Phần 4: Vân Đỉnh thiên cung 云顶天宫 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 41: Vòng tử vong lặp vô hạn

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Ai nấy đều tái xanh mặt mày, chúng tôi nhìn xung quanh, càng nhìn lại càng chắc chắn. Trên mặt đất chỗ nào cũng có dấu chân của chúng tôi, đây chính xác là gian mộ thất chúng tôi đã phát hiện ra thi thể cha Thuận Tử vừa rồi. Quái lại, sao chúng  tôi lại quay về chỗ cũ cơ chứ?

Mộ đạo là một đường thẳng tắp, khi đi chúng tôi đi cũng không gặp ngã rẽ nào, có bốn người với một cái xác làm chứng. Theo lý mà nói, tuyệt đối không thể đi mất hai mươi phút lại quay về nơi xuất phát được. Chuyện này đúng là ngoài sức tưởng tượng, cứ như có quỷ dựng tường vậy.

Bàn Tử chột dạ ngó nghiêng cửa mộ đạo dẫn vào đây, nói: “Chẳng lẽ trong khi đi, chúng ta đã vô thức quay về đường cũ? Con mẹ nó, chỗ này rõ tà môn.”

Phan Tử nói: “Vớ vẩn. Nếu quay về đường cũ thì không thể không nhận ra, chúng ta có bốn người cơ mà. Tôi dám chắc chúng ta chỉ đi một đường thẳng tắp, mộ đạo này không dài cũng không có lối rẽ, chẳng lý gì lại nhầm.”

Bàn Tử tiếp: “Mẹ kiếp, vậy đúng là quỷ dựng tường rồi. Thuận Tử, có phải cha anh đang đùa giỡn chúng tôi không? Anh nên dạy bảo lại ổng, chúng ta đang làm ăn nghiêm túc, hổng đùa đâu.”

Thuận Tử giận giữ mắng lại: “Tôi cảnh cáo anh, đừng có nói bậy.”

Tôi can bọn họ, lúc này thật sự không hợp để gây gổ. Toàn thân tôi vã mồ hôi như tắm, bởi tôi cảm thấy chuyện không nên xảy ra nhất có thể đã xảy ra, nhưng lòng tôi vẫn không dám hoàn toàn khẳng định, bèn nói: “Các anh đừng ầm ĩ. Muốn xem có phải chúng ta quay về đường cũ hay không chỉ còn một cách, chúng ta đi lại một lần nữa xem sao.”

Mấy người bọn họ đưa mắt nhìn nhau, thấy nét mặt của tôi, bọn họ đại để cũng nhận ra có gì không ổn.

Lúc ấy tôi chợt nghĩ tới vẻ tuyệt vọng đến cùng cực của mấy cái thây khô kia, lẽ nào bọn họ cũng bị vây hãm ở trong này bằng cùng một kiểu mà chết? Đã không còn lương thực mà đi mãi đi mãi vẫn quay về chỗ cũ, chuyện này quả thực vượt quá sức tưởng tượng. Trực giác của tôi mách bảo rằng tôi đã đoán đúng, hơn nữa chuyện bọn họ bị vây hãm đến chết giờ lại xảy ra với chính chúng tôi.

Điều tôi nhất định phải làm lúc này là kiểm chứng dự cảm của mình, nói cho đúng là tôi muốn phủ định cái dự cảm khủng khiếp này, vậy nên tôi hấp tấp quay trở ra mộ đạo, những người khác phải vội vã đuổi theo cho kịp.

Vì đã đi qua một lần, biết chắc không có cơ quan bẫy rập gì cả nên lần này chúng tôi đi rất nhanh. Tôi bước như bay về phía trước, mắt săm soi thật kĩ hai bên mộ đạo. Cho đến khi chắc chắn không có lối rẽ nào, tôi mới bất giác quay đầu nhìn lại.

Lần này chỉ cần chưa đến mười phút, chúng tôi đã đi hết đoạn đường. Khi đi gần tới cuối mộ đạo, tôi đã không ngừng cầu nguyện, hi vọng dự cảm của mình đừng biến thành sự thực. Nhưng cuối cùng tôi vẫn cứ nhìn thấy cánh cửa ngọc thạch giống y xì lúc nãy, lòng chợt tê tái, mồ hôi cứ thế túa ra.

Đi qua cánh cửa, Bàn Tử xông ngay vào giữa đống châu báu, rồi quỳ xuống ôm mặt. Tôi lao vào xem xét cũng thấy sáu khối thi thể, những món đồ mình bày la liệt ra đất vẫn còn nguyên đó ……….. Chúng tôi đã quay về chỗ cũ.

Dự cảm của tôi đã ứng nghiệm. Tôi đã hết sức chú tâm để chắc chắn 100% rằng không có lối rẽ nào cả, chúng tôi chỉ đi trên một đường thẳng, nhưng vẫn trở về điểm xuất phát.

Bàn Tử chạy một lúc cũng mệt, thở phì phò nói: “Đây là quỷ dựng tường, chắc chắn là quỷ dựng tường rồi, chúng ta có đi thế nào vẫn kẹt trong một vòng luẩn quẩn. Hai đầu mộ đạo này đều là mộ thất, giờ chúng ta cũng sắp đi gặp ông già của Thuận Tử rồi. Thuận Tử, anh trò chuyện với ông già nhà anh chút đi, bảo ổng đừng đùa với chúng ta nữa, bằng không chúng ta quẳng ổng lại đây mà đi một mình.”

Thuận Tử đã quá mức kinh ngạc, không rảnh mà cãi nhau với hắn. Lòng tôi cũng đang hoảng loạn, không ngừng xoay người nhìn vách tường bốn xung quanh nhưng không biết mình đang nhìn cái gì nữa.

“Bình tĩnh! Bình tĩnh nào!” Phan Tử vừa hét lớn, vừa thở phì phò. “Tuyệt đối không được hoảng loạn, cậu Ba, chẳng phải cậu đã nói chiêu trò của Uông Tàng Hải cùng lắm chỉ gây ra áp lực tâm lí sao? Chúng ta không cần biết có bị trúng kế hay không, giờ nhất định phải bình tĩnh, chắc chắn có chỗ nào đó không ổn.”

Phan Tử vừa nói, tôi đột nhiên như được xối một ca nước lạnh vào cái đầu đang bốc lửa, người lập tức tỉnh táo. Cảm giác tuyệt vọng kia cũng nhạt dần, tôi vội gật lấy gật để: “Anh nói đúng, đây chắc chắn là cơ quan, hồi chúng tôi ở dưới hải mộ đã xác nhận không có chuyện quỷ dựng tường gì hết. Uông Tàng Hải là bậc thầy về chế tạo cơ quan xảo diệu, tạo ra không khí quỷ dị. Nếu không hiểu rõ, rất dễ bị hắn xỏ mũi dắt đi.” Nói rồi ra sức véo mặt mình để xua đi cái cảm giác nghẹt thở này.

Những lời này thực ra là tôi tự nói cho bản thân mình nghe, nói xong cũng chẳng còn nhớ mình đã nói gì.

Sau này nghĩ lại chuyện cũ, tôi có cảm giác lúc ấy mình đã thấm thía thế nào là mọi việc vượt quá tầm kiểm soát của mình, nên mới muốn dùng những lời này để ám thị mình không được bỏ cuộc.

Bởi vì lúc đi vào mộ đạo kia, cảm giác của tôi hết sức rõ ràng, căn bản không thể tưởng tượng nổi Uông Tàng Hải đã dùng cơ quan như thế nào để tạo nên hiện tượng này. Đầu tiên tôi đã nghĩ ngay đến chuyện mộ thất hoặc mộ đạo đã dịch chuyển, nhưng điều đó là không thể, tôi lập tức phủ định. Chúng tôi đi đã nhanh, lắm rồi, nếu mộ thất có di động thì nó còn phải nhanh đến chừng nào? Mộ đạo lại càng không thể, chúng tôi đứng trong đó, chỉ cần nó hơi hơi chấn động là chúng tôi chắc chắn sẽ nhận ra. Nhưng nếu không phải mộ đạo hay mộ thất dịch chuyển thì chuyện này không sao giải thích cho nổi.

Tuy tôi không ngừng tự nhủ chắc chắn có cơ quan, nhưng thật ra trong lòng đã biết không phải như thế, nếu nó là cơ quan thì không thể giải thích nổi. Nhưng nói vậy vẫn có ích cho những người khác, ít ra cũng có thể đẩy lùi cơn hoang mang.

Nhưng tôi đã quá coi thường khả năng chấp nhận của đám Bàn Tử, Phan Tử xem ra còn trấn định hơn tôi nhiều. Anh lau mồ hôi, nhìn tôi hỏi: “Mặc kệ là quỷ dựng tường hay là cơ quan, đều phải giải quyết. Bây giờ phải làm gì? Có muốn đi thêm lần nữa không?”

Tôi cắn răng nói: “Đi! Con mẹ nó, lần này chúng ta đi chậm thôi, cảm nhận cho kĩ  động tĩnh phía dưới chân hoặc bốn phía xung quanh, tôi không tin không có sơ hở.”

Vậy là chúng tôi lại đi vào mộ đạo, lần này đi bốn mươi phút. Còn chưa đến đích chúng tôi đã biết mình sẽ thất bại, bởi vì cửa mộ giống nhau như đúc, dọc đường đi chẳng cảm nhận được gì.

Sau đó chúng tôi không biết đã đi thêm bao nhiêu lần, kết quả đều thất bại. Tôi đã dần dần cảm nhận được nỗi tuyệt vọng của mấy thi thể này, sắc mặt ai nấy cũng ngày càng xấu.

Tôi cảm thấy tự giày vò bản thân thế này cũng không phải cách hay. Khi quay trở lại mộ thất, tôi bảo mọi người dừng lại. Đã thử đi biết bao nhiêu lần rồi, cơ bản chúng tôi đã loại trừ mọi khả năng. Cơ quan này chắc chắn đã dùng một phương pháp bố trí mà chúng tôi không tài nào tưởng tượng nổi.

Bàn Tử mệt đến độ muốn hạ đường huyết, nhưng vẫn kiên trì muốn đi tiếp. Hắn cứ nghĩ rồi sẽ có một khắc nào đó, cái mộ đạo ban đầu lại quay trở về, lúc đó chúng tôi có thể thoát ra.

Phan Tử nghe hắn nói vậy, chỉ nói một câu: “Anh đừng mơ hão nữa, cái mộ đạo kia tuyệt đối không thể quay về.” Nói rồi nhìn sang mấy cái thây khô bên cạnh, ý tứ hết sức rõ ràng. Số lần mấy cái thây khô kia đi vào mộ đạo chắc chắn nhiều hơn chúng tôi gấp mấy, nhưng bọn họ vẫn bị vây khốn ở đây đến chết, cho nên cứ đi đi lại lại trong mộ đạo cũng vô ích, có đi đến hàng vạn lần cũng như nhau cả, chúng ta không cần xét đến chuyện may mắn hi hữu như thế.

Bàn Tử liền phát tiết, ngồi xuống nói: “Nhà anh nói thế chẳng hóa chúng ta chết chắc rồi? Mấy người này chắc chắn đã thử hết cách, chúng ta làm lại một lần cũng vô ích thôi.”

Phan Tử nói: “Anh đừng có nghĩ quẩn, giờ cứ nghĩ vậy thì thà đập đầu vào tường mà chết cho khỏe. Đợi đến lúc chúng ta đã thử hết mọi cách rồi hẵng tuyệt vọng, bây giờ vẫn còn hơi sức thì ngồi nghĩ cách đi.”

Tôi nghĩ đến số lương thực của mấy thi thể, bèn hỏi: “Có nên định lượng khẩu phần ăn từ bây giờ không? Chúng ta phải chuẩn bị một cuộc trường kì tác chiến, cầm cự được càng lâu thì cơ hội thoát ra cũng lớn hơn.”

Phan Tử thở dài, lắc đầu nói: “Cậu Ba, tôi cũng không giấu cậu. Hoàn cảnh của chúng ta thực ra còn không bằng bọn họ, lương thực không có nhiều, tôi xem giỏi lắm cũng chỉ đủ ăn hai bữa, đó là chưa kể còn không được no. Tôi thấy không cần chia khẩu phần làm gì, có thế nào thì ăn thế nấy, cố giữ tinh lực dồi dào, quá hai ngày mà còn không ra được thì sẽ dùng thuốc nổ. Nếu thuốc nổ cũng vô dụng thì đành chờ người ta đến nhặt xác thôi.”

Hai ngày. Lòng tôi run rẩy, mấy cái thây khô đã ở đây được bao lâu rồi, liệu chúng tôi có thể thoát ra trong vòng hai ngày không? Thật không dám chắc chút nào.

Bàn Tử đã sôi bụng, liền hỏi Phan Tử: “Đồng chí anh nuôi, chúng ta có thể ăn cơm trước kẻng không? Tôi trước hết phải phân tán sự chú ý sang chuyện khác rồi mới có sức mà nghĩ tiếp được.” *à vâng mình cố ý đó =))*

Nghi Bàn Tử nói vậy, chúng tôi cũng bắt đầu cảm thấy đói bụng. Phan Tử không còn cách nào đành phải châm lò nấu cơm. Lương thực của chúng tôi thực ra chỉ còn mì sợi, mới ăn xong còn tạm no nhưng không kéo dài được bao lâu. Bàn Tử cứ hậm hực vì cơm không có thịt, tôi nói có món hài cốt đông lạnh kia, anh cứ dùng tự nhiên. Thuận Tử không ngại đâu, chúng tôi cũng không thèm để ý.

Ăn xong rồi người ấm hẳn ra, tinh thần cũng trở nên tỉnh táo, mọi người lại bắt đầu cân nhắc. Tôi nhớ lại cả quá trình xuống địa cung, mạo hiểm vạn phần, có ai mà ngờ vào được địa cung rồi vẫn không được yên thân. Cái địa cung này chắc chắn Uông Tàng Hải phải thiết kế với dụng ý nào đấy, nhưng rốt cuộc nó là cái con khỉ gì mới được chớ?

Địa cung xưa nay đều có hình chữ ‘hồi’ (回). Linh điện ở chính giữa, là nơi phải tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt nhất, Uông Tàng Hải tất nhiên không dám động chân động tay vào. Còn đâu thì bốn bề địa cung hình chữ ‘hồi’ vây quanh bởi hố tuẫn táng, hệ thống thoát nước cộng thêm những hành lang, mộ đạo rắc rối phức tạp. Vậy hẳn là giờ này chúng tôi vẫn còn ở ngoài rìa trung tâm của địa cung

Tôi thử phán đoán vị trí của mình theo chiều thẳng đứng lẫn chiều ngang, dựa vào suy đoán của tôi về kích thước địa cung mà tính xem mình đang ở đâu. Nhưng chuyện này hết sức khó khăn, khi chui vào bài đạo chúng tôi đã loạn đầu, giờ thì chịu chết không xác định nổi phương hướng, có quỷ mới biết cái cửa hang cuối cùng chúng tôi đi ra nó ở hướng nào.

Đúng lúc đầu óc đang xoay mòng mòng, Bàn Tử đang làm bộ suy nghĩ đột nhiên tỏ ra bừng tỉnh, nói với chúng tôi: “Tôi nghĩ ra rồi!”

Chương 42: Càng thêm khốn cùng

Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Bàn Tử đột ngột kêu đã nghĩ ra làm chúng tôi sợ hết cả hồn, nhưng rồi cũng nhanh chóng chuẩn bị tinh thần để nghe Bàn Tử lảm nhảm. Chúng tôi đã quen thói ba hoa khoác lác của gã Bàn Tử này rồi, thay vì mỗi lần đều gạt đi, chi bằng cứ mặc kệ hắn lảm nhảm cho rồi! Hơn nữa nhiều khi cách nghĩ của hắn không giống với chúng tôi, nghe mấy câu cũng không hại gì.

Thật ra lúc ấy tôi cũng chẳng sợ lắm, vì còn chưa đến lúc hết đạn cạn lương, mỗi tội nhìn mấy khối thi thể ở đây, trong lòng khó tránh khỏi nghĩ đến những chuyện chẳng hay ho gì. Kể ra hạng người như tôi gặp hình thức khiêu chiến trí tuệ thế này còn mừng thầm trong bụng ấy chứ, so với gặp phải một đống bánh tông thì chuyện này còn thoải mái hơn nhiều.

Phan Tử cũng nghĩ như tôi, không coi đây là chuyện lớn, thuận miệng hỏi Bàn Tử: “Cái gì thế? Anh đừng có lảm nhảm nữa, giờ tụi này không còn hơi sức mà nghe đâu.”

Bàn Tử lại gần chúng tôi, nói với Phan Tử: “Mẹ kiếp, anh kỳ thị tôi quá đấy! Ông chỉ trót nói bậy một lần thôi, lần này chuyện tôi nghĩ ra nhất định là mấu chốt!”

Phan Tử bật cười ha hả, nói: “Bộ óc quả nho của anh thì nghĩ ra cái khỉ gì chứ.”

Bàn Tử lần này lại cực kỳ chăm chú, nghiêm mặt nói: “Thực ra cũng không phải mấu chốt gì, vừa rồi tôi thông minh đột xuất, chợt nhớ đến cơ quan trong ngôi mộ dưới đáy biển. Nghĩ mà xem, lúc ấy chúng ta cũng phức tạp hóa vấn đề, nhưng thực chất sự tình đơn giản biết bao nhiêu? Tôi nghĩ lúc này đây có phải chúng ta đã suy nghĩ quá nhiều, hơn nữa lại thêm ấn tượng sâu sắc với cơ quan trong huyệt mộ dưới đáy biển, vừa gặp những chuyện kiểu này đã nghĩ ngay theo hướng gian phòng dịch chuyển. Có lẽ vấn đề ở đây căn bản không liên quan tới mộ thất, chỗ này chỉ là một mộ thất bình thường thôi.”

Phan Tử cười khẩy: “Nhảm nhí. Nếu là mộ thất bình thường, sao bố lại éo thoát ra được …”

Tôi thấy Bàn Tử chưa nói hết, biết còn vế sau, liền khoát tay ngăn Phan Tử lại, ra hiệu hãy để Bàn Tử nói tiếp.

Bàn Tử trình bày: “Thật ra chuyện hết sức đơn giản, thử nghĩ mà xem, nếu hành lang và mộ thất đều không có vấn đề mà chúng ta đi hoài vẫn không ra được, vậy vấn đề ở đâu? Nhất định là nằm ở chính chúng ta rồi.”

Lần này tôi và Phan Tử đều sửng sốt. Tôi bảo: “Anh nói cái vòng tử vong này xuất hiện là do chính chúng ta?”

Bàn Tử gật đầu: “Tuy còn chưa rõ vấn đề cụ thể nằm ở đâu, nhưng cũng không sai lệch lắm. Tôi nghĩ liệu có phải chúng ta đã bị những tấm bích họa kia thôi miên ám thị rồi không? Hay đơn giản là chỗ này có cái gì sinh ra khí gây ảo giác, chúng ta đã trúng độc cả rồi. Tôi biết có một loài nấm lỡ ăn phải sẽ bị rối loạn khả năng định vị, cứ tự quay vòng một chỗ mà không biết.”

Trước kia Bàn Tử đã kể với tôi, hồi nhỏ hắn từng gặp thứ bẫy bắt gấu dùng loại nấm độc này trong rừng, trúng độc rồi con gấu cứ xoay vòng vòng tại chỗ cho đến chết.

Tôi thoáng trầm tư, Phan Tử cũng không nói năng gì, nhíu mày bắt đầu cân nhắc lời của Bàn Tử.

Vấn đề nằm ở bản thân chúng tôi sao? Nếu là vậy thì chuyện này càng khó giải quyết hơn. Có điều tôi cân nhắc một lúc thì có cảm giác không đúng lắm.

Thực ra cách giải thích của Bàn Tử rất gợi mở, có lẽ sự thật rất gần với những gì hắn nói, nhưng lại có một điểm mâu thuẫn trí mạng, chính là cảm giác của chúng tôi. Chúng tôi trông đâu có giống người trúng độc? Tôi nào phải chưa từng trúng độc, người trúng độc nhất định phải có phản ứng khó chịu mãnh liệt cơ.

Mà thôi miên thì tôi vẫn không tin tưởng cho lắm. Vì tính định hướng đối tượng của nó quá mạnh, nếu nói Bàn Tử dễ bị thôi miên thì có khi tôi còn tin đấy, nhưng tôi với Phan Tử thì không bao giờ.

Nhưng nếu quay về với phạm trù cơ quan xảo thuật thì thực khó mà nghĩ ra cái gì. Thật ra vừa nãy tôi đã nghĩ ra khoảng mười phương pháp, trong đó có hai ba loại kết cấu kiến trúc hoàn toàn có thể tạo ra bố cục như vậy, song mấy phương pháp này yêu cầu quá cao, nói cách khác là nhất định phải có tiền đề tuyệt đối, ví dụ như ba người phải tụm lại một chỗ, tốc độ phải cố định, vân vân… Uông Tàng Hải tuyệt đối sẽ không sắp xếp những cái bẫy mang tính ăn may như thế.

Tôi bỗng dưng chột dạ, phải chăng mình đã bị át vía quá mức rồi? Cứ nghĩ Uông Tàng Hải đã là người từ thời nảo thời nao rồi, thế quái nào mà đến tận bây giờ chúng tôi vẫn không chiếm nổi một chút lợi thế cơ chứ?

Chúng tôi nhanh chóng bắt đầu suy xét vấn đề, ai nấy đều yên lặng tập trung. Bàn Tử thấy chúng tôi nghe mình trình bày xong xuôi vẫn chẳng ừ hữ gì, nhất thời không biết phải làm sao, đành tiếp tục ra vẻ trầm tư suy nghĩ như mọi người. Tính nát óc mà không ra, tôi càng nghĩ càng quẫn, càng ngày càng mệt mỏi, sau đó không hiểu sao lại ngủ mất tiêu.

Có điều đại khái cũng chỉ chợp mắt ba bốn phát gì đấy, đầu óc mơ mơ màng màng thôi chứ không thiếp hẳn đi. Chợt nghe tiếng Phan Tử và Bàn Tử nói chuyện, vừa tỉnh giấc tôi liền phát hiện bọn họ lại đang đi vào mộ đạo kia. Thuận Tử rõ ràng là vừa chạy về đến nơi, phì phò thở dốc, mà nhìn sắc mặt Bàn Tử thì rõ ràng kết quả vẫn vậy, chẳng có tiến triển gì.

Tôi dụi dụi mắt, hỏi bọn họ đang làm gì vậy, Bàn Tử nói có nghĩ cả buổi cũng chẳng ra manh mối, chi bằng cứ thử nghiệm còn hơn. Vừa rồi bọn họ cho một người nhắm mắt lại đi đằng trước, một người khác theo dõi từ phía sau, hai người buộc lại với nhau bằng dây thừng, để xem có chuyện đi được nửa đường thì người mở mắt bỗng dưng ngoặt lại không.

Tôi nghe xong cũng phải run rẩy, đây đúng là phương pháp thí nghiệm khiến người ta suy sụp. Cũng may mà mấy người này thần kinh tưng tửng, chứ nếu là tôi thì có quỷ mới biết đi được nửa đường rồi cái kẻ buộc vào đầu dây bên kia có còn là người ban đầu hay không.

Nhưng rốt cuộc kết quả vẫn vậy, dù là che mắt hay nhắm tịt mắt đều có cảm giác mình vẫn đi thẳng một đường, nhưng cả hai rốt cuộc vẫn quay trở lại mộ thất này. Vì người phải nhắm mắt là Thuận Tử nên hắn ta đi lại đặc biệt vất vả, sắc mặt trắng bệch ra.

Mấy người lại ngồi vào chỗ cũ, cùng thở ngắn than dài. Tôi khuyên họ nên tiết kiệm sức lực, thực ra kiểu thử nghiệm mù quáng như vậy chỉ tổ khiến cho tư duy đứt quãng mà thôi. Chuyện kế tiếp lại giồng như trước khi tôi ngủ, chúng tôi bắt đầu bàn luận mấy vấn đề không đâu vào đâu.

Trong lúc bàn bạc luôn có người ngủ gật, nhưng cũng may là một người ngủ thì vài người khác vẫn có thể nghĩ tiếp. Cứ thế, chúng tôi mỗi người góp một ý, lần lượt nói ra rồi lại bác bỏ. Lúc đầu lý luận còn nhiều, về sau những người lên tiếng càng ngày càng ít. Thời gian đã trôi qua sáu bảy tiếng đồng hồ từ lúc nào chẳng hay, dạ dày chúng tôi lại bắt đầu kêu réo.

Sau cùng Bàn Tử đốt một điếu thuốc, ngẫm nghĩ rồi nói với chúng tôi: “Không được, bọn mình mạnh ai nấy nghĩ thế này thật lãng phí thời gian. Chi bằng chúng ta viết hết mọi khả năng có thể ra, sau đó tổng hợp thành vài giả thiết rồi trực tiếp kiểm chứng, được không?”

Tôi bèn gật gù. Nói cho cùng thì rất nhiều vấn đề chúng tôi bàn bạc là trùng lặp, mọi người đều rơi vào trạng thái hỗn loạn rồi.

Bàn Tử dọn dẹp bề mặt một tảng đá trên mặt đất phủ kín kim khí, rồi viết xuống một dãy số: 1-2-3-4, nói: “Hãy thử nhớ lại xem chúng ta đã có mấy giả thiết rồi? Mọi người đều nghĩ, không cần phải cụ thể, chỉ cần khái quát là được rồi.”

Phan Tử nói trước: “Khả năng cao nhất là có cơ quan.”

Bàn Tử viết vào chỗ số 1 chữ “cơ quan”. Sau đó Thuận Tử lại lên tiếng: “Theo tôi thì có thứ gì đó ảnh hưởng đến cảm giác của chúng ta, ví dụ như ám thị tâm lý hoặc thôi miên, khiến chúng ta tự quay về chỗ cũ mà không biết.”

Bàn Tử bảo hắn ta: “Không cần phải nói chi tiết như thế.” rồi viết chữ “ảo giác” đằng sau số 2, sau đó nhìn về phía tôi.

Tôi góp ý: “Trên lý thuyết thì cũng có thể là nếp gấp không gian.” (*)

(*) Nguyên văn: 空间折叠. Là một lý thuyết trong thiên văn học dựa trên thuyết tương đối rộng của Einstein, nói đơn giản là lực hút quá mạnh sẽ làm không gian trở nên méo mó, hai điểm vốn cách xa nhau được kéo lại trùng khít lên nhau. Lý thuyết này cho rằng những lỗ đen rải rác trong vũ trụ, nơi lực hút lớn đến nỗi ánh sáng cũng không thể thoát ra được chính là những cánh cửa không gian như thế.

“Không có chuyện đó đâu, giả thiết này quá siêu thực rồi.” Phan Tử kêu lên.

Bàn Tử lại nói: “Kệ đi, xác suất có là một phần vạn thì chúng ta cũng thừa nhận. Giờ ta mới chỉ liệt kê ra thôi mà.” Nói đoạn cũng viết lên đằng sau số 3 chữ “nếp gấp không gian”. Sau đó hắn tiếp: “Còn một khả năng nữa là có quỷ.” rồi viết ra khả năng thứ tư: có quỷ.

“Anh viết ra như thế để làm gì cơ chứ?” Phan Tử mù mờ hỏi.

Bàn Tử đáp: “Các anh học nhiều, không hiểu được đâu. Bố đây ít học, mẹ kiếp mọi thứ cứ phải giấy trắng mực đen viết ra mới được. Nhưng làm thế cũng có cái tốt, ví như có những chuyện có thể làm cùng một lúc, nếu anh biết trước thì có thể tiết kiệm được ối thời gian rồi, chẳng phải chúng ta chỉ còn hai ngày thôi sao? Tốt nhất vẫn nên giản lược đi. Phải rồi, còn giả thiết thứ năm nữa không? Ai có giả thiết thứ năm?”

Tôi nhìn bốn luận điểm kia, trong đó quả thật đã bao quát từ cơ học lượng tử đến lý thuyết siêu hình, từ tâm lý học đến kiến trúc học, bốn ngành học lớn đều góp mặt hết, luận điểm thứ năm thực sự không thể nghĩ ra trong một chốc một lát được. Cuộc thảo luận ban nãy của chúng tôi thực chất cũng chỉ quanh đi quẩn lại điểm một và hai, chứ còn điểm ba và bốn coi như không thể xảy ra.

Bàn Tử thấy chúng tôi đều không có phản ứng gì, bèn nói: “Được, giờ chúng ta kiểm chứng điểm một và điểm hai trước. Hai điểm này vừa hay có thể giải quyết cùng một lúc.”

“Anh định kiểm chứng bằng cách nào?” Tôi vẫn còn nghi hoặc.

Trên thực tế thí nghiệm gì có thể tiến hành chúng tôi đều đã thử cả rồi, nhưng vì mộ đạo quá dài, rất nhiều thí nghiệm thật ra đều vô dụng.

Bàn Tử bất chợt cười cười: “Thật ra ban nãy tôi đã nghĩ được một cách hay, muốn chứng minh rốt cuộc chúng ta bị ảnh hưởng bởi điểm 1 hay điểm 2 có lẽ là không thể, nhưng muốn chứng minh bằng phản biện thì hoàn toàn khả thi, cậu xem có được không này.”

Tôi nhìn Bàn Tử dương dương đắc ý cứ như mọi chuyện đã nằm trong lòng bàn tay, lập tức cảm thấy không ổn, hay là cha nội này đã có tính toán gì rồi? Chỉ thấy hắn nhặt khẩu súng trường trên mặt đất lên rồi bảo chúng tôi: “Cái mộ đạo này dài khoảng 1000m đến 2000m, tầm sát thương của khẩu K56 này là 400m nhưng viên đạn có thể bay hơn 3000m lận. Tôi sẽ đứng đây bắn một phát, để xem kết quả thế nào.”

Tôi nghe xong như mặt trời chân lý chói qua tim, thâm tâm kêu trời một tiếng: Đúng là thiên tài!

Nếu cảm giác của chúng tôi có vấn đề, thì viên đạn kia là thứ vô tri vô giác. Mộ đạo có thể gây ảnh hưởng lên chúng tôi, nhưng không thể ảnh hưởng đến một viên đạn được. Nếu như tình hình ở đây còn có thể dùng lý lẽ thông thường để giải thích thì viên đạn kia chắc chắn sẽ biến mất nơi cuối mộ đạo, không thể quay về.

Chỗ hoàn hảo của thí nghiệm này nằm ở tốc độ của viên đạn: Với mộ đạo dài chừng này, viên đạn chỉ mất 2 đến 3 giây là có thể hoàn toàn đi hết, bất kì cơ quan cạm bẫy nào cũng không thể phát huy tác dụng trong thời gian ngắn ngủi này được.

Nhưng nếu tình hình ở đây thật sự vượt ra ngoài phạm vi giải thích của lý lẽ thông thường, tiến vào phạm vi siêu hình, thì viên đạn sẽ giống hệt chúng tôi, chuyển hướng 180 độ ngay trong không gian siêu việt của mộ đạo thẳng tắp.

Đơn giản mà hoàn mỹ, cực kỳ phù hợp với tinh thần khoa học, tôi thật sự hổ thẹn vì mình là sinh viên mà không nghĩ ra nổi biện pháp nào như vậy.

Có điều nghĩ kĩ thì một chiêu thế này cũng chỉ có người như hắn là nghĩ ra nổi, đây là tư duy logic đơn giản nhất.

Muốn phán đoán xem có bị ảnh hưởng của ảo giác hay không, thì phải tìm một vật không bị ảo giác ảnh hưởng, muốn tìm vật như thế phải nhìn đến những thứ ngay bên cạnh mình, theo phương pháp bắc cầu sẽ nghĩ ra cách này ngay, không hề phức tạp. Tôi đột nhiên cảm thấy Uông Tàng Hải đã gặp phải đối thủ rồi. Loại người tính toán kĩ lưỡng như ông ta có lẽ chỉ sợ gặp phải lối tư duy đơn giản như của Bàn Tử, cho dù là quỷ kế gì cũng bị đưa về mức đơn giản nhất.

Bàn Tử nói làm liền làm ngay, chúng tôi chỉ còn biết theo sau. Hắn bước vào mộ đạo, kéo chốt an toàn, muốn nổ súng bắn vào mộ đạo.

Tôi vội vàng kêu to: “Đợi đã!”

“Sao vậy?” Hắn hỏi.

“Đừng làm thế.” Tôi kêu lên, “Nếu mà, tôi nói nếu thôi nhé, chỗ này thật sự tà đạo đến mức đó, thì sau khi nổ súng có thể chính bản thân anh sẽ trúng đạn trong tích tắc.”

Bàn Tử biến sắc, hiển nhiên vừa rồi hắn vẫn đinh ninh điểm thứ nhất và thứ hai mới có khả năng lớn, căn bản không hề cân nhắc xem điểm thứ ba thứ tư có thể xảy ra không. Có điều nghe tôi nói xong hắn cũng gật đầu, dịch súng sang bên cạnh một chút. Đạn luôn bay theo đường parabol, nếu viên đạn bị bắn ngược trở về thì có lẽ sẽ găm vào vị trí hơi chênh chếch phía dưới họng súng.

Cả đám chúng tôi đều nấp ở lối vào, còn chưa kịp chuẩn bị tâm lý kỹ càng thì Bàn Tử đã đột ngột nổ súng. Một tiếng nổ ‘đoàng’ dữ dội vang lên trong mộ đạo, tiếp đó tiếng vọng liên tiếp dội lại, nhưng gần như cùng lúc, chúng tôi thấy cửa mộ chấn động mạnh, tro bụi bay mù mịt.

Đầu tôi nổ đánh đùng một cái, thầm nhủ không xong rồi. Vội vàng thò đầu ra ngó, tôi thấy Bàn Tử đứng im như tượng, vẫn giữ tư thế nổ súng, nhưng trên cánh cửa, cách khoảng 5, 6cm về phía dưới họng súng của hắn xuất hiện một vết đạn, vệt khói khi đạn găm vào còn chưa tan hết.

Chương 43: Đổ đấu và vật lý lượng tử

Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Một lần nữa chúng tôi lại trở về mộ thất chứa báu vật, không khí đã khác hẳn so với hồi nãy. Mọi người đều không nói năng gì, sắc mặt cũng không rõ là tái trắng hay tái xanh nữa. Chiếc lò không khói chiếu lên đống kim khí, ánh sáng vàng rực rỡ hắt ra giờ đây lại khiến người ta cảm thấy cực kỳ đáng ghét.

Không ai đưa ra ý kiến nữa. Mọi người đều tỏ vẻ trầm tư, nhưng tôi biết bọn họ cũng giống tôi thôi, đầu óc chỉ còn một khoảng trống rỗng.

Mọi chuyện đã vượt quá tầm kiểm soát của chúng tôi, thậm chí tôi còn cho rằng giả thuyết có cơ quan hiện giờ cũng chẳng đứng vững nổi. Chúng tôi đã rơi vào một trạng thái không thể diễn tả bằng lời, bất kì lý lẽ khoa học nào trải qua thực nghiệm đơn giản này đều đổ vỡ hoàn toàn.

Bởi vì không một ai đủ sức khiến cho một viên đạn, chỉ trong vài giây ngắn ngủi, ngoặt được một vòng lớn khủng khiếp như thế.

Muốn dùng khoa học để giải thích hiện tượng này, e rằng có vét cả lý thuyết vật lý lượng tử ra cũng chưa chắc đã cắt nghĩa nổi.

“Đây đúng là quỷ dựng tường thật rồi!” Sắc mặt Thuận Tử khó coi hết biết. Hắn nhìn sang dòng chữ người cha để lại phía bên kia, lộ ra vẻ mặt bi thương đan xen với sợ hãi.

Tôi biết giờ này hắn đang nghĩ tới điều gì. Hắn đã hiểu vì sao đám thây khô nằm giữa đống châu báu kia lại mang vẻ mặt tuyệt vọng đến thế. Lâm vào hoàn cảnh này, đã thử đi thử lại vô số lần nhưng cuối cùng vẫn quay về khởi điểm cho đến khi hết đạn cạn lương, hỏi sao không tuyệt vọng cho được. E rằng đến tận lúc chết, tâm tư đã hóa tro tàn, bọn họ vẫn chẳng tìm ra lấy một manh mối.

Mà chúng tôi rất có thể sẽ trở thành lớp tiếp theo. Chẳng bao lâu nữa nơi đây sẽ mọc thêm ra bốn cái thây khô quắt, gương mặt cũng khắc sâu nỗi tuyệt vọng tột cùng, để những kẻ hi sinh đến sau tha hồ suy đoán tâm tư trước khi chết của chúng tôi.

Sở dĩ trước đây tôi không tuyệt vọng, cũng chẳng thể ngờ mình sẽ đi đến bước đường này, là vì tôi cứ đinh ninh chỉ cần gặp phải mấy thứ xoắn não như cơ quan cạm bẫy, thì bằng vào trí tuệ của tôi, nhất định sẽ không thể bị vây khốn. Nhưng bây giờ mọi chuyện đã khác rồi. Rõ ràng tình huống chúng tôi gặp phải quỷ dị hơn nhiều lắm.

“Có muốn tiếp tục không?” Yên tĩnh được khoảng 10 phút thì Phan Tử hỏi bằng giọng khô khốc.

Không ai đáp lại, nhưng ánh mắt của mọi người đều đổ dồn về phía Bàn Tử.

Trên mặt đất phía trước Bàn Tử còn sót lại hai giả thiết. Giả thiết thứ ba là ý kiến do tôi thuận miệng bịa ra: nếp gấp không gian.

Sở dĩ vừa rồi tôi đột ngột đưa ra luận điểm này là vì bỗng dưng nhớ lại lúc bò trong khe núi lửa kia, Muộn Du Bình đã biến mất ngay trước mắt tôi trong vòng vài giây đồng hồ. Lúc ấy tôi nghĩ nát óc không ra, giờ ngẫm lại thì hẳn phải liên quan đến nếp gấp không gian thật. Do cái thí nghiệm ban nãy quá mức đáng sợ, quả thực là một thí nghiệm phản khoa học, bỗng dưng giả thiết nếp gấp không gian huyền diệu của tôi lại trở thành cách giải thích hợp lý nhất.

Nếu không nhờ Bàn Tử liệt kê ra những giả thiết đó, thì chỉ e sau khi chứng kiến cái thực nghiệm kia, tôi nhất định sẽ khiếp hãi đến quên sạch mọi thứ.

Im lặng hồi lâu, Bàn Tử mới nói: “Được rồi, ai cũng đã được thấy tận mắt, đừng nhiều lời thêm nữa. Chúng ta phải làm gì để chứng minh điểm thứ ba đây.”

“Không! Không cần chứng minh đâu.” Phan Tử ở đằng kia đột nhiên lên tiếng.

Phan Tử thường nhìn nhận vấn đề cực kỳ thấu đáo, luôn luôn xoáy thẳng vào bản chất sự việc, ví dụ như vừa rồi khi Bàn Tử vẫn còn vọng tưởng mộ đạo sẽ xuất hiện thì Phan Tử đã lập tức phủ nhận hoàn toàn. Điều này liên quan tới việc Phan Tử là người trở về từ chiến trường, khi cân nhắc một vấn đề anh sẽ không mang chút tâm lý trông chờ vận may nào hết. Vậy nên khi nghe anh nói tôi cũng hết sức sợ hãi, chỉ e nhiều sự thật anh nói ra lại không nên được nhắc đến vào lúc này.

Nhưng anh lại bảo: “Ở đây có sáu khối thi thể. Chúng ta đặt giả thiết có cả thảy tám người đi vào, vậy hai người còn lại đương nhiên đã thoát ra. Tuy vẫn chưa biết họ ra bằng cách nào, nhưng nếu giả thiết thứ ba của cậu Ba là đúng thì không ai có thể thoát ra nổi, cho nên chúng ta không cần cân nhắc làm gì nữa. Cân nhắc giả thiết thứ ba có khác nào thừa nhận mình đã chết chắc rồi.”

Lời vừa nói ra, ai nấy đều lạnh toát cả người. Bàn Tử lên tiếng phản đối: “Sao anh dám chắc có tám người đi vào? Mẹ kiếp, nói không chừng lúc vào cũng chỉ có sáu người thôi.”

Phan Tử thở dài một hơi: “Bàn Tử chết toi, anh còn chưa hiểu à? Thật ra họ vào mấy người không quan trọng.”

Chuyện này không cách nào chứng minh được, làm ầm lên cũng vô ích, tôi thầm nhủ: “Bọn họ rốt cuộc đi vào mấy người cũng chẳng ảnh hưởng gì tới tình cảnh của chúng tôi, nhưng đối với ý chí chiến đấu của mọi người lại đặc biệt quan trọng. Nếu đã có hai người đào thoát thành công thì tinh thần của chúng tôi sẽ hoàn toàn đổi khác. Chúng tôi còn có thể nghĩ xem họ đã thoát thân thế nào, ít ra vẫn còn một tia hy vọng.”

Nghĩ đoạn, tôi chẳng thèm quan tâm bọn họ làm cái trò khỉ biển gì nữa, chạy đến bên mấy thi thể lục sổ sách của bọn họ xem có manh mối gì không, may ra thì có người viết nhật ký. Nếu có người ghi lại những ý kiến của họ vào lúc ấy, hoặc viết về chuyện có người thoát ra thì chí ít chúng tôi vẫn còn một tia hy vọng.

Có điều ban nãy xem bút ký tôi chỉ lật qua loa chứ không đọc hết những đoạn văn dài, còn mấy đoạn ngăn ngắn lại chỉ ghi số liệu hoặc những mẩu thông tin vụn vặt chứ không có nội dung gì cả.

Tôi nghĩ vào thời điểm cận kề cái chết, có lẽ những người này cũng chẳng ghi chép gì đâu. Khi đứng trước ngưỡng cửa tử vong, chỉ e đến cả đèn chiếu sáng họ cũng chẳng còn nữa. Pin thì đã cạn từ lâu, cũng không có gì để sưởi ấm, cho nên họ mới phải cuộn chặt lấy nhau, rúc vào một xó trong bóng tối mịt mùng. Vậy nếu có tám người tiến vào thì hai người kia rốt cuộc đã thoát ra lúc nào? Chắc chắn không phải khi bọn họ còn tỉnh táo, vì nếu thế những người khác cũng phải thoát được rồi mới đúng. Vậy không lẽ là lúc bọn họ đã đói đến hoa mắt, lại không có đèn, bốn bề chìm vào tối tăm? Cho nên những người khác mới không biết đã có hai người rời đi sao?

Vậy điểm mấu chốt để chạy thoát, lẽ nào lại là mò mẫm trong bóng tối không một ánh đèn?

Vừa nghĩ đến đây tôi đã ớn lạnh sống lưng. Nơi đây dầu sao cũng là cổ mộ, nếu phải lần mò trong bóng đêm giữa mộ đạo dài hun hút này thì đúng là muốn lấy mạng người ta rồi còn gì.

Những người khác thấy tôi lục lọi tài liệu thì cùng quây lại giúp tôi tìm kiếm. Cứ đứng chôn chân ở đó mà nghĩ vớ nghĩ vẩn cũng chẳng giải quyết được gì, có đôi khi phải xem cái này cái kia để lấy lại tinh thần một chút.

Nghĩ đến chuyện cuối cùng ánh sáng sẽ lụi tàn, tôi bèn bảo bọn họ đừng lãng phí điện nữa. Đèn pin đều phải tắt, chỉ mở lò sưởi thôi cũng đủ sáng rồi. Chúng tôi quây lại trước bếp lò, ba quyển bút ký và một cuốn tiểu thuyết phân cho bốn người giở ra xem, cố lần tìm manh mối trong từng câu từng chữ.

Tôi lật một cuốn bút ký với những hàng chữ thanh thoát, người viết hẳn phải là phụ nữ. Giở thử vài trang thì thấy ghi toàn tên người và số điện thoại, phía sau còn có danh sách khách mời ăn cơm, có số điện thoại của khách sạn ở núi Trường Bạch, đôi chỗ vẽ mấy cái bản đồ đơn giản kèm thêm vài địa chỉ và ghi chú nữa. Tôi đọc thấy hồi năm 1994 hình như người phụ nữ này còn bị bệnh phải nằm viện, trong này có ghi là cần tái khám. (có phải sổ của dì Hoắc Linh không á >A< )

Giở thêm vài tờ thì chỉ thấy giấy trắng, nhưng tôi vẫn kiên nhẫn lật từng trang, hi vọng cô ấy có thể viết lại thêm chút gì, đang lật thì Bàn Tử mở miệng: “Có manh mối chỗ này này.” Nói rồi hắn đọc lầm rầm: “Hôm nay bán món đồ cuối cùng mang từ biển về, được 3000 đồng, 1500 trả lão Lý, dứt hết nợ nần, đi với cha này có ngày bể mánh.”

Tôi lắc đầu cười khổ, lại nhìn sang Phan Tử ngồi bên kia. Quyển bút ký của anh mỏng nhất, gần như chẳng có gì nên đã kiểm tra xong rồi. Nhìn đến Thuận Tử thì thấy hắn đang say sưa đọc tiểu thuyết, rõ ràng là đã nhảy cóc đến đoạn tình cảm mùi mẫn nhất của vai chính trước lúc đi xa.

Bàn Tử nhìn chướng mắt, bèn giật phắt lấy quyển sách, lên giọng chửi bới: “Bảo cậu tìm manh mối cậu lại đi xem văn hóa phẩm đổi trụy, lương tâm của cậu mục ruỗng quá rồi! Tịch thu!”

Vừa giật một cái, quyển truyện đã rã rời ra từng mành, giấy bay lả tả trên mặt đất.

Tôi rủa một tiếng, vừa sạc cho Bàn Tử một trận vừa bật đèn pin đi nhặt. Bất thình lình Phan Tử kêu lên: “A, có tấm ảnh kìa.” Nói đoạn anh bới từ mớ giấy lộn ra một bức ảnh đen trắng đã ố vàng.

Tôi cầm lấy ngắm nghía, đột nhiên cảm thấy nó trông rất quen, nhìn kĩ hơn một chút, đầu óc liền kêu lên ong óc, suýt chút nữa phát sặc — Thì ra nó chẳng xa lạ gì, mà chính là tấm ảnh nhóm chú Ba đã chụp chung ở bến tàu trước chuyến đi Tây Sa.

Chương 44: Những người đến từ đáy biển

Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Trên người tôi vẫn còn nội thương, nhìn thấy tấm ảnh xém chút nữa đã hộc máu, làm mấy người khác sợ hãi la hét ầm ĩ. Đám Phan Tử chưa từng thấy tấm ảnh này, tuy có nghe tôi kể lại nhưng nhìn lướt vẫn không nhận ra, nên đều cảm thấy khó hiểu. Bàn Tử vội vàng giúp tôi thuận huyết, hỏi tôi có sao không.

Tôi run lẩy bẩy cầm lấy tấm ảnh, chỉ hình Muộn Du Bình và chú Ba trên ảnh cho bọn họ xem. Xem xong nét mặt mấy người kia lập tức biến đổi, trông còn khó coi hơn cả tôi, chẳng ai thốt nên lời.

Tôi không thể nào tin đó là sự thật, ngoảnh đầu lại nhìn mấy cái thây khô phía bên kia mà lòng dạ rối như tơ vò.

Tấm ảnh này không thể nằm trên người kẻ vô can, lẽ nào nhóm người thần bí mười năm trước leo lên Trường Bạch Sơn rồi bị vây khốn đến chến ở trong này lại chính là đám người dưới đáy biển kia? Mấy cái thây khô này, không lẽ lại là đám người Văn Cẩm, Lý Tứ?

Tôi run rẩy lật tấm ảnh lại, thấy mặt sau còn có một dòng chữ nhạt nhòa: Đội khảo cổ Tây Sa, kỷ niệm của Lý Tứ. (đuýt tờ ôm mặt khóc rưng rức (/□\*)・゜ )

Xem ra đúng là vậy rồi, nếu nói tấm ảnh này do những người khác mang vào đây thì quả thực hết sức vô lý. Mang theo ảnh lưu niệm tùy thân, chắc chắn phải là người trong cuộc… Hèn chi chú Ba làm đủ mọi cách vẫn không tìm nổi bọn họ, hóa ra đã chết rũ ở đây từ lâu rồi.

Nhìn trang phục thì thấy hoàn toàn trùng khớp, lại thêm tấm ảnh này… Nhưng vì sao những người này lại muốn đến đây cơ chứ? Lẽ nào trong huyệt mộ dưới đáy biển họ đã phát hiện ra thứ gì đó nên mới tìm đến núi Trường Bạch?

Đợi đã, không phải chứ. Tôi đột nhiên nghĩ đến chú Ba, nghĩ đến Muộn Du Bình. Trời ạ, gần như tất cả những người từng vào ngôi mộ dưới đáy biển giờ đều có mặt tại Vân Đỉnh thiên cung. Đám người này đã tới từ mười năm trước, gần đây lại đến lượt chú Ba và Muộn Du Bình. Rốt cuộc vì sao bọn họ cứ phải khăng khăng đâm đầu vào chỗ này cơ chứ?

Những bí ẩn đã vùi vào quên lãng phút chốc sống dậy trong lòng, hằng hà sa số vấn đề cũng ào ào xộc thẳng vào đầu tôi.

Nhóm người Phan Tử không biết chuyện cũ của chú Ba nên lúc nhìn thấy tấm ảnh còn khiếp sợ hơn tôi nhiều, tôi đành phải kiên nhẫn giải thích một lần, mấy người kia nghe đến đâu là trợn mắt há mồm đến đấy. Bàn Tử nói: “Vô lý, mà khoan, để tôi nghĩ thêm đã… Hầu như tất cả những người đã từng đến ngôi mộ dưới đáy biển, kể cả A Ninh và chúng ta, đều đã tới nơi này rồi. Không lẽ huyệt mộ kia có một lời nguyền, chỉ cần đặt chân vào đó thì nhất định phải leo lên núi Trường Bạch … Không đúng, nói thế hình như không chuẩn?”

Bàn Tử đương nhiên chỉ nói nhảm nhưng cũng đủ làm tôi ớn lạnh, có điều gì đó trong lòng bắt đầu sáng tỏ. Xem ra ngôi mộ dưới đáy biển cũng không phải là mấu chốt, mà mấu chốt là ở đây cơ. Huyệt mộ dưới đáy biển chẳng qua chỉ là tấm ván bắc cầu mà thôi…

Tôi lục lọi bằng sạch tất cả những gì có thể lấy từ thi thể, nhưng vẫn chẳng kiếm ra thêm bất kì manh mối nào. Thậm chí những người này là ai, tôi cũng không hoàn toàn nắm rõ. Lòng tôi rối như canh hẹ, mụ mị xoay người chuyển hướng bước vào mộ đạo, đến đèn pin cũng chẳng buồn đem theo.

Bàn Tử vội vàng níu lại nên tôi mới tỉnh ra, hắn bảo cậu có cuống lên cũng chả ích gì, những người này chẳng phải đã bị giam đến chết ở đây sao. Cậu chết đi có thể hỏi oan hồn bọn họ xem đã xảy ra chuyện gì thật, nhưng có biết thì cũng quá muộn rồi.

Tôi thuận đà ngồi xuống thở hổn hển, dần dần bình tĩnh lại, trong đầu chỉ còn một ý niệm: “Mình nhất định phải thoát ra, nhất định phải tìm chú Ba để hỏi rõ ngọn ngành, bằng không có chết cũng không nhắm nổi mắt.”

Bàn Tử nói: “Nhưng đến giờ đã tìm được manh mối nào chứng minh trong số họ đã có người thành công thoát ra đâu. Không chừng chỗ này là một không gian khép kín, căn bản không thể thoát ra, cậu có nhắm tịt hai mắt cũng vô ích.”

Bàn Tử vừa thốt ra lời này, những người khác đồng loạt câm nín. Chúng tôi đang định tìm kiếm chút manh mối trên mấy khối thi thể này, thoáng cái lại phát hiện ra một bí mật lớn kinh người, thật sự là sóng trước còn chưa yên, sóng sau đã xô tới.

Mọi người đều theo đuổi những ý nghĩ riêng, bầu không khí trầm xuống đến cực điểm. Đầu óc tôi hỗn loạn, căn bản không dám nhìn lại bức ảnh, chỉ sợ trong đó sẽ xuất hiện quái vật hút tôi vào. Cổ họng cũng bắt đầu ngứa ngáy, hình như bị cảm lạnh rồi, tôi bắt đầu ho khan ra máu.

Phan Tử thấy vậy bèn bảo với cả bọn: “Hôm nay cứ nghỉ ngơi đi đã, dù sao một chốc một lát cũng không ra được, chi bằng cứ đánh một giấc thật đẫy cho đầu óc tỉnh táo đã. Cậu Ba đừng nghĩ ngợi nhiều quá, tôi biết cậu ôm rất nhiều khúc mắc trong lòng, nhưng muốn làm rõ cũng không phải chuyện một sớm một chiều đâu.”

Tôi khoát tay. Làm sao mà ngủ được chứ, chẳng thà ngồi đây nghĩ tiếp cho rồi. Nghĩ đến khi chịu hết nổi mới thiếp đi được, bằng không càng ngủ càng mệt thêm thôi.

Bàn Tử chẳng biết đã rít đến điếu thuốc thứ mấy rồi, vừa rít vừa làu bàu: “Giờ tôi lại nghĩ, nếu sớm biết thế này hồi nãy đã không đi theo cái ký hiệu kia. Giá nghe lời tôi có phải tốt hơn không, một nhóm bị nhốt rồi nhóm kia còn có đường nghĩ cách… (Bàn Tử từng đề nghị chia làm 2 nhóm) Cái ký hiệu đó, giờ ngẫm lại có khi là do mấy cỗ thi thể kia để lại cũng nên. Cậu xem, mọi chuyện đều trùng khớp. Có lẽ bọn họ cũng nghĩ như chúng ta, chia ra thành hai nhóm, hai người kia đi vào mộ đạo đối diện.”

Tôi lắc đầu bảo không đâu, một nhóm bị nhốt rồi, nhóm kia quay lại tìm chẳng phải cũng dính trấu như nhau sao, đến lúc đó mới gọi là thảm. Hơn nữa không chừng đi bên không có ký hiệu kia còn nguy hiểm hơn, vì đâu ai biết chờ chúng ta là cái quái gì.

Có điều đào sâu suy nghĩ lại thấy vô lý, vì nếu một nhóm bị nhốt thì khi nhóm kia quay lại mộ đạo đã biến đổi, bọn họ sẽ không tài nào tìm ra cái mộ thất này. Ký hiệu kia liệu có phải do người may mắn sống sót ghi lại, là ký hiệu “đội này đã mất tích”?

Nghĩ đi nghĩ lại, tôi đột nhiên run bắn toàn thân… Một tia điện xẹt qua óc tôi… Ký hiệu…

Tôi dồn sức ngồi bật dậy, nói với bọn họ: “Tôi bỗng nhớ ra một sơ hở rất quái dị. Về cái mộ đạo này, có một lập luận bác bỏ.”

“Cái gì cơ?”

Tôi nhíu mày nghĩ xem mình phải diễn đạt thế nào, “Tôi sợ các anh nghe không hiểu. Thí dụ nhé, nếu chúng ta đi ra ngoài trong bóng tối, bất kể là vì nguyên nhân gì, chúng ta đều phải qua một quá trình thay đổi phương hướng, cho dù quá trình này bản thân chúng ta không hề hay biết, có đúng không?”

Mấy người kia khẽ gật đầu, tôi nói tiếp: “Ví dụ như, tôi cầm một cây bút vừa đi vừa vẽ lên tường thì nhất định sẽ để lại một vạch thật dài trên tường lối ra. Vậy trong tích tắc tôi bị đổi hướng mà không biết, các anh đoán xem tôi sẽ phát hiện điều gì?”

Bàn Tử gần như nhảy dựng lên: “Cậu sẽ thấy trên vách tường mộ đạo phía trước đã có dấu vết cậu vạch ra từ trước rồi!”

“Không chỉ có vậy!” Tôi nói: “Điểm mấu chốt nhất là gì? Chính là sau khi tôi quay người, trái phải sẽ đổi chỗ cho nhau, tay cầm bút của tôi sẽ bắt đầu vạch lên vách tường bên kia.”

“Cái này!” Phan Tử cũng nhíu mày nói.

“Đây là suy luận logic.” Tôi giải thích: “Nói cách khác, nếu như dùng logic học để giải thích, đặt giả thiết ở chính giữa mộ đạo có một điểm ngoặt! Ở điểm ngoặt này chúng ta sẽ giống như bước vào một tấm gương, sau đó đi thẳng về hướng ngược lại với mình, các anh có công nhận không nào?”

Ai nấy đều gật đầu, theo logic thì nhất định phải như tôi nói.

Tôi nói: “Tốt, vậy các anh nghĩ thử coi, nếu trong lúc đi chúng ta thực sự đụng phải một ‘mặt phản xạ’ như lời tôi nói, vậy cái mặt phản xạ này phải dày cỡ nào?”

“Dày cỡ nào á?” Mấy người này còn chưa tiêu hóa xong những lời tôi vừa nói, ù ù cạc cạc.

“Đúng, nhất định phải có độ dày. Nếu không có độ dày thì lúc cơ thể anh xuyên qua một nửa trước, nửa người phía sau sẽ…”

Phan Tử lập tức hiểu ý của tôi, thoáng cái đã đầm đìa mồ hôi lạnh, vô thức tiếp lời: “Chồng lẫn lên nhau!”

“Chính xác! Bởi vì ở vị trí đó, nửa người trước của anh đã bị phản xạ trở về, nhưng nửa phía sau lại chưa đi qua ‘mặt gương’, cho nên nếu lập luận của tôi là chính xác, thì đúng vào lúc xuyên qua ‘gương’ phản xạ,  chúng ta ắt hẳn phải chết! Sẽ biến thành một nùi quái thai! Mặt anh sẽ đâm ra đằng gáy!”

“Nhưng chúng ta đã đi qua đi lại bao nhiêu bận mà có chết đâu?” Bàn Tử nghi hoặc hỏi.

“Đó chính là điều tôi muốn nói. Mặt gương này đảm bảo phải có độ dày lớn hơn cơ thể người. Quá trình phản xạ sẽ thế này, sau khi tiến vào vùng phản xạ, trước tiên chúng ta vào từ đầu bên này, đi một đoạn bên trong xong lại đi ra ở đầu kia, hoàn thành nếp gấp không gian.”

Mọi người lại gật đầu tỏ vẻ đồng tình, lối suy luận này quả là không một kẽ hở.

“Vấn đề là chúng ta không biết cái đoạn đó dài bao nhiêu. Giả như nó chỉ dài hai ba bước, tôi lấy một ví dụ thế này, nếu chúng ta đi vào một đoạn ‘gương không gian’, nhưng Bàn Tử lại không vào, mà đứng ở  chỗ bắt đầu có tấm gương không gian. Tấm gương không gian chỉ dài có vài ba bước, anh lại có thể quan sát cả hai phía trước sau, anh đoán xem sẽ có chuyện gì xảy ra nào?”

Phan Tử hiểu nhanh nhất, cổ họng gần như đông cứng: “Sẽ… thấy trước sau xuất hiện hai Bàn Tử giống hệt nhau.”

“Đúng, ở đây xuất hiện một lập luận bác bỏ: Bàn Tử đứng phía sau anh, khi nhìn vào khoảng không trước mặt anh, có thể thấy Bàn Tử  phía trước anh không? Hoặc là anh nắm lấy tay của một trong hai Bàn Tử đó, thì sẽ có chuyện gì xảy ra?”

Phan Tử vội vàng ra hiệu cho tôi ngừng lại: “Đừng… đừng nói nữa!”

“Làm vậy để chứng minh cái gì mới được chứ?” Bàn Tử bên cạnh cũng đã tái mặt.

“Chúng ta không cần tiếp tục thí nghiệm cũng có thể xác định, thứ gọi là ‘gương không gian’ này không thể tồn tại được! Hơn nữa cái mộ đạo phản xạ này đi thế nào cũng không thoát ra nổi, cơ sở logic của nó cũng không tồn tại, nói cách khác sự tồn tại của mộ đạo này là không hợp logic.” Tôi hạ giọng: “Uông Tàng Hải không phải thánh thần, ông ta không thể tự mình tạo ra định luật vật lý. Cơ quan ở chỗ này không liên quan gì đến Uông Tàng Hải hết, những người này cũng không phải vì vậy mà bị vây khốn đến chết. Tình huống chúng ta hiện đang gặp phải là một trường hợp đặc biệt, là một tình huống mới! Chúng ta đã bị những cái xác này đánh lạc hướng rồi, giờ đây khả năng lớn nhất tạo ra tình huống này, chỉ có một mà thôi…”

Tôi cẩn thận chỉ ngón tay vào giả thiết thứ tư mà Bàn Tử đã viết xuống, cử động môi, dùng khẩu hình nói: “Bên người chúng ta có quỷ!”

Chương 45: Tê chiếu

Editor: Yoo Chan + Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Hiện giờ ngẫm lại, lúc ấy một mực nghiêm túc thở ra mấy chữ này như vậy, lại còn dùng khẩu hình để nói, chỉ sợ con quỷ kia nghe thấy, chứng tỏ thần kinh của tôi đã bị đày đọa thành cái dạng gì không biết nữa rồi. Nếu là ngày thường hoặc nếu áp lực nhỏ hơn một chút, tôi căn bản sẽ không nảy ra cái suy nghĩ này.

Chuyện này kỳ thật cũng là lẽ đương nhiên. Mấy người chúng tôi bỏ ra ngần ấy thời gian, nếm trải biết bao nhiêu chuyện mới đến được bước này, thì lại rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng không thể tìm rõ nguyên nhân như thế. Chưa nói đến con đường phía trước dài dằng dặc, khoan bàn xem làm sao mới có thể trở về, riêng chuyện trước mắt cũng đủ khiến đầu óc chúng tôi bế tắc rồi, có vô số vấn đề nghĩ không nổi mà nhìn cũng không thấu.

Sau chuyện này tôi ngồi suy xét lại, kỳ thật còn có thể nghĩ ra vô vàn cách thoát thân, ví như cầm la bàn lên ngắm kĩ cây kim rồi đi vào mộ đạo, trong tích tắc chúng tôi đổi chiều, kim chỉ nam trên la bàn nhất định sẽ chuyển động, vân vân.. Khổ nỗi lúc ấy trong đầu tôi chỉ có mấy hướng suy nghĩ cứng nhắc, còn đâu hoàn toàn trống rỗng, đến nỗi còn đi tin vào giả thiết có quỷ dựng tường, hơn nữa lúc ấy hoàn toàn chẳng thấy nó hoang đường hay nực cười chút xíu nào, thậm chí còn cảm thấy hơi khiếp hãi.

Mấy tay Bàn Tử, Thuận Tử trông thế mà còn nhát hơn tôi, giờ đây đã hoàn toàn bị nét mặt của tôi ảnh hưởng, sắc đần dần trắng bợt ra. Nuốt một ngụm nước miếng, Bàn Tử cũng dùng khẩu hình nói: “Cậu có dám chắc không? Tôi đã nói từ lâu mà… Giờ biết phải làm sao?”

Trong lòng tôi lúc đó nghĩ thế này: cơ sở logic của cái mộ đạo này không đứng vững thật, như vậy nguyên nhân hình thành hiện tượng này tất nhiên không liên quan gì đến logic. Nhưng nếu không phải mình đang nằm mơ, thì mọi thứ đều không thể thoát khỏi sự trói buộc của logic; nói cách khác những gì chúng tôi đang nhìn đang nghe lúc này đây rất có thể đều là giả tạo. Nếu vậy cảnh tượng xung quanh chúng tôi trông như thế nào, thật khó mà nói được. Mà có thể làm cho bốn người sinh ra ảo giác cùng một lúc, tôi cho rằng chỉ có sức mạnh của “ác quỷ” mới làm được thôi. Chỉ “ác quỷ” mới có thể bất chấp logic, mới có thể vây khốn người ta đến mức này mà không hề để lộ sơ hở.

“Ác quỷ” ở đây thật ra chỉ là một kiểu ví von cho người ta dễ hình dung ra vấn đề, ám chi tất cả những năng lực chúng tôi không lý giải nổi. Loại năng lực này rõ ràng tồn tại như một lẽ đương nhiên.

Nhưng nếu thực sự có “quỷ”, chúng tôi lại thành ra bó tay chịu trói, vì chúng tôi căn bản không nhìn thấy nó, đương nhiên cũng vô phương đối phó. Cho dù chúng tôi có chửi rủa hay chọn bừa một phương pháp bất kì thì cũng chẳng có tác dụng gì với nó. Đây chính là tình huống mà tôi căm ghét thứ hai: biết rõ vấn đề phát sinh ở xung quanh mình mà lại không đối phó nổi, có cố gắng cũng vô ích.

Lúc đó suy nghĩ của tôi còn hết sức ngây thơ, hơn nữa cũng không biết thứ sức mạnh này thuộc loại gì. Nếu nó không có ý thức thì phiền to rồi, vì bản thân nó đã không có tư duy, chúng tôi có giở chiêu trò gì cũng vô dụng, chỉ còn cách lấy cứng đối cứng, bắt được nó mới xong. Còn nếu là oán quỷ thì lại dễ xử lý, nó biết suy nghĩ, chúng tôi có thể ép nó lộ mặt, ép nó phạm phải sai lầm.

Tôi và bọn họ liên tục suy tính. Bàn Tử nói chắc như đinh đóng cột rằng mình có cảm giác rất có thể con quỷ này chinhs là một trong mấy cái thây khô trước mặt chúng tôi. Nhiều khả năng trong số đó có linh hồn người nào còn lưu luyến chuyện phàm trần nên cứ mãi luẩn quẩn ở đây, thấy có người đến chơi thì tự nhiên muốn chòng ghẹo một phen, nhưng chẳng rõ là cái nào.

Bàn Tử trước hết loại trừ ông bố Thuận Tử ra. Cha già mười năm chưa thấy mặt con, tất nhiên không nỡ mang tính mạng thằng con ra làm trò mua vui đâu, chắc là năm cái xác còn lại thôi.

Lúc này tôi bắt đầu cảm thấy mình suy nghĩ hoang đường, nhưng chúng tôi đã đi đến bước đường cùng, giả thiết gì cũng phải thử nghiệm. Bèn đến trước mấy thi thể đó, bảo bọn họ quỳ cả xuống, rồi tôi dùng giấy vụn gấp thành mấy thỏi vàng, đưa cho từng người bọn họ bào đốt. Vừa đốt tôi vừa dập đầu khấn: “Con là cháu trai của chú Ngô Tam Tỉnh, đi tìm chú con có việc gấp. Các ngài có vị nào làm phép thì xin vui lòng nhận lấy chút lòng thành này rồi tha cho chúng con đi. Chúng  con đã gấp lắm rồi, nếu các ngài không chịu thì xin để gã béo này lại đây chơi với các ngài, còn mấy người khác xin hãy tha ra làm phước.”

Bàn Tử nghe xong cáu ầm lên, Phan Tử và Thuận Tử mỗi người phải giữ chặt một tay hắn không cho cục cựa. Bàn Tử chửi oang oang: “Ngô Tà, mày là đồ tiểu nhân đê tiện. Bố phải cắn chết mày!”

Tôi lầm rầm khấn vái xong thì nhìn quanh một lượt, bốn bề chẳng hề thay đổi, mấy cái xác vẫn trơ ra như cũ. Biết mình phí công vô ích, tôi bèn phất tay bảo bọn họ buông Bàn Tử ra. Bàn Tử căng thẳng đảo mắt nhìn bốn phía, cũng thấy chẳng có gì thay đổi, không khỏi cười mát mẻ: “Thấy chưa, quỷ đại thúc vẫn công bằng nhất, người ta gai mắt mấy đồng tiền bẩn thỉu của cậu rồi.”

Tôi nói: “Có khi người ta gai mắt anh ấy chứ, thiệt tình.”

Thuận Tử lúc này cũng lên tiếng: “Không đúng, chúng ta không nên nghĩ như vậy. Anh xem có cha tôi ở đây, cho dù có người muốn hại chúng ta, cha tôi cũng sẽ ngăn cản chứ. Chúng ta cầu mà không linh, lẽ nào kẻ tác quái không phải mấy người này?”

Nếu là ngày thường, những lời ngây thơ như thế hẳn đã khiến tôi bật cười. Nhưng giờ đây tôi lại nghiêm túc lắng nghe, còn cân nhắc xem lời hắn ta nói có lý hay không. Cân nhắc xong, tôi bảo: “Không chừng cha anh đã siêu thoát rồi, hoặc kẻ tác quái không chỉ có một, ông ấy đấu không lại. Có điều tôi cũng cảm thấy không phải mấy người ở đây, họ đều là người lớn cả rồi, hơn nữa còn là chỗ thân thiết với chú Ba, tôi không nghĩ họ sẽ tác oai tác quái. Bày ra trò bịp này có thể là tiểu quỷ, thi thể cũng không ở đây.”

Nói thì nói vậy, chứ nếu sự thật mà đúng lời tôi nói thì lại khó nhằn rồi, vì chúng tôi có thấy được con quỷ này ở đâu đâu. Không chừng nó có bò lên lưng, chúng tôi cũng không biết ấy chứ, mà nhìn không thấy thì cũng hết cách ra tay. Nghĩ vậy tôi thở dài, hỏi: “Các anh có ai biết cách nào, bí kíp dân gian cũng được, để nhìn thấy quỷ không?”

Phan Tử đáp: “Tôi nghe nói chỉ cần nhỏ nước mắt trâu vào tròng mắt thì sẽ thấy được quỷ.”

Bàn Tử bật cười hô hố: “Thế thì nhiệm vụ kiếm trâu phải giao phó cho anh rồi.”

“Không, có lẽ không cần nước mắt trâu vẫn nhìn được.” Tôi đột nhiên nhớ ra một cách, “Nhưng Bàn Tử nhà anh phải chịu hi sinh một chút.”

Bàn Tử bỗng chốc trở nên căng thẳng, “Cậu muốn giết chết tôi, để hồn tôi đi thương lượng với quỷ hả? Còn khướt nhé, nếu các người dám giết tôi, tôi nhất định sẽ về phe với con quỷ kia, hại cho các người càng thảm hơn đấy.”

Tên khỉ gió này lại nghĩ lung tung đi đâu thế? Tôi phát cáu: “Anh hoang tưởng nó vừa vừa thôi, tôi chỉ cần mượn anh cái bùa Mô Kim dùng một lát.”

“Cậu định làm gì?” Bàn Tử che ngực lại: “Cái này là hàng xịn đó, làm hư cậu có đền nổi không?”

“Bùa Mô Kim là vật trừ tà đệ nhất thiên hạ, nếu là hàng thật, chúng ta làm sao lại ra nông nỗi này. Vừa nãy tôi đã xem rồi, cái đó là hàng rởm.” Tôi nói: “Mau đưa đây cho tôi.”

“Rởm á?” Bàn Tử tháo xuống săm soi một lát: “Cậu chắc chứ?”

“Dĩ nhiên rồi, cái này làm bằng sừng tê giác. Ông là chuyên gia trong nghề này, nhầm thế quái nào được? Bùa Mô Kim bằng xuyên sơn giáp (vuốt tê tê) càng đeo càng đen bóng, anh xem cái sừng tê giác của anh đi, đã bắt đầu xám ngoét ra rồi kìa. Tôi chả thèm lừa anh làm gì.”

“Má ơi! Bảo sao tôi xui dữ vậy!” Bàn Tử cáu điên lên: “Mẹ kiếp cái quân đốn mạt kia lại qua mặt tôi lần nữa, chẳng trách lần nào cũng không linh. Bàn gia đây lần này nếu còn mạng mà thoát ra ngoài, không phá tanh banh cái cửa hàng kia thì tôi không mang họ Vương nữa.”

Tôi đón lấy lá bùa Mô Kim từ tay Bàn Tử, an ủi hắn vài câu. Hắn lại hỏi tôi định dùng thế nào, có phải đem nó đặt vào gáy thi thể không?

Tôi đáp: “Từ xưa có một truyền thuyết là ‘Tê chiếu thông linh’, anh đã từng nghe chưa?”

Bàn Tử thắc mắc: “Chắc là cái phim Hồng Kông chiếu hồi mấy năm trước phỏng?”

“Gần đúng rồi, chính là ý đó.” Tôi gật gù: “Chỉ cần đốt vật này lên, nương theo ánh sáng nó tỏa ra anh sẽ nhìn thấy quỷ. Đương nhiên tôi cũng chưa làm thử bao giờ, không rõ là thật hay chém.”

Lúc ấy chính tôi cũng thấy mình hoang đường muốn chết, có điều đến nước mắt trâu còn lôi ra được thì đốt sừng tê cũng thường thôi, cái này gọi là có bệnh thì vái tứ phương ấy mà. Trước khi Bàn Tử nghĩ ra giả thiết thứ năm thì chỉ có ý tưởng của tôi là khả thi, không thử cũng không xong.

Trong Tấn thư đã ghi lại một chuyện thế này: Kiệu Toàn đi về Võ Xương, đến mỏm đá Ngưu Chử, nước sâu khó dò, thế gian nói dưới đó nhiều quái vật, Kiệu liền đốt sừng tê mà chiếu xuống, lát sau thấy thủy tộc ào ra với đủ hình thù quái đản. Đêm đó y nằm mơ thấy có người tới nói rằng: “Ta và ngài âm dương chia đôi ngả, đồng ý thấy nhau sao!” Đại ý nói rằng: người Trung Quốc xưa nhờ việc đốt sừng tê, nương theo ánh sáng rọi ra từ sừng tê, có thể chiếu ra thần tiên ma quỷ. Lời người xưa chung quy vẫn có chỗ dùng được.

Nói đoạn tôi lấy lò không khói, đặt lá bùa Mô Kim lên trên rồi đốt cháy. Lúc đầu nó còn chưa bắt lửa, về sau có một thứ mùi kỳ quái tỏa ra, ngọn lửa màu xanh lục lóe lên ánh sáng kì dị.

Tôi đưa tay nhấc chiếc lò không khói, giơ lên cao lên để nó chiếu được đến nơi xa nhất. Chúng tôi quay đầu nhìn bốn phía, tìm xem xung quanh có xuất hiện thứ gì mới rồi còn chưa thấy hay không. Đi một vòng quanh mộ thất, tôi vẫn chẳng thấy gì, những người khác cũng không khá hơn.

“Biết đâu con quỷ kia núp ở xa.” Thuận Tử lên tiếng.

“Không đâu, truyền thuyết nói nếu là quỷ dựng tường, thì quỷ phải bò trên lưng ấy.”

Chúng tôi lại soi lên lưng từng người, kết quả vẫn như trước. Bàn Tử làu bàu: “Mẹ kiếp tôi đã bảo rồi mà, truyền thuyết chỉ rặt nói điêu thôi. Phí mất cái bùa Mô Kim của tôi mà có chiếu ra cái mẹ gì đâu.”

Phan Tử trút ra một hơi: “Xem ra chiêu này cũng vô dụng rồi. Chỉ e vốn không có quỷ, chúng ta đã rơi vào tình huống thứ năm, là tình huống không có lý lẽ nào mà tìm, không có đầu mối nào mà đuổi theo, không có tiền lệ nào mà tham khảo. Chúng ta biết phải làm sao? Giờ đã sắp hết lương rồi.”

Tôi âm thầm thở dài, vừa định lên tiếng thì đột nhiên Bàn Tử ra hiệu cho tôi im lặng, Phan Tử cũng làm dấu bảo đừng nói. Mí mắt tôi giật giật, ngẩng đầu nhìn theo ánh mắt Bàn Tử, chỉ thấy nơi trần mộ thất phía trên đầu chúng tôi mơ hồ xuất hiện một “đứa trẻ” đen thui.

Chương 46: Lối ra

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Máu tôi phút chốc đông cứng lại. Phan Tử giương súng, Bàn Tử cầm lấy bếp lò ‘Tê chiếu’ từ từ đưa lên cao. Sừng tê càng cháy càng sáng tỏ, bóng dáng ‘đứa trẻ’ màu đen kia cũng ngày càng rõ hơn. Tôi nhìn kĩ, nó … nó chẳng phải là con thi thai đầu to chúng tôi gặp ở Tàng thi các hay sao? Sao đã theo đến tận đây rồi? Chẳng lẽ nó vẫn luôn bám sát gót chúng tôi?

“Tổ sư! Hóa ra là thứ này phá rối!” Bàn Tử gào rống. “Rắc” một tiếng, liền giương súng lên, bao nhiêu nộ khí tích tụ trong người lập tức bạo phát, xả đạn liên hồi, bắn cho cái thứ của nợ kia văng nước đen tung tóe khắp nơi, thoáng cái đã té bịch xuống đất.

Chúng tôi lập tức lui lại vài bước. Thi thai phát ra một tiếng hét chói lói giống như trẻ con, ra sức lật đổ cái lò rồi nhanh như chớp lẩn vào bóng đêm.

“Không cho nó chạy, bằng không chúng ta còn có thể trúng chiêu.” Phan Tử hô lớn: “Đuổi theo!”

Bồn người lập tức đứng lên, điên cuồng đuổi theo. Cơ hồ trong nháy mắt, chúng tôi thấy bích họa trên tường mộ đạo đã trở lại những hoa văn như lúc ban đầu. Quỷ dựng tường đã mất tác dụng!

“Ra rồi!” Bàn Tử mừng rỡ, “Thoát chết rồi!”

Thi thai chạy trốn như bay, lao vào bóng tối trong mộ đạo bằng tốc độ kinh người, hướng về đầu phía bên kia. Chúng tôi biết mình tuyệt đối không thể dừng chân, bởi một khi dừng chân chắc chắn sẽ lại rơi vào hoàn cảnh vừa rồi. Tôi thà chết cũng không muốn trải qua cảnh đó thêm một lần nữa, vả lại cũng không có cái sừng tê thứ hai cho tôi đốt, vậy nên bốn người chúng tôi cứ liều mạng đuổi sát sườn nó, ai ngờ lại theo nó rơi xuống luôn.

Nói thì chậm mà sự việc xảy ra lại rất nhanh. Chạy được khoảng bảy tám phút, chúng tôi đã vượt qua xấp xỉ 1000m mộ đạo, cuối cùng trước mặt chúng tôi xuất hiện một cái cầu thang nối thẳng xuống phía dưới, thi thai nhảy vọt xuống đó nhanh như tia chớp.

Chúng tôi nối đuôi nhau lao vào, bất chấp các thể loại cơ quan bẫy rập, cùng lắm là chết chứ gì. Dù bốn mươi người chỉ còn lại một người cũng phải tiêu diệt cái con quái này cho hả giận.

Cứ mười bậc một bước, chúng tôi điên cuồng nhảy xuống như đàn Kangaroo. Có điều chúng tôi chạy xuống cầu thang vẫn chậm hơn nửa nhịp so với chạy trên mặt phẳng, mà con thi thai kia lại không hề giảm tốc độ, nháy mắt đã biến mất trong bóng tối dưới những bậc thang. Tôi biết đã không thể đuổi kịp nhưng không hãm phanh nổi, vừa định dừng lại thì chân trái vấp vào chân phải, lăn mấy vòng liên tiếp xuống đến bậc thang cuối cùng, vỡ đầu chảy máu, đèn pin không biết đã lăn đi đằng nào.

Tôi chửi thầm trong bụng, vừa định đứng lên, chợt nghe tiếng súng từ một phía truyền đến. Tiếng súng dồn dập, không giống như âm thanh phát ra từ hai khẩu súng của Phan Tử và Bàn Tử.

Tôi đứng lên, chợt nhìn thấy có luồng ánh sáng mỏng manh truyền đến từ một hướng, đang định chạy về hướng ấy thì Phan Tử và Bàn Tử phía sau đã đuổi tới. Tôi thắc mắc vì sao bọn họ lại chạy chậm như rùa thế, Bàn Tử mới nói tới ngã tư ban nãy, Thuận Tử đã theo đường cũ trở về. Hắn đã tìm được cha, lại lấy được cơ man là vàng, căn bản không muốn mạo hiểm đi theo chúng tôi nữa. Hắn nói sẽ đợi chúng tôi bên ngoài núi tuyết đúng một tuần, nếu quá chừng ấy thời gian mà chúng tôi còn chưa ra, hắn sẽ quay về một mình.

Tôi rủa thầm hắn là đồ vô lương tâm, nhưng nghĩ lại thì hắn cũng chịu đựng quá đủ rồi, từ ngày đi theo chúng tôi đã phải chịu biết bao khổ cực. Lúc này Bàn Tử cũng nghe thấy tiếng súng, lập tức cảnh giác.

Chúng tôi lấy đèn pin chiếu xung quanh, phát hiện cuối cầu thang của mộ đạo phía bên này là một cái ban công, bên ngoài là mấy đường hành lang. Nói cách khác đây là cửa vào một cái mộ thất hai tầng cực lớn, nhưng giữa hai tầng mộ thất lại không có trần mà chỉ có mấy hành lang vắt qua không trung, đứng trên hành lang có thể trực tiếp quan sát cảnh tượng ở tầng dưới.

Đây gọi là liên thiên lang, bên trên được chạm rồng khắc phượng, thật ra công dụng chính của nó là nâng quan quách trong những mộ thất lớn, xem ra bên dưới liên thiên lang có thể là một cái quan thất. Hiện giờ bên dưới đang truyền lên tiếng súng dồn dập, hơn nữa chỗ nào cũng lấp loáng ánh đèn pin.

Chúng tôi còn chưa hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, chẳng lẽ con thi thai kia vừa nhảy xuống dưới đó? Nhưng dưới kia bao nhiêu khẩu súng đồng loạt nhả đạn, có là voi cũng bị đốn ngã, chẳng lẽ nó còn chưa nát bét ra hay sao?

Ba người chúng tôi nối đuôi nhay đi ra ban công, liên thiên lang bên ngoài hết sức chật chội, chúng tôi bảo nhau cẩn thận từng bước mà leo lên, nhìn xuống thì phát hiện bên dưới hóa ra là một mộ thất hình tròn rất lớn, rộng khoảng năm, sáu trăm mét vuông. Bất ngờ là đội ngũ của A Ninh ở ngay bên dưới hành lang chúng tôi đang đứng, bảy cây pháo lạnh ném ra bốn phía, chiếu cả mộ thất sáng rực lên. Tôi thấy bọn họ quây thành một vòng tròn, không ngừng dùng súng bắn lia lịa xung quanh, không rõ đang bắn thứ gì. Nhìn kỹ tôi mới nhận ra đó là những con du diên to bằng cánh tay đang bò lổm ngổm khắp mộ thất, lúc nhúc như biển, vây đám người A Ninh vào giữa.

Mà chính giữa mộ thất có một giếng mộ hình kim tự tháp lộn ngược, đáy giếng đặt tám cỗ quan tài đen cỡ lớn vây quanh một quan quách khổng lồ bằng ngọc thạch nửa trong suốt. Quan quách ngọc thạch đã bị mở ra, dưới ánh sáng của pháo lạnh, phản chiếu lại hào quang bảy màu lấp lánh quỷ dị. Tôi thấy hình như du diên đang ùn ùn chui ra từ chính cái quan quách này.

Lòng tôi rớt độp xuống, thầm nghĩ đây chẳng lẽ lại là Cửu Long đài thi quan ghi trên Xà mi đồng ngư? Là bảo hạp khâm liệm Vạn Nô vương? Xem ra mấy kẻ nghiệp dư này đã động phải cơ quan gì rồi, hoặc là thẳng tay dẫm chết một con du diên nào đó.

Lúc này tôi cũng không thể để tâm nhiều đến vậy. Mười mấy người bên dưới ứng phó một hồi đã đuối sức, nhưng du diên vẫn ào ạt tràn ra như thủy triều, căn bản có bắn cũng vô ích, bắn chết một con thì những con khác lại càng thêm điên cuồng.

“Chúng ta có nên giúp họ không?” Bàn Tử hỏi tôi.

Phan Tử lắc đầu: “Để bọn họ chết vợi đi.”

Bàn Tử cười nói: “Không bằng bây giờ anh lấy súng bắn xuống vài phát, đảm bảo còn chết nhanh hơn.”

Trong lòng tôi cũng mâu thuẫn cùng cực, vấn đề không nằm ở chỗ cứu hay không cứu, mà là sau khi cứu bọn họ sẽ đối xử với chúng tôi thế nào. A Ninh khi ở dưới hải mộ đã cố ý đẩy chúng tôi vào chỗ chết, nhờ mạng lớn mới may mắn thoát được, dù trước đó tôi đã từng cứu cô ta thì cũng chưa chắc cô ta đã chịu nể mặt tôi. Nhưng nếu như không cứu, trơ mắt mà nhìn bao nhiêu con người chết sạch trước mặt mình, chỉ e tôi sẽ phải áy náy cả đời.

Mà có cứu được hay không lại là chuyện khác nữa. Chúng tôi đứng trên này bắn xuống thì cũng chả ích gì, muốn cứu bọn họ chỉ có cách thả dây thừng kéo từng người lên. Nhưng giờ bọn họ phải bắn hết tốc lực mới miễn cưỡng cầm cự nổi, dây thừng một khi thả xuống họ lại phải ngừng tay, bên dưới chắc chắn sẽ có người thương vong.

Đang lúc do dự thì tôi bất ngờ nhìn thấy trong đội ngũ của A Ninh có một người nước ngoài đang cõng trên lưng ai đó, nhìn thoáng qua trông rất quen. Tôi lập tức vỗ vỗ Phan Tử, chỉ cho anh thấy. Vừa chỉ xuống, anh đã kêu lên một tiếng sợ hãi: “Ông Ba kìa!”

“Anh chắc không?” Tôi cũng thấy người đó hao hao, nhưng còn chưa dám chắc chắn. Nghe Phan Tử nói thế tôi càng vững tâm, vội đi thêm vài bước đến phía trên người này một chút, muốn nhìn cho rõ ràng.

Ai ngờ mới đi được vài bước, dưới chân tôi đã có cảm giác bất thường. Cúi đầu nhìn xuống thì thấy con thi thai vừa trốn chui chốn nhủi ban nãy giờ đang treo lơ lửng bên dưới hành lang đá, vừa hay lúc này tôi lại bước đến ngay phía trên chỗ nó trốn, nó bèn thò cánh tay héo ngắt ra túm lấy chân tôi, ra sức kéo tôi xuống.

Tôi nổi điên lên, thầm nghĩ thứ này nhớ lâu thù dai, cứ bám theo chúng tôi gây phiền toái. Khả năng giữ thăng bằng của tôi vốn kém, giờ lại đang đứng trên hành lang, thế nên bị nó kéo một phát tôi đã lảo đảo, phải nằm bò ra hành lang.

Phan Tử và Bàn Tử đồng thời giương súng. Con quái này đúng là đầu to mà óc bằng quả nho, bị bắn ở khoảng cách gần đầu nó tức thì nát bét, chỉ còn có một nửa. Sau đó bộ móng vuốt đang bám chặt bên dưới hành lang cũng tuột ra, thi thai rớt xuống trong khi tay còn lại vẫn túm chặt lấy chân tôi.

Tôi bị cái thứ nặng chết khiếp này kéo chân, chỉ đành kêu lên một tiếng thảm thiết rồi cũng rớt xuống theo. Thi thai rơi xuống giữa đám người A Ninh, những người này đang hết sức tập trung vào đám du diên xung quanh, còn tâm trí đâu mà để ý phía trên đầu, bị nó dọa cho tè ra quần, ngã sấp ngã ngửa dạt ra một đoạn, tiếp đó tôi cũng rơi xuống từ không trung.

Sau này tôi nghe Bàn Tử kể lại, động tác tiếp đất của tôi cứ như tôi chủ động nhảy xuống vậy, nhưng sự thực là tôi bất đắc dĩ ngã xuống. (câu này có làm mọi người liên tưởng đến ai không ~) Tiếp theo, tôi hung hăng dẫm đạp con thi thai đã dập nát nửa đầu làm máu đen văng tung tóe. May thay hành lang đá phía trên cũng không quá cao, bằng không ngã xuống từ trên đó tôi chắc chắn phải trẹo chân. Nhưng sau khi ngã xuống, tôi chỉ hơi lảo đảo rồi lập tức đứng vững, đưa mắt nhìn bốn phía mới phát hiện du diên xung quanh đang chạy trối chết cứ như gặp quỷ. Trong nháy mắt, đám du diên đến ùn ùn như thủy triều rồi cũng đi ào ào như thủy triều, chẳng mấy chốc trên mặt đất chỉ còn lại vài cái xác du diên.

Tôi sợ đến ngây người, mất một lúc lâu tinh thần mới hồi phục, cũng không hiểu đã xảy ra chuyện gì. Ngẩng đầu lên chỉ thấy mọi người xung quanh đều đang nhìn mình, nét mặt đầy vẻ kinh hãi giống như nhìn thấy quái vật.

Chương 47: Muộn Du Bình thứ hai

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi ngồi trên ba lô của mình, để bác sĩ trong đoàn của A Ninh giúp mình băng bó vết thương. Vết thương trên tay tôi đặc biệt nghiêm trọng, phải khâu mất ba mũi mới tạm gọi là ổn, bị rách ra lúc con thi thai rớt xuống từ trên hành lang. Tôi chẳng phải con nuôi trong lồng kính, nhưng cũng chưa từng làm những việc quá nặng nề, cho nên đụng phải những va chạm thế này tôi rất dễ bị thương, nếu đổi lại là Phan Tử có lẽ đã bình yên vô sự. Bác sĩ khử trùng cho tôi, căn dặn tôi không nên chạm vào nước cũng không được dùng cánh tay này làm bất cứ việc gì. Tôi gật đầu cảm tạ ông ta, thế rồi ông ta lại đi xem bệnh cho mấy người khác.

Sau khi rơi xuống từ hành lang, đám người A Ninh đã cực kì hoảng hốt trước màn ‘chào sân’ hoành tráng của tôi. Mới đầu A Ninh còn không nhận ra tôi (thực ra lúc ấy trông tôi nhếch nhác không thể tả, cô ta cuối cùng cũng nhận ra là đã giỏi lắm rồi). Đến khi Bàn Tử từ trên hành lang gọi với xuống, cô ta mới phản ứng lại, kinh ngạc không thốt nên lời, còn nhìn tôi bằng ánh mắt không-thể-tin-nổi.

Hai nhóm người đứng đơ ra một lúc lâu lâu mới dần dần có phản ứng. Tôi sốt ruột dợm bước, muốn nhìn thử xem được cõng trên lưng người kia có phải chú Ba của tôi không. Nhưng tôi mới khẽ động, những người vây quanh tôi bỗng tự động lùi về phía sau vài bước giống như gặp quỷ, có mấy người còn quen tay giương súng lên.

Bàn Tử và Phan Tử đứng trên hành lang vừa mới thở phào nhẹ nhõm, thấy thế lại vội vã nâng súng. Tôi hấp tấp giơ hai tay lên, bày tỏ mình không có địch ý. A Ninh cũng vội phất tay, nói với cấp dưới của mình: “Là người một nhà cả, tôi đã từng hợp tác, bỏ súng xuống đi.” Nói đến vài lần, người của cô ả mới nửa tin nửa ngờ mà hạ súng xuống. Nhưng mấy người nước ngoài kia vẫn cực kì căng thẳng, ánh mắt gắt gao theo dõi nhất cử nhất động của tôi.

Tôi thấy gân xanh trên mặt bọn họ nổi lên ầm ầm, hiển nhiên đã bị kích động mạnh, chỉ e một kích thích nhỏ cũng đủ khiến mấy người này bạo phát, cho nên cũng không dám cựa quậy, đành đứng ngây một chỗ không biết làm gì cho phải.

A Ninh cau mày, nhìn nét mặt là rõ cô ta không biết chúng tôi cũng ở nơi này. Cô ta ngẩng đầu hỏi tôi: “Các người …. Sao lại ở đây…”

Bàn Tử đứng trên cười ha hả: “Cái này gọi là Bạch nương tử tìm tình lang. Hữu duyên cách xa ngàn dặm vẫn có ngày gặp gỡ, vô duyên cởi sạch nằm ôm nhau còn lo đối phương làm ẩu. Tôi nói chúng tôi chỉ tình cờ đi ngang qua đây, cô có tin nổi không?”

Nói đoạn Bàn Tử và Phan Tử cùng nhau nhảy từ hành lang xuống. Lúc này trong đoàn của A Ninh đã có mấy người nhận ra Bàn Tử, đều ồ lên kinh ngạc. Rõ ràng Bàn Tử xuất hiện ở đây đã gợi lại phần kí ức ‘khó quên’ nào đó trong lòng bọn họ.

Bàn Tử đi đến trước mặt chúng tôi, hẳn là hắn đã từng hợp tác với mấy người này  nên bầu không khí mới dịu đi chút ít. Mấy người đang căng thẳng thần kinh lúc này mới thở phải nhẹ nhõm, buông súng xuống mắng vài câu, có người còn lầm bầm: “Hay lắm, nơi gay go lại đụng kẻ phiền phức.”

Tôi nhớ lại lần đầu mình gặp Bàn Tử trong tình cảnh nào, cảm thấy câu nói kia chuẩn không cần chỉnh, không khỏi cười thầm.

Bàn Tử trừng mắt liếc qua người nọ rồi lại quay sang chào hỏi mấy người trông có vẻ quen biết. A Ninh còn có chuyện muốn hỏi hắn, tôi và Phan Tử thì nhịn không nổi nữa, vội vã chạy về phía người nước ngoài kia, lật cái người hắn đang cõng trên lưng ra xem có phải chú Ba hay không.

Gã nước ngoài có vẻ rất chú ý đến tôi, khi tôi chạy tới bọn họ đều tránh ra xa, riêng gã vẫn không sợ. Thấy mục tiêu của tôi là người trên lưng mình, gã bèn thả người đó xuống đất. Tôi vội vàng đi tới, bỏ cái mũ leo núi trên đầu người kia xuống. Dưới cái mũ là một gương mặt vô cùng tiều tụy, râu ria nhếch nhác, tôi gần như không nhận ra, chỉ cảm thấy có phần giống chú Ba. Nhìn kỹ một lúc, tôi mới “Ôi trời!” một tiếng, gần như là thét lên.

Quả nhiên là chú Ba mất tích bấy lâu của tôi, cái lão giặc già này! Mới mấy tháng không gặp mà lão khốn trông như già đi mười tuổi, tóc đã lấm tấm ngả bạc, thoáng nhìn căn bản không tài nào nhận ra.

Gặp gỡ trong hoàn cảnh này, nói thật là tôi chưa kịp chuẩn bị tinh thần cho tốt. Tôi cứ đinh ninh cuối cùng tôi sẽ gặp chú Ba trong một gian mộ thất, sau đó chú Ba sẽ cho tôi biết tất cả. Hoặc là đúng lúc tôi gặp nguy hiểm, ổng sẽ thò mặt ra cứu tôi….. Ai mà ngờ ổng lại xuất hiện chìm lỉm giữa đoàn của A Ninh thế này, tôi đã nhìn tận mắt nhưng không hiểu sao lại cảm thấy khó tin.

Tôi thực sự đã gặp được chú Ba rồi sao? Tôi tìm được ổng rồi hả? Tôi cứ đứng sững ở đó, không biết phải làm sao, cũng không biết mình đang nằm mơ hay là nhìn thấy ảo giác nữa.

Chú Ba thần trí có vẻ mơ hồ, hai mắt khép chặt, chẳng biết có nhìn thấy tôi không. Nhưng hình như lúc nghe tiếng tôi gọi, người ổng đột ngột phản ứng rất khẽ, đôi môi nứt nẻ hơi mấp máy giống như đang hỏi: “Cháu trai?” nhưng rồi nhanh chóng  an tĩnh trở lại.

Tôi đột nhiên cảm thấy đau xót trong lòng, một thứ cảm xúc khó tả trào dâng. Thấy lão khốn ấy vẫn bình an, tảng đá đè nặng trong lòng bỗng dưng biến mất, sự nôn nóng tưởng như mất đi người mình tin tưởng phút chốc tiêu tan, nhưng lại nảy sinh một cảm giác căm phẫn cực độ, chỉ muốn đè ổng ra oánh một trận nhớ đời. Hai thứ cảm xúc pha trộn lẫn nhau, không biết nét mặt tôi lúc này như thế nào nhưng nhất định là trông rất buồn cười.

Ở đằng kia, không biết Bàn Tử đang tán gẫu chuyện gì với A Ninh, hình như đã bắt đầu ồn ào nhưng tôi cũng không thèm bận tâm. Phan Tử thấy chú Ba ra nông nỗi này, bèn lại gần lắc lắc ông vài cái, rồi cởi áo ổng ra. Tôi nhìn mà phát choáng, chỉ thấy dưới lớp quần áo của chú Ba có nước mủ nhầy nhầy, nhìn kỹ thì trên ngực ổng phủ đầy những vết lở loét, vô số con du diên có cái đầu cứng chen chúc bên dưới lớp da. Hiển nhiên chú Ba muốn lôi chúng ra, nhưng đuôi du diên đụng vào là đứt đoạn, phần còn lại vẫn nằm trong da thịt, miệng vết thương vì thế cũng không khép lại được, một thời gian sau sẽ mưng mủ hoàn toàn.

Phan Tử liền túm lấy gã nước ngoài kia, định đánh hắn nhưng bị những người khác giữ lại. Phan Tử vừa giãy giụa, vừa hét lớn: “Quân khốn nạn, các ngươi làm gì ông Ba thế kia! Sao ông Ba lại ra nông nỗi này?”

Tôi nhìn vẻ mặt kinh hoàng của gã nước ngoài kia khi thấy vết thương thì biết bọn họ cũng không hiểu chuyện gì. Nhưng chú Ba trông cũng quá thảm hại, tôi run rẩy hỏi gã: “Tìm thấy ông ấy ở đâu? Sao ông ấy lại ra nông nôĩ này?”

Gã nước ngoài kia gần như muốn nôn, quay đầu lại nói: “Tìm thấy bên dưới giếng mộ này, lúc chúng tôi phát hiện ra ông ta, còn tưởng ông ta đã chết rồi cơ. Về sau phát hiện ông ta vẫn còn sống, chỉ huy nói ông già này biết rất nhiều chuyện, nhất định phải mang theo – tôi không biết trên người ông ta có mấy thứ này, bằng không có đánh chết tôi cũng không dám cõng!”

“Nhất định là các ngươi!” Phan Tử ở bên kia nổi giận, “Hồi ở Việt Nam ta đã thấy rồi, đây chính là chiêu người Việt Nam dùng để thẩm vấn phạm nhân, học theo người Mỹ các ngươi. (Ơ sao biết học từ Mẽo mà không phải từ Tàu =))) Lũ khốn nạn các ngươi chắc chắn đã bức cung ông Ba, ông phải giết các ngươi!”

Những người khác đều vây kín xung quanh chúng tôi, tôi khoát tay ra hiệu cho Phan Tử bình tĩnh một chút, nói: “Không liên quan đến bọn họ đâu, nếu đúng là vậy thì bọn họ không thể không biết du diên chết sẽ thu hút đồng loại mà hoảng loạn đến thế.”

A Ninh lại gần xem xét, cũng ớn lạnh sống lưng, lập tức gọi bác sĩ đến, mấy người luống cuống đỡ chú Ba tôi nằm ra đất. Đúng vào lúc đó, tôi bỗng dưng có cảm giác chú Ba lén lút thả thứ gì đó vào túi áo tôi, động tác hết sức mau lẹ, trong nháy mắt tôi chỉ cảm thấy thấy túi mình rung nhẹ. Tôi ngây người mất một lúc, trong lòng khẽ động.

Thoáng cái đầu tôi ong lên một tiếng, lập tức nhận ra: chú Ba có thể đã tỉnh! Trong lòng trào lên cảm giác kinh hãi lại có phần an tâm. Kinh hãi vì hóa ra ổng chỉ giả bộ hôn mê, không biết để làm gì. An tâm vì lão khốn vẫn còn hơi sức mà làm cái trò mờ ám này chứng tỏ còn lâu ổng mới chết được. Tôi đảo mắt nhìn quanh bốn phía, thấy những người khác đều chấn động vì vết thương trên người chú Ba, không ai để ý đến hành động vừa nãy. Thế nên tôi cũng tỉnh bơ mà tiếp tục đỡ ổng, lại đưa tay nhéo nhéo vai ổng, ý nói mình đã biết trong túi vừa có thêm thứ gì.

Ánh mắt chú Ba lại lờ đờ như cũ. Bác sĩ lấy cồn lau miệng vết thương, sau đó dùng dao đã hơ lửa rạch da ổng, cầm nhíp gắp hết những mẩu du diên đứt đoạn bên trong rồi nặn cho mủ chảy ra. Vì nơi này rất lạnh, nước dễ dàng đóng băng nên tôi và Phan Tử châm lò không khói, không ngừng sưởi ấm người chú Ba.

Tổng cộng có mười sáu vết thương, có mấy con du diên lúc lấy ra vẫn còn sống, bị ném thẳng vào lửa cho cháy thành tro, cuối cùng vết thương cũng được khâu lại hết. Phan Tử chăm chú theo dõi cả quá trình, tôi muốn nháy mắt ra hiệu cho anh cũng không được. Trong lòng tôi nhấp nhổm không yên, nhưng trong tình thế này mà tự dưng bỏ đi cũng không ổn, muốn biết chú Ba rốt cuộc thả cái gì vào túi mình thì đành phải chờ thôi.

Chật vật mãi mới xử lí xong xuôi, bác sĩ đắp cho chú Ba tấm thảm để ổng ngủ trong một góc. Phan Tử vội hỏi ông ấy thế nào rồi, bác sĩ thở dài: “Những gì có thể làm tôi đều đã làm, bây giờ miệng vết thương của ông ấy đang bị nhiễm trùng. Tôi đã tiêm cho ông ấy một liều kháng sinh, nhưng ông ấy vẫn sốt cao, tôi cũng không biết có thể cầm cự ra ngoài được không nữa. Cái này còn phải xem ý chí của bản thân người bệnh, các anh đừng làm ồn, để yên cho ông ấy ngủ.” Lúc này tôi mới có cớ kéo Phan Tử ra, nhưng vừa động thân mới phát hiện lúc mình lăn xuống cầu thang cả người cũng đầy vết thương, giờ không sao nhấc người lên nổi.

Bác sĩ băng bó xong vết thương cho tôi thì đi khám những người khác. Đoàn của A Ninh có khoảng mười sáu mười bảy người, lúc này pháo lạnh đã dần dần lụi đi, bốn bề lại chìm vào bóng đêm nên không đếm được chính xác. Bàn Tử bị A Ninh lôi vào một góc, hai người đang huyên thuyên gì đó, tôi cũng không nhìn được rõ ràng. Tôi định kéo Phan Tử đến chỗ vắng vẻ nhưng Phan Tử cứ như người mất hồn, một mực ngồi bên chú Ba, chả có phản ứng gì.

Trong lòng tôi thật sự phát cáu. Đúng những lúc quan trọng thì không ai giúp được gì, đành phải tự mình nghĩ cách tránh né những người xung quanh. Đoàn của A Ninh chia làm hai nhóm, một nhóm bị thương đang nghỉ ngơi cho lại sức, nhóm kia trèo xuống giếng mộ. Những người này hình như không có ác ý với tôi, hẳn là do họ đều quen biết Bàn Tử. Nhưng vừa nãy một mình tôi đẩy lùi hết đám du diên, cho nên tôi đi đến đâu bọn họ đều dùng ánh mắt nghi hoặc mà dò xét tôi đến đấy. Cái mộ thất hình tròn này lại quá mức trống trải, tôi chẳng biết chui vào cái lỗ nẻ nào cho đỡ bị soi.

Tôi chợt nảy ra một ý, bèn bước tới chỗ con thi thai vừa bị tôi dẫm nát bét, giả vờ ngồi xuống ngắm nghía nó, lúc này mới không còn ai tò mò nhìn tôi nữa.

Thi thai trông giống một con tôm cực lớn, ngũ quan đều bị tôi dẫm cho lẫn lộn vào nhau, vừa liếc qua một cái da đầu đã giật giật liên hồi, nhưng tôi cũng không cần để ý nhiều làm gì. Thò tay vào túi móc thứ đồ kia ra, thì ra là một tờ giấy nhỏ. Quay lại thấy không có ai, tôi vội vàng mở ra đọc, chỉ thấy bên trong viết vài hàng chữ. Vừa nhìn lướt qua tôi đã giật mình kinh ngạc, mấy chữ này nửa bên trên không phải bút tích của chú Ba, xem nét chữ thì hình như là của Muộn Du Bình. Phía trên viết:

“Tôi đã đi xuống rồi.

Dừng ở đây thôi, các người mau quay về. Xuống sâu hơn một chút đã là nơi các người không thể ứng phó được nữa.

Tất cả những gì các người muốn biết đều nằm trong con Xà mi đồng ngư.”

Chữ kí lại càng làm tôi kinh hãi, đó chính là cái kí hiệu kì quái chúng tôi đã gặp lúc trước… Kí hiệu này quả nhiên là do Muộn Du Bình để lại, rốt cuộc nó có ý nghĩa gì?

Dưới nữa mới là mấy chữ viết rất ngoáy của chú Ba, xem ra ổng dùng móng tay viết, nhưng cũng coi như dễ đọc, chỉ có một hàng.

“Chúng ta chỉ còn cách chân tướng có một bước, hãy đưa cá đồng cho cấp dưới của A Ninh là Ô Lão Tứ để hắn dịch ra. Không sao cả, vật mấu chốt nhất nằm trong tay ta, bọn họ không dám gây khó dễ cho chúng ta đâu.”

Hiển nhiên khi chú Ba tới đây đã phát hiện ra tờ giấy của Muộn Du Bình ở nơi nào đó. Hơn nữa tờ giấy này nhất định là viết cho chúng tôi, xem ra Muộn Du Bình muốn ngăn cản chúng tôi đi xuống. Xem ẩn ý bên trong tờ giấy thì hình như còn có một thông đạo, hắn đã đi vào nơi nào đó cực kì nguy hiểm. Mà chú Ba hiển nhiên không thèm coi lời cảnh báo này ra gì, đúng là muốn đâm đầu vào chỗ chết. Lão khốn này rốt cuộc muốn làm gì? Chú Ba còn nắm giữ vật gì mấu chốt nữa? Muộn Du Bình nếu đã không muốn chúng tôi đi xuống thì kí hiệu kia để lại cho ai? Chẳng lẽ hắn để lại cho chính mình?

Đầu óc tôi lơ mơ như lạc vào cõi tiên. Thật ra khoảng thời gian này tôi cảm thấy càng ngày càng có nhiều manh mối xuất hiện, nhưng vì những bí ẩn phía trước quá hỗn loạn, cho nên một khi có ý tưởng mới xuất hiện thì lại càng thêm rối rắm.

Tôi nhớ đến kí hiệu trong mộ huyệt dưới đáy biển, Muộn Du Bình nhìn thấy nó mới nhớ ra mình đã từng đến đây. Giờ hắn khắc thêm kí hiệu, chẳng lẽ… Chẳng lẽ hắn biết mình rồi sẽ mất trí nhớ? Cho nên trước đó đã để lại kí hiệu cho bản thân mình để đến lúc ấy có thể dựa vào kí hiệu mà nhớ ra?

Chuyện này thật quá lộn xộn, đầu tôi lại âm ỉ đau. Đúng lúc này A Ninh và Bàn Tử quay về phía tôi gọi to một tiếng làm tôi giật mình nhảy dựng lên, quay lại nhìn thì thấy bọn họ đang gọi mình sang, vì thế dứt khoát không nghĩ nhiều nữa, gập tờ giấy lại bỏ vào trong túi rồi qua chỗ hai người.

A Ninh đưa bầu nước cho tôi, tôi uống một ngụm, cô ta mở lời: “Tôi và ngài Vương đây vừa chuyện trò mấy câu, chúng ta chuẩn bị hợp tác chính thức, anh thấy sao?”

Hợp tác? Tôi nhìn khuôn ngực đầy đặn ẩn hiện sau bộ quần áo bó sát người, nhớ lại chuyện xảy ra trên thuyền nên không dám nhìn thẳng. Lại nhớ tới cảnh báo của Muộn Du Bình và lời của chú Ba, bỗng dưng tôi không biết trả lời ra sao.

Tìm được chú Ba rồi, lòng tôi cũng an tâm hơn. Trong cái an tâm này cũng có một phần ích kỉ, đó là mình có thể ra ngoài rồi, vì thực chất tôi vẫn luôn nóng lòng muốn thoát khỏi nơi đây. Nhưng đúng như lời chú Ba nói, chúng tôi dường như chỉ còn cách chân tướng một đoạn rất gần. Xem ra chú Ba cũng có câu đố của riêng mình, nếu cứ khơi khơi cứu ổng ra ngoài, không chừng chính bản thân ổng cũng chẳng hiểu đầu đuôi thế nào. Mà chúng tôi có thể quên đi cũng còn may, nếu không quên được, với tính cách của chú Ba đương nhiên sẽ muốn quay lại lần nữa, đến lúc ấy tôi nào có thể trơ mắt ngồi nhìn?

Ngẫm nghĩ một lát, tôi cắn răng nói: “Hợp tác thế nào, cô nói thử xem? Nhớ nói cho thành thực, hợp tác với cô tôi phải cân nhắc cho kĩ.”

Cô ta nhìn vẻ mặt tôi, cười cười lắc đầu nói: “Lần đó ở trên đảo tôi không kịp từ biệt các anh, giờ phải cảm ơn anh đã cứu tôi. Lúc ở dưới biển… là vì nỗi khổ tâm riêng, tôi thực sự không muốn hại các anh.”

Tôi nhớ lại chuyện xảy ra dưới đáy biển, thở dài, thầm nghĩ có quỷ mới tin cô. Tôi châm một điếu thuốc, nói: “Nếu muốn hợp tác thì hãy cho tôi biết đã có chuyện gì xảy ra. Các người rốt cuộc muốn tìm vật gì dưới đáy biển? Các người tới nơi này để làm gì?”

Bàn Tử đứng bên cạnh cũng phụ họa: “Đúng! Mọi người phải thẳng thắn thì mới dễ làm việc với nhau được.”

A Ninh tỏ ra kinh ngạc: “Anh không biết? Chú Ba nhà anh không nói gì với anh sao? Các anh… không biết gì cả mà dám liều mạng chạy lung tung trong này?”

Tôi cười gượng một tiếng, thầm nghĩ nếu chú Ba kể hết mọi chuyện cho tôi biết thì tôi còn quan tâm ổng sống hay chết làm quái gì, bèn lắc đầu: “Chú ấy chưa nói, tôi chỉ đi bừa thôi.”

A Ninh nhíu đôi mày thanh nhìn tôi một lúc lâu, đến khi cảm thấy tôi thực sự không nói dối mới tiếp lời: “Chẳng trách, tôi vẫn nghĩ anh là hạng người cực kì lợi hại, nhìn kiểu gì cũng không ra anh đang nói dối. Thì ra anh thực sự chẳng biết gì cả.”

Tôi bỗng dưng cảm thấy có điều gì đó không ổn, vì sao cô ta đột ngột đòi hợp tác với chúng tôi? Bọn họ có nhiều người, binh đông lương đủ, còn chúng tôi chỉ có ba người, cần gì phải hợp tác cơ chứ? Cứ cho là vì tôi có thể đẩy lùi du diên thì cũng chỉ cần trói tôi lại khiêng theo là xong, lẽ nào — tôi nhìn quanh quất – bọn họ rơi vào cảnh ngộ không hay? Hoặc là có lí do bất đắc dĩ nào đó?

A Ninh nhìn nét mặt tôi, đại khái cũng đoán ra tôi đang nghĩ gì. Cô ta không đi bóc mẽ mà chỉ thở dài một hơi: “Thật ra chúng tôi chỉ là hạng tôm tép, đâu có biết gì nhiều, chẳng qua chỉ bán mạng cho ông chủ thôi.” Nói rồi mời chúng tôi ngồi xuống, gọi một người nước ngoài khác tới. A Ninh giới thiệu với tôi người này tên Kirk, là chuyên gia Hán học, chuyên nghiên cứu về Đông Hạ, người biết nhiều nhất về tất cả mọi chuyện, có gì cứ hỏi ông ta. Người này cũng bắt tay tôi, nói: “Ban đầu chúng tôi định giữ bí mật tuyệt đối, nhưng tình hình lúc này… Cậu muốn biết gì xin cứ hỏi.”

Tôi có cảm giác ruột gan mình vừa rớt bịch xuống.

Ông ta tiếp tục nói: “Rất tiếc, mục đích của ông chủ tôi không thể nói cho cậu được. Thật ra tôi cũng chỉ là một đội trưởng thôi, tôi với A Ninh chỉ biết chúng tôi phải đến một nơi, mang một thứ trong đó ra, vậy là hoàn thành nhiệm vụ, còn cụ thể cấp trên muốn lấy những thứ này để làm gì thì tôi thực sự không biết. Cho nên mục tiêu của chúng tôi khi xuống hải mộ có hai, một là ngọc tỷ, người Trung Quốc gọi nó là quỷ ấn, nghe nói có thể triệu tập âm binh. Thứ còn lại chính là sơ đồ địa cung này, tiếc thay chúng tôi lại không được chạm vào, cuối cùng phải nhờ A Ninh ra tay mới lấy được thứ cần phải lấy.”

“Quỷ ấn”, nghe đến đây tôi gần như muốn nhảy dựng lên. “Ý ông là quỷ ấn của Lỗ Thương vương? Trong huyệt mộ dưới đáy biển?” Nghe chúng tôi nhắc đến quỷ ấn, Bàn Tử cũng cảm thấy hứng thú, hớn hở chạy lại. A Ninh hình như rất ngán ngẩm Bàn Tử, nhưng cũng không biết phải làm sao.

Người tên Kirk kia gật đầu nói: “Chính là nó, hẳn là cậu cũng biết sơ sơ rồi. Sau khi lăng của Lỗ Thương vương bị Uông Tàng Hải đào trộm, ông ta đã dùng Xà mi đồng ngư thế chỗ cho quỷ ấn. Chúng tôi vẫn đinh ninh quỷ ấn được ông ta giấu trong lăng mộ của mình nhưng tìm mãi vẫn không thấy, mà sơ đồ thiên cung này chỉ e đã rơi vào tay chú Ba nhà các cậu. Đến giờ chúng tôi cũng không rõ mình đã bị con cáo già này lòe bịp bao nhiêu bận, nhưng vẫn phải hợp tác với ông ta vì tin tức của ông ta chuẩn xác hơn chúng tôi rất nhiều.”

Tôi gật đầu cười khổ, chuyện này thì tôi đồng cảm. Bàn Tử đứng cạnh vội nói: “Vậy ông nói xem cái lần A Ninh xuống biển với chúng tôi, cô ả đã mang ra thứ gì?”

Kirk đang định nói thì A Ninh đã ngăn lại, nói với ông ta: “Chuyện gì cần nói ông hãy nói, không cần thì ông chớ nhiều lời.”

Bàn Tử giận dữ nói: “Cô có ý gì?”

Kirk hình như không hiểu A Ninh cho lắm, cười to một trận rồi nói: “Dù cô không nói cho họ biết thì chung quy vẫn phải lấy ra, huống chi bây giờ cô có giữ khư khư mấy thứ này cũng chẳng để làm gì.”

A Ninh liếc chúng tôi một cái, giậm chân bình bịch, có vẻ rất không cam lòng: “Tôi phải chịu biết bao khổ cực mới lấy được mấy vật này, đúng là dễ dàng cho các người quá.”

Lúc này tôi có cảm giác rất quái lạ, đám người A Ninh sao lại muốn hợp tác cơ chứ? Về sau tán gẫu với chú Ba, ổng nói thực ra lúc đó đám A Ninh đã đi đến đường cùng, cô ta không còn cách nào khác mới phải đề nghị hợp tác. Bởi vì bọn họ rốt cuộc chỉ là dân nghiệp dư, cho dù thiết bị kĩ thuật có tân tiến đến đâu thì so ra vẫn kém một thổ phu tử nửa mùa như tôi. Nhưng cô ta là người cực kì thông minh, trong lòng chỉ muốn mau mau kể tuốt mọi chuyện cho tôi biết mà ngoài mặt vẫn cẩn thận thăm dò, muốn moi từ miệng tôi ra chút tin tức để trao đổi, quả là một kẻ lọc lõi. Cũng may tôi cố ý giữ kẽ, bằng không sẽ bị cô ta đoán ra toàn bộ, kế hoạch của chú Ba chắc chắn sẽ đổ bể.

Kirk nói: “Đây là bích họa tự sự cực kì quan trọng, được chụp trong gian mộ thất chính, vào cái lần cùng nhau xuống biển kia, cậu có thể xem nội dung được vẽ bên trong là gì.”

Tôi đếm sơ sơ thì thấy tổng cộng có mười lăm bức bích họa, cảnh tượng biến đổi, hiển nhiên những bức bích họa này phải liên quan đến nhau nhưng giữa chúng lại không có tình tiết liên hệ tất yếu nào. Tôi thấy có bức tranh tả cảnh leo núi tuyết, có bức nhìn xuống sơn lăng, có bức thuật lại cảnh binh lính chiến đấu, hình ảnh trong những bức bích họa này đều không có mối liên hệ tất yếu với nhau.

Kirk nhìn nét mặt tôi cũng biết tôi chả hiểu gì, mới rút một tờ đưa cho tôi xem, nói: “Cậu nhìn xem, đây là bức tranh đầu tiên, cậu thấy nó vẽ gì?”

Tranh vẽ mấy người ăn mặc kiểu Nữ Chân đang trói chặt một người Hán. Tôi nói: “Có phải cảnh bắt tù binh trên chiến trường không?”

“Có thể nói như vậy. Nhưng cậu đoán thử xem, tù binh kia là ai?” Kirk cười cười, ra vẻ thần bí.

Tôi cẩn thận ngắm nghía ảnh chụp bích họa, phát hiện tù binh này trông khá giống hình Uông Tàng Hải vẽ trên mấy món đồ gốm sứ, kinh ngạc nói: “Đây là Uông Tàng Hải? Người Nữ Chân đang bắt ông ta?”

Kirk nói: “Chính xác! Đây là bức tranh thứ nhất. Mà hình ảnh này cho thấy điều gì? Cho thấy Uông Tàng Hải có thể đã bị người ta ép phải xây dựng nơi này. Ông ta bị bắt tới đây.”

Tôi nhanh chóng nhìn ra manh mối, lại liếc mắt sang mấy tấm khác, hỏi: “Những tấm hình này thì sao?”

“Chúng đều kể lại những chuyện Uông Tàng Hải đã trải qua sau khi rơi vào tay người Đông Hạ. Tuy chúng tôi không thể hiểu hết, nhưng dựa vào những tấm ảnh trước đó cũng đoán được tám chín phần.”

Tôi cẩn thận ngắm nghía một tấm hình trong số đó, bỗng dưng phát hiện có điểm không hợp lý: “Còn tấm này…”

Kirk liếc qua, cũng gật đầu: “Cậu tinh mắt đấy, tấm ảnh này đúng là mấu chốt. Cậu cũng thấy đó, đây là hoàng lăng trong miệng núi lửa. Khi Uông Tàng Hải bị bắt đến đây thì hoàng lăng đã có rồi, hơn nữa còn rất hoang tàn.”

Tôi “A” lên một tiếng, vậy lẽ nào hoàng lăng trên đầu chúng tôi không phải do ông ta xây nên sao?

Kirk đáp: “Chúng tôi đã nghiên cứu rồi, kiến trúc tổng thể của hoàng lăng là dấu tích từ thời Ân – Thương nhưng về sau bị Uông Tàng Hải sửa thành kiểu dáng thời nhà Minh. Người Đông Hạ bắt ông ta đến đây không phải để xây hoàng lăng, mà là để tu sửa hoàng lăng, bởi vì hoàng lăng cũ trải qua bao nhiêu năm tháng đã không thể sử dụng được nữa.”

“Vậy là địa cung này đã có từ trước sao?” Bàn Tử hỏi.

Kirk gật đầu, đáp: “Chúng tôi dựa vào những tấm ảnh này để tìm ra con đường cũ dẫn vào nơi đây, nhưng vẫn có vài tấm hình không thể giải thích được, ví dụ như tấm này.”

Đó là một bức bích họa vẽ cảnh vô số ác quỷ chui ra từ tảng đá, là bức thứ ba từ cuối lên. Còn có bức miêu tả một vật tròn tròn màu đen trông như sinh vật nhuyễn thể bò lên từ vách núi lớn, mà bên trên lại có người đang dốc ngược thứ gì đó xuống dưới.

Tôi cảm thấy đầu óc mình căng như dây đàn, gần như nín thở, định ngồi xuống ngắm nhìn cho kĩ. Đúng lúc ấy, A Ninh đột ngột đưa tay về phía tôi, nói: “Tốt lắm. Chuyện của chúng tôi đã nói xong, hình ảnh anh cũng có thể xem tùy ý. Giờ anh cũng nên nói cho chúng tôi chút thông tin mới phải chứ?”

“Nói cái gì cơ?” Tôi ngơ ngác.

“Chuyện của tôi, tôi đã nói hết rồi. Còn chuyện của anh với Ngô Tam Tỉnh.” A Ninh nhìn tôi,”Không lẽ anh còn hẹp hòi hơn cả một phụ nữ như tôi?”

Lòng tôi thầm nhủ cô toàn nói nhăng nói cuội, nói mà cũng như không, trọng tâm thì phớt lờ đi, mẹ kiếp cô tưởng tôi vẫn còn là Ngô Tà ngu-ngơ-cái-gì-cũng-không-biết trước kia sao? Tâm niệm thoáng xoay chuyển, tôi hỏi cô ả: “Trong đoàn của cô có một người tên Ô Lão Tứ phải không?”

A Ninh gật đầu, nghi hoặc hỏi: “Sao vậy? Anh biết ông ta?”

Tôi lấy từ trong túi ra hai con cá đồng, huơ lên trước mặt họ, nói: “Những chuyện các người muốn biết đều nằm trong con cá này, nếu Ô Lão Tứ còn chưa chết thì mau gọi hắn ra đây.”

Trong nháy mắt, tôi thấy Kirk gần như ngã lăn ra đất, ánh mắt của A Ninh cũng trở nên căng thẳng, lắp bắp nói: “Trời ạ! Cậu có đến hai….con….” Tôi hơi xê dịch cánh tay, ánh mắt bọn họ cũng di chuyển theo.

Chương 48: Xà mi đồng ngư

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi thực sự không muốn giao Xà mi đồng ngư ra cho họ, nhưng nhớ tới lời dặn dò của chú Ba thì lòng cũng mềm đi, không ngờ vừa đưa ra đám người A Ninh đã phản ứng dữ dội như thế.

Một lúc lâu sau mới có người tỉnh lại, hỏi tôi: “Anh lấy nó ở đâu? Anh… đúng là thần thánh, lẽ nào các người đã vào Lỗ Vương cung? Đây chính là long ngư mật văn! Tôi cứ đinh ninh chỉ có một con, không ngờ…”

Tôi chẳng còn tâm trí đâu mà tán nhảm với bọn họ, khoát tay nói: “Trong các anh có ai đọc được không?”

A Ninh lập tức gọi lớn:”Ô Lão Tứ!” Một người Trung Quốc bước ra, vừa thấy con cá đồng trên tay tôi sắc mặt lập tức biến đổi, vội vàng lao đến, hét lên: “Trời ạ!”

Tôi nói với hắn: “Có thể dịch ra không?” Hắn gật đầu lia lịa, đưa tay ra nâng như nâng trứng. Đèn pin vừa chiếu lên vảy con cá đồng, vô số chữ Nữ Chân đã in lên mặt đấ, bên cạnh tôi lập tức có người ghi chép lại.

Thuộc hạ của A Ninh quả là lợi hại, vừa sao chép vừa phiên dịch, so ra còn giỏi hơn Hoa hòa thượng nhiều, họ chép xong tôi cũng nghe được sơ sơ. Tuy tôi không thể hiểu cặn kẽ, chỉ hiểu lơ mơ ý tứ bên ngoài nhưng càng nghe lại càng rõ ràng, có vẻ giống thơ tự sự. Tôi không thể ghi lại toàn bộ, nhưng trong đó cũng có vài đoạn khắc sâu vào trí nhớ.

Nội dung cả đoạn cực kì giản lược, mở đầu là mấy câu ý nói bí mật ẩn giấu trong long ngư mật văn này hết sức quan trọng. Uông Tàng Hải khắc lên đây vốn hi vọng nó vĩnh viễn không thấy ánh mặt trời, nhưng nếu có người thấy thì chỉ mong đó là người Hán chứ không phải người Nữ Chân, đại loại là như vậy.

Đoạn tiếp đó ghi lại chuyện xảy ra sau khi ông ta bị bắt đến Đông Hạ, đại để cũng giống ghi chép trên bích họa, nhưng có thêm vài câu nữa.

Để lấy một vài bảo vật mà Đông Hạ không có sẵn, ông ta đã dẫn người đào bới rất nhiều cổ mộ, lại lén đặt cá đồng vào những nơi linh khí thịnh vượng, để bí mật này có cơ hội được người đời sau phát hiện.

Tôi nghe đến đó liền ‘À!” một tiếng, thầm nghĩ thì ra là vậy. Mà nội dung những phần sau đó lại khiến tôi không tài nào tin nổi – trong đó ghi trong quá trình tu sửa hoàng lăng, ông ta đã dần dần phát hiện ra một bí mật quỷ dị của hoàng đế Đông Hạ.

Chuyện này làm tôi kinh hãi đến cực độ là vì trước đó Hoa hòa thượng từng đọc ra nửa đoạn trước: Vạn Nô vương là quái vật, là yêu nghiệt chui lên từ lòng đất, mà  đoạn tôi vừa nghe lại ăn khớp với những điều Hoa hòa thượng đã nói.

Bên trong có ghi Uông Tàng Hải bị nhốt trong này đến mười năm, từng bị dẫn đi xem một cánh cửa trong lòng đất được gọi là thần tích. Theo truyền thuyết, các đời Vạn Nô vương không phải do cha truyền con nối mà đều chui ra từ lòng đất sau khi đời trước chết đi. Mà cánh cửa trong lòng đất kia cũng chỉ có thể mở ra vào thời khắc Vạn Nô vương tiền nhiệm qua đời, bằng không nghiệp hỏa địa ngục sẽ thiêu rụi những kẻ cả gan mở cánh cửa này, khiến cho núi Trường Bạch không thể bạc đầu. Tôi nghe vậy thì liên tưởng ngay đến núi lửa phun trào, thầm nghĩ lẽ nào Vạn Nô vương kia bò ra từ trong lòng núi lửa?

Ông ta may mắn được tận mắt chứng kiến một lần vương vị thay đổi, mà thứ khiến cho ông ta cảm thấy sợ hãi tột cùng chính là Vạn Nô vương đi ra từ cánh cửa dưới lòng đất hóa ra lại là yêu quái, căn bản không phải người.

Trên đó ghi lại, cánh cửa thông xuống lòng đất này nằm ngay dưới móng hoàng lăng, dưới đáy núi Trường Bạch, niên đại từ thời thượng cổ, chỉ e là di vật từ đời nhà Hạ. Mà thông đạo dẫn xuống lòng đất kia lại do loài chim có cái đầu người canh giữ.

Tôi nhớ đến loài quái điểu kia mà toát mồ hôi lạnh, nhưng nội dung về sau còn quỷ dị hơn nhiều.

Trên con cá kia kể lại chuyện ông ta lén lút lẻn vào cánh cửa dưới lòng đất. Đoạn này tôi hoàn toàn không hiểu, chẳng biết ông ta đang nói gì nữa, hiển nhiên sau khi trở về ông ta đã khắc những dòng này trong lúc thần kinh còn chưa hồi phục, lời lẽ có phần lộn xộn.

Bàn Tử vẫn chăm chú lắng nghe, lúc này cũng bắt đầu sốt ruột mà chen miệng vào: “Trước đã nói nghiệp hỏa địa ngục sẽ thiêu rụi những kẻ cả gan mở cánh cửa này ra, sao lão già kia đi vào mà chẳng sứt mẻ gì? Con mẹ nó, hay lão ta ghi bậy ghi bạ?”

Tôi thầm nghĩ chắc chắn ông ta phải có cách nào đó mà chúng tôi không biết, nhưng nội dung ghi chép trong này đúng là rối tung rối mù. Đúng lúc này bỗng dưng có người tới báo cáo, nói là lại phát hiện ra kí hiệu.

Chúng tôi qua đó xem thì thấy mấy cỗ quan tài bên trong giếng mộ đều đã bị mở ra, có thể nhìn rõ từng đồ vật bên trong. Bên giếng mộ có người mở ra một cánh cửa ngầm, trong cửa ngầm lại phát hiện một kí hiệu.

“Kí hiệu này không phải do các anh lưu lại sao?” A Ninh hỏi.

“Đâu có, chúng tôi cũng đang rối tung lên đây.” Tôi giả nai.

Một người đứng gần đó báo cáo: “Mấy cái quan tài này đều là đồ giả, bên trong chỉ có ngọc tạo hình thi thể, quan quách thật không ở chỗ này. Ban nãy chúng tôi đã mở ra một cơ quan chứa Trùng hương ngọc, khiến cho đám du diên bị dẫn dụ ra bằng sạch. Giờ chúng tôi cẩn thận dò tìm, không ngờ chỗ này còn có một mật đạo, hơn nữa đã có người vào trước. Xem ra đây là một ngôi mộ hai tầng, quan quách thực sự có lẽ nằm ngay bên dưới . Đây là hình thức mộ táng rất phổ biến vào thời nhà Nguyên.”

Tôi nhìn quan quách cỡ bự được chế tác từ bảo thạch lưu ly, trong lòng thoáng sợ hãi, lại qua chỗ cánh cửa ngầm đang mở ngó một cái, phát hiện cánh cửa này hết sức bất thường. Lòng mật đạo dốc đứng, xem ra được đào để lấy chiều sâu. Lòng tôi “ồ” lên một tiếng, xem ra cái nơi Muộn Du Bình không cho tôi xuống chính là chỗ này.

A Ninh nhìn tôi chằm chặp, xem ra cũng nghĩ như tôi. Cô ta phất tay ra hiệu cho mọi người đi xuống, nhưng bọn họ vẫn đứng ngây ra, mọi ánh mắt đổ dồn về phía tôi và Bàn Tử.

Chương 49: Lối ra duy nhất

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Mộ đạo nghiêng xuống dưới, góc độ càng ngày càng dốc đứng, tôi và Bàn Tử rọi thẳng đèn pin xuống cũng không thấy đáy đâu, chỉ thấy một khoảng không tối đen thăm thẳm.

Tôi có phần hoảng hốt, chúng tôi đã đi một quãng rất xa, đã xuyên sâu vào lòng núi Trường Bạch, nếu còn đi xuống nữa thì sẽ đến nơi nào? Tâm trái đất sao?

Nhưng dẫu có là tâm trái đất thì chúng tôi cũng phải đi, bởi vì kí hiệu dẫn đường mà Muộn Du Bình để lại nói cho chúng tôi biết hắn thực sự đã đi xuống nơi này, giờ chúng tôi đi thêm một bước có nghĩa là đến gần sự thật hơn một chút. Chúng tôi không có lựa chọn nào khác, chỉ còn cách kiên trì đi xuống.

Nương theo ánh sáng đén pin đi được chừng hai mươi phút, Bàn Tử quay sang nói: “Tiểu Ngô, cậu có nhận ra không, trong lòng mộ đạo này ấm áp hơn hẳn?”

Tôi gật đầu, đáp: “Có lẽ đích đến của chúng ta rất gần địa tầng hoạt động của núi lửa, ở đó có dung nham hoặc suối nước nóng, nhiệt độ nhờ đó mới có thể dần dần tăng cao. Rốt cuộc năm đó Uông Tàng Hải đã đào tới tận đâu chứ?”

Bàn Tử cũng chịu, không thể trả lời câu hỏi này.

Lại đi thêm một lúc nữa, Bàn Tử đột ngột quay đầu hỏi tôi: “Cậu hãy khai thật cho tôi biết, cậu với Tiểu Ca kia có quan hệ đặc biệt gì đó phải không?”

Tôi suýt sặc nước miếng, không biết trả lời thế nào, mãi mới nghĩ ra mình đã hiểu lầm, cái ‘quan hệ’ hắn hỏi không phải loại ‘quan hệ’ mà tôi nghĩ.

(Làm sao anh có thể nghĩ xiên nghĩ xẹo một cách tai hại thế hả Tà =))))))) Đây đúng là người nói vô ý người nghe hữu tình mà =)))))

Vừa rồi đã có rất nhiều chuyện xảy ra trong khoảng thời gian ngắn, tôi cũng không kịp phản ứng. Bây giờ nghĩ kĩ lại, Bàn Tử vốn không biết khi ở Tần Lĩnh máu của tôi đã  có hiện tượng giống như bảo huyết lão Muộn. Đây là lần đầu tiên hắn chứng kiến cảnh này, bảo sao không giật mình cho được. Vì lúc ấy có mặt người của A Ninh nên không tiện hỏi, giờ chỉ còn lại hai người, hắn đương nhiên muốn hỏi chuyện này. Có điều với tính tình của hắn thì không đời nào có chuyện hỏi han nghiêm túc, hắn hỏi quan hệ giữa tôi và Muộn Du Bình, có lẽ chỉ là thắc mắc vì sao máu của tôi cũng có thể xua đuổi côn trùng?

Theo lời trợ lý Lương nói, máu tôi có năng lực kì lạ này hẳn là do ăn được máu kì lân dùng để hun khô thi thể. Nhưng tôi thực sự không nhớ nổi tôi đã nếm qua thứ này lúc nào, vả lại cũng chả biết cái khỉ biển gì về máu kỳ lân nên không thể trả lời hắn một cách chính xác. Mà thực ra chuyện vừa nãy cũng nằm ngoài ý muốn, là hành vi trong vô thức nên không thể chỉ dựa vào đó mà kết luận máu của tôi đã phát huy tác dụng.

Bàn Tử thấy tôi im thin thít, đinh ninh tôi cũng nghĩ như hắn, bèn nói: “Không chừng tên đó lại là anh em trai hoặc họ hàng thân thích của cậu thất lạc nhiều năm, cũng có thể là con riêng của cha cậu. Người nhà cậu ai cũng được di truyền thứ năng lực đặc biệt này.”

Tôi mắng: “Anh đừng nói bậy, cha tôi chỉ có tôi là con một. Người hủ nho như ông ấy mà có con riêng thì trên đời này không còn thằng đàn ông nào đáng tin nữa.”

Bàn Tử vẫn cho là trong chuyện này có điểm kỳ quặc, tôi không muốn tiếp tục chủ đề này nữa, bèn tìm cách đánh lạc hướng.

Đi mãi đi mãi, rốt cuộc cũng đến cuối mộ đạo, bỗng một cơn gió lạnh thổi tới khiến tinh thần tôi khẽ chấn động. Tôi vội chỉnh đèn pin thêm sáng, nhìn quanh bốn bề, phát hiện đây là một lang đài dựng cheo leo trên vách đá, khá giống đài cúng tế chúng tôi gặp trong linh cung giả bên dưới khung băng. Sàn đài dưới chân dùng cột trụ đỡ lơ lửng trên vách đá, chính giữa lang đài dựng một cái đỉnh đen cực lớn, một chân đỉnh đã lún xuống sàn đài bằng đá làm nó ngả nghiêng muốn đổ, hiển nhiên khi đặt chân lên đài này chúng tôi cũng phải coi chừng vì đá dưới chân đều đã biến chất. Mà ngoài rìa lang đài đều là vách đá, bên trên là một khoảng tối đen, nhìn không tới đỉnh.

Bàn Tử càu nhàu: “Thế quái nào mà… đến đây lại cùng đường rồi, mà cũng không thấy quan quách. Cái lão Vạn Nô vương rốt cuộc đã trốn vào xó xỉnh nào chứ?”

Tôi nói: “Đây vẫn chưa phải điểm kì quái nhất. Chúng ta đi theo kí hiệu của Tiểu Ca, dọc đường đi đều có manh mối hết sức rõ ràng, nhưng anh xem chỗ này chẳng có ma nào cả, không lẽ những người kia phát hiện ra đây là tử lộ nên đều đã trở về? Hay là….” Tôi nhìn màn đêm đen đặc bên cạnh, “Đã bay lên rồi?”

Chúng tôi đi đến mép lang đài, chợt thấy pháo sáng trên cao đột nhiên bốc cháy giống như mặt trời nhỏ giữa không gian tăm tối, phút chốc đã chiếu sáng cảnh tượng trước mắt chúng tôi.

Nương theo ánh sáng phát ra từ quả pháo, tôi nhận ra nơi này thực chất là một khe núi rất lớn. Lang đài chúng tôi đang đứng được dựng ở một bên vách đá của cái khe ấy, mà vách đá đối diện phải cách chúng tôi đến hai trăm mét. Khoảng cách xa xăm ấy cho người ta cảm giác mình đang đứng trên vách đá của vết đứt gãy Đông Phi (*), khiến chúng tôi không khỏi thét lên một tiếng kinh hãi.

(*) Là vết đứt gãy địa chất lớn nhất trên địa cầu, bao gồm hai nhánh có chiều dài tổng cộng khoảng 6000 km, chiều rộng từ 45 đến 100 km,  kéo dài từ Mozambique xuyên qua Tanzania, Kenya và Ethiopia, sau cùng nối với biển Đỏ. Xem thêm ở đây

Pháo sáng chầm chậm rơi xuống bên dưới lang đài, soi tỏ cảnh vật bên dưới. Xuất hiện trước mắt chúng tô lại là một cảnh tượng khiến người ta khiếp sợ, chỉ thấy trong lòng khe núi sâu không thấy đáy có vô số sợi xích thanh đồng to cỡ miệng bát chăng ngang, nối liền hai bên vách khe.

Theo luồng sáng đang chầm chậm rơi xuống, từ khoảng hai mươi mét về phía dưới đài cho đến sâu bên trong lòng khe có không biết bao nhiêu sợi xích tương tự, gần như không thấy chỗ nào thưa thớt. Mà sâu trong đám xích còn treo chi chít những vật gì đó trông như vô số quả chuông, nhưng khoảng cách quá xa nên tôi nhìn không rõ lắm.

Lúc này Bàn Tử đã tìm thấy một sợi dây thừng leo núi buông từ một bên mép lang đài xuống sợi xích thanh đồng gần nhất, đầu kia buộc chặt vào sợi xích đó.

Bàn Tử nhíu mày: “Ghê thật, Tiểu Ca kia kể cũng kiên trì, xem ra hắn đã leo xuống chỗ này rồi. Chúng có nên học khỉ leo dây không?”

Tôi đáp: “Anh xem xiềng xích bên dưới dày đặc thế kia, hẳn là leo không khó. Mà Có điều đây rốt cuộc là đâu? Tại sao lại bài trí kì quặc thế này? Chẳng lẽ quan quách của Vạn Nô vương nằm dưới khe núi này? Anh đã bao giờ nghĩ hồi ấy bọn họ làm thế nào mà đưa cái quan quách khổng lồ kia xuống đây không?”

Bàn Tử nói: “Dễ là vậy lắm, người xưa kiểu gì chẳng có những phương pháp xảo diệu của riêng mình. Chúng ta nên leo lên báo cho mấy gã ngoại quốc biết hay là tự mình leo xuống trước đây?”

Tôi nói: “Leo xuống rồi chẳng biết có còn đường trở về nữa không, chúng ta tội quái gì phải làm chó dò đường cho bọn họ. Cứ gọi cả đám xuống đây, trang bị lẫn kỹ thuật của bọn họ đều tối tân hơi chúng ta rất nhiều, xuống đây còn có chỗ dùng. Huống chi Phan Tử vẫn còn ở trên đó, vả lại chú Ba cũng đã tìm được rồi, kéo dài thời gian thêm được tí nào hay tí ấy.”

Bàn Tử nhớ tới cái gã Kirk cơ bắp cuồn cuộn kia, cũng đồng tình với tôi. Chúng tôi lại theo đường cũ trở ra, lần này đã biết rõ độ dài độ dốc con đường nên bất giác cũng đi nhanh hơn.

Đám người A Ninh chờ lâu sốt ruột, còn tưởng chúng tôi gặp chuyện gì, thấy chúng tôi lành lặn trở ra mới thở phào nhẹ nhõm. Tôi nhận cốc nước Phan Tử đưa cho, uống một ngụm rồi kể lại hết những thứ mình vừa trông thấy.

Vừa nghe tôi nói bên dưới có những sợi xích thanh đồng chăng ngang, A Ninh vội vàng lấy ra những tấm ảnh mình chụp được dưới hải mộ, chỉ vào một tấm trong số đó. Chỉ thấy bức bích họa trong hình vẽ những dũng sĩ Đông Hạ lưng đeo cung tiễn đang leo lên một vách đá, bối cảnh xung quanh chính là vô số vật thể trông giống sợi xích, rõ ràng nó miêu tả cảnh người Đông Hạ đang thăm dò khe núi khổng lồ trong lòng đất kia.

Tôi nói: “Xem ra những sợi xích này cũng không phải do người Đông Hạ lắp đặt. Khi đó bọn họ hẳn cũng rất tò mò, không biết dưới đáy cái khe được những sợi xích này phong tỏa trông như thế nào.”

Bàn Tử nói: “Hay những sợi xích này chính là biện pháp phòng ngự do những người đầu tiên xây dựng lăng mộ này dùng để ngăn thứ gì đó từ bên dưới bò lên? Ví dụ như cái thứ sinh vật nhuyễn thể màu đen khổng lồ được vẽ trong một bức bích họa ấy.”

Tôi gật đầu đáp: “Cũng có thể.” Lại quay sang hỏi A Ninh: “Bức bích họa đó là thứ mấy? Bức tiếp theo vẽ cái gì?”

A Ninh nói: “Dựa theo quy luật chung của bích họa tự thuật, đây là bức thứ sáu tính từ cuối lên, phía sau còn năm bức nữa, theo thứ tự là…”

A Ninh bày năm bức ảnh cuối cùng ra, tôi thấy một bức bích họa trong số đó vẽ vô vàn dũng sĩ Đông Hạ đang giương cung bắn tên, hình như đang chiến đấu rất ác liệt. Nhưng trên bích họa lại không vẽ kẻ địch, cho nên không thể biết bọn họ đang giao chiến với thứ gì. Tôi lại nhớ đến mấy con quái điểu mỗi khi bay lên thì không thể nhìn rõ thân hình, trong lòng thoáng căng thẳng, nghĩ bụng chẳng lẽ dưới kia cũng có loài vật này?

Mà bức ảnh kế tiếp, chính là cảnh vô số ác quỷ chui ra từ tảng đá.

Giữa những bức bích họa hình như cũng không liên quan đến nhau cho lắm, nhưng nhìn qua lại khiến người ta tha hồ liên tưởng, gợi lên nhiều cảm xúc.

A Ninh hỏi tôi: “Anh lại nhìn ra điểm gì kì quặc phải không, Ngô siêu nhân?

Tôi cười cười tự giễu: “Cũng không hẳn là nhìn ra cái gì. Cô xem, sau bức bích họa leo lên vách đá chính là những cảnh chiến đấu, tôi cảm thấy nó cho chúng ta biết sau khi leo xuống khe núi kia sẽ gặp thứ gì đó nguy hiểm, ai có vũ khí nên chuẩn bị cho tốt.”

Mấy người kia đều coi tôi như thủ lĩnh tinh thần, tôi nói gì thì làm nấy. Kirk vội vàng nâng khẩu M16 của mình lên, buộc chặt vào người mình. Chúng tôi thu dọn hành trang chuẩn bị lên đường, chui vô cái mộ đạo dẫn sâu vào lòng núi Trường Bạch.

Tôi đi sau cùng, tranh thủ xem tình hình chú Ba thế nào. Ổng vẫn hôn mê bất tỉnh, không rõ đã nhìn thấy thứ gì đáng sợ trong này. Phan Tử lại khiến tôi hết sức yên tâm, anh nói dù có phải bò lê bò lết anh cũng ráng đưa chú Ba ra khỏi cái nơi quỷ quái này.

Bước vào mộ đạo, nhìn những người đi trước đều tỏ ra căng thẳng, trong lòng tôi dấy lên một cảm giác kì lạ. Lúc này không có Trần Bì A Tứ cũng chẳng có chú Ba, tôi không thể không đảm đương vị trí lãnh đạo những người này. Cảm giác này tôi  chưa từng trải qua, kể cũng hơi khoái. Nhưng suy nghĩ và quyết định của tôi liệu có chính xác hay không? Lỡ đâu tôi đang đẩy những người này vào đất chết? Nghĩ đến đây tôi bắt đầu do dự.

Chẳng mấy chốc mọi người đều đã tới lang đài ban nãy, Bàn Tử lại bắn một quả pháo sáng để mọi người thấy được cảnh sắc đồ sộ xung quanh khe núi, còn tôi và Phan Tử rút dây thừng ra chuẩn bị leo xuống. Đây là một quyết định cực kì mạo hiểm, nhưng đường đi của chúng tôi đã bị bít kín hoàn toàn, không còn lựa chọn nào khác nữa.

Không biết tình hình bên dưới là thế nào, mà đám người A Ninh cũng chẳng phải hạng tốt đẹp gì. Tôi rút hết dây thừng ra rồi kéo Bàn Tử sang một bên, dặn dò hắn phải cẩn thận một chút. Hiện giờ chúng tôi gặp cảnh khó khăn, mọi người trông có vẻ hợp tác lắm, nhưng một khi tìm thấy dấu hiệu có đường ra bên dưới thì phải đề phòng ả đàn bà khốn nạn kia trở mặt.

Bàn Tử vỗ vỗ vai tôi, nháy mắt một cái, ý là đã sớm đề phòng. Sợ tôi còn lo lắng, hắn lại kéo một góc áo lên cho tôi xem, bên hông hắn còn buộc mười cái ngòi nổ.

Chúng tôi giật thử vài cái, sợi dây thừng của Muộn Du Bình cực kì chắc chắn. Phan Tử vẫn xung phong làm người đi đầu, hạ xuống sợi xích đầu tiên rồi anh treo người lơ lửng như vận động viên xà đơn, nhẹ nhàng nhảy xuống một sợi xích khác bên dưới. Cứ lặp đi lặp lại như thế năm sáu lần, đi xuống hơn mười mét, anh dừng lại dùng tay làm dấu ‘OK’ với tôi.

Trang bị của đám A Ninh tốt hơn chúng tôi rất nhiều. Kirk mang một ngọn đèn dẫn đường tản sáng, biến bản thân thành một bóng đèn di dộng rồi nối tiếp Phan Tử. Chúng tôi lấy đầu của Kirk làm mốc, lục tục leo xuống khỏi lang đài, tiến vào thế giới xiềng xích lơ lửng trên không.

Được cái xích ken khá dày nên leo xuống rất tiện, cóc cần biết những sợi xích thanh đồng này ban đầu được bố trí ở đây để làm gì thì bây giờ cũng biến thành cái thang tiện lợi cho chúng tôi leo xuống. Leo được một lúc lâu, các động tác cũng thuần thục hơn, lại nắm được vài bí quyết, cảm giác không khác chi Spider Man tái thế.

Mười mấy người chúng tôi thong thả leo dần xuống dưới như những con nhện, dọc đường đi cũng không xảy ra chuyện gì đột ngột, mà xích thì chắc chắn khỏi bàn. Bốn giờ sau, lang đài phía trên đã biến thành một chấm nhỏ xíu, chúng tôi đã tiến sâu vào trong khe núi, đi vào phạm vi mà người đứng trên không thể nhìn tới. Những sợi xích thanh đồng treo thứ gì đó giống như chiếc chuông khổng lồ mà lúc ở trên kia chúng tôi nhìn không rõ lắm, giờ cũng dần dần hiện ra trong tầm mắt.

Ngắm nhìn thật kĩ, tôi thổi cái còi con dơi ra hiệu cho Kirk và Phan Tử ở dưới cùng dừng lại. Nhìn qua ống nhòm ban đêm của A Ninh xuống bên dưới, giữa màu xanh biếc u uẩn bao phủ tầm nhìn, tôi thấy những vật thể treo lơ lửng trên mấy sợi xích thì ra là mấy xác chết treo cổ. Một sợi tơ màu đen giống như sợi tóc kéo dài từ gáy bọn họ ra ngoài, vắt lên lên những sợi xích. Tôi muốn đếm nhưng số lượng xác chết treo trên đám xích bên dưới quá nhiều, gần như không thể đếm nổi.

Theo thông tin trong long ngư mật văn của Uông Tàng Hải, cái loài quái điểu đầu người khi bay chẳng thấy tăm hơi, phải rơi xuống đất mới lòi mặt ra mà chúng tôi gặp lúc trước rất thích treo con mồi lủng lẳng đầu cành để hong gió cho khô làm thức ăn dự trữ. Nơi này có vô số thi thể, lẽ nào bên dưới là sào huyệt của bọn chúng?

Hèn chi mà Muộn Du Bình nói chúng tôi tuyệt đối không được xuống nơi này. Nhưng bây giờ chúng tôi cũng đâu còn đường nào khác để đi, không liều mạng leo xuống một phen chẳng phải là chết chắc sao? Tôi cố đè nén nỗi sợ hãi trong lòng, vẫy tay ra hiệu cho mọi người đề phòng rồi tiếp tục leo xuống.

Đã xuống tận đây rồi, cho dù bên dưới có là địa ngục thì chúng tôi vẫn phải kiên trì đi tiếp.

Chương 50: Sào huyệt của thần gác cửa

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Những thi thể này đều mặc giáp trụ rách nát tả tơi, một số đã bị gió hong khô thành xác ướp, số khác chỉ còn lại nửa bộ xương khô, có lẽ họ đều là dũng sĩ Nữ Chân năm đó chết trên đường đi thăm dò nơi đây. Có điều vũ khí của họ khi ấy vẫn rất thô sơ, còn bây giờ chúng tôi có cả đống M16 và Cạc-bin 56(*), hỏa lực cực mạnh, nghĩ đến đây tôi cũng an tâm hơn nhiều.

Tiến vào phạm vi những sợi xích treo thi thể, lại leo xuống gần năm mươi mét nữa, lúc này trên dưới trái phải đều là xác chết. Những tròng mắt mục nát trống rỗng cứ ngó đăm đăm khiến người ta không thoải mái chút nào, bầu không khí phút chốc trở nên u ám.

Để phòng ngừa có thứ gì xuất hiện trong góc chết của tầm nhìn, hoặc là để xua đi nỗi sợ hãi ám ảnh này, có vài người đã châm pháo lạnh lên, không gian bừng sáng hơn bao giờ hết.

Lạ một nỗi mọi người chờ mãi vẫn không thấy con quái điểu nào ló mặt ra, tôi cũng không cảm nhận được những xao động khi chúng bay trong không khí, bốn bề đều yên ắng đến lạ thường.

Bàn Tử chỉ vào một thi thể treo lủng lẳng bên cạnh, khẽ hỏi tôi: “Toàn là thi thể từ đời tám hoánh, không có cái nào mới cả, hay chỗ này đã bị bỏ hoang rồi?”

Tôi lắc đầu, ý bảo hắn đừng nói nữa. Khả năng này cũng có, nhưng quái điểu trong này có thể ra ngoài kia săn mồi, chứng tỏ gần đây chắc chắn có lối ra. Hi vọng của chúng tôi đã tăng lên rất nhiều.

Đương nhiên cũng có thể chúng nó chỉ tạm thời đi vắng, giống như đàn dơi mỗi khi kiếm mồi đều bay cả đàn ra ngoài cùng lúc, nếu là như thế thì chúng tôi phải mau mau mà ra khỏi chỗ này. Vì thế tôi lại hô lớn một tiếng, thúc giục mọi người tăng tốc.

Đúng lúc này, Phan Tử và Kirk đi trước bỗng dừng lại, Phan Tử xoay người vẫy vẫy tôi qua chỗ anh.

Tôi bảo những người khác nghỉ ngơi tại chỗ, còn mình thì nhanh chóng leo xuống hơn mười sợi xích, tới gần Kirk xem xét. Thì ra đèn pin công suất lớn của hắn đã chiếu đến đáy khe núi khổng lồ, xem ra kiếp sống Spider Man của chúng tôi đã sắp kết thúc rồi.

Có điều ánh sáng đèn pin phân tán quá mạnh, không thể nhìn rõ bên dưới là thứ gì, Sau khi đi qua nhiều cổ mộ quỷ quái ở Trung Quốc, gã người Đức này rõ ràng đã mất lòng tin vào khả năng phán đoán của bản thân, cho nên mọi việc đều muốn đưa tôi xem qua mới có thể quyết định.

Cái khe trong lòng đất này cực lớn, chiếu đèn pin không thể nhìn rõ được. Tôi chỉ biết bên dưới có thứ gì đó nhưng chính xác là thứ gì lại không tài nào nhìn ra, dùng ống nhòm ban đêm cũng chỉ thấy một cái bóng mơ hồ xanh biếc.

Chúng tôi còn mấy quả pháo sáng, vốn định dè sẻn nhưng gặp tình cảnh này xem ra không thể dè sẻn được rồi. Tôi bảo Bàn Tử nghĩ cách bắn ra một quả pháo sáng, trong hoàn cảnh này hãy cố làm sao kéo dài thời gian chiếu sáng thêm một chút.

Pháo sáng của đám người A Ninh đúng là hiện đại hơn chúng tôi, Bàn Tử rất thạo việc, biết rõ phải dùng thế nào, liền ra dấu “OK” với tôi.

Hắn lấy một cây gậy huỳnh quang, lấy dao cắt ra, phết chất sơn bên trong vào đầu đạn pháo sáng rồi ném quả pháo xuống vực sâu. Chúng tôi chỉ nhìn thấy một chấm huỳnh quang nhỏ rơi xuống như vệt sao băng, chạm vào đáy khe núi, nảy lên hai cái rồi nằm im.

Tiếp theo, Bàn Tử giương súng trường Cạc-bin56, bắn liền ba phát vào đầu đạn bên dưới khiến pháo sáng tức thì cháy lên, cả đáy khe được chiếu sáng bừng.

Đúng là đã tới đáy khe, dưới nền là những tảng đá núi lửa màu đen lởm chởm mấp mô xen lẫn với với xác chết rơi xuống từ phía trên. Lớp xương cốt và chất bài tiết chồng chất không biết bao nhiêu tầng, gần như bao trùm toàn bộ bề mặt khối nham thạch. Mà ở một bên vách đá dưới đáy khe, có hai cánh cửa thanh đồng cực lớn.

Tôi không biết dùng lời nào để tả độ hoành tráng của cánh cửa này. Cửa cao cỡ ba mươi mét, rộng chừng sáu mươi mét, nếu cứ tính theo tiêu chuẩn nhà lầu bây giờ là ba mét một tầng thì cánh cửa này phải cao ngang ngửa một tòa nhà mười tầng.

Thoạt nhìn cánh cửa tựa như được đúc thành một khối nguyên, thứ này tuyệt đối không thể là đồ do người xưa đúc ra, cũng tuyệt đối không dành cho con người, bởi vì cánh cửa này nặng hơn vạn tấn, đặt trên khối nham thạch, con người đâu thể mở nó ra?

A Ninh nói: “Đây nhất định là cánh cửa cực lớn dưới lòng đất trong truyền thuyết Đông Hạ, nơi các đời Vạn Nô vương xuất hiện. Mỗi lần thay vương vị, bọn họ sẽ dùng da người sống để phong bế cánh cửa lại. Anh đoán xem… đằng sau cánh cửa đó là nơi nào?”

Tôi lắc đầu, tâm trí căn bản đang lơ lửng tận đâu đâu. Thầm nghĩ cánh cửa khổng lồ này rốt cuộc là do ai đúc ra? Vạn Nô vương đi ra như thế nào? Chẳng lẽ hắn thực sự là thần, có thần lực mở được cánh cửa nặng hàng vạn tấn? Nghĩ đoạn tôi lẩm bẩm: “Không cần biết bên trong là nơi nào, chúng ta tuyệt đối không thể vào được.”

Lần tôi vào núi Tần Lĩnh đã nhìn thấy cây Thanh đồng, cũng mà một vật bằng thanh đồng khổng lồ, cũng chôn sâu trong lòng sơn mạch giống như thế này. Những thần khí Thanh đồng khổng lồ mà con người không thể tạo tác này có mối liên hệ nào với nhau không? Phải chăng trong lòng những dãy núi lớn khác như Côn Lôn, Himalaya cũng có những vật như thế này tồn tại?

Tôi lờ mờ cảm thấy dường như mình đang đến gần một bí ẩn vĩ đại từ thời viễn cổ, một nỗi tự ti mơ hồ cũng bất giác nảy sinh. So với những thứ thần bí cổ xưa này, tôi thấy mình thật nhỏ bé, mà ngay cả hy vọng có ngày hiểu ra chân tướng cũng quá xa vời.

Pháo sáng dần lụi tắt, mặt đất lại chìm vào bóng đêm. Nhưng tôi vẫn cứ đứng ngây ra đó, cho đến khi Phan Tử vỗ vai mình, nói: “Đi xuống thôi.” tôi mới hồi phục tinh thần.

Chúng tôi lần lượt leo theo những sợi xích, rất nhanh đã xuống đến đáy khe. Cẩn thận dẫm lên lớp xương nằm dưới chân, đứng trước cánh cửa Thanh đồng khổng lồ kia, cảm giác mình thật nhỏ bé lại càng trở nên mãnh liệt, tôi quả thực xúc động đến nỗi muốn quỳ xuống luôn.

Những người sống ở thời hiện đại như chúng tôi khi tới nơi đây đều trỗi lên thứ cảm giác này, cũng không khó tưởng tượng những dũng sĩ Đông Hạ năm đó phải chịu vô vàn khổ cực theo Uông Tàng Hải xuống đây đã khiếp sợ đến chừng nào. Chẳng trách bọn họ nhớ mãi không quên những gì đã trải qua bên dưới, cho nên mới liều chết ghi lại hết thảy mọi chuyện để lưu truyền hậu thế. Tôi thậm chí có thể cảm nhận được nỗi thống khổ của Uông Tàng Hải, thấu hiểu nỗi sợ hãi khi trước đó vẫn đinh ninh mình đã hiểu rõ quy luật của vũ trụ, rồi lại đột nhiên phát hiện ra mình chẳng biết chút gì.

Đang thả hồn vào mây gió, Bàn Tử bên cạnh đã cắt đứt mạch suy nghĩ của tôi.

Hắn chiếu đèn pin vào bên trong khe núi. Khe núi này rộng chừng năm sáu trăm mét, trên mặt đất ngổn ngang từng đống đá vụn trông như những hòn núi nhỏ. Bàn Tử đã đi được rất xa, nhìn vào bên trong khe núi chỉ thấy một khối đá cực lớn được đục đẽo thành những cái đài bằng phẳng nối tiếp nhau, nhìn tổng thể giống như một tòa kim tự tháp cỡ nhỏ. Một bên khối đá có cầu thang dài dẫn xuống, mỗi bậc thang đều đặt hai đăng nô nhỏ ở hai bên.

Thứ thu hút Bàn Tử là vật nằm trên đài đá, đó là một quan quách bằng đá trắng to cỡ cái xe con, dưới chân có chín bức thạch điêu bách túc long bao quanh, tạo thành hình hoa sen. Bốn phía còn dựng bốn tượng người bằng đá đen đang quỳ lạy, quay mặt ra bốn phía.

Phía trước quan tài đặt một cái đỉnh lớn để chứa tế phẩm, mặt sau dựng một tòa ảnh bích, không nhìn rõ bên trên điêu khắc những gì. Mấy thứ này nhìn từ trên kia xuống trông như những tảng đá bình thường, khó lòng thấy được rõ ràng, cho nên vừa rồi tôi mới không để ý.

Tôi hít một hơi khí lạnh: “Chẳng lẽ đây chính là… Cửu Long bàn thi quan của Vạn Nô vương, được nhắc đến trong long ngư mật văn của Uông Tàng Hải?”

Bàn Tử hồ hởi: “Chắc chắn là vậy rồi. Ai cũng nói bên dưới quan tài của Vạn Nô vương có chín con thần long canh giữ, cậu xem dưới quan tài này chẳng phải vừa hay có chín con rết đấy thôi. Tôi còn tưởng lão Trần Bì A Tứ đó lòe bịp chúng ta, ai ngờ lại là thật!

Vẫn tưởng rằng Vạn Nô vương chỉ có quan tài giả đặt trong mộ thất dưới địa cung, còn thi thể thật thì đem thiên táng nên tôi đã sớm từ bỏ hi vọng tìm được quan tài thực sự, nào ngờ lại phát hiện ra Cửu Long bàn thi quan ở nơi này. Ai nấy đều kích động, có vài người đã sốt ruột mà chạy tới xem. A Ninh ở đằng kia vội vã gọi bọn họ lại: “Đừng qua đó! Nguy hiểm lắm!”

Những người đang chạy nghe A Ninh nói thế thì lập tức dừng chân. A Ninh hô to: “Các anh không thấy mấy con du diên long bên dưới quan tài hay sao?”

Bàn Tử đốp lại: “Con lạy mẹ, đấy chỉ là thạch điêu thôi, nguy hiểm cái nhồng gì. Mắt mẹ quáng gà rồi hả?”

A Ninh dựng đứng đôi mày thanh mảnh, nói: “Tổ sư nhà anh, có mắt anh mới quáng gà, tôi không nói mấy cái thạch điêu kia. Anh nhìn sang bên cạnh bệ đá đi!”

Bên cạnh bệ đá? Tôi thấy nét mặt A Ninh cực kì nghiêm túc, nhưng tôi nhìn trái ngó phải quanh cái bệ đá mà chẳng nhìn ra cái gì, không biết rốt cuộc cô ta vì sao lại căng thẳng nữa, đành bảo cô ta chỉ cho mình thấy.

A Ninh lấy đèn pin làm thước giáo viên, chỉ xuống phía dưới. Lúc đầu tôi vẫn không phát hiện được gì cả, đang bực mình thì chợt thấy bệ đá trước mặt khẽ động. Lúc này tôi mới nhìn ra trên bệ đá có một con du diên núi lửa bự chảng, dài chừng năm sáu mét đang uốn mình. Do nó quá lớn, hơn nữa lớp vỏ của nó cùng màu với đá núi lửa nên nhìn thoáng qua không thể phát hiện có một vật như thế đang bám bên trên. Đã phát hiện được một con, lập tức nhìn ra con thứ hai, thứ ba, thứ tư… chúng tôi đếm được tổng cộng chín con du diên cỡ bự uốn quanh bệ đá, giống hệt phù điêu, gần như hòa làm một vào nền đá xung quanh.

Cửu Long bàn thi, thật xứng với cái tên Cửu Long bàn thi!

A Ninh nói: “Các anh mà leo lên bệ đá thì còn chưa hiểu mô tê gì đã bị chúng nó cắn đứt đôi người rồi. Du diên núi lửa là loài côn trùng ăn thịt, cực kì nhanh nhẹn và hung ác, vóc người chúng ta lại chính là kiểu mồi mà nó thích nhất.”

Tôi đã trải qua rất nhiều chuyện quái đản, nếu mấy con du diên này chỉ dài cỡ một mét thì tôi còn chấp nhận được. Dẫu sao đây cũng là khe nứt ngầm trong lòng núi lửa, môi trường và thành phần không khí khác xa trên mặt đất, vả lại ở những vùng khác trên thế giới cũng từng phát hiện du diên dài cỡ đó. Nhưng loài côn trùng với kích thước vượt xa mức thông thường thế này thì đây là lần đầu tiên tôi được thấy, tụi này đúng là quái vật đột biến do phóng xạ hay gặp trong phim kinh dị Mỹ đây mà.

Một chuyên gia gốc Hoa trong đoàn của A Ninh chợt lẩm bẩm: “Quái lạ, loài du diên bình thường chỉ sống được hai đến ba năm, đáng ra mới dài bằng ngón tay đã chết. Thế mà mấy con kia lại to đùng như vậy, chẳng lẽ đã sống mấy ngàn năm?”

=====

(*) Cạc-bin 56: Vốn là 56式半自動步槍 (súng trường bán tự động kiểu 56) do Trung Quốc sản xuất mô phỏng theo khẩu CKC-45 (hay đúng ra là SKS) của Liên Xô. Chính ra tên Tàu phải là 56 thức bộ kỵ thương (56式步騎槍, súng cạc bin kiểu 56) thì mới giống tên gốc của Nga. Trong đây mình gọi là “Cạc-bin 56″ để phân biệt rạch ròi, không bị nhầm lẫn với khẩu K56 (hay còn gọi là AK Tàu).

Chương 51: Vòng vây trùng điệp

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Nhìn chín con du diên bự chảng cuộn tròn quanh cái bệ đá trong lòng khe núi, tuy tụi nó không hề cựa quậy nhưng vẫn gây ra cho chúng tôi một áp lực rất lớn, ai nấy đều tái mặt, vừa lùi vừa lôi vũ khí ra.

Chuyên gia gốc Hoa kia nói: “Các anh không cần căng thẳng quá, giờ đang là mùa lạnh, nhiệt độ không khí nơi này rất thấp, du diên vẫn còn ngủ đông, những con sâu khổng lồ này cũng không dễ dàng tỉnh lại đâu.”

A Ninh nói: “Không dễ tỉnh tức là vẫn có thể tỉnh, chúng ta đúng là món điểm tâm mùa đông lý tưởng của chúng.”

Bàn Tử lại nổi sát tâm, nói: “Cóc cần biết nó thức hay tỉnh, ông đây cứ cho nó mấy viên kẹo đồng vào đầu, dù có lớn gấp mười lần thì cũng ngỏm hết. Sau đó chúng ta sẽ đi xem cái lão Vạn Nô vương muôn kiếp không già bò ra từ trong lòng đất kia là người hay yêu.”

Phan Tử xua tay ngăn cản:”Tuyệt đối không thể, anh còn nhớ Thuận Tử từng nói du diên chết đi sẽ đánh thức đồng loại đang ngủ đông của mình không? Cái khe nứt này chạy dài theo dãy núi Trường Bạch, anh cũng thừa hiểu bên trong có bao nhiêu du diên, đến lúc đó lại có mấy con bự hơn bò ra để báo thù cho đồ tử đồ tôn nhà mình thì xong đời.”

Tôi giơ ống nhòm ban đêm lên, định nhìn lại cho rõ ràng hơn. Du diên lớn cỡ này không chừng lại là hóa thạch của côn trùng thời cổ đại, tôi quả thực không tin nổi chúng vẫn còn sống. Đưa ống nhòm lên lại thấy những phù điêu nhập nhằng trên ảnh bích đằng sau quan quách hóa ra viết đầy văn tự Nữ Chân. Tôi sửng sốt, trong lòng kích động.

Phù điêu trên ảnh bích chi chít văn tự, mà một đám văn tự tụ tập cùng một chỗ như thế dĩ nhiên phải mang nội dung tự thuật. Trong những kiến trúc do Uông Tàng Hải xây dựng rất ít khi gặp văn tự, mà ở đây lại xuất hiện dày đặc, rất có thể nó chính là tư liệu quý giá nhất trong cổ mộ – mộ chí của chủ nhân.

Tôi vội gọi gã thuộc hạ nhỏ con biết đọc văn tự Nữ Chân của A Ninh, đưa ống nhòm cho gã, bảo gã đọc giùm tôi trên kia viết cái gì.

Gã nhỏ con kia vừa nhìn qua, nét mặt đã trở nên mê man. Gã nói tuy những chữ này thoạt nhìn rất giống văn tự Nữ Chân nhưng lại không phải chữ Nữ Chân, mà là một loại văn tự khác cùng ngữ hệ, nhất thời gã cũng không hiểu nó viết gì.

Tôi thoáng nhụt chí, chửi thầm trong lòng, cái gã Vạn Nô vương này cũng quá gian manh, không để cho người ta chút sơ hở nào.

Chẳng trách một người tâm tư thâm trầm như Uông Tàng Hải đã ở đây đến hai mươi năm, trực tiếp tham gia tu tạo hoàng lăng cổ, vậy mà cũng không thể tìm ra mấu chốt cái  bí mật mà vương triều Vạn Nô đời đời che giấu. Vạn Nô vương kia đã bố trí cho mình một chướng ngại không thể vượt qua, vậy thì những kẻ chỉ biết hành động dựa trên suy đoán như chúng tôi lại càng khỏi cần bàn đến.

Chỉ tiếc Hoa hòa thượng không có ở đây. Gã làm nghề này đã nhiều năm, có thói quen suy nghĩ thấu đáo hơn người khác, nếu gã ở đây không chừng có thể đoán được sơ sơ nội dung. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì thấy cũng không hẳn, nếu có Hoa hòa thượng ở đây, tình hình sẽ trở nên phức tạp vượt khỏi tầm kiểm soát của tôi mất.

Những ý niệm liên tiếp nảy sinh trong đầu, rốt cuộc tôi cũng chẳng hiểu mình đang nghĩ đi đằng nào nữa. Chợt tôi nghe tiếng gọi của Phan Tử: “Bàn Tử? Anh không sao chứ? Có cần đổi người không?”

Tôi rất ghét nghe Phan Tử gọi tên Bàn Tử, nghe thế thì giật mình, ngẩng đầu lên xem thì thấy Bàn Tử và cái tên Kirk kia đã leo lên một sợi xích, cẩn thận bò lên phía trên bệ đá chứa quan quách. Thắt lưng Bàn Tử buộc một sợi dây thừng, đại khái trông giống Tom Cruise, đang treo người lủng lẳng vào một sợi xích, nhẹ nhàng leo tới phía trên quan quách. Vậy mà những người khác không những không ngăn cản, ngược lại còn đứng dưới chỉ trỏ Bàn Tử.

Tôi hỏi A Ninh có chuyện gì vậy, mấy người kia chuẩn bị xem tiết mục Cửu long hí Bàn châu sao?

(Cửu long hí bàn châu: chín con rồng đùa giỡn viên ngọc mập aka 9 con du diên bên dưới chơi đùa với Bàn Tử =))

A Ninh đáp: “Anh đừng lo, dùng cách này sẽ không quấy rầy đến đám du diên ngủ đông, hơn nữa vừa rồi tôi phát hiện ra đuôi của mấy con du diên này đều bị sợi xích thanh đồng khóa vào cái cọc bên dưới bệ đá, nghĩa là phạm vi hoạt động của chúng có hạn, chỉ những kẻ đến gần chúng mới gặp nguy hiểm. Ai đã đến nơi này đều muốn xem bên trong quan quách của Vạn Nô vương có gì, tìm thấy quan quách rồi lại không được xem thì ai mà chịu nổi.”

Tôi nói cho dù Bàn Tử có thể đu xuống thì cũng không thể mở được nắp quan quách đá lớn bằng chừng kia, cô chỉ muốn cho hắn bẽ mặt thôi chứ gì. A Ninh đáp: “Anh ta không cần mở nắp quan quách, mà chỉ cần dùng khải quan câu móc vào khe hở trên quan quách. Chúng tôi đã vắt một cái ròng rọc lên sợi xích thanh đồng phía trên, sau đó sẽ đứng đây kéo nắp quan quách ra.”

Trong lòng tôi có phần khó chịu. Cô ả A Ninh này vẫn cố thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm vật gì đó trong quan tài mà công ty giao phó, cho dù đã đến nước này cô ta vẫn không chịu buông tay. Tuy tôi không biết cô ta muốn tìm vật gì, nhưng vẫn cảm thấy không có lí do nào đủ sức khiến người ta coi một món đồ quan trọng hơn cả tính mạng mình. Vả lại những sợi xích thanh đồng phía trên quan sàng hình như dày hơn bình thường, khi thiết kế Uông Tàng Hải không thể không nghĩ ra trò mèo này của dân trộm mộ, hẳn phải có lý do khác thường khiến ông ta cho rằng phía trên không cần phòng bị. Tên Bàn Tử ngu ngốc kia đòi làm tiên phong hẳn là vì đinh ninh người đầu tiên khai quan sẽ kiếm được món hời, tôi phải ngăn hắn lại mới được.

Tôi vừa mới ra hiệu cho Bàn Tử thì đã có biến cố xảy ra. Kirk đang leo phía trên Bàn Tử đột ngột tuột khỏi dây xích, nháy mắt đã đâm sầm xuống quan sàng, phát ra một âm thanh trầm đục, đầu chúc xuống dưới, vỡ toác ra.

Không ai biết Kirk đã xảy ra chuyện gì. Bàn Tử đang điều chỉnh lại tư thế nhảy, thấy Kirk nhảy còn nhanh hơn mình thì ngây ra không hiểu gì cả. Kế đó hắn cũng đột ngột bay thẳng lên, khoa chân múa tay xoay xoay mấy vòng trên không trung một hồi rồi rơi tự do xuống. May mà thắt lưng hắn còn buộc dây thừng, đúng vào lúc đầu hắn sắp đụng quan quách thì dây thừng khựng lại, bên dưới chính là thi thể của Kirk.

Tôi sợ đến suýt ngất xỉu, cảnh tượng này thực sự vô cùng quỷ dị, chẳng lẽ trên sợi xích kia có thứ gì đẩy bọn họ rơi xuống?

Nghĩ đến đây, tôi vội vàng quay sang Phan Tử đang đứng ngây ra như phỗng, kêu to: “Pháo sáng! Mọi người mau đốt pháo!”

Mọi người lập tức phản ứng, chẳng ai còn hơi sức đâu mà để ý đến Bàn Tử nữa. Phan Tử bắn một quả pháo sáng, bùng nổ giữa không trung, thoáng cái chúng tôi đã trông thấy vô vàn cái bóng bay lượn trên đỉnh đầu, vài con đã treo người lên những sợi xích, đưa đôi mắt tò mò nhìn mấy kẻ kì quặc đang xâm nhập vào sào huyệt của mình.

Hóa ra là loài quái điểu này không biết đã quay về từ lúc nào mà không phát ra một tiếng động. Tôi thậm chí còn thấy trong đàn quái điểu bay lượn giữa không trung, có mấy con còn quắp thứ gì đó, hiển nhiên chúng đã tóm được mồi. Tôi giơ tay ra hiệu cho đám người mang vũ khí kia tuyệt đối không được nổ súng.

Loài quái điểu này giống như mù dở, dưới ánh sáng lóa mắt căn bản không nhìn thấy chúng tôi, nhưng đối với âm thanh lại vô cùng nhạy cảm. Trước kia một phát súng nã trong môn điện của chúng tôi đã dẫn đường cho hàng đống hàng đàn quái điểu từ bốn phương tám hướng bay tới. Hiển nhiên là sống trong miệng núi lửa ngầm quanh năm không thấy ánh mặt trời, loài sinh vật này này đã sớm thích nghi với cuộc sống trong bóng đêm.

Tôi đã bảo không được nổ súng, vậy mà vẫn có người không thèm nghe, hơn nữa không chỉ một tiếng mà là một tràng liên tiếp. Tiếng súng trong đáy khe trống trải lại càng thêm vang dội, vang đến tận mây xanh. Không trung tức khắc trở nên hỗn loạn, vô số cái bóng đang bay lượn bắt đầu đâm thẳng xuống dưới.

Tôi trợn mắt, quay đầu lại xem tên khốn kiếp nào đã kháng mệnh, lại thấy Bàn Tử treo phía trên bệ đá đang tìm cách bò lên dây thừng, trên tay cầm khẩu M16 của Kirk, lúc này hắn đang bắn xối xả xuống quan tài bên dưới.

Nhìn kỹ hơn, tôi phát hiện trong quan quách cực lớn của Vạn Nô vương không biết từ khi nào đã hé ra một khe hở. Ba ‘cánh tay’ xanh xanh tím tím, chú ý, là ba cái, chui từ trong quan tài ra, những ‘móng tay’ dài lạ thường quơ quào giữa không trung, muốn tóm lấy Bàn Tử bên trên.

Chương 52: Quan Âm nghìn tay

Editor: Earl Panda

Beta: Thanh Du

~0O0~

Pháo sáng vụt tắt giữa không trung, màn đêm nhanh chóng đổ ụp lên khung cảnh. Phan Tử lập tức đốt thêm một quả pháo sáng nữa rồi ném lên cao, một luồng sáng tức thì cháy bùng lên. Tiếp đó mọi người đứng dưới đất đồng loạt nổ súng, hơn mười tia lửa xẹt thẳng vào không trung, chẳng mấy chốc, trong những cái bóng đang bay lượn trên đỉnh thiên cung đã có mấy con trúng đạn, rớt bịch xuống đất.

Ánh sáng mạnh có thể khiến mấy con vật này sinh ra ảo giác tạm thời, giống như khi bạn đứng trước mặt một con gấu chó, làm động tác và giả tiếng kêu của vịt thì con gấu chó đó sẽ không phân biệt nổi rốt cuộc bạn là người hay là vịt trong một khoảng thời gian ngắn. Nhưng hiệu ứng này chỉ là tạm thời, mà nếu tôi nhớ không lầm thì đây chính là quả pháo sáng cuối cùng của chúng tôi.

Nơi này có vô số quái điểu, chỉ lát nữa thôi, khi quả pháo sáng kia tắt, chúng tôi sẽ bị xé xác không thương tiếc trong bóng tối đen kịt.

Bọn quái điểu càng ngày càng sà xuống thấp, thậm chí có con đã bay sượt qua cả đỉnh đầu. Chúng tôi vốn không đủ đạn dược để bắn trả với cường độ dữ dội như thế, chẳng mấy chốc, mấy khẩu súng đều hết sạch đạn. Bàn Tử đang lâm vào tình thế vô cùng nguy cấp, giờ nếu không ai đi cứu hắn, đảm bảo dù hắn có lớn mạng cỡ nào cũng phải tiêu đời.

Đang lúc tiến thoái lưỡng nan, chẳng biết phải làm gì, bỗng Bàn Tử bắn một phát trúng ngay dưới chân tôi, khiến tôi giật bắn người. Tôi ngẩng đầu nhìn khẩu hình của hắn, liền hiểu ý của hắn muốn bảo chúng tôi rằng, mau chạy!

Tôi nhanh chóng quyết định, bèn quay sang nói với Phan Tử: “Anh dẫn chú Ba và những người khác chạy về đầu kia của khe núi. Chỗ này là sào huyệt của bọn quái điểu, chúng nó nhất định sẽ bay xuôi theo cái khe này ra ngoài kiếm ăn. Anh xem chúng nó bay theo hướng nào thì mình chạy theo hướng đó, cứ chạy cật lực, đừng lo cho tôi, tôi đi cứu Bàn Tử!”

Phan Tử kéo tôi lại, nói: “Cậu có chịu được không, chi bằng cứ để tôi đi cứu Bàn Tử, cậu đưa ông Ba đi đi!”

Tôi đáp: “Tôi vác không nổi lão già kia!” Nói đoạn liền vung tay lên cho anh xem vết thương của mình, “Ông đây thân có máu quý, chắc chắn không sao!”

Phan Tử thấy vết thương của tôi thì cũng có phần an tâm, gật đầu, nói: “Cẩn thận, chúng tôi chờ cậu ở bên ngoài!”. Nói đoạn, anh cõng lão chú Ba đã không thể nhúc nhích nổi kia lên lưng, quay sang những người còn lại hét to: “Chạy theo tôi!” rồi mau chóng chạy về một đầu của cái khe.

Tôi đỡ lấy khẩu súng Phan Tử quăng cho, “cạch” một phát mở hộp đạn kiểm tra, còn ba viên, mẹ nó vãi cả hào phóng luôn. Những người khác chạy như điên qua chỗ tôi đứng, lớn tiếng bảo tôi mau đuổi theo, tôi đều bỏ ngoài tai cả. Bấy giờ tôi thấy A Ninh cũng đứng khựng tại một chỗ, mặt tái đi, không hề nhúc nhích.

Tôi đi tới vỗ vai cô ả một cái, kêu cô ả mau chạy. Cô ả liền hất tay tôi ra, “cạch” một tiếng lên đạn, chả hiểu lại định làm trò gì.

Tôi biết, cái ngữ này có khuyên bảo cũng vô dụng, bèn không để ý tới cô ta nữa, cầm súng chạy lên đài đá.

Hên cái là trong tình cảnh hỗn loạn này, mấy con du diên khổng lồ đang ngủ đông quanh bệ quan tài vẫn không thức giấc. Hoặc có lẽ, do chìm vào giấc ngủ say trải dài suốt nhiều năm tháng, những con trùng khổng lồ này đã chết từ lâu.

Lúc này tôi cũng chẳng hơi đâu mà nghĩ nhiều, bèn kêu to: “Bàn Tử! Quăng đây mấy viên đạn Carbine 56 (*) cái! Để tôi yểm trợ cho anh!”

(*) Carbine 56: Nguyên văn là 五六式半自动步枪  (súng trường bán tự động 56), là loại súng do Trung Quốc nhái lại từ khẩu SKS bán tự động của Liên Xô, vì thế hình dáng bên ngoài tương đối giống nhau, cách sử dụng cũng tương tự. Trong những chương trước mình vẫn để là K56, gần đây mới phát hiện ra K56 là loại súng khác, cũng của Trung Quốc nhưng mô phỏng theo AK47, để tránh nhầm lẫn từ giờ sẽ đổi hết lại là Carbine 56.

Súng của Bàn Tử là loại Carbine 56 nên trên người cũng giắt toàn đạn 56. Khi leo lên, cần giảm trọng, cho nên mới không mang theo súng, giờ đành phải dùng khẩu M16 của Kirk. Nhưng M16 đạn không còn nhiều, nếu xài hết mà hắn vẫn còn ở trên đó thì xong đời, phải xuống đến mặt đất thì may ra mới có đường sống.

Bàn Tử nghe tiếng tôi gọi, lập tức một tay giữ súng, một tay tháo mấy băng đạn ném cho tôi. Tôi bắt được một băng, còn mấy băng khác thì khỏi cần, nhanh chóng thay đạn rồi giương súng lên bắn. Dưới sự yểm trợ của tôi, Bàn Tử điên cuồng leo xuống theo sợi xích, leo đến nơi hắn đã trèo lên lúc trước rồi trượt xuống nhanh như chớp, ngoắc tôi ra ý mau chạy.

Tôi quay đầu tìm A Ninh thì không thấy người đâu nữa, chẳng biết đã chạy thoát hay bị bọn quái điểu quắp đi mất rồi, lòng thầm than tuyệt sắc giai nhân hà tất phải cố chấp như vậy. Lại ngó lên bệ quan tài, chỉ thấy nắp quan tài đã bị gạt sang một bên, một cái xác đàn ông đen sì bật dậy, đứng thẳng lên, mặc trên người bộ giáp trụ của tộc Nữ Chân đã mục rữa, bợt màu. Điều khiến tôi thất kinh chính là, cái xác đàn ông ấy thế mà lại xòe ra những mười hai cánh tay, xếp thành vòng tròn phía sau lưng, hơn thế nữa, mười hai cánh tay ấy đều đang vặn vẹo múa may, trông như phật Quan Âm nghìn tay thường thấy trong miếu thờ vậy.

Tôi lập tức nhớ đến thi thể có mười hai cánh tay bị hóa sáp trong ngôi mộ dưới đáy biển, liền không khỏi kinh ngạc, lẽ nào hoàng tộc Đông Hạ không phải người? Phải chăng cái xác đàn ông mười hai cánh tay này chính là Vạn Nô vương?

Bàn Tử vừa bắn tỉa, đẩy lùi lũ quái điểu đang bổ nhào xuống, vừa chạy đến kéo tôi, gào lớn: “Cậu còn đứng ngây ra đó làm gì?”

Tôi không đáp lại câu hỏi của Bàn Tử, chỉ nói: “Anh xem… Thằng cha kia muốn làm gì?”

Chỉ thấy cái xác Quan Âm kia đang múa máy mười hai cánh tay, không thèm đếm xỉa gì đến tôi, chỉ chăm chăm nhảy xuống đài đá, đi thẳng về phía cánh cửa Thanh đồng khổng lồ.

Bàn Tử kinh ngạc nói: “Không lẽ nó muốn chui vào cánh cửa kia?”

Bất chợt, tôi nhớ đến câu cuối cùng trong long ngư mật văn của Uông Tàng Hải: Nếu mở cánh cửa khổng lồ trong lòng đất không đúng lúc, ắt sẽ bị trời phạt, nghiệp hỏa dưới địa ngục sẽ tuôn trào qua cánh cửa đó mà thiêu đốt cả bầu trời.

Lúc ấy chúng tôi đã cho rằng tai họa được nhắc đến trong lời tiên tri này là phán đoán của Uông Tàng Hải sau khi ông ta tiến vào cánh cửa khổng lồ kia và nhìn thấy tình hình bên trong ngọn núi lửa. Tuy nhiên, cũng có khả năng người thiết kế nên cánh cửa Thanh đồng này, vì  để đề phòng bí mật bên trong bị phát hiện, nên đã bố trí một cạm bẫy gì đó có uy lực vô cùng khủng khiếp.

Bấy giờ, chúng tôi đang đứng ngay trước cánh cửa Thanh đồng khổng lồ, nếu như có bất kỳ cơ quan cạm bẫy nào, chúng tôi chắc chắn sẽ hứng đủ, trở thành những vật hi sinh đầu tiên. Cho nên, kệ xác lời tiên tri đó là thật hay giả, chúng tôi nhất định phải ngăn cản con bánh tông dị tật này mới được.

Tôi đuổi theo cái xác Quan Âm nghìn tay, bắn liên tục mấy phát đạn, nhưng đạn găm vào cái xác cứ như bắn vào cao su, không xuyên thủng cũng không phát nổ, cứ như muối bỏ bể, mà điên nhất là nó chẳng thèm phản ứng lại chúng tôi mới cay. Tôi quay ra gọi Bàn Tử: “Thuốc nổ!”

Bấy giờ Bàn Tử mới nhớ ra trên lưng mình còn mấy cái ngòi nổ chuẩn bị sẵn để uy hiếp đám A Ninh, bèn lao lên phía trước, nhảy phắt lên lưng cái xác Quan Âm nghìn tay, nhét mìn vào mồm cái xác như nhét móng lừa đen rồi lại nhảy phắt xuống.

Tôi nheo mắt giơ súng lia một tràng, chẳng biết viên đạn nào đã bắn trúng kíp mìn, nổ đùng đùng, từ đầu đến vai cái xác Quan Âm nghìn tay bị phá be bét. Chúng tôi bị sóng xung kích hất văng xuống mặt đất, những mảnh vụn và luồng khí áp cao quật thẳng vào mặt, lồng ngực tưng tức, hai tai ù cả đi.

Lũ quái điểu lượn lờ bên trên bị luồng sóng âm mãnh liệt kích thích, nháy mắt đã trở nên điên cuồng. Tôi vội vã đứng lên, thấy cái xác Quan Âm nghìn tay đã té nhào trên mặt đất thì không khỏi mừng rỡ, quả nhiên thuốc nổ là vô địch.

Không ngờ Bàn Tử lại tỏ ra vô cùng hoảng hốt, gọi tôi thật to. Nhưng tôi chẳng nghe ra câu gì cả, chỉ thấy cái miệng hắn cứ mấp máy liên tục, mất một lúc lâu tôi mới nghe thủng, thì ra câu đó là: “Chạy mau!! Pháo sáng sắp tắt rồi!”

Nhưng còn chưa kịp chạy, ánh sáng trên đỉnh đầu bỗng dưng vụt tắt chỉ trong vài giây đồng hồ. Bóng tối đặc quánh như sương mù nhanh chóng bao phủ khắp không gian, nguồn sáng duy nhất còn sót lại là chiếc đèn pin trong tay chúng tôi.

Trong phút chốc bốn bề rơi vào tĩnh lặng, đến cả tiếng súng của những người đang trốn vào sâu trong đáy khe kia cũng im bặt tự bao giờ, chỉ còn lại tiếng thở dốc và tiếng tim đập thình thịch như sấm rền của chúng tôi.

Tôi với Bàn Tử đứng lưng tựa lưng. Tôi vừa cởi băng vải trên tay ra, để lộ vết thương vẫn còn chảy máu đầm đìa, vừa thầm cầu khấn cho máu tôi có tác dụng với bọn này. Chẳng phải cái lão giáo sư kia đã nói rồi sao, máu kỳ lân có tác dụng đối với bất kì loài vật ăn xác chết nào, cơ mà tôi cũng không biết bọn quái điểu này ăn cái gì nữa. Bàn Tử giương súng, lên đạn “cạch” một tiếng rồi nhìn giời, hỏi tôi, thế giờ tính sao. Tôi đáp, ông hỏi tôi thì tôi biết hỏi ai đây.

Lời còn chưa dứt, đột nhiên một con quái điểu hạ cánh lao vút xuống, đậu ngay trước mặt chúng tôi, cách chừng mười mét. Con quái điểu này to vật vã, đứng thẳng lên còn cao hơn đầu tôi. Sau khi hạ cánh, con chim xấu xí lúc lắc đầu mấy cái rồi nhìn chúng tôi chằm chặp, tựa như đang thăm dò hai người bọn tôi vậy. Tôi loáng thoáng thấy mấy cái răng trong mồm nó sáng lòe lòe, liền giơ tay lên, trưng vết thương ra trước mặt nó. Nhưng con quái điểu kia chẳng thèm đếm xỉa đến tôi, ngược lại vẫn lạnh lùng đứng nguyên tại chỗ.

Kế đó lại có hai con quái điểu sà xuống, một đứng bên trái, một đứng sau lưng chúng tôi. Tôi huơ huơ vết thương loạn xạ trước mặt chúng, chẳng biết tụi nó có ý đồ gì. *khổ thân bạn Tà, âm mưu rạch tay ăn vạ đã thất bại thảm hại =)))*

Dần dà bọn quái điểu đáp xuống ngày một nhiều, con nọ nối đuôi con kia, chẳng mấy chốc xung quanh chúng tôi đã lố nhố cả đống chim chóc, có điều mấy con chim này lại chẳng cựa quậy gì, cứ đứng dàn quân đông nghìn nghịt. Tôi bắt đầu cảm thấy không ổn, mấy con chim này hình như không coi máu tôi ra cái đinh gì hết, nhưng cũng không tấn công ngay, hình như chúng có âm mưu gì đó.

——————————————————————————-

* Dự báo kì sau: Màn NP đẫm máu giữa người và… khỉ =)))))

Chương 53: Bao vây và tấn công

Editor: Earl Panda

Beta: Thanh Du

~0O0~

Vô số con quái điểu mặt người nom như tượng điêu khắc vây quanh chúng tôi, lẳng lặng hạ cánh rồi cũng đứng im tại chỗ không hề phát ra tiếng động. Tôi tự dưng nhớ đến mấy cái tượng quỷ bằng đá trong phim kinh dị nước ngoài, loại yêu quái này, ban ngày làm tượng đá, ban đêm hóa thành động vật, không lẽ nguyên mẫu chính là từ lũ chim này sao? Hơn nữa, nhìn vào ánh mắt bọn chim này thì hình như chúng cũng có trí khôn, chúng bao vây bọn tôi lại, phải chăng là vì mục đích quái quỷ nào đó?

Linh cảm của tôi chẳng mấy chốc đã ứng nghiệm. Một con quái điểu bỗng dưng bay vọt qua đầu chúng tôi, rồi thả một vật gì đó rơi bịch xuống đất ngay trước mắt cả hai, máu tươi văng tung tóe. Tôi nhìn kĩ, không ngờ đó chính là Diệp Thành, cổ hắn ta bị cắn đứt, đang ho khan khùng khục không ngừng, nhưng đồng tử đã giãn, hết cứu.

Kế tiếp lại thêm một cái xác nữa bị ném xuống. Chẳng biết là ai, xác không có đầu, toàn thân đẫm máu.

Sau khi tách khỏi chúng tôi, Trần Bì A Tứ chạy thẳng vào hoàng lăng, hiển nhiên bọn họ cũng bị lũ quái điểu này tập kích. Chắc hẳn Diệp Thành đã bị bọn chim khổng lồ này bắt được khi ở trung tâm hoàng lăng. Không có ám hiệu của chú Ba dẫn đường, những người này cứ thế rơi vào kết cục thê thảm như vậy, đến mức tôi cũng không tài nào tưởng tượng nổi.

Tôi tưởng rằng Trần Bì A Tứ cũng chẳng thể may mắn thoát khỏi số kiếp, nhưng mấy cái xác bị ném xuống sau đó đều là cấp dưới của A Ninh. Có thể thấy vừa rồi không phải ai cũng chạy thoát được hết, may mà không thấy thi thể nào là của chú Ba hay Phan Tử, tôi cũng an tâm hơn một chút.

Bàn Tử bấy giờ mới biết sợ, liền hỏi tôi: “Mấy con chim đó muốn bắt sống chúng ta làm gì vậy trời?”

Tôi đáp: “Hình như là muốn gom con mồi vào một chỗ, tôi không phải chuyên gia trong lĩnh vực này, cũng chẳng rõ nữa. Anh còn thuốc nổ không? Có khi tụi mình phải học tập tấm gương đồng chí Đổng Tồn Thụy rồi.”

Bàn Tử lắc đầu: “Đã đem nổ banh xác Vạn Nô vương cả rồi, cậu đâu có dặn phải để lại một ít dự phòng.”

Tôi nghĩ bụng, phiền phức to rồi đây, tôi tính ngược tính xuôi cũng không tính ra được Ngô Tà này lại chết như thế. Bốn phía cơ man là chim, một cái khe mà lách cũng chả có, cơ hội đào tẩu cũng không, chẳng lẽ thật sự phải chết ở đây rồi dăm ba bữa nữa biến thành mấy bãi phân chim nhoen nhoét sao?

Lòng đang nóng như lửa đốt, Bàn Tử chợt kéo tôi lùi về phía sau: “Hai mặt giáp địch thế này rất bất lợi, ở đây có cái khe đá, chúng ta trốn vào đó, mỗi người chặn một đầu, có chết cũng không thể để mấy con chim khốn kiếp này đắc lợi.”

Tôi quay đầu nhìn lại, thì ra giữa hai khối đá núi khổng lồ dưới đáy cốc có một cái khe hở đủ rộng cho một người chui lọt, hai bên đều thông. Chui vào đó thì cử động hơi bất tiện, nhưng lại là nơi lý tưởng để phòng thủ.

Chết ngay tức khắc hay chống cự một hồi rồi mới chết, cái sau đương nhiên có lợi hơn. Chúng tôi lập tức tháo băng đạn trên người mấy cái xác ra, rồi lẩn nhanh như trạch vào khe đá. Không gian bên trong rất hẹp, tôi còn có thể cựa quậy chút xíu chứ Bàn Tử có vẻ rất miễn cưỡng, xem ra mấy con chim đó muốn vào cũng không nổi.

Bàn Tử từng trải qua vài bận tính mệnh như chỉ mành treo chuông, nên lúc này bình tĩnh hơn tôi rất nhiều. Hắn vừa chui vào khe hở đã mau chóng chất mấy tảng đá chặn ở cửa vào để che chắn, rồi quay ra nói với tôi: “Chúng chỉ có thể vào từng con một, cứ giết vài con là đám còn lại cũng phải chờn, chúng ta có thể cầm cự được lâu lâu một chút.”

Tôi thầm cười khổ, đạn chúng tôi chẳng còn nhiều, vả lại, cũng không có thời gian để thay, nếu dùng hết số đạn trong băng thì coi như tiêu. Chẳng qua giờ còn chưa đến lúc ngắc ngoải, cho nên vẫn còn trông chờ một tia may mắn.

Đang miên man suy nghĩ, bỗng tôi nghe thấy đám chim bên ngoài rít lên ầm ĩ.

TNhìn qua khe hở, tôi thấy con quái điểu đứng đầu đột nhiên há to miệng, lộ ra cái mồm lởm chởm răng nanh. Sau đó, từ trong khoang miệng, bỗng nôn ra một sinh vật trông giống như loài khỉ Macaca. Sinh vật này vô cùng nhanh nhẹn, thoắt cái đã nhảy xuống mặt đất, trước tiên, nó cẩn thận thăm dò xung quanh một vòng, sau đó lao vào đống xác chết bắt đầu cắn xé. Tôi nhìn kỹ, phát hiện con khỉ này không có da, toàn thân đều là máu, trông cứ như một bộ phận trên cơ thể con quái điểu kia vậy.

Kế đến, những con quái điểu khác cũng bắt đầu  nôn thốc ra cái thứ sinh vật này. Vô số con “khỉ trong miệng” chồm ra từ đám chim, lao vào đống xác chết, dường như không phân chi giai cấp gì hết, cứ thế mà xâu xé, cắn nuốt. Trong khoảnh khắc, máu và thịt vụn tung tóe khắp nơi, trong lúc tranh giành thức ăn thỉnh thoảng chúng còn xảy ra tranh chấp.

Tôi với Bàn Tử mặt nhăn mày nhó, mấy lần suýt mửa ra đầy đất, cứ tưởng tượng lát nữa hai đứa cũng rơi vào kết cục này là chịu không nổi.

Đám “khỉ trong miệng” đông như kiến cỏ, chẳng mấy chốc, đống xác chết đã bị ăn sống nuốt tươi cho bằng sạch, trong không khí phảng phất mùi máu tanh nồng đến không thể chịu nổi. Bàn Tử hai mắt đỏ ngầu, biết là sau đó sẽ đến lượt hai đứa chúng tôi lên thớt, bèn làm một hớp rượu đế, nói: “Mẹ kiếp, muốn ăn thịt Bàn gia ta à, còn phải xem răng chúng mày đủ sắc không đã.”

Tôi bất giác run rẩy, bèn lấy luôn bầu rượu của hắn, tu ừng ực một lèo hết quá nửa, tức thì cổ họng nóng rẫy như có lửa thiêu. Rượu đúng là thứ tốt, đàn ông có rượu vào cảm giác khác hẳn lúc bình thường.

Lũ “khỉ trong miệng” bên ngoài vẫn còn lùng sục trong đống xương, đột nhiên, có một con phát hiện ra chúng tôi trong khe đá. Nó rít lên một tiếng chói tai quái đản, tức thì mấy con “khỉ” khác cũng hiếu kỳ bu lại, thi nhau thò đầu vào ngó bọn tôi.

Lúc này tôi mới nhìn rõ, hóa ra bọn “khỉ” này không có môi, thảo nào hàm răng lại sắc bén, dữ tợn lạ thường như vậy. Quái đản nhất là, trên cổ đám “khỉ trong miệng” này, con nào con nấy đều đeo một cái chuông đồng lục giác, có cái vẫn nguyên vẹn, có cái chỉ còn một nửa. Những cái chuông này lúc lắc theo từng hành động của lũ “khỉ”, nhưng lại không hề phát ra bất cứ tiếng động nào.

Lúc ấy tôi sợ hết hồn, còn tâm trí đâu mà đi suy xét mấy thứ đó có ý nghĩa gì. Tuy nhiên sau này nhớ lại, mấy cái chuông thanh đồng hiển nhiên có liên quan mật thiết đến toàn bộ bí ẩn, nhưng hình như chúng lại không thuộc cùng một nền văn hóa.

Lũ “khỉ trong miệng” mới đầu còn rất dè dặt, xúm lại quanh cửa vào khe đá thật lâu. Bàn Tử và tôi không ai dám thở mạnh, chỉ ghìm súng chờ chúng xông vào. Một lúc sau, có mấy con hình như không kìm được nữa, đột ngột leo ngược lên đỉnh khe đá, treo mình lơ lửng, thoắt cái đã chui vào trong khe, bổ nhào về phía Bàn Tử với vẻ thăm dò.

Bàn Tử không kịp đề phòng, đến khi đầu con khỉ kia gần như dán vào nòng súng hắn mới bóp cò. Viên đạn bay ngang, đồng thời xác con khỉ cũng bắn ra ngoài, văng vào giữa đống thi thể. Tiếp đó hắn nã súng xối xả, đường đạn quét ngang, đám khỉ kinh hoảng rú rít điên cuồng, có mấy con bị bắn cho máu thịt bầy nhầy.

Tức thì cả đàn khỉ đều ngó đăm đăm vào hai đứa chúng tôi, tình hình bắt đầu mất kiểm soát. Con “khỉ trong miệng” đầu đàn rít lên một tiếng xé tai, cả đàn bắt đầu thi nhau bổ nhào vào khe đá. Tôi nuốt nước miếng đánh ực một cái, biết rằng, cơn ác mộng sắp tới rồi.

Không đợi tôi cầu thần vái phật, mấy con khỉ đã lao vào trong khe nhanh như chớp, treo mình trên đỉnh khe mà ngoạc cái mồm to tướng về phía tôi. Khẩu Carbine 56 quá dài, không dùng báng súng đánh được, tôi đành nhảy lên tung cước đạp nó ra ngoài, sau lại dùng súng bắn chết một con khác bằng hai phát đạn. Máu văng tung tóe, bắn vào cả mặt tôi. Lại một con nữa điên cuồng vọt tới, tôi chẳng kịp chuẩn bị tâm lý để mà bắn từng phát đạn một, bèn cứ thế cầm súng mà rải đạn ầm ầm.

Trong suốt năm, sáu phút ấy, tôi cũng không còn biết mình đang làm gì nữa,  chỉ thấy từng con khỉ dữ tợn nhảy vọt vào rồi bị tôi bắn văng ra, nơi nơi toàn là máu tươi tung tóe. Bọn khỉ cứ như phát điên phát rồ, chẳng hề sợ hãi, thỉnh thoảng còn có mấy con chen chúc nhau chui vào khe, thế là kẹt cứng lại,  cuối cùng bị tôi dốc sức đá văng ra ngoài. Thế nhưng, bọn khỉ ùa vào càng ngày càng nhiều như nước triều ùn ùn mà dâng.  Đạn lia qua một đường, tức thì cứa đứt đôi cơ thể, nhưng chỉ cần phần còn lại cử động được thìnó vẫn đâm đầu vào trong khe, quả là vô cùng hung hãn!

Chẳng mấy chốc mà hết đạn. Tôi vốn tưởng rằng, với số đạn này thì kiên trì cầm cự trong một tiếng đồng hồ là chuyện đơn giản, ai ngờ vào thực chiến rồi anh sẽ không thể kiểm soát nổi lượng đạn tiêu hao. Tôi còn rất nhiều băng đạn dự trữ, nhưng nếu bọn khỉ này cứ không ngừng tấn công thì chúng tôi cũng chẳng có thời gian mà thay đạn.

Khẩu M16 của Bàn Tử hết đạn đầu tiên. Hắn đã bắn giết đến đỏ hai mắt rồi, bèn chửi bậy một tiếng rồi vứt súng đi, rút thanh mã tấu tính nhảy ra ngoài oánh giáp lá cà một mẻ. Thế nhưng, địch không cho hắn cơ hội này, trong nháy mắt, năm, sáu con khỉ đã nhảy chồm lên người hắn, há mồm ra cạp. Bàn Tử đau đớn gào tướng lên, tóm lấy hai con quật chết tươi, nhưng lại bị bốn con khác bổ nhào vào mặt.

Ngay sau đó, khẩu Carbine 56 của tôi cũng hết đạn, tay bóp cò nghe “cạch cạch” “rắc rắc” vài tiếng. Cả người chợt lạnh toát, kế đến, trong chớp mắt, vài luồng ánh sáng đỏ tươi xẹt đến trước mặt tôi, tôi không kịp rút dao, bả vai và đùi trong lập tức dính chưởng. Tôi vô thức giơ cánh tay bị thương lên dọa nó, thế nhưng chẳng có chút xíu tác dụng nào cả. Trong lúc giãy dụa vật lộn, đầu tôi chỉ còn lại một suy nghĩ duy nhất: Ngô Tà tôi đây và Vương Bàn Tử, chỉ e hôm nay không thể thoát ra khỏi cái hang trong lòng núi Trường Bạch này được nữa. Cao số như chúng tôi, không ngờ cũng có ngày phải bỏ mạng.

Chương 54: Khoảng cách giữa trời và đất

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~0O0~

Vô số con “khỉ trong miệng” lao bổ vào người tôi mà cắn xé điên cuồng. Tôi giãy dụa kịch liệt, quyết không buông xuôi cho đến hơi thở cuối cùng, nhưng thật ra trong lòng đã sớm tuyệt vọng, trong tình thế này cho dù có ông Bụt xuất hiện cũng không cứu nổi chúng tôi.

Đang lúc dựa vào địa hình mà chống đỡ, bốn bề đột nhiên chấn động, chúng tôi đều bị đẩy ngã. Bất ngờ lũ khỉ bám trên người tôi đều ngẩn tò te, trong nháy mắt cả đám đồng loạt nhảy xuống, liều mạng chạy trốn ra khỏi miệng khe.

*Tam Thúc nuôi nhiều khỉ nhờ, đa dạng ghê luôn, khỉ lớn khỉ nhỏ khỉ biển khỉ núi, phần 2 có khỉ, phần 3 có khỉ, và bây giờ cũng khỉ :v*

Tôi quay sang Bàn Tử thì thấy cảnh tượng bên đó cũng y như vậy, cả đám “khỉ trong miệng” rút khỏi khe hở trong chớp mắt như có ma đuổi.

Bàn Tử bị thương khắp người, cũng chẳng hiểu mô tê gì. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, hắn làu bàu: “Sao thế nhỉ, mỡ đến miệng mèo mèo còn chê? Chẳng lẽ nó chê thịt ông quá ngấy?”

Lũ “khỉ trong miệng” vẫn chưa hết hỗn loạn, đám khỉ nhung nhúc bên ngoài khe hở không ngừng chui lại vào miệng mấy con chim đầu người khổng lồ. Đám quái điểu bắt đầu rục rịch di chuyển, ào ào bay lên rồi nhanh chóng mất hút, cứ như nhận được mệnh lệnh nào đó hoặc là gặp phải thiên địch đáng sợ nên mới điên cuồng trốn chạy.

Tôi đưa khẩu Carbine 56 cho Bàn Tử để hắn nạp đạn, sau đó cẩn thận nhích người ra miệng hang, không dám chui hẳn ra ngoài mà chỉ ló đầu quan sát. Vừa nhìn đã ngớ người, lũ quái điểu đầu người nối đuôi nhau bay lên trời, nhoáng một cái xung quanh đã chẳng còn mống nào. Bốn bề chìm vào tĩnh lặng, chỉ còn lại hai người chúng tôi.

Con mẹ nó, thế này cũng quái đản quá đi, tôi gọi Bàn Tử một tiếng, ra hiệu cho hắn chui ra. Chúng tôi quan sát một vòng xung quanh, hai đứa đều cảm thấy có phần chưng hửng với cái lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc này. Trong lòng thầm nhủ, ông trời hỡi, dù ông thật sự không nỡ nhìn con chết thì cũng phải cho con cái lý do nào đó nghe lọt tai một chút chứ.

Tôi tự hỏi: “Rốt cuộc bọn chúng sợ cái gì vậy? Loài quái vật này không lẽ cũng có thiên địch sao?”, lời còn chưa dứt, Bàn Tử đã vỗ vai tôi, nói mình vừa nhìn thấy thứ gì đó.

Tôi nhìn theo hướng đó, chỉ thấy tấm da người niêm phong trên cánh cửa Thanh đồng khổng lồ kia không biết đã rách toạc ra từ đời nào. Hai cánh cửa Thanh đồng cực lớn hơi hé ra, chính giữa xuất hiện một khe hở nhỏ xíu đen ngòm.

Tim tôi tưởng như nhảy vọt ra khỏi cổ họng, toàn thân ướt đẫm mồ hôi. Cánh cửa khổng lồ như thế lại tự mình mở ra, cơn chấn động ban nãy nhất định là hiệu ứng khi cửa mở. Là ai đã đứng trong đó, mở ra cánh cửa nặng nề này?

Theo lời tự thuật của Uông Tàng Hải, cánh cửa khổng lồ dưới lòng đất được miêu tả như thông đạo để quỷ thần lui tới giữa địa ngục và cõi tiên, bên trong ẩn chứa ác niệm ngàn đời, nói chung không phải thứ tốt đẹp gì. Hôm nay địa môn lại mở ra, chẳng lẽ quỷ thần dưới địa ngục chuẩn bị dắt chó đi dạo bên ngoài? *đề nghị đồng chí Tà ngừng ngay công cuộc biến truyện kinh dị thành truyện hài nhóe =))))))))*

Cảnh tượng này hoàn toàn nằm ngoài dự liệu, trong nháy mắt đầu óc tối xoay vòng cả chục lần, là yêu quái hay bánh tông? Bỏ chạy hay cứ nhìn cho kĩ rồi tính? Mà nếu chạy thì chạy đi đằng nào?

Mạch suy nghĩ của tôi lúc này lại hết sức rõ ràng, chính bản thân tôi cũng phải khâm phục sự bình tĩnh bản thân trong hoàn cảnh bị giày vò tan nát này.

Có điều sau khi cửa mở lại không có thêm bất cứ động tĩnh gì, không thấy nó mở rộng hơn, càng không thấy có thứ gì chui ra. Đứng ngẩn ra một lúc lâu, Bàn Tử hỏi tôi: “Có muốn qua đó xem thử không?”

Nhưng lỡ như vào rồi mà nó đóng lại, cánh cửa Thanh đồng bự cỡ này cho dù có cả ngàn người hợp sức cũng không cách nào đẩy ra nổi, chúng tôi chắc chắn sẽ bị nhốt trong đó đến chết, bấy giờ dù biết bí mật thì cũng có mài ra ăn được đâu?

Đây thực ra chính là lựa chọn giữa hai phương án, hoặc an toàn rời khỏi đây, hoặc mạo hiểm đi tìm câu trả lời.

Đắn đo một hồi, cuối cùng tôi vẫn không thể kiềm chế nỗi tò mò muốn khám phá cái bí mật đã giày vò mình cả năm trời, tôi nhất định phải vào đó xem rốt cuộc ma cảnh mà Uông Tàng Hải nhìn thấy năm đó trông như thế nào? Đằng sau cái bí mật kéo dài cả ngàn năm, liên lụy đến ba đời nhà tôi, là thế lực thần bí nào?

Tôi nhìn sang Bàn Tử, hắn cũng nghĩ y như tôi.

Hắn đưa khẩu Carbine 56 cho tôi, còn mình thì nhặt khẩu M16 rồi lục lấy mấy băng đạn từ đám thi thể trên mặt đất, sau đó lau máu trên mặt, ra hiệu cho tôi đi cùng.

Cánh cửa kia quá lớn, khe hở nhìn xa thì thấy nhỏ xíu, đến gần mới biết nó đủ rộng để lái cả chiếc xe tải vào. Muốn cánh cửa nặng hàng vạn tấn di chuyển một khoảng bằng chừng này, phải dùng đến một sức mạnh không thể nào đong đếm được.

Tôi cố đè nén cảm giác phấn khởi trong lòng, đi đến trước cảnh cửa khổng lồ. Mũi ngửi thấy một mùi hương lạ lùng bay ra từ bên trong khe hở, tim bỗng dưng đập loạn, nỗi căng thẳng hòa lẫn với bất an ngày càng trở nên rõ ràng, hai tay túa mồ hôi lạnh, ngay cả chân cũng muốn nhũn ra.

Bàn Tử thử chiếu đèn pin, ánh sáng vừa lọt vào bên trong cánh cửa đã hoàn toàn biến mất, chẳng thấy được gì. Uông Tàng Hải từng nói, năm đó khi người Đông Hạ đưa ông ta tới nơi này, đoạn đường đầu tiên ngay sau khi bước qua cánh cửa là một khoảng hư vô, phải dùng đến một dụng cụ chiếu sáng kỳ lạ gọi là “Chân thực chi hỏa” – mà chúng tôi đoán nó chính là nến bằng sừng tê – mới nhìn thấy cảnh tượng bên trong.

Nghĩ đến đây tôi không khỏi sửng sốt, thầm nhủ thôi hỏng rồi. Chúng tôi chẳng mang theo vật gì tương tự, dù có đi vào bên trong cũng chỉ nhìn thấy một khoảng không tăm tối, liệu có thể vượt qua không gian hư vô kia mà tiến vào ma cảnh hay không?

Bàn Tử thì không nghĩ nhiều đến vậy, thấy tôi đứng ngẩn ra lại tưởng tôi sợ hãi, bèn hỏi: “Có đi nữa không đây?”

Tôi đang định trả lời, chợt nhìn thấy trong bóng tối đằng sau khe hở giữa hai cánh cửa Thanh đồng khổng lồ lóe lên vài ánh đuốc, tựa như có thứ gì đang đi tới. Vừa định kéo Bàn Tử lại xem thì hắn đã kéo tôi trước, tôi quay đầu lại, chỉ thấy mấy kẽ đá dưới chân không biết từ bao giờ đã tản ra một làn sương màu lam nhàn nhạt, nhanh chóng vẩn lên như mây mù.

———————————————————–

Lời ngỏ: Hôm qua có người chê bản beta của phần 4 là buồn ngủ, mình có phần sốc vì xưa nay vẫn luôn tự tin với bản beta của mình, đây là lần đầu tiên nghe ý kiến trái chiều. Ý kiến cá nhân khó tránh khỏi chủ quan, người ta cũng không thể tự nhìn ra vấn đề của bản thân mình, nên mình muốn mở một cuộc thăm dò nhỏ để lấy ý kiến của tất cả mọi người về những điểm còn thiếu sót trong phần này. Phần 4 cũng sắp kết thúc, muốn rút kinh nghiệm thì không còn kịp nữa, nhưng mình có thể dùng những lời nhận xét của các bạn để chỉnh sửa lại nó cho hoàn thiện, mong các bạn góp ý nhiệt tình ~

Cụ thể mình muốn hỏi về những vấn đề sau:

- Nhận xét về cách diễn đạt, cụ thể là có gây cảm giác nhàm chán hoặc không đủ nghiêm túc? Có mắc những lỗi diễn đạt như lủng củng, lặp từ, câu thiếu thành phần hoặc đọc lên nghe trúc trắc không thuận tai hay không?

- Nhận xét về cách dùng từ, có “sáng tạo” quá đà, làm bạn cảm thấy khó khăn khi đọc hiểu hoặc đơn giản là nghe không quen tai? Có từ nào giữ nguyên phiên âm tiếng Hán một cách không cần thiết hoặc thuần Việt không hợp lý?

- Ngôi xưng (cả ngôi thứ 2 dùng khi đối thoại lẫn ngôi thứ 3 dùng trong mạch suy nghĩ của Tà) đã phù hợp chưa? Nếu chưa thì bạn muốn sửa ngôi xưng của nhân vật nào và sửa như thế nào?

- Lời thoại có thể hiện đúng tính cách nhân vật theo cảm nhận của bạn không?

- Chú thích đã đầy đủ và dễ hiểu chưa? Chú thích nên đặt giữa bài hay đặt ở cuối chương? (hiện giờ mình áp dụng cả hai cách, chú thích có hình ảnh đặt cuối chương, chỉ có chữ thì đặt giữa bài)

- Những câu chen ngang của editor/beta có làm gián đoạn mạch truyện?

- Giữa các chương có sự chênh lệch lớn về văn phong do khác editor hay không?

- Nếu đã đọc trước bản tiếng Trung hoặc bản QT, bạn có phát hiện ra chỗ nào dịch chưa chính xác (do hiểu sai nghĩa của từ, hoặc do phân tích sai cấu trúc câu) không?

- Cảm tưởng chung của bạn về văn phong của phần 4, so sánh với những phần trước.

Với mỗi nhận xét, mình mong có ví dụ cụ thể cho dễ hình dung. Confess giấu tên, bạn có thể thoải mái bày tỏ suy nghĩ của mình, không việc gì phải ngần ngại ~ Hãy hãy ném đi ném đi đừng ngại ngần chi ~

Chương 55: Bí ẩn không lời giải

Editor: Dứa

Beta: Thanh Du

~0O0~

Chúng tôi lui lại vài bước, phát hiện từ những khe hở của vách đá chung quanh nhanh chóng tản ra một làn sương màu lam nhạt với tốc độ kinh người. Chẳng mấy chốc, trước mắt chúng tôi chỉ còn lại một màu xanh nhờ nhờ, bên dưới sương đã ngập đến gối và không ngừng dâng lên, ánh sáng từ đèn pin đã trở thành vô dụng.

Ngay sau đó, chúng tôi nghe tiếng tù và sừng hươu văng vẳng truyền tới từ đầu kia khe núi, âm thanh du dương không gì sánh nổi, vang vọng trong lòng khe mãi không tan. Vô số bóng đen âm u tụ lại thành một hàng dài theo tiếng tù và sừng hươu, thoắt ẩn thoắt hiện giữa màn sương nơi đáy cốc.

Tôi chẳng còn thời gian mà phản ứng, nơi đây vốn chẳng còn lại ai, người thì chết, người đã chạy trốn cả, sao bỗng dưng lại xuất hiện ngần này người? Chẳng lẽ trong này còn có nhóm nào khác nữa? Nhưng cũng không phải… chừng này người thì quá nhiều rồi…

Bàn Tử đứng bên mặt đã cắt không còn giọt máu, tựa như đã hiểu ra đây là chuyện gì, lắp bắp mãi mới thốt ra được trọn câu: “Âm binh mượn đường!”

Âm binh? Tôi chẳng hiểu mô tê gì, toan hỏi lại thì đã bị hắn bịt kín miệng, ra dấu tuyệt đối im lặng. Chúng tôi đặt đèn pin xuống, lùi lại nấp phía sau một tảng đá lớn.

Đoàn người kia khoan thai tiến về phía chúng tôi, không nhanh cũng không chậm, tôi loáng thoáng thấy bóng người đi đầu cầm một lá cờ phiên. Đội ngũ bốn người một hàng, hành quân hết sức chỉnh tề, chẳng mấy chốc đã vượt một quãng đường xa từ đầu đằng kia của khe núi tiến tới trước mặt chúng tôi. Trong tầm chiếu của đèn pin, có thể thấy rõ sương mù không ngừng dày lên.

Tôi vừa ngước nhìn đã thấy rợn gáy, chỉ thấy những người đi đầu mặc giáp trụ cũ nát từ thời Ân – Thương, tay cầm cán cờ, phía sau có người thổi tù và. Hàng trang nặng nề là thế, nhưng những người này di chuyển nhẹ nhàng như bay, không hề gây tiếng động, tốc độ cũng rất nhanh. Nhìn đến gương mặt bọn họ, tôi suýt nữa đã cắn phải lưỡi. Đó là những gương mặt biến dạng, dài gấp đôi người thường, sắc mặt nhợt nhạt không hề biểu lộ cảm xúc.

Đội quân lướt qua trước mặt như u linh, dường như không phát hiện ra chúng tôi, chui thẳng vào khe hở giữa hai cánh cửa Thanh đồng, ngàn người như một, hệt như hình nhân bằng giấy.

Tôi và Bàn Tử chẳng dám hó hé gì, trong lòng chỉ mong cho bọn họ mau mau mà biến đi. Đúng vào lúc này, bàn tay Bàn Tử đang bịt miệng tôi bất chợt run rẩy, tôi tò mò nhìn sang, không ngờ lại thấy Muộn Du Bình cũng mặc thứ giáp trụ y hệt, đi lẫn vào đoàn quân kia. Khuôn mặt bình thường của hắn ta nổi bần bật giữa những gương mặt yêu dị xung quanh, liếc một cái là nhận ra liền.

Tôi suýt nữa đã kêu lên, không lẽ Muộn Du Bình đã chết, hồn phách bị đám âm binh này dẫn đi rồi sao?

Nhưng nhìn kĩ lại mới thấy sau lưng Muộn Du Bình vẫn mang Hắc kim cổ đao, động tác đi đứng bình thường, khác hẳn với đám âm binh bên cạnh. Tôi biết, hắn ta vẫn sống.

Nhưng hắn định làm gì? Trong đầu tôi nảy ra một ý tưởng cực kì táo bạo… không lẽ hắn muốn trà trộn vào đám âm binh này?

Tên này điên rồi! Tim tôi bắt đầu tăng nhịp, nỗi sợ hãi bấy lâu lại ùa về, hơi thở dần dần trở nên gấp gáp. Tôi định chạy ra ngăn cản hắn, nhưng bị Bàn Tử giữ rịt lại không cho nhúc nhích.

Tôi thấy Muộn Du Bình cũng chú ý đến chúng tôi. Hắn ta quay đầu sang, nhìn vào tôi và Bàn Tử, bỗng dưng nở một nụ cười ý vị sâu xa, bờ môi mấp máy, nói vẻn vẹn mấy chữ: “Hẹn gặp lại.”

Rồi hắn bước vào cánh cửa Thanh đồng, hoàn toàn mất hút trong bóng đêm. Tôi chết lặng nhìn theo, đầu ong ong như muốn nổ tung.

*Lắc lư theo nhạc Thiên chân* Còn nhớ anh đã cười, nhìn anh tan biến trong biển vong linh. Trước cửa Thanh đồng, ánh nến đã tàn, phải chăng đây chính là chung cực?

Cả đội âm binh nhanh chóng tiến vào bên trong cửa Thanh đồng, sau đó mặt đất đột ngột rung chuyển dữ dội, hai cánh cửa đồ sộ khép thành một khối nguyên vẹn chỉ trong nháy mắt.

Tôi ngã ngồi xuống đất, cảm giác bải hoải rã rời lan ra khắp tứ chi. Thế này là sao? Muộn Du Bình, rốt cuộc hắn ta muốn làm gì? Đội quân kia thực sự là âm binh?

Bàn Tử chạy ra nhặt đèn pin, hắn cũng kinh ngạc không kém gì tôi, cứ nhìn đăm đăm vào cánh cửa khổng lồ, tinh thần có vẻ bấn loạn.

Nhưng chúng tôi cũng chẳng có thời gian mà ngẩn người. Sương mù bốn phía dần dần tan đi, chúng tôi đã tiếng quái điểu đứt quãng vang lên nơi cuối khe, càng ngày càng đến gần.

Bàn Tử phản ứng ngay lập tức, quay sang hét lên với tôi. “Đi mau! Lũ chim kia đã trở về rồi, lần này chắc chắn chúng ta sẽ không hên như hồi nãy đâu!”

Nghe tiếng gọi của Bàn Tử, tôi tựa như bị tạt một gáo nước lạnh mà hoàn hồn, lập tức xoay người chạy theo Bàn Tử về đầu đằng kia của cái khe – hướng lúc nãy đám Phan Tử đã chạy trốn.

Nền đá dưới đáy khe mấp mô như những quả đồi nhỏ, chạy rất khó khăn, chúng tôi chưa chạy được bao xa đã nghe tiếng kêu của quái điểu áp sát. Tôi thầm cầu nguyện trong lòng, lúc nãy tiêu đời thì chẳng nói làm gì, đằng này đã thoát được một lần rồi mà sau đấy lại bỏ mạng đúng chỗ này thì thật không đáng.

Miệng vết thương của chúng tôi đã từ đau biến thành tê rần. Ai đó từng nói khi hồi hộp con người ta thường quên đi cảm giác đau, nhưng hiện giờ chân tôi đã tê liệt đến độ mất cha nó cảm giác rồi, thậm chí nghiến răng chạy cũng không được nhanh. Tôi với Bàn Tử đành phải dắt díu nhau, dốc sức chạy tới không ngừng không nghỉ, bởi một khi đã ngừng chỉ e không thể chạy tiếp được nữa.

Chúng tôi cứ thế vừa lăn vừa bò vào sâu trong khe núi. Tôi nhanh chóng mất đi ý thức, không hiểu mình đang làm gì nữa.

Vượt qua tảng đá lớn cỡ một tòa núi nhỏ, trước mặt xuất hiện ba ngã rẽ là ba cửa hang cực lớn. Tôi lơ mơ chẳng rõ, biết làm sao bây giờ? Đi đường nào? Chúng tôi cứ ngỡ khe núi chỉ có một mạch thông từ đầu đến cuối, ra ngoài là gặp được Phan Tử. Giờ chúng tôi đã cạn sạch thức ăn nước uống, cứ cho cả ba ngả này đều dẫn ra ngoài, lỡ như không gặp được Phan Tử thì cũng chỉ còn đường chết.

Lại gần ba cửa hang, chúng tôi chợt trông thấy gần một miệng hang lớn có khắc một mũi tên nguệch ngoạc xấu xí, chỉ về một hướng.

Bàn Tử chửi: “Thằng Phan Tử lười thối thây, có cái mũi tên cũng đếch biết vẽ cho đẹp hả!”

Tôi không ngờ họ còn nghĩ đến chuyện đánh dấu đường cho chúng tôi, nói: “Anh còn đòi hỏi nỗi gì, có mà dùng là may lắm rồi!” Không nói thêm gì nữa, tôi cắn răng chui vào trong hang.

Cái hang này hẹp hơn nhiều so với khe núi ngoài kia, bọn quái điểu có bay cũng chật vật hơn nhiều. Đi sâu vào  bên trong chúng tôi sẽ dễ dàng chống trả hơn, cho nên cảm thấy rất an tâm.

Lát sau, phía trước lấp ló ánh sáng đèn pin, tim tôi bỗng dưng thót lên một cái. Thầm nghĩ tính theo tốc độ của bọn họ thì giờ này phải đi được một đoạn đường rất xa mới đúng, sao ở đây lại có ánh đèn pin, không lẽ bọn họ đã gặp chuyện bất trắc rồi bỏ mạng chốn này?

Đi thêm vài bước, lại gặp ngay Phan Tử cùng mấy tay ngoại quốc lưng dắt đầy đạn chạy ngược trở về, xem ra họ muốn quay lại cứu chúng tôi. Thấy chúng tôi, Phan Tử mừng rỡ, rồi lại ngơ ngẩn hỏi: “Chỉ có hai người? Còn những người khác đi đâu cả rồi?

Tôi bảo anh đừng hỏi nữa, đây đã thê thảm lắm rồi, ta mau đi thôi, bọn quái điểu đang đuổi theo phía sau kìa.

Ở đây có thể nghe thấy tiếng kêu của bọn chúng nhưng tình hình bên trên lại không nhìn rõ lắm. Không có pháo sáng, muốn dùng đèn pin soi quái điểu là chuyện không tưởng.

Phan Tử ngoắc tay ra hiệu lập tức quay về, người cuối đoàn đốt một cây pháo lạnh, đi trước dẫn đường. Một người ngoại quốc thấy tôi bị thương quá thảm bèn cõng tôi lên, đoàn người nhanh chóng đi sâu vào trong hang.

Đã lâu không được ai cõng, tôi có phần không quen, nhưng ánh sáng từ cây pháo lạnh chiếu lên vô vàn bức bích họa trên vách đá đã nhanh chóng thu hút sự chú ý của tôi. Tiếc là thời gian gấp gáp, căn bản không cách nào nhìn cho kĩ càng.

Những tiếng kêu thê lương dần dần yếu đi, xem ra bọn quái điểu đã không còn đuổi theo nữa. Thực ra chúng tôi vừa gặp được Phan Tử là đã yên tâm hơn rất nhiều, biết ngay mình không chết nổi. Người anh mang tới đều là những tay thiện xạ trong đội của A Ninh, dù có phải đánh xáp lá cà cũng không đến nỗi yếu thế.

Nhắc đội của A Ninh là nhớ tới A Ninh, tôi hỏi Phan Tử có gặp cô ta hay không.

Phan Tử bảo yên tâm đi, người đẹp kia đã bị người ta đánh ngất xỉu cõng về rồi.

Chạy mãi chạy mãi, hang càng đi càng hẹp dần, cuối cùng chỉ có thể đi hàng một. Không khí bỗng dưng ấm áp lên hẳn, chúng tôi cũng đi thong thả hơn. Lúc này phía trước lại xuất hiện hai người, hình như làm nhiệm vụ gác đêm, thấy chúng tôi quay về đều hò reo ầm ĩ.

Tôi còn đang thắc mắc vì sao không khí nơi này lại ấm áp đến thế thì đã thấy gần chỗ Phan Tử đứng có vài lạch nước nóng. Tôi lập tức thả lỏng hoàn toàn, cảm giác bải hoải lan khắp người, gần như hôn mê bất tỉnh ngay tại chỗ.

Chương 56: Sau khi nghỉ ngơi

Editor: Long Vy Hương

Beta: Thanh Du

~0O0~

Bác sĩ trong đoàn A Ninh kiểm tra vết thương cho chúng tôi, tiêm một liều kháng viêm và vắc xin phòng bệnh lây truyền qua động vật, vết thương bị rách quá to cũng được rửa sạch và khâu lại. Mông Bàn tử bị thương nặng nhất, khiến hắn chỉ có thể nằm sấp mà ăn uống.

Chúng tôi đã sắp chết đói đến nơi rồi, mặc dù thức ăn không nhiều lắm, nhưng người dẫn đường của nhóm A Ninh nói nơi này gió nhẹ, nhất định có đường ra, không cần quá lo lắng làm gì. Chúng tôi ngốn rất nhiều thức ăn chứa đường, các bộ phận trên thân thể đã dần dần lấy lại cảm giác, chỗ đau đau hơn mà chỗ ngứa cũng ngứa hơn, cực kì khó chịu.

Chú Ba vẫn còn mê man, có điều cơn sốt đã lui. Phan Tử quấn chặt ổng trong cái túi ngủ, liên tục bón nước cho ổng.

Suối nước nóng chảy róc rách không ngừng, chúng tôi đều múc nước suối lau người. Hoàn cảnh hiện tại tuy chẳng hề dễ chịu, nhưng tôi có cảm giác thân thể được lau rửa sạch sẽ xong cứ lâng lâng như tiên.

Trong lúc đó tôi mới kể mọi chuyện mình được chứng kiến cho bọn họ nghe, không hề dấu diếm. Nghe xong ai nấy đều im lặng, không bình luận gì cả. Bọn họ đều là người nước ngoài, lần này coi như được thấy mặt quỷ dị tà ác trong thế giới huyền bí cổ xưa Trung Quốc, muốn bọn họ ý kiến ý cò cũng bằng làm khó nhau.

Một chuyên gia nghiên cứu động vật trong số đó có nói, loài quái vật bao gồm khỉ sống trong miệng quái điểu này, có thể là một loại quan hệ ký sinh có từ thời viễn cổ, gần giống với con bái (*) chuyên bám lên lưng con sói. Quái điểu có lẽ không thể tiêu hóa được thức ăn, phải nhờ “khỉ trong miệng” giúp sức, sau đó quái điểu sẽ sống bằng phân và nước tiểu của khỉ, quan hệ ký sinh này rất hay gặp ở sinh vật sống dưới biển.

(*) Bái là một loại động vật trong truyền thuyết Trung Quốc, là họ hàng gần với Sói. Bởi vì chân trước của Bái đặc biệt ngắn, cho nên khi di chuyển phải bám lên mình con Sói. Bái không có khả năng tồn tại độc lập, một khi không có Sói trợ giúp thì nó không thể hành động. Bởi vậy mới có câu, “lang bái vi gian”.

Tôi chẳng ừ hữ gì, từ khi tiến vào Vân Đỉnh thiên cung, mọi chuyện đều diễn ra quá nhanh, chúng tôi căn bản không cách nào hiểu cho rõ ràng. Giờ tôi chỉ cảm thấy mình vừa trải qua một giấc mộng, thật sự không muốn nghĩ về những vấn đề này nữa.

Nhưng theo lệ thường, tôi vẫn giao hẹn với mấy lão chuyên gia: nếu mọi người đều sống sót trở về, sau này phát hiện ra tình tiết nào mới thì có thể chia sẻ với nhau qua Email, chỉ mong từ rày về sau quan hệ giữa chúng ta sẽ không phải là cạnh tranh hơn thua.

Chúng tôi nghỉ ngơi và hồi phục tại chỗ mất nửa ngày, Phan Tử mới dẫn theo mấy người nữa đi vào trong khe dò đường, kế đó chúng tôi lại một lần nữa khởi hành, tiến sâu vào hang núi.

Theo ý kiến của chuyên gia về hang động, căn cứ vào dòng không khí lưu chuyển thì cửa hang này hẳn là thông lên mặt đất, hơn nữa đầu bên kia nhất định phải nằm đầu nguồn gió.

Lúc ấy tôi cũng chẳng tin tưởng cho lắm, nhưng mải miết đi được gần một ngày rồi, chúng tôi chợt phát hiện bốn phía trở nên quen thuộc. Khi Bàn Từ há hốc mồm chỉ vào bức bích họa hai lớp trên vách khe bị người bóc ra, tôi không nén nổi một nụ cười.

Cửa vào của khe nứt này thì ra chính là cái miệng khe bị tảng phong thạch che khuất mà khi lên núi chúng tôi đã vào để tránh cơn bão tuyết.

Tôi thậm chí còn thấy mấy thứ vật dụng sinh hoạt mình đã bỏ lại bên trong, Phan Tử thấy thế cũng gượng cười.

Nghĩ lại thì khi mới đến đây chúng tôi đã ôm biết bao nhiêu vọng tưởng xa vời, giờ thì chẳng khác nào bại binh. Cảm giác hưng phấn và huyền bí khi cả đám nhìn thấy bức bích họa hai tầng, đoán ngược đoán xuôi về bí mật bên trong Vân Đỉnh thiên cung, giờ đã biến thành cay đắng và châm chọc, không thể xua tan đi. Hơn nữa lúc ấy chúng tôi không tài nào tưởng tượng được, chỉ cần đi sâu thêm vài cây số vào cái khe này là đã tới nơi đặt Cửu Long đài thi quan. Ai mà biết chúng tôi lại đi một vòng luẩn quẩn lớn đến thế kia chứ.

Đây hẳn là bách nhục xuyên tâm rồi, cũng không biết cái nhục này là điều bất ngờ cuối cùng mà Uông Tàng Hải để lại cho chúng tôi, hay là một sự trùng hợp hết sức ngẫu nhiên mà ngay bản thân ông ta cũng không biết.

Sau đó chúng tôi nhanh chóng chui ra khỏi khe nứt. Đây là lần đầu tiên mọi người nhìn thấy ánh mặt trời sau cả tuần dài dằng dặc nên mắt ai cũng bị chói nắng, không tài nào mở ra được.

Lương thực của chúng tôi căn bản đã cạn sạch rồi, nhưng nước thì không thiếu, tinh lực kể như dồi dào, nhịn đói lê lết một ngày chắc cũng chả chết được. Cho nên khi đã xác định được tuyến đường cần đi, A Ninh thông qua điện thoại vệ tinh, gọi bác sĩ giỏi đến tiếp ứng, nói rằng trên đường về sẽ có người tới đón chúng tôi.

Chúng tôi đi theo đoàn của bọn họ, từ từ vượt qua ranh giới tuyết, đến khi gặp được đội cứu hộ vùng núi thì đã ở bên ngoài thôn Doanh Sơn.

Tất cả những người bị thương đều được xe Jeep chở đến bệnh viện gần nhất để sơ cứu, sau đó lại thuyên chuyển đến Bệnh viện 3 thuộc đại học Cát lâm. Kiếm tra thấy chú Ba bị biến chứng sau chấn thương sọ não và nhiễm trùng vết thương, cần điều trị lâu dài. Tôi với Bàn Tử thì chỉ bị ngoại thương, vết thương chi chít đến độ tôi đã không còn hâm mộ cơ thể tráng kiện đầy những vết sẹo của Phan Tử nữa, bởi vì sắp tới tôi cũng chẳng thua kém anh là bao.

Hơn nữa, mặc dù tôi vẫn còn mù mờ đối với mục đích và động cơ của chú Ba, nhưng cuối cùng đã kéo được lão về, trong lòng cũng dâng lên cảm giác tự hào.

Chú Ba vẫn muốn ở lại bệnh việc điều trị cho đến khi bệnh tình khá lên. Tôi, Phan Tử, Bàn Tử cùng mấy người ngoại quốc ăn chơi nhảy múa ở Cát Lâm một thời gian, đại khái nửa tháng sau cũng lần lượt cáo từ.

Phan Tử trở về Trường Sa, thu thập tàn cục tiêu tốn tinh lực rất lớn, sau cũng không liên lạc nữa. Bàn Tử trở về Phan gia viên ở Bắc Kinh, nói cần nghỉ ngơi vài tháng. Mấy người ngoại quốc cũng lần lượt bay về nước, cuối cùng chỉ còn lại mình tôi, vừa chăm sóc chú Ba, vừa sắp xếp lại toàn bộ câu chuyện, cố gắng sử dụng những manh mối mình có từ trước để tìm ra chút ít liên hệ. Nhưng không có phần tin tức từ miệng chú ba, thật sự không có cách nào chắp nối cả câu chuyện lại với nhau được.

Thật ra một phần câu đố của Uông Tàng Hải đã có đáp án rõ ràng:

Thứ nhất, Vân Đỉnh Thiên Cung không phải do Uông Tàng Hải xây nên, mà ông ta chỉ tu sửa lại. (nhưng cái di chỉ khổng lồ có từ thời Ân Thương này, rốt cuộc là ai đã xây ra nó và xây với mục đích gì?)

Thứ hai, Uông Tàng Hải không tự nguyện tham gia vào công cuộc tu sửa này, mà phần lớn những công nhân người Hán tham gia xây dựng cũng đều bị người Đông Hạ bắt tới. Trong quá trình tu sửa, Tổng tư lệnh Uông Tàng Hải bắt đầu thiết kế mấy mật đạo đào thoát nối liền hai ngọn núi Tiểu Thánh và Tam Thánh, tránh cho mình bị Vạn Nô vương dị tộc kia chôn sống khi địa cung bị phong bế.

Thứ ba, trong quá trình cải tạo lăng tẩm, Uông Tàng Hải đã dần dần che giấu đi rất nhiều bí mật nằm dưới đáy hoàng lăng Đông Hạ, sâu trong sơn thể núi Trường Bạch. (Sau cánh cửa Thanh đồng khổng lồ đó, rốt cuộc ông ta đã nhìn thấy thứ gì?)

Thứ tư, Uông Tàng Hải đem những bí mật này ghi chép vào Long ngư mật văn, hi vọng sẽ đến một ngày nó được người đời biết đến.

Thứ năm, do Đông Hạ là một nước nhỏ nơi biên cảnh, quốc khố trống rỗng, cho nên rất nhiều kỳ trân dị bảo trong Vân Đỉnh thiên cung đều vơ vét từ những huyệt mộ khác. Trong quá trình Uông Tàng Hải dẫn quân đội Đông Hạ đi đổ đấu, cũng len lén dấu long ngư mật văn vào bên trong những cổ mộ đó, hy vọng có người phát hiện ra. Tổng cộng đã giấu hai cái, cái thứ ba ông ta đem giấu vào phần mộ của chính mình trước khi chết già.

Thứ sáu, tại sao ông ta lại xây mộ mình nơi đáy biển? Vì lo sợ con cháu người Đông Hạ sẽ hủy đi bí mật này sao?

Thứ bảy, những người đã biến mất trong mộ huyệt dưới đáy biển đều xuất hiện trong mật thất của Vân Đỉnh thiên cung. (chỉ trừ hai người đã thoát ra, những kẻ khác đều chết sạch, vậy hai người đó là ai? Bọn họ đã đi đâu? Phải chăng họ cũng giống như Muộn Du Bình, đã tiến vào cánh cửa đồ sộ kia? Rốt cuộc vì sao bọn họ lại muốn đi vào đó? Mục đích chú Ba khi đến Vân Đỉnh thiên cung là gì?)

Thứ tám, cây cổ thụ khổng lồ bằng thanh đồng, cánh cửa đồ sộ bằng thanh đồng cùng với chuông lục giác xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau, giữa những vật làm từ thanh đồng này phải chăng có mối liên hệ nào đó? Nó đại diện cho một thứ sức mạnh thần bí, rốt cuộc là gì?

Tôi cũng dần dần phát hiện, những chuyện đã xảy ra trong huyệt mộ dưới đáy biển hai mươi năm về trước mới là mấu chốt cho tất cả.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro