thuande6(6,16)truyentin

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 6: Vai trò, chức năng của tầng trình diễn:

Mục đích của tầng Trình diễn (Presentation layer) là đảm bảo cho các hệ thống cuối có thể truyền thông có kết quả ngay cả khi chúng sử dụng các biểu diễn dữ liệu khác nhau. Để đạt được điều đó nó cung cấp một biểu diễn chung để dùng trong truyền thông và cho phép chuyển đổi từ biểu diễn cục bộ sang biểu diễn chung đó.

Có 3 dạng cú pháp thông tin được trao đổi giữa các thực thể ứng dụng, đó là: cú pháp dùng bởi thực thể ứng dụng nguồn, cú pháp dùng bởi thực thể ứng dụng đích và cú pháp được dùng giữa các thực thể tầng Trình diễn. Loại cú pháp sau cùng được gọi là cú pháp truyền (transfer syntax). Có thể cả 3 hoặc một cặp nào đó trong các cú pháp trên là giống nhau. Tầng Trình diễn đảm nhiệm việc chuyển đổi biểu diễn của thông tin giữa cú pháp truyền và mỗi một cú pháp kia khi có yêu cầu.

Lưu ý rằng không tồn tại một cú pháp truyền xác định trước duy nhất cho mọi hoạt động trao đổi dữ liệu. Cú pháp truyền được sử dụng trên một liên kết cụ thể của tầng Trình diễn phải được thương lượng giữa các thực thể trình diễn tương ứng. Mỗi bên lựa chọn một cú pháp truyền sao cho có thể sẵn sàng được chuyển đổi sang cú pháp người sử dụng và ngược lại. Ngoài ra, cú pháp truyền được chọn phải phản ánh các yêu cầu dịch vụ khác, chẳng hạn như cầu nén dữ liệu. Việc thương lượng cú pháp truyền được tiến hành trong giai đoạn thiết lập một liên kết và cú pháp truyền sử dụng có thể được thay đổi trong vòng đời của liên kết đó. Trình diễn chỉ liên quan đến cú pháp truyền vì thế trong giao thức sẽ không quan tâm đến các cú pháp sử dụng bởi các thực thể ứng dụng. Tuy nhiên, mỗi thực thể trình diễn phải chịu trách nhiệm chuyển đổi giữa cú pháp của người sử dụng và cú pháp truyền.

 Trước khi đi vào các chuẩn ISO về dịch vụ và giao thức của tầng Trình diễn, chúng ta cần xem xét kỹ hơn các khái niệm liên quan đến bối cảnh của tầng Trình diễn được chỉ ra trong hình 2-26.

Khi qua ranh giới giữa hai tầng Trình diễn và Phiên có một sự thay đổi quan trọng trong cách nhìn dữ liệu (view of data). Đối với tầng Phiên trở xuống, tham số User Data trong các service primitives được đặc tả dưới dạng giá trị nhị phân (một chuỗi các bit). Giá trị này có thể được đưa vào trực tiếp trong các SDU (service Data Unit) để chuyển giữa các tầng (trong một hệ thống) và trong các SPU (Product Data Unit) để chuyển giữa các tầng đồng mức ở hai hệ thống kết nối với nhau. Tuy nhiên, tầng ứng dụng (Appliacation Layer) lại liên quan chặt chẽ với cách nhìn dữ liệu của người sử dụng. Nói chung, cách nhìn đó là một tập thông tin có cấu trúc nào đó, như là văn bản (text) trong một tài liệu, một tệp về nhân sự, một cơ sở dữ liệu tích hợp hoặc một hiển thị của thông tin videotext. Người sử dụng chỉ quan tâm đến ngữ nghĩa (semantics) của dữ liệu. Do đó, tầng Trình diễn ở giữa có nhiệm vụ phải cung cấp phương thức biểu diễn dữ liệu và chuyển đổi thành các giá trị nhị phân dùng cho các tầng dưới – nghĩa là tất cả những gì liên quan đến cú pháp (syntax) của dữ liệu.

Tuy nhiên, trong thực tế không thể tách bạch hoàn toàn giữa cú pháp và ngữ nghĩa của dữ liệu. Nếu tầng ứng dụng không biết gì về cú pháp còn tầng Trình diễn không biết gì về ngữ nghĩa thì không thể nào hoàn tất được việc kết hợp ngữ nghĩa với cú pháp dùng để tạo ra một biểu diễn cụ thể các giá trị dữ liệu cho dịch vụ Phiên.

