sĩ, không phải là lãnh binh đánh trận. Ta đi huấn luyện binh sĩ. Trong lúc nhàn dỗi, mọi người muốn ta thể hiện bản lãnh. Ta lại chỉ biết Phân thân thác cốt thủ, cũng không thể thi triển mấy cái đó được. Vậy mất mặt lắm. Ta phải luyện mấy bộ kiếm pháp mới có uy phong”.

Lâm Thanh Đại cười nói: “Vậy được. Chàng muốn học, thiếp dạy cho chàng. Nhưng mà các tướng sĩ của chàng rất có khả năng bộc lộ một chút công phu cưỡi ngựa bắn tên của Đại tướng quân. Chàng nhất định phải luyện tập cái đó mới được”.

“Được. Vậy nàng cứ dạy ta là được”.

“Thiếp không am hiểu lắm về công phu mã đao. Chàng phải tìm sư phụ khác”.

“Vậy thôi cứ tạm bỏ qua cái đó đã. Trước tiên cứ luyện kiếm. Mỗi sáng chàng luyện công nhớ gọi thiếp”.

“Được”.

Kha nghiêu lại nói xen vào: “Ca, ca thân là Đại tướng quân, có biết binh pháp không? Tại sao không tìm lão sư giúp chàng binh pháp?”

Đỗ Văn Hạo đã sớm nghĩ tới vấn đề này nhưng chuyện binh pháp này không phải ngày một ngày hai có thể học được. Không học cũng không được, hắn cũng đang buồn bực vì điều này. Đương nhiên không thể để lộ trước mặt Kha Nghiêu nên nói: “Điều này ta đã có sắp xếp ổn thoả. Mọi chuyện đã nói xong. Mời Trầm sư gia ở lại. Tất cả những người khác lui ra”.

Tất cả mọi người đều lui ra ngoài. Kha Nghiêu là người đi sau cùng, nàng khép cửa đại sảnh lại.

Đỗ Văn Hạo lấy từ trong người thông báo của nha môn Tể tướng đưa cho Trầm sư gia nói: “Sư gia, ngươi hãy xem giúp ta đây là cái gì”.

Trước đây Trầm sư gia đã phụ tá cho hai Tể tướng. Đương nhiên không còn lạ lẫm với công giản này. Ông ta nhìn lướt qua rồi khom người, chắp tay nói: “Tướng quân. Đây là công giản thương nghị sự vụ quân chính của nha môn Tể tướng”.

“Ta hiểu. Ý của ta là mỗi lần thương nghị đều phát đồ chơi này sao?”

Chương 407: Chính sự đường thảo luận chính sự

Trầm sư gia nói: “Cũng không phải vậy. Thương nghị quân chính của Tể chấp là đại sự. Đúng hạn là họp. Bình thường cứ mười ngày họp một lần. Cứ mỗi tháng hội nghị thường kỳ của Tể chấp vào mùng mười, hai mươi và ngày ba mươi.

Mỗi khi có công việc đặc biệt phải xử lý liền thì lập tức triệu tập hội nghị. Khi đó sẽ do Tể tướng triệu tập, phát ra thông báo hội nghị như này. Có lẽ thời gi­an trước đây do bận rộn lo việc tang ma cùng với việc người kế vị ngôi vị Hoàng Đế nên còn đọng lại rất nhiều chuyện cần phải xử lý vì vậy phải khẩn cấp giải quyết”.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Ồ, còn lâm triều? Khi nào thì lâm triều?’

“Lâm triều thì vào ngày năm. Ngày mùng năm, mười lăm và hai mươi lăm mỗi tháng ba lần. Khi khẩn cấp có chuyện quan trọng cần thương nghị cũng có thể mở bất kỳ lúc nào. Trước khi mở cũng cần phải có công văn thông báo”.

“Tể chấp chủ trị nghị sự những vấn đề gì? Ta biết chắc chắn đều là những đại sự quân chính. Ngươi có kinh nghiệm phong phú, hãy giúp ta dự đoán ngày mai thảo luận chính sự, có khả năng thương lượng những điều gì để ta chuẩn bị trước một chút”.

“Ừm. Điều này cũng rất khó nói. Bình thường khi Tể chấp thương nghị chuyện chính sự tất cả đều do nha môn Tể tướng quyết định những hạng mục công việc quan trọng cần thương nghị, nghe qua tình hình xử lý một số chuyện đại sự được phân công xử lý. Bây giờ Hoàng Đế mới đăng cơ. Thái Hoàng Thái Hậu nghe báo cáo và quyết định sự việc. Có thể bước tiếp theo là sẽ nghe các báo cáo toàn diện của các vấn đề, hiểu rõ tình hình cơ bản của tất cả các phương diện, có khả năng sẽ sắp đặt giải quyết những chuyện đó”.

“Thái Hoàng Thái Hậu có tham gia hội nghị Tể chấp thảo luận chính sự không?”

“Hình như là không tham gia. Đây là chuyện của Tể chấp. Sau khi Tể chấp thương nghị xong phải bẩm báo lên Hoàng Thượng ân chuẩn. Bây giờ là Thái Hoàng Thái Hậu thẩm định. Nếu như Thái Hoàng Thái Hậu có điều gì không hiểu rõ, hoặc là có ý chỉ khác thì sẽ triệu tập Tể chấp tới điện Văn Đức để hỏi rõ”.

“Đã hiểu” Đỗ Văn Hạo trầm ngâm một lát rồi hắn khẽ nói: “Trầm tiên sinh, ngươi là trợ thủ đắc lực nhất của ta. Lần này có thể thuận lợi đoạt lại binh quyền từ tay hai người Ung Vương gia và Vi Ngạn, tránh khỏi một cuộc chính biến cung đình đổ máu, ngươi đã giúp ta rất nhiều chủ ý quan trọng, công lao rất lớn”.

Trầm sư gia hạ thấp người thi lễ nói: “Tướng quân quá khiêm nhường. Tướng quân thiếu niên xuất anh hùng, tiền đồ xán lạn vô hạn, có thể được phụ tá tướng quân đó chính là vinh hạnh của lão hủ”.

“Ha ha. Thực không dám dấu diếm. Thái Hoàng Thái Hậu gi­ao cho ta một nhiệm vụ gi­an khổ bậc nhất. Đó là ta phải chỉnh đốn lại quân đội Đại Tống sau đó phải tổ chức quân đội Đại Tống thành một đội quân sức mạnh vô địch” Sau đó giọng nói của Đỗ Văn Hạo nhỏ dần: “Thái Hoàng Thái Hậu rất phẫn nộ đối với việc hàng năm Đại Tống chúng ta phải tiến cống Tây Hạ và Đại Liêu. Trong tương lai chúng ta sẽ dụng binh giải quyết vấn đề này”.

Trầm sư gia mỉm cười nói: “Thái Hoàng Thái Hậu chính là nữ lưu anh hùng”.

Đỗ Văn Hạo sửng sốt nói: “Nghe tiên sinh nói những lời này, tiên sinh có ý kiến với kế hoạch của Thái Hoàng Thái Hậu sao?”

“Không dám. Nhưng mà tân Đế mới đăng cơ, tất cả đều hả lòng hả dạ. Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính, rất dễ hiểu việc có ý định sửa trị quân đội này. Nhưng vấn đề là cố tật của quân đội Đại Tống rất nghiêm trọng, không thể dễ dàng giải quyết”.

“Đúng vậy. Vì thế ta mới lãnh giáo tiên sinh. Mặc dù Thái Hoàng Thái Hậu để cho ta đề xuất phương án cải cách, chỉnh đốn quân đội nhưng phải bẩm báo người thẩm duyệt, đồng ý mới tiến hành cải cách một cách dứt khoát”.

Trầm sư gia vuốt chòm râu trắng. Ông ta cúi đầu, tỏ vẻ nhũn nhặn, trầm ngâm một lát mới nói: “Tướng quân có tính toán gì không?”

“Trên đường quay về ta một mực suy nghĩ. Trong ngàn đầu vạn mối nên bắt đầu từ chỗ nào. Suy nghĩ cơ bản là trước tiên phải nắm bắt được tình huống. Chỉ có hiểu được tình hình thực tế mới có thể đề ra phương án thích hợp nhất. Làm việc phải có mục đích rõ ràng. Lúc trước ta ở trong kho tư liệu tam nha chủ yếu đã tìm đọc tình hình chiến sự giữa Đại Tống và Tây Hạ cùng Đại Liêu. Ta muốn dùng lịch sử thê thảm đau đớn để thức tỉnh Thái Hoàng Thái Hậu bừng tỉnh, để người chính thức biết được những văn nhân luôn ca ngợi công đức triều đình chính là chính là tai hoạ của đất nước. Tiền tiến cống hàng năm cho Tây Hạ và Đại Liêu cũng không phải là tặng phẩm mà chính là đi cống, dngf tiền mua hoà bình, làm người hiểu quân đội Đại Tống chúng ta đã rơi xuống mức không thể chịu nổi một trận chiến. Vấn đề chỉ là quân đội Đại Tống chúng ta đã yếu ớt tới mức độ nào, vấn đề cụ thể nào đang tồn tại ta vẫn chưa có một suy nghĩ cụ thể. Vì vậy ta muốn đi xuống dưới tìm hiểu một cách rõ ràng xem đội quân mà ta đang lãnh đạo rốt cuộc có sức chiến đấu hay không, rốt cuộc vấn đề gì đang tồn tại, có thể bảo vệ quốc gia hay không?”

Trầm sư gia lộ vẻ xúc động, ông ta hạ thấp người thi lễ nói: “Thái độ này của tướng quân mới thực sự là thái độ chân chính một người cầm quân cần có. Con đường để binh cường, tiên đế cũng đã thử qua. Tướng quân nên suy xét cái được cái mất của biến pháp binh cường tiên đế đã uỷ thác Vương An Thạch thực hiện, tránh giẫm lên vết xe đổ, giảm việc phải đi đường vòng”.

“Ừ. Ngươi nói rất đúng. Theo ngươi cái được cái mất là gì?”

Trầm sư gia cười nới: “Lão hủ chỉ là một hủ nho, cầm quân không phải sở trường của lão hủ nhưng mà tướng quân đã hỏi. Lão hủ có một số kiến giải vụng về, thỉnh tướng quân tham khảo. Kế sách binh cường của Vương An Thạch có mấy điểm: Thứ nhất: Cắt giảm nhũng binh, chỉnh biên cấm quân cùng Sương quân. Thứ hai là cải tiến chế tạo vũ khí. Thứ ba là huỷ bỏ chiến thuật canh giữ phòng thủ, phổ biến tương binh pháp cùng kết hợp với đội pháp, tăng mạnh quân số. Thứ ta là bảo vệ mã pháp. Thứ năm là bảo giáp pháp (chế độ biên chế hộ tịch ngày xưa để quản lý nhân dân theo nhiều tầng. Một số nhà hợp thành một giáp;một số giáp hợp thành một bảo; giáp có giáp trưởng; mỗi bảo có một bảo trưởng). Xin thứ cho lão hủ nói thẳng phép trị quân binh cường của Vương An Thạch cũng chẳng có gì tốt. Ông ta chỉ đơn giản nói ý nghĩa của biến pháp là: Luyện binh giáp, tích trừ tiền lương, tướng soái chỉ huy nghe lệnh triều đình. Suy nghĩ của ông ta ngoại trừ bảo giáp pháp có hơi mới mẻ còn lại chỉ là luận điệu cũ rích, mà bảo giáp pháp chứng minh là đã thất bại. Thái Hoàng Thái Hậu sẽ nhanh chóng bãi bỏ”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Đúng vậy. Lần trước ta theo tiên đế vi hành, cũng có rất nhiều xúc cảm với bảo giáp pháp. Quy định của pháp này về tội liên đới còn đáng sợ hơn rất nhiều so với tiền triều, khiến cho người người cảm thấy bất an. Dân chúng không được sống yên ổn. Mục đích chính của bảo giáp pháp chính là luyện dân binh. Một khi có chiến tranh có thể chuyển dân binh thành một đội dự bị chiến lược. Mục đích thì rất tốt nhưng vấn đề là binh lính là một công việc đặc thù, phải trải qua huấn luyện lâu dài mới có thể đảm nhiệm được. Phải trải qua huấn luyện trường kỳ nhiều năm mới có sức chiến đấu. Không phải biết múa đao, bắn tên dã là binh lính tinh nhuệ. Lão hủ không dám nói tâng bốc nhưng thực sự không mạnh hơn dân chúng bình thường bao nhiêu”.

“Trên thực tế giáp binh bảo giáp của hầu hết các địa phương trong cả nước đều không tiến hành huấn luyện quân sự mà bị quan phủ địa phương xử dụng làm sai dịch miễn phí, đi ngược với dự tính ban đầu. Thật ra bốn hạng mục biến pháp của Vương An Thạch đều nhằm mục đích loại bỏ ung tật, lính yếu kém của quân đội. Tất cả các biện pháp đều nhằm vào điều này, hiệu quả cũng tạm được. Điều này chỉ cần theo dõi hai đại chiến với Tây Hạ là biết được”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Theo như tiên sinh nói. Kế sách cường quân của tiên đế đã nắm được vấn đề mấu chốt. Vì sao không hiệu quả?’

Trầm sư gia áy náy nói: “Tướng quân. Nói thật lão hủ không có quá nhiều ý kiến về phương pháp trị quân. Ba hoa chích choè, xa rời thực tế chỉ là nói dối tướng quân. Xin thỉnh tướng quân xuống bên dưới điều tra như vậy mới tìm được câu trả lời có sức thuyết phục, cũng có thể rìm ra biện pháp chính thức giải quýêt vấn đề”.

“Được! Trước tiên không được bàn luận theo cảm xúc. Trước tiên phải điều tra hiểu rõ. Mao chủ tịch. Khụ khụ. Một vĩ nhân đã nói: Không điều tra sẽ không có quyền lên tiếng. Ngày mai bắt đầu tiến hành điều tra. Trước tiên bắt tay vào điều tra Nhung Vệ cấm quân ở kinh thành. Cải cách quân đội là một công trình theo hệ thống, liên quan tới nhiều mặt, muốn hiểu rõ tình hình tổng thể các vấn đề của đất nước, phải suy xét thông suốt mới được. Ta đã có thánh chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu, tất cả các nha môn phải tận lực phối hợp điều tra với ta. Trầm sư gia, ngươi rất thân thuộc các nha môn của triều đình. Công việc thu thập các tư liệu của các vấn đề gi­ao cho ngươi. Ta sẽ tới điều tra tình hình trong nội bộ quân đội. Chúng ta một trong một ngoài chia nhau tiến hành. Ý tiên sinh thế nào?”

Sửo trường của Trầm sư gia là tiếp xúc với các nha môn, tất nhiên sẽ không có vấn đề gì, huống chi còn có thủ dụ của Thái Hoàng Thái Hậu. Ông ta lập tức đồng ý rời nhận thủ dụ, cáo từ.

Đêm đó là Liên nhi hầu hạ. Đỗ Văn Hạo ở trong nội cung mấy ngày liền. Mặc dù có Thái Hoàng Thái Hậu vuốt ve an ủi cho qua cơn nghiện nhưng cuối cùng vẫn không có chuyện gì, hắn đã sớm “nhịn đối nhịn khát”. Liên nhi lại là người một mực khôn khéo dịu dàng ngoan ngoãn, cực kỳ hiểu lòng người. Khi ở trong hậu cung nàng thuật trung phòng (cung nữ chuẩn bị để đề phòng Hoàng Thượng đột nhiên sủng hạnh, lại không biết ứng phó thế nào, khiến Hoàng Thượng khó chịu mà không được việc). Nàng đã hầu hạ Đỗ Văn Hạo liên tiếp mấy lần. Mây mù dày đặc không biết người nơi đâu cho tới lúc Đỗ Văn Hạo thoả mãn. Hai người mới ôm nhau ngủ.

Tờ mờ sáng ngày hôm sau, Liên nhi đã tỉnh giấc, Đỗ Văn Hạo ngủ gà ngủ gật, lầu bầu nói: “Liên nhi, làm gì vậy? Còn muốn hả? Đến đây nào” Nói xong hắn lại ôm thân thể mịn màng của Liên nhị, định tiếp tục lên ngựa.

“Lão gia, không phải” Liên nhi cười bắt tay hắn. Trong tất cả phu nhân của hắn chỉ có Liên nhi gọi Đỗ Văn Hạo là lão gia, mãi vẫn không đổi: “Lão gia, người đúng là quý nhân hay quên. Tối hôm qua còn nói muốn Thanh Đại tỷ dạy mình luyện kiếm. Anh Tử đang gọi người ở ngoài cửa đấy. Nhất định Thanh Đại tỷ đang đợi bên ngoài. Mau dậy đi”.

Lúc nãy Đỗ Văn Hạo đang ngủ nên không nghe thấy, hắn vội vàng nói vọng ra ngoài: “Anh Tử, nãi nãi của các người đã dậy rồi sao?’

Anh Tử nói vẻ tức giận: “Từ sáng sớm. Thiếu gia, chờ người cả buổi rồi”.

“Ai nha thực xin lỗi” Đỗ Văn Hạo lăn lông lốc bò dậy. “Mau vào giúp ta mặc quần áo”.

Anh Tử nói: “Nô tỳ là nha hoàn của phu nhân, không phải là nha hoàn của phòng này. Theo quy định không thể vào trong”.

“Phiền phức. Liên nhi không thể không có nha hoàn sao? Cái gì mà là quy củ. Mau vào đi. Ta vội lắm. À đúng rồi. Lần trước ta bảo Vũ Cầm mua mấy nha hoàn, lão mụ tử, nàng có mua không?”

“Phu nhân sợ sau này tân phu nhân không vừa ý với nha hoàn, lão mụ tử mua về. Dù sao người ta cũng là nữ nhi của quan Tể tướng vì thế trong lần thương nghị trước phu nhân có buột miệng hỏi Tể tướng phu nhân. Lão phu nhân cũng rất khách khí nói cho phu nhân chúng ta biết những hạ nhân làm việc vặt thì có thể mua, chỉ cần chịu khó nhưng nha hoàn thiếp thân thì có thể mang về, không nên mua phòng trường hợp không vừa ý. Tể tướng phu nhân nói đợi khi nữ nhi của mình xuất giá sẽ cho mấy nha hoàn thiếp thân làm của hồi môn dùng làm quà ra mắt phu nhân và mấy vị di nương nên phu nhân chỉ mua mấy người làm việc vặt, không mua bất kỳ nha hoàn cho phòng nào. Trong phòng vẫn còn đóng cửa, sao nô tỳ có thể vào?”

Anh Tử đẩy cửa từ bên ngoài. Cánh cửa bị cài then bên trong, Liên nhi vội vàng để thân thể loã lồ xuống giường chạy ra ngoài cởi then cài. Anh Tử cầm đèn lồng đi vào trong phòng, nàng đặt đèn lồng trên bàn, giúp Đỗ Văn Hạo mặc quần áo.

Anh Tử nói: “Thiếu gia của ta ơi, người tóc tai bù xù như vậy đi ra ngoài. Bên ngoài trời tối om như vậy nhất định sẽ hù doạ người khác. Hơn nữa để như vậy không tiện cho luyện võ. Thiếu gia hãy để nô tỳ búi tóc lại, chậm trễ cũng không sao”.

Anh Tử sừng sộ kéo Đỗ Văn Hạo ngồi xuống. Nàng cùng Liên nhi giúp hắn trải đầu. Trong tiếng giục giã của Đỗ Văn Hạo nàng vội vàng búi tóc: “Thôi tạm thời cứ như vậy. Sau khi luyện kiếm xong, nô tỳ sẽ giúp thiếu gia trải đầu lại”.

Đỗ Văn Hạo vội vàng ra khỏi tiểu viện của Liên nhi. Anh Tử đứng ở bên ngoài nhìn thấy dáng vẻ của hắn cười hỏi: “Nhìn dáng vẻ lôi thôi của chàng này. Anh Tử hầu hạ chàng như vậy sao?”

“Không không. Không thể trách Anh Tử. Là ta dậy muộn, ta sợ nàng chờ lâu sốt ruột nên mới làm qua quýt như vậy” Dựa vào ánh sáng của chiếc đèn lồng treo ở cửa ra vào, Đỗ Văn Hạo nhìn thấy trán Lâm Thanh Đại lấm tấm mồ hôi, hắn ngạc nhiên hỏi: “Chẳng lẽ nàng đã luyện rồi sao?”

“Ừ. Có luyện một lát. Bình thường canh bốn thiếp đã thức dậy luyện công”.

“Ai! Nàng đều luỵên một canh giờ sao? Ta không thể dậy sớm như vậy”.

“Chàng dậy sớm vậy làm gì? Đây là thói quen từ nhỏ của thiếp. Dù sao chàng cứchỉ luyện kiếm, không cần dậy sớm. Canh năm dậy là được rồi. Luyện nửa canh giờ. Rửa mặt. Đi vào triều”.

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Sau này tới canh năm nàng cũng không cần tới gọi ta. Nàng cứ chờ ta ở rừng trúc hậu viện. Ta ngủ dậy sẽ tới đó”.

“Được. Đi thôi”.

Hai người đi tới rừng trúc hậu viện, Đỗ Văn Hạo bắt đầu được Lâm Thanh Đại truyền dạy kiếm pháp.

Lần trước Đỗ Văn Hạo đã học xong căn bản của Phân thân thác cốt thủ. Tố chất cơ thể hắn cũng tốt, lĩnh ngộ nhanh. Sau nửa canh giờ hắn đã có thể đại khái nuốt cả quả táo “nuốt cả quả táo; ăn tươi nuốt sống; nuốt chửng (ví với việc tiếp thu không có chọn lọc) ” bộ kiếm pháp sau này sẽ từ từ luyện tập.

Sau khi Đỗ Văn Hạo quay về phòng, Anh Tử hầu hạ hắn rửa mặt, thay quan bào, ăn sáng. Anh Tử tiễn hắn rời khỏi trang viện. Khi ra tới cổng chính, đội thân binh đã đang đợi hắn ở đó.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn cỗ kiệu đặt ở ngay cửa ra vào, cau mày nói với đội trưởng đội thân binh Hứa Văn Cường: “Bây giờ ta là võ tướng, không phải là quan văn, sẽ không ngồi kiệu, phải tập tư duy của võ tướng, phải làm từ việc nhỏ trở đi. Sau này ta xuất môn, không phải trường hợp đặc biệt tất cả đều chuẩn bị ngựa. Thay ngựa!”

“Dạ!” Hứa Văn Cường khom người trả lời. Hắn vội vàng phân công người đi chuẩn bị ngựa.

Chiến mã của Đỗ Văn Hạo được thắng yên cương nhanh chóng được đưa tới. Đỗ Văn Hạo liếc nhìn quan bào trên người, lại cảm thấy không tự nhiên. Quan bào là áo dài của quan văn, cưỡi ngựa rất khó nhưng mà bây giờ đổi quan phục không còn kịp. Hắn quay đầu nhìn Anh Tử nói: “Nhớ kỹ Thiếu gia ta sau này là Đại tướng quân phải mặc nhung trang, không mặc quan bào của quan văn”.

Anh Tử vội vàng trả lời.

Đỗ Văn Hạo nhảy lên ngựa, giật cương, giục ngựa bước trên con đường lát đá xanh đi thẳng tới nha môn Tể tướng trong Hoàng cung, cũng là Trung thư tỉnh nha môn.

Mặc dù triều Tống có tam tỉnh (tam tỉnh là chế độ quan chế tam tỉnh. Bắt đầu vào triều Tuỳ, hoàn thiện vào đời Đường. Triều Tống tiếp tục sử dụng. Tam tỉnh là Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh và Thượng thư tỉnh, phân chia nhau khởi thảo chiếu thư, xét duyệt chiếu thư cùng chấp hành chính lệnh, có tác dụng phòng ngừa việc lộng quyền của một cá nhân ở một mức độ nào đó) nhưng không còn như tam tỉnh như triều Đường. Trung thư tỉnh nắm quyền lực tối cao, ở trong Hoàng cung. Môn hạ và Thượng thư tỉnh không còn quyền quyết định những vấn đề quan trọng, nha môn bị chuyển ra ngoài Hoàng cung.

Đỗ Văn Hạo và đội thân binh cận vệ dừng lại bên ngoài cửa nha môn Tể tướng. Sau khi hắn xuống ngựa, binh lính canh gác ngoài cửa lập tức chào hắn theo nghi thức quân đội.

Đỗ Văn Hạo ngẩng đầu nhìn. Nha môn Tể tướng này quả thực cũng xoàngĩnh. Dù ngoài cửa trông cũng quyền thế nhưng quá cổ kính. Nước sơn trên cánh cửa đã bong từng mảng, trông không khác gì ngôi miếu Long vương.

Viên quan trực cung kính dẫn Đỗ Văn Hạo vào trong. Sau khi bước qua cổng, qua cửa Thuỳ hoa (một kiểu cửa trong kiến trúc nhà thời xưa, trên có mái, bốn góc buông bốn trụ lửng, đỉnh trụ chạm trổ sơn màu) thì chính là một đại viện theo kiểu Tứ Hợp Viện. Ở chính giữa đại sảnh có treo một tấm biển, sơn đen chữ vàng: “Chính sự đường”.

Xung quanh đại viện là hành lang. Hai bên là hai dãy phòng làm việc dài. Bên trong phòng tuy có rường cột chạm chổ (ví như nhà hoa lệ) nhưng đều rất cổ xưa. Nếu so với các thiết bị lắp đặt trong những ngôi nhà cao tầng tráng lệ của xã hội hiện đại thì quả thực khác nhau một trời một vực.

Ý một ý giải thích thì quan lại thời cổ đại là “Người đầy tớ của nhân dân”. Ít nhất suy nghĩ này mạnh mẽ hơn so với thời hiện đại ở văn phòng làm việc. Thời cổ đại chú trọng “quan không tu sửa nha môn’. Thứ nhất không làm hao tổn tiền bạc cho những hạng mục này. Thứ hai là đặc điểm của tính lưu động xuất quan lại (quan lại ở kinh thành bị điều về các địa phương làm quan). Đặc biệt là các quan lại trung cao cấp, theo quy định ba năm chuyển đổi nhiệm vụ một lần. Nhưng trên thực tế còn ít hơn quy định này, chỉ một, hai năm đã thay đổi nhiệm sở, giống như đèn kéo quân vậy. Ngay khi tu sửa nha môn đẹp đẽ, chưa kịp ngồi hưởng thụ đã lại nhấc mông rời khỏi vì vậy không ai muốn bỏ tiền túi ra tu sửa để người khác ngồi hưởng.

Xuyên quan đại sảnh, bước lên bậc thềm chính là Chính sự đường. Hai tên lính đang canh gác cung kính chào theo nghi thức quân đội, vén màn trướng lên, Đỗ Văn Hạo bước vào nội đường.

Treo ở chính giữa đại đường là một bức tranh tiên hạc. Hai bên treo câu đối. Bên dưới, chính giữa đại đường có hai chiếc ghế làm bằng gỗ mun, phía trước là một chiếc bàn tứ phương cũng làm bằng gỗ mun.

Hai bên đại đường đều có bày ba chiếc ghế gỗ mun, cạnh ghế đều có bàn trà hình chữ nhật, cũng làm bằng gỗ mun.

Hai bên trái phải của cửa ra vào có đặt chéo một cái bàn dài cùng với hai chiếc ghế. Bên phải có hai người đang ngồi, trước mặt có giấy bút, nghiên mực, xem dáng vẻ chính là quan lại ghi chép nội dung cuộc họp. Bên kia để không, chắc là để dành cho người báo cáo.

Bên dưới cửa sổ của hai bên đại điện cũng đều đặt hai hàng ghế, chắc là để cho người ngồi dự thính, những chiếc ghế này để trống. Cửa sổ của ba mặt đều đóng chặt, có khá nhiều cửa sổ, trong phòng cũng nhiều ánh sáng.

Tể tướng Vương Gi­ai đang ngồi trên chiếc ghế bên trái đại đường. Chiếc ghế bên phải vẫn để không. Chủ nhân của nó vẫn chưa tới. Người đó nhất định là hữu Tể tướng Thái Xác.

Trong hai hàng ghế hai bên, ghế đầu hàng bên trái vẫn trống. Ngồi nở ghế chính giữa là tả thừa Thượng thư Thái Biện, ngồi cuối cùng là hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý.

Ngồi ở ghế đầu bên phải là Xu Mật viện sứ Hàn Chuẩn, ghế chính giữa không có ai ngồi. Ngồi ở ghế cuối chính là phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi.

Vương Gi­ai trông thấy Đỗ Văn Hạo bước vào. Ông ta đứng dậy, khẽ cúi người chắp tay thi lễ nói: “Đỗ tướng quân tới”.

Đỗ Văn Hạo vội vàng bước lên trước, chắp tay thi lễ nói: “Tể tướng đại nhân đến sớm”.

“Ha ha. Mời tướng quân ngồi” Vương Gi­ai ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo ngồi ở ghế chính giữa bên phải.

Người ngồi đầu tiên bên phải là Hàn Chuẩn. Ông ta là Viện sứ Xu Mật viện, tòng nhất phẩm. Đỗ Văn Hạo là Đô Kiểm Điểm, chính nhị phẩm, thấp hơn một bậc. Mặc dù tam nha và Xu Mật viện đều là hai nha môn lãnh đạo quân đội nhưng cấp bậc không giống nhau. Xu Mật viện cao hơn một bậc so với tam nha. Đỗ Văn Hạo trở thành tam nha Đô Kiểm Điềm, Thái Hoàng Thái Hậu coi trọng nhân tình nên mới nâng hắn lên một bậc, nếu không thì phải kém hai bậc. Lâm Hi tuy là phó sứ Xu Mật Viện, đồng cấp với Đỗ Văn Hạo đều là chính nhị phẩm nhưng Đỗ Văn Hạo là quan chủ sự, ông ta chỉ là tá quan nên đương nhiên phải xếp sau.

Đỗ Văn Hạo chắp tay thi lễ với tử thừa Thượng thư Thái Biện, hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý rồi mới ngồi xuống.

Không ai trên đại điện nói lời nào, đương nhiên Đỗ Văn Hạo cũng không nói gì cả. Đợi một lát thì Môn hạ thị lang Chương Hoàng tới sau đó tới hữu Tể tướng Thái Xác cũng tới.

Chương 408: Tiền nhiều cứ đốt

Ngay khi hai người ngồi xuống. Tể tướng Vương Gi­ai chắp tay về phía Hoàng cung, cất giọng khàn khàn nói: “Chư vị. Hôm qua tân đế kế vị. Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm nhiếp chính, cũng đã qua thời gi­an xử lý việc tang của tiên đế và cao tổ Thái Hoàng Thái Hậu. Thái Hoàng Thái Hậu ý chỉ cho Thái đại nhân và bản tướng cùng giải quyết việc quân chính với nhị vị Vương gia. Tạm thời áp dụng biện pháp xử lý nhưng có rất nhiều sự tình không thể kịp thời xử lý vì vậy c rất nhiều chuyện xử lý chậm trễ. Vì vậy hôm nay mời các vị dự hội nghị này xử lý gấp gáp một số chuyện. Những chuyện còn lại sẽ xử lý ở hội nghị thường kỳ. Chương trình hôm nay…” Vương Gi­ai nhìn lướt qua tờ giấy trên bàn nói tiếp: “Sẽ xử lý sáu công việc”.

Hạng mục thảo luận thứ nhất là do bộ Hộ đưa ra. Tân Đế mới đăng cơ, đề nghị miễn trừ các khoản thuế ruộng trong sau năm, bày tỏ Hoàng ân. Hạng mục thảo luận thứ hai cũng do bộ Hộ đưa ra để cùng nhau thương nghị. Năm trước nạn đói ở Hà Đông, lũ lụt ở Hà Bắc, phá huỷ vô số nhà cửa tài sản của trăm họ. Lương thực cứu giúp thiên tai vẫn không đủ. Bộ Hộ đề nghị cấp thêm gạo tiền để cứu giúp nạn thiên tai.

Vương Gi­ai nói: “Hãy gọi người bộ Hộ vào đi”.

Viên ký lục (giống như thư ký) ngồi ở cạnh cửa trả lời rồi đứng dậy đi ra ngoài. Một lát sau Thượng thư bộ Hộ cùng hai viên quan tiến vào, thi lễ và ngồi xuống.

Tân Hoàng Đế mới đăng cơ, đại xá thiên hạ chỉ là một cách làm thông thường. Nội dung của đặc xá bao gồm đặc xá hay giảm bớt tội cho những người phạm tội, miễn cả thu thuê lao dịch vì vậy vấn đề thứ nhất không có gì cần phải thảo luận, nhanh chóng được thông qua.

Tiếp đó Thượng thư bộ Hộ trình bày đơn giản tình hình thiên tai sau đó hai viên quan đọc kế hoạch cứu giúp tiền và lương thực.

Sau khi nghe đọc xong Vương Gi­ai nói: “Chư vị hãy cho ý kiến”.

Chiếu theo quy củ, ngoại trừ hai vị Tể tướng, sau người còn lại phát biểu ý kiến không cần theo trình tự. Sau khi Thái Xác phát biểu xong, Vương Gi­ai sẽ tổng kết lại các ý kiến. Đỗ Văn Hạo không muốn lên tiếng trước. Hắn nghĩ trước hết phải nghe xem những người khác nói gì.

Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi lên tiếng trước tiên. Sau một hồi xúc động, ông ta tỏ vẻ đồng ý. Sau đó tới tả thừa Thượng thư Thái Biện, hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý tất cả trước tiên lên giọng rồi cuối cùng tỏ vẻ đồng ý. Thượng thư bộ Hộ định lên tiếng, lúc này Đỗ Văn Hạo mới phát biểu. Hắn nói đơn giản, nông dân dựa vào ông trời kiếm miếng cơm, một khi bị đại nạn như vậy nên ít nhất một năm không có lương ăn, đương nhiên nên phải giúp đỡ nạn dân sau đó cũng theo những người trước, hắn lên giọng quan trên mấy câu rồi cũng đồng ý. Cuối cùng Thái Xác mới lên tiếng, Vương Gi­ai tổng kết lại, nhất trí kế hoạch bổ sung cứu giúp nạn dân thiên tai.

Vấn đề thứ ba là Thượng thư bộ Lễ báo cáo, dự tính tổ chức “Khôn thành tiết” mừng sinh nhật của Thái Hoàng Thái Hậu. Vấn đề này tất nhiên không có bất kỳ dị nghị nào, nhanh chóng được thông qua.

Vấn đề thứ tư là bộ Lại đưa ra. Dự thảo lựa chọn người cho hai vị trí Công bộ thị lang và Hình bộ thị lang. Vấn đề này gây ra tranh luận rất lớn. Đỗ Văn Hạo thờ ơ lạnh nhạt, Vương Gi­ai một phái, Thái Xác một phái. Nhưng vấn đề là phe Thái Xác chiếm đa số, phe Thái Xác đồng ý với ý viên do bộ Lại đưa ra. Cuối cùng số ít phục tùng đa số, đồng ý với lựa chọn cho hai vị trí mà bộ Lại đưa ra.

Vấn đề thứ năm là quân sự Hoàn Khánh Kinh lược ti báo cáo việc quân tình khẩn cấp. Kỵ binh Tây Hạ nhiều lần xâm chiếm vùng biên giới Hoàn Khánh, cướp phá, giết người cướp của, mấy ngàn dân chúng vùng biên giới bị giết, tuy bị quân Đại Tống đánh lui nhưng chúng rút rồi quay lại, binh lực của chúng lại đa số là kỵ binh. Quân Tống mấy lần bố trí mai phục nhưng đều không thể tiêu diệt, thỉnh triều đình phái đại quân đánh dẹp.

Nói đến quân sự cả Tể chấp đều trầm mặc, hoàn toàn khác với việc đỏ mặt tía tai tranh cãi với nhau về nhân sự của hai vị trí thị lang. Tất cả đều bưng ché trà, chậm rãi uống tựa hồ như đang suy nghĩ nhưng thật ra lại đang nhìn hướng gió.

Hai lần Vương Gi­ai lên tiếng yêu cầu mọi người cho ý kiến nhưng không ai lên tiến, ông ta đành chỉ định: “Hàn đại nhân, Xu Mật viện của đại nhân trong coi việc quân sự. Trước tiên xin mời cao kiến của đại nhân”.

Lúc này Hàn Chuẩn mới ho khan một tiếng nói: “Việc Tây Hạ xâm phạm biên giới chúng ta cũng không phải là chuyện hiếm có gì chỉ có điều lần này quy mô khá lớn, thiệt hại nghiêm trọng, giết hại mấy ngàn dân chúng vùng biên giới của ta. Nếu không đánh dẹp, dân chúng vùng biên không thể nào an cư lạc nghiệp, cũng làm Tây Hạ coi thường Đại Tống chúng ta. Nhưng sau trận chiến thành Vĩnh Nhạc, nguyên khí quân ta tổn thượng nặng nề, tới nay vẫn chưa hồi phục. Nếu như lúc này tuỳ tiện phái binh chinh phạt, chưa nói tới chuyện hoạ vô đơn chí, cũng khó có thể nói tới chuyện chắc thắng hay không. Chỉ e khi quân Tây Hạ nghe tin đại quân chúng ta tiến tới liền bỏ chạy. Chờ khi quân ta rút về, chúng lại quay lại tập kích quấy rối. Vòng đi vòng lại cuối cùng cũng thế mà thôi”.

Phó Sứ Xu Mật viện Lâm Hi cũng phụ hoạ: “Không tới lúc vạn bất đắc dĩ không nên phát động can qua. Đại Tống ta cùng Tây Hạ chiến tranh mười năm, quân ta liên tiếp thất bại. Đặc biệt cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc, quân ta đại tổn thương nguyên khí. Ty chức cho rằng với tình hình trước mắt của Đại Tống ta, thực sự không thể tái chiến”.

Gương mặt Thái Xác lộ vẻ buồn bực nói: “Ý của nhị vị là Đại Tống chúng ta để mặc cho quân Tây Hạ cướp bóc giết người dân chúng vùng biên cương sao?”

Hàn Chuẩn, Lâm Hi liếc nhìn nhau. Hàn Chuẩn cười nói: “Ty chức không có ý này”.

“Vậy theo ý kiến của Hàn đại nhân chúng ta phải làm thế nào?’

“Ty chức cho rằng. Đại Tống ta từ lúc khai quốc đã chinh chiến hai mươi năm với Đại Liêu, không thể đánh thắng. Chân Tông hoàng đế với hiệp ước Thiền Uyên, dùng hai mươi vạn tiền một năm đổi lấy sự bình an trên trăm năm của biên cương, cũng tiết kiệm được rất nhiều quân phí. Bốn mươi năm trước, Đại Tống cùng Tây Hạ cũng vốn kết chuyện Tần Tấn, tiền tiến cống hàng năm đổi lấy sự bình yên biên giới trong hơn hai mươi năm. Trước khi gây chiến lại, tại sao không thương nghị với Tây Hạ, dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình an?”

Thái Xác cười âm trầm, ông ta nghiêm nghị nhìn lướt qua mấy văn thần bên trái hỏi: “Ý của ba vị thế nào?’

Môn hạ thị lang Chương Hoàng chắp tay nói: “Ty chức cho rằng Hàn Xu Mật cùng Lâm phó sứ nói tuy có uất nghẹn nhưng cũng chỉ là hành động bất đắc dĩ. Nếu như có thể dùng hơn mười vạn bạc mỗi năm đổi lấy sự bình yên nơi biên cương, tránh việc phải động binh đao, đó chính là thượng sách”.

“Ty chức cũng cho rằng ba vị đại nhân nói rất đúng” Tả thừa Thượng thư Thái Biện liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, thản nhiên nói: “Quân ta yếu, không đánh lại kẻ thù vậy còn biện pháp nào không? Chỉ trách bản thân không có bản lãnh, quân đội không thể đánh trận thì không nên gây chiến tranh tránh cho việc tiêu hao một lượng lớn vật tư, mồ hôi và máu của dân chúng. Hãy để dùng cho việc khác”.

Hoàng Lý nói: “Đúng vậy quốc khố hao tổn mà không giải quyết được việc gì. Hoạ nhũng binh, quân đội suy nhược lâu ngày”.

Thái Xác cau mày nói: “Thương nghị chuyện có dụng binh hay không với Tây Hạ, kéo theo những chuyện kia làm gì?’

Hoàng Lý vội nói: “Dạ dạ. Ty chức cũng đồng ý với cao kiến của mấy vị đại nhân. Không đánh mà có thể khuất phục người khác chính là thiện chi thiện giả vậy (ý muốn nói đánh trăm trận, thắng cả trăm trận khuất phục người khác vẫn không được coi là cao minh nhất. Không đánh trận vẫn khuất phục được kẻ thù mới được coi là cao minh trong cao minh). Dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy việc lui binh của Tây Hạ, không hẳn đã là thượng sách. Có lẽ Tây Hạ không vừa lòng với số lượng hơn mười vạn lượng, muốn nhiều hơn số đó. Ty chức cho rằng chỉ cần làm cho Tây Hạ một lần nữa lui binh, dân chúng biên cương lại được an cư lạc nghiệp vậy cũng không thể không làm. Dù sao hơn mười vạn lượng đối với Đại Tống chúng ta mà nói chỉ như là chín trâu mất một sợi lông mà thôi. Hàng năm chinh chiến hao tổn lương tiền còn vượt xa số lượng này”.

Thái Xác quay đầu lại nói với Vương Gi­ai: “Vương Tể tướng, ý của bản tướng cũng như vậy. Không bằng chúng ta thỉnh Hoàng Thượng, không thỉnh Thái Hoàng Thái Hậu cử sứ thần sang hoà đàm, dùng hai, ba mươi vạn lạng đổi lấy việc Tây Hạ bãi binh”.

Vương Gi­ai nhìn Thái Xác cười nhạt nói: “Hình như Đỗ tướng quân còn chưa phát biểu cao kiến”.

Thái Xác ngẩn người, lúc này ông ta mới nhớ ra Tể Chấp còn một vị tam nha Đô Kiểm Điểm. Từ trước tới giờ người này vẫn một mực không lên tiếng. Ông ta xấu hổ, cười áy náy nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Đỗ tướng quân, tướng quân có cao kiến gì không? Khụ khụ, đúng rồi. Tướng quân mới vào Tể chấp, năm nay tuổi nhược quán, chỉ e không hiểu nhiều lắm về mười năm chinh chiến trước đây giữa Đại Tống và Tây Hạ. Chắc tướng quân cũng hiểu phân tích lúc trước của mấy vị đại nhân. Hy vọng tướng quân cẩn thận cân nhắc, tránh hành động theo cảm tính. Tướng quân cho rằng Đại Tống chúng ta có nên dùng tiền tiến cống hàng năm để đổi lấy việc lui binh của quân Tây Hạ không?”

“Tiền nhiều cứ đốt” Đỗ Văn Hạo hừ nhạt một tiếng nói.

Lập tức sắc mặt mọi người có vẻ tức giận, lắp bắp kinh hãi.

Xu Mật viện Hàn Chuẩn lên tiếng chất vấn: “Đỗ tướng quân, chỉ e những lời này của tướng quân không ổn. Tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình yên chính là do Chân Tông hoàng đế là người mở đầu. Việc này đã duy trì sự bình an trăm năm của biên giới Tống Liêu. Nhân Tông hoàng đế cũng noi theo Chân Tông hoàng đế dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy sự bình an mấy chục năm của biên giới Tống Hạ. Chẳng lẽ hai tiên đế có nhiều tiền nên đốt sao?”

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: “Hôm qua, Thái Hoàng Thái Hậu truyền hỏi ty chức về chiến tranh Tống Liêu và chiến tranh Tống Hạ, có bình luận về việc tiến cống hàng năm đổi lấy hoà bình, người còn gọi đây là nỗi nhục của nước mất chủ quyền.

Thái Hoàng Thái Hậu từng chất vấn: Hai nước gi­ao chiến. Hai bên đều cần hoà bình. Tại sao lần nào cũng là Đại Tống chúng ta dùng tiền đổi lấy hoà bình để đối phương bãi binh? Vì sao không phải bọn họ dùng tiền đổi lấy hoà bình để chúng ta bãi binh? Hay ít nhất cũng bình đẳng là hai bên cùng bãi binh. Hàng năm chúng ta dùng hai, ba mươi vạn lạng tiến cống cho chúng. Đây không phải là nhiều tiền đốt đi thì là cái gì? Điều ước đó có tính là ngang hàng không? Không phải là nỗi nhục nước mất chủ quyền là gì?”

“Ngươi!” Môn hạ thị lang Chương Thận đứng dậy, chỉ tay vào Đỗ Văn Hạo nói: “Ngươi lại dám nói xấu Chân Tông, Nhân Tông ký hiệp ước với Liêu, Hạ. Đây là nỗi nhục nước mất chủ quyền sao? Hay hay hay. Bản quan không thể không vạch tội ngươi tội đại bất kính”.

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: “Tại hạ cho rằng Tể chấp là thảo luận chính sự. Mọi người vốn có thể thoải mái phát biểu ý iến của mình, thì ra vẫn còn có người núp ở đây, đánh bằng gậy, chụp mũ, bắt thóp người khác, nịnh bợ. Ha ha ha. Thật sự được mở rộng tầm mất. Ha ha ha”.

Chương Hoàng tiến lên một bước, chỉ tay vào mặt Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: “Tể chấp thảo luận chính sự, tất nhiên có thể nói thoải mái nhưng không thể làm nhục tiên đế. Ngươi không phải mắc tội đại bất kính thì là cái gì?”

Đỗ Văn Hạo vẫn ung dung ngồi tại chỗ nói: “Chương đại nhân hãy bình tĩnh, chớ nóng vội. Đại nhân hãy nghe rõ những lời này không phải tại hạ nói, là Thái Hoàng Thái Hậu nói. Thái Hoàng Thái Hậu cũng chỉ nói hai hiệp ước này là nỗi nhục nước mất chủ quyền, chưa nói gì về tiên đế. Những lời tại hạ mới nói chẳng qua là truyền đạt lại lời của Thái Hoàng Thái Hậu mà thôi. Nếu như đại nhân không phục, muốn chất vấn, sao không tới chất vấn Thái Hoàng Thái Hậu?’

Lập tức Chương Hoàng hoảng sợ. Ông ta suy nghĩ một chút. Quả thực vừa rồi Đỗ Văn Hạo có nói đó là lời của Thái Hoàng Thái Hậu. Nhưng ông ta lại nghe như chính là Đỗ Văn Hạo nói ý kiến của mình. Chương Hoàng nóng lòng không lắng nghe cẩn thận, liền làm khó dễ nên bây giờ ở vào thế cưỡi lưng cọp.

“Chương đại nhân bớt giận. Có chuyện gì cứ từ từ nói” Hữu thừa Thượng thư Hoàng Lý đứng dậy, kéo Chương Hoàng ngồi xuống ghế của mình, ông ta nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Thái Hoàng Thái Hậu nói đương nhiên là có lý. Việc nhục quốc thể hay không vẫn còn chưa nói được nhưng thật ra trong lòng mọi người đều hiểu rõ. Tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bãi binh ở một mức độ nào đó quả thật có làm tổn hại tới sự uy nghi của Đại Tống. Nhưng còn biện pháp nào khác không? Tướng quân muốn Đại Liêu và Tây Hạ xuất tiền ra sao? Đại Liêu và Tây Hạ là hai nước man di, cũng chỉ bởi vì nghèo hèn, không có tiền, thấy Đại Tống chúng ta phồng hoa thì tối mắt, xuất binh xuôi nam đánh cướp. Bọn chúng nguyện ý xưng đệ, nguyện ý xưng thần, ngược lại chúng ta bỏ ra một ít tiền, cũng không hẳn là không được. Cần gì phải phóng đại tới mức nỗi nhục nước mất chủ quyền?”

Tả thừa Thượng thư Thái Biện ở bên cạnh cười nhạt nói: “Tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình an quả thực là làm nhục sự uy nghiêm của Đại Tống. Nhưng vấn đề là trăm vạn đại quân chúng ta đánh không lại chúng. Không tốn tiền thì phải làm gì đây? Tiếp tục đánh sao? Tất cả quốc khố thu được đều ném vào đó để cho suy sụp sao? Tất cả tiền thuế đều là tiền mồ hôi nước mắt của dân chúng đều quẳng vào cái túi không đáy đó sao?”

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: “Tại hạ đã được nghe nhiều chuyện hai nước gi­ao chiến, thất bại đầu hàng, chuyện cắt đất, bồi thường tiền bạc cũng nghe rất nhiều. Trong lòng mọi người cũng hiểu rõ tiền tiến cống hàng năm chính là đền tiền. Lấy nỗi nhục quốc thể đổi lấy hoà bình, cũng chỉ như so với người vong quốc không còn nơi đi. Tại hạ nghĩ rằng đại đa số người trong hàng ngàn hàng vạn con dân Đại Tống chúng ta đều nguyện ý chết đứng còn hơn sống quỳ. Vấn đề chỉ là trong số đó có chư vị đại thần hay không?”

“Ngươi! Ngươi chỉ là một tiểu nhi hoàng mao sao dám ăn nói lỗ mãng?” Mấy người Thái Biện, Hoàng Lý giận tím mặt, đứng bật dậy như muốn gây sự.

Tể tướng Vương Gi­ai đập tay xuống bàn quát: “Thôi được rồi. Ầm ĩ cái gì?”

Vương Gi­ai là Tể tướng đầu triều, ai dám chống lại. Hai người Thái Biện lập tức phẫn nộ ngồi xuống ghế, cười nhạt, dáng vẻ lạnh nhạt.

Vương Gi­ai liếc nhìn mọi người nói: “Chúng ta sẽ không thảo luận chuyện dùng tiền tiến cống hàng năm đổi lấy bình yên có phải là nỗi nhục nước mất chủ quyền hay không. Chuyện này Thái Hoàng Thái Hậu đã nói, chúng ta vẫn còn nghị luận đúng sai thì chính là đang bất kính”.

Vương Gi­ai vừa mới nói mấy câu này,. Sắc mặt mấy người Thái Biện, Hoàng Lý đều thay đổi.

Vương Gi­ai ho nhẹ hai tiếng, ông ta quay đầu nhìn Thái Xác nói: “Thái Tể tướng, Đỗ tướng quân đã nghĩ việc dùng tiền tiến cống hàng năm không ổn. Tại sao chúng ta không nghe cao kiến của Đỗ tướng quân?”

Thái Xác nói: “Đúng vậy. Nếu Đỗ tướng quân không đồng ý với ý kiến của chúng ta, tướng quân hãy nói cao kiến của mình”.

Đỗ Văn Hạo không nóng mà cũng chẳng lạnh nhạt, hắn chắp tay nói: “Cao kiến thì không có, chỉ có thấp kiến. Tại hạ không nói đạo lý lớn. Dù sao Đại Tống chúng ta cũng là một nước lớn, cũng không nên phải chủ động cầu hoà với Tây Hạ. Không phải Tây Hạ dùng chiến du kích vận động chiến sao? Không phải chúng ta không thể đối phó với chiến thuật đó. Tại hạ nói có đúng không? Đại Tống ta dân giàu nước mạnh, muốn đối phó với loại xung đột biên giới quy mô nhỏ này, căn bản là không khó. Còn Tây Hạ thì sao? Cụ thể về năng lực nhân lực của Tây Hạ tại hạ không rõ lắm nhưng tại hạ dám khẳng định tuyệt đối Tây Hạ còn lâu mới bằng chúng ta. Đánh kéo dài nhất định chúng sẽ suy sụp, thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ thuộc về chúng ta. Chiến thuật này gọi là đánh trường kỳ”.

Lần đầu tiên mọi người nghe thấy cụm từ “đánh trường kỳ” nên ai cũng nhìn hắn vẻ dò xét.

Thái Biện ho khan rồi nói: “Đỗ tướng quân lại muốn dùng thời gi­an mấy chục năm chiến tranh cùng cảnh nhà tan cửa nát, chết chóc của dân chúng vùng biên để kiểm nghiệm việc Đại Tống có thể thắng Tây Hạ sao?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Chúng ta không chọn chiến tranh nhưng chúng ta tuyệt đối không e ngại chiến tranh. Nếu như người khác mang chiến tranh áp đặt cho chúng ta, chúng ta chỉ còn cách nghênh chiến, tuyệt đối không thể quỳ gối đầu hàng, cũng không thể cắt đất, đền tiền nhục quốc thể. Có một việc tại hạ muốn tiết lộ sớm cho chư vị đại nhân. Hôm qua Thái Hoàng Thái Hậu đã trao quyền cho ty chức tiến hành điều tra kỹ lưỡng quân đội Đại Tống, tìm ra biện pháp cải cách chấn chỉnh quân đội. Thái Hoàng Thái Hậu cực kỳ thất vọng đối với tình trạng hiện nay của quân đội Đại Tống, người đã hạ quyết tâm chỉnh đốn”.

Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi cười nhạt một tiếng nói nhỏ: “Việc chỉnh đốn quân đội không phải hôm nay mới bắt đầu làm”.

Ánh mắt Đỗ Văn Hạo sáng như điện, hắn nhìn chằm chằm vào Lâm Hi nói: “Hình như Lâm đại nhân không tán đồng với chủ kiến chỉnh đốn quân đội của Thái Hoàng Thái Hậu?”

“Không dám!” Lâm Hi xấu hổ, ông ta chắp tay nói: “Ty chức chỉ bàn luận về sự việc. Quân đội Đại Tống có không ít tật xấu, đương nhiên phải chỉnh đốn. Tiên đế đã làm, Thái Hoàng Thái Hậu lại tiếp tục thực hiện điều này. Đây đương nhiên là chuyện tốt. Tại hạ không có ý kiến gì. Tại hạ chỉ nói…”.

Vương Gi­ai nói: “Thế này đi. Trước hết xin mời Đỗ đại nhân nói ra ý kiến của mình. Các chư vị đại nhân sẽ phát biểu ý kiến của mình sau”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Được. Ý kiến của tại hạ rất đơn giản. Địch nhân đang đè đầu cưỡi cổ chúng ta. Nếu chúng ta vẫn còn có thể nhẫn nhịn thì không còn là người. Nhất định phải đánh cuộc chiến này. Đây ót nhất là bày tỏ thái độ”.

Hàn Chuẩn lạnh lùng nói: “Liên tiếp thất bại, còn muốn đánh sao? Đánh chỉ chuốc lấy nhục mà thôi”.

Giọng nói của Đỗ Văn Hạo càng thêm lạnh như băng: “Làm một người lính, liên tiếp thất bại cũng không đáng sợ. Điều đáng sợ nhất là thất bại rồi không dám đánh tiếp. Từ thời thượng cổ tới nay không có thường thắng tướng quân. Bách chiến bách thắng chẳng qua chỉ là một lý tưởng. Nên biết chuyện thắng bại là chuyện thường nhà binh. Chỉ có người có ý chí chiến đấu ngoan cường, thắng không kiêu, bại không nản mới có thể có chiến thắng cuối cùng. Lưu Bang thắng Hạng Vũ cũng chính ở điểm này”.

“Đã hiểu” Hàn Chuẩn vuốt chòm râu bạc của mình, ông ta thản nhiên nói: “Người tuổi trẻ còn không hiểu thời thế, ngạo mạn khinh người, khó tránh khỏi xúc động. Chờ khi tới tuổi của ta đây”.

Đột nhiên Đỗ Văn Hạo đập tay xuống bàn, hắn đứng bật dậy, lạnh lùng nói: “Nếu không chăm lo việc nước, chỉ sợ là bản thân ta không đợi được tới lúc râu hoa tóc bạc như đại nhân thì Đại Tống đã mất rồi”.

Những lời này chẳng khác nào tiếng sấm. Tất cả mọi người đều sợ ngây người. “Mất nước” hai từ này không ai dám nói lung tung.

Nhưng Đỗ Văn Hạo hiểu rõ bốn mươi năm sau Bắc Tống sẽ bị Đại Kim tiêu diệt. Thời gi­an còn lại của Bắc Tống không còn nhiều lắm. Bây giờ hắn nhìn thấy đám quan văn này sợ hãi rụt đầu rụt cổ khi phải đối mặt với một cuộc xung đột quy mô lớn ở biên giới, chỉ nghĩ tới việc dùng tiền mua yên bình thì không thể nhẫn nhịn được, rốt cuộc hắn đã phát tiết, hắn nói như liên thanh: “Giết một vạn kẻ thù, tổn thất ba nghìn. Trận chiến thành Vĩnh Nhạc, quân ta đại bại, chết hai mươi vạn quân. Điều này ai cũng biết. Nhưng Tây Hạ thì sao? Có ai biết chúng như thế nào không?”

Hàn Chuẩn cười nhạt nói: “Bọn chúng? Bọn chúng chiến thắng nên đương nhiên dương dương tự đắc”.

“Sai rồi! Bọn chúng cũng phải liếm máu trên vết thương. Theo như tại hạ biết. Cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc, tổng số chết của quân và dân Tây Hạ cũng tuyệt đối không ít hơn con số hai mươi vạn. Bởi vì ngay bên cạnh tại hạ có không ít tướng sĩ đã từng tây chinh Tây Hạ, kể cả tam nha phó Đô Chỉ Huy Sứ, Lý Phố Đại tướng quân, năm đó chính là tướng tiên phong đánh thẳng một mạch tới kinh thành Tây Hạ. Các vị có biết không? Năm đó quân ta tấn công đã sử dụng vũ khí truyền bá bệnh dịch. Loại vũ khí này có thể tạo thành dịch bệnh lưu hành trong phạm vi rộng vì thế quân dân Tây Hạ chết rất nhiều, thi thể ngổn ngang khắp nơi. Sau đó quân Tây Hạ chỉ có phòng thủ mà không chiến chính là vì lý do này. Quân ta có thể tấn công thần tốc tiến thẳng tới kinh thành Tây Hạ. Khi quân ta tiến tới một địa phương nào đó, cho dù là thành trấn hay nông thôn. Những gì có thể chở về thì đều chở về, những gì không thể chở về thì đều tiêu huỷ, đã tiêu huỷ rất nhiều thành trấn. Một nửa đất nước Tây Hạ vì trận chiến này mà bị phá huỷ tan hoang. Không biết chư vị đại nhân có biết điều này không?”

Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Tất cả chỉ đều là quan văn, kể cả Viện sứ Xu Mật viện Hàn Chuẩn cùng phó sứ Lâm Hi, rất giỏi việc bẻ cong luật pháp làm bừa dối trá nhưng không hiểu gì về quân sự, chỉ biết là Đại Tống thảm bại, ngoại trừ việc theo Tống Thần Tông đám ngực khóc lóc, thoá mạ quân đội vô năng, đương nhiên không ngiên cứu những thảm hoạ chiến tranh bên ngoài nên cũng mờ mịt không biết điều này.

Chương 409: Dùng sở trường khắc sở đoản.

Quả thực mấy người Thái Xác chỉ là quan văn.

Tất cả đã bị những thất bại liên tiếp khi chinh chiến với Tây Hạ làm hoảng sợ.

Phản ứng đầu tiên chính là hoà đàm, cùng lắm cũng chỉ căm hận chửi mắng quân đội vô năng một trận. Dù có thể nghĩ ra cách nhưng vẫn muốn dùng tiền để dàn xếp ổn thoả vì vậy cổ nhân mới có câu:

“Tú tài tạo phản, ba năm không thành”.

Đúng vậy. Đây là cách giải thích là cách tốt nhất đối với những người như vậy.

Đương nhiên cũng không thiếu những quan văn có chí khí, cứng cỏi

Nhưng bọn họ chỉ có nhiệt huyết, không hiểu thế nào là thống lãnh quân đội đánh địch nên cũng chỉ phí công.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn tiếng gào thét bốn phía xung quanh nói: “Nguyên khí quân ta đại thương. Tại sao quân Tây Hạ không như vậy? Hai nước gi­ao chiến với nhau, đánh tới cuối cùng vẫn chỉ là thực lực của quân đội, là thực lực của một đất nước hợp lại. Điều này giống như một gã mập và một người gầy đánh nhau. Cho dù gã mập trúng mấy quyền, nhưng rốt cuộc vì da dầy, mỡ nhiều nên vẫn chống lại được người gầy.

Người gầy sau khi trúng mấy quyền chỉ sợ xương cốt đã muốn gãy. Cuối cùng người gục ngã chỉ sợ chính là người gầy. Vì vậy trong cuộc chiến với Tây Hạ, chúng ta có thể đánh, phải đánh, hơn nữa nhất định có thể đánh thắng. Chỉ cần chúng ta chỉnh đốn tốt quân đội chúng ta, thành tinh binh, tương lai nhất định thắng lợi sẽ thuộc về chúng ta”.

Chương Hoàng cười gượng nói: “Tại hạ không hiểu vì sao nhất định phải đánh với Tây Hạ?”

Thời đó kẻ thù chủ yếu của triều Tống chính là Đại Liêu và Tây Hạ. Bây giờ Đại Liêu và Đại Tống đã ký kết đồng minh.

Quan hệ của hai nước cũng khá tốt. Biên giới giữa hai nước cũng khá yên tĩnh.

Dựa vào sử sách Đỗ Văn Hạo đã biết trong tương lai không xa nước Đại Liêu sẽ bị nước Đại Kim tiêu diệt vì vậy hắn không cần hao tâm tổn trí đi đánh Đại Liêu. Hắn chỉ cần chờ Đại Kim quật khởi, chém giết Đại Liêu tới khi đó Đại Tống sẽ đóng vai ngư ông thủ lợi là được

Nhưng trước hết nhất định phải giải quyết Tây Hạ, giải trừ nỗi buồn phiền trong lòng, tập trung lực lượng đối phó với Đại Kim trong tương lai.

Mặc khác đánh Tây Hạ còn có một mục đích rất quan trọng. Đó chính là trường nuôi ngựa. Ở Trung Quốc cổ đại có hai nơi sở hữu cơ sở nuôi ngựa với quy mô lớn. Một nơi ở nước Liêu, một nơi chính là Đan sơn mã trường của Tây Hạ.

Sau khi trải qua một thánh chiến tranh với người Thổ Phiên, Đỗ Văn Hạo đã nhận thức một cách xâu sắc rằng ở thời cổ đại muốn thành lập một đội quân có sức mạnh tấn công thì không thể thiếu kỵ binh.

Con đường tiến tới binh cường của quân đội Đại Tống có một trở ngại. Đó là thiếu chiến mã.

Vì vậy Đỗ Văn Hạo muốn đoạt lấy ít nhất một trong hai nơi nuôi ngựa này.

Nếu so sánh với nhau, trường nuôi ngựa của Tây Hạ tốt hơn nhiều so với trường nuôi ngựa của Đại Liêu.

Bởi vậy phải đánh cuộc chiến với Tây Hạ. Hơn nữa nhất định phải đánh sớm, giải quyết sớm.

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo không thể nói cho những người ở đây biết trong tương lai Đại Liêu sẽ bị Đại Kim tiêu diệt.

Đỗ Văn Hạo đường hoàng nói: “Mở rộng biên giới lãnh thổ quốc gia chính là bổn phận của chúng ta.

Nhìn vào bản đồ Đại Tống chúng ta chẳng lẽ chư vị đại nhân không thấy xấu hổ sao?

Hơn nữa bây giờ Tây Hạ tấn công chúng ta, không phải chúng ta chủ động tấn công, khơi mào chiến tranh. Đối mặt với cuộc tấn công của Tây Hạ, chúng ta còn có sự lựa chọn khác sao? Chúng ta chỉ còn cách hăm hở đánh một trận bảo vệ quốc gia”.

“Đỗ tướng quân nói sai rồi” Hàn Chuẩn lúc lắc đầu giống như chiếc trống lắc, ông ta cười khẩy nói: “Có thể dùng tiền để giải quyết sự việc này, tại sao lại muốn hy sinh tính mạng của ngàn vạn tướng sĩ?”

“Câm miệng!” Đỗ Văn Hạo nghiêm nghị cắt ngang lời của Hàn Chuẩn. Hắn quay người nhìn chằm chằm vào Hàn Chuẩn, hai mắt trợn tròn, vung tay nói: “Tại hạ vừa mới nói Thái Hoàng Thái Hậu đã trao quyền cho tại hạ định ra con đường xây dựng binh cường. Thái Hoàng Thái Hậu có nói người nhất quyết không thể tha thứ cho việc tiếp tục cống tiến hàng năm.

Nhất quyết không thể tiếp tục dùng tiền đổi lấy bình an. Thái Hoàng Thái Hậu nói tiền nhiều cầm đi nghịch nước cũng nhất định không mang đi mua lấy sỉ nhục. Thái Hoàng Thái Hậu còn nói chỉ có loại người không có cốt khí nhuyễn đản mới đi khúm núm cầu hoà (ý mắng chửi là người không dám đứng thẳng người làm việc).

Một khi muốn cầu hoà thì phải làm cho chúng cầu hoà với chúng ta. Là bọn chúng phải tiến cống tiền hàng năm để chúng ta lui binh. Đây mới là vương đạo. Đây mới là quân uy, quốc y của một thượng quốc”. Nếu luận về tranh luận, tài ăn nói, mỗi một quan văn đang ngồi ở đây đều trên cơ Đỗ Văn Hạo, đương nhiên là không phục lời nói của Đỗ Văn Hạo. Nhưng vấn đề là Đỗ Văn Hạo câu trước Thái Hoàng Thái Hậu, câu sau lại Thái Hoàng Thái Hậu.

Sau khi dựa vào lời nói của Thái Hoàng Thái Hậu, thêm mắm thêm muối nói một hơi, cuối cùng ngay chính Đỗ Văn Hạo cũng không biết câu nào là nguyên văn của Thái Hoàng Thái Hậu, câu nào chính là suy nghĩ của hắn.

Những câu nói của hắn khi người khác nghe vào tai mình lại trở thành của Thái Hoàng Thái Hậu.

Những viên quan này cũng biết Đỗ Văn Hạo là người tâm phúc bên cạnh Thái Hoàng Thái Hậu, một bước tiến thẳng từ quan Đề Hình tứ phẩm lên tới tam nha Đô Kiểm Điểm, hơn nữa vì hắn mà Thái Hoàng Thái Hậu mở rộng Tể chấp, một tiền lệ chưa từng có.

Chỉ dựa vào điều này đã đủ hiểu phân lượng của Đỗ Văn Hạo trong con mắt Thái Hoàng Thái Hậu. Đương nhiên không một ai dám nghi ngờ những lời này không phải là của Thái Hoàng Thái Hậu, cho dù vẫn đoán rằng bên trong có một chút cường điệu.

Nhưng cơ bản là không sai nên ai nấy cũng lập tức trầm ngâm.

Đỗ Văn Hạo thuật lại lời nói của Thái Hoàng Thái Hậu, đã chỉ ra quan điểm cứng rắn của Thái Hoàng Thái Hậu trong việc chủ chiến hành động quân sự.

Ngày nay Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính. Ý chỉ của nàng chính là thánh chỉ. Đó là quyết định cuối cùng.

Cho dù có tài ăn nói đám quan văn này cũng không dám phân cao thấp với Thái Hoàng Thái Hậu.

Nhất là đối với biến pháp, Thái Hoàng Thái Hậu là thủ lĩnh của phái bảo thủ. Trong khi đó ngoại trừ Vương Gi­ai và Đỗ Văn Hạo, tất cả những đại thần trong này đều thuộc phái biến pháp. Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính, những đại thần này còn có thể ngồi ngây ngốc ở đây hay không còn phải dựa vào sắc mặt của nàng.

Có ai dám làm trái lại ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu không? Trừ phi người đó không muốn cái mũ ô sa của mình.

Đối với những người trong này, chức vị lãnh đạo tối cao của Tể chấp vẫn là quan trọng nhất.

Không đáng vì một trận đánh với Tây Hạ ở biên giới mà làm cho Thái Hoàng Thái Hậu khó chịu hùng tâm binh cường của

Nhưng lúc trước lời nói của mấy người đều quá kiêu căng.

Đặc biệt là Chương Hoàng và Hoàng Lý còn phản đối gay gắt Đỗ Văn Hạo, lúc này đột nhiên muốn thay đổi thái độ, xuống thang khá nhiều.

Lúc này Vương Gi­ai mới ho khen một tiếng nói: “Tuy Thái Hoàng Thái Hậu là nữ lưu nhưng lại có ý chí kiên định không khoan nhượng của đấng mày râu. Lão hủ đã nhiều lần được thụ giáo hùng tâm tráng chí nước giàu binh cường của người.

Nếu chúng ta bẩm báo phương án hoà đàm nộp tiền tiến cống hàng năm, không nói việc có thể bị trả lại mà chỉ e còn khiến Thái Hoàng Thái Hậu nổi giận” Dù Vương Gi­ai không có ra mặt trực tiếp ủng hộ Đỗ Văn Hạo nhưng những lời nói của ông ta trực tiếp tỏ thái độ đó một cách rõ ràng. Hơn nữa ông ta còn chỉ ra vấn đề mấu chốt, ý tứ rất rõ ràng. Mặc dù Thái Hoàng Thái Hậu là nữ lưu, bản tính mềm yếu nhưng đó chỉ là sự mềm yếu bề ngoài. Dù sao bây giờ Thái Hoàng Thái Hậu đang nắm quyền, muốn tạo nên một sự nghiệp, đang trong lúc tinh thần hứng khởi. Lúc này đừng có ai nghĩ tới chuyện gây phiền phức với Thái Hoàng Thái Hậu. Một khi như vậy thì đừng nghĩ tới ngồi ở vị trí này nữa. Nhất định Thái Hoàng Thái Hậu sẽ bỏ cũ thay mới.

Hữu Tể tướng Thái Xác chính là người nắm bắt tình hình nhanh nhất. Ông ta chắp tay nói: “Đỗ tướng quân nói rất đúng. Quân ta thiếu ý chí quyết thắng khi thất bại liên tiếp. Dân cư và quân đội Đại Tống chúng ta gấp vô số lân so với Tây Hạ. Gạo và tiền thuế thu được cũng nhiều hơn gấp mười lần. Chúng ta hao tổn nhiều, bọn chúng còn hao tổn tới mức không chịu nổi.

Chiến tranh là do chúng áp đặt lên chúng ta, không phải là sự lựa chọn của chúng ta. Chúng ta cũng không còn sự lựa chọn nào khác, chỉ còn có thể đánh trận này.

Thà làm ngọc vỡ, không làm ngói lành. Bản tướng đồng ý với đề nghị xuất binh đánh dẹp của Đỗ tướng quân” Sự thay đổi của Thái Xác khiến mấy người Hàn Chuẩn có phần xấu hổ nhưng sở trường của những người này đều là a dua theo người khác, thấy gió trong đại điện đã đổi chiều, lập tức sắc mặt cũng thay đổi, thể hiện lòng căm phẫn tột độ.

Môn hạ thị lang Chương Hoàng nói vẻ căm hận: “Đúng vậy. Thà rằng chết vinh còn hơn sống quỳ. Có thể nhẫn cũng không thể nhẫn. Ty chức tán thành ý kiến của Đỗ tướng quân xuất binh tử chiến với Tây Hạ”

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên. Người này trở mặt thực sự còn nhanh hơn mở sách. Lúc trước ông ta còn chỉ thẳng vào mặt hắn bác bỏ ý kiến của hắn. Trong nháy mắt đã thay đổi đồng ý với hắn.

Rất am hiểu nghệ thuật làm quan, quả thực rất bội phục.

Hàn Chuẩn cũng thực sự quá quen thuộc với chuyện gió xoay chiều, cảm giác xấu hổ trong nháy mắt đã nhường chỗ cho một dáng vẻ căm hận, ông ta lên tiếng phụ hoạ: “Đúng vậy. Quân Tây Hạ xâm phạm biên giới của ta. Kế sách hoà đàm chỉ như là nuôi hổ trong nhà.

Bản quan vốn cho rằng quân ta suy yếu, chỉ e xuất binh không dễ đánh thắng nên mới đề nghị hoà đàm. Nhưng khi nghe Đỗ tướng quân nói Tây Hạ cũng bị nội thương chồng chất, càng không thể gánh chịu chiến tranh hơn so với chúng ta. Nếu một khi tiếp tục chiến tranh Tây Hạ tất không chịu nổi mà chủ động đề nghị đàm phán. Khi đó chúng ta không những huỷ bỏ được tiền tiến cống hàng năm mà có lẽ còn có thể đắc lợi cũng không chừng. Vì vậy bản quan cũng đồng ý với ý kiến của Đỗ tướng quân”.

Ba người Thái Xác đã chuyển hướng, đương nhiên ba người còn lại cũng phải chạy theo. Tất cả đều căm phẫn mắng Tây Hạ, quyết tâm tử chiến với Tây Hạ.

Kết quả này có phần vượt qua dự đoán của Đỗ Văn Hạo nhưng lại làm hắn­cao hứng, hắn cười vui vẻ, chắp tay nói: “Chư vị đại nhân. Trên phương diện chiến lược chúng ta coi thường kẻ thù nhưng trên phương diện chiến thuật chúng ta nhất định phải coi trọng kẻ thù. Nói thật bây giờ chúng ta vẫn chưa có năng lực thực sự để đánh bại hoàn toàn Tây Hạ vì vậy bây giờ vẫn chưa phải là lúc tử chiến một trận với Tây Hạ, chưa cần phải mở rộng quy mô, cùng phạm vi xung đột. Chúng ta chỉ cần tiến hành phản kích ở những nơi quân Tây Hạ xâm lấn, không cần phải tiến hành phản kích trên diện rộng”.

Vương Gi­ai mỉm cười, gật đầu nói: “Theo ý kiến của tướng quân, trận chiến này chúng ta nên đánh thế nào?”

“Ty chức cho rằng quân Tây Hạ dùng kỵ binh tiến hành tập kích quấy rối, bắt người cướp của ở biên giới. Lúc trước quân ta chỉ muốn truy kích kỵ binh quân địch muốn tiêu diệt chúng nhưng dùng bộ binh truy kích kỵ binh Tây Hạ thì quả là không thể tưởng tượng nổi. Đây chính là dùng sở đoán đấu với sở trường. Cũng giống như kiểu gậy ông lại đập lưng ông”.

Hàn Chuẩn hỏi: “Ý của Đỗ tướng quân là dùng kỵ binh truy kích kỵ binh Tây Hạ sao? Chỉ e là không thể làm được. Hiện tại kỵ binh chúng ta không thể nào bén gót kỵ binh Tây Hạ”.

“Cũng không phải” Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: “Nếu dùng kỵ binh đấu kỵ binh chúng ta sẽ gặp bất lợi, cũng là dùng sở đoản đấu sở trường.

Nhưng bộ binh của chúng ta lại mạnh hơn quân Tây Hạ. Ít nhất chúng ta cũng nhiều quân hơn chúng. Đây chính là ưu thế của chúng ta. Trước kia chúng ta không tận dụng đầy đủ ưu thế này của mình. Khi tấn công luôn chia ra mấy đường cùng tiến.

Làm như vậy cũng có chỗ tốt chính là khắp núi đồi tràn ngập quân của chúng ta, trông rất hoành tráng nhưng hiệu quả thực sự thì sao?”

Những đại thần Tể chấp này gần như đều không có kinh nghiệm cầm quân tác chiến nên đều im lặng chăm chú lắng nghe.

Dù sao Đỗ Văn Hạo người ta tốt xấu gì cũng có một lần cầm quân đánh quân Thổ Phiên, hơn nữa còn là thắng lợi lấy ít địch nhiều nên kinh nghiệm tác chiến của hắn nói ra vẫn có sức thuyết phục.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn tất cả mọi người trong đại điện rồi nói tiếp: “Hiệu quả đương nhiên là quá tệ.

Chúng ta chia quân ra mấy đường cùng tiến, bản thân sẽ lọt vào giữa kẻ thù. Tuy tổng binh lực của kẻ thù kém hơn nhiều so với chúng ta.

Nhưng mà đại bộ phận quân đội của chúng đều là kỵ binh, chúng có ưu thế tốc độ, có thể nhanh chóng tập trung binh lực, hình thành cục diện ưu thế về mặt binh lực, liên tiếp tấn công trên đường, tiến hành tiêu diệt từng bộ phận của chúng ta.

Cuộc chiến Kỳ Câu quan là một minh chứng tốt nhất. Lúc đó quân ta chia binh làm ba đường bắc tiến. Quân Liêu tập trung binh lực mạnh hơn đánh lộ quân phía đông trước, quân ta đại bại, làm toàn bộ phòng tuyến thất bại theo. Mặt khác cuộc chiến Linh Châu mấy năm trước với quân Tây Hạ cũng thế. Chúng ta chia binh ra làm năm đường. Quân Tây Hạ tập trung ưu thế binh lực, đánh từng đường một, tiêu diệt từng bộ phận quân ta”.

Vào triều Tống khi dụng binh chú trọng “Tương tòng trung ngự’. Tất cả kế hoạch tác chiến đều do triều đình “bế môn tạo xa” (nhắm mắt làm liều; xa rời thực tế; đóng cửa làm xe không quan sát đường sá - ví với chỉ theo ý chủ quan của mình mà làm việc, không cần biết đến thực tế khách quan) hoạch định trước, thậm chí còn cẩn thận lập ra bản đồ tác chiến.

Công việc này đôi khi còn do Hoàng Đế đích thân thảo ra.

Sau khi bản kế hoach tác chiến được lập ra, gi­ao cho tướng chỉ huy để bọn họ mang tới tuyền tuyến chấp hành.

Vào thời cổ đại việc thông tin liên lạc vô cùng lạc hậu. Đối với loại hình bố trí chiến thuật, phương thức tác chiến tưởng tượng này giống như là mò trăng đáy nước. Trong khi đó thống soái ra trận lại chủ yếu là quan văn không hiểu quân sự, chỉ biết tuân theo kế hoạch tác chiến đó một cách mù quáng.

Khi quân đội hai bên tác chiến với nhau, xuất hiện vô số tình huống bất ngờ, quân tình thay đổi trong nháy mắt. Dù là thiên tài quân sự cũng không có khả năng dự đoán. Chỉ có thể căn cứ vào tình hình quân sự trước mắt để định ra kế hoạch tác chiến phù hợp vì vậy mới có câu ngạn ngữ: “Tướng ở bên ngoài có thể không tuân theo quân lệnh”.

Nhưng bình thường những thống soái lãnh binh của Đại Tống không dám làm trái chiến thuật, kế hoạch tác chiến do đích thân Hoàng Đế định ra, tuân theo một cách cứng nhắc. Đây cũng chính là nguyên nhân quân Tống hễ ra trận là thất bại. Trong việc dụng binh với Tây Hạ, kế hoạch tác chiến với Tây Hạ thường do Xu Mật viện định ra.

Đối với cuộc chiến Linh Châu với Tây Hạ, khi đó Hàn Chuẩn mới nhậm chức Viện sứ Xu Mật viện ba tháng, đích thân chủ trì lập kế hoạch tác chiến.

Việc chia bnh thành năm lộ cũng là ý của ông ta. Ông ta thấy Đỗ Văn Hạo chê bai điều đó nên nóng mặt, cười gượng nói: “Thì ra Đỗ tướng quân cũng rất am hiểu binh pháp. Bội phục, bội phục! Chắc hẳn đã trải qua Võ Học sao? Đọc qua những binh thư tinh hoa nhất sao?”

“Võ Học” ở đây theo như lời Hàn Chuẩn nói chính là viện dạy tri thức quân sự do triều đình Bắc Tống thiết lập.

Đỗ Văn Hạo không vì bản thân mình chưa học qua quân sự mà không dám lãnh binh tác chiến. Triều Đại Thanh từng có rất nhiều tướng soái lừng danh không trải qua bất kỳ một hệ thống quân sự nào, càng không học qua binh pháp gì cả.

Chiến thuật bọn họ sử dụng phần lớn đến từ chính bộ sách “Tam Quốc Diễn Nghĩa’, cũng như thu thập kinh nghiệm tác chiến trong quá trình chiến đấu lâu dài.

Vì thế tri thức tác chiến quân sự cũng không nhất thiết phải học tập qua sách vở, binh pháp ở trường, cũng có thể thu hoạch thông qua các cuốn truyện khác nhau.

Ở xã hội hiện đại, bùng nổ tri thức. Có thể học hỏi được bất kỳ tri thức quân sự nào. Ví dụ có thể thông qua các quyển sách về đề tài chiến tranh, các tin tức đưa trên ti vi, đặc biệt là hai cuộc chiến tranh thế giới có quy mô toàn thế giới, có thể thu lượm được rất nhiều tri thức quân sự từ đó. Muốn tìm hiểu cũng không mấy khó khăn. Một khi tiếp xúc với những trận đánh điển hình nhiều lần, có thể hiểu rõ cách dùng binh.

Vì thế nói chỉ nói đơn thuần trong việc bàn luận về tri thức quân sự, Đỗ Văn Hạo tuyệt đối hiểu biết hơn rất nhiều so với bất kỳ vị Đại tướng nào của Đại Tống.

Vì vậy khi Đỗ Văn Hạo nghe Hàn Chuẩn nói mấy câu mỉa mai đó, hắn cũng không tức giận. Hắn thản nhiên nói: “Tại hạ chưa học qua Võ Học, cũng không hiểu binh pháp nhưng mà cũng không chưa ăn thịt heo cũng đã thấy lợn chạy qua (Đây là câu tục ngữ ý nói: Một người dù không tự mình trải qua một sự việc nhưng được nghe nói nên cũng hiểu chút ít)

Bên cạnh tại hạ có hơn mười tướng sĩ đã từng tác chiến với quân Tây Hạ. Tại hạ thường xuyên nghe bọn họ giảng giải kinh nghiệm tác chiến cũng có hiểu được một ít.

Khi Thái Hoàng Thái Hậu đề bạt tại hạ làm tam nha Đô Chỉ Huy Sứ, vì để không làm nhục sứ mạng của mình, tại hạ đã rành thời gi­an một tháng cẩn thận nghiên cứu qua những trận đánh điển hình của quân ta cùng quân Đại Liêu và quân Tây Hạ.

Vì vậy tại hạ có hiểu được cái được cái mất của các b. Đây chỉ là một số kiến giải vụng về của tại hạ”.

Tể tướng Vương Gi­ai nói: “Đỗ tướng quân quá khiêm nhường. Bây giờ Đỗ tướng quân là Đại tướng nổi danh cả nước. Năm trước lãnh binh đã lấy ít thắng nhiều, tiêu diệt hoàn toàn hai vạn quân Thổ Phiên. Khi đó tin chiến thắng báo cề, cả nước chung vui”.

Vương Gi­ai quay đầu nhìn Hàn Chuẩn, vuốt chòm râu bạc trắng cười nhạt nói: “Vừa rôi nghe Hàn đại nhân nói mới biết thì ra Hàn đại nhân cũng đọc qua binh thư, am hiểu tường tận binh pháp. Không biết Hàn đại nhân đã từng lãnh binh đánh trận chưa? Tiêu diệt được bao nhiêu quân Tây Hạ?”

Lập tức gương mặt già nua của Hàn Chuẩn đỏ ửng lên, nhưng ông ta không dám phản ứng với Tể tướng Vương Gi­ai, chỉ biết cười ngượng ngùng, thở dài nói: “Thật hổ thẹn. Ty chức chưa từng cầm quân. Ty chức luôn tán thưởng chiến công của Đỗ tướng quân. Khi nghe qua Đỗ tướng quân nói vậy, trong lòng lại càng kính nể Đỗ tướng quân”.

“Ha ha ha” Vương Gi­ai đã có ước định với Đỗ Văn Hạo, gả nữ nhi bảo bối của mình được xưng là đệ nhất mỹ nữ kinh thành cho Đỗ Văn Hạo.

Bây giờ chuyện này người trong toàn kinh thành cũng biết, giờ nhìn thấy nhạc phụ tương lai che chở cho con rể của mình, đương nhiên không ai dám ăn nói lỗ mãng với Đỗ Văn Hạo.

Vương Gi­ai mỉm cười nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Đỗ tướng quân, theo ý kiến của tướng quân, lần này xuất binh nên dùng cách gì để khác chế quân Tây Hạ?”

“Dùng sở trường của mình khắc sở đoản của địch”.

“Cái gì là sở trường của quân ta? Sở đoản của quân Tây Hạ là gì?”

“Quân ta đông, số lượng vượt gấp nhiều lần tổng binh lực quân Tây Hạ, binh nhiều tướng mạnh.

Lương thảo của quân ta cũng nhiều, hậu cần đảm bảo hơn quân Tây Hạ.

Những ưu thế này của quân ta lại là những nhược điểm của quân Tây Hạ. Ngoại trừ việc số lượng binh lực của quân Tây Hạ thua xa rất nhiều quân ta. Đối với các tướng sĩ quân Tây Hạ tham gia tác chiến với quân ta, hậu cần quân Tây Hạ gần như không đảm bảo nổi. Kỵ binh cũng như bộ binh của chúng gần như đều không có cung cấp lương thảo. Trong quân của chúng có kỵ binh chuyên môn phụ trách việc toả ra bốn phía đánh cướp lương thảo, cỏ cho ngựa để cung ứng lương thảo cho đại quân.

Một khi gặp phải địch nhân dùng chiến thuật vườn không nhà trống, quân Tây Hạ sẽ không thể nào duy trì được việc tác chiến liên tục.

Vì vậy bình thường quân Tây Hạ đều chọn phương pháp dụ địch nhân xâm nhập để tiêu diệt mà không chủ động tiến quân thần tốc.

Đương nhiên sau khi thắng lợi chúng sẽ nhân cơ hội tiến vào nội địa nước ta, đánh cướp một hồi rồi mới ngang nhiên quay về”.

‘Ừ. Phân tích rất có lý. Bình thường quân Tây Hạ đánh cướp, chúng có xâm nhập sâu vào nội địa nước ta không?”

“Căn cứ vào việc phân tích những trận tác chiến điển hình của quân ta và quân Tây Hạ thì thấy chúng sẽ không xâm nhập vượt quá một trăm dặm.

Đây chính là giới hạn xâm nhập rành cho chiến mã của chúng.

Bởi vì một khi vượt qua giới hạn này, một khi không tìm thấy lương thảo, đồng thời bị quân địch quấy rối, không thể nào kịp thời thoát thân thì rất có thể sẽ mất sức chiến đấu vì mất lương thảo. Điều này quả thực rất nguy hiểm”.

Tất cả mọi người đều gật đầu. Thật ra không phải tất cả mọi người ở đây đều không biết hai đặc điểm này.

Tể chấp chủ yếu là quan tâm tới yếu tố chiến lược. Bọn họ rất ít khi quan tâm tới những vấn đề nhỏ nhặt này.

Nghe Đỗ Văn Hạo nói bọn họ cảm thấy rất mới lạ.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: “Nhằm vào đặc điểm này của quân Tây Hạ. Nguyên tắc cơ bản của chiến thuật quân ta có hai điều: Thứ nhất là tư tưởng. Phải thông báo cho toàn thể tướng sĩ từ trên xuống dưới, tất cả đều phải hiểu rõ tư tưởng đánh lâu dài, ngăn chặn tư tưởng mạo hiểm tốc chiến tốc thắng nguy hiểm. Thứ hai thực hiện vườn không nhà trống. Di dời toàn bộ dân chúng dọc theo tuyến biên giới tác chiến trong phạm vi một trăm dặm vào nội địa. Tất cả những gì có thể ăn, có thể xử dụng đều phải chở đi khiến quân Tây Hạ tới mà không cướp được lương thảo. Điều thứ ba của chiến thuật là kiên quyết dùng chiến thuật thành luỹ như tằm ăn rỗi. Bức quân Tây Hạ không thể quyết chiến chính diện với chúng ta. Khi đó sẽ giống như ván cờ tàn.

Chiến thuật đánh ráp lá cà làm hao tổn thực lực, rơi vào thế phải liều mạng nhưng cuối cùng chúng tất phải đầu hàng chúng ta”.

Chương 410: Tân biến pháp.

Đương nhiên mấy người Thái Xác không hiểu từ “chiến tranh thành luỹ” mà Đỗ Văn Hạo nói nên đều quay mặt nhìn hắn.

Thái Xác nói: “Đỗ tướng quân. Nếu như là chiến tranh kéo dài, chúng ta tổn thất nhiều quá chỉ e Thái Hoàng Thái Hậu sẽ không đồng ý”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Đó là đương nhiên. Chúng ta không e ngại lâm vào chiến tranh nhưng chúng ta cũng muốn tận dụng khả năng để tránh chiến tranh.

Bởi vì bây giờ chúng ta còn chưa nắm chắc sẽ thắng nên mới không mở rộng chiến tranh, muốn dùng chiến hoà. Có nghĩa là trong thời gi­an tác chiến nếu quân Tây Hạ đưa ra đề nghị hoà đàm, chúng ta có thể để chúng tới biên giới đàm phán, đồng thời lại dùng thắng lợi trên chiến trường, buộc chúng nhượng bộ. Điều này gọi là chiến hoà”.

Chiêu này của Đỗ Văn Hạo đương nhiên học được qua chiến tranh Triều Tiên.

Nghe vậy mọi người đều gật đầu.

Hàn Chuẩn vuốt râu nói: “Đỗ tướng quân. Theo như lời tướng quân nói lúc trước.

Hai chiến thuật đó lúc trước chiến tranh với quân Tây Hạ và Đại Liêu, quân ta đã thử dùng qua. Tướng quân đã nghiên cứu qua các trận đánh điển hình hẳn cũng biết hiệu quả cũng tạm được”.

“Đó là bởi vì không có điều thứ ba” Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Trước kia chúng ta sử dụng chiến thuật vườn không nhà trống, tư tưởng cũng cường điệu là đánh lâu dài. Nhưng một khi xảy ra chiến trận, trước khi xuất trận tướng soái lãnh binh cực kỳ tin tưởng, chia binh tấn công.

Tất cả đều liều lĩnh tham công, nhìn thấy quân địch dễ dàng sụp đổ liền diễu võ dương oai cho là mình vô địch thiên hạ, dẫn quân đánh sâu vào nội địa mà không biết là mình bị quân thù dẫn dụ xâm nhập.

Kết quả là bị kẻ thù tập trung ưu thế binh lực một trận tiêu diệt. Vấn đề mấu chốt của tại hạ chính là điều thứ ba. Chỉ có quán triệt thông suốt điều thứ ba, thực hiện tốt, kế sách vườn không nhà trống mới có tác dụng”.

Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi nói: “Đỗ tướng quân. Hai điểm trước của tướng quân chúng ta đều có thể hiểu. Điểm cuối cùng chiến tranh thành luỹ là có ý gì?

Tướng quân có thể giải thích kỹ lưỡng cụ thể áp dụng điều này không?”

Chiến thuật thành luỹ tằm ăn rỗi là Đỗ Văn Hạo đã học được trong thời kỳ chiến tranh cách mạng ruộng đất. Quốc Dân Đảng đã áp dụng thành công chiến thuật này trong lần thứ năm tấn công các khu Xô - Viết.

Đỗ Văn Hạo đã nhiều lần nghiên cứu kinh nghiệm tác chiến của Đại Tống với Tây Hạ. Hắn đã nhiều lần tự hỏi nếu như mình chỉ huy tác chiến cùng Tây Hạ thì sẽ áp dụng chiến thuật tác chiến như thế nào.

Giờ đây khi hắn đã bước vào Tể chấp, có quyền quyết định, đương nhiên sẽ không khiêm nhường.

Hắn quyết tâm dùng chiến tranh cục bộ này để thử nghiệm tư tưởng chiến lược của mình có được tiến hành thông suốt hay không để chuẩn bị cho các chiến dịch quy mô lớn sau này.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: “Đồng thời với việc làm vườn không nhà trống ở khu vực biên giới, sẽ xây dựng chiến trại ở biên giới. Mỗi chiến trại có một đô nhân mã trú đóng (Tống binh biên chế mỗi đô là một trăm quân), dùng hàng rào cự mã vây quanh chiến trại. Bốn phía xung quanh đào hào cự mã cùng công sự phòng ngự. Bên trong chiến trại chủ yếu sử dụng sàng nỏ bắn xa, thần tí cung (Thần tí cung do Tống Thần Tông thời Bắc Tống phát minh, thân cung dài ba xích ba, dây cung dài hai xích năm, tầm bắn xa đạt tới hơn ba trăm bốn mươi thước, được mệnh danh là vũ khí không gì bì nổi, trở thành một trong những loại vũ khí trang bị cho quân cung nỏ của Đại Tống) và cường nỗ. Tất nhiên cũng chuẩn bị Phong hoả đài đốt lửa báo hiệu. Tích trữ lương thảo và nước uống để dùng lâu dài.

Trong khi đó các chiến trại phân bố theo hình tam giác, hỗ trợ, dựa vào nhau. Mỗi toà chiến trại cách nhau năm trăm bước. Bởi vì tầm bắn của thần tí cung chúng ta ước chừng là hai trăm năm mươi bước (chừng bă trăm tám mươi mét) như vậy khi quân địch tiến vào tầm bắn có thể dùng hoả lực đan xen tiêu diệt”.

Hoàng Lý hỏi: “Điều này chỉ e không ổn. Quân địch có thể dùng máy bắn đá cự ly xa công kích hay tập trung binh lực tấn công chiếm trại thì sao? Khi đó thì cần phảo làm gì?”

“Không nên nóng vội! Tại hạ vẫn chưa nói xong.

Đại đội binh lực của chúng ta bố trí ở một chỗ cách không xa tuyến chiến trại của chúng ta. Đội kỵ binh bố trí ở phía trước để có thể nhanh chóng phối hợp tác chiến. Đóng ở sau chính là đại đội binh lực.

Như vậy một khi chiến trại có địch quân tẠcông, Phong hoả đầi đốt khói báo động làm hiệu.

Hậu quân sẽ lập tức tiếp viện, quyết chiến cùng quân địch.

Cần phải chú ý là hậu quân không được phân chia. Nhất định phải tập trung binh lực vào một chỗ. Nếu không rất có thể sẽ phạm phải sai lầm làm bừa.

Điểm chính của chiến thuật này chính là đánh bước nào củng cố bước ấy. Chiến trại như những chiếc vòi dài, vừa là thành luỹ tấn công, vừa là trạm gác tiền tiêu.

Đồng thời với sự hậu thuẫn của lực lượng bộ binh chiếm ưu thế, toàn tuyến chiến trại tấn công từng bước một, từng bước tiến mạnh về phía trước, bức quân địch không thể cùng quân ta quyết chiến chính diện, phát huy ưu thế binh nhiều tướng mạnh của quân ta, lấy nhiều đánh ít.

Nếu như quân địch bỏ chạy, tuyệt đối không thể tiến hành truy kích bởi vì chúng ta thận trọng tiến lên phía trước. Đối với những hạng người liều lĩnh tham công, bất luận là có lập công hay không đều xử trảm theo quân pháp”.

Đối với mọi người đây là lần đầu tiên nghe thấy loại chiến thuật này. Lâm Hi hỏi: “Vậy làm thế nào có thể tiến lên phía trước giống như tằm ăn rỗi?”

Quả thực Đỗ Văn Hạo cảm thấy nhức đầu: “Điều này rất đơn giản.

Chiến trại không phải là thành trì mà chỉ là hàng rào kỵ mã hình thành tường rào chướng ngại vật tạm thời, có thể di chuyển.

Chiến tuyến hình tam giác phân ra làm ba hàng.

Một hàng ở đỉnh phía trước, hai hàng phía sau. Hàng phía sau đồng loạt dỡ xuống di chuyển lên trên ít nhất hai tầm tên bắt đầu đống trại. Đồng thời đại đội binh lực bố trí phía sau bắt đầu nhổ trại tiến theo sau. Như vậy gọi là luân chuyển tiến lên phía trước.

Đây chính là từng bước xâm chiếm”.

Thái Biện cười ha hả nói: “Mỗi một chiến trại bố trí một trăm quân. Cứ mỗi khoảng cách năm trăm bước bố trí một chiến trại. Xin hỏi Đỗ tướng quân. Biên giới Tây Hạ và Đại Tống chúng ta kéo dài mấy ngàn dặm. Tướng quân định chuẩn bị bao nhiêu binh lực tác chiến? Chỉ e là một trăm vạn quân cũng không đủ? Ha ha. Tần Thuỷ Hoàng xây tường thành còn không vây hết Hoa Hạ lại”

“Chỉ cần thiết lập chiến trại ở các khu vực quan trọng là” Trong khoảng thời gi­an này Đỗ Văn Hạo chuyên tâm nghiên cứu tình hình tác chiến Tây Hạ nên hắn đã tương đối quen thuộc với các địa phương xung yếu ở biên giới hai nước. Đỗ Văn Hạo sai thân binh mang lên một tấm bản đồ biên giới Tống Hạ.

Đỗ Văn Hạo mở bản đồ ra, chỉ vào vùng Hoàn Châu nói: “Đây là chiến trường gi­ao chiến chủ yếu của quân ta và quân Tây Hạ. Từ chỗ này khoảng cách tới kinh thành Tây Hạ là gần nhất.

Chỉ cách phủ Hưng Khánh, kinh thành Tây Hạ có mấy trăm dặm. Chỉ cần giục ngựa giơ rôi trong hai ba ngày là tới chân thành kinh đô Tây Hạ. Vì thế chúng ta dùng Hoàn Châu làm căn cứ tổng hậu cần, tập trung toàn bộ vật tư chiến tranh ở đây. Binh lực cũng tập trung chủ yếu ở vùng này, biến vùng này thành vườn không nhà trống. Bắt đầu kiến tạo chiến tuyến chiến trại đầu tiên sau đó thận trọng tiến lên như tằm ăn rỗi”.

Hàn Chuẩn hỏi: “Nếu như đẩy quân địch lui về các thành trấn thì sao? Nên làm gì để ép chúng bỏ thành trì?”

“Dùng vũ lực ép chúng bỏ thành”.

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, Lâm Hi lại hỏi: “Bức như thế nào?”

“Trước hết vây kín ba mặt, chỉ chừa đường lui ở cửa bắc, dùng đại pháo công thành và vũ khí công thành nhưng không được công thành.

Những nơi còn lại tiếp tục tiến lên phía trước.

Nếu như viện binh quân địch tới tiếp viện thì lại chính là vây điểm đánh viện binh.

Khi quân địch rút lui tuyệt đối không thể truy kích. Tiếp tục tiến lên phía trước như chiến thuật của quân ta.

Quân thủ thành nhìn thấy thành sắp bị bao vây chặt. Nhất định chúng sẽ chọn cách bỏ thành chạy trốn. Nếu chúng không bỏ trốn thì lập tức vây thành bốn xung quanh nhưng không được công thành.

Đến giây phút cuối cùng quân địch hoặc bị ép phải ra khỏi thành quyết chiến hay là đầu hàng. Thành thì bị phá”.

Hàn Chuẩn suy nghĩ một lát rồi gật đầu nói: “Ta thấy phương án tiến lên trước từng bước có thể thực hiện được”.

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Chiến tuyến của quân ta thận trọng tiến lên phía trước. Mỗi lần chúng ta tiến lên trước một bước là một bước tiến gần tới kinh thành Tây Hạ. Tây Hạ sẽ càng khẩn trương hơn, sớm muộn sẽ bức được chúng quyết chiến cùng với quân ta.

Trong khi đó một khi tiến hành quyết chiến quy mô lớn, quân ta có thể phát huy tối đa ưu thế binh lực của mình.

Một khi chúng ta có thể tiêu diệt đại bộ phận quân Tây Hạ hay chiếm được kinh thành Tây Hạ, toàn bộ phòng tuyến Tây Hạ sẽ sụp đổ”.

Thái Xác nói: “Kế hoạch tác chiến này của Đỗ tướng quân nghe rất mê người. Ha ha ha. Nhưng loại chiến thuật này quân ta chưa từng áp dụng bao giờ, cũng không biết hiệu quả tới mức nào”.

Vương Gi­ai nói: “Ta lại cảm thấy có thể làm được. Thận trọng, tiến tới đâu ăn chắc tới đó. Chiến thuật thành luỹ cùng với chiến tranh tằm ăn rỗi. Điều này có thể chậm rãi, từng bước một tiến lên phía trước.

Ít nhất còn an tâm hơn nhiều so với việc triệu tập hơn mười vạn quân tấn công quy mô lớn.

Ta tán thành chiến pháp này” Vương Gi­ai là quan Tể tướng đầu triều. Ông ta đã tỏ thái độ tán thành, trong lòng những người khác cũng bắt đầu thầm cân nhắc.

* Sàng nỏ Thần tí cung cường nỏ

Tuy chiến pháp này của Đỗ Văn Hạo lần đầu tiên bọn họ nghe thấy. Nhưng tư tưởng cơ bản của chiến thuật này là lấy thủ làm công, thận trọng, chậm rãi tiến lên. Chiến thuật này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng chiến thuật phòng ngự truyền thống của quân đội Đại Tống, cũng có thể phát huy ưu thế phòng thủ truyền thống của quân Đại Tống nên bọn họ dễ dàng chấp nhân nên ai nấy cũng chậm rãi gật đầu.

Thái Xác mỉm cười nói: “Chiến pháp này mới lạ như vậy, chỉ e nếu để người khác lại không nắm bắt được điểm mấu chốt. Bản tướng tiến cử Đỗ tướng quân là binh mã Đại nguyên soái, thống nhất chỉ huy. Chẳng hay chư vị nghĩ thế nào?’

Đương nhiên tất cả mọi người đều lên tiếng đồng ý, kể cả Vương Gi­ai cũng gật đầu nói: “Chi bằng hãy để Đỗ tướng quân toàn quyền phụ trách mới có thể đảm bảo chiến pháp này không bị biến dạng”.

Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Ty chức đa tạ chư vị đại nhân tín nhiệm. Ty chức cung kính không bằng tuân lệnh, đảm nhiệm chức binh mã Đại nguyên soái của chiến dịch lần này.

Nhưng vấn đề là Thái Hoàng Thái Hậu đã lệnh cho ty chức tiến hành chỉnh đốn quân đội vì thế ty chức không thể ra tuyền tuyến trực tiếp chỉ huy tác chiến. Hơn nữa cũng nói thật ty chức chưa quen thuộc binh pháp, trực tiếp chỉ huy tác chiến chỉ e rất khó giành thắng lợi.

Tốt hơn hết vẫn nên bổ nhiệm một vị tổng chỉ huy mặt trận, cụ thể là phụ trách chỉ huy tác chiến ở tuyền tuyến”.

Thái Xác nói: “Điều này chỉ sợ người khác rất khó có thể hiểu hết ý nghĩa tác chiến của tướng quân, khi đó sẽ xảy ra sự cố không hay”.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Chỉ cần vị tổng chỉ huy mặt trận này bố trí tác chiến hoàn toàn dựa theo sắp đặt của ty chức là được. Bởi vì ý nghĩa tác chiến đã định hình. Trước tiên thiết lập cảnh vườn không nhà trống trong phạm vi một trăm dặm ở biên giới sau đó bắt đầu tiến hành kiến tạo tuyến chiến trại ở tuyến đầu, dùng cường nỏ cự địch, Phong hoả đài cảnh báo. Tuyến hai bố trí kỵ binh nhanh chóng phối hợp tác chiến. Tuyến ba bố trí đại đội binh lực chiếm ưu thế, chuẩn bị quyết chiến với quân địch.

Những vấn đề này tổng chỉ huy mặt trận chỉ cần bố trí đúng theo kế hoạch. Nơi nào cần xây dựng chiến trại, tổ chức tuyến hai. Địa điểm bố tí binh lực tuyến ba, quân địch tấn công thì ứng chiến thế nào.

Chỉ cần nhớ kỹ những điều này là có thể đẩy mạnh chiến thuật chiến trại vững bước tiến lên phía trước. Toàn bộ chiến tuyến chỉ có thể phòng thủ bị động, không được chủ động tấn công ra bên ngoài.

Phàm người nào liều lĩnh cho dù có đánh bại tiêu diệt quân địch thì cũng phải xử trảm. Đây chính là sự nghiêm minh của quân luật.

Tác chiến như vậy, nhiệm vụ tác chiến của tổng chỉ huy mặt trận sẽ tương đối đơn giản. Bình thường sẽ không phạm phải sai lầm lớn”.

“Chư vị đại nhân nghĩ thế nào?” Vương Gi­ai đã ước định hôn lễ của Đỗ Văn Hạo và nhi nữ bảo bối vào đầu tháng sáu. Đương nhiên lúc này ông ta không muốn để Đỗ Văn Hạo chạy ra tuyền tuyến chỉ huy tác chiến nên lập tức gật đầu nói: “Bản tướng cảm thấy Đỗ tướng quân nói rất đúng. Đỗ tướng quân phụ trách chỉnh đốn quân đội toàn diện. Đây chính là đại sự Thái Hoàng Thái Hậu quan tâm nhất.

Đặc điểm của chiến pháp này là thận trọng, vững chắc tiến lên trước, không liên quan tới chiến pháp phức tạp. Tướng soái bình thường cũng có thể đảm nhiệm được.

Nhưng cần phải có giám sát để tướng soái không thể liều lĩnh để tránh bị quân địch bao vây”.

Thái Xác nói: “Chức vị tổng chỉ huy mặt trận này do ai đảm nhiệm?”

Vương Gi­ai suy nghĩ một lát rồi nói: “Chức vụ tổng chỉ huy mặt trận hãy do Tư chính Đại học sĩ, Ngự sử trung thừa Lữ Công đẩm nhiệm, Tuyên Khánh sứ Lý Hiến làm giám quân”.

Đỗ Văn Hạo chắp tay hỏi: “Tể tưướng đại nhân, xin hỏi Lữ Công đại nhân là quan văn hay là võ tướng?”

“Quan văn”.

“Vậy còn Lý Hiến, người này đã từng cầm quân chưa?”

“Cũng đã từng cầm quân. Lần chinh chiến Tây Hạ trước đã từng đảm nhiệm chức giám quân”.

Đỗ Văn Hạo cố gắn suy nghĩ để tìm ra từ diễn đạt phù hợp.

Hắn khom người nói: “Ty chức cho rằng khi đối địch dụng binh vẫn do võ tướng cầm quân thì tốt hơn.

Dù sao khi cầm quân tác chiến nhất định phải am hiểu binh pháp, quen thuộc quân sự. Chỉ có người tài năng hiểu được cách cầm quân mới có thể đảm nhiệm được”.

Vương Gi­ai và Thái Xác đưa mắt nhìn nhau. Thái Xác nói: “Đỗ tướng quân. Quan văn lãnh binh chính là di chiếu của Thái Tổ. Từ thời xưa đã vậy”.

Đỗ Văn Hạo đã cẩn thận nghiên cứu qua cái được cái mất của chiến tranh Đại Tống với Tây Hạ và Đại Liêu nên hắn hiểu rất rõ. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến quân Tống thất bại liên tiếp. Đúng vậy phần lớn các cuộc chiến của Đại Tống đều do quan văn không hiểu quân sự cầm quân.

Nhưng mà nếu nói thẳng ra như vậy nhất định sẽ đắc tội với các đại thần trong Tể chấp. Hắn mới đặt chân vào Tể chấp nên chưa muốn đắc tội với quá nhiều người. Dù sao thì Tể chấp cũng quyết định sự việc theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số.

Vừa rồi những người này đã nhượng bộ, đồng ý với kế hoạch dụng binh của hắn.

Bọn họ còn đồng ý phương án tác chiến của hắn. Bây giờ giống như ngọn cờ no gió, hắn không thể vì việc này mà làm mối quan hệ thêm căng thẳng.

Hơn nữa kiến nghị vẫn chờ cha vợ tương lai là Vương Gi­ai phát biểu.

Hắn lại càng không thể tranh cãi lại, chỉ có thể tìm đường khác giải quyết vấn đề này, nhất định phải tìm tới Thái Hoàng Thái Hậu để nàng thay đổi quyết định này.

Hàn Chuẩn lại nói: “Vậy cần phải xuất bao nhiêu binh lực?”

Tả thừa Thượng thư Thái Biện nói: “Đỗ tướng quân nói chiến thuật này chủ yếu dùng ưu thế binh lực làm hậu thuẫn. Vì vậy nếu xuất binh ít chỉ e không ổn. Ty chức cho rằng xuất năm vạn quân. Chư vị đại nhân nghĩ thế nào?”

Hàn Chuẩn nói: “Lấy quân binh lộ nào?”

Thái Biện nói: “Chiến sự xảy ra ở chính lộ Hoàn Khánh, đương nhiên là phải dùng toàn bộ binh lực lộ Hoàn Khánh. Hình như binh lực lộ Hoàn Khánh có cửu tướng phải không Đỗ tướng quân?”

Bản thân Đỗ Văn Hạo là tam nha Đô Kiểm Điểm, sau khi nhậm chức việc cấp bách đầu tiên là phải tìm hiểu việc bố trí binh lực trong cả nước. Vì vậy trong một tháng qua hắn đã tìm hiểu rất rõ ràng các lộ binh lực bố trí trong cả nước. Hắn liền gật đầu nói: “Thái đại nhân nói không sai. Hiện tại quân đội bố trí ở lộ Hoàn Khánh có cửu tướng cùng với hơn bảy vạn người. Hơn tám ngàn chiến mã. Chỉ có điều trong số đó có chừng bốn phần là Sương quân.

Còn một phần là Phiên binh gì đó, hương binh địa phương cùng quân cung thủ nha môn địa phương”.

Vốn Tống Thần Tông muốn thay đổi chế độ xã hội, tiến hành thay đổi chế độ xây dựng quân đội, thực hiện binh tướng pháp kết hợp đội pháp.

Cái gọi là nội quy quân đội “Tương” của ông ta giống như quân đoàn hỗn hợp của xã hội hiện đại.

Chủ yếu dùng cấm quân là chính.

Ngoài ra còn có Sương quân trú đóng ở địa phương, Phiên quân, Hương binh cùng quân cung thủ nha môn địa phương được sắp xếp trong biên chế.

Bởi vậy quân số của mỗi loại quân không giống nhau, chênh lệch rất lớn. Nhiều thì hơn một vạn, ít thì mấy ngàn.

Hàn Chuẩn hỏi: “Vậy chúng ta có bao nhiêu Cấm quân ở đó?”

“Nếu như tại hạ nhớ không lầm thì Cấm quân Hoàn Khánh có bốn vạn người”.

Vương Gi­ai cau mày nói: “Vẫn còn chưa đủ. Cũng không thể điều động toàn bộ binh lực của Kinh Lược Ti Hoàn Khánh lên trước”.

Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Theo như ty chức thấy. Đây là một trận chiến đánh lâu dài vì vậy không thể chỉ trông cậy vào binh mã của một lộ quân để giải quyết vấn đề. Lúc này hẳn nên tiến hành thay đổi pháp chế quân sự. Hãy lấy toàn bộ sáu lộ binh mã của Thiểm Tây lục lộ an phủ ti đưa vào phạm vi điều động cho chiến dịch lần này”.

Hàn Chẩn kinh ngạc nói: “Tổng số nhân mã của sáu lộ này có bao nhiêu?”

Những con số này Đỗ Văn Hạo đã ghi nhớ hắn liền giơ ngón tay nói: “Hoàn Khánh Kinh Lược ti là quân tác chiến chính diện với quân Tây Hạ của chúng ta vì vậy nên bố trí tại đây số binh lực chiếm từ ba tới bốn phần tổng binh lực của cả nước. Tổng nhân số đại khái từ ba mươi tới bốn mươi vạn quân. Đương nhiên trong số này có tính cả Sương quân và các loại quân không thể tác chiến chỉ có thể vận lương cùng các công việc phụ trợ. Cấm quân chính thức tác chiến ở đây chừng hai mươi vạn”.

Hàn chuẩn nói: “Hai mươi vạn sao? Vậy có nhiều quá không? Trong khoảng thời gi­an này quân Tây Hạ mỗi lần quấy nhiễu cũng không tới một vạn quân, chỉ khoảng bốn, năm ngàn quân gì đó.

Hai mươi vạn binh lực chúng ta xuất quân chinh phạt. Thứ nhất giết gà dùng dao mổ trâu. Thứ hai rút hết binh lực ở các địa phương khác có thể khiến cho không còn binh lực, quân địch sẽ thừa cơ tràn vào”.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Quân ta bố trí dọc theo tuyến phía bắc Hoàn Châu, ở chỗ gần với kinh thành Tây Hạ nhất. Mỗi một bước tiến lên phía trước là một bước tới gần kinh thành quân Tây Hạ.

Nếu như quân địch tập kích gây rối ở địa phương khác, quân ta vẫn không thể chia binh, vẫn tiếp tục xâm nhập phía trước.

Trước tình huống kinh thành Tây Hạ bị uy hiếp, quân Tây Hạ tuyệt đối sẽ không dám rút binh lực bảo vệ kinh thành đi đánh lén nơi khác

Chúng tất sẽ tập trung binh lực ngăn cản tuyến đầu quân ta.

Chính vì vậy các địa phương khác sẽ không bị quân Tây Hạ xâm lấn quy mô lớn. Mặc dù có đi chăng nữa cũng chỉ là vây Nguỵ cứu Triệu mà thôi để phân tán binh lực chúng ta”.

Hàn Chuẩn gật đầu nói: “Nói vậy cũng đúng”.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: “Lúc trước sở dĩ ty chức đề nghị dùng binh lực sáu lộ Thiểm Tây Lục lộ an phủ ti tham gia chiến dịch này, không phảo là mang tất cả binh lực tập trung ở đó mà chúng ta sẽ tiến hành chế độ thay phiên tác chiến.

Nói một cách đơn giản chính là binh mã của lục lộ an phủ ti đều thay nhau ra trận tác chiến cùng quân địch.

Mỗi lần thay phiên hai đạo nhân mã. Cấm quân trực tiếp tác chiến không thể ít hơn năm vạn quân. Sương quân phụ trách quân nhu có thể không theo giới hạn đó. Thời hạn thay phiên là nửa năm một.

Việc thay nhau ra trận như vây thứ nhất có thể tránh cho tướng sĩ tác chiến lâu dài quá mệt mỏi.

Thứ hai tướng sĩ của tất cả các lộ binh mã đều có thể thay nhau ra trận.

Tôi luyện sức chiến đấu, khảo nghiệm tướng sĩ, chuẩn bị cho sau này tác chiến quy mô lớn”.

Vương Gi­ai khen ngợi: “Chủ ý này rất hay! Thay nhau ra trận. Nửa năm một vòng. Mỗi lần đổi phiên năm vạn lập tức ra trận”.

“Hay” Mọi người đều đồng ý. Tể tướng đầu triều đã tán đồng, mọi người cũng hiểu được vị Tể tướng này đã bao che cho con rể tương lai của mình.

Trong khi đó đây cũng không phải là vấn đề có tính nguyên tác gì cả.

Chủ yếu là phương pháp này phù hợp với đòi hỏi của chiến thuật đánh lâu dài nên tất cả đều đồng ý với đề nghị của Đỗ Văn Hạo.

Chương 411: Hai lão sư của Hoàng Thượng.

Keng keng keng

Tiếng kẻng đột nhiên vang lên. Vương Gi­ai cười nói: “Vừa vặn tới lúc nghỉ trưa. Sáng nay tới đây thôi. Hai vấn đề còn lại, buổi chiều tiếp tục thảo luận. Ha ha ha. Bản tướng cảm thấy buổi thảo luận chính sự hôm nay là lần thành công nhất, có dũng khí đưa ra ý kiến phản đối, cố gắng tranh luận. Hay!”

Mọi người thấy ông ta không chỉ đích danh Đỗ Văn Hạo, chỉ phất tay áo cười nói thì cả đám cũng vuốt râu gật gù.

Tể chấp thảo luận chính sự luôn có tiệc rượu riêng.

Sau khi cùng ăn cơm trưa còn có một khoảng thời gi­an nghỉ trưa.

Đỗ Văn Hạo không có thói quen nghỉ trưa. Hơn nữa vẫn còn nhiều chuyện hắn cần giải quyết nên hắn không muốn lãng phí thời gi­an ngủ trưa.

Đỗ Văn Hạo đi thẳng vào cung Duệ Tư của Tống Triết Tông.

Nội thị trực ở cửa ra vào vội vàng cúi đầu, khom lưng nghênh đón hắn vào trong. Một nội thị khác đang định đi vào trong thông báo đã bị Đỗ Văn Hạo giữ lại nói: “Hoàng Thượng đâu? Sáng nay làm gì?”

Một nội thị cười nói: “Sáng nay Hoàng Thượng chuyên tâm học bài, chuẩn bị cho buổi khảo khí chiều nay”.

“Thật vậy sao? Ha ha. Nhị vị lão sư Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du đã tới đây chưa?”

“Đã tới. Buổi sáng đã tới rồi, đang giúp Hoàng Thượng học bài”.

“Đề bài đã ra xong chưa?”

“Nhị vị lão sư nói đề bài đã ra xong”.

“Ừ. Hoàng Thượng đang ở đâu?”

“Đang ở Ngự thư phòng”.

Đỗ Văn Hạo đi tới Ngự thư phòng. Khi hắn còn chưa tới sân của Ngự thư phòng đã nghe thấy từ đó truyền ra tiếng cười khanh khách, cực kỳ khoái trá. Nghe giọng thì đúng là của vị Hoàng Đế trẻ con Tống Triết Tông.

Đỗ Văn Hạo sải bước đi vào trong. Vừa bước vào sân một cảnh tượng rở khóc dở cười đập vào mắt hắn. Hắn thấy Sơ mật trực Học sĩ Triệu Ngạn như đang quỳ trên mặt đất, chậm chạp bò xung quanh.

Tống Triết Tông đang ngồi trên cổ ông ta. Trong tay cầm một cành liễu nhỏ, làm tư thế cưỡi ngựa.

Miệng Tống Triết Tông không ngừng kêu “Giá! Giá! Giá!, hắn dùng cành liễu đánh vào mông Triệu Ngạn.

Ba đứa hài nhi đứng bên cạnh, hai nam một nữ đang ôm bụng cười khanh khách. Một đứa mập còn cầm cành liễu trợ giúp đánh vào mông Triệu Ngạn.

Ngự sử Phó Nghiêu Du đỏ mặt đứng bên cạnh, hai đầu gối ông ta dính đầy bụi bặm. Hiên nhiên ông ta cũng vừa mới quỳ bò.

Đỗ Văn Hạo hiểu rằng trước kia Tống Triết Tông cũng rất tinh nghịch.

Nhưng hắn không ngờ bây giờ đã trở thành Hoàng Đế lại dùng lão sư làm ngựa cưỡi. Đây không những là chuyện nhục mạ người khác mà còn không coi trọng bề tôi của mình.

Lập tức trong đầu Đỗ Văn Hạo bốc hoả nhưng hắn vẫn nhẫn nhịn vì dù sao Tống Triết Tông cũng là Hoàng Thượng, khi nói chuyện vẫn cần phải cung kính một chút.

Đỗ Văn Hạo nặng nề ho một tiếng rồi nghiêm nghị đi vào.

Tống Triết Tông thấy Đỗ Văn Hạo bước vào thì cười hì hì nói: “Khanh tới rất đúng lúc. Hai người bọn họ không được nữa rồi, quá già rồi, chạy không nhanh. Khanh hãy mau quỳ xuống để Trẫm cưỡi, nhất định sẽ bò nhanh hơn bọn họ”.

Đỗ Văn Hạo chắp tay, lạnh lùng nói: “Hoàng Thượng, vi thần là người, không nphải gia súc!”

Tống Triết Tông đang chơi đùa cao hứng, hắn vung bàn tay nhỏ bé nói: “Ta hiểu. Bây giờ là giờ nghỉ trưa. Chơi đùa với ta một lát có sao đâu. Bọn họ đều chơi với ta”.

“Hoàng Thượng, hại vị đại thần dưới háng Hoàng Thượng đường đường là Đại học sĩ, đầy một bụng kinh thi và thư kinh. Đây là cách Hoàng Thượng chiêu hiền đãi sĩ sao?

Nếu Hoàng Thượng đối xử với bề tôi như này, coi bề tôi không phải là người, đối đãi như gia súc. Theo cương thường luân lý, tất nhiên bề tôi không dám không tuân theo nhưng điều này sẽ khiến các bề tôi thất vọng đau khổ. Khi đó sao bọn họ còn dốc sức, tận lực tận tâm phò tá Hoàng Thượng trị quốc?”

“Chỉ là chơi đùa thôi mà, không cần phải nói như vậy. Hơn nữa là do bọn họ tự nguyện. Hai người các ngươi tự nguyện để ta cưỡi, đúng không?”

“Dạ dạ! Là thần tự nguyện”.

Hai lão sư người đầy bụi bặm lên tiếng trả lời, gương mặt cả hai đều đỏ ửng, thẹn thùng.

Đỗ Văn Hạo nói: “Dù là bọn họ tự nguyện Hoàng Thượng cũng không nên làm thế. Cái đó gọi là dùng kiệu hoa rước nhân sĩ.

Ngôi vị Hoàng Đế của Hoàng Thượng một khi có được sự trợ giúp của mọi người mới trở nên vững như Thái Sơn. Nếu như Hoàng Thượng không coi bề tôi của mình là người, những người có tài học đều là những người trọng thể diện. Liệu có ai chịu nổi sự đối đãi như vậy của Hoàng Thượng không?

Một khi bọn họ nản lòng thoái chí, do dự thậm chí là kiếm cớ cáo quan bỏ đi, khi đó bên cạnh Hoàng Thượng chỉ còn lại một đám người chỉ biết tâng bốc nịnh bợ. Gi­ang sơn xã tắc không thể chỉ dựa vào đám người nịnh bợ đó mà có thể duy trì được” Nụ cười trên gương mặt Tống Triết Tông biến mất. Hắn ngượng ngùng nói: “Đỗ tướng quân, không nên nghiêm trọng như vậy”.

“Nghiêm trọng hay không chúng ta cứ hỏi Thái Hoàng Thái Hậu là biết liền. Nếu Thái Hoàng Thái Hậu cũng cho rằng không có gì vậy Hoàng Thượng cứ tiếp tục trò chơi của mình”.

Tống Triết Tông nghe nói tới Thái Hoàng Thái Hậu thì giống như Tôn Ngộ Không bị niệm chú kim cô, sắc mặt hắn lập tức thay đổi.

Tống Triết Tông vội vàng tụt xuống khỏi người Triệu Ngạn, ném cành liễu trong tay nói: “Đỗ tướng quân, khanh tuyệt đối đừng nói cho Thái Hoàng Thái Hậu biết. Ta nghe lời khanh sau này sẽ không bắt bọn họ làm ngựa cưỡi nữa”.

Đỗ Văn Hạo vẫn nghiêm mặt nói: “Hoàng Thượng đã hiểu rõ làm như vậy là không đúng với lão sư của mình vậy hẳn phải biết nên làm gì?”

Tống Triết Tông cười ngượng ngùng, cúi đầu hành lễ với hai người Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du: “Trẫm nhận lỗi với nhị vị sư phụ”.

Triệu Ngạn mới vừa ngồi dậy, ông ta đang chuẩn bị phủi bụi trên người mình, thấy Tống Triết Tông làm như vậy lại cuống cuồng quỳ dạp xuống đất nói: “Hoàng Thượng tuyệt đối không thể, làm vậy là hại chết vi thần” Nói rồi ông ta dập đầu thình thịch.

Phó Nghiêu Du ở bên cạnh cũng cuống quýt quỳ xuống dập đầu, liên thanh nói không dám nhận.

Đỗ Văn Hạo trợn tròn mắt. Hai lão phu tử này quả thật coi trọng nghi lễ quân thần hơn rất nhiều nghi lễ thầy trò.

Coi như là uổng phí một phen vất vả của hắn.

Đỗ Văn Hạo cười gượng, chuyển sang chủ đề khác: “Hoàng Thượng, vi thần muốn hỏi một chút về tình hình sở học trước kia của Hoàng Thượng. Liêu có thể vào trong phòng nói chuyện không?”

“Được!” Tống Triết Tông bước vào trong thư phòng, Đỗ Văn Hạo bước vào theo.

Bên trong thư phòng chỉ có bày Long án cùng Long ỷ cao, không có bục giảng, bàn học. Hắn cau mày nói: “Hoàng Thượng học ở chỗ này sao?”

Tống Triết Tông nói: “Không phải. Đây chỉ là Ngự thư phòng. Khi học thì ở Tư Thiện đường”.

“Vậy chúng ta cùng tới Tư Thiện đường thôi”.

“Tướng quân, sau khi dùng cơm trưa xong, theo lệ phải nghỉ trưa một canh giờ”.

“Hôm nay huỷ bỏ nghỉ trưa bởi vì buổi chiều vi thần còn tới Chính Sự đường thảo luận quốc sự. Vi thần muốn tìm hiểu rõ ràng việc học tập của người sau đó buổi tối còn phải bẩm báo lên Thái Hoàng Thái Hậu để mọi người cùng nhau hiệp lực trợ giúp việc học của Hoàng Thượng”.

Vừa nhắc tới Thái Hoàng Thái Hậu, Tống Triết Tông lại ỉu xìu, hắn cúi đầu nói: “Vậy được rồi”.

Nói xong hắn bước ra ngoài thư phòng, mấy tiểu hài tử kia cũng ra theo.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn Triệu Ngạn cùng Phó Nghiêu Du rồi nói nhỏ: “Nhị vị đại nhân, ba người chúng ta làm đế sư không thể quá nhân nhượng Hoàng Thượng. Chúng ta nhất định phải dạy bảo Hoàng Thượng trở thành một vị quân chủ tài đức sáng suốt mà không phải là một bạo quân không hiểu đạo lý”.

Hai người Triệu Ngạn xấu hổ trả lời rồi ba người cùng nhau đi tới Tư Thiện đường.

Ở gi­an lớn chính giữa của Tứ Hợp Viện có treo một tấm biển viết “Tư Thiện đường”. Bên trong có bày biện bốn bộ bàn ghế, trên mặt bàn có bày văn phòng tứ bảo.

Kên bên trong là một cái bàn dài. Đây hẳn là chỗ của sư phụ, trên bàn cũng bày biện giấy, bút và nghiên mực.

Tống Triết Tông và ba tiểu hài tử chia nhau ngồi xuống. Đỗ Văn Hạo đi tới chỗ chiếc bàn dài, vén áo bào ngồi xuống. Sau đó hắn sai nộ thị bên ngoài cửa mang vào hai cái ghế cho Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du cùng ngồi.

Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du thấy Đỗ Văn Hạo dám ngồi ở trước mặt Hoàng Thượng dù cả hai đã biết Đỗ Văn Hạo nói ba người bọn họ là lão sư có thể miễn trừ nghi lễ quần thần nhưng vẫn cảm thấy ngồi như vậy có vẻ không phù hợp với cương thường luân lý. Cả hai không khỏi thầm lắp bắp kinh hãi.

Ngay khi nội thị chuyển hai chiếc ghế tới cho hai người. Hai người Triệu Ngạn cũng không có gan lớn như Đỗ Văn Hạo nên vội vàng xấu hổ khoát tay nói đứng tốt hơn.

Đỗ Văn Hạo cũng không muốn cưỡng ép.

Đỗ Văn Hạo quét mắt nhìn bốn tiểu hài tử bên dưới, sắc mặt nghiêm nghị, hắn làm ra vẻ đạo mạo, cầm cái thước trên bàn, gõ hai cái vào lòng bàn tay, cao giọng nói: “Trước tiên chúng ta làm quen với nhau.

Ta tên là Đỗ Văn Hạo, tự là Vân Phàm, thừa long ân của tiên đế và Thái Hoàng Thái Hậu, ta là tam nha Đô Kiểm Điểm, Đề Cử Thái y cục, Ngự y. Thụ ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu phụ trách việc học tập của Hoàng Thượng. Đây là nhị vị đế sư là Thái Hoàng Thái Hậu khâm điểm (chỉ định). Cả hai người đều là Đại học sĩ uyên bác. Chắc hẳn vừa rồi mọi người đã làm quen với nhau. Được rồi, tam vị Hoàng tử và công chúa đang ngồi bên dưới có thể giới thiệu giới thiệu tục danh của mình để sau này tiện xưng hô không?”

“Tới ta giới thiệu”.

Tống Triết Tông mỉm cười đứng lên nói.

Tống Triết Tông chỉ tay vào một Hoàng tử ngồi bên cạnh, thấp hơn mình một cái đầu nói: “Đây là nhị đệ Triệu Nhưng của ta. Đôi mắt của nhị đệ nhìn không tốt lắm. Đôi khi nhị đệ không nhìn vì vậy có lúc nào nhị đệ không chào hỏi mọi người thì không phải là hắn ngông nghênh mà là vì không nhìn thấy. Ha ha ha”.

Mấy tiểu Hoàng tử, công chúa còn lại đều che miệng cười khúch khích.

Tuy Triệu Nhưng nhỏ hơn Tống Triết Tông một, hai tuổi nhưng trọng lượng thân thể lại to hơn Tống Triết Tông, béo húp.

Cổ Triệu Nhưng có mấy tầng, béo tới mức hai mắt híp lại. Hắn tươi cười hớn hở đứng dậy chắp tay nói: “Xin ra mắt Đỗ tướng quân”.

Tổng cộng Tống Thần Tông sinh mười bốn con trai, trong đó có tám người chết ngay khi còn quấn tã lót.

Trong số những người con còn lại, Tống Triết Tông lớn tuổi nhất nên là Đại huynh. Cửu hoàng tử theo sắp xếp thứ hạng là lão Cửu nhưng tính những người con còn sống thì lại là lão Nhị.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Không cần phải khách khí. Sau này cứ gọi ta là tiên sinh là được.

Thì ra là cửu hoàng tử. Ta biết trước đây hoàng tử đã từng bị bệnh nặng. Bệnh rất nặng. Đồ đệ của ta là Thái y Tiền Bất Thu đã dùng Hoàng thổ thang trị bệnh cho hoàng tử, đúng không?’

“Ừ. Thì ra Tiền Thái y chính là đồ đệ của tiên sinh”.

“Đúng vậy”.

“Ông ta già cả, râu tóc bạc phơ. Già như vậy mà còn chưa xuất sư (học thành nghề) chứng tỏ ông ấy ngày thường không chăm chỉ học bài”.

“Ha ha ha” Mấy người Tống Triết Tông đều cười ha hả.

Đỗ Văn Hạo vẫn nghiêm nghị, hắn chờ mấy người cười xong mới lên tiếng: “Cửu hoàng tử, Tiền Bất Thu là ân nhân, người không biết báo đáp thì thôi, cũng không nên trêu cợt ân nhân của mình. Ít nhất điều đó là không biết lễ nghĩa”.

Triệu Nhưng vội vàng nuốt nụ cười lại, hắn ngượng ngùng, chắp tay nói: “Thật sự xin lỗi. Ta chỉ buột miệng nói như vậy. Xin tiên sinh tha thứ”.

Đỗ Văn Hạo nghiêm mặt nói: “Liệt đồ Tiền Bất Thu chính là mang theo nghệ bái sư. Khi ông ấy bái ta làm thầy, tiếng tăm thần y của ông ấy đã trùm thiên hạ”.

Tiểu công chúa ngồi ở phía sau, trợn tròn đôi mắt đen lay láy nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Ông ta là thần y sao lại còn bái tiên sinh làm thầy? Ông ta già như vậy, tiên sinh nhỏ như vậy”.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Phải nói là ta sao trẻ tuổi như vậy, có phải là muốn nói tuổi ta không hơn tuổi mất người là mấy không?”

Tiểu công chúa cười khanh khách gật đầu.

Đỗ Văn Hạo nói: “Thần kỹ phẫu thuật chữa thương của ta, trong thiên hạ này chỉ có mình ta biết, kể cả ông ấy cũng không biết. Hơn nữa ta còn rất nhiều tri thứ y thuật khác mà ông ấy cũng không biết. Ta có rất nhiều thứ có thể dạy ông ấy nên ông ấy không ngại học hỏi kẻ dưới, bái ta làm thầy”.

Tống Triết Tông mỉm cười nói: “Đỗ tướng quân chuẩn bị dạy ta những gì? Là tứ thư ngũ kinh sao? Hay vẫn là thi từ ca phú? Lễ nghi cung đình sao?” Lập tức ba tiểu hoàng tử, công chúa kia lại lén cười.

Đỗ Văn Hạo thản nhiên nói: “Ta có thể dạy mọi người cái gì chờ lát nữa mọi người sẽ biết. Hoàng Thượng, xin thỉnh người tiếp tục giới thiệu với vi thần nhị vị còn lại”.

Tống Triết Tông vỗ vỗ đầu nói: “Đúng rồi. Ta lại quên mất việc này”.

“Hoàng ca ca, bây giờ người không thể nói: Ta, phải nói Trẫm”.

Tiểu công chúa sau lưng Tống Triết Tông cười khanh khách nói.

Tống Triết Tông lại vỗ vỗ đầu nói: “Coi như trí nhớ của ta. A! Không, trí nhớ của Trẫm. Hì hì” Ba người kia lại cười vang.

Tống Triết Tông khoát tay ra hiệu cho ba người không cười, hắn chỉ vào tiểu Hoàng tử thấp hơn hắn một đầu ngồi ở sau nói: “Hắn là tam đệ Triệu Cát của ta”.

Đỗ Văn Hạo thầm lắp bắp kinh hãi. Triệu Cát sao? Tống Huy Tông sao? Đây chính là một vị Hoàng Đế cực kỳ nổi danh của Bắc Tống, thậm chí trong lịch sử Trung Quốc.

Tống Huy Tông nổi danh không phải là vì những thành tựu về văn trị vũ công (thành tựu về mặt quân sự) mà là những chuyện lãng mạn phong hoa tuyết nguyệt của hắn, bút pháp thần kỳ, thư pháp thể Sấu kim, còn cả kinh nghiệm đau đớn của việc tin dùng gi­an thần, mất nước.

Nhưng bây giờ Tống Huy Tông mới chỉ là một đứa trẻ sáu bảy tuổi, gương mặt ngây thơ hồn nhiê, chưa từng nghĩ tới một quốc gia mất trong tay mình. Giờ đây Đỗ Văn Hạo chưa cảm thấy tạo hoá trêu ngươi khi hắn lại làm đế sư của hai vị Hoàng Đế Bắc Tống mà chỉ cảm thấy trọng trách ghê gớm trên vai mình.

Hắn không biết mình liệu có gánh vác được hết trách nhiệm này hay không?

Triệu Cát đứng dậy, chắp tay bập bẹ nói: “Xin ra mắt tiên sinh”.

Nếu một khi muốn cứu vớt Bắc Tống, trước tiên phải cứu với vị Đại hôn quân của tương lai này vì vậy Đỗ Văn Hạo cũng không vì Triệu Cát là Hoàng đế tương lai mà biểu lộ cảm xúc hắn chỉ mỉm cười gật đầu ý bảo Triệu Cát ngồi xuống.

Đỗ Văn Hạo lên tiếng hỏi: “Mẫu thân của người là vị nương nương nào?”

Lập tức sắc mặt Triệu Cát trở nên ảm đạm, vành mắt đỏ hoe, nước mắt tuôn rơi, cúi đầu xuống không nói.

Triệu Nhưng mập mạp chỉ ngón tay giữa vào miệng nói với Đỗ Văn Hạo: “Tiên sinh, những lời này không thể hỏi hắn. Nương nương của hắn vốn trước đây phát điên. Sau khi phụ hoàng băng hà đã uống thuốc độc tự vẫn chết theo phụ hoàng. Mỗi khi có ai nhắc tới hắn đều thương tâm khóc”.

Lập tức Đỗ Văn Hạo hiểu ra. Nương nương của Triệu Cát thì ra là Trần mỹ nhân bị buộc uống thuốc độc chết thảm. Lúc này thật sự Đỗ Văn Hạo không biết nói gì.

Đỗ Văn Hạo đi tới vỗ nhẹ lên vai Triệu Cát nói: “Nam nhi không dễ rơi lệ! Hãy kiên cường lên”

Triệu Cát giơ bàn tay nhỏ bé lên lau nước mắt, hít hít mũi trịnh trọng gật đầu.

Sau đó Tống Triết Tông giới thiệu tới tiểu công chúa kia: “Đây là Hoàng muội, Phong từ quốc công chúa, chưa tới tuổi đặt tên, chỉ có một nhũ danh là Niệm Niệm. Nhưng mọi người gọi là Niêm Niêm”.

Tiểu công chúa trừng mắt hạnh nói: “Tên của muội không phải Niêm trong niêm nhân mà là Niệm trong tưởng niệm. Hừ!”

Ba người còn lại đều cười vui vẻ.

Đỗ Văn Hạo quay lại ghế ngồi hỏi: “Thôi được rồi. Bây giờ chúng ta đều đã biết nhau. Ta sẽ trả lời câu hỏi của Hoàng Thượng. Rốt cuộc ta dạy mọi người cái gì? Trước tiên ta muốn biết mọi người đã học cái gì? Ai trả lời trước đây?”

Niệm Niệm giơ tay trước nói: “Ta nói!”

“Được! Tiểu công chúa nói đi”.

“Chúng ta cùng Hoàng đế ca ca cùng học với nhau, thi từ ca phú, còn cả lịch sử các triều đại còn có cả các loại nghi lễ cung đình”.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo hiểu rõ điều này. Hắn liếc nhìn túi đựng tính trù để trên bàn liền cười hỏi: “Xem ra mọi người hẳn là có học qua cửu chương toán thuật đúng không?’

“Có học qua”.

“Có biết tính không?”

“Đương nhiên biết”

“Trong mọi người ai là người tính nhanh nhất?”

“Hoàng đế ca ca”

Tống Triết Tông đắc ý nói: “Cửu chương toán thuật mà tiên sinh nói, tốc độ tính toán của Trẫm trên thế gi­an ít người sánh kịp, ngay cả tiên sinh cũng không thể so với”.

“Thật vậy sao?” Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Xin thỉnh Phó đại nhân ra một đầu đề. Năm người chúng ta thi tính toán xem ai là người nhanh nhất, được không?”

“Được” Lập tức sắc mặt Tống Triết Tông hiện lên vẻ phấn khích, xem ra hắn rất tự tin với tốc độ tính toán của chính mình, hắn cũng rất hy vọng thắng được người đế sư trẻ tuổi này.

Lập tức Tống Triết Tông cởi túi tính trú để trên bàn nói: “Phó thị, khanh hãy mau ra một đề bài. Ra khó một chút. Rất khó. Nếu không, hừ hừ. Mau lên đi” Ba hoàng tử công chúa còn lại cũng vội vàng lấy tính trù ra cầm trong tay.

Phó Nghiêu Du vội vàng trả lời, ông ta ngẩng đầu suy nghĩ một lát rồi nói: “Vi thần đã nghĩ kỹ. Sáu vạn…”

“Chờ một chút!” Tống Triết Tông khoát tay cản lại nói.

Tống Triết Tông nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Đỗ tướng quân khanh mau lấy tính trù ra, còn thất thần ngồi đó làm gì?”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Hoàng Thượng, không cần phải quan tâm. Ha ha ha”.

Tống Triết Tông trừng mắt nói: “Được, khanh tự cao nhỉ. Lát nữa thua khanh đứng trách Trẫm không báo trước. Phó khanh hãy ra đề đi”.

“Dạ dạ!” Phó Nghiêu Du lau mồ hôi trán, ho khan một tiếng rồi nói: “Sau mươi từ nghìn hai trăm bảy mươi sáu nhân với bảy nghìn ba trăm năm mươi mốt bằng bao nhiêu?” Tiếng loạt xoạt bất chợt vang lên, bốn tiểu hài tử bắt đầu lay hoay tính toán.

Dù lúc ấy đã phát minh ra bàn tính nhưng còn lâu mới phổ cập (Vào triều Nguyên bàn tính mới phổ cập). Một nguyên nhân là lúc ấy bàn tính vẫn còn chưa hình thành đầy đủ hệ thống khẩu quyết tính toán, đặc biệt ở phương diện nhân chia, giải toán. Tốc độ giải toán còn chậm hơn cả tính trù (tính trù là phương pháp tính toán cổ đại, thực tế là những miếng gỗ nhỏ mịn, bình thường dài khoảng 13 - 14cm, dầy khoảng0,2 - 0,3cm, cũng có thể làm bằng trúc, răng thú, ngà voi, kim loại hay các vật liệu khác. Một bó ước chừng hai trăm bảy mươi miếng để trong bao bố hay giắt ở thắt lưng) Hơn nữa rất dễ mắc sai sót vì vậy mọi người vẫn có thói quen dùng tính trù để tính toán.

Tính trù là một phương pháp tính toán trước khi bàn tính được hoàn thiện, dùng các mảnh gỗ xếp đặt các hình dạng khác nhau để tính toán, phép tính toán nhân chia này phức tạp hơn so với giải toán số học.

Phải hình thành ba tầng tính toán thượng trung hạ, khi tính toán theo công thức phải liên tiếp cầm lên, di chuyển liên tục nói chung rất phiền phức.

Tốc độ giải toán tương đối chậm, phức tạp hơn so với số học, khi tính toán luôn phải đặt lên bàn.

Vì vậy mới có câu: “Tính trù doanh án” chính là chỉ việc này.

Ban đầu khi Đỗ Văn Hạo mới tới, hắn thấy Lâm Thanh Đại khi tính toán sổ sách thường dùng tính trù, hắn hiểu rõ cách tính này rất chậm. Hắn thầm nghĩ có lẽ đề này đưa ra sau thời gi­an ăn xong một bữa cơm mà vẫn chưa tính toán xong nên trong lòng vẫn ung dung không nóng vội.

Đỗ Văn Hạo đứng dậy, chắp tay sau lưng đi tới bên cạnh mấy người Tống Triết Tông.

Hắn chăm chú quan sát giống như một giám thị vậy.

Tốc độ ngón tay của Tống Triết Tông di chuyển rất nhanh, thậm chí hắn còn không nhìn mặt bàn. Tống Triết Tông thấy Đỗ Văn Hạo đi tới, vừa ngẩng đầu nhìn Đỗ Văn Hạo vừa tính toán, cười nói: “Đỗ tướng quân, lão sư dạy tính toán của Trẫm được xưng là “Thần toán tử” Nếu khanh không mau chóng tính toán, nhất định sẽ thua trẫm. Ha ha”.

Đỗ Văn Hạo vẫn chắp tay sau lưng, hắn buột miệng hỏi: “Vị lão sư Thần Toán Tử của Hoàng Thượng tên gọi là gì?”

“Tên là Thẩm Quát”.

“Hả?” Đỗ Văn Hạo giật mình hỏi: “Thẩm Quát? Thẩm Quát là lão sư tính toán của Hoàng Thượng sao?”

Chương 412: Sự hấp dẫn của tri thức

Thẩm Quát chính là một nhân vật danh tiếng lẫy lừng trong giới khoa học cổ đại Trung Quốc, ông ta có trình độ rất uyên bác trong các lĩnh vực y học, sinh vật học, hoá học, địa lý, tính toán số học. Vào thời kỳ đó ông ta đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học. Ví dụ như “Mộng Khuê bút đàm” là một tác phẩm lớn lừng danh trong giới khoa học trong và ngoài nước.

Tống Triết Tông ngạc nhiên hỏi: “Đúng vậy, có chuyện gì vậy?” Vừa nói Tống Triết Tông vừa tiếp tục dùng tính trù tính toán.

“Ông ấy ở đâu?”

“Khanh hỏi điều này làm gì vậy?”

“Vi thần muốn gặp mặt vị Thần Toán Tử này”.

Tống Triết Tông cười nói: “Vậy khanh không gặp may rồi. Trong cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc, ông ta chỉ huy quân đội bị quân Tây Hạ đánh bại nên bị phụ hoàng giáng chức quan, làm Biên tu (sử quan thời xưa) đi về các châu huyện”.

“Hả?” Bây giờ Đỗ Văn Hạo mới biết thì ra Thẩm Quát lại tham gia cuộc chiến thành Vĩnh Nhạc với Tây Hạ.

Đỗ Văn Hạo có phần buồn lòng khi không được gặp nhà khoa học vĩ đại.

Tống Triết Tông cười nói: “Đỗ tướng quân, Trẫm đã tính toán xong hết rồi. Khanh lại vẫn chưa bắt đầu, khanh nhất định thua rồi”.

Đỗ Văn Hạo cười ha hả nói: “Tốt lắm. Bây giờ thần bắt đầu đuổi theo người vẫn còn nhanh hơn” Nói xong Đỗ Văn Hạo chậm rãi quay về bàn. Hắn cầm bút dùng phép nhân tính toán.

Hắn dùng con số Ả rập cùng những ký hiệu tăng giảm thặng dư đơn giản, dùng phép tính nhân tính toán đề bài này. Tốc độ rõ ràng nhanh hơn rất nhiều so với dùng tính trù vì vậy Đỗ Văn Hạo không mất nhiều thời gi­an đã tính toán xong phép tính của mình. Sau khi kiểm tra lại một lần nữa, xác định rõ ràng không có sai sót, hắn mới đặt bút lông vào giá bút, liếc mắt nhìn bốn tiểu hài tử bên dưới vẫn còn đang loay hoay dùng tính trù tính toán. Đặc biệt là Tống Triết Tông, ngón tay di chuyển như bay, giống như phấn hoa bay vậy. Nếu chỉ nói về tốc độ tính toán tính trù, quả thực tính như vậy quá kinh khủng.

Đỗ Văn Hạo chắp tay sau lưng đi tới vạnh Tống Triết Tông hỏi: “Thế nào, Hoàng Thượng? Tính xong chưa?”

“Đừng quấy rối! Sắp xong rồi” Tống Triết Tông đã tới bước quan trọng nhất, không dám phân tâm, không cả dám ngẩng đầu, cau mày tiếp tục tính toán.

Đỗ Văn Hạo bình thản chắp tay sau lưng đứng nhìn mấy người. Sắc mặt Triệu Cát vẻ đau khổ, tay cầm tính trù, gắng sức tính toán. Triệu Nhưng béo mập càng gấp gáp tới độ trán toát mồ hôi. Khi Đỗ Văn Hạo đi tới bên cạnh Từ quốc công chúa thì thấy sắc mặt tiểu nha đầu này mày chau mặt ủ, hết bỏ tính trù xuống rồi lại cầm lên, chần chừ không quyết.

Hiển nhiên đã gặp vấn đề tính toán.

Đỗ Văn Hạo cúi đầu, ghé sát vào tai tiểu công chúa thì thầm nói kết quả. Niệm Niệm ngẩng đầu nhìn hắn gật đầu vẻ vừa mừng vừa sợ.

Đỗ Văn Hạo đi liếc nhìn một vòng rồi lại quay lại chỗ ngồi của mình. Hắn bưng chén trà nhỏ, chậm rãi thưởng thức trà. Tống Triết Tông ngẩng đầu nhìn hắn, kinh ngạc hỏi: “Khanh tính toán xong hết rồi sao?”

“Đã xong sớm rồi. Phép tính đơn giản như vậy làm gì phải lâu như vậy? Ôi!”

“Đơn giản? Hừ! Khanh đừng thổi phồng”.

‘Có thổi phồng hay không lát nữa Hoàng Thượng sẽ biết”.

Tống Triết Tông lại cúi đầu tiếp tục loay hoay tính trù. Một lát sau cũng kêu lên: “Tính ra rồi” Nói xong Tống Triết Tông quay đầu lại nhìn thấy tiểu công chúa Niệm Niệm đang ngồi dương dương tự đắc thì liền hỏi: “Này, đồ theo đuôi, muội tính ra rồi hả?”

“Sớm tính ra rồi. Ca ca mới là đồ theo đuôi”.

“Trẫm không tin, đưa cho Trẫm xem một chút” Nói xong Tống Triết Tông liền giơ tay cầm tờ giấy trong tay Niệm Niệm lên liếc mắt nhìn qua, hắn vô cùng kinh ngạc nói: “Tuyệt đối không thể nào. Dù khả năng tính toán của muội không tệ nhưng không thể nào nhanh hơn Trẫm”.

“Muội đã tính toán ra đó, thế nào? Hì hì hì”.

Tống Triết Tông quay mặt nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Mới rồi Trẫm thấy Đỗ tướng quân đứng bên cạnh muội, còn lén lén lút lút nói cái gì đó. Nhất định Đỗ tướng quân đã nói đáp án cho muội. Tại sao Đỗ tướng quân có thể cho ra kết quả nhanh như vậy?”

Tống Triết Tông bước nhanh tới, cầm lấy tờ giấy trên bàn của Đỗ Văn Hạo nhìn, quả nhiên đáp án của Đỗ Văn Hạo và đáp án của hắn giống nhau. Tống Triết Tông kinh ngạc hỏi: “Không thể nào! Khanh không dùng tính trù sao? Tính thầm sao?”

“Không phải. Hoàng Thượng không nhận ra trên giấy có viết quá trình tính toán sao?”

Tống Triết Tông chăm chú nhìn thì thấy trên mặt giấy có những ký hiệu kỳ quái siêu siêu vẹo vẹo, căn bản hắn không hiểu đó là gì nên hỏi: “Khanh làm gì vậy?”

“Con số Ả rập và phép tính nhân. Ha ha”.

“Cái gì?”

“Đây chính là một loại ký hiệu chuyên môn dùng để tính toán, đơn giản hơn rất nhiều so với tính trù của Hoàng Thượng nhiều”.

Tống Triết Tông nào tin tưởng vào điều đó. Hắn quay đầu nhìn chằm chằm vào Phó Nghiêu Du, hung tợn nói: “Khanh giúp hắn dối trá phải không? Trước đó khanh đã nói đề bài cho hắn biết phải không?”

Phó Nghiêu Du vội vàng quỳ dạp xuống dập đầu nói: “Không có, Hoàng Thượng. Vi thần tuyệt đối không dám phạm tội khi quân. Quả thực đề bài này là vi thần mới nghĩ ra, không nói cho Đỗ tướng quân biết trước”.

“Trẫm không tin!”

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: “Nếu như Hoàng Thượng không tin. Thế này đi, Hoàng Thượng hãy tự mình ra một đề bài, hai chúng ta cùng tính lại”.

“Được” Tống Triết Tông suy nghĩ một lát rồi nói ra đề bài là một phép nhân sáu chữ số sau đó hắn nhanh chóng tính toán như thoi đưa.

Lúc này Đỗ Văn Hạo chủ định là mất nhuệ khí của Tống Triết Tông. Hắn cầm bút tính toán rất nhanh, sau khi kiểm tra lại một lần hắn viết đáp án ra, đặt bút vào giá bút, vỗ tay nói: “Vi thần đã tính xong rồi”.

Tống Triết Tông líu lưỡi nói: “Không thể nào!”

“Hoàng Thượng” Đỗ Văn Hạo chậm rãi nhấp một ngụm trà rồi nói tiếp: “Tất cả mọi việc đều có thể xảy ra”.

“Nhất định đáp án của khanh sai. Đợi ta tính toán đã” Tống Triết Tông không để ý tới Đỗ Văn Hạo, nghiêm mặt tiếp tục dùng tính trù tính toán. Lúc này Triệu Nhưng và Triệu Cát đã dừng lại, vây quanh xem náo nhiệt.

Tống Triết Tông càng sốt ruột lại càng chậm. Sau khi hết thời gi­an khoảng chừng một nén nhanh hắn mới tính toán xong. Sau khi cầm đáp án của Đỗ Văn Hạo thấy giống hệt với đáp án của mình, lập tức Tống Triết Tông trợn mắt há hốc mồm.

Lần này chính là đề bài do chính Tống Triết Tông nghĩ ra, tính toán ngay tại chỗ, tuyệt đối không có khả năng dối trá. Lúc này Tống Triết Tông mới tin tưởng phương pháp tính toán thần kỳ của Đỗ Văn Hạo. Hắn bỏ tờ giấy xuống gật đầu nói: “Ừ. Thuật tính toán của khanh rất lợi hại. Thế nhưng Trẫm muốn biết, thuật tính toán này rốt cuộc có lợi ích gì?”

“Có thể giải quyết rất nhiều vấn đề thực tế” Đỗ Văn Hạo nói: “Ví dụ như kho lương của một nha môn nào đó là hình trụ, có tổng cộng bảy mươi hai kho lương giống nhau như thế, kích thước như nhau. Đường kính bên trong hai trượng, cao một trượng năm thước, hỏi bảy mươi hai kho lương này có thể chứa được bao nhiêu thạch lúa gạo?”

Căn bản Tống Triết Tông không học qua hình học nên đương nhiên hắn không biết tính toán thể tích hình trụ như thế nào. Hắn ngơ ngác lắc đầu nói: “Tiên sinh còn có cái gì có thể dạy Trẫm?”

Đỗ Văn Hạo cầm chén nước trắng đặt lên bàn. Hắn lấy một cái bút lông nhúng vào trong chén nước rồi đặt trước bốn tiểu hài tử và hỏi: “Có ai nói cho ta biết vì sao phần bút nhúng trong nước lại uốn lượn vậy không?”

Hiện tượng này rất bình thường, mấy tiểu hài tử này cũng đã sớm biết nhưng nếu giải thích lý do vì sao nó lại uốn lượn thì lại không thể nên ai cũng nhìn hắn lắc đầu.

Đỗ Văn Hạo nói: “Đây là hiện tượng khúc xạ ánh sáng. Sau này khi ta dạy cho mọi người kiến thức về ánh sáng mọi người sẽ hiểu ngay thôi”.

Đỗ Văn Hạo lại cầm lên một chiếc chén không và nói: “Nếu như Hoàng Thượng chuẩn bị chế tạo một chiếc chén vàng. Thử hỏi Hoàng Thượng sẽ cần bao nhiêu vàng?”

Hiển nhiên bốn người Tống Triết Tông lại lắc đầu.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi tiếp: “Có ai biết tại sao có động đất không? Tại sạo trời lại mưa? Tại sao trời lại sinh ra sấm chớp? Tại sao mặt trời luôn mọc ở phía đông, lặn ở phía tây? Tại sao lại có hiện tượng chó ăn trăng (nhật thực)? Tại sao lại có lúc trăng tròn, trăng khuyết? Tại sao lại có chớp mắt? Rốt cuộc chúng ta là ai? Chúng ta từ đâu tới? Đi tới đâu? Vị trí của ngũ tạng lục phủ của con người là gì, có tác dụng gì? Trên thế giới này ngoại trừ Đại Tống, Đại Liêu và Tây Hạ thì còn những quốc gia nào nữa? Bọn họ ở chỗ nào? Làm thế nào mới có thể tới chỗ bọn họ?”

Mấy người Tống Triết Tông lại càng ngơ ngác lắc đầu.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Tất cả những điều này khi nào mọi người học xong bài giảng của ta thì cũng sẽ biết”.

Tiểu công chúa Niệm Niệm vỗ tay nói: “Hay! Bây giờ nta đã muốn nghe tiên sinh giảng bài”.

Triệu Nhưng cũng há miệng béo mập cười toe toét nói: “Đúng vậy, nghe rất thích. Ta cũng muốn nghe”.

Tống Triết Tông nhìn thấy vẻ mặt hưng phấn chảy nước miếng của hai người đó, kỳ thật trong lòng hắn cũng rất ngứa ngáy, hắn mỉm cười nói: “Quả thực bài giản của Đỗ tiên sinh rất hấp dẫn. Quả thật Trẫm không ngờ Đỗ tiên sinh là người thông mi uyên bác nghe rộng biết nhiều. Thảo nào Hoàng tổ mẫu muốn tiên sinh phụ trách việc học của Trẫm”.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười, hắn thoáng nhìn thấy Triệu Cát vẫn ngồi yên, không có vẻ hưng phấn như ba huynh muội của mình thì kinh ngạc hỏi: “Thập nhất hoàng tử, có chuyện gì vậy?”

“Tiên sinh có thể dạy ta vẽ tranh không?” Triệu Cát hỏi.

Lúc này Đỗ Văn Hạo mới nhớ tới vị Hoàng đế tình tình phong lưu này còn là một đại danh hoạ có bút pháp thần kỳ trong lịch sử. Đó chính là niềm đam mê nhất của Triệu Cát. Đối với hội hoạ Đỗ Văn Hạo lại không có gì đặc biệt. Làm sao bây giờ?

Ánh mắt hắn đảo qua, lập tức xuất hiện chủ ý. Không phải chính mình đã học qua cách phác hoạ vật thực sao. Mặc dù kỹ thuật của hắn còn không có gì cao siêu nhưng ít ra hắn có thể dạy một số kiến thức về quan sát cùng kiến thức về ánh sáng, màu sắc. Bởi vì thuật vẽ tranh truyền thống của Trung Quốc không nói tới thuật quan sát, lại càng không chú trọng tới hiệu quả của ánh sáng màu sắc. Bây giờ bản thân hắn có thể dạy Triệu Cát vấn đề này. Thế nhưng nhất định phải chú trọng một vấn đề là không thể dùng tri thức về màu sắc và ánh sáng vào vẽ tranh chân dung nếu không thì sẽ gây ra hoạ.

Về chuyện này, trong lịch sử đã từng xảy ra một chuyện nhỏ. Số là vào triều Thanh, có một hoạ sĩ hội hoạ phương tây dương dương tự đắc muốn thể hiện một chút trước mặt lão Phật gia. Người đó dùng hiệu quả ánh sáng màu sắc trong vẽ tranh phương tây áp dụng vào bức tranh vẽ lão Phật gia, quả thực có cảm giác rất nổi nhưng khi bức tranh được dâng lên lão Phật gia, lão Phật gia đột nhiên giận dữ, suýt chút nữa cho chém đầu người đó bởi vì trong con mắt lão Phật gia, hiệu quả lập thể này toạ nên trên mặt như có bóng tối. Trong khi đó người Trung Quốc rất kiêng kỵ “Âm Dương mặt” là một điềm gở. Nhà hoạ sĩ vẻ tranh phương tây đó sợ tới mức vội vàng sửa đổi, đổi khuôn mặt của lão Phật gia thành ánh sáng chói lọi, khi đó lão Phật gia mới đổi giận làm vui tha mạng cho người đó.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói với Triệu Cát: “Ta không biết dùng bút lông vẽ tranh sơn thuỷ, hoa chim người. Nhưng ta có thể dạy cách hoàng tử cách dùng than chì vẽ tranh, cũng có thể dạy hoàng tử cách thưởng thức hội hoạ đúng đắn, có thể làm cho bức tranh của người vẽ ra giống như thật”.

“Thật vậy sao?” Triệu Cát hỏi.

Ba người kia cũng bắt đầu kêu gào bắt Đỗ Văn Hạo bắt đầu dạy những kiến thức mà hắn vừa nói.

Đỗ Văn Hạo nói: “Bây giờ không còn kịp rồi. Ta phải lập tức tới nha môn Tể tướng họp. Buổi chiều nhị vị đại nhân sẽ khảo sát sở học trước kia của Hoàng Thượng và ba người. Ngày mai ta sẽ tới dạy mấy người”.

Đỗ Văn Hạo dặn dò hai người Triệu Ngạn và Phó Nghiêu Du mấy câu rồi mới rời khỏi Tư Thiện đường đi tới Chính Sự đường ở nha môn Tể tướng.

Chương 413: Quay về Chính Sự đường

Khi Đỗ Văn Hạo quay về Chính Sự đường, các đại thần Tể chấp đã tới đông đủ. Thái Xác, Vương Gi­ai không nói gì. Sau khi tuyên bố tiếp tục họp, Vương Gi­ai cầm danh sách thảo luận của hội nghị nói: “Chủ đề thảo luận thứ năm là bộ Binh báo cáo. Thực tế là cùng với việc thỉnh cầu xuất chinh chinh phạt Tây Hạ của Kinh lược ti Hoàn Khánh, bộ Binh cũng thỉnh cầu gia tăng số lượng Sương quân của Kinh lược ti Hoàn Khánh. Hãy mời Thượng thư bộ Binh Đặng Nhuận Phủ vào báo cáo đi”.

Thượng thư bộ Binh Đặng Nhuận Phủ mang theo hai tá quan, cầm một chồng sổ sách vào trong đường. Sau khi thi lễ ông ta ngồi xuống chiếc ghế ở cạnh cửa.

Vương Gi­ai nói: “Đặng đại nhân hãy nói đề nghị của mình đi”.

Đặng Nhuận Phủ vội vàng trả lời rồi đứng lên báo cáo. Đầu tiên ông ta nói thao thao bất tuyệt về tầm quan trọng của Sương quân, trong tác chiến với quân Tây Hạ không thể thiếu tác dụng của Sương quân sau đó ông ta nói về tình hình thiếu vũ khí binh lính của Sương quân Kinh lược ti Hoàn Khánh. Bước tiếp theo ông ta trình bày ý định tăng cường quân bị, binh lính, tăng quân số lên tới mức chín mươi hai doanh.

Trong quy định quân đội triều Tống. Một doanh có trong biên chế của mình năm trăm người, chín mươi hai doanh chính là bốn vạn sáu ngàn quân. Sau khi Đỗ Văn Hạo nghe xong hắn không khỏi biến sắc nhưng hắn vẫn âm thầm nhẫn nhịn, hắn muốn trước tiên lắng nghe ý kiến của những người khác.

Lúc này Hàn Chuẩn không nhún nhường nữa, ông ta lên tiếng trước: Nếu đã quyết định xuất chinh Tây Hạ, lại sử dụng binh mã Hoàn Khánh cùng lục lộ Thiểm Tây thay nhau ra trận. Vì binh mã chưa tiến, lương thảo đã đi trước. Lương thảo này cần phải có người vận chuyển. Lần xuất chính này là trường chinh, chậm thì năm ba năm, lâu thì tới vài chục năm. Nếu chỉ dựa vào dân phu khuân vác tạm thời thì không phải cách hay, còn phải dựa vào cả Sương quân. Trong khi đó Sương quân vùng Kinh lược ti Hoàn Khánh sau hơn mười năm chiến tranh với Tây Hạ, đặc biệt là sau trận đánh thành Vĩnh Nhạc đã bị tổn thất gần như không còn. Khi tác chiến không thể nào không có Sương quân vì vậy cần phải tăng cườn binh lính. Vấn đề là một lúc có cần phải tăng lên nhiều như vậy không thì nên thương thảo lại”.

Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi cũng cười nói: “Hàn đại nhân nói rất đúng. Kinh lược ti Hoàn Khánh là nơi xa xôi, lại liên tục xảy ra chiến tranh với Tây Hạ. Đa số trai tráng trong dân chúng cũng đều chết trong chiến tranh, rất khó tìm kiếm dân phu, chỉ có thể dựa vào Sương quân. Một Sương quân có thể tương ứng với một trăn phu dịch. Xây dựng chiến trại, vận chuyển quân lương, kiến tạo cầu đường những hạng mục này không thể thoát khỏi tay Sương quân. Bây giờ đã quyết định xuất chinh, dùng trường kỳ chiến tranh đối phó với Tây Hạ, lại càng không thể thiếu Sương quân, tăng biên chế Sương quân là việc làm rất cần thiết”.

Những người còn lại cũng lên tiếng phụ hoạ.

Thái Xác cũng mỉm cười nói: “Chư vị đại nhân nói rất đúng. Xuất chinh Tây Hạ nhất định phải tăng cường biên chế Sương quân Kinh lược ti Hoàn Khánh. Về số lượng, trước tiên tăng lên một nửa sau đó xét theo tình hình thực tế tiếp tục gia tăng. Chư vị nghĩ thế nào?”

Mọi người đều gật đầu đồng ý chỉ duy có Đỗ Văn Hạo vẫn cười nhạt không nói câu nào.

Lần này Thái Xác không còn dám phớt lờ Đỗ Văn Hạo, ông ta vuốt chòm râu hoa dâm hỏi: “Đỗ tướng quân, ý của tướng quân thế nào?”

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: “Ban sáng thương nghị, ty chức nhớ buổi sáng chư vị đại nhân ngồi thảo luận về nhũng binh ai cũng bừng bừng căm phẫn, thậm chí còn nói nhũng binh chính là tai hoạ của quốc gia. Tại sao khi động vào vấn đề thực tế này lại không chú tới tai hoạ này mà ngược lại còn làm tai họa gia tăng?”

Sắc mặt mọi người đột nhiên thay đổi, Đỗ Văn Hạo nói cho cùng thì vẫn còn trẻ tuổi, vốn định nói cho hẳn hoi, nhưng khi vừa thốt ra thì lại không kìm được nữa, có gì thì nói toẹt hết ra.

Chương Hoàng lúng túng nói: “Điều này không giống với cái đó. Nhũng binh không có nghĩa là không thể tăng biên chế Sương quân. Lúc này cần thiết phải tăng biên chế nếu không khi xuất chinh Tây Hạ lấy ai là người làm các công việc tạp dịch?”

Tất cả lại gật đầu.

Đỗ Văn Hạo không để ý tới Chương Hoàng. Hắn nhìn Thượng thư bộ Binh Đặng Nhuận Phủ hỏi: “Đặng đại nhân, tại hạ muốn biết, trước mắt tổng chi phí quân phí của quân ta là bao nhiêu? Trong đó tỷ lệ dành cho Cấm quân, Sương quân là bao nhiêu?”

Đương nhiên Thượng thư bộ Binh phải nắm được con số này, không cần phải mở sổ sách, ông ta chắp tay nói: “Hồi bẩm tướng quân. Năm ngoái, quân phí cho Cấm quân là ba nghìn năm trăm vạn, sương quân một ngàn năm trăm vạn. Tổng cộng hai loại quân tốn năm nghìn vạn hôn (một hôn là một chuỗi, tương đương với một ngàn văn, tương đương với một ngàn nhân dân tệ. Vì vậy quân phí của triều tống một năm là năm mươi tỷ nhân dân tệ)

“Năm ngoái tổng thu ngân khố của Đại Tống chúng ta là bao nhiêu? Đại nhân có biết không?”

Đây là chuyện cơ mật quốc gia. Đương nhiên Đặng Nhuận Phủ không biết, ông ta ngơ ngác lắc đầu.

Đỗ Văn Hạo nhìn Tể tướng Vương Gi­ai. Vương Gi­ai nói: “Năm ngoái tổng tài chính thu vào là sáu ngàn vạn hôn (tương đương với sáu mươi tỷ nhân dân tệ)

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền nói: “Tổng cộng mới có sáu ngàn vạn hôn. Quân phí đã chiếm mất năm ngàn vạn hôn sao’.

Đặng Nhuận Phủ nói: “Đúng vậy. Đây mới chỉ tính chi phí nuôi quân, còn chưa tính tới chi phí cho cung nỏ, đao kiếm cùng với áo giáp hao tổn cần bổ sung”.

“Hả? Vậy những chi phí cho trang bị đó mất bao nhiêu tiền?’

“Hơn bảy trăm vạn”.

“Vậy tổng thu của một đất nước dùng để chi phí gần như hết cho quân đội sao?”

Vương Gi­ai cười nói: “Đỗ tướng quân, có một sự hiểu làm trong chuyện này. Có một phần tiền rất lớn chi cho quân phí không phải từ ngân khố quốc gia”.

“Ồ. Chẳng lẽ quân đội còn có cách kiếm tiền sao?”

“Đúng. Nếu không thì lấy đâu ra tiền nuôi quân”.

Đỗ Văn Hạo trợn tròn mắt. Hắn mới tiếp xúc với quân đội hơn một tháng mặc dù hắn đã là thống soái tối cao của quân đội nhưng đối với quân đội có thể nói là khổng lồ nhất thế giới này thì vẫn chưa hoàn toàn hiểu hết. Hắn thầm nghĩ quân đội còn làm ăn buôn bán thì là quân đội kiểu gì đây nên hắn vội hỏi: “Quân đội cũng tổ chức làm ăn sao?”

“Ha ha. Đương nhiên cái gì có thể kiếm tiền thì làm. Ví dụ như hồi dịch (Đầu cơ tích trữ), mở tửu quán, cho vay lấy lãi”.

“Lợi nhuận thế nào?”

“Đương nhiên là lợi nhuận thu vào rất khá”.

“Cụ thể là bao nhiêu?” Đỗ Văn Hạo âm trầm hỏi.

Vương Gi­ai nói: “Tất cả những điều này bên quân đội đều bí mật nên bản tướng cũng không hiểu rõ”.

“Vậy tiền lợi nhuận này không nộp vào quốc khố sao?”

“Không nộp. Khoản tiền này để cho bên quân đội chi dùng chung. Thế nhưng những lúc quốc khố trống rỗng có thể sang bên quân đội giàu có vay tiền bổ sung vào quốc khố”.

“Triều đình phải vay tiền bên quân đội sao?” Đỗ Văn Hạo cực kỳ kinh hãi, hắn trầm giọng nói: “Rốt cuộc một năm quân đội làm ăn buôn bán ra bao nhiêu tiền? Hãy cho một con số phỏng chừng đi”.

“Điều này” Vương Gi­ai vuốt chòm râu trắng như tuyết. Hình như ông ta hiểu rõ dụng ý của con rể tương lai khi vẫn cố tình hỏi vấn đề này. Vương Gi­ai quay sang nói với Thượng thư bộ binh Đặng Nhuận Phủ: “Đặng đại nhân, bộ binh của đại nhân quản lý Sương quân. Sương quân có không ít sự tình có liên quan tới bộ Binh. Bộ Binh cũng phụ trách tiền trả lương cho Sương quân. Đại nhân hẳn nắm được nhiều thông tin về chuyện này. Đại nhân biết gì thì cứ nói. Đỗ tướng quân đang có dự định chỉnh đốn quân đội, muốn hiểu rõ số lượng là bao nhiêu. Đại nhân hãy cứ bẩm báo con số thực. Tương lai Đỗ tướng quân sẽ đi xác minh”.

“Dạ” Đặng Nhuận Phủ suy nghĩ một lát rồi nói: “Tiền lợi nhuận của Sương quân ở các địa phương chênh lệch với nhau rất lớn. Ví dụ như vùng Gi­ang Tích giàu có ở tây bắc thu lợi gấp mấy chục lần Sương quân ở vùng tây nam (chỉ vùng Tây Nam, Trung Quốc, bao gồm Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, Tây Tạng.)

Mấy ngày trước, Đô thống chế Sương quân lưỡng tích lộ Tô Châu là Vương Bảo, Vương đại nhân có tới bộ Binh làm việc, trong lúc tào lao có từng tiết lộ rằng lợi nhuận thu được của Sương quân bọn họ trong năm ngoái là tám vạn sáu ngàn quan”.

Tám vạn sáu ngàn quan tương đương với sáu trăm vạn nhân dân tệ.

Các đại thần Tể chấp trong đường sớm đã biết chuỵên quân đội làm ăn kiếm tiền nên không thấy ngạc nhiên nhưng khi nghe nói chỉ một lộ quân mà một năm thu lợi nhuận coa tới tám vạn sáu ngàn quán thì cũng không khỏi giật.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Một quân có bao nhiêu người?”“Biên chế ấn định là hai ngàn năm trăm người nhưng trên thực tế không nhiều như vậy. Đại khái chỉ có chừng một ngàn năm trăm người”.

“Thiếu gần một nửa so với biên chế? ‘ Đỗ Văn Hạo trừng mắt hỏi.

Đặng Nhuận Phủ gật đầu nói: “Biên chế của bọn họ cũng đã coi là tương đối nhiều. Có nơi Sương quân thiếu biên chế tới bảy phần”.

Bây giờ Đỗ Văn Hạo không muốn tập trung vào tìm hiểu vì sao Sương quân lại thiếu nhiều biên chế như vậy. Hắn muốn tập trung vào chủ đề quân phí của quân đội: “Tới tám vạn sáu ngàn quan lợi nhuận. Bọn họ giữ lại hết dùng cho mình. Bao nhiêu tiền dùng cho quân phí, số tiền còn lại chạy đi đâu?’

“Điều này. Khụ khụ” Đặng Nhuận Phủ ho khan hai tiếng, không nói tiếp.

Đỗ Văn Hạo nhìn lướt qua các đại thần trong đại đường nói: “Một đội quân một ngàn năm trăm người, buôn bán hàng năm kiếm lợi nhuận tới tám vạn sáu ngàn quan. Chi ra bình quân mỗi người được năm mươi quan (tương đương với năm vạn nhân dân tệ). Đây là thu nhập bên ngoài quân phí. Hơn nữa ngoại trừ quân phí, mỗi năm thu được bảy tám mươi quan tiền. Thật sự rất giàu có”.

Đặng Nhuận Phủ cười gượng nói: “Đỗ tướng quân. Đây chỉ là thu nhập của Sương quân ở những vùng giàu có. Những nơi như này chiếm không tới một phần mười Sương quân. Tuyệt đại bộ phận Sương quân ở những nơi xa xôi lợi nhuận thu vào ít hơn số này rất nhiều. Ví dụ như Sương quân tây bắc mỗi năm chỉ thu lợi nhuận có mấy trăm quan tiền mà thôi”.

Đỗ Văn Hạo hỏi” Việc làm ăn buôn bán của Sương quân rất phổ biến sao?”

“Gần như cũng chỉ là làm ăn nhỏ mà thôi”.

“Cấm quân thì sao?”

“Cấm quân thì càng nhiều hơn nữa. Cấm quân có nhân tài vật lực phong phú. Tiền vốn cao hơn Sương quân. Lợi nhuận đương nhiên nhiều hơn so với Sương quân”.

Đỗ Văn Hạo nhìn Vương Gi­ai nói: “Quân đội lại đi làm ăn buôn bán, vậy còn việc huấn luyện thì thế nào? Sao có thể phòng thủ biên cương? Tại sao triều đình lại cho phép bọn họ làm như vậy?”

Vương Gi­ai cười gượng nói: “Làm gì có chuyện cho phép như vậy. Từ Thái Tổ hoàng đế đến nay đều ra chỉ lệnh cấm quân đội không được tiến hành đầu cơ tích trữ, sai binh lính làm kinh doanh buôn bán kiếm lời, chủ tướng sẽ bị bắt trị tội”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Vậy tại sao quân đội vẫn còn làm ăn buôn bán như vậy?”

“Điều này cũng chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. Tướng quân cũng vừa mới nghe rồi đó. Dùng ngân khố cả nước mới đủ miễn cưỡng chi dùng cho quân đội. Nếu tất cả ngân khố đều chi dùng cho quân đội, vậy triều đình lấy tiền đâu ra?

Đỗ Văn Hạo đứng dậy nói: “Đây chính là lý do tại hạ phản đối việc mở rộng Sương quân. Sương quân là gì? Quân tạo dịch! Nói một cách dễ nghe chính là dân phu mặc quân trang. Những dân phu này hàng năm triều đình phải trả quân phí tới ba phần ngân khố để nuôi dưỡng bọn họ. Nếu như trong thời chiến thì còn chấp nhận được nhưng bây giờ ngoại trừ biên giới, tất cả hai mươi vạn Sương quân các lộ không thực hiện bất kỳ nhiệm vụ quân sự nào. Bọn họ đang làm gì vậy? Thứ nhất là bị quan phu sai làm tạp dịch, bị tướng lĩnh Sương quân coi như là công cụ kiếm tiền. Chắc chắn là mất nhiều tiền nuôi dưỡng mà không có tác dụng gì lớn. Hãy thử hỏi một lần xem? Tại sao triều đình phải bỏ ra số lượng tiền lớn như vậy để nuôi dưỡng hơn mười vạn dân phu? Thật sự có cần thiết như vậy không?”

Chương 414: Nghe Mưa Giửa Hồ

Xu Mật viện Hàn Chuẩn cười khẩy nói: “Theo Đỗ tướng quân thì cần phải làm thế nào?”

“Giải giáp toàn bộ Sương quân về làm ruộng”.

“Cái gì?” Tất cả các đại thần Tể chấp kinh hãi kêu lên. Xu Mật viện Hàn Chuẩn cười châm chọc nói: “Nếu là như thế, xin hỏi Đỗ tướng quân, việc phục dịch của Sương quân do ai gánh vác? Cấm quân sao?”

“Tại hạ vẫn còn chưa suy xét kỹ điều này. Thế nhưng dùng tiền thuê dân phu cũng không hẳn là cách tồi” Đỗ Văn Hạo buột miệng nói.

“Thuê dân phu đảm nhiệm sao?”

“Đúng” Nói xong Đỗ Văn Hạo lại cảm thấy đây là một ý tưởng rất hay. Hắn vừa nghĩ vừa nói: “Cả nước có tổng cộng hai mươi vạn Sương quân, giải giáp hết những người này quy điền (về quê làm ruộng). À không, chuyển bọn họ từ quân sang dân, khai khẩn đất hoang tập thể. Không biết cả nưpỠcó nhiều đất hoang như vậy không?”

Thái Xác nói: “Đất hoang sao? Vùng Gi­ang Tích và phụ cận kinh thành là đất giàu lắm cá nhiều thóc, dân cư giàu có thịnh vượng chỉ e là không co. Ở vùng tây bắc và tây nam cũng có. Nhưng tất cả đều là vùng chướng khí man di. Nếu chỉ chuyển hai mươi vạn Sương quân này cùng người nhà tới vùng chướng khí man di đó khai khẩn đất hoang chỉ e bọn họ sẽ không chịu đi”.

“Điều này thì có thể áp dụng một số biện pháp khích lệ. Hơn nữa còn có thể lưu lại một bộ phận tới làm việc ở các phương thị. Bây giờ đang mở rộng kỹ nghệ, thiếu rất nhiều sức lao động. Nhất cử tam tiện. Vừa có thể giảm nhũng binh, vừa có thể khai khẩn rất nhiều đất hoang vừa lại có thể tăng cường lao động cho các phường thị. Thế nào?”

Chương Hoàng nói: “Suy nghĩ này đương nhiên hay. Bất kỳ ai cũng muốn giảm nhũng binh. Ai cũng biết nhũng binh chủ yếu trong Sương quân, Sương quân alị hình thành từ những người già yếu không thể làm binh sĩ đánh trận, còn có cả một ít tội phạm sung quân. Tuyệt đại bộ phận Sương quân là bị cưỡng bức nhận nhiệm vụ trong quân đội. Nếu bây giờ cắ giảm toàn bộ Sương quân theo như tướng quân vừa nói, bây giờ thuê dân phu để giải quyết những công việc cưỡng bức tron quân đội này, tại hạ muốn biết có thể thuê ở đâu nhiều dân phu như vậy?”

Hoàng Lý cũng nói: “Đúng vậy. Nếu như giải giáp tất cả Sương quân về làm ruộng, công việc sai dịch ở các địa phương lại đổ lên đầu dân chúng. Ban đầu khi Thái Tổ thành lập Sương quân với mục đích giảm bớt gánh nặng cho dân chúng. Nếu như vậy nhất định sẽ làm gia tăng việc phu dịch của dân chúng. Thay đổi như vậy cuối cùng là có lợi hay hại cho dân chúng?”

Những quan văn này khi tranh luận rất gay gắt. Đỗ Văn Hạo nhất thời không biết phải phản kích thế nào. Hắn không muốn tranh cãi bởi vì bản thân hắn cũng chưa nghĩ ra giải quyết mâu thuẫn đó như thế nào. Nguyên nhân chủ yếu là hắn vẫn chưa xâm nhập điều tra nghiên cứu, chưa nghĩ ra một biện pháp hữu hiệu giải quyết nhũng binh Sương quân.

Vương Gi­ai thấy Đỗ Văn Hạo há hốc mồm, cứng họng. Hiển nhiên ông ta không muốn con rể tương lai của mình khó xử nên vuốt chòm râu trắng như tuyết nói: “Bản tướng cho rằng điều Đỗ tướng quân không hẳn là vấn đề khó. Trước đây tiên đế cũng hiểu Sương quân chi nhũng. Khi tiên đế còn tại vị cũng đã cắt giảm rất nhiều Sương quân. Tiên đế cũng đã nhiều lần nói: Quốc khố hao tổn rất nhiều tiền bạc nuôi dưỡng tẩm bổ Sương quân chính là nguyên nhân của nhũng binh, cần phải sửa trị, cắt giảm. Bây giờ tân đế mới tức vị đã lập tức tăng biên chế Sương quân, điều này không khỏi đi ngược lại di nguyện của tiên đế vì vậy bản tướng nghĩ rằng bây giờ phải thận trọng”.

Vương Gi­ai nói ra cách làm của tiên đế đương nhiên không ai dám phản đối lung tung. Công phu gió xoay chiều của Chương Hoàng rất khá. Thái Hoàng Thái Hậu buông rèm chấp chính, đương nhiên sẽ trọng dụng Vương Gi­ai cũng như phái bảo thủ. Muốn ngồi yên ổn ở vị trí của mình đương nhiên phải thiết lập mối quan hệ tốt với Vương Gi­ai vì vậy lập tức giọng điệu của Chương Hoàng cũng thay đổi. Ông ta mỉm cười nói: “Đúng vậy, Tể tướng đại nhân nói rất đúng. Việc này vẫn cần phải bàn bạc kỹ hơn. Việc thiếu Sương quân làm lao dịch rất dễ xử lý. Chúng ta đã xác định sáu lộ quân Thiểm Tây thay nhau ra trận. Điều đó chính là phái tất cả sáu lộ quân Thiểm Tây lên trước, cũng có thể phái thêm quân ở địa phương khác cùng với sáu lộ quân Thiểm Tây”.

Phó sứ Xu Mật viện Lâm Hi cũng nói: “Đúng vậy. Ty chức cũng cho rằng nhất định ý kiến của Đỗ tướng quân có đạo lý. Một khi Sương quân chính là nhũng binh, việc tăng cường quân bị phải rất thận trọng, nếu không lại rơi vào tình cảnh hoạ vô đơn chí. Dù sao đại bộ phận Sương quân của lục lộ Thiểm Tây ở các địa phương đều đang có dính dáng tới những công việc làm ăn. Các địa phương thiếu đi một ít sai dịch hẳn cũng không có vần đề gì lớn. Có thể rút một số Sương quân ở các lộ bổ sung cho Hoàn Khánh, cũng có thể giống như Cấm quân, thay nhau tới Hoàn Khánh phục dịch. Quan phủ nha môn cũng sẽ thông cảm với triều đình, cực lực ủng hộ”.

Thái Xác cũng gật đầu nói: “Đúng. Vấn đề này nhất định là phải thận trọng. Bản tướng cảm thấy đề nghị của Lâm phó sứ rất hay. Trước tiên hãy điều động Sương quân của lục lộ Thiểm Tây cho tiền tuyến Hoàn Khánh. Còn những chuyện khác chúng ta sẽ thương nghị sau”.

Kết quả này Vương Gi­ai rất hài lòng. Thế nhưng điều ông ta quan tâm chính là Đỗ Văn Hạo có hài lòng hay không: “Đỗn tướng quân, ý của tướng quân thế nào?”

Đỗ Văn Hạo còn có thể nói gì đây? Hắn vẫn chưa nghĩ ra cách sửa trị nhũng binh. Bây giờ nếu kết quả không tiếp tục diễn biến xấu đã là thành công. Hắn vội vàng chắp tay nói: “Các vị đại nhân nói rất hay. Trước tiên nên điều động Sương quân ở các địa phương khác bổ sung cho Sương quân ở tiền tuyến. Chủ ý này rất hay. Còn về chuyện cắt giảm, chỉnh đốn Sương quân đợi sau này thương nghị lại. Bất ký biến pháp nào cũng không thể vội vàng”.

Đỗ Văn Hạo nhắc tới biến pháp làm mấy người Thái Xác của phái biến pháp cũng hứng thú, mỉm cười.

Cuối cùng vấn đề này cũng được thông qua. Vấn đề cuối cùng là một đề tài đơn giản. Đó là thông báo với minh Đại Liêu chuyện tân đế kế vị, kể cả việc tặng Đại Liêu một số đồ vật quý giá tiên đế Tống Thần Tông từng sử dụng làm kỷ niệm.

Khi thương nghị chấm dứt, thời gi­an vẫn còn sớm, Đỗ Văn Hạo quyết định đi tìm Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao. Hắn muốn sửa đổi việc cử quan văn làm tổng chỉ huy chiến dịch đánh Tây Hạ nếu không chỉ e hậu quả của trận chiến này là không thể tưởng tượng nổi.

Đỗ Văn Hạo đi tới Phúc Ninh cung. Nội thị nói với Đỗ Văn Hạo, Thái Hoàng Thái Hậu đang ở trong ngự hoa trong Ngự hoa viên. Thái Hoàng Thái Hậu đã có chỉ, Đỗ Văn Hạo tới gặp thì trực tiếp dẫn vào, không cần phải thông báo vì vậy nội thị đã dẫn Đỗ Văn Hạo vào Ngự hoa viên. Từ xa hắn đã thấy Cao Thao Thao đang đứng chỉ trỏ trên một ngọn núi nhỏ giữa một đám người vây quanh. Trong số đó có mấy người mặc quan bào.

Sau khi Đỗ Văn Hạo leo lên ngọn núi nhỏ hắn mới nhìn rõ mấy người mặc quan bào trên núi. Trong những người đó có một lão giả, đó là Thượng thư bộ công, mấy người còn lại là quan lại bộ Công cùng thợ thủ công. Đỗ Văn Hạo đi tới sau Thái Hoàng Thái Hậu, chắp tay nói: “Thái Hoàng Thái Hậu!”

Cao Thao Thao nghe giọng nói của Đỗ Văn Hạo thì vui mừng quay đầu lại hỏi: “Khanh đã tới rồi! Thương nghị đã xong rồi sao?”

“Đã xong hết rồi. Vi thần định bẩm báo với Thái Hoàng Thái Hậu về một số tình hình của hội nghị Tể chấp”.

“Hay. Thế nhưng trước tiên khanh hãy giúp Ai gia xem nên tu sửa đình ngắm mưa này như thế nào? ‘ Cao Thao Thao giơ tay chỉ về phía trước.

Đỗ Văn Hạo không chú tới hướng chỉ tay của Cao Thao Thao. Hắn tưởng rằng nàng muốn xây dựng ngay ở dưới chân hắn liền quan sát xung quanh. Trên ngọn núi nhỏ này có đủ các loại hoa cỏ, trên sườn núi có trồng mấy cây tùng. Phía trước có một hồ nước, nước hồ xanh biếc.

Trong Ngự hoa viên có một con sông nhân tạo, dẫn nước từ sông bên ngoài thành vào trong. Nước chảy vòng quanh hậu hoa viên rồi ra ngoài Hoàng thành vì vậy nước trong hồ này luôn lưu thông. Cảnh non nước thanh tịnh và đẹp đẽ. Một hành lang cửu khúc uốn lượn trên mặt hồ. Đối diện với mặt nước xanh biếc bên dưới ngọn núi là đình đài lầu các ở xa xa, có thể nhìn thấy cả ngói Lưu ly trên các mái nhà.

Phía sau ngọn núi nhỏ là một am ni cô nhỏ xinh. Đây có lẽ là am của Thái Hoàng Thái Hậu Tào thị khi còn sống thườn ăn chay niệm phật ở đây. Trong am chỉ có hai nữ ni, Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao đều giữ lại, ban thưởng tiền và vàng bạc.

Đỗ Văn Hạo nói: “Đình hóng mưa ở đây thì không còn chỗ nào tốt hơn. Bên dưới là hồ nước hoa sen, non xanh nước biết, thanh tĩnh lại ưu nhã, cũng không cần lo lắng muỗi nhỏ của hồ nước làm mất hứng. Rất hợp!”

Cao Thao Thao trừng mắt nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Ta không nói ở chỗ này. Ý của ta là ở phía trước kia”.

Đỗ Văn Hạo hoảng hốt nói: “Ở phía trước?”

“Đúng vây. Trước tiên khanh hãy xem bản vẽ đi. Bản vẽ này Ai gia đã lệnh cho bộ Công vẽ ra cả đêm hôm qua bản phác thảo này. Khanh hãy nhìn xem thế nào?”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Thái Hoàng Thái Hậu làm việc rất nhanh chóng nghiêm túc. Tối hôm qua quyết định, hôm nay đã có bản vẽ lại còn khởi công ngay lập tức”.

Cao Thao Thao cười nói: “Ai gia vốn tính nóng vội, không chấp nhận những chuyện chậm chạp. Trước tiên khanh hãy xem bản vẽ”.

“Được!” Đỗ Văn Hạo nhận bản vẽ, mở ra xem. Tất cả đều là bản vẽ hoàn chỉnh. Tờ thứ nhất vẽ toàn cảnh. Những tờ sau vẽ bố cục của từng phần.

Đỗ Văn Hạo giật mình kinh hãi khi nhìn vào bản vẽ.

Hoàng cung của Bắc Tống không lớn. Ngự hoa viên cũng chỉ rộng bằng hai, ba sân bóng mà thôi. Trong đó vườn Ngư hoa hậu uyển của cao tằng Thái Hoàng Thái Hậu Tào thị đã chiếm mất hơn một nửa. Tất cả đều trông hoa. Ngoại trừ chùa miếu và mấy ngôi đình hóng mát, tất cả là một vườn hoa trông như gấm.

Hiện tại nhìn trên bản vẽ, vườn Ngự hoa hậu uyển đã vượt qua ra bên ngoài Hoàng cung, mở rộng hẳn về phía tây khiến cho bây giờ Hoàng cung có diện tích gần gấp đôi so với ban đầu.

Hiện trên bản đồ là một mảnh đất rộng lớn vẫn còn trống không. Ở giữa trung tâm mảnh đất là một cái hồ nước. Hồ nước này có nối liền với hồ sen của Ngự hoa viên. Ở giữa hồ có một hòn đảo nhỏ, hình chữ nhật, lớn hơn sân bóng đá một chút.

Dựa theo kiến trúc hiện lên trên bản vẽ thì thấy đó là một ngôi lầu ba tầng, chạm trổ bạch ngọc xung quanh. Trên mái của tầng lầu thứ ba có lợp ngói. Bốn mặt có mười sáu đường lan can đối xứng nhau uốn lượn như mây, cao đến ngang hông, hiển nhiên là nơi dùng để đàn ca, thi họa, múa kiếm giải trí cùng với ngắm cảnh. Bốn phía xung quanh của lầu hai và lầu một đều là cửa sổ nhỏ nhắn xinh xắn, chạm khắc. Mỗi cánh cửa sổ to đều có thể đẩy ra được. Các phòng được thiết kế đồng bộ có đầy đủ vật dụng.

Bốn phía xung quanh hòn đảo nhỏ trồng rất nhiều chuối ba tiêu. Trên mặt chuối ba tiêu có kẹp những thanh trúc. Một đầu thành trúc có giọt nước nhỏ xuống. Một guồng nước kiểu cổ dẫn nước từ hồ chảy vào thanh trúc, quanh quẩn quanh núi nhỏ. Trên thanh trúc có những lổ nhỏ chảy nhỏ giọt xuống những cây chuối ba tiêu như thế ngay cả những ngày không mưa vẫn có thể nghe thấy tiếng mưa rơi, đồng thời còn có thể tưới nước cho hoa cỏ trên núi.

Đỗ Văn Hạo nói: “Thái Thái Hoàng Thái Hậu, toà tiểu lâu giữa hồ này không có cầu. Có phải là định dùng thuyền bơi ra đó không?’

Cao Thao Thao mỉm cười gật đầu. Nàng dùng mắt ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo. Hai người bước ra một chỗ cách hơi xa các quan viên cùng thợ thủ công bộ công rồi mới thì thào nói: “Không sai vậy chúng ta có thể ở trên đảo giữ hồ nghe mưa. Bốn phía xung quanh chỉ có nước cùng tiếng mưa rơi. Không lo nghĩ gì, ung dung tự tại”.

“Đúng vậy. Chỉ cần nghe nàng nói ta cũng cảm giác như tâm tình mình rất thong dong. Suy nghĩ rất hay, rất tinh tế”.

Cao Thao Thao cười có vẻ đắc ý nói: “Chỉ cần ngươi thích là được”.

Chương 415: Tiểu kim khố Hoàng gia

Đỗ Văn Hạo liếc mắt nhìn bản vẽ. Hắn thấy chỗ hồ nước chỉ có một con kênh đào nối với hồ nước ở vườn Ngự uyển thì ngạc nhiên nói: “Có phải bản vẽ này sai rồi không? Tại sao hồ nước này chỉ có kênh dẫn nước vào mà không có kênh dẫn nước ra?”

Cao Thao Thao mỉm cười nói: “Đây là đường dẫn nước ra, không phải là đường dẫn nước vào”.

Đỗ Văn Hạo càng ngạc nhiên: “Đường dẫn nước ra sao? Vậy còn đường dẫn nước vào?”

“Ngươi đoán đi” Cao Thao Thao chớp chớp mắt, đắc ý nhìn Đỗ Văn Hạo.

“Vậy dùng nước mưa trên trời sao? Không phải. Nước mưa không đủ để duy trì liên tục. Hơn nữa nếu như trời hạn không mưa thì làm thế nào?”

“Ừ. Nước mưa chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong đó. Hãy đoán lại đi. Đừng nhìn lên trời đoán. Hãy nhìn dưới đất mà đoán”.

“Dưới đất sao? Nước ngầm dưới đất? Nước suѩ?”

“Đúng rồi” Cao Thao Thao có chút đắc ý với lối suy nghĩ tinh tế của mình: “Ta đã nghĩ qua có thể dẫn nước sông từ hào bảo vệ bên ngoài thành vào hồ nước như bây giờ nhưng vấn đề là trong tương lai chúng ta lại muốn bơi lội tắm rửa trong hồ nước này. Nhưng nước sông ở hào bảo vệ ngoài thành là dẫn từ nước sông Biện vào. Trên đường dẫn nước nông phụ giặt giũ quần áo, rửa chân, giặt tã, vo gạo, rửa thức ăn, giết gà mổ ngỗng. Tiểu hài tử bơi lội, đại tiện trên sông, đi tiểu trên sông, xác trâu bò, lợn dê chết trôi, thối dữa trên sông. Chỉ cầng nghĩ tới đã thấy buồn nôn”.

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: “Nghe nàng nói như vậy. Ta cũng không còn hào hứng nữa”.

“Ừ, đúng vậy vì vậy ta mới tìm cách dẫn nguồn nước vào hồ này từ một nơi sạch sẽ. Ngay đêm hôm qua ta đã triệu phủ doãn phủ Khai Phong, Thái Kinh tới, lệnh cho ông ta điều tra xem nơi chúng ta xây dựng hồ này có bao nhiêu con suối. Thái Kinh làm việc này cũng rất nhanh chóng. Sáng sớm hôm nay ông ta đã báo cáo kết quả. Lớn nhỏ có tất cả ba mươi sáu suối nguồn khác nhau. Tất cả đều ùa suối nguồn nước ngọt quanh năm không khô cạn. Trong đó có hai con suối nguồn rất lớn, nước chảy tạo thành dòng suối nhỏ, chảy vào sông Biện. Hai con suối nhỏ này có tên là “Dao Bích khê. Sở dĩ có tên này là vì nước suối của hai con suối này ngọt như nước Cam lộ, trong xanh. Bên công bộ còn nói nếu như mở rộng miệng thì lượng nước còn nhiều hơn nữa”.

“Thật vậy sao? Vậy tổng lượng nước là bao nhiêu?”

“Bên bộ Công đã tính toán qua. Ba mươi sáu suối nguồn này. Đặc biệt hai suối nguồn chảy thành suối, với lượng nước không dùng trong một tháng là có thể rót đầy hồ. Hơn nữa còn cam đoan nước trong hồ có thể lưu thông.

“Vậy quá hay. Chúng ta lấy nước đầu nguồn, lại vô cùng sạch sẽ. Chúng ta có thể bơi lội trong nước hồ”.

Ánh mắt Cao Thao Thao chợt loé lên. Nàng hỏi Đỗ Văn Hạo: “Khanh biết bơi sao?”

“Đương nhiên khi còn bé ta thường xuyên đội quần áo lên đầu, bơi qua con sông trước nhà đi chơi”.

“Thật sư? Vậy tới lúc đó ngươi sẽ dạy ta bơi. Ta không biết bơi”.

“Được. Chúng ta có thể phân chia hồ này thành khu nước cạn, khu nước sâu như vậy chúng ta vẫn có thể bơi ở khu nước cạn mà vẫn an toàn”.

“Không” Cao Thao Thao lắc đầu nói: “Hồ này phải đào sâu, không có khu nước cạn. Ta muốn bơi ở khu nước sâu. Ngươi hãy dạy ta. Chỉ cần có ngươi ở bên cạnh ta, ta không sợ gì cả”.

Bản tính Cao Thao Thao vốn nhu nhược. Một khi nàng có thể nói câu này chính là đã có can đảm mạo hiểm tính mạng của mình. Chứng mình trong lòng nàng đã hoàn toàn tin tưởng Đỗ Văn Hạo. Trong lòng Đỗ Văn Hạo không khỏi thấy vô cùng ấm áp khi hắn thấy mình được tin tưởng như vậy.

Đỗ Văn Hạo rất muốn “âu yếm” Cao Thao Thao một lát nhưng hắn biết không thể được, đành phải đứng quay lưng lại phía các quan lại và thợ thủ công ở phía xa xa gửi Cao Thao Thao một chiếc hôn gió.

Người cổ đại không cởi mở trong việc biểu lộ tính cách và tình yêu như người hiện đại. Đặc biệt là với người trong Hoàng cung, chỉ cần một cái giơ tay nhấc chân cũng phải chú ý lễ nghi cung đình. Cao Thao Thao chưa từng thấy ánh mắt biểu hiện tìng cảm dạt dào như vậy, nhất thời cả người nàng khô nóng bỏng, hai má đỏ như ráng mấy chiều, sóng mắt dịu dàng giống như hai giọt nước vậy. Nàng cũng học dáng vẻ của Đỗ Văn Hạo, ngón tay mân mê đôi môi mọng đỏ như muốn tiến tới đón nhận nụ hôn của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo thấy Cao Thao Thao đã nảy sinh cảm xúc nhưng những quan lại bộ Công đang ở phía sau nên hắn cũng không dám làm xằng bậy. Một khi hắn để người khác nhận ra đầu mối của sự việc thì sẽ cực kỳ nghiêm trọng. Hắn vội vàng ho khan một tiếng rồi nói to: “Thái Hoàng Thái Hậu, những chỗ trống này người chuẩn bị xây dựng cái gì?”

Một câu gọi Thái Hoàng Thái Hậu làm Cao Thao Thao bừng tỉnh. Hiển nhiên nàg biết dụng ý của Đỗ Văn Hạo liền nhìn hắn cười khẽ nói: “Ta vẫn chưa nghĩ ra. Ngươi có ý tưởng gì không?”

“Ta?” Đỗ Văn Hạo cười gượng nói nhỏ: “Người xem trên người ta có chút tao nhã nào không? Xem bệnh ta còn làm được, để thần suy nghĩ bố cục kiến trúc thì không khác gì không trâu bắt chó đi cày”.

Cao Thao Thao cười khanh khách nói: “Đừng khách khí. Hiểu biết của ngươi còn nhiều hơn rất nhiều so với mấy con mọt sách chỉ biết khoe chữ kia”.

“Đa tạ Thái Hoàng Thái Hậu quá khen” Đỗ Văn Hạo nhìn lướt qua thấy trên bản vẽ thi công lớp lớp các ban công, mái hiên đình hóng mát chi chít như sao trên trời, tùng bách cùng trúc xanh, kỳ sơn, dị thạch trang trí ở giữa thì không khỏi lên tiếng hỏi: “Thao Thao, nàng chuẩn bị xây dựng rầm rộ là có ý định biến cả Ngự hoa hậu uyển này cải tạo thành một đại quan viên à?”

Cao Thao Thao ngạc nhiên hỏi: “Đại quan viên? Cái vườn đó là của triều đại nào xây dựng nên?”

Đỗ Văn Hạo vội vàng bịa ra: “Ý của Đại quan viên chính là mênh mông, lộng lẫy rất có phong thái, không phải vườn của triều đại nào xây dựng nên”.

“Ồ, ngươi cảm thấy không tốt sao?”

“Không không, rất tốt. Ta chỉ cảm thấy xây dựng một cái vườn lớn như vậy cần rất nhiều hoa”.

Cao Thao Thao nhìn Đỗ Văn Hạo, trong mắt nàng ngập tràn sự yêu thương: “Ngươi đừng quan tâm tới tiền. Vườn này được xây dựng đặc biệt rành riêng cho hai chúng ta. Hiện tại sẽ được ngăn cách với Ngự hoa hậu uyển. Ngươi chỉ cần nói cho ta ngươi có thích hay không?”

“Đương nhiên là thích”.

“Thật vậy sao?”

Cao Thao Thao nhìn thẳng vào hai mắt Đỗ Văn Hạo, nàng nhìn thấy sự chân thành trong mắt hắn, lập tức nàng cười tươi như hoa nở: “Tối hôm qua sau khi ngươi rời đi, ta không ngủ được, ta liền tới ngọn núi nhỏ này muốn tìm một nơi đẹp để dựng ngôi đình ngắm mưa.

Ta quan sát hồi lâu cũng không tìm thấy vị trí phù hợp. Sau khi mưa ngớt, nhìn về phía kinh thành xa xa, hàng vạn ngọn đèn dầu. Bóng đêm bao phủ, ngọn núi nhỏ này lại rất thấp, không thể nhìn thấy cảnh vật. Ta đã nghĩ nếu có thể dựng một cái đài cao dù không hy vọng cao như đài Đồng Tước chỉ cần có thể đứng trên cao nhìn về phương trời xa xa, có thể tĩnh tâm nghe tiếng mưa rơi vậy là tốt rồi. Lúc đó ta chỉ muốn dựng một chiếc đài cao”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Chủ ý này rất hay! Trên đài cao dõi mắt nhìn phương xa, cảm giác thật sự vui vẻ thoải mái. Khi ta còn đi học vẫn thường xuyên leo núi. Loại cảm giác “Hội đương lăng tuyệt đính, nhất lãm chúng sơn tiểu*” thật sự là không ngòi bút nào có thể tả”.

Cao Thao Thao thấy Đỗ Văn Hạo đồng ý với tâm tư của nàng thì càng vui mừng nói tiếp: “Ta vốn dựng chiếc đài cao ở, phía dưới chính là hồ sen. Xung quanh là trồng chuối ba tiêu. Như vậy có thể nghe tiếng ếch kêu dưới hồ sen, tiếng mưa đạp vào cây chuối tây, và cả tiếng mưa rơi tý tách xuống hồ nước, trong lòng sẽ vô cùng mãn ý. Nhưng vấn đề là chỗ hồ nước ở Ngự hoa hậu uyển này quá nhỏ, không hợp với ý ta. Đặc biệt không có một cảm giác mênh mông cô tịch. Khe nghe tiếng mưa rơi muốn có cảm giác này tốt nhất là bơi thuyền trên mặt hồ, buông neo giữa hồ, bốn phía xung quanh chỉ có tiếng mưa rơi như vậy mới thú vị. Nghĩ vậy đột nhiên ta muốn kiến tạo một chiếc hồ, một chiếc hồ nhân tạo rất lớn, giữa hồ có một toà cô đảo. Chúng ta sẽ dựng đình nghe mưa trên cô đảo này”.

“Thì ra là như vậy. Ha ha vì vậy nàng mới ngay trong đêm triệu Thượng thư bộ Công tới để thương nghị ý tưởng của nàng hả?’

“Người biết nhân gia ta nóng lòng mà” Mặt Cao Thao Thao phớt hồng, tươi như hoa đào, e thẹn nàng cười khúc khích nói: “Lần trước chúng ta đã thống nhất với nhau sau khi chuyện bận rộn qua đi chúng ta sẽ tìm một nơi nào đó tốt tĩnh dưỡng một thời gi­an nhưng bây giờ ta buồng rèm chấp chính, mọi sự phải gá lại, chỉ sợ không rảnh để xuất kinh nhàn rỗi du ngoạn. Ta liền nghĩ tới nếu muốn có một chỗ như vậy ở bên cạnh để tĩnh dưỡng lại tiện xử lý việc chính sự, cũng có thể để cho hai ta dắt tay nhau vui chơi sơn thuỷ vì vậy ta mới hạ quyết tâm không chỉ dựng một đài ngắm mưa mà còn muốn dựng một đại lâm viên như ý muốn. Hai ta có thể tranh thủ lúc rảnh rỗi, qua đây hưởng chút thời gi­an thanh tịnh, cuộc sống nhàn tản, thoát ly thế tục”.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo thực sự cảm động. Cao Thao Thao đã vì chính hắn mà rầm rộ xây dựng, đặc biệt dựng một lâm viên Hoàng gia đại quy mô. Xem ra Cao Thao Thao đã thực sự mắc vào lưới tình. Một khi bị cuốn vào tình ái sẽ nảy sinh yêu thương đắm say. Đỗ Văn Hạo cảm thấy điều này hoàn toàn thật. Nếu như không phải bây giờ đang có người bên cạnh, Đỗ Văn Hạo sẽ bước tới ôm hôn nàng, nói cho nàng biết cảm nhận của lòng mình.

Dù là như thế nhưng Cao Thao Thao là người thông minh, nàng đã nhận ra sự yêu thương chân thành trong ánh mắt Đỗ Văn Hạo, lòng nàng lại như rót mật. Nàng nói tiếp: “Ngươi cũng đừng lo lắng chuyện tiền bạc. Trước khi ta triệu Thượng thư bộ Công tới tối hôm qua, ta đã triệu Thượng thư bộ Hộ tới hỏi xem rốt cuộc ngân khố triều đình còn bao nhiêu ngân lượng để tuỳ cơ ứng biến, có thể quyết định quy mô của lâm viên. Ngươi đoán xem rốt cuộc chúng ta có bao nhiêu ngân lượng còn tồn?”

“Không đoán được” Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: “Thế nhưng lúc xế chiều có nghe Tể tướng Vương Gi­ai nói một năm ngân khố triều đình thu vào sáu ngàn vạn hôn. Trong số đó đại bộ phận là dùng cho quân khí nuôi quân. Hẳn là không còn đáng kể?”

“Đúng. Thượng thư bộ Hộ nói trước mắt quốc khố cơ bản đã cân đối thu chi, ngân lượng còn tồn không tới ba trăm vạn (tương đương với ba trăm triệu nhân dân tệ).

“Tiền còn ít như vậy chỉ e là không đủ để xây dựng lâm viên”.

“Lúc ấy ta rất thất vọng. Tiểu Tiêu tử đã nhắc nhở ta, nhắc ta kiểm tra ngân khố Hoàng cung, có lẽ có bạc. Ta lập tức gọi tổng quản ngân khố Hoàng cung tới tra hỏi. Ngay khi mới tra hỏi thông tin biết được làm ta vừa mừng vừa sợ. Ngươi lại đoán xem ngân khố Hoàng cung có bao nhiêu tiền?”

Quốc khố thời cổ đại chia ra làm hai bộ phận. Một là cả quốc gia chính là quốc khố. Một là ngân khố Hoàng cung, là kho bạc riêng của Hoàng Thượng. Đương nhiên ngân khố Hoàng cung của Hoàng Đế cũng là nơi cất giữ tiền, ngoại trừ cống phẩm trong và ngoài nước còn tuyệt đại cũng chỉ là tiền dư của quốc khố. Những khoản tiền còn dư của quốc khố được chuyển tới ngân khố Hoàng cung.

Đỗ Văn Hạo nói: “Quốc khố trống rỗng. Ngân khố hoàng cung nhất định cũng có rất ít ngân lượng”.

‘Ta vốn cũng nghĩ như vậy nhưng khi tổng quản mở sổ sách ra tra tìm. Hì hì, ngân khố Hoàng cung chúng ta còn tồn kho một trăm bảy mươi triệu quan tiền”.

Một trăm bảy mươi vạn quan tiền tương đương với một trăm bảy mươi tỷ nhân dân tệ. Ở triều Tống con số này nhất định làm người khác trợn mắt há hốc mồm.

Đỗ Văn Hạo vừa mừng vừa sợ hỏi: “Không thể nào. Tại sao lại có nhiều tiền còn tồn lại vậy?’

“Ta cũng rất nghi ngờ, ta bắt tổng quản dẫn ta tới ngẩn khố. Vừa mới mở cửa ra ta biết đó chính là sự thật. Tiền bạc trong ngân khố hoàng cung chúng ta xếp như toà núi nhỏ. Dây buộc xâu tiền đã mục nát, những đồng tiền chất cao như núi rơi lả tả xung quanh. Bên cạnh tiền bạc còn phải kể tới không biết bao nhiêu các loại kỳ trân dị bảo vô giá”.

* Hội đương lăng tuyệt đỉnh, nhất lãm chúng sơn tiểu

Hai câu này được trích trong bài: “Vọng nhạc” của Đỗ Phủ, miêu tả sự hùng vĩ của núi Thái Sơn, một trong năm ngọn núi của Ngũ nhạc, gồm Hằng Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn, Hoa Sơn, Tung Sơn

望岳 Vọng nhạc

岱宗夫如何,

齊魯青未了。

造化鍾神秀,

陰陽割昏曉。

盪胸生層雲,

決眥入歸鳥。

會當凌絕頂,

一覽眾山小。

Ðại Tông phù như hà?

Tề Lỗ thanh vị liễu.

Tạo hóa chung thần tú,

Âm dương cát hôn hiểu.

Ðãng hung sinh tằng vân,

Quyết tí nhập quy điểu.

Hội đương lăng tuyệt đính,

Nhất lãm chúng sơn tiểu.

Dịch nghĩa:

Thái Sơn trông thế nào?

Tề, Lỗ xanh liền giải.

Trời đất dồn xinh tươi,

Âm dương chia sớm tối.

Lòng ùn với lớp mây,

Mắt hút theo chim núi.

Lên chóp đỉnh mà trông,

Lè tè muôn núi dưới.

Bản dịch của Khương Hữu Dụng

Núi Ðại Tông như thế nào?

Ðất Tề, đất Lỗ màu xanh không ngớt.

Tạo hóa hun đúc nét đẹp khí thiêng ở đó.

Sườn núi bắc (âm), nam (dương) phân chia chiều sớm

Lòng (ngực) núi dao động phát sinh lớp lớp khói mây

Giương mắt đắm vào bầy chim về tổ.

Ðược dịp lên tận đỉnh cao chót vót,

Ngắm nhìn mới thấy núi non chung quanh đều

Nhỏ bé

Chương 416: Cải tiến biến pháp

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên hỏi: “Ở đâu ra nhiều tiền vậy chứ?”

Cao Thao Thao nói: “Đúng vậy. Ta cũng hỏi tổng quản như vậy. Sau khi hắn giải thích một hồi ta mới hiểu. Tiên đế dùng biến pháp của Vương An Thạch. Tiền phu dịch, tiền Thanh Miêu Pháp, tiền phường chợ vân vân ùn ùn đổ vào quốc khố. Trong đó tiền Thanh Miêu pháp là nhiều nhất, mỗi năm lên tới năm trăm nghìn quan. Hơn mười năm qua, hàng năm đều còn dư mà năm sau tăng nhiều hơn năm trước. Hàng năm tiên đế chuyển đại bộ phận tiền dư của quốc khố vào ngân khố Hoàng cung vì vậy mới tích luỹ tiền dư trong bằng ấy năm nhiều như vậy”.

Bỗng nhiên Đỗ Văn Hạo tỉnh ngộ, hắn nói: “Thật không ngờ biến pháp của Vương An Thạch rất kém cỏi nhưng khả năng vơ vét của ông ta không nhỏ chút nào”.

“Đúng vậy. Thời gi­an trị vì của Nhân Tông và Anh Tông hoàng đế ta biết, thường xuyên nhập vào không bù xuất ra. Quốc khố gần như không có ngân lượng dư tồn. Ngân khố Hoàng cung cũng có rất ít tiền bạc. Không ngờ hơn mười năm tiên đế lại dự trữ được lượng ngân lượng kếch sù như vậy. Quả thực làm người khác phải than thầm kinh hãi”.

Đỗ Văn Hạo mừng thầm trong lòng khi hắn nghe thấy nói có rất nhiều tiền: “Vậy chúng ta xây dưng lâm viên này đại khái hết bao nhiêu tiền?”

“Khu vườn này của chúng ta chủ yếu là nhân công đào đắp, chi phí không nhiều lắm. Ta chỉ muốn phong cảnh sơn thuỷ, không xây lầu cao nên không tốn quá nhiều tiền. Bộ công đã tính toán đại khái hết khoảng bốn ngàn ba trăm vạn quan tiền”.

Bốn ngàn ba trăm vạn quan tiền tương đương với bốn mươi ba triệu nhân dân tệ. Gần như là chiếm hơn một nửa tổng ngân khố của Bắc Tống.

Đỗ Văn Hạo líu lưỡi nói: “Nhiều vậy sao? Thao Thao, nàng mới buông rèm nhiếp chính đã xây dựng rầm rộ lầu gác, cung điện nay lại bỏ ra nhiều tiền như vậy để xây dựng lâm viên, chỉ e các đại thần sẽ có dị nghị”.

“Khôgn sao. Tiền để xây dựng vườn hoa chính là của ngân khố Hoàng cung chúng ta, không phải tiền trong ngân khố quốc gia. Tiền trong ngân khố Hoàng cung số lượng cụ thể bao nhiêu các đại thần trong triều cũng không biết. Tất cả số tiền này chỉ là tiền phụ chi mua hoa nên bọn họ cũng không biết. Hơn nữa số tiền này chất đống trong ngân khố Hoàng cung mấy chục năm, dây buộc cũng đã mục nát, bỏ đi cũng lãng phí không bằng chúng ta dùng. Ngân khố Hoàng cung còn tồn một ngàn bảy trăm triệu quan. Chúng ta mới chỉ dùng chưa tới một phần tư số đó, cũng không tính là dùng hao tốn quá nhiều. Cứ dùng hết rồi lại kiếm được mà’.

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: “Sau khi Vương Anh Thạch bị bãi chức Tể tướng, chỉ sợ cũng rất khó tìm ra người có bản lĩnh vơ vét như ông ta”.

Cao Thao Thao trầm ngâm một lát rồi chậm rãi gật đầu nói: “Đúng. Ông ta rất biết cách quản lý tiền bạc. Điều này trong triều từ trên xuống dưới đều công nhận. Ngân khố Hoàng cung có một ngàn bảy mươi vạn quan cũng đủ để chứng minh điều này. Ta vẫn muốn dùng ông ta làm Thương thư bộ hộ quả lý tài sản tiền bạc nhưng biến pháp của ông ta không thể tiếp tục được nữa”.

Gi­ai đoạn ban đầu của triều Tống có thành lập tam ti quả lý việc thu chi tiền bạc trong cả nước. Sau đó quyền lực của tam ti được mở rộng cực lớn, xâm chiếm rất nhiều chức năng của nha môn lục bộ triều đình, thậm chí còn xâm phạm quyền giám sát, hơn nữa cơ cấu rất cồng kềnh. Hơn nữa phân chia quyền lực không hợp lý. Khi Tống Thần Tông bắt đầu cải cách chế độ xã hội, đem trả lại tất cả các quyền hạn mà tam ti chiếm đoạt của các bộ. Trong đó có quyền tài chính trả lại cho bộ hộ. Bộ hộ quản lý tất cả tiền gạo, trưng thu thuế cùng với các công việc hộkhẩu trong cả nước. Bây giờ tương đương với bộ tài chính và bộ dân chính.

Đỗ Văn Hạo biết Cao Thao Thao ghét cay ghét đắng biến pháp. Hắn cũng đã nghĩ tới kết quả này nhưng vẫn hỏi lại một câu: “Nàng muốn bãi bỏ toàn bộ biến pháp sao?”

“Đúng!” Cao Thao Thao xua tay nói: “Biến pháp hại dân hại nước nếu không bãi bỏ cứ thế mãi nhất định dân chúng sẽ sinh biến”.

“Nếu như muốn bãi bỏ chỉ e là Vương An Thạch sẽ không đồng ý tới giúp chúng ta quản lý tiền bạc. Cho dù có tới ông ta cũng thay đổi phương pháp quản lý tiền bạc, coi như vẫn là tranh quyền lợi với dân chúng. Nếu như bãi bỏ toàn bộ, chỉ e ông ta cũng theo kẻ khác, không muốn làm việc”.

“Không giúp cũng chẳng sao” Nói xong Cao Thao Thao cảm thấy câu này của mình quá ngang ngược. Nàng cúi đầu suy nghĩ một chút rồi thở dài nói: “Đáng tiếc nếu biến pháp có thể không làm hại dân chúng mà lại có thể khiến quốc khố tràn đầy thì tốt biết bao”.

“Vẫn có cách” Đỗ Văn Hạo nói: “Lần trước ta theo tiên đế cải trang vi hành điều tra hiệu quả của biến pháp. Ngay lúc đó phát hiện ra rất nhiều vấn đề. Thật ra phần lớn biến pháp của Vương An Thạch bản thân nó không có vấn đề gì nhưng vấn đề ở đây chính là tiến hành quá nhanh, không tiến hành theo trình tự, khiến cho cả xã hội không thể thích ứng kịp với tiến trình của biến pháp, không làm cho dân chúng nhận ra chỗ lợi ích của biến pháp. Biến pháp thiếu hẳn một người làm mẫu, một mô hình mà đã thi hành trong khắp cả nước, đương nhiên sẽ vấp phải thành kiến. Biến pháp của ông ta có địa phương có thể áp dụng được nhưng có địa phương rất khó áp dụng. Càng gia tăng chấp hành nghiêm chỉnh biến pháp quan lại càng lạm dụng quyền lực ức hiếp dân chúng, khiến biến pháp càng bị thay đổi bản chất”.

Nói tới biến pháp, tâm tình của Cao Thao Thao rất mâu thuẫn. Nếu là người khác nói chỉ e nàng đã cắt ngang không cho nói nhưng người đang nói là tình nhân của nàng, nàng lại muốn nghe không phải chỉ là nghe căn nguyên của sự việc mà còn muốn lĩnh hội cả tình cảm trong đó vì vậy nàng không ngắt lời Đỗ Văn Hạo, chỉ ngẩng đầu cười nhìn hắn.

Thấy thế Đỗ Văn Hạo quyết định thừa dịp này tranh thủ thời cơ khi còn kịp nói chuyện biến pháp: “Thật ra biến pháp của Vương An Thạch, đại bộ phận có mục đích rất tốt, lợi nước, an dân, quan tâm tới lợi ích của hai bên. Chỉ cần chúng ta vận dụng đúng phương pháp vẫn có thể đạt được mục đích này”.

“Có đúng không?” Cao Thao Thao buột miệng hỏi một câu.

Đỗ Văn Hạo thấy nàng hỏi chiếu lệ như vậy hiểu trong lòng nàng không thích nghe nhưng đã nói tới ddaay rồi thì vẫn phải tiếp tục nói nên hắn nói tiếp: “Ví dụ như Thanh Miêu pháp bị phán đối dữ dội nhất. Mục đích ban đầu của Thanh Miêu pháp chính là người dân khi vào lúc giáp hạt có thể mượn tiền từ nha môn để tạm duy trì cuộc sống mà triều đình cũng được hưởng lợi từ chính điều này

Khởi đầu của biến pháp này rất đúng nhưng vấn đề là những quan phủ nha môn trực tiếp biến thành công việc kinh doanh, làm sai lệch hoàn toàn ý nghĩa ban đầu của biến pháp. Quan phủ có công quyền trong khi đó bọn quan lại đó đã có thói quen dùng quyền lực ức hiếp người dân. Trong quá trình thực hiện đương nhiên sẽ xuất hiện chuyện lạm dụng quyền lực làm cho biến pháp biến dạng.

“Khi ta ở phủ Thành Đô lộ Nhã Châu thực thi biến pháp này, tiến hành điều chỉnh quy định vốn để an dân này, thực hiện việc sửa đổi thành hình thức góp vốn đầu tư. Hiệu quả cũng không tệ lắm”.

Cao Thao Thao biết người trong lòng nàng sẽ không bao giờ lừa gạt nàng. Đỗ Văn Hạo đã nói hiệu quả khá tốt thì nhất định là hiệu quả khá tốt. Nàng có ấn tượng rất sâu sắc với một ngàn bảy trăm triệu quan tiền trong ngân khố Hoàng cung, trong một chừng mực nào đó đã làm thay đổi sự ác cảm tới cùng cực của nàng đối với biến pháp.

Trước kia Cao Thao Thao chỉ biết biến pháp là tai hoạ của dân chúng, có ý định bệnh vực kẻ yếu. Nàng hoàn toàn không hay biết việc biến pháp đã thu được một lượng tiền bạc khổng lồ cho ngân khố. Chính vì cái gọi là không lo việc nhà nên không biét củi gạo quý hiếm. Bây giờ nàng buông rèm chấp chính sẽ phải lo nghĩ cho cả đất nước. Nàng đang âu sầu không biết làm thế nào để ngân khố luôn tràn đầy.

Lần này Cao Thao Thao chuẩn bị xây dựng Ngự hoa hậu uyển vì cái gọi là cuộc sống già nhân ngãi non vợ chồng của nàng và Đỗ Văn Hạo. Nàng muốn đầu tư bốn trăm ngàn vạn quan tiền (tương đương với bốn mươi triệu nhân dân tệ). May mắn thay tiên đế đã để lại ngân khố Hoàng cung kết quả của hơn mười năm biến pháp cho nàng xử dụng. Bằng không nàng chỉ có thể ngồi mà than ngắn thở dài. Lúc này trong lòng nàng thực sự coi trọng phương pháp làm quốc khố luôn đầy chặt.

Vì vậy Cao Thao Thao hứng thú hỏi Đỗ Văn Hạo: “Ngươi tiến hành điều chỉnh Thanh Miêu pháp như thế nào?”

Đỗ Văn Hạo liền nói tất cả những thay đổi của hắn đối với Thanh Miêu Pháp, sau cùng hắn nói: “Khi ta rời khỏi đó, sau khi Thanh Miêu pháp được sửa đổi, không còn xuất hiện các tai hoạ gây ra bởi Thanh Miêu pháp. Dân chúng phản ứng rất tốt đẹp. Khi ta đi đã gi­ao lại cho Tô Thức tiếp tục áp dụng. Không biết trong một năm qua tình hình như thế nào?”

Cao Thao Thao trầm ngâm nói: “Tô Thức là người có tài văn chương, đồng cảm với dân chúng. Nếu như biến pháp đó thật sự lợi nước an dân, ông ta sẽ tích cực áp dụng. Thế này đi. Ta sẽ ra chỉ lệnh cho Tô Thức quay về kinh thành, ta muốn hỏi ông ta một số chuyện về biếp pháp đó. Nếu như biến pháp thực sự hữu hiệu, ta có thể cân nhắc giữ lại Thanh Miêu pháp, không phải nói là Thanh Miêu pháp cải tiến của ngươi”.

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: “Vậy tốt quá. Cứ vậy đi. Khoảng cách từ kinh thành tới phủ Thành Đô không quá xa. Hiệu quả hay không cứ cho người đi khảo sát. Nếu không chờ sau khi Tô Thức tới, bẩm báo cho nàng. Nếu như nàng quyết định giữ lại Thanh Miêu pháp cải tiến này, chúng ta sẽ ở kinh thành tuyển chọn một hai phủ, huyện tiến hành thí điểm, tích luỹ kinh nghiệm, quan sát hiệu quả. Nàng thấy thế nào?”

Cao Thao Thao khẽ cười, nói nhỏ: “Ta đã bao giờ phản đối đề nghị của ngươi chưa?”

“Hì hì. Thao Thao của ta là người ngoan ngoãn biết nghe lời nhất” Đỗ Văn Hạo ôn nhu nói.

Cao Thao Thao vui mừng liếc nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Chỉ mong sau này khi ngươi chính thức áp dụng Thanh Miêu pháp có thể làm lợi nước an dân, sau này có tiền bạc thu vào, chúng ta sử dụng ngân khố có tiên đế mới cảm thấy an lòng một chút”.

“Đúng vậy. Những biến pháp khác của Vương An Thạch cũng rất hay. Liệu có cần cân nhắc giữ lại rồi thay đổi không?”

“Tham lam tất nhai không kỹ. Ngươi cũng vừa mới nói biến pháp phải tuần tự tiến hành, theo trình tự thực hiện dần dần”.

“Đúng đúng. Hì hì” Đỗ Văn Hạo vội vàng trả lời. Hắn biết trong lòng Cao Thao Thao vẫn chưa hoàn toàn thay đổi ác cảm với biến pháp. Nếu không phải biến pháp cải tiến đó là thành tựu của người trong lòng, nàng nhất định sẽ không cân nhắc giữ lại. Cho dù bất kỳ ai có nói biến pháp này có thể lợi nước an dâm nàng cũng không suy nghĩ. Việc giữ lại Thanh Miêu pháp là nàng đã có thể tiếp nhận vấn đề. Nếu muốn nàng tiếp tục giữ lại, nàng sẽ không đồng ý. Mọi việc chỉ có thể bước từ từ. Hơn nữa nói như Cao Thao Thao bản thân hắn chỉ có thể chậm rãi tiến hành cải cách từng bước một. Nếu lại liều lĩnh áp dụng nhất định sẽ phạm sai lầm. Có thể giữ lại Thanh Miêu pháp cải tiến làm thí điểm đã là rất tốt rồi.

“Chúng ta hãy quay lại việc xây dựng lâm viên” Cao Thao Thao chỉ tay về khu đất rộng mênh mông phía trước dự tính xây dựng lâm viên nói: “Ta chỉ muốn ra đảo giữa hồ ngắm mưa, xây dựng những cái khác ta thực sự không nghĩ ra. Ngươi có chủ ý nào không?”

“Nhưng ta thực sự không biết gì về kiến trúc”.

“Ta không muốn biết ngươi muốn xây dựng như thế nào. Hãy nói ta biết ngươi thích phong cảnh như nào là được, đương nhiên sẽ có người của bộ công căn cứ vào suy nghĩ của ngươi mà sắp đặt”.

“Vậy hả? Muốn ta nghĩ thế nào thôi sao?” Đỗ Văn Hạo chỉ về phía xa xa nói: “Ta chỉ hy vọng đài sẽ cao hơn một chút. Tốt nhất là có thể cao hơn tất cả các công trình ở kinh thành. Như vây lên cào nhìn mọi núi nhỏ phía dưới cảm giác mới mạnh mẽ”.

“Ta vốn cũng nghĩ tới điều này. Ta vốn cũng muốn cao hơn một chút. Ít nhất có thể cao hơn tháp của tướng quốc tự. Nhưng người của bộ công nói. Nếu một khi caosẽ bị ông trời nghi kỵ, sẽ đánh sét, tia chớp. Sét đánh đài cao. Trước kia tháp của tướng quốc tự vốn cao bảy tầng nhưng sau khi xây dựng xong một năm bị sét đánh sập một tầng, một tăng lữ trên tháp còn bị sét đánh chết. Sau này tướng quốc tự bói quẻ nói tháp cao tất bị trời nghi kỵ nên mới vội vàng sửa thành tháp năm tầng. Sau khi sửa lại, tháp không bị sét đánh nữa”.

Chương 417: Lựa chọn chủ soái

Hết Tiền

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Ôi, đó chỉ là mê tín” Bản thân hắn là người hiện đại nên có thể giải thích được nhận thức sai lầm đó. “Không tồn tại cái gọi là tháp cao bị ông trời nghi kỵ. Vì không muốn tháp cao nên ông trời mới giáng sét xuống sao? Vậy sao núi cũng cao mà ông trời không đánh xuống đi?”

Cao Thao Thao che miệng cười nói: “Đúng vậy. Ta cũng hiểu lý do này có chút gượng ép. Nhưng quả thực Tướng quốc tự bị sét đánh gẫy một tầng lầu. Hôm đó ta còn đích thân tới đó xem”.

“Ta sẽ có cách phòng ngừa sét đánh rất tốt. Nàng cứ yên tâm, không có vấn đề gì hết. Thế này đi, để đề phòng vạn nhất chúng ta chỉ dùng cái tháp cao này ngắm phong cảnh, không để ngắm mưa. Hơn nữa chúng ta không nên xây dựng trên đảo giữa hồ. Chúng ta nên tìm một chỗ đất cao để xây dựng. Những khi có mưa chúng ta cũng không cần trèo lên đó nghe tiếng mưa rơi mà ngắm mưa ở Thính vũ hiên. Thính vũ hiên chỉ cần cao ba tầng là đủ. Nếu cao quá sẽ không nghe thấy tiếng mưa rơi trên mặt hồ thì sẽ không cảm thấy sự kỳ diệu”.

“Chủ ý này của người rất hay. Ngươi đã nghĩ ra cách đề phòng sét đánh vậy cứ để bọn họ xây một cái tháp ngắm cảnh khác. Ngươi cảm thấy tháp đó cao bao nhiêu thì phù hợp?”

“Đương nhiên càng cao càng tốt nhưng cao quá lại không an toàn, cũng khó có thể trèo lên được. Chỉ cần chín tầng thôi. Kể ra chín tầng là cực hạn rồi, lên đó nhìn cũng rất xa rồi”.

Cao Thao Thao suy nghĩ một lát rồi nói: “Dù sao chúng ta cũng phải đào hồ, đất bùn đào lên sẽ đắp thành một quả núi nhỏ, nhất định sẽ cao hơn ngọn núi này. Sau đó chúng ta sẽ xây dựng một cái tháp trên đỉnh ngọn núi đó. Không phải như vậy sẽ càng cao hơn sao?”

“Ý tưởng rất hay. Có thể đỡ được công chuyên chở bùn đất đào lên, ngược lại còn làm giảm chi phí cho của công trình”.

“Đúng vậy. Người nói đi ngươi muốn xây dựng cái gì nữa?”

“Lấy đá Thái Hồ làm hòn non bộ thì không còn gì đẹp hơn”. (đá Thái Hồ (loại đá ở Thái Hồ tỉnh Gi­ang Tô, Trung Quốc, thường dùng làm hòn non bộ)

“Điều này ta cũng đã nghĩ tới. Ta sẽ an bài để bọn họ vận chuyển tới. Còn gì nữa không?”

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một lát rồi nói: “Từ bản vẽ này có thể thấy cái hồ này rất rộng lớn, hơn nữa lại gần như hình chữ nhật. Ngoại trừ Thính vũ hiên của chúng ta ở đảo giữa hồ, toàn bộ mặt hồ trống rỗng. Ta đang suy nghĩ nếu cứ để trống như vậy nhìn lâu sẽ thấy đơn điệu. Chúng ta có thể từ đảo xây dựng một chiếc cầu dài hình vòm hơn nữa còn uốn lượn ngang hai bên bờ hồ. Như vậy chúng ta có thể từ xa nhìn Thính vũ hiên ở giữa hồ sẽ trông giống như một chuỗi hạt ngọc lơ lửng trên mặt nước”.

Cao Thao Thao vỗ tay nói: “Chủ ý này rất hay. Ta nhớ rồi. Còn gì nữa không?”

“Còn nữa. Khu vườn của chúng ta rất rộng, hơi trống trải. Sao chúng ta không dựng một số hòn non bộ, trong vườn cũng nuôi một ít hươu sao, chim uyên ương, tiên hạc và các loại động vật ngoan hiền để bầu bạn với chúng ta?”

“Đúng đúng. Như vậy cả khu vườn sẽ tràn đầy sự sống, đúng không?”

“Ừ. Chúng ta đào hồ nhân tạo. Đáy hồ nhất định là bùn, một khi chúng ta dẫn nước vào, nhất định sẽ trở thành hồ bùn nhão nên phải cẩn thận đề phòng. Tốt nhất là hãy rải dưới đáy hồ một lớp đá cuộc mỏng, điều này cũng thể giúp loại bỏ tạp chất trong nước hồ”.

“Hay. Ta sẽ nhắc nhở ng­woif của bộ công. Bọn họ rất có kinh nghiệm đào hồ. Cái hồ chúng ta sắp làm là do bộ công chịu trách nhiệm tổ chức đào. Chất lượng nước cực kỳ tốt. Ban đầu bọn họ sẽ trải một lớp cá mỏng và đá cuội dưới đáy hồ. Bọn họ còn làm vệ sinh chất lượng nước. Ta cũng không cần phải nói. Dù gì việc này gi­ao cho bọn họ làm rất tốt. Ngươi chỉ cần muốn phong cảnh thế nào là được”.

‘Điều nàng nói nhất thời ta vẫn chưa nghĩ ra. Sau này nghĩ ra chậm rãi tu sửa cũng chẳng sao. Dù sao thì công trình đào hồ nhân tạo lớn như vậy, nhất định phải hết một năm rưỡi mới có thể đào xong. Hãy cứ lắng nghe ý kiến của những thợ thủ công của bộ công. Dù gì bọn họ thường làm những việc này nên ý kiến của bọn họ sẽ tốt hơn ý kiến của ta”.

“Ý kiến của bọn họ cũng nghe nhưng vẫn chủ yếu là ý kiến của hai chúng ta. Khu vườn này được xây rành riêng cho hai chúng ta. Hiển nhiên phải hợp ý chúng ta, chúng ta phải thấy thoải mái”.

“Điều này cũng đúng. Nàng cứ quyết định là được. Nàng thích là ta cũng thích”.

“Ừ. Vậy được rồi. Trước tiên ta dựa theo ý kiến của người cùng suy nghĩ của ta để cho bọn họ làm. Ngươi hãy bớt chút thời gi­an đến xem, có điểm nào hay hoặc có chỗ nào không hài lòng hãy kịp thời nói ra. Trước nay ngươi vẫn bận rộn chuyện nhũng binh, nhân tiện hãy để chuyện này giúp ngươi có chút tiêu khiển”.

Cao Thao Thao đã nhắc tới chuyện nhũng binh, Đỗ Văn Hạo càng nhân cơ hội bám lấy. Hắn nói: “Hôm nay Tể chấp thương nghị chính sự còn nói tới cả chuyện nhũng binh.

Đúng rồi Tây Hạ đã nhiều lần hưng binh xâm phạm biên giới chúng ta. Tể chấp đã thương nghị và quyết định xuất chinh đánh Tây Hạ. Có lẽ chuyện này đã được bẩm báo với nàng”.

‘Bẩm báo rồi. Ngay giữa trưa đã bẩm báo. Ta đã xem qua Tây Hạ quá càn rỡ, khinh thường Đại Tống ta không có người. Nhất định phải giáo huấn cho chúng một trận. Đề nghị của ngươi rất tốt, làm từng bước một, tiến chắc từng bước, đánh lâu dài, lấy sở trường của mình khắc sở đoản của chúng. Bọn họ đề nghị cử người làm binh mã Đại nguyên soái để ngươi ở lại kinh thành toạ trấn chỉ huy, cử một tổng chỉ huy mặt trận nghênh địch ở Hoàn Khánh. Đề nghị này ta cũng đồng ý”.

Đỗ Văn Hạo rất sốt ruột, hắn vội vàng hỏi: “Vậy nàng đã hạ chỉ phê chuẩn chưa?”

“Vẫn chưa. Gấp gì mà không thể lùi lại nửa ngày sao? Bọn họ nói là cuối buổi chiều còn một tấu chương về việc tăng biên chế Sương quân cần phê duyệt nên ta đã để lại. Bây giờ các ngươi đã thương nghị xong ta sẽ quay về phê duyệt”.

“Không không” Đỗ Văn Hạo vội vàng nói: “Ta tới tìm nàng chính là muốn thương lượng với nàng về chuyện chọn quan chỉ huy nghênh địch. Nói chuyện ở chỗ này không tiện. Hay chúng ta nên quay về cung nói chuyện?”

Cao Thao Thao liếc nhìn Đỗ Văn Hạo một cái, gương mặt nàng thoảng ửng hồng, nàng nói nhỏ: “Ừ. Đi thôi”.

Sau khi Cao Thao Thao căn dặn Thượng thư bộ công tiếp tục khảo sát thiết kế khu vườn nàng cùng Đỗ Văn Hạo xuống núi, rời khỏi vườn Ngự uyển đi về tẩm cung. Nàng vẫy tay cho mấy người Tiêu công công lui ra ngoài, khép cửa lại.

Cánh cửa vừa mới khép lại thì lập tức hai người như dính lại với nhau, cùng ngã xuống giường. Liệt hoả bừng bừng nổi lên, quần áo của hai người bị lột ra hơn một nửa. Sau một hồi hai người sục sôi, Cao Thao Thao yêu kiều thở hổn hển, lúc này nàng gần như phải tự đè nén bản thân vì hai nước đã có ước định chịu tang một năm. Hai người nén ngừng lại ôm nhau nằm trên giường nói chuyện.

Cao Thao Thao dùng ngón tay thon dài của mình vẽ vẽ trên lồng ngực của Đỗ Văn Hạo, nhỏ nhẹ nói: “Nếu ngươi không thích Lữ Công đảm nhiệm chức tổng chỉ huy mặt trận thì hãy đổi người đi. Ngươi muốn người nào ta cũng đồng ý”.

“Thật sao?” Đỗ Văn Hạo thầm vui mừng. Hắn đã sớm chọn được người đảm nhiệm chức quan tổng chỉ huy chiến dịch nên nói ngay: “Hãy để cho Khúc Chẩn đảm nhiệm chức vụ này, được không?”

“Khúc Chẩn? Là ai vậy? ‘ Trước kia Cao Thao Thao không để ý tới chuyện chính trị và quân sự nên nàng không biết danh tiếng lẫy lừng của Đại tướng Bắc Tống Khúc Chẩn.

Đỗ Văn Hạo đã nghiên cứu lịch sử chiến tranh giữa Đại Tống và Tây Hạ. Thường ngày hắn cũng được nghe nhiều chuyện cũ của đám người Lý Phố vì vậy có hiểu biết rõ ràng về Khúc Chẩn: “Khúc Chẩn là Đại tướng của chúng ta, ông ta vốn là phó Tổng quản lộ Đường Duyên, chinh chiến hơn mười năm với Tây Hạ, đã nhiều lần cầm quân đánh bại quân Tây Hạ trong các chiến dịch lớn nhỏ, là một viên hổ tướng. Đáng tiếc trong trận đánh thành Vĩnh Nhạc, chủ soái của quân ta quyết định sai lầm, binh bại thành Vĩnh Nhạc. Khúc Chẩn chỉ huy tàn quân huyết chiến đánh giết giữa vòng vây, thoát được một mạng nhưng sau đó lại bị hạch tội, nói ông ta bại trận bỏ trốn nên bị biếm coi cổng thành, hiện nay ông ta đang ở kinh thành. Trận chiến đó ông ta bị trọng thương nên vẫn cáo bệnh ở nhà dưỡng thương nên nàng vẫn chưa từng gặp qua”.

“Ông ta là võ tướng?”

“Đúng vậy”.

Cao Thao Thao cười áy náy nói: “Thái Tổ hoàng đế đã có di chiếu triều Tống ta chỉ dùng quan văn cầm quân. Đây chính là chế định vạn năm không được thay đổi. Cho dù ta có đồng ý với ngươi thì đại thần trong triều cũng không đồng ý. Khi đó tấu chương can gián sẽ bay tới như tuyết rơi, chúng ta sẽ không sao chịu nổi”.

“Không để ý tới bọn họ không được sao?” Nói xong câu này Đỗ Văn Hạo cảm thấy lời nói của mình không ổn lắm. Dù sao Cao Thao Thao mới buông rèm chấp chính. Lúc này nàng cần nhất là sự ủng hộ mà không phải là làm cho các đại thần bất mãn và phản đối để làm mất uy tín.

Đỗ Văn Hạo thấy sắc mặt vô cùng khó xử của Cao Thao Thao. Hắn biết nàng không đành lòng phản đối làm mất mặt hắn nhưng nàng cũng không có cách nào đồng ý với đề nghị của hắn nên hắn ôm nàng hôn và nói: “Nếu như đây là di chiếu của Thái Tổ cũng chỉ còn cách tuân theo. Vậy cứ dùng Lữ Công làm chủ soái. Khúc Chẩn làm phó soái, được không?’

Cao Thao Thao thở nhẹ một hơi, nàng mỉm cười gật đầu, hôn Đỗ Văn Hạo nói: “Điều này thì không thành vấn đề. Quân ta khi xuất binh, phó soái thường là võ tướng. Khúc Chẩn vốn là bại tướng, đáng không nên trọng dụng nhưng do ngươi đề cử, hơn nữa trước kia ông ta lại lập nhiều chiến công nên cứ để ông ta làm phó tổng chỉ huy mặt trận”.

“Vậy tốt quá. Ta thay mặt Khúc Chẩn cám ơn nàng cho ông ta một cơ hội nữa lập công vì đất nước, ta cũng thay mặt tướng sĩ ở tiền tuyến cám ơn nàng”.

Cao Thao Thao ngạc nhiên nói: “Vì sao tướng sĩ ở tiền tuyến phải cám ơn ta?”

“Đi theo một chủ soát tài giỏi nói không chừng sẽ đánh thắng trận. Nếu đi theo một chủ soái bình thường nói không chừng sẽ mất mạng. Nàng đồng ý cử một viên tướng xuất sắc như Khúc Trân ra tiền tuyến cho dù chỉ là một phó soái nhưng ít nhất cũng có thể có thể làm cho binh sĩ có thể không mất mạng nên bọn họ đương nhiên muốn cám ơn nàng”.

Cao Thao Thao buồn bực vô cớ nói: “Quan văn làm chủ soái lại thực sự kém cỏi như vậy sao?”

“Đương nhiên không phải toàn bộ đều kém cỏi. Ví dụ như Phạm Trọng Yêm, ông ấy xuất binh đánh thắng rất nhiều trận nhưng xét một cách tổng thể quan văn rất kém cỏi. Từ cổ đại tới giờ chỉ có Tống triều chúng ta mới dùng quan văn làm thống soái cầm quân như vậy không thể nói đây là chuyện sáng suốt”.

Cao Thao Thao u oán trừng mắt nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Cái gì mà không sáng suốt? Đừng ăn nói lung tung. Đây chính là quy định do Thái Tổ định ra”.

Đỗ Văn Hạo cười hì hì. Hắn vuốt ve ngực nàng nói: “Khi có hai chúng ta, ta mới nói. Khi có người khác ở trước mặt ta, ta sẽ không bao giờ nói như vậy”.

Hai hàng mi dài của Cao Thao Thao chớp chớp, nàng thở dài nói: “Đúng vậy. Thắng trận có thể bảo toàn tính mạnh, thua trận đương nhiên là chết. Các tướng sĩ hiển nhiên thích đi theo chủ soái đánh thắng trận. Vậy làm như nào mới thắng trận. Cho dù không thắng cũng tuyệt đối không thể thất bại. Ta nghĩ ta muốn…hay là như này, trước khi xuất binh ta sẽ căn dặn Lữ Công, ta muốn ông ta lắng nghe cẩn thận ý kiến của Khúc Trân. Nếu ý kiến hợp lý nhất định phải dùng. Nếu như Khúc Trân phản đối quyết liệt kế hoạch tác chiến thì chỉ cần không phải là việc quân khẩn cấp nguy hiểm cho quân ta, cũng không cần được thực hiện, phải báo cáo cho ngươi. Cũng bắt bọn họ là cam đoan không để thua trận, cũng bắt bọn họ nghiêm khắc thực hiện theo từng bước kế hoạch tác chiến ngươi đã định ra, không được phép sửa đổi theo ý mình”.

Đỗ Văn Hạo vui mừng hắn hôn lên gương mặt mềm mại của Cao Thao Thao nói: “Thao Thao, nàng thật tốt. Ta thấy hành động này không đi ngược với di huấn của tổ tông, cũng có thể chú ý tới thực tế đòi hỏi của chiến sự. Thao Thao, ta vẫn còn một biện pháp nữa”.

Chương 418: Ba đạo thánh chỉ.

Cao Thao Thao nói: “Ngươi nói với ta về đủ các loại tai hại của thống soái cầm quân không có tài năng, cứ xuất binh là bại trận. Một trong những nguyên nhân đó là quan văn cầm quân. Những điều này trước kia ta cũng được nghe rất nhiều từ các đại thần. Kỳ thật trong lòng ta cũng hiểu quan văn cầm quân quả thực không hợp lý. Văn thần an bang, võ tướng định quốc. Việc cầm quân đánh trận cùng với việc cầm bút viết văn chương là hai điều khác nhau. Chưa từng cầm quân, lại không biết binh pháp, cũng giống như một nông phu không biết chữ nhưng lại muốn hắn cầm bút viết chữ, vẽ tranh vậy. Sao có thể vẽ ra bức tranh đẹp được đây?”

Đỗ Văn Hạo vừa vui mừng vừa kinh ngạc, hắn quay người ôm Cao Thao Thao, hôn nàng một nụ hôn dài nói: “Hay, Thao Thao. Nàng quả thực là người hiểu rõ đại cục. Lúc này đây quốc gia có bậc quân vương nhìn xa trông rộng như nàng chính là điều mmay mắn của ba quân tướng sĩ cùng với lê dân bách tính”.

“Được rồi” Cao Thao Thao gắt lên: “Trước mặt ta bớt nói những lời nịnh nọt, không cần thiết”.

“Nói thật lúc này không phải ta nói những lời nịnh nọt. Đây chính là những lời tâm huyết. Là một người bình thường thì không cần phải có lối suy nghĩ đo nhưng là người đứng đầu một đất nước nhất định phải có tài năng. Đại Tống ta thật sự có hy vọng”.

Cao Thao Thao thở dài nói: “Ta vốn nghĩ như vậy nhưng lại không thể thay đổi quy định của tổ tông. Rất khó khăn”.

“Tổ tông đã chết. Người vẫn còn sống. Thời thế thay đổi, không thể cũng khăng khăng tuân theo cái cũ. Cũng cần phải căn cứ vào thời cuộc để điều chỉnh các quy định. Cái này gọi là thực sự cầu thị”.

Cao Thao Thao cười khì một tiếng nói: “Thật sự phải như vậy sao?”

“Vốn phải như vậy. Thế nhưng biến pháp cũng chỉ thay đổi từng bước một, không thể nóng lòng thực hiện. Ví dụ như quy định quan văn cầm quân. Chính ngươi cũng biết là không ổn, thực tế đây chính là một trong những nguyên nhân khiến chúng ta cứ xuất quân là thất bại, đương nhiên cần phải thay đổi. Nhưng vấn đề này đã ăn sâu vào trong đầu các đại thần trong triều, chúng ta nhất định phải cẩn thận”.

“Ừ. Ngươi nói rất có đạo lý. Ngươi cảm thấy cần phải thay đổi như thế nào?’

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một lát rồi nói: “Phương pháp lúc trước của nàng rất hay. Trước tiên gia tăng quyền lực cầm quân của các võ tướng, chỉ cần không phải trong tình trạng quân tình khẩn cấp, võ tướng phó soái không cần đồng ý với kế hoạch tác chiến. Quan văn chủ soái không được thực hiện phải bẩm báo về triều đình. Mặc dù như vậy có thể làm mất đi một số cơ hội chiến trận nhưng có thể giảm bớt tới mức thấp nhất thất bại”.

Biện pháp này của Cao Thao Thao vốn chỉ đặc biệt ưu đãi cho Đỗ Văn Hạo. Nay nàng nghe nói quy định này có thể mở rộng, lúc nàng mới chăm chú cân nhắc một hồi rồi nói: “Ta cũng không biết biện pháp này có được thông suốt. Hay thế này, trước tiên chúng ta cứ xem hiệu quả lần này thế nào rồi ta mới quyết định, được không?” Sự thật thắng hùng biện. Dù sao việc này có liên quan tới việc sửa đổi di huấn của tô tông, nếu không nhìn thấy hiệu quả, Cao Thao Thao sẽ không đồng ý, Đỗ Văn Hạo đương nhiên hiểu rõ điểm này, hắn hôn nàng nói: “Được được. Kỳ thật ta cũng biết làm như vậy có thông suốt không nhưng thực tế kiểm nghiệm chân lý chính là tiểu chuẩn duy nhất. Bất kỳ thay đổi nào chỉ có áp dụng thực tế mới biết có hiệu quả hay không. Cũng chỉ dựa vào thực tiễn sửa chữa hoàn thiện từng bước một thì mới tốt lên được”.

“Ừ. Được rồi. Ta nghe nói giữa trưa nay ngươi tới dạy học cho mấy người Hoàng Thượng?”

“Đúng vậy. Không phải nàng để ta phụ trách việc học của Hoàng Thượng sao?’

“Đúng vậy. Buổi tối hôm qua ta sốt ruột quá đâm quên mất chuyện này. Ta cảm thấy ngươi có rất nhiều thứ mà người khác không có. Ngươi có rất nhiều sáng tạo không giống với người bình thường.

Mặc dù ta hy vọng sau này Hoàng Thượng kiên quyết theo biến pháp, nhưng ta cũng không hy vọng Hoàng Thượng là một người thủ cựu vì vậy ngươi phụ trách việc học của Hoàng Thượng, trong kh đó sớm muộn gì Hoàng Thượng cũng tự mình chấp chính nên ta hy vọng ngươi sẽ dạy Hoàng Thượng trở thành một quân vương chân chính”.

“Ta sẽ cố gắng hết sức. Thế nhưng dường như Hoàng Thượng quá tinh nghịch, ta quản lý rất nghiêm, nàng cũng đừng đau lòng”.

“Nghiêm sư xuất cao đò. Ngươi không cần lo lắng, ngươi cứ việc mạnh tay dạy bảo. Nếu Hoàng Thượng không nghe lời ngươi, ngươi cứ việc nói cho ta biết”.

“Được”.

Sau khi hai người thân mật với nhau một lúc lâu, tới tận khi trời tối đen, Đỗ Văn Hạo mới cáo từ rời khỏi Hoàng cung, quay về Ngũ Vị đường.

Chúng nữ thấy Đỗ Văn Hạo quay về tức thì líu ríu vây quanh hắn. Kha Nghiêu nhanh mồm nhanh miệng, cười vui vẻ nói: “Ca, Thái Hoàng Thái Hậu ban cho chúng ta một phủ đệ rất lớn. Bọn muội đã đi cả một canh giờ mới hết một vòng”.

Tuyết Phi Nhi cũng nói: “Đúng vậy. Bên trong rường cột chạm trổ, kỳ sơn dị thạch, vô cùng khéo léo”.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Đó là đương nhiên. Toà phủ đệ này vốn định cấp cho Ung Vương gia, tất phải xa hoa. Mọi người hài lòng là được”.

Bàng Vũ Cầm cũng nói: “Rất hài lòng. Thiếp không thấy có chỗ nào cần tu sửa. Hì hì”.

‘Khi nào sẽ xây dựng xong?”

‘Thái Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ để bọn họ ngày đêm tăng cường xây dựng để đại khái khoảng nửa tháng nữa là hoàn thành, không được chậm trễ đón dâu”.

Đỗ Văn Hạo xấu hổ hỏi: “Hì hì, đón dâu ở phủ đệ mới sao?”

“Đương nhiên, tân phủ đệ nghênh đón tân nương tử như vậy mới tốt”.

Anh Tử nói: “Thiếu gia, trên đường về phu nhân đã nói bây giờ thiếu gia phải cầm quân, không đọc binh thư không thể cầm quân vì vậy mới đặc biệt đi tới thư viện của võ viện mua cho người mấy cuốn binh thư. Đề Cử võ viện nghe thấy chạy tới tự mình chọn giúp cho thiếu gia rất nhiều cuốn binh thư”.

Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: “Vậy tốt quá. Binh thư ở đâu?”

“Để ở cả thư phòng”.

“Hay quá. Ngày mai ta chính thức bắt đầu khảo sát quân tình của quân đội. Nhân dịp bây giờ rỗi rãi ta tới xem qua một lát”.

Đỗ Văn Hạo đi tới thư phòng. Quả nhiên trong thư phòng có thêm một cái giá sách. Trên giá sách tất cả đều là binh thư.

Đỗ Văn Hạo rút một quyển ngồi xuống đọc. Cuốn binh thư này viết bằng cổ văn. Hắn đã cố hết sức mà có rất nhiều đoạn xem không hiểu. Chỉ đọc được nửa canh giờ, hắn đã thấy choáng váng hoa mắt.

Đỗ Văn Hạo ném cuốn binh thứ xuống, nhắm mắt dưỡng thần. Nhớ lại một chút nhưng hắn không chút ấn tượng với những gì vừa đọc, cũng không nhở nổi vừa đọc những gì, đành thở dài nghĩ: “Ôi. Nếu như có một sư phụ giảng giải cho thì tốt. Xem ra cần phải có một sư phụ chỉ dạy binh pháp mới được.

Ngày mai giảng bài cho Hoàng Thượng, Đỗ Văn Hạo quyết định suy nghĩ một chút về nội dung nhưng tóm lại hắn cũng hông nghĩ ra cần nói cái gì.

Thế nhưng việc cấp bách nhất vẫn không phải là vấn đề dạy học cho Hoàng Thượng. Vì gi­ang sơn dễ đổi, bản tính khó rời. Nếu hắn muốn dạy Hoàng Thượng thành một người hợp với lý tưởng của hắn cũng không phải một việc có thể nhanh chóng làm được. Gần vua như gần hổ. Con hổ có thể quay đầu nuốt sống người đang nuôi dưỡng mình.

Đỗ Văn Hạo quyết định tập trung sức lực cải cách quân đội, việc dạy học cho Hoàng Thượng chỉ là việc thứ yếu. Năm ngày chỉ dạy một lần, mỗi lần chỉ nửa ngày còn lại để cho những bậc đại nho kia chủ yếu dạy cho Hoàng Thượng những điều mơ hồ cùng với những phương pháp trị quốc an dân. Điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của các đại thần trong triều.

Một khi đã như vậy cũng sẽ không cần phải nóng vội dạy Hoàng Thượng này tất cả các tri thức hiện đại. Trước tiên hãy chỉ dạy Hoàng Thương những kiến thức bình thường tương đối thú vị là được, còn nhưng tri thức khoa học có tính thực dụng thì còn phải chờ tình hình sau này rồi mới tính tiếp.

Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, Đỗ Văn Hạo đã vạch ra một đề cương sơ bộ của một số tri thức hiện đại như: Thiên văn, địa lý cùng một ít lý hoá, xác định trình tự truyền thụ trước sau. Dù chỉ viết đề cương nhưng hắn vẫn bận rộn gần hết một đêm.

Sau khi viết xong tất cả, Đỗ Văn Hạo mới đi ngủ. Hôm nay tới lượt Tuyết Phi Nhi hầu hạ. Sau khi hai người trải qua một cơn giông bão điên cuồng, Tuyết Phi Nhi mệt mỏi nhanh chóng ngủ thiếp đi nhưng trong đầu Đỗ Văn Hạo lại không tĩnh tâm được giống như gió to sóng cả.

Bánh xe lịch sử bây giờ đang nằm trong tay hắn. Hắn nên điều khiển bánh xe này chạy như thế nào không để tới mức hơn bốn mươi năm sau phải nằm dưới gót sắt của Đại Kim. Đối mặt với khung xe ngựa già nua của Đại Tống, giống như một lão nhân mà bệnh đã ăn vào cao hoan, Đỗ Văn Hạo thật sự không biết phải ra tay chữ trị từ chỗ nào.

Hắn cứ suy nghĩ miên man, hỗn loạn cho tới tận gà gáy mới ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau Đỗ Văn Hạo rời khỏi giường làm vệ sinh cá nhân, ăn sáng thì người gác cổng chạy vào báo ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu tới, muốn Đỗ Văn Hạo tiếp chỉ.

Đỗ Văn Hạo vội vàng bày hương án. Người đến tuyên chỉ đương nhiên là thái giám thân cận của Thái Hoàng Thái Hậu, Tiêu công công. Liên tục có ba đạo thánh chỉ tốt. Nội dung Đỗ Văn Hạo cũng đã biết trước. Đạo thánh chỉ thứ nhất bổ nhiệm hắn làm Chinh thảo Tây Hạ Chiêu Thảo Sứ, thống lĩnh năm vạn cấm quân sáu lộ Thiểm Tây chinh phạt Tây Hạ, đồng thời cũng bổ nhiệm Lữ Công làm thống soái chỉ huy mặt trận. Đại tướng Khúc Trân làm phó thống soái.

Hai đạo thánh chỉ còn lại là bổ nhiệm Đỗ Văn Hạo làm Đề Cử Thái y cục và ban thưởng toà phủ đệ cho hắn. Cuối cùng Tiêu công công nói với Đỗ Văn Hạo rằng Thái Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ tuyên cáo thiên hạ Ngũ Vị đường của Đỗ Văn Hạo được ngự định là cửa hiệu lâu đời, coi đây là nhãn hiệu sản xuất dược phẩm và khí tài, không ai được phép mạo danh nếu không sẽ bị xử theo tội cường đạo.

Nghe xong Đỗ Văn Hạo lại càng hoảng sợ. Đạo thánh chỉ này bảo vệ quyền sản phẩm e rằng còn mạnh mẽ hơn xã hội hiện đại. Trung Quốc hiện đại quy định tội xâm phạm bản quyền tri thức cao nhất cũng chỉ có bảy năm tù. Cao Thao Thao ban hành thánh chỉ nói xâm phạm nhãn hiệu độc quyền Ngũ Vị đường của Đỗ Văn Hạo bị luận tội xử theo tội cường đạo. Tội cường đạo cùng tội với tội cướp bóc của xã hội hiện đại. Triều Tống xử phạt tội cường đạo cực kỳ nặng, có quy định: Cường đạo bất luận là cướp được hay không cướp được, có tang vật hay không có tang vật cũng đều bị xử tử. Nói cách khác chỉ cần có người giả mạo Ngũ Vị đường sản xuất dược liệu và khí tài thì sẽ bị xử tử.

Đương nhiên Đỗ Văn Hạo biết điều này Thái Hoàng Thái Hậu Cao Thao Thao vốn không phải có ý thức bảo vệ bản quyền tri thức mà chỉ do là tình cảm đối với hắn. Yêu ai yêu cả đường đi. Trong lòng Đỗ Văn Hạo cảm thấy xử vậy hơi nặng một chút nhưng như vậy cũng tốt. Ít nhất có thể làm người dân coi trọng bảo vệ bản quyền tri thức. Việc bảo vệ bản quyền tri thức có sự mở đầu rất tốt.

Sau khi Đỗ Văn Hạo tiếp chỉ, Tiêu công công cáo từ, Đỗ Văn Hạo quyết định buổi sáng đi điều tra tình hình quân đội. Buổi chiều tới Hoàng cung dạy Hoàng Thượng học.

Anh tử và Tuyết Phi Nhi giúp Đỗ Văn Hạo mặc nhung trang. Đỗ Văn Hạo cúi đầu nhìn hắn cảm thấy bộ nhung trang cũng không tệ lắm. Bởi vì bây giờ không phải là thời chiến nên áo giáp của nhung trang đều là da thuộc, mặc vào người cũng không cảm thấy nặng. Đội trưởng đội thân binh Hứa Văn Cường dựa theo căn dặn của Đỗ Văn Hạo hôm qua đã chuẩn bị cho hắn một con chiến mã. Đỗ Văn Hạo nhảy lên ngựa, hắn đang định giục cương lên đường thì bất chợt thấy như thiếu gì đó. Hắn ngừng lại suy nghĩ một chút rồi quay đầu hỏi Hứa Văn Cường: Ta có cần phải xử một cây trường thương hay đại đao gì đó không? Như vậy mới đầy đủ đồng bộ, phải không?”

Chương 419: Sở quân khí.

Hứa Văn Cường nói: “Đây là điều đương nhiên. Nhưng vì không biết tướng quân dùng binh khí gì nên chưa chuẩn bị”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Ta không có sức mạnh, dùng chuỳ chỉ e không thể cử lên được. Dùng đại đao cũng có thể múa được nhưng cũng chỉ múa được mấy đường là không còn sức. Dùng trường thương vẫn tốt hơn, trường thương chủ yếu là đâm, lại cũng tàn nhẫn, không cần dùng quá nhiều sức. Trường thươn­bg cũng hay lắm. Trước kia xem tam quốc, ta cảm thấy Bạch Mã Ngân Thương của Triệu Tử Long rất uy phong. Ta cũng muốn học thương. Ha ha ha”.

“Được. Tướng quân sử thương sẽ uy phong lẫm liệt. Không biết tướng quân muốn thương của mình nặng bao nhiêu?”

“Điều này” Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một lát rồi nói: “Quan Công sử Thanh Long Yển Nguyệt đao nặng tám mươi hai cân, bản thân mình không thể nâng được chứ chưa nói tới việc sử đao. Cây Lê Hoa thương của Triệu Tử Long dù không biết nặng bao nhiêu cân nhưng nhất định mình cũng không thể nâng được. Rốt cuộc Đỗ Văn Hạo vẫn chần chừ không biết bao nhiêu cân thì hợp với hắn.

Hứa Văn Cường thấy Đỗ Văn Hạo chần chừ thì buột miệng nói: “Nếu không tướng quân hãy đi tới sở quân khí ở Đông tác phường, đặt làm một cây trường thương theo ý mình. Có được không?”

“Chủ ý rất hay! Ta đang định xem qua một chút về tình hình trang bị của quân ta. Thế nhưng Thái Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ để ta lãnh binh tây chinh, dù ta chỉ toạ trấn ở kinh thành chỉ huy nhưng trước khi làm việc này, ta cần phải tới Xu Mật viện lĩnh lệnh phù, còn phải tới bộ hộ phân phối lương thảo, còn phải tới bộ Binh lãnh danh sách Sương quân, còn phải tới tam nha thương nghị việc điều động sáu lộ cấm quân Thiểm Tây. Được rồi, còn cả việc tới dạy Hoàng Thượng học. Còn nữa ta còn phải tới xem xét Thái y cục một chút. Ta mới được bổ nhiệm làm Đề Cử Thái y cục, phải tới nhậm chức, gặp gỡ quan lại, còn phải xem có đệ tử nào không thể đào tạo. Kiến thức ngoại khoa cần phải được đẩy mạnh nhanh hơn một chút. Ta còn muốn đặc biệt đào tạo một đội ngũ quân y trong quân. Cuộc chiến sắp xảy ra, điều trị thương là một vấn đề rất lớn. Nhiều chuyện như vậy, việc nào cũng gấp gáp. Rốt cuộc ta nên tới chỗ nào trước đây?”

Hứa Văn Cường cười hì hì nói: “Tướng quân là trọng thần của triều đình. Thái Hoàng Thái Hậu gi­ao cho tướng quân nhiều trọng trách, đương nhiên tướng quân phải rất bận rộn. Hay trước tiên chúng ta tới Xu Mật viện lệnh phù lĩnh binh và phái binh sau đó chúng ta tới sở quân khí chế tạo binh khí?”

“Không” Đỗ Văn Hạo vỗ vỗ yên ngựa nói: “Bản tướng quân tay không, sao có thể cầm quân ra trận giết giặc? Binh khí phải làm trước. Đặc biệt ta muốn phải đích thân tới xem binh khí của sở quân khí như thế nào? Tốt nhất là đừng có một đống sắt vụn, giáp nát, hy sinh tính mạng những nam nhi tốt trong quân ta. Chuyện binh khí này không thể làm qua loa được. Đi, đi, tướng quân ta muốn tới xem sở quân khí trước sau đó hẵng tới Xu Mật viện. Không thể chậm trễ”.

Sở quân khí chính là công binh xưởng của triều Tống, chuyên biệt sản xuất các loại vũ khí trạng bị. Sở quân khí độc lập với sự quản lý của tam nha. Dù tam nha của Đỗ Văn Hạo không quản sở quân khí nhưng tam nha có quyền đưa ra các ý kiến đối với tình hình trang bị binh khí của binh lính vì vậy có quyền tới thị sát sở quân khí. Huống chi bây giờ hắn là một Tể chấp lại càng có quyền lực trong lĩnh vực này.

Đỗ Văn Hạo mang theo đội thân binh hộ vệ tới sở quân khí. Quan đứng đầu sở quân khí gọi là quân khí giám. Đó là một viên quan hàm chính tứ phẩm, ông ta vừa nghe quan Tể chấp Đỗ Văn Hạo tới vội vàng dẫn theo các tá quan ra đón.

Quân khí giám này họ Thích, là một lão đầu nhanh nhẹn, cung kính với Đỗ Văn Hạo một cách quá mức: “Ty chức xin ra mắt Tể chấp Đỗ đại nhân. Không biết Đỗ đại nhân quang lâm, không đón tiếp từ xa. Xin đại nhân thứ tội”.

“Không cần khách khí. Bản quan tới đây là muốn đặt làm một món binh khí, nhân tiện xem qua sở quân khí một chút. Cho tới giờ ta vẫn chưa tới đây nên muốn tìm hiểu tình hình một chút. Được không?’

“Chào mừng đại nhân. Xin mời đại nhân”.

Đỗ Văn Hạo đi theo quân khí giám bắt đầu quan sát xung quanh. Sở quân khí phân chia làm ba môn. Theo thứ tự là viện cung nỏ đặc biệt phụ trách sản xuất các loại tên, cung nỏ. Đông tác phường phụ trách việc sản xuất các loại binh khí khẹ và áo giáp cho binh lính. Tây tác phường phụ trách việc chế tạo các trang bị công thành lớn.

Đầu tiên Đỗ Văn Hạo đi tới viện cung nỏ.

Quân Tống chủ yếu dùng quân cung nỏ vì vậy trong sở quân khí có viện cung nỏ chuyên chế tạo cung nỏ. Nguyên nhân của việc này là do quân Tống thiếu chiến mã, chỉ có thể dùng bộ binh đối phó với kjy binh của Đại Liêu và Tây Hạ. Bất đắc dĩ phải lựa chọn chiến thuật này với ý đồ dùng cung nỏ, loại vũ khí bắn xa loại trừ tốc độ của kỵ binh. Cho dù quân Tống chủ yếu dùng quân cung nỏ trong bộ binh nhưng vẫn bị rơi vào thế yếu.

Khu nhà của viện cung nỏ rất rộng. Ngay khi bước vào cửa đã nghe thấy những tiếng gào thảm thiết vang lên bên trong. Đỗ Văn Hạo rất ngạc nhiên, bước chân hắn không khỏi nhanh hơn. Khi đi vào bên trong hắn thấy. Phần lớn nhà trong viện cung nỏ là nhà một tầng. Phía trước dãy nhà là một khoảng sân rộng, ở đó có một dãy cột cờ. Mấy người quần áo tơi tả bị trói vào những cái cọc đó. Mấy binh sĩ đang hung hăng vung roi da quất những người đó. Những tiếng la hét thảm thiết là của mấy người đó.

Những binh lính đó nhìn thấy Đỗ Văn Hạo mặc quan bào võ tướng hàm nhị phẩm, tuổi lại rất trẻ, bên cạnh hắn lại có quân khí giám đi cùng nên biết ngay là tân quan Đô Kiểm Điểm mới nhậm chức, Tể chấp Đỗ Văn Hạo thì vội vàng ném roi, quỳ xuống ôm quyền thi lễ.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì?”

Một đô đầu nói: “Hồi bẩm Đại tướng quân bọn này là những binh tượng (thợ thủ công trong quân), tự ý rời bỏ công việc, mưu đồ chạy trốn, bị bắt trở lại, theo luật phải đánh năm mươi roi”.

Đỗ Văn Hạo nhíu mày hỏi: “Bọn họ là thợ chế tạo cung nỏ sao?”

“Dạ”.

“Vậy bọn họ là những công nhân kỹ thuật là bảo bối của đất nước. Việc làm ra binh khí tốt hay không hoàn toàn dựa vào bọn họ. Tại sao lại trách phạt bọn họ? Một binh tượng không thể ra ngoài sao?”

Đô đầu nghe thấy giọng nói không có thiện ý của Đỗ Văn Hạo tức thì lo sợ không biết sai chỗ nào, trán toát mồ hôi lạnh, lắp bắp nói: “Không, không thể”.

“Tại sao? Bọn họ là phạm nhân sao?”

“Không, không phải”.

“Vậy vì sao phải cấm bọn họ xuất nhập? Tại sao phải phạt roi bọn họ?”

Đô đầu sợ tới mức gần phát khóc, hắn tội nghiệp liếc nhìn quân khí giám ở bên cạnh.

Quả thực quân khí giám không muốn xuất hiện lúc này nhưng nếu ông ta không ra mặt thì sẽ không có ai ra mặt, ông ta đình phải cười giả lả nói: “Đại tướng quân, đây là quy định của quân pháp. Bọn họ chỉ làm việc tuân theo luật”.

“Thật vậy sao?” Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn quân khí giám. Hắn hừ một tiếng đi tới trước mặt mây tên binh tượng. Hắn hỏi một binh tượng già trong số đó: “Lão nhân gia, tại sao ông lại bỏ trốn?”

Lão binh tượng kia khốn khổ ngẩng đầu nhìn Đỗ Văn Hạo, đôi môi giật giật nhưng khi liếc nhìn hung thần ác sát đô đầu ở bên cạnh thì lại cúi đầu rên rỉ không dám nói.

Tên đô đầu ở bên cạnh lại quát to: “Lý Hoành, Tể chấp đại nhân hỏi ngươi. Vì sao ngươi không trả lời?”

Lão binh tượng đó là Lý Hoành nghe mấy câu đó vẫn không lên tiếng.

Đột nhiên Đỗ Văn Hạo nhìn thấy trên trán Lý Hoành có khắc bốn chữ: “Quân khí sở binh”.

Đỗ Văn Hạo lại nhìn mấy binh tượng khác, hắn thấy trên trán mấy người đó cũng có mấy chữ như vậy. Trong lòng Đỗ Văn Hạo đã hiểu tới bảy, tám phần. Quân đội triều Tống theo chế độ mộ lính. Trên trán binh lính triều Tống đều có chữ viết.

Binh tượng sở quân khí cũng là binh lính. Quân pháp triều Tống xử phạt cực kỳ hà khắc với binh lính đào ngũ, dùng roi đánh đã là nhẹ.

Nhưng Đỗ Văn Hạo không thể chấp nhận điều này. Trong mắt hắn binh tượng sở quân khí đều là bảo bối, nhất định phải đãi ngộ lương cao để bọn họ phát huy đầy đủ kỹ thuật của mình mới có cơ sở chế tạo ra vũ khí tốt.

Nếu đã là binh lính, Đỗ Văn Hạo rốt cuộc cũng là người cầm quân, hắn cũng biết nguyên nhân chủ yếu của việc đào binh. Cứ nhìn dáng vẻ hùng hổ của tên đô đầu lúc trước, nhất định những binh tượng này đã không được đãi ngộ tốt. Trong thời kỳ hòa bình, nguyên nhân chủ yếu khiến binh lính đào ngũ chính là bị ngược đãi trong quân đội. Điều này không cần hỏi cũng biết.

Đỗ Văn Hạo tự mình bước tới cởi dây trói cho mấy binh tượng và nói: “Nếu đã là binh lính tại ngũ nhất định không được sợ khổ. Thôi được rồi, trước tiên hãy quay về dưỡng thương. Khi nào bình phục quay lại làm việc”.

Lý Hoành và mấy binh tượng nhìn Đỗ Văn Hạo rồi lại liếc nhìn quân khí giám, tựa hồ như mấy người không dám tin vào lỗ tai mình.

Quân khí giám vội nói: “Tể chấp đại nhân đã cho phép các ngươi về dưỡng thương, khi nào khoẻ mới quay lại làm việc. Các ngươi còn chờ cái gì?”

Lúc này mấy người Lý Hoành mới tin đây là sự thật, vội vàng quỳ xuống dập đầu tạ ơn rồi dìu nhau rời khỏi sân viện.

Chờ mấy người đó đi khỏi, Đỗ Văn Hạo mới nói với quân khí giám: “Quân ta tác chiến không thể không có vũ khí trang bị tốt mà những thứ đó phải dựa vào những binh tượng đó chế tạo. Bọn họ không thể bị xử phạt như những binh lính bình thường. Đương nhiên đối với binh lính bình thường cũng không tuỳ tiện xử phạt. Đối với những binh tượng bỏ trốn cũng không nên dùng hình phạt mà phải dùng tình cảm đề giữ người, phải để bọn họ thấy được làm việc ở sở quân khí rất quang vinh, có cảm giác vinh dự tập thể, có cảm giác bọn họ thuộc về nơi này thì mới có thể phát huy hết sự thông minh tài trí của mình, mới có thể làm ra những binh khí trang bị tốt cho quân đội”.

Đỗ Văn Hạo nói câu nào, quân khí giám gật đầu đồng ý câu đó, mái đầu hoa râm của ông ta gật gù như gà mổ thóc. Thế nhưng Đỗ Văn Hạo đã nhìn ra ông ta hoàn toàn không nghe ý kiến của hắn. Đương nhiên Đỗ Văn Hạo cũng biết nguyên nhân trong đó. Không phải viên quan quân khí giám không muốn nghe theo đề nghị của Đỗ Văn Hạo nhưng mà dựa theo quân pháp, lính đào ngũ nhất định phải xử phạt như vậy. Nói nhiều cũng vô dụng.

Đỗ Văn Hạo khẽ thở dài rồi chuyển sang đề tài khác: “Viện cung nỏ có ba nhiêu binh tượng?’

“Điều này…” viên quan quân khí giám ấp úng không trả lời được.

Đỗ Văn Hạo nhíu mày hỏi: “Có bao nhiêu người mà ngươi cũng không biết sao? Ngươi làm chủ trì kiểu gì vậy?”

Gương mặt già nua của quân khí giám đỏ ửng, ông ta quay đầu lại nhìn viên phó quân khí giám. Viên phó quân khí giám vội vàng nói nhỏ: “Ba nghìn bảy trăm người”.

“Đúng, đúng” Quân khí giám vội vàng chắp tay cười xoà nói: “Hồi bẩm Đại tướng quân, bỉ sở có ba ngàn bảy trăm người”.

“Ồ, cũng không ít người. Những dãy nhà này có phải là tác phường sản xuất cung nỏ không?”

“Dạ dạ’.

Đỗ Văn Hạo đi vào từng gi­an xưởng một. Tất cả đều có chuyên môn riêng biệt. Có xưởng gia công thô, có xưởng sản xuất các loại cung, có xưởng sản xuất nỏ, còn có xưởng sản xuất dây cung và xưởng sản xuất các loại tên. Đỗ Văn Hạo đi tới gi­an kiểm nghiệm sản phẩm, hắn thấy binh tượng ở đây đang kiểm tra từng loại bộ phận xem có đạt tiêu chuẩn chất lượng hay không, kiểm tra tầm bắn cùng độ chính xác.

Cung nỏ đủ tư cách phải vượt qua tầm bắn tối đa, có yêu cầu chặt chẽ về tính chính xác, số mũi tên trúng đích trong tầm sát thương, số mũi tên không trúng đích không được vượt qua giới hạn cuối cùng.

Những binh tượng ở đây nhìn thấy Đỗ Văn Hạo tiến vào liền quỳ xuống nghênh đón, Đỗ Văn Hạo bảo bọn họ tiếp tục kiểm nghiệm.

Những binh tượng đó tiếp tục kiểm nghiệm cung tên. Đỗ Văn Hạo nhìn qua một lát rồi lắc đầu cười gượng. Hắn quay đầu phân phó Hứa Văn Cường cùng mấy cận vệ đi theo mình đi lấy mấy chiếc cung nỏ đã qua kiểm nghiệm mang tới, gi­ao cho binh tượng kiểm nghiệm, bảo kiểm nghiệm lại những cũng nỏ đó.

Khi mấy chiếc cung nỏ được đặt lên bàn, mấy binh tượng phụ trách kiểm nghiệm trợn tròn mắt, ngơ ngác nhìn quân khí giám.

Chương 420: Dùng đúng người.

Quân khí giám cũng toát mồ hôi, nói nhỏ: “Đại tướng quân, chúng ta hãy tới khách sảnh, ty chức sẽ báo cáo với ngài tình hình của sở quân khí”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Không cần nóng vội, trước tiên hãy xem chất lượng của mấy chiếc cung nỏ này. Sáng sớm hôm nay Thái Hoàng Thái Hậu đã hạ chỉ bổ nhiệm bản quan là Tây chinh Tây Hạ Chiêu Thảo Sứ, thống lĩnh năm vạn binh mã tấn công tiêu diệt Tây Hạ.

Lần này bản quan tới sở quân khí. Thứ nhất là muốn đặt làm một món binh khí. Thứ hai muốn xem rốt cuộc tình hình binh khí của chúng ta như thế nào. Dù sao những vật này là để bảo vệ tính mạng của tướng sĩ xông lên giết định. Nếu làm kém đầu của tướng sĩ sẽ rơi xuống, không thể làm qua loa được”.

“Dạ dạ”.

Viên quân khí giám lau mồ hôi trán nói: “Điều này, trời nóng quá. Đại tướng quân, hay chúng ta tới khách sảnh, ty chức có chút đồ chơi muốn thỉnh đại nhân giám định và thưởng thức. Đương nhiên Đỗ Văn Hạo biết “giám định và thưởng thức” này chính là hối lộ. Ý tứ đã rất rõ ràng nhưng Đỗ Văn Hạo lại làm như không hiểu, hắn quay đầu nhìn Hứa Văn Cường nói: “Mấy người các ngươi vừa rồi đã thấy bọn họ kiểm nghiệm như thế nào rồi. Xem ra bây giờ bọn họ cũng mệt mỏi rồi. Các ngươi tới giúp bọn họ kiểm nghiệm một chút đi”.

Hứa Văn Cường cùng mấy thị vệ trả lời rồi bước tới cầm cung nỏ bắn.

Trán viên quân khí giám lại toát mồ hôi.

Cuộc kiểm nghiệm bắn kết thúc rất nhanh. Cho dù không nhìn xem thì viên quân khí giám đang trong tâm trạng thấp thỏm lo âu, tràn đầm đìa mồ hôi lanh cũng biết được kết quả.

Đỗ Văn Hạo cười nhạt. Hắn cầm một mũi tên trong đám tên, sờ đầu ngón tay vào đầu tên sau đó hắn ấn đầu nũi tên vào lòng bàn tay mình và nói với quân khí giám: “Thích đại nhân, bắn thử bốn trường cung thì có một không đủ tiêu chuẩn, ba nỏ thì có một cũng không đạt tiểu chuẩn. Nói cách khác những cung nỏ đó là thứ phẩm. Ngay cả đầu của mũi tên này cũng không đâm thủng lòng bàn tay ta thì sao chúng có thể xuyên qua áo trọng giáp dày cộm của kẻ thù? Cung nỏ như này bàn gi­ao cho các tướng sĩ ở tiền tuyến, ngươi thấy có phù hợp không?”

Hai chân viên quân khí giám mềm nhũn, ông ta quỳ dạp xuống, dập đầu nói: “Đại tướng quân, ty chức cũng chỉ là bất đắc dĩ”.

“Hãy nói tình thế bất đắc dĩ này là gì. Nếu không nói được, không nói ngươi không cần làm quan nữa mà chỉ e cái đầu ngươi cũng không giữ được”

Viên quân khí giám đương nhiên biết Tể chấp Đỗ Văn Hạo nói những câu này tuyệt đối không phải là để đe doạ. Ông ta lập tức sợ tới hồn phi phách tán.

Viên quân khí giám sợ hãi run rẩy nói: “Đại tướng quân tha mạng. Là như thế này…”.

Viên quân khí giám cố sức nuốt nước miếng rồi lại run rẩy nói tiếp: ‘Mỗi một binh tượng ở đây đều có hạn ngạch lao động. Số lượng này do tiên đế quy định, chia đều ra. Mỗi một binh tượng một ngày ít nhất phải làm ra một trường cung, hai ngày ít nhất phải làm ra một chiếc nỏ. Một ngày ít nhất phải làm ra một trăm năm mươi mũi tên. Những người đủ tiêu chuẩn là mười phần không thể làm ít hơn chín phần. Thế nhưng kỹ thuật của những binh tượng cao thấp không đều nhau. Nếu có quá ít người đạt tiêu chuẩn thì cũng sẽ bị xử phạt. Bất đắc dĩ ty chức đành buông lỏng tiêu chuẩn”.

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một lát. Hắn biết tiên đế Tống Thần Tông khi đó dụng binh quy mô lớn với Tây Hạ nên đương nhiên cần một lượng lớn vũ khí trang bị. Viên quân khí giám nói cũng chính là sự thật nên giọng nói của hắn hoà hoãn hơn nhiều: “Bắt đầu từ bây giờ toàn bộ số vũ khí chưa xuất sở phải chấp hành quy định kiểm nghiệm nghiêm khắc. Ta cũng muốn kiểm nghiệm lại toàn bộ số binh khí đang tồn kho. Hơn nữa số binh khí không đủ tiêu chuẩn sẽ bị loại. Ta cũng muốn thực hiện chế độ trách nhiệm nghiêm khắc, đánh số trên binh khí được làm ra. Người nào làm ra binh khí có vấn đề chất lượng sẽ dựa vào đó truy cứu trách nhiệm”.

Viên quân khí giám đau khổ liên tiếp gật đầu.

Đỗ Văn Hạo nói: “Còn về phần số lượng quy định ta sẽ đề nghị Thái Hoàng Thái Hậu châm chước sửa đổi. Bây giờ chúng ta không xuất binh quy mô lớn đánh Tây Hạ, tạm thời không cần nhiều binh khí kém chất lượng như vậy. Bây giờ binh khí trang bị phải tuân thủ quy định chất lượng tốt sau đó mới nói tới số lượng.

Một đống lớn phế liệu vô dụng không bằng chỉ một ít binh khí tinh nhuệ. Trong tương lai chúng ta sẽ thành lập một đội quân tinh nhuệ mà không phải đám nhũng binh hỗn tạp vì vậy số lượng binh khí có thể không cần thiết lắm nhưng chất lượng phải tinh xảo và tinh xảo. Tốt nhất có thể chế tạo cho ta một ít binh khí tiên tiến. Vũ khí tiên tiến nhất của quân ta là gì?”

Viên quân khí giám lại sợ hãi nhìn viên quan phó quân khí giám. Hiển nhiên viên quân khí giám này cũng không biết nhưng không biết vì sao ông ta lại được đảm nhiệm chức quan này.

Viên phó quân khí giám vội vàng nói: “Nói về cung tên, chúng ta có Thần tí cung thiên hạ vô song. Quân Tây Hạ và quân Liêu chưa hề có. Đây chính là vũ khí tiên tiến nhất. Tầm bắn có thể đạt tới hai trăm bốn mươi thước (ba trăm bảy mươi mét). Một người bắn bình thường có thể dễ dàng bắn xuyên qua một tấm gỗ. Trong tầm bắn, cũng có thể dễ dàng bắn xuyên qua áo giáp cứng rắn của trọng giáp kỵ binh Tây Hạ. Đáng tiếc trong cuộc chiến thành Vinh Nhạc chưa chế tạo ra số lượng lớn tran bị này bằng không cũng không thất bại như vậy”.

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: “Lợi hại như vậy sao? Ta đã nghe nói về Thần tí cung này nhưng ta chưa nhìn thấy bao giờ. Chúng ở đâu?”

Viên phó quân khí giám đi tới chỗ một chiếc hồm, mở ra rồi hắn lấy ra một chiếc nỏ đưa cho Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nhận lấy, hắn hỏi vẻ khó hiểu: “Thần tí cung thì nhất định phải là cung chứ, tại sao lại là nỏ?”

“Hồi bẩm tướng quân, chỉ gọi là Thần tí cung thôi còn chính là nỏ”.

“Ồ, thực sự lợi hại như vậy sao? Tới đây, chúng ta kiểm nghiệm một chút. Hãy cầm thêm mấy cung nỏ tới đây”.

Để kiểm nghiệm kết quả, Đỗ Văn Hạo cầm Thần tí cing quay lại xưởng kiểm nghiệm của viện cung nỏ.

Hắn tự mình tiến hành, nâng Thần tí cung làm thành một góc bốn mươi lăm độ bắn một mũi tên. Quả nhiên mũi tên rơi xuống tận cùng sân khí nghiệm.

Khoảng cách từ chỗ hắn và mục tiêu cũng phải chừng hai trăm năm mươi bước. Đỗ Văn Hạo lại dùng chân đạp vào nỏ, đích thân lên tên. Hắn cảm thấy thao tác rất đơn giản chỉ là có chậm hơn một chút so với cung tên. Dù sao thì cũng là nỏ phải dùng cả tay chân mới có thể nạp tên được.

Sau khi bắn thử mũi tên đầu, Đỗ Văn Hạo cho người mang tới một bộ trọng giáp khoác lên cọc gỗ hình người ở khoảng cách trăm bước. Hắn lại giơ Thần tí cung bắn ngay năm mũi tên. Toàn bộ các mũi tên đều trúng đích.

Đỗ Văn Hạo tới gần kiểm tra kết quả. Toàn bộ năm mũi tên đều xuyên qua trọng giáp, cũng dâm xuyên ra phía sau cọc gỗ. Đỗ Văn Hạo liên tục gật đầu. Hắn bỏ Thần tí cung thay bằng Hoàng hoa cung và Hắc tất cung cùng với Khiêu đăng nỏ bắn thí điểm.

Tầm bắn xa nhất của chúng chưa tới hai trăm bước, rõ ràng không bằng Thần tí cung.

Hơn nữa hai cây trường cung đó ở khoảng cách một trăm bước cũng không thể xuyên thủng trọng giáp, còn nỏ thì có thể miễn cưỡng bắn thủng nhưng lực đạo đã yếu không thể xuyên ra sau cọc gỗ.

Cho dù là tầm bắn xa hay lực xuyên thì tất cả đều không bằng Thần tí cung.

Đỗ Văn Hạo khấp khởi vui mừng, hắn cầm Thần tí cung hỏi: “Đồ chơi này rất tốt. Ai đã làm ra cái này?”

“Là Lý Hoành, là lão binh tượng vừa mới bị phạt roi”.

“Là người đó sao? ‘ Đỗ Văn Hạo kinh ngạc hỏi: “Ông ta giữ chức gì trong sở quân ?”

“Không có chức gì, chỉ làm việc ở tác phương chế tạo Thần tí cung”.

Quả thực Đỗ Văn Hạo giở khóc giở cười. Một chuyên gia vũ khí quân sự như vậy mà chỉ được sử dụng như một binh tượng bình thường trong sở quân khí. Hắn tức giận nói: “Người ta đã làm ra thứ vũ khí tốt như vậy, đáng phải được thăng quan, xứng đáng được ban thưởng. Các ngươi không đề bạt ông ta làm quan cũng không nói làm gì, các ngươi lại còn đánh ông ta. Các ngươi không thấy như vậy là quá lắm sao?”

Viên quân khí giám vội vàng cười nói: “Đại tướng quân vẫn không biết chứ ông già này tính cách ngang ngược, không phục quản lý. Lần trước ông ta làm ra Thần tí cung, Hoàng Thượng rất tán thưởng, đã ban thưởng cho ông ta rất nhiều ngân lượng gấm vóc. Sau đó ông ta bắt đầu dựa vào công lao, gây chuyện ở tác phường, yêu cầu tăng tiền lương cho binh tượng, yêu cầu giảm bớt thời gi­an sản xuất, hết yêu sách này tới yêu sách kia. Không đồng ý ông ta xúi giục binh tượng bãi công, mấy lần có ý định bỏ trốn vì vậy mới dụng hình với ông ta”.

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng hỏi: “Tiền lương của binh tượng bao nhiêu?”

Đỗ Văn Hạo biết vấn đề này viên quân khí giám càng không trả lời được nên hắn hỏi trực tiếp viên phó quân khí giám.

Phó quân khí giám vội vàng đáp: “Binh tượng đều lĩnh lương như nhau. Tiền lương năm văn, lương thảo năm thạch một tháng. Hàng năm mùa xuân, đông đều có quần áo. Tơ lụa năm thất, vải bông một cân”.

Chế độ đãi ngộ này tương đương với binh sĩ Cấm quân cấp thấp, ít hơn một bậc so với quân nhân cấp trung.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo không ngừng cảm thán, hắn lại hỏi: “Hàng ngày bọn họ làm việc như thế nào?”

“Buổi sáng bắt đầu từ giờ thìn hai khắc đến tối giờ tuất hai khắc (tức từ tám giờ sáng tới tám giờ tối). Giữa trưa nghỉ nửa canh giờ ăn cơm”.

Đỗ Văn Hạo nghiêm mặt nói: “Đòi hỏi mỗi một ngày làm việc chỉ nghỉ có nửa canh giờ (mười một tiếng), số lượng công việc nhiều như vậy, chế độ đãi ngộ thấp, lại còn không được tự do ra vào, làm việc không tốt còn bị phạt roi da. Điều nay so với chế độ nô lệ lại còn độc ác hơn. Theo như ta thấy, ngươi ta bỏ trốn là bình thường. Bọn họ không khởi nghĩa chính là đã không phụ lòng các ngươi” Một Tể chấp nói ra những lời này thì có thể thấy vị Tể chấp này đã bất mãn cực điểm với công việc của sở quân khí.

Lập tức viên quân khí gi­am biến sắc, trán ông ta càng toát mồ hôi lạnh như mưa vậy.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: “Theo ta thấy Lý Hoành cũng là người rất trượng nghĩa. Ông ta yêu cầu tăng lương tháng, giảm bớt công việc là hoàn toàn đúng. Hơn nữa ông ta lên tiếng là vì mọi người. Ông ta làm ra cung nỏ tốt như vậy, chính là công thần cảu Đại Tống, ngay cả tiên đế cũng không ngớt khen ngợi ông ra. Ngược lại các ngươi đem trói người ta lại, dùng roi da đánh người ta. Các ngươi đối đãi với công thần như vậy sao? Hừ”.

Viên quân khí giám sợ hãi tột cùng nói: “Ty chức biết tội”.

“Biết tội? Cũng chưa hẳn. Ngươi biết ngươi có tội gì không?”

“Ty chức, ty chức không nên trách phạt Lý Hoành”

“Hừ. Trước đây ông ta làm việc ở chỗ nào?”

“Ở tác phường Thần tí cung”.

“Đây mới là tội của ngươi” Đỗ Văn Hạo chỉ tay vào viên quân khí giám nói: “Phải biết dùng người đúng vào mục đích. Ngươi là người phụ trách quan trọng nhất của sở quân khí mà ngươi lại không biết dùng nhân tài của mình. Lý Hoành sáng tạo ta Thần tí cung tân tiến, uy lực như vậy, rõ ràng ông ta có kinh nghiệm nghiên cứu chế tạo vũ khí, nên đặt ông ta vào chỗ nghiên cứu trong sở để ông ta nghiên cứu ra càng nhiều vũ khí tốt càng tốt. Ngươi ngược lại coi ông ta chỉ như một binh tượng khiến cho tài trí của ông ta bị một công việc bình thường làm lãng phí. Đây chính là sự đáng trách của ngươi”.

“Dạ dạ” Viên quân khí giám khom người chắp tay thi lễ, sắc mặt ông ta trắng bệch.

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: “Sở quân khí của chúng ta có chuyên ngành chuyên môn nghiên cứu chế tạo vũ khí mới không?”

“Điều này” Viên quân khí không biết hay là sợ hãi, khẩn trương theo thói quen ông ta lại quay đầu nhìn viên phó quân khí giám.

Đỗ Văn Hạo tức giận nói: “Rốt cuộc ngươi làm gì vậy? Ngay cả sở quân khí có bộ phận nghiên cứu chế tạo vũ khí hay không ngươi cũng không biết sao?”

“Ty chức, ty chức” Hai chân viên quân khí giám run rẩy, ông ta định quỳ xuống dập đầu.

Viên phó quân khí giám vội vàng chắp tay thi lễ đáp: “Hồi bẩm Đại tướng quân, bỉ sở vẫn chưa thành lập tác phường nghiên cứu chế tạo binh khí”.

Đỗ Văn Hạo cau mày suy nghĩ một lát rồi hắn nói với viên phó quân khí giám: “Một lát nữa ngươi phái người tới Ngũ Vị đường của ta, lấy Kim sang dược của Ngũ Vị đường về cho Lý Hoành. Mặc khác ngươi hãy đưa cho ông ta năm mươi lạng bạc, xem như là sở quân khí bồi thường cho ông ta. Hãy nhận lỗi với ông ta, nói cho ông ta biết sau khi ông ta dưỡng thương xong bản tướng quân sẽ có việc trọng dụng ông ta”.

Viên phó quân khí giám vội khom người trả lời.

Sau đó Đỗ Văn Hạo tiếp tục kiểm tra. Hắn đi tới kho để cung nỏ. Ở đây có từng hòm cung nỏ đã sắp sẵn, chuẩn bị vận chuyển rới tiền tuyến cùng các địa phương khác.

Hơn mười binh tượng đang đóng gói cung nỏ và tên.

Đỗ Văn Hạo nhìn lướt qua các thành phẩm trong kho vũ khí rồi buồn bực hỏi: “Các ngươi không có hoả thương sao?”

Chương 421: Sự trống trải của trái tim rung động.

Bọn Đỗ Văn Hạo bàng hoàng, lại nói thêm: “Chính là dùng thuốc súng để chế…loại vũ khí đó”

Quân khi giám lườm quân khi thiếu giám sau lưng, tên thiếu giám đo ấp úng nói: “Dạ dạ, ở Tây tác phường có”

“Ừ, có là được rồi, đợi ta đi xem Đong tác phường rồi mới đến Tây tác phường”

Sau khi xem xét xong Cung nỏ viện, hắn đến Đông tác phường, ở đây chế tạo cung nỏ và các binh khí nhẹ cùng các đồ dùng đi kèm khác, Đỗ Văn Hạo lại tiến hành kiểm tra 1 lần nữa, ít nhất 30% số đó là sản phẩm không đảm bảo.

Trong đầu hắn đã có kế hoạch, liền không vặn vẹo tên quân khí giám khù khờ kia nữa.

Tây tác phường là nơi chế tạo khí giới lớn, các sản phẩm không đạt chất lượng ở đây tuy ít hơn, nhưng cũng phải đến 20%.

Đỗ Văn Hạo xem xét toàn bộ tác phòng, rồi hỏi thiếu giám kia: “Hỏa thương thì sao? Không phải ngươi nói Tây tác phòng có sao? Ở đâu?”

Thiếu giám vội quỳ xuống, mở một chiếc rương, lấy quả cầu bằng đất nung ra: “Chính là đây, tướng quân, cái này gọi đùa là Độc dược yên cầu (bom khói độc), bên trong là thuốc súng, đốt dây dẫn, rồi ném vào trận địa của địch, hoặc trong lúc phòng thủ có thể chôn dưới thành, sau khi nổ sẽ nhả ra khói độc, làm quân địch đổ máu mũi, thậm chí trúng độc mà chết!”

Bom khí độc? Đỗ Văn Hạo xoay đi xoay lại hiếu kì xem: “Có thể thử không?”

“Vâng! Mời tướng quân qua bên này” quân khi giám dẫn Đỗ Văn Hạo đến khu thử nghiệm đằng hậu viện, đặt vài lồng gà ra đất, sau đó nèm 1 lựu đạn vào đó, quả nhiên nổ thật, nhả ra khói mịt mù, mấy con gà trong lồng bắt dầu lảo đảo, được một lúc thì ngã khụy. Có điều, khói tan rất nhanh mấy con gà ngã ra lại dần tỉnh lại, đứng lên bình thường.

Đỗ Văn Hạo hỏi quân khi giám: “Thế này là thế nào?”

Quân khí giám mặt đỏ lựng, cũng không biết tại làm sao, hắn luống cuống quay sang nhìn thiếu giám bên cạnh.

Thiếu giám cũng rất khó xử, rụt rè nói: “Bình thường…phải nổ mấy cái rồi mới…mới có hiệu quả, có cần thử thêm vài quả nữa không ạ?”

Đỗ Văn Hạo cười nhạt: “Đối phó với mấy con gà còn khó khăn như vậy, vậy với người to gấp mấy lần gà, rồi chiến trường là nơi rộng lớn như vậy, hiệu quả có thể lớn đến đâu đây? Các ngươi hi vọng kẻ địch sẽ nằm yên đó đợi các ngươi ném lựu đạn khói độc à?”

Tên thiếu giám đỏ lựng mặt nói: “Loại này chỉ có thể làm đổ máu mũi, tiêu hao khả năng tấn công, nhưng không thể làm người chết ngay được”

“Cách trộn thuốc như thế nào?”

“Bên trong là lưu huỳnh 15 lạng, thảo ô đầu 5 lạng, diễm tiêu một cân tư, ba đậu 5 lạng, lang độc 5 lạng, đồng dầu 2 lạng rưỡi, tiểu dầu 2 lạng rưỡi, mạt than củi 2 lạng rưỡi, lệ thanh 2 lạng rưỡi, thạch tín 2 lạng, sáp ong 1 lạng, trúc như 1 lạng mốt, nấm 1 lạng mốt. Bên ngoài giấy dùng 12 lạng rưỡi, ma bì 2 lạng, lệ thanh 2 lạng rưỡi, sáp ong 2 lạng rưỡi, hoàng đan 1 lạng mốt, muội than nửa cân, trộn vào dán bên ngoài.”

Đỗ Văn Hạo nghe mà mỉa mai: “Cái này chỉ khiến người ta khó chịu mà thôi, còn việc là đổ máu cam đúng là khoa trương, chứ đừng nói là giết người”

Có điều cách nghĩ này đã nhắc nhở hắn, rộm nghĩ với những kiến thức hóa học của mình, chế độc khí không thành vấn đề, quan trọng là chết tạo trên quy mô lớn, làm thế nào để nén khí, làm thế nào để phát ra, dẫn nổ thế nào, hàng loạt vấn đề kĩ thuật như thế nào, lại còn phải thí nghiệm nhiều lần nữa chứ

Nhưng nói chung, chiến tranh xưa nay, khi các loiaj vũ khí mới xuất hiện, chỉ có thể thắng thế gi­ai đoạn đầu, sau đó quân địch học được thì ưu thế không còn nữa. Khi nước Tống chế tạo được thuốc nổ, nước Kim đã học làm được rất nhanh, trong chiến tranh hiện đại, nước Đức chế tạo ra bom nổ chậm đầu tiên, đến sau chiến tranh thế giới thứ hai thì hầu hêt các quốc gia đã học và sử dụng đươck kĩ thuật bom nổ chậm.

Các hiện tượng làm theo vũ khí của đối phương trong xã hội đương đại quá nhiều, đến thứ như bom nguyên tử mà còn được làm theo rất nhanh, chứ đừng nói là nhưng trang thiết bị đơn giản.

Mao chủ tịch nói rất hay, cái quyết định thành bại trong chiến tranh là con người, chứ không phải vũ khí mới. Câu nói này càng đúng với những vũ khí thời cổ đại…Vì vậy, mình cần chế tác ra những vũ khí mới, nhưng chủ yếu là con người, cần phải tạo ra một đội quân tinh nhuệ mới đúng.

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Còn có loại vũ khí gì nữa, lấy ra biểu diễn ta xem”

Quân khí giám vâng vâng dạ dạ, biểu diến loại tên có đầu dây để trói người, hầu như là loại có tính đốt cháy, còn hiệu quả đều không được như ý muốn.

Đỗ Văn Hạo xem hết các loại vũ khí, nhưng vẫn chưa thấy bóng dáng của Hỏa thương, hắn cảm thấy rất kì lạ: “Không phái còn có hỏa thương sao? Ở đâu vậy?”

“Chỉ có thế thôi ạ, khoong còn gì nữa” quân khí giám sợ hãi đáp, hắn không hiểu hỏa thương mà Đỗ Văn Hạo nói đến là gì.

Đỗ Văn Hạo lấy giấy vẽ minh họa một cơ phát thương: “Chính là cái có hình dáng thế này, cho thuốc súng vào mà bắn”

Tên thiếu giám đó ấp úng: “Cái này…tì chức chưa từng nhìn thấy ạ!”

Quân đội Bắc Tống đã bắt đầu biết đưa thuốc súng vào trong chế tạo vũ khí rồi, nhưng hỏa thương phải vài chục năm sau, trong chiến tranh với Kim, mới xuất hiện, ban đầu là làm bằng trúc, sau khi nhét thuốc súng vào thì đốt bắn vào kẻ địch.

Vì vậy thời điếm này chưa xuất hiện hỏa thương.

Đỗ Văn Hạo nghi ngờ, đến quân khí mà còn chưa có, thì có nghĩa quân đội chưa được trang bị loại vũ khí này.

Sáng chế hỏa thương, pháo!

Đỗ Văn Hạo bị kích động, đáng tiếc, bản thân không nhớ chút nào về cấu tạo súng, nhưng lại biết chút về súng lục và súng đánh bộ vì chúng đơn giản hơn, có thể vừa chế tạo vừa thí nghiệm. Còn pháo, nhưng lo là kĩ thuật của Bắc Tống không theo kịp được. Hơn nữa, quan trọng hơn là mình không biết chế tạo đạn, chính xác hơn là ngòi đạn, cũng không biết chế tạo thuốc súng không khói như thế nào. Đương nhiên càng không biết cách châm ngòi, pháo phát minh ra chỉ có thể bắn ra thuốc súng đen, công hiệu giảm rất nhiều, hoặc chỉ có thể bắn ra đạn lõi sắt, lõi đá, nếu để lại tấn công thành hay chỗ đông người thì cũng không tồi.

Đỗ Văn Hạo thấy hối hận, hồi ĐH chỉ nghiên cứu súng đạn làm thương, hiểu hết những vết thương do súng đạn gây ra, nhưng lại không biết gfi về cac­ah chế tạo súng, thật hảm hại! Xem ra, vẫn phải sáng chế súng với yêu cầu thấp thôi, nếu không được thì làm súng mồi lửa cũng được.

Thấy bên hỏa khí trống rỗng, Đỗ Văn Hạo rất vui, nếu thành lập một đội hỏa thương thì tốt quá, lại phát minh được ra pháo, bí mật lắp đặt trước, thành lập một sư đoàn bí mật, đến trận chiến quan trọng thì đem ra dùng, giáng cho địch 1 đòn chí mạng mới có được hiệu quả cao!

Hắn giữ sắc mặt thật tốt rồi nói

Đến kho vũ khí Đông tác phường, ở đây có các loại súng ống, Đỗ Văn Hạo kiểm tra trọng lượng, rồi kiểu dáng, đều cảm thấy bình thường, không có gì mới lạ cả.

Hắn cầm một khẩu hoa thương lên, thử một chút, cảm thấy cần phải luyện võ công, bản thân đâu có phải là đối thủ của mấy tay khỏ luyện từ nhỏ được, phải là kì tích mới được, nhất thời không nghĩ ra ý nào hay. Hơn nữa, cũng không thích chuyện binh đao, việc này cần suy nghĩ thật kĩ, tiện tay cầm một lan ngân thương làm vì.

Hắn căn cứ vào số vũ khí cần cho chuyến xuất chinh Tây Hạ lần này, làm một danh sách đưa cho quân giám khí, sau đó rời khỏi quân khí sở, cùng đám hộ vệ đến khu mật viện truyền ý chỉ của Hoàng Thái Hậu lấy binh phù lệnh tiễn, rồi lại đến bộ hộ phát lương thảo.

Xong công chuyện thì đã xế trưa.

Đỗ Văn Hạo sai người đi thông báo cho tổng chi huy tiền địch trong lần xuất chinh này Bộ Thử Lã Công Trứ, phó tổng chỉ huy là Đại tướng bộ thử Khúc Trân, và giám quân tuyên khánh sử Lý Hiến đến họp tại Tam Nha, bàn luận chuyện xuất binh, được biết 3 người bị Hoàng Thái Hậu gọi vào cung rồi.

Đỗ Văn Hạo biết, Cao Thao Thao chắc chắn muốn dặn dò bọn họ quán triệt chiến lược của mình, và dặn dò phó soái không được chấp hành phương án tác chiến mà bà không đồng ý, bắt buộc phải báo cáo để bà quyết định quân pháp mới. Hắn cũng kiên nhẫn chờ đợi, ăn bữa trưa tạ Tam Nha, gọi tất cả quân bộ chỉ huy sở lại, một đội người ngựa đến doanh trại quân số 1 của bộ binh Quảng Đức huyện Dương Vũ ngoài thủ phủ Khai Phong kinh thành để thị sát.

Doanh đội số 1 doanh đội Quảng Đức huyện Dương Vũ.

Chỉ huy doanh trại Quách Sách đang ở thương khố dọn dẹp, hồi dịch sắp xếp của quân chỉ quân sai rất nặng, bây giờ sắp đến tháng chín rồi, mà chỉ tiêu mới hoàn thành một nửa, nếu cứ với tốc độ này thì đến cuối năm không đạt nổi chỉ tiêu mất, đến lúc đó,…

Nghĩ đến đây mà lòng hắn nóng như lửa đốt, nghĩ phải nhất định hoàn thành nhiệm vụ, nhưng binh lựa của quân doanh mới có 500 người, bây giờ không có đến một nửa có mặt tại đây! Thật không ổn, phải tăng binh sĩ tham gia Hồi dịch, mong sao lúc này đừng có chuyện gì phải động đến binh đao!

Đang suy nghĩ xem cử những ai tham gia hồi dịch thì tên gác cửa trại hồng hộc chạy vào thông báo, quỳ một gối xuống bẩm: “Cấp báo, Tam Nha đến kiểm tra, Đỗ tướng quân cùng các quan binh đến bản doanh thị sát!”

“Cái gì?” Quách Sách không dám tin vào tai mình, lúc này mà lại có người đến kiểm tra, đây chẳng phải tin gì hay ho, đúng là sợ gì thì cái đó đến, hắn gọi tất cả ra đón người trước đã.

Trước cửa doanh trại, thấy có mấy chục người đến kiểm tra, ai ai sắc mặt cũng tái mét.

Chưa nghe mấy lời sáo rỗng, Đỗ Văn Hạo liền mở cửa nói: “Bản quan muốn gặp toàn bộ binh sĩ nói chuyện, xem các huynh đệ luyện tập thế nào, tập hợp mọi người đến thao trường ngay”

Quách Sách sợ hãi nói: “Đại tướng quân, chư vị tướng quân, hãy đến đại trướng ngồi nghỉ, tì chức lập tức đi ra lệnh chuẩn bị tiệc rượu, dùng bữa xong rồi mới gặp các binh sĩ nói chuyện, như vậy được không ạ?”

Chương 422: Lũ ô hợp.

Đỗ Văn Hạo lần trước sau khi nhận sự tiếp đón của Nhị Nha, đã từng làm Huyệt Lược cho tướng lĩnh cấp cao, suýt nữa đã biến thành người của mình, nhưng quan quân cấp trung hạ dường như vẫn như cũ. Đây cũng vốn là tướng quan của Quách Sách, Đỗ Văn Hạo nghư những lời đó của hắn liền biết là có mèo mỡ gì đây, hắn ban đầu chỉ muốn thị sát một doanh trại ở ngoại ô gần thành nhất để tìm hiểu tình hình, không ngờ điểm dừng chân đầu tiên đã gặp trắc trở rồi.

Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: “Ngươi có thời gi­an uống rượu, bản quan lại không có thời gi­an để hầu người rồi, lập tức triệu tập toàn bộ binh sĩ đến thao trường, quân sĩ nào đến muộn một khắc, phạt ngươi mười quân trượng, ngươi hãy lo cho bản thân mình đi, quân luật quan, ngươi hãy tính giờ đi!”

Quân luật quan “dạ” rồi lây đồng hồ cát ra bắt đầu tính giờ.

Nơi đây chỉ có một quân doanh, theo biên chế, một quân doanh là 500 người, quân doanh lại không lớn, một khắc (15 phút) là đủ rồi.

Chỉ huy sử Quách Sách bị dọa cho sợ quá, vội vàng giơ tay, bảo binh sĩ bên cạnh lầm hiệu lệnh trống tập hợp quân sĩ.

Hiệu lệnh vang lên, với thời gi­an một tuần trà, chỉ có hai ba mươi người đến, Quách Sách tức phát ngất, cầm roi chạy về phía các trướng, vừa chạy vừa vụt và hét: “Dậy! Dậy ngay! Quan trên đến thị sát! Đến muộn ta sẽ lấy cái mạng của các ngươi!”

Đây là câu cửa miệng của hắn, lúc này mới có vài người lục tục đi ra, tất cả đều luộm thuộm, mấy người miệng vẫn còn lảm nhảm chuyện thắng thua gì đó, rõ là đang đánh bài, thậm chí có người còn đang ngủ chưa dậy, cho đến khi roi quất vào người mới nửa mê nửa tỉnh lồm cồm bò dậy.

Khi quân binh tập trung đầy đủ thì đã 3 khắc trôi qua.

Đỗ Văn Hạo nghiêm mặt hỏi Quách Sách: “Quân doanh này có bao nhiêu người?”

Quách Sách rụt rè nói: “Bẩm tướng quân, 500 người ạ”

“500?” Đỗ Văn Hạo nhìn khắp thao trường “Ở đây có đủ 500 không? Báo cáo sĩ số cho ta!”

Các binh sĩ lần lượt báo cáo, con số cuối cùng chỉ là 226 người, chưa đến một nửa!

Đỗ Văn Hạo tức giận nói: “Những người còn lạ đâu? Đi đâu hết cả rồi?”

Quách Sách sợ hãi đáp: “Dạ…dạ, ra ngoài hết rồi ạ!”

“Nói thừa, không ra ngoài chẳng nhẽ bốc hơi hay chui xuống đất? Bản quan muốn hỏi là bọn họ đi đâu? Đừng nói là ngươi không biết đấy!”

Quách Sách lau mồ hôi trán: “Đa số hồi dịch rồi ạ, một số nhỏ khác ở quán rượu và canh bạc trong thành ạ.

Đỗ Văn Hạo sớm đã biết những chuyện hồi dịch này, nhưng lúc đó chỉ là quân trại bình thường, không ngờ cấm quân cũng hoạt động kiểu này, hơn nữa còn huy động hơn một nửa quân số, thậm chí còn đánh bạc, bèn hỏi thêm: “Triều đình cho phép các ngươi làm thế này sao?”

Quân đội kinh thương, dĩ nhiên là triều đình cấm chỉ, nhưng đối mặt với khó khăn, đành phải mắt nhắm mắt mở cho qua, vì vậy Quách Sách không căng thẳng lắm, dù gì mọi người đều làm vậy

Hắn cười trừ: “Tướng quân, triều đình không cho phép, nhưng, các anh em cũng cần ăn cơm ạ”

Đỗ Văn Hạo biết đây là vấn đề không chỉ của doanh trại này, mà là vấn đề của cả quân đội, hắn giờ không muốn truy cứu thêm nữa, vốn muốn đánh tên chi huy sứ này vài gậy, nhưng phải xem hắn luyện binh thế nào đã, bèn nói: “Ngươi quá giờ 2 khắc, 20 mươi quân trượng tạm nhớ đấy đã, bản quan muốn xem diễn binh, nếu làm tốt, bản quan miễn tội, nếu không sẽ tính cả vỗn lẫn lãi đó!”

Quách Sách vội dạ dạ vâng vâng, cùng xem duyệt binh với mấy vị quan quân trên khán đài, Đỗ Văn Hạo ngồi ngay trung tâm, các vị tướng quân khác ngồi ở hai bên.

Quách Sách đứng trên cao, sử dụng chiếc cờ trong tay để ra lệnh “Bộ số 1, tiến lên phía trước! Lên cung! Chuẩn bị! Bắn!

Thực ra 1 bộ bin có 100 người, nhưng hơn nửa trong đó đã ra ngoài “làm ăn” rồi, vì vậy vào vị trí cung thủ chỉ có chưa đến 50 người.

50 mũi tên bay ra, đều bay loạn xạ, Đỗ Văn Hạo nhìn theo, suýt nữa thì ngã ngửa từ ghế xuống đất, thấy đám hình nhân bằng cỏ có hơn 10 mũi là bị tên bắn phải! Số tên còn lại đều cắm trên bãi cỏ dày đằng sau! Thậm chí một số người còn không căng nổi cung, bắn tên không đi, đứng cúi đầu ở đó

Quách Sách đưa mắt nhìn phản ứng của Đỗ Văn Hạo, hắn căng thẳng dằn giọng nói: “Tập trung vào cho ta! Lên cung! Chuẩn bị, bắn!”

Lần này, có lẽ do quá căng thẳng, số tên trượt còn nhiều hơn.

“Căng cung lên tên…”

Quách Sách đang định gào tiếp, Đỗ Văn Hạo đột nhiên nói: “Được rồi! Đội tiếp theo”

Quách Sách vội tuân lệnh, đổi đội khác, đây cũng là đội cung, thành tích cũng không khác đội trước là bao, hai đội sau là đội nỏ, thành tích càng tệ hơn, thậm chí có một số không không kéo nổi dây cung.

Đội cuối cùng là đội súng, tay giữ súng, đề phòng quân địch cưỡi ngựa xông lên, luyện tán kích thuật.

Kĩ thuật này là động tác bắt buộc, quân thể quyền tương tự của quân đội hiện đại thực dụng hơn, cự mã thương cần tối thiểu phải kị binh tấn công, súng phải cầm nghiêm chỉnh, nếu không sẽ thất bại và sẽ trở thành vũ khí của địch.

Việc này tương đối nguy hiểm.

Nhưng diễn hết một lượt tán thích thuật, Đỗ Văn Hạo dở khóc dở cười, không chỉ các bước đều loạn, một số người không biết làm gì với khẩu súng trong tay nữa, dường như đã quên cách sử dụng rồi.

Đây có phải là cấm quân bảo vệ kinh thành không! Là tấm bình phong chính phòng ngự kinh thành, trình độ như thế này đây, đừng nói là tinh nhuệ, đến cung thủ bảo vệ nha môn mà hắn biết còn mạnh hơn quân doanh này!

Đỗ Văn Hạo đã nắm binh quyền một thời gi­an rồi, cũng từng nhiều lần được xem diễn binh, lúc đó còn thấy được, tuy có bắn trượt, nhưng không như thế này, không ngờ cách một bức tường thành mà đã như trên trời dưới đất thế này rồi.

Đỗ Văn Hạo hạ giọng nói: “Gọi từng cung thủ ra bắn, ta muốn xem năng lực từng người đến đâu!”

“Dạ” Quách Sách vội vâng lện rồi triệu tập cung thủ lại.

Sau khi trắc liên, 60% có thể giương cung 8 đấu, nỏ hai thạch 4 đấu, đạt trình độ trung bình, trong đó có 20% khá tốt.

Đỗ Văn Hạo lấy đó làm vui, trong khoảng 200 người, 80% thể chất tốt, chỉ cần chịu khó luyện tập thì có hi vọng, còn về bắn tên trượt, tán thích thuật phối hợp không tốt, nguyên nhân chủ yếu là do lười luyện tập, có thể hiểu được. Cả quân doanh doanh bận làm ăn, làm gì có thời gi­an luyện tập.

Đỗ Văn Hạo còn muốn xem diễn trận tổng hợp, lại nói: “Đánh trống, xếp hàng tập luyện!”

Quách Sách vâng lệnh, ra cờ hiệu, trống nổi lên, các binh sĩ cầm cung sẵn sàng, vác súng và cờ, bắt đầu dàn hàng, tìm đến vị trí của mình trong đội hình chiến đấu, qua một tuần trà mà đội hình vẫn chưa hình thành, vì có một số ít thậm chí còn không biết vị trí chiến đấu của mình ở đâu, vẫn chạy lung tung trong đội hình.

Đỗ Văn Hạo “mặt sắt” đi đến phía trước khán đài, không thèm nhìn Quách Sách, lạnh lùng nói: “Đây chính là đội quân mà ngươi dẫn dắt? Đến đội hình còn không xếp được thì chiến đấu kiểu gì đây?”

Quách Sách đỏ mặt lí nhí: “Tì chức đang chết, xin tướng quân giáng tội, tì chức về sau nhất định sẽ chú trọng chuyện luyện tập”

“Hừ, ta cho ngươi một khắc, hãy chấn chỉnh lại đội hình ngay, phía sau cần xung phong, phòng thủ, chuyển quân doanh. Ta hi vọng không nhìn thấy đám ô hợp này nữa!”

“Vâng!” Quách Sách phất cờ lệnh, phải khó khăn lắm mấy binh sĩ kia mới tìm được vị trí của mình, chẩn chỉnh được đội hình, hắn lạ hò hét mấy lần quân lệnh, thấy đã hết giờ mới chạy về khán đài, ra hiệu bằng cờ, trống nổi lên bắt đầu cho thao luyện.

Tiếc là gần trăm năm nay không có chiến sự, quân bị lỏng lẻo, quân đội của hắn lâu lắm rồi chưa được luyện tập chính quy, làm sao trong một tuần trà có thể chỉnh đốn hàng ngũ cơ chứ.

Ngay động tác đầu tiên đã có vấn đề rồi, đáng nhẽ cần làm các động tác khác nhau dựa vào màu cờ và tín hiệu trống, kết quả lại toàn làm ngược lại, đến nỗi dẫm đạp lên nhau.

Các binh sĩ phía sau kêu toáng lên, úp mặt ngồi xổm trên đất, máu vây đầy trên các đầu ngón tay!

Các binh sĩ khác bắt đầu hoảng, tất cả vây lại.

Đỗ Văn Hạo dằn giọng: “Các binh sĩ bị thương sẽ có quân y lo liệu, không có quân lệnh mà đã tự ý rời bỏ vị trí thì làm sao mà thắng địch đcượ chứ!”

Các binh sĩ lập tức như bị đông cứng lại.

Đỗ Văn Hạo hét lớn: “Quân y! Mang người đi cho ta! Quân y? Quân y đâu? Quân y đâu hết rồi?”

Quách Sách sợ hãi đáp: “Quân y…quân y vào tiệm quân dược trong thành hành nghề trong đó rồi”

Quân đội đã đi làm ăn ở tất cả các bộ phận rồi, thậm chí còn xen cả vào việc làm ăn của quân dược rồi, thật khiến cho Đỗ Văn Hạo không còn gì để nói.

Hắn lớn giọng: “Dừng thao luyện, ta sẽ chữa trị cho họ!” nói rồi nhảy xuống khỏi khán đài.

Mọi binh sĩ đều nghe thấy giọng của Đỗ Văn Hạo, ai cũng biết trước kia đại tiếng quân là ngự y, có đại nhân lo liệu thì yên tâm rồi, thấy đại nhân xuống, mọi người lập tức quay ề vị trí.

Hứa Văn Cường và bọn hộ vệ cũng đi theo, Đỗ Văn Hạo dặn dò bọn hộ vệ đưa binh sĩ bị thương về mấy cái ghế cạnh thao trường, để cầm máu hai tay cho họ, phát hiện ra hàng lông mày của họ bị cứa một đường dài, xém nữa thì đi đôi mắt rồi, thật là trong cái rủi có cái may.

Chương 423: Tiền bạc và sinh mạng.

Trong túi cưu thương có băng chuyên dùng để băng vết thương ngoài ra, nhưng không có chất sát trùng và giảm đau, không có loại đặc trị mà mình thêm bột điền thất vào. Nếu không giảm đau, sát trùng đúng cách thì sẽ bị nhiễm trùng, khó liền hoặc không cầm được máu.

Đỗ Văn Hạo dùng nước sạch rửa vết thương, sơ cứu đơn giản, sau đó đắp thuốc kim sáng bình thường lên, dùng vải chuyên dùng để băng vào, dặn dò mấy binh sĩ làm theo lời mình dặn, lập tức đến Ngũ Vị Đường trong thành, tìm Diệm Diệu thủ xử lí vết thương lại cho tử tế

Các binh sĩ thấy đường đường là đại nhân Tam Nha nhiệt tình cẩn thật băng bó cho mọi người, trong lòng cảm thấy rất ấm áp, lập tức đứng thẳng dậy, ánh mắt hương về Đỗ Văn Hạo vừa kings trọng vừa thân thiết.

Tiễn mấy binh sĩ bị thương ra khỏi quân doanh, Đỗ Văn Hạo quay trở lại khán đài, bảo Quách Sách dặn dò binh sĩ mang mặt nạ tác chiến, mang theo vũ khí và lương khô, bắt đầu chạy việt dã quanh quân doanh 10 vòng, độ dài cũng phải đến 6 dặm.

Các binh sĩ chuẩn bị xong, bắt đầu chạy.

Điều làm cho Đỗ Văn Hạo hài lòng là mấy binh sĩ này dù đã lâu không luyện tập nhưng thể chất vẫn rất tốt, qua 10 vòng chạy, chỉ có hơn mười người bị tụt lại, còn lại đều chạy được hết vòng, tốc độ cũng được.

Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn Quách Sách, nói: “Sĩ binh thể lực tốt, tốc độ được, cũng phục tùng mệnh lệnh, chỉ có điều người làm quan mà không cho luyện tập tốt! Ngươi xem ngươi dẫn dắt một đội quân tốt như vậy đến mức độ nào rồi? Tên bắn không nổi, đội hình không biết cách xếp, đến quân hiệu cũng không nắm rõ, chỉ có sức khỏe không thì làm nên tích sự gì! Hai quân tác chiến, không phải là đánh nhau tập thể, mà là sự phối hợp của tập thể, phát huy ưu thế của tập thể. Đội quân này của ngươi lên tiền tuyến kiểu gì? Lại còn là cấm quân của kinh thành nữa chứ. Cấm quân như vậy thì gánh vác trọng trách bảo vệ kinh thành thế nào được?”

Quách Sách hai đầu gối mềm nhũn, quỳ phục xuống đất, dập đầu nói: “Tì chức sai rồi, mong đại nhân trách tội”

“Lát nữa ta nhất định sẽ trừng phạt ngươi. Có điều ta còn một chuyện muốn làm rõ, nhưng quân sĩ ngươi điều đi “làm ăn”, rút cuộc là có bao nhiêu người?…Ta cảnh cáo ngươi, ta sẽ điều tra, nếu giấu trên lừa dưới, người biết quân pháp xử tội đó thế nào chứ!”

Quân pháp triều Tống quy định tương đối nghiêm khắc, giấu giếm quân tình bị xử trảm, có điều thời bình không cân phải nghiêm khắc chấp hành đến vậy.

Nhưng Quách Sách vẫn sợ tím mặt mũi, sợ là sợ hai chữ nói thật.

Không nói thật mọi người đều được yên, nếu nói thật hết ra thì toi rồi. Quách Sách dập đầu, lắp bắp: “Đại tướng quân, có tất cả 116 người bị hạ thần điều đi thôi”

“Không đúng!” Đỗ Văn Hạo dằn giọng, “Biên chế của một quân doanh là 500 người, lúc nãy báo cáo sĩ số chỉ có 226 người có mặt, cả ngươi nữa mới là 227, thêm 116 người ra ngoài làm ăn thì tổng cộng mới có 343 người, còn thiếu 157 người nữa, đi đâu hết cả rồi?”

“Cái này…” Quách Sách ấp úng không biết nên trả lời thế nào.

Đỗ Văn Hạo tức giận: “Ngươi dám giấu bản quan?”

“Tì chức không dám!”

“Vậy ngươi nói xem!”

Quách Sách cúi đầu không nói.

Đỗ Văn Hạo bắt đầu tức đến mức không kiềm chế nổi, hướng xuống dưới khán đài nói: “Phó chỉ huy sứ đâu?”

“Có mạt tướng!” Một thanh niên chạy đến, quỳ một gối dưới khán đài, chắp tay nói: “Mạt tướng Nghiêm Bỉnh, phó chỉ huy sứ quân doanh số 1 Quảng Đức huyện Dương Vũ, xin nghe theo sự sắp xếp của đại tướng quân!”

“Mang danh sách binh sĩ lại đây!”

“Tuân lệnh!” Nghiêm Bỉnh vội vàng chạy đến trướng lớn, nhanh chóng mang danh sách đến quỳ xuống trình lên Đỗ Văn Hạo

Đỗ Văn Hạo không cầm lấy, lạnh nhạt nói: “Ngươi khoanh tròn tên những ai đi hồi dịch lại, ta muốn kiểm tra”

“Rõ! Không dám giấu tướng quân!”

Nghiêm Bỉnh lúc nãy chạy việt dã, người toàn mồ hôi, thậm chí còn chưa kịp lau, cầm bút lên bắt đầu khoanh, đều là binh sĩ kiến chế, tất cả có hai đội, thêm số quân thường niên coi quản binh sĩ hồi dịch, việc này xong rất nhanh, Đỗ Văn Hạo xem một lượt, quả nhiên là 116 người.

Đỗ Văn Hạo nói với Nghiêm Bỉnh: “Bây giờ ngươi điểm danh đi, điểm danh đến đâu đánh dấu đến đó, đứng sang một bên đi!”

“Vâng!” Nghiêm Bỉnh chần chừ rồi xoay người bắt đầu điểm danh.

Việc điểm danh cũng chẳng tốn mấy thời gi­an.

Đỗ Văn Hạo cầm lấy danh sách, điểm nhanh đã thấy đúng là không có 157 người, hắn hỏi Quách Sách: “Nói đi, những người này đi đâu cả rồi?”

Quách Sách vẫn im lặng không nói. Đỗ Văn Hạo quay sang Nghiêm Bỉnh thì tên đó cũng cúi đầu né tránh ánh mắt của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo cười khẩy: “Đừng cho rằng các ngươi không nói thì ta không biết! Mang sổ sách trợ cấp hàng tháng của các binh sĩ ra đây! Bản quan muốn xem một tháng có bao nhiêu người nhận trợ cấp!”

Quách Sách và Nghiêm Bỉnh mặt mũi tái mét, Nghiêm Bỉnh chạy đi lấy một cuốn sổ trình lên Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo giở ra kiểm tra những người được trợ cấp tháng trước, mặt u ám cười nói: “Ở đây có đủ 500 người nhận trợ cấp, đều có tên họ rõ ràng, thế người đâu? Đừng bảo họ là ma đấy!”

Hai người vẫn cúi đầu không h he gì.

Đỗ Văn Hạo giận quá cười mỉa mai: “Được, ha ha, được lắm! Các ngươi dám giễu cợt ta? Được thôi! Chúng ta tính nợ cũ trước, Quách chỉ huy sứ, lúc nãy ta nói, binh sĩ đến muộn một khắc, phạt ngươi mười quân trượng! Binh sĩ đến muộn mấy khắc?”

“Hai khắc!”

“Được! Ngươi cầm quân không nghiêm, không tập hợp được cả đội đúng giờ, người đâu, phạt thật nặng, hai mươi quân trượng!”

Lần này hắn xuống trực tiếp kiểm tra, không mang theo đội hộ vệ, Hứa Văn Cường đội trưởng đội hộ vệ giơ tay, bên trên có mấy hộ vệ xuống, bắt lấy Quách Sách ấn hắn nằm xuống đất, bọ họ cũng chẳng mang quân trượng, một hộ vệ nhìn thấy cạnh thao trường có môt giá vũ khí, trên đó có vài cây gậy, bèn cầm lấy hai cây, hai hộ vệ đứng xung quanh, bắt đầu ra tay với Quách Sách.

Tướng sĩ trên dưới khán đài thì chỉ huy sứ bị đánh phạt thị chúng, ai ai cũng run lẩy bẩy, cúi đầu không dám ho he gì.

Tên Quách Sách này đúng là không chịu được đòn roi, đanh hết 20 trượng là chân hắn đã đầm đìa máu, không nói năng được gì nữa.

Đỗ Văn Hạo thầm mừng, nhưng nét mặt vẫn nghiêm nghị: “Ngươi cầm quân không nghiêm, để quân sĩ hồi dịch, bỏ bê luyện tập, quan quân luật, nên xử lí thế nào đây?”

“Đối với kẻ chủ mưu, thì kế tạng tọa tội, toàn bộ tài sản hồi dịch sẽ bị tịch thu”

“Ừm, kế tạng tọa tội, cụ thể là thế nào?”

“Doanh lợi 20 lần trở lên, 100 trượng”

“Cái gì?” Đỗ Văn Hạo trợn mắt nhìn quân luật quan: “Không tử hình sao?”

“Dạ, thưa tướng quân, chỉ có vật ăn cắp tế thần, hối lộ, ăn cắp bảo vật là xử trảm. Người ngoài quân doanh ăn cắp tròn 20 quán, 60 trượng, thích phối bản châu, người trong quân doanh ăn cắp tròn 20 quán, 100 trượng, không thích phối.

“Ngươi có nhầm không? Ăn cắp 1 vạn quán cũng không chặt đầu sao?”

“Vâng, thưa tướng quân”

Xử phạt tội ăn cắp luôn ngược hẳn với sự phồn thịnh của nền kinh tế, kinh tế càng phát triển, xử phạt tội ăn cắp càng nhẹ, triều Tống khi mới khai quốc, đất nước rất nghèo nàn. Khi đó xử phạt tội ăn cắp rất nặng, sau đó đất nước ngày càng phồn vinh, hình phạt càng nhẹ dần.

Càng về sau hoàng đế càng nhân nhượng, tha được thì tha, khoan hồng dần với tội ăn cắp, cuối cùng dở bỏ tử hình với với tội ăn trộm. Thời Đường là thời kì phồn thịnh nhất, tội ăn cắp cũng không có mức phạt tử hình.

Đỗ Văn Hạo không am hiểu lắm hệ thống luật pháp đời Tống, vì vậy rất kinh ngạc, lại hỏi: “Ai chịu trách nhiệm việc xử phạt trị tội tướng sĩ?”

Quan quân luật đáp: “Thời bình, với binh sĩ bình thường, trượng hình do các quan quân luật trình doanh chỉ huy xử lí, đội đầu trở lên doanh chỉ huy sứ trở xuống phạm quân hình cần xử khoa hình, do Tam Nha xử lí. Tử hình phải do Tam Nha trình Hoàng thượng quyết. Thời chiến, do chủ soái và đốc chiến quan xử tại chỗ”

Đỗ Văn Hạo gật đầu, nói với Quách Sách: “Ngươi doanh chỉ huy sứ, bản quan là Tam Nha đô điểm kiểm, có quyền xử trượng hình với ngươi, trượng 100, thế cũng đủ răn rồi…Đúng rồi, quân luật quan, nếu lúc hành hình đánh chết thì làm thế nào?”

“Thụ hình mà chết, không luận”

“Vậy là có đánh chết ngươi cũng không trách được ta rồi. Người đâu! Cho dù hắn có van xin thế nào cũng không được nương tay, đánh hắn 100 trượng, đánh cho đến chết! Chết ta chịu trách nhiệm!”

Mấy hộ vệ tiến lên, giơ gậy lên bắt đầu đánh.

Quách Sách biết là cùng đường rồi, nhắm mắt đợi chết.

Quân trượng vun vút đập vào người Quách Sách, chỉ một thoáng thôi đã khiến lưng hắn đầm đìa máu. Quách Sách vẫn im lặng chịu đựng, giống như không phải đang đánh hắn vậy.

Phó chỉ huy sứ lên tiếng, dập đầu nói: “Đại tướng quân, chuyện này không trách chỉ huy sứ được, lúc chỉ huy sứ được điều đến đây, đã thiếu mấy quân sĩ đó rồi”

“Cứ cho không phải lỗi của các ngươi thì không thể tiếp tục tham ô được, bản quan bây giờ không truy cứu ai là người có lỗi, mà là bổng lộc của hơn 150 người đó rơi vào túi ai?”

Hai người im lặng.

Đỗ Văn Hạo nổi giận, chỉ thẳng bào mặt hai tên đó nói: “Được lắm, ta muốn xem xem miệng lưỡi các ngươi cứng hay quân trượng cứng!” không thèm quay đầu lại, Đỗ Văn Hạo ra lệnh: “Quân luật quan, tham ô công quỹ, trị thế nào?”

Chương 424: Ưu thế không ưu thế.

Quan quân luật gao giọng đáp: “Kẻ tham ô thành tội, 10 thất trở lên, phạt 100 trượng và 1 năm bổng lộc”

Đỗ Văn Hạo đi hết tử bất ngờ ny đến bất ngờ khác: “Đến tham ô mà cũng không bị tử hình sao? Luật kiểu gì vậy?”

“Khởi bẩm tướng quân, tham ô không bị, nhưng nhận hối lộ thì bị, một thước 100 trượng, 1 thất thêm một bậc, 15 thất treo cổ”

“Thế còn được, Quách chỉ huy sứ, ngươi tự ý cho quân binh hồi dịch, theo luật phạt trăm trượng, thêm vào đó mạo nhận quân số ăn bớt trợ cấp, tổng cộng hai trăm trượng, xem ra xương sống ngươi toi rồi, còn nội tạng thì đừng mong còn nguyên vẹn, ngươi tự lo liệu xem nên nói hay không?”

Quách Sách run lẩy bẩy không nói.

Đỗ Văn Hạo đảo mắt nói: “Quách chỉ huy sứ, bản quan biết ngươi có chỗ khó, số binh sĩ bị khai khống này, và số trợ cấp tham ô, mỗi tội 100 trượng, hai tội cộng lại, dù gì cũng không sống nổi, không biết thí tốt giữ xe, chết không chịu nói, người khác liệu có lo cho người nhà của ngươi không, ngươi nói xem đúng không?”

Quách Sách rùng mình, chầm chậm ngẩng đầu nhìn Đỗ Văn Hạo, trong lòng kinh ngạc vì sự sắc sảo trong đôi mắt của vị tướng quân trẻ tuổi, đây chính là bàn tính lớn trong lòng hắn.

Đỗ Văn Hạo nói: “Nếu ngươi nói ra nội tình thì ta có thể bảo bọn họ nhẹ tay, cho ngươi con đường sống”

Ánh mắt chỉ huy sứ lóe lên một tia vui mừng: “Đại tướng quân nói thật chứ ạ?”

“Quân đội không có lời nói đùa!”

“Vâng! Tì chức tin tướng quân, tì chức nói”

Quách Sách than dài: “Khi tại được điều đến đây, chỉ huy sứ tiền nhiệm đã đưa cho danh sách bị thiếu này rồi, thiếu hơn 150 người, nhưng cũng không báo lên trên để bổ sung, vẫn nhận trợ cấp theo sĩ số 500 người, số còn dư được chia làm 3 phần, một phàn cho Đại nhân quân bộ đô chỉ huy sứ, một phần chia cho anh em toàn quân doanh. Phần còn lại lại được chia làm 3 phần, tại hạ và phó chỉ huy sứ 1 phần, các đô đầu, đội đầu được chia một phần, chia theo đầu người”

“Ha ha, thật công bằng, khai khống quân số, tham ô trợ cấp, to gan! Các ngươi không biết sợ vương pháp sao?”

Quách Sách cúi đầu nói: “Tì chức biết chuyện này sớm muộn gì cũng bị lộ, hơn nữa mọi người đều làm thế, không đến mức một mình bản thân mình chịu, không ngờ lại như thế này”

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên: “Ngươi nói gì? Mọi người đều làm như vậy sao? Vậy là ý gì? Ngươi nói các quân doanh khác cũng như vậy sao?

Quách Sách gật đầu nói: “Đại tướng quân nếu không tin có thể tự mình đi điều tra xác thực, có quân doanh còn khai không nhiều hơn bên tì chức! Mấy chục năm nay đều như vậy!”

Đỗ Văn Hạo thấy đầu óc lùng bùng, 1 số chuyện rõ thật không thể nghĩ thông, trong phút chốc đã thông suốt rồi! Tại sao đội quân Tống xưa nay tập trung nhiều ưu thế vậy, tại sao bao nhiêu lần gi­ao đấu với quân Tây Hạ lần nào cũng thua, thì ra ưu thế của quân Tống chỉ là ưu thế ảo về quân số, còn thực tế, thậm chí còn không đủ sĩ số, con số ảo về sĩ số thiếu quá trầm trọng, số lượng thực sự không hề hơn quân Tây Hạ.

Nhưng ngay sau đó hắn lại thấy không ổn, bản thân hắn vừa tiếp xúc với quân đội, chuyện như vậy chẳng nhẽ hoàng thượng không biết sao? Hơn nữa, lần trước mình dẫn năm nghìn cấm quân Tây chinh, rõ ràng là năm nghìn, không hề thiếu ai, như vậy là sao?

Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn đội trưởng thân binh hộ vệ Hứa Văn Cường hỏi; “Phải như vậy không?”

Hứa Văn Cường gật đầu: “Đại tướng quân, nói chung là như vậy”

“Vậy tại sao lần trước ta dẫn quân Tây chinh, năm nghìn người không thiếu ai?”

Hứa Văn Cường cười hì hì đáp: “Tướng quân không biết kiểm kê từng người thì làm thế nào mà biết có thiếu hay không? Đều là nghe kẻ dưới báo cáo sĩ số, thiếu là thiếu. Có điều đội của họ hơi thái quá thôi. Vì khi tiên đế còn tại vị đã từng bổ sung đối với quân doanh thiếu, đội quân mà chúng ta dẫn đi xuất chinh khi đó là đã được bổ sung cách đó không lâu, vì vậy sĩ số mới chưa được báo cáo, nhưng việc thiếu người cũng không quá nghiêm trọng.”

“Thực tế là thiếu bao nhiêu?”

“Cái này tì chức cũng không rõ, lúc đó hai quân, có tất cả năm nghìn người, tì chức chỉ biết lúc đó doanh chúng ta chỉ thiếu có mười mấy người”

“Ngươi là doanh chỉ huy, cũng ăn tiền trợ cấp thiếu quân số như bọn chúng sao?”

Hứa Văn Cường có vẻ ngại, quỳ một gối xuống chắp tay đáp: “Xin đại tướng quân thứ lỗi, tì chức sai rồi, có điều, đây là cách làm thông dụng trong quân ngũ, trên tì chức còn có quân đô chỉ huy sứ, tì chức mà không làm theo lệ thì sớm đã bị đào thải rồi. Nhưng đại tướng quân có thể điều tra, toàn bộ số tiền trợ cấp dư ra được dùng để bổ sung quân phí và gia quyến binh sĩ bị thương vong ngoài quy chế. Những việc này đều có chứng cứ, mạt tướng không hề có chuyện tham ô bỏ túi riêng!”

Đỗ Văn Hạo gật đầu: “Ta tin ngươi, ngươi đi theo ta chinh chiến ở Tây Vực, tận mắt nhìn thấy sự trung thành của ngươi, tuyệt đối không vì chút lợi nhỏ mà quên đại nghĩa. Đứng dậy đi”

“Đa tạ đại tướng quân” Hứa Văn Cường đứng dậy về lại vị trí cũ.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi từng đô chỉ huy sứ của các quân Tam Nha, bọn họ đều thừa nhận chuyện nhận tiền và khai khống sĩ số, nhưng số lượng khác nhau, cách thức tiêu khác nhau, đa số là trưng dụng bổ sung quân phí, có sổ sách để đối chiếu, chỉ có số ít là tư lợi thôi.

Nghe vậy, tuy chỉ là tăng phúc lợi cho quân binh, nhưng cũng có thể chấp nhận được.

Tuy đây là hiện tượng phổ biến, cái được gọi là phép vua thua lệ làng, chỉ có thể thay đổi từ chế độ, không thể trách phạt quá nặng một cá nhân nào được, như vậy thì không công bằng. Đỗ Văn Hạo thở dài, nói với Quách Sách và Nghiêm Bỉnh lúc này vẫn còn quỳ dưới kia: “Được rồi, hai ngươi cứ đứng lên đã!”

Đợi hai người đó đứng dậy, Đỗ Văn Hạo nhìn quanh tướng lĩnh cao cấp của Tam Nha, trầm giọng nói: “Một phần lớn tướng sĩ bị điều đi làm ăn, hiện tượng thiếu sĩ số quá nghiêm trọng, vấn đề khai không lĩnh khống trợ cấp quá nổi cộm. Quân đội thiếu rèn luyện, khả năng chiến đấu bị giảm sút đáng kể. Quân đội như vậy thì thắng trận sao được? Nhất định phải chấn chỉnh! Đây là nhiệm vụ mà Hoàng Thái Hậu gi­ao cho ta, cũng là trách nhiệm của bản tướng. Nhưng giải quyết vấn đề này như thế nào cần sự đồng tâm hiệp lực của tất cả mọi người. Còn làm như thế nào thì các ngươi cho cái đầu của ta suy nghĩ đã, cho các ngươi ba ngày, viết lại những đề đạt của các ngươi rồi trình lên ta. 3 ngày sau ta sẽ triệu tập hội nghị chỉ huy sứ các quân để thảo luận các vấn đề đó. Nghe rõ chưa?”

“Mạt tướng tuân lệnh!” các tướng lĩnh quỳ xuống đáp, nghe ra thì chưa có tinh thần lắm, rất hiển nhiên, ban đầu Tống Thần Tông quyết tâm chỉnh đốn quân đội, hiệu quả vẫn chưa được như ý, bọn họ nghi ngờ đại tướng quân trẻ tuổi này, đó là chuyện dễ hiểu.

Đỗ Văn Hạo tất nhiên nghe ra điểm này, trong lòng thấy không vui, tiếp tục thị sát trạm tiếp theo.

Trạm thứ hai là quân doanh sương quân, kiều đạo quân của huyện này

Do bọn họ đi thị sát đột xuất, vì vậy khi một hàng người cưỡi ngựa đến cửa doanh phòng, lại không thấy có binh sĩ gác cửa. Cưỡi thẳng ngựa xông vào, một quân doanh lớn thế này mà ảm đạm, chỉ có một vài người đang ngồi tránh nắng dưới bóng cây ở góc tường xa xa.

Đỗ Văn Hạo thúc ngựa đi vào, nhìn rõ mấy binh sĩ tóc đã bạc phơ, còn cả lưng xuống, đang ngồi trên các phiến đá uống trà nói chuyện phiếm. Thấy bọn Đỗ Văn Hạo đi vào, tuy không biết, nhưng thấy Đỗ Văn Hạo mặc trang phục võ tướng bằng nhung nhị phẩm, chắc cũng là tướng quân cao cấp, bọn họ đều sợ hãi, lẩy bẩy đứng dậy hành lễ: “Tham kiến chư vị tướng quân”

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Chỉ huy sứ của các ngươi đâu?”

“Chỉ huy sứ đại nhân…, chỉ huy sứ đại nhân đâu rồi?” ông già quay đầu hỏi những lão binh tốt bên cạnh.

Một người trong trẻ nhất đám đó trả lời: “Đi huyện nha bàn chuyện dọn dẹp lòng sông rồi ạ”

“Đúng đúng!” mấy ông già cùng gật đầu.

Đỗ Văn Hạo chau mày: “Phó chỉ huy sứ? Các bộ đầu đâu, đô đầu đâu?”

Mấy lão già chụm đầu lại với nhau rồi đáp: “Phó chỉ huy sứ đã lãnh hai đô binh hồi dịch lâu rồi, khoảng mười ngày nửa tháng nữa sẽ quay về, 3 đô còn lại, có 1 đô đi nạo vét lòng sông, 1 đô đi sửa kênh mương, còn 1 đô đi công tác trên Nha môn”

Đỗ Văn Hạo giở khóc giở cười: “Đi công tác trên Nha môn? Nha môn không phải có nha dịch rồi sao! Lại còn kêu binh lên làm gì?”

“Ha ha, tướng quân nói rất đúng, có điều lão gia trên Nha môn nói bận quá, vì vậy kêu lên tạm dùng, việc này được gọi luôn phiên, không có kết thúc luôn. Tiền Hồi tử phủ doãn phủ Khai Phong đến còn điều 3 đô người ngựa đến hầu hạ nữa cơ”

Đỗ Văn Hạo nhìn thao trường cỏ mọc rậm rạp, thậm chí có nhiều vật lạ, hỏi: “Các ngươi bình thường không luyện tập sao?”

Ông lão binh đó cười trừ: “Tướng quân, người ngựa quân doanh chúng tôi bận chuyện này chuyện kia, đến thời gi­an tập hợp còn không có, thao luyện sao được? Hơn nữa, sương quân tạp dịch, chúng tôi đều ra trận thì cấm quân dùng làm gì?”

Lão binh này tuy đã già, nhưng dám lên tiếng trả lời, Đỗ Văn Hạo lại hỏi: “Quân doanh các ngươi có bao nhiêu người? Ý ta là con số thực tế ấy”

Lão binh đó không có ý giấu giếm: “Tổng số biên chế 500, thực tế là 300 có lẻ”

“Vậy số 200 kia có lãnh trợ cấp không?”

Lão binh liếc Đỗ Văn Hạo một cái, rồi quay đầu nhìn mấy người bạn phía sau, thấy bọn họ đều thản nhiên bèn đáp: “Dạ có lĩnh, đều là phần của đương quan ạ”

Đỗ Văn Hạo gật đầu: “Đa tạ các vị cao niên trượng nghĩa đã thẳng thắn nói chuyện”

Rời sương quân binh doanh, Đỗ Văn Hạo lại đi thị sát kiểu cưỡi ngựa xem hoa mấy doanh phòng cấm quân xung quanh, kết quả cũng không khác là bao.

Trời đã nhá nhem tối, hắn lòng nặng trĩu về kinh.

Về đến nhà, hắn rầu rĩ nằm lên giường, Anh Tử gọi hắn ăn cơm hắn cũng không màng.

Bàng Vũ Cầm đến, ngồi xuống bên hắn nói: “Tướng công, có chuyện gì không vui sao?”

“Ừ”

“Có thể nói ra được không? Nói ra cùng nghĩ cách, có lẽ sẽ giải quyết được”

“Có nói nàng cũng không hiểu!” Đỗ Văn Hạo vừa dứt lời liền hối hận, ngẩng đầu nhìn Bàng Vũ Cầm, quả nhiên thần sắc thay đổi, vội vàng sửa lỗi, hắn ôm nàng vào lòng, nhẹ nhàng kể chuyện hôm nay đi thi sát rồi nói: “Quân đội Đại Tống ta như vậy, ta là người đứng đầu Tam Nha, trong lòng không vui chút nào, lại không biết phải giải quyết từ đâu. Sắp tới cần gi­ao tranh với Tây Hạ, trong tay không có một chút binh lực nào, vì vậy cảm thấy rất khó chịu”

Chương 425: Thống nhất tư tưởng.

Bàng Vũ Cầm gật đầu: “Tướng công xưa nay chỉ nghiên cứu y thuật, nay lãnh binh đánh trận cũng là chuyện quá gấp gáp, mà căn bệnh này của quân ta không phải ngày một ngày hai, hơn nữa sự rệu rão cục bộ dễ khiến cả bộ máy ngưng trệ, phải thật cẩn trọng. Nếu không tướng công đi hỏi mấy vị danh tiếng cầm quân thành công, để họ chỉ giáo cho chút đạo cầm quân, biết đâu lại có được lời khuyên hay cũng nên”

Đúng là câu nói làm người khác tỉnh mộng, Đỗ Văn Hạo gật gù nói: “Nàng nói rất đúng! Ta không phải người trong nghề, phải đi xin người ta chỉ giáo, không thể làm bừa được, dan tướng triều ta rất nhiều, nhưng ai mới là người có uy tín nhất đây?”

“Vẫn nghe tướng công khen Dương gia tướng lợi hại thế này, lợi hại thế kia, tại sao không đến đó nhờ họ chỉ giáo?”

“Đúng! Dương gia tướng! Đúng rồi! Đã bảo là phải đi thăm hỏi họ, ban đầu chỉ vì lòng ngưỡng mộ, nay lại có chuyện phải cầu đến họ thật rồi. Được rồi, sớm ngày mai đến Dương phủ bái kiến! Vẫn là phu nhân nhiều cao kiến, chứ cái đầu cá gỗ của ta sao mà nghĩ ra được”

Bàng Vũ Cầm cười tinh nghịch: “Chẳng qua tướng công phức tạp hóa vấn đề nên nhất thời không nghĩ ra đó thôi, bình thướng tướng công rất hay nhắc đến Dương gia, thiếp không nhắc thì tướng quân khắc nhớ ra thôi”

Đỗ Văn Hạo ôm chặt lấy Bàng Vũ Cầm đè nàng ra: “Hì hì, tướng công giờ chỉ muốn kiều thiếp vừa nói vừa cởi áo ra thôi”

Bàng Vũ Cầm cầm lấy tay ngăn Đỗ Văn Hạo lại: “Tướng công, đừng!”

“Sao? Hôm nay không hải đến lượt nàng sao?”

“Đúng, chỉ là…thiếp hình như…hình như lại mang bầu rồi”

“Thật sao?” Đỗ Văn Hạo mừng rỡ nắm lấy tay Bàng Vũ Cầm bắt mạch, “Để ta xem nào!”

Được một lúc lại reo lên: “Ha ha, đúng là lại có rồi! Vẫn chỉ có phu nhân Bàng Vũ Cầm lợi hại! Liên tục có bầu! Lần này phải giữ cho tốt, không thể để xảy nữa đấy!”

Bàng Vũ Cầm ra vẻ xấu hổ nép vào ngực Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Thiếp cũng nghĩ vậy, tốt hơn vẫn nên cẩn thận. Tướng công một thê ba thiếp, nhưng không ai có con, chuyện hương hỏa phải có người lo liệu thì mọi người mới yên tâm”

Đỗ Văn Hạo cười hì hì nói: “Chuyện này có gì đâu, nàng mang thai nhưng lại xảy, Thanh Đại tuy đã đến lúc nhưng 3 năm chưa hết tang, đến nay vẫn chưa động phòng, cũng không có cách nào cả, Liên Nhi và Phi Phi còn nhỏ, mới 15 16 tuổi, chưa phát triển đầy đủ, qua vài năm nữa thì sẽ ổn thôi mà”

“Vâng, nhưng thiếp là nguyên phối, nên là người đầu tiên mang thai”

“Nàng nói rất đúng, bây giờ mang thai là tốt rồi, để ta nghe xem là con trai hay con gái!” Nói rồi hắn áp tai vào bụng Bàng Vũ Cầm nghe thử.

Bàng Vũ Cầm nhột quá cười: “Mới có hai tháng thì nghe thấy gì được!”

Chuyện này Đỗ Văn Hạo thừa biết, nhưng niềm vui được làm cha khiến hắn quên tất, hắn oomg chặt Bàng Vũ Cầm nói: “Hôm nay nàng ngủ lại đây, ta muốn ôm nàng ngủ!”

Tuy đã thành thân hơn 1 năm nhưng nghe tướng quân nói câu đó nàng vẫn rất xấu hổ, chỉ gật đầu không nói.

Sáng sớm hôm sau, Đỗ Văn Hạo luyện kiếm với Lâm Thanh Đại như mọi khi, 3 ngày nay, với sự chỉ dẫn của Lâm Thanh Đại, kiếm pháp của hắn đã khá hơn nhiều, chỉ cần chịu khó luyện tập là được.

Dùng xong bữa sáng, Bàng Vũ Cầm đã chuẩn bị một hậu lễ, sai người hầu bưng đi theo Đỗ Văn Hạo sang Dương phủ bái kiến.

Đỗ Văn Hạo mang theo hộ vệ ra ngoài, nhưng người đưa tin của Tam Nha cấp báo, Quân đô bộ thử Lã Công Trứ và phó đô bộ thử Khúc Trân và giám quân Lí Hiến của chuyến Tây chinh đang đợi trước cửa Tam Nha.

Đỗ Văn Hạo thân là đại nguyên soái của Tây chinh thảo phạt, phải đưa ra kế sách xuất chinh lần này, phải chỉ dẫn cho binh lính ở tiền tuyến, theo quy định, sau khi ban bố chiếu thư xuất chinh, muộn nhất trong 3 ngày phải xuất phát, quân tình gấp rút, phải hạ chiếu hôm đó xuất phát, không được chậm trễ. Đỗ Văn Hạo quyết định phải giải quyết chuyện này trước.

Hắn cùng các hộ vê đến trước điện nghị sự đường.

3 người thấy hắn đến đều đứng dậy hành lễ, Đỗ Văn Hạo vội phẩy tay áo đáp lễ, rồi ngồi vào vị trí chính giữa, hắn không quen biết 3 người này, Lã Công Trứ và Lý Hiến lại là người quen, Lý Hiến đã từng nhiều lần làm giám quân, đã từng làm đến kinh lược sử, vì tác chiến thất bại nên bị chuyển về Khánh sứ Nhậm tuyên ở kinh thành, vì vậy quen biết đại tướng Khúc Trân, nhưng chỉ là xã gi­ao thông thường, Khúc Trân luôn ở biên giới Tây Hạ tác chiến, lại cỉ là phó tổng quản, vì vậy không có duyên quen biết với quyền thần trong triều Lã Công Trứ, vì vậy hai người không quen nhau.

Khi 3 người giới thiệu, Đỗ Văn Hạo cũng giới thiệu bản thân mình, rồi lại là màn xã gi­ao thường gặp, Đỗ Văn Hạo thấy Khúc Trân tóc đã bạc phơ, do khoảng cách khá xa nên không nhìn rõ là nếp nhăn hay là sẹo đầy trên mặt, cho dù có cao to, tráng kiện, nhưng sức khỏe có phần không còn tốt lắm, nhưng hai mắt lanh lợi rất có thần, hắn bèn nói: “Khúc tướng quân, tôi ngưỡng mộ đại danh của tướng quân đã lâu, thường nghe Lý Phổ kể chuyện mọi người tác chiến ở Tây Hạ, rất ngưỡng mộ tài cầm quân của ngài”

Khúc Trân vội đứng dậy hành lễ: “Mạt tướng đâu dám, xin cám ơn sự đề cao của đại tướng quân!”

Lã Công Trứ là một nhân vật nguyên lão trong triều, đến Vương An Thạch do ông ta tiến cử cũng phải kính nể, thấy Đỗ Văn Hạo trẻ tuổi đã leo lên chức vị cao như vậy, thực tình không nhìn ra có chỗ nào hơn người, trong lòng có vẻ khinh thường. Hoàng Thái Hậu cho ông ta nhận chức đô bộ thử, Khúc Trân chỉ là phó soái, Đỗ Văn Hạo không xưng hô đại nguyên soái ngay mà khen ngợi phó soái trước khiến hắn không vui chút nào, hắn chỉ nói nhạt một câu: “Khúc tướng quân nên cám ở sự đề cao của Đỗ tướng quân, ì Đỗ tướng quân còn trẻ tuổi, nếu đổi lại là một lão thần thì sẽ không đề cao một bại tướng như ông đâu”

Vừa nghe thấy câu đó là mặt Khúc Trân đỏ hết lên, gương mặt tươi cười của Đỗ Văn Hạo như đông lại một lúc, hắn đưa mắt nhìn Lã Công Trứ, trộm nghĩ lão này thật vô lí, vốn nghĩ bật lãi mỉa mai vài câu, nhưng việc còn chưa xuất chinh mà nội bộ đã lục đục thì không hay, bèn giả bộ không nghe thấy, lái sang chủ đề khác, nói huyên thuyên về kế sách của mình.

Nghe hết ý tưởng của Đỗ Văn Hạo, Khúc Trân gật đầu nói: “Kế hoạch tác chiến của đại tướng quân rất tốt, từng bước rõ ràng, buộc ta và địch phải giáp chiến quyết đấu, làm tiêu hao sức chiến đấu của địch, phát huy ưu thế về quân số của ta, chỉ cần kế hoạch có thể nghiêm túc thực hiện, nhất định sẽ thành công!”

Lã Công Trứ điềm nhiên nói: “Lão già chỉ sợ không sống nhìn thấy hiệu quả thôi!”

Đỗ Văn Hạo nhìn Lã Công Trứ nói: “Nghe câu này của đô bộ thử thì hình như chiến thuật này kéo dài quá đúng không?”

“Đúng vậy”

“Vậy theo cao kiến của bộ thử thì trận này nên đánh thế nào?”

“Rất đơn giản, chia binh ra nhiều hướng, đánh xuyên tâm và bao vây, cắt đứt đường rút lui của địch, lợi dụng ưu thế binh lực để đánh lui địch”

Đỗ Văn Hạo chỉ cười nói: “Đô bộ thử, quân ta gặp quá nhiều trận như thế rồi, không thể để bi kịch tái diễn nữa!”

Lã Công Trứ nhếch đôi mày đậm đã bạc trắng: “Đại tướng quân, chiến thuật là chết, người là sống, chiến thuật có thể tạo ra kì tích, cũng khiến đội quân chiến bại, chỉ cần biết dùng là phát huy tác dụng”

Đỗ Văn Hạo nói: “Ngài nói không sai, nếu quân ta có thể nhanh chóng tiến công, lại có nghị lực và sức chiến đấu dẻo dai, đánh xuyên tâm rồi bao vậy sẽ tiêu diệt được địch. Thế nhưng, quân ta đang phải đối diện với quân Tây Hạ với kị binh là chủ lực, người có hai chân sao nhanh được bằng ngựa có 4 cẳng, hơn nữa quân địch là trọng giáp kị binh, quân ta muốn đánh xuyên tâm lại không mang theo trọng giáp được, cứ cho là bao vây được quân địch, thì quân địch với ưu thế trọng giáp kị binh sẽ sớm phá vỡ vòng vây của chúng ta thôi. Vì vậy chúng ta bao vây được địch nhưng chưa chắc thắng được chúng. Điều này đã được chứng minh qua rất nhiều chiến dịch rồi”

“Vậy là chủ soái chỉ huy bất lực rồi!” Lã Công Trứ lanh đạm nói.

“Nói vậy, đô bộ thử rất tự tin vào tài chỉ huy quân sự của bản thân phải không?”

“Không phải lão già ngông cuồng, cho dù lão chưa từng cầm binh đánh trận, sự tự tin vẫn có. Nếu lần này lão lãnh 5 vạn binh mã, có thể thảo phạt theo ý lão, bảo đảm thành Vĩnh Lạc chiến bại ê chề!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Quân ta hiện nay không thích hợp với chiến thuật đó”

“Đại tướng quân lo thừa rồi, cầm binh đánh trận, bắt buộc phải gan lớn, tướng quân như vậy thì chỉ có chiến bại mà thôi”

Đỗ Văn Hạo lúc này quá tức giận rồi, nhưng vẫn cố kiềm chế, cố gắng giữ cho mình bình tĩnh: “Lã đại nhân, tác chiến chậm chắc, kế hoạch này do tể tướng quyết định, kế hoạch này…”

“Kế hoạch này không được! Quá bảo thủ!” Lã Công Trứ sầm mặt vào không bằng lòng, “đánh như vậy đến bao giờ mới thắng được Tây Hạ? Ta đường đường là nước lớn đi ‘dạy bảo’ nước nhỏ, chỉ cần uy thế hùng hậu xuất chinh, không có chuyện không thắng được. Đánh như tướng quân thì phải đợi đến 50 năm hay 100 năm?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Quân ta bây giờ mà so với quân của Tây Hạ, trừ ưu thế về số lượng, còn lại đều không bằng, tư tưởng khinh địch và nhanh chóng thắng lợi mới là kẻ địch lớn nhất của chúng ta!”

“Tướng quân như thế là rùa rụt cổ đó!”

Đỗ Văn Hạo phát hiện ra mình nhẫn nhịn lão già này đúng là thất sách, bây giờ thánh chỉ đã giáng xuống, không thay đổi được, chỉ có thể thuyết phục lão ta không tiến công. Hắn cố gắng nuốt nước miếng, chậm rãi nói: “Lã đại nhân, chúng ta không tranh cãi nữa, kế hoạch của tôi đã được Hoang Thái Hậu thông qua rồi”

“Thông qua rồi thì sao? Sai thì nên sửa!” Lã Công Trứ liếc Đỗ Văn Hạo, “Chiều hôm qua Hoàng Thái Hậu triệu kiến dặn dò tôi nên nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh của đại tướng quân, còn bảo tôi chịu khó lắng nghe ý kiến của phó soái Khúc Trân, nói kế hoạch ông ấy phản đối tôi không được thực hiện. Lão lúc đó đã nói với Hoàng Thái Hậu, có cái gọi là ‘tướng tại ngoại quân lệnh hữu sở bất thụ’, chiến trường biến hóa vô cùng, chiến thuật cũng phải thay đổi theo, chỉ có thể tùy cơ ứng biến! Phó soái có thể nêu ý kiến, nhưng phải tuân theo lệnh của chủ soái! Nếu không chuyến xuất xhinh này không có cách nào đánh cả!”

“Vậy ông muốn như thế nào?”

“Là đô bộ thử, lão cầu xin tướng quân cho phép lão có quyền tự quyết kế hoạch tác chiến!”

Chương 426: Không rét mà run.

“Tuyệt đối không được!” Đỗ Văn Hạo rũ hai tay áo, hằn giọng nói, “ta lần này xuất chinh thảo phạt, là đại nguyên soái, ta không có quyền gi­ao tính mạng của hơn 5 ngh­in binh sĩ cho ông làm loạn được! Chiến thuật chậm chắc được hội nghị tể chấp quyết định, được Thái Hoàng Thái Hậu ngự chuẩn, toàn quân phải phục tùng! Tuyệt đối không được thay đổi! Ta nói lời khó nghe trước, nếu ai vi phạm, đến lúc đó đừng trách ta không nể mặt làm theo quân pháp!”

Triều Tống coi trọng “tướng tòng trung ngự”, kế hoạch tác chiến trọng đại sau khi được hội nghị tể chấp xem xét, trình lên Hoàng Thượng chuẩn tấu, rồi gi­ao cho chủ soái quán triệt làm theo. Đây là thông lệ, chuyện Lã Công Trứ muốn đứng lên tự mình quyết định kế hoạch tác chiến, rõ ràng là không khả thi, vì vậy, hắn dù có tức đến đâu cũng không dám đấu tranh đến cùng.

Đỗ Văn Hạo thấy hắn không ho he gì nữa cũng kiềm chế tức giận lại, ôn tồn nói: “Lúc nãy tôi đã giải thích rõ kế hoạch tác chiến rồi, đây chỉ là suy nghĩ, chúng ta ra chiến tuyến, phải căn cứ vào tình hình thực tế mà hành động. Nhưng bất kì thay đổi chiến thuật nào cũng phải xoay quanh chiến thuật này, tuyệt đối không được chia nhỏ mạo hiểm tấn công, cũng không cho phép truy đuổi địch. Kẻ vi phạm, dù có công vẫn bị xử theo quân pháp! Đây là kỉ luật thép! Các doanh các quân chỉ huy sứ phạm phải điều này, bản tướng sẽ dùng bảo kiểm do Hoàng Thái Hậu ban cho để xử trảm! Quân lệnh như sơn, kính mong 3 vị hiểu cho!”

Khúc Trân và Lý Hiến đều cúi người tuân mệnh, chỉ có Lã Công Trứ không có phản ứng gì, vẫn ngồi đó có vẻ ấm ức.

Đỗ Văn Hạo đã nói rất rõ ràng, thấy ông ta như vậy cũng yên tâm phần nào, bèn nói với Khúc Trân: “Khúc tướng quân, Thái Hoàng Thái Hậu đã gi­ao cho ngài quyền phản đối kế hoạch tác chiến, nếu ngài thấy có gì không ổn, phải kiên quyết thực hiện nhiệm vụ của mình, báo để tôi sửa đổi. Không sợ đắc tội với tôi, ngài phải làm người tốt, đừng để hàng ngàn binh sĩ đổ máu vô nghĩa! Rõ chưa?”

“Mạt tướng tuân mệnh!” Khúc Trân cung kính chắp tay đáp.

Lã Công Trứ biết mấy câu đó là nhằm vào mình, mặt đanh lại không nói gì.

Đỗ Văn Hạo nhìn Lý Hiến nãy giờ im lặng: “Lý tướng quân, ngài có ý kiến gì không?”

Lý Hiến cười trừ nói: “Đây là quyết định của Tể chấp, Thái Hoàng Thái Hậu đã ngự chuẩn rồi, tôi dĩ nhiên phải tuân theo. Nhưng Lã đại nhân nói không phải không có lý, khi lâm trận, bất kì điều gì cũng có thể xảy ra, quá câu nệ kế hoạch tác chiến rất dễ bỏ lỡ thời cơ”

Đỗ Văn Hạo khoát tay nói: “Cho dù là thời cơ cũng tuyệt đối không nên tham công to mà mạo hiểm! Nhất định phải quán triệt kế hoạch. Còn về binh lực cụ thể, khi địch đến sẽ ứng chiến thế nào, chúng ta có thể quyết định theo tình hình. Tôi chỉ có 1 yêu cầu, có thể đợi quân địch tiến sâu vào mới đánh, nhưng chúng ta tuyệt đối không thể tấn công đột ngột! Tốc độ tiến thoái của chiến trại phải phù hợp, phải cẩn trọng, không được hỗn loạn! Đó chính là tinh thần chính của chiến thuật này! Ngài là giám quân, cũng phải có trách nhiệm giám sát việc thực hiện chiến thuật”

Lý Hiến cười khan, chắp tay đáp: “Tại hạ đã rõ”

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Lần này đến Thiểm Tây có 5 vạn binh mã, nhớ, là sĩ sỗ thực, rất nhiều đội thiếu binh trầm trọng, nếu điều binh theo danh sách thì sẽ không có đủ 5 vạn người, như vậy sẽ không phát huy hết ưu thế về binh lực của quân ta”

Đỗ Văn Hạo nhìn Lã Công Trứ giờ vẫn đang tức tối, lạnh nhạt hỏi 1 câu: “Lã đại nhân, ông nghe rõ những gì bản quan vừa nói chưa?”

Đỗ Văn Hạo trong lần Tây chinh này là đại nguyên soái, lại là tể chấp, Lã Công Trứ phải phục tùng hắn, ông ta đành chắp tay đáp: “Nghe rõ rồi ạ”

“Vậy thì tốt, mọi người lui về chuẩn bị để nhanh chóng xuất phát”

3 người lúc này mới cáo từ ra về.

Đợi 3 người đi khỏi, Đỗ Văn Hạo cũng về nhà, mang theo quà, hộ vệ đến Dương phủ bái kiến.

Cao Thao Thao ban cho hắn phủ chỗ ngay gần Dương phủ, phía bên kia là phủ tể tướng Vương Quế, Đỗ Văn Hạo đến cửa phủ đệ của mình trước, ngắm nhìn một chút, quả là rất hoành tráng, đúng là một trong 3 phủ đệ lớn nhất, và cũng là lớn nhất trong 3 phủ. Dù gì ban đầu cũng là định xây cho vương gia ở. Bên trong kiến trúc chính đã xong, chỉ còn trang trí và nội thất nữa là xong.

Đỗ Văn Hạo chưa kịp nhìn kĩ, thúc ngựa đến cửa Dương phủ.

Phủ đệ này tuy nhỏ hơn của hắn, nhưng vẫn là ngôi nhà lớn danh tiếng trong kinh thành.

Đỗ Văn Hạo đưa giấy xin bái kiến, rất nhanh, cửa phủ mở rộng, một ông lão tóc bạc phơ, đi cùng có hai người hầu đỡ đón ở cửa. Giới thiệu qua loa, Đỗ Văn Hạo mới biết đó là con trai trưởng của Dương Diêm Thiệu Dương Truyền Vĩnh.

Trước đó, để tránh gây chuyện cười vì những hư cấu qua điện ảnh sách bảo, Đỗ Văn Hạo đã tìm hiểu tình hình thực tế nhà họ Dương, được biết trong tiểu thuyết thì Dương Diêm Thiệu là con trai thứ 6 trong 7 người con trai của Dương Kế Nghiệp, trên thực tế lại là con cả. Sau khi Dương Kế Nghiệp chết trận đã được Hoàng Thượng truy phong Thái Úy, chức Thái Úy thời Tống là đứng đầu trong 60 bậc quan võ! Dương Truyền Vĩnh này là anh ruột của Dương Văn Quảng, là con trai cả trong nhà, kế tục huân vị của ông nội Dương Kế Nghiệp.

Đỗ Văn Hạo thân đứng đầu Tam Nha, đích thân đến phủ bái kiến, nên Dương Truyền Vĩnh ra đón.

Dương Truyền Vĩnh đưa Đỗ Văn Hạo vào chính đường, ngồi theo địa vị chủ khách, sau vài câu xã gi­ao thông thường, Đỗ Văn Hạo nói: “Dương Thái Úy có lẽ đã nghe qua, Thái Hoàng Thái Hậu hạ chỉ tôi nhậm chức chiêu thảo sứ Tây chinh Tây Hạ, nhưng tôi cầm binh chưa lâu, thực sự có phần lo lắng. Lo phụ hoàng ân, tôi tự nhỏ đã được nghe về những tấm gương của Dương gia, trong lòng cảm thấy vô cùng ngưỡng mộ, nay mạo muội đến đây, xin Thái Úy chỉ giáo cho về đạo cầm quân, để tỏ thành ý, xin Thái Úy nhận của tôi một lễ”

Dương Truyền Vĩnh run run đứng dậy đáp lễ: “Không dám, đại tướng quân quá khen rồi”. Sau khi ngồi xuống, vuốt vuốt bộ râu trắng muốt trầm ngâm một lúc rồi nói: “Không dám giấu ngài, lão tuy người nhà họ Dương, thừa kế huân vị, nhưng từ nhỏ từ thích thơ từ ca phú, không biết chút gì về binh nghiệp, đều là do vợ chồng Văn Quảng cả. Tuy đại tướng quân đã không ngịa ngần hỏi, tiếc là tam đệ sớm đã qua đời, nhưng em dâu thì vẫn còn sống, để lão sia người mời bà ấy tới đây. Bà ấy theo Văn Quảng chinh chiến nhiều năm, hiểu rất rõ về binh nghiệp.”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Như vậy thì còn gì bằng!”

Dương Truyền Vĩnh dặn dò quản gia, không lâu sau trở lại cùng với một phụ nữ trung niên, đầu tóc búi gọn, ăn mặc tao nhã, gương mặt thanh thoát, mắt sáng ngời. Người phụ nữ đó tiền đến gần hành lễ: “Thiếp Mộ Dung Quế Anh, xin bái kiến đại tướng quân!”

Đỗ Văn Hạo kinh ngạc vui mừng thốt lên: “Mục Quế Anh? Phu nhân là Mục Quế Anh?”

Mục Quế Anh đáp: “Vâng, Mục Quế Anh là tên tự Hán, cho phu quân đặt cho thiếp, thiếp là người dân tộc Tiên Bi, họ kép Mộ Dung”

Mục Quế Anh trong Dương gia tướng là vợ của Dương Tông Bảo, nhưng trong lịch sử lại không có nhân vật này, chỉ là hư cấu, những chuyện liên quan đến Dương Tông Bảo kì thực là nói về Dương Văn Quảng và phu nhân của ông, sử cũ có ghi: “Dương Văn Quảng lấy Mộ Dung thị, thiện chiến”

Đỗ Văn Hạo mừng rỡ nói: “Quải soái Mục Quế Anh, thì ra phu nhân vẫn còn sống? Ôi, thất lễ, tôi vui quá nên nói sai, xin phu nhân thứ tội. Tại hạ nghe danh phu nhân đã lâu, nghe nói phu nhân rất thiện chiến, năm đó khi đang đánh trận đã bắt được phu quân phải không?”

Mục Quế Anh mỉm cười nói: “Tướng quân quả là biết nhiều mà nhớ lâu, đến cả chuyện đó cũng biết”

Mục Quế Anh là vọng tộc Tiên Bi, từ nhỏ đã luyện binh đao, được dnah sư chỉ dạy. Năm đó Dương Văn Quảng Tây chinh Tây Hạ, bộ lạc mà gia tộc Mục Quế Anh sinh sống lúc đó bị lệ thuộc Tây Hạ, cũng hiệp đồng chống lại quân Tống, lúc lâm trận gặp Dương Văn Quảng đã nảy sinh tình cảm, Mục Quế Anh bắt sống được Dương Văn Quảng, đã thổ lộ tại sơn trại, Mục Quế Anh đã dẫn bộ lạc quy thuận Dương Văn Quảng, về sau cùng với Dương Văn Quảng chinh chiến nhiều nơi, cho đến khi phu quân trọng bệnh qua đời.

Đỗ Văn Hạo nghe được chuyện này từ sách bình Dương gia, không ngờ có chuyện này thật, vội vàng chắp tay nói: “Có thể được phu nhân chỉ giáo là niềm vinh hạnh của tại hạ”

“Đại tướng quân khách khí rồi, tướng quân lãnh binh lấy ít thắng nhiều, đánh bại quân Thổ Phạn, vốn đã là người giỏi cầm quân rồi, nếu không làm gì có chiến công hiển hách như vậy. Thiếp còn phải học tập tướng quân nhiều”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu đáp: “Không giấu gì phu nhân, trận đó tại hạ dùng mưu hạ độc, để quân địch tiêu chảy mới giành được phần thắng đó”

Mục Quế Anh cười tán thưởng: “Biết mình biết ta, tránh được mũi nhọn, kế hạ độc, đây mới là bản lĩnh. Nếu quyết chiến tới cùng thì chắc gì đã có người kính phục”

“Nghe phu nhân nói vậy, tại hạ cũng có phần kính phục chính bản thân mình”

Nói rồi hai người ngồi xuống, Đỗ Văn Hạo hỏi về những chiến tích chinh phạt Tây Hạ năm xưa, đặc biệt là đặc điểm tác chiến của quân Tây Hạ.

Nói loanh quanh một hồi mới trở về mục địch chính Đỗ Văn Hạo đến bái kiến hôm nay: “Thái Hoàng Thái Hậu rất không bằng lòng với hiện trạng của quân ta hiện nay, hạ lệnh cho tại hạ chỉnh đốn, nhưng tại hạ chưa cầm quân lâu, không hiểu biết nhiều về quân đội. Quân Tống ta ồn tại quá nhiều vấn đề thâm căn cố đế, nhưng không biết ngọn nguồng thế nào. Vì vậy mới đến đây xin thỉnh giáo. Theo ý kiến phu nhân, quân ta hiện nay đang có những vấn đề gì? Nên giải quyết thế nào?”

Mục Quế Anh lại không khách khí nữa, suy nghĩ rồi mới nói: “Vấn đề của quân ta, thiếp và phu quân từng chính chiến nhiều năm, cũng có biết đến, nay tướng quân đã hỏi thì thiếp xin nêu ra một số chuyện sau”

Đỗ Văn Hạo vui mừng nói: “Hạo mỗ xin rửa tai cung kính lắng nghe”

Mục Quế Anh thao thao bất tuyệt về kinh nghiệm của mình với phu quân về quân Tống trong chiến tranh, tất cả đều nói cho Đỗ Văn Hạo hết.

Thật đúng là nghe quân tử nói bằng mười năm đọc sách, Đỗ Văn Hạo sau khi nghe Mục Quế Anh nói xong đã thống suốt hơn rất nhiều. Mục Quế Anh không chỉ nói về những thiếu sót bên ngoài của quân tình, mà còn phân tích kĩ càng nguyên nhân nội tại, và nêu ra cả biện pháp chỉnh đốn.

Đến trưa, Dương gia bày tiệc khoản đãi, Đỗ Văn Hạo vẫn muốn xin chỉ giáo thêm một số vấn đề nữa, vào bàn tiệc rồi vẫn tiếp tục bàn luận với Mục Quế Anh.

Đỗ Văn Hạo kính rượu Mục Quế Anh: “Dương u nhân, Hạo mỗ vẫn còn có chuyện nghĩ chưa ra, phu nhân liệu có thể lại khoác bào quải soái xuất chinh Tây Hạ không?”

Mục Quế Anh mặc nhiên lắc đầu: “Đa tại đại tướng quân tin tưởng, trước kia khi phu quân còn sống, thiếp theo phu quân chinh chiến là đủ rồi, bây giờ chỉ muốn sống một cuộc sống bình thường, xin tướng quân hiểu cho”

Đỗ Văn Hạo nghĩ cũng thấy đúng, lại nói: “Thương pháo Dương gia lợi hại vô cùng, không biết phu nhân có biết không? Có điều, phu nhân có thể bắt sống Dương gia tướng, công phu chắc hơn hẳn mọi người, đâu cần phải học thương pháp Dương gia”

“Dương gia thương pháp quả là có chỗ hơn người, phu quân đã truyền dạy hết thương pháp cho thiếp rồi”

“Vậy sao? Đáng tiếc, nếu tại hạ muốn học thưng pháp thì tốt rồi, tại hạ tuy thiếp thất võ công rất mạnh, nhưng binh đao công phu không ổn lắm. Tại hạ đang muốn tìm sư phụ về mảng này đây, còn sư phụ binh pháp nữa, tiện thì dạy binh pháp luôn, không biết Dương phu nhân có biết ai để tiến cử cho tại hạ không?”

Hắn rất hi vọng Mục Quế Anh nhận lời chỉ giáo binh pháp và công phu binh đao cho mình.

Mục Quế Anh mỉm cười đáp: “Đâu cần phải tìm đâu xa, trong nhà tướng quân có đó”

“Ai vậy?”

“Là thiếp yêu mà đại tướng quân vừa đón về, thiên kim của Vương tể tướng, mĩ nhân đệ nhất kinh thành Vương Nhuận Tuyết!”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Phu nhân nói đùa gì vậy, Nhuận Tuyết là khuê nữ, nếu nàng ấy viết thư pháp đẹp hay vẽ tranh thi tại hạ còn tin. Nhưng nói nàng ấy có công phu binh đao thì không tin nổi, chỉ sợ còn chưa từng học qua võ công”

Đỗ Văn Hạo nói chắc như đinh đóng cột, là vì hắn thấy nàng liễu yếu đào tơ như vậy thì múa thương sao được?

Mục Quế Anh cười nói: “Tướng quân nếu không tin thì về hỏi sẽ biết”

Đỗ Văn Hạo thấy Mục Quế Anh không giống như đang nói đùa, bán tín bán nghi hỏi: “Nếu thực sự biết công phu thì sao?”

“Có lẽ tướng quân không biết, hai nhà chúng tôi có mối thâm gi­ao lâu năm, lúc còn nhỏ cô ấy thường đến phủ chúng tôi chơi, thấy trẻ con trong phủ múa thương luyện võ cũng đòi học theo. Ban đầu chỉ dạy cô ấy mấy chiêu để rèn luyện thân thể, ai ngờ cô ấy có tư chất, cái gì cũng chỉ nói đến lần thứ hai là đã lĩnh hội được rồi. Có lẽ cô ấy giống thiếp hồi nhỏ, khiến thiếp nhớ đến tuổi thơ của mình, vì vậy hai người rất hợp nhau, tuy chưa bái sư, nhưng thiếp đã truyền lại cho cô ấy toàn bộ bản lĩnh của thiếp, cô ấy đã học hết, chỉ cần chịu khó luyện tập thôi”

Đỗ Văn Hạo vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nhìn Mục Quế Anh, thầm nghĩ Mục Quế Anh trông cũng mảnh mai yếu ớt, đâu có giống con nhà võ, ai mà biết đây là anh hùng danh tiếng lừng lẫy? Đúng là không thể phán xét theo vẻ bề ngoài, thì ra nhị phu nhân tương lai của mình lại là một nữ tướng, hơn nữa còn là học trò của Mục Quế Anh, chuyến đi này quả không vô ích!

“Dương gia thương cũng truyền cho người ngoài sao?”

“Đương nhiên, thương pháp là để đánh giặc, phu quân trước kia cũng đã truyền dạy cho rất nhiều người, chỉ cần họ muốn học thì sẽ truyền thụ hết, không giấu giếm chút gì”

‘Thì ra là vậy! Vậy binh pháp của Nhuận Tuyết thế nào?”

“Binh pháp thì khỏi nói, cô ấy tư chất thông minh, toàn bộ binh thư trong Dương phủ cô ấy đã thuộc lòng, thậm chí còn ghi nhớ cả những câu chuyện nhà binh mà chúng tôi hay bàn luận với nhau. Chỉ là cô ấy chưa từng chính thức ra trận, suy cho cùng cũng chỉ là lí thuyết, muốn biết thì chỉ có thực tế mới chứng minh được”

“Tốt quá rồi! Sau này đi Tây chinh tôi nhất định sẽ mang theo cô ấy, để cô ấy trở thành một nữ anh hùng giống như phu nhân!”

“Tất nhiên!”

Sau khi tình cờ biết được chuyện này, Đỗ Văn Hạo mừng như mở cờ trong lòng, rời khỏi Dương phủ, hắn mượn rượu đến phủ tể tướng thăm phu nhân tương lai! Đến cửa lại dừng lại, chưa lên kiệu hao thì tân nương không được thấy mặt phu quân, hơn nữa giờ có nhiều chuyện gấp hơn phải giải quyết, Mục Quế Anh nói rất đúng, đợi lấy về rồi hỏi cũng được.

Hắn đến Duệ Tư cung của Hoàng Thượng, hỏi nội thị thì biết Hoàng Thượng đang ở Tư Thiện Đường.

Tư Thiện Đường là nơi Hoàng Thượng học tập, xem ra tiểu Hoàng đế rất chuyên cần, thậm chí còn không nghỉ trưa.

Đỗ Văn Hạo vui vẻ đến Tư Thiện Đường, vừa đến cửa thì một nội thị phụ trách hầu hạ đã lớn tiếng nói: “Ay da! Đỗ đại tướng quân đến! Có phải ngài đến thăm Hoàng Thượng lên lớp phảiạ? Hoàng Thượng đang ở bên trong đó ạ!”

Đỗ Văn Hạo trợn mắt nói: “Ngươi gào cái gì? Lỗ tai ta sắp bị người làm cho điếc rồi đấy!” nói rồi xông thẳng vào, qua Thiên Tỉnh, đến phòng lớn hướng chính Bắc.

Cửa lớn đang đóng, Đỗ Văn Hạo giật cửa ra, thấy 4 đứa trẻ trong phòng mỗi đứa một quyển sách, tập trung xem, thầy dạy Triệu đang ủ rũ ngồi đó, nhìn Đỗ Văn Hạo định nói lại thôi. Đỗ Văn Hạo tiến lại gần Tống Triết Tông hỏi: “Hoàng Thường, người đang xem sách gì vậy?”

“Luận Tướng!”

“”Hình như người cầm ngược sách rồi ạ!”

“Vậy sao? Hì hì” Tống Triết Tông nhìn Đỗ Văn Hạo cười trừ rồi quay sách lại, “Trẫm vừa xem xong <Trung Dung>, đang chuẩn bị xem <Luận ngữ> thì người đến, vì vậy cầm lộn…Ấy! Sao lại ngược thế này? Trẫm lúc nãy đâu có cầm ngược!” Tống Triết Tông lại lật lại xem.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Hoàng Thượng, lúc nãy người đâu có đọc sách, đến sách cầm ngược hay không cũng không biết, thần chỉ muốn thử người thôi”

“Đỗ tiên sinh! Người dám trào lộng trẫm?”

Đỗ Văn Hạo không để ý đến nó, đến gần thầy Triệu lúc này đang gà gật: “Hừ, lúc nãy ngươi không cầm ngược sách, nhưng mấy con dế dưới gầm bàn đang bò lên đó”

“Hả” Thầy Triệu vứt vội quyển sách cúi xuống xem, nhưng đâu có gì

Đỗ Văn Hạo cười lớn nói: “Sau bữa trưa được nghỉ 1 giờ, đó là quy định, bây giờ chưa đến giờ học chiều, mầy người cứ chơi đi, ta cần thành tích học thật, chứ không phải trò giả tạo này, rõ chưa?”

Công công thở phào, vứt quyển sách trên tay xuống: “Đều là chủ ý của tiểu hoàng thượng!”

Tống Triết Tông xấu hổ nói: “Là trẫm sợ tiên sinh thấy trẫm chơi, nên bảo bọ họ đến”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#anhgau151