Cách tiếp cận của ISO về việc kết hợp giữa ngữ nghĩa và cú pháp dữ liệu là như sau. Ở tầng ứng dụng, thông tin được biểu diễn dưới dạng một cú pháp trừu tượng (abstract syntax) liên quan đến các kiểu dữ liệu (data type) và giá trị dữ liệu (data values). Cú pháp trừu tượng này đặc tả một cách hình thức dữ liệu, độc lập với mọi biểu diễn cụ thể.

Do vậy, một cú pháp trừu tượng có nhiều điểm giống với các khía cạnh định nghĩa kiểu dữ liệu trong các ngôn ngữ lập trình qui ước như Pascal, C, ….. và các ngữ pháp như là BNF (Backus-Naur Form). Các giao thức tầng ứng dụng mô tả các PDU của chúng bằng một cú pháp trừu tượng. Tầng Trình diễn tương tác với tầng ứng dụng cũng dựa trên cú pháp trừu tượng này. Tầng Trình diễn có nhiệm vụ dịch thuật giữa cú pháp trừu tượng của tầng ứng dụng và một cú pháp truyền (transfer syntax) mô tả các giá trị dữ liệu dưới dạng nhị phân – thích hợp cho việc tương tác với dịch vụ Phiên. Việc dịch thuật này được thực hiện nhờ các qui tắc mã hóa (encoding rules) chỉ rõ biểu diễn của mỗi giá trị dữ liệu thuộc một kiểu dữ liệu nào đó.

Trước khi sử dụng một liên kết tầng Trình diễn để trao đổi dữ liệu thì hai thực thể trình diễn (Presentation Entity) ở hai đầu phải thỏa thuận về cú pháp truyền. Sau khi cú pháp truyền đã được chọn thì tổ hợp cú pháp trừu tượng và cú pháp truyền được xem là bối cảnh trình diễn (presentation context) được dùng để trao đổi dữ liệu.

Yêu cầu cơ bản để lựa chọn một cú pháp truyền là nó phải yểm trợ cú pháp trừu tượng tương ứng. Ngoài ra, cú pháp truyền có thể có các thuộc tính khác không liên quan gì đến cú pháp trừu tượng mà nó yểm trợ. Ví dụ, một cú pháp trừu tượng có thể được yểm trợ bởi bất kỳ một trong bốn cú pháp truyền về cơ bản giống nhau, chỉ khác nhau ở chỗ: một cung cấp khả năng nén dữ liệu, một cung cấp khả năng mật mã, một cung cấp cả hai và một không cung cấp khả năng nào

-         CÂU 16: Nêu các lược đồ truyền sóng hồng ngoại:

-         Gồm 2 pp là điều chế trực tiếp và điều chế sóng mang

-         +) Điều chế trực tiếp: k jong nhu sóng radio phải hđộng trong một băng tần nào đó , sóng hồng ngoại bj ràng buộc một cách tự nhiên vào một căn phòng , do đó có thể điều chế tín hiệu hồng ngoại gốc một cách trực tiếp, một nhị phân 1 cho phép bộ phát mở và nhị phân 0 lại đóng bộ phát. Loại điều chế này đc goi là on-off keying (OOK) và đc dùng khá rộng dãi trong các hệ thống truyền dẫn sợi quang. Đây là loại điều chế đơn jan nhất và việc thi công mạch điện tử tương đối dễ.

-         +) Điều chế sóng mang: để dạt đc tốc độ bit cao hơn, chúng ta fai dùng các kỹ thuật điều chế sóng mang tương tự như trong các hệ thống radio, các pp điều chế như FSK, PSK. Vì vs các lược đồ như vậy số liệu nhị phân đc truyền dùng một tín hiệu sóng mang đc điều chế theo tần số  hay pha nen tại máy thu có thể chuyển tín hiệu nhõ ra từ bộ thu hồng ngoại qua một bộ lọc điện tử tăng cường trc khi dai điều chế. Các bộ lọc như vậy chí cho qua các băng tần giới hạn chứa số liệu gốc xung quanh sóng mang. Hiệu quả của việc lọc này còn ở chỗ lọc bỏ các tín hiệu nhiễu còn lại nhờ đó cải thiện hiệu suất qua một hệ thống điêù chế trực tiếp. có thể đạt tốc độ từ 2Mbps-4Mbps một cách dễ dàng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro